Tứ gia hành - Đại pháp tu hành thành tựu của Mật giáo
Địa điểm: Chân Phật Mật Uyển - Seattle - Hoa Kỳ. Thời gian: NA Quyển số: 676 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Lời nói đầu
Bậc thang tu hành Mật giáo - Tứ gia hành (Ban biên tập)
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn từng nói: "Hiển giáo giống như học lý thuyết trong lớp học, còn Mật giáo giống như thực hành lý thuyết trong phòng thí nghiệm." Và Tứ gia hành chính là phương pháp thực hành Phật pháp từ căn bản đi lên của Mật giáo, đồng thời là phương pháp thực tiễn để chuyển đổi và thay đổi vận mệnh từ nhân quả, có thể tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời của hành giả, tăng thêm phước báu và trí tuệ.
Giới thiệu sơ lược về pháp Tứ gia hành
Cái gọi là Tứ gia hành, tức là bốn môn công khóa, là pháp môn cơ bản mà người học Mật giáo phải tu tập. Xin giới thiệu sơ lược như sau:
1. Pháp Đại lễ bái:
Pháp Đại lễ bái là phương pháp lễ Phật bằng cách năm vóc sát đất hoặc toàn thân phủ phục. Tu tập pháp Đại lễ bái có thể điều phục tâm kiêu mạn tự đại của bản thân, có thể tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời, đồng thời là động tác yoga cơ bản nhất, có thể làm mềm dẻo gân cốt, có tác dụng rèn luyện sức khỏe rất tốt.
2. Pháp Tứ quy y:
Tứ quy y là quy y Kim cương Thượng sư, quy y Phật, quy y pháp, quy y mười phương thánh hiền tăng. Tu tập pháp Tứ quy y có thể tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời, củng cố niềm tin với Thượng sư và Tam Bảo, được sự gia trì của Thượng sư Tam Bảo, đồng thời làm sâu sắc thêm Phật duyên của mình, cũng là bước đầu phát tâm bồ đề.
3. Pháp Đại cúng dường:
Tu tập pháp Đại cúng dường có thể đạt được phước báu vô tận, được sự gia trì của Thượng sư Tam Bảo, cũng như được chư vị Hộ pháp thần hộ trì, đồng thời có thể tăng trưởng tâm bố thí và tâm bồ đề.
4. Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát:
Kim Cang Tâm Bồ Tát, còn gọi là Kim Cang Tát Đỏa, là biến hóa thân tổng hợp của Ngũ phương Phật, là giáo chủ của Phật môn Mật tông. Tu tập pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát có thể tiêu trừ tất cả tội chướng từ vô thủy đến nay, có thể khiến đạo tâm và hạnh nguyện kiên cố như kim cương. Tu tập pháp này đạt đến tương ứng tức là quả vị Đẳng Giác Bồ Tát, là pháp quan trọng nhất trong Tứ gia hành.
Đại pháp tích lũy tư lương phước báu và trí tuệ
Điều quan trọng nhất trong tu hành Mật tông chính là tương ứng (hợp nhất), chỉ cần tương ứng với Bổn tôn thì Bổn tôn chính là mình, mình chính là Bổn tôn; Bổn tôn có gì thì hành giả có đó. Kim Cang Tâm Bồ Tát là giáo chủ của Mật tông, là hóa thân tổng hợp của Ngũ phương Phật; nếu có thể mỗi ngày điều chỉnh từ trường và tần số của bản thân để cầu tương ứng với vị Bồ Tát vĩ đại như vậy, tự nhiên sẽ có được phước báu và trí tuệ vô tận, vận mệnh đương nhiên cũng sẽ theo đó mà trở nên tốt đẹp!
Cuốn sách này được biên soạn dựa trên tác phẩm và khai thị của Pháp Vương đương đại - Liên Sinh Hoạt Phật, tập hợp và sắp xếp lại những nội dung liên quan đến pháp Tứ gia hành, kèm theo những hình ảnh và hướng dẫn chi tiết về cách quán tưởng tu tập, giúp độc giả trong thời gian ngắn nhất có thể hiểu biết toàn diện và chính xác về pháp Tứ gia hành của Mật tông. Đây là cẩm nang tu học rất phù hợp để người mới bắt đầu thường xuyên đọc lại và ôn tập.
01. Dạy pháp Tứ gia hành (01-04 là phần nhận thức về pháp Tứ gia hành)
Tôi đi máy bay từ Seattle ở Mỹ đến Los Angeles ở California, thời gian bay là 2 tiếng 40 phút, độ cao bay trên tầng mây, dưới bầu trời xanh, đất liền ở phía dưới rất xa, tầng mây trải dài vô tận.
Tôi quen ngồi bên cửa sổ, quen nhìn ra ngoài, quan sát những biến chuyển đa dạng của tầng mây và hình dáng của mây. Hoặc là, tôi đọc sách, khi mỏi vì đọc sách thì nhắm mắt lại.
Khi vừa lên máy bay, tôi đã thực hiện nghi quỹ đi máy bay: Quán tưởng Bổn tôn an trụ ở đỉnh đầu. Tôi trì chú Bổn tôn. Tôi tĩnh định.
Trong lịch trình này, tôi sẽ giảng dạy pháp Tứ gia hành và truyền quán đảnh Tứ gia hành. Mỗi đệ tử mới bắt đầu đều phải tu tập pháp Tứ gia hành trước, đây là pháp môn cơ bản nhất của Mật giáo.
Pháp Tứ gia hành của Chân Phật Mật Pháp gồm có: pháp Đại lễ bái, pháp Đại cúng dường, pháp Tứ quy y và pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Tôi thường nói: Đối với đệ tử mới bắt đầu, phải làm Đại lễ bái 100.000 lần, Đại cúng dường 100.000 lần, trì chú Tứ quy y 100.000 biến, và tu pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát cho đến khi tương ứng. Tương ứng chính là chứng nghiệm và cảm nhận.
Tu hành Mật giáo phải có thứ tự, tiến dần từng bước một, không được nhảy cấp. Khi muốn tiến lên một cấp để tu Mật pháp cao hơn, nhất định phải xin quán đảnh từ Căn bản Thượng sư hoặc các vị Thượng sư mới được tu.
Mỗi khi tu một pháp, đều phải có tương ứng mới được tiến lên một cấp. Mật giáo có câu: "Một pháp tương ứng thì tất cả pháp đều tương ứng." Lại nói: "Một pháp thông thì vạn pháp thông." Vì vậy, chúng ta không thể xem thường pháp Tứ gia hành.
Nói một cách đơn giản, khi pháp Tứ gia hành chưa tương ứng thì các pháp khác cũng khó tương ứng; ngược lại, một khi pháp Tứ gia hành đã tương ứng thì các pháp khác cũng dễ tương ứng theo.
Pháp Mật giáo tuy có nông có sâu, nông thì như một sự rung động bề mặt, còn sâu thì như sự rung động từ chiều sâu bên trong. Điều này cũng giống như trong Duy thức học, từ nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý cho đến Mạt-na thức, A-lại-da thức, và Am-ma-la thức là thức sâu nhất.
Pháp Mật giáo có nội dung rộng lớn, nội dung ấy chính là toàn bộ lĩnh vực, khi tu pháp thì hoạt động bên ngoài cũng tác động đến ý thức bên trong. Tầng ý thức sâu bên trong tuy quan trọng, nhưng tầm quan trọng của nó vẫn thể hiện ở bề mặt, có thể nói trong ngoài là một, có sự liên kết và không thể tách rời.
Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y và Kim Cang Tâm được kết hợp với nhau một cách tinh xảo và vi diệu, nhằm thiết lập chiều sâu trong các pháp gia hành cơ bản. Sau đó, từ đây phát triển và mở rộng, khi từng pháp đều tương ứng thì sẽ đi vào trí tuệ vô thượng của Như Lai.
Pháp Tứ gia hành không hề nông cạn, trong đó pháp Kim Cang Tâm và Bách tự minh chú là pháp thù thắng độc nhất của Mật giáo. Bách tự minh chú giống như Tâm Kinh, và Bổn tôn của pháp Kim Cang Tâm là Kim Cang Thủ Bồ Tát, chính là Kim Cang Tát Đỏa - vị Tổ sư của Mật giáo, là Pháp Vương Tử của Ngũ phương Ngũ Như Lai. Từ sự tương ứng của pháp Kim Cang Tâm sẽ sinh ra dòng pháp lưu bất tận, cho đến khi đạt được sự tương ứng sâu sắc và giác ngộ chân như.
Tôi nói: "Chỉ có thực tu mới có chiều sâu." "Một giọt nước là cả đại dương." "Một hạt cát là cả ngọn núi."
Chúng ta thường lấy một ví dụ, pháp Tứ gia hành là nền móng kim cang để xây tháp báu kim cang, nếu không có nền móng kim cang vững chắc thì làm sao có được tháp báu kim cang? Tăng cường pháp Tứ gia hành chắc chắn sẽ xây dựng được tháp báu kim cang.
Tu Mật pháp, đừng cầu nhanh, đừng hỗn loạn, đừng nhảy cấp. Hãy tu tập vững chắc. Chắc chắn sẽ tương ứng. Các bậc đại thành tựu đều nhất định như vậy.
~ Trích từ văn tập Lư Thắng Ngạn Văn số 123 "Sao băng và lá phong đỏ".
02. Tứ gia hành là đại pháp
Nhiều người thường nghe tôi nói: "Tứ gia hành là đại pháp." Có đệ tử rất nghi hoặc: "Tứ gia hành là pháp cơ bản nhất của Mật giáo, là nền móng, làm sao lại là đại pháp được?" Xin hãy lắng nghe lời tâm sự của tôi: "Không có nền móng thì không thể tiến lên tầng cao hơn, vì vậy là đại pháp."
Pháp Đại lễ bái - hàng phục ngã mạn của chính mình. Pháp Tứ quy y - phát tâm bồ đề tiêu trừ nghiệp chướng. Pháp cúng dường mandala - tích tụ tư lương. Pháp Kim Cang Tâm - thanh tịnh sám hối nghiệp tội.
Cần biết rằng, bất kì pháp môn nào của Mật giáo, dù là Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp, Kim cang pháp, Vô thượng mật, Đại viên mãn pháp, Đại thủ ấn pháp, Đại viên thắng huệ pháp, Đại uy đức pháp, bất kể pháp nào, đều không tách rời pháp Tứ gia hành.
Tôi thật lòng nói với mọi người một câu: "Chí tâm khẩn thiết, tự đắc mật ích." Câu nói này thông cả Hiển giáo lẫn Mật giáo. Hiển pháp nói: "Nhất tâm bất loạn, tự đắc vãng sinh Phật quốc." Mật giáo nói: "Chí tâm khẩn thiết, tự đắc mật ích."
Cần biết rằng, tên gốc của "Kinh Đại Nhật" là "Kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì", trọng điểm nằm ở "gia trì thần biến thành Phật". Khi hành giả Mật giáo tu trì theo pháp Tứ gia hành, thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, lúc tam mật của Như Lai và tam nghiệp của chúng sinh tương ứng, hòa hợp không hai, thì "thần biến gia trì thành Phật" sẽ phát sinh.
Điều bất khả tư nghì của Mật giáo chính là ở đây, Pháp thân Phật và người phàm không có sự phân biệt, đây chính là mật mật mật mật mật. Pháp Đại lễ bái (thân thanh tịnh), Tứ quy y, pháp Đại cúng dường (khẩu thanh tịnh), pháp Kim Cang Tâm (ý thanh tịnh). Chẳng phải thế sao?
Tự thanh tịnh tam nghiệp tức là được gia trì bởi thần biến thành Phật của Như Lai. Một khi được gia trì như vậy thì sẽ được quảng đại viên mãn, sẽ đạt đại bi vô ngại, sẽ cứu khổ kéo dài tuổi thọ, sẽ thoát sinh tử, sẽ viên mãn ước nguyện, sẽ tùy tâm tự tại, sẽ nhanh chóng vượt lên địa vị cao.
Thần chú của Mật giáo có khả năng trì giữ, ngăn che và tổng nhiếp.
Pháp Tứ gia hành tuy là nền móng của Mật pháp, nhưng một khi nền móng đã vững chắc thì sẽ nhanh chóng vượt lên địa vị cao, được gia trì thần biến thành Phật, làm sao không phải là đại pháp?
~ Trích từ văn tập Lư Thắng Ngạn số 167 "Lắng nghe tiếng thì thầm trong tim".
03. Tứ gia hành nằm ngay trong cuộc sống thường ngày
Trong pháp tu của Mật giáo, Tứ gia hành được gọi là pháp gia hành, là pháp mà mỗi hành giả đều phải tu tập, phải tu ngay từ khi bắt đầu.
Có thể nói rằng pháp gia hành này, mỗi hành giả đều thực hành hàng ngày, chỉ là họ không nhận ra mà thôi. Dù bạn là người xuất gia hay tại gia, một hành giả Mật giáo chưa từng rời xa pháp gia hành này.
Tứ gia hành là pháp phải thực hành mỗi ngày
Mọi người thường nghĩ rằng: "Những pháp gia hành cơ bản như vậy tôi đã làm rồi nên không cần làm nữa." Thực ra đây là quan niệm sai lầm, pháp gia hành là những điều phải làm hàng ngày.
Hãy nhìn xem các tăng ni và cư sĩ tại gia ở Lôi Tạng Tự đang làm gì? Khi thấy chư Phật Bồ Tát, thấy chư vị Kim cang Hộ pháp, bước vào đại điện, việc đầu tiên họ làm chính là lễ bái, đó chính là pháp gia hành; khi gặp tất cả đồng môn, đều phải cung kính chắp tay, đảnh lễ, đó cũng chính là pháp gia hành.
Tại Lôi Tạng Tự, khi bạn thay trà, thay nước, hàng ngày quét dọn, hút thảm, lau kính, dọn dẹp đàn tràng, đó là gì?
Đó chính là đang thực hành cúng dường, giống như mỗi ngày chúng ta thay nước, thay trái cây, thay phẩm vật cúng, đều là đang cúng dường. Như việc bạn hằng ngày cúng dường lục đạo chúng sinh, dùng gạo cúng pháp, dùng nước cúng pháp, cúng dường tất cả chúng sinh trong tứ thánh lục đạo, đó chính là đang thực hành đại cúng dường. Ngay cả việc chúng ta nấu ba bữa ăn cũng đều là cúng dường, tất cả đều là pháp gia hành.
Ngoài ra, mỗi ngày bạn phải nhớ nghĩ đến tam căn bản vào ba thời trong ngày - tức là khi thức dậy vào buổi sáng, giữa trưa và lúc mặt trời lặn. Ba thời trong ngày nhớ nghĩ đến tam căn bản - Căn bản Thượng sư, Căn bản Bổn tôn, Căn bản Hộ pháp, đây chính là đang thực hành Tứ quy y, phải làm mỗi ngày.
Ngoài ra còn gì nữa? Bạn phải quán chiếu những việc mình đã làm trong ngày, phải tĩnh tọa. Quán chiếu để làm gì? Để sám hối, khi bạn sám hối chính là đang thực hành gia hành, đây đều là những việc phải làm mỗi ngày.
Vì vậy, trong chùa, công việc chúng ta làm hàng ngày chính là Tứ gia hành, chính là gia hành; thực hành Đại lễ bái, thực hành Đại cúng dường, thực hành Tứ quy y, thực hành sám hối - Kim Cang Tâm Bồ Tát, ngày ngày làm công việc gia hành, ngày ngày làm, ngày nào cũng phải như vậy, chưa từng có một ngày nào được ngừng nghỉ.
Tứ gia hành nằm ngay trong cuộc sống thường ngày
Vì vậy tôi nghĩ như thế này, trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, tất cả đều là pháp gia hành, đều là pháp Tứ gia hành. Chỉ cần biết hòa nhập cuộc sống thường ngày vào tu hành, thì chính là đang tu pháp, chỉ là không đặc biệt nói ra rằng: "Bây giờ tôi đang tu pháp." Thực tế là bạn đang hòa nhập tất cả pháp gia hành vào trong cuộc sống.
Đừng nghĩ rằng pháp gia hành chỉ cần tu một thời gian là có thể ngừng tu, không thể nói như vậy được. Có lúc nào bạn không làm cúng dường? Có lúc nào không quy y? Có lúc nào không cung kính, đảnh lễ tất cả chư tôn? Có lúc nào bạn có thể không sám hối?
Vì vậy bốn pháp này: Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y, Kim Cang Tâm sám hối, là những pháp không thể rời xa thân tâm dù chỉ một phút giây nào, từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của chúng. Cuộc sống hàng ngày của bạn chính là đang thực hành những điều này, việc tu hành của bạn chính là đang thực hành những điều này, đây là điều quan trọng nhất.
Tứ gia hành vững chắc thì pháp Bổn tôn mới tương ứng
Khi bạn đã thực hành vững chắc những điều này, sinh ra sức mạnh thì bước tiếp theo là pháp Bổn tôn mới có thể tương ứng được. Khi bạn không rời xa pháp gia hành này thì chư Phật cũng không rời xa bạn. Nếu bạn không thực hành pháp gia hành, thì làm sao còn có chư Phật trong tâm? Làm sao còn có Thượng sư trong tâm? Làm sao còn có Hộ pháp trong tâm? Tất cả đều không còn nữa.
Nói về công phu tu hành, tất cả đều là pháp gia hành, đó là điều quan trọng nhất. Vì vậy chúng ta đặt tâm vào cuộc sống thường ngày, mà cuộc sống thường ngày bao gồm tất cả pháp gia hành. Như vậy mới có thể đạt được lợi ích của pháp, có thể thành tựu pháp, có thể tương ứng với Thượng sư, Bổn tôn và Hộ pháp của mình.
Không được xem thường pháp Tứ gia hành
Vì vậy chúng ta không được xem thường pháp Tứ gia hành. Nếu bạn xem thường pháp Tứ gia hành, hoặc coi nhẹ nó, sơ suất với nó, không thể nhất tâm ứng dụng nó, thì thời gian tu hành của bạn sẽ hoàn toàn lãng phí.
Đặc biệt là pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, nếu không liên tục thực hành pháp sám hối như vậy, thì nghiệp chướng của bạn sẽ càng ngày càng chất chồng, mãi mãi nặng nề, khiến bạn không thở nổi. Mỗi ngày đều phải phản tỉnh, hồi tưởng, sám hối, phải chuyển hóa nghiệp của mình thành không.
Om mani padme hum.
Trích từ Tuyển tập khai thị của Lư Thắng Ngạn "Bài ca của Hoạt Phật (tập 4)"
04. Trong tâm không một vật mới có thể chứng ngộ tính Không
Chúng ta biết rằng Tứ gia hành của Chân Phật Tông gồm có: Một là Đại lễ bái. Hai là Đại cúng dường. Ba là Tứ quy y: Kim cương Thượng sư, Phật, pháp, tăng - bạn tập trung quán tưởng tất cả cùng một lúc, sẽ có cảm ứng, chắc chắn sẽ có cảm ứng. Bốn là pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Chỉ riêng việc thực hành Đại lễ bái đã là luyện tập khí cơ bản của bạn, đó là một dạng vận động, là một hình thức lễ bái vô cùng thành kính đối với chư Phật Bồ Tát, tương đương với việc bình đẳng đảnh lễ thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Kim cang Hộ pháp và chư Không hành.
Khi bạn thực hiện đại lễ bái toàn thân phủ phục xuống đất, đó là một hình thức vận động rất mạnh mẽ, cứ thế hạ xuống, rồi đứng lên, lại hạ xuống, cúi người xuống, hai tay đẩy ngang ra, rồi khi đứng dậy, nhanh chóng, một tay chống đất, vụt đứng lên, đó là động tác rất mạnh, không phải người già có thể làm được, ngay cả người trẻ làm vài lần cũng thở hổn hển và đổ mồ hôi, đó là một bài tập rất dữ dội.
Toàn thân phủ phục, giống như cách lễ bái kiểu Trung Quốc, vốn là quỳ gối, hai chân quỳ xuống, và ngày xưa cũng có cách quỳ một chân... vân vân. So với những cách đó thì pháp Chân Phật của chúng ta quả là quá nhẹ nhàng, khi bạn tu pháp Đại lễ bái, tốt nhất là dùng cách toàn thân phủ phục, hoặc là quỳ hai gối, rồi rập đầu lạy, hai cách này.
Không được dùng quán tưởng để lễ bái, bạn tưởng rằng cứ làm như vậy 108 lạy, hay 1080 lạy, hoặc là một lúc 100.000 lạy, làm xong ngay, chỉ trong một ngày đã làm xong, vụt vụt vụt, tay đưa lên đưa xuống, rồi nói rằng tôi đã làm 100.000 lạy trong một ngày, sao vẫn chưa có cảm ứng? Điều này không được, đây chỉ là cách dùng khi cùng tu tập theo nhóm, vì không có chỗ để quỳ lạy mới phải dùng cách này.
Giống như khi tụng chú Tứ quy y: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê." Phải tụng đủ 100.000 biến, cơ bản là phải tụng đủ 100.000, phải thực hiện quán tưởng, đây cũng là một bài tập! Chỉ cần bạn tĩnh tâm tụng niệm, thực hiện quán tưởng chính là đang rèn luyện sự nhất tâm bất loạn của mình.
Đại lễ bái, Tứ quy y và Đại cúng dường - Lư Sư Tôn đã thực hành Đại cúng dường bao lâu rồi? Tôi xin nói với các bạn, từ khi tôi 26 tuổi bắt đầu học Phật pháp cho đến năm nay, tôi chưa từng ngừng thực hành Đại cúng dường, không thể đếm xuể, hàng chục năm như một ngày.
Hôm nay Lư Sư Tôn làm Đại cúng dường, tôi đều tương ứng. Mỗi ngày, kể cả hôm nay, ở đây mọi người kết ấn cúng dường: "Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt, hóa mọi trân bảo cúng dường Phật..." tụng tụng tụng, "cốc" một tiếng. Không biết có hay không, cuối cùng bạn có thất trân bát bảo đều biến hóa ra để cúng dường chư Phật Bồ Tát hay không? Có không? Có cảm ứng không? Các ngài có nói rằng khi bạn vừa biến hóa ra, các ngài lập tức nhảy xuống đưa tay đón lấy, giống như bắt bóng rổ vậy, có không?
Tôi xin nói với mọi người, mỗi lần Lư Sư Tôn cúng dường đều có cảm ứng (mọi người vỗ tay), vừa khi biến hóa ra, các ngài lập tức cảm ứng, giống như tôi là người ném bóng, ném ra, người bắt bóng lập tức bắt được, cảm ứng là như vậy đó. Đó chính là cảm ứng! Bạn thực sự biết người bắt bóng đã bắt được quả bóng của mình, tức là cúng phẩm bạn biến hóa ra, chư Phật Bồ Tát đã tiếp nhận cúng phẩm của bạn, như vậy mới tính.
Tôi dám nói với mọi người, hôm nay mọi người làm Đại cúng dường, chư Phật Bồ Tát đều là người bắt bóng, các ngài đều tiếp nhận, tôi có cảm ứng như vậy, đó chính là tương ứng. Hôm nay bạn làm Đại cúng dường, bạn cần biết chư Phật Bồ Tát có đến thọ nhận hay không, khi công phu của bạn đạt đến, tương ứng rồi, có chứng lượng, sinh ra chứng lượng rồi, lượng của bạn phát ra, tiếp nhận lượng của các ngài, lượng và lượng tiếp xúc nhau, chạm nhau, bạn sẽ biết cảm ứng, biết thế nào là tương ứng.
Vì vậy hôm nay tôi xin nói với mọi người, hãy nỗ lực thực hành Tứ gia hành: Đại cúng dường, Tứ quy y, Đại lễ bái, mỗi pháp đều phải thực hành 100.000 lần. Điểm trọng yếu là ở pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát là pháp cuối cùng trong Tứ gia hành, nhưng tôi cho rằng đây không phải là pháp nhỏ mà là pháp lớn. Kim Cang Tâm Bồ Tát là ai? Chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát, chính là Kim Cang Tát Đỏa, là tổ sư của Mật giáo. Mật giáo do ngài truyền xuống, bất kì vị tổ sư Mật giáo nào, cuối cùng cũng đều là Kim Cang Tát Đỏa.
Chúng ta biết vị Bồ Tát vĩ đại nhất ở Tây phương tịnh thổ là ai? Đó là Quan Thế Âm Bồ Tát; Bạn có biết vị Bồ Tát vĩ đại nhất ở Hoa Nghiêm tịnh thổ là ai? Đó là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát; Bạn có biết ở Mật giáo tịnh thổ, vị Bồ Tát vĩ đại nhất của Mật giáo chính là Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là Kim Cang Tát Đỏa! Đó là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân, vì vậy mà phân thành Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Tâm Bồ Tát và Kim Cang Thủ Bồ Tát.
Tất cả đều là Kim Cang Tát Đỏa, khi bạn tu Kim Cang Tát Đỏa và pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. Ngài đã dạy bạn rất nhiều điểm trọng yếu, khi tu pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát có rất nhiều nghi quỹ, rất nhiều điểm trọng yếu, khi tu pháp cuối cùng, bạn vẫn phải thực hành Đại lễ bái, phải thực hành Đại cúng dường, tất cả đều có trong nghi quỹ. Phải thực hành Tứ quy y, triệu thỉnh, trì chú, quán tưởng, nhập Tam ma địa, nhưng trong đó còn dạy bạn Tứ vô lượng tâm, Tứ vô lượng tâm mọi người đều biết.
Từ là mang lại niềm vui cho người khác, bi là giải quyết nỗi khổ của người khác, hỷ là gì? Là hoan hỷ vô lượng mà thực hành, xả là gì? Chính là oán thân bình đẳng, chính là xả, vô lượng xả, oán hay thân đều bình đẳng. Tôi đã từng nói - "oán thân bình đẳng" là điều khó làm nhất! Hôm nay con trai, con gái của bạn đến xin tiền, một đứa là con trai, một đứa là con gái, bạn liền cho chúng, bỗng nhiên có con cái nhà người khác đến xin tiền, bạn liền nghĩ: "Tại sao tôi phải cho bạn? Vô lý quá! Con nhà người ta đột nhiên đến xin tiền mình, không thể nào cho được."
Hôm nay bạn gái của bạn đến xin tiền, nói rằng cần tiền để đi học, để đóng học phí, bảo với bạn trai là đang gặp khó khăn nên mượn trước một chút, người bạn trai đều rất vui vẻ cho cô ấy. Hôm nay... không biết phải nói thế nào... hãy thử nghĩ xem nếu người đồng nghiệp mà bạn ghét nhất chìa tay xin bạn mượn tiền, bạn có cho không? (Trả lời: "Không.") Người mà bạn ghét nhất lại đi xin bạn mượn tiền, điều đó gần như không thể, vì vậy mà oán thân bình đẳng, vô lượng xả này, oán thân bình đẳng, là điều khó khăn nhất.
Vì vậy người tu hành cần tu tập đến khi có tâm bình đẳng, đầy đủ tứ vô lượng tâm. Phải nhớ rằng, Kim Cang Tát Đỏa, trong "Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát" có dạy bạn tu "Tứ vô lượng tâm".
Ngài còn dạy bạn phải sám hối, tại sao vậy? Tại sao pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát lại là sám hối? Bạn không biết sao? Ý nghĩa của thần chú trong Bách tự minh chú rất tương đồng với Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh của chúng ta: "Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng", Bách tự minh chú chính là nói về điều này.
Khi bạn nói tất cả đều hóa thành không, tất cả đều vô tướng, lúc đó tất cả nghiệp chướng của bạn mới tiêu tan. Như trong pháp sám hối đã nói, tất cả đều không, đều là không, khi bạn chứng được tính Không, tất cả nghiệp chướng của bạn mới như bạn đã nói, tất cả khói đen từ thân thể tan biến đi, thực sự tan biến, bởi vì bạn đã hóa thành không rồi! Ngay cả khói cũng không còn, lúc này muốn nhập định rất dễ dàng.
"Tâm không vướng mắc, do không vướng mắc nên không có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo". Khi tâm bạn không vướng mắc, trong tâm không một vật, mới không có vướng mắc. Khi bạn không vướng mắc thì sẽ xa lìa mộng tưởng điên đảo. Ngày nay mỗi người đều đang trong mộng tưởng điên đảo, bởi vì họ không phải là một bậc giác ngộ, nên mới có mộng tưởng điên đảo.
Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát có chân ngôn phát bồ đề tâm: "Ôm bô-đi-chi-ta pê-cha sa-ma-ya ah-hùm", đây là chú phát bồ đề tâm. Bạn phải trì chú này, phải quán tưởng tâm mình khai mở, giống như hoa sen đang nở, trong hoa sen có nguyệt luân, trên nguyệt luân có chú tự (Hum), là chủng tự của Kim Cang Tát Đỏa, điều này biểu thị tâm bạn phát bồ đề tâm, bồ đề tâm đã khai mở.
Tứ vô lượng tâm là gì? Hãy nói cho rõ, khi bạn phát bồ đề tâm rồi thì sẽ không vì bản thân nữa mà là vì chúng sinh. Lục độ vạn hành, phát bồ đề tâm, những điều này đều là vì chúng sinh, làm một vị Bồ Tát phải như vậy, cho nên pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát dạy bạn điều này.
Tiếp theo cần phải quán tưởng, quán tưởng nguyệt luân, chú tự, Kim Cang Tát Đỏa xuất hiện, phóng quang chiếu soi bạn, tam quang gia trì, sau đó bạn trì chú: "Ôm pê-cha sat-tô ah-hùm pây". Trì chú ngắn cũng được, nếu có thời gian bạn có thể trì Bách tự minh chú, đây là chú dài.
Tiếp theo nhập Tam ma địa, tức là nhập định, tu định, bạn có biết chúng ta học Phật là để làm gì không? Trong ba thành tựu lớn của "Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận", thành tựu thứ nhất là thành tựu trì minh, tức là trì chú, vì vậy trong Mật giáo có nhiều vị thầy được gọi là chú sư. Thời xưa trong Mật giáo, họ gọi đây là chú sư, là vị thầy tụng chú, thành tựu trì minh chính là thành tựu về trì chú.
Chúng ta tu Hộ Ma là để làm gì? Cúng Phật. Tiếp theo là gì? Chính là tu định, nhập Tam ma địa, đây là ba thành tựu lớn. Trong "Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận" nói rằng, ba thành tựu lớn của Mật giáo là: thành tựu trì minh, thành tựu Tam ma địa và thành tựu Hộ Ma.
Ngày nay chúng ta đều có ba thành tựu lớn này, Chân Phật Tông chúng ta tu hành theo đúng ba thành tựu này. Tất cả các tăng, ni, pháp sư của chúng ta, cùng với tất cả đồng môn, đều tu tập theo trì minh, Hộ Ma và Tam ma địa, nhập Tam ma địa để quán tưởng trì chú.
Trong Kinh Viên Giác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng rất nhiều về Tam ma địa, bạn hãy xem kĩ cách tu tập, trong Mật giáo cũng giảng rất nhiều, nhiều vị Tổ sư đã giảng rất nhiều về Tam ma địa và việc tu định. Có rất nhiều pháp môn như Trekcho, Togal đều là pháp Đại Viên Mãn, đều giảng về tu định; pháp Đại Thủ Ấn cũng giảng về tu định, Hằng Hà Đại Thủ Ấn, Thực Trụ Đại Thủ Ấn, Quang Minh Đại Thủ Ấn, tất cả đều giảng về tu định.
Rất nhiều vị thiền sư của chúng ta cũng đều giảng về tu định, vì vậy định rất quan trọng, bởi từ định mới có thể sinh ra Pháp thân và huệ mạng, trí huệ viên mãn của Phật mới được sinh ra, từ đó bạn mới có thể từ trong trí huệ, từ trong bát nhã mà đạt được sự giác ngộ viên mãn, điều này rất quan trọng.
"Vậy sau khi xuất định thì phải làm gì?" Sau khi xuất định cần phải hồi hướng, tiếp đến là Hậu hành, bạn cần tụng tán, làm một số thủ ấn sự nghiệp, hoặc làm các pháp tiêu tai, tăng ích, hàng phục, kính ái, dùng chuông kim cang, chày kim cang, dùng trống tay, trống tay là để tán thán. Làm sự nghiệp, tu pháp có phần sự nghiệp, về mặt nhập thế, cũng có phần xuất thế, cho nên, có cả nhập thế và xuất thế.
Như tôi đã giảng, nhập thế là gì? Đó là những điều bạn mong cầu trong kiếp sống này, đó là nhập thế; còn những mong cầu về siêu việt giác ngộ, một loại giác ngộ, sự giác ngộ và tỉnh thức của bạn về cuộc sống, đó chính là xuất thế.
Mọi người đều biết trong Phật pháp có pháp nhập thế, đó là những điều bạn cầu mong trong đời hiện tại, đó là pháp nhập thế; có cái gọi là pháp xuất thế, tức là bạn buông bỏ tất cả để theo đuổi một sự đại giác đại ngộ, đây là pháp xuất thế. Vì vậy trong Mật giáo có cả pháp nhập thế và pháp xuất thế, trong pháp Kim Cang Tát Đỏa, pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, sau khi hồi hướng bạn có những pháp này, bạn có thể cầu những điều cần thiết trong đời hiện tại, đồng thời cũng có thể giác ngộ tính Không.
Vì vậy tôi nói, nếu muốn sinh vào cõi người và cõi trời, trong Phật giáo có nhiều thừa, có nhân thiên thừa, đặc biệt là Hồng giáo giảng về cửu thừa, chín thừa thì quá nhiều, phân chia quá chi tiết. Nếu bạn tu trì năm giới, làm mười thiện, đó là Nhân Thiên thừa; còn nếu bạn tu "tự liễu", tự mình giải thoát sinh tử, chỉ độ được chính mình, đó là Thanh Văn thừa, thiên về tâm xuất ly nhiều hơn.
Còn trong Mật giáo và Đại thừa, đều phải phát bồ đề tâm, đều phải độ chúng sinh, đó chính là Bồ Tát thừa; trọng điểm của Bồ Tát thừa là vừa độ mình vừa độ người, quan trọng là phát bồ đề tâm; và Mật giáo còn thêm vào "Không tính kiến", bạn phải hiểu được tính Không, bởi vì tính Không đã gần với sự giác ngộ. Phật Thích Ca Mâu Ni và nhiều vị đại tổ sư Mật giáo đều có "Không tính kiến", vì vậy một điểm trọng yếu của Kim Cương thừa chính là "Không tính kiến".
Sau đó, khi tu đến phần cuối cùng là quán tưởng, trì chú, nhập Tam ma địa, sau khi xuất định cần phải hồi hướng. Hồi hướng là phần cuối cùng của một pháp tu, còn phải tán thán, làm hồi hướng, làm sự nghiệp, hồi hướng cho tương lai như thế nào, ví dụ như chúng ta hồi hướng vãng sinh tịnh thổ, những điều này đều là hồi hướng, đây là phần cuối cùng của pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Qua những điều tôi đã thảo luận với mọi người hôm nay, có thể nói trọng điểm của Mật giáo nằm ở tương ứng và tu tập để đạt được chứng lượng của chính mình, đây là điểm then chốt. Vậy để đạt được tương ứng, điều gì dễ tương ứng nhất? Tu Tứ gia hành dễ tương ứng hơn, hơn nữa bạn có thể đạt được một loại chứng lượng, khi bạn thành tựu Tứ gia hành rồi thì đạo tâm sẽ kiên cố.
Khi bạn có được tương ứng thì đạo tâm sẽ kiên cố, còn nếu không có tương ứng thì người ta nói gì cũng dễ thoái lui đạo tâm. Vì vậy trọng điểm tôi giảng hôm nay là tương ứng, và từ trong tương ứng đó sẽ sinh ra một loại chứng lượng.
Mọi người đừng nghĩ rằng Tứ gia hành là pháp nhỏ, tôi nói cho bạn biết nhé! Ngay lập tức tất cả đều tương ứng, việc vãng sinh của bạn sẽ có sự bảo đảm, tu pháp bất kì Bổn tôn nào cũng đều tương ứng. Kim Cang Tát Đỏa đã là vị Bồ Tát lớn nhất trong Kim Cương thừa rồi, khi bạn đã tương ứng với Kim Cang Tát Đỏa thì còn vị Bồ Tát nào mà không thể tương ứng được nữa?
Vì vậy đây là một điểm quan trọng, với Tứ gia hành, nếu bạn cho rằng đó là pháp nhỏ, tôi lại cho rằng đó là pháp lớn, lý do chính là ở đây, hãy tu tập thật tốt, bạn sẽ nhanh chóng tương ứng với các pháp của Mật giáo, và còn có thể đạt được thành tựu ngay trong đời này, điều này thật hiếm có.
Mong rằng mọi người đều trân quý pháp Tứ gia hành, sau này khi chuyên tâm vào từng pháp, thậm chí khi trì chú, có một số chú ngữ bạn đều phải trì đủ 100.000 biến. Căn bản là chú của Bổn tôn của bạn, chú của Thượng sư, chú của Hộ pháp, ba loại chú quan trọng này nhất định phải trì đủ 100.000 biến; chú Tứ quy y cơ bản cũng là 100.000 biến, đây là thành tựu trì minh.
Vì vậy, mong rằng mọi người đều có thể vững bước từng bước một, thực sự tu trì để đạt thành tựu, đừng nóng vội hiếu thắng, phải không? Đúng vậy! Đừng nóng vội hiếu thắng, nếu bạn leo từ chỗ cao, không leo được mà ngã xuống thì sẽ tan tành, còn nếu bạn leo từ chỗ thấp, không leo được thì cũng không bị thương!
Cho nên điều này rất quan trọng, rất quan trọng, pháp nhỏ chính là pháp lớn, pháp lớn chính là pháp nhỏ. Hôm nay bạn tu pháp lớn, tôi nói bạn đang tu pháp nhỏ, hôm nay bạn tu pháp Tứ gia hành, đó mới chính là pháp lớn thực sự.
Om mani padme hum.
~ Trích từ Tuyển tập khai thị của Lư Thắng Ngạn "Tâm sự cùng bạn (tập 9)".
05. Pháp Đại lễ bái của Chân Phật Tông
Đại lễ bái của Chân Phật Tông hơi khác với Mật tông thông thường, tôi chia Đại lễ bái thành ba loại, đó là Đại lễ bái toàn thân phủ phục, Đại lễ bái ngũ thể đầu địa và Đại lễ bái quán tưởng.
Thủ ấn Đại lễ bái:
Thông thường khi tu một đàn pháp, có bốn thủ ấn trong pháp Đại lễ bái, ba thủ ấn đầu có cách lễ bái giống nhau, còn thủ ấn cuối cùng là cúi người khấu đầu bình đẳng.
Phật kham thủ ấn — là lễ bái thứ nhất, đảnh lễ chư tôn trong Phật bộ. Nghĩa là chắp hai tay lại, mười đầu ngón tay chạm vào nhau, lòng bàn tay hơi khum, tạo thành hình như kham thờ Phật.
Liên hoa thủ ấn — là lễ bái thứ hai, đảnh lễ chư tôn trong Bồ Tát bộ (Liên hoa bộ). Nghĩa là hai ngón cái và hai ngón út chạm vào nhau, ba ngón còn lại xòe ra, như hình hoa sen đang nở.
Kim cang thủ ấn — là lễ bái thứ ba, đảnh lễ chư tôn trong Kim cang bộ. Nghĩa là hai tay chắp vào nhau, mười ngón tay đan chéo, như hình chữ thập của chày kim cang, đó chính là thủ ấn kim cang.
Thủ ấn Bình đẳng — là lễ bái thứ tư, tức là thủ ấn cúi người khấu đầu. Nghĩa là ngón trỏ giơ thẳng chạm vào không trung, ngón cái song song với mặt đất và chạm vào nhau, ba ngón còn lại đan chéo song song tạo thành thủ ấn bình đẳng. Thủ ấn bình đẳng là sự đảnh lễ bình đẳng đối với Phật bộ, Bồ Tát bộ, Kim cang bộ, Hộ pháp bộ và chư Thiên bộ.
Đại lễ bái toàn thân phủ phục là theo cách của Tây Tạng. Đó là nằm sấp toàn thân xuống đất. Cách lễ bái này thường cần có đệm lễ bái hoặc chiếu cỏ trải sẵn trên đất để tránh bị thương.
Khi thực hiện bất kì đại lễ bái nào, trước hết quán tưởng Thượng sư và Tam Bảo ở phía trước. Bản thân mình (hoặc cùng với người thân, hoặc quán tưởng người thân đến), cùng nhau lễ bái.
Trước tiên đặt thủ ấn lên đỉnh đầu, có ánh sáng trắng chiếu vào đỉnh đầu (thanh tịnh tất cả thân nghiệp).
Kế đến đặt thủ ấn nơi cổ họng, có ánh sáng đỏ chiếu vào cổ họng (thanh tịnh tất cả khẩu nghiệp).
Sau đó đặt thủ ấn nơi tim, có ánh sáng xanh chiếu vào tim (thanh tịnh tất cả ý nghiệp).
Khi thân khẩu ý tam nghiệp đã thanh tịnh, đưa thủ ấn trở lại đỉnh đầu chạm một cái rồi xả ấn. Thân cúi xuống, hai tay duỗi thẳng, đẩy về phía trước, toàn thân nằm sấp xuống đệm lễ bái, sau khi lễ xong, lập tức chạm một cái rồi đứng dậy, không được nằm lâu trên đất, đây chính là Đại lễ bái toàn thân phủ phục.
Đại lễ bái ngũ thể đầu địa: Là cách lễ Phật theo kiểu Trung Quốc, không phải nằm sấp toàn thân xuống đất, mà chỉ hai đầu gối chạm đất, hai lòng bàn tay úp xuống đất, lòng bàn tay hướng lên trên. Cách lễ bái này cũng dùng bốn thủ ấn, nhưng không nằm sấp toàn thân. Đây là vì khi ra ngoài, hoặc đến các chùa khác, không có đệm lễ bái hay chiếu cỏ, nếu nơi nào cũng thực hiện đại lễ bái toàn thân, e rằng lòng bàn tay, trán và thân thể sẽ bị thương.
Đại lễ bái quán tưởng: Là do Liên Sinh Hoạt Phật của Chân Phật Tông sáng tạo. Khi chúng ta cùng nhau tu tập, nơi chốn chật hẹp, người đông, không thể để tất cả mọi người đứng lên thực hiện pháp Đại lễ bái vì không gian không đủ. Do đó mọi người ngồi xuống, vẫn kết thủ ấn, ấn vào đầu, cổ họng, tim, đến tim thì lập tức quán tưởng toàn thân đảnh lễ trước Phật, sau đó đưa thủ ấn trở lại đỉnh đầu rồi xả ấn, đây chính là cách thuận tiện của Đại lễ bái quán tưởng.
Đại lễ bái quán tưởng có rất nhiều lợi ích, ví dụ như khi chúng ta ngồi trên xe, trên máy bay, muốn tu một đàn pháp, đương nhiên không có chỗ để thực hiện pháp Đại lễ bái, nên chúng ta ngồi ngay ngắn trên ghế, trước tiên quán tưởng chư Phật trên không trung phóng quang, rồi quán tưởng mình kết thủ ấn, lần lượt ấn vào đỉnh đầu, cổ họng, tim, quán tưởng mình đảnh lễ Phật, sau đó đưa ấn trở lại đỉnh đầu rồi xả ấn. Thậm chí đối với phụ nữ mang thai, bụng to không thể toàn thân phủ phục, cũng không thể ngũ thể đầu địa, tự nhiên có thể vận dụng Đại lễ bái quán tưởng.
Trong số đệ tử của Chân Phật Tông, có người trước đây bị máy móc cắt đứt ngón tay, có người sinh ra đã khuyết tật. Theo quy định của Mật tông, những người này không thể kết thủ ấn, tư thế ngồi không đẹp, nghiệp chướng sâu nặng, không đủ tư cách tu Mật tông. Nhưng Liên Sinh Hoạt Phật đã phá bỏ quy định phân biệt đối xử với người khuyết tật này, tôi cho rằng ai cũng có thể tu Mật tông. Thủ ấn có thể quán tưởng ra, pháp Đại lễ bái cũng có thể tu bằng quán tưởng.
Có người chuyên tu Đại lễ bái pháp, một lần lễ 21 lạy, hoặc 49 lạy, hoặc 108 lạy, hoặc vài trăm lạy. Loại Đại lễ bái này có thể dùng Phật kham thủ ấn, liên tục lễ bái, xem tất cả chư Phật Bồ Tát và chư tôn đều là Phật, không ngừng lễ bái, càng nhiều càng tốt.
Quán tưởng cùng người thân lễ bái sẽ giúp họ kết duyên với Phật
Có rất nhiều đệ tử hỏi tôi, bản thân họ tin Phật nhưng người thân không tin, làm sao để người thân có duyên với Phật? Tôi thích trả lời như thế này, hãy quán tưởng người thân không tin Phật của mình đang ở bên cạnh, dùng ánh sáng của Phật chiếu vào họ, sau đó cùng họ lễ Phật.
Đây cũng là một trong những pháp Quán tưởng lễ Phật. Niệm niệm thay người không tin Phật lễ Phật, lâu dần, trong tâm người không tin Phật sẽ gieo được mầm Phật, tự nhiên sẽ sinh ra duyên với Phật.
Trọng điểm của Đại lễ bái pháp vẫn nằm ở quán tưởng Khi đặt thủ ấn lên đỉnh đầu, chư tôn phóng ánh sáng trắng (thân nghiệp thanh tịnh). Khi đặt thủ ấn nơi cổ họng, chư tôn phóng ánh sáng đỏ (khẩu nghiệp thanh tịnh). Khi đặt thủ ấn nơi tim, chư tôn phóng ánh sáng xanh (ý nghiệp thanh tịnh). Thủ ấn trở về đỉnh đầu rồi xả ấn, sau đó thực hiện đại lễ bái.
Làm Đại lễ bái có thể tiêu nghiệp chướng
Điểm quan trọng nhất của pháp Đại lễ bái là tiêu trừ nghiệp chướng. Khi chư Phật Bồ Tát phóng quang chiếu soi, chính là để tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời. Khi nghiệp chướng nhiều đời được tiêu trừ, tu hành mới có thể đạt đến thanh tịnh, tự thân mới có thể phóng quang, và khi tự thân có thể phóng quang thì mới có hy vọng thành Phật.
Làm Đại lễ bái có thể chế ngự tâm kiêu mạn ngã chấp
Pháp Đại lễ bái có thể chế ngự tâm kiêu mạn ngã chấp. Tôi cho rằng điều này cũng rất quan trọng, bởi vì khi chúng ta phủ phục đảnh lễ chính là học tập lòng thành kính và khiêm hạ, ý nghĩa là để diệt trừ ba độc tham, sân, si.
Cần biết rằng người tu đạo, chỉ cần có chút thành tựu nhỏ là dễ sinh tâm kiêu ngạo, ý thức tự mãn tự đại hoàn toàn bộc lộ, thấy người khác cao hơn mình liền đố kỵ, động một tí là muốn so đạo hạnh với người khác. Vì vậy người học Phật trước tiên phải lễ Phật, học tập lòng thành kính. Phủ phục đảnh lễ chính là để chế ngự tâm kiêu mạn ngã chấp này.
Làm Đại lễ bái có thể khỏe thân
Pháp Đại lễ bái là một phương pháp vận động thể chất, trong quá trình thực hành, kết hợp với các động tác của cơ thể, trở thành động tác yoga với hơi thở và điều khí. Loại vận động thể chất này, khi thực hiện đến mức đổ mồ hôi, thậm chí có thể chữa bệnh, điều này có thể giải thích một cách hợp lý. Từ xưa, pháp Đại lễ bái của Tây Tạng được xem là "pháp lễ Phật khắc kỷ, khổ thân, điều hòa thân thể", điều này cũng có nguồn gốc của nó.
Pháp Đại lễ bái có thể tiêu trừ nghiệp chướng, có thể kết duyên với Phật, có thể chế ngự tham sân si, học tập lòng thành kính, lại còn là pháp yoga phù hợp với vận động cơ thể. Tôi mong rằng đệ tử Chân Phật Tông không được xem thường pháp Đại lễ bái, lời tôi nói tuy đơn giản nhưng đạo lý rõ ràng, nếu thực hành sẽ có công đức to lớn.
Phật pháp bao la tinh vi, nhưng cũng phải từng bước thực hành mới có thể đạt đến "vô thượng". Pháp Đại lễ bái tuy không phải pháp thù thắng nhất, nhưng cũng là pháp tinh tế vi diệu. Tôi xin viết một bài kệ ghi lại: Mê mải bên ngoài là thế tục Kiểm điểm nội tâm mới ngộ ra Pháp Đại lễ bái là hồi tâm Tiêu nghiệp cung kính có lợi ích.
~ Trích từ văn tập Lư Thắng Ngạn số 63 "Bí Mật Trong Chân Phật Mật Pháp"
06. Khẩu quyết Đại lễ bái - lễ khắp hư không
Phương pháp Đại lễ bái, trước tiên quán tưởng Thượng sư và Tam Bảo Phật ở trước mặt. Trước hết đưa thủ ấn lên đỉnh đầu, có ánh sáng trắng chiếu vào đỉnh đầu (tất cả thân nghiệp thanh tịnh). Sau đó đưa thủ ấn đến cổ họng, có ánh sáng đỏ chiếu vào cổ họng (tất cả khẩu nghiệp thanh tịnh). Tiếp đến đưa thủ ấn đến tim, có ánh sáng xanh lam chiếu vào tim (tất cả ý nghiệp thanh tịnh). Khi thân khẩu ý ba nghiệp đã thanh tịnh, đưa thủ ấn trở lại đỉnh đầu chạm một cái rồi xả ấn, sau đó cúi lạy. Có thể dùng Đại lễ bái toàn thân nằm xuống đất theo kiểu Tây Tạng, hoặc Đại lễ bái năm phần chạm đất theo kiểu Trung Quốc, hoặc quán tưởng Đại lễ bái đều được.
Khẩu quyết của pháp Đại lễ bái rất quan trọng, khẩu quyết đó là: Lạy khắp hư không. Tự thân hư không.
Trong cuốn "Bí Mật Trong Chân Phật Mật Pháp", tôi đã từng nói rằng pháp Đại lễ bái có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tạo được nhân duyên lớn với Phật, do sự cung kính lễ lạy mà dứt được tham sân si và ngã mạn, đây là pháp môn thành kính cao nhất, lại còn phù hợp với việc vận động thân thể như yoga. Thêm vào đó, nhờ được chư Phật Bồ Tát phóng quang gia trì mà tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời, cuối cùng đạt được thân khẩu ý thanh tịnh, chứng được tự thân phóng quang.
Lạy khắp hư không - quán tưởng vô số chư Phật Bồ Tát trong khắp hư không, trùng trùng vô tận. Tự thân hư không - quán tưởng tự thân và chúng sinh trong lục đạo cũng trùng trùng vô tận. Khi lễ bái, có thể vừa lạy vừa tụng một câu chú lạy Phật, hoặc một bài kệ quán tưởng đảnh lễ chí thượng.
Chú lạy Phật như sau: "Ôm. Na-mô man-chu xi-ơ-yê. Na-mô su xi-ơ-yê. Na-mô u-ta-ma xi-ơ-yê. Sô-ha."
Công đức của việc "lạy khắp hư không" và "tự thân hư không" là vô cùng lớn. Một lạy như vậy bằng với nghìn vạn lạy Phật, đây là khẩu quyết vô thượng của pháp Đại lễ bái.
Liên Sinh Hoạt Phật khai thị thêm như sau: "Khẩu quyết của pháp Đại lễ bái chính là lạy khắp hư không và tự thân hư không, nghĩa là đảnh lễ vô số chư Phật, quán tưởng vô số thân mình đang lễ bái. Khi chúng ta cúi mình lạy xuống, đó là lúc chúng ta thành kính và buông bỏ nhất, phải trừ bỏ tâm kiêu căng ngã mạn của mình, phải trừ bỏ tâm tự đại tự mãn, chúng ta cần phải Đại lễ bái, chính là để diệt trừ tâm kiêu ngạo của bản thân! Lúc này, tâm ta như hư không vậy."
Tôi lại nói: "Hư không vô tận, nên đây là sự vô thượng của đảnh lễ khắp hư không, và tự tính của chúng ta cũng phải hóa thành vô tận, đó chính là tự thân hư không, dùng hư không để lễ bái hư không, đó là khẩu quyết vô thượng của pháp Đại lễ bái trong hư không. Ý nghĩa trong đó thâm sâu và vi diệu, đó là một sự dung hợp, một sự giao thông, một sự cảm ứng vô thượng." Vô số vô tận chư Phật. Tất cả hóa thành chính ta vô số vô tận.
Chư Phật Bồ Tát hóa thành một đường ánh sáng lớn, rót vào tâm của vô số vô tận chính ta. Hai bên hợp nhất, ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau. An lạc, khinh an, bay lên hư không, ngồi trên hoa sen. Đây là "lạy khắp hư không vô tận Phật, tự thân hư không vô tận ta, Phật tức là ta." Loại khẩu quyết vô thượng này là chữ "tạp".
Sự thành tựu này là: Một lạy tức là nghìn vạn lạy. Một lạy tức là Phật ta hợp nhất.
Liên Sinh Hoạt Phật tiết lộ khẩu quyết vô thượng này, đặc biệt viết một bài kệ:
Lạy khắp chư Phật vô thượng sư. Thượng sư Kim cang đại tổng trì. Như mây như biển hóa vô tận. Lễ bái của con cũng vô tận. Bồ đề bát nhã đẳng trì sâu. Quang minh quán đỉnh theo thứ tự. Ba nghiệp thân con đều tiêu vong. Quang minh thanh tịnh con vô tận. Phật con dung hợp được thành tựu. Không đứt bi trí chân Phật tử. Ngồi trên hoa sen nhiều thù thắng. Như thế chứng đạo truyền pháp đăng.
Tôi đặc biệt chỉ rõ rằng, khẩu quyết vô thượng của Pháp Tứ quy y chính là quy y tự tính, chính mình là Phật. Còn khẩu quyết vô thượng của Đại lễ bái Phật tất nhiên chính là lạy khắp hư không, tự thân hư không, thành tựu cao nhất của nó chính là Phật ta hợp nhất.
Thật ra pháp Tứ gia hành của Mật giáo có lý pháp thâm sâu, hành giả không thể xem thường, đều là pháp sâu rộng, đều là đại pháp, qua đây có thể biết được.
07. Pháp Tứ quy y của Chân Phật Tông
Có một đệ tử nội mật của Dudjom Rinpoche đến quy y Chân Phật Tông. Tôi hỏi: "Dudjom Rinpoche đã dạy cho anh pháp môn gì?" "Pháp Tứ quy y" - Anh ấy đáp. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không tin. "Đúng là pháp Tứ quy y đấy, Dudjom Rinpoche nói rằng, tu trì pháp Tứ quy y một triệu biến chính là đại pháp." - Vị đệ tử mới quy y trả lời tôi một cách kiên định như vậy.
Từ đây có thể thấy tầm quan trọng to lớn của pháp Tứ quy y - một trong bốn pháp gia hành.
Pháp Tứ quy y của Chân Phật Tông được trình bày chi tiết như sau: 1. Tiến vào mật đàn. Chiêm ngưỡng pháp tướng hoặc tượng của Thượng sư.
2. Trước tiên quán tưởng hình dáng Thượng sư, từ thiên tâm phóng ra ánh sáng trắng, chiếu vào thiên tâm của hành giả; từ cổ họng phóng ra ánh sáng đỏ, chiếu vào cổ họng của hành giả; từ tim phóng ra ánh sáng xanh, chiếu vào tim của hành giả.
3. Hành giả chắp tay cung kính niệm: "Nam mô Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Hoạt Phật." Mỗi niệm một lần, lạy một lạy.
4. Niệm Tứ quy y chân ngôn: Na-mô gu-ru pây — quy y Kim cương Thượng sư. Na-mô pút-ta yê — quy y Phật. Na-mô ta-mô yê — quy y pháp. Na-mô sâng-kya yê — quy y tất cả thánh hiền mười phương.
Trước tiên niệm ba lần, sau đó quán tưởng Thượng sư và chư tôn Tam Bảo hiện ra trên không trung, hòa nhập vào nhau, hóa thành ánh sáng ngũ sắc rực rỡ, ánh sáng ngũ sắc này rót vào đỉnh đầu hành giả, tràn đầy toàn thân. Tự cảm nhận tất cả nghiệp chướng, ác nghiệp, bất tịnh nghiệp, tội nghiệp đều hóa thành khí đen, thoát ra qua các lỗ chân lông, bản thân trở nên trong sáng thuần khiết, thân tâm an lạc, tràn đầy phúc huệ.
5. Sau đó lại niệm chân ngôn Tứ quy y, tùy ý niệm nhiều hay ít, càng nhiều càng tốt.
6. Sau khi niệm xong chân ngôn Tứ quy y, cần niệm văn phát bồ đề tâm: "Đệ tử (tên) từ nay quy y Thượng sư Tam Bảo, cho đến khi thành tựu bồ đề, vĩnh viễn không thoái chuyển, tất cả thiện căn lớn nhỏ đều hồi hướng cho chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật đạo." (niệm 3 lần)
7. Trì tụng các thần chú khác: Trì tụng tâm chú Liên Sinh Hoạt Phật: "Ôm gu-ru lién-sâng sit-đi hum" 108 biến hoặc 1000 biến. Trì tụng tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ: "Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê" 108 biến hoặc 1000 biến. Trì tụng tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát: "Ôm ma-ni pê-mi hùm" 108 biến hoặc 1000 biến. Trì tụng tâm chú A Di Đà Phật: "Ôm a-mi-đê-wa sê" 108 biến hoặc 1000 biến. Trì tụng tâm chú Lục Độ Mẫu: "Ôm ta-rê tu-ta-rê tu-rê sô-ha" 108 biến hoặc 1000 biến.
8. Sau khi trì tụng các thần chú gia trì xong, tụng văn hồi hướng: "Liên Sinh Hoạt Phật gia trì lực, Tam Bảo phóng quang trừ nghiệp chướng, con và chúng sinh thành Phật đạo, đều cùng vãng sinh Cực Lạc quốc."
9. Đại lễ bái. Xuất đàn.
Trong pháp Tứ quy y Chân Phật này, điểm trọng yếu nằm ở ánh sáng ngũ sắc rực rỡ, chính là phần quán tưởng sau khi niệm xong ba lần chân ngôn Tứ quy y. Thượng sư và chư tôn Tam Bảo xuất hiện trên không trung, xoay chuyển hòa nhập vào nhau, biến thành ánh sáng ngũ sắc rực rỡ, sau đó rót vào đỉnh đầu hành giả, tất cả nghiệp chướng của hành giả hóa thành khí đen, thoát ra qua các lỗ chân lông. Phần quán tưởng này là quan trọng bậc nhất.
Điểm trọng yếu của pháp Tứ quy y này chính là ở Thượng sư. Trong Mật tông, pháp Tứ quy y đặt Kim cương Thượng sư ở vị trí đầu tiên, bởi vì Kim cương Thượng sư là tổng trì của chư tôn Tam Bảo. Chúng sinh nhờ có sự truyền pháp của Kim cương Thượng sư mới có thể thực sự hiểu được Tam Bảo. Vì vậy, chúng sinh nhờ quy y Kim cương Thượng sư mới có Mật pháp để tu học, và cũng nhờ nương tựa vào Kim cương Thượng sư mới có thể được Thượng sư Tam Bảo cứu độ.
Tu trì pháp Tứ quy y là củng cố lòng tin của chính mình đối với Thượng sư Tam Bảo. Tu trì pháp Tứ quy y là kết duyên vĩnh viễn với Thượng sư và Tam Bảo, mãi mãi có duyên với chư Phật Bồ Tát. Tu trì pháp Tứ quy y là tiêu trừ tất cả nghiệp chướng nhiều đời. Tu trì pháp Tứ quy y là nhận được gia trì của Thượng sư Tam Bảo. Tu trì pháp Tứ quy y là bước đầu phát tâm bồ đề của chính mình.
Thông thường các vị Hoạt Phật Tây Tạng khi bắt đầu dạy người trì chú, đều dạy chân ngôn Tứ quy y, niệm chân ngôn Tứ quy y một triệu biến để củng cố nhân duyên tin Phật của chính mình.
Tôi viết một bài kệ cho pháp Tứ quy y Chân Phật: Một pháp quy y nghiệp tiêu trừ, Có duyên với Phật pháp ắt thành; Chớ làm người tục trong nhân thế, Phát tâm bồ đề độ chúng sinh.
~ Trích từ văn tập Lư Thắng Ngạn số 63 "Bí Mật Trong Chân Phật Mật Pháp"
08. Khẩu quyết Tứ quy y - Quy y tự tính
Tại sao phải quy y? Bởi vì nhờ có quy y mới có thầy dạy Phật pháp cho mình, nếu không có thầy truyền pháp thì không có pháp để tu. Đây là đạo lý rất đơn giản.
Ý nghĩa của quy y chính là hướng về, nương tựa và được cứu độ. Mật giáo có Tứ quy y, đó là quy y Kim cương Thượng sư, quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.
Trong tiếng Phạn, "Nam mô" chính là "quy y". Bốn quy y ấy là: Nam-mô gu-ru pây. Nam-mô put-ta yê. Nam-mô ta-mô yê. Nam-mô sâng-kya yê.
Trong Phật pháp, Thiền tông, Mật tông và Luật tông đều rất coi trọng sư phụ. Thiền tông, sư phụ ấn chứng. Luật tông, sư phụ truyền giới. Mật tông, sư phụ truyền pháp.
Giáo lý của Mật tông Tây Tạng đặt Căn bản Kim cương Thượng sư lên hàng đầu, là tôn trọng pháp truyền thừa tôn sư, từ Dojre Chang Như Lai đến vị Căn bản Thượng sư truyền pháp, đó là căn bản trong các căn bản.
Tôi cho rằng cội nguồn của quy y nằm ở chữ "tín", "tín" là khởi đầu của tất cả, cũng chính là "tín là mẹ công đức của đạo nguyên, tăng trưởng tất cả các thiện pháp, trừ diệt tất cả các nghi hoặc, thị hiện khai mở vô thượng đạo."
Có tín mới có lạc, thể của tín tâm ắt có tướng hoan hỷ, hoan hỷ quy y Liên Sinh Hoạt Phật.
Pháp môn của Tịnh Độ tông là quy y tín niệm. Pháp môn của Thiên Thai tông là quy y nhất niệm. Pháp môn Mật tông Chân ngôn là quy y chữ Ah. Có tín mới có quy y, có quy y rồi mới có hành, đó là hành theo pháp Mật tông, như vậy mới có sự quy hướng chân chính.
Quy y là khởi đầu của tín-giải-hành-chứng, trước hết tin tưởng và thích thú với pháp, kế đến là hiểu rõ pháp, nương theo pháp mà thực hành tu tập, cuối cùng là chứng được quả. Vì vậy, cái gốc của quy y chính là tín.
Phương pháp quán tưởng quy y là:
1. Trước tiên quán tưởng hình dáng của Thượng sư, ánh sáng trắng từ thiên tâm phóng ra, chiếu vào thiên tâm của hành giả, ánh sáng đỏ từ cổ họng phóng ra, chiếu vào cổ họng của hành giả, ánh sáng xanh từ tim phóng ra, chiếu vào tim của hành giả.
2. Hành giả cung kính tụng chú Tứ quy y 3 lần: "Nam-mô gu-ru pây. Nam-mô put-ta yê. Nam-mô ta-mô yê. Nam-mô sâng-kya yê."
3. Tiếp đó quán tưởng Thượng sư hiện ra trong hư không, Phật hiện ra trong hư không, pháp bản phóng quang hiện ra trong hư không, tăng bảo hiện ra trong hư không, tất cả hòa nhập vào nhau, hóa thành đại quang minh ngũ sắc, đại quang minh ngũ sắc này rót vào đỉnh đầu của hành giả, tràn đầy toàn thân.
Lại quán tưởng tự thấy tất cả nghiệp chướng, nghiệp ác, nghiệp bất tịnh, nghiệp tội, đều hóa thành khí đen, thoát ra từ các lỗ chân lông, bản thân trở nên trong suốt sáng ngời, thân tâm khinh an, tràn đầy phước huệ.
Như thế này chính là nội nghĩa chân thật của pháp quán tưởng quy y.
Liên Sinh Hoạt Phật khai thị khẩu quyết vô thượng về quy y như sau: "Tự thân thật ra là một thể do nhân duyên hòa hợp, có Phật tính thường trụ trong tâm, Phật tính này không sinh không diệt, không đoạn không thường, không đến không đi, không một không khác. Vốn dĩ là Phật, vốn không liên quan gì đến phiền não nghiệp duyên. Phàm phu vì vọng tưởng chấp trước nên không biết được điều này. Nay Sư Tôn đặc biệt chỉ ra rằng, đây là đại trí huệ chân thật, 'tự mình là Phật', tất cả Phật pháp đều chỉ là phương tiện thiện xảo, điều quan trọng nhất của quy y chính là 'quy y tự tính', đây mới thật sự là khẩu quyết quy y, sau khi phá được vô minh sẽ hồi phục về chân tâm thường trụ vốn có, viên mãn Pháp thân thanh tịnh quang minh."
Khẩu quyết như vậy chính là: Ví như linh đan dược. Điểm sắt thành vàng báu. Trì tụng đà-la-ni. Biến phàm thành thánh hiền.
Thường trì tụng chú Tứ quy y, quán tưởng ba luồng ánh sáng gia trì của Thượng sư, được đại quang minh ngũ sắc quán đảnh, có thể nhập vào định vô tướng, được khẩu quyết quy y, kiên cố đạo tâm của mình, thân ngữ ý ba nghiệp mãi mãi thanh tịnh, đó chính là Kim Cương Tràng Như Lai kiên cố.
Sư Tôn truyền xuống pháp môn phương tiện. (chìa khóa báu) Khai mở Phật tính trong tự tâm bạn. (mở kho báu) Lúc mê có thầy độ. (quy y bên ngoài) Lúc ngộ tự độ. (quy y bên trong) Chính mình là Phật. (Mật quy y)
~ Trích từ Văn tập Lư Thắng Ngạn số 75 "Chân Phật Pháp Trong Pháp"
09. Pháp Đại cúng dường của Chân Phật Tông
Hành giả Mật tông mỗi lần tu pháp, nhất định phải dâng cúng dường, trong pháp Tứ gia hành, đây chính là pháp cúng dường mandala.
Liên Sinh Hoạt Phật từng nói: "Con người thế gian, nếu muốn có được phúc báo lớn nhất thì phải cúng dường Thượng sư, Tam Bảo, Kim cang, Hộ pháp. Bởi vì nguyên do là cúng dường biểu thị sự cung kính của hành giả, cung kính Tam Bảo vô thượng, nên có thể có được sức mạnh che chở của Thượng sư và Tam Bảo, và có được phúc báo vô cùng."
Trước kia pháp sư Thích Huệ Linh từng nói với tôi: Trước Phật cúng hoa — đời sau xinh đẹp phi phàm, tướng mạo anh tuấn. Trước Phật cúng hương — đời sau thân thể thơm tho. Trước Phật cúng đèn — đời sau trí tuệ siêu việt, quang minh vô tận. Trước Phật cúng trà — đời sau tài phúc vô tận, nguồn tài nguyên không dứt. Trước Phật cúng quả — đời sau ăn uống không phải lo nghĩ, có dư thừa.
Liên Sinh Hoạt Phật nói: "Một người nếu muốn có được phúc báo lớn nhất của nhân gian, đời sau trở thành quốc vương của nhân gian, hoặc thành người giàu có nhất, chỉ cần người đó học được pháp Chân Phật đại cúng dường thì sẽ được thành tựu như vậy. Chỉ tu trì mỗi pháp Chân Phật đại cúng dường thì đã có thể có được phúc báo vô cùng tận."
Pháp cúng dường mandala của Mật tông như sau:
1. Hành giả tiến vào mật đàn thì ngồi xuống, hai tay kết ấn cúng dường.
2. Trước tiên đặt một ít gạo lên lòng bàn tay trái.
3. Kết ấn cúng dường — Hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau, hai ngón út đan chéo nhau (đều là tay phải ở ngoài). Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út.
4. Quán tưởng núi Tu Di trong vũ trụ ở chính giữa, bốn cõi trời đông tây nam bắc ở xung quanh núi Tu Di, và ở phía đông tây của núi Tu Di có mặt trăng mặt trời.
Lại quán tưởng gạo trong tay mình biến thành thất trân bát bảo, đầy ắp cả núi Tu Di và bốn cõi trời Đông Tây Nam Bắc. Quán tưởng tất cả trân bảo đều dâng cúng chư tôn.
5. Niệm bài kệ cúng dường:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kỳ diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
6. Trì thêm chú cúng dường:
Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.
7. Niệm xong chú cúng dường thì nâng thủ ấn lên trên, ấn vào thiên tâm một cái. Khi giải ấn thì có thể trực tiếp tung gạo lên không trung. Như vậy được xem là đã hoàn thành pháp cúng dường mandala.
Bí mật của pháp Chân Phật đại cúng dường:
Liên Sinh Hoạt Phật từng dạy mọi người bí mật của pháp Chân Phật đại cúng dường.
Ví dụ chúng ta cúng dường một ngọn đèn, thắp đèn sáng lên, nhập đàn tay kết ấn cúng dường. Đầu tiên nghĩ đến ngọn đèn dầu này ở trong đầu, sau đó từ một ngọn đèn dầu hóa thành một hàng, sau đó đèn dầu lại biến hóa thành một mặt phẳng, thậm chí biến hóa thành mười phương trên dưới cả vũ trụ đều đầy ắp đèn dầu thắp sáng. Quán tưởng chư tôn tiếp nhận cúng dường đèn dầu sáng của bạn. Trong tâm niệm thầm chú cúng dường, sau đó đưa thủ ấn chạm vào thiên tâm rồi giải ấn.
Ví dụ; chúng ta cúng dường một bông hoa, nhập đàn tay kết ấn cúng dường, đầu tiên nghĩ đến bông hoa này ở trong đầu, rồi quán tưởng hoa biến thành một hàng hoa, rồi từ một hàng lại biến thành một mặt phẳng hoa, thậm chí là mười phương trên dưới cả vũ trụ đều đầy ắp hoa. Quán tưởng chư tôn trong vũ trụ, mỗi vị Phật đều cầm một bông hoa của bạn trên tay, đầy ắp cả bầu trời vũ trụ. Trong tâm niệm thầm chú cúng dường rồi chạm thủ ấn vào thiên tâm, sau đó giải ấn.
Đây chính là từ một biến thành nhiều, lần lượt hóa hiện như mây, như biển. Kết quả là đủ loại cúng dường vô tận, một lần Chân Phật đại cúng dường như thế này là thù thắng vi diệu nhất, thanh tịnh và kỳ diệu nhất, quảng đại vô tận nhất. Đương nhiên là phúc báo có được cũng vô cùng vô tận.
Chân Phật Tông chúng ta bày bát cúng là: vỏ ốc nhỏ, trái cây, phấn thơm, đèn, ba que đàn hương, năm bông hoa đỏ, nước tắm, nước sạch, bày từ phải sang trái. Còn ngũ cúng là hoa, hương, đèn, trà, quả. Hai kiểu này đều được.
Thật ra theo như trong kinh Phật, nghi thức cúng dường rất phiền phức, và cúng phẩm cũng có nhiều loại, có cái gọi là năm món cúng, bảy món cúng, tám món cúng, hai mươi bảy món cúng, ba mươi bảy món cúng. Mỗi loại bảo vật đều xem là cúng phẩm, ví dụ pháp luân cũng là một bảo vật, trân châu cũng là một bảo vật, cây lạ cũng là một bảo vật, voi quý cũng là một bảo vật. Tôi cho rằng chỉ cần là thứ mà bạn cho là có giá trị thì đều có thể biến hóa để dâng lên cúng Phật.
Có đệ tử hỏi tôi là không có thứ gì quý hiếm để cúng dường Phật, phải làm sao?
Tôi trả lời như sau, đây là bí mật trong bí mật của Chân Phật đại cúng dường. Khi chúng ta thiếu những món đồ thật để cúng Phật, chúng ta cũng có thể kết ấn cúng dường, rồi nghĩ ra những thứ tốt đẹp nhất, những thứ mà chúng ta nhìn thấy trên đường, hoặc là những thứ nhìn thấy trong nhà người khác, đều có thể ghi nhớ vào trong đầu chúng ta. Chúng ta cũng biến hóa một thành nhiều, nhiều hóa thành vô tận, rồi cũng cúng dường chư tôn trong vũ trụ. Trì thêm chú cúng dường, sau đó giải ấn. Cũng vẫn sẽ có công đức to lớn.
Có ba trọng điểm của pháp Chân Phật đại cúng dường, tức là thủ ấn, chân ngôn, quán tưởng. Kì thực điểm chính yếu thật sự vẫn là tâm cung kính. Chúng ta một lòng biến hóa cúng phẩm thành vô lượng vô tận, tự nhiên phúc phần có được cũng vô lượng vô tận, cho nên nhất tâm quán tưởng là quan trọng nhất.
Pháp Chân Phật đại cúng dường là mật pháp để có được phúc vô lượng. Pháp Chân Phật đại cúng dường là mật pháp để có được sức mạnh gia trì của Thượng sư và Tam Bảo. Pháp Chân Phật đại cúng dường là mật pháp Kim cang Hộ pháp hộ thân. Pháp Chân Phật đại cúng dường là từ cúng dường Phật Bồ Tát mà sản sinh ra tâm bố thí, sau đó chuyển thành bố thí chúng sinh, là đại mật pháp để phát bồ đề tâm quảng đại. Pháp Chân Phật đại cúng dường là từ cúng dường mà có được sự che chở của chư tôn, từ sự che chở đó lại có được thành tựu.
Hoạt Phật Tây Tạng cho rằng pháp cúng dường mandala phải tu tập 100.000 biến, thậm chí nhiều hơn, đây cũng là khóa trình mà mỗi hành giả Mật tông phải tu. Ngoài ra, cúng dường Thượng sư cũng chính là biểu thị sự tôn kính, lòng hoan hỷ và không rơi vào việc “cầu xin suông” (hoặc có điều thỉnh cầu, hoặc cầu nguyện, đều phải cúng dường để biểu thị một chút tâm ý).
Bởi vì Thượng sư là đại diện cho Phật, pháp, tăng. Chúng ta đi theo Thượng sư mới có thể tu hành học pháp, cho nên cúng dường Thượng sư là cực kì quan trọng. Thượng sư chân chính sẽ không tham cúng dường, tất cả cúng dường đối với Thượng sư, Thượng sư sẽ dùng thái độ “lấy của chúng sinh, dùng cho chúng sinh” để mà xử lý, dùng vào việc hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh.
Pháp Chân Phật đại cúng dường là một Mật pháp tôn kính, gần gũi, phụng sự, từ đó mà có được lực gia trì che chở, có được lực gia trì che chở rồi thì tu bất kì mật pháp gì cũng đều đắc thành tựu, không có lực gia trì che chở thì tu bất kì mật pháp gì cũng đều sẽ không sản sinh sức mạnh.
Tôi viết một bài kệ: Cúng dường là tâm mềm mại nhất Kiền thành tự sẽ đến địa đầu Vô cùng vô tận đại phúc báo Hiện lên thù thắng chẳng lo âu.
~ Trích từ Văn tập Lư Thắng Ngạn số 63 "Bí mật trong Chân Phật Mật Pháp"
10. Khẩu quyết Đại cúng dường - bố thí không mong cầu
Cúng dường có nghĩa là phụng dưỡng. Đối với bậc trên, cúng dường hàm chứa ý nghĩa thân cận, phụng sự và tôn kính. Đối với bậc dưới, cúng dường hàm chứa ý nghĩa đồng cảm, thương xót và che chở.
Pháp Đại cúng dường của Mật tông là:
1. Kết thủ ấn cúng dường.
2. Quán tưởng cúng phẩm hiện rõ trong tâm trí, trước tiên hóa thành một hàng, sau đó hóa thành một mặt phẳng, rồi biến thành vô lượng vô tận cúng phẩm cúng dường khắp mười phương vũ trụ.
3. Thầm tụng thần chú cúng dường gia trì: "Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi."
4. Sau đó chạm thủ ấn vào thiên tâm và giải ấn.
Là người học Phật, chúng ta trước hết phải tu pháp Đại cúng dường, dùng cúng dường này để cúng dường Thượng sư Tam bảo Kim cang Hộ pháp, cầu xin gia trì thành tựu. Nguyên tắc là dùng tất cả núi Tu Di, mặt trời mặt trăng, bốn đại châu, thất trân bát bảo trong thiên hạ. Dùng sức quán tưởng, gia trì thần chú thủ ấn, từng phẩm vật hóa hiện như mây như biển, trùng trùng vô tận.
Loại cúng dường này là thù thắng vi diệu. Loại cúng dường này là thanh tịnh trang nghiêm. Loại cúng dường này là rộng lớn vô biên.
Ấn cúng dường như sau: Hai ngón áp út dựng đứng đối lưng nhau, kế đến hai ngón giữa duỗi thẳng đan chéo nhau, hai ngón út duỗi thẳng đan chéo nhau, tiếp theo dùng hai ngón trỏ móc vào hai ngón giữa, hai ngón cái ấn lên đầu hai ngón út.
Khi kết thúc cúng dường, tụng tán như sau:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kỳ diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
Khi chúng ta học được phương pháp đại cúng dường, còn phải hiểu rõ khẩu quyết đại cúng dường. Thực ra khẩu quyết của đại cúng dường chính là bố thí và không mong cầu.
Bố thí là đem những gì mình có ban phát cho người khác. Thứ nhất là tài thí, tức là dùng của cải cứu giúp người bệnh tật nghèo khổ. Thứ hai là pháp thí, tức là dùng chính pháp khuyên người làm thiện tránh ác. Thứ ba là vô úy thí, tức là không màng đến sự an nguy của bản thân để giải trừ nỗi sợ hãi cho người khác. Bố thí là để độ thoát lòng tham lam bủn xỉn.
Và Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng không mong cầu chính là khẩu quyết chân chính của đại cúng dường, bởi vì muốn độ thoát lòng tham lam bủn xỉn thì phải không mong cầu.
Nếu không mong cầu, tức là tâm không có chỗ dựa, không cầu thì vô tâm, tâm không nương tựa vào đâu, vì tâm không nương tựa nên vọng niệm không khởi, không trụ không chấp, thông suốt thanh tịnh. Không mong cầu là cúng dường vô tận trong pháp đại cúng dường. Có mong cầu là phúc báo hữu hạn trong pháp đại cúng dường.
Liên Sinh Hoạt Phật mời mọi người chú ý: Phẩm "Diệu hạnh vô trụ" thứ tư trong Kinh Kim Cang:
Lại nữa: "Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát đối với pháp, nên không có chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là không trụ vào sắc mà bố thí, không trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như thế, không trụ vào tướng. Vì sao? Nếu Bồ Tát bố thí không trụ tướng, phúc đức ấy không thể nghĩ lường. Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Hư không phương Đông có thể nghĩ lường được chăng?" "Bạch Thế Tôn, không thể!" "Này Tu Bồ Đề! Nam, Tây, Bắc phương, bốn hướng phụ, trên, dưới, hư không có thể nghĩ lường được chăng?" "Bạch Thế Tôn, không thể!" "Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí không trụ tướng, phúc đức cũng lại như thế, không thể nghĩ lường. Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát chỉ nên trụ như lời dạy!"
Bố thí không trụ tướng chính là bố thí không mong cầu, là điều không thể nghĩ lường.
Liên Sinh Hoạt Phật hiểu rằng, khi chúng ta hành pháp đại cúng dường, nếu có thể cúng dường không mong cầu, phúc báo đạt được cũng sẽ vô lượng như hư không. Hàng phục vọng tâm nằm ở chỗ không mong cầu. Khẩu quyết chân thật của đại cúng dường nằm ở chỗ bố thí không mong cầu.
~ Trích từ Văn tập Lư Thắng Ngạn số 75 "Chân Phật Pháp Trong Pháp"
11. Pháp Kim Cang Tâm của Chân Phật Tông
Một trong Tứ gia hành của Mật giáo là Kim Cang Tâm Bồ Tát pháp. Pháp này là pháp quan trọng nhất trong Tứ gia hành, được xem là một trong những khóa tu bắt buộc của Mật thừa. Cần trì tụng Bách tự minh chú của Kim Cang Tát Đỏa đủ 100.000 biến.
Kim Cang Tâm Bồ Tát pháp có hai ý nghĩa lớn: Có thể tiêu trừ sạch sẽ tất cả tội chướng từ vô thủy đến nay. Có thể khiến hạnh nguyện của hành giả Mật tông kiên cố như kim cương.
Liên Sinh Hoạt Phật từng nói như thế này: Lai lịch của Kim Cang Tâm Bồ Tát không phải tầm thường, nguyên là thân dung hợp biến hóa của Ngũ Phật, là ánh sáng trắng thanh tịnh vĩ đại. Đây là thân biến hóa của vị sứ giả vĩ đại nhất của Mật thừa, trong đó ẩn chứa ý nghĩa vô cùng thâm sâu.
Có người chỉ lấy Kim Cang Tâm Bồ Tát làm Bổn tôn tu pháp, từ đó mà đạt được tâm lớn của Bồ Tát, tâm lớn của Bồ Tát kiên cố bất hoại, như kim cương vậy.
Trong 52 địa vị Bồ Tát của Đại thừa, Bồ Tát ở địa vị thứ 51 được gọi là Đẳng Giác, sự giác ngộ này ngang bằng với Phật, cho nên nhìn lại Pháp vân địa thứ 10 đã có thể gọi là Phật, danh hiệu chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng, Kim Cang Thủ Bồ Tát được xem là vị tổ thứ hai của Mật thừa, Kim Cang Thủ Bồ Tát chính là Kim Cang Tát Đỏa, trong đó có mối quan hệ đồng thể dị danh với Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Nhiều người xem thường pháp Tứ gia hành, cho rằng đó là pháp nhỏ, nhưng theo như tôi biết, pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là đại pháp, không những là đại pháp, mà còn là vô thượng pháp.
Có rất nhiều đệ tử Mỹ quy y các vị Hoạt Phật Tây Tạng đến gặp tôi, họ nói với tôi rằng họ đã tu pháp được tám đến mười năm, và pháp cao nhất mà họ tu chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát pháp.
Và đệ tử quy y của tôi là Đạt Thừa Rinpoche - Hoạt Phật đời thứ 10 của Hồng giáo Tây Tạng, nói với tôi rằng, phần lớn các đệ tử Mỹ khi mới học pháp, nhất định phải cho họ tu Tứ gia hành trước, và pháp cao nhất chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát pháp, vì thế các đệ tử Mật tông người Mỹ đều tụng chú Bách tự minh của Kim Cang Tát Đỏa.
Pháp Chân Phật Kim Cang Tâm trình bày như sau:
1. Vào đàn, đại lễ bái.
2. Trước tiên ngồi xuống chắp tay niệm: "Nam mô Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật." 3 biến.
3. Niệm chú Tứ quy y:
"Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê." 3 biến.
4. Niệm kệ Tứ vô lượng tâm. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ niềm vui và nhân của niềm vui, đó là từ vô lượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ và nhân của khổ, đó là bi vô lượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh mãi mãi ở trong an lạc không khổ, đó là hỷ vô lượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh bỏ yêu ghét, trụ nơi bình đẳng, đó là xả vô lượng.
5. Niệm chân ngôn phát tâm bồ đề: "Ôm bô-đi-chi-ta ben-za sa-ma-ya ah hùm." (3 biến)
6. Niệm kệ và chú sám hối: Con xưa đã tạo bao ác nghiệp Đều vì vô thủy tham sân si Đều sinh ra từ thân ngữ ý Nay con hết thảy xin sám hối. "Ôm ben-za sa-ma-ya su-tô ah." Chú này có thể niệm vô số biến.
Sau khi niệm chú xong, có thể dùng nước Đại bi chú hoặc nước chú Quân Đồ Lợi Minh Vương, hướng về bốn phương Đông Nam Tây Bắc, dùng tay búng vẩy nước, và tự mình cũng uống một chút nước Đại bi chú hoặc nước chú Quân Đồ Lợi Minh Vương, biểu thị Đông Nam Tây Bắc Trung tất cả đều thanh tịnh. (Nước Đại bi chú hoặc nước chú Quân Đồ Lợi Minh Vương cần phải niệm chú sẵn để dùng.)
7. Kết thủ ấn: Tay phải nắm lại, hướng vào trong, ngón cái đè lên ngón trỏ. Tay trái nắm lại, hướng ra ngoài, ngón trỏ đè lên ngón cái. Đặt trước ngực.
8. Quán Không, quán tưởng Kim Cang Tâm Bồ Tát hiện ra trên không trung.
Thân Bồ Tát màu trắng, đội mũ Ngũ Phật, khoác thiên y và váy xếp, thân được trang nghiêm bằng các loại bảo vật, ngồi trên tòa sen tám cánh và nguyệt luân, tay phải kết phẫn nộ ấn cầm chày kim cang ở trước ngực, tay trái kết phẫn nộ ấn cầm chuông kim cang ở bên đùi trái. Xung quanh ngực có vòng tròn bách tự minh chú bao quanh, vòng chú này tỏa ánh sáng trắng rực rỡ xoay vần.
Ánh sáng trắng lớn này bay lên không trung, tạo thành một vòng cung, rót vào đỉnh đầu của hành giả Mật tông và lan tỏa khắp toàn thân. Toàn thân hành giả cũng tỏa ra ánh sáng lớn, tất cả nghiệp chướng và ý niệm xấu ác trong thân hóa thành khí đen, thoát ra từ các lỗ chân lông trên toàn thân. Lúc này toàn thân hành giả trở nên trong suốt sáng ngời, đạt được đại thiền lạc.
9. Tụng Bách tự minh chú Kim Cang Tâm 21 biến: (Khi tụng chú không kết thủ ấn)
Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây.
10. Nhập định:
Sau khi tụng xong 21 biến Bách tự minh chú Kim Cang Tâm, quán tưởng Kim Cang Tâm Bồ Tát hóa thành một điểm ánh sáng trắng, đi vào đỉnh đầu của hành giả Mật tông và nhập vào tâm, thân khẩu ý của Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là thân khẩu ý của hành giả Mật tông, hai bên hợp làm một, hoàn toàn hòa hợp, hành giả Mật tông biến thành Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Vào thời khắc quan trọng nhất này, nếu hành giả Mật tông thật sự có thể để thân tâm hoàn toàn "buông bỏ", chắc chắn sẽ có tư tưởng tối thượng thâm nhập vào thân thể hành giả, đó chính là sự hợp nhất hoàn toàn giữa ý thức tối cao của vũ trụ với ánh sáng tâm của chính mình. Đây là đại tương ứng vi diệu không thể diễn tả bằng lời, cũng là không thể nói ra, một trạng thái bất nhị mà chỉ người thực chứng mới có thể thấu hiểu, và chỉ những ai đạt được sự tương ứng như vậy mới thực sự chứng ngộ.
11. Sau khi xuất định, hồi hướng:
Liên Sinh Hoạt Phật truyền thụ đại mật pháp. Kim Cang Tát Đỏa biến hóa Kim Cang Tâm. Cả hai dung hợp đích thực đại tương ứng. Tội chướng tiêu trừ chân chính đắc thanh tịnh.
12. Đại lễ bái Phật, xuất đàn.
Hôm nay, tôi thật lòng nói với mọi người rằng, pháp môn Tứ gia hành này, nếu học được trọn vẹn và đạt được sự tương ứng hoàn toàn, tôi cho rằng đã đạt được quả vị Bồ Tát Đẳng Giác. Đây chính là điều kỳ diệu của Chân Phật Mật Pháp. Tuy Tứ gia hành là pháp căn bản của Mật tông, nhưng thực sự là nền tảng vĩ đại của Mật thừa nghìn đời. Tôi cho rằng, chỉ cần Tứ gia hành đạt được sự tương ứng, thật sự đại tương ứng, thì chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát.
Pháp Kim Cang Tâm Chân Phật là bí mật lớn để tiêu trừ tội chướng từ vô thủy. Pháp Kim Cang Tâm Chân Phật có quả vị là Đẳng Giác, vượt qua Pháp vân địa thứ mười. Pháp Kim Cang Tâm Chân Phật là pháp Tứ gia hành, cũng là pháp Bổn tôn.
Điểm trọng yếu của Pháp Kim Cang Tâm Chân Phật là quán tưởng ánh sáng trắng lớn đi vào, khí đen thoát ra. Quan trọng nhất là sự thành tựu vô thượng khi Kim Cang Tâm Bồ Tát hợp nhất với chính mình, tôi viết một bài kệ: Trong pháp gia hành có thắng cảnh Như tên bay nhanh nhẹ tội chướng Quán không hợp nhất thật tuyệt diệu, Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh.
~ Trích từ Văn tập Lư Thắng Ngạn số 63 "Bí mật trong Chân Phật Mật Pháp"
12. Khẩu quyết của Kim Cang Tâm - Pháp sám hối số một
Ý nghĩa của sám hối
Trong Phật giáo có nói đến sám hối rất nhiều. Mọi pháp bản sám hối đều muốn tiêu trừ cái "nhân" không tốt. Đừng làm những nhân không tốt thì sẽ không sinh ra quả không tốt, loại bỏ nhân thì sẽ không có quả, cái này chủ yếu là sám hối.
Khi chúng ta sám hối, đọc thấy trong quyển sám dạy bạn không được làm cái gì, đừng làm cái gì, loại bỏ hết các loại nhân không được làm thì sẽ không có quả, đây là ý nghĩa chủ yếu của sám hối.
Rồi cũng cần đặt tâm của bạn vào trong bản văn sám hối. Trong văn sám nói như thế nào, bạn phải thâm nhập và hiểu được, rồi thật sự đi thực hiện, đây là ý nghĩa chân chính của sám hối.
Ba ý nghĩa lớn của Bách tự minh chú
Ở đây nhắc đến pháp sám hối số một, cái gì là pháp số một? Chính là pháp sám hối của Kim Cang Tát Đỏa. Pháp sám hối Kim Cang Tát Đỏa nằm ở Bách tự minh chú của ngài, Bách tự minh chú có ba ý nghĩa cơ bản ở trong đó.
Một, thanh tịnh. Ý nghĩa thứ nhất là thanh tịnh. Bách tự minh chú cho rằng tất cả đều là thanh tịnh, tự tính đều là thanh tịnh. Bạn chỉ cần niệm Bách tự minh chú thì tất cả ô uế đều chuyển hóa thành thanh tịnh. Đây là đạo lý gì?
Bởi vì Bách tự minh chú chính là Không, Không dùng cái gì để đại diện cho nó? Dùng "trời xanh không mây" để đại diện. Cảnh giới giống như trời xanh không mây, bất kì vật gì ở trong bầu trời xanh không mây đều sẽ hóa thành vô hình, đều là thanh tịnh.
Hai, tự tính chân như. Ý nghĩa thứ hai là tự tính chân như, cũng tức là khi bạn niệm Bách tự minh chú tương đương với đang niệm chân như, đang niệm chân lý.
Tự tính của bạn không những là thanh tịnh, tự tính của bạn còn chính là Phật. Phật tức là thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh, toàn bộ đều thanh tịnh. Bạn sẽ giống như chuyển hóa toàn bộ nghiệp của bản thân mình thành thanh tịnh.
Ba, tự tính quảng đại. Ý nghĩa thứ ba là tự tính quảng đại, quảng đại vô biên. Gọi là Phật tức là quảng đại vô biên, là ở khắp mọi nơi, hơn nữa còn là rộng lớn vô biên. Lớn mà không có ngoài, nhỏ mà không có trong, chính là ý nghĩa vô cùng vô hạn. Vì là vô cùng vô hạn nên hạt giống nghiệp nhỏ bé ở trong cái vô hạn vô cùng ấy mà hóa thành vô hình.
Cho nên, ý nghĩa chủ yếu nhất của Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú là Không, ngay cả nghiệp của bạn cũng là Không, tức là thân nghiệp Không, ý nghiệp Không, khẩu nghiệp Không, đều hóa thành pháp sám hối số một thù thắng nhất của Không cảnh.
Bởi vậy, ý nghĩa chủ yếu nhất khi bạn niệm Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú chính là đem toàn bộ nghiệp hóa thành cái Không thanh tịnh, đây chính là ý nghĩa của Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú. Trong Mật giáo, mỗi người đều phải niệm chú ngữ này.
Kim Cang Tát Đỏa chính là giáo chủ của Mật giáo
Kim Cang Tát Đỏa chính là giáo chủ của Mật giáo, bản thân ngài chính là hóa thân của Ngũ Phật. Tại thế giới Di Đà, vĩ đại nhất chính là hình tượng Bồ Tát do Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện ra. Tại thế giới Hoa Tạng, Bồ Tát vĩ đại nhất hiển hiện ra chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Trong Mật giáo, tại tịnh thổ Mật Nghiêm, tại Úc Minh Thiên, tại Kim Cang Pháp Giới Cung, vị giáo chủ hiển hiện ra chính là Kim Cang Tát Đỏa.
Pháp sám hối Kim Cang Tát Đỏa là pháp sám hối của quả địa
Kim Cang Tát Đỏa trong Mật giáo chính là Pháp Vương Tử của hóa thân của Ngũ Phật. Mật chú của bản thân ngài tương đương với mật chú của Ngũ Phật. Pháp sám hối này chúng ta gọi là pháp sám hối quả địa, tức là bất kể bạn "nhân địa" đã làm ra nghiệp chướng thế nào, hôm nay dùng chú của "quả địa" để niệm, thì sẽ hóa tất cả nghiệp thành Không, nên được gọi là pháp sám hối quả địa, trong Mật giáo pháp này rất đặc thù, sức mạnh rất lớn.
Vì thế trong Mật giáo, bạn trì 100.000 biến Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú để làm nền móng kim cang, tiêu trừ hết tất cả nghiệp chướng quá khứ. Khi tâm ấn của bạn và tâm ấn của Kim Cang Tát Đỏa hoàn toàn nhất trí thì sẽ hiển hiện tính Không, Phật tính sẽ có thể hiển hiện ra. Đây là pháp sám hối rất thù thắng của Mật giáo, vì thế nó là pháp sám hối số một.
Om mani padme hum.
Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát thông mọi pháp
Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát vô cùng quan trọng, pháp Thượng sư tương ứng cũng cực kì quan trọng. Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, bạn chỉ cần tương ứng với Kim Cang Tâm Bồ Tát thì pháp Thượng sư tương ứng cũng sẽ nhanh chóng có thể tương ứng. Bất kì một pháp nào vào lúc đó cũng đều sẽ rất dễ tương ứng.
Tương ứng pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, pháp khác cũng sẽ dễ tương ứng
Liên quan đến việc tu pháp, thâm nhập từng pháp là đúng, đừng nghe thấy người khác tu cái gì thì lại theo họ tu cái đó. Vì thế, khi tu pháp tương ứng này, bạn hãy tu Kim Cang Tâm trước, chỉ cần bạn tương ứng với Kim Cang Tâm rồi, khi ấy hễ bắt đầu tu pháp Thượng sư tương ứng thì sẽ rất nhanh chóng tương ứng, bởi vì bản thân Thượng sư cũng là Kim Cương Trì.
Kim Cang Tát Đỏa là Kim Cương Trì thứ sáu
Kim Cang Tâm, tôi từng nói rồi, Kim Cang Tâm, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tát Đỏa, ba vị hợp lại là cùng một vị, tên gọi khác nhau mà thôi.
Trên Kim Cang Tát Đỏa là Ngũ Phật, trên Ngũ Phật chính là Bản Sơ Phật - tức A Đạt Nhĩ Mã Phật. A Đạt Nhĩ Mã Phật là Kim Cương Tổng Trì, Ngũ Phương Phật là Ngũ Kim Cương Trì, Kim Cang Tát Đỏa là Kim Cương Trì thứ sáu, Căn bản Thượng sư chính là hóa thân của Kim Cương Trì.
Bạn chỉ cần tương ứng với pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát của Tứ gia hành thì tương đương với đã tương ứng với Kim Cang Tát Đỏa rồi. Tương ứng Kim Cang Tát Đỏa rồi thì Sư Tôn ở dưới Kim Cang Tát Đỏa - pháp Thượng sư tương ứng, bạn cũng rất dễ dàng tương ứng được.
Bởi bạn đã tương ứng với Ngũ Phật rồi thì bạn cũng rất dễ tương ứng với Kim Cương Tổng Trì - Bản Sơ Phật, tức là A Đạt Nhĩ Mã Phật tối cao. Vì thế, Kim Cang Tâm Bồ Tát là đại pháp chân chính chính là ở đây.
Kim Cang Tát Đỏa
Kim Cang Tát Đỏa là Bổn tôn tịch tĩnh một mặt hai tay, tay phải cầm chày kim cang đặt ở tim, tay trái cầm chuông kim cang đặt ở eo, chuông đại diện cho trí huệ, chày đại diện cho phương tiện, Kim Cang Tát Đỏa tay cầm chuông chày tượng trưng cho nhất vị nhất nhất thể của trí huệ và phương tiện.
"Viên mãn báo sức" là chỉ mười ba vật trang sức mà Báo thân Phật có. Năm loại y phục bằng lụa mỏng là: dải băng nhỏ (từ mũ miện treo ở phía sau), băng đai, thượng y (màu trắng không tay), váy (màu đỏ), thắt lưng. Tám loại trang sức châu báu là: mũ Ngũ Phật, khuyên tai, vòng cổ, vòng cổ dài vừa phải, vòng cổ dài hẳn xuống, vòng cánh tay, vòng cổ tay, vòng chân.
Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát thông mọi pháp
Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú vô cùng quan trọng, Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú tương đương với Phật tính, mọi người cần hiểu rõ. Vì thế, tôi thường xuyên nói: "Pháp Tứ gia hành là đại pháp, không phải là pháp phổ thông."
Có rất nhiều người quy y xong thì họ nhảy qua, tu thẳng pháp Bổn tôn, tu pháp Thượng sư tương ứng, họ không biết pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát thông mọi pháp, rất quan trọng.
~ Trích Tuyển tập khai thị của Lư Thắng Ngạn "Tâm Sự Cùng Bạn (tập 7)"
13. Nghi quỹ pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát
Mở đầu
1. Thắp hương. Tụng hương tán
2. Niệm văn cầu thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật gia trì.
3. Quán tưởng truyền thừa Chân Phật Tông, niệm:
Nam mô Đại Nhật Như Lai. Nam mô Phật Nhãn Phật Mẫu. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Liên Sinh Hoạt Phật.
Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật trụ đỉnh, phóng quang gia trì.
4. Tụng Liên Hoa Đồng Tử tâm chú:
Ôm a hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lián-shâng sit-đi hùm. (x7)
5. Quán tứ vô lượng tâm:
Quán tưởng bên trái của hành giả là những người thân phụ hệ, bên tay phải là những người thân mẫu hệ, sau lưng có ân nhân, sư trưởng, bạn bè thân hữu, trước mặt có oan thân trái chủ, xung quanh có lục đạo chúng sinh, tất cả cùng tu Mật pháp, cùng thành tựu Phật đạo.
6. Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.
A. Tiền hành
1. Nhập đàn, niệm chú thanh tịnh và an thổ địa chân ngôn
Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An thổ địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.
2. Niệm chú triệu thỉnh
Ôm ah hùm sô-ha. (x3) Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Kim Cang Tâm Bồ Tát. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Cá nhân tùy theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp được thờ cúng tại đàn thành của mình mà lần lượt niệm danh hiệu phụng thỉnh.)
Nam mô đại ân Chân Phật Tông lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô tam tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế thánh hiền tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa. Thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
3. Quán tưởng đại lễ bái
Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn tháp Phật. Ôm ah hùm.
Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn hoa sen. Ôm ah hùm.
Ba: bái Hộ Pháp Kim Cang - kết thủ ấn chắp tay kim cang. Ôm ah hùm.
Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng.
4. Đại cúng dường
Kết ấn cúng dường. Quán tưởng cúng phẩm biến hóa vô lượng vô biên cúng lên toàn bộ pháp giới.
Đọc bài kệ cúng dường:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kỳ diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-yê-mi. Ôm ah hùm.
5. Tứ quy y và quán tưởng quán đảnh
Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.
Niệm chú tứ quy y: Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê. (x3)
6. Mặc giáp hộ thân
Kết thủ ấn chắp tay kim cang, đặt thủ ấn trước trán.
Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (x7)
Dùng thủ ấn chạm vào 5 vị trí và niệm: trán (ôm), họng (ah), tim (hùm), vai trái (sô), vai phải (ha). Thủ ấn trở về thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng ánh sáng xanh lam bao trùm xung quanh hành giả, bốn vị Kim Cang Thủ Bồ Tát đứng bốn phía bảo vệ hành giả.
7. Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh
Phụng thỉnh bát đại Bồ Tát Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.
Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là vô đẳng đẳng chú.
Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ thất Phật. Vị lai hiền kiếp thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.
Niệm danh hiệu Phật sáu phương Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyệt Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.
Hết thảy chúng sinh trung ương, chư vị trong Phật giới, trú ngụ trên mặt đất, cho đến tại không trung, thương lo cho tất cả chúng sinh. Ai cũng an ổn tốt lành. Ngày đêm tu trì. Tâm thường cầu tụng kinh này. Diệt được khổ sinh tử. Tiêu trừ hết độc hại.
Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.
Tụng bản kinh không ngừng. Thất Phật Thế Tôn. Liền nói chú sau: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-lô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-ki-a-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha” (x7)
Mười phương Quan Thế Âm. Hết thảy chư Bồ Tát. Đã thề cứu chúng sinh. Xướng danh tất giải thoát.
Nếu gặp người trí tuệ. Ân cần mà giảng nói. Lại có đủ nhân duyên. Đọc tụng không ngơi nghỉ. Tụng kinh tròn nghìn biến. Niệm niệm tâm không dừng. Gặp lửa cháy chẳng sao. Việc đao binh cũng thoát. Nóng giận thành vui vẻ. Chết rồi hóa sống vui. Đừng nghĩ rằng không đúng. Chư Phật chẳng nói chơi. Cao Vương Quan Thế Âm. Cứu được hết khổ nạn. Lúc khó khăn nguy cấp. Người chết còn thành sống. Chư Phật chẳng nói đùa. Vì vậy nên đảnh lễ. Niệm tụng trọn nghìn lần. Tội nặng đều tiêu diệt. Người có phúc tín tâm. Hãy chuyên tâm đọc tụng.
Nguyện mang công đức này. Gửi tới hết chúng sinh. Tụng tròn một nghìn biến. Tội nặng đều tiêu diệt.
Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh (Hết)!
Niệm thêm chú vãng sinh: (x7)
Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.
8. Đọc bài kệ Tứ vô lượng tâm
Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, là từ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là bi vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, là hỉ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng, là xả vô lượng.
Đọc văn phát bồ đề tâm: Đệ tử Liên Hoa ……. kể từ khi quy y Căn bản Thượng sư, Tam Bảo, hướng thẳng đến bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Mọi điều thiện lớn nhỏ đều hồi hướng cho chúng sinh mau chóng thành Phật đạo.
Niệm phát bồ đề tâm chân ngôn: Ôm bô-đi-chi-ta ben-za sa-ma-ya ah hùm. (x3)
Đọc bài kệ sám hối:
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều vì vô thủy tham sân si
Đều sinh ra từ thân ngữ ý
Nay con hết thảy xin sám hối. (x3)
Niệm chú sám hối: Ôm ben-za sa-ma-ya su-tô ah. (x108)
9. Niệm Căn bản Thượng sư tâm chú
Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (x108)
B. Chính hành
1. Kết ấn: Tay phải nắm lại, hướng vào trong, ngón cái đè lên ngón trỏ. Tay trái nắm lại, hướng ra ngoài, ngón trỏ đè lên ngón cái. Đặt thủ ấn trước ngực.
2. Quán tưởng
Đầu tiên quán Không, niệm chú quán Không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)
(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một nguyệt luân từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa nguyệt luân có một chủng tự chữ Hum (tiếng Phạn/Tạng) màu trắng phóng ra ánh sáng trắng.
(2) Chữ Hum ở giữa nguyệt luân xoay tròn hóa thành Kim Cang Tâm Bồ Tát. Bồ Tát thân màu trắng, đội mũ Ngũ Phật, thiên y váy xếp, đủ loại bảo vật trang sức cho toàn thân ngài, ngồi trên hoa sen tám cánh trong nguyệt luân, tay phải kết ấn phẫn nộ cầm chày kim cương đặt tại vị trí tim, tay trái kết ấn phẫn nộ cầm chuông kim cương đặt trên đùi trái. Xung quanh vị trí tim ngài có Bách tự minh chú xoay tròn, vòng thần chú này xoay chuyển và tỏa ra vô lượng ánh sáng trắng.
(3) Lại quán tưởng ánh sáng trắng này bay thẳng lên không trung thành vòng cung, từ đỉnh đầu của hành giả Mật tông dội xuống toàn thân. Toàn thân hành giả Mật tông cũng xuất hiện ánh sáng chói lọi, ác nghiệp ác niệm toàn thân hóa thành khí đen thoát ra từ các lỗ chân lông trên toàn thân, thế rồi toàn thân hành giả trong suốt quang minh, đắc đại thiền lạc.
3. Quán tưởng chuỗi hạt. Tụng Bách tự minh chú: Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya. Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha. Chư-chô mê-pa-wa. Su-tô ka-yô mê-pa-wa. Su-pô ka-yô mê-pa-wa. A-nu-ra-tô mê-pa-wa. Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha. Sa-wa ka-ma su-cha-mê. Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm. Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân. Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha /Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya. Sa-tô ah hùm pây. (x21 hoặc x49) Khi tụng chú tay lần chuỗi hạt.
4. Cửu tiết Phật phong
5. Nhập ngã Ngã nhập
Quán tưởng Kim Cang Tâm Bồ Tát hóa thành một điểm ánh sáng trắng nhỏ, đi vào đỉnh đầu của hành giả, theo trung mạch ngồi trên đài sen trong tim hành giả, sau đó phóng lớn bằng với thân thể hành giả. (Hai thân hợp nhất, hành giả chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát, Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là hành giả, không hai không khác.)
6. Nhập định. Thân tâm thanh tịnh tự tại, nhập vào Tam ma địa của Bổn tôn Kim Cang Tâm Bồ Tát.
C. Hậu hành
1. Xuất định
2. Trì thêm những tâm chú khác
Ôm a-mi-tê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm pẩn-la-múa lin-thô-lin sô-ha. (Địa Tạng Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (tâm chú Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thí sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-yê sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm. (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-hây sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật) Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (x3)
3. Hồi hướng
Liên Sinh Hoạt Phật truyền thụ đại mật pháp. Kim Cang Tát Đỏa biến hóa Kim Cang Tâm. Cả hai dung hợp đích thực đại tương ứng. Tội chướng tiêu trừ chân chính đắc thanh tịnh.
Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.
Đệ tử Liên Hoa …….. xin đem công đức này hồi hướng. (Tự đọc lời hồi hướng, cầu nguyện của mình.) Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!
4. Tụng bách tự minh chú
Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya. Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha. Chư-chô mê-pa-wa. Su-tô ka-yô mê-pa-wa. Su-pô ka-yô mê-pa-wa. A-nu-ra-tô mê-pa-wa. Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha. Sa-wa ka-ma su-cha-mê. Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm. Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân. Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha /Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya. Sa-tô ah hùm pây. (x3)
5. Đại lễ bái Phật
6. Niệm chú viên mãn
Ôm bu-lin. (x3) Ôm ma-ni pê-mi hùm.
Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.
Học tập tinh thần của Kim Cang Tát Đỏa
Chúng ta tu Kim Cương thừa, nghĩa là bản thân sự tu tập của bạn là bất hoại, không đổi màu, luôn sở hữu năng lực lớn nhất, có thể làm chủ sinh tử, có thể đoạn trừ phiền não, có thể vãng sinh tịnh thổ, có thể tức thân thành Phật. Đây chính là Kim Cang Tát Đỏa, còn gọi là Kim Cang Bồ Tát.
Học tập tinh thần Kim Cang Tát Đỏa cái gọi là Kim Cang là bất biến hình. Bản thân Kim Cang của Ngài, bởi vì bản thân Ngài bất hoại, nên không biến dạng. Kim cương cũng không đổi màu, màu vàng ròng vĩnh viễn không thay đổi. Hôm nay Sư Tôn có thể nói như thế này, hôm nay chúng ta tu Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Tát Đỏa cũng là hạng mục cuối cùng trong Tứ gia hành - Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, là tu thành tâm của chính bản thân hành giả, giống như Kim Cang Tát Đỏa vậy, Ngài tuyệt đối không đổi màu, cũng không biến dạng, vĩnh viễn bất hoại.
Hôm nay chúng ta học theo Kim Cang Tát Đỏa, không biến dạng, không đổi màu, dù gặp bất kì hoàn cảnh nào, dù là thuận duyên gia trì hay nghịch duyên gia trì, tâm đạo của bạn vẫn mãi bất hoại. Khi tâm đạo của bạn bất hoại, đó chính là tâm kim cương; khi tu hành sinh ra pháp lực, đó chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát; khi tâm bạn thành Phật, thành tựu rồi, đó chính là Kim Cang Tâm Bồ Tát; khi bạn truyền pháp độ chúng sinh, đó chính là Kim Cang Tát Đỏa.
Mỗi hành giả Mật giáo chúng ta, có thể nói rằng, đều quy y Kim Cang Tát Đỏa. "Quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, quy y Kim cương Thượng sư", tất cả đều quy y nơi Kim Cang Tát Đỏa.
~ Liên Sinh Hoạt Phật
(Hết.)