📑

Thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú

Thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp! Đồng môn quy y Chân Phật Tông xin quán đảnh pháp sẽ được trì tụng.

Chú ngữ:

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ nhất:

Tan-chi-tha. Fu-lu-ơ-nu-la-thi. Tu-hu-tu-hu, yê-pa-su-li-yu. A-pua-pua-sa-ti. Yê-pa-chan-ta-lua. Tan-cha li-hưa-lan. Chuy-lu sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ hai:

Tan-chi-tha. Uân-ru. Li-chư-li-chư-li. Uân-ru-lua-ru-lua. Nam-san-pô-san-pô. Uân-ru-li hu-lu-hu-lu. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ ba:

Tan-chi-tha. Tan-chai-chi pan-chai-chi. Chia-la-chi. Cao-la-chi. Chi-âu-li tan-chi-li. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ tư:

Tan-chi-tha. Sư-li-sư-li. Thua-ơ-ơ thua-ơ-ơ. Thua-li-thua-li-ơ. Sư-li-sư-li-ơ. Pi-sưa-lua pua-sư-pua-sư-na. Ban-thua-ơ-ti. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ năm:

Tan-chi-tha. Ha-li-ha-li-ơ. Chưa-li-chưa-li-ơ chia-la-mua. Ơ-sâng-chia-la-mua. Ơ. San-bua-san-ơ chan-pa-ơ xi-tan bua-ơ mua-han-ơ. Suây-yen pu-pi. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ sáu:

Tan-chi-tha. Pi-tu-li pi-tu-li. Mua-li-ơ ca-li-ca-li. Pi-tu-han-ti. Lu-lu-lu-lu. Chu-lu-chu-lu. Tu-lu-bua tu-lu-bua. Sưa-sưa-sưa-chưa bua-li-sa. Sô. Xi-ti-sa-bua-sa-tua-nan. Xi-tien-du. Man-tan-lua tu-thua-ơ. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ bảy:

Tan-chi-tha. Sao-ha. Sao-ha-lu. Sao-ha sao-ha sao-ha-lu. Pây-lu pây-lu lu-chư. A-mi-li-tô hu-han-ơ. Bua-li-san-ơ. Pây-lu-tu-chi bua-lu-fa-ti. Pây-thi-sư-chư. Bin-thua pây-li-ơ. A-mi-li ti-chi. Pao-hu-chu-uy. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ tám:

Tan-chi-tha. Sư-li-sư-li sư-li-ơ. Mi-ti-mi-ti. Chia-li-chia-lia. Xi-lu-xi-lu. Chu-lu-chu-lu. Ban-thua-ni. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ chín:

Tan-chi-tha. Ha-li-chan cha-li-chư. Chuy-lan bua-la-thi. Tu-chư-sư. Pa-cha pa-cha-sư. Sư-li-sư-li. Chia-sư-li-chia. Pi-sư-li. Sa-xi-ti. Sa-bua sa-tua-nan. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ mười:

Tan-chi-tha. Xi-thi. Su-xi-thi. Mua-chưa-ơ mua-cha-ơ. Pi-mu-ti an-mua-li. Pi-mua-li nê-mua-li. Mang-chia-li. Sư-lan-rưa. Chia-pây. Chia-la tan-na chia-pây. San-man-tô pa-chư-li. Sa-bua an-tha sua-tan-ơ. Mua-nai-sư mua-hưa mua-nai-sư. An-pu-ti. An-sư-pu-ti. A-la-sư pi-la-sư. An-chu-ti an-mi-li-ti. A-la-sư. Pi-la-sư. Pa-lan-mi. Pa-lua-can. Mơ-sa. Li-fu-la-ơ fu-la-na. Man-nu-la-ti. Sô-ha.

Liên Sinh Hoạt Phật truyền thụ tâm yếu khẩu quyết

(Trích văn tập 049 - Linh Tiên Kim Cang Đại Pháp.)

Trong cuốn sách “Phục ma bình yêu truyện”, tôi từng giải thích về “Thiên Phật Thiên Ma”, “Thứ Bồ Tát Thiên Ma”, những Thiên Ma này là Thiên Ma hạng nhất, không thể coi thường. Một khi những Thiên Ma này ra oai thì ngay cả Bồ Tát cũng không giữ được thân Bồ Tát. Vì thế, Phật Thích Ca Mâu Ni bèn nói mười loại chú ngữ, để cho những Bồ Tát mới bước vào mười địa trì chú kim cang này dùng để phá ma. Tránh cho những Bồ Tát ở mười địa quả vị này trong một lúc sơ xuất mà ngã lộn nhào, chẳng thành được Bồ Tát lại trở thành bữa điểm tâm trong miệng của Thiên Ma.

Có thể thấy chú kim cang thập địa Bồ Tát này trân quý đến mức nào. Tam ma địa của thập địa Bồ Tát này phân loại như sau:

Địa thứ nhất, diệu bảo Tam ma địa. Địa thứ hai, khả ái lạc Tam ma địa. Địa thứ ba, nan động Tam ma địa. Địa thứ tư, bất thối chuyển Tam ma địa. Địa thứ năm, bảo hoa Tam ma địa. Địa thứ sáu, nhật viên quang diễm Tam ma địa. Địa thứ bảy, nhất thiết nguyện như ý thành tựu Tam ma địa. Địa thứ tám, hiện tiền chứng trụ Tam ma địa. Địa thứ chín, trí tạng Tam ma địa. Địa thứ mười, dũng tấn Tam ma địa.

Mười địa Bồ Tát này là dựa theo việc tu trì pháp môn mà đắc quả vị, tu địa thứ nhất thì dùng Thí ba-la-mật, tu địa thứ hai là Giới ba-la-mật, tu địa thứ ba là Nhẫn ba-la-mật, tu địa thứ tư là Cần ba-la-mật, tu địa thứ năm là Định ba-la-mật, tu địa thứ sáu là Huệ ba-la-mật, tu địa thứ bảy là Phương thiện thắng trí ba-la-mật, tu địa thứ tám là Nguyện ba-la-mật, tu địa thứ chín là Lực ba-la-mật, tu địa thứ mười là Trí ba-la-mật.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ nhất:

Tan-chi-tha. Fu-lu-ơ-nu-la-thi. Tu-hu-tu-hu, yê-pa-su-li-yu. A-pua-pua-sa-ti. Yê-pa-chan-ta-lua. Tan-cha li-hưa-lan. Chuy-lu sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ hai:

Tan-chi-tha. Uân-ru. Li-chư-li-chư-li. Uân-ru-lua-ru-lua. Nam-san-pô-san-pô. Uân-ru-li hu-lu-hu-lu. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ ba:

Tan-chi-tha. Tan-chai-chi pan-chai-chi. Chia-la-chi. Cao-la-chi. Chi-âu-li tan-chi-li. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ tư:

Tan-chi-tha. Sư-li-sư-li. Thua-ơ-ơ thua-ơ-ơ. Thua-li-thua-li-ơ. Sư-li-sư-li-ơ. Pi-sưa-lua pua-sư-pua-sư-na. Ban-thua-ơ-ti. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ năm:

Tan-chi-tha. Ha-li-ha-li-ơ. Chưa-li-chưa-li-ơ chia-la-mua. Ơ-sâng-chia-la-mua. Ơ. San-bua-san-ơ chan-pa-ơ xi-tan bua-ơ mua-han-ơ. Suây-yen pu-pi. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ sáu:

Tan-chi-tha. Pi-tu-li pi-tu-li. Mua-li-ơ ca-li-ca-li. Pi-tu-han-ti. Lu-lu-lu-lu. Chu-lu-chu-lu. Tu-lu-bua tu-lu-bua. Sưa-sưa-sưa-chưa bua-li-sa. Sô. Xi-ti-sa-bua-sa-tua-nan. Xi-tien-du. Man-tan-lua tu-thua-ơ. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ bảy:

Tan-chi-tha. Sao-ha. Sao-ha-lu. Sao-ha sao-ha sao-ha-lu. Pây-lu pây-lu lu-chư. A-mi-li-tô hu-han-ơ. Bua-li-san-ơ. Pây-lu-tu-chi bua-lu-fa-ti. Pây-thi-sư-chư. Bin-thua pây-li-ơ. A-mi-li ti-chi. Pao-hu-chu-uy. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ tám:

Tan-chi-tha. Sư-li-sư-li sư-li-ơ. Mi-ti-mi-ti. Chia-li-chia-lia. Xi-lu-xi-lu. Chu-lu-chu-lu. Ban-thua-ni. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ chín:

Tan-chi-tha. Ha-li-chan cha-li-chư. Chuy-lan bua-la-thi. Tu-chư-sư. Pa-cha pa-cha-sư. Sư-li-sư-li. Chia-sư-li-chia. Pi-sư-li. Sa-xi-ti. Sa-bua sa-tua-nan. Sô-ha.

Chú hộ thân của Bồ Tát địa thứ mười:

Tan-chi-tha. Xi-thi. Su-xi-thi. Mua-chưa-ơ mua-cha-ơ. Pi-mu-ti an-mua-li. Pi-mua-li nê-mua-li. Mang-chia-li. Sư-lan-rưa. Chia-pây. Chia-la tan-na chia-pây. San-man-tô pa-chư-li. Sa-bua an-tha sua-tan-ơ. Mua-nai-sư mua-hưa mua-nai-sư. An-pu-ti. An-sư-pu-ti. A-la-sư pi-la-sư. An-chu-ti an-mi-li-ti. A-la-sư. Pi-la-sư. Pa-lan-mi. Pa-lua-can. Mơ-sa. Li-fu-la-ơ fu-la-na. Man-nu-la-ti. Sô-ha.

Thập địa Bồ Tát kim cang hộ thân chú có phải là người người đều có thể tu trì không? Thật ra không phải là ai ai cũng có thể tu trì, là hành giả ở quả vị thập địa Bồ Tát mới tu trì. Thập địa Bồ Tát này có mười kim cang chú mới có thể tu để lánh xa năm nạn, năm nạn này là ác thú ăn thịt, ác quỷ bức hại, oán tặc làm hại, tai nạn nước lửa, tai nạn bất ngờ. Từ đó mới có thể đắc tâm bất thối, không thối chuyển, nếu thập địa Bồ Tát chưa tu đại kim cang hộ thân chú này thì cũng đồng nghĩa với muốn gặp ma nạn.

Ngoài ra, đại Bồ Tát hộ thân kim cang chú này là dành cho hành giả ở thập địa Bồ Tát tu trì, chú âm của kim cang chú này là phát âm theo tiếng Quốc ngữ, là tiếng Quốc ngữ ghi lại âm tiếng Phạn để phát âm, cho nên kiểu ngữ âm này không chắc đã là rất chính xác, chỉ là rất gần tương tự như thế. Âm gần giống, nếu mà những người có giọng địa phương khác mà phát âm thì sẽ càng ngày càng sai, cho nên tất cả chú âm phải lấy âm mà Thượng sư truyền thụ để làm chuẩn, âm mà Thượng sư truyền dạy mới có công đức, nếu chưa được nghe truyền dạy mà dựa theo sách để niệm thì không có công đức. Điểm này cực kì quan trọng, và là hành giả Mật giáo thì nhất định phải quy y, quán đảnh, chưa quy y quán đảnh mà tu Mật pháp thì là trộm pháp, không có thầy mà đọc sách tự học thì rất dễ sai lầm mà không tự biết.

Theo như tôi biết, thập địa Bồ Tát hộ thân chú này có năm ý nghĩa lớn:

Thứ nhất, ý của câu chú rất sâu — mười câu chú này có ý nghĩa sâu không thể đo lường, chú ngữ vốn dĩ chính là có ý nghĩa không thể suy đoán, và thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú này lại càng không thể suy đoán. Như hôm nay có rất nhiều người đến thăm dò đạo hạnh của Lư Thắng Ngạn tôi, thật ra tôi cũng là người không thể đoán biết. Có một số pháp sư đạo trưởng có suy đoán thì cũng chỉ là đoán được lông tóc của tôi, chỉ là bề ngoài của tôi mà thôi. Nếu độc giả đọc tiếp tục đọc sách của tôi thì dần dần sẽ càng ngày càng thâm nhập, càng ngày càng không thể đoán, không thể biết.

Thứ hai, chú như tự tính — thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú này chính là Đại thủ ấn của thập địa Bồ Tát, nói ngắn gọn chính là thanh tịnh toàn bộ tự tính và phát quang, mười câu chú này chính là tự tính, tự tính là thể, thể chính là tự tính, không hai không khác.

Thứ ba, nội chứng đắc lực — thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú chính là vô phân biệt trí, vì vô phân biệt trí cho nên mới có thể khế nhập đắc nội chứng, đây cũng chính là lý lẽ nội chứng thậm thâm.

Thứ tư, nương dựa rất sâu — mười chú ngữ này là do hằng hà sa số chư Phật tuyên thuyết, nói là hằng hà sa số chư Phật tức là vô lượng chư Phật. Chú này là Phật Thích Ca Mâu Ni nói, nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni còn nói rằng chú ngữ này là hằng hà sa số chư Phật đã nói, cho nên sự nương dựa của nó là sâu nhất, vì thế được gọi là vô lượng môn, có thể phá núi kim cang.

Thứ năm, pháp lực vô thượng — ở đây tức là chỉ vô dư vô trụ, vô hướng vô không hữu, cho đến khi sinh diệt.

Tôi biết rằng muốn hiểu và giải thích được đại trí huệ của Phật pháp này phải tu con mắt thứ ba, bởi vì có con mắt thứ ba mới có thể viên mãn, mới có thể bình đẳng kiến. Người đắc được con mắt thứ ba mới xem là không có tạp tư tạp huệ, mới xem là đã giải thoát đường sinh tử. Ngày nay tôi viết sách đã dần dần nói đến Vô thượng mật rồi, Vô thượng mật này mới là đại bồ đề. Nếu hôm nay tôi không viết ra thì thiên hạ người nào sẽ viết ra. Những người đắc chứng thành Phật bình thường trước nay luôn luôn là bí mật, đắc được Phật nhãn (con mắt thứ ba), xem chúng sinh đều bình đẳng thì đó là Phật, cho nên tôi mới bằng lòng nói ra!

Thập địa Bồ Tát tuy có nhân thanh tịnh, cũng có quả thanh tịnh, nhưng ma chướng thì không hoàn toàn trừ hết, vẫn không xem là thanh tịnh nhất. Giờ đây tôi tuyên thuyết thập địa Bồ Tát hộ thân kim cang chú, đó là lợi ích trời người. Phẩm hạnh nhân từ này, mưa pháp ngập tràn nhân gian và thiên giới, khiến trời người đều có được lợi ích lớn.