Pháp thuật của Mật giáo
Tiêu đề phụ: Tiết lộ đại bí mật về làm pháp
Văn tập số: 114 Xuất bản: 01/08/1995 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu:
Phật Thích Ca Mâu Ni cho tên sách
Sau khi viết xong cuốn văn tập số 113 “Thuyền nhỏ trôi lênh đênh”, tôi nghĩ đến cuốn sách tiếp theo nên viết cái gì.
Tôi có một giấc mơ. Tựa như mơ mà không phải là mơ, tựa như thật tựa như huyễn. Tôi đang bay trong hư không, bay lên rất cao, núi sông đại địa đều ở dưới chân, tôi bay rất lâu, đến một Phật quốc vô cùng xinh đẹp trang nghiêm. Phật quốc ở trên những đám mây quý, hết sức diễm lệ. Cung điện thất bảo cực kì tuyệt vời.
Bên dưới cổng chào của cung điện có mấy vị A La Hán nhìn thấy tôi đang bay, từ xa bay đến gần. Mãi đến khi đến gần, tôi mới nhìn thấy cổng chào có cắm cờ phướn, ngoài các vị A La Hán ra còn có sư tử tám chân, thiên nga, chim công, A La Hán đang cùng chơi với chúng ở một chỗ. Họ nhìn thấy tôi đến thì rất vui mừng, hướng về tôi chắp tay lại: ”Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài đến rồi!” Tôi cũng hướng về họ cúi đầu làm lễ.
Trong số đó có một vị Đăng Hiền A La Hán hỏi tôi: ”Đến gặp Phật Đà ư?” Tôi đáp: ”Đúng vậy.” Thế là, Đăng Hiền dẫn tôi đến một đại điện có treo rất nhiều lọng quý, rất nhiều chuỗi ngọc, còn có vải tassel quý, mọi bức tường đều được trang trí bằng ngọc mani, hoàn mĩ tuyệt vời.
Phật Đà cùng mười hai vị Như Lai đang hội họp. Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn thấy tôi đến, nói: ”Liên Sinh đến đây có việc gì?” ”Hỏi tên sách.” Phật Thích Ca Mâu Ni không nói gì.
Trong số đó có một vị là Không Hành Hải Như Lai nói với tôi: ”Sách ở Tạng Kinh Lầu nhiều lắm, sao không tự mình đi tìm.” Thế là, Đăng Hiền dẫn tôi đến Tạng Kinh Lầu. Bốn phía của Tạng Kinh Lầu có bốn cửa, tám cột trụ và rất trang nghiêm, sách ở trong đó nhiều vô cùng vô tận, lớp lớp trùng điệp, nghìn nghìn vạn vạn quyển. Tôi đứng trước biển sách giống như một giọt nước trong biển lớn. Tôi rất hoang mang, không biết bắt đầu từ đâu…
Đột nhiên, hư không có diệu âm nói rằng: ”Phật Thích Ca Mâu Ni sắp làm Hộ Ma rồi.” (Hộ Ma chính là hỏa cúng, Phật Thích Ca Mâu Ni làm Hộ Ma, đây đúng là truyền kì lạ lùng ở thiên thượng giới.) Đăng Hiền vừa nghe thấy là Phật Đà làm Hộ Ma thì kéo tay tôi, muốn tôi đi xem, ngài ấy nói với tôi: ”Phật Thích Ca Mâu Ni rất hiếm khi làm Hộ Ma, ngài làm Hộ Ma ắt có nguyên do!”
Đàn Hộ Ma của Phật Đà cao tít ở trên bục chín tầng, xung quanh có tám cờ tám phướn, bục chín tầng có các thiên nữ mặc y phục nhiều màu sắc đang múa, các góc ngoài của đàn pháp đều đặt chày nhật nguyệt quý báu, cực kì trang nghiêm. Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên vây thành vòng tròn xung quanh, có đến nghìn vạn, không thể đếm xuể.
Đăng Hiền và tôi chen chân trong nhóm A La Hán. Phật Thích Ca Mâu Ni châm lửa Hộ Ma, đốt củi Hộ Ma, một thanh củi Hộ Ma trong số đó còn chưa bỏ vào lò đốt thì đã bất ngờ bay ra bên ngoài đàn, lúc thì bay bên này, lúc thì bay bên nọ, từ trên bục chín tầng rơi thẳng xuống, rơi đúng vào trong lòng tôi không mảy may sai lệch.
Các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên đều nhìn tôi, các vị cảm thấy kì quái vì sao củi Hộ Ma lại rơi vào người tôi chứ. Tôi cầm lên thanh củi Hộ Ma, phát hiện ra trên đó có năm chữ lớn, viết rằng “Pháp thuật của Mật giáo”. Thế là tôi đảnh lễ Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Tôi nhìn thấy Phật Đà hướng về tôi mỉm cười tỏ ý. Mơ đến đây thì tôi tỉnh dậy.
Tôi nghĩ rằng mộng cảnh này của tôi rất có ý nghĩa. Viết cuốn sách này đã nhận được sự cổ vũ của Phật Thích Ca Mâu Ni, tên sách cũng là Phật Đà chọn, tôi cần phải viết cuốn sách này cực kì hoàn hảo mới được.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Chân tướng của pháp thuật
Tôi nhớ trong sách cổ có một câu là: ”Quý nhất là việc bồi dưỡng đức hạnh, bởi vì họa phúc không có cửa, chỉ có con người tự mời đến, quả báo thiện ác như hình theo bóng. Khi con người ta trong tâm đã có thiện niệm, thì trong cõi vô hình sẽ có quỷ thần sắp xếp, duy có cách này để cầu an.”
Hai chữ “cầu an” trong lời dạy này chính là “pháp thuật”. Còn trong cõi vô hình có quỷ thần sắp xếp, quỷ thần ở đây chính là vô hình, chính là “linh”, cũng chính là pháp lực bất khả tư nghì.
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) hiểu biết mọi pháp thuật, có thể làm mọi pháp thuật, có thể biết quỷ biết thần, có thể sai khiến quỷ thần, có pháp lực đại uy đức, thậm chí đạt đến cảnh giới thành Phật vô thượng chính đẳng chính giác.
Tôi nói với mọi người, pháp thuật có ba chân tướng: 1. Hành giả — người làm pháp. 2. Nghi quỹ — quá trình làm pháp. 3. Vô hình — sức mạnh trong cõi vô hình. Ba thứ hợp làm một mới sản sinh ra pháp lực.
Trong “vô hình”, người học Phật có thể cho rằng đó là Phật lực, người tin Thần thì sẽ cho rằng là Thần lực, cũng có loại người học Tiên thì sẽ cho rằng là Tiên lực, thậm chí có một loại người là “sai quỷ”, cung phụng nuôi dưỡng quỷ, thì họ coi đây là quỷ lực. Bất kể là loại lực nào, nhưng vì là sản sinh ra trong cõi vô hình, cho nên đều gọi chung là “vô hình”.
Ngày xưa, tôi ở chỗ của Liễu Minh Hòa Thượng học pháp thuật, Liễu Minh Hòa Thượng nói người học pháp có mười giới luật lớn là: 1. Phải kính thầy. 2. Phải thành thật. 3. Không coi trọng tiền bạc. 4. Không chểnh mảng. 5. Không phỉ báng. 6. Không nghĩ xấu. 7. Không ô uế. 8. Không hại người. 9. Không coi trọng sắc. 10. Không cẩu thả.
Đây là mười giới luật lớn mà Liễu Minh Hòa Thượng dạy tôi, mọi người có thể suy ngẫm kĩ càng, ý nghĩa của mười giới luật lớn này rất sâu, pháp thuật là do con người làm pháp, pháp thuật của một hành giả Mật giáo thành tựu hay không thành tựu (linh hay không linh), hoặc là pháp thuật tu thành chính pháp hay tu thành tà pháp, đều là do tâm của hành giả quyết định. Nói cách khác là: Pháp không có chính-tà. Đều phải xem tâm thuật của người làm pháp.
Học tập pháp thuật của Mật giáo, bất kể là nhập thế độ chúng sinh hay là xuất thế chấm dứt sinh tử, đều coi trọng truyền thừa, truyền thừa cũng chính là dòng chảy pháp, dòng chảy pháp này là từ lực gia trì của sư phụ mà có. Mật giáo coi trọng truyền thừa, tôn kính Căn bản Thượng sư [vị thầy gốc] của chính mình, được xếp vào điều kiện quan trọng hàng đầu của tu trì pháp thuật Mật giáo. Nếu bất kính với thầy thì làm sao có thể coi trọng pháp mà sư phụ truyền cho? Cho dù toàn lực tu pháp thì tâm cũng sẽ tà, càng tà thì càng xa cách rất xa.
Muốn tu trì pháp thuật của Mật giáo thì phải quy y một vị Kim cương Thượng sư chân chính. Bốn vị sư phụ của tôi xin kể tên như sau: 1. Liễu Minh Hòa Thượng. (Hồng giáo) 2. Thubten Dhargye Thượng sư. (Hoàng giáo) 3. Đại Bảo Pháp Vương thứ 16. (Bạch giáo) 4. Sakya Chứng Không Thượng sư. (Hoa giáo)
Tôi đã được bốn vị sư phụ chỉ dạy rất tỉ mỉ, cũng được quán đảnh Acharya [A-xà-lê] (quán đảnh Thượng sư), lại có được quản đảnh tối cao (quán đảnh Ngũ Phật Nghiêm). Ba đại thành tựu của Mật giáo là thành tựu chú, thành tựu Hộ Ma, thành tựu tam ma địa, tôi đều thực tu mà đạt được. Nhất là ở trong thiền định, tôi được các thế hệ tổ sư ở trình độ cao hơn, cùng với Ngũ Phương Phật, Bát Đại Bồ Tát, Thập Đại Minh Vương Kim Cang, hiện thân truyền dạy cho tôi những bất cộng đại pháp [đại pháp khác biệt] ở trình độ cao hơn, khiến tôi tiến nhập vào cảnh địa của Vô thượng mật và Đại viên mãn.
Tôi tự biết tôi là Liên Hoa Đồng Tử chuyển thế. Tôi đi ra từ Vô Lượng Thanh Tịnh Cung của Đại Nhật Như Lai, hóa thân Phật Nhãn Phật Mẫu, hóa thân Liên Hoa Đồng Tử. Tôi đến để độ chúng sinh. Thu hút chúng sinh quy y Mật giáo. Tôi viết ra cuốn sách “Pháp thuật của Mật giáo” này, mục đích chủ yếu là để thế nhân hiểu chân tướng của pháp thuật, dùng pháp thuật cứu người và độ người, để chúng sinh thoát khổ được vui.
02. Khẩu quyết để pháp thuật được linh
Tôi tự cho rằng trong khắp thiên hạ có rất nhiều “cao nhân có năng lực”, thế nhưng, người có pháp lực đại uy đức giống như tôi đây thì đã rất hiếm có rồi. Giả sử chỉ còn lại ba người. Thì tôi chính là một trong số ba người đó.
Người có pháp thuật cao cường xưa nay có thể hô mưa gọi gió, vẩy đậu thành binh, những người này đối với tôi chẳng qua chỉ là hạng tài hèn sức mọn mà thôi. Tôi cũng có thể muốn gió có gió, muốn mưa có mưa. Một điểm quan trọng nhất là, trong chu vi của tôi có rất nhiều Kim Cang Thần Tướng ngoan cường và có sức mạnh hộ trì cho tôi.
Từng có một chuyện như thế này: Có một vị đại sư có tiếng tăm, ông ấy là Sơn Tinh Đại Vương chuyển thế, ở bên cạnh ông ta có rất nhiều dạ xoa, la sát, ma vương, quỷ núi, tinh linh ủng hộ ông ấy. Có một lần, ông ấy nổi giận muốn chỉnh đốn tôi. Thế là một bầy ma quỷ tiếp nhận pháp chỉ, bay đến chỗ tôi, tôi đang ở trong thư phòng đọc sách, lũ ma quỷ cầm vũ khí có ý định hạ thủ. Tôi khẽ cười một cái với lũ ma quỷ. Trên đỉnh đầu tôi hiện ra Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, A Di Đà Phật, quanh người tôi hiện ra mười vị Đại Kim Cang Minh Vương, ở xung quanh thì có Thiên Long Bát Bộ chúng.
Lũ ma quỷ vừa nhìn thấy thế thì ngây ra, buông bỏ vũ khí tháo chạy, con nào chạy chậm một chút thì đã sợ té cứt té đái ra rồi. Tôi cười vang ha ha. Tôi nói, đây là Hộ Pháp đấu với Hộ Pháp, Hộ Pháp của ai mạnh thì người đó thắng.
Tôi nói thẳng thắn, Hộ Pháp cấp cao nhất của Lư Thắng Ngạn tôi chính là Đại Uy Đức Kim Cang hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, pháp lực của ngài là cực lớn, có thể phá trừ mọi độc hại, có đại uy lực. Ngài cũng là Hộ Pháp của tổ sư Tsongkhapa của Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng.
Bây giờ tôi nói vào chủ đề khẩu quyết để pháp thuật được linh. Nếu pháp thuật không linh thì học pháp thuật có tác dụng gì chứ? Làm pháp có tác dụng gì chứ? Vậy thì pháp thuật thế nào sẽ linh? Hôm nay tôi rất thẳng thắn nói với mọi người một cách rõ ràng: ”Trọng điểm nằm ở: Hộ Pháp.”
Mật giáo có Tam căn bản: Thứ nhất, Căn bản Thượng sư — gia trì căn bản. Thứ hai, Căn bản Bổn tôn — thành tựu căn bản. Thứ ba, Căn bản Hộ pháp — sự nghiệp căn bản.
Tu hành Mật giáo, thiếu một trong ba điều này đều không được. Hai điều đầu tiên, để sau tôi sẽ nói. Còn đối với điều thứ ba là “sự nghiệp căn bản”, thế nào là sự nghiệp? Sự nghiệp chính là làm pháp, chính là pháp thuật, chính là pháp lực.
Tôi nói: Bậc cao năng ”vô hình” trong cõi huyền bí thì lấy Phật là cao nhất, hoặc là Đại La Kim Tiên, hoặc là Đại Thánh Đại Thần. Các vị đều là các bậc cao năng, nhưng vì cảnh giới quá cao siêu, cho nên các vị ưa thích tịch tĩnh, thế nhân rất khó triệu thỉnh các vị đến.
Còn thật sự đại diện cho các vị đến thế giới Ta Bà để chấp hành pháp vụ, chính là Hộ Pháp hộ trì Phật Bồ Tát. Cho nên Hộ Pháp chính là sự nghiệp căn bản, một hành giả nếu thỉnh được Hộ Pháp đến thì pháp thuật sẽ có linh nghiệm. Thỉnh được Phật thì không cần phải nói rồi, nhất định sẽ linh nghiệm. Thỉnh được Hộ Pháp thì cũng chắc chắn linh. Cho nên, tôi nhấn mạnh: ”Hộ Pháp mà đã đến, pháp thuật ắt sẽ linh.”
Theo tôi được biết, vì sao rất nhiều người hiểu pháp thuật, không thỉnh Phật Bồ Tát, không thỉnh Kim Cang Hộ Pháp, mà lại đi thỉnh “ma quỷ”. Câu trả lời duy nhất như sau: ”Ma quỷ dễ triệu thỉnh.” Trong mọi pháp thuật, thấp cấp và hạ lưu nhất chính là pháp Sai quỷ, người Nhật Bản gọi là “Thức quỷ”. Sai quỷ chỉ cần niệm tên quỷ, niệm chú quỷ, cúng dường ma quỷ, thì có thể sai khiến họ đi làm việc.
Nhưng mà pháp lực của ma quỷ có hạn, linh nghiệm nho nhỏ thì nhất định sẽ có. Tuy nhiên linh nghiệm to lớn thì nhất định phải là đại Thánh đại Thần mới làm được. Mặc dù như vậy, chúng ta cũng không thể coi thường pháp Sai quỷ, bởi vì có một câu nói từ xa xưa là: “Diêm Vương dễ gặp mặt, tiểu quỷ khó phòng ngừa!”
03. Liên minh với vô hình là phương pháp tốt nhất
Đại Uy Đức Kim Cang trở thành Căn bản Hộ pháp của tôi là có nhân duyên của nó. Bà Cao ở California nước Mĩ tặng tôi một bức thangka Đại Uy Đức Kim Cang, tôi tiện tay treo trên đầu giường ở Chân Phật Mật Uyển. Đêm ấy, tôi luyện pháp Kim cang quyền. Tôi lập tức nhìn thấy ngài. Thân màu xanh đen. 9 mặt, 34 cánh tay, 16 chân. Chính diện là mặt trâu nước, cực kì phẫn nộ, có hai sừng nhọn, lưỡi xoắn, răng nanh nhe ra, tóc đỏ dựng đứng lên trên. 16 chân dẫm lên súc sinh và chư Thiên.
Ngài dẫn tôi đi sâu xuống đáy biển. Ngài thể hiện đại pháp lực của mình, toàn bộ long cung đều chấn động, cửa địa ngục rung lên và mở ra, Diêm La Vương cúi đầu quy phục. Nước biển biến thành màu đỏ, khí thế và sức nước rất mạnh, nước biển dâng cao đến tận trời. Uy lực của ngài còn mạnh hơn cả biển. Chư thiên thần chúng giáng xuống, đều khom mình dưới chân ngài. Mười phương trên dưới trong vũ trụ đều tràn đầy chú âm của ngài: ”Om chuli kalalupa hum khan soha.”
Thế rồi, Đại Uy Đức Kim Cang thề nguyện trở thành Căn bản Hộ pháp của tôi. Tôi nói: ”Ngài hãy xem tôi như thân mình, nếu tôi thành Phật thì ngài cũng thành Phật. Ngài hãy lấy tôi làm hình của mình, tôi đi đó đi đây thì ngài cũng đi đó đi đây. Tôi ăn gì thì ngài ăn nấy, bảo vệ tôi đi theo tôi, tất cả ô uế không nhiễm mắc. Cả hai cùng bay lên, cùng độ chúng sinh.” Tôi nói xong lời này thì Đại Uy Đức Kim Cang bay lên không, hóa thành một đường ánh sáng màu lam, tiến nhập vào trong thân tôi, tôi lập tức biến thành Đại Uy Đức Bố Úy Kim Cang, tôi đã có đại pháp lực giống như Đại Uy Đức Kim Cang.
Hôm nay tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Đại Uy Đức Kim Cang là Căn bản Hộ pháp của tôi. Tôi tự thân có thể biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang. Đây chính là khẩu quyết chí yếu nhất quan trọng nhất đối với sự linh nghiệm của pháp thuật. Tôi nói, liên minh với vô hình là điều quan trọng nhất.
Trong Mật giáo mà nói, liên minh chính là lời thề, cũng chính là samaya. Giới samaya của Mật giáo là chỉ lời thề ước giữa bạn và Căn bản Thượng sư, và Bổn tôn, và Hộ pháp. Ví dụ, bạn quy y một vị Kim cương Thượng sư thì những gì viết trên sách quy y chính là lời thề ước của bạn, ví dụ, kính sư, trọng pháp, thực tu đều có trong lời thề ước. Nếu bạn phá bỏ lời thề ước thì chính là phá giới samaya. Trong Mật giáo mà nói thì đây là việc rất nghiêm trọng, sẽ đọa vào địa ngục kim cang.
Thế nhân ngày nay thề thốt cũng nhanh mà bội ước cũng nhanh, người trọng tín nghĩa cũng rất ít rồi, điều này thật đáng tiếc đáng buồn. Vì thế, con người thời nay nghiệp chướng sâu nặng, nguyên nhân khiến họ tu hành làm pháp rất khó có được thành tựu lớn chính là ở đây.
Bạn có samaya với Kim cương Thượng sư, có samaya với Bổn tôn, càng phải có samaya với Hộ pháp. Samaya có thể giải thích thành “tuyên thệ liên minh”, phá bỏ “tuyên thệ liên minh” tức là phá giới samaya.
Tôi nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của giới samaya bởi vì Mật giáo là: 1. Lực truyền thừa gia trì của Căn bản Thượng sư là vĩnh viễn không đứt đoạn. 2. Căn bản Bổn tôn và hành giả vĩnh viễn dung hợp làm một. 3. Căn bản Hộ pháp như hình theo bóng hộ trì bạn (hành giả) tất cả sự nghiệp thành tựu.
Điều thứ ba này chính là “pháp thuật linh nghiệm”. Phù mà tôi vẽ có thể du hành cấp tốc tới các cõi trời. Tôi có thể đuổi tà xua quỷ. Tôi có thể phi thân lên trời xuống đất, thủy phủ âm gian, ba đảo mười châu, các danh lam thắng cảnh, ra vào mười phương pháp giới. Tôi có thể chữa bệnh. Tôi có thể hô mưa gọi gió, triệu thỉnh sấm chớp, thống nhiếp thần binh thiên tướng. Tôi có thể thỉnh Phật Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp, Không Hành Chư Thiên. Tôi có thể dùng thiên nhãn, thiên nhĩ, biết túc mệnh, hiển thần thông. Tôi có thể thành tựu quả vị. Tất cả là bởi tôi không phá vỡ samaya.
04. Liên minh trong pháp sai quỷ
Theo như tôi biết, pháp sai quỷ từ xưa tới nay không hẳn là trò lừa đảo người ta, cũng tuyệt đối không phải là thuật sĩ giang hồ. Mặc dù sai quỷ là vận dụng linh quỷ cấp thấp, nhưng vẫn có liên minh, có thể thấy là muốn pháp thuật linh nghiệm thì kết liên minh với nhau là tương đối quan trọng.
Về đại thể, sai quỷ là như thế này: Đầu tiên phải biết có đồng tử [trẻ con nam], thanh niên, người trẻ tuổi chết yểu. (trong vòng 100 ngày) Lấy sinh thần bát tự [giờ, ngày, tháng, năm sinh] và họ tên của người đó, cùng với vật tượng trưng cho tinh thần (lông tóc, móng tay,…). Khắc một bức tượng đồng tử, có bảy lỗ [hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng] rõ ràng, trên tượng viết họ tên và bát tự, bên trong tượng đồng tử thì bỏ vào lông tóc móng tay. Thờ trong mật thất, không được để cho người ngoài biết.
Cúng đồ ăn trong bảy bảy bốn mươi chín ngày. (Một ngày ba thời.) Đồ ăn đem cúng thì hành giả sai quỷ đều phải ăn hết. Khi cúng tế thì hô hoán họ tên lúc còn sống của người đó. Niệm chú: “Vân thôi vụ quyển, linh tiên thúc đáo, nguyện phụ thần tượng, thôi thành lạc cáo. Phụng Thái Thượng Lão Quân cấp cấp luật lệnh cương.”
Nói chung, nếu nghi quỹ chu toàn, lời triệu gọi có lực thì việc thỉnh cầu không có chuyện không được đáp ứng, thỉnh cầu không có chuyện không được thông qua. Sau đó, vong hồn này sẽ theo lực triệu gọi của hành giả mà đến nhập lên tượng thần, đồng thời có thể hiện thân. Hiện thân thông thường có ba kiểu: 1. Hiện trong thiền định — hành giả nhìn thấy trong thiền định. 2. Hiện trong mơ — hành giả nhìn thấy trong giấc mơ. 3. Hiện lúc ban ngày — ban ngày có thể hiện thân (việc này rất đặc biệt, linh lực đó đặc biệt mạnh).
Nếu nhìn thấy thì hành giả phải lập tức thỉnh cầu liên minh. Nói rằng: “Linh đồng. Linh đồng. Linh đồng hiển uy. Nay ta và ngươi sứ mệnh đi theo nhau. Nếu ta có miếng ăn thì mời ngươi nếm trước. Nếu ta có niềm vui thì mời ngươi hưởng trước. Chỉ mong nhanh chóng báo cáo lành dữ họa phúc. Không vì vụ lợi mà không báo cáo. Có cầu đều ứng. Ta và ngươi liên minh, cùng tu linh uy, vĩnh viễn trợ giúp việc của ta. Thần Tiên luôn theo.” Nếu linh hồn này ưng thuận thì pháp thuật sẽ rất linh nghiệm. Đây là kết liên minh của pháp sai quỷ.
Tôi nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của liên minh, bởi vì có liên minh rồi, bất kể là Kim Cang Hộ Pháp hay là linh hồn cấp thấp đều phải theo lời thề mà hành sự. Tôi chưa bao giờ dám coi thường linh hồn, bởi vì ma quỷ cũng có ngũ thông, cũng có thể thông đạt cõi u minh, nếu có linh hồn đi theo thì mọi việc cũng đều suôn sẻ.
Ví dụ có một bài ca ngợi ngũ quỷ nổi tiếng như sau: Trời cao đất rộng, Biển trời vạn dặm ma bay tới Chẳng vì cơm rượu của nhân gian Cũng có thể đến chỗ Vương Mẫu Nương Nương dâng bàn đào Có tiếng tăm trong hội họp Thần Tiên Ngũ quỷ vĩnh viễn bắc cầu nối đồng lòng.
Ngũ quỷ này vốn là “nghĩa quỷ” [ma quỷ có nhân nghĩa], pháp lực ngang ngửa với Thần Tiên, có người tu pháp Ngũ quỷ theo thân, linh lực của người đó cũng là số một. Vì thế không thể coi thường pháp sai quỷ.
Từng có một người sai quỷ muốn thăm dò đạo hạnh của tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn). Ông ta phái một linh hồn nấp tại một bậc cầu thang Nếu tôi dẫm chân lên thì sẽ bị trượt mà ngã cầu thang. Nhưng khi tôi đi xuống cầu thang thì tôi đã biết trước rồi. Tôi bước qua bậc đó. Tôi niệm một câu: “Kỉ mông Tiên chân giáng, trần hoàn nhiễu nhiễu vật cửu lưu, ngô phẫn bảo hương, tống nhữ phản hồi lai thời xứ.” [Bản thân đã gặp được Tiên thật sự giáng xuống, cõi trần hỗn loạn chớ ở lại lâu, ta đốt hương quý tiễn ngươi trở về nơi mà ngươi từ đó đến.] Hồn ma kia thất kinh. Bởi vì câu nói này của tôi là một câu trong chú Tiễn ma. Ma hỏi: ”Ông là hành giả sai quỷ à?” Tôi đáp: ”Không phải.” Ma hỏi: ”Rốt cục ông là ai?” Tôi đáp rằng: ”Tôi có Quỷ Vương lệnh.” ”Quỷ Vương lệnh?” - Con ma nhảy dựng lên, nói: “Ông là Địa Tạng Vương Bồ Tát ư?” Tôi nói: ”Tôi không phải là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quỷ Vương lệnh là Địa Tạng Bồ Tát cho tôi mượn.” Kể từ đó, kẻ sai quỷ kia không dám đến thăm dò tôi nữa.
05. Cấp độ của linh giới
Từng có một truyền thuyết như thế này: Có một ngôi miếu linh nghiệm phi phàm. Nhưng trong miếu này chỉ thờ một “ông Táo” mà thôi, nhưng người đến hành hương “ông Táo” này thì cứ ùn ùn đổ về chật kín đường đi, người đông nghìn nghịt, hương hỏa rất hưng thịnh, lừng danh khắp xa gần.
Bỗng dưng có một ngày. Một lão thiền sư cầm gậy đi đến. Đứng trước “ông Táo” này, dùng gậy gõ nhẹ vào bếp lò ba cái, nói một câu là: “Cái bếp này xây bằng gạch và đất sét thôi mà, tại sao lại linh nghiệm như thế nhỉ!” Nói xong câu này. Cái bếp lò đã nứt thành hai nửa ngay tại chỗ. Mọi người đều kinh hãi! Trong đám người, bỗng nhiên có một người đàn ông mặc áo gấm đẹp đẽ bước ra, chắp tay cúi lạy lão thiền sư, luôn miệng nói cảm ơn lão thiền sư. ”Anh là ai, sao lại cảm ơn tôi?” ”Tôi chính là Táo Quân, hôm nay gặp được thiền sư chỉ điểm tự tính, trong sát-na đã chuyển mê thành ngộ, bây giờ đã đến lúc bay về trời rồi, vì thế đến để cảm ơn!”
Tôi cảm thấy truyền thuyết này rất có pháp vị, tôi cho rằng: 1. Vạn vật có linh. 2. Linh có cấp độ. 3. Hiểu rõ tự tính có thể thành đạo.
Theo như tôi biết, cấp độ của linh giới, nếu phân chia một cách đại khái thì có thể phân thành: địa cư linh (linh thấp), thiên cư linh (linh cao), thánh cư linh (linh cao nhất). Phật Bồ Tát là linh cao nhất. Thần trời cũng là linh cao. Thần nước, thần cây, thần cửa, thần trồng trọt, thần đất, v.v…. là linh thấp. Thượng đế của Cơ Đốc giáo, thượng đế của Hồi giáo, thượng đế của Thiên Chúa giáo, thượng đế của Đạo giáo, đều là Thần trời, ở cấp độ của Đại Phạm Thiên Vương. Còn có những linh thấp hơn cả linh thấp, ví dụ linh động vật, con người cũng tính vào linh động vật.
Tam giới của Phật giáo là: Dục giới — thế giới hữu tình có thân tâm, dục vọng về ăn uống và sắc tình đều mạnh. Sắc giới — thế giới thù thắng kì diệu có thân tâm, đã lìa bỏ dục vọng ăn uống và sắc tình. Vô sắc giới — thế giới vi diệu sâu sắc có tâm không thân, duy có tâm thức. Phật — tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Tam giới của Phật giáo kì thực cũng là thế giới của linh, “vô hình” ở đây đầy ắp trong toàn bộ pháp giới.
Còn pháp thuật là tác dụng của “vô hình”, cũng chính là tác dụng của “linh”, rất nhiều “linh học gia” hiện đại dứt khoát muốn đặt một cái tên, cái tên này chính là “linh tử”, kì thực linh tử cũng tức là quỷ thần vô hình thôi
Tôi cho rằng: Có tượng hay không có tượng thì không có nhiều khác biệt, bởi vì linh tử vốn dĩ là đầy ắp cả hư không. Có tượng thì linh tử sẽ đến để nhập vào tượng, giống như câu chuyện nói đến ở trên, linh tử nhập vào “ông Táo”. Không có tượng thì linh tử cũng đầy ắp hư không, con người hướng về họ cầu nguyện là nghĩ về hư không.
Giới tôn giáo có tượng, ví dụ Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo. Giới tôn giáo không lập tượng thì có Cơ Đốc giáo, Hồi giáo. Kì thực đôi bên đều không công kích lẫn nhau, cũng không cần phải phê bình đâu là chính đâu là tà, đâu là Phật đâu là Ma. Sự tụ tập của linh tử vốn dĩ cũng là theo duyên phận và tâm tính mà tới, đây là nguyên lí ngưu tầm ngưu mã tầm mã: Tâm chính thì linh chính. Tâm tà thì linh tà. Thiện ác chỉ nằm giữa một suy nghĩ, Phật Ma chỉ nằm giữa một suy nghĩ, chính tà chỉ nằm giữa một suy nghĩ. Có thể nói như thế này, vốn không có thiện ác, vốn không có Phật Ma, vốn không có chính tà. Có những điều này đều là từ con người mà khởi lên.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) phát hiện thấy, mỗi người có nhân quả của mỗi người, và mỗi linh cũng có nhân quả của mỗi linh, có ảnh hưởng lẫn nhau, con người có thể ảnh hưởng đến linh tử, linh tử cũng ảnh hưởng đến con người, đan xen phức tạp với nhau, là một thế giới hết sức mập mờ.
Còn pháp thuật của Mật giáo chính là phương pháp để điều ngự linh tử.
06. Tại sao hành giả cần làm pháp?
Từng có một việc như thế này: Tôi gia trì cho một phụ nữ bị mất ngủ 16 năm, tay của tôi đặt lên đầu của cô ấy, tôi vận dụng linh lực để truyền dòng chảy pháp lên người cô ấy. Cô ấy hét lớn một tiếng rồi ngất xỉu. Từ trên người cô ấy có một con ma nhỏ chạy ra. Thế là người phụ nữ bị bệnh mất ngủ này kể từ đó không còn mất ngủ nữa.
Nhưng mà con ma nhỏ kia lại không phục, quay ra tìm tôi. Buổi tối tôi lên giường, nó ở bên tai tôi la hét rất ồn ào. Hoặc khi tôi sắp ngủ, nó dùng chuông để đánh thức tôi dậy. Tôi lại sắp ngủ. Nó lại đánh vào đầu tôi một cái. Tôi lại sắp ngủ. Nó lại đánh vào ngực tôi một cái. Cứ như thế phá quấy tôi rất lâu.
Thế là tôi dứt khoát bò dậy làm pháp: Tôi quán tưởng xung quanh giường của mình đều hóa thành nước, sau đó quán tưởng giường của mình hóa thành một bông hoa sen, còn mình thì nằm ngủ trên bông hoa sen đó, thế rồi trì chú gia trì. Nhưng không ngờ, con ma nhỏ này quả nhiên là có một chút đạo thuật nhỏ, nó biến mình thành một con rắn nước, rồi từ trong nước bơi tới. Khi tôi ngủ thì ngón chân cái của tôi thò ra ngoài hoa sen, con rắn nước nhỏ này liền cắn vào ngón chân cái của tôi. Tôi đau quá thế là lại tỉnh dậy.
Cuối cùng, tôi lại quán tưởng xung quanh giường mình đều là nước, sau đó quán tưởng giường mình hóa thành một bông hoa sen. Tiếp theo, tôi lại quán tưởng Hỏa Thiên Thần giáng xuống, nổi lửa kim cang xung quanh bông hoa sen, bông hoa sen này của tôi đã trở thành hoa sen trong lửa. Tôi lại chìm vào giấc ngủ say. Đêm hôm ấy tôi ngủ yên ổn ngon lành. Con ma nhỏ đó quay về phía tôi, nhìn ngọn lửa và than thở, sau đó tự động rút lui.
Tôi lấy câu chuyện có thật này là muốn giải thích rõ “Vì sao hành giả cần làm pháp?”. Trong Mật giáo mà nói, pháp phòng hộ là quan trọng hàng đầu của hành giả Mật giáo. Trong làm pháp Mật giáo có rất nhiều rất nhiều pháp phòng hộ. Trong Phật môn Hiển giáo, pháp phòng hộ tương đối ít. Trong Phật môn Mật giáo, pháp phòng hộ rất nhiều.
Trong khi tôi giảng giải “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, tôi đã giải thích các loại pháp bảo vệ, ví dụ: Pháp mặc bia giáp hộ thân. Pháp sợi dây đỏ bảo vệ. Pháp cọc kim cang đóng ma, pháp tường kim cang chặn ma, pháp võng kim cang bắt ma, pháp kim cang hỏa viện đốt ma. Pháp dây thừng kim cang trói ma. Các pháp kiết giới.
Ngoài ra, khi vẽ đàn cúng mandala cũng phải vẽ đàn trừ ma. ”Ví như mặt đất xuất hiện chướng ngại về nước hoặc gió mưa, những chướng ngại do trời tạo hoặc người tạo cùng khởi lên. Nếu khi ấy có thể tu phương pháp trừ tai nạn thì lập tức hãy tu như thế.” ”Dùng Thập Đại Minh Vương đáng sợ nhất gia trì cho mười bánh xe nan hoa màu vàng xoay tròn theo chiều bên phải.” ”Khôi phục nền móng của bản tính kim cang để ngăn chặn và chế ngự tất cả ma chướng.”
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, với bất kì một hành giả tu hành nào đều sẽ xuất hiện ma đến gây chướng ngại. Có ma đến từ bên ngoài. Cũng có ma ở trong chính tâm mình. Vì thế, tu pháp đối trị là điều bắt buộc. Bậc đại thánh như Thích Ca Mâu Ni Phật có chướng ngại của trời, cũng có chướng ngại do con người. Tôi cho rằng mỗi một người tu hành đều nên hiểu pháp thuật phòng ma, việc này vô cùng cần thiết.
Theo như tôi biết, có rất nhiều người tu hành bị thiên ma quấy nhiễu đến mức tâm thần thất thường, bị địa ma quấy nhiễu đến mức trăm bệnh bộc phát, bị nhân ma quấy nhiễu đến mức thối lùi đạo tâm, những hiện tượng này nhiều vô cùng, rất nhiều hành giả hễ không cẩn thận là lập tức bị ma biến thành món điểm tâm ăn sạch. Có rất nhiều người nếu không tu hành thì không sao cả. Nếu đã tu hành thì sẽ có chuyện, đến mức cả nhà đều không được bình yên. Đây là do ma gây chướng ngại mà ra.
Gần đây, ở trong thiền định, tôi đã được Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát truyền thụ pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn. Đây là đại pháp tránh ma. Tôi hi vọng mọi người tu hành đều coi trọng pháp phòng ma, đặc biệt là pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn.
07. Pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn
Bây giờ tôi sẽ trình bày nghi quỹ của pháp Chân Phật Tông Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn như sau:
Đầu tiên kết thủ ấn Quan Thế Âm Bồ Tát. 1. Hành giả quán tưởng tóc của mình tập trung lại, hóa thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát, đứng ở vị trí trên cao nhất của đàn thành. 2. Quán tưởng da trên toàn thân hóa thành bảo cái [ô, lọng] của đàn thành. 3. Quán tưởng mắt thành minh châu, kim cương nạm trên bảo cái. 4. Quán tưởng mũi thành đá quý nạm trên tầng bảo cái thứ hai. 5. Quán tưởng răng thành chuỗi ngọc, treo trên tầng bảo cái thứ ba. 6. Quán tưởng hai tai hóa thành một cặp cờ phướn, trên đó viết chữ Phạn “Om mani padme hum”, treo ở hai bên của bảo cái. (Hoặc viết tâm chú của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát.) 7. Lại quán tưởng tầng thấp nhất là lòng bàn chân của hành giả hóa thành phong luân [bánh xe gió] (màu lam). 8. Mật luân [luân xa bí mật] của hành giả hóa thành hỏa luân [bánh xe lửa] (màu đỏ), ở trên phong luân. 9. Tề luân [luân xa rốn] của hành giả hóa thành thủy luân [bánh xe nước] (màu lục), ở trên hỏa luân. 10. Tâm luân [luân xa tim] của hành giả hóa thành thổ luân [bánh xe đất] (màu vàng), ở trên thủy luân. 11. Xương sống của hành giả hóa thành núi Tu Di (màu cà phê), ở trên thổ luân. 12. Bản thân hành giả ngồi trên núi Tu Di, lỗ chân lông toàn thân tỏa ra ánh sáng vàng kim. Trì tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát (hoặc chú đại bi của Thiên Thủ Thiên Nhãn). Trì chú 108 biến hoặc 1080 biến. 12. Nhập thiền định.
Cứ mỗi nửa tháng tu pháp này một lần thì sẽ không có tai nạn, bất kì bùa chú giáng đầu nào cũng đều phá trừ được. Pháp này là thân cúng dường, phải theo thứ tự quán tưởng rõ ràng, như vậy có thể tránh được mọi tai họa, ví dụ bệnh tật, tai nạn bất ngờ, ma nạn, tai họa do con người gây ra, thiên tai, tất cả hung họa tai vạ bất ngờ đều có thể tiêu diệt. Có được sự bảo vệ che chở của Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ bi.
Mật pháp này là pháp khác biệt chỉ riêng Chân Phật Tông mới có. Nguồn gốc của pháp này là trong lúc tôi tiến hành đại bi bảo sám, trong sát-na nhập vào thiền định rất sâu, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện, đích thân khẩu truyền cho tôi pháp này, tổng cộng ngài giảng ba lần thì tôi mới ghi nhớ được. Sau khi ra khỏi thiền định, tôi lại giảng giải cho các đệ tử nghe.
Do vậy, truyền thừa của pháp này là: Quan Thế Âm Bồ Tát → Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn → Các đệ tử Chân Phật Tông. Là Bồ Tát trực tiếp truyền cho tôi. Tôi nói với mọi người, người phàm tục tu pháp này nhất định phải quy y nhận quán đảnh mới có thể tu.
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Tôi đã từng đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Tôi tận mắt nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử. Tôi tận tai nghe thấy pháp ngữ của Như Lai. Tôi đích xác đã cùng Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê. Còn pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn cũng đích xác Bồ Tát đích thân truyền cho tôi. Những sự việc kiểu như thế này rất nhiều. Thế nhưng, rất nhiều đại sư, pháp sư, hành giả không tin. Họ nói tôi là khoác lác, nằm mơ, thần kinh không bình thường. Tôi đã bị phê phán từ năm 26 tuổi cho đến nay đã 50 tuổi rồi, đến bây giờ tôi vẫn bị người ta phê phán.
Thế nhưng, đối với bản thân tôi mà nói, tôi chỉ là đến nhân gian này một chuyến, đến để nói cho mọi người biết về chân lí, tôi là người truyền ngọn đèn của chân lí, tôi không có mục tiêu nào khác, không nghĩ đến chuyện muốn lập công danh nghìn thu vạn thế, tôi tùy duyên mà làm tất cả mọi việc, đi chơi đùa ở nhân gian, giống như hư không, có tất cả mọi thứ và cũng chẳng có mọi thứ.
Điều quan trọng nhất là để cho con người thế gian hiểu rõ đích thực là có linh giới (thế giới tâm linh), dạy con người cần hợp nhất tâm mình với vạn vật để nghiên cứu cuộc đời chân lí, dạy con người phá mê khai ngộ, dạy con người thành tựu Phật quả, đi giúp đỡ nhân loại tự do, dân chủ, hạnh phúc, phá trừ tai nạn, gia tăng phúc phần.
Pháp thuật của tôi là “nhân thuật” [lòng nhân đức]. Tâm của tôi là tâm Phật. Bạn tin cũng được. Không tin cũng được. Tán dương cũng được. Phỉ báng cũng được. Tôi đều không hề gì.
Tôi rất thích một bài thơ của Vương Xương Linh [nhà thơ Trung Quốc thời Thịnh Đường]:
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô Bình minh tống khách Sở sơn cô Lạc Dương thân hữu như tương vấn Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Dịch thơ:
Mưa lạnh theo sông đêm tới Ngô Bình minh tiễn khách sầu núi Sở Bạn hữu Lạc Dương nếu có hỏi Bình ngọc mảnh tâm sáng như băng.
[Bài thơ Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm - kì 1.]
08. Dùng tam mật để triệu thỉnh
Chúng ta tu hành Mật giáo có thứ tự nhất định, dựa vào thứ tự được liệt kê sau đây: Tứ gia hành. Thượng sư tương ứng pháp. Bổn tôn pháp. Nội pháp (gồm pháp chuyết hỏa, pháp vô lậu, pháp minh điểm, tức là khí, mạch, điểm). Kim Cang pháp. Vô thượng mật. Đại viên mãn.
Trong phạm vi của pháp Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn, về đại thể là thuộc về phạm vi của Ngoại pháp, nhưng Ngoại pháp là cơ sở của Nội pháp. Ngoại pháp là tu “tính”, Nội pháp là tu “mệnh”, Mật giáo là tính-mệnh song tu. Ngoại pháp là tu tâm. Nội pháp là tu thân. Pháp Kim Cang là Bổn tôn phẫn nộ. Vô thượng mật là song vận. Đại viên mãn là tính Không.
Rất nhiều người tu hành đều biết, pháp thuật của Mật giáo không tách rời “tam mật gia trì”, cũng biết rằng tam mật là thân mật, khẩu mật, ý mật. Tôi lại phân tích tam mật như sau: Thân mật — thủ ấn — thân thanh tịnh. Khẩu mật — chú ngữ — khẩu thanh tịnh. Ý mật — quán tưởng — ý thanh tịnh.
Tu hành Mật giáo không tách rời thân, khẩu, ý, cũng tức là mượn thủ ấn, chú ngữ, quán tưởng để đạt đến thân, khẩu, ý thanh tịnh. Cho nên con người có tam nghiệp, Như Lai có tam mật, chuyển tam nghiệp của con người thành tam mật của Như Lai thì con người có thể thành Phật, đây là đạo lí thành Phật của Mật giáo.
Còn như việc làm pháp của pháp thuật Mật giáo thì cũng không tách rời ba kĩ xảo thủ ấn, chú ngữ, quán tưởng.
Tôi từng nói, pháp thuật muốn linh thì nhất định phải có Thần đến thì mới linh. Pháp thuật không linh tức là Thần không đến. Muốn Thần đến, thật ra có rất nhiều khẩu quyết quan trọng, trong Mật giáo đặc biệt quan trọng, người bình thường không hiểu, và người không chuyên lại càng không hiểu rõ, thậm chí người tu hành học Mật lâu năm cũng vẫn lơ là qua quýt.
Khẩu quyết này có nghìn vàng vạn tiền cũng khó mua được, tôi kể ra như sau: Thủ ấn — dùng “móc kim cang”, hai tay đan nội phộc, ngón trỏ tay phải giơ lên tạo thành hình móc câu. Hoặc dùng chính lông mi của hành giả, lông mi cong hướng lên trên trở thành móc kim cang, đây là thân ấn. Lúc này trong ý niệm phải quán tưởng móc kim cang vươn vào hư không, móc vào pháp tọa của Phật Bồ Tát hoặc Thiên Thần, lệnh cho các vị mau mau hạ giáng. Chú ngữ — dùng chú triệu thỉnh của Chân Phật Tông: “Om Ah Hum Soha”. Chú ngữ này là tam tự minh, trên tới Phật Bồ Tát, dưới tới chư Thiên quỷ thần, v.v… đều nghe được chú ngữ triệu thỉnh này. Chú ngữ ngắn gọn nhưng có đại uy thần lực. Quán tưởng — ngoài quán tưởng móc kim cang móc vào pháp tọa của chư tôn ra, hoặc là thân ấn, dùng lông mi hóa thành móc kim cang móc vào pháp tọa, thì còn có một số quán tưởng cực kì quan trọng khác. Nếu là thần nữ thì phải quán tưởng thiên y của ngài chuyển động bay bay, giống như bay theo gió mà giáng xuống vậy, hoặc quán tưởng các món đồ trang sức của ngài chuyển động, ví dụ hoa tai, vòng tay, vòng cổ,… đều chuyển động. Nếu là thỉnh Quan Âm Bồ Tát hạ giáng thì đương nhiên phải quán tưởng thiên y của ngài chuyển động bay bay, các món trang sức trang nghiêm đều chuyển động, thậm chí cành dương liễu trên tay cũng bay bay và vẩy cam lộ, giống như nước cam lộ cũng bay đến thân mình. Nếu là thần nam thì quán tưởng chân ngài chuyển động, chân sải bước lớn và bay xuống, ví dụ Kim Cang Thần hoặc Tứ Thiên Vương. Cũng có thể quán tưởng các pháp khí mà các vị cầm đều chuyển động. (Đây là bí mật dùng tam mật để triệu thỉnh.)
Làm pháp tam mật, tôi lại nhấn mạnh như sau: Thủ ấn — làm pháp gì thì kết thủ ấn của pháp đó. Chú ngữ — làm pháp gì thì niệm chú ngữ của pháp đó. Quán tưởng — bạn cầu cái gì thì nghĩ đến cái đó.
Đối với tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) mà nói, cảnh giới của tôi không phải là chuyện nhỏ, chỉ cần tôi khởi niệm là Hộ Pháp Kim Cang của tôi lập tức tiếp nhận pháp chỉ mà đi xử lí công việc một cách chu toàn, không cần bản thân tôi phải phí nhiều tâm tư. Vào thời đại ngày nay mà nói, đây chính là cảnh giới pháp thuật cao nhất, cảnh giới này chính là: ”Tâm tưởng sự thành.”
09. Cách làm pháp nước chú đại bi
Trong giới Phật giáo, chú đại bi là nổi tiếng nhất. Bất luận là Hiển giáo hay Mật giáo đều quen thuộc. Dùng chú này gia trì nước thì gọi là nước chú đại bi.
Từng có một tì kheo ni ẩn cư tĩnh tu, 20 tuổi vào núi, 50 tuổi xuống núi, mọi người nhìn thấy bà ấy da dẻ còn trắng trẻo hơn lúc 20 tuổi, dung mạo vẫn như 20 tuổi, bà ấy tự nói rằng thân thể cảm giác cực kì nhẹ, nhãn lực cũng rất tinh. Thân thể nhẹ nhàng như bay, nhãn lực nhìn xuyên qua mọi thứ xa gần, cho dù có cây chặn lại cũng có thể nhìn xuyên qua được.
Hỏi bà ấy tu ra sao? Bảo rằng trì chú đại bi. Hỏi bà ấy ăn ra sao? Nói ăn quả trám ở trên núi, uống nước chú đại bi. Tì kheo ni tự nói rằng, bà ấy chăm tu chú đại bi, từng nhìn thấy Hộ Pháp Thần Tướng trong chú đại bi lần lượt hiện thân ở xung quanh. Bà ấy gặp rắn, niệm chú đại bi, con rắn ngoan ngoãn ở bên cạnh bà ấy uốn éo ung dung bò đi. Từng có một lần, bà ấy niệm chú đại bi, bỗng nhiên từ trên trời thả xuống rất nhiều hoa sen trắng nhỏ, lại còn rất thơm nữa!
Tôi nhớ ngày xưa phu nhân của Chu Bang Đạo [một nhà giáo dục người Trung Quốc (1898-1991)] là bà Chu Dương Huệ Khanh, nước chú đại bi mà bà ấy niệm cực kì nổi tiếng. Tôi từng gặp mặt Chu Bang Đạo một lần, được ông ấy kể với tôi về truyền kì “một dòng nước giữa sông”, nước chú đại bi của bà Chu Dương Huệ Khanh, nước đó lấy từ “một dòng nước giữa sông”, chương sách này tôi đã viết trong sách tâm linh của tôi. Nước chú đại bi của bà Chu Dương Huệ Khanh từng cứu được rất nhiều người, những chuyện này đều là sự thật.
Ngoài ra, gần đây nước chú đại bi của tì kheo ni vô danh kia cũng khá nổi tiếng, lan truyền khắp Đài Loan. Chú âm của chú đại bi có rất nhiều loại: 1. Chú đại bi theo tiếng Hoa. (Hiển giáo niệm) 2. Chú đại bi theo tiếng Pali. (Tôi nghe được ở Indonesia.) 3. Chú đại bi theo tiếng Phạn cổ. (Tiến sĩ Deepak niệm.) 4. Chú đại bi theo An Lạc Diệu Bảo. (An Lạc Diệu Bảo dịch âm.) Và các loại khác.
Tôi cho rằng chú âm nên cố gắng niệm chính xác, nếu không thể thì dựa vào chú âm mà sư phụ mình truyền dạy cũng được. Bởi vì có một số người trì chú lâu ngày rồi, bảo họ thay đổi, họ đã không quen, nếu thay đổi thì ngược lại sẽ đánh mất chú lực.
Cách làm nước chú đại bi của Chân Phật Tông như sau: 1. Cúng dường. 2. Lễ bái. 3. Thanh tịnh. Triệu thỉnh. 4. Thủ ấn — kết thủ ấn Đại Bi Quan Thế Âm. (Ấn căn bản của Thiên Thủ Quan Âm.) Hai tay chắp kiểu kim cang, hơi cong mu bàn tay và úp hai lòng bàn tay vào nhau, ngón út, ngón giữa và ngón cái mở ra là thành ấn. 5. Quán tưởng — Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân trong hư không, nghìn tay nghìn mắt phóng đại quang minh, ánh sáng ấy thành hình vòng cung chiếu đến bình sạch, bát sạch, hoặc cốc sạch đựng nước của mình, cũng tức là quang minh nhập thủy. 6. Trì chú — 7 biến, 21 biến, 49 biến đều được. Nếu có thời gian thì nên trì chú dài. Nếu thời gian gấp gáp thì có thể trì tâm chú. Tâm chú: Om warila damo seh. 7. Cát tường viên mãn.
(Chú thích: cũng có hành giả cho rằng khi kết thúc trì chú nên kết kim cang chỉ hoặc kiếm ấn, trên mặt nước viết chủng tử chữ “seh” bằng tiếng Phạn của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần. Tôi cho rằng làm theo cách này cũng được.)
Nguyện lực của bản thân chú đại bi là cực lớn, có thể diệt trừ trọng tội sinh tử của trăm nghìn triệu kiếp trong người, có thể vãng sinh Phật quốc, không đọa tam ác đạo. Chú đại bi có thể trị tám vạn bốn nghìn loại bệnh. Chú đại bi có thể quản thúc quỷ thần, có thể trói buộc quỷ thần. Chú đại bi có thể kiết giới. Nước chú đại bi cũng như vậy!
10. Pháp Ngũ quỷ vận tài
Trước kia tôi thường nói: Phúc phần của con người, vừa sinh ra đã được định trước. Một miếng ăn một miếng uống đều là định số. Đây là quy luật tự nhiên tồn tại một cách vô hình trong tất cả mọi thứ.
Tôi còn nói: Thế nhưng, Thánh hiền chân chính nên tạo mệnh lập mệnh, hơn nữa còn phải lập tâm vì trời đất, lập mệnh vì nhân dân.
Theo như cách nói của tôi thì vận mệnh là do trời định, nhưng dốc sức thì cũng có thể thay đổi được. Trong tư tưởng của tôi có quan niệm về số mệnh, nhưng cũng có quan niệm về lập mệnh. Cần biết rằng trong nhân quả bao la, có thể đọc cuốn sách “Liễu Phàm tứ huấn” thì có thể hiểu rõ tất cả, minh bạch rõ ràng.
Trong quá khứ tôi từng đến nhà của một đệ tử bần hàn xem phong thủy. Anh ấy biếu tôi tiền lễ chỉ có 50 Đài tệ. Anh ấy sống tại một khu dân cư nghèo ven sông, ngôi nhà được đắp bằng đá và đất sét, trong nhà sực mùi ẩm mốc. Tôi đến nhà anh ấy đi một vòng. Tôi bất ngờ nhìn thấy trong một cái lỗ nhỏ ở bức vách có ánh sáng, không ngờ cái lỗ nhỏ ấy càng ngày càng rộng, và bên trong có mấy trăm người đang tập trung ở trong đó. Mấy trăm người đó mặc áo tím thêu chữ phúc, đội mũ rộng, rất chỉnh tề, ai nấy tinh thần đều tràn đầy phấn khởi. Tôi rất đỗi kinh ngạc. Tôi hỏi đệ tử: ”Anh có quan hệ thế nào với Thổ Địa Công?” ”Không có quan hệ gì.” - Đệ tử đáp. ”Thật là không có ư?” ”Thật ạ.” - Đệ tử nói: “Con chưa bao giờ đi lễ Thổ Địa Công!”
Tôi nhìn chằm chằm vào đệ tử, không nghĩ ra được lí do. Cuối cùng đệ tử nói: ”Giả sử có quan hệ thì có thể như thế này, con nhớ ra rồi, có một hôm trời mưa, con đi qua một ngôi miếu Thổ Địa Công ở một làng dưới chân núi, nhìn thấy ngói trên mái của ngôi miếu đã bị vỡ rơi trên rãnh nước, nước mưa đang xối thẳng vào tượng kim thân của Phúc Đức Chính Thần. Con cảm thấy không đành lòng, sau khi trở về nhà đã lấy mấy viên ngói còn tốt, quay trở lại miếu Phúc Đức để thay ngói vỡ, chỉ có như vậy mà thôi!” Tôi nói: ”Lần này thì phát rồi.” ”Cái gì phát rồi?” ”Vận mệnh của anh đã thay đổi, sẽ trở thành đại gia đó.” - Tôi nói. ”Đại gia ư? Sư Tôn nói đùa rồi!” - Anh ấy rất vui mừng. Tôi nghiêm túc nói: ”Tôi nói anh phát thì chắc chắn sẽ phát, hãy chăm chỉ làm sự nghiệp của anh đi!”
Đệ tử này vốn ở tại nhà làm công việc quấn cuộn cảm bằng tay, là linh kiện nhỏ trong thiết bị điện, đây là nghề phụ của gia đình. Về sau, người ta cho anh một đơn đặt hàng. Anh triệu tập các gia đình xung quanh cùng tham gia vào nghề phụ quấn cuộn cảm của gia đình này. Kết quả là càng làm càng lớn, đơn đặt hàng ùn ùn đổ về, thành phẩm của anh càng tinh xảo và đẹp đẽ. Trước kia anh ấy có mua một mảnh đất ở lòng sông, ai ngờ dòng chảy đổi dòng, đất lòng sông đã biến thành đất xây dựng. Trong vài năm ngắn ngủi, anh ấy đã có hai công xưởng, có một mảnh đất rộng, anh ấy cũng tự mình xây dựng, mua đất xây nhà, không ngờ việc gì cũng thuận lợi. Bây giờ anh ấy đã là đại gia rồi.
Theo như tôi biết, trong số mệnh của đệ tử này vốn dĩ sẽ nghèo khó. Nhưng may mắn gặp cơ duyên, được phúc thần âm thầm trợ giúp, cho nên mới trở thành đại gia. Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) là người có minh nhãn, những đại gia giàu có mà tôi đã gặp lên tới hơn trăm hơn nghìn người, xung quanh những người giàu có này đều có phúc thần đứng phục vụ bên cạnh. Những phúc thần này đều là vô hình, giúp đỡ chuyển của cải đến nhà.
Kì thực Phúc Đức Chính Thần là tiểu thần ở địa phương, cũng là âm thần, cũng làm chủ phúc phần, địa vị thần tuy nhỏ nhưng tụ tập đông đảo lại thì thế lực cũng lớn. Cũng có nhiều người giàu có xung quanh họ là các “tài quỷ” giúp đỡ, đây là “Ngũ quỷ vận tài”, có quỷ thần trợ giúp thì mới có thể trở nên giàu có.
Còn như những người bần cùng, không những không có phúc thần tài quỷ hầu hạ mà thậm chí có khi gặp phải quỷ xui xẻo, quỷ đòi nợ đến nhà… Kết quả là càng ngày càng nghèo.
Trong pháp thuật của Mật giáo vốn có rất nhiều pháp Tài Thần, tôi đã từng truyền thụ thì có: Hoàng Tài Thần. Lục Tài Thần. Bạch Tài Thần. Hắc Tài Thần. Hồng Tài Thần. Ngoài ra còn có: Tài Bảo Thiên Vương. Tài Nguyên Thiên Mẫu. Pháp rung cây tiền. Pháp Long Vương bảo bình. …
Theo tôi được biết, ở thiên thượng giới, sung túc nhất nên thuộc về Đa Văn Thiên Vương (Hoàng Tài Thần), ở vùng biển thì sung túc nhất nên thuộc về Hải Long Vương. Pháp thuật của Mật giáo có dạy người ta tu pháp làm giàu là bởi vì có một số hành giả Mật thừa bản thân nghèo khổ, không có tư lương để yên tâm tu hành, để giúp cho hành giả Mật giáo yên tâm tu hành nên mới đặc biệt đặt ra pháp môn phương tiện, khiến hành giả giàu có mới có thể không còn nỗi lo về sau.
Ngoài ra, tôi còn cho rằng con người trên thế giới đều biết tiền tài là quan trọng, ai ai cũng muốn phát tài, cho nên Mật giáo đặc biệt đặt ra pháp môn Tài Thần, “tiên dĩ dục câu chi, tái lệnh nhập Phật đạo”, trước tiên dùng pháp Tài Thần để thu hút hứng thú tu pháp của người ta, sau đó tiến thêm một bước vào Phật pháp chân chính của xuất thế gian.
Còn nữa, tu pháp Tài Thần có được lợi ích to lớn, cần phải phát nguyện sẽ đem phần lớn tiền tài làm sự nghiệp từ thiện bố thí, vòng tuần hoàn nhân quả như vậy, trồng phúc được tài.
Trong kinh Đại Trang Nghiêm Luận có một bài kệ rằng: Nay anh tự nói rằng Không trồng không thành quả Trước anh không bố thí Thì nay sao được quả? Nay anh dù vất vả Bớt ăn cúng dường ta Tự mình chuốc khổ sở Lại phiền hà đến ta. Làm gì khiến cho anh Nay được nhiều lợi ích? Nếu muốn được tài bảo Vợ con và quyến thuộc Nên tịnh thân và khẩu Và làm nghiệp bố thí Không trồng mà được lợi Thì nhật nguyệt tinh tú Chẳng nên chiếu thế gian Vì đã chiếu thế gian Nên biết là do nghiệp Trên trời trong chư thiên Cũng đều có khác biệt Phúc nhiều uy đức thịnh Phúc ít xem uy đức Vì đã biết thế gian Tất cả đều do nghiệp Bố thí được tài phúc Giữ giới sinh về trời Không có duyên bố thí Uy đức đều suy giảm Định huệ đắc giải thoát Ba quả báo có được Thập lực đã đều nói Đây đều là cái nhân Không nên phiền đến ta Vì thế nên tu phúc Để mong được quả lành.
Từ bài kệ này, chúng ta thấy được rằng: 1. Bố thí trồng hạt giống phúc. 2. Giữ giới được sinh ở cõi trời. 3. Định huệ giải thoát. 4. Có nhân có quả.
Nói theo cách nói hiện đại thì: “Muốn thu hoạch được cái gì, trước tiên phải trồng cái đó!” Có rất nhiều người nói với tôi, căn bản là không có tiền thì làm sao làm bố thí được? Tôi trả lời, có rất nhiều phương pháp bố thí, không chỉ mỗi là bố thí tiền, cũng có bố thí pháp, rồi còn có bố thí vô úy. Dùng lời khuyên người khác làm thiện, dùng thân nỗ lực làm việc thiện mỗi ngày, đó gọi là có tiền bỏ tiền, có sức bỏ sức. Còn có dùng tâm đi làm việc thiện, đây là một suy nghĩ thiện thì gặp dữ hóa lành, chỉ cần có suy nghĩ thiện thì chính là bố thí rồi.
Tu pháp Tài Thần thông thường có nguyên tắc là: 1. Thanh tịnh triệu thỉnh. 2. Đại lễ bái. 3. Đại cúng dường. 4. Tứ quy y. 5. Phát tứ vô lượng tâm. 6. Mặc bia giáp hộ thân. 7. Quán tưởng (kết ấn). 8. Trì chú. 9. Nhập tam ma địa. 10. Hồi hướng. 11. Cát tường viên mãn. (Việc tu pháp trong đó thì về cơ bản là giống nhau.)
Tuy nhiên, một điểm mà tôi đặc biệt nhấn mạnh là, khẩu quyết của pháp Tài Thần là sở thích của Tài Thần ở mỗi con đường tu pháp là khác nhau, người tu pháp trên phương diện cúng dường nhất định phải đáp ứng được sở thích đó. Nói một cách rất đơn giản là, Bạch Tài Thần đặc biệt thích nước tắm, cho nên phải dùng nước tắm tốt nhất để cúng dường. Nếu cúng dường thiên nữ, dùng ý mà tắm gội cho ngài thì càng tuyệt diệu! Chỉ cần Tài Thần hoan hỉ thì chắc chắn sẽ có thu hoạch. (Về chi tiết tu pháp của pháp Tài Thần của Mật giáo, có thể tham khảo cuốn sách “Mật giáo đại quang hoa” mà tôi đã viết. Cuốn sách này đã nói cụ thể nghi quỹ hoàn chỉnh về tu pháp Mật giáo, y theo phương pháp trong cuốn sách này mà tu thì sẽ không bỏ sót điều gì.) Tuy vậy, hễ là pháp của Mật giáo thì nhất định phải quy y nhận quán đảnh.
Ở đây tôi giới thiệu pháp Ngũ quỷ vận tài, pháp này năm xưa Liễu Minh Hòa Thượng đã truyền thụ cho tôi pháp phát tài đơn giản, mặc dù đơn giản nhưng trong một đời đảm bảo mọi việc đều thuận lợi.
1. Trước tiên dùng giấy màu vàng vẽ phù Ngũ quỷ, giống như hình trên.
2. Trong một căn phòng nhỏ, tìm ra vị trí kho tiền bạc, một bức tường tàng phong tụ khí.
3. Dán giấy vàng có vẽ phù lên tường, rồi đặt một cái giá để cúng, cúng hoa, hương, đèn, trà, quả, rau thịt đều được.
4. Chọn ngày Thành nhật trong năm, ngày Thành nhật thì trong sách lịch có ghi rồi, vào giờ Tí ngày Thành nhật thì khai quang và cầu khấn.
5. Thực hiện:
Thủ ấn — dùng ấn Mãn nguyện, ấn này là tay phải chìa ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, đặt trước ngực, giống như cách xin ăn. Quán tưởng — thủ ấn biến to lên, nắm chắc lấy vàng bạc châu báu, tiền giấy, xe hơi, nhà lầu, v.v… Trì chú — Om motho sanmanto hum. (108 biến) Cầu nguyện — Kính cẩn thỉnh cầu Tào Thập, Trương Tứ, Lí Cửu, Uông Nhân, Chu Quang, Ngũ quỷ mau theo thân, mang theo vàng bạc tài bảo về nhà tôi, sự nghiệp mọi bề hanh thông, tôi sẽ thường xuyên cảm ơn phụng thỉnh, từng việc như ý mau hiện hình.
6. Cát tường viên mãn.
Phần lớn người tu pháp Ngũ quỷ vận tài phải luôn luôn nhớ đến tên của Ngũ quỷ, vào những lúc cần thiết thì phải nhớ đọc. Ví dụ, khi bàn bạc kinh doanh cùng người khác, khi kí hợp đồng, khi đòi nợ, mở cửa hàng mỗi ngày… (Cúng tế Ngũ quỷ vào giờ Tí ngày Thành nhật là đẹp nhất, mỗi khi gặp ngày Thành nhật thì nên cúng tế.)
Nhớ kĩ tên của Ngũ quỷ, chuyên tâm phụng thỉnh, khi làm pháp thì phải gọn gàng thuần thục, thông hiểu đạo lí, dốc hết lòng thành thì có thể đạt được mọi thứ. Khi làm pháp phải quên hết mọi việc và tập trung, tất cả cúng phẩm phải thanh tịnh, hành giả cũng phải tắm gội trước, thay quần áo mới, sau đó mới có thể làm pháp. Hành trì như pháp thì Ngũ quỷ sẽ hiện thân giúp đỡ.
Đây chính là pháp Ngũ quỷ theo thân, cũng còn gọi là Ngũ quỷ chuyển vận, trong cõi vô hình sẽ có Ngũ quỷ trợ giúp.
Trong cuốn sách này, nếu lần lượt giải thích từng pháp Tài Thần thì có viết mấy cuốn sách cũng không đủ. Vì thế, tôi đặc biệt nêu ra trọng điểm của tu pháp như sau: 1. Nghi quỹ phải chu toàn nhất. 2. Cúng dường phải theo sở thích của Tài Thần. 3. Nếu trong mơ nhìn thấy, trong thiền định nhìn thấy, vào ban ngày nhìn thấy thì phải nhớ kết liên minh. 4. Nhất tâm thanh tịnh làm pháp. 5. Tưởng niệm (quán tưởng) phải rõ ràng. 6. Mật chú trì càng nhiều càng tốt. (Mười vạn, trăm vạn, nghìn vạn.) 7. Pháp thuật của Mật giáo nhất định phải quy y nhận quán đảnh mới có sức mạnh gia trì, không thể chỉ biết được pháp bản này mà lập tức tu ngay. 8. Thỉnh cầu Căn bản Thượng sư truyền thụ tâm đắc khẩu quyết. 9. Phải phát lời thề nguyện rằng tiền tài có được không thể giữ cho chính mình hưởng thụ, phải đem phần lớn đi bố thí, làm sự nghiệp bồ đề. 10. Quan trọng nhất là, điều quan trọng nhất là khiến Tài Thần yêu thích bạn. …
11. Pháp thuật thay đổi vận mệnh
Tôi thường dạy mọi người niệm một câu chú, câu chú này không phải là chú lớn, không phải là chú bí mật, không phải là chú phóng đại quang minh, không phải là chú vô đẳng đẳng, không phải là chú vô thượng. Mà là một câu chú nhỏ rất phổ thông. Trong bất kì kinh điển nào cũng đều có thể thấy, rất bình thường, bình thường đến mức khiến người ta có thể xem nhẹ mà bỏ qua. Đó chính là An thổ địa chân ngôn. Chú ngữ như sau: ”Namo samanta buddhanam om duru duru devi soha.”
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, chính là chú ngữ này có thể thay đổi vận mệnh. Đây chẳng phải là An thổ địa chân ngôn rất phổ thông sao? Không sai, nhưng nó có sức mạnh rất lớn để thay đổi vận mệnh, thật sự không thể coi thường.
Có người trì An thổ địa chân ngôn, bệnh da liễu 10 năm của họ đã khỏi hoàn toàn. Có người trên mặt có khí xui, cả đời khốn khó, trì An thổ địa chân ngôn lâu ngày, phúc quang chiếu mệnh, vận mệnh đều thay đổi, từ nghèo thành giàu. Có người trì An thổ địa chân ngôn, không ngờ 10 năm không có thai đã có thai. Có người trì An thổ địa chân ngôn, cả đời khỏe mạnh không bệnh tật. Có người trì An thổ địa chân ngôn, có được hôn nhân tốt, trên mặt của họ có ánh sáng đỏ. Có người trì An thổ địa chân ngôn, vốn dĩ sự nghiệp không suôn sẻ, cuối cùng mọi việc đều thuận lợi, không có việc gì là không như ý. Có người trì An thổ địa chân ngôn, trúng thưởng lớn.
Tôi còn nói cho mọi người một bí mật, bí mật này vốn dĩ là không thể nói ra, nhưng tôi không kìm được không thể không nói. Chỉ cần bạn thường xuyên trì An thổ địa chân ngôn, đi đến Las Vegas, bạn sẽ đặc biệt được như ý. Căn bản là không có ai đề xướng trì câu chú này lâu dài, chỉ có tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đề xướng.
Đây là điều tôi phát hiện ra: Trong một lần thiền định, tôi phát hiện ra bên cạnh mình có một cụ già tóc bạc mặt hồng đang ngồi. ”Cụ là ai thế?” ”Địa thần.” ”Ở nhân gian cụ thích làm việc gì?” ”Đi theo người có phúc.” ”Cụ có tâm đắc gì với linh giới?” ”Thánh giới (chỉ Phật giới) trống không, thiên giới (chỉ thần tiên) thanh tịnh, địa thần giới thì lành dữ họa phúc, chính là đạo lí này.”
Tôi hỏi địa thần: ”Vận mệnh của mỗi con người ra sao?” ”Vận mệnh đều là nhân quả nghiệp báo, trong đó đan xen phức tạp, phàm phu chẳng thể biết được, nhưng không tách rời được hai chữ nhân quả, tất cả đều là mệnh, hết thảy đều chẳng phải do con người.” ”Cụ nói không sai, nhưng làm sao thay đổi được vận mệnh?” Tôi lại hỏi: ”Cầu Phật ư?” ”Không hợp thời cơ, Phật không thể cầu.” ”Cầu thần tiên ư?” ”Cũng không hợp thời cơ.” ”Cầu địa thần ư?” ”Đúng thế, lành dữ họa phúc có thể chuyển mệnh.” ”Làm sao thay đổi?” ”Niệm chân ngôn.” ”Chân ngôn nào?” ”An thổ địa chân ngôn.”
Cụ già ấy dẫn tôi cưỡi trên một cỗ xe hươu bay lên không trung, đến một ngọn núi, trong núi có một tòa thành lớn, cũng làm bằng vàng ngọc tráng lệ. Trong tòa thành này đều là các cụ già tóc bạc mặt hồng, có hơn nghìn hơn vạn. Và các cụ già tóc bạc mặt hồng này, có người thì đang trở về, có người thì lại bay đi. ”Đây là đất nước gì?” ”Địa cư thần quốc.” ”Các địa thần đang bận rộn gì vậy?” ”Đi hộ trì, đi chuyển mệnh, đi cải vận.”
Cuối cùng, tôi đã hiểu ra một nguyên lí, học Phật đương nhiên có thể cải biến vận mệnh, học Tiên cũng có thể cải biến vận mệnh, nhưng trực tiếp niệm An thổ địa chân ngôn thì việc thay đổi vận mệnh càng trực tiếp hơn.
Muốn thay đổi vận mệnh của chính mình, nắm chắc chìa khóa của tạo hóa, đích xác là bất kì loại pháp thuật nào cũng đều phải hợp thời cơ, phù hợp với cơ duyên. Chỉ cần niệm An thổ địa chân ngôn trên nghìn, vạn, triệu biến, nhất tâm phụng trì, địa thần phúc quang chiếu mệnh, có thể cải vận, đây là sự thật.
12. Pháp thế thân cắt hình người giấy
Pháp thế thân này là do Liễu Minh Hòa Thượng của Mật tông Hồng giáo truyền thụ. Có hai câu chuyện, tôi thuật lại sơ sơ như sau:
Câu chuyện thứ nhất:
Văn Vương bát quái thần toán nổi danh trong thiên hạ, bản thân Văn Vương cũng nghiên cứu sâu thuật này, đắc được tam muội trong đó, vì thế mà chưa cần bốc quẻ đã biết.
Vào thời đại của Văn Vương, ông ấy có thể vẽ nhà lao trên mặt đất, vì thế gọi là “họa địa vi lao”, tức là vẽ một vòng tròn xung quanh phạm nhân, để cho phạm nhân ngồi bên trong đó, không thể bỏ chạy. Thứ nhất, việc này cho thấy phong tục dân gian khi ấy rất thuần phác, nhân dân hiền lành tuân thủ pháp luật. Thứ hai, nhân dân khi ấy ai ai cũng biết sự lợi hại của Văn Vương bát quái, cho dù bạn chạy trốn thế nào thì đều không thoát được thần toán của Văn Vương bát quái, Văn Vương bát quái có thể tính được bạn chạy hướng nào, chạy bao xa, trốn ở nơi nào, bách đoán bách trúng, nghìn đoán nghìn linh. Vì thế, phạm nhân đều không dám bỏ trốn.
Có một lần, có một tiều phu gánh củi đi vào thành, vì phải né tránh người ta nên đòn gánh không cẩn thận đã va vào đầu của một người đi đường, kết quả là không ngờ đối phương lại chết, như vậy là đã phạm tội ngộ sát. Khi ấy đúng lúc Văn Vương đi ngang qua, thế là ông ấy vẽ một nhà tù trên mặt đất.
Vừa hay Khương Tử Nha cũng đi qua, trông thấy phạm nhân khóc lóc, gia cảnh của phạm nhân khiến người ta thương cảm, thế là Khương Tử Nha bảo phạm nhân trốn đến nước khác lánh nạn, nhưng phạm nhân sợ Văn Vương bát quái. Khương Tử Nha đáp: ”Không sợ, mặc dù Văn Vương bát quái rất linh, nhưng tôi có pháp thế thân.” Khương Tử Nha dạy phạm nhân trước tiên bện một người rơm, bỏ lông tóc móng tay của mình vào bên trong người rơm này, rồi vào lúc nào đó trong ngày, đứng ở bên cạnh vách núi, làm pháp, ném người rơm này xuống vực sâu của vách núi. Sau đó mang theo mẹ già chạy trốn đến nước khác. Phạm nhân nghe lời dạy của Khương Tử Nha nên đã trốn đi lánh nạn.
Văn Vương trên đường trở về thấy nhà tù vẽ trên đất vẫn còn đó, nhưng người thì không còn nên rất tức giận. Văn Vương về đến hoàng cung thì bày hương án, bói một quẻ, có được đáp án là: “Phạm nhân này đã tự sát, tự gieo mình xuống vách núi kết liễu đời mình rồi.” Văn Vương thở dài một hơi, không truy cứu phạm nhân này nữa.
Câu chuyện thứ hai:
Có hai người là bạn tri kỉ. Một người trong số đó chết trước, còn người kia là thầy địa lí nổi tiếng đã lựa chọn cho bạn thân của mình nơi chôn cất có phong thủy tốt - phía trước gần sông chín khúc, phía sau dựa vào núi nghìn dặm, hai bên có dãy núi ôm vào.
Đêm ấy, thầy địa lí thắp đèn đọc sách, đột nhiên có một cơn gió lạnh thổi tới, rồi nhìn thấy một người thập thò trong ánh đèn, hơn nữa còn khóc lóc thảm thiết. Thầy địa lí lớn tiếng hỏi: ”Người nào?” Đối phương đáp: ”Là bạn thân đây.” Thầy địa lí lại hỏi: ”Anh đã chết rồi, nay lại đến gặp, là duyên cớ gì?” Người bạn đã chết kia đáp: ”Địa lí mà anh chọn lựa có thể nói là mười phân vẹn mười, nhưng gần đó có ngôi mộ của một kẻ lưu manh, kẻ lưu manh này là thủ lĩnh xã hội đen, cực kì hung ác. Tôi mới được chôn xuống thì hắn đã đến bắt nạt, trong tay đối phương có tới bảy, tám người, tôi không phải là đối thủ của hắn. Bọn chúng cho rằng tôi đã chiếm khu mộ có phong thủy tốt của bọn chúng.” ”Giúp anh thế nào đây?” ”Mau dùng pháp thế thân, bện người rơm, lấy vải làm áo, tay cầm vũ khí, chọn ngày đốt trước mộ, làm hai mươi người, như vậy chắc chắn sẽ thắng.”
Thầy địa lí là người hiểu pháp thế thân, cũng có giải thích rất hay về pháp thế thân, công dụng của pháp thế thân rất rộng rãi. Thứ nhất, có thể tránh tai họa. Thứ hai, có thể gia tăng pháp lực. Thứ ba, có thể phá trừ thuật bùa chú giáng đầu. Thứ tư, có thể trừ bệnh tật (bệnh do quỷ thần hoặc bệnh khác). Thứ năm, có thể ẩn thân, kim thiền thoát xác. Thứ sáu, có thể trợ giúp kinh doanh thịnh vượng. Thứ bảy, có thể trừ ác mộng mất ngủ. Thứ tám, về phong thủy, có thể phá trừ cái chết liên tiếp của thân quyến. Thứ chín, những công dụng khác.
Trong Mật giáo hoặc Đạo gia, tu pháp thế thân đến trình độ cao nhất, trong sát-na có thể hóa thân bên ngoài thân. Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kí nhổ ra vài sợi lông khỉ, thổi một hơi, biến ra nghìn nghìn vạn vạn Tôn Ngộ Không, đây là pháp thế thân. Pháp vẩy đậu thành binh của Đạo gia, cắt người giấy là pháp thế thân. Mật giáo tu pháp thế thân: Tụng: “Sang ha rưa na pê cha.” Theo hơi thở hít vào, thu về ở chóp mũi biến thành một kim cang. Sau khi thành tựu kim cang vi tế rồi, lại tụng: “Sa pa rưa pê cha.” Giống như gió thổi hạt bụi, tung ra rất nhiều kim cang vi tế dần dần lan ra khắp tam giới.
Cái này trong “Sơ phẩm” nói rằng: “Nếu kim cang vi tế hiện lên tướng vui vẻ, tướng ấy nên phổ biến rộng khắp, tâm cũng nên theo đó mà phổ rộng, nếu tâm muốn phổ rộng thì thậm chí khắp cả tam giới.”
Tôi nói với mọi người: ”Kim cang vi tế này là thế thân, cũng tức là phân thân.” Pháp tu này nhất định phải có Căn bản Thượng sư hướng dẫn tỉ mỉ mới được.
Ở đây tôi công khai pháp thế thân trừ bệnh quỷ thần như sau:
- Đầu tiên cắt một người giấy có đầu, tay, chân, thân. Trên đầu vẽ mắt, tai, mũi, miệng, lông mày. Trên thân viết sinh thần bát tự và họ tên của người bệnh.
- Cho người bệnh hà ba hơi “tiên thiên khí” lên hình người giấy.
- Chọn buổi chiều ngày Trừ nhật (sau 12 giờ trưa) để làm pháp.
- Tay kết thủ ấn khu trừ, ngón cái tay trái đè lên ngón giữa và ngón áp út, ngón trỏ và ngón út thì giơ thẳng.
- Quán tưởng người giấy ở trước mặt chính là bệnh nhân, quán tưởng bóng đen của ma bệnh từ trên thân của người giấy chạy trốn.
- Niệm chú: “Om amita hum pan.” (108 biến)
- Đem người giấy và tiền giấy hóa tiễn ở cửa sau của nhà ở.
- Cát tường viên mãn.
Ứng dụng của pháp thế thân có thể từ một suy ra mười, ví dụ ứng dụng để đuổi kẻ tiểu nhân trên người, rất hiệu quả.
Tôi thuật lại trình tự làm pháp như sau:
1. Cắt một người giấy, đầu, tay, chân, thân. Trên đầu vẽ lông mày, mắt, mũi, tai, miệng rõ ràng. Trên thân viết sinh thần bát tự của kẻ tiểu nhân.
2. Trên giấy tốt nhất là để lông tóc móng tay của kẻ tiểu nhân, vật tượng trưng cho tinh thần của họ. (Hoặc một mảnh nhỏ đồ lót mặc đã lâu của người đó, nếu vẫn không được thì lấy một ít đất dính trên đế giày của người đó.)
3. Chọn ngày Trừ nhật, sau buổi trưa làm pháp.
4. Thủ ấn khu trừ như hình:
5. Quán tưởng kẻ tiểu nhân rời khỏi bạn, vội vàng chạy trốn.
6. Trì chú: “Om amita hum pan.” (108 biến)
7. Đem người giấy và giấy tiền vàng hóa tiễn ở cửa sau nhà.
8. Cát tường viên mãn.
Trên thế gian này, người phạm vào kẻ tiểu nhân thường hay gặp những trắc trở lớn trong cuộc đời, ví dụ nữ sinh bị người đàn ông mà mình không thích liên tục quấy rầy, ví dụ cấp trên hay đồng nghiệp thường xuyên tìm đến bạn để làm phiền, ví dụ người thường xuyên vô duyên vô cớ bắt nạt bạn, ví dụ người lừa gạt tiền bạc của bạn, ví dụ người thường xuyên làm hại bạn…
Pháp này đúng là quá thù thắng rồi.
13. Công khai và không công khai mật pháp
Mật giáo dựa vào cái gì mà được gọi là “mật”? Tôi cho rằng đó là: 1. Sự tìm kiếm bên trong. 2. Ẩn mật không hiển lộ. 3. Bộ phận không thể công khai.
Trên phương diện không thể công khai, ví dụ, nếu một khi công khai Vô thượng mật bộ thì sẽ làm kinh động toàn bộ thế giới, ví dụ như nghĩa lí thú vị của Mật giáo có chỗ đối chọi với giới luật Hiển giáo, ví dụ làm pháp hàng phục cũng không nên công khai, và những cái khác…
Trong giới samaya của Mật giáo có nói: ”Bây giờ anh sẽ tiến vào tất cả chủng tính Như Lai, ta sẽ vì anh mà sinh ra trí huệ kim cang, nhờ có trí này mà anh có thể đạt được tất cả thành tựu Như Lai, huống chi là các thành tựu thông thường. Đối với người còn chưa thấy được mandala thì không nên nói ra, nói ra thì anh sẽ đánh mất samaya.”
Và: ”Với lời thề kim cang này, nếu anh tiết lộ [các bí mật kim cang] với người ngoài, thì cái đầu [anh] sẽ vỡ bể.” ”Không được tuyên thuyết bí mật, vì anh không thể vi phạm samaya.”
Và: ”Từ nay trở đi, ta chính là cánh tay kim cang của anh, ta dạy anh làm thế nào thì anh lập tức làm theo, anh không nên phỉ báng ta, điều đó sẽ khiến anh không thoát được khổ não, chết đọa địa ngục.”
Trong Mật giáo, phạm samaya nặng nhất là: 1. Tuyên bố bí mật không đúng chỗ — đem Mật pháp truyền cho người không nên truyền. 2. Coi thường và phỉ báng thầy — phỉ báng Căn bản Thượng sư. 3. Làm trái và qua mặt thầy — đánh mất truyền thừa, đánh mất samaya.
Trên nguyên tắc mà nói, tu hành Mật giáo ngay cả đến Bổn tôn và Hộ pháp của chính mình cũng là một điều bí mật. Nói ra điều không thể công khai đều là phạm giới samaya. Tuy nhiên, nếu không công khai Mật pháp thì rất hiển nhiên là cũng có khuyết điểm, bởi vì người đời sẽ không biết chỗ thù thắng của Mật pháp, sẽ không có nhiều người hiểu về Mật giáo, ngược lại người hiểu sai sẽ rất nhiều, như vậy thì chúng sinh có thể độ được sẽ cực kì có hạn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến không thể hoằng dương Mật giáo.
Có người hỏi tôi: ”Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, Mật pháp vốn là không công khai, giờ đây ngài công khai, chẳng phải là trước sau mâu thuẫn sao?” Tôi đáp: ”Anh nói không sai, giả như tôi là một hành giả Mật giáo bình thường, hôm nay tôi công khai rất nhiều Mật pháp, đó là phạm giới samaya, ví dụ: tôi nói ra Bổn tôn của mình, nói ra Hộ pháp của mình, tôi giảng giải Nội pháp, pháp chuyết hỏa, pháp minh điểm, pháp vô lậu, tôi lại còn công khai pháp Đại Uy Đức Kim Cang, pháp hàng phục. Tôi cũng đã giảng giải Vô thượng mật bộ. Tuy vậy, điều tôi nhấn mạnh ở đây là tôi không phải là hành giả Mật giáo bình thường.”
“Nếu là hành giả Mật giáo bình thường mà vi phạm samaya?” ”Đời này mắc bệnh, khổ não không dừng, sau khi chết đọa địa ngục!” ”Thế con ngài?” ”Tôi là kim cương.” ”Kim cương là sao?” ”Kim cương chính là bất hoại. Trên thế gian này, chỉ có một thứ không hư hoại, đó chính là hư không. Lửa đốt hư không, hư không chẳng hư hoại, nước nhấn chìm hư không, hư không chẳng hư hoại, gió thổi hư không, hư không chẳng hư hoại, đất vùi lấp hư không, hư không chẳng hư hoại.”
“Ngài là hư không ư?” ”Tôi là người đã ấn chứng tính Không. Đối với tôi mà nói, cái gọi là samaya tức là không phải samaya, vì không phải là samaya cho nên là samaya. Bởi vì tôi đã ấn chứng hư không, cho nên tôi vượt lên trên tất cả.” ”Ngài có thể công khai bí mật ư?” ”Chỉ có tôi có thể.”
Tôi nói như thế này: Tôi dạy các đệ tử chớ phạm giới samaya, giữ gìn giới samaya của chính mình, trừ phi bạn đã ấn chứng tính Không. Tôi từng nói, muốn tu hành Vô thượng mật bộ phải có hai điều kiện lớn nhất: 1. Vô lậu. 2. Tính Không.
Hôm nay tôi nói, Mật pháp vốn dĩ là không thể công khai, nhưng hôm nay duy có tôi công khai, đó là vì tôi gánh vác đại nghiệp của Như Lai, luôn cần có một người công khai, cho nên, đây là pháp duyên hết sức thù thắng, mọi người phải trân trọng. Tôi công khai cách làm pháp của Mật giáo cũng là vì có được đại ấn chứng của Phật Thích Ca Mâu Ni.
14. Liễu Minh Hòa Thượng truyền thụ thuật cầu con
Đây là thuật pháp mà sư phụ Liễu Minh Hòa Thượng của Hồng giáo Tạng mật truyền thụ, cực kì ứng nghiệm. Pháp này chưa được lưu hành ở trên đời, cực kì ít người biết, cho nên vô cùng trân quý, có thể nói là báu vật vô giá.
Trên đời này, rất nhiều người mắc bệnh vô sinh, kết hôn nhiều năm nhưng đến một quả trứng cũng không có. Cũng có người toàn sinh con trai. Cũng có người toàn sinh con gái. Muốn có thể sinh con vừa có nam vừa có nữ, con sinh ra lại là trai xinh gái đẹp, hơn nữa đứa nào cũng tài trí hơn người, đạo đức và học thức đều ưu tú, thật khó lắm thay!
Thế nhưng, thuật cầu con của Liễu Minh Hòa Thượng có thể như ý tất cả, vậy chẳng phải là trân quý phi phàm sao? Đây chẳng phải là giá trị liên thành [vô giá] sao?
Thuật cầu con của Liễu Minh Hòa Thượng thuật lại như sau:
Trọng điểm nằm ở vật liệu, phải tìm được chuỗi hạt của một lão Bồ Tát đã niệm Phật niệm chú trên 10 năm, thời gian càng lâu càng tốt.
Vật liệu của chuỗi hạt này tốt nhất là chuỗi hạt bồ đề, bởi vì hạt bồ đề có chữ “tử” [con] ở trong đó, lấy hạt đó thì sẽ tương ứng, nếu không phải là chuỗi hạt bồ đề thì chuỗi hạt bằng hạt cây khác cũng được.
Vì sao phải chọn vật liệu là chuỗi hạt? Theo như Liễu Minh Hòa Thượng nói thì: niệm một câu Phật, có công đức vô lượng, niệm một câu chú, diệt được tội nhiều như cát sông. Tay con người khi lần tràng hạt thì tràng hạt đã có linh tính, tràng hạt này đã được gia trì bằng Phật chú, lại dùng tay gia trì, từ lâu đã là một vật linh thiêng rồi, niệm càng lâu thì linh khí càng dày.
Muốn có được chuỗi hạt trong tay của một lão Bồ Tát, bạn có thể dùng một chuỗi hạt đẹp và có giá trị hơn để đổi cho lão Bồ Tát. Hoặc dùng tiền để mua lại chuỗi hạt đó.
Phải ghi nhớ: Nếu lão Bồ Tát là nam thì đứa con cầu được sẽ là con gái. Nếu lão Bồ Tát là nữ thì đứa con cầu được sẽ là con trai. (Vẫn là đạo lí trái tính hút nhau.)
Cách làm pháp như sau:
Lấy một hạt trong chuỗi tràng hạt đó là được, đến một ngôi chùa có liên quan, ví dụ như chùa của Chú Sinh Nương Nương, chùa của Tống Tử Quan Âm. Nếu gần đó không có miếu chùa của Chú Sinh Nương Nương hoặc Tống Tử Quan Âm thì đến miếu Thành Hoàng, miếu Cảnh Chủ, am Địa Tạng… đều được.
1. Về thời gian, có thể chọn sau giờ Ngọ ngày Thành nhật.
2. Thắp hương, cúng hoa quả, cầu nguyện, lễ nghi giống như lễ Phật.
3. Lấy ra một hạt bồ đề từ chuỗi hạt, bí mật chôn vào trong tro của bát hương ở chỗ sâu nhất.
4. Niệm bài kệ:
Trong ruộng bát thức Gieo hạt giống Phật Mưa sương tưới tắm Nảy mầm ra hoa kết quả.
5. Cầu nguyện mau chóng có được con trai con gái.
6. Cát tường viên mãn.
Ngoài ra, Chân Phật Tông chúng ta còn tôn sùng Cao Vương Quan Thế Âm Bồ Tát chân kinh, kinh điển này đã rất nổi tiếng vào thời đại nhà Đường, cảm ứng được kinh điển này có thể chứng quả phúc.
Bài kệ sau cùng là:
Mười phương Quan Thế Âm. Hết thảy chư Bồ Tát. Đã thề cứu chúng sinh. Xướng danh tất giải thoát.
Nếu gặp người trí tuệ. Ân cần mà giảng nói. Lại có đủ nhân duyên. Đọc tụng không ngơi nghỉ. Tụng kinh tròn nghìn biến. Niệm niệm tâm không dừng. Gặp lửa cháy chẳng sao. Việc đao binh cũng thoát. Nóng giận thành vui vẻ. Chết rồi hóa sống vui. Đừng nghĩ rằng không đúng. Chư Phật chẳng nói chơi. Cao Vương Quan Thế Âm. Cứu được hết khổ nạn. Lúc khó khăn nguy cấp. Người chết còn thành sống. Chư Phật chẳng nói đùa. Vì vậy nên đảnh lễ. Niệm tụng trọn nghìn lần. Tội nặng đều tiêu diệt. Người có phúc tín tâm. Hãy chuyên tâm đọc tụng.
Hiệu nghiệm của Cao Vương Kinh là cực nhiều cực nhiều. Và cũng có thể cầu con. Điều cốt yếu khi trì tụng Cao Vương Kinh là: 1. Chế tâm một chỗ, không khởi vọng niệm. 2. Không câu nệ thời gian, địa điểm, tâm linh tự tại là quan trọng. 3. Đọc ra miệng, đi vào tai, in vào tâm. 4. Với mỗi điều thỉnh nguyện thì trì tụng đủ 1000 biến. 5. Nếu vẫn chưa có hiệu nghiệm thì tự biết rằng nghiệp chướng còn sâu nặng, càng nên tiếp tục trì tụng cho đến khi đạt hiệu nghiệm mới được.
Nguyên văn của Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh:
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.
Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Là vô đẳng đẳng chú.
Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.
Niệm danh hiệu Phật sáu phương: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyệt Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.
Hết thảy chúng sinh trung ương, chư vị trong Phật giới, trú ngụ trên mặt đất, cho đến tại không trung, thương lo cho tất cả chúng sinh. Ai cũng an ổn tốt lành. Ngày đêm tu trì. Tâm thường cầu tụng kinh này. Diệt được khổ sinh tử. Tiêu trừ hết độc hại.
Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai. Hóa Thắng Bồ Tát.
Tụng bản kinh không ngừng. Thất Phật Thế Tôn. Liền nói chú sau: ““Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha” (7 lần)
Mười phương Quan Thế Âm. Hết thảy chư Bồ Tát. Đã thề cứu chúng sinh. Xướng danh tất giải thoát.
Nếu gặp người trí tuệ. Ân cần mà giảng nói. Lại có đủ nhân duyên. Đọc tụng không ngơi nghỉ. Tụng kinh tròn nghìn biến. Niệm niệm tâm không dừng. Gặp lửa cháy chẳng sao. Việc đao binh cũng thoát. Nóng giận thành vui vẻ. Chết rồi hóa sống vui. Đừng nghĩ rằng không đúng. Chư Phật chẳng nói chơi. Cao Vương Quan Thế Âm. Cứu được hết khổ nạn. Lúc khó khăn nguy cấp. Người chết còn thành sống. Chư Phật chẳng nói đùa. Vì vậy nên đảnh lễ. Niệm tụng trọn nghìn lần. Tội nặng đều tiêu diệt. Người có phúc tín tâm. Hãy chuyên tâm đọc tụng.
Phụng thỉnh bát đại Bồ Tát Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nguyện mang công đức này. Gửi tới hết chúng sinh. Tụng tròn một nghìn biến. Tội nặng đều tiêu diệt. Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh (Hết)!
Còn nữa, Liễu Minh Hòa Thượng từng truyền cho tôi một lá phù, phù này là phù “khóa không sinh con nối dõi”, Liễu Minh Hòa Thượng nói: nếu có người cưới vợ, nạp thiếp, nhiều năm không sinh được con nối dõi thì dùng phù này, vào ngày bản mệnh của phụ nữ (ngày sinh), đốt phù và uống vào lập tức có hiệu nghiệm.
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, sau khi tôi có được phù này, tôi đã rộng rãi vẽ phù này cứu người, quả nhiên đã giúp được vô số người. Có người 10 năm không sinh con đã sinh được con. Có người có khiếm khuyết về sinh lí cũng đã sinh được con. Có người bác sĩ đã bó tay cũng đã sinh được con. Có người liên tục bị sảy thai, cuối cùng đã sinh con thành công. ….. (Kì tích liên miên, kì tích không ngừng, kì tích liên tục xuất hiện.)
Đối với pháp vẽ phù, Liễu Minh Hòa Thượng dạy rằng phải bày hương án, quả, rượu, hoa, nến, phải thắp hương, phải dâng hoa. Trình tự như sau: cúng lễ, niệm chú cho nước, giấy, bút, mực, vẽ phù, niệm chú cho phù, phát ra phù này.
Liễu Minh Hòa Thượng còn nói: Phàm là vẽ phù thì phải đặt bút cương quyết và rõ ràng, không được vẽ yếu ớt và lộn xộn. Chỉ cần có linh quang gia trì cho phù thức thì phù này sẽ có hiệu nghiệm. Phù thức Khóa không sinh con nối dõi như sau:
Liễu Minh Hòa Thượng nói với tôi: ”Sau này đứa trẻ có được nhờ thuật cầu con đều là những Phật tử có trí huệ siêu thắng.” Tôi hỏi: ”Lấy đâu ra nhiều Phật tử như vậy?” ”Anh không tin ư?” ”Tin thì tin, nhưng mà những Phật tử đó từ đâu đến?” ”Thầy dẫn anh đi xem!”
Vào một buổi tối, Liễu Minh Hòa Thượng (Thanh Chân Đạo trưởng) đưa tôi đến Đại Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên có một cây bằng vàng, cành lá sum suê, chu vi đến mấy trăm dặm, cây vàng lại kết những quả vàng, có tới hàng nghìn hàng vạn quả. Liễu Minh Hòa Thượng chỉ vào những quả vàng: ”Những quả này đều là Phật tử!” ”Đây là quả vàng, đâu phải là Phật tử chứ?” Liễu Minh Hòa Thượng dùng tay lại chỉ vào quả vàng, khoa tay một lúc, không ngờ vỏ quả tự động bóc ra, từ trong quả đó xuất hiện một đứa bé, đứa bé da trắng như tuyết, cực kì đáng yêu, nhảy tung tăng tỏa mùi thơm phức. Đứa bé nói: ”Con từ đâu đến?” Đứa bé lại nói: ”Ai sinh ra con vậy?” Liễu Minh Hòa Thượng nói: ”Đứa trẻ có được từ thuật cầu con đều là những đứa trẻ đến từ thiên thượng giới, bọn chúng vừa sinh ra đã có trí tuệ lớn rồi! Ví dụ như câu hỏi con từ đâu đến, con là do ai sinh ra vậy, đó chính là thiền ngữ, đáng phải suy ngẫm sâu xa!”
Sau khi được Liễu Minh Hòa Thượng chỉ điểm, tôi nghĩ đến một vấn đề: “Rốt cuộc ai sinh ra ai?” Rốt cục ai sinh ra ai? Sao lại đột nhiên là Phật, đột nhiên lại giáng xuống Ta Bà, loáng một cái đã nghìn năm, ai là bạn, ai là tôi? Rốt cục ai sinh ra ai? Đột nhiên là cụ già, đột nhiên lại là trẻ con, trẻ con lại sinh ra người già, người già lại sinh ra trẻ con. Rốt cục ai sinh ra ai? Bạn đang bế trên tay là trẻ con, hay là cụ già?
15. Thuật cầu mộng thông
Trong pháp thuật của Mật giáo vốn có thuật cầu mộng thông, thuật này là nhờ Bổn tôn ở trong giấc mơ chỉ thị báo trước lành dữ. Pháp thuật này có thể: 1. Báo trước lành dữ. 2. Dự báo tương lai. 3. Dự báo các hành vi. (Thuật cầu mộng thông, lớn thì đến vận mệnh Quốc gia, nhỏ thì đến vận mệnh cá nhân, đều có thể thấy trước biết trước, cho nên đối với một hành giả thì pháp này cần thiết để tu luyện.)
Trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” có ghi chép như sau: Trước khi tu thành tựu, quan sát tướng thành hay không thành, gọi là vào ngày rằm, hoặc ngày lành có trăng sáng, thọ trì trai giới, một đêm thậm chí là ba đêm quan sát mộng tướng. Dùng quả chua để tắm gội, và nước tắm có mùi thơm để tẩy tịnh, mặc quần áo mới. Vào lúc nửa đêm đầu tiên, phụng thỉnh Bổn tôn, dùng các loại bạch đàn để đốt hương làm cúng dường, cúng nhiều loại sữa ngon kèm theo thức ăn, dùng bơ Hộ Ma 108 biến. Sau đó dùng bạch giao hương tùy theo công việc mà làm Hộ Ma.
Tiếp theo, lấy sợi dây được tết bởi cô gái còn trinh (sợi ngũ sắc), thắt bảy nút thắt, dùng chú của Bổn tôn gia trì bảy lần rồi buộc vào cổ tay. Cầu nguyện Bổn tôn trong mơ chỉ thị cho biết tu có thành hay không thành. Khi ngủ tự mình quán tưởng Bổn tôn. Chuẩn bị một chỗ nằm bằng cỏ có rải hoa. Trì tụng chân ngôn rồi nằm xuống.
Tôi sâu sắc cảm thấy con người trên thế gian này có quá nhiều phiền não, hơn nữa ai ai cũng đầy quan tâm đến tiền đồ của mình, nhưng lại không ai có thể chỉ đạo. Cho nên chúng sinh thế gian giả sử có thể tu thuật cầu mộng thông này thì quá tốt, quá vi diệu, không cần đi tìm đáp án nữa, bởi vì chính là cầu ở trong tim mình.
Nếu bạn học được thuật cầu mộng thông, lành dữ của mình tự mình biết, tiền đồ của mình tự mình biết, tự mình nên đi như thế nào tự mình biết, không cần hỏi người khác, tự mình sẽ có được cảm ứng rất tốt.
Tôi cho rằng, thuật này muốn cảm ứng thì trọng điểm nằm ở: 1. Thành tâm cầu nguyện. 2. Nghi quỹ chu toàn. 3. Giới luật thanh tịnh. 4. Bình thường có Bổn tôn và Thiên Long Bát Bộ hộ trì. 5. Phát bồ đề tâm. 6. Chính tín kiên cố.
Tôi từng truyền thụ pháp Chân Phật Tông Cát Tường Thiên Nữ cầu mộng, tôi trình bày nghi quỹ đơn giản của pháp này như sau: Thứ nhất, thờ pháp tướng phẫn nộ của Cát Tường Thiên Nữ. (Cát Tường Thiên Nữ hiện thân kim cang phẫn nộ, cưỡi trên lưng ngựa, trên mông ngựa mọc thêm một con mắt.) Thứ hai, sợi chỉ ngũ sắc phải hơ qua lửa để thanh tịnh. Thứ ba, cúng dường, dâng hương, lễ bái. Thời gian cầu nguyện chọn vào lúc chập tối khi phải bật đèn và nấu cơm tối, lúc cơm sắp chín. Thứ tư, khẩu quyết quán tưởng: quán tưởng Cát Tường Thiên Nữ ngồi trên lưng ngựa, ngón cái chân phải chuyển động ba cái, phóng ra ánh sáng trắng chiếu đến sợi chỉ ngũ sắc. (Lúc này tay hành giả đang cầm chỉ ngũ sắc.) Thứ năm, trì niệm tâm chú Cát Tường Thiên Nữ — “Om mahasri ya soha” càng nhiều càng tốt. Thứ sáu, cuối cùng, mỗi khi niệm một biến chú thì thắt một nút trên sợ chỉ ngũ sắc, liên tục niệm bảy biến chú thì thắt bảy cái nút. Thứ bảy, buộc sợi chỉ ngũ sắc đã thắt nút lên cổ tay trái. Thứ tám, chắp tay hướng về Cát Tường Thiên Nữ cầu nguyện, thỉnh cầu vào đêm hôm đó ban cho chỉ thị trong mơ, chỉ thị cho mình về lành dữ thành bại của một việc nào đó (hôn nhân, kinh doanh, sự nghiệp, tài vận, bệnh tật, tu hành, kiện cáo, con cái, thọ mạng, đi xa, v.v…) Thứ chín, chỉ thỉnh cầu một việc thôi, đơn giản không phức tạp. Thứ mười, đêm hôm ấy trước khi đi ngủ, chắp tay lại thỉnh cầu một lần nữa. Thứ mười một, trước khi ngủ phải tắm gội, mặc quần áo mới, trì chân ngôn cho đến khi ngủ mơ. (Đêm hôm ấy, Cát Tường Thiên Nữ sẽ đến trong giấc mơ, chỉ thị cho sự việc lành dữ ra sao.)
Phải nhớ, nếu muốn tu hành pháp này, phải thành tâm yêu cầu Chân Phật Tông Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn quán đảnh. Có quán đảnh rồi mới có thể tu pháp.
Tại đây, tôi phải giải thích mộng thị như sau: Giấc mơ của người bình thường có cái gọi là mơ thấy điều dữ thì ngược lại sẽ là điềm lành, mơ thấy việc lành thì ngược lại sẽ là điềm dữ, ở đây là sự đảo ngược. Nhưng trong giấc mơ của hành giả Mật giáo, lành tức là lành, dữ tức là dữ, cũng có nghĩa là không có sự đảo ngược gì cả. Giấc mơ vào lúc 4 giờ đến 5 giờ sáng là chính xác nhất. Tình tiết trong mơ cần rõ ràng và đặc biệt. Tự biết rằng có mộng thị mang hàm ý đặc biệt. (Nếu không hiểu mộng thị, phải thỉnh giáo người giải mộng, hoặc Kim cương Thượng sư hiểu giấc mộng, tất sẽ có lời giải đáp rõ ràng.)
Từng có một ví dụ như thế này: Có một người mẹ rất quan tâm đến con trai, lúc nào cũng lo lắng về tiền đồ tương lai của con trai mình, thế là bà tu pháp Cát Tường Thiên Nữ cầu mộng. Đêm đó bà đã mơ thấy: bà quỳ trước đàn thành lễ bái Như Lai, đột nhiên trong hư không có tia sét lóe lên, tia sét này đánh trúng vào phía sau đầu mình, khiến sau đầu mình vỡ ra, máu phun ra. Người mẹ này dù phía sau đầu bị vỡ nhưng vẫn cảm tạ Phật Bồ Tát, đảnh lễ Phật Bồ Tát ba lần. Sau khi tỉnh mộng, người mẹ này không giải thích được giấc mộng, đi hỏi người khác, người khác cũng không giải thích được. Sau đó, bà ấy hỏi đến tôi, tôi nói đó là đại hung, đây rõ ràng là: “Sấm đánh đời sau.” Lôi Công đã đánh vào phía sau đầu, chính là “sấm đánh đời sau”. Cuối cùng đã chứng minh sau giấc mơ ấy không lâu, đứa con trai của bà đã chết thảm.
Trong tu hành Mật giáo, quan sát giấc mơ cũng là một việc quan trọng. Sư phụ Tạng mật có thể chia cỏ cát tường đã được gia trì cho các đệ tử của mình, một nhánh cỏ để ở dưới gối, một nhánh cỏ để ở dưới ga trải giường, sau đó sẽ có được giấc mơ. Giả sử đệ tử mơ thấy Tam Bảo, Bổn tôn, Bồ Tát, tứ chúng đệ tử, hoặc mơ thấy leo núi, cưỡi voi, qua sông, được tiền, được quần áo… thì đều có ý nghĩa là có thể tu hành, lập tức nên bắt đầu tu. Nếu mơ thấy điều không lành thì có tu cũng không tương ứng.
Lúc này sư phụ Tạng mật sẽ dạy đệ tử phải sám hối nghiệp của mình, phải làm Hộ Ma để tiêu tai, phải hành thiện trì chú nhiều, phải in sách thiện, phải phát bồ đề tâm, khiến ác nghiệp tiêu trừ, trừ bỏ hung tướng, rồi lại cầu mộng thị.
Có một sư phụ Phật giáo cấp trưởng lão tình cờ đọc được pháp Cát Tường Thiên Nữ cầu mộng mà tôi viết thì hết sức hiếu kì. Bắt chước làm theo. Đêm ấy có được mộng thị: Trưởng lão bay lên không, đến cung Đại Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên Vương đón tiếp trưởng lão vào. Lúc này có một thần tiên đầu đội mũ Ngũ Phật, hai bên có trang sức rủ xuống, tay phải cầm chày, tay trái cầm chuông, mắt phát ra ánh sáng nhật nguyệt, nhìn thấy trưởng lão liền nói: ”Ta muốn đến quý chùa trú nhờ, trưởng lão đừng đuổi ta!” Trưởng lão nói: ”Nào dám! Nào dám!” Tiếp đó ông ấy hỏi Đại Phạm Thiên Vương: ”Người đội mũ Ngũ Phật là ai?” ”Là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn!” ”Ồ!” - Trưởng lão không nói gì.
Không lâu sau khi có được giấc mộng này, trưởng lão đi kiểm tra các lều tăng trong chùa của mình, nhìn thấy trong tủ quần áo của một học tăng có một bức tượng bằng sứ, là pháp tướng của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đầu đội mũ Ngũ Phật, có trang sức rủ hai bên, tay phải cầm chày, tay trái cầm chuông. Các học tăng khác mồm năm miệng mười nói: ”Là phụ Phật ngoại đạo.” ”Là ma.” ”Là tà pháp.” ”Vứt nó đi.” ”Phóng hỏa đốt luôn.” ”Lư Thắng Ngạn là cái thứ gì chứ!” …..
Khi ấy, trưởng lão do dự một lúc, vị học tăng bí mật cất giấu tượng sứ của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn kia thì sắc mặt tái mét, sợ hãi từ nay sẽ bị đuổi khỏi chùa. Không ngờ trưởng lão khẽ cười nói: ”Cứ để cho tượng sứ này tạm thời ở nhờ bên cạnh anh, anh cất giữ cho kín đáo, đừng để người khác nhìn thấy, đợi đến khi anh học xong và rời khỏi chùa thì đem đi vậy!”
Sau khi xảy ra sự việc này, các học tăng khác đều cảm thấy không hiểu ra làm sao, vì sao trưởng lão lại cho phép học tăng kia giữ lại bức tượng sứ của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, không những thế còn chẳng hề nổi giận. Có người lén hỏi trưởng lão: ”Lư Thắng Ngạn không được cho phép trong giới Phật giáo, vì sao trưởng lão lại cho phép ông ấy?” Trưởng lão đáp: ”Ở đây có đạo lí sâu xa chẳng thể đo lường, người ngoài sao có thể suy đoán được!” ”Vì sao lại sâu xa không thể đo lường?” ”Ý trời việc người.”
Cuối cùng, trưởng lão cảm thán nói với người hỏi rằng: ”Lư Thắng Ngạn đó, chỉ dựa vào Phật pháp mà ông ấy đã viết ra thôi thì Lư Thắng Ngạn đã cao siêu hơn rất nhiều so với phàm tăng thế tục rồi, chỉ dựa vào ngộ cảnh của ông ấy thôi cũng đã khiến người ta khó mà hiểu nổi rồi. Chỉ dựa vào những ngao du của ông ấy đã giàu có hơn thế nhân rồi. Tăng nhân ngày nay muốn giỏi hơn ông ấy cũng chẳng có nổi mấy người đâu!” Trưởng lão bí mật nói với người hỏi: ”Đạo hạnh của Lư Thắng Ngạn thâm thúy lắm, không phải là thứ người ngoài có thể hiểu rõ được đâu. Ông ấy bị người ta bài trừ hơn 20 năm nay mà không đổ tức là có tồn tại giá trị của ông ấy. Giữa ông ấy và ta còn có một đoạn nhân duyên sâu hơn nữa.”
Trưởng lão kể về nhân duyên của pháp Cát Tường Thiên Nữ cầu mộng, người hỏi liền há hốc miệng, không có lời gì để nói. Trưởng lão kể những sự việc này, nhưng cũng mang một chút thê lương khó nói nên lời: ”Ta chẳng có cách nào bảo vệ được Lư Thắng Ngạn, nhưng thỉnh thoảng cũng bí mật bảo vệ Lư Thắng Ngạn.” Lời của trưởng lão là chế nhạo? Hay là tiêu dao?
Trong ấn tượng của một người bình thường, giới Phật giáo không cho phép có Phật giáo mới mẻ xuất hiện, nói cách khác là truyền thống luôn luôn bài trừ trào lưu mới, điểm này từ xưa đến này vẫn không khác mấy. Thế nhưng Chân Phật Tông ngày nay đã dung hợp Đạo pháp và Mật giáo, đứng trên lập trường siêu nhiên, không cố chấp vào những quan niệm của thế tục, thông qua thiền định càng sâu sắc hơn mà tu dưỡng đạt đến cảnh giới tinh thần cao hơn. Đặc biệt là Chân Phật Mật Pháp, ảo diệu khó đo lường. Rất nhiều Mật pháp truyền thống cũng thường là quá phức tạp. Chân Phật Tông của Lư Thắng Ngạn có nhân duyên độ chúng sinh của riêng mình, có rất nhiều màu sắc, càng gia tăng sự siêu thắng, đương nhiên là được thế gian truyền tụng rồi.
16. Móc kim cang tình yêu
Mật giáo làm pháp, triệu thỉnh Phật Bồ Tát, nếu Phật Bồ Tát không đến thì phải làm sao? Có hai cách: Thứ nhất, dùng móc kim cang móc vào pháp tọa của Phật Bồ Tát, lệnh cho các vị không chạy được, Phật Bồ Tát tự nhiên không đến không được. Thứ hai, dùng ấn “tâm trong tâm”, trực tiếp tiến nhập vào tâm của Phật Bồ Tát, làm tâm các vị xúc động, để trong lòng các vị cảm động, không đến không được.
Do tác dụng của móc kim cang, ngay đến Phật Bồ Tát cũng đều có thể câu về, huống hồ là tình yêu giữa nam nữ, cho nên móc kim cang có thể câu được trái tim của bạn trai và trái tim của bạn gái.
Trong quá trình quán tưởng lại có bốn chú âm: Cha — người yêu xuất hiện trong hư không. Hum — người yêu từ từ di chuyển đến gần. Ban — người yêu ở ngay đối diện trước mặt. Ho — người yêu và bạn ôm lấy nhau, hòa quện vào nhau.
Cách làm pháp này trong Mật giáo mà nói chính là pháp kính ái, thật ra pháp kính ái hoàn toàn không nhất định chỉ là tình yêu giữa nam nữ mà thôi. Pháp này thích hợp áp dụng cho tất cả các loại mối quan hệ giữa các cá nhân, ví dụ như sếp và cấp dưới, quan hệ đối tác kinh doanh, nghệ sĩ và người hâm mộ, sức hấp dẫn của nhân vật công chúng, giữa đồng nghiệp và đồng nghiệp, v.v…
Việc làm pháp kính ái có thể khiến cho sự hợp tác với nhau vui vẻ, giảm bớt xung đột, thông cảm lẫn nhau, không sinh ra bài xích, hẫp dẫn lẫn nhau, sinh ra thiện cảm. Pháp kính ái đương nhiên có thể tu chuyện tình yêu, tu pháp này thì: Đàn ông xấu có thể lấy được vợ đẹp. Phụ nữ xấu cũng có thể gả được cho đàn ông đẹp trai. Còn trai xinh gái đẹp thì tự nhiên càng dễ nảy sinh tình cảm với nhau. Pháp thuật ở đây thần thông quảng đại, không có việc gì là không như ý!
Trong pháp thuật của Mật giáo, phương diện pháp kính ái có rất nhiều bí thuật, ví dụ: Pháp giai nhân đến chốn hẹn. Bí pháp hòa hợp. Bí pháp tương tư. Pháp lòng xuân phơi phới. Pháp vợ chồng kính yêu. Pháp kính ái Kurukulle Phật Mẫu. Pháp kính ái Ái Nhiễm Minh Vương. Pháp kính ái Thần Tài Đầu Voi. Pháp sợi chỉ đỏ. ……
Tại đây, trước hết tôi giới thiệu pháp Giai nhân tự đến. Dùng một cái bát sạch, tốt nhất là bát mới, đổ nước lạnh nửa bát, nước sôi nửa bát, nước này gọi là nước âm dương. Đặt tại đàn thành. 1. Làm cúng dường, đảnh lễ, dâng hương, cầu nguyện như làm pháp thông thường. 2. Tay kết ấn: kết ấn móc kim cang. (Đầu tiên hai tay đan nội phộc, ngón trỏ tay phải giơ lên giống như hình móc câu, đây là móc kim cang, còn gọi là ấn đại câu triệu.) 3. Quán tưởng: nghĩ đến người đẹp hiện lên ở hư không, đứng trên bát nước, chìm vào trong nước. Lại quán tưởng chính mình hiện lên ở hư không, đứng trên bát nước, chìm vào trong nước. Cuối cùng quán tưởng hai người đều hòa tan vào trong bát nước. 4. Trì chú: Om furila ruaye soha. (108 biến) (Niệm thêm một câu: Ra lệnh cho AAA tự đến gặp mặt.) 5. Nhập định: (tinh thần tập trung, nghĩ đến đối phương, cố định trên người của người đẹp) Nghĩ đến dung mạo của người đẹp, đôi mắt ngang bằng với mắt của bạn, tập trung quan sát đôi mắt trong suốt. 6. Hồi hướng: Chế tâm một chỗ Mọi việc đều thành Giai nhân tự đến. Viên mãn nhân duyên. 7. Cuối cùng đem nước này đưa cho người đẹp uống, cho vào canh, trà, hoặc trong món ăn đều được, có thể để người đó biết hoặc không biết đều được. 8. Cát tường viên mãn. Nếu người đẹp uống được nước này thì sự việc tự nhiên có thể thành công.
Tại đây, tôi đặc biệt giới thiệu pháp kính ái Thần Tài Đầu Voi. Vị Thần Tài Đầu Voi này vốn thuộc về Ấn Độ giáo, từ xưa tương truyền là rất thích hợp với người có quyền lực và địa vị của vương tộc hoặc quý tộc, hoặc người giàu có thờ cúng. Nếu hiểu và tu trì pháp này có thể kêu gọi và được nhiều người yêu kính, có được quyền thế, được của cải, tất cả lợi lạc đều dồi dào và tăng trưởng. Trọng điểm của Thần Tài Đầu Voi đương nhiên nằm ở cái mũi dài của ngài.
Tu pháp này như sau: 1. Tứ quy y. Quy y Kim cương Thượng sư, quy y Phật, quy pháp, quy y tăng. 2. Đại lễ bái. 3. Đại cúng dường. 4. Niệm kệ phát tứ vô lượng tâm: Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát li đau khổ và nguyên nhân đau khổ. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng. 5. Kết ấn: kết ấn móc kim cang. 6. Đầu tiên quán không. Sau đó quán tưởng xuất hiện chú tự tiếng Tạng của Thần Tài Đầu voi:
Bản thân hành giả chuyển hóa thành Thần Tài Đầu Voi. Đầu tiên sử dụng mũi của Thần Tài Đầu Voi vươn về bốn hướng đông, nam, tây, bắc, có thể vươn dài ra đến vô tận, sức mạnh của nó cũng lớn vô cùng. Quán tưởng mũi của chính mình vươn đến nhà của người yêu mình, quấn chặt lấy người yêu mình, quấn người yêu về, mình và người yêu ôm chặt lấy nhau. 7. Trì chú: Om zangpala chaleng chanaya dana meiti seh. (Niệm 108 biến.) 8. Nhập tam ma địa. 9. Hồi hướng: Với công đức tu hành pháp này Mau chứng giai nhân đến kính yêu Mãi mãi tắm trong sông tình ái Tương lai đều đến cõi Như Lai. 10. Cát tường viên mãn.
Tôi sâu sắc cảm thấy tu hành Mật giáo có pháp nhập thế, cũng có pháp xuất thế, đó là bởi vì dục vọng của chúng sinh vô biên, cho nên Phật pháp mới vô biên. Rất nhiều Phật Bồ Tát vì độ chúng sinh cho nên mới hiện ra thiên thần với đủ mọi hình tướng, đến giúp đỡ chúng sinh trong thiên hạ, chúng sinh có ước nguyện gì đều có thể cầu pháp nơi các ngài, và Phật Bồ Tát chắc chắn sẽ viên mãn ước nguyện của chúng sinh.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) có ngũ nhãn lục thông, tôi phát hiện ra mỗi con người đều có khuôn mặt khác nhau. Mặt hữu tình. Mặt vô tình. Mặt có duyên. Mặt vô duyên. Mặt đào hoa. Mặt quả phụ. Mặt nữ mang tướng nam. Mặt nam mang tướng nữ. ……
Từ trong những khuôn mặt này đã mang đầy đủ vận mệnh của hôn nhân, chúng ta nhìn khí trên mặt là có thể nhìn ra nhân duyên của người đó ra sao, có hôn nhân hay không, hoặc có nhiều nam tính, hoặc có nhiều nữ tính, hoặc nửa chừng chết yểu, hoặc là mang số đào hoa, hoặc nam lừa nữ, hoặc nữ lừa nam, hoặc là căn bản không có duyên phận, hoặc là li hôn…
Thế nhưng chúng ta cũng không thể hoàn toàn tin vào định mệnh, chúng ta dựa vào sức mạnh công đức tu pháp cũng có thể chuyển biến vận mệnh. Tu pháp Mật giáo có thể sản sinh rất nhiều sức mạnh, có thể xoay chuyển tình thế xấu, ví dụ sức mạnh lớn của thiên thần, sức mạnh lớn của Hộ Pháp, sức mạnh lớn của chính mình, sức mạnh lớn của vũ trụ, sức mạnh lớn của Căn bản Thượng sư, những sức mạnh này tập trung lại là có thể thay đổi vận mệnh.
Tuy vậy, tu pháp Mật giáo nhất định phải quy y nhận quán đảnh, đây chính là sức mạnh truyền thừa gia trì liên tục được truyền xuống từ các vị tổ sư, trong đó có rất nhiều khẩu quyết bí mật đòi hỏi phải trực tiếp truyền khẩu. Sự sản sinh ra pháp lực của Mật giáo đến từ lực gia trì của Thượng sư.
Tôi cho rằng pháp kính ái Ái Nhiễm Minh Vương có đại pháp lực, nhưng pháp Ái Nhiễm Minh Vương cũng có khẩu quyết bí mật đặc thù, khẩu quyết này nhất định phải do đệ tử đến cầu pháp thì tôi mới có thể nói ra, bởi vì có cầu tất ứng!
Tôi sâu sắc cảm thấy rằng tình yêu và mối quan hệ cuốn hút nhau giữa nam nữ là quan trọng nhất, giống như nam châm vậy, người có duyên thì sẽ hút rất chặt, người không có duyên thì sẽ bài trừ lẫn nhau.
Tôi cũng biết rằng mỗi con người đều có từ trường của riêng mình, có một số người thì sinh ra đã sẵn có, có một số người thì sau khi lớn lên mới thay đổi. Bát tự khi con người sinh ra là một tượng trưng cho từ trường, cho nên hôn nhân của Trung Quốc ngày xưa là nam nữ phải hợp bát tự với nhau là có đạo lí của nó ở trong đó, không hoàn toàn là sự mê tín tướng mệnh, trong bát tự có thể hiển hiện từ trường của mỗi người, ở đây cũng có học vấn rất sâu, mặc dù không nhất định ai ai cũng chuẩn xác, nhưng cũng không khác quá xa!
Còn về tu pháp của Mật giáo, tôi cho rằng về mặt thay đổi từ trường, mỗi một lần tu pháp là đã có sự chuyển hóa dần dần. Ở đây, mặc dù chuyển hóa không hẳn là mười phần rõ ràng, nhưng giống như cỏ mọc vậy, mặc dù không nhìn thấy cỏ lớn lên, nhưng thật sự là chúng đang lớn. Tiêu tai — tránh được từ trường xấu. Kính ái — hướng đến từ trường tốt. Tăng ích — gia tăng từ trường trợ duyên tốt. Hàng phục — thay đổi từ trường phá hoại không tốt. Khi bạn tu pháp kính ái, từ trường không tốt sẽ tự động rời xa bạn, từ trường tốt sẽ tiến nhanh về phía trước.
“Luận về từ trường của con người” của tôi có chứng cứ khoa học hay không, trên phương diện này cũng giống như thuyết “tế bào phóng điện” của y học, giống như “sức hút của mặt trăng” và “sức hút của trái đất” của thiên văn học, sóng não vào tâm trạng trên phương diện sinh lí, ngoài ra còn có “vầng hào quang quanh thân” của nguyên lí quang học, những cái này đều có liên quan rất lớn đối với từ trường của con người.
Việc hôn nhân có liên quan đến kiếp trước không? Câu trả lời của tôi là: “Kẻ thù 500 năm hôm nay gặp lại, ái ân nhiều kiếp bỗng một ngày tương phùng.”
Có một bài thơ:
Giàu sang tất nhiên là phúc đến Danh lợi cũng vẫn có mối lo Trong mệnh có cuối cùng ắt có Trong mệnh không xin chớ cưỡng cầu.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) là người minh nhãn, có duyên, vô duyên đều là định số, tất cả hãy cứ để thuận tự nhiên, miễn cưỡng đôi khi cũng vô ích.
Ở đây tôi lại giới thiệu pháp Buộc chỉ đỏ, là pháp để giữ cho tình yêu vợ chồng mãi vững bền: 1. Nam nữ mỗi người lấy một chiếc giày, nam trái nữ phải. (Giày này nhất định phải là giày đi đã lâu.) 2. Đặt miệng giày quay vào nhau (không phải là quay hai đế giày vào nhau), dùng sợi chỉ đỏ buộc chặt lại. Quấn sợi chỉ đỏ 99 vòng, tượng trưng cho ý nghĩa là “mãi mãi”. Cúng tại mật đàn. 3. Thủ ấn — dùng ấn Bao trì [ôm chặt]. (Hai tay nắm lại, bắt chéo nhau, đặt trước ngực.) 4. Quán tưởng — hai chiếc giày đó, giày của nữ quán tưởng thành người nữ, giày của nam quán tưởng thành người nam. (Quán tưởng phải rõ nét.) 5. Trì chú — Om furila ruaye soha. (108 biến) (Niệm thêm một câu: Sắc lệnh phu phụ thiên trường địa cửu, bạch đầu giai lão.) 6. Đem hai chiếc giày đã được gia trì nhờ tu pháp đặt bên dưới giường ngủ của vợ chồng, không để người khác biết. 7. Cầu nguyện chủ tôn của mật đàn bảo vệ. 8. Cát tường viên mãn.
Làm pháp như vậy, tình cảm vợ chồng sẽ càng ngày càng nồng đượm, tình yêu của đôi bên sẽ mãi bền vững, không cần phải buồn phiền về tình cảm. Giả sử bạn làm pháp theo cách này, vợ chồng vẫn không thể đồng lòng, vậy thì cứ mỗi nửa tháng cần làm pháp một lần, có nghĩa là mỗi tháng lại đem giày cũ ra gia trì trước mật đàn một lần, nửa tháng làm một lần, tự nhiên sẽ có hiệu quả.
Làm pháp Mật giáo thông thường có làm một lần, bảy lần, hai mươi mốt lần, bốn mươi chín lần, nếu tình huống nhẹ thì cần làm một lần hoặc bảy lần, nếu tình huống nặng thì cần làm bốn mươi chín lần. Đằng trai đào hoa hoặc đằng gái đào hoa đều thích hợp dùng pháp này.
Còn có pháp cắt đứt tà duyên, cũng tức là pháp phân li, pháp này tôi không tiện công khai trong sách, chỉ truyền thụ riêng thôi.
Đa phần duyên phận hôn nhân, thậm chí đào hoa ngoại tình đều là có định số rồi, nhìn chung đều rất khó cải vận. Nhưng mà duy có Phật tông Mật giáo là có thể thay đổi, vì sao? Bởi vì Mật tông có pháp yết ma, pháp yết ma chính là sức mạnh của pháp thuật, nếu muốn thay đổi vận mệnh thì phải tu học Mật tông.
Liên quan đến duyên phận hôn nhân có định số, khi còn nhỏ tôi từng nghe bố tôi kể một câu chuyện có liên quan đến Ông Tơ Bà Nguyệt. Câu chuyện ấy đại ý là như thế này: Có một thanh niên có con đường làm quan vô cùng thuận lợi, có tiền có thế, trẻ trung khôi ngô, anh ta muốn tìm một người vợ yêu nhưng tìm đã lâu mà chưa gặp. Có người thì xuất thân rất tốt, nhưng quá xấu xí, bản thân không thích. Có người thì tướng mạo “mặt như hoa đào ngậm sương, thân tròn trịa trắng ngần như tuyết, mắt trong veo như nước mùa thu, làn mi cong dài mày lá liễu, mười đầu ngón tay búp măng non, tiếng nói ngân nga vịnh Tây Tử, phong lưu chẳng khước từ chim oanh.” Nhưng đáng tiếc là xuất thân không tốt. Cao chẳng thành, thấp chẳng xong.
Có một buổi tối, quan nhân trẻ tuổi này đọc sách đến khuya, đi dạo tới sau vườn hoa, mơ màng nhìn thấy dưới ánh trăng có một người già đang ngồi trên một hòn non bộ bằng đá, trên tay cầm sợi chỉ đỏ, đang lặng lẽ bện sợi chỉ đỏ… Quan nhân này rất sửng sốt hỏi: ”Là ai?” Đáp: ”Ta là Nguyệt Lão, chuyên bện sợi chỉ đỏ vì nam nữ trong thiên hạ kết thành hôn nhân!” ”Xin đoán thử cho tôi với!” - Quan nhân thỉnh cầu. Nguyệt Lão kéo sợi chỉ đỏ, tính toán một lúc, thế rồi bảo với anh: ”Ngày mai dậy sớm, đi về hướng đông, đến một cái chợ, gặp một phụ nữ ăn xin, trước ngực ôm một đứa bé gái cho bú sữa, đứa bé gái này chính là vợ anh.”
Ngày hôm sau, quan nhân này quả nhiên đã tìm được cái chợ này, cũng nhìn thấy người phụ nữ ăn mày, đồng thời nhìn thấy đứa bé gái đang bú sữa, trong lòng anh ta thất kinh. Trở về nhà, trong lòng anh ta không thể nào bình yên được, cho rằng mình có địa vị quan trọng và cao quý, tương lai lại càng lên như diều gặp gió, sao có thể cưới con gái của kẻ ăn mày chứ. Thế là anh ta nhất thời tức giận bèn mời một thích khách, xúi bẩy thích khách đi giết con gái của người phụ nữ ăn mày kia. Thích khách trở về nói con gái của phụ nữ ăn mày đã bị giết chết rồi, trong lòng quan nhân mới không còn lo lắng. Anh ta tự nói: ”Nguyệt Lão bện sợi chỉ đỏ, lần này cũng đoán sai rồi.”
Hơn 10 năm sau, quan nhân đã làm quan đến chức Đại Học Sĩ, tể tướng đương triều muốn gả con gái cho anh ta, anh ta cũng biết tể tướng có con gái: ”Mặt mày thanh tú, mắt phượng ẩn tình, eo thon như cành liễu yếu mềm trước gió, gương mặt yêu kiều như hoa trong nước.” Lại thêm vóc dáng uyển chuyển, dung mạo xinh đẹp. Quan nhân hết sức vui sướng. Thế là chọn ngày thành hôn, lễ vật đón dâu cao như núi, cô dâu ngồi trên kiệu gắn trăm loại hoa, đèn lồng thắp lên tới cả nghìn chiếc, ngoài ra còn có kiệu voan xanh bốn người khênh, tiếng khèn tiếng sáo và trống nhạc, âm thanh vui vẻ rộn ràng. Đêm ấy, hai người quấn lấy nhau như keo sơn.
Cô dâu mới đi lấy chồng có một việc kì lạ, đó là tóc trước trán luôn để xõa xuống, đồng thời cài lên một bông hoa, ngay cả lúc đi ngủ cũng cài. Quan nhân tò mò nhiều lần hỏi thử, cuối cùng cô dâu mới kể: Thật ra bản thân không phải là con gái do tể tướng sinh ra, lúc còn nhỏ cô ra đời trong nghèo khó, mẹ ruột đi ăn xin ở chợ, ôm cô trong lòng, bị một tên thích khách vô duyên vô cớ giết, khi tên thích khách ra tay thấy tình cảnh hai mẹ con rất đáng thương nên không nỡ xuống tay, chỉ đâm sượt qua làm bị thương trên trán, để lại một vết sẹo, sau đó thích khách chắp tay chào rồi bỏ đi. Khi cô lớn lên một chút thì bị đưa vào cung, tể tướng thấy cô thông minh lanh lợi đã nhận làm con, coi như con đẻ, bí mật này người ngoài không biết.
Quan nhân nghe xong thì há hốc miệng không nói được lời nào, từ đó càng yêu thương người vợ mới hơn. Thứ nhất, anh ta sám hối sự kích động ngu dốt của mình lúc còn trẻ. Thứ hai, anh ta cảm ơn ông trời đã bảo vệ. Thứ ba, anh còn phải dựa vào hồng phúc của tể tướng và nương tử.
Cuối cùng, anh còn cảm thấy sợi chỉ đỏ của Nguyệt Lão quả thật là quá thần kì, số mệnh ắt phải như vậy, người tính không bằng trời tính.
Có một bài thơ viết rất hay:
Tình cảm vợ chồng như lửa ấm Tình cảm khô kiệt ngủ chẳng ngon Xưa nay hôn nhân là định mệnh Tơ hồng đâu phải người khác xe.
Và:
Xưa nay hôn nhân do trời định Chẳng cần người bỏ công tìm kiếm Hữu duyên nghìn dặm vẫn lưu luyến Vô duyên đối diện chẳng thành đôi.
17. Pháp kéo dài tuổi thọ của Hoa giáo
Hoa giáo Sakya Chứng Không Thượng sư đã truyền thụ cho tôi rất nhiều mật pháp. Tôi ở chỗ của Sakya Chứng Không Thượng sư đã nhận được rất nhiều quán đảnh, trong đó bao gồm quán đảnh Acharya và quán đảnh Vô thượng mật bộ. Ngoài ra, ngài còn truyền thụ cho tôi rất nhiều giới luật Mật tông, bao gồm giới Biệt giải thoát, giới Bồ đề tâm, giới Ngũ Phương Phật, giới Tính, v.v…
Chứng Không Thượng sư từng dạy tôi quan sát “điềm chết” có: 1. Điềm chết hạ phẩm. 2. Điềm chết chắc chắn. 3. Điềm chết phổ biến. 4. Điềm chết khác. (Những quan sát này vô cùng phức tạp, hồi sau sẽ kể.)
Đã biết lí lẽ về điềm chết thì nên biết làm sao để ngăn chặn, đây chính là mật pháp kéo dài tuổi thọ của Hoa giáo. Hoa giáo Sakya Chứng Không Thượng sư nói, pháp kéo dài tuổi thọ phân thành ngoại pháp và nội pháp, ngoại pháp là pháp cúng, nội pháp là pháp đặc thù.
Kéo dài tuổi thọ của ngoại pháp như sau: Phóng sinh. Tụng kinh nghìn cuốn. Làm Hộ Ma có được chứng nghiệm. Hành thiện bố thí. Trì chú niệm Phật đạt đến trăm vạn biến. In kinh hoặc in sách thiện. Tu pháp tiêu tai. v.v.. (Vào lúc trời hửng sáng, tu pháp tiêu tai kéo dài tuổi thọ đạt đến trăm lần nghìn lần, nhất định có thể ngăn chặn cái chết và kéo dài tuổi thọ, hơn nữa sẽ không phải chịu các tai nạn quấy nhiễu. Và cũng vào lúc trời hửng sáng tu bảo bình khí cũng có thể ngăn chặn được nạn chết, có thể kéo dài thọ mạng.)
Pháp kéo dài tuổi thọ của nội pháp đặc thù như sau: (Pháp này do tổ sư Hoa giáo Virupa truyền thụ, còn gọi là pháp nuốt không khí kéo dài mạng sống.) 1. Vào lúc tờ mờ sáng, trời vừa hửng lên, có nghĩa là lúc mặt trời còn chưa mọc, nhưng bầu trời đã hửng sáng, mới chỉ nhìn thấy màu trời trắng. 2. Hành giả quay mặt về hướng đông, làm chín bài an tịnh suy nghĩ. 3. Quán tưởng tất cả hư không tam giới đều hóa thành ánh sáng màu lam. 4. Ánh sáng lam của thập phương tam giới này từ miệng của hành giả đi vào trong thân. 5. Miệng hành giả hít vào một hơi khí nhưng không phát ra tiếng, hơi khí này đầy khắp toàn thân. 6. Nuốt vào một ngụm nước bọt. 7. Hạ cằm ép vào họng. 8. Hành giả bịt chặt khí ra vào để cho hơi khí này tràn đầy toàn thân. 9. Hành giả từ từ thở khí ra. 10. Lặp lại cách làm pháp như vậy. 11. Làm cho đến khi bị nấc mới dừng. 12. Cát tường viên mãn.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) sâu sắc cảm thấy rằng cuộc sống vốn là hết sức vô thường, có sự xuất hiện điềm chết thì chúng ta phải chú ý. Nếu hành giả Mật giáo mơ thấy trèo lên khu mỏ màu tím, mơ thấy mình mặc quần áo đỏ, hái hoa đỏ, tay cầm tràng hạt đỏ, đi qua cánh đồng màu đỏ, đi đến một đất nước hoàn toàn xa lạ, Không Hành Phẫn Nộ Nữ mổ bụng mình lấy nội tạng của mình ăn thì đều là những điềm chết không lành.
Ngoài ra, khi tu pháp, hành giả nhìn thấy bóng đen hoàn toàn biến mất, tự cảm thấy con ngươi của mắt mình rời rạc, chỉ thị của Không Hành Hộ Pháp đột nhiên toàn bộ đều dừng dứt, toàn bộ công lực thiền định của bản thân đều mất dần, tất cả hành vi cử chỉ của mình đều đảo lộn, thì đây cũng là các tướng của điềm chết.
Lúc này tu pháp kéo dài tuổi thọ phải chú ý tinh thần chuyên nhất, hít thở phải mỏng, phải chậm, phải dài, có nghĩa là hít thở sâu. Quán tưởng phải rõ ràng, toàn bộ trời đất đều là màu xanh lam, quán tưởng trời đất đều đi vào thân mình, hoặc là ánh sáng lam từ từ đi vào trong miệng mình rồi tràn đầy toàn thân. Bất luận tu pháp nào cũng cần có sự bền lòng, đừng có tu một ngày dừng ba ngày, phải mỗi ngày một tu, có thể tu cho đến khi có điềm mộng cát tường hoặc có chứng nghiệm mới dừng lại. Kì thực công khóa của pháp kéo dài tuổi thọ có thể tu cả đời, thậm chí có thể tu được thân ánh sáng cầu vồng bất tử. Có thể sau khi tu xong thì lại trì chú: ”Om benza tatu fan.” (tâm chú Đại Nhật Như Lai) Hoặc: ”Om muarila tatu fan.” (tâm chú Kim Cương Giới Đại Nhật Như Lai)
Liên quan đến thọ mạng dài ngắn, trong cuốn “Thần Tiên truyện”, tôi đã đọc được một ghi chép về Lí Hạ [nhà thơ đời Đường (790-816)] cực kì thú vị, xin ghi ra như sau:
Lí Hạ tự là Trường Cát, là hậu duệ của Đường Đại Tông Thất Trịnh Vương, vóc dáng nhỏ gầy, lông mày rậm dài và cong, mới bảy tuổi đã có thể viết được bài văn rất hay, vì thế được gọi là thần đồng. Hàn Dũ và Hoàng Phủ Thực không tin vào kì tài của ông, liền đến nhà ông để kiểm tra khả năng thơ phú, không ngờ Lí Hạ cầm bút lên, không hề do dự đã viết ra bài thơ “Cao hiên quá” cực hay. Hàn Dũ một đời văn chương oai hùng không nén nổi sự kinh ngạc, khen ngợi là thiên tài.
Vì phụ thân của Lí Hạ có tên gọi là Tấn Túc đã kị húy cho nên ông không thể thi tiến sĩ, quan vận trước sau đều không tốt, nhưng ông ấy vẫn tha thiết làm thơ, hàng ngày ông cưỡi con lừa nhỏ mang theo thư đồng vào trong thành đi lang thang, hễ có linh cảm là viết lên tờ giấy rồi bỏ vào túi gấm.
Vào năm 27 tuổi, có một hôm bỗng nhiên ông nhìn thấy có một thiên sứ mặc y phục màu đỏ cưỡi rồng có sừng màu đỏ, trên tay cầm một tấm bảng, trên đó có khắc một vài văn tự cổ xưa, giống như chữ trên đá bị sét đánh. Thiên sứ nói với Lí Hạ: ”Thượng đế triệu Lí Trường Cát!” Lí Hạ không đọc được những văn tự cổ kì lạ này, thế là ông liên tục rập đầu cúi lạy trên chiếc trường kỉ và nói: ”Mẹ tôi vừa già vừa bệnh, tôi không thể bỏ mặc không chăm sóc bà ấy!” Người mặc áo đỏ cười nói: ”Lầu Bạch Ngọc của Hoàng Đế vừa mới khánh thành, muốn mời ông đi làm một bài văn kỉ niệm, cuộc sống trên trời cực kì vui vẻ, không khổ một chút nào, ông không cần phải lo!” Lí Hạ khóc lóc nức nở nghẹn ngào. Chỉ thấy trên bậu cửa sổ có một đám khói mù mịt, sau đó lại có tiếng bánh xe chuyển động. Lí Hạo kì tài một thời đã thăng thiên như thế, đến lầu Bạch Ngọc làm thơ cho Thượng Đế.
Người đời sau gọi Lí Bạch là Tiên Thơ, gọi Lí Hạ là thiên tài, phong cách thơ của ông biến hóa kì lạ đặc biệt đã khởi phát phong cách thơ đẹp đẽ vào cuối triều đại nhà Đường, Đỗ Mục, Lí Thương Ẩn đều rất kính phục ông ấy. Đối với sự kiện ông ấy thành Tiên, Lí Thương Ẩn đặc biệt tin là thật, trong một câu chuyện nhỏ ông ấy viết tặng Lí Hạ từng cảm thán, cho rằng thiên tài tuyệt thế không chỉ hiếm thấy trên mặt đất mà trên trời cũng không có nhiều, đây có lẽ chính là duyên cớ vì sao trên trời triệu gọi Lí Hạ chăng?
Lí Hạ 27 tuổi thăng thiên, tôi xúc động sâu sắc. Tôi vẫn thường nghĩ, thọ mạng của một con người phải sống bao lâu thì mới xem là dài, thọ mạng của một con người phải sống bao lâu thì mới xem là ngắn? Có một số người thọ mạng rất dài, sống tới tám, chín mươi tuổi, nhưng cả đời vất vả khó nhọc, mưu cầu danh lợi, sống tới mức cũ kĩ, sống tới mức mục nát, tạo ra không ít ác nghiệp, như thế thì có xem là trường thọ, ở tại thế gian có lợi ích gì chăng?
Có người thọ mạng rất ngắn, chỉ sống hai, ba mươi tuổi, nhưng cả một đời tinh hoa, trong hai, ba mươi năm đó rạng rỡ huy hoàng, để lại cho thế gian những hoài niệm tuyệt vời, đoản thọ như vậy nhưng mà thế nhân có được lợi ích chẳng hề ít, như vậy có xem là đoản thọ chăng? Trường thọ thì tốt sao? Đoản thọ thì không tốt sao?
Lấy ví dụ Lí Hạ để nói, ông ấy là bậc kì tài nhân gian, nhưng thiên sứ bảo ông ấy: “Cuộc sống trên trời hết sức vui vẻ, không khổ một chút nào.” Lí Hạ lên trời đi làm thơ cho Thượng Đế. Cho nên Lí Hạ đoản thọ lại là việc tốt.
Từ đầu chí cuối tôi có một triết lí cực kì rõ ràng: Sống một cách chói sáng, có ý nghĩa, chính là trường thọ. Sống một cách lãng phí, sống mơ mơ màng màng, chính là đoản thọ. Cho nên cuộc đời của một con người nếu không tỏa sáng thì cho dù có sống đến mấy trăm tuổi, mấy nghìn tuổi cũng chẳng khác nào căn bản là trẻ con.
Cuộc đời của mỗi người chỉ cần tỏa sáng rạng ngời thì cho dù là sao băng vụt lóe lên rồi tắt thì người đó vĩnh viễn là ngọn đèn sáng trên đời.
Tôi truyền thụ pháp kéo dài tuổi thọ là hi vọng những người có ích cho chúng sinh thế gian có thể sống lâu một chút, bởi vì có ích cho thế gian thì họ sống càng lâu sẽ càng có thể tạo phúc cho nhiều người, họ sẽ không lãng phí một phút một giây, cuộc đời đối với họ mà nói là rất có giá trị.
Còn như những người già càng sống càng cũ kĩ mục nát, nặng trĩu tử khí, chỉ sản sinh ra rác rưởi và phân bón cho thế gian thì tôi gọi là “yêu quái già”.
Còn tôi đối với chính mình — một ngày không làm, một ngày không ăn. Mỗi ngày tôi đều phải tỏa sáng. Tôi không lãng phí một phút một giây. Còn như thọ mạng dài hay ngắn, với tôi không thành vấn đề.
18. Cách làm trường thọ hoàn
Trong Mật tông Tây Tạng có phương pháp chế tác viên thuốc trường thọ, trường thọ hoàn này được làm ra nhờ có Thượng sư gia trì, Phật Bồ Tát gia trì, dùng chú ngữ gia trì, uống trường thọ hoàn vào thì có thể bình thường không đau ốm, lại có thể kéo dài thọ mạng, đúng là “có bệnh trị bệnh, không bệnh khỏe thân”.
Trong bài viết ngắn này, tôi đặc biệt trình bày trình tự chế tác trường thọ hoàn như sau:
1. Thượng sư chế tác trường thọ hoàn bản thân cũng phải là một Thượng sư tuổi đã cao, đã sống thọ, và Bổn tôn của Thượng sư là Trường Thọ Phật hoặc Bạch Độ Mẫu là tốt nhất.
2. Ở Tây Tạng, nguyên liệu để làm trường thọ hoàn là dùng tsamba [bột đại mạch nướng], trường lưu thủy [nước của dòng sông tồn tại lâu đời chảy ra biển], bột nghệ, hoa điệp vàng, muối, đường, lá ngải cứu, cỏ cát tường. Đương nhiên dùng tsamba là chính, những thứ khác chỉ cần một chút xíu.
3. Về nguyên liệu, nếu có trường thọ hoàn do các tổ sư trước đây làm thì có thể trộn vào cùng với các nguyên liệu, đương nhiên việc bỏ thêm trường thọ hoàn vào đại diện cho lực truyền thừa gia trì của tổ sư, được như vậy thì càng tốt.
4. Về nguyên liệu thì ở đất của người Hán dùng bột mì là chính.
5. Trong quá trình chế tác, trộn các nguyên liệu thành một khối lớn, tất cả thao tác phải tiến hành một cách thanh tịnh, ví dụ tắm gội, trai giới, tịnh khẩu, trì chú. Trì chú là chú Trường Thọ hoặc chú Cam Lộ Minh Vương. Chú Trường Thọ: “Om seh haha humhum pei benza ayukouhum soha.” Chú Cam Lộ Minh Vương: “Om amiliti hum fa cha.” Hoặc: “Om amita hum pei.”
6. Kết ấn: tay trái năm ngón tay xòe ra, tượng trưng cho Trường Thọ Ngũ Thiên Nữ.
Và thủ ấn Cam Lộ Minh Vương:
7. Quán tưởng: quán tưởng năm ngón tay hóa thành Trường Thọ Ngũ Thiên Nữ, nhờ Trường Thọ Ngũ Thiên Nữ phóng quang gia trì cho trường thọ hoàn, hoặc Trường Thọ Ngũ Thiên Nữ tuôn chảy ra cam lộ trút vào trong trường thọ hoàn.
8. Trì chú: vẫn trì chú Trường Thọ và chú Cam Lộ Minh Vương, càng nhiều càng tốt.
9. Từ khối bánh trường thọ to lại vê thành sợi dài, cuối cùng vê thành viên.
10. Cúng dường Phật Bồ Tát.
11. Cát tường viên mãn.
Cách làm trường thọ hoàn, cách làm hắc bảo hoàn, cách làm cam lộ hoàn, quá trình chế tác đều na ná giống nhau. Rất kì lạ là những viên thuốc này đều có thể sinh ra “tiểu hoàn tử”, giống như hạt xá lợi vậy, có thể sinh ra tràn trề, đây cũng là kì tích của Phật pháp.
Bản thân tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) ngày ngày sử dụng pháp Thụy quang trường thọ, tôi đặc biệt tiết lộ pháp này để lợi ích chúng sinh hữu duyên.
Pháp Thụy quang trường thọ như sau:
- Trước tiên niệm chữ Om, tay chắp lại đặt vào mi tâm luân, tưởng tượng ánh sáng trắng phóng ra.
- Sau đó niệm chữ Ah, tay chắp lại đặt vào hầu luân, tưởng tượng ánh sáng đỏ phóng ra, hiện lên tại hư không thành một cái ô che lấy chính mình.
- Tiếp theo niệm chữ Hum, tay chắp lại đặt ở tâm luân, tưởng tượng ánh sáng lam phóng ra, bay vào hư không, biến thành bầu trời trong xanh không mây.
- Lúc này chính là nằm cát tường - nằm trong ánh sáng.
- Quán tưởng chính mình biến hóa thành chày kim cang kiên cố.
- Trì chú gia trì: “Ram Yam Kham”. Đây là gia trì bằng tam tự minh. (3 biến, 7 biến, 21 biến)
- Quán tưởng Bổn tôn hoặc Hộ pháp trụ đỉnh.
- Trì chú Bổn tôn hoặc chú Hộ pháp cho đến khi đi vào giấc chiêm bao.
- Cát tường viên mãn.
Pháp Thụy quang trường thọ này có hai ý nghĩa lớn: Thứ nhất, hành giả Mật giáo ngủ trong ánh sáng, đặc biệt là có ô đỏ bảo vệ, chiếc ô này giống như cái màn khiến hành giả đêm ngủ an lành, đây chính là pháp Thụy quang. Thứ hai, hành giả Mật giáo tự mình biến hóa thành chày kim cang, sau đó dùng tam tự minh gia trì kiên cố, pháp này lợi ích rất nhiều, có thể tránh ma, có thể kiên cố, có thể đắc vô lậu, có thể đắc đại định, có thể đắc trường thọ.
Người tu hành Hiển giáo bình thường tương đối ít biết đến pháp Thụy quang trường thọ, cho nên ban ngày giữ giới tu pháp mặc dù chặt chẽ cẩn thận, nhưng trong mơ dễ buông lỏng và để chảy mất, thường xuyên trong mơ liên tục bị chảy mất, chân tay lạnh buốt, đau đớn không thể chịu nổi.
Lại thêm ngoại ma thông thường thích nhất là đùa giỡn người tu hành, ngoại ma thích nhất là đánh cắp khí của người tu hành, chúng đợi đến khi tinh thần của bạn lơi lỏng, khi bạn thiếu phòng vệ là thừa cơ nhập vào, ngoại ma sẽ dụ dỗ nội ma (tâm ma) khiến cho bạn và ma tiếp xúc với nhau, khiến bạn và quỷ tiếp xúc với nhau, thế là rò rỉ tiết ra tinh khí, khổ không lời nào kể xiết, trăm bệnh bộc phát. Biểu hiện bề ngoài thì là người tu hành. Kì thực tự tâm vô cùng hổ thẹn, còn chẳng bằng một người bình thường.
Vì sao phải biến hóa thành chày kim cang? Kim cang [kim cương] là tinh hoa trong số kim loại, nó có tính chất cứng và sắc, có nung đốt thế nào cũng không tiêu tan, nói cách khác là “kim không biến sắc”, “cứng không biến thể”. Chày kim cang là một pháp khí mà Mật giáo sử dụng, có phân ra chày một chấu, ba chấu, năm chấu. Chày kim cang tượng trưng cho rất nhiều ý nghĩa, trong số đó có ba ý nghĩa cực kì rõ ràng, ba ý nghĩa này chính là: 1. Không thể phá hoại. 2. Báu vật trong báu vật. 3. Đứng đầu các loại vũ khí.
Trong quá khứ khi tôi trên đường đi hoằng pháp tại Malaysia, tôi đã gặp phải một thầy phù thủy là người nuôi quỷ (pháp thức quỷ), khiến tôi gặp phải rất nhiều tiểu quỷ ban đêm tìm đến khách sạn mà tôi ở. Tôi dùng pháp Thụy quang trường thọ. Khi lũ tiểu quỷ dùng răng nhọn cắn tôi cũng giống như cắn vào chày kim cang, “rắc”, “rắc”, hóa ra không phải là cái cổ của tôi gãy, mà là răng nhọn của lũ tiểu quỷ gãy rồi. Có thể thấy pháp Thụy quang trường thọ có tác dụng hàng ma. (Người tu pháp này nhất định phải quy y nhận quán đảnh.)
Bí quyết tu pháp như sau: Tu pháp Mật giáo, quán tưởng nhất định phải rõ nét, cũng tức là phải rõ ràng, nhưng cũng không nên quá chấp vào từng chi tiết để cho thời gian quán tưởng không quá dài, nói tóm lại là trung đạo là tốt. Quán tưởng xong thì trì chú, chính là ý nghĩa gia trì kiên cố, nghĩa là lệnh cho tất cả thành tựu, nghĩa là lệnh cho tất cả sinh ra tác dụng.
Làm pháp thông thường đều có thủ ấn, nhưng pháp Thụy quang trường thọ thì không có, vì sao? Thật ra không phải là không có thủ ấn, việc “nằm cát tường” của bạn chính là thân ấn (thủ ấn), nằm cát tường giống như sư tử nằm, tim ở bên trên, thân cong lại như con tôm.
Nói chung trước khi ngủ, tôi đều cầu nguyện Bổn tôn hoặc Hộ pháp bảo vệ, trên đầu giường của tôi đều có treo pháp tướng của Hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cang, chắp tay cầu nguyện là việc quan trọng, Hộ pháp sẽ bảo vệ hành giả, không chỉ mỗi bảo vệ hành giả mà đồng thời Hộ pháp còn thường xuyên ban chỉ thị về pháp yếu tu hành cho hành giả.
Pháp Thụy quang trường thọ này xem ra nghi quỹ đều cực kì đơn giản, nhưng đích thực là có hiệu nghiệm lớn, đây là pháp mà tôi tu hành hàng ngày. Nếu ai có tu và sản sinh chứng lượng thì sẽ tin tôi không phải là kẻ khoác lác.
19. Pháp trừ ma
Pháp trừ ma của tôi cực kì nhiều, đặc biệt là Liễu Minh Hòa Thượng và Sakya Chứng Không Thượng sư đã chỉ dạy cho tôi rất nhiều pháp trừ ma. Trên nguyên tắc, pháp trừ ma mặc dù nhiều, nhưng chỉ có hình thức và động tác là khác nhau, chỉ cần vận dụng phù hợp thì về cơ bản là giống nhau.
Pháp trừ ma có pháp quyết phổ thông và pháp quyết bí mật. Pháp quyết phổ thông tương đối không có trở ngại lớn, còn pháp quyết bí mật thì không thể thử nghiệm qua loa, bởi vì sẽ liên lụy dẫn đến nhân quả cực kì nghiêm trọng, hậu quả mà nó gây ra cũng khó mà tưởng tượng được.
Tôi từng cùng đăng đàn làm pháp với Đại Hoạt Phật của Tây Tạng là Ba Mễ Cường Ba và Thố Như Thứ Lãng. Hai vị này, vị đầu tiên là viện trưởng viện Phật học Tây Tạng, vị thứ hai là viện trưởng viện Y học Tây Tạng, địa vị của họ chỉ sau Dalai Lama.
Pháp trừ ma của Thố Như Thứ Lãng Hoạt Phật rất đơn giản: 1. Lấy một hình người làm bằng đất đặt vào trong pháp khí đầu lâu. 2. Tay phải cầm chày kim cang phổ ba, hoặc hai tay cầm chày kim cang phổ ba. 3. Dùng đầu nhọn của chày đâm vỡ hình người. 4. Vừa đâm vừa niệm chú: “Om guru guru soha.”
Thố Như Thứ Lãng Rinpoche một mặt làm pháp, một mặt niệm chú, đột nhiên ông ấy phát hiện ra tôi đang nhìn ông ấy làm pháp thì ông ấy còn cười một cái. Pháp trừ ma như thế này nhìn bên ngoài thì rất đơn giản, nhưng bên trong nặng về phương diện quán tưởng: 1. Quán tưởng nửa thân dưới của mình thành chày phổ ba. 2. Quán tưởng trên đầu mình có ngọn lửa lớn. 3. Quán tưởng trong người mình có đoạn như tâm chày. 4. Quán tưởng chính mình đã hóa thành Phổ Ba Kim Cang. 5. Quán tưởng thân dưới của mình giống như chày phổ ba đâm mạnh vào tà ma. 6. Ma chướng tam giới đều bị hàng phục. 7. Cát tường viên mãn.
Trong đại pháp hội của Mật giáo, vì sao Ba Mễ Cường Ba Rinpoche và Thố Như Thứ Lãng Rinpoche phải làm pháp trừ ma? Bởi vì chúng ta cho rằng Phật không nơi nào là không có mặt, còn ma gây chướng ngại cũng có mặt ở khắp nơi, bất kì một pháp hội nào cũng đều phải có pháp trừ ma. Và vũ điệu kim cang của Mật tông Tây Tạng chính là điệu múa trừ ma, tượng trưng cho sự chạy trốn của ma và đại thắng lợi của Kim Cang Thần.
Năm xưa, Liễu Minh Hòa Thượng từng hướng dẫn tôi dùng pháp Kim cang chỉ đuổi ma:
1. Kết thủ ấn Kim cang chỉ.
[Tay phải, ngón áp út đặt lên lưng ngón giữa, ngón trỏ đè lên đầu ngón áp út và quặp vào lòng bàn tay, ngón út và ngón cái gập vào trong lòng bàn tay. Ngón giữa chỉ thẳng về phía trước.]
2. Từ ngón giữa bắn ra một vệt ánh sáng lớn màu lam, vệt ánh sáng màu lam này giống như mũi tên bắn thẳng đến tim ma.
3. Hành giả Mật giáo quán tưởng tất cả Hộ pháp đều tập trung trên một ngón tay này.
4. Mũi tên không ngừng bắn ra với lực rất mạnh.
5. Bầy ma không dám làm gì, bỏ chạy tứ phía.
6. Hành giả Mật giáo trong miệng niệm chú: “Om guru guru soha.” Hoặc: “Om chuli kalalupa hum khan soha.”
Bất kì chú ngữ của vị Kim Cang Hộ Pháp nào cũng đều có thể trì niệm. Pháp này hiệu nghiệm không thể coi thường, nếu gặp ma quỷ quấy phá, một ngón tay bắn ra, công hiệu phi phàm, ma quỷ sẽ ngã lăn ra ngay tại chỗ không thể dậy được. Pháp này hễ gặp ma quỷ thì làm pháp, lập tức ứng nghiệm. Bị ma quỷ nhập vào thân không rút lui, làm pháp này lập tức ứng nghiệm.
Pháp thuật Mật giáo hết sức coi trọng phòng hộ và trị ma. Một vị Acharya (Thượng sư) nếu gặp phải giấc mơ không cát tường thì phải nghĩ cách để ngăn chặn và phòng ngừa các sự việc không tốt phát sinh. Nhìn chung, phương diện phòng hộ có bảy loại: 1. Thí thực — cúng Hộ Pháp Không Hành. 2. Hộ luân — tu bánh xe bảo vệ. 3. Tụng chú — tụng bách tự minh kiên cố. 4. Tu Bia Giáp Tôn — pháp mặc bia giáp hộ thân. 5. Thỉnh Bạch chư tôn — cúng dường các vị tiêu tai, tu pháp tiêu tai. 6. Mặc Lục trang nghiêm tự trụ thiên mạn — ví dụ pháp bảo hộ Quan Âm thân đàn thành. 7. Cúng Hộ Ma — hỏa cúng, dừng tất cả ma chướng. (Đây là các pháp ngăn chặn tất cả ma nạn.)
Đối với cách làm pháp trị ma phải là Thượng sư làm pháp, cách làm pháp tương đối phức tạp, tôi đặc biệt phân loại thứ tự như sau: 1. Thượng sư trong sát-na quán tưởng thành tính Không. 2. Từ chữ “lan” quán tưởng thành nhật luân, trên nhật luân có chày kim cang thập tự có chữ “hum”, chữ “hum” ở trung tâm của chày kim cang, trang nghiêm quang minh. 3. Chữ “hum” phóng quang thành bức tường kim cang, trên có lưới kim cang, bên ngoài có lưới tên, mặt đất bên dưới trở thành thể kim cang hỗn tạp, tạo thành một sân lửa rực cháy. 4. Thượng sư trong sát-na tự mình biến hóa thành Hàng Tam Thế Minh Vương. Ba mặt, mặt chính màu lam, mặt phải màu vàng, mặt trái màu lục, há miệng nhe răng, lưỡi uốn cong. Mỗi khuôn mặt đều hiện tướng phẫn nộ với ba con mắt tròn đỏ và lông mày dựng lên, có sáu ấn túc luân [bánh xe ở chân]. Trên trán đeo năm cái đầu lâu, eo quấn váy da hổ, tóc màu vàng đỏ buộc túm lên, hướng lên trên và rực cháy [tham khảo pháp tướng Đại Uy Đức Kim Cang]. 5. Trong sáu cánh tay, hai tay kết thủ ấn Hàng Tam Thế Minh Vương, hai tay cầm chuông chày, hai tay cầm sợi thừng móc câu. 6. Hai chân, chân phải duỗi ra, chân trái cong lại, ánh sáng quanh thân rực cháy như ngọn lửa mãnh liệt. Ăn hết tất cả ma chướng của chúng sinh. 7. Hét lên một tiếng lớn “hum”. 8. Nhìn quanh khắp mười phương, từ chữ “hum” ở trong tâm mình phóng ra ánh sáng lớn câu triệu ma của mười phương. 9. Giao phó ma của mười phương cho mười Đại Minh Vương. 10. Cát tường viên mãn.
Pháp trị ma này đều do Thượng sư (Acharya) quán tưởng mà thành, có nghĩa là pháp thuật Thượng sư biến hóa thành Hàng Tam Thế Minh Vương, dùng uy lực của chữ “hum” để câu thập phương ma đến, giao phó cho mười Đại Minh Vương đi xử lí.
Ngoài ra, càng lợi hại hơn là pháp đóng cọc, hay còn gọi là pháp đóng đinh ma. Cọc kim cang làm bằng sắt, dài 18 ngón tay, 12 ngón tay hoặc 8 ngón tay, phía trên là thân Minh Vương, phía dưới hình cây cọc.
Pháp đóng đinh ma như sau: 1. Thượng sư tự mình biến hóa thành Hàng Tam Thế Minh Vương. 2. Hét to một tiếng “hum”. 3. Quán tưởng thập phương ma hợp thành một thể, bị bao vây trong một cái giếng ở trước mặt (thực tế chỉ là một mô đất). 4. Thượng sư tay trái cầm cọc kim cang, tay phải cầm dùi sắt. 5. Niệm chú: “Om benza kưali kưali ya safu pichana hum.” 6. Đóng đinh vào đầu của ma. 7. Nên quán tưởng tất cả ma cũng hóa thành đại lạc chân như, rất nhiều ma khác cũng chạy xa không thấy nữa. 8. Cát tường viên mãn.
Pháp cọc kim cang đóng đinh ma của Mật giáo không thể tùy tiện làm pháp, bởi vì nếu pháp lực không đủ thì e rằng sẽ bị ma oán hận. Đây là pháp của bậc Acharya, và cũng phải vào những pháp sự lớn thì mới làm, bình thường thì không làm. Quan trọng nhất là phải trục xuất những ma bị đóng đinh đến chỗ đại lạc chân như, đưa đến Tây phương Cực Lạc thế giới.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đối với ma còn có một quan niệm khác. Chúng ta đều hiểu rằng ma có thể đoạt mạng, cản trở, quấy rối, phá hoại. Còn phải nói đến vua của cõi trời thứ sáu của Dục giới làm Ma Vương. Bình thường Tứ ma mà chúng ta nói đến là: 1. Phiền não ma. 2. Âm ma. 3. Tử ma. 4. Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử ma. (vua của cõi trời thứ sáu)
Chúng ta biết có ma là tự tâm hiển hiện, đó chính là tâm ma, do những tham, sân, si từ tâm mình xuất hiện, che lấp hết lí trí, làm hại huệ mệnh của chính mình. Có khi là do kiếp trước hoặc kiếp này chính mình đã tạo nên nghiệp chướng, nghiệp chướng đến gây trở ngại cho huệ mệnh của chính mình, đây chính là nghiệp ma.
Ngoài ra, cũng có ma đến từ bên ngoài, ví dụ giữa trời đất có rất nhiều rất nhiều quỷ thần chúng, có một số có thể giúp bạn tu đạo học Phật, đó là quỷ thần thiện duyên, nhưng cũng có quỷ thần ngăn chặn bạn học Phật tu đạo, đây trở thành ma chướng, tôi gọi kiểu chướng ngại này là quỷ ma.
Tôi cho rằng lợi hại nhất là Thiên ma, đó chính là Thiên chủ của cõi trời Dục giới thứ sáu làm ra đủ loại chướng ngại. Còn có bệnh ma, tử ma đều là ma ngăn cản tu hành. Học tập thiền định ngồi thiền, đôi khi có người sẽ gặp ma, tục gọi là tẩu hỏa nhập ma, nguyên nhân này rất phức tạp, có người là tự tâm quấy nhiễu, có người là nghiệp báo đổ về, có người là quỷ thần nhập thân (chiếm xác), có người là Thiên ma khảo nghiệm, loại ma thiền và ma chướng này thật sự cũng khiến cho người ta sợ hãi và thối lùi đạo tâm.
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni ở dưới gốc cây bồ đề thành đạo, từ tâm cảnh sản sinh ra đủ loại ma chướng, ngài cũng lần lượt khắc phục mới có thể thành Phật.
Bản thân tôi cũng vậy, trong quá trình tu hành làm gì có chuyện không có khảo nghiệm, chỉ riêng những khảo nghiệm của nhân gian tôi cũng đã chịu đủ rồi. Sư trưởng ruồng bỏ. Người thân ruồng bỏ. Đệ tử ruồng bỏ. Tông phái khác công kích. Đủ mọi phỉ báng sỉ nhục. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ gục ngã, chính là vì triết lí về Chân Phật và sự khai ngộ của bản thân đã giữ vững tôi.
Trong “Milarepa truyện”, Milarepa cũng đã gặp ma — Milarepa từ bên ngoài trở về hang động. Trong hang động có ma. Milarepa tôn giả kính ma, lễ ma, cúng dường ma… Ma không đi! Thế là, Milarepa dùng pháp trị ma, dùng Bổn tôn phẫn nộ để đuổi ma… Ma không động! Cuối cùng, mọi phương pháp đều dùng hết rồi. Ma vẫn không đi! Milarepa tôn giả chỉ còn biết nghĩ rằng, cho dù là ma thì ma cũng là huyễn, thế là ngài sải bước vào trong hang động. Không còn thấy ma nữa.
Câu chuyện này đã cho tôi một sự khai sáng rất lớn: “Ma cũng là huyễn.” Quan niệm này vô cùng quan trọng, từ quan niệm này mà tôi biết muốn phá ma, dùng “vô ngã” để phá trừ. Và như pháp môn Đại thừa đã nói, thì Bồ Tát ở địa cao dùng sức mạnh đại phương tiện hiện thành Ma Vương cũng là để giáo hóa chúng sinh. Quan niệm này là: ma là vì giáo hóa chúng sinh mà đến, nếu không có ma thì Phật đạo cũng không thể thành.
Quan niệm cuối cùng là: ”Chỉ quán ngũ” nói rằng: “Thủ Lăng Nghiêm nói, là ma giới, hay là Phật giới, là một không hai.” Đây là “Phật ma là một”. Quan niệm cuối cùng của tôi là: “Phật tức là ma, ma tức là Phật, Phật ma là một.”
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, muốn trị ma, muốn trừ ma, muốn phá ma, nếu có ba đại niệm lực này của tôi thì ma sẽ tự nhiên biến mất. Một người tu hành đạt đến cảnh giới phi Phật phi ma, phi thiện phi ác, không có đối lập, chỉ có tuyệt đối, thì mới là khai ngộ.
20. Pháp thần toán hỏi việc
Rất nhiều người đều nói rằng Liên Sinh Hoạt Phật có đại thần thông, ví dụ khi hỏi việc, tai sẽ động đậy, dường như có vị Thần vô hình đang thông báo cho ngài. Còn nói người hỏi việc chỉ cần viết địa chỉ ra, ở Mĩ hỏi việc, địa chỉ ở Hồng Kông, Lư Thắng Ngạn điều có thể nói ra hoàn cảnh của ngôi nhà ở Hồng Kông, hoàn toàn ăn khớp, khiến cho người hỏi việc đầy kinh ngạc. Thậm chí việc âm gian cũng có thể biết được.
Có một người hỏi việc hỏi chuyện của con trai. Hoạt Phật đáp: ”Đã chết.” Lại hỏi: ”Thần thức ở phương nào?” Đáp: ”Ở cùng với người dì.” Lại hỏi: ”Người dì thứ mấy?” Đáp: ”Người dì thứ hai.” Người đến hỏi việc rất thán phục, bởi vì người đó trình lên bát tự của con trai, Hoạt Phật đã nói luôn là đã chết, người đến hỏi việc đích thực là có một người dì chết sớm, đúng là người dì thứ hai.
Ngoài ra, xem chuyện kiếp trước của người ta thì lại càng cực kì chuẩn. Có một người phụ nữ hỏi về tiền kiếp. Hoạt Phật đáp: ”Nói thẳng có được không?” Người phụ nữ nói: ”Có thể nói thẳng.” Hoạt Phật trả lời: ”Kiếp trước là con khỉ.” Người phụ nữ hơi bực: ”Làm sao có thể chắc chắn?” Hoạt Phật nói: ”Đầu mút xương cột sống của cô còn để lại một mẩu nhỏ cái đuôi con khỉ ở bên ngoài, không chỉ như vậy, nó còn mọc lông nữa! Ngoài ra, cô đặc biệt thích ăn lạc, và tính cách của con khỉ vẫn không đổi, tính khí hấp tấp nóng nảy.”
Người phụ nữ đó nét mặt hơi giận hờn bỏ đi, lén lút nói với người khác rằng nói chuẩn cực kì, đuôi xương cột sống của cô thừa ra một đoạn, kì lạ nhất là ngay cả việc mọc ra một ít lông mà ông ấy cũng biết. Thứ mà bản thân cô thích ăn nhất đúng là lạc, và hàng ngày cô đều nhảy điệu “chó ngã chết”, ai nhìn thấy cũng nói là cực kì giống con khỉ.
Linh thể của Liên Sinh Hoạt Phật là quang minh vô ngại, có thể nói là đầy khắp lục hợp [trên dưới và bốn phương, vũ trụ, thiên hạ], pháp thân không chỗ nào là không tồn tại, đây không chỉ là công phu hóa thân bên ngoài thân, mấy triệu đệ tử hiện tại chỉ cần trì tụng tâm chú của ngài là có thể “thấy Hoạt Phật trong thiền định”, “thấy Hoạt Phật trong mơ”, thậm chí ngài còn xuất hiện trong hư không đầy sống động nữa.
Có một đệ tử bản thân là nhà khoa học, sau khi anh ấy thông điện cho thiết bị điện tử của máy chân không dụng cụ vi ba, anh trì tụng tâm chú Liên Hoa Đồng Tử, triệu thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tiến vào trong thiết bị đã được bịt kín, kết quả là mới trì tụng tâm chú được ba phút thì máy đo điện tử đã hiện ra năng lượng kì diệu, thể hiện trên máy đo. (Đây là kì tích của giới khoa học.)
Thần toán của Liên Sinh Hoạt Phật có khi căn bản là không cần bấm ngón tay để suy đoán, lập tức một hỏi một đáp cực kì nhanh chóng. Hỏi việc cho một người thì thường xuyên chỉ một, hai phút là đã kết thúc rồi. Khả năng kì diệu như vậy khiến người ta phải thốt lên đầy kinh ngạc. ”Vì sao không cần bấm ngón tay?” Đáp: ”Mắt Phật như điện.” ”Không cần phải đi điều tra sao?” ”Giữa trời đất đều là thời cơ.”
Về phương diện này, Liên Sinh Hoạt Phật nói với mọi người, bất kì sự việc gì trong trời đất, trên thân của mỗi người đều đã có kí hiệu rồi, một người thần toán chỉ cần nhìn ra kí hiệu đó là có thể giải đáp được vấn đề. Pháp thần toán hỏi việc có cơ mật vô cùng, năng lực của pháp này có cao có thấp, có hữu hình, có vô hình, là việc bất khả tư nghì, có một số phương pháp cũng là không truyền đến “sáu tai” [chỉ có hai người - người nói và người nghe biết], có tính cực kì bí mật.
Tôi cho rằng mấu chốt của thần toán vẫn nằm ở hai chữ “thông linh”. Mức độ nông sâu của công lực thông linh tự nhiên sẽ hình thành nên sự linh nghiệm lớn và linh nghiệm nhỏ. Trên phương diện này có rất nhiều nhân tố, bởi vì trong linh giới, nói ví dụ về Thần Tiên, có phân làm chín phẩm:
Nhất phẩm — Cửu Thiên Chân Đế. Nhị phẩm — Tam Thiên Chân Đế. Tam phẩm — Thái Thượng Chân Nhân. Tứ phẩm — Phi Thiên Chân Nhân. Ngũ phẩm — Linh Tiên. Lục phẩm — Chân Nhân. Thất phẩm — Linh Nhân. Bát phẩm — Phi Tiên. Cửu Phẩm — Tiên Nhân.
Nói cách khác là, việc tu hành của hành giả hoàn toàn phải xem công lực của bản thân có thể triệu thỉnh được Thần Tiên phẩm nào đến, càng là Thần Tiên thượng phẩm thì đương nhiên là càng linh nghiệm, Thần Tiên hạ phẩm thì kém hơn một chút. Tuy nhiên thế nhân ngày nay, không nhiều người thật sự có năng lực tu hành, tính tình trầm lặng, tâm linh trong sáng, thuận theo tự nhiên, trong vạn người khó tìm thấy một người.
Cho nên, cái gọi là “thông linh” ngày nay thì rất nhiều người không thật sự có thể triệu thỉnh được Thần Tiên thượng phẩm, e rằng ngay cả Thần Tiên hạ phẩm cũng khó mà thỉnh đến được, triệu thỉnh đến được đa phần vẫn chỉ là “linh quỷ” [hồn ma], theo như tôi biết thì là: 1. Ma địa lí. 2. Ma thiện. 3. Ma trẻ con. (Ba loại này là phổ biến.)
Cho dù là người đã học qua pháp thỉnh Tiên của Đạo giáo chính thống, hiểu lễ nghi thỉnh Tiên, khai đàn triệu đẩu, chúc phù sử chú, hàng Thần hàng Tiên, nhưng Thần Tiên đến thì ít, ngược lại chỉ có linh quỷ là nhiều. Trong khói hương nghi ngút, kẻ hưởng thụ nghìn đời chính là đám linh quỷ mà thôi.
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, điều kiện hàng đầu của thông linh vẫn nằm ở bản thân hành giả, nằm ở sự chính tâm thành ý của hành giả. Còn có căn khí tiền kiếp (từ kiếp trước mang đến kiếp này đủ loại công lực tu hành). Đời này cầu được “chính pháp” (công lực tu hành dựa theo chính pháp). Tất cả những điều này hợp lại chính là lực yết ma của tự thân.
Sức mạnh ở đây có thể phân thành: 1. Sức mạnh yết ma của tự thân. 2. Sức mạnh gia trì của Thượng sư. 3. Sức mạnh tôn lên của pháp giới. 4. Sức mạnh tương ứng của Bổn tôn. 5. Sức mạnh trợ giúp của Hộ pháp. Có như vậy mới thần toán một cách viên mãn.
Trong chương trước của cuốn sách này, tôi thường xuyên nhắc đến tầm quan trọng của Hộ pháp, kì thực Hộ pháp thật sự rất quan trọng, một hành giả Kim cương thừa luôn luôn có sức mạnh trợ giúp của Hộ pháp, Bổn tôn cũng bị làm cho cảm động thì pháp giới tự nhiên sẽ tôn lên.
Bản thân thần toán chính là sự tổng hợp của những sức mạnh này. Khi hành giả Mật giáo định tâm vào một niệm, mọi lực tổng hợp, đáp án linh ứng sinh ra chính là thần toán.
Nói về bấm ngón tay thần toán thì: 1. Hành giả xòe bàn tay ra, lòng bàn tay hướng về hư không. 2. Định tâm vào một niệm. 3. Linh trong hư không sẽ giáng xuống. 4. Các đầu ngón tay của hành giả tự động co duỗi. 5. Hành giả từ ý nghĩa của sự co duỗi ấy mà hiểu được linh ý. 6. Cát tường viên mãn.
Thần toán này là sự dung hợp nhất trí của mọi lực, thần toán là do trời tính toán, hành giả phải có tín tâm này, hành giả không thể là kẻ ích kỉ chỉ nghĩ cho bản thân mà phải là người có bồ đề tâm lớn, có đại pháp căn khí của việc thành Phật, thắng pháp vô thượng du già mà họ tu là chính pháp của Phật thì tất cả Hộ pháp nhất định sẽ đến ủng hộ, điều này có thể lí giải được.
Trước khi thần toán cũng nên có tiền hành và hậu hành, nói về tiền hành thì phải triệu thỉnh, phải lễ bái, phải cúng dường,… Nói về hậu hành thì phải phát nguyện, phải hồi hướng, đây là những lễ nghi cần có. Phát nguyện của thần toán là: Nguyện tất cả chúng sinh hữu tình được cát tường an lạc. Nguyện tất cả chúng sinh hữu tình thoát khỏi tai nạn vướng víu. Nguyện tất cả chúng sinh hữu tình quy y tu hành chính pháp. Nguyện tất cả chúng sinh hữu tình rời xa hận thù.
21. Yếu nghĩa bốn đại quán đảnh của Mật giáo
Yếu nghĩa bốn đại quán đảnh của Mật giáo
Tôi giải thích “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, khi giảng đến quyển 12, phẩm thứ 8, “Tự nhập đàn thành nhận quán đảnh, sau đó thứ tự cho đệ tử nhập đàn” có bài kệ như sau:
Thánh giả vào nơi nội quán đảnh Trên thân chư Phật mandala Như lí tu hành được hoan hỉ Thứ tự nghi quỹ như giải thích.
Quán đảnh Mật giáo có yếu nghĩa đặc thù, yếu nghĩa quan trọng nhất là: “Quán đảnh là Thượng sư kim cương trì đem đến cho đệ tử sự ban ơn của tổng thể tự tính của Ngũ Phương Phật.” Ở đây có ba yếu nghĩa lớn: 1. Cho phép. 2. Bảo chứng. 3. Chứng lượng.
Trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” quyển 13, phẩm thứ 9, “Hiểu thứ tự nghi quỹ quán đảnh bình”, đã giải thích về sơ quán, phạm vi của sơ quán như sau: 1. Bình — Bất Động Phật (A Súc Như Lai). 2. Quán [mũ miện] — Bảo Sinh Như Lai. 3. Chày — A Di Đà Như Lai. 4. Chuông — Bất Không Thành Tựu Như Lai. 5. Danh — Tì Lô Giá Na Như Lai. (Ngũ Phật trang nghiêm đỉnh, trên đỉnh đầu là A Súc Như Lai, trên tai phải là Bảo Sinh Như Lai, trên tai trái là Bất Không Thành Tựu Như Lai, sau đầu là A Di Đà Như Lai, trên trán là Tì Lô Giá Na Như Lai.)
5 quán đảnh này chính là mang ý nghĩa năm trí huệ lớn của Như Lai. 5 quán đảnh này liệt kê ra như sau: Quán đảnh bình — A Súc Như Lai — đại viên kính trí — tiêu trừ sân. Quán đảnh quán — Bảo Sinh Như Lai — bình đẳng tính trí — tiêu trừ mạn. Quán đảnh chày — A Di Đà Như Lai — diệu quan sát trí — tiêu trừ tham. Quán đảnh chuông — Bất Không Thành Tựu Như Lai — thành sở tác trí — tiêu trừ nghi. Quán đảnh danh — Tì Lô Giá Na Như Lai — pháp giới thể tính trí — tiêu trừ si.
Tôi cho rằng trong phạm vi của sơ quán còn bao gồm quán đảnh Acharya (quản đảnh bất thối), các loại quán đảnh chư tôn, quán đảnh pháp Thượng sư tương ứng. Quán đảnh ấn samaya. Quán đảnh tam samaya. Quán đảnh chân ngôn. Quán đảnh mắt. Quán đảnh gương. Quán đảnh hoa. Quán đảnh mũi tên. ….
Quán đảnh trong sơ quán nặng về sự thanh tịnh của thân, khẩu, ý, cũng là ngoại quán đảnh. Khi tôi giải thích đến phẩm thứ 10 phần một “Hiểu thượng tam quán đảnh rồi thì theo đó tạo ra nghi quỹ tu hành” rồi đi vào phạm vi của nhị quán. Quán đảnh nhị quán nặng về khí, mạch, minh điểm trong thân, cũng chính là khai phá năm luân xa trong thân. Vật quán đảnh của nhị quán, vào thời xưa, thì là vật bí mật của bồ đề tâm của Thượng sư và minh phi song vận đặt vào trong miệng của đệ tử. Nhị quán của con người thời nay thì dùng cánh hoa trắng đỏ, tượng trưng cho vật bí mật của Phật phụ Phật mẫu.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) cho rằng trong pháp của nhị quán, phải tu tập khí, mạch, minh điểm, chuyết hỏa, kim cang quyền… Trong đó có ba đại pháp nhất định phải luyện thành: 1. Pháp chuyết hỏa. 2. Pháp minh điểm. 3. Pháp vô lậu.
Nội pháp của nhị quán trọng điểm nằm tại cách mở trung mạch và năm luân xa: Mi tâm luân — mạch phiền não về tham. Hầu luân — mạch phiền não về sân. Tâm luân — mạch phiền não về si. Tề luân — mạch phiền não về mạn. Mật luân — mạch phiền não về nghi.
Bài kệ của nhị quán là:
Cúng minh phi thỉnh bạch. Sinh đệ tử Di Đà. Sư trưởng và Phật Mẫu. Nhị mật vật quán đảnh.
Khi tôi giải thích đến phần “Hiểu trí huệ của quán đảnh thứ ba” trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, tôi tự biết quán đảnh thứ ba chính là nhận một khâu chủ yếu nhất mà người ngoài bình thường phê phán về Mật tông. Mật giáo có Vô thượng mật bộ, cũng chính là một đặc sắc lớn của Mật giáo.
Nội hàm của song vận là bề ngoài như phàm phu, nhưng nội tại thì có đầy đủ định lực và thắng quán. Về mặt lí thuyết thì là kích phát bồ đề tâm nguyệt dịch hạ xuống, hòa cùng với chuyết hỏa. Đắc tam ma địa đại định, từ định kiến đạo. (Sắc-Không không hai, Lạc-Không không hai) Về mặt sự pháp (kĩ xảo thực tu), bao gồm giáng-đề-trì-tán, bao gồm “sáu thế biến”, bao gồm “chín thức minh phi”, “sắc thanh hương vị xúc”, “quán tứ hỉ”, v.v…
Yếu nghĩa của quán đảnh thứ ba là dựa vào đại lạc trí và chân không thể ấn trì lẫn nhau, do đó trong trí huệ của quán đảnh thứ ba có hai phần, một là phần chứng Không, hai là phần an lạc, cũng tức là cụ sinh hỉ sản sinh cụ sinh trí.
Thực tu song vận của Mật giáo tam quán sẽ được lợi lớn, có ba lợi ích lớn: 1. Bồ đề tâm nguyệt dịch hạ xuống. 2. Khí phương tiện chuyển thành khí trí huệ. 3. Mở trung mạch, mở năm luân xa.
Tuy nhiên, pháp này không phải là ai ai cũng có thể tu, có được cơ sở của nhị quán rồi, chứng vô lậu, xuất chuyết hỏa, vận minh điểm, sáng tỏ tính Không, được Kim cương Thượng sư chân chính khẩu truyền chỉ điểm mới có thể tu. Tu pháp này nếu có sai lầm lệch lạc thì sẽ xuống địa ngục kim cang!
Nghi quỹ quán đảnh của pháp này, vào thời cổ đại, minh phi lấy hoa đỏ có hương thơm tuyệt vời để bôi lên người, lõa thể ở dưới nước chỉ thị cho đệ tử rằng: “Diệu liên hoa hiếm có, có tất cả an lạc, nếu làm đúng như pháp, ta thường ở trước người, thân cận với chư Phật, như làm việc hoa sen, tự tại đại lạc vương, mãi trụ trong cảnh ấy, pân cha mu zha hưa!” Gia trì cho kim cang và hoa sen. Đây là quán đảnh tiếp xúc.
Còn vào thời hiện đại, quán đảnh thứ ba vẫn được thay đổi thành dùng quán đảnh hình thức tượng trưng, tức là Căn bản Thượng sư cầm bút, gia trì cho kim cang và hoa sen. Trong quán đảnh thứ ba, sự truyền dạy về tứ hỉ là cực kì quan trọng: Từ đỉnh đầu đến họng — hỉ — lạc thụ ít. Từ họng đến tim — thắng hỉ — lạc thụ nhiều. Từ tim đến rốn — li hỉ — lạc thụ không phân biệt. Từ rốn đến mật — cụ sinh hỉ — Không-Lạc đều tan đi. (Do cụ sinh hỉ sản sinh cụ sinh trí mà làm thành quán đảnh thứ ba.)
Quán đảnh thứ tư của Mật giáo, tôi cho rằng là quán đảnh thắng nghĩa, cũng chính là quán đảnh tính Không (Phật tính). ”Thành tựu vô ngại chân thực nhất thiết chư pháp bất tư nghì tính, cụ túc thất chi đại ấn đại kim cương trì tự tính, gọi là quán đảnh thứ tư.”
Từ cụ sinh trí sinh ra từ quán đảnh thứ ba, là sự nảy sinh của một dạng trẻ nhỏ mầm non, trải qua tu tập mà chuyển thành tăng trưởng, tất cả chướng ngại toàn bộ đều trừ hết, trí huệ hiểu rõ pháp giới không phân biệt, hiện lên thất chi đại ấn sẵn có, chính là quán đảnh thứ tư.
Nghi quỹ của quán đảnh thứ tư như thế nào? Các thuyết xưa nay đều khác nhau, ví dụ có bài kệ nói rằng:
Nó như nó chính là Tự tan vào chính nó Như ngươi trực nhận nó Ta trao truyền quán đảnh
Vì thế tôi cho rằng, bề ngoài biểu hiện là quán đảnh thứ tư, nhưng chỉ có dùng trí huệ vô thượng để biểu thị. Có tổ sư nói, phân biệt quán đảnh thứ ba và quán đảnh thứ tư là: Quán đảnh thứ ba là “trụ trong lạc mani”. Quán đảnh thứ tư là “xuất bồ đề tâm”. Còn nói: ”Chuyên tu tính Không đại ấn là quán đảnh thứ tư.”
Đại ấn thất chi của Phật tính: “Mãn báo, kết hợp, đại lạc, vô tính, bi mãn, bất đoạn, và vô diệt, khen người có đủ thất chi đã tu thành Phật quả. Nếu không được như vậy thì người tu được chính lượng trí huệ thanh tịnh cũng đáng khen ngợi rồi.
Mãn báo — viên mãn báo thân, tức là thân mang tướng tốt trang nghiêm. Kết hợp — thiên về tất cả sự hoan hỉ của thân, trở thành tất cả hữu tình, gọi là kết hợp. Đại lạc và vô tính — thân lạc là lạc, tâm lạc là hỉ, rộng nhất, vô lậu, thù thắng và vi diệu đến tận ranh giới tương lai, là lạc vô tính. Bi mãn — đại từ đại bi viên mãn. Bất đoạn — có đầy đủ các công đức kể trên, mãi mãi duy trì được tướng ấy (thân thọ dụng). Phật tính — không minh. Thất chi này là đạo vô thượng cần tu, thứ tự của tứ không là thắng nghĩa quang minh, người đạt đến cảnh giới như vậy tức là quả vị tuyệt diệu của quán đảnh thứ tư.
22. Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật đích thân truyền Đại Uy Đức Kim Cang bất cộng pháp (1)
Trước khi thuyết pháp, đầu tiên, tôi cầu thỉnh Chân Phật Tông Hồng giáo truyền thừa tổ sư Liễu Minh Hòa Thượng, và các vị tổ sư nhiều đời gia trì cho việc truyền pháp viên mãn. Tiếp theo, cầu thỉnh tổ sư Hoàng giáo Thubten Dhargye và các vị tổ sư nhiều đời gia trì viên mãn. Tiếp theo, cầu thỉnh tổ sư Bạch giáo Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 và các tổ sư Bạch giáo nhiều đời gia trì truyền pháp viên mãn. Cầu thỉnh tổ sư Hoa giáo Sakya Chứng Không Thượng sư và các tổ sư Hoa giáo nhiều đời gia trì viên mãn.
Pháp mà tôi muốn truyền trong buổi tối hôm nay là pháp Đại Uy Đức Kim Cang, những gì tôi nói đến đều là khẩu quyết quan trọng, y theo những khẩu quyết này mà tu thì sẽ rất viên mãn, hơn nữa còn đắc thành tựu. Nhưng khi bạn tu hành, có rất nhiều chướng ngại, thậm chí có một số người không thích hợp tu pháp này, cho nên tôi cần phải giảng giải rõ ràng với mọi người.
Pháp này là một đại pháp rất cao cấp, đặc biệt là với vị phẫn nộ, bình thường chúng ta tu pháp gì cũng không cần lo lắng căng thẳng, đại khái phần lớn đều sẽ không có chướng ngại gì cả, nhưng đối với các vị phẫn nộ mà nói, ngài sẽ xuất hiện rất nhiều chướng ngại, cho nên tôi phải đặc biệt tuyên bố với mọi người.
Buổi sáng hôm nay tôi đã nói qua với mọi người rồi, pháp này muốn truyền cũng không dễ, cũng là pháp rất tôn quý, tôi hi vọng mọi người đều có thể học được và nghe được pháp rất tốt như thế này.
Pháp mà các bạn cầu quán đảnh lần này là rất khó có được. Trước kia khi tôi đi cầu pháp này, tổ sư nói với tôi rằng pháp này là pháp lớn, tôi hỏi thầy là cái gì lớn. Thầy nói rằng, cái gọi là đại pháp chính là phải lớn. Thầy không nói cái gì lớn. Hôm nay tôi quán đảnh cho mọi người pháp Đại Uy Đức Kim Cang, tôi biết rằng hồng bao mà tôi chia cho mọi người không phải là rất lớn, đều là hồng bao nhỏ thôi. Sư Tôn trước kia đi cầu pháp này đã cúng dường toàn bộ tiền lương mấy tháng của mình. Cúng dường của Sư Tôn chẳng thể nói là một nghìn đô la Mĩ, hay hai nghìn đô la đâu, đó chỉ là small potato chips, nghĩa là miếng khoai tây rất nhỏ. Mỗi lần Sư Tôn cúng dường sư phụ của mình nhất định là phải trên mười nghìn đô la, chứ không nói tiền nghìn, nhưng cũng không tính là gì cả.
Giống buổi tối hôm nay, có mấy nghìn đệ tử đến nghe pháp, tôi quán đảnh một lúc là có thể mua được một ngôi nhà tầng rồi. Trên thực tế, trước kia tôi từng nói, vì pháp này là tôn quý nhất, vốn dĩ là vô giá, không dễ mà nghe được pháp này, rất ít người truyền, bộ phận khẩu quyết rất quan trọng. Những người vì tôn trọng pháp này mà buổi tối hôm nay đến nghe, đến nhận quán đảnh sẽ có phúc phần lớn nhất. Vì tôn trọng pháp này, quán đảnh của buổi tối hôm nay tôi không ra giá, quán đảnh tùy ý (mọi người nhiệt liệt vỗ tay).
Thế nhưng sau buổi tối hôm nay nếu có người đến cầu quán đảnh, thì nếu là Thượng sư, tôi ra giá là 50 nghìn đô la Mĩ, nếu là pháp sư đến xin quán đảnh sẽ là 30 nghìn đô la Mĩ. Nếu là đệ tử bình thường, là hành giả Mật giáo đến cầu quán đảnh sẽ là 10 nghìn đô la Mĩ. Trừ phi bạn ghi ra lí do chính đáng đưa cho tôi xem, vì sao không đến tham gia pháp hội, nếu có lí do thì sẽ tùy ý, nếu không có lí do thì đó là bạn không đến, tôi muốn dùng giá tiền để hạn chế, mọi người đã nghe rồi đó, sau này truyền pháp sẽ là như vậy. Bạn không đến, sau này đến xin quán đảnh, là Thượng sư thì 50 nghìn, pháp sư thì 30 nghìn, hành giả thì 10 nghìn là được.
Pháp này rất khó có được, khẩu quyết trong đó là cực kì nhiều, cho nên cần phải giảng chi tiết một chút. Phần quán tưởng ở đây cực kì phức tạp, trên phương diện quán tưởng, các bạn học tập càng tỉ mỉ càng tốt, phải chú ý nhiều đến toàn bộ kim thân của ngài, những hình tướng trên thangka của ngài, toàn bộ đều phải in vào trong não bạn, thế thì sẽ có lợi cho quán tưởng của chính bạn, điều này rất quan trọng.
Hiện nay, ở Tây Tạng, tên của Đại Uy Đức Kim Cang là Jikjé Dorje [Vajrabhairava, âm Hán là Cát Kiệt Đa Kiệt]. Dorje có ý nghĩa là Kim Cang. Cũng có cách nói là hóa thân của A Di Đà Phật, bởi vì Ngũ Phương Phật hóa thân thành Ngũ Đại Kim Cang, trong Tạng mật là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nguyên nhân là: căn cứ theo truyền thuyết lịch sử Tây Tạng, khi xưa, Diêm Ma La - khi ấy có Ma Vương thân người đầu trâu có sừng, xuất hiện, đã hại rất nhiều người, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đáp ứng lời thỉnh cầu của người Tạng mà hiện tướng đại uy đức, cũng là đầu trâu thân người, đến hàng phục Diêm Ma La này. Về sau, người Tạng rất tôn sùng Đại Uy Đức Kim Cang. Đây là lai lịch của ngài, vì thế gọi là Hàng Diêm Ma Tôn.
Bởi vì thân mà bản thân Đại Uy Đức Kim Cang hóa ra cực kì có sức mạnh, ngài thuộc về phong luân chuyển hóa mà thành, trong ngũ luân: đất nước lửa gió không, văn tự tiếng Tạng viết bên dưới là:
Bên trên là:
Chữ này:
thì đọc là yam, chữ “yam” trong tam tự minh “Ram Yam Kham”. [tiếng Trung đọc là Rang Yang Kang]
Điều cấm kị đầu tiên của pháp này, loại người nào không thể tu? Tôi nói để mọi người biết, tên người nào có âm hợp với âm “yam” này thì không thể tu, ví dụ họ Dương [âm tiếng Trung là Yang] thì xin lỗi, người họ Dương có thể nhận quán đảnh, nhận quán đảnh thì không có vấn đề gì, có thể nghe pháp, nhưng không được tu pháp này, tu thì sẽ chết chắc, cho nên pháp này có rất nhiều cấm kị. Có rất nhiều đệ tử nghe tôi nói thế thì kêu ôi chao, hỏng bét, trong mười hai con giáp thì tôi tuổi Dê [dê tiếng Trung là dương, cũng đọc là yang]. Mười hai con giáp thì không liên quan, cái này chủ yếu là tóm lấy cái âm đó, bởi vì bạn họ Dương, nhưng ngài là từ chữ “Yam” sinh ra. Bạn biết xung phạm Thái Tuế, năm nay là năm gì thì bạn sẽ xung năm đó. Bây giờ ngài sinh ra từ chữ Yam, người có họ Dương không được tu, tu rồi sẽ rất nguy hiểm, người đó sẽ chết. Cho nên tôi nói bạn không tu thì không có chuyện gì, tu rồi thì phải đến hỏi việc đấy.
Ngoài ra có một loại người rất đặc biệt, mang họ Dương, nhưng công lực tu hành của bạn đã rất đủ rồi, bạn là hành giả thâm mật, nói trong Mật giáo tức là bạn đã chứng đắc cảnh giới rất cao rồi, thì người này là ngoại lệ. Bản thân bạn cho rằng cảnh giới rất cao rất sâu, công phu đủ rồi, có thể chống lại được sự xung sát của ngài, thì bạn có thể tu. Ví dụ có nhiều người thấy không phục, tôi họ Dương, tôi muốn tu thử xem, vậy thì không có liên quan gì đến tôi nhé.
Bởi vì bạn cho rằng công lực của mình rất sâu rồi, tự mình nghĩ có thể vượt qua được sự xung sát này, giả như bạn thật sự rất muốn tu, có thể ở trước mặt Đại Uy Đức Kim Cang cầu nguyện ngài, sau đó bạn dùng pháp Thụy mộng [ngủ mơ], xem thử xem ngài chỉ thị cho bạn có thể hay không thể tu. Ngài cho bạn chỉ thị là rất cát tường thì bạn có thể tu, cho bạn chỉ thị là không cát tường thì bạn không thể tu. Điểm này là một điều cấm kị đó!
Có đệ tử chạy đến hỏi Sư Tôn là bị bệnh ngoài da có thể tu không? Tôi nói anh có bệnh ngoài da thì có liên quan gì đến pháp này? Anh ta nói da của tôi rất ngứa [từ “ngứa” trong tiếng Trung cũng có cách đọc là yang], không biết là cái bệnh ngứa do nấm kẽ chân này có được tu hay không. Rất nhiều người mắc bệnh nấm kẽ chân, chữ “ngứa” và chữ “dương” có âm giống nhau, vậy thì có được tu không? Tôi nói với mọi người là không có liên quan gì cả, ngứa da không sao cả, có thể tu, có thể quán đảnh, có thể nghe pháp. Nhưng người họ Dương thì không thể tu, đây là cấm kị của Đại Uy Đức Kim Cang, bởi vì cái âm “Yam” trong “Ram Yam Kham” này đồng âm với chữ Dương, cho nên mới không thể tu.
Người phạm giới cũng không thể tu, điều này rất nghiêm trọng, điều liên quan đến giới luật tương đối nặng. Về bản thân mà nói, bạn phải kiểm điểm kĩ lưỡng chính mình. Thứ nhất, bạn có trộm cắp không? Bạn có tà dâm không? Bạn có ác khẩu không? Chà! Ác khẩu, xong rồi, bạn có uống rượu không? Phạm ngũ giới rồi thì không thể tu.
Bạn tu pháp Đại Uy Đức Kim Cang thì nhất định phải giữ nghiêm giới luật, cho nên Sư Tôn đã rất lâu rồi không uống rượu, thậm chí còn cai rượu luôn, không phải là tôi tự mình cai, mà là Phật Bồ Tát cấm tôi, tôi rất thích uống, nhưng không được uống. Ví dụ như thứ bảy trở về biệt thự Cầu Vồng, trước kia pháp sư Hiểu Quang có biết đấy, ông ấy luôn chuẩn bị cho tôi một chén rượu, buổi tối tôi đều phải uống một chén nhỏ. Ấy thế mà tôi lại phải bỏ rượu! Rượu ở đó giương mắt lên, nó nhìn tôi, tôi nhìn nó, nhưng thật sự là tôi không uống đâu! Chỉ là nhấm môi một tí mà thôi, thật sự là không uống, pháp sư Hiểu Quang có thể làm chứng, thật sự không uống rượu, kể cả tùy ý cũng không.
Không ác khẩu, nhớ đấy, người phạm khẩu nghiệp cũng không được. Không tà dâm cũng rất khó. Không trộm cắp, đôi khi bạn cho rằng lấy một chút chút không vấn đề gì, nhưng đó cũng là trộm cắp. Đúng thế không? Lần trước Sư Tôn ở đây hát một bài hát, thế rồi hoa ở trước mặt Phật Bồ Tát, mọi người ra sức nhổ hoa, hoa ở Lôi Tạng Tự đều bị lấy hết để cúng dường Sư Tôn, đó là hoa cúng Phật đó, bạn phạm giới trộm cắp rồi. Không được! Nhà của Thượng sư Liên Đặng xung quanh có trồng rất nhiều hoa, như người ta làm Hộ Ma, nghĩ là đến SAFEWAY để mua hoa, nhưng vì đi đến cửa nhà này thì nhìn thấy hoa ở đấy rất đẹp, buổi tối hôm đó liền lấy dùng trước để làm Hộ Ma cũng được. Kết quả là hoa xung quanh nhà Thượng sư Liên Đặng bị hái “xoẹt, xoẹt, xoẹt” mang đi làm Hộ Ma, phạm tội trộm cắp rồi, không thể tu. Không sát sinh tức là những sinh vật sống bạn đều không thể làm hại chúng, giết chúng. Người không phạm ngũ giới có thể tu, người đã phạm ngũ giới thì đều không thể tu. Vậy phải làm sao đây? Phải hướng về Kim Cang Tát Đỏa cầu sám hối, niệm 21 biến Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chú, niệm xong cầu sám hối cho đến khi xuất hiện tướng sám hối cát tường rất tốt thì bạn mới được xem là có thể tu, bằng không thì không được tu.
Người muốn tu pháp này, nếu lòng dạ hẹp hòi cũng không thể tu, có nhiều người rất nhỏ mọn, tôi biết, Sư Tôn thật ra cũng rất tiết kiệm, nhưng có lúc tôi cũng rất phóng khoáng, ví dụ như tôi cúng dường sư phụ của mình, tôi phải “nén nỗi đau” đó (cười), cũng phải rất rộng rãi, đúng không? Bạn không thể chỉ nói là cúng dường một cách đau khổ, mà phải cúng dường bằng thân khẩu ý, tức là phải toàn tâm toàn ý cúng dường và bố thí.
Còn có một điều mà tôi rất phóng khoáng nữa. Còn nhớ trước kia lúc tôi còn trẻ, chứ không phải là bây giờ, hễ nhìn thấy con gái khóc là tôi lại cảm thấy rất tội nghiệp, nước mắt của con gái đúng là vũ khí đó. Tôi vốn dĩ rất hẹp hòi, đột nhiên trở nên rộng rãi, cho cô ấy tiền và giúp cô ấy. Thế còn nam sinh mà chảy nước mắt thì tôi cảm thấy, chà, làm cái trò gì vậy, chẳng ra dáng đàn ông chút nào, đàn ông mà chảy nước mắt thì chẳng hay lắm, nữ sinh chảy nước mắt thì là vũ khí, rất lợi hại đó, đừng để bị mắc lừa! (cười). Cho nên tôi rất hào phóng, chỉ có hai điều hào phóng này thôi.
Bây giờ tôi nói với mọi người, cần bố thí, phải hiểu bố thí đó! Bởi vì tiền tài là vật ngoài thân, tất cả những thứ hữu hình đều phải quy về không, một khi bản thân bạn đã đầy đủ rồi thì những thứ khác bạn đều có thể cho người ta, bạn đều có thể bố thí, thậm chí vật trên người cũng có thể bố thí! Chỉ cần có hai thứ thì tôi đều có thể cho người ta, đây chính là một dạng bố thí. Ngoài ra, bạn muốn tu pháp này thì phải có phẩm tính thượng đẳng, bạn không có phẩm tính thượng đẳng thì làm sao tu đây? Nhất định phải như thế, hơn nữa còn phải giữ giới samaya, điểm này là quan trọng nhất.
Giới samaya chính là mối quan hệ giữa ba bên - Phật, Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp và Căn bản Thượng sư và bạn, gọi là samaya, đều là sự trói buộc lẫn nhau, có lời thề. Con người hiện đại hầu như là không tuân thủ giới samaya gì cả. Chỉ cần bản thân vui là được, bản thân cảm thấy tốt là được, họ không hiểu thế nào là giữ lời thề, nhưng Mật giáo đặc biệt coi trọng giới samaya. Lời thề giữa ba bên - Thượng sư và Phật, Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp và hành giả, bạn không thể phá bỏ. Lại còn có một số người quản cả trên đầu Sư Tôn nữa, tôi nói anh coi tôi là Thượng sư là được rồi, bởi vì tôi không bằng anh thì anh quản cả tôi à, đúng không nhỉ?
Cho nên điều này là không được, bạn quy y rồi, bạn nói thân khẩu ý cúng dường, khẩu của bạn phải tán dương, thân thể của bạn phải cúng cho Thượng sư sai khiến, về ý niệm bạn phải cung kính Căn bản Thượng sư, trong giới samaya là như thế, bạn đối với Phật Bồ Tát cũng như thế, cho nên phải tuân thủ 50 quy tắc ứng xử giữa thầy và trò, phải hiểu quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, quy y Kim cương Thượng sư, phải hiểu giới samaya. Bạn đã thọ Bồ Tát giới chưa? Bạn đã thọ Bồ Tát giới rồi, Thượng sư này thuyết pháp hoặc là Kim cương Thượng sư đến thuyết pháp, bạn đã thọ Bồ Tát giới rồi thì nội trong vòng 50 dặm, bạn đều phải đi nghe pháp, bạn mà không đi là bạn phạm giới, những giới này đều rất quan trọng, trong đó có những lời thề bạn đều phải giữ. Ngoài ra, phải cung kính Căn bản Thượng sư, bởi vì Căn bản Thượng sư là tổng trì của tất cả Phật, pháp, tăng.
Còn nhớ một truyền thuyết về Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Liên Sư hóa thành hai hóa thân, một là Phổ Ba Kim Cang là thể ánh sáng, một là chính bản thân ngài, cả hai vị cùng bước lên trước, rất nhiều đệ tử của Liên Sư đã nhìn thấy, chà! Phổ Ba Kim Cang rất uy vũ, rất trang nghiêm, rất uy mãnh, thế nên họ liền hỏi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là Phổ Ba Kim Cang này lai lịch thế nào. Liên Sư liền nói, ngài rất vĩ đại, rất tôn quý, tôn quý giống như Phật. Thế là các đệ tử của Liên Sư đều hướng về Phổ Ba Kim Cang đảnh lễ, chỉ có một người không hướng về Phổ Ba Kim Cang đảnh lễ, người này chính là minh phi của Liên Sư, chính là Phật Mẫu Yeshe Tsogyal, ngài không đảnh lễ Phổ Ba Kim Cang mà lại đảnh lễ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Đảnh lễ xong thì Phổ Ba Kim Cang này liền hóa thành ánh sáng màu xanh lam, đi vào bên trong thân thể của Liên Sư, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ liền hóa thành Phổ Ba Kim Cang, cho nên ở đây có một điều kiện, bạn nhất định phải cung kính Căn bản Thượng sư người truyền pháp cho bạn mà bạn đã quy y. Cho nên ở đây, tất cả đệ tử của Liên Sư đều không có được gia trì của Phổ Ba Kim Cang, chỉ có một mình Phật Mẫu Yeshe Tsogyal là có được gia trì của Phổ Ba Kim Cang.
Sau này thì sao? Sư Tôn đưa đến một vị Phật rất tôn quý. A! Đa Bảo Như Lai ở bên cạnh Sư Tôn, đứng ở bên tay phải của Sư Tôn đây, thế còn bên trái thì thỉnh A Súc Như Lai đến, ngài đứng ở bên trái của Sư Tôn đây. Thế rồi Sư Tôn còn lùi về phía sau. Vậy thì các bạn nhìn thấy. Ôi chao! Là Đa Bảo Như Lai, là A Súc Như Lai, chà! Người bên trái thì bán mạng rập đầu cúi lạy Đa Bảo Như Lai, người bên phải thì bán mạng rập đầu cúi lạy A Súc Như Lai, còn Sư Tôn đứng ở đó thì không có ai rập đầu cúi lạy cả (cười). Một lúc sau thì hồng bao đều đưa cho các vị, mọi người bán mạng cúng dường hai vị Như Lai, là Như Lai mà, là Phật mà, đúng thế không? Rất khó mọi người mới gặp được Phật, hôm nay có Phật đến, đúng là Như Lai với 32 tướng rất trang nghiêm rồi, kim thân kim sắc đó, có treo lên cũng đẹp hơn tôi, mọi người bán mạng rập đầu cúi lạy, dâng cúng dường, Sư Tôn ở đó, chà! Không có ai rập đầu, cũng không có ai cúng dường, chà! Lần này thì túi rỗng không rồi! (cười) Không đúng đâu, bạn có thể rập đầu với Đa Bảo Như Lai, có thể rập đầu với A Súc Như Lai, nhưng phải lễ bái Căn bản Thượng sư của mình trước đã, rồi sau đó mới lễ bái Đa Bảo Như Lai, lễ bái A Súc Như Lai, cái này là thứ tự, Căn bản Thượng sư là tổng trì của tất cả.
Ví dụ, sau này tôi giới thiệu, Thượng sư Lí Hạnh Chi này đã khai ngộ đầy xuất sắc, bà ấy cứ im im không nói gì, nhưng là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, có nghìn mắt nghìn tay có thể chiếu kiến tất cả mọi thứ của các bạn, bà ấy có thể giúp các bạn, chà! Mọi người đều bán mạng rập đầu dâng cúng dường, như thế cũng là không đúng. Đầu tiên phải đảnh lễ Căn bản Thượng sư, sau đó mới đảnh lễ Thượng sư Lí Hạnh Chi, phải làm như thế, đây là vấn đề về thứ tự.
Đại sư Marpa đảnh lễ đàn thành trước, sau đó mới đảnh lễ Naropa, thế là ngài lập tức có chướng ngại, cho nên chúng ta ở đây quy định là Thượng sư Tam Bảo cùng đảnh lễ, như thế thì sẽ tương đối là không có phân biệt, bằng không, dựa theo thứ tự mà nói thì là như vậy. Cho nên tôi thấy khi các bạn cùng đi gặp sư phụ của Sư Tôn, mọi người đều ra sức đảnh lễ sư phụ tôi, dâng cúng dường cho sư phụ tôi, Sư Tôn đứng bên cạnh nhìn, hầy! (cười) Mọi người đều nghĩ đảnh lễ Sư Tôn đã quen rồi mà, Sư Tôn sẽ không so bì đâu, sẽ không nói gì đâu. Bạn bớt đảnh lễ tôi một lần, bạn sẽ phải bù mấy lần, không có đâu. Đảnh lễ không có tác dụng trên thực tế, đây đều là những cảm nhận về mặt tâm linh thông thường mà thôi. Nói một cách chính xác là đảnh lễ Căn bản Thượng sư trước, sau đó mới đảnh lễ sư phụ của thầy, những cái khác thì cứ nhắm mắt làm liều thôi (cười). Chà, cái này là quy tắc đó.
Bạn muốn tu pháp này, nhất định phải nhớ hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, chứ không phải là có một số người nói tu một mình, tự mình tu, không đi ra ngoài giảng cũng không hoằng dương Phật pháp. Phải hiểu tinh thần thống nhất, tinh thần thống nhất là cơ sở của tất cả Phật pháp, tinh thần của bạn có thể thống nhất hợp làm một thì bạn có thể hoằng dương Phật pháp, bạn sẽ có thể nhập tam ma địa, tam ma địa là cái gốc của thành tựu, bạn mới có thể đạt thành tựu. Cho nên bạn tu hành phải thu vạn tâm về nhất tâm, nhất tâm hóa thành vô niệm, bạn phải hiểu nhất tâm trước thì mới có thể thật sự có thành tựu tam ma địa.
Trong Mật giáo, trong Hiển giáo tất cả đều như nhau, tất cả đều phải có thành tựu tam ma địa, chính là thành tựu thiền định, cho nên tinh thần nhất định phải thống nhất, phải có tâm từ bi, điều quan trọng nhất của hành giả chúng ta là phải từ bi lục đạo chúng sinh, nhất định phải có tâm từ bi, đối với lục đạo chúng sinh đều phải có.
Cho nên Sư Tôn thường xuyên khuyên giải, thế nào gọi là khuyên giải? Bạn phạm lỗi, Sư Tôn cũng sẽ khuyên giải, bất kể là bạn sai thế nào, tôi sẽ đều có cách khuyên giải, tháo gỡ cho bạn, bất kể là phạm lỗi lớn thế nào cũng đều có cách khuyên giải, cho nên trong Mật giáo, khuyên giải rất quan trọng, nói cách khác là bạn phải hiểu về từ bi, Sư Tôn vì có lòng từ bi, bất kì đệ tử nào bất luận là như thế nào, tất cả đều là đệ tử, không có cái lí là Sư Tôn sẽ bỏ mặc bạn ở ngoài cửa. Chỉ cần bạn cầu sám hối, biết sám hối, tự mình bỏ đi, rồi tự mình lại quay về, đều được, cánh cửa này vẫn mở rộng, mãi mãi hoan nghênh mọi người. Tuyệt đối đừng nói ôi, tôi quay trở lại đây ngại quá! Không sao cả, bạn phạm sai lầm lớn thế nào cũng không hề gì, quay lại là tốt. Một câu này thôi. Bạn bỏ đi, chửi Sư Tôn, đánh Sư Tôn, phỉ báng Sư Tôn, phỉ báng Phật, chửi Phật, làm hại Phật, làm thân Phật chảy máu, thì cũng thế, quay trở về là tốt, một câu nói này thôi, tuyệt đối tôi sẽ không bỏ bạn ở bên ngoài. (mọi người nhiệt liệt vỗ tay)
Đây chính là từ bi, vì thế mọi người phải trưởng dưỡng tâm từ bi của mình, từ bi lục đạo chúng sinh, coi người khác như chính mình, mọi người đều bình đẳng như nhau, đều có thể cứu độ. Bạn có chửi tôi thế nào cũng không hề gì, quay về là tốt, bạn đã làm hại tôi thế nào cũng không sao cả, quay về là tốt.
Có nghiêm trọng thế nào thì chẳng qua cũng giống như cái kia, giống cái gì? Giống như trận động đất lớn ở Kobe mà thôi, cũng không xem là gì cả, đúng không? Dù có nghiêm trọng thế nào cũng chẳng qua là như thế mà thôi, tất cả mọi thứ lại trở lại từ đầu, không có vấn đề gì cả. Hành giả phải có tâm không thối chuyển, phải có tâm không nghi ngờ. Đừng hoài nghi, một chút nghi ngờ cũng không có, phải hiểu thanh tịnh, chúng ta tu hành lấy thanh tịnh làm gốc, tức là nói rằng bản thân bạn có thể thân tâm thanh tịnh. Vô ngại, bạn không hoài nghi pháp mà bản thân Sư Tôn đã giảng, bạn có thể tu, giả như bạn có nghi ngờ thì bạn cứ tạm thời đừng tu, phải có lòng tin không nghi ngờ.
Tôi còn bảo mọi người, bản thân Sư Tôn có một chút xíu Phật mạn, thế nào gọi là Phật mạn? Cái chữ “mạn” này [mạn trong từ ngạo mạn], vốn dĩ là một khuyết điểm, nhưng cũng có lẽ là một ưu điểm, cái này là khuyết điểm hay ưu điểm thì cũng rất khó nói. Bản thân Sư Tôn mà nói thì mặc dù có lòng từ bi, nhưng có một chút Phật mạn, Phật mạn ở đây tức là kiêu ngạo, vì sao lại như vậy? Bởi vì bản thân tôi cảm thấy như thế này, trong cuộc đời này của tôi, chính cuộc đời này, thành tựu của tôi là phi phàm (mọi người vỗ tay), tôi không phải phàm phu đâu, tôi nói để bạn biết, bạn thấy tôi là đàn ông, tôi thấy bạn là phụ nữ, nhưng tôi không phải là đàn ông bình thường đâu!
Có đệ tử nói, ấy, Sư Tôn này, tuổi tác đã không còn trẻ nữa, trông vừa già vừa xấu, bạn thấy tôi vừa già vừa xấu, nhưng tôi rất kiêu ngạo đó, bạn đừng có thấy tôi trông chẳng ra gì, lùn lùn béo béo (cười), ôi, có là gì chứ. Coi tôi là thế nào đây? Tôi là nam sinh trong số nam sinh đó! (cười) Người ta nói là đàn ông trong số đàn ông nhỉ! Tôi nói để bạn biết, có người nói, ôi dào, Sư Tôn vừa già vừa xấu, vừa lùn vừa béo, làm gì có ai yêu chứ (cười). Sư Tôn là đàn ông trong số đàn ông đó! Pháp mà tôi tu luyện được đích thực là siêu phàm, đương nhiên rồi! Các bạn nhìn từ bên ngoài, thấy Sư Tôn trông như thế này, nhưng các bạn không biết năng lực nội tại của Sư Tôn có thể hợp nhất với vũ trụ. Bất kể là hữu hình hay vô hình, thứ hữu hình cũng thế, thứ vô hình cũng thế.
Thành tựu tu hành của tôi hôm nay, tôi không thể nói rằng trên thế giới Ta Bà này tôi là số một, tôi không thể nói như vậy, nhưng chí ít tôi là một trong những người số một đó! Các bạn nghĩ rằng, ôi dào, có pháp gì đâu, trông ông ấy cũng bình thường thôi, chúng ta hà tất phải quy y ông ấy, hà tất phải học pháp của ông ấy, có bao nhiêu đạo tràng khác, những người đầu trọc rất nhiều, những cái đầu củ cải ấy, rất nhiều người đầu trọc, chúng ta cần gì phải đi, tìm bừa một người bạn có thể quy y mà đi học Phật pháp thôi. Điều bạn không hiểu là, mùi vị khác nhau đó! Mùi vị bên trong là khác nhau đó! Sư Tôn của các bạn là trong ngoài đều có thành tựu đó. (mọi người nhiệt liệt vỗ tay)
Không được có suy nghĩ nghi ngờ, không được hoài nghi nói rằng Sư Tôn xem ra chỉ có như thế này thôi, ông ấy cũng ăn ba bữa cơm giống như chúng ta vậy, đi lại thì trông như quả bóng vậy, bạn không hiểu rằng tôi là đàn ông trong số đàn ông đó, không thể có suy nghĩ ngờ vực, bạn không được hoài nghi.
Tôi nói đơn giản bằng một vài ví dụ là được rồi. Trang Nghiêm Đường ở Đài Loan của chúng ta có Thượng sư Thái Tùng Hùng, mấy ngày trước ông ấy đã tạ thế rồi đúng không? Mọi người còn nhớ lúc ở Đài Loan không? Tôi đều đi giúp ông ấy, tôi nói để bạn biết nhé, khi Thượng sư Thái còn chưa đi, tôi đích thân đến bệnh viện để làm pháp Quang uẩn thiên thức [dịch chuyển thần thức] cho ông ấy, phong kín lại hết mắt, tai, miệng, mũi, rốn, bao gồm cả chỗ bí mật, phong kín hết những chỗ mà thần thức của ông ấy có thể chạy đến được, chỉ còn lại một nơi có thể chạy ra, đó chính là cái lỗ thủng để vãng sinh, tôi giúp ông ấy mở cái lỗ đó ra, thần thức không còn lỗ nào khác để đi ra thì ông ấy nhất định sẽ vãng sinh (mọi người vỗ tay). Dùng pháp Quang uẩn thiên thức để phong kín tất cả các lỗ mà thần thức có thể đi ra, chỉ còn mở cái lỗ để vãng sinh thôi, để ông ấy đi, ông ấy rất có phúc báo đó.
Mấy ngày trước khi ông ấy đi, tôi còn đích thân gửi hoa sen tặng ông ấy (mọi người nhiệt liệt vỗ tay), để ông ấy ngồi, bạn có biết không? Thượng sư Thái trèo lên hoa sen của tôi xong thì ông ấy còn ngồi không vững nữa, ông ấy chảy nước mắt nói: “Tôi không muốn đi.” Tôi nói: “Đến lúc nên đi rồi!” Tôi đưa hoa sen cho ông ấy, ông ấy còn nhảy xuống khỏi hoa sen nữa (mọi người cười). Tôi lại bắt ông ấy lên, ông ấy lại nhảy xuống, liên tục ba lần như thế, ông ấy không đi, tôi chẳng còn cách nào khác nên bỏ về. Tôi biết phương pháp, thế là tôi buộc hai sợi dây thừng kim cang vào cánh hoa sen. Muốn độ chúng sinh rất khó khăn, lại còn phải buộc hai sợi thừng kim cang nữa, lần này thì đi rồi! Tôi mới bảo: Hầy! Thượng sư Thái nên đi thôi. Tôi nói, cái ghế ngồi này rất tốt, ông ngồi lên mà xem, rất mềm rất thoải mái đó. Ông ấy nói để ngồi xem sao. Vừa ngồi lên thì tôi dùng sợi thừng kim cang trói chặt hai chân ông ấy lại. Muốn độ chúng sinh mới khó làm sao! Thân thể của ông ấy đã hỏng hết cả rồi còn không đi, cái ngôi nhà [thân thể] đó đã sụp rồi, không đi không được, thế mà vẫn phải đưa ông ấy đi bằng cách đó, bạn thử hỏi ông ấy mà xem Sư Tôn có gửi tặng hoa sen cho ông ấy không (mọi người cười). Không thể hỏi ông ấy! Hỏi người nhà của ông ấy xem, Sư Tôn có nói rằng Sư Tôn tặng hoa sen cho ông ấy không, ông ấy không đi, hãy hỏi người nhà của ông ấy thì biết. Ôi chao! Độ chúng sinh rất khó đó. Sư Tôn là người có sức mạnh, không phải là không có, có sức mạnh vô hình, có sức mạnh hữu hình, nhưng bạn không nhìn được cái vô hình đâu.
Lại lấy một ví dụ nữa nhé! Chính là của một người hiện đang ở đây, mẹ của pháp sư Huệ Quân, tụy của bà ấy bị viêm, còn bị cả sỏi mật nữa, rất đau đớn, tôi thỉnh Kim Cang Thần để tu pháp giúp cho bà ấy, đây là pháp rất lớn, tôi thật sự đã tu pháp, tôi nói với pháp sư Huệ Quân: “Tôi đã tu pháp rồi.” Thế còn bác sĩ vừa gây mê cho bà mẹ thì bà ấy đã lập tức nhìn thấy Sư Tôn ở bên cạnh gia trì cho bà ấy. Bà mẹ ở Đài Bắc, tôi ở Seattle, tôi không hề trở về. Bà mẹ gọi điện cho pháp sư Huệ Quân nói rằng: “Nhìn thấy Lư Sư Tôn đứng bên cạnh gia trì cho mẹ.” (Sư Tôn hỏi Huệ Quân) Có chuyện này không? (Pháp sư Huệ Quân đáp: Có.) (mọi người vỗ tay)
Có, đích thực có chuyện này, chỉ cần tu pháp nhất định sẽ tương ứng. Sức mạnh hữu hình và sức mạnh vô hình này, nói về việc có thể cứu và không thể cứu, vì sao có người có thể cứu, có người không thể cứu? Thật ra là nghiệp chướng của bạn đã đến thì tôi sẽ tiếp dẫn bạn đi, nghiệp chưa đến thì tôi giúp bạn cứu, có người nghiệp nặng, có người nghiệp nhẹ, sẽ có một ngày cái thân thể này của Sư Tôn cũng sẽ hỏng, mặc dù tôi muốn giữ cho nó trẻ trung, phải biết môn học dưỡng sinh. Nhưng có một ngày tôi cũng phải đi, cũng phải hư hoại, duyên phận của thế gian này đã hết rồi, thì nhục thân của mình cũng sẽ hiển hiện sự hư hoại, rồi cũng sẽ đi.
Cho nên đây là duyên phận của chúng ta. Duyên phận của tôi với thế gian đã hết, cho nên tôi cần phải đi thôi, bởi vì duyên phận với thế gian của Thượng sư Thái đã hết, cho nên ông ấy cần phải đi. Có một số người chưa cần phải đi, Sư Tôn sẽ hiển hóa để giúp họ cứu chữa, ở đây cần phải có một lòng tin không nghi ngờ, bạn muốn tu pháp này thì cũng như thế. Tu pháp này không thể thối lùi đạo tâm, rất nhiều người tín tâm không đủ đều sẽ thối lùi đạo tâm. Trên thực tế, Mật giáo là chân lí của vũ trụ, cái chân lí vũ trụ này thật sự là vô cùng vĩ đại, vô cùng siêu nhiên, không nên có tâm thối lùi, cũng không nên gián đoạn tu hành, trên đời còn có việc gì quan trọng hơn tu hành chứ!
Tiếp nữa, bản thân ngài là hiển hóa của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, bạn muốn tu pháp này, niệm đủ 100.000 biến Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tâm chú: “Om arapachana di.” Bằng không thì nhất định phải tu Diêm Ma La (tức Diêm Ma Thiên), bạn tu được tương ứng rồi, bởi vì ngài đã từng hàng phục Diêm Ma La, cho nên ở bên trên có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, ở dưới có Diêm Ma Thiên, bạn tương ứng với Diêm Ma Thiên rồi thì bạn mới có thể tu pháp Đại Uy Đức Kim Cang. Ngoài ra, quán đảnh có thứ tự. Bạn tương ứng tứ gia hành rồi, tương ứng được với pháp Thượng sư tương ứng rồi, tương ứng với pháp Bổn tôn rồi, thì Nội pháp cũng tương ứng rồi, thế thì tiếp theo bạn tu pháp Đại Uy Đức Kim Cang, thế thì bạn sẽ nhanh chóng tương ứng. Bằng không, bạn cũng có thể trì chú Đại Uy Đức Kim Cang. Thế còn pháp tu thì sao? Bạn hãy từ từ chờ một chút, đợt đến khi những pháp khác tương ứng rồi thì bạn mới lại tu.
Còn nữa, chưa được quán đảnh thì không được tu, tôi nói với mọi người rồi đó. Bạn chưa được quán đảnh thì tuyệt đối không được tu, nhất định phải quán đảnh rồi mới có thể tu. Thượng sư của tông phái chúng ta muốn đi quán đảnh cho người ta, Căn bản Thượng sư đã quán đảnh cho bạn rồi, bạn muốn quán đảnh cho đệ tử thì được. Nhưng nhất định là bạn đã phải tương ứng rồi thì bạn mới có thể đi quán đảnh cho người ta. Bạn biết rằng Đại Uy Đức Kim Cang đã ở trên đầu bảo vệ cho bạn rồi, bản thân bạn có thể biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang rồi thì bạn mới có thể đi quán đảnh cho người ta, nói như vậy bạn đã hiểu chưa? Tất cả các Thượng sư phải ghi nhớ, bạn tự mình xác nhận đã tương ứng với Đại Uy Đức Kim Cang rồi, ngài có thể dung nhập cùng bạn hợp nhất rồi, biết rằng Đại Uy Đức Kim Cang mọi lúc đều ở bên bạn, thì có thể đi quán đảnh cho người khác, bằng không thì tốt hơn vẫn là đừng làm, đây là thứ tự của quán đảnh.
Nhưng khi treo bức thangka Đại Uy Đức Kim Cang trên đầu giường tôi, ngày hôm đó khi tôi luyện kim cang quyền, đột nhiên Đại Uy Đức Kim Cang giáng xuống đàn thành, ngài lập tức giáng lâm, chà! Vô cùng uy võ, dời núi lật biển, dường như khiến cho nước biển đều cuồn cuồn dâng lên. Bạn biết Đại Uy Đức Kim Cang là sừng trâu nước mà, ngài có thể đi vào nước, vì ngài đi vào trong biển lớn, sau đó toàn bộ nước biển đều cuộn xoáy, cảnh giới ấy nói đơn giản là bất khả tư nghì, rất khó tưởng tượng, thời khắc ấy tôi mới biết, thì ra Đại Uy Đức Kim Cang là Hộ pháp căn bản của tôi. (mọi người vỗ tay)
Từ đó về sau, tôi cũng luyện thành tựu thân kim cang bất hoại càng kiên cố hơn, tôi đánh kim cang quyền, luyện khí, luyện thành kim cang bất hoại, rất uy mãnh. Vị Đại Uy Đức Kim Cang này ngay cả khi tôi giảng “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” ngài cũng đến hộ trì, giảng kinh Viên Giác ngài cũng đến hộ trì.
Nói ngoài lề với mọi người một chút, Sư Tôn giảng kinh Viên Giác và “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” đều có băng ghi hình, rất trân quý, kinh Viên Giác là “con mắt trời người”, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, dường như mọi tinh hoa đều cô đọng lại trong kinh Viên Giác. Cho nên mọi người phải xem băng ghi hình Sư Tôn giảng, phải thỉnh về nhà mà xem, Lôi Tạng Tự đang bán đó.
Ngoài ra, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” đã giảng được 1/3 rồi, có 39 cuốn băng ghi hình, 39 cuốn băng ghi hình mà mới giảng được có 1/3, hi vọng mọi người thỉnh về nhà xem, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” là tổ sư Tsongkhapa giảng, do Đại Uy Đức Kim Cang hộ trì càng bộ kinh này.
Bây giờ giảng đến khẩu quyết tu pháp trọng yếu. Có rất nhiều người hỏi Sư Tôn là phải cúng dường cái gì. Bởi vì Đại Uy Đức Kim Cang hiện hình trâu, bạn hãy cúng dường cỏ nuôi súc vật, và những cúng phẩm bình thường là hương, hoa, đèn, trà, quả, bạn nhất định phải cúng. Sau đó, ngài còn có cúng phẩm đặc thù nữa, bởi vì cúng phẩm đặc thù cho các vị phẫn nộ là khác nhau, lần này cũng coi như là công khai một khẩu quyết, cúng phẩm có khác biệt, hi vọng mọi người đừng cảm thấy buồn nôn, đồ cúng dường khác nhau, Mật giáo thật sự là không giống như bình thường, phải cúng năm loại cam lộ và năm loại thịt, đây là cúng phẩm đặc biệt.
Trước kia có Thượng sư hỏi tôi rằng: Ôi dà! Các vị thấy năm loại cam lộ rất tốt, thế thì phải cúng năm loại cam lộ, xin hỏi Sư Tôn năm loại cam lộ là gì. Tôi nói sau này tôi sẽ nói nhé! Bây giờ không tiện nói. Hôm nay tôi sẽ nói với mọi người năm loại cam lộ là gì. Năm loại: một là phân, hai là nước tiểu, ba là nước mũi, vậy là phân, nước tiểu, nước mũi, ngoài ra còn có tinh dịch của đàn ông, kinh nguyệt của phụ nữ, năm loại này chính là năm loại cam lộ.
Nói chung là như vậy đó. Nhưng tôi nói với bạn, lấy kinh nguyệt thì tốt nhất là lần có kinh đầu tiên của trinh nữ, trước kia điều này không tiện nói ra. Ví dụ, ở cạnh Lôi Tạng Tự có nhà của một người họ Hồng, mỗi khi người ta hỏi ông ấy là ông họ gì, ông ấy liền nói, một tháng đến một lần. Nói thật là ông ấy nói kiểu này thì tôi nghe thật sự không hiểu, cái gì mà một tháng đến một lần. Ôi chao! Cuối cùng có một ngày tôi đã hiểu ra rồi, chà, một tháng đến một lần, họ Hồng, ông Hồng [chữ Hồng trong từ hồng thủy, nghĩa là nước lũ]. Nhất định phải là loại tốt nhất, chính là lần đầu tiên của phụ nữ, đó là trân quý nhất. Thứ đó cần giữ lại, đó là một trong năm loại cam lộ.
Ngoài ra, họ nói là phân, nước tiểu, nước mũi, tốt nhất là đều lấy của children [trẻ em], chính là trẻ em đó, trẻ con chưa lớn, trẻ em rất nhỏ, như vậy thì tương đối thuần, tức là tương đối không nặng mùi. Nước tiểu thì có thể nhiều một chút, còn phân thì chỉ một chút xíu thôi, nước mũi cũng thế, sáng sớm thường xì mũi mà! Bạn lấy ra một ít.
Vì sao đây lại là năm loại cam lộ, tôi nói để bạn biết nhé, trên thế giới, trong con mắt của Phật, không có gì là thơm, không có gì là thối, thơm thối đều nhất loại như nhau, bẩn nhất cũng là thanh tịnh nhất. Mật giáo không giống những thứ bình thường, Mật giáo chính là một sự bình đẳng, là một tôn giáo rất siêu nhiên rất siêu việt, nó không giống bình thường. Cúng Phật Bồ Tát bạn dùng những thứ thối nhất để cúng thì cũng có thể biến thành thứ thanh tịnh nhất. Tôi không tin những thứ các bạn ăn là thanh tịnh nhất, những cái các bạn ăn cũng là rất YUCK [kinh tởm], rất bẩn. Con người trên thế giới ăn toàn là những thứ bẩn, nhưng những thứ bẩn cũng là thanh tịnh nhất.
Trước kia có một hòa thượng đã khai ngộ như thế nào nhỉ? Ở trong chùa ông ấy nhìn thấy rất nhiều đại hòa thượng ăn to uống lớn, chà! Ăn rất nhiều những thứ đầy đủ sắc, hương, vị tuyệt vời. Một lúc sau thì bụng họ khó chịu, thế là chạy chạy chạy, đi tới chỗ đó ngồi xuống một cái, ư…ư…ưn…. Hai con mắt trợn lên, choa, loáng một cái là thoải mái rồi, nhẹ nhõm bước ra ngoài, lúc chạy đi thì rất khẩn trương, phải ôm bụng mà chạy, chạy tới chỗ đó thì ngồi xổm xuống. Tiểu hòa thượng kia nói, ối giời ơi, sư phụ ta vừa mới ăn những thứ rất ngon, đầy hương vị, rất thơm đó, nước canh rất thơm cơ mà! Không biết là ăn cái gì mới đúng. Hòa thượng đó cũng đi tới xem xem người kia bài tiết ra cái gì, ôi chao! Sao mà thối thế này! Kiểu gì thế này, những thứ ban nãy ăn vào thơm như thế, sao bây giờ lại biến thành thối như thế này! Ôi, liệu có vấn đề gì không? Ta ăn thử xem sao, thế là cầm lên ăn thử, bên cạnh có một người ăn xin già đắc đạo liền vỗ vai anh ta, nói với tiểu hòa thượng đó rằng: “Cậu khai ngộ rồi.”
Phải hiểu đó, thơm và thối là bình đẳng, bạn ăn đồ càng thơm thì bạn thải ra càng thối đó, những thứ càng thối thì bạn càng nấu càng thơm đó! Thơm và thối nằm trong sự tuần hoàn đó, cái thối sẽ biến thành cái thơm, cái thơm sẽ biến thành cái thối, bạn có thể hiểu được đạo lí này thì sẽ không cảm thấy YUCK nữa.
Cúng Phật không sao cả, đại tiện, tiểu tiện, nước mũi, tinh, huyết, năm loại cam lộ, đặt trong đầu lâu thiên linh cái cúng Phật, tu pháp này có cúng phẩm đặc biệt, những thứ này chính là cúng phẩm. Tôi vừa mới nói về năm loại cam lộ cúng Phật, ngoài ra bạn lấy những thứ ấy của trẻ con là được, những cái khác bạn không cần lấy, thật ra không có quy định, bạn muốn lấy, lấy cái gì đây? Lấy của Khổng Phu Tử ấy! Thế nào là Khổng Phu Tử Thánh nhân, ông ấy rất thần thánh, bạn lấy của ông ấy, lấy đại tiện, tiểu tiện, nước mũi của ông ấy, hoặc là lấy những thứ đó của hành giả đã khai ngộ. Ồ! Không được nói điều này, không thì tôi sẽ bị đòi mãi thôi.
Các bạn không biết rằng, trước kia người Tạng nhìn thấy một đại đức đã khai ngộ kia bế quan trong nhà, thế là họ bày rất nhiều bình lọ ở bên ngoài cửa nhà ông ấy, chính là để cho ông ấy đại tiểu tiện vào đó, vãi một ít vào đó, những người Tạng đó họ lại đem về nhà xem như bảo bối đó, họ cho rằng cái này chính là năm loại cam lộ, sau này có thể bán được. Phải lấy năm thứ cam lộ của Thánh nhân, của baby [em bé], và trinh nữ, đây là những cúng phẩm đặc thù. Cái này sẽ dễ tương ứng.
Không có thì phải làm sao? Cũng có cách. Còn có năm loại thịt, phải cúng năm loại thịt. Năm loại thịt này bây giờ cũng rất khó kiếm. Ở đây phải dùng thịt trâu, thịt chó, thịt ngựa, thịt voi, thịt người! Oa! Giống như vị đại nương trong truyện Thủy Hử bán bánh bao nhân thịt người, muốn chúng ta làm Lục Lâm hảo hán đây mà! Thịt người rất khó kiếm, nhưng cũng rất đơn giản thôi mà! Bạn chỉ cần tìm đến bác sĩ xét nghiệm trong bệnh viện thì kiểu gì cũng được.
Năm loại thịt chính là thịt trâu, thịt chó, thịt ngựa, thịt voi, thịt người. Thịt voi cũng rất khó kiếm, bây giờ voi rất hiếm, hiệp hội bảo vệ động vật, bạn nói lấy một ít thịt voi thì người ta đều muốn bắt bạn đó, thịt voi cũng rất khó kiếm. Còn thịt chó, bạn ở Mĩ mà giết chó thì sẽ bị tố cáo đó, cái này cũng không thể. Thế còn thịt trâu thì cũng dễ kiếm, thịt ngựa cũng có, các loại thịt khác là thịt chó, thịt voi, thịt người, đây chính là năm loại thịt. Còn nếu không có thì dùng quán tưởng, thật ra phải như thế này thì mới tương đối dễ tương ứng.
Lại dùng đầu lâu của người để đựng năm loại thịt. Người Tạng thích nhất là dùng cái này, hơn nữa phải dùng đầu lâu của người ngu nhất để làm thiên linh cái nữa, nếu mà não quá thông minh thì đã bị dùng hết sạch rồi, dùng hết sạch rồi thì không còn tác dụng gì nữa, trong khi não của người ngu ngu, đần đần thì mới có tác dụng, bởi vì các nếp nhăn trên não vẫn chưa dùng đến. Ví dụ như não của Sư Tôn là các bạn không dùng được, bạn dùng cũng không có tác dụng gì, não tôi đều đã dùng hết sạch rồi, đúng không? Cho nên họ quy định, dùng đầu lâu của người ngu nhất để đựng. Hơn nữa họ còn có quy định là bạn phải dùng khi muốn tu pháp nào đó. Ví dụ khi dùng để tu pháp hàng phục thì phải dùng đầu lâu của phụ nữ. Làm sao phân biệt được đầu lâu của phụ nữ hay đàn ông chứ! Dùng lưỡi liếm là biết thôi, dùng lưỡi liếm, nếu thô ráp, sẽ bị đứt lưỡi, thì đó nhất định là đầu lâu của nam, trơn mịn thì là đầu lâu của nữ. Làm sao Sư Tôn biết được những điều này, đương nhiên biết chứ, tôi được truyền pháp mà! Tôi được chân truyền mà! Vâng, thiên linh cái này phải là của người ngu, não của họ vẫn chưa dùng đến, cho nên sẽ rất hữu dụng.
Ban đầu, khi muốn tu pháp, phải ngồi quay lưng về hướng bắc mặt quay về hướng nam, nếu bạn không thể chuẩn bị đầy đủ các món cúng dường thì trọng điểm là dùng quán tưởng, ví dụ thịt chó, quán tưởng một con chó, như thế cũng được, coi như là dùng thịt chó để cúng dường. Quán tưởng voi cúng dường, quán tưởng người cúng dường, năm loại thịt như thế là có thể đầy đủ. Còn như máu thì các bạn cũng có thể dùng quán tưởng, đại tiện, tiểu tiện, nước mũi, nếu như các bạn thấy sao sao đó thì cũng có thể dùng quán tưởng được. Bằng không thì bạn hãy cứ theo thực tế cúng dường mà làm thì sẽ dễ tương ứng hơn.
Lần đầu tiên tu pháp, bắt đầu vào giờ Tí, giờ Tí là từ 11 giờ tối đến 1 giờ sáng là lần đầu tiên khai đàn tu pháp, chọn giờ Tí. Bây giờ tôi lại muốn nói một trọng điểm nữa. Trước khi bạn muốn tu pháp thì đến nhà hỏa thiêu, không phải là khi tu pháp thì đi đến nhà hỏa thiêu, bởi vì ở trong nhà hỏa thiêu có rất nhiều tro xương người còn lại sau khi hỏa thiêu, xin một ít về, tôi biết có chuyện này. Nhà hỏa thiêu cũng có lọc ra những xương đó, người nhặt xương sẽ để lại những tro xương, bạn ở lại một lúc là có, chấm một ít tro cốt bôi lên trán mình, giả sử bạn muốn tương ứng nhanh hơn thì hãy bôi tro cốt lên khắp người mình, thế thì càng dễ tương ứng. Bạn sợ tro cốt của người chết thì bạn chấm một ít, bôi lên trán, đây là một điểm quan trọng, cũng là khẩu quyết.
Người xuất gia tu pháp này phải đội tóc giả. Những sư đầu trọc các bạn ở đây đều vui rồi, có khi nào sau này có thể đội tóc giả đi ra ngoài rồi nói là tôi đang tu Đại Uy Đức không? Không được đâu, không được đội tóc giả rồi đi ngoài đường, khi tu pháp mới đội, bởi vì muốn tương ứng, bởi vì tóc của Đại Uy Đức Kim Cang là dựng thẳng lên, vì muốn tương ứng, bạn không thể để đầu trọc, đầu trọc thì không giống Đại Uy Đức Kim Cang rồi, bạn nhất định phải có tóc thì mới giống.
Cho nên khi bạn tu pháp này có thể mua một bộ tóc giả để đội, bình thường thì không được đội để đi ra ngoài đâu! Bạn đi tới hộp đêm nhảy múa, đi hát karaoke bạn đều đội tóc giả, không có cái kiểu đấy đâu nhé! Cũng không được phép thường xuyên đi hát karaoke đâu. Trong số các đệ tử chúng ta, thường xuyên có người mặc âu phục đẹp đẽ đi hát karaoke đó. Bình thường mà ăn mặc như vậy thì không được. Tu pháp cũng thế, đây là khẩu quyết rất quan trọng.
Tôi nói với mọi người những khẩu quyết này là rất bí mật đó. Trước kia tôi đã từng nói với mọi người rồi, mỗi lần chúng ta tu pháp đều có tiền hành, có chính hành, có hậu hành. Tiền hành mục một đến bảy đều là tiền hành, làm đại lễ bái này, đại cúng dường, tứ quy y, tứ vô lượng tâm này, mặc bia giáp hộ thân này, niệm kinh chú này, triệu thỉnh này, những cái này đều thuộc về tiền hành.
Thế còn chính hành thì sao? Chính là quán tưởng, trì chú, nhập tam ma địa, cái này thuộc về chính hành. Thế còn hậu hành thì sao, chính là tụng kinh, tán dương, hồi hướng, tụng tán và hồi hướng chính là hậu hành, mỗi một đàn pháp đều có tiền hành, chính hành, còn có hậu hành nữa, cái này đều rất quan trọng đó. Trọng điểm nằm ở chính hành, tôi nói với mọi người: Đại Uy Đức Kim Cang căn bản ấn (Sư Tôn kết thủ ấn) (nội phộc, hai ngón giữa dựng thẳng hướng lên trời).
Được rồi, khi muốn làm quán tưởng, trì chú, nhập tam ma địa, đầu tiên phải kết ấn Đại Uy Đức Kim Cang căn bản, niệm chú Đại Uy Đức Kim Cang. Thế còn khi quán tưởng thì quán tưởng như thế nào? Tôi nói với mọi người, khi xưa sư phụ truyền cho tôi cách quán tưởng, không giống với quán tưởng bình thường, vì sao vậy? Trên phương diện quán tưởng của người Tạng thì rất rườm rà, họ làm đủ thứ gia trì đều phải quán tưởng, làm đủ mọi nghi thức đều phải quán tưởng, quán tưởng rất nhiều, đôi khi chúng ta học không xuể, cho nên Sư Tôn tinh giản đi. Ngày xưa sư phụ cũng dạy tôi, nói rằng anh làm quán tưởng chủ yếu nhất là được rồi.
Quán tưởng toàn bộ hư không vạn sự vạn vật đều là màu xanh lam, toàn bộ màu xanh lam này đều hít vào trong thân thể bạn, sau đó thu toàn bộ màu xanh lam trong thân thể bạn lại thành một chữ Hum (tiếng Phạn) màu xanh lam ở vùng tim, chữ Hum trong Om Ah Hum.
Cái đuôi của chữ Hum bắt đầu thu về, tức là dần dần biến mất.
Biến mất.
Biến mất đến khi chỉ còn nguyệt luân.
Nguyệt luân đến một điểm cũng không còn nữa.
Tất cả đều biến mất.
Quán tưởng cái này rất dễ. Tất cả đều là màu xanh lam, thu về chính mình đều là màu lam, rồi lại xuất hiện, thu về chữ Hum màu xanh làm ở vùng tim, rồi phần dưới chữ Hum lại dần dần biến mất, cho đến khi không còn một điểm nào nữa, biến mất hết, đây chính là hóa thành không, tiến nhập không cảnh. Niệm chú: Om subawa suda saerwa daerma subawa sutohang. Đây chính là chú quán Không. Tất cả đều quy về không hết. Cái gọi là không, bạn có thể thường xuyên làm quán tưởng này thì sẽ tiến nhập tính Không.
Sau đó lại quay ngược lại, lại từ trong hư không quán tưởng xuất hiện một chữ Hum màu lam, khi chữ Hum màu lam này xuất hiện thì cũng bắt đầu từ một điểm, sau đó là xuất hiện nguyệt luân, tiếp theo là một chữ Hum xuất hiện, một chữ Hum hoàn chỉnh xuất hiện, thế rồi từ chữ Hum màu xanh lam lại chuyển hóa, chuyển hóa thành cái gì? Chuyển hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, từ chữ Hum màu lam này chuyển hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, cũng chính là ban đầu chính bạn tiến nhập vào trong tính Không, rồi lại từ trong tính Không tái xuất hiện, lại chuyển biến chính mình thành Đại Uy Đức Kim Cang, chính mình biến thành Đại Uy Đức Kim Cang, trong sát-na, từ chữ Hum màu xanh lam biến thành Đại Uy Đức Kim Cang. Lúc này bạn phải bắt đầu quán tưởng Đại Uy Đức Kim Cang, đừng quán tưởng nhiều tay nhiều chân, một mặt hai tay hai chân là được rồi, vị chủ yếu nhất chỉ có một khuôn mặt, hai cánh tay, hai chân. Một mặt hai tay. Thế còn chân thì sao? Chân trái duỗi chân phải cong, giống như cung trước tên sau của chúng ta vậy, chân phải ở trước thì cong, chân trái thì duỗi thẳng, sau đó tay phải cầm dao cong.
Ban đầu tôi nghĩ là cầm dao cong ra cho mọi người xem, nếu mọi người nhìn vào thangka này, nhìn vào kim thân của ngài thì sẽ biết thế nào là dao cong, có hơi giống hình cái rìu.
Thế còn tay trái thì sao? Tay trái cầm thiên linh cái, tay phải cầm dao cong, ngài hiện ra đầu trâu, đứng trên tòa hoa sen, có ba con mắt, hiện lên tướng phẫn nộ. Tóc thì dựng thẳng đứng, miệng há rộng, lưỡi thè ra, là Đại Uy Đức Kim Cang tướng phẫn nộ. Các bạn hãy quan sát tỉ mỉ tướng Đại Uy Đức Kim Cang có một mặt hai tay, chân đứng ra sao, quán tưởng hình tướng của ngài là đầu trâu ba mắt, miệng há rộng, lưỡi thè ra, hiện tướng phẫn nộ, có sừng trâu, tóc thì dựng đứng.
Đại Uy Đức Kim Cang chân chính, nói chung ngài có hiển hóa ra hình tướng có 9 mặt, có 34 cánh tay, có 16 chân, dưới chân ngài dẫm lên Đại Tự Tại Thiên! Dẫm lên la sát, dẫm lên ma vương. Quán tưởng tướng của ngài: đầu trâu ba mắt, miệng há to, lưỡi thè ra ngoài, hiện tướng phẫn nộ, có sừng trâu, tóc dựng đứng lên.
Tạo hình thông thường là như vậy, có đơn thân, và tướng Đại Uy Đức Kim Cang cũng có song thân nữa. Chúng ta dạy thì đều là vị đơn thân, vị song thân thì thuộc về Mật truyền. Tướng Đại Uy Đức Kim Cang song thân, minh phi của ngài gọi là Kim Cang Khởi, cũng chính là Diệu Âm Thiên Nữ. Liên quan đến bộ phận song vận của Đại Uy Đức Kim Cang thì thuộc về Vô thượng mật bộ, là phạm vi của mật truyền, nói cách khác là phạm vi của giáng, đề, trì, tán, tứ hỉ, tứ không. Tứ hỉ này chính là từ vị trí giữa trán này, chính là là chỗ hoa sen nghìn cánh ở đây, nước nhỏ xuống, đi qua họng, sơ hỉ, nhị hỉ, đến tim, tam hỉ, đến tề luân, cứ thế đi xuống dưới là tứ hỉ, đến tứ hỉ thì chuyển hóa thành bốn loại không, cái này thuộc về phạm vi của Mật giáo song vận. Sau này thì cái thuộc về Vô thượng mật bộ sẽ truyền sau, cái này thuộc về bộ phận mật truyền.
Chúng ta trì chú, niệm chú ngữ, đến khi bạn quán tưởng rõ ràng rồi, bắt đầu trì chú, khi trì chú, chú ngữ này cũng rất bí mật, khác hoàn toàn với chú ngữ ở bên ngoài, hoàn toàn không giống, bởi vì chú ngữ mà sư phụ đã truyền cho tôi chính là chú ngữ mật truyền, là chú ngữ do chính sư phụ khẩu truyền, đây mới xem là chú của truyền thừa Chân Phật Tông, nó hoàn toàn khác.
Tôi niệm một lần cho mọi người nghe: “Om chuli kalalupa hum khan soha.” Đây là chú ngữ truyền thừa của chúng ta, khác hoàn toàn với chú ngữ được truyền ở bên ngoài. Đây là chú ngữ mà trước đây sư phụ đã truyền cho tôi, đây là chú ngữ truyền thừa, bạn đừng có quản người ta niệm thế nào, Tạng mật ở bên ngoài niệm thế nào, Đông mật niệm thế nào, ai niệm thế nào chúng ta không quản, chú ngữ truyền thừa của Chân Phật Tông chúng ta thì niệm như thế. “Om chuli kalalupa hum khan soha.” Chính là chú ngữ này, cho nên bạn nói, ôi dào, chú mà Sư Tôn niệm đại khái là không được, sao lại như thế chứ! Tôi nói để bạn biết, chú mà Sư Tôn niệm chính là chú ngữ truyền thừa, đây là điều tôn quý nhất. Được rồi! Hôm nay đã giảng nửa phần đầu, còn nửa phần sau nữa, ngày mai sẽ nói tiếp với mọi người.
Om mani padme hum!
23. Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật đích thân truyền Đại Uy Đức Kim Cang bất cộng pháp (2)
Hôm nay, trước khi bắt đầu, tôi cũng thỉnh cầu các thế hệ tổ sư phóng quang gia trì truyền pháp viên mãn. Buổi tối hôm nay, tôi lại tiếp tục giảng giải cho mọi người về Đại Uy Đức Kim Cang bất cộng pháp. Tối hôm qua, chúng ta nói đến kết ấn, quán tưởng, trì chú. Trong pháp Đại Uy Đức Kim Cang có rất nhiều quán tưởng, trong Mật giáo, phương diện Tạng mật tương đối coi trọng quán tưởng, thường xuyên là từ chú tự biến thành Minh Vương, thế rồi lại gia trì cúng phẩm, cứ như thế lặp đi lặp lại, thỉnh thoảng lại xuất hiện một chú tự hóa thành cái gì đó, sau đó lại xuất hiện một chú tự hóa thành cái gì đó, thường xuyên làm quán tưởng lặp đi lặp lại rất nhiều.
Bởi vì quán tưởng quá phức tạp, cho nên trước kia sư phụ dạy tôi phải nắm vững quán tưởng chủ yếu nhất. Trong pháp Kim Cang này, bạn quán tưởng Đại Uy Đức Kim Cang có bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu tay, chân, chân ngài dẫm lên cái gì lần lượt đều phải quán tưởng ra, trên tay cầm pháp khí gì, tất cả đều phải rõ ràng, thế thì thật sự là rất khó đó! Đối với những người già cả chúng ta mà nói thì đều cảm thấy khó vô cùng.
Cho nên, lão tổ sư nói rằng, quán tưởng chủ yếu nhất là một mặt hai tay, hai chân đều phải quán tưởng rõ ràng, khi hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, quán tưởng màu sắc đó, chỗ nào tượng trưng cho ý nghĩa của ngài tồn tại, thế rồi sau đó trì chú. Trong Chân Phật Mật Pháp, tôi làm là quán tưởng trước trì chú sau, tiếp đó là nhập tam ma địa.
Trong Mật giáo cũng có rất nhiều thủ ấn. Tạng mật coi trọng quán tưởng, Đông mật coi trọng thủ ấn, giữa hai cái này có một chút khác biệt. Nhập tam ma địa là quan trọng hàng đầu, tất cả mọi nghi quỹ đều là vì nhập tam ma địa, cho nên Mật giáo có ba loại thành tựu. Thứ nhất là thành tựu trì minh, tức là trì chú cho đến khi có thể đạt đến bản thân quang minh. Thứ hai là thành tựu Hộ Ma, cũng tức là một phương pháp cầu thành tựu, dùng việc đốt lửa cúng trời để được Phật Bồ Tát chư Thiên phóng quang gia trì mà có được quang minh, cái này trong Mật giáo mới có. Thứ ba là thành tựu tam ma địa, cái này thì cần phải xem định lực của bạn, bản thân bạn có định lực hay không, hoàn toàn nằm ở chiêu này.
Bản thân Sư Tôn tu nhập tam ma địa đạt thời gian rất lâu, tu đến bây giờ, bạn muốn hỏi khẩu quyết của tam ma địa liệu có thể truyền thụ một chút không. Kì thực tôi nhập tam ma địa cho đến nay cũng xem như là không có khẩu quyết. Trước kia, hình như tiểu thuyết võ hiệp cũng có rất nhiều khẩu quyết. Mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm (mắt nhìn mũi thì cũng còn được, mũi thì làm sao nhìn tâm được, tâm lại còn vô hình nữa), ở đây tức là muốn bạn hoàn toàn tập trung tâm tại một điểm.
Trước kia khi tôi tu luyện, tôi chuyên môn chú ý đến hơi thở ra vào, bạn sẽ tập trung vào một thứ, không có bí quyết nào khác. Bởi vì hô hấp có liên quan đến ý niệm của bản thân bạn đang chuyển động, bản thân hô hấp là rất vi tế, khi bạn hô hấp đến mức độ vi tế nhất thì có thể tập trung vào một điểm, thậm chí biến nó thành một dạng sức mạnh vô hình. Cho nên cái thứ nhất chính là chú ý vào việc hít thở của bạn, liên tục biến hô hấp thô nhất thành hô hấp vi tế nhất, thậm chí lúc hô hấp vi tế nhất biến thành hô hấp vô hình, hóa thành một loại cảnh giới ngay cả hô hấp cũng không còn, khi ấy mới có thể dừng tại không, từ một hóa thành không. Cho nên, khi Phật Đà còn tại thế, ngài cũng giảng về pháp đếm hơi thở, đây là cách dễ nhất để tập trung tinh thần của bạn lại. Còn ban đầu khi tôi vận dụng thì cũng làm theo cách đếm hơi thở này, vì thế, pháp đếm hơi thở vô cùng quan trọng, là phương pháp nhập tam ma địa.
Bạn đặt tâm mình hoàn toàn trong một hít một thở, từ hít thở thô nhất điều chuyển đến khi mảnh mịn nhất, cuối cùng biến thành không có khẩu quyết gì cả, tất cả trở nên rất dễ dàng tiếp nhập vào trong ý thức rất sâu. Cho nên nói “tâm vượn ý mã”, làm sao để trói được con khỉ trong tâm mình vào cái cọc, sau đó để nó không nhảy lung tung nữa, dần dần hàng phục tâm mình, sau đó lại hóa cái tâm này thành toàn bộ hư không, dung nhập vào trong toàn bộ tính Không, cái này chính là thành tựu nhập tam ma địa. Nếu bạn có thể làm như vậy thì có thể hóa thân thành trăm nghìn vạn, nhập vào trong dòng chảy pháp của vũ trụ, hơi thở ra vào cùng một lỗ mũi với Như Lai và Bồ Tát.
Hành giả chúng ta thường nói bạn hít thở cùng với ai đó sao? Chúng ta hít thở cùng Phật, khí vào ra cùng một lỗ mũi của Phật! Nói thế nghĩa là bạn cùng với Phật hoàn toàn dung hợp, cho nên thành tựu tam ma địa chính là như vậy.
Sư Tôn có thể bay đến bất kì quốc gia nào trên thế giới, đi vào trong mơ của các đệ tử, thậm chí là hiển hiện, bởi vì bạn chỉ cần nhập vào tam ma địa là bạn có thể có đẳng lưu thân, cũng tức là thân thể của bạn và dòng chảy pháp của vũ trụ là ngang nhau. Cho nên, dòng chảy pháp này chỉ cần tràn đầy trong toàn bộ vũ trụ lục hợp là bạn có thể hiện thân bất kì lúc nào.
Có một đệ tử ở Sydney Australia gặp tai nạn xe, khi anh ấy hôn mê đã liên tục nhìn thấy Sư Tôn ở bên cạnh, cho đến khi đến bệnh viện, anh ấy đều biết Sư Tôn vẫn luôn ở bên cạnh anh ấy, hơn nữa còn tận mắt nhìn thấy, khi được cứu sống lại trong bệnh viện, anh ấy nói: “Không hề có ai bảo vệ, chỉ có Sư Tôn luôn ở bên cạnh bảo vệ.” Cái này chính là đẳng lưu thân, nếu bạn có thể tu đến mức này thì có thể dung nhập vào trong dòng chảy pháp của vũ trụ, có thể phân thân ở khắp nơi, nhưng cái này cũng phải bắt đầu từ tam ma địa.
Thượng sư Liên Đặng mới nói, sáng hôm nay có tuyết rơi, còn tối hôm qua tôi đã nói là sẽ để cho các bạn nhìn thấy hoa! Bạn biết tuyết là cái gì không? Chính là hoa tuyết từ không trung rơi xuống đó. Các bạn nhìn thấy mưa nhỏ, nhìn thấy từng bông từng bông hoa, cái đó chính là hoa tuyết. Chúng ta tu pháp Đại Uy Đức Kim Cang, truyền thụ pháp Đại Uy Đức Kim Cang, hễ vị Kim Cang này đến thì nhất định sẽ có mưa đá, tuyết rơi, gió thổi, dấu hiệu cho thấy Hộ pháp đến đều là như vậy, đây chính là dấu hiệu cát tường.
Seattle vào mùa đông năm nay đã rất lâu không có tuyết rơi rồi, thế mà buổi sáng hôm nay đặc biệt có tuyết rơi, chính là vì tối hôm qua, tôi đã truyền pháp Đại Uy Đức Kim Cang cho mọi người. Truyền hình nước Mĩ cũng không dự báo rằng sáng hôm nay sẽ có tuyết rơi, đây là đài khí tượng, Đài Loan chúng ta gọi là đài khí tiêu (trong tiếng Đài có nghĩa là bệnh thần kinh), vì dự báo không chuẩn mà. Có lúc Seattle đột nhiên có tuyết rơi rất lớn, nhưng dự báo chẳng hề nói câu nào, lại còn nói “trời trong” nữa! Kết quả là tuyết rơi thành nắm, không chỉ to như cái bánh nướng, mô tả như thế nào nhỉ? To giống như cái bóng đèn điện này, có đám tuyết thì to như cái chăn bông, thế mà cục khí tượng không hề dự báo sẽ có tuyết rơi, television, radio [truyền hình, đài phát thanh] đều chẳng nói gì. Chính vì Hộ pháp đã đến nên trời mới rơi tuyết! Điều này vô cùng cát tường, có thể thấy chúng ta lần này truyền thụ pháp Đại Uy Đức Kim Cang đã được Đại Uy Đức Kim Cang gia trì và cho phép, có được ánh sáng của chính ngài.
Tối hôm qua tôi trở về, tôi nói người người đến, nói ma ma đến, cho nên không thể nói như vậy. Buổi tối tôi đang ngủ, ngủ rất ngon lành, cho đến tận lúc trời sắp sáng thì trong hư không có một thể ánh sáng hạ giáng, giáng xuống đầu giường tôi. Tôi đang mơ màng liền đưa tay sờ, ôi, là tóc dài à! Trên người còn tỏa ra ánh sáng rất đẹp nữa, phảng phất hương thơm rất vi diệu lan ra khắp giường tôi. Tôi cũng đang nghĩ điều này rốt cục là tốt hay là không tốt nhỉ. Trong giấc mơ tôi cũng có thể niệm Phật “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật…” Như vậy để không động tâm đó mà! Ấy, niệm Phật mà người đó cũng không đi, người đó là thân thể ánh sáng, có hương thơm, và tôi cũng thật sự sờ thấy tóc của người đó. Tại đây tôi cam đoan với mọi người là tôi rất tỉnh táo, tôi chú ý đến người đó một lúc, chà, làn da rất tuyệt vời, đôi mắt đó còn biết “hấp háy” nữa… rồi còn đung đưa, còn làn da ấy thì rất mịn và sáng.
Tôi liền hỏi: Cô là ai? Who are you? Cô ấy nói với tôi là thiên nữ nào đó đến đây (Malaysia, Indonesia đều nói là cái gì đó đến…) Tôi nói: “Cô đến làm gì thế?” Cô ấy liền nói với tôi: “Hôm qua khi thuyết pháp, ngài nhắc đến thiên nữ, cho nên tôi liền đến thôi!” Tôi nói: “Không được đâu! Sư Mẫu ở bên kia đó.”
Tôi nói với các bạn nhé, tôi thật sự nói như vậy đó! Theo như ý của thiên nữ này, tôi không biết ý trong lòng cô ấy, nhưng tôi nói ra ý trong lòng tôi. Tôi nói để mọi người biết, việc này vô cùng chân thực, tôi đích thực đã chạm vào tóc của cô ấy, da của cô ấy, có cảm giác tiếp xúc. Tôi nói, không được rồi, tôi có thói quen của tôi, thiên nữ nói tối hôm qua tôi đã nói đến cô ấy, ý của cô ấy là đến để thử công phu đó, tôi nói tôi có một thói quen, cô ấy hỏi là thói quen gì, tôi nói tôi phải đi “số một” [đi tiểu], khi ấy tôi trở mình nhỏm dậy rồi đi “số một”, khi trở về thì cô ấy đã biến mất không thấy đâu nữa, thể ánh sáng đó không còn nữa. Tôi không biết việc này có ý nghĩa gì. Nhưng tôi nói với mọi người, vì nhắc đến thiên nữ, thiên nữ sẽ hạ giáng!
Bản thân Sư Tôn đã tu hành rất cao, tôi có thể chạm vào, sờ thấy tóc cô ấy, làn da cô ấy, nhưng tôi nói với cô ấy, đúng lúc tôi buồn đi tiểu rồi, sáng sớm khi phương đông còn là một màu trắng bạc, tôi nói tôi phải đi “số một” một chút đây, khi trở về thì cô ấy đã biến mất rồi, có thể là do lúc đó tôi đã quá tỉnh táo rồi. Nhưng dựa theo công phu của bản thân cá nhân tôi mà nói, Sư Tôn hiểu về song vận [pháp song thân], kì thực bản thân song vận mà nói là một dạng thiền định, chỉ có Thượng sư Mật giáo chân chính, kim cương Thượng sư, mới có thể hiểu được, cái này gọi là Lạc-Không đại định, là một dạng thiền định, nhưng năng lực tu hành của bạn chưa đủ, nếu thiên lệch về Lạc thì lập tức xuống địa ngục kim cang.
Hành giả tu hành Mật giáo là ở trong Không và Định, áp dụng một dạng tu hành cảnh giới định của trung đạo mà trực tiếp hướng đến thành Phật, không giữ cái Lạc cũng không giữ cái Không, ở giữa Lạc và Không tìm kiếm đạo thành Phật, loại này gọi là Lạc-Không đại định, chỉ song vận của bản thân Mật giáo mới có. Nhưng nói chung, nó hoàn toàn thuộc về bộ phận mật truyền, đây cũng là một dạng nhập tam ma địa, bạn chớ coi thường đó! Nếu có thể nhập thiền định trên phương diện này thì gọi là “đại Tham đại Không”. Bởi vì đây là tham đến mức Không nhất. Tôi nói để mọi người biết, phàm phu thế tục chỉ có Tham và Lạc, còn Thánh nhân thì có thể sản sinh ra Không và Định, khác biệt chính là ở đây. Nếu bạn có thể dùng phương pháp Tham và Lạc tiến nhập thiền định, đắc được Không và Định, cái này mới xem là Thánh nhân siêu phàm chân chính.
Liên Sư dùng phương pháp Tham Lạc, Tứ Hỉ chuyển thành Tứ Không, thành song vận. Phàm phu thế tục bình thường chỉ tham lạc, nhưng họ không biết rằng trong cái tham lạc cũng có thể đi về hướng Không và Định. Đương nhiên Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có phương pháp như vậy, chính là trong cái tham dục, làm các loại quán tưởng, dùng nội hỏa của bản thân mình, từ sơ hỉ, nhị hỉ, tam hỉ, tứ hỉ, sau đó chuyển thành Tứ Không, phương pháp vận dụng này trong Mật giáo mà nói gọi là song vận. Bởi vì Thánh nhân mới có bốn loại hỉ, từ hoa sen nghìn cánh của thiên đình, bồ đề tâm nguyệt dịch hạ xuống, sơ hỉ căn bản sẽ không có, còn phàm phu chỉ cần có một hỉ là đi đời chứ làm gì đến được tứ hỉ, đợi đến khi bạn tứ hỉ thì coi như hoàn toàn đi đời rồi.
Một hỉ của phàm phu là cái cảm giác sướng ở xung quanh mật luân mà thôi, chẳng thể sánh với tứ hỉ của Thánh nhân. Kì thực bắt đầu là từ thiên đình cho đến mật luân, trải qua bốn loại hỉ lạc cực đại, sau đó chuyển ngược lại thành Tứ Không, đây là đạo lí của song vận, muốn làm như vậy nhất định phải có sự truyền dạy cẩn mật từ Kim cương Thượng sư, Căn bản Thượng sư trực tiếp giảng cho bạn phương pháp làm thế nào để hồi chuyển và đảo ngược lại, mới có thể chứng minh được nội hỏa minh điểm, vô lậu, chuyết hỏa, bạn mới có thể xem là thân kim cương bất hoại thành tựu nội pháp.
Chưa truyền dạy cho bạn mà bạn đã bán mạng đi thực hành song vận, đó là sự thèm muốn dục lạc của phàm phu, sẽ xuống địa ngục kim cang, cho nên, giữa Lạc và Không, không thiên về Lạc cũng không thiên về Không, đi thẳng như vậy, có thể tự kiểm soát mình và thành tựu, trên thế gian này chẳng có được mấy người. Bản thân Sư Tôn mà nói, tôi có thể chứng minh bản thân có thể làm được điều này!
Cho nên bản thân việc nhập tam ma địa có rất nhiều phương pháp, hôm nay tôi chỉ tiết lộ với mọi người một điểm, cái gọi là song vận rốt cục là việc như thế nào. Nói không chừng sau này nếu tôi có cơ hội, tôi sẽ viết một cuốn sách rất thẳng thắn thảo luận về song vận của Mật giáo.
Khi tiến nhập vào toàn bộ tính Không, xuất định cũng từ trong hư không mà xuất ra, cho nên, nhập vào định cũng tương đương với nhập vào niết bàn tịch diệt lấy đó làm cảnh giới lạc, xuất định chính là vì trở lại để độ chúng sinh, điều này đều vô cùng vĩ đại. Vì thế, trong Mật giáo có thành tựu nhập tam ma địa. Sau khi xuất định chúng ta còn phải làm hồi hướng, phần này là hậu hành.
Có một bài kệ rất hay, tôi đọc cho mọi người nghe:
Yamantaka Minh Vương lệnh tại Luân chuyển giáo chủ tối đại thắng tôn Mọi ma sợ hãi đều quy y hết Thỉnh trừ ma sự ban đại gia hộ.
Đây là bài kệ mà tôi viết từ rất lâu rồi để tán dương Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương.
Làm pháp xong thì xuất định, hồi hướng, niệm chú viên mãn: “Om brum. Om brum. Om brum.” Cũng làm đại lễ bái và rời khỏi đàn thành.
Hãy nhớ, sau này khi làm mọi việc đều phải tự thân biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang để gia trì cho cúng phẩm, làm bất kì việc gì đều phải như vậy. Đại Uy Đức Kim Cang là Căn bản Hộ pháp của Sư Tôn, sau này các bạn có duyên với ngài thì ngài cũng có thể trở thành Căn bản Hộ pháp của các bạn.
Tiếp theo tôi nói với mọi người về làm sự nghiệp của Hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương như thế nào. Nhìn chung, mỗi lần chúng ta tương ứng với một vị, vị ấy sẽ hiện thân, bạn tu pháp này, tu đến khi tương ứng, Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương sẽ hiển hiện, đôi khi chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy ngài hiện thân. Giống như tôi lần đầu tiên nhìn thấy Đại Uy Đức Kim Cang là vào lúc tôi tập trung tinh thần luyện kim cang quyền, đột nhiên ngài hóa thành hình khói ở trước mặt, dường như đám khói ấy từ sàn nhà sinh ra.
Giống như buổi sáng hôm nay, lúc Sư Tôn đang làm Hộ Ma thì có khói từ dưới chân sinh ra, tôi cứ tưởng là… ôi chao, Đại Uy Đức Kim Cang đến rồi! Tôi lại nhìn kĩ hơn, thì ra là bên dưới lò Hộ Ma bị cháy. Hình khói khi mà ngài xuất hiện không giống khói bình thường, có hơi giống như bông vậy, giống như kẹo bông mà hồi nhỏ chúng ta ăn, cứ như thế liên tục bay lên, bay lên rồi tạo thành hình dáng của Đại Uy Đức Kim Cang, hơn nữa còn có ánh sáng, có màu sắc, màu xanh lam, cái ánh sáng đó giống cái gì nhỉ? Cũng giống như bông lan tỏa ra xung quanh, thế là tôi nhận ra Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, trong lòng cảm thấy rất vui mừng, bởi vì ngài đã hiện lên trước mắt hình khói của ngài rồi, lúc này bạn muốn có lời thề ước với ngài thì đó sẽ là samaya, bởi vì bạn tu pháp và triệu thỉnh ngài hiện thân, bạn đã có tương ứng rồi thì ngài mới hiển hiện ra cho bạn nhìn thấy.
Nhìn thấy có mấy loại:
1. Bạn tận mắt nhìn thấy, có nghĩa là ban ngày nhìn thấy.
2. Bạn nhìn thấy trong thiền định.
3. Trong mơ nhìn thấy, bạn ở trong giấc mơ nhìn thấy rất rõ ràng.
Ba loại này đều có thể gọi là nhìn thấy.
Cho nên, sau khi nhìn thấy thì phải có lời thề ước với ngài. Tôi dùng lời nói miệng thôi: “Hôm nay tôi nhìn thấy ngài rồi, ngài và tôi rất thân thiết, sau này ngài đều phải ở bên tôi, tôi sẽ đối với ngài rất tôn kính, hơn nữa mỗi lần tôi đều cúng dường ngài, cầu xin ngài hãy giúp đỡ tôi.”
Đây chính là samaya! Chúng ta không cần phải nói một cách quá phức tạp, chỉ cần nói là hôm nay tôi nhìn thấy ngài rồi, biết là ngài rất tốt với tôi, sau này chúng ta tương thân tương ái, vĩnh viễn không phân li, tôi đi đâu thì ngài đi theo đó, ngài đi đâu thì tôi sẽ đi theo đó, mỗi khi có thứ gì tôi sẽ mời ngài ăn trước, có việc gì thì ngài giúp đỡ tôi trước, đây chính là samaya. Nói đơn giản như vậy, không cần phải dài dòng lôi thôi, cái gì mà làm thơ, tụng tán, nói văn vẻ này nọ, ngài nghe không hiểu, nói cái gì đơn giản thôi! Những thứ văn vẻ xoắn lưỡi kia thật sự là không cần thiết.
Bạn cứ nói với ngài một cách chân phương như vậy là ngài lập tức biết rằng ta hộ trì cho anh là đúng rồi, bởi vì hễ có thứ gì là anh sẽ mời ta ăn trước, anh có thứ gì hay sẽ cho ta dùng trước. Bạn còn có thể nói với ngài rằng: sau này tôi thành Phật, ngài cũng thành Phật đó! Chúng ta như hình với bóng, ở cùng nhau không tách rời.
Có lời hẹn ước với nhau như vậy, không được quên ngài đâu đấy! Các bạn đã có lời thề rồi, đó chính là samaya. Giống như các bạn quy y Sư Tôn, thân khẩu ý cúng dường, nói nghe rất hay, nhìn thấy, đảnh lễ, dâng cúng dường. Có một hôm không vừa ý, không thoải mái, thế là bái bai luôn! Các bạn bỏ đi, tôi thì “thất tình”, các bạn bỏ đi rồi, vô duyên vô cớ, nhưng cũng chẳng phải việc của tôi, chẳng qua là vì tại Phật đường của các bạn có những mâu thuẫn nhân sự nên bạn mới bỏ đi, có liên quan gì đến tôi chứ? Đúng không? Tôi cũng chẳng nói gì bạn cả. Thật ra có rất nhiều việc chẳng liên quan gì đến Sư Tôn. Mọi người các bạn ở dưới cãi nhau, không hợp nhau, lại đổ tội lên đầu Sư Tôn, bảo rằng Sư Tôn chẳng hề nói hộ tôi, tôi làm sao mà nói hộ bạn chứ, tôi còn chẳng hề biết xảy ra những chuyện gì cơ mà!
Cho nên, bạn đã có lời thề với Đại Uy Đức Kim Cang, mọi lúc ngài đều hộ trì cho bạn, bạn cũng nhớ đến ngài mọi lúc, Sư Tôn cũng nhớ đến ngài mọi lúc, bạn không tin thì Sư Mẫu có thể làm chứng đấy! Ngày nào trước khi đi ngủ, tôi đều vỗ tay và cầu nguyện ngài, thỉnh ngài bảo vệ cho tôi đêm nay ngủ ngon, phải thức dậy lúc 6 giờ, đêm ngủ mơ giấc mơ đẹp, không mơ thấy điều xấu, kiểu gì cũng phải mơ đẹp, sau đó tôi mới đắp chăn đi ngủ, ngày ngày đều làm như vậy, buổi trưa nghỉ ngơi cũng thế, không lần nào tôi quên, mỗi lần ăn cơm tôi đều nói với ngài rằng: “Xin mời, xin mời ngài ăn trước!” Nhất định phải làm như vậy, đây chính là lời thề, là samaya. Bạn nhất định phải làm được như vậy.
Vì thế, bạn cần thề nguyện với ngài, làm sai việc gì thì phải sám hối với ngài, điều này cũng rất quan trọng, niệm Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh 21 biến, bạn biết Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh là gì không? Là tính Không đó! Nghiệp chướng của bạn mà gặp tính Không thì cũng không còn, nghiệp chướng của bạn có lớn thế nào mà gặp phải Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh thì cũng hóa thành vô hình.
Bạn có thể niệm chú ngữ của ngài, sám hối những việc mình đã làm và hồi hướng, tất cả những lỗi lầm đều sẽ không tái phạm, tiêu trừ và gột rửa sạch, hóa giải những thứ quá khứ. Vốn dĩ có khiếm khuyết, tu pháp cũng có thể bổ sung và biến thành viên mãn, bởi vì bạn hóa mọi pháp tu thành tính Không thì sẽ biến thành viên mãn. Hai điểm này, mỗi hành giả đều phải làm được.
Tiếp theo, tôi nói với mọi người về tiêu tai. Tự thân biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, quán tưởng các chúng sinh cần tiêu tai ở trước mặt bạn, niệm Om Ah Hum 3 biến, khiến nghiệp chướng thân khẩu ý của người này tiến nhập vào trong thiên linh cái, sau đó nhờ Đại Uy Đức Kim Cang niệm 3 biến Om Ah Hum gia trì cho cúng phẩm ở trong thiên linh cái này, dùng cái này để cúng dường Phật, cúng xong thì nghiệp chướng của người này sẽ tiêu trừ hết, như vậy là đã tiêu tai! Cầm thiên linh cái trên tay, tự biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, quán tưởng người có nghiệp chướng ở trước mặt bạn, sau đó nghiệp thân khẩu ý màu đen sẽ bay lên, đi vào bên trong thiên linh cái, gia trì cho thiên linh cái rồi cúng dường Phật Bồ Tát Hộ Pháp chư tôn, như thế nghiệp thân khẩu ý của người này sẽ tiêu trừ hết. Có người bị bệnh, bạn dùng phương pháp này có thể tu pháp khiến người bệnh có thể trở thành một người thanh tịnh, giải trừ bệnh nghiệp của con người, đây chính là pháp tiêu tai.
Tiếp theo nói về pháp tăng ích, thì đầu tiên phải triệu thỉnh Đông Phương Đế Thích Thiên, chỉ cần bạn tự thân biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, hai chân, đầu trâu, một mặt, hai tay, tay phải cầm dao cong, tay trái cầm thiên linh cái, chân trước là cung chân sau là tên, đứng trên hoa sen. Đầu tiên bản thân mình biến hóa, tôi dạy mọi người cách quán tưởng, bạn phải quán tưởng ra được: màu xanh lam tiến vào trong thân bạn, khiến toàn thân bạn hóa thành màu lam, tập trung ở tâm luân, biến thành một chữ Hum màu lam, sau đó tiêu biến mất. Chữ Hum màu lam ở trong hư không dần dần tiêu biến từ dưới lên, đến nhật luân, nguyệt luân, cho đến chỉ còn một điểm, rồi không có nữa, hóa thành tính Không, sau đó lại xuất hiện một điểm, rồi lại có nhật luân, nguyệt luân, một nét ngang, ba cái móc cong xuống phía dưới, biến thành chữ Hum màu lam, trong sát-na, biến thành Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, chính là vị phẫn nộ mà ban nãy tôi mới dạy bạn quán tưởng.
Quán tưởng xong, bạn phóng chữ Hum có ánh sáng màu vàng ra ngoài, triệu thỉnh Đông Phương Đế Thích Thiên, Nam Phương Diễm Ma Thiên, Tây Phương Thủy Thiên, Bắc Phương Dạ Xoa Thiên, bốn vị trời này đều xuất hiện ở bốn phương đông tây nam bắc để hộ trì cho bạn. Sau đó, bạn dùng thiên linh cái gia trì cúng phẩm, cúng dường bốn vị trời, và cúng dường hết tất cả thiên nữ của các cõi trời. Xong sau đó bạn dùng sức mạnh quán tưởng, từ trong các cõi trời phóng quang gia trì cho thiên linh cái của bạn, từ cúng phẩm bên trong thiên linh cái biến hóa ra những thứ mà bản thân bạn mong muốn. Bạn tự mình quán tưởng biến thành một thiên linh cái rất to rất lớn, có xe mà bạn thích nhất, Lamborghini, Ferrari, Rolls-Royce, Benz,… Rất nhiều thứ bạn đều có thể quán tưởng ở trong thiên linh cái của bạn. Nhà lầu của bạn, những ngôi nhà hiện đại đều đầy ắp bên trong thiên linh cái, từ trong thiên linh cái sinh ra mọi thứ, đây chính là pháp tăng ích.
Nhưng trong khi làm pháp, Tạng mật thường nói đến từ chữ gì biến hóa thành cái gì, từ chữ gì biến hóa thành Đế Thích Thiên và màu sắc gì. Phương nam có chữ gì biến hóa thành Diễm Ma Thiên, và có màu sắc gì; phương bắc Dạ Xoa Thiên thì sinh ra chữ gì, lại biến thành cái gì… ôi, rất rườm rà. Bạn có thể có cách nhìn thấy hình tượng của vị trời nào đó, trực tiếp biến ra thì tốt, sau đó nếu bạn biến ra giống như biệt thự Cầu Vồng thì… không được, các bạn không thể biến ra cái này, nếu không thì biệt thự Cầu Vồng của tôi sẽ biến thành của bạn mất. Ôi, đến lúc ấy các bạn sẽ lấy ra danh thiếp của mình, đem đến biệt thự Cầu Vồng đóng cọc “keng keng keng”, sau đó lấy dây thừng quây xung quanh lại, nói nhà này là của tôi, thế thì phiền lắm! Tự các bạn biến thành ra biệt thự Cầu Vồng của mình đi (cười). Đây chính là một pháp tăng ích, từ trong thiên linh cái có một chữ Hum, sau đó sinh ra đủ loại tài bảo, các bạn muốn cái gì thì quán tưởng cái đó, đều sẽ có.
Giống như Sư Tôn lần này. Tôi muốn có một cái mũ, là mũ pháp, kết quả là lần này có bao nhiêu mũ pháp bạn có biết không? Sư Mẫu mua một cái, Thượng sư Liên Trí mang đến bốn cái, đường chủ ở Malaysia tặng tôi hai cái, người đến từ Đài Loan tặng tôi một cái, Liên Hoa Thanh Nguyệt ở Singapore từ Đại Lục lại đem đến một cái nữa. Tôi còn chưa mở tiệm bán mũ, lần này các bạn không tặng tôi cái gì khác lại toàn tặng tôi mũ.
Đó là bởi vì tôi quán tưởng mình cần một cái mũ, kết quả là chẳng mấy chốc có tận chín cái mũ. A! Đúng rồi, Liên Hoa Tĩnh Hương ở Nhật cũng tặng tôi một cái mũ nữa, bạn xem lần này bao nhiêu người tặng mũ cho tôi. Điều tệ nhất là chẳng có ai tặng kim cương, các bạn tặng nhiều mũ như vậy để làm gì? Tôi cũng có phải là quốc vương của vương quốc mũ đâu, tôi làm quốc vương của vương quốc kim cương là được rồi.
Lần này rất kì quái. Bạn xem, người ở Nhật tặng một cái, người ở Malaysia tặng hai cái, người ở Singapore tặng một cái, người ở Đài Loan tặng ba cái, Liên Trí từ Nepal đem tới bốn cái, Sư Mẫu mua một cái, càng ngày càng nhiều, không thể đếm được nữa, thật sự đều là mũ pháp, mũ của Hồng Hoàng Bạch Hoa giáo đều có hết. Tôi vốn định tối nay đội một cái mũ cho mọi người xem, nhưng tôi nghĩ đến lúc thuyết pháp, đầu tôi thường đung đưa thế này, thân thể thì cử động thế này, mũ sẽ rơi ra mất, cho nên lúc thuyết pháp thì vẫn không nên đội, trong hoàn cảnh trang nghiêm một chút thì có thể đội. Ở đây cũng là quán tưởng mà ra, nếu bạn có suy nghĩ, tôi nói để bạn biết nhé, Kim Cang Hộ Pháp sẽ biết bạn xuất hiện suy nghĩ, bởi vì ngài chính là hình bóng của bạn mà! Làm sao mà không biết chứ? Ngài biết bạn đang nghĩ cái gì, sẽ lập tức chạy đi lo việc.
Chúng ta làm Hộ Ma cúng dường cầu thỉnh Kim Cang Hộ Pháp, nguyện lực mà chúng ta cầu, cấp cấp như luật lệnh, hoàn thành! Rượu này rót ra, ngài lập tức uống rượu, thế là lên tinh thần, hai chân liền “bạch bạch” chạy đi hoàn thành công việc. Sao gọi là cấp cước thần? Nghĩa là chân của ngài rất nhanh, hành động cấp tốc. Kim Cang Hộ Pháp thì bạn phải đứng mà cúng, các bạn không được ngồi cúng đâu, bằng không ngài sẽ lười không muốn hành động.
Phải đứng để cúng, giống như là một chân thế này, chân kia thì… giống như là đang bay, đang chạy, đây gọi là Cấp Cước Kim Cang, ngài sẽ cấp tốc đi hoàn thành nhiệm vụ mà bản thân bạn yêu cầu. Sư Tôn không hề bảo các bạn đi mua mũ, tôi nói với bạn nhé, là Hộ Pháp bí mật khiến trong lòng các bạn sinh ra suy nghĩ ấy, ừ, phải mua mũ cho Sư Tôn thôi, thế là vội vàng đi mua. Lần sau tôi sẽ nói với Hộ Pháp… à, không thể nói, sau này có cơ hội, Hộ Pháp sẽ hiểu Sư Tôn, không cần phải tặng món đồ quá to, tặng cái nhỏ nhất là được, Hộ Pháp sẽ làm, đây là pháp tăng ích. Chỉ cần suy nghĩ của bạn khởi lên, Hộ Pháp sẽ nhanh chân đi hoàn thành những việc đó.
Tiếp theo tôi nói về pháp kính ái, tức là pháp “hoài”. Tự thân biến thành Đại Uy Đức Kim Cang, tương tự, thiên linh cái phóng ra chữ Hum màu đỏ, gọi người yêu hiện thân trong hư không, niệm tứ minh chú “Cha Hum Ban Ho”: Cha là hiện thân, Hum là người đó sẽ đứng trước mặt bạn, Ban là người đó sẽ hạ xuống, Ho là bạn sẽ ôm lấy người đó, thế là kết hôn rồi, giống như hai đôi cô dâu chú rể ngày hôm nay (Sư Tôn chỉ về phía hai đôi cô dâu chú rể mà Sư Tôn làm chứng hôn nhân). Đây chính là pháp kính ái.
Bạn thấy đấy, pháp kính ái chỉ đơn giản thế thôi! Chỉ cần bạn tương ứng với Đại Uy Đức Kim Cang, tự thân biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, thiên linh cái phóng ra chữ Hum màu đỏ, đối phương sẽ bị hút đến trước mặt bạn, sau đó “Cha Hum Ban Ho” cùng hòa vào nhau, chính là pháp kính ái.
Cho nên hành giả Mật giáo chân chính sau khi tương ứng với Hộ Pháp, rất nhiều việc người đó chắc chắn sẽ làm được. Vì thế, pháp kính ái, bạn thấy đơn giản như vậy, tứ tự minh chú “Cha Hum Ban Ho”, rất nhiều pháp đều rất dễ biến hóa, trong đó pháp hàng phục là khó nhất, bởi vì cúng phẩm của nó rất đặc thù, đây thuộc về phương diện nội pháp.
Pháp kính ái thì tôi đã giảng với mọi người rồi, rất dễ thôi, đúng không? Giả dụ bạn hi vọng công nhân nhà máy của bạn đều yêu kính bạn, cũng rất đơn giản. Chữ Hum từ trong thiên linh cái phóng ra ánh sáng màu đỏ, toàn bộ công nhân của bạn ở trong ánh sáng đỏ đó, sau đó bạn chỉ huy những công nhân này: “Mọi người quay về hướng đông!” “Mọi người quay về hướng tây!” Tùng tùng tùng tùng, họ đều nghe theo bạn. Bạn chỉ huy họ làm cái gì thì họ sẽ làm cái đó, họ sẽ rất tôn kính bạn. Bạn làm điều này xong, họ nhìn bạn, họ sẽ khúm na khúm núm cúi chào bạn, bạn giao phó cho họ làm cái gì, họ sẽ làm cái đó, pháp này áp dụng rất linh hoạt.
Luật lệnh của Đại Uy Đức Kim Cang có sức mạnh lớn như vậy. Ngài có thể làm tiêu tai, kính ái, tăng ích, hàng phục. Còn như với pháp hàng phục thì tôi bảo mọi người, hãy tụng một bài kệ, bài kệ này rất hay: “Diệu tướng đầy dũng mãnh, hành động đầy uy đức, khó khăn đều hàng phục, đảnh lễ Đại Bố Úy”. Đại Uy Đức Kim Cang còn gọi là Bố Úy Kim Cang. Cúng phẩm của pháp hàng phục, nhìn chung thì, chúng ta làm bất kì pháp gì đều có thể công khai, ví dụ pháp tiêu tai, tăng ích, kính ái, đàn pháp này đều có thể công khai, duy nhất không thể công khai chính là đàn pháp hàng phục, cái này thuộc về nội đàn.
Thế nhưng hôm nay tôi lại nói cho mọi người về nội đàn, Sư Tôn đem khẩu quyết này giảng cho các bạn nghe hết cả, điều này đáng quý vô cùng, rất hiếm khi giảng công khai như vậy.
Cúng phẩm trong pháp nội cúng này là hết sức đặc thù, có năm loại cúng phẩm: loại thứ nhất là dao mổ, chính là dao chuyên mổ lợn, mổ trâu, mổ gia súc. Con dao đó dùng đến mức cùn, lưỡi mẻ, càng lâu càng tốt, bởi vì linh khí của nó là mạnh nhất. Con dao mổ dùng rất lâu sẽ tích tụ đầy linh của sinh vật, trong sát-na là chết, thần thức của linh đó không thể nào chạy đi đâu, sẽ bám vào con dao này, cho nên linh khí của nó là nặng nhất. Con dao mổ đó là món nội cúng thứ nhất của pháp hàng phục, rất khó kiếm được, nhưng mà ở các lò mổ ở Đài Loan, bạn mua một con dao mổ mới đến, bảo họ đổi cho con dao cũ, thế là bạn sẽ có được.
Loại thứ hai là thuốc độc, thuốc có độc, ví dụ: Parathion, Potassium cyanate, loại thuốc độc mà hễ uống vào hoặc chỉ một chút xíu là sẽ chết ngay, dùng cái này để làm nội cúng, không được để cho trẻ con đi vào, chúng lại nghĩ rằng đó là coca cola, 7-up, uống vào là chết thẳng cẳng đó, cho nên, nội cúng là không công khai.
Loại thứ ba là thịt ôi thiu, thịt này đã lên dòi rồi, đã để rất lâu rồi, đã có mùi chua và hôi rồi, không chỉ như vậy, bên trên còn có những con dòi màu trắng đang bò nữa, loại thịt đó là tốt nhất.
Loại thứ tư là hoa có gai, bông hoa đó phải mọc gai, ví dụ hoa hồng, màu đen thì sẽ tốt hơn, bằng không giả sử bạn nói là màu đỏ thì trước tốt sau xấu, cho nên hoa hồng màu đen là tốt nhất.
Loại thứ năm là chất dịch rỉ ra từ thân người chết, có nghĩa là nước của tử thi đó! Là nước rỉ ra từ thi thể.
Bạn lấy được năm thứ này rồi, bạn cúng Đại Uy Đức Kim Cang, năm loại cúng phẩm bày ra đều sẽ phát ra sức mạnh rất lớn, sẽ có một dạng sức mạnh rất linh, rất hung sát, sinh ra ở bên trong nội cúng của bạn. Và tự thân cũng biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, năm loại cúng phẩm này, dùng sức mạnh của Đại Uy Đức Kim Cang để gia trì, sự nghiệp chú là “Om benza huo ka hum pei”. [Sự nghiệp chú là chú ngữ có công dụng đặc thù dùng khi hành pháp.]
Khi bạn đang niệm chú này, bản thân bạn quán tưởng chính mình biến thành Đại Uy Đức Kim Cang, chân trước làm cung, chân sau làm tên, chân trước bước cong như cái cung, lúc này, chân của bạn sẽ biến thành Đại Uy Đức Kim Cang lớn nhỏ, bàn chân phải của bạn biến thành Đại Uy Đức Kim Cang, chân trái thì biến thành đối phương, bạn muốn hàng phục người nào thì bạn hãy biến bàn chân trái của bạn thành hình tượng của người đó, sau đó dùng chân phải của bạn đạp mạnh lên chân trái của bạn, hét lên: “Đánh chết mày!” Khi hét lên thì phải rất uy mãnh, nhưng bạn đừng có đạp gãy chân bạn, phải biết khống chế một chút, phải đạp đầy uy mãnh lên chân trái của bạn, chỉ cần đạp ba lần và niệm chú “Om benza huo ka hum pei”, đây chính là chú của việc hàng phục. Đây chính là pháp hàng phục.
Đương nhiên, đôi khi chúng ta không làm pháp này. Pháp hàng phục có rất nhiều loại, ngoài pháp của Đại Uy Đức Kim Cang ra thì còn có một loại nữa cũng là pháp Đại Uy Đức Kim Cang, đó là làm một cái thước ê-ke bằng thủy tinh hoặc nhựa trong, tạo một vết trên bề mặt rồi dùng hình dao cong như lưỡi rìu mà Đại Uy Đức Kim Cang cầm, cắm lên thước nhựa trong hoặc thủy tinh này, phải cắm cho đứng thẳng. Sau đó bạn làm một hình nhân bằng giấy khá to, viết lên địa chỉ, họ tên của đối phương, có bát tự thì là tốt nhất. Sau đó bạn dùng dao mổ đặt trên đỉnh đầu của người giấy, dùng thuốc độc đặt dưới chân của người giấy, treo miếng thịt thối rữa lên trên người giấy, dùng hoa có gai để đâm, dùng dịch của người chết chấm lên trán người giấy. Rồi khi tự thân bạn biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, bạn lấy thước ê-ke và dao cong, dao cong này đặt lên cổ của người giấy, sau đó bạn niệm chú “Om benza huo ka hum pei”. Niệm sự nghiệp chú này sẽ sản sinh ra một sức mạnh vô hình rất lớn có thể hàng phục đối phương.
Cho nên hành giả Mật giáo phải chú ý, trong Mật giáo, pháp hàng phục thuộc về tác nghiệp nội đàn, không được để cho người ngoài nhìn, đương nhiên pháp này cũng không được tùy tiện truyền, tùy tiện nói, nhưng hôm nay tôi đã nói ra rồi, mọi người muốn tu pháp tránh tai nạn Quan Thế Âm Bồ Tát thân đàn thành thì sẽ có Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát hộ trì.
Vì thế trong Mật giáo có hiện tượng này, giữa Thượng sư và Thượng sư làm pháp đấu nhau, có Thượng sư hiểu pháp, hàng phục một người khác, nhanh chóng hàng phục được người đó, cũng có Rinpoche bản thân là Hoạt Phật, nhưng hễ không cẩn thận một cái thì cũng bị trúng pháp hàng phục.
Hôm nay tôi giảng công khai với mọi người, với nguyện vọng chủ yếu là dạy cho bản thân hành giả Mật giáo chúng ta muốn làm pháp phòng hộ, giống như pháp phòng hộ bốn tầng mà hôm nay tôi dạy: cọc kim cang, võng kim cang, tường kim cang, lửa kim cang, đây là ngọn lửa đơn tầng, còn đây là ngọn lửa song tầng (Sư Tôn thị phạm thủ ấn).
Bảo bạn làm quán tưởng Quan Thế Âm Bồ Tát thân đàn thành để làm phòng hộ thì có tác dụng gì? Chính là vì lo sợ loại hàng phục này. Hôm nay tôi cũng giảng cho các bạn về tác dụng này, đương nhiên cũng muốn mọi người biết rằng, không thể đi làm pháp này, phải hiểu phòng hộ, nhưng đừng đi làm pháp này. Bản thân Sư Tôn cũng vậy. Tôi biết những pháp này, ví dụ pháp hàng phục của Bất Động Minh Vương, ví dụ pháp hàng phục Đại Uy Đức Kim Cang giáo lệnh luân, tôi đều biết cả, tôi biết làm pháp. Tôi biết dùng chày kim cang một chấu ba mặt để làm pháp, mỗi lần tôi làm pháp dùng chày kim cang một chấu ba mặt sẽ là quán tưởng toàn bộ địa cầu, cầm chày kim cang một chấu ba mặt lên, đầu tiên thỉnh cầu các vị tổ sư nhiều đời gia trì, sau đó phóng quang chiếu đến toàn bộ địa cầu, không phải là tôi đang làm pháp hàng phục đâu, mà là tôi đang gia trì cho chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh. Pháp dùng vào việc tốt thì là tốt, dùng vào việc xấu thì sẽ thành xấu, giống như pháp hàng phục có thể dùng làm việc tốt.
Trước kia lão tổ sư làm pháp hàng phục là như thế này. Có đệ tử này rất hư, đầu tiên tôi phải hàng phục anh một chút, sau đó mới làm pháp tiêu tai, tiếp đó giúp anh tiêu tai, tức là hai phương diện này cùng làm, hàng phục trước sau đó tiêu tai, tức là chỉnh đốn lại anh một chút, sau đó cứu anh. Ý của lão tổ sư dùng pháp hàng phục là ở đây. Nhưng đôi khi, đối phó với một số ma, ác đạo hoặc ma quỷ cực hung ác, tổ sư Mật giáo phải dùng pháp hàng phục, sau đó dùng pháp siêu độ để siêu độ cho chúng. Chúng ta dùng pháp hàng phục chủ yếu nhất là phát tâm từ bi để hàng phục, chứ không phải thật sự là để chỉnh đốn con người hoặc hại người, mà là phát tâm từ bi, tôi muốn độ người này, phải dùng phương pháp hàng phục đặc biệt, đầu tiên hàng phục họ đã, ở đây là dùng tâm từ bi. Còn đối với những ma quỷ kia, ác quỷ phải dùng pháp hàng phục để hàng phục chúng, hàng phục xong thì lại dùng pháp siêu độ để siêu độ chúng, cho nên bản thân pháp hàng phục cũng không phải là việc xấu.
Mọi người cũng vừa nghe rồi, ôi chà, sao lại có loại pháp này chứ? Lại còn dùng dao mổ, dùng thuốc độc, dùng thịt ôi thiu, dùng hoa hồng gai, hoa có gai, dùng dịch của người chết, sau đó dùng dao cong đặt lên cổ của người nữa, giống như là lên đoạn đầu đài bị chặt đầu vậy, dùng chân phải của bạn đạp lên chân trái, dường như chẳng hề từ bi một chút nào.
Trên thực tế, pháp hàng phục có tác dụng khác, chủ yếu là dùng để đối phó với độc long, dạ xoa, ác ma, quỷ ma, những thứ ma quỷ đó, thật sự không dùng trên thân người, đây là sự từ bi của hành giả Mật giáo chúng ta, tuyệt đối không được giống như cái người trước kia, người này làm pháp hàng phục đi hàng phục người ta rồi hàng phục người ta chết luôn, muốn cứu cũng không kịp nữa, người kia đã chết rồi làm sao mà cứu được chứ? Chà! Chẳng có cách nào, chết cả rồi. Các bạn đừng có học xong rồi, thế là trở về muốn thử bản lĩnh của Sư Tôn, hurray! Trở về chọn mua đồ, nhanh chóng đi mua những thứ này, chuẩn bị xong rồi, cúng Đại Uy Đức Kim Cang, lập tức tự thân biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang, người đầu tiên tôi muốn thử chính là Sư Tôn đó! A Di Đà Phật! Giả sử tôi thật sự bị hàng phục thì không còn gọi là Sư Tôn nữa rồi.
Vừa rồi tôi đã giảng với mọi người bốn việc, chính là tức - tiêu tai, tăng - tăng ích, hoài - kính ái, tru - hàng phục. Tôi nói như vậy, mọi người có hiểu rõ không, tôi nghĩ là đã giảng rất rõ ràng rồi, đây chính là bí mật đó!
Nói thật lòng, trong số các đệ tử của Sư Tôn, đương nhiên tôi biết có rất nhiều người chẳng giữ phép tắc gì cả, đây là hiện tượng tự nhiên thôi, không có gì kì lạ cả, vì sao vậy? Bởi vì khi tôi đi học, ở trường mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, đại học, trong mỗi lớp học đều có vài học sinh cá biệt, giáo viên là đau đầu nhất với mấy học sinh cá biệt đó. Khi giáo viên viết trên bảng, quay đầu lại, bên dưới những học sinh ngỗ nghịch cầm phấn ném vào đầu giáo viên, giáo viên vừa quay đầu lại nhìn thì họ lại giả vờ rất ngoan, bạn học cũng không dám nói, bởi vì bạn học nào mà giơ tay muốn nói thì lát sau sẽ bị đánh. Ôi, sợ muốn chết, khi ấy tôi rất hèn nhát, vốn dĩ muốn báo cáo với giáo viên, giơ tay lên nhưng lại vội vàng rụt tay lại, bạn hư kia trừng mắt nhìn tôi một cái, lúc tan học ra ngoài cổng trường là tôi sẽ gặp nguy hiểm. Nhìn chung đều luôn có những học sinh như vậy.
Học trò của Sư Tôn nhiều như vậy, đương nhiên trong số đó có rất nhiều người ngỗ ngược không ngoan, nhưng hễ tôi nghĩ đến pháp hàng phục của Đại Uy Đức Kim Cang, pháp hàng phục của Bất Động Minh Vương, những pháp hàng phục này, tôi thấy họ thật đáng thương! Tôi chỉ cảm thấy đồng cảm với họ, đau lòng vì họ mà thôi! Sao có thể làm pháp hàng phục chứ? Không thể xuống tay được, đây là việc không thể nào, bởi vì tôi thường xuyên nghĩ thế này, đây là việc khó tránh, chúng sinh trong thiên hạ làm gì có chuyện dễ độ như vậy, kinh Bản Nguyện Địa Tạng Bồ Tát đã nói rằng: “Chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề tính kiên cường, khó điều phục.” Thật sự là rất khó điều phục.
Ngày hôm nay bạn hiển lộ một chút thần thông cho họ xem, họ tâm phục khẩu phục vui mừng muốn chết, lập tức rất vui vẻ, Sư Tôn thật sự rất lợi hại, có pháp lực, đi đâu cũng khen ngợi bạn, cách vài hôm thì họ đến thỉnh cầu nói rằng tôi muốn thi đậu giấy phép làm bác sĩ. Rõ ràng tôi biết là họ sẽ không thi đậu, nhưng được, tôi gia trì cho anh. Họ trở về và vẫn không thi đậu, vì sao lại không thi đậu chứ? Chẳng phải ông đã gia trì cho tôi rồi sao? Ấy, thần thông của ông đi đâu mất rồi? Chuyện này làm sao mà được chứ? Tôi không thèm ông nữa. Họ phớt lờ tôi, đương nhiên tôi rất đau lòng.
Sư Tôn nhìn thấy phúc phần của rất nhiều người, biết người đó không có phúc phần, vì sao vẫn cứ tiếp tục ở đó đấu tranh cho họ chứ? Vì chúng ta cảm thông với họ, hi vọng họ có thể tu pháp mà có được phúc phần. Tôi gia trì cho anh một chút phúc phần vậy! Nhưng phúc phần đó vẫn chưa thể nào giúp thi đậu được đâu! Nhưng mà tôi vẫn muốn gia trì cho anh, chí ít tôi còn có chút lợi ích, đây là việc rất thật, tôi không có gì phải giấu diếm. Bạn đến cầu gia trì, tôi lại nói: “Tôi không gia trì cho anh.” Hoặc nói với người ta là “anh không thi đậu đâu”, thế thì làm người ta đau lòng biết bao, tôi lúc nào cũng muốn gia trì cho anh! Nhưng tôi nói nhỏ một chút là chẳng có cách nào đâu, còn nói to một chút thì sẽ bảo là “Được thôi! Không vấn đề!” Đúng thật là không có vấn đề, anh nhất định có thể thi đậu, “Ừ! Được thôi!” Việc này đúng là cũng chẳng có cách nào, đôi khi tôi không thể nói quá thẳng thắn được. Độ chúng sinh đôi khi là như vậy đó, rất khó khăn, rất khó khăn, muốn mọi người hiểu được tâm của Sư Tôn cũng rất khó khăn. Tôi làm việc gì cũng khéo léo điều chỉnh một chút, trên thực tế Sư Tôn có đầy đủ công lực, tôi tự biết về mình, chính tôi cũng tin rằng bản thân mình có thành tựu.
“Hum” chính là thành tựu. “Om” là vũ trụ. “Ah” chính là Phật. Tôi tự mình tin rằng việc tu hành của mình, trong đời này tôi đã làm rất nghiêm túc, hơn nữa cũng rất xuất sắc. Chính tôi cũng tin rằng tôi đã chứng đắc minh điểm vô lậu, thành tựu nội pháp chuyết hỏa, bạn muốn thử công phu của tôi cũng được, thiên nữ cũng đến thử công phu của tôi, cũng được thôi, không hề gì, đều như nhau. Tôi thật sự đã thành tựu nội pháp rồi, bản thân tôi cũng đã khế hợp với tính Không, có thể tự kiểm soát mình, có thể tiến nhập vào đẳng lưu thân trong tính Không, chứng đắc pháp thân có thể đi khắp nơi cứu chúng sinh, cũng rất rõ ràng rành rọt, minh bạch. Giả sử đối với Sư Tôn mà bạn vẫn nói là “Ấy! Ông ta có phải là kẻ lừa đảo không nhỉ? Ông ta có phải là kẻ… háo sắc không?” Nói tiếng Quảng Đông chắc là mọi người nghe không hiểu lắm, I love color [tôi háo sắc], tôi yêu màu sắc rồi, tiếng Anh của tôi không tệ nhỉ, ông ấy có thích tiền không?
Tôi nói với mọi người sau này Sư Tôn sẽ dùng toàn bộ số tiền thu được vào một nơi - chính là sự nghiệp bồ đề, nhất định là thế. Tôi cảm thấy huệ mệnh của tôi quan trọng, sức khỏe của tôi quan trọng, mệnh và huệ này của tôi lớn hơn những thứ này, tôi thật sự có thể nhập vào tịch tĩnh. Bạn nói diamond [kim cương], những thứ gì tốt nhất tôi đều có rồi, đồng hồ tốt nhất cũng được người ta cúng dường rồi, có xe, có đồng hồ, có nhà đẹp nhất, tôi cũng không phải lo lắng về chi phí, tôi đi du lịch ở đâu cũng đều có người chi tiền. Chỗ tôi ở đều là người ta cúng dường chỗ tốt nhất, tôi còn mong cầu cái gì nữa?
Không có cái gì để mà mong cầu, bản thân tôi cũng chứng minh mình có thể đi trên trung đạo, đi trên trung đạo có thể tự kiểm soát mình, cứu người là việc vui vẻ nhất, cứu huệ mệnh của chúng sinh là việc vui vẻ nhất của tôi, cho nên nghĩ mà xem còn tham cái gì chứ? Có cái gì có thể tham? Cái tham lớn nhất tôi đã trải qua rồi, niềm sung sướng lớn nhất trên thế gian tôi đã trải qua rồi, bầu trời rực sáng, toàn bộ thiên đường, niềm vui của Phật quang tịnh thổ, tôi cũng đã trải qua rồi, nhập vào tịch diệt, cảnh giới của Phật tôi cũng trải qua rồi, tôi còn tham cái gì nữa? Cho nên việc tốt nhất, việc vui sướng nhất chính là độ hóa chúng sinh.
Pháp Đại Uy Đức Kim Cang, bạn muốn tu trì thành tựu cũng thế thôi, bạn bắt đầu thỉnh cầu cũng là bảy đàn pháp, tu bảy đàn pháp cho viên mãn, bạn tu bảy đàn pháp mà không thấy tướng gì thì lại tu bảy đàn pháp nữa, cứ tiếp tục như vậy cho đến khi nhìn thấy tướng. Nhìn thấy ánh sáng, nhìn thấy khói, nhìn thấy lửa, ba sự nhìn thấy này, nhìn thấy trong định, nhìn thấy trong mơ, nhìn thấy trong lúc tỉnh, bạn đều có hiện tượng tương ứng, hãy nhớ hễ bạn nhìn thấy thì lập tức thề nguyện với ngài, đây chính là khẩu quyết, lập tức phải có lời thề samaya với ngài, đây chính là khẩu quyết. Nếu có thể có được Hộ pháp đi theo bạn, thế thì ba căn bản lớn của Mật giáo là Căn bản Bổn tôn, Căn bản Thượng sư, Căn bản Hộ pháp, bạn đều không xả li, không vi phạm giới samaya thì bạn nhất định có được thành tựu Mật giáo lớn nhất.
Bạn chỉ cần có sự tu hành lâu bền thì bạn nhất định có thể khai ngộ, hãy nhớ là tâm lâu bền. Sự phát tâm ban đầu cũng rất quý giá, nhưng người bình thường muốn duy trì được sự phát tâm ban đầu ấy, biến nó trở thành tâm lâu bền thì rất khó, rất khó đấy. Ban đầu thì bạn muốn hi sinh sinh mạng của mình để vì chúng sinh, kết quả là cuối cùng lại biến thành vì chính mình, bạn không những không vì chúng sinh mà lại chỉ vì chính mình, tự tư tự lợi, khởi lên đủ thứ vọng tưởng điên đảo, thế thì tương lai nghiệp báo sẽ rất thảm, rất không hay, sẽ đọa vào tam ác đạo, muốn bắt đầu tu hành lại sẽ rất khó đấy.
Vì thế hãy nhớ, chúng ta tu Mật pháp, phải khẩn trương giữ gìn giới samaya, sau đó luôn luôn thận trọng tu hành trong hành vi thanh tịnh của bạn. Bạn chỉ cần tập trung tinh thần, nghị lực đời đời bền vững, Hộ pháp sẽ dõi theo bạn, bạn cầu ngài, đương nhiên ngài sẽ biết, nhưng ngài phải xem tâm của bạn, nếu bạn đích thực là tâm chân thành, ngài nhất định sẽ đến bảo vệ bạn, bạn thật sự sám hối, thật sự giữ giới samayaa, ngài nhất định sẽ đến. Phật cũng sẽ bảo vệ bạn, Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp, Không Hành Chư Thiên, ngài đều sẽ nghe lệnh của bạn, cho nên bạn tu hành tức là cần phải nhớ lời tôi vừa mới nói. Hôm nay tôi truyền thụ cho bạn samaya Đại Uy Đức Kim Cang, Đại Uy Đức Kim Cang bất cộng pháp, mọi sự nghiệp của Đại Uy Đức Kim Cang [tức tăng hoài tru], hi vọng mọi người ghi nhớ, ngẫm nghĩ cho kĩ càng.
Om mani padme hum!
24. Thánh tôn Liên Sinh Hoạt Phật truyền thụ pháp “Tứ trùng kết giới”
Buổi lên lớp hôm nay, tôi đặc biệt nói một bài kệ: Ba pháp thành tựu Tốt nhất Hộ Ma Cúng thân khẩu ý Phúc huệ đề huề.
Xin chào các vị Thượng sư, pháp sư, các vị đồng môn. Đàn pháp Hộ Ma hôm nay rất thú vị, bởi vì trong lò bốc cháy, bên dưới lò cũng bốc cháy, quanh miệng lò cũng bốc cháy. Tôi cảm thấy rất kỳ quái, rốt cục là có chuyện gì vậy, vì sao mà cả ba chỗ đều vượng như vậy. Dường như là ở chính giữa cũng vượng, ở bên cạnh cũng vượng, ngay cả dưới đáy cũng vượng.
Làm Hộ Ma, có một vị nhất định phải thỉnh tới, bởi vì Hộ Ma dùng lửa là chính, cho nên đó chính là Hỏa Thiên Thần, không biết trong sớ văn có thỉnh Hỏa Thiên Thần không? (Đáp: không có.) Ồ! Không có thỉnh Hỏa Thiên Thần, cho nên Hỏa Thiên Thần mới phát hỏa [nổi giận] đó (mọi người cười). Bạn thấy không đúng sao, sao mà lại giữa lò cũng cháy, bên dưới cũng cháy, ngay cả bên cạnh chỗ rượu XO này cũng cháy (mọi người cười). Tôi còn chưa cúng Địa Thần, cúng Kim Cang Thần, sao mà các vị đã đến tranh chai rượu XO này rồi. Tôi nghĩ tới chuyện này nên hỏi một chút, Hộ Ma hôm nay có chuyện gì vậy nhỉ? Ngài nói chủ yếu nhất là nhất định phải thỉnh chủ tôn Hộ Ma.
Sau đó chủ yếu là phải đưa Hỏa Thiên Thần tới. Nếu bạn không thỉnh Hỏa Thiên Thần thì như thế là đã bỏ sót. Cho nên trong nghi quỹ Hộ Ma, nhất định phải có một vị mà bắt buộc phải thỉnh tới, chính là Hỏa Thiên, bạn nhất định phải thỉnh Hỏa Thiên. Cho nên trong sớ văn đã bỏ sót không thỉnh Hỏa Thiên, vì thế ngài mới phát hỏa.
Thế nhưng phát hỏa cũng rất tốt, rất vượng, tôi đặc biệt trong lúc tu pháp này đã kết thủ ấn của Hỏa Thiên, đặc biệt triệu thỉnh ngài, do đó tâm tình của ngài mới tương đối dịu xuống một chút (mọi người cười). Vì thế làm Hộ Ma có hai vị nhất định phải thỉnh. Thứ nhất là chủ tôn, bạn nhất định phải nhấn mạnh. Vị thứ hai, bạn nhất định phải tăng cường phụng thỉnh Hỏa Thiên. Bởi vì lửa Hộ Ma nhất định phải do Hỏa Thiên đến làm chủ.
Hộ Ma hôm nay rất tốt, có Quan Âm Tứ Thủ hạ giáng, có Bất Động Minh Vương, còn có các vị Kim Cang Hộ Pháp, bao gồm Diêm La Thiên, còn có mấy thiên chúng nữa, tất cả đều hạ giáng. Hy vọng Hộ Ma lần này có thể cho mọi người có cảm ứng rất tốt (mọi người vỗ tay).
Ngoài khuyết điểm nhỏ này ra, những việc khác đều vô cùng thù thắng và viên mãn. Bởi vì có ánh sáng phổ chiếu, khi La Sát Thiên đến, ngài nhất định sẽ nổi gió. Thậm chí khi có một vị Trời kia đến, ngài sẽ nhổ cây, sẽ làm cây bật gốc hết, cho nên vị Trời này rất lợi hại, khi vị Trời này đến thì gió thổi, có mưa, cây bật gốc.
Vừa rồi tôi nói rằng: “Ôi chao! Hy vọng cái lều của chúng ta sẽ không bị nhổ lên.” Tôi nói: “Úi chà! Các ngài đến là tốt rồi, đừng có giương oai, cái oai ấy không cần phải giương quá mạnh đâu, cái lều này phải giữ vững để cho mọi người an toàn.” Tất cả mọi thứ khác thì hết sức tốt đẹp. Rất nhiều thiên chúng và Kim Cang Thần đều đến (mọi người vỗ tay). Bao gồm Đại Uy Đức Kim Cang, Uế Tích Kim Cang, Bất Động Minh Vương, Dạ Xoa Kim Cang Minh Vương, Cam Lộ Minh Vương, Thắng Lạc Kim Cang, Mã Đầu Kim Cang, các vị đều đến.
Có 19 vị Kim Cang Thần đã đến, mười vị Đại Minh Vương cũng đến gần hết. Tôi vừa nhìn thấy nhiều Minh Vương đến như vậy thì rất chấn động, cũng có thể nói là toàn bộ đàn thành đều rất chấn động. Cho nên hôm nay chắc là có sự việc cảm ứng rất lớn. Sư Tôn hy vọng các bạn sẽ chấm dứt mọi tai nạn, bệnh tật trên người các bạn cũng có thể tiêu trừ, có thể gia tăng phúc phần của các bạn. Mọi siêu độ chính là do Diêm La Thiên và Địa Tạng Vương Bồ Tát, ngoài ra là A Di Đà Phật, tiếp dẫn họ liên tục vãng sinh đến tịnh thổ ở Tây phương.
Om mani padme hum.
Tiếp theo tôi lại giảng pháp Tứ trùng kết giới, đợi một lát nữa tôi sẽ làm quán đảnh pháp Tứ trùng kết giới cho mọi người. Pháp Tứ trùng kết giới là một phương pháp phòng thân của Mật giáo. Mật giáo làm rất nhiều pháp phòng thân và phòng đàn thành. Cho nên nói chung, hành giả Mật giáo phải cùng tu thân thể và tâm linh, nói cách khác là tính mệnh song tu.
Thân thể của bạn phải rất tốt, tâm linh của bạn cũng phải rất thượng thừa. Hiển giáo bình thường chỉ chú trọng tu hành về mặt tâm linh, còn về mặt thân thể thì không quan tâm. Cho nên người xuất gia của Hiển giáo có rất nhiều người đều mang bệnh mà tu hành, tức là thân thể họ có rất nhiều bệnh, bị ho kinh niên, giấc ngủ không tốt, hoặc là có một số bệnh mãn tính, rồi đủ loại bệnh về gan, tỳ vị, thận. Người xuất gia thường xuất hiện với bộ dạng còng lưng, yếu ớt uể oải.
Thế còn Kim cương thừa của chúng ta thì đặc biệt không như vậy, nhất định phải có thân thể kim cang và tâm kim cang, thân thể và tâm đều phải như nhau, tu tốt như nhau. Phải tu thân thể cho tốt, phải biết phòng hộ, cho nên Mật giáo đặc biệt coi trọng các pháp phòng hộ như pháp mặc bia giáp hộ thân, pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn, pháp đó đều có thể phá được bùa chú giáng đầu. Đặc biệt là pháp tránh tai nạn Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát thân đàn thành là cực kì hay. Thế còn lát nữa đây Sư Tôn sẽ giảng cho mọi người về Tứ trùng kết giới, cũng là một loại phòng hộ, bao gồm đàn thành và chính bản thân bạn.
Tứ trùng kết giới của Mật giáo chính là đầu tiên phải cắm cọc kim cang, cố định xung quanh đàn thành và thân thể bạn, cắm chắc bốn cái cọc kim cang. Trong hư không buông xuống võng kim cang, dựng lên bốn bức tường kim cang vây quanh bốn cái cọc kim cang này, trên tường lại bùng lên ngọn lửa kim cang. Cái này chính là Tứ trùng kết giới. Cọc kim cang chính là ranh giới với đất, võng kim cang chính là ranh giới với trời, tường kim cang chính là ranh giới với xung quanh, ngọn lửa kim cang chính là ranh giới bảo vệ. Tứ trùng kết giới này có hình vuông, bốn cái cọc chính là cọc kim cang, thế rồi hư không buông xuống võng kim cang, dựng lên bốn bức tường kim cang xung quanh, xung quanh bốn bức tường thì nổi lửa kim cang.
Ở đây cần làm quán tưởng, quán tưởng bốn cái cọc kim cang cắm chắc xuống, không trung buông xuống võng kim cang, xung quanh dựng lên tường kim cang, xung quanh bốn bức tường bùng lên ngọn lửa kim cang. Làm như vậy, bạn tu pháp và đàn thành của bạn sẽ đều bình an vô sự, mọi ma đều không thể tiến vào, đây gọi là Tứ trùng kết giới. Tứ trùng kết giới có bốn thủ ấn, bốn thủ ấn như thế này (Sư Tôn thị phạm thủ ấn).
Thứ nhất là thủ ấn cọc kim cang, khi làm thủ ấn cọc kim cang thì sẽ cố định cọc kim cang ở bốn góc. Tiếp theo thả hai ngón cái ở dưới ra, thế là thành võng kim cang, làm quán tưởng võng kim cang, có tấm lưới hình võng từ trong hư không giáng xuống, đặt lên trên bốn cái cọc kim cang. Tiếp theo là dựng lên bức tường kim cang, lật ra một cái là thành tường kim cang, lật qua thế là biến thành bức tường kim cang, đứng thẳng, bốn xung quanh dựng lên bức tường kim cang. Sau đó thắp lên ngọn lửa kim cang, chính là dùng ngón trỏ và lòng bàn tay, đây chính là đại diện cho lửa bùng lên. Điểm một cái, lửa bùng lên, đây là ngọn lửa kim cang.
Bốn thủ ấn này đều có: cọc kim cang, võng kim cang, tường kim cang, lửa kim cang, khi bạn làm thủ ấn đó thì cần quán tưởng như vậy. Quán tưởng được như vậy thì sẽ không có chuyện gì nữa, bạn có thể bình an tu pháp ở trong đó, không sợ bị ma chướng, ma đến cản trở cũng vô ích, bởi vì bạn có Tứ trùng kết giới. Hôm nay tôi sẽ quán đảnh cho mọi người pháp này (mọi người vỗ tay). Để tránh cho hành giả Mật giáo các bạn tu bao lâu mà ai cũng sinh bệnh, thế thì không được rồi.
Trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, Sư Tôn đã nhắc đến. Khi tôi đến quận Ballard để giúp một người mất ngủ 19 năm, gia trì cho người đó. Khi tôi vừa mới gia trì cho người đó thì con ma ở trên người đã làm cho họ bị mất ngủ bấy lâu vội vàng bỏ chạy.
Đêm hôm đó khi tôi đang ngủ, tôi nằm trên giường ngủ, con ma đó liền đến. Nó nói: “Hay đấy nhỉ! Tôi muốn lấy mạng của người này, muốn cho hắn chết luôn, người này nghiệp chướng rất nặng. Vì ông đã đến gia trì cho hắn, hại tôi không có cách nào trốn trong thân thể hắn được nữa, tôi phải chạy. Nhưng tôi vẫn muốn tìm đến ông bởi vì ông đã đuổi tôi đi.”
Nó đang tìm tôi, trong lòng nó có nỗi oán giận, trong lòng con ma đó có sự oán hận, nó đã tìm đến tôi. Buổi tối tôi đi ngủ, nó đến đấm cho tôi một cái vào tim, “thụp”, đấm một cái. Tôi liền tỉnh dậy, không ngủ được nữa. Một lát sau tôi lại ngủ thiếp đi, “thụp”, lại một đấm nữa, lại không ngủ được. Hễ tôi ngủ, lúc sắp ngủ rồi thì hắn đột nhiên lắc chuông kim cang bên tai tôi “tinh”, khiến tôi thấy ồn ào quá mà tỉnh dậy (mọi người cười). Một lúc sau tôi lại sắp ngủ thì hắn lại đánh vào đầu tôi một cái, không sao ngủ được nữa, tôi biết hắn đang quấy nhiễu tôi.
Nhưng tôi cũng biết rằng, người bệnh kia nhất định sẽ khỏi, bởi vì con ma này đã ra khỏi thân thể của người đó, nó đến tìm tôi, thế thì người bệnh kia tối hôm nay nhất định sẽ ngủ rất ngon. Con ma này đến quấy nhiễu tôi, khi ấy tôi dùng phương pháp mà sư phụ dạy, tôi liền quán tưởng giường mình biến thành một bông hoa sen, bông hoa sen rất đẹp, tôi ngủ ở bên trong bông hoa sen này. Sau đó tôi lại quán tưởng xung quanh bông hoa sen này là hồ sen, nước cam lộ rất đẹp, đầy ắp cả hồ sen. Hoa sen ở trong hồ, tôi ngủ trong hoa sen. Chà! Trong phút chốc đã yên ổn rồi.
Không ngờ, con ma kia còn có thần thông nữa, không ngờ nó lại biến thành một con rắn nước (mọi người cười). Tôi nghĩ có hồ nước thế này đã rất hay rồi, xung quanh tôi đều là nước, nó nhất định không vào được. Nó lại biến thành con rắn nước, chuyển động trên mặt nước thế này, bơi đến bên cạnh chân tôi duỗi trên cánh hoa sen. Lúc tôi đã sắp ngủ thì nó liền cắn vào đầu ngón chân tôi. Ối! Tôi lại bị nó đánh thức, tôi nói: chuyện gì thế này, con ma này lợi hại ghê, nó biết biến thành con rắn nước cơ đấy.
Được! Tôi liền nổi lửa kim cang ở bên cạnh hoa sen, thật may là sư phụ đã dạy tôi chiêu này, xung quanh bông hoa sen biến thành hoa sen lửa, ngọn lửa kim cang đã được thắp lên như vậy (Sư Tôn thị phạm thủ ấn). Ngọn lửa kim cang cũng có cách làm như thế này, cũng là ngọn lửa kim cang, lửa kim cang hai tầng. Thắp lửa là như thế này, lửa kim cang hai tầng là như thế này (Sư Tôn thị phạm thủ ấn). Được rồi! Ngọn lửa kim cang đã bùng lên xung quanh rồi. Chà! Con rắn nước kia lại từ chỗ rất xa bơi lại. Ối! Nó chỉ có thể biến thành rắn nước, nhưng không thể biến thành phượng hoàng lửa (mọi người cười). Nó đến gần sát, gặp lửa một cái là “Xèo!” Barbecue [thịt nướng] (mọi người cười, vỗ tay). Nó không thể vào trong được, thế là tôi có thể ngủ ngon lành rồi.
Hàng ngày mỗi khi lên giường đi ngủ, Sư Tôn đều sẽ quán tưởng giường mình hóa thành hoa sen, bản thân ngủ an lành ở giữa hoa sen, rồi lại thắp lên ngọn lửa kim cang, hoa sen lửa, thì sẽ chẳng có ma nào có thể làm hại được giấc ngủ của tôi, không có ma chướng, cho nên đây chính là lợi ích của kết giới này.
Vì thế Mật giáo có kết giới, phòng ma, mặc bia giáp hộ thân, Quan Âm thân đàn thành tránh tai nạn, đây đều là để hàng phục bùa chú giáng đầu. Có người làm gì bạn đều không phải sợ, bởi vì bạn có kết giới, bốn góc có cọc kim cang, hư không có võng kim cang, xung quanh có tường kim cang, còn có lửa kim cang nổi lên nữa, đây chính là pháp Tứ trùng kết giới của Mật giáo, nhất định phải học.
Bình thường chúng ta mặc bia giáp hộ thân, tu pháp làm Tứ trùng kết giới, buổi tối đi ngủ, bạn cũng có thể quán tưởng Tứ trùng kết giới thì sẽ không có ma chướng. Bạn có thủ ấn, bạn có quán tưởng, bạn lại còn niệm chú nữa. Niệm Cam Lộ Minh Vương [Quân Đồ Lợi Minh Vương] chân ngôn: “Om amita hum pan. Om amita hum pan. Om amita hum pan.” Đây là kết giới của và chú ngữ của Cam Lộ Minh Vương. Các bạn niệm chú, quán tưởng, lại kết thủ ấn. Pháp Mật giáo này các bạn học được rồi thì thân tâm của chính các bạn sẽ khỏe mạnh.
Vâng, cảm ơn mọi người (mọi người vỗ tay). Om mani padme hum.
(Hết)