📗

212. Hồ sơ cơ mật của Lư Thắng Ngạn

image

Hồ sơ cơ mật của Lư Thắng Ngạn

Văn tập số: 212 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Hồ sơ ra đời Có một mẩu truyện cười như sau: Tiểu Minh nghe có người nói, người lớn thường có bí mật không thể nói cho người khác biết, thế là Tiểu Minh nảy ra một kế. Tiểu Minh nói với mẹ rằng: "Mẹ! Con biết bí mật của mẹ, con đã biết hết mọi chuyện rồi." Mẹ rất lo lắng, bảo Tiểu Minh: "Mẹ cho con 100 đồng, con tuyệt đối không được nói cho người nào biết chuyện này đấy nhé." Thế là Tiểu Minh đã có một món hời.

Tiểu Minh đợi bố đi làm về, liền bảo với bố: "Bố! Con biết bí mật của bố, con đã biết hết mọi chuyện rồi." Bố cũng rất lo lắng, bảo Tiểu Minh: "Bố cho con 200 đồng, con tuyệt đối không được đem bí mật này nói ra ngoài đấy!" Tiểu Minh có được 300 đồng, cực kì sung sướng.

Lúc này, người đưa thư đến, Tiểu Minh nói với người đưa thư: "Chú đưa thư ơi! Chú đưa thư ơi! Cháu biết bí mật của chú rồi, cháu đã biết hết mọi chuyện rồi." Người đưa thư trong một thoáng vô cùng kích động, dang hai tay ra nói: "A! Tiểu Minh, cuối cùng con đã biết rồi, mau lại đây, để bố ôm con một cái nào!"

🌟

Tôi sinh vào giờ Ngọ, ngày 27 tháng 6 năm 1945 (giờ Ngọ ngày 18 tháng 5 âm lịch). Địa điểm là ở Hậu Hồ, huyện Gia Nghĩa, Đài Loan. (Tại một trại nuôi gà bên bờ suối Ngưu Trù.) Sự ra đời của tôi vốn dĩ giống như một câu đố. Khi tôi ra đời, toàn thân tôi được bọc trong tơ trắng (như thiên y màu trắng). Người đỡ đẻ đã phải dùng dung môi ra sức chà, ra sức kì cọ, mới có thể rửa sạch hết lớp màng tơ trắng trên người tôi. Khi tôi ra đời, trên người quấn thiên y bằng tơ trắng, những người có mặt ở đó đều không thể giải thích được. Người đỡ đẻ nói: "Trước nay chưa hề thấy có ai sinh ra mà toàn thân lại quấn đầy tơ trắng như vậy, đứa bé này đặc biệt phi phàm."

Nghe nói: Từ xưa đến nay, khi các bậc đại thánh đại hiền xuất thế đều có những hiện tượng kì lạ đặc biệt, đều phi phàm đáng chú ý. Có ánh sáng đỏ tỏa ra từ căn phòng. Có mùi thơm lan tỏa khắp phòng. Khi Phật Đà ra đời, phu nhân Maya mơ thấy voi trắng sáu ngà nhập vào bào thai. Thánh nhân Lão Tử của Trung Quốc khi ra đời tóc đã bạc trắng, trông đã già lắm rồi, do vậy mới gọi là Lão Tử. Có người mơ thấy rồng bay vào bụng, từ đó mà mang thai. Có người mơ thấy Quan Âm ban tặng con, từ đó mà mang thai.

🌟

Khi tôi ra đời, toàn thân được quấn trong thiên y màu trắng, đây chính là một hồ sơ cơ mật vô cùng kì lạ đặc biệt. Bố tôi Lư Nhĩ Thuận. Mẹ tôi Lư Ngọc Nữ. Còn có cả dì Hoàng Tuyết Hoa đã nuôi dưỡng tôi mấy năm. Có người kể lại một cách sinh động như thật rằng: "Sự ra đời của tôi là có điều cơ mật!" Tôi tự cảm thấy sự ra đời của tôi rất kì lạ đặc biệt. Tôi là một đứa trẻ sinh non, những điều khác thì vẫn là một câu đố khó hiểu. (Cuốn sách này hứa hẹn nhiều điều bất ngờ và tuyệt vời.)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Hồ sơ "Tôi là ai"

Khi mới có được thiên nhãn, tôi đã xuất nguyên thần, du thiên du địa, những cảnh tượng mà tôi đã nhìn thấy giống như huyễn cảnh vũ trụ. Điều tôi nhận thức được đầu tiên là: Liên Hoa Đồng Tử. Có một thanh âm bảo với tôi rằng: "Ngài chính là Liên Hoa Đồng Tử!" Sau đó, tôi đã xác nhận được rằng mình chính là Liên Hoa Đồng Tử không còn nghi ngờ gì.

Tôi đích thân gặp Liên Hoa Đồng Tử. (Tự mình nhìn thấy chính mình.) Tôi đích thân nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử tịnh thổ (Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ). Về điểm này, hoàn toàn không có nghi ngờ gì. Bởi vì chính bản thân tôi đã nhìn thấy.

Bởi vậy, nguồn gốc của tôi là: Đại Nhật Như Lai --- Phật Nhãn Phật Mẫu --- A Di Đà Phật --- Liên Hoa Đồng Tử --- Lư Thắng Ngạn. Tôi có phải là một vị thành tựu tái sinh không? Đáp án là: đương nhiên rồi.

🌟

Sau khi Phật Đà nhập diệt, các vị tổ sư Mật giáo theo thứ tự là: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. (Sinh ra sau khi Phật nhập diệt.) Long Thọ Bồ Tát. (500 năm đầu tiên sau khi Phật nhập diệt.) Virupa. (500 năm thứ hai sau khi Phật nhập diệt.) Naropa. (500 năm thứ ba sau khi Phật nhập diệt.) Tsongkhapa. (500 năm thứ tư sau khi Phật nhập diệt.) Phật Đà nhập diệt cho đến nay tổng cộng đã hơn 2500 năm, 500 năm lần thứ năm này xuất hiện ai sinh ra? Là ai? Là ai? Là ai? Là ai? Là ai?

Sau khi Tsongkhapa nhập diệt, giáo chủ của Hoàng giáo qua nhiều thế hệ với danh hiệu Ganden Tripa chính là tượng trưng cho sự tại thế của Tsongkhapa. Đã truyền đến 100 thế hệ rồi. Vị Ganden Tripa thứ 100 đích thân đến Seattle Lôi Tạng Tự ở Mỹ tặng tôi một tấm áo bào Pháp Vương. Vào tháng 9 năm 1996, tôi và ngài Ganden Tripa đã cùng lên bục làm đại pháp hội, đây là một sự trùng hợp lớn. Có người nói: "Lư Thắng Ngạn chính là Tsongkhapa chuyển thế." Tin đồn này gây xôn xao.

Lại có người nói: "Lư Thắng Ngạn chính là Xá Lợi Phất chuyển thế, bởi vì trên người Lư Thắng Ngạn có chủng tự bát nhã của Xá Lợi Phất. Đương thời là một vị Phật mới giống Xá Lợi Phất nhất." Chứng cứ: Bổn tôn của Lư Thắng Ngạn là A Di Đà Phật. Phật Đà thuyết kinh A Di Đà là nói cho Xá Lợi Phất nghe. Xá Lợi Phất được thọ kí thành Phật là Hoa Quang Phật. Lư Thắng Ngạn được thọ kí thành Phật là Hoa Quang Tự Tại Phật. Sự việc này, Thượng sư Thubten Dorjie của tôi từ đầu đã xác nhận cho tôi rồi.

Ngoài ra còn có những lời lan truyền như: Lư Thắng Ngạn còn là vua của một triều đại nọ. Lư Thắng Ngạn là Không Hải đại sư. Lư Thắng Ngạn là Lục Tổ Huệ Năng. Lư Thắng Ngạn là Sư Tử Phấn Tấn Như Lai. ...

Thường xuyên có những lời đồn kiểu này, thậm chí có người nói thẳng ra. Rinpoche Tây Tạng cũng nói Lư Thắng Ngạn là tái sinh của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Tóm lại, lời truyền gì cũng có cả.

Hồ sơ bí mật "Tôi là ai" tồn tại trong hư không vô thượng xứ. Nếu như đạt đến cảnh giới tu hành đủ thì chỉ cần mở ra là lập tức sẽ hiểu Lư Thắng Ngạn rốt cục là ai.

02. Hồ sơ Pháp thân Phật

Chúng ta biết rằng có mười địa Bồ Tát:

  1. Hoan hỉ địa.
  2. Ly cấu địa.
  3. Phát quang địa.
  4. Diễm huệ địa.
  5. Cực nan thắng địa.
  6. Hiện tiền địa.
  7. Viễn hành địa.
  8. Bất động địa.
  9. Thiện huệ địa.
  10. Pháp vân địa. (Theo kinh Hoa Nghiêm.)

Đến được địa thứ 11 thì coi như là Phật rồi. Ví dụ như Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có 11 khuôn mặt, tượng trưng cho 11 địa, tương đương với Phật.

Tôi nói: A Súc Như Lai, A Di Đà Như Lai, Bảo Sinh Như Lai, Bất Không Thành Tựu Như Lai là các vị Phật ở địa thứ 12. Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Đại Nhật Như Lai) là vị Phật ở địa thứ 13. Còn Phật ở địa thứ 14? Còn Phật ở địa thứ 15? Bản Sơ Phật (A Đạt Nhĩ Mã Phật) "Đa Kiệt Khương" là Phật ở địa thứ 16. Cá nhân tôi biết vị Phật ở địa thứ 14, 15.

Nhân đây, tôi xin hỏi mọi người: "Có ai biết tên húy của Phật ở địa thứ 14, 15 không, xin nói lên thử xem!"

🌟

Chúng ta biết rằng: Thích Ca Mâu Ni Phật là Ứng thân Phật. Lô Xá Na Phật là Báo thân Phật. Tỳ Lô Giá Na Phật là Pháp thân Phật. Ba thân này cũng là một thân, một thân cũng là ba thân. Ba là một, một là ba.

Chúng ta biết rằng: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là Ứng thân Phật. A Di Đà Phật Liên Hoa Đồng Tử là Báo thân Phật. Đại Nhật Như Lai là Pháp thân Phật. Thế nhưng mọi người có biết hồ sơ bí mật của Pháp thân Phật không? Pháp thân Phật có bí mật gì?

Đối với pháp thân cũng có rất nhiều lời chú thích: Duy thức luận: Tự tính tức là pháp thân, dựa theo đại công đức pháp. Phật địa luận: Dựa theo các loại công đức ví dụ như Lực vô úy cũng gọi là pháp thân. Duy Ma kinh: Phật dựa vào tất cả các pháp công đức mà thành, do vậy gọi là pháp thân. Khởi tín luận: Theo nguồn gốc từ trước tới nay, tự tính viên mãn đầy đủ hết thảy công đức tức là tự bản thể đó có đại trí huệ quang minh nghĩa. Thanh tịnh, thường lạc, tự tại, bất tư nghì, Như Lai tạng, gọi là pháp thân. Pháp Hoa kinh: Lấy chính pháp làm thân, gọi là pháp thân. Vãng sinh luận: Người thực tướng vô tướng, chân trí vô tri, vô vi pháp, tức là pháp thân. ...

Trên đây đều là những giải thích về Pháp thân Phật. Cảm giác của tôi là nói mà cũng như không nói.

🌟

Dưới gốc cây Bồ Đề, điều mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã ngộ ra chính là điều này. Lư Thắng Ngạn tôi minh tâm kiến tính, những gì tôi hiểu thấu cũng chính là điều này. Pháp thân là một bí mật lớn.

Đối với Pháp thân Phật từ địa thứ 13 trở lên, nếu bạn có thể hiểu biết được thì cũng có nghĩa là đã tìm ra được đại bí mật rồi đó.

Phật Thích Ca Mâu Ni nhón cành hoa. Tổ Sư Đạt Ma quay mặt vào tường. Lư Thắng Ngạn kim kê độc lập. Điều tôi muốn nói với mọi người là: "Hồ sơ Pháp thân Phật quả thực khó hiểu một cách không thể tưởng tượng nổi. Bạn sẽ giật bắn mình khi biết rằng điều này chẳng có liên quan gì đến tu hành cả."

03. Hồ sơ Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ

Chúng ta biết rằng có vô số các Phật quốc tịnh thổ. Bình thường chúng ta gọi là thập phương tịnh thổ, có nghĩa là đông tây nam bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới, tổng cộng là mười phương.

Ngoài ra còn có 13 đại tịnh thổ, đó là: Viễn Chiếu Phật Quốc, Bảo Tạng Phật Quốc, Vô Lượng Nhân Phật Quốc, Cam Lộ Vị Phật Quốc, Long Thắng Phật Quốc, Thắng Lực Phật Quốc, Sư Tử Phật Quốc, Ly Quang Cấu Phật Quốc, Đức Thủ Phật Quốc, Diệu Đức Tiên Phật Quốc, Nhân Vương Phật Quốc, Vô Thượng Hoa Phật Quốc, Vô Úy Phật Quốc. Cộng thêm Thích Ca Phật Quốc nữa thì sẽ có 14 đại tịnh thổ.

Chân Phật Kinh lưu xuất từ tâm tôi có Tối Thắng Tịnh Thổ, Diệu Bảo Tịnh Thổ, Viên Châu Tịnh Thổ, Vô Ưu Tịnh Thổ, Tịnh Trú Tịnh Thổ, Pháp Ý Tịnh Thổ, Mãn Nguyệt Tịnh Thổ, Diệu Hỉ Tịnh Thổ, Diệu Viên Tịnh Thổ, Hoa Tạng Tịnh Thổ, Chân Như Tịnh Thổ, Viên Thông Tịnh Thổ. Tổng cộng là 12 đại tịnh thổ. Thật sự là có quá nhiều Phật quốc tịnh thổ.

Trong "Phật thuyết A Di Đà kinh" có nói: "Từ phương tây đi qua một nghìn tỉ Phật thổ thì có một cõi gọi là Cực Lạc." Cái gọi là một nghìn tỉ Phật thổ cũng có nghĩa là Phật quốc tịnh thổ là vô lượng vô biên.

🌟

Bởi vậy, tì kheo Hoa Tạng sau khi thành đạo, dùng pháp lực thần hành, chu du khắp thập phương Phật quốc tịnh thổ. Tì kheo Hoa Tạng đã tập hợp những ưu điểm của thập phương Phật quốc tịnh thổ để tạo nên một cõi tịnh thổ siêu việt thù thắng, có tiếng tăm lẫy lừng là: "Cực Lạc Thế Giới". Cõi tịnh thổ này không ai là không từng nghe, không ai là không biết, là cõi tịnh thổ số một trong số các tịnh thổ.

Tuy nhiên, không ai biết rằng cõi tịnh thổ này là do linh cảm nào sáng tạo biến hóa ra. Điều cơ mật này chỉ có tôi bổ sung một cách tóm lược như thế này: Nói về tì kheo Hoa Tạng (tiền thân của A Di Đà Phật) đã gặp được Phật Nhãn Phật Mẫu. Phật Nhãn Phật Mẫu là đẳng lưu thân (minh phi) của Đại Nhật Như Lai, vẻ đẹp của Ngài là tuyệt sắc tuyệt đỉnh.

Và rồi: Đôi mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành Ma Ha Song Liên Trì, bát công đức thủy. Lông mày của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành cây quý, lan can, lưới võng và bốn loại vật báu bao lấy bốn xung quanh. Mũi của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành lầu các với bảy loại trang sức châu báu trang nghiêm, là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, hồng ngọc, mã não. Mặt của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành hoa sen, hoa sen xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa sen vàng tỏa ánh sáng vàng, hoa sen đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ánh sáng trắng, hương thơm vi diệu. Miệng của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành các loại chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh, hát lên âm thanh hòa nhã. Hơi thở của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành khúc nhạc trời. Tai của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành gió mát lành. Trời trút xuống những cơn mưa hoa mandala. Răng của Phật Nhãn Phật Mẫu --- hóa thành thất trân bát bảo, trang nghiêm tô điểm cho cõi tịnh thổ.

Tất cả là do tì kheo Hoa Tạng đã nhờ vào khuôn mặt của Phật Nhãn Phật Mẫu mà biến hóa ra Cực Lạc Phật quốc tịnh thổ.

Và thế là: Hành giả Chân Phật khi vãng sinh đều đến Ma Ha Song Liên Trì. Tịnh thổ này chính là do đôi mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu hóa hiện ra. Hoa sen trong hồ là từ khuôn mặt của Phật Nhãn Phật Mẫu hóa hiện ra, những bông hoa lớn như bánh xe, tỏa ra hương thơm tinh khiết vi diệu. Các vị Liên Hoa Đồng Tử đều cầm hoa sen, đứng trên những tòa hoa sen.

Liên Hoa Đồng Tử. A Di Đà Phật. (Tì kheo Hoa Tạng) Phật Nhãn Phật Mẫu. Đại Nhật Như Lai. Đó là vận mệnh không thể tách rời!

04. Hồ sơ Ấn Thuận đạo sư

Ấn Thuận đạo sư là vị sư phụ đầu tiên mà tôi quy y. Người giới thiệu tôi quy y là cư sĩ Lý Bỉnh Nam (lão Tuyết Lư).

Tôi và đạo sư chỉ sống cách nhau có một bức tường. (Tịnh xá Hoa Vũ) Tuy vậy, tình cảm giữa tôi và đạo sư rất rắc rối phức tạp. Có thể nói là một lời khó nói hết!

Tôi biết rằng: Tình cảm giữa Ấn Thuận đạo sư và sư công Thái Hư đại sư cũng rất loằng ngoằng rắc rối. Hai người họ thường bất đồng ý kiến. Tình cảm giữa Ấn Thuận đạo sư và sư huynh Pháp Tôn cũng rất loằng ngoằng rắc rối. Họ càng ngày càng xa cách. Tình cảm giữa Ấn Thuận đạo sư và pháp sư Từ Hàng của phái Viên Anh cũng rất loằng ngoằng rắc rối. Họ vu cáo lẫn nhau. Tình cảm giữa Ấn Thuận đạo sư và cư sĩ Lý Bỉnh Nam cũng rất loằng ngoằng rắc rối. Mẫu thuẫn giữa Tam luận tông và Tịnh độ tông. Ấn Thuận đạo sư và Hùng Thập Lực tranh biện về duy thức, tình cảm giữa hai người rất loằng ngoằng rắc rối. ...

Từ những điều này mà tôi rút ra được, yêu và hận đều xuất phát từ một thứ tình cảm giống nhau. (Tình cảm này không phải là chỉ tình yêu.)

🌟

Ban đầu, Ấn Thuận đạo sư đã nhận tôi là đệ tử của ông ấy. Đạo sư xem tôi như là đệ tử ruột. Nhưng sau này thì đã thay đổi. Đạo sư phủ nhận tôi là đệ tử của ông ấy, cuối cùng đã viết một cuốn sách tiêu đề là: "Tôi và Lư Thắng Ngạn". Nguyên nhân nằm ở đâu? Thôi cũng chẳng nhắc đến nữa! Bởi vì nói ra thì dài dòng, một lời khó mà nói cho hết.

Tôi tin rằng khi Ấn Thuận đạo sư viết cuốn sách "Tôi và Lư Thắng Ngạn", trong lòng nhất định cũng tràn đầy tình cảm buồn thương. Biểu hiện ra là sự oán ghét, nhưng sâu trong lòng thì vẫn là sự từ bi và yêu thương. Những lời đã nói ra thì rất tuyệt tình, nhưng sâu trong ánh mắt ấy thì ai có thể biết được đây?

Trong cuốn sách "Tôi và Lư Thắng Ngạn", tôi có thể hiểu được sự oán giận biểu hiện ra bên ngoài. Nếu đạo sư không coi trọng tôi thì hà tất phải viết cuốn sách "Tôi và Lư Thắng Ngạn" làm gì. Có thể thấy là trong lòng của ông ấy vẫn có một Lư Thắng Ngạn. Giờ đây, tôi mới hiểu là thầy quan tâm đến tôi, không phải là không thèm chú ý đến tôi, mà thật sự đã coi trọng người đệ tử nhỏ bé này.

Giữa chúng tôi có nhiều điều giống nhau. Ánh mắt của Ấn Thuận đạo sư mang đầy sự chỉ trích sâu sắc và cũng tràn đầy bi thương. Trong lòng tôi cũng vậy, khi tôi quở trách đệ tử của mình, miệng thì nói lời tuyệt tình, nhưng trong lòng thì tràn đầy bi thương. Ánh mắt của hai người giống hệt như nhau.

Các cao tăng đại đức trong giới Phật giáo đã có rất nhiều sự khẳng định về địa vị học thuật của Ấn Thuận đạo sư. Tuy nhiên ... Tôi đã đi trên con đường của riêng mình. Hơn nữa càng đi càng xa. Ở nơi sâu thẳm trong nội tâm tôi, tôi vẫn tràn đầy tình yêu cung kính đối với Ấn Thuận đạo sư, người sư phụ đầu tiên mà tôi quy y.

Dù vậy, tôi thích cách của riêng mình! Tôi cho rằng Ấn Thuận đạo sư rất tài ba! Đồng thời tôi cũng cho rằng bản thân tôi cũng rất tài ba!

Tôi tin rằng, khi Ấn Thuận đạo sư hạ bút chỉ trích tôi, nội tâm của ông cũng đầy mâu thuẫn, rắc rối phức tạp, bi thương, trong một chốc một lát nhất thời không kịp thu hồi lại, chẳng vì lý do đặc biệt nào đã liền hạ bút rồi. Tôi có thể hiểu và thông cảm. Tôi vẫn cung kính Ấn Thuận đạo sư, hơn nữa tôi cũng khó mà quên được. Từ đầu tới cuối tôi vẫn tin rằng: yêu và ghét xuất phát từ tình cảm tương đồng ở sâu trong tâm hồn của chúng ta.

05. Hồ sơ Liễu Minh Hòa Thượng

Vị sư phụ Mật giáo đầu tiên mà tôi quy y là Liễu Minh hòa thượng. Tôi thích pháp hiệu của ông ấy vì nó có ý nghĩa là dứt bỏ hết tất cả. Ông ấy là người Tứ Xuyên, họ Trương, theo quân đội mà đến Đài Loan, đổi tên thành Thanh Chân đạo trưởng, nhưng ông nguyên là Liễu Minh hòa thượng. Vì sao lại vừa Đạo vừa Phật? Câu trả lời là để che mắt người khác, vì trong cuộc khủng bố trắng năm đó, các hòa thượng theo quân đội đến Đài Loan đều bị điều tra. Ông ấy ẩn cư tại núi Tập Tập.

Liễu Minh hòa thượng xuất thân từ núi Thanh Thành Tứ Xuyên, từng học Đạo pháp, về sau xuất gia, có nhân duyên lớn với Norlha Rinpoche, người đã vượt sông vào Trung Nguyên hoằng pháp.

Các pháp Mật giáo của Thượng sư Norlha đều lần lượt được truyền thừa cho Liễu Minh hòa thượng. Liễu Minh hòa thượng cũng dạy lại cho Thượng sư Norlha về phong thủy, phù lục, thần toán, v.v… Hai người vừa là thầy vừa là bạn bè.

Theo tôi được biết: Vào những năm đầu Dân Quốc, sư phụ đã gây chấn động khắp Trung Quốc. Lê Nguyên Hồng, Viên Thế Khải đều phong ông làm quân sư. Sư phụ bất hòa với với những người chức cao quyền quý, cuối cùng đã tự mình rút đi ở ẩn, bởi vì ông đã nhìn thấy tim hùng gan báo của bọn họ.

Liễu Minh hòa thượng có tiếng tăm lớn như vậy, nhưng vì sao lại không tìm được những tư liệu về ông ấy? Liễu Minh hòa thượng nói: Ở nhân gian này, có một cuốn sách từng ghi chép về ông, đó là cuốn "Kim lăng xuân mộng", do Đường Nhân trước tác, trong đó có đề cập đến tất cả về Liễu Minh hòa thượng. (Mọi người có thể tìm đọc.)

🌟

Liễu Minh hòa thượng xem tôi là đệ tử tâm phúc duy nhất. Ông đã truyền dạy Đạo, Hiển, Mật cho tôi. Thu hoạch lớn nhất của tôi là những lời ông nói: "Sau này xuất đạo cứu người, không được mở miệng đòi tiền của người khác, hãy nhớ kĩ! Nhớ kĩ!" "Không được lập mưu để đạt được mục đích, nhằm lừa tiền của người khác, phải nhớ kĩ! Nhớ kĩ!" "Không được quy định số tiền, tất cả phải do người ta phát tâm, mọi người tự động tặng cho con thì con mới được nhận." "Thờ ơ với danh lợi, đừng ham vinh hoa phú quý." "Không được dựa thế ô dù." (Những lời này tôi vĩnh viễn khắc ghi trong tâm, không dám quên, chúng đã trở thành những nguyên tắc làm người trong cuộc đời của tôi.)

Ngoài ra còn một câu nói đã đem lại cho tôi rất nhiều lợi ích và những sự chỉ bảo. Liễu Minh hòa thượng nói: "Con đắc đạo, minh tâm kiến tính, tu chứng thành Phật, phải tránh tai mắt người ta, nếu không con sẽ không bảo toàn được tính mạng. Do vậy, cách thứ nhất là lập tức nhập niết bàn. Cách thứ hai là ẩn cư. Cách thứ ba là giả làm kẻ điên, để người khác không nhìn ra." Liễu Minh hòa thượng nói: "Con hãy cao chạy xa bay đi!"

🌟

Liễu Minh hòa thượng khiến tôi vô cùng tôn kính. Ông ấy là một vị cao tăng cô lập, kì lạ và huyền bí, tuy vậy ông đã luôn bảo trì sự thanh sạch, thấu triệt, tĩnh mịch tách xa khỏi thế sự. Tuy rằng với sự uyên bác và tài hoa hơn người của ông, bạn sẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng ông lại sống ở trong một hang núi hoang vu, nghèo nàn và khô cằn.

Điều này mà so sánh với Phật điện tôn giáo của đương kim "Tứ đại sơn đầu" thì sẽ khiến người ta cười phá lên mất.

Trong giới Phật giáo, rất ít người biết đến Liễu Minh hòa thượng. Ông ấy là một nhân vật kì ảo, nhưng lại là một vị cao tăng đắc đạo. Liễu Minh hòa thượng là một ẩn số, là một câu đố vĩnh viễn không thể giải được!

06. Hồ sơ Bạch Không Hành Mẫu

Tôi tu luyện pháp Vô lậu đạt được thành tựu lớn, ở đây là nói đến "bạch bồ đề" của nhục thân không rò rỉ, và đã lậu tận tất cả những phiền não vô hình.

Bạch bồ đề vô lậu, cũng giống như một cái hồ chứa nước ngăn đập được đóng chặt các cửa xả nước lại, một giọt nước cũng không thể lọt qua được. Những bạch bồ đề này chỉ được dùng vào việc tưới tắm cho ba mạch bảy luân xa của thân thể chính mình, khiến chúng thông suốt không còn trở ngại mà phóng tỏa đại quang minh.

Còn phiền não lậu tận là chỉ sự khai ngộ minh tâm kiến tính. Một khi đã khai ngộ thì: Hiểu rõ phiền não. Buông bỏ phiền não. Phiền não là hư không.

🌟

Tôi tu luyện pháp Vô lậu, đương nhiên là dựa theo khẩu quyết vô lậu, tát già lục thế biến, giáng đề trì tán, kĩ xảo, kim cang quyền, nâng minh điểm bay đến núi Tu Di. Trong việc này, tôi cần phải cảm tạ Bạch Không Hành Mẫu.

Tôi nằm trên giường, dùng một chữ Phạn "Hum" hóa thành hoa sen, ở chính giữa hoa sen là bánh xe nhật nguyệt, ở giữa bánh xe nhật nguyệt là một chữ "Seh", tôi kết ấn triệu thỉnh.

Kết quả là, không ngờ Bạch Không Hành Mẫu lại hạ giáng. Ngài ấy có tất cả mọi đặc điểm của Không Hành Mẫu, toàn thân màu trắng, trên mặt có ba con mắt, mỗi lòng bàn tay có một con mắt, mỗi lòng bàn chân có một con mắt, tổng cộng là có bảy con mắt, thân người mềm mại, duyên dáng uyển chuyển phi thường.

Sau khi từ không trung hạ giáng xuống, lưỡi của ngài ngậm một viên hồng đơn, tôi nuốt viên hồng đơn vào người thì chính tôi biến thành giống như kim cang. Lúc này, bông hoa sen nở từ từ khép cánh lại, trở thành một bông hoa sen chưa nở. Tất cả quỷ thần đều không hay biết.

Tôi niệm: "Cúng dường tứ phương thủ hộ Không Hành Mẫu, cúng dường bát phương thủ hộ Không Hành Mẫu, cúng dường hai mươi Thiên Thiên Mẫu." Và như vậy, tôi đã tu chứng được pháp Vô lậu. Chứng đắc đại lạc. Chứng đắc quang minh. Dục vọng về đại lạc của nhục thân không còn nữa, ngược lại đó là sự tăng trưởng vô tận đại lạc của khí thông mạch, minh điểm thông mạch, hóa ra phong mạch quang minh vô tận.

Nhờ có pháp Vô lậu mà tôi tu chứng tiếp đến pháp minh điểm, trong sự "giáng đề trì tán" thì: Phóng quang vô tận. Người đã giúp tôi đạt được thành tựu chính là: Bạch Không Hành Mẫu tôn quý. Viên hồng đơn trên lưỡi của Ngài là báu vật trong thiên hạ. Sự song vận trong bông hoa sen khép cánh chưa nở là: Bí mật, bí mật, bí mật, bí mật.

Tôi có thể tu chứng pháp Vô lậu, pháp Chuyết hỏa, pháp Minh điểm, đều nhờ vào sự giúp đỡ của Bạch Không Hành Mẫu. Đại ân không lời nào có thể cảm tạ cho hết. Một câu "cảm ơn" xem như đủ vậy! (Lời cảm ơn hàm chứa vô tận ý nghĩa.)

Bạch Không Hành Mẫu là vị minh phi trí huệ trong hư không mà tôi tôn kính nhất. Bạch Không Hành Mẫu là Phật Bồ Tát. Bốn phía xung quanh Ngài là ánh sáng và hương thơm trang nghiêm. Khi đến - một làn hương. Khi đi - một làn hương. Sự sung sướng cực lạc vô thượng đó căn bản là không có cách nào hình dung được. Tôi đã viết ra toàn bộ bí mật lớn của sự tu hành này, việc này là có một không hai, cảnh ngộ này chỉ có trong thần thoại, trong thế gian này là cực kì hiếm có đó! Việc này quả thực là vô cùng ảo diệu!

07. Hồ sơ Bấm ngón tay thần toán

Tôi có thể bấm ngón tay thần toán. Rất nhiều người hỏi tôi việc bấm ngón tay thần toán này là như thế nào? Câu trả lời của tôi là: Ý thức cao nhất của vũ trụ thông qua đầu ngón tay của bạn khiến chúng tự động duỗi cong, chấm ra một dạng kí hiệu (mật mã), và do bạn hiểu được cách giải mã nên tất cả mọi việc trong thiên hạ bạn đều nắm trong lòng bàn tay.

Tu luyện cái này thế nào? Tôi nói: Điều kiện cần đầu tiên là bạn phải tương ứng được với Bổn tôn.

Pháp tương ứng của Mật giáo dạy chúng ta rằng: Thân là thân của Bổn tôn. Khẩu là khẩu của Bổn tôn. Ý là ý của Bổn tôn. Vẫn là thân kết thủ ấn, khẩu tụng chân ngôn, ý quán tưởng Bổn tôn.

Ăn --- ăn cúng phẩm của Bổn tôn. Mặc --- mặc sắc y của Bổn tôn. Ở --- quán đàn thành của Bổn tôn. Làm --- hành giả tức là Bổn tôn. Chúng ta biết rằng đây chính là pháp Hợp thể, tu đến khi tương ứng rồi thì Bổn tôn chính là bạn, bạn chính là Bổn tôn, là một không hai, hoàn toàn không còn phân biệt.

🌟

Lúc này, bản thân hành giả sẽ luôn luôn cảm ứng thấy Bổn tôn vĩnh viễn ở cùng với mình. Cùng ăn. Cùng ngủ. Đêm đêm cùng ngủ, sáng sáng cùng dậy. Cảm ứng này là vô cùng chân thực. Bổn tôn chỉ thị cho hành giả các loại kí hiệu (mật mã), hành giả sẽ cảm ứng được mật mã của Bổn tôn. Những mật mã này, hành giả sẽ ghi vào trong tâm, lâu dần sẽ càng sáng tỏ ý của Bổn tôn, lúc này tự nhiên có thể giải mã được tất cả mật mã.

Hành giả tu luyện đến trình độ này thì sẽ sản sinh ra năng lực thần thông, và việc bấm ngón tay thần toán chỉ là một trong số đó mà thôi.

🌟

Xòe rộng bàn tay ra. Khi thông linh, đầu ngón tay sẽ tự động gập duỗi, dáng vẻ giống như kim đồng hồ bị giật trái phải trên dưới như khi có động đất. Hành giả hỏi chuyện gì thì ngón cái sẽ tự động chạm vào ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út, ngón út. (Đây chính là kí hiệu bí mật.)

Bí mật này biểu thị: Thành - Bại - Tốt - Xấu - May - Rủi. Mấy phần thành công, mấy phần thất bại, mấy phần tốt, mấy phần xấu, cái may đem đến cái rủi, cái rủi đem đến cái may, may trước rủi sau, rủi trước may sau… (Mức độ linh nghiệm có cao có thấp. Nếu là linh cấp cao thì mọi việc trong thiên hạ không có gì là không biết. Nếu là linh cấp thấp thì cũng biết được sự việc trong đời sống thường ngày, cũng có thể đoán được về mưa gió sấm sét, cũng có một số việc linh nghiệm không thể hiểu được.)

Việc bấm ngón tay thần toán của tôi là số một trong thiên hạ. Bởi vì Bổn tôn của tôi là Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Bồ Tát, họ là Tiên Vương, Phật Vương, Địa Vương. Tôi hiểu mật mã, không biết mọi người có hiểu được không?

08. Hồ sơ Tinh quang thân

Tôi đã từng chỉ trong một buổi tối mà nhập vào trong mơ của rất nhiều đệ tử. Các đệ tử đều vô cùng kinh ngạc, vị nào mới là Lư Sư Tôn? Đệ tử hỏi: "Thân ngoài hóa thân là như thế nào?" Đệ tử hỏi: "Làm sao có thể một người ở Ma Ha Song Liên Trì, một người ở địa ngục A Tì làm pháp hội, hơn nữa ở nhân gian lại còn có một Lư Sư Tôn, vậy đâu mới là thật?" Đệ tử hỏi: "Huyễn thân tu như thế nào? Chỉ có một huyễn thân phải không? Hay là có thể có rất nhiều huyễn thân?"

Tôi trả lời: Tu pháp huyễn thân như sau: Hành giả Mật giáo, khi tu pháp Minh điểm, bạch bồ đề đi xuống (chữ Hum), hồng bồ đề đi lên (chữ Ah), kết hợp lại ở tâm luân ở giữa trung mạch. Do tác dụng của việc đốt cháy các giọt minh điểm này mà khiến tâm luân mở ra, xuất hiện Phật tính màu xanh lam của chính mình. Phật tính kết hợp với minh điểm thì thành huyễn thân. (Huyễn thân này có thể gọi là nguyên thần của bản thân.)

Huyễn thân này hình thành ở giữa tâm của trung mạch, rất rõ ràng rành rọt, là một Liên Hoa Đồng Tử trăm phần trăm. Huyễn thân có thể thoát ra từ lỗ đỉnh đầu để thần hành, cao tới Tứ thánh giới, thấp tới Lục phàm giới, Thập pháp giới đều có thể đến. Khi nhục thân của chúng ta chết đi, huyễn thân liền có thể thường trụ ở tịnh thổ, nhậm vận tự tại. Đây chính là thành tựu của huyễn thân.

🌟

Có thể có một huyễn thân, cũng có thể có rất nhiều huyễn thân. Bạn có thể tu xuất ra được một huyễn thân chủ, rồi lại tu xuất ra vô số huyễn thân phụ, những huyễn thân phụ này và sao trên trời kết hợp với nhau sẽ thành Tinh quang thân [ ND: thân ánh sao ]. Tinh quang thân có thể có rất rất nhiều.

Điều này cũng giống như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kí, dứt ra bao nhiêu cái lông, thổi một hơi khí thì sẽ biến thành bấy nhiêu Tôn Ngộ Không. (Thân thật thì chỉ có một, các thân khác đều là thân thay thế.) (Huyễn thân chủ là nguyên thần, huyễn thân phụ là tinh quang thân.)

Huyễn thân chủ --- Phật tính xanh lam và minh điểm hợp thể. Huyễn thân phụ --- Tinh quang và minh điểm hợp thể. Đây chính là hiện tượng thân ngoài hóa thân.

Hành giả chúng ta tu xuất được hết tinh quang thân này đến tinh quang thân khác, có thể đến được Thập pháp giới và toàn thế giới để đi cứu độ chúng sinh. Kì lạ thay! Một hóa mười, mười hóa trăm, trăm hóa nghìn, nghìn hóa vạn, bất khả tư nghì, rất khó tưởng tượng nổi.

🌟

Có một lần. Tinh quang thân của tôi và đám Hắc thiên sứ đụng độ nhau, tạo nên một cuộc chiến tranh vô hình. Tôi bị tổn thất mất 50 tinh quang thân mới tiêu diệt được hết Hắc thiên sứ. Nguyên thần của tôi cũng bị tiêu hao lớn. Tôi phải tu lại để xuất thêm 50 tinh quang thân, những tinh quang thân này chính là thế thân Liên Hoa Đồng Tử do huyễn thân của tôi hóa ra.

Tôi vốn có: Nhục thân Liên Hoa Đồng Tử Lư Thắng Ngạn. Huyễn thân chủ Phật tính Liên Hoa Đồng Tử. Huyễn thân phụ Tinh quang Liên Hoa Đồng Tử. (Tinh quang thân là vô lượng vô biên.)

Tôi nói như vậy, người bình thường không có cách nào có thể tưởng tượng được. Nhưng trong kinh Phật có nói đến, một tức là nhiều, nhiều tức là một, chính là đạo lý này. Mọi người có hiểu không?

09. Hồ sơ Khai ngộ

Khi còn nhỏ, tôi từng ngẫm nghĩ: Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi sinh ra trên thế gian này để làm gì?

Sau khi học Phật, tôi từng suy nghĩ: Phật Thích Ca Mâu Ni dưới gốc cây bồ đề đã khai ngộ thành Phật, rốt cục là Ngài ấy ngộ được cái gì? Mà mới có thể khai ngộ thành Phật?

Tôi đã đi Ấn Độ, hành hương lễ bái tám đại thánh địa của Phật Đà, đã nhìn thấy rất nhiều hành giả đang ngồi suy tưởng dưới gốc cây bồ đề. Họ đương nhiên cũng muốn khai ngộ thành Phật. Đối với việc khai ngộ. Tôi dùng ý thức mà mình tri giác được để làm sáng tỏ chân như không tri giác được, tôi cứ nghĩ mãi, cứ suy tưởng mãi.

Là cái này chăng, rồi lại phủ định. Là cái kia chăng, rồi lại phủ định. Là cái ấy chăng, rồi lại phủ định. Là cái nọ chăng, rồi lại phủ định. Là không, là vô, vì sao là không, vì sao là vô, rồi lại phủ định. Thật? Giả? Không? Hữu? Vô? Trung? Tôi lại phủ định toàn bộ, toàn bộ đều không đúng.

Về sau: Tôi đã khai ngộ rồi! Bởi vì chỉ có "cái Đó" mới có thể làm sáng tỏ chân lý của toàn vũ trụ. Bởi vì chỉ có "cái Đó" mới có thể ấn chứng đệ nhất nghĩa, thì ra tất cả đều là phương tiện. Còn "cái Đó" là đại bát nhã. Là vô đẳng đẳng chú. Là vô thượng chính đẳng chính giác.

Đắc được "cái Đó" có thể ấn chứng mọi Phật điển, tất cả đều rõ ràng rành mạch, hiểu thấu thông suốt. Tôi đã khai ngộ rồi! Tôi là Phật Đà!

Tôi dựa vào "cái Đó" để ấn chứng vô sở đắc, vô sở trụ, vô sở vị. Tôi dựa vào "cái Đó" để ấn chứng Không. Tôi dựa vào "cái Đó" để ấn chứng Hữu. Tôi dựa vào "cái Đó" để ấn chứng hành giả đã khai ngộ hay chưa, rất rõ ràng rành rọt, vô cùng thấu triệt. Cuộc đời này của tôi vậy là có giá trị rồi!

🌟

Tôi thích cuộc đối thoại giữa hòa thượng Kim Luân và tăng nhân: Tăng nhân hỏi: "Thế nào là đệ nhất câu?" Hòa thượng Kim Luân đáp: "Đốn!" Tăng nhân hỏi: "Thế nào là một mũi tên?" Hòa thượng Kim Luân đáp: "Quá!" Tăng nhân hỏi: "Một mũi tên bay đến, ai là người chặn nó?" Hòa thượng Kim Luân đáp: "Lộn nhào!"

Tôi nói: Tôi là người khai ngộ, có thể lập tức hiểu được đệ nhất nghĩa trong lời của hòa thượng Kim Luân. Tuy nhiên, nếu như bạn vẫn chưa đạt đến khai ngộ thì bạn vẫn chỉ là "hòa thượng trượng hai chẳng chạm được tới não" thôi. [ ND: ở đây có nghĩa là, khi chưa khai ngộ thì nghe những lời nói trên sẽ chẳng thể hiểu được nghĩa là như thế nào. ]

Ba câu hỏi đáp này, ai có thể giải thích được? Xin thử trả lời xem, tôi sẽ ấn chứng cho.

@@c010 010 Hồ sơ Như Lai Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Như là chân như, cũng có nghĩa là theo con đường chân như mà đến tam giới rủ lòng thương xót mà cảm hóa, đây chính là ý nghĩa gốc của Như Lai.

Trong kinh điển nói như sau: "Trí độ luận" --- dường như thật sự có đến, vì thế gọi là Như Lai. "Chuyển pháp luân luận" --- Niết bàn gọi là Như, biết cách để nhận biết gọi là Lai, vì thế gọi là Như Lai. "Thắng man bảo quật" --- các vị Như Lai dường như có đến, cũng là chư Phật đến, vì thế gọi là Như Lai.

Trái ngược với Như Lai là Như Khứ. Như Khứ cũng là một biệt danh khác của Như Lai. Cũng có nghĩa là chư Phật của quá khứ dường như từ chỗ sinh tử mà đi đến niết bàn. Như Khứ là từ địa vị phàm phu tu hành thành bậc Chính Giác. Như Khứ là tính chất an lạc mãi cho đến lúc niết bàn.

Tôi giải thích hai chữ Như Lai có chút khác biệt: Chữ "Như" cũng có nghĩa là giống. Rất giống có đến, tức là Như Lai. Rất giống có đi, tức là Như Khứ. Như Lai Như Khứ - là giống như có đến, giống như có đi.

Do vậy: Như Lai Như Khứ chính là "dường như có đến có đi", kì thực căn bản là không có đến đi, cũng có nghĩa là không đến không đi, chẳng đến chẳng đi. (Đây chính là đệ nhất nghĩa.) Tôi cho rằng: "Chẳng đến chẳng đi" chính là đệ nhất nghĩa. Vì sao chẳng đến chẳng đi? Xin mời các đệ tử đã hiểu thông suốt bắn thử một mũi tên xem sao!

🌟

Núi Đại Long ở Đỉnh Châu, có thiền sư Trí Hồng. Tăng nhân hỏi thiền sư Trí Hồng: "Thế nào là Phật?" Thiền sư Trí Hồng đáp: "Chính là anh đó."

Tăng nhân hỏi: "Làm sao lĩnh hội được?" Thiền sư Trí Hồng đáp: "Cái bát không tay cầm!" (Như Lai)

Tăng nhân hỏi: "Vi diệu như thế nào?" Thiền sư Trí Hồng đáp: "Gió thổi tiếng nước đến vỗ bờ, trăng đưa bóng núi in lên giường." (Như Khứ)

Tăng nhân hỏi: "Thế nào là cực kì mẫu mực?" Thiền sư Trí Hồng đáp: "Xuân tháng ba trăng chán nản, chẳng sáng bằng thu tháng chín." (Như Lai Như Khứ)

Tăng nhân hỏi: "Sắc thân hư hoại, làm sao để pháp thân được kiên cố?" Thiền sư Trí Hồng đáp: "Hoa núi nở như gấm, suối trong vắt bầu trời." (Vô Lai Vô Khứ)

🌟

Tôi đã thêm vào nội dung "Như Lai", "Như Khứ", "Như Lai Như Khứ", "Vô Lai Vô Khứ" trong dấu ngoặc đơn dưới mỗi mẩu đối thoại giữa thiền sư Trí Hồng và tăng nhân để chú thích. Mọi người tham khảo, tự có thể hiểu được rồi. Nếu như không thêm vào các chú thích này, mọi người sẽ cho rằng thiền sư tiện mồm mà trả lời mà thôi. Trong mười danh hiệu của Phật, tôi cho rằng "Như Lai" là hợp với "huyền chỉ" [ ND: ý chỉ sâu xa ] nhất. Quả thực là quá tuyệt vời!

Hết thảy chư Phật đắc được Tam Miểu Tam Bồ Đề (Chính Giác), Lư Sư Tôn tôi cũng đắc được Tam Miểu Tam Bồ Đề (Chính Giác). Thật sự là thiện tai biết bao!

@@c011 011 Hồ sơ Di cư đến nước Mỹ Ngày trước, tôi sống tại Đài Loan, 19 năm ở Cao Hùng, 19 năm ở Đài Trung. Sau đó, tôi di cư đến Seattle nước Mỹ.

Ngày 16 tháng 6 năm 1982 tôi đã đến nước Mỹ, năm đó tôi 38 tuổi.

Trước khi di cư sang Mỹ:

  1. Tôi thanh danh lẫy lừng, nổi tiếng toàn thế giới là "đệ nhất thần toán".
  2. Mỗi ngày tôi tiếp khoảng 300 vị khách đến từ khắp nơi trên thế giới.
  3. Tất cả mọi khó khăn nghi vấn đều có thể được giải quyết.
  4. Tôi gây chấn động khắp chính phủ và dân chúng.
  5. Tôi được nhận định là người thông linh có năng lực siêu nhiên.
  6. Tôi có thiên nhãn.
  7. Tôi thần hành khắp mười pháp giới.
  8. Vị cao linh sau lưng tôi là Diêu Trì Kim Mẫu.
  9. Tôi tôn sùng Phật giáo Mật thừa.
  10. Tất cả thành tựu của tôi là những bí mật của bí mật, thế nhân rất hiếm người có thể suy đoán được.

🌟

Tôi di cư đến Seattle nước Mỹ là đúng vào lúc tiếng tăm tôi lừng lẫy sáng chói như mặt trời ban trưa. Vì sao vậy? Mọi người đều vô cùng hiếu kì. Trên thực tế, việc di cư đến Seattle nước Mỹ có rất nhiều nhân tố phức tạp rắc rối. Muốn biết rõ nguyên nhân thì tôi phải liệt kê danh sách ra, có lẽ sẽ đưa ra được một số hình dung.

Cán bộ của Cục điều tra - Lâm Chấn Quang. Đồn trưởng của trụ sở Thái Bình - Dư Thủ Tam. Nhân viên bảo vệ - Khâu Thiệu Quần. Hắc đạo - Thái Chính Vi. Thế lực bắt chẹt - Hoa dại. Cỏ dại. Tai tiếng tình dục - Lâm Di Quân. Kinh tế - ??? Tôn giáo - Trần Huệ Kiếm. Vân vân và vân vân.

Bởi vì có những nhân tố này, tôi quyết định di cư ra nước ngoài. Thật ra, di cư sang Mỹ cũng không phải là dễ, không phải là việc dễ dàng. Tất cả việc di cư sang Mỹ đều do hai đệ tử giúp đỡ.

  1. Thượng sư Liên Hỏa - Trần Tước Viên.
  2. Luật sư di trú Hanh Lợi. Chỉ riêng việc chuẩn bị cho di cư cũng đã tốn thời gian 3 năm.

🌟

Lư Sư Tôn, Liên Hương Thượng sư, Lư Phật Thanh, Lư Phật Kì, bốn người, mang theo bốn gói đồ, cứ vậy mà đến nước Mỹ. Cá nhân tôi thời gian qua chịu nhiều khổ nhọc, thế nhưng nghị lực tràn đầy, tinh tấn phi phàm.

Tôi ở Đài Loan. (bắt đầu từ tay trắng) Tôi ở Mỹ. (bắt đầu từ tay trắng)

Ở Mỹ, lần đầu tiên tôi gửi bản thảo đến Tây Hoa Báo, lần đầu tiên kiếm được nhuận bút là bốn đô la Mỹ.

Đồ ăn của chúng tôi là những rau và hoa quả ở siêu thị đã quá hạn phải vứt bỏ. Đồ dùng đều là đồ second-hand [ ND: đồ cũ ]. Thật sự là gian khổ muôn phần.

🌟

Tôi tin lời Diêu Trì Kim Mẫu, Ngài nói một câu rằng: "Hãy đi Mỹ đi!" Thế là tôi đi. Diêu Trì Kim Mẫu chỉ thị cho tôi đi Mỹ, có thể gây dựng tông phái ở tầm thế giới, có thể độ hóa được vô số vô tận chúng sinh, có đệ tử ở khắp nơi trên toàn thế giới, còn sự tu hành của Lư Sư Tôn thì cũng sẽ đạt đến mức độ "vô thượng".

Giờ đây đã chứng minh: tôi đã minh tâm kiến tính, Vô Thượng Chính Giác, quảng lợi quần sinh.

12. Hồ sơ Sắc thái chính trị

Thời đại học, tôi đã học trường Trắc lượng, khoa Đo đạc mặt đất, tốt nghiệp khóa 32. Trường Trắc lượng, Học viện Công binh, Học viện Kĩ thuật Công trình, về sau đã hợp lại thành Học viện Khoa học và Kĩ thuật Trung Chính, sau nữa lại đổi tên thành Đại học Quốc phòng.

Trường Trắc lượng là trường đầu tiên được Bộ giáo dục cho phép cấp văn bằng đại học, cũng là Học viện Quân sự. Hiệu trưởng khi đó là Tưởng Giới Thạch. Sau khi tôi tốt nghiệp trường Trắc lượng, tôi đảm nhiệm chức vụ nhân viên trắc lượng và nhân viên công trình tổng cộng 14 năm. Khi rời quân đội thì tôi mang hàm Thiếu tá.

Sĩ quan khi đó đều là đảng viên của Quốc Dân Đảng, do vậy tôi cũng không phải là ngoại lệ. Ở trong tổ chức, tôi đã đảm nhiệm qua chức vụ trưởng ban, bí thư, ủy viên, cán bộ, lãnh đạo… Sau khi đến Mỹ, tôi hoàn toàn rời bỏ chính trị, hoàn toàn không có sắc thái chính trị nào cả. (Ở Mỹ khoảng 30 năm, tôi chưa từng tham gia vào bất kì hoạt động chính trị nào.) Đảng phí cũng không nộp. Tôi không phải là người theo Đảng Xanh [ ND: Đảng Dân Chủ], sự thật là như vậy.

🌟

Ở Seattle nước Mỹ, những người Đài Loan theo Đảng Dân Tiến màu xanh lục, vẫn được xem là hoạt động sôi nổi. Trong số những người tôi quen biết, từ chủ tịch Đảng Dân Tiến cho đến đảng viên Đảng Dân Tiến đều có. Tôi chưa từng tham dự bất kì hoạt động nào của Đảng Dân Tiến. Bởi tôi không có hứng thú với chính trị. Đối với tu hành, tôi có sức mạnh tinh tấn cực kì lớn. Chân Phật Tông của chúng tôi không tham dự vào chính trị, cũng là điều hơn hẳn các đảng phái khác.

Ở Mỹ, tôi không phải là người theo Đảng Dân Chủ, cũng không phải là người theo Đảng Cộng Hòa. Ở Đài Loan, tôi cũng không phải là người theo Đảng Quốc Dân, cũng không phải là người theo Đảng Dân Tiến. Đối với Đảng Cộng Sản, cả đời này tôi chưa từng tiếp xúc. Do vậy, tôi chẳng phải là: Lam. Lục. Đỏ. (Nếu như phải bầu chọn, tôi cho rằng cần chọn Đảng có đức có năng mới phải.)

🌟

Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng: Chủ nghĩa thế giới đại đồng của Quốc phụ Tôn Trung Sơn, Lễ vận đại đồng thiên của Khổng Phu Tử là chủ nghĩa lý tưởng. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là tương đối ở giữa. Chủ nghĩa dân tộc (chủng tộc) là tương đối thiên lệch.

Tôi lấy Trung Quốc làm ví dụ: Nếu như chủ nghĩa chủng tộc lên ngôi, đề xướng chủ nghĩa chủng tộc thì sẽ có: Tây Tạng độc lập. Tân Cương độc lập. Mông Cổ độc lập. Dân tộc Hồi, Miêu, Việt độc lập. Dân tộc Mân, Mãn, Đài độc lập. Trung Quốc sẽ chỉ còn lại Bắc Kinh và khu vực trung nguyên. (Đây không chỉ là nguồn gốc rối loạn Trung Quốc mà cũng chính là nguồn gốc gây rối loạn giữa các nước trên thế giới.)

Từ lâu tôi đã nhìn ra chủ nghĩa chủng tộc là nguồn gốc rối loạn của thế giới. Nếu như nhân loại không có tư tưởng đại đồng thì chí ít cũng cần phải có tư tưởng quốc gia. Nếu như bất kì tư tưởng chủ nghĩa chủng tộc nào lên ngôi thì quốc gia đó cũng sẽ bùng phát sự đại loạn. Thế giới đại đồng --- những vòng tròn lớn. Chủ nghĩa quốc gia --- những vòng tròn nhỡ. Chủ nghĩa chủng tộc --- những vòng tròn nhỏ.

Tư tưởng triết học chính trị đang thử thách trí tuệ của mỗi một vị lãnh đạo quốc gia. Tôi, một người tu hành. Chưa bao giờ tham gia vào chính trị. Tuy nhiên tôi có cách nhìn của cá nhân tôi. Mọi người nói xem, cách nhìn của tôi có đúng không?

13. Hồ sơ Bát đại tự tại

Năm 2009, Đài Loan có một vị tổng thống tên là Trần Thủy Biển. Khi còn tại nhiệm thì là tổng thống Trần Thủy Biển. Khi hạ nhiệm thì là phạm nhân.

Điều này đem đến cho người đời một sự cảnh giác. Quyền lực địa vị đã đến điểm cao nhất, thế rồi xìu! Xìu! Xìu! Khi trượt một cái thì cũng rơi đến điểm thấp nhất. Khiến người ta thấy mà phát hoảng! Thật đáng sợ! Một người lãnh đạo như vậy để lại cho đời một trò hề, vừa đáng thương vừa đáng cười.

Cá nhân tôi cho rằng: "Pháp nhĩ bản nhiên." Hãy phơi bày toàn bộ nhân thế gian này ra mà xem, có thứ gì không phải là như vậy. Chẳng qua chỉ là vì ông ta là tổng thống nên mọi người mới chú ý mà thôi. Bởi vậy mới nói tu hành vẫn là tốt.

🌟

Cuộc đời này, tôi đã trải qua thời gian tu luyện rất dài, đã chứng đắc được bát đại tự tại:

  1. Một thân của tôi có thể biến hóa thành nhiều thân. Tinh quang thân có ở khắp nơi, đâu đâu cũng tự do tự tại cứu độ chúng sinh.
  2. Các thân của tôi đầy khắp đại thiên thế giới. Tôi có Pháp thân ở vô thượng giới, có Báo thân ở tịnh thổ giới, có Ứng thân ở lục đạo giới, ngay cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng đều có một thân của tôi.
  3. Đại thân của tôi chỉ cần nhấc nhẹ một cái là đã đến được chốn rất xa xôi rồi. Sự thần hành của tôi chỉ trong một niệm là đã đến được chỗ của Phật Đà, một niệm là đến được Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ, một niệm là đến được Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, một niệm là đến được nhân gian, một niệm là đến được địa ngục cứu người.
  4. Pháp thân của tôi chính là Chân Như. Pháp nhĩ bản nhiên tồn tại trong "thường tịch lạc thổ". Tôi tự do biến hóa. Tôi đã từng là lão tổ sư của Mật giáo. Tôi từng là Hoàng đế Quốc vương. Tôi từng là một đại tu hành giả. Tôi từng là đạo sư của thế gian. Thân phận của tôi thay đổi nhiều vô số kể.
  5. Tôi có thể sử dụng được hết mọi căn thức của mình. Có nghĩa là thiên nhãn, thiên nhĩ, túc mệnh, tha tâm, thần túc, lậu tận. Lục đại thần thông này tôi đều biết, nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, tự do tự tại biến hóa và sử dụng, không gì là không biết, không gì là không thể.
  6. Tôi đã đắc được tất cả mọi pháp, dường như không thể tưởng tượng được. Trong tâm trí tôi có vạn loại Phật pháp, thế nhưng tôi đều có thể ứng dụng chúng thành thạo, tự do thoải mái phát huy, bởi vì mọi pháp đều tương thông với nhau, có tất cả mọi pháp cũng tương đương với chẳng có mọi pháp, chính là pháp nhĩ bản nhiên.
  7. Thuyết một bài kệ trải qua vô lượng kiếp. Tôi có thể không cần thuyết pháp, nhưng đã có pháp rồi. Tôi có thể chỉ nói một chữ, chỉ nói một bài kệ, một khi đã nói ra thì đã trở thành những lời vàng của thế gian, trải qua vô lượng kiếp, và cũng rất vững vàng không thể bàn cãi, hoặc tôi chỉ nói hai chữ OO thì cũng là ý nghĩa đệ nhất vô thượng rồi.
  8. Thân của tôi ở khắp mọi nơi, thế nhưng cũng giống như hư không. Nói là có cũng được, nói là không có cũng được, nói là không có và cũng không phải là không có cũng được, nói là Có và Không hòa trộn cũng được. Cảnh giới tự tại của pháp nhĩ bản nhiên này thật sự là bất khả tư nghì.

Không sinh không diệt. Không đứt không thường. Không giống không khác. Không đến không đi.

🌟

Bởi vậy, tôi nói, tôi đã chứng đắc pháp nhĩ bản nhiên. Làm tổng thống, tôi rất vui. Làm tù nhân, tôi cũng vẫn rất vui. Có Chân Phật Tông, tôi rất vui. Không có Chân Phật Tông, tôi cũng vẫn rất vui. Bởi vì tất cả mọi thứ trên đời này, bất kể là biến hóa ra sao, thì vẫn đều là pháp nhĩ bản nhiên.

14. Hồ sơ Nhân quả luân hồi

Có một hôm. A Nan tôn giả nói với Phật Đà: "Cuối cùng con đã hiểu nhân quả rồi!" Phật Đà đưa mắt nhìn A Nan, nói: "Ngài chưa hiểu đâu, ngài chẳng qua chỉ mới hiểu được biểu hiện bên ngoài mà thôi." "Vì sao vậy?" Phật Đà nói: "Nhân quả là vô cùng bất khả tư nghì!"

Lại có một hôm. A Nan tôn giả nói với Phật Đà: "Cuối cùng con đã hiểu luân hồi rồi!" Phật Đà không quay đầu lại, nói: "Ngài chưa hiểu đâu, ngài chỉ biết về biểu hiện bên ngoài của luân hồi mà thôi." "Vì sao vậy?" Phật Đà nói: "Luân hồi là vô cùng bất khả tư nghì!"

A Nan hỏi: "Vậy ai có thể hiểu được nhân quả luân hồi đây?" Phật Đà trả lời: "Trừ Phật ra."

🌟

Phật Thích Ca Mâu Ni trong 500 kiếp đã từng vì nhân quả mà luân hồi làm: Vua của loài hươu. Vua của loài khỉ. Vua của loài voi. Vua của sư tử. Vua của chim công. ...

Trong 500 kiếp, Phật Đà đã luân hồi trong lục đạo, cũng đã vào đạo súc sinh, đạo địa ngục, v.v… Đối với nhân quả ba kiếp, lục đạo luân hồi, Phật Đà thật sự đã hiểu quá rõ ràng. Ngồi dưới gốc cây bồ đề suy tưởng và khai ngộ, Phật Đà đã hoàn toàn hiểu rõ chân đế của nhân quả luân hồi. Do vậy, đối với A Nan tôn giả, Phật Đà cũng không cần phải khách khí mà thẳng thừng bác bỏ lại ngài ấy rằng ngài ấy không hiểu nhân quả, không hiểu luân hồi.

🌟

Những thầy bói gặp ở ngoài đường thường treo bảng hiệu "biết nhân quả luân hồi ba kiếp, luận vận mệnh lành dữ họa phúc." Người nói về nhân quả ba kiếp, sao mà nhiều thế! Trong lòng tôi thấy thật nực cười! Nhân quả là bất khả tư nghì! Luân hồi là bất khả tư nghì, ngay cả đến những vị đại A La Hán cũng không hiểu. Nhân quả luân hồi sâu rộng không thể đo lường, trên đời này có mấy người biết được đây?

Muốn biết nhân hiện tại, Hãy nhìn vào quá khứ. Muốn biết quả tương lai, Xem hiện tại làm gì.

(Nhưng đây cũng vẫn chỉ là biểu hiện bên ngoài.)

🌟

Có người nói: mở ra hồ sơ của nhiều kiếp thì sẽ hiểu hơn về nhân quả luân hồi của nhiều kiếp. Có người nói: cái vỏ kí ức trong bộ não, ở nơi sâu nhất, chỗ sâu sâu nhất, có ghi lại về luân hồi quá khứ, chỉ cần tìm cách lấy ra được thì tất cả sẽ đều rõ ràng rành rọt.

Có người nói: biết năm trăm kiếp trước, biết năm trăm kiếp sau. Có người nói: biết năm trăm năm trước, biết năm trăm năm sau. Có người nói: biết được ba kiếp trước, biết được ba kiếp sau.

Kể từ khi tôi minh tâm kiến tính, tôi mới hiểu được rằng, đây chỉ là những biểu hiện bên ngoài. Bây giờ, tại đây, tôi hỏi các thánh đệ tử, rốt cục cái gì mới là chân tướng của nhân quả luân hồi?

@@c015 015 Hồ sơ Ấn chứng Sau khi minh tâm kiến tính, mọi thứ được mở mang rộng rãi, tôi hoàn toàn hiểu rõ về vũ trụ, trời đất, con người, v.v…

Tu hành tức là dựa vào sự minh tâm kiến tính để tự quan sát thân khẩu ý của hành giả. Đến khi đạt đến tình trạng "vừa vừa đủ" nhất thì tất cả mọi thứ sẽ hợp với minh tâm kiến tính.

Kể từ sau khi minh tâm kiến tính, tôi lại quan sát những người tu hành khác, quan sát thân khẩu ý của người khác, tôi lập tức có thể ấn chứng được những người tu hành này đã khai ngộ hay chưa.

Muốn biết được người tu hành đã khai ngộ hay chưa? Cần quan sát thân, khẩu, ý của hành giả. Thế là xong! Tôi từng quan sát rất nhiều cao tăng, đại đức, cư sĩ, Hoạt Phật, thượng nhân, thượng sư ... Kết quả là, ha ha ha, cười xòa cho qua.

🌟

Có một người tu hành thường xuyên nói đã khai ngộ rồi, đã hiểu thấu tất cả mọi thứ rồi. Tôi hỏi: "Anh đã khai ngộ rồi, thế sao anh vẫn làm cái việc như vậy?" Anh ta đáp: "Việc này không liên quan gì đến khai ngộ cả, Lư Sư Tôn, ngài có hiểu không?" Tôi sững người ra.

Không ngờ anh ta lại chẳng biết rằng, trên đời này, bất kì người, vật, sự việc nào cũng đều có liên quan đến khai ngộ cả. "Tài, sắc, danh, thực, thụy", "tham, sân, si, nghi, mạn", "ghen tuông, đố kị, đau buồn, nóng nảy" đều có liên quan đến khai ngộ đó!

Không ngờ anh ta lại chẳng biết. Có thể thấy, người này hoàn toàn không hề khai ngộ gì cả. Sau khi tôi khai ngộ, tự nhiên có thể ấn chứng được các đệ tử của tôi đã khai ngộ hay chưa. Các thánh đệ tử Chân Phật Tông ngày càng có nhiều người khai ngộ, đây cũng là việc đáng chúc mừng.

Pháp sư Thánh Nghiêm có khai ngộ hay chưa? Dalai Lama có khai ngộ hay chưa? Đại hòa thượng có khai ngộ hay chưa? Đại thượng nhân có khai ngộ hay chưa? Ha ha ha! Cười lớn ba tiếng vậy. Tôi biết, còn bạn có biết không?

🌟

Thiền sư Hoài Sở ở Trúc Can Viện, Bạch Triệu, An Châu. Tăng nhân hỏi thiền sư Hoài Sở: "Thế nào là từng câu đều phải đi theo huyền lộ?" Thiền sư Hoài Sở đáp: "Cứ đi thẳng là đến." (Dùng sự khai ngộ để quan sát bản thân.)

Tăng nhân hỏi: "Thế nào là hòa thượng đối nhân xử thế chỉ một câu nói?" Thiền sư Hoài Sở đáp: "Chẳng có oán thù gì với anh, một câu vốn vẫn ở đây thôi." (Lời giác ngộ.)

Tăng nhân hỏi: "Vẫn chưa rõ đúng ở chỗ nào?" (hỏi vặn) Thiền sư Hoài Sở đáp: "Cái đồ ngu!"

🌟

Tôi thấy rất nhiều hành giả đã dốc toàn lực để làm các việc liên quan đến "phương tiện", nhưng còn với đại trí huệ (bát nhã) thì vẫn chỉ ôm một quả trứng vịt về nhà. Không có bát nhã thì có gì khác với người thế tục đâu. Đều là những kẻ ngu đần!

16. Hồ sơ Hoạt Phật chuyển thế

Chế độ Hoạt Phật chuyển thế ở Tây Tạng bắt nguồn sớm nhất là từ vị Karma Pakshi của Bạch giáo, cũng chính là sự chuyển thế của một loạt các vị Đại Bảo Pháp Vương. Sau đó, các giáo phái khác cũng đua nhau bắt chước theo.

Vấn đề Hoạt Phật chuyển thế ở Tây Tạng có hai ý nghĩa lớn:

  1. Duy trì được dòng truyền thừa của pháp.
  2. Duy trì được quyền thừa kế tài sản đối với các chùa chiền mà đời trước để lại.

Tôi lấy Ngài Tsongkhapa làm ví dụ: Đại đệ tử của Ngài Tsongkhapa là Khắc Chủ Kiệt, chuyển thế thành đại Hoạt Phật Panchen Lama của Hoàng giáo. Tiểu đệ tử của Ngài Tsongkhapa là Căn Đốn Chủ, chuyển thế thành đại Hoạt Phật Dalai Lama của Hoàng giáo. Trung đệ tử của Ngài Tsongkhapa là Thích Ca Dã Thất, chuyển thế thành Hoạt Phật Jetsun Dampa của Hoàng giáo Mông Cổ. (Jetsun Dampa sau này chính là Chương Gia Hoạt Phật, Cam Châu Hoạt Phật.)

Còn đối với cá nhân tôi, tôi có những kí hiệu của Hoạt Phật:

  1. Đỉnh đầu của tôi đã mở ra thiên linh khiếu.
  2. Tai có hai hạt ngọc.
  3. Tôi có lông mày và đôi mắt của Phật.
  4. Trước ngực có kí hiệu Phật.
  5. Lòng bàn tay có xoắn ốc như ý.
  6. Ngón cái tay phải có kí hiệu của Tiếu Diện Vương.
  7. Chân có vết bớt da hổ. (Đây đều là những kí hiệu của một vị Hoạt Phật.)

Căn bản thượng sư của tôi, thầy Thubten Dorjie Thượng sư, đã ấn chứng cho tôi về lai lịch của ba kiếp trước là:

  1. Là đại đệ tử Xá Lợi Phất của Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển thế.
  2. Là Tsongkhapa chuyển thế.
  3. Là A Di Đà Phật (Liên Hoa Đồng Tử) chuyển thế.

Ba sự chuyển thế tái sinh này đều có lai lịch vĩ đại tương đương, lớn đến mức giới Phật giáo đều chấn động. Tôi cảm thấy Lư Thắng Ngạn tốt nhất vẫn là Lư Thắng Ngạn, mang những danh hiệu lớn cũng không phải là hay.

🌟

Đứng từ góc nhìn của một người sáng suốt đã khai ngộ đánh giá chế độ Hoạt Phật chuyển thế, tôi cho rằng: Hoạt Phật chuyển thế là phương tiện. Khai ngộ là trí huệ.

Hoạt Phật chuyển thế là tục đế. Khai ngộ là Thánh đế.

Hoạt Phật chuyển thế là từ bi. Khai ngộ là bát nhã.

🌟

Thiền sư Chí Thao ở Tam Giác Sơn, Kỳ Châu. Tăng nhân hỏi: "Mặc dù giáo pháp của Phật giáo nhiều, nhưng chỉ có một tôn chỉ, vì sao lại có nhiều lý do như vậy?" Thiền sư Chí Thao đáp: "Vì chính anh nên mới nói ra nhiều lý do như vậy."

Tăng nhân hỏi: "Xin hòa thượng giải thích lý do xưa và nay." Thiền sư Chí Thao không nói gì, chỉ dùng tay gõ gõ lên giường.

Tôi đặc biệt có lời nhắc nhở như sau: Chế độ Hoạt Phật chuyển thế là một chế độ do chúng sinh trong thiên hạ đặt ra, mục đích là thuận tiện cho việc độ chúng sinh, đây chính là một trong nhiều lý do.

Người khai ngộ là người có minh nhãn, đã biết tôn chỉ, bát nhã như biển, chuyển thế hay không chuyển thế thì tự tại nhậm vận là được rồi. Ngày xưa hay bây giờ thì cũng vẫn là một.

17. Hồ sơ Thế tục đế

Có người hỏi tôi: "Ngài kết hôn rồi sinh con, có con trai con gái, Phật Thanh, Phật Kỳ, ngài có phải là một ông bố tốt không?" Tôi đáp: "Tôi tuyệt đối không phải là một ông bố tốt, bởi vì tôi chú trọng Thánh đế tu hành, tôi để cho Phật Thanh, Phật Kì tự nhiên trưởng thành. Đương nhiên tôi có yêu chúng, nhưng hiển nhiên không phải là chăm sóc toàn phần. Hơn nữa, Phật Thanh, Phật Kỳ có một người mẹ tốt, như vậy là tôi an tâm rồi."

Có người hỏi tôi: "Ngài là một người đàn ông tốt, thế sau khi kết hôn, ngài có phải là một người chồng tốt không?" Tôi đáp: "Con người tôi rất bảo thủ, đạo vợ chồng trước sau như một, tôi chưa từng bao giờ nghĩ đến hai chữ ly hôn. Thế nhưng tôi xuất gia, đi làm một hòa thượng, rất rõ ràng là tôi coi trọng việc hành trì, coi trọng chúng sinh. Gia đình dĩ nhiên là có coi trọng, nhưng không phải là chủ yếu, nếu nói là người chồng tốt thì đương nhiên tôi không xứng là một người chồng tốt."

Có người hỏi tôi: "Bố của ngài là Lư Nhĩ Thuận, mẹ của ngài là Lư Ngọc Nữ, ngài có cho rằng ngài là một người con tốt không?" Tôi đáp: "Khi xuất gia, tôi đã không thưa bẩm với bố mẹ, tôi đi Mỹ cũng không thưa bẩm với bố mẹ, việc này đương nhiên không phải là một đứa con tốt. Nhưng tôi tôn trọng hành trì, lấy việc khai ngộ thành Phật để báo đáp ơn của bố mẹ. Về mặt đại tiền đề thì như vậy là được. Trên thế tục đế thì có phần hơi vượt quá. Đương nhiên, về sau này tôi có gây ảnh hưởng cho bố mẹ tu hành, cuối cùng đã thành chính quả. Tôi ảnh hưởng bố mẹ tu hành, thường niệm Quan Thế Âm Bồ Tát." "Tôi nhờ người chăm sóc mẹ tôi, tôi nhờ người chăm sóc bố tôi, không thể xem là báo đáp ơn dưỡng dục, do vậy đương nhiên tôi cũng không phải là đứa con tốt."

Có người hỏi tôi: "Trên phương diện thế tục đế, ngài đã làm điều gì tốt nhất?" Tôi đáp: "Chẳng có gì làm là tốt nhất. Tôi tự cảm thấy, tại thế gian này, tôi đều chẳng phải là nhân vật số một. Điều tôi làm tốt nhất chính là, sống một ngày tu hành một ngày, sống một ngày cảm ơn một ngày, sống một ngày vui vẻ một ngày. Điều này là tôi làm tốt nhất rồi!"

Tôi viết một bài kệ: "Tôi nay sáu mươi lăm. Nghĩ lại thật đáng buồn. Tất cả chưa viên mãn. Chẳng thành tựu điều gì. Chỉ thấy trăng trong nước. Thấy hoa mộng trong gương. Tinh tấn đệ nhất nghĩa. Học Hiển và tu Mật. Dặn đệ tử mỗi ngày. Tôn chỉ này chớ quên."

🌟

Có người hỏi tôi: "Trên phương diện thế tục đế, ngài chưa thành tựu điều gì, thế còn thành tựu trên phương diện Thánh đế thì sao?" Tôi đáp: "Nhãn nhĩ tị thiệt thân ý." Người hỏi: "Nghĩa là thành tựu những cái này sao?" Tôi đáp: "Những cái này là cái gì?" Người hỏi: "Không phải thành tựu sao?" Tôi đáp: "Căn bản cũng chẳng phải là thành tựu!"

18. Hồ sơ Bế quan

Khi sống ở Linh Tiên Các, quận Ballard, thành phố Seattle nước Mỹ, tổng cộng tôi bế quan ba năm. Có thể nói, ba năm này là tôi tự động bế quan. Vì sao gọi là tự động? Câu trả lời rất đơn giản, vì không có gì để làm, do vậy tôi bế quan.

Khi mới đến Mỹ, tôi không có công việc, nhàn tênh "vô tích sự", tôi chỉ có viết văn, viết sách. Cuộc sống, con người ở nơi mới cũng chưa quen, không có khách khứa, không có đệ tử, trước cửa nhà ngay cả một con mèo cũng không có, do vậy, chỉ còn mỗi việc bế quan. Do vậy mới gọi là tự động bế quan.

Tôi kín đáo tu pháp của Liễu Minh Hòa Thượng. Tôi kín đáo tu pháp của Sakya Chứng Không Thượng sư. Tôi kín đáo tu pháp của Đại Bảo Pháp Vương. Tôi kín đáo tu pháp của Thubten Dorjie Thượng sư. ...

Trong thời gian ba năm, tôi tinh tấn khác thường, có vô số tương ứng, thành quả vô cùng huy hoàng. Sự tinh tấn này có được từ:

  1. Vô sự.
  2. Vô tâm.

Hóa ra, vô sự, vô tâm cũng là một trong những khẩu quyết quan trọng nhất của việc bế quan. Không có công việc. Không có mơ ước tương lai. Không có phiền não.

🌟

Sau khi hoằng pháp một thời gian ngắn, tôi lại bế quan ở hồ Diệp Tử, thời gian kéo dài tới sáu năm. Lần bế quan này thì không có điềm báo trước. Nguyên nhân là một bí mật chăng? Là một bí mật rất rất thần bí chăng? Đúng vào lúc đang huy hoàng thì đột ngột bế quan.

Địa điểm bế quan là: Đảo Tahiti. (nửa năm) Đài Loan. (ba năm rưỡi) Nam Sơn Nhã Xá. (hai năm)

Vào thời gian này, tôi không tiếp khách, không gặp đệ tử, không có điện thoại, không có thư từ, không có tin tức. Chỉ có ra ngoài ăn cơm. (Tôi không tự nấu ăn.) Tôi thay tên đổi họ. Có người quen gặp tôi, hỏi: "Ngài có phải là Lư Thắng Ngạn không?" Tôi đáp: "Tôi họ Mã."

Hàng xóm gọi tôi là ông Mã. Có người quen hơn gặp tôi, hỏi: "Ông rõ ràng là Lư Thắng Ngạn mà?" Tôi đáp: "Tôi là em trai của Lư Thắng Ngạn!"

Trong thời gian sáu năm này, Lư Thắng Ngạn đã sớm bốc hơi khỏi nhân gian rồi. Tôi không thừa nhận bản thân là Lư Thắng Ngạn.

  1. Vô sự.
  2. Vô tâm.
  3. Đối với tương lai, chẳng có khát khao gì. (Đây cũng lại là ba điều kiện quan trọng để tu pháp tinh tấn.)

Người chăm sóc tôi lâu nhất trong thời gian tôi bế quan ở Đài Loan chính là: Kim Cương Thượng sư Liên Cực. Tôi bí mật kín đáo tu rất nhiều Mật pháp, đều là các pháp đại bí mật, đã đạt được thành tựu tương ứng cực kì cao.

Chín năm bế quan này, tôi đạt thành tựu phi phàm. Tương lai, tôi vẫn còn muốn ẩn cư bế quan nữa. Còn lúc nào sẽ lại ẩn cư bế quan, thời gian và địa điểm thì tôi còn đang xem xét.

Thế nhân vĩnh viễn không thể ngờ tới, ở nhân gian này, sự bế quan vĩnh viễn, lần ẩn cư cuối cùng, chính là cảnh giới tối cao - niết bàn.

19. Hồ sơ Xuống địa ngục

Tôi xuống địa ngục, đó là một việc bình thường. Trong Địa Tạng Kinh, Vô Độc Quỷ Vương nói: "Một phải do nghiệp lực, hai phải do uy thần lực thì mới xuống được địa ngục!" Và tôi đây thì chính là dựa vào uy thần lực đó!

Địa Tạng Vương Bồ Tát là Bổn tôn của tôi. Trong địa ngục cũng có tịnh thổ, gọi là "Tịnh thổ Thúy Vy." Tôi cũng ở trong địa ngục cứu độ chúng sinh.

Tôi lấy ba ví dụ: Một người là bác sĩ Vương Phúc Khoa, vì tai nạn giao thông mà bị thương nặng nên xuống địa ngục, xếp hàng trước mặt Minh Vương. Tôi vội vàng chạy đến, khoác cho Vương Phúc Khoa một chiếc pháp bào của tôi. Đến khi điểm danh đến lượt triệu kiến, Minh Vương vừa nhìn thấy pháp bào thì kinh hãi. Người này có pháp bào tám vạn bốn nghìn công đức, pháp bào tỏa ra nghìn tia sáng cát tường và hào quang lấp lánh. Minh Vương nói: "Loại người này không thể phán xét được, lệnh cho hoàn dương!" Bởi vậy, bác sĩ Vương Phúc Khoa nằm trong phòng cấp cứu đã sống trở lại. Ông đã thuật lại hết việc ông ấy ở trong địa ngục và tôi đã xuống địa ngục cứu ông ấy thế nào.

Thứ hai: Tiến sĩ Đặng Doanh Gia vì tình mà tự sát. Khi thần thức của anh ấy đi đến trước cửa địa ngục thì tôi đã ở sẵn cửa địa ngục chờ Đặng Doanh Gia tới. Tôi khuyên anh ấy nên quay đầu. Tiến sĩ Đặng không nghe, cứ khăng khăng muốn đi vào địa ngục. Tôi liền dùng tay túm lấy cổ áo anh ta, đưa Đặng Doanh Gia trở về dương gian. Vì sao tôi lại cứu Đặng Doanh Gia, bởi vì anh ta là Lục Liên Hoa Đồng Tử, sau này cần làm Kim Cương Thượng Sư, hoằng dương Chân Phật Mật Pháp. Vì thế sao có thể chết được? Chuyện này, tiến sĩ Đặng Doanh Gia đã viết một cuốn sách tự thuật, nói rằng tôi ở trước cửa địa ngục đã cứu anh hoàn dương. Sự việc này, mọi người đều biết cả.

Thứ ba: Cô Trịnh Ngọc Hoa là hành giả Mật giáo, đã gặp tai nạn giao thông, thần thức của cô đã xuống địa ngục. Cô ấy hướng về Thượng sư quy y cầu nguyện, nhưng vị Thượng sư quy y của cô ấy vẫn không xuất hiện. Cô Trịnh Ngọc Hoa lại trông thấy tôi ở trong địa ngục cử hành pháp hội siêu độ. Cô nhận ra Lư Sư Tôn có đại chứng lượng. Trịnh Ngọc Hoa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh khó khăn, cô ấy không thể chết được. Cô còn có con thơ vẫn phải nuôi dưỡng. Tôi chỉ dẫn cho cô đến một cái lỗ hổng mà tôi hóa hiện ra trong Oan Tử Thành để thoát ra, đồng thời chỉ dẫn cho cô đến gặp một vị Liên Hoa Đồng Tử Bồ Tát đưa cô ra khỏi địa ngục.

Sau khi hoàn dương đến nay đã trải qua mười năm. Cô ấy làm chứng cho tôi việc tôi đã cứu cô ở trong địa ngục. Cô nhìn thấy tôi ở địa ngục làm đại pháp hội.

🌟

Tôi chỉ lấy ba sự việc để làm ví dụ. Thật ra việc tôi xuống địa ngục cứu độ chúng sinh, có viết vài cuốn sách cũng chưa viết hết được. Có thể nói là vô tận ... Có người hỏi tôi: "Ở dương gian, ngài là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Ở âm gian, cũng có một vị Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Ngài làm được điều đó như thế nào? Rốt cục là người nào mới là Lư Thắng Ngạn thật?" Tôi đáp: "Đều là trăng trong nước, cũng là hoa trong gương."

Người hỏi: "Sự thật là ở đâu?" Tôi đáp: "Pháp thân Phật thanh tịnh." Cái gọi là Lư Thắng Ngạn cũng không phải Lư Thắng Ngạn, bởi vì không phải là Lư Thắng Ngạn nên cũng chính là Lư Thắng Ngạn.

20. Hồ sơ Người điên

Tôi từng gọi một vị pháp sư (sống ở ngoài bang), tôi nói: "Anh đến Seattle đi, tôi có việc quan trọng cần nói với anh." Pháp sư vội vội vàng vàng đến. Tôi nói với pháp sư: "Anh đến gặp tôi, có chuyện gì vậy?" Pháp sư đáp: "Chẳng phải thầy gọi tôi đến đây sao?" Tôi nói: "Chẳng có việc gì, anh đi về đi!" (Hành vi của Lư Sư Tôn có rất nhiều khi là như vậy. Có người đồn rằng, Lư Sư Tôn giống như nguời điên. Nói là rất quan trọng, kết quả lại là chẳng có việc gì, có kì lạ không.)

Đáp án là: Không kì lạ. Cái này gọi là: "Đột nhiên ban luật lệnh, thì thấy đã xong rồi." Nói thử xem! Là cái gì?

🌟

Tôi từng nói: "Tôi viết sách, khi hoàn thành xong hai trăm cuốn sách, tôi muốn toàn thân trần truồng chạy quanh Lôi Tạng Tự ba vòng." Người hỏi: "Vì sao vậy?" Tôi nói: "Tôi muốn làm hiệp sĩ khỏa thân, sướng quá! Sướng quá!"

Người hỏi: "Đã hoàn thành xong hai trăm cuốn sách rồi, thế ông đã khỏa thân chưa?" Tôi đáp: "Hai trăm cuốn văn tập, lớp lớp khai ngộ (tên văn tập số 200), cũng chẳng khác gì tôi đã cởi sạch quần áo của chính mình, thấy rõ diện mạo vốn có của mình, cầm sách nhiễu quanh chùa Phật ba vòng cũng chẳng khác gì đã chạy rồi." "Đồ lừa bịp!" Tôi đáp: "Tôi chẳng lừa anh, tôi đã nhìn thấy, còn anh thì chả nhìn thấy." (Xin thánh đệ tử chú ý, hãy thử nghĩ xem, Lư Sư Tôn rốt cục có khỏa thân trần trụi chạy quanh Lôi Tạng Tự ba vòng hay chưa? Lại xin hỏi, trần truồng chạy quanh Lôi Tạng Tự ba vòng là có ý gì?)

🌟

Tôi ở California hoằng pháp. (Nhất Như Lôi Tạng Tự) Có một cô gái xinh đẹp đột nhiên ôm chầm lấy Lư Sư Tôn, mặt kề mặt. Thượng sư Liên Ha ở bên cạnh vội kêu lên: "Ấy không được!" Tôi đáp: "Có gì là không được, cô gái xinh đẹp này rất mãn nguyện, tôi cũng vừa lòng, đây là việc tốt, vì sao không được?" Thượng sư Liên Ha nói: "Ảnh hưởng tới hình tượng!" Tôi đáp: "Lư Sư Tôn còn có hình tượng sao?" (Xin các thánh đệ tử trả lời xem, đây là việc tốt đẹp, hay là việc xấu xa! Nó rơi vào khoảng nào?)

🌟

Năm xưa, Liễu Minh Hòa Thượng nói: "Sau khi trò Lư thành tựu, nên bế quan, hoặc nhập niết bàn, hoặc làm kẻ điên." Tôi tự thấy, làm kẻ điên như tôi vẫn còn chưa đủ điên. Sẽ có một ngày, tôi sẽ trần truồng lên pháp tọa thuyết pháp. Lúc này, các đệ tử bên dưới nên ngồi lại hay là nên bỏ đi đây? Hay là đệ tử ở dưới, lão tăng nhập định? Tôi đợi đến lúc diễn vở kịch này đó!

21. Hồ sơ Viết sách

Thời tiểu học, tôi viết những mẩu truyện ngắn, truyện cười gửi đến Nhật báo Quốc Ngữ và Tạp chí Bạn Học. Thời trung học cơ sở, tôi viết "Cảnh tượng học đường", được đăng trên báo Tin tức Đài Loan. Thời phổ thông trung học, tôi đảm nhiệm chức chủ biên của tờ Thanh Niên Hùng Công, và tờ Cao Thanh Văn Túy. (Thanh Niên Hùng Công là tập san của Thanh niên Trung học Công nghiệp Cao Hùng, và tờ Cao Thanh Văn Túy là Tinh hoa Văn học Thanh niên Cao Hùng, chuyên san đặc biệt của toàn đoàn thanh niên cứu quốc Cao Hùng.)

Ở Cao Hùng, tôi đã gửi bản thảo sáng tác đến các tạp chí và tờ báo lớn. Việc sáng tác đã trở thành một niềm hứng thú mạnh mẽ sâu sắc của tôi. Khi tôi đến Báo Tin tức Đài Loan để lĩnh nhuận bút. Chủ biên của phụ bản Vịnh Tây Tử - Lâm Hải Cầu. Chủ biên của phụ bản Cục Điện Ảnh - Tiểu Ngư. Gặp tôi, sửng sốt. Lư Thắng Ngạn không ngờ chỉ là một học sinh trung học. Khi đó, tôi viết thơ, tản văn, tạp văn, tiểu thuyết. Khi học đại học, tôi là chủ biên của tờ Văn Nghệ Trắc Lượng.

Trong hai tờ báo lớn của miền Trung, tôi đã viết cho chuyên mục: Tờ Nhật báo Tiếng Dân --- mục "Thư gửi cho Lệ". (Đã tập hợp thành sách.) Tờ Nhật báo Đài Loan --- mục "Thế giới tâm hồn". (Đã tập hợp thành sách.)

Khi học đại học, phạm vi sáng tác của tôi rộng hơn, tôi cũng gửi bản thảo đi nhiều nơi hơn, nhận mức nhuận bút đáng kinh ngạc. Thời đại học, tôi đã xuất bản bốn tập sách là "Tuyển tập Khói mỏng", "Thì thầm trong vườn mộng", "Ước mơ xanh bay lên", "Lá bay trong gió".

Tôi đảm đương: Phóng viên của tờ Chiến sĩ Thanh Niên. Phóng viên của tờ Nhật báo Tiếng Dân. Phóng viên của tờ Lạc Đà Bay. Phóng viên của tờ Lá Chắn. ...

Tôi đã đạt được giải thưởng văn nghệ Kim Tượng và vô số bằng khen thưởng hạng vàng, bạc, đồng.

🌟

Tốt nghiệp Đại học, tôi phục vụ trong quân đội 10 năm, khi giải ngũ tôi mang hàm Thiếu tá, di cư sang Mỹ, việc sáng tác, viết sách chưa từng gián đoạn. Tôi sáng lập: Chân Phật Báo. Hoa Vũ Báo. Tạp chí Liên Bang. Tạp chí Nhiên Đăng. Tạp chí Chân Phật Thế Giới. ...

Cho đến nay, tôi đã viết và xuất bản trên 210 cuốn sách, và vẫn tiếp tục viết sách.

🌟

Cuộc đời của tôi có ba việc quan trọng: Viết sách. Tu pháp. Hoằng pháp. (Kalu Rinpoche nói: tôi là thiên hạ đệ nhất trong số những người viết sách thuyết pháp bằng tiếng Hoa.) Câu nói này cũng chẳng phải là nói khoa trương!

Có người hỏi tôi: "Có người đạo văn của ngài, ngài sẽ làm sao?" Tôi đáp: "Tùy họ!" Có người hỏi tôi: "Có người in trộm sách của ngài, ngài sẽ làm sao?" Tôi đáp: "Tùy họ!" Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài muốn viết bao nhiêu cuốn sách?" Tôi đáp: "Tôi có viết sách sao?" (Xin mọi người nghĩ xem: Lư Sư Tôn có viết sách không?)

22. Hồ sơ Chân Phật Tông

Lúc ban đầu, tên gọi của Chân Phật Tông là Linh Tiên Tông. Hai chữ Linh Tiên là do Diêu Trì Kim Mẫu ban cho. Về sau có người đã đăng kí quyền sở hữu cho ba chữ Linh Tiên Tông trước, do vậy chúng tôi đã mất đi quyền sở hữu, chỉ còn cách đổi tên thành Linh Tiên Chân Phật Tông, đây cũng là việc không còn lựa chọn nào khác.

Bởi cái tên Linh Tiên Chân Phật Tông thì cũng hơi dài, thế là mọi người gọi tắt lại thành Chân Phật Tông. Hai chữ Chân Phật chính là tôn xưng của Báo thân Phật và Pháp thân Phật, ý nói về Pháp thân vô tướng. Kinh Vô Lượng Thọ viết: "Tướng hảo quang minh, đầy đủ của một vị Phật chân thực." Lâm Tế Lục viết: "Chân Phật vô hình, chân pháp vô tướng."

Và còn: Bồ Tát sơ địa, chứng được chân như về Ngã Không, Pháp Không, là Chân Phật sinh ra trong ngôi nhà Như Lai. Duy Thức Thuật Kí viết: "Những vị Phật nối tiếp, lệnh không đoạn tuyệt, thậm chí với trí huệ bát nhã chứng chân pháp giới, gọi là Trung Sinh, gọi là Chân Phật." Nếu như để tôi giải thích về Chân Phật, thì tôi nói rằng: Phật - bậc giác ngộ. Chân - chân chính. Có nghĩa rằng: Bậc giác ngộ chân chính.

Chân Phật Kinh tán thán rằng: "Thánh tôn đại từ bi, vô thượng bí mật tôn. Quá khứ sớm tu chứng, giới siêu phàm thoát tục. Nay lập Chân Phật giới, xót thương chư chúng sinh. Hóa thân làm giáo chủ, hạ sinh cõi Ta Bà. Lành thay hiệu Liên Sinh, vì chúng sinh quảng thuyết. Chúng con đều đã nghe, nguyện sẽ đại hộ trì."

🌟

Thiền sư Trí Ngung, ở phủ Hoàng Long, Ngạc Châu. Tăng nhân hỏi: "Nguồn gốc của Chân Phật là gì?" Thiền sư Trí Ngung đáp: "Thế câu hỏi này là có nguồn gốc gì?"

Tăng nhân hỏi: "Như vậy thì người người đều biết Chân Phật chẳng có gì khác nhau sao?" Thiền sư Trí Ngung đáp: "Kiếm đã thành rồng bay đi, chỉ còn lại người đóng thuyền."

(Mẩu đối thoại này, tôi có lược bỏ đi, nhưng không làm mất đi ý nghĩa gốc, xin các thánh đệ tử, chú ý vào câu cuối cùng, kiếm đã thành rồng bay đi, chỉ còn lại người đóng thuyền. Câu này ẩn chứa nhiều huyền chỉ lớn đó! Người đã giác ngộ thì hiểu, người chưa ngộ thì sẽ không hiểu ra làm sao.)

🌟

Thiền sư Sơn Trừng, Huyền Đô, phủ Hưng Nguyên. Tăng nhân hỏi: "Thế nào là cứu tế?" Thiền sư Sơn Trừng đáp: "Con gà vàng trên lầu bỗng gõ trống." Tăng nhân hỏi: "Thế nào là sa môn hành?" Thiền sư Sơn Trừng đáp: "Tất cả đều không biết." (Cá nhân tôi rất thích câu nói "tất cả đều không biết" của thiền sư Sơn Trừng. Cho dù tôi là người sáng lập Chân Phật Tông, nhưng tôi đều chẳng biết gì về Chân Phật Tông. Sự sáng lập Chân Phật Tông, sự phát triển của Chân Phật Tông, sự hưng thịnh của Chân Phật Tông, sự tàn lụi của Chân Phật Tông, tất cả tôi đều không quản lo, cũng chẳng biết tí gì. Thậm chí, tôi nói ra bên ngoài rằng: căn bản là tôi không có sáng lập Chân Phật Tông, điều này là thật. Thánh đệ tử! Thử cho ý kiến xem, Lư Sư Tôn sáng lập Chân Phật Tông, rồi lại nói là không sáng lập Chân Phật Tông, là vì sao?)

23. Hồ sơ Mật truyền

Bản thân Mật giáo vốn không có bí mật gì để nói. Tuy nhiên, vì con người có căn khí cao, căn khí trung, căn khí thấp, do vậy khi tùy theo người mà dạy thì mới có bộ phận "mật truyền".

Bộ phận giới luật Mật giáo, đối với vấn đề "truyền không đúng người", ngay cả đến Thượng sư Acharya (A xà lê) cũng đều có tội cả. Mật giáo phân ra làm bốn bộ tục: Sự bộ, Hành bộ, Du già bộ, Vô thượng bộ. Thứ tự của Mật giáo là: Ngoại pháp, Nội pháp, Mật pháp, Mật mật pháp. Khi Thượng sư (Acharya) truyền thụ Mật pháp, cần phải theo thứ tự mà dạy. Hành giả Mật giáo phải theo thứ tự mà tu, một giai đoạn đã tu thành rồi thì mới tu lên đến giai đoạn tiếp theo. Không thể nhảy cấp được.

Chân Phật Mật Pháp dựa theo thứ tự là: Gia hành pháp. Thượng sư tương ứng pháp. Bổn tôn pháp. Khí pháp. Mạch pháp. Minh điểm pháp. (Vô lậu pháp, Chuyết hỏa pháp) Khai trung mạch, khai ngũ luân. Kiến Phật tính. Kim Cang pháp. Vô thượng Mật. Hồng quang thành Phật pháp.

🌟

Ngoài giới, có một số người tung tin nhảm rằng Lư Sư Tôn đã đặc biệt mật truyền thủ ấn cho một vài người. Mật truyền chân ngôn? Mật truyền mật pháp (đại pháp)? Mật truyền Vô thượng mật bộ? Mật truyền mật mật mật mật (tứ mật)? Những người này tuyên truyền ra bên ngoài là đã đặc biệt được truyền thụ, đặc biệt được mật truyền, đặt biệt có được tâm ấn khẩu quyết cao cấp, đặc biệt có được tâm bí mật trung tâm, ...

Tôi thừa nhận: Thủ ấn là có tâm ấn trong tâm. Chân ngôn là có chân ngôn thù thắng. Quán tưởng là có bí mật quán tưởng. Nội pháp là có tâm yếu. Kĩ pháp là phải truyền thụ đặc biệt. Vô thượng mật là mật mật mật mật. ...

Tất cả những thứ này đều phải lựa chọn người mà truyền, không thể công khai truyền thụ rộng rãi được, e rằng nếu truyền không đúng người thì sẽ phạm vào trọng giới. Nếu tôi truyền thụ thì chắc chắn phải có "vẽ kí hiệu", cũng phải có chữ kí của tôi, tương đương rằng tôi đã chứng thực.

Nếu như người vì tự đề cao giá trị bản thân, không đưa ra được chữ kí và hình vẽ kí hiệu, chỉ là nói miệng với người ta rằng tôi đã truyền pháp bí mật cho anh ta, thì đây là tự đề cao giá trị bản thân, không đáng tin.

Có người nói: "Từ lâu Lư Sư Tôn đã quán đảnh cho tôi làm Kim Cương Thượng Sư Acharya rồi, tôi là Thượng sư bí mật." Tôi đáp: "Không tin được." Tôi quán đảnh Kim Cương Thượng Sư là minh bạch công khai, chứ không phải là có sự mờ ám, xin mọi người hãy chú ý.

Còn đối với bộ phận mật truyền thì phải có chứng nhận của tôi thì mới đúng. Nếu không có chứng nhận của tôi thì không thể tính. Bản thân tôi rất coi trọng những bậc trí huệ thượng căn. Mật truyền là có, không khó để nhận ra. Hãy đến tìm tôi hỏi thì sẽ hiểu rõ tất cả!

24. Hồ sơ Ngoại đạo

Nói đến "ngoại đạo", nghĩa là nói đến những người đứng ngoài Phật giáo, đều gọi chung là ngoại đạo. "Chỉ Quán" viết: "Ngoại đạo phân làm ba loại. Một là ngoại đạo ở ngoài Phật pháp. Hai là ngoại đạo kèm Phật. Ba là học Phật pháp nhưng trở thành ngoại đạo." "Thiên Thai Tịnh Danh Sớ" viết: "Tách rời ra ngoài pháp, gọi là ngoại đạo." "Tam Luận Huyền Nghĩa" viết: “Mục đích tối cao của đạo chính là rời bỏ dục thế gian, thoái khỏi mọi khổ. Tâm còn xa rời khỏi mục đích này, thì chính là ngoại đạo” "Viên Giác Kinh" viết: "Tâm và hành động nằm ngoài đạo lý, gọi là ngoại đạo." "Phạm Võng Kinh" viết: "Thiên ma ngoại đạo, xem nhau như cha mẹ."

Trong Phật điển, ngoại đạo có "nhị thiên tam tiên" (Bách Luận), "tứ ngoại đạo" (Nhập Đại Thừa Luận), "sáu vị thầy ngoại đạo" (Kinh Niết Bàn), "mười ba ngoại đạo" (Duy Thức Luận), "mười sáu ngoại đạo luận sư" (Du Già Luận), "ba mươi ngoại đạo" (Đại Nhật Kinh), "chín mươi sáu ngoại đạo" (Hoa Nghiêm Kinh), vân vân và vân vân, có thể nói là đầy rẫy đủ loại.

🌟

Tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, bị gọi là ngoại đạo kèm Phật, lại càng có nhiều luận ngữ hơn nữa: Đại ngoại đạo kèm Phật. Đại thiên ma. Giả Hoạt Phật. Kẻ lừa bịp siêu khoác lác. Yêu ma quỷ quái. ...

Họ đem tôi ra viết thành hai luận văn lớn bàn về ngoại đạo kèm Phật, chính là do cư sĩ Trần Huệ Kiếm công bố trong diễn đàn Phật giáo thế giới. Tôi là người thứ nhất. Thanh Hải Vô Thượng Sư là người thứ hai.

Tôi nói: "Tôi chính là Phật, không cần phải kèm." Tôi chẳng "nội", tôi cũng chẳng "ngoại". Tôi là cả nội cả ngoại, và cũng chẳng phải là cả nội cả ngoại.

Ba chữ Lư Thắng Ngạn này, những kẻ thiển cận nông cạn ít trí tuệ sao có thể suy đoán xằng bậy được. Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, giáo hóa cuối cùng của Phật Thích Ca Mâu Ni là: Tự tu tự chứng. Tự đăng minh. Pháp đăng minh.

Trong kinh Phật, những điểm vừa thâm thúy vừa khó hiểu, vừa dễ gây nhầm lẫn nhiều vô số kể! Ví dụ: Đại thừa không phải do Phật thuyết - vậy Tam tạng Đại thừa đều là sách giả? Luận về có thần và vô thần? Tiểu thừa là nhị thừa? Mật thừa đều là ngoại đạo? Xin hỏi các thánh hiền tăng, vậy thế nào là Phật giáo? Thế nào là Phật pháp?

Tôi kể với mọi người: Khi Phật mới xuất gia đã đến thăm A La La, Uất Đà La tiên nhân. Phật và ngoại đạo có sự đan xen lẫn nhau. Tương tự, Khổng Tử và Trang Tử, Hàn Phi Tử, cũng không hề đoạn tuyệt với nhau. Kinh điển tam tạng đều do người đời sau kết tập, trăm nghìn năm sau, ai dám nói một trăm phần trăm là thật? Luận Ngữ của Khổng Tử cũng là như thế chăng?

Tôi xin nói với các thánh đệ tử rằng: Tôi đã viên dung lý thể, việc đó vốn chẳng thể dùng lời nói mà nói được. Tôi đã chứng nhập và ở lại được chỗ cùng tận của chân như, việc đó cần gì mà phải dùng văn tự để mô tả. Sự minh tâm kiến tính của tôi là vô thượng đó!

25. Hồ sơ Thông linh

Tôi từng là một người thông linh. Với người bình thường mà nói thì có lẽ họ cực kì tò mò với chuyện thông linh. Thật ra, nguyên lý rất đơn giản: người và linh nối với nhau bằng một sợi dây. Chỉ cần tạo ra một sợi dây nối thì chính là thông linh, chỉ là như vậy mà thôi. Do vậy tôi mới nói rằng, tôi muốn để cho mọi người biết, thông linh chẳng phải là gì ghê gớm cả. Thông linh không phải là tu hành. Một đứa trẻ con, một kẻ hạ tiện tầm thường, một phu nhân phì nộn, một ông già say xỉn, một người lao công... đều có thể là một người thông linh. Bởi vì chỉ cần tạo ra một sợi dây nối là thông linh rồi.

Trong con mắt của tôi: Thế giới này là thế giới tinh linh, có vô số la sát, có vô số dạ xoa, có vô số quỷ thần. Lực nhỏ thì là quỷ. Lực lớn thì là thần.

Chỉ cần tạo ra một sợi dây nối với những thứ này thì bạn đã có năng lực thông linh rồi. Loại năng lực này cũng có thể dự đoán một số sự việc, nói được chút chút về nhân quả ba kiếp, lành dữ họa phúc. La sát. Dạ xoa. Quỷ thần. Khẳng định là có một vài năng lực thần thông, đôi khi cũng linh nghiệm dị thường, ngay cả đến quỷ cũng có năng lực thần thông. Đây là điều mà chúng ta không thể phủ nhận.

Điều mà tôi muốn tuyên bố rõ là: Thông linh không đại diện cho việc có tu hành. Thông linh không đại diện cho sự có giác ngộ. Thông linh không đại diện cho sự có chứng ngộ. Thông linh không đại diện cho sự có thành tựu. Xin đừng lẫn lộn!

Tôi nói một cách đơn giản rằng: "Thông linh và thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mệnh, thần túc, lậu tận của Như Lai là khác xa nhau tít tắp, không được lẫn lộn!" Thông linh - có sợi dây nối. Thần thông - do tu hành mà có.

Xã hội ngày nay coi thông linh như là có thần thông, có thể thấy ở khắp mọi nơi, người thông linh ngồi tít trên cao, tự cho rằng bản thân rất ghê gớm, tự cho rằng mình đã chứng quả rồi, kì thực họ chỉ thông tin tức với la sát, dạ xoa, quỷ thần mà thôi! Những la sát, dạ xoa, quỷ thần này đều có tập khí, rất dễ nhận ra.

🌟

Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên so với la sát, dạ xoa, quỷ thần thì cao cấp hơn rất nhiều, tuy nhiên người từ tu hành mà đạt đến tương ứng thì chẳng có bao nhiêu. Hai điều này rất dễ lẫn lộn, cũng rất dễ mê hoặc người khác.

Người thông linh xưng "thầy" xưng "tổ", tự xưng là khai ngộ, tự xưng là Hoạt Phật, tự xưng là Đại Phật. Nguy hiểm lắm thay!

Những Thánh - hiền- tăng tu hành chân chính như chúng ta biết rằng: Minh tâm kiến tính và thần thông thông linh không có liên quan. Minh tâm là hiểu rõ cảnh tượng của bản địa. Kiến tính là đích thân chứng ngộ Phật tính. Thần thông là phương tiện. Thông linh là sự mê hoặc của quỷ thần.

26. Hồ sơ Kiếp trước đời này

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế, thường nhắc đến: "Kiếp trước anh là ai, kiếp trước ta là ai, do vậy trong kiếp này mới phát sinh ra sự việc này." Đây chính là nhân quả của kiếp trước đời này.

Trong năm trăm kiếp, Phật Đà đã tu Bồ Tát hạnh, kết tập thành sách, chính là "Bản Sinh Kinh".

Tôi thích một câu chuyện về kiếp trước đời này của tổ sư Thiền tông, xin thuật lại như sau: Ngũ tổ Hoằng Nhẫn kiếp trước là đạo nhân Tải Tùng, ngài ấy đi gặp Tứ tổ Đạo Tín. Tứ tổ nói: "Ông già quá rồi, tôi không thể truyền y bát cho ông được."

Đạo nhân Tải Tùng xuống núi, gặp một thiếu nữ trinh nguyên đang giặt quần áo bên bờ suối, đạo nhân nói với thiếu nữ: "Cho tôi tá túc được không?" Thiếu nữ đồng ý. Cô về nhà hỏi cha mẹ: "Đạo nhân này muốn ở nhờ, được không?"

Cha mẹ cô đồng ý. Quay lại nhìn thì đạo nhân đã biến mất. Không ngờ rằng, thiếu nữ bỗng mang thai. Cha và anh cô cho rằng cô có tư tình, liền đuổi cô ra khỏi nhà, cô lưu lạc trở thành kẻ ăn mày. Thiếu nữ trinh nguyên sinh hạ một đứa bé, hai mẹ con làm kẻ ăn xin mà sống qua ngày.

Về sau: Tứ tổ Đạo Tín gặp hai mẹ con ăn mày, biết nhân quả kiếp trước, cuối cùng đã truyền y bát cho đứa trẻ ăn mày, chính là đại sư Ngũ tổ Huệ Nhẫn tương lai. Mẩu chuyện về kiếp trước đời này này thật là thần kì quá.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) có một đệ tử, sống tại Hà Lan, tên là Liên Hoa Đức Tường, đã khai ngộ. Tôi nói với ông: "Tôi muốn truyền áo cho ông, nhưng ông già mất rồi!" Tôi nói: "Kiếp sau, ông đến, chúng ta lại gặp, tôi lại truyền áo cho ông, được không?" Liên Hoa Đức Tường đáp: "Được." Tôi biết, chúng tôi kiếp sau sẽ gặp lại, tôi sẽ truyền y bát cho ông ấy.

🌟

Kiếp trước, tôi từng là Quốc vương. Kiếp này, những con dân của tôi kiếp trước đều là đệ tử của tôi. Kiếp trước, tôi có trì giới, giữ năm giới, làm mười điều thiện, tu bát nhã hành. Kiếp này, tôi là Tông trưởng, đại thiện tri thức, Chân Phật. Những điều này đều có liên quan lẫn nhau.

Có một cuốn sách là "Tiền thế tam chuyển kinh" chính là nói về Phật kiếp trước ba lần đầu thai hành ba-la-mật sự. Chúng ta không thể phủ nhận kiếp trước, đời này. Ở đây là hành giả tu hành đã tiến nhập vào trong kí ức của kiếp trước, nhớ lại rất nhiều kiếp trước đây của mình. Có rất nhiều bằng chứng chứng minh chúng sinh đều luân hồi nhiều kiếp, vẫn luôn ở trong nghiệp báo luân hồi, lặp đi lặp lại. Rất nhiều người cực kì tò mò về kiếp trước.

Một số thầy bói đã lợi dụng lòng hiếu kì về kiếp trước của con người nên cũng xem bói về nhân quả ba kiếp. Cũng có những thầy bói bất lương, dựa vào nhân quả ba kiếp để đe dọa tín chúng, nhằm lợi dụng tiền bạc, nữ sắc và đòi hỏi cúng phẩm.

Cá nhân tôi cho rằng: Bất kể là nhân quả ba kiếp ra sao. Bản thân cần vững chân đứng chắc, lấy việc tu hành làm chính yếu. Muốn tìm hiểu về nhân quả ba kiếp, những điều nghe người khác nói, chưa chắc đã là chuẩn xác, e rằng chỉ là lừa bịp người ta. Chi bằng tự mình tu chứng. Nếu như tu chứng túc mệnh thông thì tự mình sẽ biết nhân quả ba kiếp của mình. Vì vậy, đừng tùy tiện nghe người khác hù họa nữa.

27. Hồ sơ Phân biệt

Tôi cảm thấy rằng bản văn này vô cùng quan trọng. Tôi nói: "Trong quá trình tu hành của tôi có những sự phân biệt. Tôi đã vận dụng tâm ý thức của tự ngã. Nhưng sau khi minh tâm kiến tính, tôi đã có tâm không phân biệt, vô trí cũng như vô đắc."

Phát Trí Luận nói: "Pháp quy phân biệt, Thánh quy niết bàn." Thành Thực Luận nói: "Pháp quy phân biệt, Chân Nhân quy diệt." Duy Thức Luận Thuật nói: "Người còn phân biệt dựa trên lời nói, còn tâm pháp hữu lậu trong tam giới, chỉ là lấy tâm vọng mà phân biệt chân như vậy."

Tôi nói: Phàm phu được xét trên mức độ hư vọng. Phật là bậc trí giả vô phân biệt. Những kinh điển có liên quan đến sự phân biệt là: Phân biệt kinh, Phân biệt công đức phẩm, Phân biệt công đức kinh luận, Phân biệt duyên sinh, Phân biệt bố thí kinh, Phân biệt thánh vị kinh, Phân biệt nghiệp báo kinh, Phân biệt thiện ác sở khởi kinh, Phân biệt thiện ác báo ứng kinh, Phân biệt duyên khởi sơ thắng pháp môn kinh.

Tôi nói: Thiện ác, đẹp xấu, tốt xấu, đúng sai, trắng đen, sướng khổ, sống chết, chính tà, già trẻ, thơm thối, thô tinh, v.v… Đây là những sự phân biệt dựa trên hình tướng của sự vật. Còn như Tâm kinh đã nói, Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, quán chiếu thấy: Ngũ uẩn không. Thọ tưởng hành thức không. Nhãn nhĩ tị thiệt thân ý không. Sắc thanh hương vị xúc pháp không. Nhãn giới không. Ý thức không. Vô minh không. Lão tử không. Khổ tập diệt đạo không. Trí không. Đắc không.

Rồi sau đó: Bất sinh bất diệt. Bất cấu bất tịnh. Bất tăng bất giảm. Đây chính là thực trí của Phật.

🌟

Thiền sư Viện Đạt, ở Xương Phúc, Mi Châu. Tăng nhân hỏi: "Trò học đến hỏi thì thầy trả lời, khi không hỏi thì thầy nghĩ thế nào?" Thiền sư Viện Đạt đáp: "Cảm ơn đã chỉ giáo." Tăng nhân hỏi: "Vốn dĩ không có hỏi thì sao có việc như ngày hôm nay?" Thiền sư Viện Đạt đáp: "Câu hỏi này hỏi hay lắm!" Tăng nhân hỏi: "Khi trò học không hiểu thì làm sao?" Thiền sư Viện Đạt đáp: "Cũng biết được cái không hiểu." (Hiểu cũng là có được, không hiểu cũng là có được.)

🌟

Đừng xem thường công án đối thoại này. Tăng nhân là người có tính toán với tâm phân biệt, thiền sư Viện Đạt có tâm không phân biệt. Trên đời này, trong quá trình tu hành, có sự phân biệt tự tính, có sự phân biệt mức độ tính toán, có sự phân biệt tùy theo suy nghĩ. Sự tu hành của Lư Sư Tôn là dùng tâm ý thức để ấn chứng tâm vô ý thức.

Tôi nói như vậy, xin hỏi các Thánh đệ tử: "Tôi đã khai ngộ được mấy phần?"

28. Hồ sơ Gặp hổ

Trong cuộc sống, đâu đâu cũng có cạm bẫy, đâu đâu cũng đầy nguy cơ, những điều then chốt của sinh tử tồn vong, bạn làm sao để ứng đối? Rất nhiều người kinh hoảng vô vọng. Rất nhiều người luôn chịu trận, không biết phải làm sao. Có người giữ được sự bình tĩnh. Có người dựa vào cái bất biến để ứng đối với vạn biến. Có người thì ứng đối bằng sự trầm mặc. Thế còn trí huệ tối cao là cái gì? Cái gì là trí huệ tối cao?

Tôi từng lấy một ví dụ: Có một người tu hành gặp một con hổ đói ở núi hoang, không chạy lên trước được, sau lưng cũng không có đường thoát, phải làm sao? Tôi đáp: "Niệm Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng." Một là nương dựa vào Phật mà vãng sinh. Hai là để cho hổ có được tam quy y. Đôi bên đều có lợi.

🌟

Phật Đà bị người đàn bà Tôn Đà Lợi phỉ báng, bị cô gái Chiến Già giả có thai để phỉ báng Phật. Phật Đà không nói một câu nào. Tôi cũng bị hai người phụ nữ phỉ báng tôi, tôi cũng không nói một câu nào, không cần giải thích, tôi chỉ đáp lại bằng sự trầm mặc. Tôi chỉ niệm Phật hồi hướng cho họ thôi. Đôi bên cùng có lợi. (Hành giả chúng ta coi phụ nữ như hổ, hổ thì luôn muốn ăn thịt đối phương mà.)

Tôi luôn cảm thấy: Chuyện đời luôn giống như mộng huyễn mà thôi, không cần bám chấp, mộng huyễn là vô thường. Mộng huyễn rồi sẽ qua đi. Mộng huyễn căn bản chỉ là hư không chẳng có.

Khi tôi gặp hổ, tôi luôn giữ ba quan niệm, đây cũng là nguyên tắc xử thế của tôi: Khi mê thì đâu đâu cũng có đại thiên. Khi ngộ thì đại thiên đâu đâu cũng chẳng có. Chỉ thế mà thôi. Nằm mơ rồi tỉnh dậy, chẳng có được gì hết!

🌟

Tôi thích những câu trả lời của thiền sư Khiết Tùng ở Báo Ân, Xử Châu. Tăng nhân hỏi: "Khi sư tử chưa ra khỏi hang thì phải làm sao?" Thiền sư Khiết Tùng đáp: "Tài năng khó đánh." Tăng nhân hỏi: "Nó ra khỏi hang rồi thì làm sao?" Thiền sư Khiết Tùng đáp: "Không chỗ náu mình." Tăng nhân hỏi: "Khi muốn nó ra mà nó không ra thì làm sao?" Thiền sư Khiết Tùng đáp: "Mạng sống treo trên sợi tơ." Tăng nhân hỏi: "Việc tương lai ra sao?" Thiền sư Khiết Tùng đáp: "Bức bách!" (thúc ép) (sắp đến) Những câu trả lời của thiền sư Khiết Tùng thật hay. Tôi ra khỏi hang, quả thật cũng là không chỗ náu mình. Thử hỏi các Thánh đệ tử, ở nhân gian này, có ai là không bị bức bách?)

29. Hồ sơ Xuất gia

Trong cuộc đời này, hơn 40 tuổi thì tôi xuất gia. Vị thầy cạo đầu cho tôi đi tu là Thượng Quả Hạ Hiền đại hòa thượng của chùa Huệ Tuyền ở Hồng Kông, thời gian tôi xuống tóc xuất gia là ngày 10 tháng 2. Địa điểm là Chân Phật Mật Uyển.

Bên ngoài đồn rằng tôi tự mình cạo đầu xuất gia, căn bản đây chỉ là tin đồn nhảm thất thiệt. Đại hòa thượng Quả Hiền đã quy y tôi trước. Sau đó, ông ấy lại giúp tôi cạo đầu xuất gia. (Giai thoại này giống như Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông. Khi Lục tổ khai ngộ thì vẫn chưa xuất gia, mãi cho đến khi ngài ấy đến Lĩnh Nam thì cũng mới nhờ đệ tử của ngài ấy giúp cạo đầu xuất gia.)

🌟

Trước khi cạo đầu xuất gia, tôi có vợ có con, điểm này cũng không có gì kì lạ. Phật Thích Ca Mâu Ni sống trong hoàng cung cũng lấy vợ là Da Du Đà La, sinh con trai là La Hầu La. Phật Thích Ca Mâu Ni còn có rất nhiều phi tần. Phật Đà rời bỏ gia đình, tự mình cạo đầu xuất gia. Ngài tu khổ hạnh sáu năm ở Tuyết Sơn. Cuối cùng, Ngài ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề.

Người ngoài đả kích rằng tôi có vợ con, thực tế là giáo chủ Phật giáo cũng có vợ con vậy. Người ngoài đả kích việc tôi vẫn sống ở trong nhà, thực tế nhà tôi ở Mỹ cũng giống như ngôi chùa.

Tôi khai ngộ ở Linh Tiên Các. Vợ tôi đã trở thành thị giả của tôi. Con cái tôi từ lâu đã rời gia đình, thành gia lập nghiệp. Chỉ thế mà thôi. (Sinh hoạt vợ chồng từ lâu đã đoạn tuyệt rồi.)

🌟

Xuất gia tức là xuất ly khỏi cuộc sống của gia đình, tu theo con đường thanh tịnh của một sa môn. Người xuất gia cần có bốn lời nguyện:

  1. Nguyện giúp chúng sinh khốn khó.
  2. Nguyện trừ bỏ nghiệp chướng mê hoặc của chúng sinh.
  3. Nguyện cắt đứt tà kiến của chúng sinh.
  4. Nguyện độ chúng sinh khỏi bánh xe khổ ải. Người xuất gia cần giữ mười giới, cụ túc giới.

Tâm Địa Quán Kinh nói: "Phát bồ đề tâm, xả ly phụ mẫu, xuất gia nhập đạo." Di Giáo Kinh nói: "Người xuất gia nhập đạo là vì sự giải thoát, tự giáng thân này xuống làm một kẻ hành khất."

Có hai cuốn kinh về xuất gia truyền đời là: Xuất gia nhân duyên kinh, Xuất gia công đức kinh. Tôi khuyến khích các đệ tử xuất gia. Tôi nói rằng: "Chuyên trách tu hành, độ chúng. Gánh vác sự nghiệp vĩ đại của Như Lai!"

🌟

Thiền sư Kế Đạt ở phủ Hoàng Long, Mi Châu. Tăng nhân hỏi: "Thế nào là tăng?" Thiền sư Kế Đạt đáp: "Kim đã xuyên vào sợi chỉ không trở lại." (Xuất gia chính là như vậy.) Tăng nhân hỏi: "Thế nào là vải choàng vai?" Thiền sư Kế Đạt đáp: "Ngang trải bốn thế giới, dọc che một càn khôn." (độ chúng sinh) Tăng nhân hỏi: "Khi đến lúc đạo đã viên mãn, phải làm sao?" Thiền sư Kế Đạt đáp: "Muốn canh được canh, muốn cơm được cơm."

Tôi hỏi: "Tự tại vô ngại, sao không xuất gia?" Vẫn còn lo tới hoa hoa cỏ cỏ để làm cái gì?

30. Hồ sơ Độ linh nghiệm

Rất nhiều người đầy mê muội vào sự linh nghiệm của việc xem bói. Tôi xin trả lời như thế này: "Chư hành vô thường!" Đương nhiên mức độ linh nghiệm thì có siêu chuẩn, có bình thường, cũng có chẳng linh nghiệm tí ti nào cả. Sự phân chia của tôi như sau: Những gì thiên nhãn thấy. Những gì thiên nhĩ nghe. Bấm ngón tay thần toán. (Là siêu chuẩn.)

Bát tự, vải tầm ma, thần số, đẩu số, mô cốt, bát quái, trắc tự, tarot… (Là bình thường.) Bàn quay thần, thông linh, xem quẻ, ném li... (Có lúc chuẩn có lúc không.)

Tôi nói: Thần thông có cao có thấp. Mức độ linh nghiệm tự nhiên cũng phân thành cao thấp, đây là hiện tượng tự nhiên, không có gì lạ.

🌟

Tôi có hai sự việc, thuật lại như sau: Một người đàn ông không quen biết đến gặp tôi, khịt mũi khinh bỉ thần toán của tôi. Tôi nói: "Không cần phải như vậy. Đêm qua anh chạy xe máy, đâm trúng người ta, chân bị một vết trầy da đó." Người này kéo ống quần lên, quả nhiên là có một vết thương. Cú va chạm xe của người đàn ông lạ mặt là chuyện rất nhỏ, ông chưa từng nói với người nào. Thế nên lúc đó ông đã giật mình sửng sốt. Thế rồi tin luôn!

Còn nữa: Một người phụ nữ đến chỗ tôi hỏi về sự nghiệp của con trai bà ấy. Đối với tôi, bà nửa tin nửa ngờ. Tôi nói: "Đừng nghi ngờ, đừng nghi ngờ, tối qua bà đánh mạt chược với người ta, thắng được 880 tệ đó." Người phụ nữ thảng thốt! Vô cùng thán phục. Bởi vì ngay cả chính bà cũng không biết mình thắng được bao nhiêu tiền, cộng cộng trừ trừ, quả nhiên là 880 tệ.

🌟

Cá nhân tôi cho rằng: Bất kì một dạng thông linh nào, chỉ cần có "linh đến" thì tự nhiên sẽ có linh nghiệm. "Linh đến" là quan trọng nhất.

Cho dù là một cái "ném li" thường thấy nhất, thì chỉ cần có "linh đến", tự nhiên sẽ linh. Nếu như bất kì thần toán nào căn bản là không có "linh đến" thì đó nhất định là bốc phét. Tu pháp. Vẽ phù. Niệm chú. Hỏi việc. Xóc quẻ. Đều cần dựa vào "linh đến".

Đại khái, linh cũng phân chia thành linh cấp cao, linh cấp trung, và linh cấp thấp. Những "linh đến" thông thường đều là linh có cấp độ tương đối thấp, bởi vì linh cấp thấp thì tương đối dễ gọi tới. Linh cao cấp là khi người tu hành đạt đến cảnh giới rất cao thì mới có thể có hiện tượng hòa tan vào nhau.

Tôi nói để mọi người biết: "Khai ngộ và thông linh không có liên quan với nhau, khai ngộ và thần thông cũng không có liên quan với nhau!"

31. Hồ sơ Cúng dường

Từ nhỏ, tôi đã là một kẻ nghèo mạt hạng. Trước khi học Phật, tôi dựa vào "nhất nghệ tinh", sáng tác kiếm chút tiền nhuận bút để tiêu vặt. Sau khi học Phật, tôi đột phá trí huệ Phật.

Tôi đem trí huệ của Như Lai cúng dường chúng sinh. Chúng sinh dùng tiền và vật chất để cúng dường tôi. Tôi cúng dường cho chúng sinh pháp. Chúng sinh cúng dường cho tôi tiền.

Những thứ tôi ăn, là chúng sinh cúng. Những thứ tôi mặc, là chúng sinh cúng. Nơi tôi ở, là chúng sinh cúng. Xe tôi đi, là chúng sinh cúng.

Sau khi tôi hoằng pháp, có thể nói rằng tất tần tật mọi thứ đều là do chúng sinh cúng. Đó là nguồn gốc duy nhất, không có nguồn gốc nào khác. Còn tôi thì ban cho chúng sinh: "Phật pháp." (Con người tôi rất dễ hài lòng, tôi thường nói tôi đã rất mãn nguyện rồi. Tôi từng viết một chương sách nói rằng có thể không cần cúng dường Lư Sư Tôn nữa.)

🌟

Tôi thành lập Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn, đem tiền của mình bỏ vào quỹ của tổ chức, do tiến sĩ Lư Phật Thanh làm chủ tịch. Mục tiêu của tổ chức này là:

  1. Chăm sóc sức khỏe.
  2. Giáo dục văn hóa.
  3. Cứu nạn cấp cứu. ...

Tôi nghĩ rằng, những gì chúng sinh cúng cho tôi, tôi lại trả về cho chúng sinh. Tất tần tật mọi thứ đều nghĩ vì chúng sinh. Tôi cùng hít thở một lỗ mũi với chúng sinh.

Nếu chỉ dựa vào độc số tiền nhỏ của tôi thì khó thành việc lớn. Do vậy, tôi kêu gọi mọi người cùng đóng góp vào Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn, như vậy chúng sinh sẽ càng có được lợi ích lớn hơn. Rốt cục thì pháp quan trọng hơn? Hay là tiền quan trọng hơn? Phật Đà nói: "Hết thảy cúng dường, pháp là số một."

Bởi vì: "Dẫu có vạn vạn tỉ, cuối cùng cũng như không."

Có bài kệ: "Người hiểu tin dùng cách cúng vật, Thánh hiền truyền pháp chẳng lệch sai. Thỉnh thầy giảng giải ý đồ này Đến nay Thất Tổ chẳng có ai."

🌟

Có người hỏi tôi: "Khi không có tiền thì làm thế nào?" Tôi đáp: "Một mình."

Có người lại hỏi: "Khi có tiền thì sao?" Tôi đáp: "Một mình."

Người đó hỏi: "Có tiền không tiền đều giống nhau, vậy thế nào mới không giống?" Tôi đáp: "Thứ không đáng thì sẽ mất." "Tương lai sẽ ra sao?" Tôi đáp: "Tương lai là cái gì?" (Xin hỏi các thánh đệ tử, có hiểu không?)

32. Hồ sơ Diêu Trì Kim Mẫu

Bất kì ai cũng biết, Lư Sư Tôn tôn kính nhất là Diêu Trì Kim Mẫu, gọi Diêu Trì Kim Mẫu là Tiên Vương. Diêu Trì Kim Mẫu cũng chính là Bổn tôn đầu tiên mà Lư Sư Tôn tu hành có được tương ứng.

Trong tín ngưỡng dân gian, Diêu Trì Kim Mẫu là Tây Vương Kim Mẫu Thiên Tôn tiếng tăm lừng lẫy. Tuy nhiên, Ngài không được xếp vào Phật giáo Hiển tông, cũng không được xếp vào Phật giáo Mật tông. Thế nhưng, chỉ có Lư Sư Tôn đưa Diêu Trì Kim Mẫu vào Phật giáo, khiến cho người trong giới Phật giáo vô cùng lườm nguýt.

Mặc kệ người ta. Chỉ bởi vì tôi có duyên tiếp xúc với Diêu Trì Kim Mẫu trước.

Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn của tôi. Diêu Trì Kim Mẫu đưa tôi thần du trên trời dưới đất. Diêu Trì Kim Mẫu chỉ thị cho tôi biết kiếp trước của tôi là Liên Hoa Đồng Tử. Diêu Trì Kim Mẫu dẫn dắt tôi tiến vào cánh cổng tu Đạo học Phật. Do vậy, giữa tôi và Diêu Trì Kim Mẫu, giữa Diêu Trì Kim Mẫu và tôi, không hai không khác.

Theo "Diêu Trì Kim Mẫu định huệ giải thoát chân kinh", "Diêu Trì Kim Mẫu dưỡng chính chân kinh",... thì: Huyền Huyền Thượng Nhân truyền pháp cho Mộc Công. Mộc Công truyền pháp cho Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu sống ở Diêu Trì Tiên Uyển trên đỉnh núi Côn Luân ở phương Tây. Diêu Trì Kim Mẫu có "hội bàn đào". Chúng Tiên tụ tập.

Người bình thường chỉ có thể hiểu như thế này. Thế còn, chưa từng có người nào biết về diện mục đích thực của Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu có lai lịch ra sao? Thành tựu vô thượng của Diêu Trì Kim Mẫu là gì? Diêu Trì Kim Mẫu có đại pháp lực bất khả tư bất khả nghì ra sao? Nguồn gốc chí cao vô thượng vô sinh vô tử, vô thủy vô chung của Diêu Trì Kim Mẫu ra sao?

Trên đời này. Tôi biết. Tôi thật sự biết, nhưng không thể nói cho bạn biết được.

🌟

Có người hỏi tôi: "Diêu Trì Kim Mẫu và Phật giáo có liên quan gì?" Tôi đáp: "Không có tổ tiên thì chẳng có năng lực hiểu biết gì." Có người hỏi tôi: "Diêu Trì Kim Mẫu có xuất tam giới không?" Tôi đáp: "Cô tịch."

Có người hỏi tôi: "Diêu Trì Kim Mẫu cũng có pháp lực vô biên sao?" Tôi đáp: "Chẳng có người nào hiểu rõ." Có người hỏi tôi: "Diêu Trì Kim Mẫu có thể so sánh cùng chư Phật sao?" Tôi đáp: "Chim đẹp cũng không nhận ra tung tích."

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn biết nguồn gốc của Diêu Trì Kim Mẫu, sao không tiết lộ một hai điều?" Tôi đáp: "Thế nhân ngày nay có ai hiểu Lư Sư Tôn? Thập phương thế giới rộng và sáng, đứng trên độc một đỉnh núi cao chiếu rọi xuống, mà còn không có ai thấu hiểu tôi, thì làm sao thấu hiểu được Diêu Trì Kim Mẫu?" Xin mọi người, đừng đoán mò nữa.

33. Hồ sơ A Di Đà Phật

Khi tôi viết chương văn này, có người hỏi: "Ai ai cũng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, mọi người đều biết, còn có gì bí mật nữa sao?" Tôi đáp: "Có bí mật, thế nên hãy nghe tôi kể chi tiết!"

A Di Đà Phật có ba danh hiệu: Hiển giáo gọi là: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật. Mật giáo gọi là: Cam Lộ Vương Như Lai.

Ngoài ra, còn có 13 danh hiệu khác là: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Diễm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỉ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

Nhân quả thành đạo của A Di Đà Phật, xin đọc: "Pháp Hoa Kinh Hóa Thành Dụ Phẩm" "Bi Hoa Kinh" "Vô Lượng Thọ Kinh" "Quán Phật Tam Muội Hải Kinh"

A Di Đà Phật còn có Chính pháp luân thân và Giáo lệnh luân thân. Chính pháp luân thân cũng chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Giáo lệnh luân thân là Đại Uy Đức Kim Cang. A Di Đà Phật tam tôn chính là Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.

🌟

Bí mật mà tôi nói đến là: "Đại A Di Đà Kinh" mà Đức Phật thuyết giảng có hai bản, một bản là do tiến sĩ Vương Nhật Hưu triều Tống đính chính. Một bản là "A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh". (Cũng gọi là A Di Đà Kinh) Nội dung nói đến: Phật nói về Hóa Thân Đồng Tử. Mà Hóa Thân Đồng Tử này tức là Liên Hoa Đồng Tử.

Chúng ta thường niệm rằng: "Nam mô ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn, năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật." Cũng chính là Hóa Thân Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử. Do vậy, Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật dùng hoa sen làm kí hiệu. Bản địa của Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật. Tôi lấy hiệu là Liên Sinh Hoạt Phật, cũng là có ý nghĩa hóa sinh từ hoa sen, chính là A Di Đà Phật.

🌟

Tăng nhân hỏi: "Bản địa của Lư Sư Tôn là A Di Đà Phật, vì sao không trực tiếp xưng là A Di Đà Phật, hà tất phải xưng là Liên Sinh Hoạt Phật?" Tôi đáp: "Trúc sinh ra măng, măng do trúc sinh ra, nhưng măng cũng không thể gọi là trúc được." Tăng nhân hỏi: "Biết rõ đạo lý sinh là bất sinh, vì sao vẫn có măng, vẫn có trúc?" Tôi đáp: "Tre để cho gấu trúc ăn, măng để cho người ăn." Tăng nhân hỏi: "Chúng sinh mù quáng, giống như thầy bói xem voi, người thì mê tín dị đoan, làm sao mới có thể khiến họ minh nhãn?" Tôi đáp: "Hãy đi tìm hiểu đi!" (Lư Sư Tôn tôi tương ứng với Diêu Trì Kim Mẫu trước, rồi tiếp đó tương ứng với A Di Đà Phật. Ở đây A Di Đà Phật đúng là có bí mật thật, nhưng có liên quan đến Liên Hoa Đồng Tử như thế nào, mọi người có thể đọc thêm "Đại A Di Đà Kinh".)

34. Hồ sơ Địa Tạng

Lư Sư Tôn tương ứng với Tiên Vương Diêu Trì Kim Mẫu trước, sau đó tương ứng với A Di Đà Phật, tiếp theo là tương ứng với Địa Tạng Bồ Tát. Trong việc này có liên quan gì không?

Tôi gọi: Diêu Trì Kim Mẫu là Tiên Vương. A Di Đà Phật là Phật Vương. Địa Tạng Bồ Tát là Địa Vương. (Đây là ba Bổn tôn của Lư Sư Tôn.) Diêu Trì Kim Mẫu và A Di Đà Phật dường như không hề có một chút liên quan nào, nhưng bạn chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được đâu.

"Diêu Trì Kim Mẫu định huệ giải thoát chân kinh" nói: "Từ Âm Phật hạ giáng, mây ngũ sắc lúc ẩn lúc hiện ở ao Diêu Trì, theo nơi ở trên núi Côn Luân, đã tu luyện thành tựu chứng diệu quả, dưỡng thành xá lợi nói thiền thơ. Trên tòa hoa sen nghìn đóa hoa nở, một nhành liễu cắm trong bình cam lộ, Tự Tại Quan Âm quán tự tại."

Từ Âm Phật này là ai? Đáp án chính là Quan Thế Âm Bồ Tát. Hai thị giả sát sườn của A Di Đà Phật chính là Quan Âm và Thế Chí. A Di Đà Phật còn có tên gọi là Quán Tự Tại Vương Như Lai. Vị này có phải là Từ Âm Phật hay không, vẫn còn chờ nghiên cứu. Rồi A Di Đà Phật nhập vào tam ma địa của Quan Thế Âm Bồ Tát, xuất sinh ra Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát."

Vì Diêu Trì Kim Mẫu và Quan Âm có mối liên hệ mật thiết như vậy, A Di Đà Phật và Diêu Trì Kim đương nhiên cũng có mối liên hệ mật thiết.

🌟

Lại nói, Địa Tạng Bồ Tát và A Di Đà Phật có mối liên hệ mật thiết không? Xem ra chẳng có quan hệ gì. Thế nhưng, bạn chưa từng biết rằng, về mặt nhân địa, A Di Đà Phật được gọi là Pháp Tạng tì kheo, Pháp Tạng tì kheo và Địa Tạng tì kheo là cùng một thể. Cũng chính là khi tu hành nhân địa, Địa Tạng và Pháp Tạng đồng thể, khi đạt quả vị cũng phân thành hai vị:

  1. A Di Đà Phật.
  2. Địa Tạng Bồ Tát. Do vậy, A Di Đà Phật cũng không thể tách rời khỏi Địa Tạng Bồ Tát.

Rất nhiều người cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là giáo chủ của âm gian, chuyên quản địa ngục. Thật ra, Địa Tạng Bồ Tát có vô số phân thân: Đàn Đà Địa Tạng quản địa ngục, Bảo Châu Địa Tạng quản ngạ quỷ, Bảo Ấn Địa Tạng quản súc sinh, Trì Địa Địa Tạng quản tu la, Trừ Cái Chướng Địa Tạng quản nhân đạo, Nhật Quang Địa Tạng quản thiên đạo. Địa Tạng còn có sáu thị giả, cũng phụ trách lục đạo.

Còn có: Diên Mệnh Địa Tạng. Thắng Quân Địa Tạng. Tôi đã tương ứng với Diêu Trì Kim Mẫu, rồi tương ứng với A Di Đà Phật, thứ ba là tương ứng với Địa Tạng Bồ Tát, cũng là có nguyên nhân của nó!

🌟

Có người nói với tôi: "Khả năng tôi không hợp với Lư Sư Tôn!" Tôi nói: "Vì sao vậy?" Người đó nói: "Nói chung là cảm thấy chướng ngại khắp nơi!"

Tôi hỏi: "Thế anh có hợp với A Di Đà Phật không?" Hình như anh ta có đôi chút hiểu ra. (Các đệ tử hãy nghĩ xem, bạn có hợp với Diêu Trì Kim Mẫu không? Có hợp với A Di Đà Phật không? Có hợp với Địa Tạng Bồ Tát không? Thế thì, vẫn còn chưa ngộ ra à!)

35. Hồ sơ Đại Uy Đức Kim Cang

Tôi tu pháp Kim Cang Minh Vương, chủ yếu là tu Đại Uy Đức Kim Cang. Khi tôi và Đại Uy Đức Kim Cang tương ứng: Lư Sư Tôn biến hiện Đại Uy Đức Kim Cang, nhập vào biển Tây phương Đại Hương Thủy, nhiều tay nhiều chân nhiều mặt. Múa võ uy mãnh. Đáy biển rung chuyển. Nước biển cuồn cuộn, đến tận cõi Tam thiền thiên. Ánh sáng chiếu tới ba nghìn đại thiên thế giới.

Bốn biển đều nổi sóng lớn. Ngọn lửa kim cang đốt cháy đến cõi Tam thiền thiên. Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên hết sức sửng sốt kinh ngạc.

🌟

Thế nào là Uy? Đó là sức mạnh vĩ đại hàng phục cái ác. Thế nào là Đức? Đó là công lao bảo vệ cái thiện. Đại Uy Đức Kim Cang trong Tạng mật có nhân duyên với Diễm Ma Thiên, một vị đã làm náo động ghê gớm tới chúng sinh hữu tình. Vì thế mà hài cốt của chúng sinh chất cao như núi. Chính pháp luân Văn Thù Bồ Tát của A Di Đà Phật nhập vào tam ma địa của Diêm Ma Pháp Vương, biến hiện thành Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, hàng phục Diễm Ma Thiên.

Đại Uy Đức Kim Cang là một trong Ngũ Đại Minh Vương. Bản địa là A Di Đà Phật hoặc Văn Thù Bồ Tát. Trong Đông mật, Đại Uy Đức Kim Cang có ba mặt sáu cánh tay, cưỡi trâu trắng khổng lồ. Ấn tướng giống với Văn Thù Bồ Tát. Tên tiếng Phạn là Yamantaka.

🌟

Do tôi tương ứng với Đại Uy Đức Kim Cang, lĩnh ngộ được đạo lý tối cao về "hợp thể" và "biến thân" của Mật giáo. Tôi nói: Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát hợp thể biến thân thành Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. A Di Đà Phật nhập vào tam ma địa của Quan Thế Âm Bồ Tát, hợp thể biến thân thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát nhập vào thân ngựa, hiện tướng Mã Đầu Minh Vương, trở thành Phẫn nộ tôn, cũng tức là Mã Đầu Quan Âm. Văn Thù Bồ Tát nhập vào tam ma địa của Diêm Ma Pháp Vương, hợp thể biến thân thành Đại Uy Đức Minh Vương. ...

🌟

Tôi phát hiện ra: Tương ứng --- hợp thể. Chuyển thức --- biến thân. (Đạo lý tối cao của Mật giáo đã xuất hiện rồi.) Chúng ta tu hành Mật giáo, cùng Bổn tôn tương ứng hợp thể, do chuyển thức biến thân mà thành Phật. Hợp thể và biến thân là điểm mấu chốt.

Điều này có thể ứng dụng vào khoa học: Thực vật và thực vật ghép cành, tạo ra loại hoa quả mới. Động vật và động vật hợp thể, tạo ra động vật mới. Vi khuẩn và vi khuẩn hợp thể, tạo ra vi khuẩn biến chủng mới. ...

Lư Sư Tôn tôi và chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên, hợp thể. Biến thân thành Liên Sinh Phật. Điều này có nghĩa là Lư Sư Tôn tôi đã phát hiện ra đạo lý tối cao của Mật giáo rồi. Lư Thắng Ngạn cũng chẳng phải Lư Thắng Ngạn, cũng tức là Lư Thắng Ngạn. Đâu là nơi sinh ra của Liên Sinh Hoạt Phật? Chẳng phải gì khác, là hợp thể và biến thân mà thôi!

36. Hồ sơ Vua Tây Hạ

Có người nói tôi từng là một trong những vị Quốc vương của nước Tây Hạ. Bởi vậy, tôi tiến nhập vào trong kí ức về kiếp trước của tôi. Tôi bất ngờ phát hiện ra, trong sự thảng thốt ngơ ngẩn, quả thật có kí ức này, lần lượt từng hình ảnh hiện ra. Tôi nhớ đến núi Hạ Lan. Nhớ đến sa mạc lớn ở phương bắc. Nhớ đến sông Hoàng Hà, Ngọc Môn, Tiêu Quan, Đại Mạc….. Nhớ đến tộc người Đảng Hạng. Nhớ đến Đại Tống, Liêu Quốc. Nhớ đến người Mông Cổ. Như vậy, khi xâu chuỗi lại với nhau, tôi mơ hồ nhớ ra nước Tây Hạ, Đại Tống, Liêu Quốc, thế chân vạc Tam Quốc.

Người Tây Hạ chính là tộc người Đảng Hạng, sống ở vùng núi Hạ Lan. Những vùng đất khác mở rộng về phía đông tới sông Hoàng Hà, phía tây tới Ngọc Môn, phía nam tới Tiêu Quan, phía bắc tới Đại Mạc.

Người Tây Hạ tin Phật. Lập quốc hơn một trăm năm, tôi từng là Quốc vương. Kinh đô là phủ thành Hưng Khánh. Nhân dân sinh sống an vui.

🌟

Tôi từng sống trong hoàng cung. Có hoàng hậu, phi tần. Cuộc sống vô cùng vui vẻ. Có những thành viên thị tộc của chúng tôi.

Ở nước Tây Hạ, do Phật giáo hưng thịnh nên đã xuất hiện rất nhiều cao tăng. Đáng tiếc là, kiến quốc hơn trăm năm, đột nhiên bị đại quân của Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ đánh chiếm. Vương triều Tây Hạ diệt vong. Dân tộc Đảng Hạng đã biến mất.

Điều đáng vui mừng duy nhất là tộc người Tây Hạ vô cùng đoàn kết, đối kháng với đại quân Mông Cổ, chiến đấu hăng hái không ngừng. Đại quân Mông Cổ tấn công thành mãi không xong. Có vài lần đại chiến đánh Phủ Hưng Khánh nhỏ bé. Đại quân Mông Cổ cuối cùng đã chiếm được phủ thành. Cuộc chiến diễn ra nửa năm, khiến Thành Cát Tư Hãn bách chiến bách thắng tức chết.

Trong kí ức của tôi có kí ức còn sót lại về việc bị giết, trước khi chết là một màn đen u ám. Tôi biết, đó chính là chết.

🌟

Người hỏi: "Lư Sư Tôn từng là Quốc vương Tây Hạ phải không?" Tôi đáp: "Giống như mộng."

Người hỏi: "Có phải là điều tốt không?" Tôi đáp: "Có tốt xấu sao?"

Người hỏi: "Nhớ về Quốc vương Tây Hạ, ngài có cảm tưởng gì về xưa và nay?" Tôi đáp: "Hôm nay vẫn là tiếp tục của ngày xưa, vẫn là do ngày xưa để lại."

Người hỏi: "Vì sao vậy?" Tôi đáp: "Những con dân ngày xưa, thì là đệ tử ngày nay!" (Các thánh đệ tử có chú ý thấy không? Bất kì việc gì cũng tồn tại nhân duyên, đây chính là trong cõi vô hình đã có định số.)

37. Hồ sơ Xá Lợi Phất

Trong quá trình học Phật, tôi vô cùng kính ngưỡng Văn Thù Bồ Tát và Xá Lợi Phất tôn giả. Bởi vì: Phật giáo Đại thừa nhận định Văn Thù Bồ Tát là bậc trí huệ đệ nhất. Phật giáo Tiểu thừa nhận định Xá Lợi Phất tôn giả là bậc trí huệ đệ nhất.

Cá nhân tôi sinh ra đã ngu dốt, tự nhận mình không phải là có căn khí lớn, chỉ dựa vào nghị lực. Tôi rất tinh tấn. Tôi có sự nỗ lực bền bỉ. Mỗi ngày tôi viết văn, tu pháp, tụng kinh, chưa bao giờ gián đoạn.

Người đầu tiên nói tôi là Xá Lợi Phất chuyển thế là cư sĩ Phương Vĩnh Lai, ông đã công bố trong tác phẩm của ông. Nhưng tôi không dám tin, bởi vì tôi có căn cơ ngu dốt.

Sau này, Thượng sư Thubten Dorjie xác nhận tôi là Xá Lợi Phất tôn giả chuyển thế. Cư sĩ Phương Vĩnh Lai cũng nói, mặc dù tôi là Xá Lợi Phất chuyển thế, nhưng bản thân tôi lại vẫn chưa phát huy trí huệ của Xá Lợi Phất, nói cách khác là trí huệ vẫn chưa khai phát.

Đây là việc rất kì lạ chăng? Tôi là Xá Lợi Phất chuyển thế, nhưng lại không có đại trí huệ của Xá Lợi Phất.

🌟

Một ngày. Tôi đã minh tâm kiến tính rồi. Lư Sư Tôn lúc này, Phật trí đột ngột hiển hiện, trí huệ tuôn chảy nghìn lý vạn dặm, thao thao bất tuyệt, vĩnh viễn không dừng lại.

Tôi phát giác ra: Trí huệ bát nhã đại viên mãn như thế đó. Phật huệ như tấm gương tròn lớn. Phật huệ là trí huệ đại thù thắng. Phật huệ phổ chiếu thập phương thế giới.

Tôi đã có thể hợp nhất với Xá Lợi Phất tôn giả rồi. Tôi tự nghĩ, tôi vốn là kẻ ngu dốt, chỉ vì nghị lực mà tôi đột phá thoát khỏi sự ngu dốt, thành người đầy triển vọng là như vậy.

Vì sao tôi có được nghị lực này? Xin đọc "Trí Độ Luận" (Quyển 2). Phật nói: "Xá Lợi Phất, đời đời vững tâm, không được dao động!" "Tăng Nhất A Hàm Kinh" viết: "Trí huệ đệ nhất, vô cùng vô tận, không còn gì nghi ngờ, đó là tỳ kheo Xá Lợi Phất." "Trí Độ Luận" nói: "Tất cả trí huệ của chúng sinh, duy trừ Đức Phật Thế Tôn, muốn so sánh với Xá Lợi Phất về trí huệ và sự hiểu biết sâu rộng, thì trong mười sáu phần cũng vẫn chưa đạt được một phần."

Bản địa của Xá Lợi Phất: "Thành Phật đã lâu, Phật hiệu là Kim Long Đà, Phật Thích Ca thọ kí là Hoa Quang Phật, là đệ tử trí huệ bên phải của Phật Thích Ca, Mục Kiền Liên là đệ tử bên trái."

🌟

Ngày xưa. Thượng sư Thubten Dorjie nói: "Lư Sư Tôn, con là Xá Lợi Phất đúng chứ?" Tôi đáp: "Xưa cũng thế, nay cũng thế." Thượng sư Thubten Dorjie nói: "Trí huệ của Xá Lợi Phất ra sao?" Tôi đáp: "Chẳng gì sánh bằng, không gì bì kịp." Thượng sư Thubten Dorjie hỏi: "Con là Xá Lợi Phất, ai minh chứng cho con?" Tôi nói: "Cảm tạ Thượng sư đã minh chứng."

38. Hồ sơ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ

Lúc tôi ở Nepal, tôi đã đến thăm nhà của Đại Bảo Pháp Vương, vị Rinpoche trụ trì vừa trông thấy tôi liền nói: "Lư Sư Tôn là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chuyển thế." (Xin tham khảo thêm bức thư của trụ trì gửi đến.)

Tổ Cổ Rinpoche nói: "Lư Sư Tôn là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giáng thế." Thổ Đăng Ca Thố Rinpoche nói: "Lư Sư Tôn là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tái sinh." ...

Những lời tán dương này của các vị Rinpoche dành cho tôi có đáng tin không? Tạm thời chưa bàn vội, tôi cũng chưa nói đúng sai.

Căn cứ theo "Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ", thời kì Phật giáo Tiểu thừa, thời kì Phật giáo Đại thừa, ở vùng Uddiyana Ấn Độ từ lâu đã thịnh hạnh Phật giáo bí mật. Những người ẩn cư tu hành Mật giáo cực kì nhiều, thành tựu giả lúc ẩn lúc hiện, chỉ là vẫn chưa phổ biến rộng khắp. Còn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là một thành tựu giả cực kì vĩ đại, trong lịch sử Mật giáo Ngài là vị đứng đầu.

"Thân của Thích Ca, ngữ của Di Đà, ý của Quan Âm", Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là ứng hóa thân kim cương của Tam Mật Tam Thánh hợp thành một thể. Liên Sư hóa thân trong một bông hoa sen ngũ sắc trên biển Đạt Lạp Ca Tú. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thành tựu phi phàm, viên chứng hết thảy Phật pháp. Ngài hoằng pháp tại Ấn Độ, Nepal, sau đó nhận lời mời của vua Tây Tạng là Trisong Detsen đến Tây Tạng hoằng pháp. Liên Sư là người đầu tiên sáng lập Mật tông Tây Tạng.

Danh ngôn của Liên Sư: "Ta chẳng đến chẳng đi, người nào tin vào ta, ta sẽ hiện thân trước mặt người đó." Danh ngôn của Liên Sư: "Cắt đứt mọi mong cầu tham vọng đối với thế gian. Giải thoát khỏi 88 kiến hoặc trong ba cõi. Với ngũ độc thế gian, khéo léo vận dụng tự nhiên... Người kính sư, trọng pháp, thực tu sẽ đắc!"

🌟

Khi tôi mới chứng thông lực, tôi lập tức gặp được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Đại Sĩ đã đưa tôi vào trong ngôi mộ cổ trong hang động. Ngài ban cho tôi hai quán đảnh:

Thứ nhất: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thị hiện thân cầu vồng, toàn thân sáng chói như cầu vồng, ánh sáng bảy sắc chói lòa, khiến người ta khâm phục. Tất cả ánh sáng hóa thành điểm sáng, lần lượt đi vào bên trong từng lỗ chân lông của tôi. Tôi lúc này tự nhiên hóa thành người ánh sáng, nhục thân biến thành sáng trong suốt, toàn bộ là cầu vồng Liên Sư.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi: "Đây là quán đảnh 108 pháp của Hồng giáo, tất cả mọi tinh yếu của các pháp trong Hồng giáo đã nằm trong người ngài rồi."

Thứ hai: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ biến hiện thành Liên Sư tướng phẫn nộ, miệng há to, nuốt tôi vào trong bụng ngài. Nhục thân của tôi ở bên trong ngài, hóa thành một giọt minh điểm trắng tinh khiết, sáng chói thấu trời thấu đất, một hạt ngọc trắng lăn đều, đến cuối cùng phóng ra từ mật luân của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi: "Ngài là người hóa ra từ minh điểm của ta. Lư Sư Tôn, tinh hoa truyền thừa của ta đều nằm trên người ngài rồi."

Tôi hỏi Liên Sư: "Làm sao đắc giải thoát?" Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đáp: "Có chỗ nào không phải là giải thoát?" Tôi hỏi Liên Sư: "Đây là quán đảnh gì?" Liên Hoa Sinh đáp: "Xuyên phá nhữ tâm." (Thánh đệ tử, hãy nhớ rõ bốn chữ "xuyên phá nhữ tâm" này. Bốn chữ này có ý nghĩa gì?)

39. Hồ sơ Tsongkhapa

Thủy tổ sáng lập nên phái Mật giáo Hoàng giáo, Ngài Tsongkhapa sinh ra tại phủ Tây Ninh, tỉnh Cam Túc, vốn thông minh tinh nhanh. Năm 14, Ngài tu học tại miếu Thích Ca thuộc tự viện Tashi Lhunpo. Ngài tu trì thành tựu tại tu viện Ganden.

Tsongkhapa nhìn ra những hủ tục của Hồng giáo là chỉ chuyên tu thần thông, nuốt dao khạc lửa, không giữ giới luật, dâm dật hừng hực.

Tsongkhapa đã thực thi ba việc để cải tổ Hồng giáo:

  1. Giữ giới luật, thay đổi quần áo, mũ thành màu vàng.
  2. Thay đổi chú thuật.
  3. Thiết lập chế độ Hoạt Phật chuyển thế.

Tsongkhapa có ba đại đệ tử giúp đỡ là: Đại đệ tử Khắc Chủ Kiệt, chuyển thế thành Panchen Lama. Trung đệ tử Thích Ca Dã Thất, chuyển thế thành Chương Gia Hoạt Phật. Tiểu đệ tử Căn Đốn Chủ, chuyển thế thành Dalai Lama.

Tsongkhapa là đại thành tựu giả một mình tập hợp Tạng mật, những trước tác của Ngài rất nhiều, bao gồm: Giới luật. Học thuật. Thực tu. Ba thứ đều quan trọng. Đến khoảng giữa triều Minh, danh tiếng của phái Hoàng giáo đã nhanh chóng vượt trội so với các giáo phái khác.

🌟

Có nhiều vị Rinpoche công nhận tôi là Tsongkhapa tái sinh. Thượng sư Liên Thường cũng nói: "Lư Sư Tôn căn bản chính là Tsongkhapa!"

Những điểm tương tự là:

  1. Những người Tây Tạng đều nhận định Tsongkhapa là tái sinh của A Di Đà Phật, Văn Thù Bồ Tát. Lư Sư Tôn là Liên Hoa Đồng Tử, chính là hóa thân của A Di Đà Phật, là hóa thân của Chính Pháp Luân Văn Thù Bồ Tát.
  2. Vị Ganden Tripa đời thứ 100 đại diện cho Tsongkhapa đã đích thân đến Seattle thăm Lư Sư Tôn, cùng lên pháp tọa và tặng cho tôi áo bào Pháp Vương.
  3. Thành tựu của Lư Sư Tôn tập hợp hết thảy mọi pháp tu trì trên toàn bộ bản thân, về mặt học thuật là người gom góp tập hợp lại Mật pháp.
  4. Nghị lực của Tsongkhapa và nghị lực của Lư Sư Tôn là nghị lực số một, ngang hàng nhau.
  5. Sinh ra đã giống như Phật.

🌟

Khi tôi giảng giải "Mật tông đạo thứ tự quảng luận" của Tsongkhapa, Tsongkhapa đã đích thân hiện thân ở trong hư không, phóng tỏa hàng trăm tia sáng trân quý, ánh sáng mềm mại miên man dày đặc, những sợi ánh sáng như sợi tơ, xoay tròn uyển chuyển, thực sự là quá thù thắng. (Tôi tuyệt đối không nói khoác.)

Tôi hòa tan vào trong thân Tsongkhapa. Tsongkhapa đi vào trong thân tôi. Suốt cho đến khi tôi giảng xong "Mật tông đạo thứ tự quảng luận". Sự thân thiết giữa tôi và Tsongkhapa, tôi cũng không có lời nào có thể nói hết được.

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn có phải là Tổ sư Tsongkhapa tái thế không?" Tôi đáp: "Nhập môn gặp Di Đà, xuất môn gặp Quan Âm." Người hỏi: "Là ý gì?" Tôi đáp: "Nhập môn gặp ai? Xuất môn gặp ai? Ai là ai?"

Người ta lại hỏi: "Tôi vẫn cứ hỏi lại ngài, ngài có phải là Tsongkhapa tái thế không?" Tôi đáp: Thích Ca chưa từng xuất thế. Thuyết pháp bốn mươi chín năm. Lư Sư chưa từng xuất thế. Là ai có chi bận lòng. (Bài kệ này xin mọi người ngẫm nghĩ.)

40. Hồ sơ Không Hải đại sư

Tôi có cảm tình đặc biệt đối với nước Nhật. Vào thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, những hành động xâm lược của đất nước này thực sự khiến người ta khinh miệt. Tuy nhiên, đây không phải là lỗi của toàn bộ người dân nước Nhật, mà là lỗi của quân phiệt Nhật Bản đầy rẫy dã tâm (chủ nghĩa chiến quốc).

Tôi thích đến Nhật Bản du lịch, Kyushu, Honshu, Shikoku, Hokkaido đều đã có dấu chân của tôi. Trong trí nhớ của tôi, tôi có một kiếp từng tái sinh tại Nhật Bản. Mỗi lần đến nước Nhật, cái sức mạnh cảm ứng đó càng ngày càng mạnh. Oda Nobunaga? Tokugawa Ieyasu? Toyotomi Hideyoshi? ...?

Tôi cảm ứng thấy bản thân mình vô cùng có quyền thế, khí huyết tràn đầy tinh thần võ sĩ đạo. Ở Nhật, tôi phát hiện ra mình giống như đại anh hùng uy danh lừng lẫy. Miyamoto Musashi? Sasaki Kojirou? Tướng quân Mạc phủ?

Đương nhiên những tên gọi này chỉ là huyễn tưởng, nghĩ sâu hơn một chút nữa, lẽ nào tôi là người sáng lập Đông mật Nhật Bản - Không Hải Đại Sư.

Trong đầu tôi xuất hiện hai người: Một vị là Truyền Giáo Đại Sư học pháp từ núi Thiên Thai. Một vị là Hoằng Pháp Đại Sư học pháp từ chùa Thanh Long.

Cuối cùng, Truyền Giáo Đại Sư biến mất, chỉ còn lại hình bóng của Hoằng Pháp Đại Sư. Hoằng Pháp Đại Sư (Không Hải) là khai tổ của Chân ngôn tông Nhật Bản. Ngài từng là học tăng Khán Đường, đã đến chùa Thanh Long ở Tây An bái Acharya Huệ Quả làm thầy, có được hết Mật pháp. Sau khi trở về nước, ngài đã học thông hiểu rộng Mật điển, sáng lập ra môn Đông mật.

Ở Nhật, tôi đã đi: Trường Môn [ Nagato ] - bến đầu tiên mà Không Hải Đại Sư cập bờ sau khi trở về nước. Tứ Quốc [ Shikoku ] - nơi có 88 đạo tràng tâm linh và 88 chùa của Không Hải Đại Sư. Cao Dã Sơn [ Kouya ] - núi đại bản doanh của Chân ngôn tông của Không Hải Đại Sư. Thanh Long Tự - tu viện ở Tây An nơi Không Hải Đại Sư đã đến cầu pháp, đã lên lầu Vọng Hải mà Acharya Huệ Quả đã xây dựng. (Sư phụ nhớ đệ tử.) Tôi đã đến hang động nơi Không Hải Đại Sư bế quan tu luyện. Ở Cao Dã Sơn, tôi đã tận mắt nhìn thấy Không Hải Đại Sư hiện thân, đeo cho tôi hai bộ ngọc ấn Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới. Không Hải Đại Sư nhập vào trong người tôi. Tôi nhập vào trong người Không Hải Đại Sư. Thế là, đã rõ rồi!

🌟

Ý nghĩa của hai chữ Không Hải: "Thành tựu ở phẩm cấp đầy đủ phương tiện diệu dụng hấp thu hết thảy pháp của đấng Như Lai, giống như cái Không bao gồm cái Sắc, như biển tiếp nhận mọi dòng chảy đổ vào. Tập hợp bao gồm mọi dòng chảy của kinh luận, đều quy về Không Hải"

"Khi biết phẩm cấp ngày nay vẫn là phương tiện của Như Lai để hấp thu hết thảy mọi pháp, giống như cái Không bao gồm cái Sắc, như biển tiếp nhận mọi dòng chảy đổ vào." "Tập hợp bao gồm mọi dòng chảy, đều quy về biển Không ngày nay." Không Hải Đại Sư và tôi có điểm chung: Không Hải Đại Sư độ cho mẫu thân quy y, đã phá lệ mà cạo tóc cho mẹ. Tôi độ cho mẹ tôi quy y, tiếp dẫn mẹ tôi đến Tây phương Cực Lạc thế giới, đích thân dẫn dắt. Các đệ tử Nhật Bản của tôi đều nói tôi là Không Hải Đại Sư chuyển thế. Tôi cười lớn ha ha ha.

Người hỏi: "Lư Sư Tôn có phải là Không Hải Đại Sư không?" Tôi đáp: "Anh đã thấy biển chưa?" "Đã thấy!" Tôi đáp: "Biển chính là Không Hải, cũng chính là Lư Sư Tôn!"

41. Hồ sơ Lục Tổ

Y bát của Thiền tông được truyền đến vị tổ thứ sáu. Nghĩa là, Sơ Tổ Đạt Ma, Nhị Tổ Huệ Khả, Tam Tổ Tăng Xán, Tứ Tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Lục Tổ Huệ Năng. Đây là sáu vị tổ sư của Trung Thổ.

Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư họ Lư, là người Tân Hưng, Quảng Đông. Ngài đã từ biệt mẹ để đến Hoàng Mai, Đông Sơn cầu pháp. Sau khi có được pháp, ngài đã trốn đội thợ săn nhiều năm, trở về chùa Nam Hải Pháp Tính, mở ra pháp môn Đông Sơn. Giảng "Lục Tổ Đàn Kinh". Sau khi tọa hóa, trở thành xá lợi nhục thân, được thờ tại chùa Nam Hoa ở Tào Khê. [ ND: tọa hóa là hòa thượng ngồi thiền rồi cứ như vậy viên tịch ]

Còn nữa: Lục Tổ ba tuổi đã mồ côi cha, nhà nghèo, phải chặt củi nuôi mẹ, nghe người ta đọc Kinh Kim Cang mà thấy tỉnh ngộ. Ngài đã lặn lội đến Hoàng Mai, Đông Sơn cầu pháp. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư hỏi: "Anh từ đâu đến?" Huệ Năng đáp: "Lĩnh Nam." Ngũ Tổ nói: "Người Lĩnh Nam không có Phật tính." Lục Tổ đáp: "Con người có nam bắc, Phật tính không có nam bắc." (Đây là "lợi căn" bình đẳng tính của Lục Tổ.)

Bài kệ của Lục Tổ: "Bồ đề chẳng phải cây Gương sáng cũng chẳng có Vốn dĩ chẳng có gì Lấy đâu mà bám bụi." (Mặc dù không phải thơ khai ngộ, nhưng nói thẳng vào tính Không.)

Sau khi được Ngũ Tổ điểm hóa thì mới khai ngộ. Được Trí Quang Luật Sư ban cho cụ túc giới. Ngài sống thọ 76 tuổi rồi tọa hóa.

🌟

Khi mới học Phật, tôi sống tại một con ngõ phía trong đường Tinh Vũ, thành phố Đài Trung. Có một tăng nhân không biết tên đi qua, hét lớn: "Hành giả Lư, xuất gia đi!"

Tôi bước ra ngoài cửa, cả con ngõ không một bóng người nào. Lần đầu gặp pháp sư Huệ Long, pháp sư vừa thấy tôi đã kêu lên: "Hành giả Lư, anh đã đến rồi à!" Tôi và Lục Tổ cùng mang họ Lư.

Còn nữa: Khi còn nhỏ, nhà tôi thanh bần. Nhà của Lục Tổ cũng nghèo.

Còn nữa: Vị thầy cạo tóc xuất gia cho Lục Tổ ban đầu quy y Lục Tổ trước, sau đó lại cạo đầu cho Lục Tổ. Vị thầy cạo tóc xuất gia cho tôi cũng quy y tôi trước, sau đó lại cạo đầu cho tôi.

Còn nữa: Khi bắt đầu học Phật, tôi đã đọc "Lục Tổ Đàn Kinh", trải qua nhiều năm nghiên cứu, cuối cùng tôi đã minh tâm kiến tính. Sau khi minh tâm kiến tính, tôi đột ngột khai mở Phật huệ, giảng "Lục Tổ Đàn Kinh", mọi thứ đều sáng tỏ. Do rất nhiều nhân tố, có người nhận định tôi là Lục Tổ Lư hành giả, chuyển thế thành Lư hành giả ngày nay. Đúng? Sai? Bàn tán xôn xao.

🌟

Người hỏi: "Ai ai cũng nói ngài là Lục Tổ Huệ Năng chuyển thế, ngài có cảm tưởng gì?" Tôi đáp: "Bây giờ tôi đang ở đâu?" (đáng suy ngẫm) Người hỏi: "Ngài rốt cục có phải là Lục Tổ Huệ Năng không?" Tôi đáp: "Chẳng dựa vào đâu cả, ai bảo tôi là Lư hành giả chứ. Là Lư hành giả thì sao? Không phải là Lư hành giả thì sao?"

Tôi viết một bài kệ: "Mật Uyển tịnh tọa một lư hương. Ngộ ra nghĩ suy đều trống rỗng. Vọng tưởng vọng tưởng chẳng vọng tưởng. Phải hay không phải bàn làm chi."

Thử hỏi các thánh đệ tử có hiểu bài kệ này không?

42. Hồ sơ Phiền não

Lư Sư Tôn từng nói: "Tôi chẳng có phiền não!" Thế nhưng, trên thực tế, những việc phiền não của tôi so với người bình thường nhiều không thể đếm nổi. Vì sao vậy? Bởi vì với năm triệu đệ tử quy y tôi, công việc hoằng pháp vừa nhiều vừa nặng, phiền não của năm triệu đệ tử cũng chẳng khác gì phiền não của tôi. Bởi vậy, có thể nói là tôi không có phiền não sao?

Tôi biết, tất cả phiền não đều là vì cái "ngã" mà sinh ra. Tất cả phiền não đều vì "vô ngã" mà diệt vong. Bởi vậy tôi nói: "Không có phiền não!"

"Trí Độ Luận" viết: "Phiền não, nói gọn là tam độc, nói rộng là chín mươi tám kiến hoặc trong tam giới, gọi là phiền não." "Kinh Duy Ma" viết: "Thất sử cửu kết làm phiền muộn rối loạn chúng sinh, do vậy gọi là phiền não."

Chúng ta phân phiền não thành: Cây phiền não --- sum suê um tùm. Sông phiền não --- dòng sông phiền não, cuốn trôi hết sạch người trời. Biển phiền não --- phiền não của chúng sinh sâu rộng như biển. Bệnh phiền não --- phiền não sẽ sinh ra tâm cáu giận, giống như bệnh sinh ra từ tâm. Thói quen phiền não --- thói quen dễ sinh phiền não. Cơn phiền não --- cái khổ sinh ra ở khắp xung quanh. Trở ngại phiền não --- ngăn trở Phật tính. Kẻ trộm phiền não --- phiền não gây tổn thương đến huệ mệnh, do vậy chẳng khác gì kẻ trộm. Lưới phiền não --- phiền não như chiếc lưới, chụp gọn chúng sinh. Phiền não che chắn --- chướng ngại lớn. Phiền não nhơ bẩn --- một trong ngũ trọc. Phiền não dư thừa --- phiền não do vô minh. Phiền não tâm, phiền não tạng, phiền não ma…

🌟

Chúng ta biết rằng, tham sinh phiền não, sân sinh phiền não, si sinh phiền não, ngã mạn sinh phiền não, hoài nghi sinh phiền não, ác kiến sinh phiền não. Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm kiến, đều sinh phiền não đó!

Trên thực tế mà nói: Trong thân tâm của tôi, đích thực tồn tại vô số vô số việc phiền não, đây là điều mỗi người không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, người tu hành muốn có thể cắt đứt được phiền não cũng cần chỉ bảo chúng sinh cắt đứt hết tất cả mọi phiền não. Có như vậy mới có thể siêu phàm nhập thánh.

🌟

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài có phiền não không? Làm sao ngài có thể không có phiền não được chứ?" Tôi đáp: "Trong mười hai thời, tôi an thân lập mệnh tại thế gian này, sao có thể không có phiền não, chỗ nào cũng có đầy phiền não. Thế nhưng, tôi an thân lập mệnh cũng ở trên sự nghỉ ngơi, do vậy tự xưng là không có phiền não." Người đó nói: "Nghe không hiểu lắm, không thể nào, cái gì là sự nghỉ ngơi?" Tôi đáp: "Trước đây tôi niết bàn, bây giờ niết bàn, tương lai cũng niết bàn." (Xin các thánh đệ tử ngẫm nghĩ, một người thường ở trong niết bàn thì phiền não ở đâu?)

Người đó hỏi: "Lư Sư Tôn, ngài đã nhập niết bàn đâu?" Tôi đáp: "Thân chưa nhập niết bàn, nhưng đã chứng nhập vào niết bàn đạo rồi." Người đó nói: "Ngài đang có năm triệu đệ tử, ngài có Chân Phật Tông kia mà." Tôi đáp: "Tôi chẳng có năm triệu đệ tử, tôi cũng không có Chân Phật Tông, nếu nói là có, tức là phỉ báng tôi." Người đó nói: "Ngài rõ ràng là có!" Tôi đáp: "Cảm ơn đã chỉ giáo!"

43. Hồ sơ Như huyễn

Trong "Kinh Kim Cang" có viết: "Tất cả pháp hữu vi Như mộng huyễn bào ảnh Như điện cũng như sương Nên quán chiếu như thế."

Bốn câu này vĩnh viễn in sâu trong tâm tôi.

Bài Mộng thơ của Vương An Thạch: "Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa."

Bốn câu này vĩnh viễn in sâu trong tâm tôi.

Bởi thế, đối với vạn tượng trên đời này, tôi chỉ có cười lớn ba tiếng ha ha ha, hoặc thốt lên một chữ "sướng".

"Trí Độ Luận" viết: "Tất cả mọi hành vi chỉ đều như huyễn hoặc lừa bịp trẻ con, thuộc về nhân duyên, không tự tại, không thường trụ, vì thế nói rằng chư Bồ Tát biết mọi pháp là như huyễn."

"Kinh Duy Ma" viết: "Chư pháp như huyễn, vô tự tính, vô tha tính."

"Kinh Viên Giác" viết: "Tu tập Bồ Tát như huyễn tam muội phương tiện, để dần dần khiến chúng sinh có thể rời xa được mọi cái huyễn." [ ND: như huyễn tam muội là một trong 25 tam muội, nghĩa là tam muội thấu suốt lí tất cả các pháp như huyễn, cũng chỉ cho tam muội biến hóa ra các sự vật như huyễn. Bồ Tát ở trong tam muội này, tuy dùng năng lực biến hóa của tam muội như huyễn để hóa độ chúng sinh. ]

"Trí Độ Luận" viết: "Người tu như huyễn tam muội, giống như người huyễn sống tại một chỗ, những việc huyễn đã được làm ra đầy khắp thế giới được gọi là bốn loại quân binh, cung điện, thành quách, ăn uống, ca múa, sống chết, buồn khổ, v.v... Bồ Tát cũng như thế, sống là sống trong tam muội, có thể biến hóa đầy ắp trong thập phương thế giới."

🌟

Trong sự tu tập Phật pháp của tôi, tôi đã minh chứng và nhận ra: Tôi là người huyễn. Tôi làm việc huyễn. Tôi hoằng pháp huyễn. Tôi lập tông phái huyễn. Tôi độ mọi thứ. Bởi vậy, tôi chưa bao giờ bám chấp vào mọi cái huyễn, do đó có thể tự do tự tại, đoạn trừ hết thảy phiền não và tà kiến. (Tôi biết cái huyễn, tôi rời xa cái huyễn.)

Vì sao tôi không phiền não, bởi vì tôi biết cái huyễn. Vì sao tôi không có tà kiến, bởi vì tôi rời xa cái huyễn. Tôi thấy người ta tạo dựng tông phái Phật giáo lớn, thấy người ta xây bệnh viện Phật giáo lớn, thấy người ta xây dựng đài truyền hình Phật giáo lớn, thấy người ta mở rộng địa bàn Phật giáo lớn, thấy người ta xây dựng đại học Phật giáo lớn...

Tôi nói: "Tốt!" Tôi lại nói: "Hãy dạy chúng sinh biết về cái huyễn!" Tôi còn nói: "Hãy dạy chúng sinh rời xa cái huyễn!"

Tôi độ năm triệu chúng sinh cũng tương đương chẳng hề độ năm triệu chúng sinh, bởi vì không độ năm triệu chúng sinh mới gọi là độ năm triệu chúng sinh. Tôi sáng lập Chân Phật Tông cũng tương đương chẳng hề sáng lập Chân Phật Tông, bởi vì không sáng lập Chân Phật Tông mới gọi là sáng lập Chân Phật Tông.

Có người đến hỏi việc về: "Sinh lão bệnh tử." Tôi đáp: "Vô sự!" Người đó nói: "Sao lại vô sự?" Tôi đáp: "Không có sinh lão bệnh tử!" Người ta nói, Lư Sư Tôn phát điên rồi! Tôi cười lớn ha ha ha. Đi uống hớp trà vậy!

44. Hồ sơ Ngụy kinh

Ngày xưa, có người tặng tôi một bộ "Địa Tạng Bồ Tát Hiệu Lượng Công Đức Kinh", nhân tiện đến thăm Ấn Thuận đạo sư, tôi đã dâng lên cho thầy xem. Ấn Thuận đạo sư nói: "Bộ kinh này vẫn còn khó phân rõ là kinh thật hay giả!" Tôi nghe xong mà kinh hãi. Bởi vì khi mới học Phật, tôi còn chưa biết thế nào là kinh thật? Thế nào là kinh giả? Thật sự là khó phân biệt thật giả. Sau này, tôi mới biết, kinh thư đều có thật giả. "Tử Hạ Dịch Truyện" --- người làm giả là Đường Trương Hồ. "Quan Lãng Dịch Truyện" --- người làm giả là Tống Nguyễn Dật. "Tử Cống Thi Truyện" --- người làm giả là Minh Phong Phường. ...

Cuối thời Nam Tề, nữ tiến sĩ thái học Giang Bí, năm 8, 9 tuổi, ngồi tĩnh tọa nhắm mắt, miệng tụng 21 bộ "Bảo Đỉnh Kinh", "Tịnh Thổ Kinh". (Tôi không dám nói là kinh thật.) Bởi vì không phải từ kim khẩu của Phật Đà nói ra. Tiêu Tử Lương sáng tác: "Pháp Cú Thí Kinh". "Đầu Đà Kinh". Tổng cộng có tám bộ. Cũng không phải là kinh do kim khẩu của Phật nói. …………… Ấn Thuận đạo sư nói: "Kim khẩu của Phật tuyên thuyết còn có người làm giả, huống hồ là những kinh do người đời sau ngụy tạo nên."

Ngày xưa: An pháp sư sáng tác ra 26 bộ kinh giả. Lương Tăng Hựu sáng tác ra 60 bộ khác giả kinh Tam Tạng. Triều Đường, Thích Pháp từng sáng tác ra 200 bộ kinh giả. Triều Đường, Thích Tĩnh Thái sáng tác ra nhiều bộ khác. Triều Đường, Võ Tắc Thiên cũng sáng tác ra 228 bộ kinh giả.

Ngoài ra, khi phi loan thịnh hành, một số kinh điển đương nhiên càng không phải là do kim khẩu của Phật nói ra. [ ND: phi loan là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời ]

🌟

Lư Sư Tôn tôi tôn sùng: "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh". "Chân Phật Kinh". Tôi nhận định hai kinh này đương nhiên không phải do kim khẩu của Phật nói ra.

Vào thời Đông Ngụy, năm Thiên Bình, Cao Vương Kinh là kinh điển do một vị cao vương đương thời cảm ứng được. Được liệt vào trong "Tục Cao Tăng Truyện". Được liệt vào trong "Pháp Uyển Châu Lâm" và "Phật Tổ Thống Kí". Sự linh nghiệm của việc đọc tụng kinh này vô cùng thần kì, trong bản kinh toàn là Thánh hiệu của Phật Bồ Tát, không có lời bàn luận nào khác. Do vậy, tôi cho rằng có thể tụng được.

Còn nữa: "Chân Phật Kinh" là kinh tuôn chảy từ tâm của tôi, không dám nói đó là do kim khẩu của Phật Tổ tuyên thuyết. Trọng điểm của bản kinh này là: "Lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo." "Thân khẩu ý tanh tịnh làm Pháp bảo." "Chân Phật Thượng sư làm Tăng bảo." "Vô niệm", "thân khẩu ý thanh tịnh", "Chân Phật Thượng sư tăng bảo" ở đây cũng không có gì đáng nghi ngờ. Do vậy, tôi cho rằng có thể tụng được.

🌟

Người hỏi: "Thế nào là vô niệm?" Tôi đáp: "Vô thượng chính đẳng chính giác tức là vô niệm, nói như vậy là thấu đáo triệt để tận cùng rồi!" Người hỏi: "Chưa rõ điểm sâu sắc nằm ở chỗ nào?" Tôi đáp: "Điện thờ cổ xưa không lư hương." Các thánh đệ tử, xin ngẫm nghĩ thử. Điện thờ cổ xưa không lư hương, là cái gì?

45. Hồ sơ Minh Phi

Trong đại pháp hội Thời Luân Kim Cang tại Hồng Kông, tôi có nhắc tới các pháp tu Phật Mẫu, Minh Phi, quyến thuộc. Có người họ Dương đang nghe pháp, vừa nghe đến câu Phật Mẫu, Minh Phi, quyến thuộc liền bỏ ra về. Họ Dương nói: "Phật làm gì có Phật Mẫu, Minh Phi, quyến thuộc? Tôi không tin."

Do vậy, ở đây, tôi phải giải thích rằng: Hành giả học Phật đương nhiên biết rằng, Phật là do pháp sinh ra, do vậy pháp chính là Phật Mẫu.

"Phật Báo Ân Kinh" viết: "Phật lấy pháp làm thầy, Phật từ pháp sinh ra, pháp là Phật Mẫu." Do vậy, bát nhã ba la mật là mẹ sinh ra Phật.

"Trí Độ Luận" viết: "Bát nhã ba la mật là mọi Phật Mẫu. Giữa cha mẹ thì công đức của người mẹ là sâu nặng nhất, do đó, Phật lấy Bát Nhã là mẹ, Bát Chu tam muội là cha."

Phu nhân Maya là Phật Mẫu. Đại Ái Đạo cũng là Phật Mẫu. Những người có công đức của người mẹ đều là Phật Mẫu. Phật Nhãn Phật Mẫu, Chuẩn Đề Phật Mẫu, Khổng Tước Phật Mẫu... (Trong kinh điển thì có Phật Mẫu Kinh, Phật Mẫu Bát Nhã Kinh, Phật Mẫu Bát Nê Hoàn Kinh, Phật Mẫu Khổng Tước Minh Vương Kinh...)

🌟

Còn về bộ phận Minh Phi thì: Minh --- là công đức có thể phá bỏ cánh cửa phiền não. Phi --- là tăng trưởng tất cả công đức. (Phi có ý nghĩa đặc biệt, như giới nữ trong thế gian, có thể sinh ra nam nữ, khiến nhân loại không bị diệt vong, cũng sinh ra tất cả công đức Như Lai, chính là Phi.) "Diễn Mật Sao", "Đại Nhật Kinh Sớ" đều nói như vậy.

Trong Mật giáo, các bộ chủ đều có Minh Phi. Phật bộ --- Vô Năng Thắng Minh Phi. Liên Hoa bộ --- Đa La Bồ Tát Minh Phi. Kim Cang bộ --- Kim Cang Tôn Na Lợi Bồ Tát Minh Phi. ...

Tôi truyền dạy Hỷ Kim Cang, lấy Vô Ngã Mẫu làm Minh Phi, xung quanh Ngài còn có tám đại Minh Phi. Minh Phi cũng có ý nghĩa là tăng trưởng tất cả công đức.

🌟

Quyến thuộc tức là những người phụ tá trợ giúp của chủ tôn. Phật Thích Ca Mâu Ni khi chưa xuất gia thì có Xa Nặc là sứ giả, có Ưu Đà Da là người mua vui, có Da Du Đà La là vợ, có các phi tử là nội quyến thuộc. Sau khi xuất gia, sau khi đắc đạo, Phật có năm thị giả, Di Hỉ La Đà, Tu Na Sát Đa La, A Nan, Mật Tích Lực Sĩ là quyến thuộc. Tiếp đó, các đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp đều là quyến thuộc.

Quyến thuộc của Như Lai phân chia làm năm loại: quyến thuộc do lý tính sinh ra, quyến thuộc do nghiệp sinh ra, quyến thuộc do ý nguyện sinh ra, quyến thuộc thần thông, quyến thuộc do cảm ứng sinh ra. Nghĩa là, các vị ở trong Mandala đều là quyến thuộc.

🌟

Tôi nói: Phật Mẫu, Minh Phi, quyến thuộc trong các kinh tục đều lần lượt được nói rất rõ ràng. Không thể nói: "Phật không có Phật Mẫu, Minh Phi, quyến thuộc." Tôi hỏi lại: "Phật không do Phật Mẫu sinh ra, thì từ đâu sinh ra?" "Mật giáo dùng phương tiện then chốt là Minh Phi, nếu không thì công đức tăng trưởng từ đâu ra?" "Những vật dụng hàng ngày đều là quyến thuộc, nếu không thì bạn sinh sống thế nào?"

Tôi nói: Tất cả chúng sinh đều dùng hàng ngày, nhưng lại không biết. Mẹ của bạn chính là Phật Mẫu, vợ của bạn chính là Minh Phi, những thứ xung quanh bạn chính là quyến thuộc. Tu hành nhất vị này, bạn có hiểu được không?

@@c046 046 Hồ sơ Thiền môn Người ta hỏi tôi: "Cái gì là thiền?" Tôi liếc nhìn người đó, rồi không nói câu gì. Người đó hỏi: "Ngài có biết thiền không?" Tôi đáp: "Không lời nào có thể nói, là thiền!" Người đó ù ù cạc cạc.

🌟

Phật giáo giải thích về Thiền như sau: "Trí Độ Luận": "Mọi định công đức đều là tu tư duy, thiền, nước Tần nói là tu tư duy." "Thứ Tự Pháp Giới": "Thiền là âm thanh Tây Thổ, lật ngược và trừ bỏ mọi điều ác. Thiền có thể trừ bỏ hết thảy mọi điều ác như ngũ cái dục giới, do vậy gọi là trừ ác. Hoặc lật ngược rừng công đức, hoặc tu tư duy."

[ ND: ngũ cái những ý niệm không tốt che lấp tâm thức, khiến không thấy được sáng suốt, đó là tham dục (lòng ham muốn), sân nhuế (hờn giận), thụy miên (sự mờ tối của tâm), điệu hối (trạo cử và ăn năn), và nghi ngờ (gồm nghi mình, nghi thầy, nghi pháp). ]

"Đại Thừa Nghĩa Chương": "Thiền định có bảy tên gọi, một là thiền, hai là định, ba là tam muội, bốn là chính thọ, năm là tam ma đề, sáu là sa ma tha, bảy là giải thoát."

Thiền được phân thành: Thiền thế gian. (Tứ thiền, tứ vô lượng, tứ không, sáu diệu môn, mười sáu thù thắng, thông minh.) Thiền xuất thế gian. (Quán, luyện, huân, tu.) Thượng thượng thiền xuất thế gian. (Tự tính thiền, nhất thiết thiền, nan thiền, nhất thiết môn thiền, thiện nhân thiền, nhất thiết hành thiền, trừ não thiền, đời đời lạc thiền, thanh tịnh tịnh thiền.)

Kinh điển có: "Thiền hành pháp tưởng kinh". "Thiền hành liễm ý kinh". "Thiền hành 37 phẩm kinh". ...

Cho đến nay, Thiền tông phân ra làm năm bộ phận: Vy Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế, Vân Môn, Pháp Nhãn. (Tuy nhiên, Vy Ngưỡng, Vân Môn đã suy tàn, Lâm Tế là phát triển nhất.)

Tôi nói: "Về biểu hiện bên ngoài thì thiền môn là tĩnh lặng suy ngẫm tư duy, biểu hiện bên trong là diệu tâm của niết bàn. Thiền không thể dùng văn tự, ngôn ngữ mà nói được." Vị thầy cạo đầu xuất gia cho tôi là Đại hòa thượng Quả Hiền, là đệ tử của tôi, ông ấy là truyền nhân của Lâm Tế Tông.

Người ta hỏi tôi: "Tu thiền thế nào?" Tôi đáp: "Anh hỏi tôi đáp."

Hỏi: "Thế nào là thiền?" Tôi đáp: "Không khua nước, cá chẳng sợ."

Hỏi: "Làm sao để từ thiền mà khai ngộ thành Phật?" Tôi đáp: "Là ai thế?"

Hỏi: "Nếu thế thì vì sao có người mê có người ngộ?" Tôi đáp: "Tôi tiến lên, anh thụt lùi."

Hỏi: "Thế nào là người trong thiền môn?" Tôi đáp: "Là người nào?"

Hỏi: "Làm sao ngài ấn chứng được người khác đã khai ngộ hay chưa?" Đáp: "Minh minh mật mật." (Thử nghĩ xem, minh minh mật mật là cái gì?)

47. Hồ sơ Pháp môn tịnh độ

Trong cuộc đời này của tôi, tôi có thể tiến vào cánh cửa tu hành, bắt đầu từ ngày Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, tôi tiến vào những cảnh giới huyễn ảo của hư không vũ trụ, tôi ngao du khắp các cõi trời và địa ngục. Và rồi, tôi đã biết lấy việc tu hành làm việc đại sự của cuộc đời. Trước tiên tôi nhập môn Đạo giáo, khi xong công đức, tôi đã có được "chứng thư đạo sĩ".

Tôi tốt nghiệp trường trắc lượng, có được bằng cử nhân kĩ sư, tôi được phân công làm việc tại liên đội trắc lượng số 5802 ở Nam Môn Kiều, Đài Trung, nơi đóng quân của liên đội cách nhà tưởng niệm Thái Hư đi bộ vài bước chân là đến. Vì nhân duyên này, ở nhà tưởng niệm Thái Hư, tôi đã nghe cư sĩ Lý Bỉnh Nam giảng "Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương". Cư sĩ Lý Bỉnh Nam chủ trương tu pháp môn Tịnh độ.

Từ đó, tôi quy y Phật môn: Ấn Thuận đạo sư --- Lý Bỉnh Nam giới thiệu. Lạc Quả pháp sư --- Triệu Cơ giới thiệu. Đạo An pháp sư --- Vương Nhất Chi giới thiệu. Đây là ba vị sư phụ Hiển giáo của tôi.

🌟

Do ảnh hưởng của cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi đã học Tịnh độ tông trước. "Nhiếp Luận" viết: "Cõi sinh sống đó, không có ngũ trọc, trong như ngọc thủy tinh, do vậy gọi là cõi tịnh độ." "Đại Thừa Nghĩa Chương" viết: "Trong kinh có khi gọi là Phật địa, hoặc gọi là Phật quốc, Phật giới, Phật thổ. Hoặc còn gọi là Tịnh sát, Tịnh thủ, Tịnh quốc, Tịnh độ."

Tịnh độ tông coi Phổ Hiền là vị tổ đầu tiên, chủ trương niệm Phật vãng sinh. Pháp sư Tấn Huệ Viễn chủ yếu niệm Phật vãng sinh, khởi xướng pháp môn tịnh độ, sống tại Lư Sơn, tạo lập liên xã. Đàm Loan nhà Ngụy, Đạo Xước nhà Đường đều chuyên tu tịnh độ.

Pháp môn tịnh độ có bảy bộ kinh: "Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh", "Đại A Di Đà kinh", "Vô lượng thọ kinh", "Quán vô lượng thọ kinh", "A Di Đà kinh", "Xưng tán tịnh độ Phật nhiếp thọ kinh", "Cổ âm thanh tam đà ra ni kinh". Có một bộ luận là: "Tịnh độ vãng sinh luận."

Hình tướng bên ngoài của cõi tịnh độ là: Trăm nghìn âm nhạc vi diệu. Gió mát ngân nga ngũ âm. Mặt đất làm bằng vàng bạc. Thất bảo lộng lẫy thơm tho. Nước thơm tám loại công đức. Người sinh ra từ hoa sen.

Phương pháp tu trì có: trì danh niệm Phật, quán tướng niệm Phật, mười sáu quán, trì chú niệm Phật, tu Di Đà đại pháp, vô tướng niệm Phật, thân khẩu ý thanh tịnh niệm Phật...

Phật Đà nói: "Trực tâm, thâm tâm, đại thừa tâm, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, vô lượng tâm, tứ nhiếp pháp, phương tiện, ba mươi bảy phẩm, hồi hướng tâm, trừ tám nạn, giữ giới hạnh, mười điều thiện."

Đó là mười bảy loại pháp môn của vãng sinh tịnh độ. Nói là dễ thì cũng dễ. Nói là khó thì cũng khó.

Tôi nói: "Pháp môn tịnh độ tương đối trực tiếp, tương đối dễ thực hành, nếu có thể nhất tâm bất loạn, niệm Phật không ngừng, Di Đà hiện lên trước mặt, tiếp dẫn bạn vãng sinh."

Còn các môn giáo khác thì tôi nói rằng: "Phật sơn quanh co nhiều cao thấp, Đường rẽ lại thông với bùn nhơ, Hành giả trên đường lâu như vậy, Rõ ràng chẳng biết đã lạc đường."

48. Hồ sơ Mật giáo

Tôi từ Hiển giáo bước vào Mật giáo nhờ có Liễu Minh Hòa Thượng. Liễu Minh Hòa Thượng là người Tứ Xuyên, khi ở Tứ Xuyên đã có quen biết với Norlha Rinpoche, đã nỗ lực hết sức để học ngài. Tôi theo Liễu Minh Hòa Thượng, vì thế có được truyền thừa của Hồng giáo.

Tôi và Hoàng Triều Sơ đến New York, gặp Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 Karmapa, nhận quán đảnh của Pháp Vương, do đó có được truyền thừa của Bạch giáo.

Tôi ở Seattle, tại Lục Hồ [ ND: Green Lake, hồ nước ngọt nằm về phía bắc của thành phố Seattle, bang Washington. ] đã gặp Sakya Chứng Không Thượng Sư, được ngài truyền thụ mọi pháp và Hỉ Kim Cang, hơn nữa còn nhận được quán đảnh Acharya, tổng cộng tôi học với ngài ba năm, có được truyền thừa Hoa giáo.

Tôi ở Hồng Kông, nương dựa vào Thubten Dorjie Thượng Sư để học tập, truyền thừa của ngài đến từ Cam Châu Hoạt Phật. Tôi đã nhận quán đảnh Vô thượng mật, quán đảnh Acharya, quán đảnh chư Tôn, quán đảnh Thời Luân Kim Cang.

Tôi ở chỗ của Thượng sư Phổ Phương là Tổng Trì Tự Phái, nhận quán đảnh Chuẩn Đề Phật Mẫu và chư Tôn. Tôi đã nhận vô số quán đảnh... Tôi học pháp tinh tấn khác thường.

Tôi tương ứng các pháp Gia hành, Thượng sư, Bổn Tôn, Kim Cang Minh Vương, Vô thượng mật, Đại viên mãn. Tôi thành tựu vô lậu, thành tựu chuyết hỏa, thành tựu minh điểm, từ đó tiến thẳng đến thành tựu thân ánh sáng, thành tựu huyễn thân, thành tựu thân cầu vồng.

Tôi nói: "Tinh thần học pháp cũng như tinh thần sáng tác của tôi tràn đầy nghị lực. Tôi đã viết hơn hai trăm cuốn sách, tôi cũng nhận quán đảnh hơn trăm pháp, tu hơn trăm pháp, lần lượt đều tương ứng." Những Rinpoche (Hoạt Phật) quy y tôi nhiều vô kể.

🌟

Người hỏi: "Thế nào là Mật giáo?" Tôi đáp: "Là cảnh giới nội chứng pháp thân Phật, thâm sâu bí mật ảo diệu, gọi là Mật giáo. Người chưa nhận quán đảnh thì không được tu học, do vậy gọi là Mật giáo. Phải được truyền qua miệng nói tai nghe, do vậy gọi là Mật giáo. Những lợi ích tự tính, những pháp lạc nhận được không lời nào mô tả được hết ý nghĩa, gọi là Mật giáo. Ý Phật thâm sâu bí mật, người bình thường chẳng thể biết, gọi là Mật giáo. Vân vân và vân vân."

Người hỏi: "Lư Sư Tôn chủ yếu tu Bổn tôn và Hộ pháp nào?" Tôi đáp: "Tôi chủ yếu tu ba Bổn tôn của tôi là Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Bồ Tát, Hộ pháp là Đại Uy Đức Kim Cang. Các Bổn tôn khác là các chư Tôn kết duyên. Nhưng tôi có mang hai bộ đại ấn của Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới, đã chứng Đại viên mãn, Đại uy đức, Đại thủ ấn, Đại viên thắng huệ."

Người hỏi: "Cõi Ma Ha Song Liên Trì Tịnh thổ của Lư Sư Tôn là do tự ngài tạo ra sao?" Tôi đáp: "Tôi thật lòng thực sự nói cho mọi người biết, tịnh thổ Mật giáo là cõi tịnh thổ bí mật trang nghiêm. Hoa Tạng tịnh thổ được nói đến trong kinh Hoa Nghiêm, Cực Lạc tịnh thổ trong kinh A Di Đà, còn Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ được phân làm bốn, hợp lại thành một. Đây chính là bí mật của bí mật, người bình thường không ai có thể tưởng tượng được cái gì gọi là một tên gọi, cái gì gọi là tên gọi khác?"

🌟

Tôi cho rằng các vị Tổ sư của Mật giáo nên được sắp xếp như sau: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ (xuất hiện sau khi Phật mới tịch diệt). Long Thọ Bồ Tát (500 năm sau khi Phật tịch diệt). Virupa (1000 năm sau khi Phật tịch diệt). Naropa (1500 năm sau khi Phật tịch diệt). Tsongkhapa (2000 năm sau khi Phật tịch diệt). XXX (2500 năm sau khi Phật tịch diệt). (Vị XXX này là ai?)

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từng dự đoán rằng: "Tại một thế giới tương lai, trong hơn hai nghìn năm sau khi Phật Đà tịch diệt, trên thế giới sẽ xuất hiện một vị Bạch Liên Hoa Vương, ngài ấy đến để kiến thiết một thế kỉ mới của Mật giáo."

49. Hồ sơ Giới luật

Tôi trịnh trọng nói: "Giới luật, giới luật, thật sự không có giới luật." (Đây là Đệ nhất nghĩa.)

"Vì sao lại có giới luật?" Tôi đáp: "Phật Đà tại thế gian đã tổ chức tăng đoàn, tăng nhân có hành vi không thỏa đáng, do vậy Phật Đà mới đưa ra giới luật. Khi xuất hiện thêm điều không thỏa đáng khác thì lại đưa ra thêm một điều giới luật nữa, nhiều điều không thỏa đáng thì lại đưa ra thêm nhiều điều luật. Cuối cùng đã hình thành nên 250 điều giới luật dành cho tì kheo, 348 điều giới luật cho tì kheo ni. Cuối cùng đã trở thành giới luật học."

"Niết Bàn Kinh" viết: "Giới là những nấc thang của tất cả thiện pháp."

"Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh" viết: "Hết thảy chúng sinh, khi mới đi vào biển Tam Bảo, lấy chữ "tín" làm gốc. Sống trong nhà Phật, lấy "giới" làm gốc."

"Đại Thừa Nghĩa Chương" viết: "Thanh mát gọi là giới, tam nghiệp nóng hừng hực thiêu đốt người tu hành, các sự vật sự việc như lửa thiêu, giới có thể giúp ngăn chặn, do vậy gọi giới là thanh mát, nhờ có thể chặn được cái ác nên gọi là giới."

Tôi nói: "Giới là công đức để phòng ngừa, ngăn chặn cái ác."

Kinh điển về giới luật có: "Giới nhân duyên kinh", "Giới đức hương kinh", "Giới hương kinh", "Giới tiêu tai kinh", "Phạm võng kinh", "Giới quả nhân duyên kinh", "Ưu bà tắc giới kinh"... Gọi chung là "Giới luật tạng".

Giới có: năm giới, tám giới, mười giới, 250 giới, có phân chia thàn giới tại gia và giới xuất gia.

Lại có giới cấm thủ: là chỉ ngoại đạo Ấn Độ khi tu hành đã giữ chặt vào những giới dị hình biệt loại phi lý, Phật môn không chấp vào những giới này, gọi là giới cấm thủ.

Giới cũng có giới Tiểu thừa, giới Đại thừa, giới Mật giáo. Tất cả giới luật đều xuất phát từ năm giới mà phân nhỏ ra, năm giới này là quan trọng số một:

  1. Giới sát sinh.
  2. Giới trộm cắp.
  3. Giới tà dâm.
  4. Giới vọng ngữ.
  5. Giới uống rượu.

Khi Phật nhập niết bàn, A Nan hỏi: "Sau khi Phật niết bàn thì lấy ai làm thầy?" Phật đáp: "Lấy giới làm thầy!" Có thể thấy tầm quan trọng của giới luật. Có người hỏi tôi: "Chân Phật Tông có giới luật không?" Tôi đáp: "Có! Phải giữ giới Đại, Tiểu thừa, giới Mật tông, giới Chân Phật Tông, giới luật còn nhiều hơn." Có người hỏi: "Vốn không có giới luật, vì sao lại đưa ra giới luật?" Tôi đáp: "Vì có chúng sinh!"

"Nếu không có chúng sinh thì sao?" "Anh vừa hỏi cái gì đấy?" - Tôi hỏi ngược lại. Người đó hỏi: "Nếu không có chúng sinh thì sao?" Tôi đáp: "Nếu không có chúng sinh." (Câu trả lời "Nếu không có chúng sinh" này của tôi hàm chứa đệ nhất nghĩa, không phải là người khai ngộ thì không thể hiểu được.)

Tôi viết bài kệ: "Năm nay sáu mươi lăm Tuổi thế gian đã dài. Chẳng đến cũng chẳng đi. Cái gì là giới luật."

50. Lời kết về các hồ sơ

Có tăng nhân thấy tôi viết về các hồ sơ, đã đưa ra mấy câu hỏi, ví dụ như: Tăng nhân hỏi: "Viết một cuốn sách về các hồ sơ, rốt cuộc Lư Sư Tôn muốn biểu đạt điều gì?" Tôi đáp: "Lẩm bẩm nói một mình."

Tăng nhân hỏi: "Có phải muốn nói rằng, Lư Sư Tôn là Pháp Vương bậc nhất? Là Tông sư bậc nhất? Là đại thiện tri thức bậc nhất?" Tôi đáp: "Chớ phụ lòng mới phải."

Tăng nhân hỏi: "Lư Sư Tôn nói bản thân chính là Phật và Tông sư chuyển thế phải không?" Tôi đáp: "Tôi nào dám lỗ mãng, tôi là Lư Sư Tôn thôi."

Tăng nhân hỏi: "Vậy rốt cuộc là ai chuyển thế?" Tôi đáp: "Là tôi chuyển thế."

🌟

Tăng nhân hỏi: "Đọc cuốn sách về các hồ sơ, người đọc có được lợi ích gì?" Tôi đáp: "Uổng phí con mắt."

Tăng nhân hỏi: "Nếu không đọc cuốn sách này thì sao?" Tôi đáp: "Uổng phí đôi tai."

Tăng nhân hỏi: "Rốt cuộc là đọc hay không đọc mới tốt?" Tôi đáp: "Người đọc sẽ đọc, người không đọc sẽ không đọc."

Tăng nhân hỏi: "Ly tứ cú, tuyệt bách phi, có phải là sẽ không còn phiền não nữa không?" Tôi đáp: "Người thực vật có phiền não hay không?"

[ ND: ly tứ cú, tuyệt bách phi là rời xa bốn câu xác nhận và phủ nhận: 1. Có; 2. Không; 3. Cũng có cũng không; 4. Chẳng có chẳng không. Đây là một lời dạy trong Thiền tông. Nếu rời xa được bốn lối tư tưởng này thì sẽ đoạn tuyệt khỏi trăm thứ sai lầm. ]

Tăng nhân hỏi: "Làm sao để không còn phiền não?" Tôi đáp: "Hoa đỏ hoa xanh loại nào cũng đẹp."

Tăng nhân hỏi: "Cũng có thể nói như thế này, hãy xem tất cả phiền não cũng là điều tốt phải không?" Tôi đáp: "Một chữ "xong" là tuyệt vời rồi!"

Tăng nhân hỏi: "Cuốn sách về hồ sơ, cũng là một chữ "xong" sao?" Tôi đáp: "Ông là thiện tri thức."

Tăng nhân hỏi: "Thế nào là ý nghĩa của việc Bồ Đề Đạt Ma từ bên Ấn Ðộ sang?" Tôi đáp: "Hãy mua cuốn sách "Hồ sơ cơ mật của Lư Thắng Ngạn"."

Tăng nhân hỏi: "Lư Sư Tôn tương lai sẽ chuyển thế đến nơi nào?" Tôi đáp: "Có nơi nào là không có tôi." "Rốt cuộc là nơi nào?" Tôi đáp: "Khắp trong thiên hạ!"

51. Phụ lục: Truyền pháp khai thị "Đại Khổng Tước Minh Vương tương ứng pháp"

Kính lễ Liễu Minh Hòa Thượng, Sakya Chứng Không Thượng Sư, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Thubten Dorjie Thượng Sư! Kính lễ Tam Bảo trên đàn thành! Kính lễ Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương!

Sư Mẫu, các vị Thượng sư, thầy dạy học, pháp sư, giảng sư, trợ giảng, các vị khách quý, các đồng môn, và cả các đồng môn đang xem qua mạng, chúc mọi người cát tường!

Hôm nay tôi muốn giảng về Đại Khổng Tước Minh Vương tương ứng pháp. Vừa nãy, khi pháp hội của chúng ta mới bắt đầu, khi nhóm nghênh đón đón tiếp Thượng sư Liên Ninh và tôi làm chủ đàn, lúc còn chưa dâng hương, tôi đã nhìn thấy toàn bộ đàn thành phát quang rồi. (mọi người vỗ tay) Chủ tôn của pháp hội và Khổng Tước Minh Vương đã hạ giáng xuống và ngự trên đàn thành rồi.

Bây giờ đã sắp năm giờ rồi, nếu như theo những gì mà Thượng sư Liên Ninh nói thì vừa nãy ngài ấy cầu thỉnh Sư Tôn giảng những pháp gì gì ấy nhỉ, nếu thế thì khả năng mọi người sẽ phải ngồi từ bây giờ cho đến tận sáng mai. Thôi thì hôm nay tôi giảng cái gì thì mọi người nghe cái đó vậy, không thể thỏa mãn lời thỉnh cầu của Thượng sư Liên Ninh được, bởi vì ông ấy cầu xin nhiều quá, tôi không thể nào giảng hết được, do vậy tôi giảng được bao nhiêu thì mọi người nghe bấy nhiêu vậy.

Trước tiên, chúng ta cầu thỉnh Đại Khổng Tước Minh Vương gia trì cho chúng ta lúc truyền thụ pháp sẽ được cát tường viên mãn. Đồng thời cũng cầu thỉnh Thượng sư đã truyền pháp Đại Khổng Tước Minh Vương cho tôi là Liễu Minh Hòa Thượng và Phổ Phương Thượng Sư gia trì viên mãn. Thượng sư của Chân Phật Tông cầu thỉnh gia trì cho chúng ta truyền pháp được viên mãn.

Dựa theo trình tự của pháp tương ứng và pháp niệm tụng, chúng ta có cải biến, có đôi chút không giống lắm với nghi quỹ thông thường, dựa theo nghi quỹ của Chân Phật Tông chúng ta để thực hành. Đầu tiên cần làm đại lễ bái, cũng cần làm tứ quy y, tứ quy y chính là quy y Thượng sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Bình thường, chúng ta niệm tứ quy y là "Nan mo guru bei, nan mo Buddha ye, nan mo dharma ye, nan mo sangha ye." Tuy nhiên, tứ quy y ở đây có khác so với tứ quy y trước đây, có điểm khác biệt. Quy y thứ nhất vẫn là "nam mo guru bei", là vị thầy truyền pháp. Quy y thứ hai chính là quy y Phật, bạn cần niệm "quy y Đại Khổng Tước Minh Vương Phật". Thứ ba, quy y pháp, là "quy y Đại Khổng Tước Minh Vương kinh". Thứ tư, quy y tăng, chính là "quy y quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương hải hội". Đây là điểm khác biệt. Một chính là tất cả, tất cả chính là một.

Vì sao Khổng Tước Minh Vương lại vĩ đại như vậy, có thể xoay chuyển định nghiệp? Vừa nãy, Liên Ninh nói là ông ấy đọc được trong kinh điển thấy rằng Khổng Tước Minh Vương cũng có thể tiêu trừ định nghiệp. Định nghiệp vốn dĩ là không thể tiêu trừ được, ngay cả Phật cũng không thể xoay chuyển định nghiệp. Vì sao Đại Khổng Tước Minh Vương lại có thể xoay chuyển định nghiệp? Hôm nay nếu như tôi không biết thì tôi đã bị Thượng sư Liên Ninh cho thi trượt rồi. Cũng may, tôi cũng có hiểu chút ít về căn nguyên của Khổng Tước Minh Vương.

Khổng Tước Minh Vương là đẳng lưu thân - một thân lưu xuất bình đẳng của Đại Nhật Như Lai, là biến hóa thân của A Di Đà Phật, là thụ dụng thân của Thích Ca Mâu Ni Phật, do vậy Khổng Tước Minh Vương có thể xoay chuyển định nghiệp.

Tôi nói cho mọi người hay, Đại Khổng Tước Minh Vương chính là Tỳ Lô Giá Na Phật, là đẳng lưu thân của Đại Nhật Như Lai. Thế nào là đẳng lưu thân? Là thân ngang đẳng cấp.

Ví dụ như bây giờ tôi là Lư Thắng Ngạn, tôi không có đẳng lưu thân. Cái gọi là đẳng lưu thân chính là có thêm một Lư Thắng Ngạn khác, là một Lư Thắng Ngạn khác có cùng power [ sức mạnh ] với Lư Thắng Ngạn này, thì được gọi là đẳng lưu thân. Sức mạnh này rất lớn, Đại Nhật Như Lai Tỳ Lô Giá Na Phật có thể nói rằng bản thân Ngài ấy là Phật ở địa thứ 13, là vị Phật rất cao. Ở trung ương của Ngũ Phật là Đại Nhật Như Lai Tỳ Lô Giá Na Phật, chính là vị Phật cao nhất trong Ngũ Phật. Tương đương với Ngài là Khổng Tước Minh Vương, là đẳng lưu thân.

Ngoài ra, còn có thân biến hóa. Tây phương cực lạc thế giới là do A Di Đà Phật biến hóa ra. Những loài chim anh vũ, khổng tước, cộng mệnh, ca lăng tần già, đều là do A Di Đà Phật biến hóa ra.

Đại Khổng Tước Minh Vương cũng tương đương với biến hóa thân của A Di Đà Phật, bởi vì Tây phương cực lạc thế giới có Khổng Tước Minh Vương đó thôi! Khổng tước là do A Di Đà Phật biến hóa ra. Do vậy, Đại Khổng Tước Minh Vương là biến hóa thân do A Di Đà Phật biến hóa ra, Ngài ấy có sức mạnh của A Di Đà Phật. Đối với bản thân A Di Đà Phật mà nói thì người có nghiệp chướng đều có thể vãng sinh đến Tây phương cực lạc thế giới, do vậy mà Khổng Tước Minh Vương có thể xoay chuyển định nghiệp.

Bạn đã có định nghiệp rồi, nhưng bạn nhất tâm quy mệnh vào Đại Khổng Tước Minh Vương thì cũng tương đương với việc bạn quy mệnh vào Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, bản thân người nhất tâm quy mệnh vào A Di Đà Phật có thể mang theo nghiệp vãng sinh. Bạn có thể mang theo nghiệp vãng sinh đến Tây phương cực lạc thế giới, như vậy chẳng phải là tương đương với xoay chuyển nghiệp sao? Đây chính là pháp lực của Khổng Tước Minh Vương.

Hơn nữa, Khổng Tước Minh Vương còn có một thân thụ dụng. Xưa kia, Thích Ca Mâu Ni Phật có một kiếp từng là Khổng Tước Vương, thân thụ dụng của bản thân Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Khổng Tước Vương, Khổng Tước Vương chính là tương đương với thân của Thích Ca Mâu Ni Phật, là như nhau. Còn Thích Ca Mâu Ni Phật là vị giáo chủ Phật giáo của thế giới Ta Bà, ở tại cõi giới Ta Bà này mà thành Phật, pháp lực của ngài vô cùng to lớn. Có ba vị Phật này, tức là đẳng lưu thân của Đại Nhật Như Lai, biến hóa thân của A Di Đà Phật, thụ dụng thân của Thích Ca Mâu Ni Phật, chính là Đại Khổng Tước Minh Vương. Do vậy, hôm nay bạn tu được tương ứng Đại Khổng Tước Minh Vương rồi thì cũng tương đương với việc bạn đã tương ứng được hết với Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật. Có sức mạnh lớn như vậy, đương nhiên bạn có thể xoay chuyển định nghiệp. Phật không thể chuyển định nghiệp, một vị Phật không thể xoay chuyển định nghiệp, nhiều vị Phật thì có thể xoay chuyển định nghiệp. (mọi người vỗ tay)

Ví dụ như việc Mục Kiền Liên cứu mẹ. Mục Kiền Liên có sức mạnh thần thông riêng của ngài ấy, đã vào đạo ngạ quỷ để cứu mẹ của ngài, ngài biến hóa ra đồ ăn để cho mẹ ăn, đồ ăn đến miệng thì hóa thành lửa không thể ăn được. Ngài trở về cầu cứu Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật nói có cách, đó chính là cách được nói đến trong kinh Vu Lan Bồn, cần phải triệu tập mọi Thánh chúng, mọi Thánh hiền tăng, cùng kết hợp pháp lực lại, thì Mục Kiền Liên có thể cứu được mẹ ra khỏi âm gian.

Giống như ngày nay, giống như là sức mạnh của một Thượng sư thì không đủ, thế nên hôm nay ở đây chúng ta có bảy mươi mấy vị Thượng sư, toàn bộ bảy mươi mấy Thượng sư đều niệm tụng kinh chú gia trì tạo nên một sức mạnh tổng hợp, thì rất nhanh chóng có thể siêu độ được cho người ta. Đây là sức mạnh của chúng Thánh hiền tăng. Hôm nay, Khổng Tước Minh Vương là tập hợp sức mạnh của các vị Phật, do vậy Ngài ấy có thể xoay chuyển định nghiệp. (mọi người vỗ tay)

Chúng ta niệm tứ quy y là quy y Căn bản Thượng sư đã truyền pháp, quy y Đại Khổng Tước Minh Vương, quy y "Khổng Tước Minh Vương kinh", quy y tất cả quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương hải hội. Ban nãy Thượng sư Liên Ninh có nói quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương rất đông, bạn muốn bày đàn thành thì cần bày cả bức tranh hải hội, phía trên là Thất Phật, từ Phật Ca Diếp cho đến Phật Thích Ca Mâu Ni, tổng cộng có bảy vị Phật. Ở phía trên bạn cần bày Thất Phật, ở giữa cần bày vị Phật tương lai Di Lặc Bồ Tát, tiếp đó là bày tất cả chúng Duyên Giác, tiếp theo bày Tứ đại Thanh Văn, bốn đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tiếp đó bày tám vị Thiên Vương, rồi đến bày 28 Dạ Xoa, rồi bày tất cả tinh tú, cửu tinh. Tiếp đến bày 12 cung, ở chính giữa là Khổng Tước Minh Vương. Từ trên xuống dưới, bức thangka này chính là bức tranh hải hội của Khổng Tước Minh Vương.

Tuy nhiên, nếu như chúng ta bố trí đàn thành như vậy, đàn thành trong nhà bạn phải dỡ ra hết và làm lại từ đầu, toàn bộ đàn thành của bạn phải là hải hội của Khổng Tước Minh Vương. Chúng ta phải làm thế nào để bố trí đàn thành của Khổng Tước Minh Vương đây?

Bạn hãy dùng cách vẽ thangka đi. Thất Phật, Di Lặc, Duyên Giác, Thanh Văn, 8 Thiên Vương, 28 Dạ Xoa, 9 chòm sao chiếu sáng, 12 cung bao lấy xung quanh, Thất Phật ở trên, 12 cung ở dưới, hai bên, xung quanh đều bao vòng lấy, ở chính giữa là Khổng Tước Minh Vương. Hoặc là tượng Khổng Tước Minh Vương, hoặc là một chiếc lông vũ của Khổng Tước Minh Vương. Đây là cách đơn giản nhất. Bạn mua được lông chim công thì bạn đặt chiếc lông ở giữa, những thứ khác thì dùng giấy đỏ để viết lên, viết toàn bộ tên của Thất Phật, Di Lặc, Duyên Giác, Thanh Văn, 8 Thiên Vương, 28 Dạ Xoa, 9 chòm sao, 12 cung, đây chính là quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương, đã bao gồm quyến thuộc gia trì cho đẳng lưu thân, quyến thuộc của biến hóa thân và quyến thuộc của thụ dụng thân, đều ở đó hết. Đây chính là cách sắp đặt một đàn pháp. (mọi người vỗ tay)

Tiếp theo, bạn muốn tu pháp Khổng Tước Minh Vương nhất định cần phải phát bồ đề tâm, phát bồ đề tâm là việc cần làm khi tu bất kì pháp nào! Từ bi hỉ xả, làm cho người khác vui vẻ, trừ bỏ đau khổ của người khác, hoan hoan hỉ hỉ mà làm mọi việc đó, có thể xả bỏ tất cả, chính là phát bồ đề tâm từ bi hỉ xả.

Tiếp đó, bạn muốn cúng dường, thế thì cúng dường cái gì? Cái gọi là ngoại cúng rất đơn giản, là những thứ bình thường chúng ta vẫn đều cúng đó. Nội cúng thì thuộc về một số điều tương đối bí mật, lấy thân khẩu ý của chính bạn chính là nội cúng. Cái gì gọi là pháp cúng? Chính là cúng Phật tính. Cái gì gọi là cúng Phật tính? Đó là ta đem Phật tính của bản thân chuyển hóa thành Đại Khổng Tước Minh Vương, bạn tương ứng với Khổng Tước Minh Vương, có thân khẩu ý giống như của Khổng Tước Minh Vương, thì đây chính là cúng dường pháp, gọi là cúng Phật tính. Cúng dường này, cái gọi là cúng Phật tính, là rất lợi hại, không được phạm một chút sai lầm nào. Đó gọi là cúng Phật tính.

Tôi đã giảng thế nào là ngoại cúng, thế nào là nội cúng, thế nào là cúng Phật tính. Tiếp theo, ta có đại lễ bái, tứ quy y, phát bồ đề tâm, đại cúng dường. Trong nghi quỹ của Chân Phật Tông chúng ta thì tiếp sau là cần quán tưởng. Thượng sư Liên Ninh có hỏi cần phải kết thủ ấn gì. Đầu tiên là kết ấn nội phộc, sau đó đầu ngón tay út chạm vào nhau, ngón cái chạm vào nhau, thế là giống một con chim khổng tước. Ngón tay cái là đầu của khổng tước, ngón út là đuôi của khổng tước, ở giữa chính là thân của khổng tước, thủ ấn này chính là biểu trưng cho khổng tước.

Ngoài ra, còn có một thủ ấn khác gọi là ấn ngoại phộc, đó cũng là ấn Khổng Tước Minh Vương. Đầu khổng tước, đuôi khổng tước, còn lại là thân khổng tước. Ấn ngoại phộc này là dùng khi bay lượn, khi tu pháp "phi không", đây chính là đôi cánh của Ngài, đôi cánh chuyển động biểu thị Ngài đang bay. Đây chính là Khổng Tước phi hành ấn. Vậy nhé, có hai thủ ấn.

Bạn kết thủ ấn xong rồi thì bắt đầu quán tưởng hư không, một sự trống không. Chú quán không để quán tưởng hư không như thế này: "Om supawa suta sarwa tarma supawa suto hang." Bạn quán tưởng hư không, niệm chú quán không, thế là thành một vòng tròn, một chú quán không, một màn hư không, một vòng tròn. Từ trong hư không, trước tiên xuất hiện chữ "玉" [ chữ Ngọc, yu ], chữ 玉 này chính là chim công, đầu tiên xuất hiện chim công.

Bạn có thể quán tưởng cánh của chim công trước, sau đó sau đó trong đôi cánh của chim công có chữ 玉, chữ 玉 rất giống một con chim khổng tước, sau đó, chữ 玉 biến hóa thành một con chim khổng tước. Tiếp đó quán tưởng chữ 邦 [ chữ Bang ], chữ 邦 trông giống một con chim, một vòng tròn. Cánh chim công, ở giữa cánh chim công có một chữ 邦, chữ 邦 có màu trắng biến thành hoa sen. Sau đó có một chữ 摩 [ chữ Ma ], hơi giống cái miệng, nhưng mà nó viết kiểu móc lên trên như thế này, gọi là 摩. Chữ 摩 sẽ biến thành Khổng Tước Minh Vương. Chữ 玉 chính là chim công, chữ 邦 chính là hoa sen, chữ 摩 chính là Khổng Tước Minh Vương. Bông hoa sen này có màu trắng. Khổng Tước là màu vàng kim, Khổng Tước Minh Vương là kết hợp màu vàng kim và màu trắng, đầu Ngài đội mũ Ngũ Phật giống như Sư Tôn, lúc này Sư Tôn cũng đang đội mũ Ngũ Phật đây.

Chúng ta học là vị Khổng Tước Minh Vương bốn cánh tay. Cánh tay phải thứ nhất của Ngài cầm hoa sen, hoa sen có màu trắng. Cánh tay phải thứ hai cầm quả câu duyên, quả câu duyên có màu đỏ. Cánh tay trái thứ nhất cầm quả cát tường, quả cát tường có màu vàng. Cánh tay trái thứ hai cầm lông chim công, lông chim công có màu sẫm, là màu xanh lam sẫm, hơi xám đen, có một chút màu lam và có cả màu đen nữa. Cũng có rất nhiều màu sắc, lông đuôi chim công có tương đối nhiều màu sắc. Cánh tay phải thứ nhất là cầm hoa sen, cánh tay phải thứ hai cầm quả câu duyên, cánh tay trái thứ nhất cầm quả cát tường, cánh tay trái thứ hai cầm lông khổng tước, mỗi vật đều có màu sắc riêng. Đương nhiên, mỗi vật có tác dụng riêng của nó: hoa sen có tác dụng tiêu tai, quả câu duyên có tác dụng kính ái, quả cát tường có tác dụng tăng ích, lông chim công có tác dụng hàng phục, có bốn tác dụng như vậy.

Bạn quán tưởng ra Đại Khổng Tước Minh Vương, có chim công, có hoa sen, có Khổng Tước Minh Vương rồi, sau đó bạn sẽ làm ba ánh sáng bao trùm "Om ah hum" như chúng ta vẫn thường nói đến. Vì bản thân bạn đã có ba ánh sáng bao trùm rồi, Om ah hum, Khổng Tước Minh Vương sẽ ôm trọn lấy bạn, Khổng Tước Minh Vương nhập ngã - ngã nhập, đi vào trong thân thể bạn, bản thân bạn đã biến thành Khổng Tước Minh Vương. Đây gọi là hợp thể biến thân nhập ngã - ngã nhập.

Tuy nhiên, sau khi quán tưởng ba ánh sáng bao trùm, tốt nhất trước khi hợp thể hóa thân nhập ngã - ngã nhập, bạn cần trì một câu chú, là chú của Khổng Tước Minh Vương. Trước khi nhập vào tam ma địa nhập ngã - ngã nhập, bạn cần trì chú trước. Chúng ta trì câu chú này: "Om mayuli jilati soha." (7 biến) Đây chính là câu chú ngắn của Khổng Tước Minh Vương. Âm ma nghĩa là Khổng Tước Minh Vương, yuli nghĩa là chim công, jilati nghĩa là đại pháp lực, soha nghĩa là thành tựu. Đây là câu chú ngắn.

Cũng còn một câu chú nữa mà trong kinh điển không có, đó là "Om tikha lala soha". Tikha thì các đệ tử Ấn Độ là rõ nhất. "Satu tuwa tikha". Tikha nghĩa là thuận lợi. "Om tikha lala soha" cũng là một câu chú ngắn, cũng là câu chú Khổng Tước Minh Vương. Cái này rất kì lạ! Vì sao Khổng Tước Minh Vương lại biến thành "chân heo" (theo tiếng Đài) (Sư Tôn cười) Trước đây, khi tôi tập nhớ câu này thì tôi hay nói "Satu tuwa chân heo" (tiếng Đài), (Sư Tôn cười), là tikha, không phải là chân heo (tiếng Đài). "Om tikha lala soha" cũng là câu chú ngắn Khổng Tước Minh Vương. Hai câu chú này đều có thể dùng được. Quán tưởng trước, rồi đến trì chú, rồi tiếp đó là nhập tam ma địa.

Thế nào gọi là tam ma địa? Chính là hợp thể đó! Nhập ngã - ngã nhập chính là hợp thể. Khổng Tước Minh Vương đi vào thân ta, hợp nhất trên thân ta chính là hợp thể. Ta tiến nhập vào trong tâm của Khổng Tước Minh Vương chính là ngã nhập. Thế rồi, biến hóa, bản thân bạn biến hóa tiến vào tam ma địa của Khổng Tước Minh Vương.

Mật giáo gọi là gì? Là hợp thể và biến thân. Tôi từng nói, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đi vào trong tâm của Diễm Ma Pháp Vương, rồi biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang. A Di Đà Phật đi vào trong tâm, tam ma địa của Quan Thế Âm Bồ Tát, biến hóa thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát đi vào thân ngựa, đạo súc sinh, biến hóa thành Mã Đầu Minh Vương. Đây là hợp thể và biến thân. Sức mạnh của hợp thể chính là nhập thành một, biến thân chính là tạo ra nhiều. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bản thân chỉ có hai thân, nhưng khi tiến nhập vào thân của Diễm Ma Pháp Vương thì biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, thì lại biến thành có rất nhiều cánh tay. Kết quả của việc biến thân này là pháp lực càng mạnh hơn, trở thành một thân Minh Vương.

Mật giáo có cái gọi là hợp thành một, chính là thành một vị Phật, một vị Bồ Tát. Cũng có thể biến thành nhiều. Nếu biến thành pháp lực nhiều hơn, biến thành hình tượng rất nhiều vị, thì đây gọi là biến thân. Nhập ngã - ngã nhập chính là hợp thể biến thân.

Mật giáo nói, tiến đến nghĩa là nhập, ở lại bên trong thân thể của ta gọi là trụ, hòa tan hai thân thể hợp thành một thân thể gọi là dung, chính là nhập - trụ - dung. Đạo lý này cần hiểu rõ, cái gọi là nhập tam ma địa, chính là bạn nhập vào tam ma địa của một vị Bồ Tát nào đó. Bây giờ là bạn nhập vào tam ma địa của Đại Khổng Tước Minh Vương, nhập ngã - ngã nhập, bản thân ta biến thành Khổng Tước Minh Vương.

Cho đến khi bạn xuất định thì cần ca ngợi Khổng Tước Minh Vương, đây gọi là tán thán Khổng Tước Minh Vương: Thế Tôn đại từ bi, Pháp thể tính tịch diệt, Đại lực đại tác dụng, Công đức đều cụ túc. Đây chính là ca ngợi Khổng Tước Minh Vương.

Bởi Thích Ca Mâu Ni Phật có tâm đại từ bi, Thích Ca Mâu Ni Phật chuyển thế thành Khổng Tước Vương, do vậy mới nói là "Thế Tôn đại từ bi". "Pháp thể tính tịch diệt", vốn dĩ pháp thể chính là giống như tịch diệt, nhưng sản sinh ra sức mạnh rất lớn và tác dụng rất lớn, công đức toàn bộ đều có đủ và sung túc.

Sau khi tán dương Khổng Tước Minh Vương xong thì bạn có thể làm sám hối, sám hối những việc bạn đã làm trong quá khứ, có chỗ nào không đúng thì bạn cần sám hối đó! Vì sao cần phải sám hối nhỉ? Bởi vì không sám hối thì không thể tiêu trừ được nghiệp chướng của bản thân bạn. Chính bạn cần sám hối, hơn nữa không được tái phạm, chính là cần niệm Bách tự minh chú, sau đó sám hối. Đến phần hồi hướng, bạn cần niệm "gia đình bền vững, thân tâm an lạc, toàn Phật thế giới, Phật pháp vô tận." Đây chính là sự hồi hướng của chúng ta.

Bạn cần biết rằng, pháp Khổng Tước Minh Vương, sự vĩ đại của pháp này, vĩ đại tới mức độ, Nhật Bản dùng đàn thành của Đại Khổng Tước Minh Vương để cầu thỉnh quốc gia an bình. Còn nhỏ thì sao? Nhỏ tới mức độ nào? Nhỏ thì có thể dùng để chữa bệnh cúm, bệnh cúm mới. (mọi người vỗ tay) Một lát nữa tôi sẽ nói với mọi người, đây không phải do tôi phát minh ra, là trong kinh Khổng Tước Minh Vương có giảng, rằng Ngài có thể chữa mọi bệnh, rất nhiều bệnh đều có thể chữa được.

Hôm qua, thứ sáu, tôi giúp người ta hỏi chuyện, khoảng ba rưỡi cho đến tận sáu rưỡi, hỏi chuyện suốt ba tiếng đồng hồ. Trong số các đệ tử của chúng ta có rất nhiều người mắc bệnh, hôm nay đến đây rồi, rất tốt! Tương ứng được với Khổng Tước Minh Vương thì bệnh có thể tiêu trừ. Đợt một lát nữa tôi sẽ dạy mọi người cách trừ bệnh.

Sau khi hồi hướng xong thì làm đại lễ bái. Những gì tôi vừa mới giảng chính là nghi quỹ Khổng Tước Minh Vương. Tứ gia hành, đại lễ bái, tứ quy y, phát bồ đề tâm, đại cúng dường, quán tưởng Khổng Tước Minh Vương ôm trọn che chở, trì chú, nhập tam ma địa, xuất định, tán thán Khổng Tước Minh Vương, sám hối, niệm chú 100 âm, hồi hướng, sau đó đại lễ bái, rời khỏi đàn thành. Nghi quỹ chính là như vậy.

  • Pháp trấn động đất

Tốt rồi! Trước tiên tôi giảng về pháp trấn động đất. Mọi người đều sợ động đất. Indonesia vừa trải qua một trận động đất. Mọi người khi trở về hãy chăm chỉ tu pháp này.

Khổng Tước Minh Vương có phương pháp trấn động đất. Bạn ở trước đàn thành, sắp xếp đàn thành Khổng Tước Minh Vương, sắp đặt trong hư không nơi đàn thành, cần lấy đất của bốn phương đông tây nam bắc, chính là đất của bốn phương. Ví dụ như chúng ta sống tại bang Washington, chúng ta nhìn ra bốn hướng đông tây nam bắc. Tây chính là rìa Thái Bình Dương, đi ra đó đào lấy một kí đất. Đất phía đông chính là ở Spokane, đi ra đó đào một kí đất. Đi về phía nam tức là cần đi đến Oakland, đến bên cạnh cây cầu lớn ở Oakland đào lấy một kí đất. Chúng ta bất chấp đó là Vancouver (mọi người cười), chúng ta đi đến vùng biên giới đào lấy một kí đất, như vậy là có đất của bốn phương rồi. Chúng ta đặt trước mặt Khổng Tước Minh Vương, cắm lông chim công lên, lấy bốn cọng lông chim công.

Nếu như bạn là một hành giả của Đại Khổng Tước Minh Vương, đã tương ứng với Khổng Tước Minh Vương rồi, bạn đã có cảm ứng với Khổng Tước Minh Vương rồi, thì bạn bắt đầu trì chú, trì 10.000 lần chú: "Om mayuli jilati soha". (10.000 biến) Niệm 10.000 biến chú Khổng Tước Minh Vương xong, đem đất của bốn phương này trả về chỗ ban đầu của chúng, chỗ ban đầu mà bạn đào đất, bạn cần làm dấu hiệu, đào đất cần cắm một que tre để làm kí hiệu, rồi đem đất trả về chỗ cũ, đất phương tây trả về phương tây, đất phương đông trả về Spokane, đất phương nam trả về cây cầu đó, đất phương bắc trả về nơi biên giới, trước đây chính là Canada đó, bạn trả đất về các địa phương đó, đặt vào chỗ đất ban đầu. Tôi nói cho bạn hay, bang Washington sẽ không có động đất nữa. (mọi người vỗ tay)

Hãy nhớ kĩ đây! Có một điểm rất quan trọng, nếu hôm nay bạn đem đất của phương đông trả về phương tây, đất của phương tây trả về phương đông, đất của phương nam trả về phương bắc, đất của phương bắc trả về phương nam, thì động đất sẽ xảy ra đó!

Còn có một điểm nữa cần nói. Bạn bảo cái đất này chỉ cần lấy một chút ít trả lại là được rồi, thế thì sẽ có động đất đó! Lấy một cân phải trả lại một cân, phải đủ mới được, lấy một cân phải trả lại đủ một cân, đó là pháp trấn động đất.

Bạn biết cơn bão Morakot ở Đài Loan gây ra lở đất. [ ND: cơn bão Morakot xảy ra vào tháng 8 năm 2009 tại Đài Loan, là cơn bão gây mưa lớn kỉ lục, khiến 18 người chết, 35 người bị thương, 131 người mất tích, gây ra thảm họa đất lở tại một ngôi làng vùng núi tại phía Nam Ðài Loan, phủ lấp trường học và nhà cửa cùng hàng trăm người dân dưới đống bùn lầy. ] Oa! Cả ngôi làng nhỏ đó đã bị vùi lấp. Đệ tử Chân Phật Tông của chúng ta có người sống ở đó, có đệ tử nhà ở đó, đất lở xảy ra, ùm, toàn bộ bị chôn vùi. Đệ tử của chúng ta đang ngủ, ngủ ngáy to tới mức mái nhà cũng rung lên. Cá nhân tôi khi đi ngủ, tôi cũng không biết tôi có ngáy không, nhưng Sư Mẫu ngáy thì tôi biết. Bà ấy cũng còn giữ ý, tiếng ngáy rất nhỏ.

Có lần tôi cùng Thượng sư Liên Hỏa đi Nhật Bản, nửa đêm tôi phải ôm chăn bông bỏ chạy. Tôi ngủ cùng phòng với Thượng sư Liên Hỏa, nửa đêm, tôi phải mặc đồ lót bỏ chạy (Sư Tôn cười, mọi người cười), ôm chăn bỏ chạy qua phòng khác ngủ. Thật đáng sợ! (Sư Tôn cười, mọi người cười)

Đất đá đổ xuống, cả nhà đệ tử của chúng ta đều đang ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy nhà hàng xóm hai bên đều biến mất. Chỉ còn lại mỗi nhà của anh là còn! Bởi vậy, quy y Sư Tôn là có cái lợi như thế đó. Khi đất đá từ trên ngọn núi phía sau đổ ào xuống, bởi vì sức mạnh rất lớn nên đã đẩy nhà của anh ta nổi lên trên, sau đó chảy ào qua, chôn vùi nhà hàng xóm, chỉ có mỗi nhà của anh là nổi lên trên. Nhà của anh có thể nổi lên trên thì tôi cũng cảm thấy rất kì lạ, sau đó anh vẫn còn ngủ và ngáy tiếp cơ mà! Buổi sáng tỉnh dậy dụi dụi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, ủa? Sao các nhà đều biến mất chỉ còn lại mỗi nhà của anh! Điều này chính là đệ tử Chân Phật Tông có Hộ Pháp bảo vệ!

Pháp trấn động đất tôi vừa mới giảng, mọi người nghe đã hiểu chưa? Cần phải hiểu rõ ràng đấy nhé. Trước đây tôi trở về Đài Loan, tôi đã ở đây ba năm rưỡi. Tôi là người Đài Loan, tôi còn nhớ rõ những tiếng hú của những cơn bão trong quá khứ, còn nhớ rõ lắm. Tôi sống ở Đài Loan ba năm rưỡi đó chỉ gặp bão có một lần, bởi vì Đài Loan một năm phải có tới mười mấy cơn bão, thậm chí lên tới hai chục cơn bão, có cơn bão đi qua Đài Loan, có cơn bão thì không. Thời gian ba năm rưỡi tôi ở Đài Loan, bão toàn đổ vào Mỹ! Tất cả cơn bão đều chuyển hướng. (mọi người vỗ tay)

Chúng tôi ở sân bay, tại khu vực xuất nhập cảnh, có một viên chức có thể đưa ra tư liệu về khoảng thời gian tôi ra vào Đài Loan, chứng minh trong khoảng thời gian này đều không có cơn bão nào. (mọi người vỗ tay) Vi sao các cơn bão lại chuyển hướng, bởi vì bạn chỉ cần nắm chắc ấn Khổng Tước Minh Vương, bạn đã tương ứng với Khổng Tước Minh Vương rồi, thì bạn dùng lông của chim công để đối lại với hướng đi đến của cơn bão, niệm chú 10.000 biến. Có thể bạn nghĩ, niệm 10.000 biến thì chẳng phải là bão đã đi qua mất rồi sao? (Sư Tôn cười) Không phải như vậy đâu! Bình thường bạn cần niệm chú 10.000 biến, đợi đến khi thật sự cần dùng đến, niệm "Om mayuli jilati soha" lệnh cho cơn bão chuyển hướng, dùng lông chim công đối trị lại cơn bão. Bạn chỉ cần tương ứng được với Khổng Tước Minh Vương thì pháp lực của Khổng Tước Minh Vương sẽ phát huy tác dụng, cơn bão sẽ đổi hướng, bão sẽ chuyển hướng tới Nhật Bản.

Chúng ta có hai Thượng sư ở Nhật. Thượng sư Liên Hoa Tịnh Hương, Thượng sư Liên Thường là Hoàng Liên Hoa Đồng Tử, nếu như họ niệm, nếu như họ cũng học pháp này thì họ lại chuyển hướng cơn bão đến Đài Loan! (Sư Tôn cười, mọi người cười) Như thế thì mọi người sẽ phải so pháp lực, có đúng không! Xem xem rốt cuộc cần phải chuyển cơn bão đến đâu, kêu nó chuyển hướng quay về đảo Guam, ở đảo Guam có sư huynh Hán Đào, ông ấy tu cũng đã có tương ứng rồi, ông ấy cũng kết ấn một cái, chuyển đến đảo Saipan! Thế là bão lại đến đảo Saipan. Cơn bão có thể chuyển hướng, nước cũng có thể rút. Nếu là hỏa hoạn, dùng phương pháp này, niệm chú Khổng Tước Minh Vương 10.000 biến, kết ấn Khổng Tước Minh Vương, hướng về nơi đang có cháy, "sắc lệnh hỏa tốc tốc tức diệt", trời sẽ đổ mưa, hoặc gió sẽ sẽ thổi cho lửa chuyển sang hướng khác, lửa sẽ không cháy nữa.

Hiện nay bang California vẫn còn cháy lớn, khi trở về mọi người chăm chỉ niệm 10.000 biến, có thể khi đó lửa cũng đã tắt rồi. (Sư Tôn cười, mọi người cười) Khi bình thường thì bạn cần niệm xong 10.000 biến, lúc cần chỉ cần kết ấn Khổng Tước Minh Vương là có thể làm pháp, bởi vì bạn dùng lông công của Khổng Tước Minh Vương chính là ấn hàng phục, có thể kêu nước rút, lửa tắt, gió đổi hướng, động đất ngừng. Có phương pháp như vậy, vì thế pháp niệm tụng tương ứng Đại Khổng Tước Minh Vương có thể ứng dụng làm như vậy.

  • Pháp tăng ích

Đối với những cuộc khủng hoảng tài chính thì có biện pháp gì không? Mọi người đang nghĩ, tôi nợ tiền thì phải làm sao? Ví dụ như trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, liền có người gọi điện thoại đến Đài Loan: "Bạn hiền ơi, bạn cho tôi mượn 500.000 đô la Mỹ, tôi vướng phải khủng hoảng tài chính, tiền của tôi đã bị hao hụt hết rồi." Người bạn bên kia nhấc điện thoại lên, vừa nghe thấy muốn mượn 500.000 đô, bèn nói: "Anh nói rõ rõ hơn một tí đi, tôi nghe không hiểu anh đang nói cái gì." "Tôi muốn mượn anh 500.000 đô đó! Khủng hoảng tài chính, bây giờ tài sản của tôi đều mất hết rồi, tôi muốn vay anh 500.000 đô để đầu tư lại từ đầu đó! Anh nghe rõ rồi chứ? 500.000, 500.000 đó." "Tôi vẫn chưa nghe rõ! Anh nói rõ hơn xem nào!" "500.000 đô đó." "Vẫn chưa nghe rõ!" Nhân viên điện thoại của Đài Loan nói: "Tôi thì nghe rất rõ đây!" Người bạn ở Đài Loan kia nói: "Cô nghe rõ rồi thì cô cho anh ta vay tiền đi!" (Sư Tôn cười) Từ đầu tới cuối anh ta đều bảo chẳng nghe được rõ. Việc này phải làm sao đây? Có cách rồi! Có pháp tăng ích.

Quả cát tường mà chúng ta nói đến chính là tăng ích. Chúng ta dùng quả quýt để tượng trưng cho quả cát tường. Quả quýt mà bạn dâng cúng lên Khổng Tước Minh Vương, bạn cũng cần phải trì chú. Pháp tăng ích này cần niệm chú 100.000 biến, so với pháp hàng phục thì cần phải niệm nhiều hơn 90.000 biến. Tài bảo thật khó kiếm đó mà! Cần phải niệm 100.000 biến! Mọi người làm pháp hàng phục thì chỉ cần niệm 10.000 biến, còn làm pháp tăng ích thì phải niệm thêm 90.000 biến nữa!

Tôi nói cho bạn nghe, bão đến thì chỉ vài ngày, ba, bốn ngày là đi qua rồi, ngập lụt thì cũng chừng một tuần lễ là rút, có đúng không? Hỏa hoạn thì cũng chỉ vài ngày mà thôi! Còn khủng hoảng tài chính thì có thể kéo dài đến mấy năm đó! Bạn niệm 100.000 biến chí ít cũng cần phải trên 10 lần.

Do vậy, bạn muốn gia tăng tài phúc của bạn, bạn cúng quýt, niệm 100.000 biến chú Khổng Tước Minh Vương. Sau khi niệm xong, bạn ăn hết ruột quýt bên trong, vỏ quýt thì giữ lấy, giữ vỏ quýt và quán tưởng chúng biến hóa thành nghìn nghìn vạn vạn đô la Mỹ, trở thành "Franklin" hết, tất cả đều thành "Franklin", đầy ắp! [ ND: Franklin ám chỉ đồng 100 đô Mỹ ] Chà! Đầy trời kín đất! Sau đó, bạn đem vỏ quýt để dưới giường của bạn, tài vận của bạn sẽ đến. Đây chính là pháp tăng ích. Nhưng cần niệm 100.000 biến đó, hãy nhớ kĩ.

  • Pháp kính ái

Còn có pháp kính ái nữa. Một học sinh của một trường học nọ là Tiểu Minh, cậu ấy yêu một người bạn học khác cùng lớp, cậu viết một mảnh giấy đưa cho người bạn kia: "Nếu như bạn yêu tớ thì hãy chuyển lại mảnh giấy này cho tớ. Nếu như bạn không muốn làm bạn với tớ thì bạn hãy vứt mảnh giấy này ra ngoài cửa sổ." Người bạn nữ đọc xong, liền gập mảnh giấy lại, rồi cứ thế mảnh giấy được chuyển đi, cuối cùng đến tay Tiểu Minh. Tiểu Minh nghĩ, "Chà! Quá tuyệt vời! Bởi vì mình đã nói nếu chúng ta có thể làm bạn, có thể trở thành bạn của nhau, thì bạn ấy sẽ chuyển lại mảnh giấy cho mình." Cậu mở mảnh giấy ra, bên trong viết năm chữ: "Cửa sổ không mở được." (Sư Tôn cười) Là do không mở được cửa sổ đó!

Như thế này thì cần tu pháp kính ái, cũng cần niệm chú 100.000 biến! Ôi! Theo đuổi con gái thật sự là khó khăn quá. Thật không ngờ, đệ tử lâu năm của tôi ở Pháp là Liên Hoa Bá Xương, làm sao mà anh ấy có thể dễ dàng theo đuổi được cô gái xinh đẹp như vậy chứ? Bạn biết không? Bạn phải dựa vào sự phù hộ của Sư Tôn dành cho bạn đó! Sư Tôn gia trì cho bạn đó! Tôi đã gia trì cho Liên Hoa Bá Xương, tôi cũng chẳng gia trì được cho chính mình, lại đi gia trì cho Liên Hoa Bá Xương! Thế là anh ta cưới được cô gái trẻ rất xinh đẹp. A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật không có ở đây thì Liên Hoa Đồng Tử cũng thở vắn than dài vậy. (Sư Tôn cười) Cần phải niệm 100.000 biến chú đó!

Thế nào là quả câu duyên? Chúng ta dùng quả lựu thay cho quả câu duyên, bởi vì bên trên quả lựu còn có một cái chóp này, là hai cái chóp. Hoa quả bình thường chỉ có một cái chóp ở phần đuôi, có thêm một cái chóp nữa ở phần cuống thì chỉ có quả lựu, ở quả lựu thì nó đột ngột nhô lên, quả lựu ở đây là quả lựu đỏ. Bạn có thể cúng quả lựu, bạn cần niệm chú 100.000 biến, sau đó ăn hết phần hạt lựu bên trong, lấy vỏ quả lựu cầm trong tay, quán tưởng thành đối tượng mà bạn yêu mến, sau đó đặt ở trước ngực, người ấy sẽ lao đến bên bạn.

Không phải đâu nhé! Vẫn là bạn phải bỏ vỏ quả lựu ở dưới giường, bạn không được ngày ngày mang theo vỏ quả lựu đâu nhé! Vỏ quả lựu đó cần để ở dưới giường ngủ của bạn, người ấy sẽ không mời mà đến. Bạn thử xem! Anh có thỉnh cầu không đấy? Liên Hoa Bá Xương? Anh có thỉnh cầu không? Sư Tôn gia trì rồi anh cũng có thỉnh cầu! Anh có tu pháp quả lựu không? (mọi người cười) Anh nhất định có niệm chú Kurukulle Phật Mẫu hoặc chú Ái Nhiễm Minh Vương rồi. Thì mới linh nghiệm như thế chứ. Bản thân Đại Khổng Tước Minh Vương cũng có sức mạnh như vậy. 100.000 biến, đàn ông thì hâm mộ phụ nữ, phụ nữ thì hâm mộ đàn ông, đều có thể niệm như vậy, mọi người cùng so pháp lực xem! Mọi người đều biết đấy, tôi cũng tụng 100.000 biến, anh cũng tụng 100.000 biến, tôi tụng 200.000 biến thế là tôi thắng anh rồi! Mọi người cùng so pháp lực đi.

  • Pháp thanh tịnh thân tâm

Đôi khi chúng ta ở đây cũng có niệm kinh cho người ta giúp vãng sinh, vãng sinh cần làm công đức, phải niệm kinh. Còn nữa, khi mới rời khỏi nơi mà mình đến trợ niệm, trở về nhà liền cảm thấy thân thể lành lạnh, dường như có vong linh theo bạn về nhà, như vậy là bạn đã bị xung phạm rồi.

Bị xung phạm rồi thì trà cũng chẳng muốn uống, cơm chẳng buồn ăn, buổi tối cũng không ngủ được, trên mặt có khí đen, dần dần thân thể sẽ kiệt sức, gầy yếu không còn sức lực, chẳng muốn làm việc gì cả, tự mình cảm thấy chán nản, thế rồi mắc chứng bệnh ủ rũ!

Phải làm sao đây? Pháp tương ứng Khổng Tước Minh Vương có pháp thanh tịnh thân tâm. Bạn chỉ cần viết ba chữ 摩 [ chữ Ma ], chữ 玉 [ chữ Ngọc ], chữ 邦 [ chữ Bang ], rồi đốt chúng thành tro, hòa vào nước, uống nước này, thân sẽ được thanh tịnh an định, không còn u sầu nữa. Depression is gone. [ ND: Sư Tôn nói tiếng Anh, câu này nghĩa là Sự chán nản đã ra đi rồi.] Gone, không còn nữa. Phương pháp thanh tịnh thân tâm rất hữu hiệu.

Sư Tôn nói về pháp này là pháp thật, không phải pháp giả đâu nhé! Bạn đã tương ứng được rồi, thì chỉ cần đúng theo như vậy mà niệm chú ngữ của Khổng Tước Minh Vương, làm pháp theo cách này thì đều sẽ có cảm ứng.

Không giống như người nào đó, anh ta lên mạng đọc về chó nghiệp vụ được huấn luyện đặc biệt, là chó do cảnh sát huấn luyện. Anh ta liền mua luôn một con chó nghiệp vụ, nhưng kết quả là con chó được gửi đến là chó bình thường, không phải chó nghiệp vụ, là dog bình thường. Anh ta liền viết thư, gọi điện thoại hỏi người bán: "Ông lừa tôi hả! Ông nói bán cho tôi chó nghiệp vụ, nhưng ông lại bán cho tôi con chó bình thường." Người kia nói: "Bên ngoài thì nó không phải là chó nghiệp vụ, nhưng nó là chó nghiệp vụ, bởi vì nó là chó nghiệp vụ chìm đó." (Sư Tôn cười)

Đây đương nhiên là lừa bịp người ta rồi! Chúng ta thấy đấy, các tập đoàn lừa đảo ở Đài Loan rất nhiều, bây giờ khắp thế giới đều có các tập đoàn lừa đảo, mọi người cần cẩn thận một chút. Trên thực tế, người kia bán là đồ giả. Đồ Sư Tôn bán đều là thật đó! Chó nghiệp vụ thì chính là chó nghiệp vụ, sẽ không có chuyện bán cho bạn chó nghiệp vụ chìm đâu.

  • Pháp trừ quỷ quái

Ở đây cũng có một pháp, chính là pháp trừ quỷ quái. Trong nhà bạn có những quái vật nào, có ma quỷ yêu quái nào, cần dùng cái chày kim cang, nhưng không phải là chày ba chấu, mà là chày năm chấu. Mật tông Nhật Bản có chày ba chấu, Mật tông Nhật Bản đều dùng chày ba chấu, nhưng phần miệng lại mở ra chứ không chụm lại. Còn đây là chày kim cang năm chấu chụm lại ở đầu, cái Nhật Bản dùng là chày kim cang có ba chấu mở ra, chày của Tạng mật thì là chụm đầu lại, chày của Đông mật là đầu mở ra.

Nếu dùng chày kim cang ba chấu đầu mở ra, thì bạn lấy chày đó, đặt trước đàn thành Khổng Tước Minh Vương, ngồi đối diện với chày kim cang ba chấu niệm chú Khổng Tước Minh Vương vào chày đó: "Om mayuli jilati soha. Om mayuli jilati soha. Om mayuli jilati soha." Niệm như thế liên tục ba buổi tối. Chiếc chày kim cang ba chấu này, bạn cầm vào đặt trong phòng thì mọi yêu ma quỷ quái đều chạy biến.

Cần phải niệm ba đêm. Nghĩa là niệm từ giờ Tí [11 giờ tối] niệm cho đến khi mặt trời mọc, buổi đêm không ngủ đó! Ban ngày bạn đi ngủ, buổi đêm từ giờ Tí bắt đầu niệm cho đến khi ngày mới lên, tổng cộng cần niệm ba đêm. Chỉ cần ba đêm thôi, chày kim cang này sẽ có tác dụng, bạn đem nó đặt vào trong nhà của người nào thì yêu ma quỷ quái gì trong nhà cũng sẽ chạy bay biến hết. Đây chính là phương pháp trừ quỷ quái.

  • Pháp trừ bệnh

Pháp trừ bệnh này, như tôi mới nói đây, tôi biết rất nhiều rất nhiều người có bệnh, những bệnh này thật là khổ! Người đến hỏi tôi, anh ta mắc bệnh ngoài da, tôi hỏi anh ta đã bao lâu rồi, anh nói đã 20 năm rồi! 20 năm bị mắc bệnh ngoài da, đã dùng đủ mọi loại thuốc rồi, đi khám rất nhiều bác sĩ rồi, hễ gặp bác sĩ da liễu thì đều đi khám cả rồi, nhưng chữa không khỏi. Anh hãy thử dùng phương pháp này xem. Phải niệm chú 600.000 biến đó! 600.000 biến là đủ nhiều rồi.

Dùng gỗ bạch đàn, gỗ đàn hương màu trắng nghiền thành bột, trộn với mật ong làm thành thuốc viên, từng viên từng viên thuốc, vo hỗn hợp đó lại thành thuốc viên. Sau đó bày chúng ra, bày ở trước đàn thành Đại Khổng Tước Minh Vương, ngồi đối diện với những viên thuốc này và niệm 600.000 biến chú Khổng Tước Minh Vương.

Sau khi niệm xong 600.000 biến rồi mà bệnh của người này vẫn không khỏi, đi khám bác sĩ và uống thuốc cũng không khỏi, bạn lấy một viên thuốc và ăn nó, tiếp tục uống thuốc, sẽ có hiệu quả. Theo như kinh Khổng Tước Minh Vương đã viết thì có thể chữa được trăm loại bệnh, trăm loại bệnh cũng có nghĩa là không chỉ có bệnh ngoài da, mà bất kì loại bệnh nào. Thế nhưng điều này mà nói ra thì sẽ trái với tư cách của bác sĩ. Nếu như bạn thu tiền của người ta, nói những viên thuốc này có thể chữa được bệnh gì gì đó, thế rồi bạn thu tiền của người ta, làm như vậy thì sẽ trái với sự mẫu mực của bác sĩ, cần chú ý đó!

Thuốc này của bạn làm từ gỗ đàn hương trắng và mật ong, nên có thể ăn được. Bản thân gỗ đàn hương cũng có tác dụng an thần, mật ong thì có thể ăn được, bạn làm nó thành thuốc viên, niệm chú xong thì có thể dùng cho chính mình hoặc tặng cho người khác, có thể tặng cho người khác được. Nhưng bạn không được lấy tiền của họ, lấy tiền thì sẽ trái với sự mẫu mực của bác sĩ. Cần chú ý cả vấn đề pháp luật nữa, bởi vì cái này thuộc về phương diện chữa bệnh. Giống như nói rằng thuốc này của tôi có thể an thần, là thứ có thể ăn được, thế nên tặng cho anh. Kì thực bạn niệm chú xong thì chỉ cần hai thứ nguyên liệu này. Ở Tây Tạng thì những viên thuốc này nào có biết được bỏ vào bao nhiêu loại thảo dược, có rất nhiều loại, rồi được niệm bao nhiêu biến chú, hơn nữa còn phải dùng rất nhiều nguyên liệu nữa, ví dụ như Milarepa, dùng bột gỉ sắt sinh ra từ cái cuốc của Milarepa, người ta lấy ra dùng, bột vàng bạc đồng chì cũng được lấy ra dùng, còn có cả dược thảo trộn lẫn vào tạo thành một dạng viên cam lộ, rồi còn niệm chú, có cao tăng niệm chú.

Tôi cũng có mấy loại, chúng đều là những do những Hoạt Phật Tây Tạng trước đây đến chỗ tôi tặng cho tôi hết hộp này tới hộp khác những loại thuốc như vậy, bên trong hộp có rất nhiều hạt, dùng vải đỏ gói lại, bên trên còn dùng chỉ ngũ sắc để buộc lại nữa, từng viên từng viên, từng hộp từng hộp, tôi đã để chúng ở đó không biết bao lâu nữa, tôi đều không dám ăn! (Sư Tôn cười) Bởi vì người ta đã làm chúng rất lâu rồi.

Nghe nói có cả gỉ sắt từ cái cuốc mà ngài Milarepa đã từng dùng cũng lấy ra để dùng, tôi cảm thấy liệu có thể có vấn đề do kim loại nặng không, ăn xong nhỡ mất đi trí nhớ thì coi như tôi đi đời rồi. Thứ chúng ta dùng là gỗ đàn hương trắng, gỗ đàn hương màu trắng và mật ong, gỗ đàn hương trắng nghiền thành bột có tác dụng an thần, cùng với mật ong, bản thân mật ong có thể ăn được, trộn chúng rồi nặn thành viên thuốc, niệm đủ 600.000 biến chú. Theo những gì viết trong kinh Đại Khổng Tước Minh Vương thì có thể chữa khỏi bệnh.

Đây chính là pháp chữa bệnh. Rất nhiều người mắc rất nhiều bệnh, ví dụ như chứng loãng xương! Còn có bệnh ung thư nữa, còn có căn bệnh đường trong máu rất khó chữa nữa, và rất nhiều bệnh mãn tính, đến này cũng chưa có thuốc nào chữa khỏi được, mọi người ngại gì mà không thử?

  • Niệm đủ 600.000 biến chú Khổng Tước Minh Vương nhất định vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì

Bạn niệm xong chú Đại Khổng Tước Minh Vương và đã tương ứng được với Khổng Tước Minh Vương rồi, niệm Đại Khổng Tước Minh Vương chú có thể khiến cho Phật tính của bạn được phát lộ ra. Kì thực, nói ra thì những lợi ích về nhục thân không phải là to lớn lắm, Phật tính vĩ đại nhất, chân chính nhất mới là quan trọng nhất, đó là khi đã tương ứng với Đại Khổng Tước Minh Vương rồi thì sẽ hiển lộ Phật tính của chính bạn. Niệm đủ 600.000 biến chú Đại Khổng Tước Minh Vương, nhất định sẽ vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì. Đây là điều quan trọng nhất. Trong Đông mật mà nói thì bố trí đàn thành Đại Khổng Tước Minh Vương có thể bảo vệ quốc gia, khi làm pháp hội hộ quốc cũng chính là dùng đàn thành Đại Khổng Tước Minh Vương để làm, lớn như việc bảo vệ đất nước, nhỏ như việc chữa bệnh, thậm chí Phật tính của bạn cũng có thể được hiển lộ. Do vậy pháp này vô cùng quan trọng. Chúng ta ở đây cầu thỉnh những gì đều sẽ được viên mãn. Bạn chỉ cần y theo pháp mà làm, chỉ cần bạn tương ứng được rồi, thêm trì chú nữa thì đều sẽ được viên mãn.

Có một người leo núi, leo tới mức vô cùng mệt, lại còn rất đói nữa, thế rồi lại còn bị lạc đường trên núi không tìm được đường ra. Anh ta vừa đi đi đi đi, đá phải một cây đèn thần, thần đèn hiện ra, thần đèn nói: "Thời đại bây giờ bận lắm, ta cũng rất bận, anh cũng đừng có tranh cãi với ta, ta sẽ không cho anh ba điều ước đâu, chỉ một điều thôi là đủ rồi, thế bây giờ anh muốn cái gì?" Bụng anh ta rất đói! Lạc đường trên núi nên rất đói bụng rồi! Đói tới mức không còn sức lực đến mức sắp chết rồi, anh nói: "Tôi muốn vợ…" Thế rồi thần đèn nói: "Đói đến sắp chết rồi anh vẫn còn muốn vợ sao?" Thế rồi, thần đèn liền biến ra một cô gái đẹp cho anh ta, thế rồi thần đèn bỏ đi. Câu nói cuối cùng của anh ta vẫn còn chưa nói hết: "Tôi muốn bánh… bà vợ." Anh còn chưa nói xong từ "bánh" thì thần đèn đã bỏ đi rồi. [ ND: bánh bà vợ là tên một loại bánh phổ biến ở Đài Loan. ]

Thời đại đã khác rồi, bạn nói chuyện cũng cần nhanh một chút rằng "Tôi muốn bánh bà vợ". Đài Loan có bánh bà vợ, bánh bà vợ rất ngon! Ăn thì bạn mới no bụng được! Bạn mới có sức được! Bạn mới có thể đi ra khỏi núi. Không ngờ thần đèn nói: "Ta bận lắm, cho anh một bà vợ." Thế rồi thần bỏ đi luôn. Kết quả là mãi cuối cùng mới nói ra được chữ "bánh", thế rồi đã chết đói rồi!

Hôm nay Sư Tôn truyền cho bạn pháp tương ứng Đại Khổng Tước Minh Vương, là cho bạn bánh bà vợ thật sự đó. (mọi người vỗ tay) Ăn xong, đảm bảo bạn sẽ không bị đói đâu! Ăn xong đảm bảo bạn sẽ có cảm giác hài lòng, bạn chỉ cần tương ứng được với Đại Khổng Tước Minh Vương, bảo đảm bạn làm các pháp đều có thể thành công. Nghi quỹ các pháp của Sư Tôn không giống với các pháp của Tạng mật rất phiền phức, niệm một bộ kinh có khi bảy tiếng đồng hồ, thỉnh một vị đến cũng cần thỉnh bảy tiếng đồng hồ, lại còn cần thỉnh Thất Phật, Di Lặc, Thanh Văn, Duyên Giác, tám Thiên Vương, 28 Dạ Xoa, 9 chòm sao, 12 cung. Phải niệm xong toàn bộ kinh, thỉnh xong toàn bộ còn cần niệm kinh Đại Khổng Tước Minh Vương, sau đó bố trí đàn thành, bố trí đàn thành xong cần toàn bộ quyến thuộc của Ngài đều phải hạ giáng, lúc này mới làm quán đảnh. Đến được lúc đó thì mọi người đều đã "toi" rồi (tiếng Đài). Do vậy, pháp của Chân Phật Tông chúng ta, pháp tương ứng niệm tụng đặc biệt nhanh, rất hữu hiệu. (mọi người vỗ tay) Để cho mọi người ai cũng đều được ăn bánh bà vợ, no bụng rồi, mỗi người đều có khí lực, mỗi người đều có thể tu pháp, bệnh tật của mỗi người đều có thể tiêu trừ, tất cả mọi nguyện vọng đều có thể đạt được.

Mọi người xem, Sư Tôn ở Đài Loan ba năm rưỡi, tôi ẩn cư ở đó ba năm rưỡi, cơn bão nào cũng chuyển hướng hết. Nghĩa là sau khi tôi vào Đài Loan thì các cơn bão của Thần Voi liên tục suốt ba năm rưỡi đều không có cơn bão nào. Vì sao vậy? Tôi không muốn nói, nói ra thì lại thành to tát quá, ngộ nhỡ khi tôi trở về gặp bão thì tôi sẽ chết mất. (Sư Tôn cười) Mọi người sẽ thất vọng mất.

Thế thôi. Om mani padme hum. (mọi người vỗ tay)

52. Phụ lục: Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương tương ứng pháp (nghi quỹ tu pháp)

Đầu tiên, cầu nguyện dòng Căn bản truyền thừa gia trì: Trước tiên quán không, tiếp theo quán tưởng Căn bản truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì. Trì Liên Hoa Đồng Tử tâm chú 7 lần, thỉnh cầu việc tu pháp được viên mãn. Thực hiện Tứ vô lượng quán. Làm thủ ấn thức tỉnh (vỗ tay hai lần, sau đó bắt chéo tay và búng ngón tay.)

Niệm chú thanh tịnh.

Niệm chú triệu thỉnh "Om Ah Hum Soha" (3 biến) Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Chân Phật lịch đại truyền thừa Tổ sư. Nam mô Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương.

(Các phân đường ở địa phương có thể y theo chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình để phụng thỉnh.) Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật. Nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Đại lễ bái.

Đại cúng dường.

Tứ quy y. Nam mô Guru bei. Nam mô Đại Khổng Tước Minh Vương Phật. Nam mô Đại Khổng Tước Minh Vương kinh. Nam mô Khổng Tước Minh Vương hải hội quyến thuộc. (3 biến)

Làm bia giáp hộ thân.

Niệm Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh.

Niệm chú vãng sinh. (7 biến)

Niệm kệ tứ vô lượng tâm.

Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, là từ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là bi vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, là hỉ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng, là xả vô lượng.

Niệm thêm Căn bản Truyền thừa Thượng sư tâm chú: Om Guru Liansheng Siddhi Hum. (108 biến)

Kết ấn và quán tưởng. Kết ấn: Ấn Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương (ấn nội phộc). Đầu tiên, kết ấn nội phộc, sau đó hai ngón út đưa lên, hai ngón trỏ hợp lại, đặt thủ ấn trước ngực. (Ngón trỏ là đầu chim công, ngón út là đuôi chim công, ở giữa là mình chim công.)

Quán tưởng:

  • Trước tiên quán không, niệm chú quán không. Om. Su pa wa. Su ta. Sa er wa. Ta er ma. Su pa wa. Su to hang. (3 biến)
  • Trên mặt biển lớn, vạn dặm trời trong không mây, đầu tiên xuất hiện đuôi chim công, sau đó ở giữa đuôi chim công có một chủng tử tự chữ yu

Sau đó, chữ này biến hóa thành chim công màu vàng kim.

  • Tiếp theo, quán tưởng trên lưng của chim công có một chủng tử tự chữ bang màu trắng, biến thành bông hoa sen trắng. Trên bông hoa sen trắng hiển hiện một chủng tử tự chữ ma xoay tròn, biến hóa thành Khổng Tước Minh Vương bốn tay có màu vàng kim, hoặc màu trắng, hoặc hỗn hợp vàng kim và trắng, đầu đội mũ Ngũ Phật. Cánh tay phải thứ nhất cầm hoa sen trắng, cánh tay phải thứ hai cầm quả câu duyên màu đỏ, cánh tay trái thứ nhất cầm quả cát tường màu vàng, cánh tay trái thứ hai cầm đuôi chim công.
  • Lại quán tưởng từ thiên tâm của Đại Khổng Tước Minh Vương phóng ra một tia ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Khổng Tước Minh Vương từ cổ họng phóng ra một tia ánh sáng đỏ, chiếu thẳng đến họng của hành giả. Từ tâm luân của Khổng Tước Minh Vương phóng ra một tia ánh sáng xanh lam, chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Trắng, đỏ, lam, ba ánh sáng hòa tan vào trong thân tâm của hành giả.

Trì tâm chú Khổng Tước Minh Vương. Quán tưởng chuỗi hạt: (hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái là chuông kim cang, tay phải quán tưởng thành chày kim cang, hạt Phật đầu quán tưởng thành nhiều bảo tháp Phật, bốn hạt nhỡ ở giữa quán tưởng thành tứ đại Thiên Vương, cái tua rua thì quán tưởng thành liên hoa thủ (Phật thủ). Sợi dây của chuỗi hạt quán tưởng thành vòng ánh sáng trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa.

Khi trì chú, mỗi lần lần hạt đều quán tưởng thành một vị Khổng Tước Minh Vương hiện ra trước mặt hành giả. Chú ngữ là: Om Mayuli Jilati Soha. (108 biến)

Nhập tam ma địa. (Xin đọc kĩ phần Cửu tiết Phật phong trong nghi quỹ Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp, quán tưởng nhập ngã - ngã nhập, quán tưởng đếm hơi thở.)

Xuất định, tụng kệ tán thán: Thế Tôn đại từ bi, Pháp thể tính tịch diệt, Đại lực đại tác dụng, Công đức đều cụ túc.

Gia trì thêm bằng các tâm chú khác.

Niệm Phật: Nam mô 36 vạn tỷ, 110 vạn, 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Hồi hướng. Gia đình bền vững, thân tâm an lạc, toàn Phật thế giới, Phật pháp vô tận. Nguyện người cùng niệm Phật, cùng sinh cõi Cực Lạc, tren báo bốn ơn sâu, dưới cứu ba đường khổ, thấy Phật thoát sinh tử, như Phật độ tất cả.

Đệ tử XXX hôm nay xin được hồi hướng như trên. Nguyện đem công đức tu pháp hồi hướng đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cầu nguyện Thượng sư thường trụ thế gian, không nhập niết bàn, mãi truyền pháp luân, Phật thể an khang. Cung chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Nguyện tất cả mọi ước nguyện mong cầu đều được viên mãn. Nguyện tất cả tai nạn đều tiêu tan. Weng!

Niệm Bách tự minh chú. (3 biến)

Đại lễ bái.

Niệm chú viên mãn. Om. Brum. (3 biến) Om mani padme hum. (1 biến) Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai cái, rồi đặt chéo hay tay và búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

(Hết)

Mục lục