📗

281. Thiên hạ đệ nhất linh

image

Thiên hạ đệ nhất linh

🪷 Thật sự quá chuẩn xác

Văn tập: 281 Xuất bản: 31/12/2020 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Năm xưa. Tại Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung, tôi đã được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn và mở thiên nhĩ, tôi đã trở thành "người thông linh". (50 năm trước)

Có một lần, tôi đi tàu hỏa. Ngồi cạnh là một nam thanh niên trẻ tuổi tôi không quen biết. Tôi đột nhiên nảy ra một ý nghĩ kì lạ, sao không thử xem mình thông linh có chuẩn hay không. Thời gian đó tôi cảm thấy rất hiếu kì.

Tôi nhắm mắt lại. Tập trung tinh thần. Đối tượng chính là nam thanh niên xa lạ ngồi bên cạnh tôi trên chuyến tàu hỏa. Tôi đã lấy anh ra làm trò thực nghiệm của mình. Sau khi thông linh xong, tôi lấy ra một tờ giấy và một cây bút, viết xuống mấy hàng chữ.

1. Họ Hồng. 2. Là con thứ ba trong nhà. 3. Tốt nghiệp Đại học Chính Trị.

Tôi nghĩ như thế là đủ rồi. Tôi quay qua anh ta và khách khí đưa tờ giấy cho anh xem. Anh thanh niên xem tờ giấy thì ngây người ra. Anh nhìn tôi đầy ngạc nhiên, hỏi: "Anh là ai? Sao anh lại biết tôi?" Tôi không trả lời câu hỏi của anh, chỉ hỏi ngược lại: "Chuẩn không? Đây là tôi thần toán đó." Anh đáp: "Cực chuẩn!"

Tôi nói với anh rằng mình là người thông linh. Thật ra tôi đang kiểm tra trình độ thông linh của mình. Người thanh niên không quen biết này chẳng hề tức giận. Anh nói anh thật sự mang họ Hồng, là con thứ ba trong gia đình, đồng thời cũng đã tốt nghiệp Đại học Chính Trị. Ba điều này đều cực chuẩn không sai tí nào.

Anh ta còn hiếu kì hơn, anh hỏi: "Nhà tôi có gì đặc biệt?" Tôi nhắm mắt tập trung tinh thần. Tôi trả lời: "Nhà anh có nuôi một con vẹt." Anh sửng sốt đến mức đứng bật dậy khỏi ghế ngồi. Anh lại hỏi: "Nhà tôi còn có gì nữa?" Tôi đáp: "Trong nhà có bàn thờ thần, vị ở giữa là Pháp Chủ Công." Anh kinh hãi.

Anh kể với tôi, bản thân anh không quá tin vào thần, nhưng ngược lại, vợ anh lại khá tin, bàn thờ thần trong nhà là do vợ anh thờ cúng. Sau cuộc trò chuyện với tôi lần này, quan niệm của anh đã thay đổi rồi. Anh cho rằng thật sự không thể tưởng tượng được. Anh tự nói với chính mình: Trên tàu cứ theo số ghế trên vé mà ngồi. Hai người trước nay chưa hề quen biết, chỉ là ngồi cạnh nhau. Lư Thắng Ngạn ngồi cạnh lại có thể biết được rất nhiều chuyện về anh, sao có thể như vậy được?

Anh bảo tôi: "Sau này có việc gì khó khăn, chắc chắn sẽ đến thăm anh!" Tôi nói: "Vị cao linh số một của tôi chính là Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu đã giúp tôi luôn linh linh linh. Chuẩn chuẩn chuẩn." Bingo! Vạn tuế! Thắng lợi!

Cuộc đời này tôi tôn sùng nhất là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, ngài là "thiên hạ đệ nhất linh".

(Tháng 10/2020)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Vài chuyện nhỏ trong cuộc đời tôi

Nay tôi đã 76 tuổi rồi. Hồi tưởng lại những khai sáng của Diêu Trì Kim Mẫu trong cuộc đời này của tôi, đại loại có mấy việc cũng tương đối thù thắng.

26 tuổi, Diêu Trì Kim Mẫu hỏi tôi: "Bây giờ con có nguyện vọng gì, ta sẽ giúp con đạt được!" Tôi nhất thời chẳng nghĩ ra, buột miệng nói: "Con chỉ hy vọng công việc của con đều ở Đài Trung." (Bởi vì nhà tôi ở Đài Trung.) Diêu Trì Kim Mẫu bảo được.

Kết quả là đơn vị công tác của tôi đều ở Đài Trung.

1. Đơn vị trắc lượng Đài Trung Nam Môn Kiều số 5802. 2. Xưởng bản đồ Đài Trung.

(Tôi tốt nghiệp khóa 32 trường Trắc Lượng, tương đương với tốt nghiệp Học viện Công nghệ và Khoa học Trung Chính khóa 28. Tôi thuộc bộ Đại học Quân Đội, sau khi tốt nghiệp phục vụ trong quân đội 10 năm, đều ở Đài Trung.) Lời Diêu Trì Kim Mẫu đã nói đúng là: Thần chuẩn!

Năm 38 tuổi, tôi di cư sang Mỹ. Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Đi Mỹ, hoằng pháp toàn thế giới!" Tôi, Sư Mẫu, Phật Thanh, Phật Kì, nghe theo lời của Diêu Trì Kim Mẫu, bốn người bốn tay nải (ngay cả va ly hành lý cũng không có). Cứ thế đặt chân lên Mỹ Quốc đại lục. Quả nhiên tôi hoằng pháp khắp thế giới. Lời Diêu Trì Kim Mẫu đã nói đúng là: Thần chuẩn!

Năm 56 tuổi, Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Con có một kiếp nạn trong pháp, cần bế quan bảy năm."

1. Tạm thời đi một chuyến đến Tahiti. 2. Trở về Đài Loan tìm Hứa Đức Toàn. (Thượng sư Liên Cực) 3. Mau chóng chuyển nhà (nhà ở Mỹ).

Ba điểm chính mà Diêu Trì Kim Mẫu bảo tôi cực kì quan trọng.

1. Dương đông kích tây. Khiến đối phương không tìm được tôi. 2. Hứa Đức Toàn khi đó không nghề không nghiệp, là người tự do, có thể chăm lo cho tôi. 3. Chuyển nhà ở Mỹ, đối phương không tìm được tôi.

Sau này đã chứng minh rằng: Đối phương không tìm được nhà của tôi ở Mỹ. Đối phương đến Tahiti tìm tôi, cũng không tìm thấy. (Tôi chỉ tạo ra một sự đánh lừa.) Tìm Hứa Đức Toàn cũng đúng luôn, ông ấy đã chăm lo cho tôi ba năm rưỡi. Ông là người tự do nhàn rỗi chẳng bận việc gì. Lời Diêu Trì Kim Mẫu đã nói đúng là: Thần chuẩn!

Năm 66 tuổi, Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "66 tuổi thì con có thể trở về rồi!" Câu nói này như sét đánh ngang tai. Trên pháp tọa tôi đã kể nhiều lần rồi. Trời ạ! Năm tôi 66 tuổi, vì một lý do nhỏ mà tôi quyết định trở về Đài Loan hoằng pháp. Mùa đông, tôi ở Đài Loan. Mùa hè, tôi trở về Seattle nước Mỹ. Cuộc sống như vậy tổng cộng kéo dài 7 năm. Vì sao tôi phải làm như vậy? Hóa ra là Diêu Trì Kim Mẫu muốn tôi xây dựng hoàn chỉnh Đài Loan Lôi Tạng Tự. (Nếu như tôi không trở về Đài Loan thì Đài Loan Lôi Tạng Tự sẽ trở thành đống đổ nát.) Lời Diêu Trì Kim Mẫu đã nói đúng là: Thần chuẩn!

Năm 76 tuổi, vào năm 2019, Diêu Trì Kim Mẫu nói: Năm 2020 là một năm đại loạn.

1. Bệnh dịch lớn ập đến. (Virus siêu cấp) 2. Nạn đói. (Châu chấu di cư và những việc khác) 3. Chiến tranh. 4. Kinh tế chỉ đạt 20 điểm.

Kết quả, virus Corona lan ra khắp thế giới, những đàn châu chấu di cư che phủ kín cả trời đất, hàng trăm doanh nghiệp phá sản, tôi nói kinh tế được 20 điểm vẫn còn là rộng rãi. Số người thất nghiệp tăng đột ngột, còn chiến tranh thì vẫn tiếp diễn……….. Lời Diêu Trì Kim Mẫu đã nói đúng là: Thần chuẩn! Ngài là thiên hạ đệ nhất linh.

02. Diêu Trì Kim Mẫu nói tôi là Liên Hoa Đồng Tử

Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Tạp Tử! Con mang cốt Phật!" "Tạp Tử! Con là Liên Hoa Đồng Tử!" Hai chữ Tạp Tử này là tên gọi hồi nhỏ của tôi. Cha mẹ tôi đều gọi tôi như vậy. Tạp Tử là âm tiếng Nhật, cũng có ý nghĩa là "thắng". Diêu Trì Kim Mẫu gọi tôi là Tạp Tử, vô cùng thân thiết. Đặc biệt là Ngài nói tôi là: "Cốt Phật." "Liên Hoa Đồng Tử." Tôi vĩnh viễn nhớ như in.

Diêu Trì Kim Mẫu nói tôi là Liên Hoa Đồng Tử, khi đó tôi đang bay trong hư không. Tôi muốn đi đến Diêu Trì Tiên Cảnh, đôi mắt tôi nhìn hướng về đỉnh núi Côn Luân, ở trên những ngọn gió Cương Phong. [Trong Đạo giáo, Cương Phong là những cơn gió thiên thể rất mạnh, chỉ có những bậc Thần Tiên mới có thể cưỡi được.] Đó không phải là nơi con người có thể đến, bởi vì Cương Phong rất mạnh, sắt thép sỏi đá đều sẽ bị đập nát, không người nào có thể đến được. Ngoài ra còn có sông dài rộng hiểm trở, ngay cả lông ngỗng cũng chẳng nổi được thì thế giới thế tục chẳng người nào có thể qua được. [Theo truyền thuyết, ở phía Bắc của núi Côn Luân có một dòng sông hiểm trở tên là sông Nhược Thủy, vì vậy thành ngữ “nhược thủy tam thiên” từ xưa đã được dùng rộng rãi để chỉ những dòng sông hiểm trở.]

Diêu Trì Kim Mẫu để cho tôi cưỡi: "Chim phượng hoàng xanh." Chim phượng hoàng xanh là cỗ xe của Diêu Trì Kim Mẫu. Nhờ có chim phượng hoàng nhỏ làm bạn, tôi đã vượt qua được dòng sông Nhược Thủy, vượt qua được Cương Phong. Bởi thế, tôi đã nhớ rõ được: "Tôi chính là Liên Hoa Đồng Tử!"

Tôi hỏi Kim Mẫu: "Liên Hoa Đồng Tử là sao?" Kim Mẫu đáp: "Sau này sẽ biết." Tôi hỏi: "Làm sao để tìm được nguồn gốc của Liên Hoa Đồng Tử?" Kim Mẫu đáp: "Nhân gian đã có." (Về sau, thật sự là có, trong hang Đôn Hoàng đã có rất nhiều Liên Hoa Đồng Tử.) Xá Lợi Phất là Liên Hoa Đồng Tử. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là Liên Hoa Đồng Tử. Long Thụ Bồ Tát là Liên Hoa Đồng Tử. Tsongkhapa là Liên Hoa Đồng Tử. Lư Sư Tôn là Liên Hoa Đồng Tử. ...

Ngoài ra, vào thời Tùy - Đường ở Trung Quốc, có bài dân ca Đồng Tử:

Liên Hoa Đồng Tử gặp Kim Tiên. Khắp cả hư không hoa rơi xuống. Vượt mây nghe tiếng trời vi diệu. Lời nào tả xiết lạc cõi thiên.

Thì ra Liên Hoa Đồng Tử và A Di Đà Phật có nhân duyên to lớn, Liên Hoa Đồng Tử là hóa thân của A Di Đà Phật. Đông Vương Công. Tây Vương Mẫu. Liên Hoa Đồng Tử. Ba vị đứng cạnh nhau.

Cuối cùng tôi đã đến Diêu Trì Tiên Cảnh. Đó là một toà thành lớn rộng hàng nghìn dặm, có 12 lầu ngọc. Diêu Trì Kim Mẫu sống tại cung điện chín tầng được chạm khắc bởi những loại châu ngọc đẹp đẽ nhất, trong suốt lung linh. Bên ngoài cung điện có tường bao bằng vàng. (Kéo dài cả nghìn dặm.) Nam thần sống ở cánh phải. Nữ thần sống ở cánh trái. Các vị thần tiên thấy tôi (Lư Sư Tôn) đều vô cùng vui mừng. Nhưng tôi chẳng quen biết một ai cả, nguyên nhân là vì khi đó trí huệ của tôi vẫn chưa được khai mở.

Các vị gọi tôi là: "Tiểu giáo chủ." Hoặc: "Thiếu chủ." Tôi không hiểu vì sao tất cả thần tiên đều gọi tôi là Tiểu giáo chủ hoặc Thiếu chủ. (Nhưng sau khi tôi tu hành thì giờ đây tôi đã hiểu rồi.)

03. Cung điện Liên Hoa Đồng Tử

Theo như tôi biết: Diêu Trì Tiên Cảnh của Diêu Trì Kim Mẫu nằm ở trên những ngọn gió Cương Phong của đỉnh núi Côn Luân, bên trái có hồ Diêu Trì, bên phải có hồ nước xanh.

Diêu Trì Kim Mẫu là hóa thân từ khí diệu kì nhất của phương tây. Đông Vương Công là hóa thân từ khí diệu kì nhất của phương đông. (Đông Hoa Đế Quân) Hai loại nguyên khí này đã tạo nên và nuôi dưỡng trời đất, bồi dưỡng vạn vật. Nếu như muốn biết sâu hơn nữa, tôi nghĩ chỉ có ba chữ: "Không thể nói." "Không thể nói" ở đây cũng có nghĩa là không có cách nào mà nói cho hết. Vì sao vậy? Bởi vì tôi chỉ có thể gọi Diêu Trì Kim Mẫu là: "Thiên hạ đệ nhất linh khí".

Ở Diêu Trì Tiên Cảnh, Diêu Trì Kim Mẫu đưa tôi đến một cung điện khổng lồ, đứng sừng sững như một ngọn núi cao lớn. Kim Mẫu nói: "Đây là cung điện của con!" Tôi sửng sốt! "Con có cung điện ở Diêu Trì ư?" Kim Mẫu nói: "Đúng vậy." Tôi hỏi: "Tịnh thổ của con chẳng phải là ở Tây phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì sao? Vì sao lại ở Diêu Trì Tiên Cảnh?" Kim Mẫu nói: "Ta cười chê con chỉ biết một mà không biết hai. Liên Hoa Đồng Tử có cung điện ở Ma Ha Song Liên Trì, có cung điện ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, có cung điện ở Diêu Trì Tiên Cảnh." Kim Mẫu nói tiếp: "Giống như ở nhân gian, con có nhà ở Nam Sơn Nhã Xá, có Chân Phật Mật Uyển, có Biệt Thự Cầu Vồng, có Bồ Tát Đỉnh, có Tiểu Mật Uyển." Tôi ngẫm nghĩ, đã hiểu ra rồi!

Tôi đi vào trong cung điện khổng lồ của mình. Cung điện hoa lệ khiến tôi phải há hốc miệng trầm trồ. Nếu nói về sự hào hoa sang trọng thì nhân gian tuyệt đối chẳng có. Ở bên trong cung điện, tôi tự cảm thấy mình rất bé nhỏ, cung điện rộng lớn quá. Tôi hỏi Kim Mẫu: "Con nhỏ bé, cung điện lại rộng lớn thế này, không được thích hợp lắm chăng?" Kim Mẫu nói: "Ta sẽ khiến con xuất hiện nguyên thần, biến!"

Trong nháy mắt, tôi đã biến thành kim thân cao một trượng sáu, trở thành hình tướng một đại trượng phu môi hồng răng trắng. Tôi thấy mình thật ngốc! Hóa ra tôi có thể: Nhỏ biến thành to. To biến thành nhỏ.

Tôi lại trông thấy ở chính giữa cung điện có một bảo tọa lớn, trên bảo tọa có một người mặc thiên y màu trắng, tỏa sáng rực rỡ. Tôi hỏi: "Người kia là ai?" Kim Mẫu đáp: "Lư Sư Tôn!" Tôi lại sửng sốt. Tôi hỏi: "Con là Lư Sư Tôn, người kia cũng là Lư Sư Tôn, sao lại có hai Lư Sư Tôn?" Kim Mẫu cười lớn: "Con có pháp thân Lư Sư Tôn, có báo thân Lư Sư Tôn, có ứng thân Lư Sư Tôn. Người ngồi trên bảo tọa là báo thân, người ở nhân gian là ứng thân, ta sẽ để cho hai người nhập làm một vậy!"

Tôi từ từ bay lên! Rất nhanh chóng, Lư Sư Tôn này nhập vào Lư Sư Tôn kia. Trời ạ! Hóa ra tôi có thể: Hai người thành một người. Một người thành hai người. Một người hóa thành nghìn nghìn vạn vạn người. Bất chợt tôi hiểu ra vì sao chúng ta lại niệm Phật là: "Nam mô 36 nghìn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật."

04. Tam thân và Tứ thân

Theo như tôi biết: Chúng ta gọi pháp thân tức là thân tự tính (Chân như Phật). Báo thân tức là thân tha thụ dụng (Trí huệ Phật, Công đức Phật). Ứng thân tức là thân biến hóa. Sự phân biệt giữa pháp thân và ứng thân là: Tám tướng thành đạo của Phật là ứng thân. Phật nhất thời hóa hiện là pháp thân. Công đức Phật, Trí huệ Phật là báo thân.

Norlha Rinpoche còn có một so sánh như sau:

1. Trần trùi trụi --- Pháp thân. 2. Bán khỏa thân --- Báo thân. 3. Mặc quần áo --- Ứng thân. (Sự so sánh này rất hài hước.)

Còn Tứ thân thì phân chia báo thân thành hai loại: tự thụ dụng và tha thụ dụng. Cá nhân tôi cảm thấy những danh từ này chỉ là sự phân biệt trên phương diện con chữ và tên gọi mà thôi, rất dễ khiến người ta cảm thấy rối, khó hiểu.

Bản thân tôi phân biệt như sau:

1. Pháp thân tức là Phật tính. (Hư không) 2. Báo thân tức là Trí huệ hiển hiện ra. (Tịnh thổ) 3. Ứng thân tức là Ứng hóa xuất hiện. (Hữu tình vạn tượng)

Khi ứng hóa thân Lư Sư Tôn tiến nhập vào báo thân Lư Sư Tôn thì trí huệ mở mang. Tôi hiểu rõ ràng tường tận rất nhiều sự việc. Diêu Trì Kim Mẫu là thiên hạ đệ nhất linh khí, xưng hiệu của Ngài nhiều đến mức không thể đếm hết. Ví dụ: "Thượng Thánh Bạch Ngọc Quy Thai Cửu Linh Thái Chân Vô Cực Thánh Mẫu Diêu Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Vô Thượng Thanh Linh Nguyên Quân Thống Ngự Quần Tiên Đại Thiên Tôn."

Tôi nói cho mọi người biết: Vô Thượng Thanh Linh --- là không có ai cao hơn Ngài. Thống Ngự Quần Tiên --- tất cả Kim Tiên đều do Ngài thống lĩnh. Các xưng hiệu thông thường thì không đếm xuể: "Tây Vương Mẫu." "Vương Mẫu Nương Nương." "Tây Vương Kim Mẫu." "Kim Mẫu Nguyên Quân." "Tây Linh Vương Mẫu." "Cửu Linh Thái Diệu Quy Sơn Kim Mẫu." "Tây Trì Cực Lạc Kim Từ Thánh Mẫu." "Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Linh Thái Chân Kim Mẫu Nguyên Quân." "Vô Cực Diêu Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn." "Thiên Thượng Vương Mẫu Nương Nương Đại Thiên Tôn." ...

Tôi cũng hiểu vì sao Diêu Trì Kim Mẫu lại tìm Lư Thắng Ngạn để quảng độ chúng sinh hữu tình. Bởi vì: "Lư Thắng Ngạn chính là Liên Hoa Đồng Tử." Liên Hoa Đồng Tử ở thế giới Ta Bà đã chuyển thế vô số lần, tôi và những người con gái của Diêu Trì Kim Mẫu có liên quan đến nhau: Hoa Lâm. Mị Lan. Thanh Nga. Diêu Cơ. Ngọc Chi. Trong đó, Diêu Cơ chính là Vân Hoa phu nhân, cũng chính là người con gái thứ 23 của Diêu Trì Kim Mẫu. (Phu nhân của tôi.) Dựa vào mối quan hệ này, Diêu Trì Kim Mẫu tìm tôi. Tôi và Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, Quách Mật Hương, Uyển Lăng Hoa, Đoạn An Hương …………. Cũng đã kết duyên rất sâu nặng.

Còn đối với 12 Thiên nữ Cát Tường Thiên, 5 Thiên nữ Trường Thọ Thiên thì duyên phận giữa tôi và họ cũng rất sâu nặng. Tôi nói để mọi người biết, những Thiên nữ này dung nhan xinh đẹp, thần thái tuyệt vời, thế gian tuyệt đối chẳng có. Có rất nhiều câu chuyện ở đây.

05. Yến tiệc Diêu Trì

Thần Tiên Hàn Tương Tử có một bài thơ, tôi xin cung kính ghi lại dưới đây: [Hàn Tương Tử là một trong số 8 vị Tiên (Bát Tiên) của Đạo giáo.] Nơi núi non mây nước Hang này là nhà ta. Nước ngon đêm khuya uống Ráng đỏ sớm mai ăn. Đàn vang điệu bích ngọc Lư hương tuyền chu sa. Vạc quý giữ hổ vàng Ruộng đen nuôi quạ trắng. Một muôi gom tạo hóa Ba thước trảm yêu tà. Rượu ngon trong phút chốc Khoảnh khắc ấy nở hoa. Người nào học theo ta Tiên hoa ta cùng ngắm.

Tôi rất tán thưởng bài thơ này. Theo tôi được biết, Thần Tiên phân ra làm chín phẩm:

1. Cửu Thiên Chân Hoàng. 2. Tam Thiên Chân Hoàng. 3. Thái Thượng Chân Nhân. 4. Phi Thiên Chân Nhân. 5. Linh Tiên. 6. Chân Nhân. 7. Linh Nhân. 8. Phi Tiên. 9. Tiên Nhân.

Như Lão Tử, Đông Hoa Đế Quân, Diêu Trì Kim Mẫu đều thuộc về Cửu Thiên Chân Hoàng, là thần tiên nhất phẩm. Tôi thích bài thơ của Hàn Tương Tử, trong đó có hai câu thơ "Nước ngon đêm khuya uống, Ráng đỏ sớm mai ăn", đây là thức ăn của thần tiên. Thật khiến tôi say mê.

Ở Diêu Trì Tiên Cảnh, Diêu Trì Kim Mẫu đã vì tôi mà mở tiệc thiết đãi, dùng cờ vàng để triệu thỉnh các thần tiên đến tham dự. Nghe nói: Vẫy cờ vàng cũng tương đương với việc minh chủ triệu thỉnh các thần tiên từ mọi nẻo đường, thần tiên sống ở núi, ở phủ tụ hội về. Một mùi hương thơm lạ đưa đến là họ liền biết ngay lý do được gọi, từng vị tiến về Diêu Trì Tiên Cảnh.

Yến tiệc Diêu Trì này là Diêu Trì Kim Mẫu đặc biệt tổ chức vì tôi, đương nhiên là để giới thiệu tôi là: "Tây phương Liên Trì Hải Hội, Ma Ha Song Liên Trì, thập bát đại Liên Hoa Đồng Tử, Bạch Y Thánh Tôn, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư, Chủ Kim Cương Giới Bí Mật Chủ, Đại Trì Minh Đệ Nhất Thế Linh Tiên Chân Phật Tông, Lư Thắng Ngạn Mật Hành Tôn Giả."

Đến tham dự yến tiệc có cả hai Phật tám Bồ Tát. Tỳ Lô Giá Na Phật. A Di Đà Phật. Quan Thế Âm Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát. Hư Không Tạng Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát. Kim Cang Thủ Bồ Tát. Diệu Cát Tường Bồ Tát. Trừ Cái Chướng Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát. ...

Giới thần tiên có: Hồng Quân Lão Tổ, Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn, Lão Tử, Đông Vương Công, Xích Tùng Tử, Lữ Thượng, Vương Tử Kiều, Nghiêm Quân Bình, Thái Huyền Nữ, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quỷ Cốc Tử, An Kì Sinh, Hứa Tốn...

Yến tiệc Diêu Trì đã mở ra một sự khởi đầu mới, tôi trầm trồ khen ngợi. Ngòi bút này của tôi không sao mô tả hết. Khai tiệc cầu vồng hiện. Sáng đế võng minh châu. Nước ngon từ trên xuống. Ráng đỏ kín chân trời.

Tôi thấy trên bàn tiệc toàn là quang, khí, bay tới bay lui, không dùng đũa, không dùng bát đĩa, chỉ là hít vào và thở ra những ráng quang, vô cùng đẹp đẽ. (Thì ra thức ăn của thần tiên toàn là quang và khí.) Đó là yến tiệc Diêu Trì biến huyễn vô biên. Vân Hoa phu nhân nói: "Lư Sư Tôn! Chúng tôi chuẩn bị cho ngài món dồi non và bánh mai rùa." (Bởi vì tôi là người thế tục.)

06. Ân từ của Diêu Trì Kim Mẫu

Có một bài kệ ca ngợi Diêu Trì Kim Mẫu: Bạch ngọc lưu dấu, ngai rùa tu luyện. Nguyên thủy đẹp đẽ, muôn kiếp là Tiên. Người mẹ vũ trụ, là bậc chí tôn Nuôi dưỡng trời đất, hóa sinh vạn vật. Chúa tể càn khôn, ngụ cung Diêu Trì. Bồi dưỡng đạo đức, thái bình an vui. Con thuyền từ bi, phổ độ tiếp dẫn. Long hoa thánh hội, ban thưởng đào tiên. Đại đức chí nhân, độ về nguồn gốc. Thống nhất bốn biển, đạo hiệu Thiên Tôn.

Bài kệ tán thán này đã gói trọn sự chí tôn chí cao chí thánh của Diêu Trì Kim Mẫu, thật sự là "thiên hạ đệ nhất linh". Bổn tôn đầu tiên mà tôi nương dựa vào vĩ đại như vậy khiến cho nội tâm tôi tràn ngập sự thành kính.

Diêu Trì Kim Mẫu lấy ra ba viên kim đan, đặt trong lòng bàn tay, sau đó hỏi tôi: "Ở đây có ba viên kim đan, một trắng, một đỏ, một đen. Trong ba viên này, con hãy chọn lấy một viên rồi uống!" Tôi chọn viên kim đan màu đỏ rồi nuốt nó.

Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Viên màu trắng là nhập tiên tu pháp thanh tịnh, trở thành Đại La Kim Tiên. Viên màu đỏ là phát bồ đề tâm, quảng độ chúng sinh, từ lúc nhập thế cho đến khi xuất thế, thành tựu Đại La Kim Tiên. Viên màu đen là nhập vào âm giới, chuyên độ cõi âm, công đức viên mãn, thành tựu Đại La Kim Tiên." Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Con chọn màu đỏ, vậy thì hãy ở nhân gian độ chúng sinh đi!"

Tôi hỏi: "Con sẽ phải làm gì?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Ta sẽ giúp con xem việc cho người ta đều luôn chuẩn xác, nhờ vào khả năng xem việc chuẩn xác này mà dẫn dắt con người đi vào cánh cửa tín ngưỡng." "Con cần học thế nào?" - Tôi hỏi. Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Ta sẽ ban cho con pháp thiên hạ đệ nhất thần toán, tự con có thể quảng độ chúng sinh."

Tôi hỏi: "Ngoài pháp này ra thì còn pháp nào có thể độ chúng sinh?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Phật pháp của Ấn Độ, Phật pháp của Nepal, Phật pháp của Trung Thổ, Phật pháp của Vu Điền,..." Tôi hỏi: "Con lấy đâu ra năng lực mà học nhiều như vậy?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Từ lâu con đã trồng thiện căn rồi." Tôi hỏi: "Con không thể lĩnh ngộ được tất cả." Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Ta sẽ khiến con mau chóng ngộ ra."

Tôi hỏi: "Làm sao có thể phát tâm?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Thương xót con người lâu nay mê lầm, phát triển những mục đích ảo diệu của Tam Thừa." Tôi hỏi: "Làm thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Xa rời có và không, giữ tư tưởng trung quán. Cắt bỏ sự phân biệt lưỡng biên, chẳng mất mà cũng chẳng còn."

Tôi hỏi: "Sẽ độ những loại người nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Từ thế tục đế, nhập thắng nghĩa đế, mở rộng căn cơ." Tôi hỏi: "Khi gặp phần tử phản nghịch thì cần làm gì?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Âm thầm loại bỏ." (Giống với cách của Phật Đà.) Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Ta sẽ dùng linh khí chí tôn của ta để trợ giúp con."

07. Truyền thuyết dân gian

Vào thời đại Chu Mục Vương, Chu Mục Vương cưỡi tám con tuấn mã tuần hành về phía tây. Bỗng nhiên, dưới chân tuấn mã xuất hiện đám mây ngũ sắc. Bay lướt trên dòng sông Nhược Thủy hiểm trở. Rồi lại được đôi cánh của chim xanh nâng đỡ bay xuyên qua những ngọn gió Cương Phong.

Chu Mục Vương gặp Diêu Trì Kim Mẫu. Chu Mục Vương đem bạch ngọc bích ngọc cúng dường Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu hóa thân thành thiên tiên mỹ nữ xinh đẹp rạng ngời, đài các trang nghiêm, lại vừa giống như một quý phu nhân, khiến Chu Mục Vương khó mà quên được.

Diêu Trì Kim Mẫu bày yến tiệc. Thậm chí Diêu Trì Kim Mẫu còn hát một bài hát, ca từ rằng:

Mây trắng vẫn mãi ở trên trời Tự mình vẫn vượt được núi cao Đường đạo muôn dặm bao cách trở Xa xăm giữa chốn núi với sông. Nếu như chàng đây là bất tử Sẽ có một ngày trở lại đây.

Khúc thi ca này ý nói rằng: trên trời có mây trắng, dưới mặt đất có sông núi đại địa, con đường vô cùng xa xôi, rất nhiều chướng ngại ngăn cách, nhưng mong chàng (Chu Mục Vương) vĩnh viễn bất tử thì có thể lại ghé thăm Diêu Trì Tiên Cảnh.

Vì chuyện này mà tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Truyền thuyết này có thật hay không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Con cho rằng Chu Mục Vương là ai?"

Chu Mục Vương là ai? Tôi không biết?

Còn nữa: Vào năm Nguyên Phong thứ nhất thời Tây Hán. Diêu Trì Kim Mẫu cưỡi cỗ xe mây chim xanh đến cung điện của Hán Vũ Đế. Lúc ấy xuất hiện vạn tia sáng sắc màu rực rỡ, nghìn tia khí cát tường. Diêu Trì Kim Mẫu đưa cho Hán Vũ Đế bảy trái bàn đào, bản thân cũng ăn hai trái, còn lại năm trái đưa cho Hán Vũ Đế. [Bàn đào là loại đào dẹt, trong truyền thuyết đây là loại đào dành cho thần tiên, được gìn giữ bởi Tây Vương Mẫu tức Diêu Trì Kim Mẫu.]

Lúc này: Đổng Song Thành thổi sáo. Vương Tử gảy đàn dây. Hứa Phi Quỳnh thổi cổ hoàng. An Pháp Hưng cất cao giọng hát. Lời hát rằng: Phía tây Nhược Thủy, có Tây Vương Mẫu, trẻ mãi không già, cõi trời gìn giữ. Vương Mẫu nhiều phúc, hưởng bao lộc trời, ai cũng mến yêu, quân tử ca ngợi. Giải trừ hoạn nạn, Vương Mẫu xót thương, mang niềm vui đến, người được an cư.

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Câu chuyện này có thật không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Hán Vũ Đế là Chu Mục Vương chuyển thế." Tôi giật thót đầy kinh ngạc: "Việc này con hoàn toàn chẳng thể nghĩ ra. Dưới bầu trời này, có lẽ chỉ có Lư Sư Tôn biết thôi."

Còn nữa: Vào năm Dân Quốc thứ 38, Tây Vương Kim Mẫu đã hạ giáng ở Hoa Liên, Đài Loan. Thánh hiệu của Tây Vương Kim Mẫu được tách làm hai: Diêu Trì Kim Mẫu là thánh hiệu được phát triển gắn với Từ Huệ Đường. Vương Mẫu Nương Nương là thánh hiệu được phát triển gắn Thánh An Cung. [Từ Huệ Đường và Thánh An Cung là hai hệ thống miếu chùa ở Đài Loan.]

Diêu Trì Kim Mẫu cũng hiển hiện trước mặt tôi, địa điểm là ở Ngọc Hoàng Cung tại Đài Trung. (Khi đó trụ trì chùa là sư Thích Huệ Linh.) Người đã dẫn dắt tôi đến với Diêu Trì Kim Mẫu là phân đường Thạch Bích của Từ Huệ Đường ở Hoa Liên, năm đó là có: Ni cô Cơ Nga. Ni cô A Nha. Ni cô A Liên. Sau này, tôi (Lư Sư Tôn) do ông Liệu Hạc Quần ở hội đồng tu Hoa Liên đưa đến tổng đường của Từ Huệ Đường để Diêu Trì Kim Mẫu gia trì lại từ đầu. Đây chính là tình thân như cá với nước.

08. Diêu Trì Kim Mẫu trong điển tích cổ

"Sơn Hải Kinh" ghi chép: Tây Vương Mẫu là thần tiên quản lý bệnh dịch, có thể giáng tai họa xuống nhân gian. Hình tượng của Ngài là đuôi báo, răng hổ, tiếng thét uy mãnh. Tôi nói: Khi Tây Vương Mẫu vui thì trời ban cát tường. Khi Tây Vương Mẫu giận thì trời giáng tai ương.

Ngoài ra, các đại thần thời cổ đại đều được mô tả với hình tướng là đuôi báo, răng hổ, tiếng thét uy mãnh. Ví dụ: Phục Hi Thị --- nửa người nửa thú. Nữ Oa Thị --- nửa người nửa thú.

"Mục Thiên Tử Truyện" ghi chép: Từ hình tướng nửa người nửa thú, Tây Vương Mẫu biến hóa thành thiên tiên mỹ nữ tuyệt sắc, giỏi múa hát. Câu chuyện Chu Mục Vương tận mắt trông thấy Diêu Trì Kim Mẫu (được đồn đại từ lâu), trong một cuốn "Sử Kí" cũng đã có ghi chép.

"Nội Truyện Hán Vũ Đế" ghi chép: Tây Vương Mẫu hạ giáng xuống cung điện của Hán Vũ Đế, nàng có dung nhan tuyệt sắc. Tây Vương Mẫu ban tặng bàn đào cho Hán Vũ Đế. Bàn đào của Tây Vương Mẫu rất nổi tiếng, đào tiên này ba nghìn năm mới một lần ra quả, ăn vào thì trường sinh bất lão. Vương Mẫu còn nói: ăn một quả đào tiên có thể sống thọ ba nghìn năm.

"Thái Bình Quảng Kí" ghi chép: Tây Vương Mẫu khoảng 20 tuổi, thiên tư rạng rỡ, thông minh hoạt bát, cực kì cực kì xinh đẹp. Thậm chí những thị nữ kề cạnh bên Tây Vương Mẫu cũng ở tuổi tầm 16, mặc váy lụa mỏng màu xanh nhạt, dung nhan diễm lệ, tư thái thanh cao, đều là thiên tiên mỹ nữ.

"Hoài Nam Tử" ghi chép: "Hậu Nghệ xin thuốc bất từ Tây Vương Mẫu, Hằng Nga đã lén lấy rồi bay lên mặt trăng." Đây chính là nguồn gốc của tích Hậu Nghệ và Hằng Nga.

Còn một cuốn kinh điển tên là "Tiêu Dao Hư Kinh" ghi chép: Rằng là: tóc rối cài hoa, răng hổ, tiếng gầm lớn, đây chính là sứ giả của Tây Vương Mẫu, là vị thần Bạch Hổ ở phương tây, không phải là hình tướng thật sự của Tây Vương Mẫu. (Đây là để giải thích thay cho Tây Vương Mẫu.)

"Vân Cấp Thất Thiêm" ghi chép: Diêu Trì Kim Mẫu tức Tây Vương Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu là vị tiên nữ đầu tiên, Cửu Thiên Huyền Mẫu là đệ tử dưới cấp Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu từng sai Cửu Thiên Huyền Nữ mặc áo lông cáo đen, dùng phù dạy cho Hoàng Đế. Nói rằng: "Tinh tư cáo thiên, tất hữu thái thượng chi ứng." Cửu Thiên Huyền Mẫu dạy cho Hoàng Đế cách dùng chỉ nam xa [một loại la bàn], đánh bại Xi Vưu.

"Thần Tiên Truyện" ghi chép: Diêu Trì Kim Mẫu có 24 người con gái. Trong đó có năm người đã được xác nhận là: Con gái thứ 4, tên Hoa Lâm, hiệu là Nam Cực Phu Nhân. Con gái thứ 13, tên Mị Lan, hiệu là Anh Vương Phu Nhân. Con gái thứ 20, tên là Thanh Nga, hiệu là Tử Vi Phu Nhân. Con gái thứ 23, tên là Diêu Cơ, hiệu là Vân Hoa Phu Nhân. Con gái thứ 24, tên là Uyển La, hiệu là Thái Chân Phu Nhân. (Trong số năm người này, người con gái thứ 23, Vân Hoa Phu Nhân Diêu Cơ cũng là phu nhân của tôi.)

Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Ta có người con gái lưu lạc ở nhân gian, con giúp ta tìm nó trở về, đưa nó về Diêu Trì Tiên Cảnh."

Từ những ghi chép trong sách cổ, có thể đặt ra một hình tượng: Diêu Trì Kim Mẫu tức Tây Vương Mẫu. Là vị nữ tiên đứng đầu. Cai quản bệnh dịch, trừng phạt cái ác. Cai quản thuốc bất tử. Cai quản bàn đào trường thọ. Gốc là tinh luyện khí. Sinh ra và nuôi dưỡng vạn vật. Nắm trong tay khả năng dự đoán thần toán bát quái. Cai quản phong thủy. Tôi gọi Ngài là: "Thiên hạ đệ nhất linh."

09. Lời vàng của Diêu Trì Kim Mẫu

Con người tôi bản tính thích đọc sách, từ lâu đã nuôi dưỡng thói quen đọc sách mỗi ngày, không có ngày nào là tôi không đọc sách.

Ví dụ: Để truyền dạy rộng rãi pháp thực tu của Mật tông Tây Tạng, tôi sẽ đọc "Lịch sử Phật giáo Tây Tạng". Tài liệu lịch sử có liên quan đến Phật giáo lưu truyền ở Tây Tạng như sau: "Thiện Thệ Phật Giáo Sử" của tác giả Bố Đôn Nhân Khâm Châu (năm 1322). [Bu-ston Rin-chen-grub (1290 - 1364)] "Thổ Phiền Vương Thống Thế Hệ Minh Giám" của tác giả phái Sakya Tác Nam Kiên Gia (năm 1388). "Hồng Sử" (năm 1346). "Hiền Giả Hỉ Yến" (năm 1564). "Tây Tạng Vương Thần Sử" (năm 1642). "Thổ Quán Tông Phái Nguyên Lưu" (năm 1801). "Thanh Sử" (năm 1476).

Trong số các sách vở tài liệu này, chí ít tôi cũng đã tham khảo cuốn "Hồng Sử" và"Thổ Quán Tông Phái Nguyên Lưu". Tôi cũng đã tham khảo cả cuốn "Tây Tạng Phật Giáo Sử" của thượng sư Hán Đồng. (Thượng sư Hán Đồng và tôi có thư từ qua lại.)

Những tác phẩm thuộc triều Thanh, triều Minh viết về Diêu Trì Kim Mẫu gồm có: "Diêu Trì Kim Mẫu phổ độ thu viên định huệ giải thoát chân kinh" "Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu dưỡng chính chân kinh" "Diêu Trì Kim Mẫu hồng từ phổ độ cứu kiếp kinh" "Diêu Trì Kim Mẫu thu viên bảo sám" "Diêu Trì Kim Mẫu cứu thế kí" "Diêu Trì Kim Mẫu độ chúng tu viên thi tập" "Diêu Trì Kim Mẫu phổ cứu khôn đạo huyết bồn chân kinh" "Diêu Trì Kim Mẫu hiển linh" "Diêu Trì Kim Mẫu dưỡng chính khí chân kinh" ...

Tôi (Lư Sư Tôn) hâm mộ nhất là cuốn "Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu dưỡng chính chân kinh". Tôi coi cuốn sách này là "Châm ngôn của Diêu Trì Kim Mẫu". Trong quá khứ, tôi hay ngâm nga đọc tụng thành tiếng. Tôi luôn ghi nhớ trong tâm, một giây cũng không quên. Trong cuốn sách này bao gồm: Hiểu về mối quan hệ con người để tu thân. (đạo làm người) Học hỏi những điều huyền bí để ngộ đạo. (giải thoát khỏi luân hồi) Siêu phàm nhập Thánh. (nhất tâm thanh tịnh) Trở về với cái gốc vốn có ban đầu. (kiến đạo tu đạo) Từ mê lầm đến giác ngộ. (giác ngộ rồi thực sự thành Phật) (Cuốn sách này cũng là con đường từ phàm phu đến thành Phật.) Tôi đặc biệt say mê cuốn sách này.

Còn nữa: Trong Chân Phật Tông, cuốn "Diêu Trì Kim Mẫu phổ độ thu viên định huệ giải thoát chân kinh" được ngày ngày đọc tụng. Tôi cho rằng điểm cốt lõi là: "Tinh khí tản mát từ nơi nào thì thu về từ nơi đó!" Câu nói này là quan trọng số một.

Ngoài ra: Thiền định và trí huệ là đôi cánh của Phật pháp, muốn thành tựu Phật quả thì số một là thiền định và trí huệ. Cần có thiền định và trí huệ mới có thể thành tựu giải thoát.

Trong sách còn có: Bài tán tụng của Quan Thế Âm Bồ Tát. Bài tán tụng của Khổng Phu Tử. Bài tán tụng của Thái Thượng Lão Quân. Bài tán tụng của Thích Ca Mâu Ni.

Cá nhân tôi cho rằng: Những kinh điển này của Diêu Trì Kim Mẫu nhờ "phi loan" mà có. Nói cách khác là ba con chim xanh dùng mỏ vẽ lên cát những ý chỉ mà Kim Mẫu muốn truyền đạt. Chúng ta gọi là "phù loan", nguồn gốc của phù loan chính là đến từ những con chim xanh viết chữ trên cát. Các loan đường hiện đại rất nhiều. Họ dùng gậy đinh ba bằng gỗ giống như mỏ chim để viết chữ lên bàn cát. Đương nhiên cũng có người giả mạo ý của thần. Nhưng thật sự là có ý chỉ của thần. Hành giả chúng ta cần dùng trí huệ để phân biệt, tránh bị những thầy bói lừa bịp.

10. Châm ngôn tu dưỡng

Tôi cho rằng cuốn "Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu dưỡng chính chân kinh" mà tôi say mê nhất là cuốn sách quý về việc xử thế, tu hành, giữ giới. Cuốn sách này tổng cộng có năm chương. 1. Hiểu về mối quan hệ con người để tu thân, xây dựng cái gốc. 2. Học hỏi những điều huyền bí để ngộ đạo thực tu. 3. Đạo quả siêu phàm nhập Thánh. 4. Thể nghiệm đạo để "hoàn nguyên", trở về với nguồn gốc vốn có. 5. Tỉnh giác để thoát khỏi sự mê lầm, từ đó giác ngộ. (Cá nhân tôi thường đọc to thành tiếng, nghiền ngẫm về những ý chỉ này, tôi cho rằng chúng chính là những chiếc bè quý để từ phàm nhập Thánh.)

Phật Đà dạy chúng ta về bát chính đạo: 1. Chính kiến. 2. Chính tư duy. 3. Chính ngữ. 4. Chính nghiệp. 5. Chính mệnh. 6. Chính tinh tấn. 7. Chính niệm. 8. Chính định.

Tôi nói, dưỡng chính chân kinh này chẳng phải là bát chính đạo đó sao. Đây chính là nguyên nhân khiến tôi cực kì trân quý, tôn sùng và say mê cuốn sách này. Tôi đặc biệt trích dẫn chương số một như sau:

Dưỡng tính tu thân, là điều căn bản của con người. Chính tâm thành ý, là cái gốc sâu xa của ta. Mọi động tĩnh cần thường xuyên kiểm điểm, tu trì hành vi mỗi ngày. Công ơn cha mẹ lớn như trời đất, cần hiếu thuận không được thiếu sót. Tổ tiên ban lộc cho con cháu, cần tôn kính không được thất lễ. Biết nghĩ về nguồn cội, bản thân chịu trách nhiệm báo đáp. Có thể sửa chữa lỗi sai, cần tu công đức. Rời khỏi con đường mê lầm, đi vào con đường giác ngộ. Lên được bến bờ bên kia, tiến vào cánh cửa tính Không. Khóa chặt tâm ngựa ý vượn, như như bất động. Luyện cho chân linh chính khí, luôn luôn thường tồn. Ba thứ quý giá tinh, khí, thần cần giữ lâu dài. Thất tình lục dục yêu ghét ham muốn cần diệt trừ vĩnh viễn. Bồi dưỡng bát đức, tôn trọng Thánh hiền. Gìn giữ tam cương, trị quốc trị gia. Trên hiểu đạo trời có đức hiếu sinh, dưới xót thương sinh mệnh vạn vật mà đừng sát hại. Học sự khiêm tốn của quân tử, luôn thận trọng cần cù. Pháp của Thánh nhân cần cung kính cẩn thận, kiến tính minh tâm. Thấy sắc đẹp như thấy hổ dữ, có được đức hạnh tài năng cũng như có được kho báu quý giá. Không ham phú quý, cần phải biết Sắc là Không, Không là Sắc,. Trong cảnh nghèo khó cũng nên vui vẻ, cần biết không thể thật sự có được cái gì, Có cũng là Không. Nhà giàu cần giúp đỡ người thân, có tài đức cần giáo hóa những người ngu muội. Tích lũy đạo đức vô hình, tu luyện tinh thần bất lão. Rời xa con đường mê lầm, tự đắc tai tiêu họa diệt. Tâm gần chính đạo, sẽ được quỷ thần nể phục ngưỡng mộ. Phát đại từ bi, cứu người cứu ta, tạo lập thiện nguyện lớn, cứu giúp người nghèo khổ. Luyện đạo thành chân, trên báo bốn ơn sâu. Siêu phàm nhập Thánh, dưới giúp khổ tam đồ. Lấy nhân đức làm điều quý giá nhất của bản thân, lấy từ bi làm đại cương của Phật. Tâm trong veo như trăng dưới nước, tỏa sáng phá tan u tối. Tính sáng sủa như những vì sao mới có thể uyên bác thông thiên đạt địa. Tu nhiều âm đức, để lại phúc ấm cho cháu con. Tích lũy thiện nhân, công đức hồi hướng siêu độ tổ tông. Giúp tăng nhân quảng truyền đạo pháp, tự nhiên kết duyên cửa Phật. Lễ Phật tham thiền, xứng đáng chứng ngộ bảo địa. (Kết thúc chương một.)

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Trong bản văn này có Thánh, có Đạo, có Phật, vì sao như vậy?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Đây là sự dung hòa văn hóa." Tôi hỏi: "Trong bản văn nói con người cần giữ tam cương ngũ thường, cần giữ đạo đức?" "Đạo không hề xa cách với con người." Tôi hỏi: "Trong bản văn có đề cập đến giúp tăng và cửa Phật?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Lư Sư Tôn mang cốt Phật, học Phật pháp, làm tăng nhân, đã giác ngộ tính Không, do vậy mới đề cập đến." Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Dùng tâm xuất thế để làm việc nhập thế."

11. Hỏi chuyện cõi trời

Hỏi chuyện cõi trời tức là tôi hỏi. Cũng có nghĩa là chỗ nào tôi còn nghi hoặc thì tôi sẽ hỏi "thiên hạ đệ nhất linh" Diêu Trì Kim Mẫu.

Tôi hỏi: "Nguồn gốc của Kim Mẫu thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Ta chính là Kim Mẫu hóa sinh từ diệu khí của Tây Hoa. Còn Mộc Công là Mộc Công hóa sinh từ chân khí của Đông Hoa."

Tôi hỏi: "Cái gọi là một âm một dương là nuôi dưỡng trời đất, bồi dưỡng vạn vật đúng không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Đúng vậy."

Tôi hỏi: "Gọi Đông Hoa Đế Quân là cha, Diêu Trì Kim Mẫu là mẹ, cách gọi này có chính xác không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Chính xác."

Tôi hỏi: "Ngày xưa, Trương Lương (Tử Phòng) có gặp một cậu bé hát rằng: mặc váy xanh, vào cổng trời, chào Kim Mẫu, lạy Mộc Công…" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Cậu bé này là tiên đồng ở trên trời. Ta và Mộc Công là nguồn gốc của trời đất. Người nam thành tiên thì coi Mộc Công là chủ nhân, người nữ thành tiên thì coi Kim Mẫu là chủ nhân."

Tôi hỏi: "Ngày xưa, người Trung Quốc được gọi là con cháu Viêm Hoàng, ý nói rằng Thần Nông Thị và Viên Hiên Thị, Viên Hiên Thị là hoàng đế, xin hỏi, hoàng đế đã từng gặp Diêu Trì Kim Mẫu chưa?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Trong sách cổ có ghi chép lại "Hải nội tứ kinh" rằng: Diêu Trì Kim Mẫu đã từng thết đãi hoàng đế ở núi Tung Sơn, lấy mây xanh làm canh, khí đỏ làm quả. Ngoài ra còn dạy hoàng đế bảy thuật huyền bí. Vì ở núi Tung Sơn, hoàng đế từng cúng tế ta, việc ta đến là thật, những thứ khác chỉ là phụ họa thêm."

Tôi hỏi: "Hoàng đế đại chiến Xi Vưu, Cửu Thiên Huyền Nữ phụng mệnh Kim Mẫu đến ban cho hoàng đế chỉ nam xa, nhờ vậy mà hoàng đế đã đại thắng Xi Vưu, việc này có đúng không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Đúng là có việc này."

Tôi hỏi: "Chu Mục Vương và Hán Vũ Đế đều đã từng gặp Diêu Trì Kim Mẫu, đây là truyền thuyết hay là sự thật?" Tôi lại nói: "Trong "Mục Thiên Tử truyện" và "Hán Vũ Đế nội truyện" đều có ghi chép lại, vậy là thật hay giả?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Nay Lư Sư Tôn gặp ta là thật? Hay là giả?"

Tôi hỏi: "Hán Vũ Đế nội truyện có hai bài thơ có liên quan đến Diêu Trì Kim Mẫu, lời thơ như sau: Thanh Tước về tây chưa trở lại Quân Vương ở đây chờ đã lâu. Thị thần Tương Như đang khát nước Kim kinh một chén vẫn chưa ban.

Còn nữa:

Ta thông linh suốt từ đêm đến sáng Sau rèm kia đĩa sương đã cạn khô. Vương Mẫu không đến, Phương Sóc đi cầu thỉnh. Buồn lòng càng mong gặp Lý phu nhân.”

Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Hán Vũ Đế xin ta ban cho thuốc bất tử, nhưng ta không ban cho, ông ta vẫn nỗ lực muốn có cho được. Do vậy mới có hai bài thơ này, kim kinh cũng chính là thuốc bất tử. Phương Sóc chính là Đông Phương Sóc, là thần tử thành tựu tu Tiên."

Tôi nói: "Con hiểu rồi. Hán Vũ Đế khát khao trường sinh bất tử, do vậy mới có chuyện đạo sĩ Từ Phúc nói cần ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ đi ra biển kiếm về thuốc trường sinh bất tử." Kim Mẫu nói: "Những thứ ảo tưởng ngu ngốc sẽ chẳng thể có được, chỉ có thực tu Phật pháp mới có thể đạt được điều ấy."

12. Con gái của Diêu Trì Kim Mẫu trong kí ức

Trong "Thần tiên truyện": Long Cát công chúa. Trong "Tiên Phật kì tung": Thanh Nga tiên nữ. Uyển La tiên nữ. Trong "Đổng Vĩnh phụng thân": Thất tiên nữ. Trong "Chân cáo": Mị Lan. Trong "Thiếu thất san phòng bút tùng chính tập": Dung Chân. Trong "Sơn hải kinh": Diêu Cơ. Trong "Vu sơn thập nhị thần nữ": Đăng Long. Thánh Tuyền. Triêu Vân. Vọng Hà. Tùng Loang. Tập Tiên. Phi Phụng. Thúy Bình. Tụ Hạc. Tịnh Đàn. Khởi Vân. Thượng Thăng. Trong "Quy đài uyển diễm": Ngọc Chi. Trong "Ngưu Lang Chức Nữ": Chức Nữ. ...

Rốt cục, Diêu Trì Kim Mẫu có bao nhiêu người con gái, trên thực tế cũng chẳng có ai biết được con số thật sự. Những người con gái này được nói đến trong các ghi chép trong sách cổ và trong truyền thuyết cũng có. Ví dụ: Chức Nữ --- truyền thuyết. Long Cát công chúa --- xuất hiện trong "Đối thần bảng". Thất tiên nữ --- xuất hiện trong truyền thuyết.

Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Ở nhân gian, ta vẫn còn một người con gái lưu lạc trong luân hồi, nó đã quên mất thân phận của mình, không trở về được Diêu Trì Tiên Cảnh. Lư Sư Tôn! Xin hãy tìm ra người con gái đã bị lạc mất của ta." Tôi nghe xong thì cũng đầy hoang mang. Tôi hỏi: "Biển người mênh mông, làm sao tìm?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Sẽ tự tìm đến!" Tôi hỏi: "Làm sao để nhận ra?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Có kí hiệu." Diêu Trì Kim Mẫu chỉ cho tôi thấy kí hiệu. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ đến nhân gian của tôi (Liên Hoa Đồng Tử). Cũng là nhiệm vụ mà Diêu Trì Kim Mẫu đã hiển hiện trước mặt để căn dặn tôi.

Còn với việc Diêu Trì Kim Mẫu có con trai không? Trong "Lịch đại thần tiên thông giám" thời Minh có ghi chép: có 9 người con trai. Trong số đó, người con trai thứ 9 đã xuất hiện ở Giang Tây. Có bài thơ rằng: "Chuyện rằng Tây Vương Mẫu Có người con cưỡi hạc Ẩn mình chốn non cao Rừng sâu rêu phủ kín. Bùn đắp làm bếp lửa Nguyên một kiếp tro tàn. Bao vết tích thần tiên Chốn bồng lai gần lắm."

Cá nhân tôi rất thích một bài thơ về Đông Vương Công, bài thơ này là do Ngô Thừa Ân sáng tác: Ráng quang tỏa khắp miền trời rộng Xuyên qua từng đám sương bay bay Đan phụng ngậm hoa càng tươi mới Thanh loan bay múa dáng diễm kiều. Phúc như đông hải thọ như sơn Thân thể khỏe mạnh như trai tráng Tiên đơn bất lão trong thiên động Ấn triện trường sinh cùng tháng năm Nhân gian bao lần giáng cát tường Thế thượng mấy phen trừ tai ách. Vũ Đế từng muốn thêm tuổi thọ Tham dự Diêu Trì tiệc bàn đào Giáo hóa chúng tăng thoát tục duyên Mở ra đường đạo sáng như điện Cũng từng nghìn năm vượt biển rộng Năng đến gặp Phật ở linh sơn Đông Hoa Đại Đế là thánh hiệu Đệ nhất thần tiên chốn yên hà.

Mộc Công Thượng Thánh có một bài thơ ca ngợi hay như vậy. Tôi phải viết một bài thơ hay hơn để ca ngợi Diêu Trì Kim Mẫu mới được, để cả hai vị cùng tỏa sáng.

13. Tiên đan bất tử

Hán Vũ Đế vì muốn tìm tiên đan bất tử nên đã làm hai việc:

1. Trên đỉnh núi Tung Sơn, lập đàn cầu cúng, thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu ban cho "tiên đan bất tử". (Kết quả là chẳng cầu xin được.)

2. Phái đạo sĩ Từ Phúc đưa ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ ra biển tìm kiếm "tiên đan bất tử". (Dân gian truyền rằng mộ của Từ Phúc được tìm thấy ở Nhật Bản. Còn ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ trở thành tổ tiên của người Nhật.)

Tôi từng đọc "Liệt tiên truyện", trong đó có một thần tiên chuyên luyện kim đan (Hoài Nam Vương). Sau khi luyện được kim đan thì ngài đã ăn nó, thế rồi bay lên trời trở thành tiên! Ngoài ra, kim đan còn thừa lại, gà và chó trong nhà vị thần tiên này cũng ăn luôn, kết quả là gà chó kêu ầm ĩ trên mây. Đây chính là chuyện "Gà chó thăng thiên". Bởi thế có câu nói rằng: "Một người đắc đạo, gà chó thăng thiên."

Còn nữa: Trong "Thần tiên truyện", có một vị là Vương Lão. Ông là người trồng lúa mì. Bình sinh ông cũng thích nhất là việc tu đạo. Một hôm, có một lão đạo trưởng đến thăm ông, lão đạo trưởng khắp người mọc u nhọt, hôi thối vô cùng. Nhưng Vương Lão vẫn tận tâm hết lòng chăm sóc cho lão đạo trưởng. Lão đạo trưởng nói: "Hãy chuẩn bị một vại rượu trắng, ta muốn ngâm mình trong đó." Vương Lão liền chuẩn bị rượu để cho lão đạo trưởng nhúng mình vào. Lão đạo trưởng ngâm mình ba ngày ba đêm mới thôi. Vừa đứng lên thì lạ thay, những u nhọt trên thân thể lão đạo trưởng đã khỏi. Tóc biến thành màu đen, vẻ mặt trẻ trung như đồng tử, thần thái khác thường.

Lão đạo trưởng nói: "Ông hãy uống hết vại rượu này thì ông cũng có thể thành tiên!" Vương Lão thật sự đã uống hết sạch vại rượu. Kết quả là ông cũng thăng thiên. Rất nhiều hàng xóm xung quanh đã trông thấy Vương Lão bay lên trời. Từ trên mây cao vẫn còn vọng xuống tiếng nói của Vương Lão. Đây là câu chuyện lão đạo trưởng độ cho Vương Lão.

Tôi đọc xong hai câu chuyện này, trong lòng cũng khát khao. Tôi tự nghĩ: tôi đã gặp "thiên hạ đệ nhất linh", đã gặp Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn. Ngài là Tiên Vương. Ngài đứng đầu trong số các Thần Tiên. Tôi cũng có một vài mong ước. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan bất tử!" Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan phi hành!" Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan ẩn thân!" Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan thần thông!" Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan biến hóa!" Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Tôi nói: "Diêu Trì Kim Mẫu, xin ban cho con tiên đan trí huệ Như Lai, để con chứng đắc bát nhã bản trí." Diêu Trì Kim Mẫu không đáp. Cuối cùng, Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Hãy tự mình tu tập đi!" Bởi thế, tôi "kính sư, trọng pháp, thực tu" cho đến giờ.

14. Tôi có được xem là "dị nhân" không?

"Dị nhân", tôi giải thích "dị" so với "thường nhân". Cũng có nghĩa là không phải người bình thường. Tôi vốn dĩ là Liên Hoa Đồng Tử, chỉ vì hạ sinh tại nhân gian nên trở thành một phàm phu tục tử. Một sáng tỉnh ngộ, hóa ra mình là Liên Hoa Đồng Tử.

Tôi thật sự không giống một con người bình thường. Thứ nhất: Khi tôi ngồi thiền, ngón tay sẽ tự động kết thủ ấn. Ngón tay có thể chuyển động cong gập, tôi có thể đếm chuyển động của ngón tay mà thần toán. Bàn tay tôi có thể gia trì. Bàn tay tôi sinh ra sức mạnh kì lạ. (xếp hàng tổ hợp)

Thứ hai: Trong vũ trụ có tồn tại dòng chảy pháp, có thể thông qua đầu và thân thể tôi. Thân thể này sẽ biến thành núi. Thân thể tràn đầy dòng chảy pháp, như sông suối rì rầm. (trôi chảy khắp toàn thân) Thân thể có thể ấm áp như có lửa đang cháy, đây là ngọn lửa hiền hòa. Thân thể có pháp lực, tốc độ nhanh như gió. Thân thể này khi biến hóa lớn lên thì như đầy ắp vũ trụ, khi thu nhỏ lại thì bé như hạt vừng.

Thứ ba: Con mắt tôi có thể nhìn được ánh sáng. Mắt có thể nhìn thấy tất cả dị hình (trên là tứ Thánh, dưới là lục đạo), có thể nhìn xa nhìn gần, nhìn được cõi trời bên ngoài cõi trời, nhìn được những gì người bình thường không nhìn thấy. Tai tôi cũng như vậy.

Thứ tư: Tư tưởng của tôi đã hoàn toàn khác người bình thường. Con người tôi là giả. (nhân duyên giả hợp) Sơn hà đại địa là giả. (thành trụ hoại không) Thọ mạng là giả. (có sinh có diệt) Nhân gian là giả. (mọi thứ đều có nguyên nhân) Thế giới Ta Bà là giả. (tâm hóa hiện nên mọi thứ) Tất cả mọi thứ đều được huyễn hóa ra. Chỉ có một sự việc là thật, đó chính là, tôi vốn dĩ là một vị thần tiên Liên Hoa Đồng Tử. Nhà ở là giả, xe cộ là giả, tiền bạc châu báu là giả. (đều là mượn tạm để sống qua mấy mươi năm)

Thứ năm: Việc tôi thành lập Chân Phật Tông cũng là hư huyễn. Năm triệu đệ tử cũng là huyễn. Viết 281 cuốn sách cũng là huyễn. Vẽ 5000 bức tranh cũng là huyễn. Ngay cả tu hành cũng là huyễn. Hóa ra chỉ là "mượn huyễn tu chân" mà thôi. (mượn cái giả để tu thành cái thật)

Thứ sáu: Ơn của cha mẹ, ơn của sư trưởng, ơn của bạn bè, ơn của ân nhân, mong cho họ sớm có ngày đến được Phật quốc thanh tịnh. Còn đối với những oán, thù, tình cảm, thì cũng có thể tỉnh ngộ, hiểu được rõ ràng rằng chẳng qua cũng chỉ là nhất thời mà thôi.

Thứ bảy: Tôi có phải là dị nhân không? Tôi không phải là người bình thường đúng không? Nhân. Dị nhân. Nhân phi nhân. Cho dù nó là cái gì đi nữa. Thì đều là nhất thời.

15. Hàn Tương Tử và Hàn Dũ

Tôi thích câu chuyện về Hàn Tương Tử. Hàn Dũ là người đứng đầu trong số tám đại tác gia của nhà Đường - Tống, học vấn uyên bác, là một thi nhân vĩ đại, cũng vừa là một người làm quan cao nhiều bổng lộc. Hàn Tương Tử là cháu của Hàn Dũ.

Hàn Dũ và Hàn Tương Tử nỗ lực học hành, trở thành trụ cột quốc gia. Nhưng rồi Hàn Tương Tử đã gặp Lã Động Tân và chuyển qua học tu Tiên. Chí hướng của họ đã khác nhau, một người theo sự nghiệp làm quan, một người theo Tiên đạo. Hai người nảy sinh sự bất hòa.

Hàn Dũ hỏi Hàn Tương Tử: "Cháu có biết biến hóa không?" Hàn Tương Tử đã tu được một chút thần thông nhỏ, lập tức biến hóa ra rượu ngon, từ trong chén rượu ngon nở ra một bông hoa mẫu đơn màu xanh lục. Trên cánh hoa còn có mấy câu thơ: Mây che Tần Lĩnh nhà đâu thấy Tuyết phủ Lam Quan ngựa thấy đâu. Hàn Tương Tử nói: "Một ngày nào đó, chú sẽ hiểu được câu này!"

Mấy năm sau, Hàn Dũ dâng biểu khuyên Hoàng Đế đừng làm nghi thức "Nghênh Phật cốt", bị giáng chức xuống Triều Châu. Trên đường cưỡi ngựa đi nhậm chức, đến một địa phương nọ thì gặp trận tuyết lớn, ngựa không đi tiếp được nữa. Hàn Tương Tử bỗng xuất hiện, nói với Hàn Dũ rằng: Ngọn núi phía xa kia là Tần Lĩnh. Địa danh này chính là Lam Quan. Mọi việc hoàn toàn ứng nghiệm!

Hàn Tương Tử nói học Tiên mới tốt. Hàn Dũ nói sự nghiệp làm quan mới tốt. Lúc chia tay, Hàn Dũ hỏi Hàn Tương Tử: "Chúng ta còn gặp lại nhau không?" Hàn Tương Tử nói: "E rằng không gặp nữa!"

Cá nhân tôi khi đọc câu chuyện này, trong lòng cảm thấy muôn phần nuối tiếc. Hàn Tương Tử muốn độ cho Hàn Dũ. Hàn Dũ lại chỉ muốn bám lấy tiền đồ làm quan. Hàn Dũ lại còn muốn Hàn Tương Tử đi theo con đường quan chức. Hàn Tương Tử lại có chí hướng theo Tiên đạo. Tiên - phàm khác nhau! Sau này làm sao gặp lại?

Tôi (Lư Sư Tôn) là người đã từng gặp Diêu Trì Kim Mẫu, tôi tin tưởng Diêu Trì Kim Mẫu sâu sắc. Liên Hoa Đồng Tử là cốt Phật. Từ Hiển giáo bước vào Mật giáo. Tôi thấy toàn bộ vũ trụ trên trên dưới dưới vô số chúng sinh, trong lòng tôi đầy bi ai đau đớn!

Có rất nhiều người từng đến tìm tôi. Có rất nhiều người biết Lư Sư Tôn. Họ cũng có rất nhiều cảm ứng, những sự việc "chuẩn không cần chỉnh" lần lượt xuất hiện. Nhưng có mấy người học Phật một cách chân chính? Có mấy người đạo tâm kiên cố? Có mấy người thành tựu? Rất nhiều người thật sự đang có chứng nghiệm xác thực, nhưng chỉ là đi lướt qua ta mà tôi, sau đó thì cũng quên hết cả. Tiếc thay! Thương thay!

Tôi rất thích một bài thơ: Ngộ rồi đừng cầu tịch diệt, Tùy duyên gần gũi người mê Tìm đến người còn tà kiến Chỉ cho họ thấy sự thực Ngũ nhãn tam thân tứ trí Lục độ vạn hành tu tề. Mani một viên ngọc sáng Lợi người kiêm cả lợi ta.

16. Gỉ mắt làm nên kì tích

Một hôm. Có người nhìn thấy trong mắt tôi có gỉ mắt, màu vàng vàng, nằm ở khóe đuôi mắt. Cô nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Mắt ngài có gỉ mắt." Lập tức, cô lấy khăn giấy đưa cho tôi lau gỉ mắt. Tôi nhanh chóng lau sạch, rồi đưa mắt nhìn xung quanh định bỏ tờ khăn giấy vào thùng rác. Nhưng không ngờ chẳng thấy cái thùng rác nào.

Người này thấy tôi không tìm được thùng rác bèn nhanh chóng đưa tay ra cầm lấy tờ khăn giấy của tôi. Tôi cũng tiện tay đưa nó cho cô. Tôi cũng không mấy để ý.

Không ngờ việc này đã dẫn đến một sự việc kì lạ. Người đệ tử cầm tờ khăn giấy mà tôi lau gỉ mắt đem về nhà. Mẹ của cô có bệnh mắt. Là bệnh mắt có đốm vàng. (lão hóa) Thị lực rất kém, đã sắp mù rồi! Cô lấy ra tờ khăn giấy tôi lau gỉ mắt, nói với mẹ mình: "Mẹ à! Đây là tờ khăn giấy Lư Sư Tôn đã dùng để lau mắt, ngài ấy là người tu hành, mẹ hãy cầm lấy lau lau lên mắt mình đi!"

Mẹ của cô cũng là đệ tử của tôi. Bà cũng chẳng nghĩ ngợi gì cả. Cầm lấy tờ giấy và lau lau lên mắt mình. Trời ạ! Ngày hôm sau, buổi sáng tỉnh dậy. Đôi mắt đã sáng rõ. Hoàn toàn không còn chút nào mờ mịt. Tất cả mọi thứ bà đều nhìn được rõ ràng, những thứ vốn dĩ trước đây không nhìn rõ nay đều nhìn rõ cả. Những đốm đen trước mắt (như muỗi bay) đều không còn. Thị lực đã hồi phục rồi! Đây chính là sự kiện gỉ mắt.

Ghi chú: đây là một sự việc xảy ra ngẫu nhiên, thật sự là có sự việc này. Tuy vậy, tôi hoàn toàn không hy vọng rằng người người đến tìm tôi để xin khăn giấy. Bởi vì trên quan điểm y học thì điều này không chấp nhận được, có vấn đề về vệ sinh. Có bệnh thì vẫn cần mời bác sĩ chữa bệnh.

Còn nữa: Đây không phải là sự việc duy nhất. Trong "Thần Tiên truyện" có một người là Lí Tị Thế. Ông cũng là người có đạo hạnh. Có người cầu xin ông chữa bệnh. Ông bèn lấy gỉ mũi và ghét bẩn trên người mình vo lại thành viên, đưa cho người cầu chữa bệnh ăn. Ăn xong! Thật sự là khỏi bệnh rồi! Một đồn mười, mười đồn trăm. Tạo nên một sự chấn động!

Về sau, có một quan viên địa phương tên là Lưu Diên Trọng mời Lí Tị Thế về nhà. Lưu nói: "Ở đây tôi không có rượu ngon để chiêu đãi ngài!" Lí nói: "Không sao, lấy một cái bình rỗng đưa cho ta là được rồi!"

Lí Tị Thế cầm chiếc bình rỗng, quay người một cái liền biến ra một bình đầy rượu ngon! Rượu ngon này càng uống càng nhiều thêm, uống mãi chẳng hết! Mọi người uống vô cùng thỏa thuê!

Kì thực, trong nhà của Lưu Diên Trọng có cất giữ rượu trân châu rất ngon, ông ta muốn để dành đến một ngày khác đem ra chiêu đãi người khác. Lúc này, ông mới phát hiện ra: rượu ngon mà ông cất giữ đã hết sạch. Tất cả đã bị Lí Tị Thế uống hết sạch rồi.

Tôi nói: Người đạo sĩ này chơi đùa chốn nhân gian. Không biến thành có, có biến thành không. Một cục gỉ mắt, một cục gỉ mũi. Thật thú vị!

[Tị Thế trong tiếng Hán Việt có nghĩa là gỉ mũi.]

17. Tiểu đồng tử ở cung Nê Hoàn

Có người hỏi Lư Sư Tôn: "Ngài có mấy người con?" Tôi đáp: "Vô số!" Người kia sửng sốt: "Lư Sư Tôn! Chẳng phải ngài chỉ có hai người con thôi sao? Một người là Phật Thanh, một người là Phật Kì." Tôi cười: "Vô số các con của tôi ở bên trong người tôi." Anh kia hỏi: "Thật không? Hay là giả?" Tôi đáp: "Thật." Anh hỏi: "Sống ở đâu?" Tôi đáp: "Cung Nê Hoàn."

Anh này cảm thấy rất kì lạ, bèn hỏi tôi: "Họ làm những gì?" Tôi đáp: "Những tiểu đồng tử ở trong cung Nê Hoàn này đều là hóa thân của Lư Sư Tôn. Chúng giúp tôi độ hóa chúng sinh đó!" Tôi nói: "Đi cứu người. Đi chữa bệnh. Đi truyền pháp. Đi ban mộng thị. Đi giải tai ách. Đi trừ tai nạn. v.v…" Anh hỏi: "Họ mang hình tượng gì?" Tôi đáp: "Lư Sư Tôn!" Người kia nói: "Tôi biết rồi! Đây chính là hóa thân bên ngoài thân!" Tôi nói: "Cuối cùng anh cũng nói đúng rồi đó!"

Còn nữa: Vào thời Đường có một người là Tư Mã Thừa Trinh bái sư học đạo, là người tương đối có đạo hạnh. Bạn thân của Tư Mã Thừa Trinh là: Vương Duy, Lí Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Hạ Tri Chương, Lư Tàng Dụng, Tốn Chi Vấn, Vương Thích, Tất Cấu…

Đường Duệ Tông hỏi đạo: "Như thế nào là đạo?" Tư Mã Thừa Trinh đáp: "Đạm bạc vô vi." Hoàng đế hỏi: "Đạm bạc vô vi thì làm sao trị quốc?" Tư Mã Thừa Trinh đáp: "Trị thân chính là trị quốc, vì tâm này mà đơn thuần thì sẽ vô tư mà trị thiên hạ!" Hoàng đế rất tán thưởng.

Có một lần. Tư Mã Thừa Trinh đang ngủ. Văn Tịnh Thiên Sư nghe thấy tiếng rất nhiều đồng tử đang đọc kinh. Ông vội đến xem. Ông trông thấy trên trán của Tư Mã Thừa Trinh phóng ra một vệt ánh sáng lớn, âm thanh từ đó phát ra. Văn Tịnh Thiên Sư nhìn kĩ hơn: "Bên trong có rất nhiều tiểu đồng tử đang đọc kinh."

Văn Tịnh Thiên Sư biết Tư Mã Thừa Trinh có đạo hạnh. Bỏi vì trong Hoàng Đình Kinh có ghi chép rằng: Cung Nê Hoàn có đồng tử. Đồng tử chính là hóa thân của bậc chân nhân. Cũng chính là hóa thân bên ngoài thân. Lư Sư Tôn tôi cũng có, do vậy tôi có thể phân thân đi cứu các đệ tử Chân Phật Tông.

[Nê Hoàn là cung thứ ba trong Cửu Cung, Nội Cảnh giải: Từ giữa hai chân mày đi vào ba thốn là Đan Điền Cung, cũng gọi Nê Hoàn Cung. Trong Phật giáo, Nê Hoàn được dùng để phiên âm từ Nirvana trong tiếng Phạn. Nê hoàn là chỉ giai đoạn luyện công của một số môn phái, chuyển tiếp sau giai đoạn vận đan điền.]

18. Tu hành nên giữ giới luật

Khi Phật Đà nhập Niết bàn. A Nan hỏi Phật: "Thế Tôn rời trần thế, Phật đệ tử lấy ai làm thầy?" Phật Đà đáp: "Lấy giới làm thầy!" Câu nói này thật là "một tiếng sấm trên trời", đã thức tỉnh rất nhiều đệ tử còn mơ hồ.

Lục độ vạn hành của Bồ Tát hạnh có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, thì trong đó cũng có trì giới. Tôi thường niệm: "Cúi đầu quy y tô tất địa!" [tô tất địa - susiddhi] Tên gọi "tô tất địa" cũng tức là "tô tất địa kinh", chính là kinh về giới luật. Cá nhân tôi rất tôn sùng giới luật, do vậy tôi đã viết cuốn sách "Bảo kiếm của yogi" là để nhấn mạnh vào tầm quan trọng của giới luật.

Ngoài ra, tôi dạy đệ tử cần tuân thủ theo "Sự sư pháp ngũ thập tụng" và "14 đại giới căn bản của Mật giáo". Tôi hy vọng các đệ tử đừng xem nhẹ giới luật.

Tôi kể: Vào thời đại Hán Vũ Đế, Hán Vũ Đế là một vị quân vương tôn sùng Đạo giáo. Bản thân ông cũng muốn trường sinh bất lão, lại muốn thành Tiên, và lại càng muốn học tập đạo thuật. Truyền thuyết kể rằng: Tây Vương Mẫu từng xuống cung. Còn có cả Thượng Nguyên Phu Nhân đến gặp mặt Hán Vũ Đế. Thượng Nguyên Phu Nhân tức là mẹ của Tam Thiên Chân Hoàng, trong Đạo giáo thì đây là một thân phận rất cao quý. Khi Thượng Nguyên Phu Nhân hạ giáng thì ngài cưỡi kì lân, mặc áo choàng màu xanh nhạt, trên đầu kết ba búi tóc, phần tóc còn lại thì buông dài xuống tận eo, xinh đẹp như tiên nữ. Thượng Nguyên Phu Nhân nói với Hán Vũ Đế: "Nếu ngài muốn cầu đạo thì phải giữ giới luật, không thì một việc cũng chẳng thành!" Ngoài ra, Thượng Nguyên Phu Nhân còn chỉ ra khuyết điểm của Hán Vũ Đế là: Giết người vô số. (mở rộng lãnh thổ, chiến tranh liên miên) Cướp đất đai. (thích thú làm những việc hoành tráng) Tham dâm. (quá nhiều phi tử) Vọng niệm. (nham hiểm xảo trá) Tham ăn uống. (quá xa xỉ)

Ngoài ra: Đối với thuộc hạ của mình, Hán Vũ Đế vô cùng tàn nhẫn, sinh sát cướp đoạt, v.v… Thượng Nguyên Phu Nhân chỉ ra những tội lỗi của Hán Vũ Đế chính là đã phạm vào ngũ giới của Phật giáo: giết người, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nghiện rượu. Loại người này căn bản là không thể thành đạo được, lại còn vọng tưởng muốn trường sinh bất lão, đắc đạo thành tiên. Đúng là trèo cây bắt cá.

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Rất nhiều đệ tử, thậm chí là pháp sư, thượng sư đến quy y tôi, trong số đó cũng có nhân vật kiểu này. Tôi hy vọng các thánh đệ tử hãy mau chóng rời xa tài, sắc, danh vọng, ham ăn ham ngủ. Đạm bạc vô vi là tốt nhất!

19. Thật sự cực chuẩn

Có một người tên là Lâm Ngọc Liễu tin tưởng sâu sắc vào Diêu Trì Kim Mẫu. Vào những năm cuối đời, bà nằm liệt giường. (đã không thể cử động được thân thể) Đột nhiên có một ngày, bà gọi con gái đến, nói với con gái rằng: "9 giờ 30 phút tối nay, tại con ngõ nhỏ giữa đường Công Viên và đường Trung Hoa, Lư Sư Tôn sẽ xuất hiện ở đầu ngõ."

Bà nói với con gái: "Con đi đến đầu ngõ đợi ngài ấy, đưa cho ngài ấy bức thư này." Con gái hỏi: "Đầu ngõ nào?" Bà nói: "Đầu ngõ có một nhà thờ." Con gái của Lâm Ngọc Liễu hỏi: "Sao mẹ biết là Lư Sư Tôn chắc chắn xuất hiện?" Lâm Ngọc Liễu đáp: "Là Diêu Trì Kim Mẫu bảo với mẹ thế."

Về phần tôi thì: năm đó tôi đang ẩn cư ở Đài Loan, nhờ Hứa Đức Toàn đi theo chăm sóc. Hôm đó, tôi muốn đến điểm giao giữa đường Công Viên và đường Trung Hoa để mua một chiếc quần bò. Mua xong quần bò, tôi từ đầu ngõ nơi có một nhà thờ bước ra. Có một cô gái chạy xe máy hỏi tôi: "Là Lư Sư Tôn phải không?" Tôi nói: "Phải." "Mẹ tôi là Lâm Ngọc Liễu có nhờ tôi giao cho ngài bức thư này." - Cô gái nói. Tôi rất ngạc nhiên. Trong đời này, con ngõ này, tôi chỉ đi qua một lần. Thời gian, địa điểm, con người đều chuẩn xác.

Cô gái nói: "Mẹ tôi nói: tối nay, 9 giờ 30 phút, ngài nhất định sẽ xuất hiện ở đầu ngõ này, tôi đã chờ ngài ở đây lâu rồi." Tôi hỏi nguyên do. Cô gái kể lại chi tiết tường tận cho tôi nghe. Tôi sửng sốt. Nhưng tôi cũng tin tưởng sâu sắc rằng, chỉ cần là Diêu Trì Kim Mẫu nói thì nhất định là cực chuẩn.

Tôi trở về nhà mở thư ra. Có hai tấm ảnh. Vài con chữ. Một tấm ảnh là "sinh", ảnh một đứa bé sơ sinh. (Lâm Ngọc Liễu) Một tấm ảnh là "tử", là Lâm Ngọc Liễu nằm liệt giường. Mấy chữ là: "Xin Lư Sư Tôn tiễn tôi một quãng đường." Lúc đó tôi đã hiểu ngay ý của bà rồi. Tôi đã tiếp dẫn bà đến Diêu Trì Tiên Cảnh.

Còn nữa: Vào thời Minh, có một người tên là Chu Điên Tiên. Có người thi đỗ công danh. Trước mỗi lần xướng tên người thi đỗ, Chu Điên Tiên sẽ đi chúc mừng trước. "Tôi đến để chúc mừng người thi đỗ." Lần nào cũng chuẩn. Những người biết ông đều vô cùng kinh ngạc trước tài tiên tri của ông.

Khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vẫn còn chưa lên ngôi hoàng đế, Chu Điên Tiên sớm đã đến lễ bái rồi, và nói rằng Chu Nguyên Chương sẽ làm hoàng đế. Khi Trương Sĩ Thành xưng đế, Chu Nguyên Chương hỏi Chu Điên Tiên: "Sao ông không vào triều bái Trương Sĩ Thành?" Chu Điên Tiên nhìn trời nói: "Trên trời không có tên của ông ta." Chu Điên Tiên thật sự nói quá chuẩn.

Trong chương sách "Thật sự cực chuẩn" này, những gì Diêu Trì Kim Mẫu nói chuẩn tới mức làm người ta kinh ngạc! (Trong cõi vô hình đã có định số.)

20. Nước của Ma Ha Song Liên Trì

Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Ở tịnh thổ của con, nước của Ma Ha Song Liên Trì có rất nhiều điều siêu nhiên." Tôi không hiểu là điều siêu nhiên gì. Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Sau này con sẽ hiểu."

Sau này, khi tôi đã tu hành, tôi đã hiểu ra: "Nước của Ma Ha Song Liên Trì quả nhiên thần kì: có thể kéo dài tuổi thọ, có thể chữa bệnh, có thể thanh tịnh, có thể thành Tiên."

Tôi từng đưa một đệ tử đến Ma Ha Song Liên Trì, để cho anh ngâm mình trong nước. Trời ạ! Quả nhiên anh đã trẻ lại. Khối u ung thư của anh cũng biến mất. Còn anh trở thành một người đạm bạc vô vi.

Anh tinh tấn tu trì Mật pháp. Mọi thứ anh đều hiểu cả. Tôi hỏi anh: "Anh hiểu cái gì?" Lời anh nói khiến tôi kinh ngạc: "Sinh mạng là hình phạt của ta. Thân thể khiến ta bị trói buộc. Những hiểu biết nhân gian là tai họa của ta. Hoàn cảnh là gánh nặng của ta." Bốn câu nói của anh nếu ngẫm nghĩ một cách sâu sắc thì cũng thật sự có pháp vị.

Phật nói: "Đời người chính là sự trả nghiệp. Cũng tức là hình phạt!" Lão Tử nói: "Cái hoạn lớn nhất của ta là có một thân người. Nghĩa là thân thể này bị giam cầm." Khổng Tử nói: "Đã có Thánh nhân thì cũng có kẻ trộm cướp." "Xuất hiện tri thức thì cũng đồng thời xuất hiện mầm họa."

Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Cảnh giết tâm, tâm giết cảnh. Con người thế tục sẽ đều bị hoàn cảnh giết chết." Những lời này đều là những điều chí lí.

Khi tôi hành đạo, có người cho rằng Lư Sư Tôn dùng tà thuật, muốn bắt giữ tôi lại, nói với người ta rằng: "Bắt Lư Sư Tôn lại!" Vị quan chức này đích thân đến chỗ tôi chất vấn: "Tôi hỏi ông mấy câu hỏi, ông trả lời đúng thì tôi sẽ tha cho ông, ông trả lời sai thì tôi sẽ bắt ông lại." Ông ta hỏi: "Trên người tôi có thứ gì?" Tôi đáp: "Tôi chẳng biết trên người ông có cái thá gì. Nhưng tối qua ông đi tắm, bị trượt chân, nên chân có một vết trầy xước." Quan chức này sững người ra! Kéo ống quần lên, quả nhiên có một vết thương.

Ông ta hỏi: "Cha mẹ đã khuất của tôi bây giờ đang ở đâu?" Tôi đáp: "Nói suông chẳng có tác dụng, ông tự mình nhìn đi." Tôi bảo ông ta nhìn vào trong ống tay áo tôi, không ngờ ông ta nhìn thấy cha mẹ của mình đang ở trong địa ngục chịu khổ. Ông hỏi tôi: "Làm sao để siêu độ?" Tôi đáp: "Tôi sẽ đưa họ đến Ma Ha Song Liên Trì, gột rửa sạch nghiệp chướng của họ." Từ sau lần đó, quan chức này đã đến quy y tôi!

21. Do thám

Có một năm, tôi trở về Đài Loan. Bác sĩ Dương Di Quyến ở Đài Trung mời tôi ăn cơm. Bác sĩ Dương Di Quyến nói: "Lư Sư Tôn! Ngài xem bói cho người ta thật sự quá chuẩn, tôi thật sự nằm bò ra đất bái phục ngưỡng mộ." Tôi hỏi: "Ông đang nói đến chuyện gì vậy?" Bác sĩ Dương nói: "Có một hôm, tôi đến chỗ ngài hỏi chuyện, hôm đó người đến rất đông, cỡ khoảng 300 người đứng xếp hàng. Ngài lần lượt xem cho từng người, ai nấy đều hài lòng trở về."

Tôi hỏi: "Sau đó thì sao?" Bác sĩ Dương nói: "Cuối cùng chỉ còn lại bốn người. Ngài liền đứng dậy, không xem nữa, ngài chuẩn bị đi ra ngoài." Bốn người kia nhìn nhau. Một người trong số đó nói: "Chỉ còn lại bốn người chúng tôi, sao không xem nốt?" Tôi im lặng không nói gì. Sau cùng, tôi bảo: "Không có việc thì không cần hỏi."

Thế rồi tôi bỏ đi. Sau khi tôi bỏ đi, Bác sĩ Dương Di Quyến cũng vẫn chưa bỏ đi, ông vội tiến lên nói chuyện cùng bốn người kia. Bác sĩ Dương nói: "Vì sao Lư Sư Tôn không xem cho bốn người các vị?" Họ đáp: "Lư Sư Tôn lợi hại thật!" Bác sĩ Dương hỏi: "Lợi hại thế nào?" Lúc này, bốn người mới nói cho bác sĩ Dương rằng, trong bốn người họ, một người là nhân viên giỏi của Bộ Cảnh Sát, một người là nhân viên giỏi của Cục Điều Tra, một người là công tố viên của tòa án, một người là quan tòa của tòa án. Bác sĩ Dương Di Quyến nghe xong thì xuýt xoa thán phục! Dương Di Quyến hỏi: "Các vị đến đây là để…?" Họ đáp: "Do thám!" Kết quả là: Lư Sư Tôn chừa lại đúng bốn người này không xem. Hơn nữa còn bỏ đi không thèm đếm xỉa gì họ. Trước khi bỏ đi còn nói: "Không có việc thì không cần hỏi." Trong bữa cơm mời tôi, bác sĩ Dương cứ nói mãi: "Chuẩn! Chuẩn! Chuẩn! Chuẩn chết người!"

Còn nữa: Từng có một lần khác tôi cũng không xem. Người kia hỏi: "Sao không xem?" Tôi đáp: "Không xem là không xem." Người kia hỏi: "Có lý do không?" Tôi đáp: "Có muốn tôi nói không?" Người kia nói: "Muốn! Xem xem tôi có phục hay không!" Tôi trả lời: "Họ tên trên giấy hỏi việc mà anh viết lên căn bản là tên giả, không có người này. Ngày giờ sinh cũng là giả. Anh tự bịa chuyện ra thì hỏi làm gì?" Người kia đứng phắt dậy, nói: "Chuẩn! Lư Sư Tôn quả là chuẩn!"

22. Lời dạy của Diêu Trì Kim Mẫu

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Như thế nào mới là tu hành thành tựu?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Quên hết." Câu trả lời này khiến tôi giật mình kinh ngạc. Làm sao tôi có thể "quên hết".

Tôi hỏi: "Lẽ nào mất trí nhớ là thành tựu?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Quên hết không đồng nghĩa với mất trí!" Tôi hỏi: "Sự khác nhau thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Milarepa có một bài đạo ca, con đi tìm ra đây là có thể hiểu được ngay."

Đệ tử của tôi, tiến sĩ Trương Trừng Cơ đã dịch cuốn "Đạo ca của Milarepa." Tôi tìm ra bài ca đó: "Người chứng đắc vô tri vô giác, Sẽ trải nghiệm cảm giác quên đi, Quên ngay cả ý niệm tăng giảm. Người chứng đắc bản tính tam thân, Sẽ quên cả thứ tự Bổn tôn, Quên ngay cả các pháp suy tưởng. Người chứng đắc Phật quả nguyên bản, Sẽ quên cả quả vị tinh tấn Quên ngay cả các pháp thế tục. Người tu trì tai nghe Mật pháp, Sẽ quên cả khái niệm ngôn từ, Quên ngay cả mọi sự kiêu ngạo. Người chứng đắc tính không vạn vật, Sẽ quên cả sách vở kinh tập Quên ngay cả mọi sự thừa thãi."

Tôi đọc xong bài ca này cũng vô cùng tán thán. Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Có phải bài đạo ca này không?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Chính nó." Tôi hỏi: "Vô tri vô giác là cảnh giới nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Là cảnh giới quên hết." Tôi hỏi: "Cảnh giới quên hết là thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Không tăng không giảm!" Tôi hỏi: "Chứng đắc tam thân bản tính là cảnh giới nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Tam thân mà cũng chẳng có tam thân." Tôi hỏi: "Nghĩa là sao?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Là thân trải khắp mọi nơi." Tôi hỏi: "Thế còn chứng đắc Phật quả?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Tất cả là một." Tôi hỏi: "Tất cả là một là sao?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Pháp nhĩ bản nhiên." ...

Trời ạ! Bây giờ tôi đã hiểu rõ ràng rành mạch rồi. Tôi có thể ngủ ngon, tôi có thể ăn ngon, tôi có thể sống vui vẻ, tôi có thể giống như "có đến", tôi có thể giống như "có đi", tôi có thể chứng đắc, tất cả đều nhờ vào lời chỉ dạy của Diêu Trì Kim Mẫu: "Quên hết."

23. Lão Tử và Trang Tử

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Ở nhân gian, con nên học theo ai?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Lão Tử và Trang Tử." (Câu trả lời này nằm ngoài dự liệu của tôi.) Tôi hỏi: "Không phải là học Phật sao?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Không có gì khác!"

Tôi đã hiểu ý của Diêu Trì Kim Mẫu rồi. Khác mà cũng là không khác, đều là đối tượng của học tập. Khổng Tử từng nói: "Chim, ta biết nó có thể bay. Cá, ta biết nó có thể bơi. Thú, ta biết nó có thể chạy. Còn rồng chợt đến chợt đi trong gió mây, thật khó đoán biết. Lão Tử, ông ấy chẳng phải là một con rồng sao?"

Tôi đọc sách của Lão Tử, kính phục bội phần. Có rất nhiều hóa thân của Lão Tử: Vào thời Sơ Tam Hoàng, ngài là Vạn Pháp Thiên Sư. Vào thời Trung Tam Hoàng, ngài là Bàn Cổ Công. Vào thời Phục Hi, ngài là Tước Hoa Tử (Tước Mật Tử). Vào thời Thần Nông, ngài là Thái Thành Tử. Vào thời Hiên Viên, ngài là Hoàng Thành Tử. ……………………… Vào triều đại Chu Chiêu Vương, Lão Tử đã cưỡi trâu xanh rời khỏi Hàm Cốc Quan. Đó là một cảnh tượng tôi rất ngưỡng mộ: "Lão Tử cưỡi trâu rời Hàm Cốc Quan!" Đúng là tiêu dao tự tại. (Tôi học theo "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử.) Tôi ngợi ca Lão Tử là: "Thoát tục."

Còn nữa: Học vấn của Trang Tử rất rộng, bao trùm mọi thứ. Cuốn sách "Trang Tử" gói trọn đủ mọi thứ. Tư tưởng của Trang Tử cũng giống như Lão Tử, cũng là rong chơi khắp chốn, thỏa chí tang bồng, khiến tôi không ngớt hâm mộ! Trang Tử nói: "Con người đừng làm nô lệ cho vật chất!" Còn nói: "Đừng dính mắc vào vật." Đối với tài sản, danh vị, sắc dục, hãy cười vào mũi. Tư tưởng của Trang Tử là: "Nếu làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí thì cũng là người có thể ngao du trong vũ trụ vô biên." Đây chính là sự tự do viên mãn.

Tôi đọc Trang Tử, đã hiểu được về sự: An yên. Nhàn tản. Hài hòa. Tĩnh lặng vô ưu. Trời ơi! Đó chẳng phải là sự tự tại của Phật sao?

Cuối cùng tôi đã hiểu: Tài sản là cạm bẫy. Gia đình là cạm bẫy. Sự nghiệp là cạm bẫy. Danh vị là cạm bẫy. Sắc dục là cạm bẫy. ...

Bởi vậy, tôi nói: Tôi và Chân Phật Tông chẳng có dây dưa gì với nhau. Tôi và 281 cuốn sách mà tôi viết có thể cho một mồi lửa đốt hết sạch sẽ. Tôi và gia đình người thân, chẳng cần phải bận tâm lo lắng, cứ để tự nhiên. Chẳng cần nghĩ chuyện tiền bạc. Các đệ tử ra sao thế nào cũng chẳng có can hệ gì! Khi tôi rời khỏi cõi đời này, cũng chẳng có gì lo lắng! Tôi khát khao sự tự do lớn!

24. Tôi hỏi về thiền định

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Thế nào là tu trì thiền định?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Trí huệ." Tôi hỏi: "Thế nào là tu trì trí huệ?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Thiền định." Hình như tôi hỏi ngốc rồi. Hỏi mà cũng như không.

Tôi hỏi: "Hai điều này tu trì thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Lư Sư Tôn! Đạo quả mà con hiện đang giảng đều là nói về trí huệ và thiền định." Tôi khẩn thiết cầu xin Diêu Trì Kim Mẫu ban cho khẩu quyết.

Diêu Trì Kim Mẫu nói: Tập trung ngồi cho đến khi đạt đến trạng thái thả lỏng. Rời xa sự đời ngồi cho đến khi đạt đến trạng thái thanh tịnh. Tuyệt đối ngồi yên cho đến khi đạt đến trạng thái quang minh. Ngồi trong sự "vô tu" cho đến khi đạt đến trạng thái trong vắt. Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Thả lỏng, thanh tịnh, quang minh, trong vắt là bốn khẩu quyết lớn."

Sự thể nghiệm thiền định của tôi chính là như vậy, tâm không chướng ngại, khoan thai an nhiên, tỏ tường thấu suốt, tự nhiên rực rỡ trong vắt, từ đó trí huệ tự sinh ra. Diêu Trì Kim Mẫu dạy tôi: "Để cho thân này giải thoát khỏi thế giới thế tục, thân tâm dung nhập vào tự nhiên mà tiêu biến luôn. Cá thể này biến mất thì sẽ sản sinh ra niềm hân hoan rực rỡ trong suốt."

Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Mật giáo và Bổn tôn hợp nhất, chính là sự hòa tan vào nhau, không phải là hai, mà là một. Con biến mất, Bổn tôn biến mất, chỉ còn lại một sự hòa trộn làm một, hoặc hợp nhất thành số không." Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Đây chính là quên luôn cả ta và vật." Tôi hỏi: "Là quên hết sao?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Đúng vậy."

Tôi nhớ có một bài thơ kệ như sau: "Tâm ở một chỗ khi thiền định, Ý niệm phân biệt đã tiêu trừ Lúc này dừng lại trong tĩnh lặng Nhờ suy nghĩ này thiền định sâu. Rộng mở sáng rõ như đèn chiếu Trong trẻo thanh khiết như hoa tươi. Giống hệt như bầu trời xanh ngắt Giác ngộ tính Không sáng và trong. Sáng trong thấu suốt không phân biệt, Tĩnh tịch mênh mang thể nghiệm sâu."

Đọc xong bài thơ kệ này, tôi nói tôi đã hiểu được: "Thế nào là hữu ngã. Thế nào là vô ngã." Khổ. Không. Vô thường. Vô ngã. "Vô ngã là khẩu quyết lớn nhất của thiền định. Vô ngã chính là có thể dung nhập, vô ngã tức là hợp nhất, vô ngã là số không, vô ngã là quên hết, vô ngã là đại trí huệ." Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Lư Sư Tôn! Chuẩn rồi!"

Trời đất và ta cùng sinh, vạn vật và ta hợp nhất. Tiến thêm một bước nữa. Kéo dài mãi mãi, không ngừng sinh sôi. Con đường mà Lư Sư Tôn đã đi trong cuộc đời này đều dựa vào sự chỉ dạy của Diêu Trì Kim Mẫu.

25. Không chuẩn! Không chuẩn!

Năm đó, sư tỉ Liên Hoa Tế Muội đến Seattle. Trong phòng hỏi việc của tôi, cô hỏi: "Ngài bảo sẽ trúng cử, vì sao lại không chuẩn?" Tôi nghe xong thì sững người ra. Mặt tôi đỏ lựng lên, đến một câu nói cũng không thốt ra được.

Sau đó, tôi định thần lại, nói với Liên Hoa Tế Muội: "Bây giờ cô hãy gọi một cú điện thoại, hỏi ứng cử viên xem trước khi bầu cử có phải tôi đã báo mộng rằng sẽ không trúng cử hay không." Liên Hoa Tế Muội gọi cuộc điện thoại quốc tế. Đối phương trả lời: "Đúng là có giấc mơ đó."

Sự tình là thế này. Trước dịp bầu cử, tôi đã đến một đất nước nọ, đất nước này phái một vị bộ trưởng đến đón tôi ở sân bay. Vị bộ trưởng này cũng đại diện cho đơn vị cao nhất. Trong phòng chiêu đãi khách quý, bộ trưởng hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Chúng tôi sẽ thắng cử chứ?" Tôi đáp: "Sẽ thắng!" Sau đó, tôi trở về Mỹ. Một hôm, Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Họ sẽ không trúng cử!" Tôi nghĩ, thảm rồi. Tôi đã nói với người ta là sẽ trúng cử, kết quả bây giờ lại không thắng, như thế chẳng phải là mất mặt Diêu Trì Kim Mẫu quá hay sao, mất mặt cả tôi nữa. Phải làm sao đây? Không chuẩn rồi!

Sau đó, tôi chỉ có cách xuất thần, nhập vào giấc mơ của vị bộ trưởng, tôi xuất hiện trong giấc mơ của ông. Tôi cầm cờ của "đối phương", hét to: "Chúng tôi trúng cử rồi!" Điều này cũng có nghĩa là bộ trưởng kia và cấp trên của ông sẽ đều không trúng cử. Lần báo mộng này rất chân thực. Sau cuộc bầu cử, bộ trưởng và đơn vị cấp trên quả nhiên đã không trúng cử. Bởi vì có sự báo mộng này mà không chuẩn cũng thành chuẩn rồi. Chà! Chính là như vậy đó!

Còn nữa: Có một lần, có hai vị ủy viên hội đồng thành phố đến hỏi tôi về chuyện bầu cử, một trong hai người là phụ nữ. Tôi nói: "Sẽ trúng cử." Người kia là đàn ông. Tôi nói: "Không vấn đề." Kết quả bầu cử, người phụ nữ đã trúng cử. Xin chúc mừng! Rất chuẩn! Nhưng người đàn ông thì thảm rồi, số phiếu bầu xếp sau ba người. Gay rồi! Không chuẩn! Tôi thật sự cảm thấy lo lắng bối rối, làm sao đối diện với ứng cử viên nam đây.

Sau đó: Người trúng cử vì vướng kiện tụng mà phải rút lui, kết quả bầu cử vô hiệu! Cho người về thứ hai thay thế. Nhưng người xếp thứ hai bị điều tra ra là mua phiếu bầu, do vậy kết quả không có hiệu lực! Lại đổi qua lấy người về thứ ba để thay thế. Nhưng người xếp thứ ba cũng lại vi phạm quy định, kết quả cũng vô hiệu! Lại đổi qua lấy người thứ tư để bổ sung vào.

Cứ đẩy xuống đẩy lên, đẩy xuống đẩy lên, đẩy xuống đẩy lên như vậy, cuối cùng người xếp sau ba người đã trở thành ủy viên hội đồng thành phố. Cho đến khi trở thành ủy viên hội đồng thành phố thì nhiệm kì của ủy viên được chọn này chỉ còn lại đúng một tháng. Chà! Không chuẩn cũng lại chuẩn rồi!

26. Ba điều không đoán

Không đoán thọ mệnh Từng có một người phụ nữ đến hỏi tôi: "Tôi sống được đến bao nhiêu tuổi?" Tôi nói: "Không đoán!" Cô nói: "Cá nhân tôi không sợ chết, tôi cũng sẽ không tiết lộ cho người khác biết, chỉ có một mình tôi biết thôi." Tôi hỏi: "Xem năm bao nhiêu tuổi cô sẽ chết thì có lợi ích gì chứ?" Cô đáp: "Để tôi có thể thong thả chuẩn bị một số việc, không bị gấp rút." Thế là tôi xem giúp người phụ nữ đó! Đáp án là 43 tuổi thì hết số mạng.

Sau khi trở về, người phụ nữ đó lòng đầy buồn bã, cơm không thiết ăn, nước chẳng buồn uống, cả ngày chỉ có khóc lóc, vô cùng suy sụp, đêm cũng không ngủ được. Người nhà hốt hoảng, tìm cách hỏi han, cô nói với người nhà rằng: "Lư Sư Tôn đã đoán như vậy!" Thế là, cả nhà họ lớn lớn nhỏ nhỏ, lớn tuổi nhất là ông bà cho đến nhỏ tuổi nhất là con trai con gái của cô hùng hùng hổ hổ đến chỗ tôi gây ồn ào suốt mấy tuần, khiến tôi cảm thấy bị quấy rầy rất nhiều.

Tôi thật sự không chịu thêm được nữa. Cứ như thế cho đến khi người phụ nữ kia đúng vào năm 43 tuổi thật sự đã chết. Sau đó người nhà cô mới để yên. Nhưng bản thân tôi cũng vô cùng mệt mỏi rồi! Tôi nói: "Đoán tuổi thọ cho người ta, thật sự cần phải thận trọng đó!"

Lựa chọn đối tượng Một nữ tiếp viên của hãng hàng không Trung Quốc cầm đến hai tấm ảnh của hai người đàn ông. Cô xin Lư Sư Tôn giúp cô chọn đối tượng xem người nào mới là "hoàng tử định mệnh" của cô. Cô hỏi: "Người nào là tốt nhất?" Tôi nói: "Tôi có thể xem giúp cô, nhưng xin đừng nói với người khác rằng là Lư Sư Tôn đoán đó." Cô đáp: "Đương nhiên." Tôi lựa chọn một người trong số đó. Cô gật gật đầu.

Sau khi trở về, cô tiếp viên hàng không nói với người kia rằng: "Lư Sư Tôn cho anh điểm số rất thấp!" Thế là tôi thảm rồi! Người bạn trai từ trước đến giờ của cô gái mỗi lần uống rượu say đều gọi điện thoại đến quấy rầy tôi, trong điện thoại chửi "Tam tự kinh". Tôi đã phải trải qua một khoảng thời gian đầy mệt mỏi. Tôi nói: "Giúp người ta chọn đối tượng, cũng phải thận trọng!"

Không đoán cờ bạc Ở đây tôi muốn nói đến việc mua bán cổ phiếu và các hợp đồng tương lai, hoặc mua bán vàng. Bởi vì: Kiếm được lời thì anh chẳng có phần! Thua thì anh bị chửi cho thê thảm! Cổ phiếu biến đổi liên tục. (Mỗi lúc điểm số đều thay đổi.) Đầu cơ hợp đồng tương lai. Giá vàng thì thiên biến vạn hóa. Việc kiểm soát thời gian không dễ dàng. Tình hình quốc tế, thắng thua, hành vi con người, khủng hoảng kinh tế, những cơn sóng tài chính tiền tệ……. Tôi cho rằng đây là: chủ nghĩa vị lợi, quá thế tục! Chà! Toàn là những thứ trần tục! Căn bản là tôi chẳng muốn xem!

27. Kim thần tìm người

Con rể của sư tỉ Teresa mất tích. Sự tình là như thế này: Anh con rể này là người da trắng, nổi tiếng trong giới âm nhạc ở Mỹ, những ca khúc mà anh sáng tác nổi tiếng toàn thế giới. Khi cần tìm cảm hứng, anh ta thường một mình mang đồ cắm trại đi đến bờ sông sâu trong rừng để tận hưởng thiên nhiên rộng lớn. Ngắm núi. Ngắm sông. Ngắm trời xanh mây trắng. Ngắm trăng sáng sao xa. Cứ như thế, những khúc nhạc dưới ngòi bút sáng tác của anh đã trở thành những nốt diễn tấu trong thế giới âm nhạc.

Lần này, anh ta cũng lại lên đường. Nhưng điều khác biệt duy nhất là sau khi anh xuất phát thì cũng mất luôn tin tức, như bốc hơi khỏi mặt đất. Vợ anh tìm anh. Bố mẹ vợ anh tìm anh. Bạn bè tìm anh. Nhưng anh ta giống như con diều đứt dây, không biết đã bay lạc đến nơi nào rồi.

Có khách leo núi trông thấy anh. Có cả nơi cắm trại. Vợ anh, bố mẹ vợ tìm kiếm dấu vết để đi tìm. Cảnh sát cũng đã phái đội tìm kiếm đi vào rừng sâu, leo lên cả ngọn núi, lần theo sông suối, lên thượng nguồn, hạ nguồn, tìm kiếm theo phương thức cuốn chiếu. Nhưng không thấy là không thấy.

Núi xanh thẳm. Sông rì rầm. Bị thú dữ bắt mất rồi sao? Hay là bị rơi xuống từ vách núi? Hay là sảy chân rơi xuống nước? Hay là xảy ra tai nạn gì? ...

Thời gian từng ngày trôi qua, từng tuần từng tuần trôi qua, thời gian càng kéo dài thì việc tìm kiếm càng bất lợi. Bình thường khi ra khỏi nhà, anh chàng nhạc sĩ này luôn dùng điện thoại để liên lạc với vợ, nhưng lần này chẳng có liên lạc gì.

Teresa nhớ đến Lư Sư Tôn liền đáp máy bay đến tìm tôi. Tôi đứng trước Diêu Trì Kim Mẫu ở Seattle Lôi Tạng Tự, tôi nói: "Sẽ tìm thấy!" Còn nói thêm: "Mấy ngày nữa!" "Còn sống? Hay đã chết?" - Teresa hỏi. Tôi trầm ngâm, không đáp. (Chỉ có thể ngầm hiểu ý.) "Địa điểm ở đâu?" Teresa lấy ra tấm bản đồ. Tôi dùng một sợi chỉ rồi xỏ vào một chiếc kim, dùng một cây bút chì, đầu bút chì hướng về bản đồ. Thế là cây bút chì tự chuyển động, quay rộng, quay hẹp, quay trái, quay phải, di chuyển…. Đầu bút chì dừng lại ở bên cạnh một cái cây ở thung lũng sông. Tôi nói: "Chính là ở đây!" Teresa nói: "Thung lũng sông này đã tìm kiếm mấy lần rồi, sao có thể là ở đây được?"

Kết quả là: hai ngày sau, đã tìm thấy! Địa điểm là phía trước một cái cây ở thung lũng, chính xác là địa điểm tôi đã chỉ ra. Người thì đã chết! Người vợ rất đau đớn! "Kim thần tìm người" thật quá chuẩn. Truyền hình toàn nước Mỹ phát đi những ca khúc mà anh sáng tác để tưởng nhớ người nhạc sĩ vĩ đại này.

28. Linh khí đặc biệt

Có một đệ tử tên là Liên Hoa Văn Nhân đưa một người bạn họ Vương đến gặp tôi. Tôi vừa trông thấy người bạn họ Vương này liền nói: "Trên người anh có một thứ linh khí rất đặc biệt." Anh ta hỏi: "Là linh khí gì?" Tôi đáp: "Là khí phát ra từ vị thần mà anh thờ phụng." Anh ta hỏi: "Vì sao lại đặc biệt?" Tôi đáp: "Vị thần mà anh thờ phụng chẳng có ai biết, duy có Lư Sư Tôn biết thôi." Anh ta hỏi: "Hình dạng thế nào?" Tôi đáp: "Hình tướng một đứa bé trai, trên đầu có hai búi tóc, toàn thân phóng tỏa ánh sáng màu đỏ!" Lúc này, người bạn họ Vương thốt lên kinh ngạc vô cùng, nói: "Chuẩn!"

Người bạn họ Vương lại hỏi: "Vị thần này tên gọi là gì?" Tôi đáp: "Cũng họ Vương giống anh, là thần cây." Người bạn họ Vương lập tức quỳ xuống trước tôi: "Ngài đúng là chuẩn như thần!"

Người bạn họ Vương này tên thật là Vương Khang. Anh kể cho tôi nghe một câu chuyện: Vương Khang là người trồng cây ăn quả. Hoa quả trồng được chất lượng kém, làm ăn không tốt, việc kinh doanh rất ảm đạm. Một hôm, anh đến một ngôi chùa Đạo giáo, gặp một đạo nhân già, vị đạo nhân già bảo anh rằng anh cần thợ phụng một vị thần, vị thần này có thể giúp cho chất lượng hoa quả anh trồng tốt hơn. Anh hỏi đạo nhân già: "Là vị thần nào?" Đạo nhân già nói: "Vị thần này tên là Vương Phạn Chí." Vương Khang nói: "Chưa từng nghe nói đến, thần gì mà lại có tên là Vương Phạn Chí?" Đạo nhân già nói: "Là thần cây!"

Nguồn gốc của thần cây là như sau: Ở vùng Lê Dương có một người tên là Vương Đức Tổ, ông ta trồng rất nhiều cây, có một cây trên cành mọc ra một cái bướu lớn, khi cái bướu này mềm ra thì có một đứa trẻ từ bên trong bướu nhảy vọt ra. Vương Đức Tổ nuôi đứa bé lớn lên, đến năm bảy buổi thì đứa bé mới biết nói. Câu đầu tiên mà đứa bé nói là: "Ai sinh ra con?" Vương Đức Tổ nói: "Là cây sinh ra con." Câu nói thứ hai là: "Cây làm sao có thể sinh ra trẻ con được?" Vương Đức Tổ đáp: "Bởi vì con là thần cây!"

Vương Đức Tổ đặt tên cho đứa bé là: Vương Phạn Chí. Ở nơi mà Vương Phạn Chí sống thì cây, hoa, quả đều phát triển sum xuê. Vương Phạn Chí tu đạo. Có một bài thơ còn lưu lại như sau: "Ngoài thành có bánh bao Trong thành làm nhân bánh Mỗi người ăn một cái Ai nấy đều khen ngon."

Kể từ khi Vương Khang thờ phụng Vương Phạn Chí, quả nhiên tất cả mọi việc đều thuận lợi, vô cùng hưng thịnh. Vương Khang hỏi Lư Sư Tôn: "Vì sao mà ngài lại linh vậy? Việc tôi thờ phụng Vương Phạn Chí mà ngài cũng biết?" Tôi cười cười không đáp. Sau cùng, tôi nói: "Chỉ là ăn may mà thôi!"

29. Người bán thần

Chiếc xe Maserati của tôi (Lư Sư Tôn) mang biển số là AVT9951. AVT là cách viết tắt của từ Avatar, nghĩa là người bán thần. Ngoài ra, chiếc xe Rolls-Royce của tôi mang biển số là BUC6428. BUC nghĩa là: "Phật đến rồi!" [BUC mà Sư Tôn nói đến là cách viết theo tiếng Anh là Buddha Coming, nghĩa là Phật đến rồi!] Hai chiếc xe này đều do cục kiểm tra và quản lý cấp biển số, tôi không đặc biệt lựa chọn. Thật là tình cờ! Tôi tự cảm thấy đúng là tên gọi và thực tế thật là tương hợp với nhau.

Đối với con số trên biển số xe, tôi diễn giải ra là: 9951 là: Mãi mãi tôi đều là số một. 6428 là: Chỗ này phát, chỗ kia phát. Ha ha ha! [Ở đây Sư Tôn đều sử dụng hiện tượng đồng âm khác nghĩa.]

Còn nữa: Tôi thường nhớ đến câu chuyện xưa: Vào những năm cuối đời nhà Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu người huyện Diệm, đi vào núi Thiên Thai hái thuốc. Kết quả là bị lạc trong núi, không tìm được đường ra. Họ đi lang thang trong rừng 13 ngày, bụng đói vô cùng. Sau đó họ phát hiện ra một cây đào sai trĩu quả, hai người hái xuống ăn thì sức khỏe lại hồi phục. Họ cảm thấy loại đào này không phải loại đào bình thường, ăn xong thì toàn thân tỏa sáng.

Bên bờ suối, họ lại phát hiện ra: có hai chiếc cốc vàng trôi trên mặt nước, trong cốc vàng đựng đầy cơm vừng, họ vô cùng mừng rỡ lấy ăn. Ăn xong, họ cảm thấy chân đã khỏe lại, thân thể nhẹ nhàng nhanh nhẹn như chim yến. Cuối cùng, Lưu Thần và Nguyễn Triệu gặp hai tiên nữ bên bờ suối. Tiên nữ nói: "Đợi hai người đã lâu rồi!" Thế rồi hai tiên nữ đưa Lưu Thần và Nguyễn Triệu về nhà họ.

Khi về đến nhà, hai người mới biết đây là tiên cảnh. Cung điện hào hoa. Tiên hoa tiên thảo. Thất trân bát bảo. Trên trời là đế võng minh châu, dưới đất là ngọc mani. Đồ ăn thức uống của thần tiên. Còn có rất nhiều thị nữ phục vụ Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Và thế là, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng với hai tiên nữ đã trở thành vợ chồng thần tiên, hơn nữa còn say trong lạc thú quên hết cả mọi sự.

Thị nữ ca hát. Thị nữ nhảy múa. Thị nữ vui chơi. ...

Hai người họ ở cung điện trên trời sống những ngày tháng hạnh phúc mĩ mãn. Nhưng nửa năm sau, hai người rất nhớ những người thân ở quê cũ, bèn quyết định trở về nhà. Tiên nữ không giữ được họ, cuối cùng chỉ còn cách tiễn hai người này về nhà.

Lưu Thần và Nguyễn Triệu trở về quê cũ mới phát hiện ra mọi thứ trên đường đã thay đổi, con người cũng thay đổi, những người thân của họ đã không còn tồn tại nữa. Hỏi ra mới biết đã trải qua bảy đời rồi. Cuối cùng, họ lại đi vào núi Thiên Thai, nhưng cũng không tìm được con đường ngày xưa. Không trở về được nữa!

Tôi (Lư Sư Tôn) thường nhớ đến câu chuyện này. Tôi phát hiện ra tôi vốn ở Ma Ha Song Liên Trì, tôi sống cùng với Vân Hoa phu nhân. Nhưng vì một suy nghĩ ngu muội mà không ngờ tôi đã đến chốn nhân gian, ở nhân gian luân hồi nhiều kiếp. Thật may mà Diêu Trì Kim Mẫu đã tìm được tôi. Cõi trời tốt? Hay nhân gian tốt? Bảo người bán thần như tôi đây thế nào mới là tốt?

30. Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu

Ngày 12 tháng 9 năm 2020. Có một đồng môn từ bang Oregon xa xôi đến tham gia đại pháp hội siêu độ A Di Đà Phật tại Seattle Lôi Tạng Tự ở bang Washington nước Mỹ. Anh chuyển cho tôi một lá thư. Nội dung trong thư như sau:

Sư Phật tôn kính! Mấy ngày nay, bờ Tây nước Mỹ có hỏa hoạn lớn, lửa đã cháy đến California, Oregon, Washington. Rừng cháy lớn lan rộng ra cả ba bang. Con sống tại bang Oregon, tổng cộng đã có 50 vạn người được cảnh báo cần sơ tán, chiếm tới 1/4 dân số toàn bang. Con nghe nói: California tình hình rất nghiêm trọng. Tiếp đó là bang Oregon. Tiếp nữa là bang Washington.

Rừng cháy lớn, gió lại tiếp thêm sức cho lửa, những khu rừng như biển lửa, bầu trời ngùn ngụt lửa cháy, cả trời đất rực đỏ. Nhân viên chữa cháy thì làm việc liên tục không ngơi nghỉ. Tài sản, nhân lực, thương vong không thể ước tính hết. Chất lượng không khí suy giảm bất thường, chỉ số là PM2. Cả năm chỉ số đều màu đỏ và màu tím, mức độ ô nhiễm đã vượt qua cả Đài Trung Đài Loan, ở cấp độ nguy hiểm rồi.

Ở đây con muốn kể cho Lư Sư Tôn nghe một kì tích: Đệ tử sống tại một thị trấn nhỏ ở bang Oregon. Trước khi những vụ cháy rừng xảy ra, cuộc sống tất cả đều yên ổn an bình. Con thờ phụng Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu là Bổn tôn. Có một buổi tối, trong mơ con thấy Lư Sư Tôn, Diêu Trì Kim Mẫu, Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu hạ giáng xuống nhà con. Con dâng trà tiếp đãi. Lư Sư Tôn nói: "Rừng cháy lớn quá, phải làm sao đây? Thị trấn nhỏ này sẽ bị cháy rụi chẳng còn một viên ngói." Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Trên thực tế, chỉ có cách thu dọn mọi thứ rồi sơ tán đến khu vực an toàn thôi." Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu quay qua dặn dò đệ tử: "Cần phải sơ tán đi, thiện đệ tử đã nghe rõ chưa?" Con quỳ xuống nói: "Vâng con biết rồi!" Con còn nói: "Con mới trang hoàng lại nhà cửa, lần này thế là tiêu hết rồi." - Con đau đớn thổn thức. Mơ đến đây thì tỉnh giấc.

Đệ tử con ghi nhớ lời dặn, lập tức thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rời đi bất kì lúc nào. Kết quả là, rừng thật sự đã cháy lớn. Lần này còn kèm theo gió bắc từ California thổi tới. Thị trấn con ở đã bị thiêu trụi như chưa từng tồn tại, chỉ trong một ngày mà tất cả đã trở thành những đống đổ nát.

Ngôi nhà của con nằm ở phía đông của thị trấn, nhưng chỉ bị cháy cái gara ô tô nhỏ phía sau nhà và một chiếc xe ô tô, còn tất cả những thứ khác đều nguyên vẹn. Người của toàn thị trấn trở về xem xét thì thấy chỉ có căn nhà của con là không bị thiêu cháy. Những căn nhà khác hoàn toàn chỉ còn là đống tro tàn. Mọi người hét lên: "Kì tích! Kì lạ! Kì tích! Con cũng cho rằng đây là một kì tích! Ở đây con đặc biệt báo cáo với Sư Phật rằng, pháp mà Sư Phật truyền dạy thật là linh nghiệm. Đệ tử … chắp tay.

Nhận được lá thư này, tôi vội vàng đưa vào sách, vẫn chưa có thời gian để liên lạc với đệ tử này, do vậy tôi tạm thời giấu tên họ thật của đệ tử đó.

31. Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu

Tôi hỏi: "Xin hỏi Diêu Trì Kim Mẫu có biết Phật pháp không?" Kim Mẫu cười: "Con biết, lẽ nào ta không biết!" Tôi hỏi: "Cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni có ý nghĩa ra sao?" Kim Mẫu đáp: "Hai từ: truyền dạy và chứng ngộ."

Tôi hỏi: "Xin giải thích cụ thể?" Kim Mẫu đáp: "Truyền dạy tức là hoằng dương giáo pháp đúng đắn. Chứng ngộ chính là thực tu thành Phật." Tôi hỏi: "Hoằng dương lấy cái gì là chính, thực tu lấy cái gì là chính?" Kim Mẫu đáp: "Hoằng dương chính pháp dựa vào kinh, luật, luận là chính. Thực tu dựa vào giới, định, huệ là chính."

Trong lòng tôi thầm thán phục. Tôi hỏi: "Đối với kinh, luật, luận thì cần làm sao?" Kim Mẫu đáp: "Nghe, nghĩ." Tôi hỏi: "Đối với giới, định, huệ thì cần làm sao?" Kim Mẫu đáp: "Tu!"

Tôi hỏi: "Chúng ta làm sao để chứng đắc chân trí huệ? Kinh, luật, luận phức tạp quá chăng?" Kim Mẫu đáp: "Thiền định." Tôi hỏi: "Thiền định làm sao đắc được chân trí huệ?" Kim Mẫu đáp: "Trải nghiệm trực tiếp." Tôi hỏi: "Trải nghiệm trực tiếp của con là hợp nhất, Kim Mẫu nghĩ sao?" Kim Mẫu đáp: "Hợp nhất chính là tan ra và hòa quện làm một." Tôi hỏi: "Là tan hoàn toàn sao?" Kim Mẫu đáp: "Đúng." Tôi hỏi: "Là tự thân tan hoàn toàn, hòa vào với hư không." Kim Mẫu đáp: "Chính là như thế." Tôi hướng về Diêu Trì Kim Mẫu đảnh lễ ba lạy!

Tôi nhớ đến một bài đạo ca của Milarepa, chính là bài "Hiểu về ý nghĩa của sự hòa tan".

Xướng lên lời ca mong khuyên thỉnh, Nay ta vì người thử hát lên, Khúc ca về thực tướng pháp tính.

Sấm rung, chớp giật và mây mù, Đều từ hư không mà sinh ra, Cũng từ hư không mà tan biến.

Cầu vồng, hơi nước và sương mù Đều từ trời kia mà sinh ra, Cũng lại hòa tan vào bầu trời.

Mật ngọt, quả ngon và thóc lúa, Đều từ đại địa mà sinh ra, Cuối cùng cũng lại tan vào đất.

Cây cao, cành lá và hoa nhỏ Đều từ núi đồi mà sinh ra, Cuối cùng cũng lại tan vào núi.

Xoáy nước, dòng sông và cơn sóng Đều từ biển lớn mà sinh ra Cuối cùng cũng tan vào biển lớn.

Tập khí, tham dục và bám chấp, Từ A-lại-da thức sinh ra Từ A-lại-da thức tan biến.

Tự chứng, tự minh tự giải thoát, Từ pháp nhĩ tâm tính sinh ra Cuối cùng tiêu tan vào tâm tính.

Vô sinh, vô diệt và vô ngôn, Đều sinh từ pháp tính bản nhiên, Cuối cùng tiêu tan vào pháp tính. ...

Nếu đạt đến rời xa thiên kiến, Vạn pháp rốt cục chẳng rời tâm, Tâm như hư không chẳng thể có.

Pháp tính tận cùng là như vậy, Người nên nhất tâm chăm quan sát, Chính kiến phân biệt cần rời xa. An trụ cảnh giới không tán loạn, Đi đứng ngồi nằm trong mọi lúc, Bình thản an nhiên không bám chấp, Hành trì như vậy sẽ thành công.

Tôi kính lễ Diêu Trì Kim Mẫu. Tôi kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi kính lễ Milarepa.

32. Tôi lại hỏi Diêu Trì Kim Mẫu

Tôi lại hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Phật pháp và Đạo pháp có khác biệt không?" Kim Mẫu đáp: "Không giống không khác." Tôi hỏi: "Phật A Di Đà thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Là Vô Lượng Thọ Phật." Tôi hỏi: "Quan Thế Âm Bồ Tát thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Là Từ Hàng Đại Sĩ." Tôi hỏi: "Văn Thù Bồ Tát thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Là Quảng Pháp Thiên Tôn." ……………

Tôi hỏi: "Pháp có sự khác biệt không?" Kim Mẫu đáp: "Vạn pháp là một." Tôi hỏi: "Pháp vô lậu thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Chính là pháp đan đỉnh." (nội đan công) Tôi hỏi: "Pháp chuyết hỏa thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Chính là pháp ôn dưỡng." (đại ôn dưỡng) Tôi hỏi: "Thế còn thông trung mạch?" Kim Mẫu đáp: "Chính là pháp thông tam tiêu." [Tam tiêu là một bộ phận của lục phủ, gồm thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu, tức là miệng trên của dạ dày, phần giữa của dạ dày, và miệng trên của bàng quang.] Tôi hỏi: "Cửu tiết Phật phong, kim cang tụng, bảo bình khí thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Chính là các pháp thổ nạp, đại chu thiên, tiểu chu thiên." Tôi hỏi: "Thế còn chúng thiện phụng hành?" Kim Mẫu đáp: "Chính là tam thiên đại công." Tôi hỏi: "Pháp khai đỉnh thì sao?" Kim Mẫu đáp: "Là nguyên thần xuất khiếu." Tôi hỏi: "Còn pháp tịnh quang?" Kim Mẫu đáp: "Là tam hoa tụ đỉnh." Tôi hỏi: "Còn pháp khí, mạch, minh điểm?" Kim Mẫu đáp: "Là ngũ khí triều nguyên." (tinh, khí, thần) Tôi hỏi: "Còn pháp Bổn tôn, Thượng sư tương ứng?" Kim Mẫu đáp: "Súc thần hợp nhất." Tôi hỏi: "Còn sự quán tưởng?" Kim Mẫu đáp: "Là giữ thần."

Tôi phát hiện ra, tôi hỏi thế nào thì Kim Mẫu đều có đáp án. Ngay cả đến pháp Song thân của Mật giáo vô thượng mật pháp thì trong Đạo gia cũng có thuật Tài tiếp. Tôi thật sự ồ lên cảm thán, thật bất khả tư nghì. Phật pháp có chú âm, có thủ ấn, có quán tưởng, có thiền định thì trong Đạo pháp cũng có. Phật pháp và Đạo pháp có thể cùng bổ trợ cho nhau.

33. Thình lình một tiếng sấm

Theo tôi được biết: Ở một địa phương nọ có đám quỷ tụ tập bàn bạc một việc đại sự, việc đại sự mà chúng bàn luận chính là: "Làm sao để tiêu diệt Lư Sư Tôn!"

Cuộc thảo luận diễn ra tưng bừng sôi nổi, loài quỷ nào cũng phát biểu ý kiến. Bọn chúng nói: "Lư Sư Tôn sỉ nhục quỷ chúng, trên pháp tọa công khai khiêu chiến với loài quỷ. Nói rằng đừng có tìm đến các thiện đệ tử của lão, muốn tìm thì hãy tìm đến Lư Sư Tôn, nói thẳng ra là coi thường loài quỷ chúng ta." Đám quỷ hét lớn: "Bắt lấy lão!" "Giết chết lão!" "Cho lão đi đời!"

Một đám quỷ khác nói: "Lần trước, Ngũ Đại Quỷ đã dẫn dắt thiên quân vạn mã xông thẳng đến Nam Sơn Nhã Xá, nhưng đã bị Hộ pháp của lão là Bất Động Minh Vương, Đại Lực Kim Cang giết sạch chẳng còn chừa lại một mảnh áo giáp, máu chảy thành sông, toàn quân thảm bại!" Lại có một con quỷ nói: "Ngoài cửa có hai thần Sư Tử đã nhai gọn không ít anh em ta rồi!" Còn nói thêm: "Phòng ở của lão đều có Diêu Trì Kim Mẫu kiết giới, lục đinh lục giáp thần binh thần tướng đều ở đó!" Lại nói: "Bất Động Minh Vương rất khó đối phó." Còn nữa: "Bầy quỷ nào cũng một đi không trở lại!"

Đúng vào lúc chúng chẳng thể tìm ra giải pháp nào thì có một con quỷ lớn hét lên một tiếng: "Đừng có đề cao khí thế của người ta nữa, chỉ tổ làm suy giảm uy phong của bản thân. Ta, Thôn Phệ Đại Vương Ẩn Thân Quỷ sẽ đi tìm Lư Sư Tôn!" Chúng quỷ hoan hô. Bởi Thôn Phệ Đại Vương Ẩn Thân Quỷ tiếng tăm lẫy lừng ở địa phương đó, nó biết ẩn thân, quỷ thần thông thường đều không nhìn thấy. Răng nó sắc như răng cá mập, trắng ơn ởn chìa ra ngoài, đã ăn tươi nuốt gọn không ít chúng sinh.

Đám quỷ nói: "Thôn Phệ Đại Vương Ẩn Thân Quỷ một khi đã xuất chinh thì sẽ khải hoàn trở về. Hắn có thể hóa thân thành không khí, nhân lúc Lư Sư Tôn không chú ý sẽ ngoạm một phát mất đầu lão, nuốt gọn bộ não của Lư Sư Tôn." Một con quỷ nói: "Ẩn thân như không khí, lẻn vào trong thư phòng của lão, thư phòng của lão không có kiết giới, lại không có đàn thành, lợi dụng lúc lão đang viết sách ngoạm một phát vào phía sau đầu lão!" "Quá hay!" "Ăn sạch não thì lão cũng mất trí luôn!" "Lư Sư Tôn chết chắc rồi!" "Sỉ nhục loài quỷ chúng ta thì sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp đâu!" "Nghĩ đã thấy sướng!" "Xem xem Lư Sư Tôn còn dám bắt nạt chúng ta nữa không!"

Thế rồi... Một hôm, có người tặng tôi bức tượng một vị Hắc Phẫn Nộ Mẫu, tôi nghĩ tới nghĩ lui liền tiện tay đặt lên giá sách ở trong thư phòng. (Diêu Trì Kim Mẫu cho tôi có một linh cảm.) Hắc Phẫn Nộ Mẫu: toàn thân màu đen, ba mắt, hai cánh tay, tay trái cầm quyền trượng, tay phải giơ cao cầm đao sắt, hung ác vô cùng.

Nhanh như chớp mắt, con mắt thứ ba của Hắc Phẫn Nộ Mẫu vừa lóe lên là nhìn ngay ra Thôn Phệ Đại Vương Ẩn Thân Quỷ. Đao sắt vung lên, một vệt ánh sáng trắng phóng ra. Thình lình một tiếng sấm, âm thanh dữ dội đinh tai nhức óc. Thôn Phệ Đại Vương Ẩn Thân Quỷ kia sớm đã hóa thành khí đen, thôi chết ta rồi! Ta xin nộp mạng đây!

Tôi nghe thấy tiếng sấm, cảm thấy kinh ngạc, quay ra nhìn sau lưng thì hóa ra là một con quỷ lớn. (đã bị tan thành trăm mảnh) Cảm tạ Diêu Trì Kim Mẫu, cảm tạ Hắc Phẫn Nộ Mẫu!

34. Xem phong thủy trong mơ

Có đệ tử tên là Tố Tố gửi đến một phong bì thư, trong thư mô tả rõ mọi thứ trong nhà của cô. Tố Tố yêu cầu: Xin Lư Sư Tôn xem xét phong thủy của ngôi nhà mới của cô. Tìm ra vị trí tài bảo. Địa điểm an vị đàn thành. Nơi để giường. Thủy hỏa trong phòng bếp. Trong ngoài cửa chính. Vị trí của ngôi nhà mới có khiếm khuyết gì không. Hàng xóm có ổn không. Cửa sau có ổn không. Hoàn cảnh xung quanh có ảnh hưởng gì không. ...

Tôi đọc thư xong lại xem bản vẽ nhà ở, cùng mấy tấm ảnh chụp, đầu óc tôi cũng mụ mị cả! Việc này chẳng khác gì bày binh bố trận trên giấy, gãi ngứa qua giày! (Xem phong thủy tốt nhất là xem ngay tại hiện trường, xem phong thủy qua bản vẽ thì chỉ một sự sơ xuất là sẽ có sai sót.) Thế nên, tôi nói với đệ tử Tố Tố: "Tôi sẽ đích thân đến nhà cô xem phong thủy!" Tố Tố nói: "Sao có thể đến được chứ?" (Nhà của Tố Tố ở đất nước khác.) Lư Sư Tôn tôi nói, có thể là có thể, chỉ cần cô đồng ý thì tôi sẽ làm được. Tôi hẹn một tuần sau, trong giấc mơ của Tố Tố, tôi sẽ đến tận nhà cô, cô vô cùng vui mừng.

Lư Sư Tôn đích thân đến ngôi nhà mới của cô để xem phong thủy: Vị trí đặt ngôi nhà rất đẹp. Phía sau có điểm tựa. Trước mặt có ao nhỏ. (hồ) Bên trái phải có đường bao. Trong ao có hình phản chiếu. (hòn non bộ) Tôi còn nói: Vị trí sinh tài bảo ở phòng khách, là nơi tàng phong tụ khí. Vị trí đặt đàn thành có hướng tiếp đón thủy thần. Phòng bếp thì phạm vào đường tình duyên, tôi sẽ thay đổi lại. (thủy hỏa cùng giúp) Khí ở nơi đặt giường ngủ không nhanh không chậm, không thẳng với cửa. Ngoài cổng có cây to, trên đó viết chữ "cho tôi phát tài". Hàng xóm rất tốt. Cửa sau có núi lớn ở rất gần, có thể đặt sơn hải trấn, giữ cho núi sông bình an, sẽ không bị người khác làm ảnh hưởng gì đến ta. Hướng nhà không xung phạm với nhà khác. Trong giấc mơ, tôi lần lượt giải thích với Tố Tố rất cụ thể rõ ràng.

Tố Tố tỉnh giấc, kinh ngạc và vui sướng bội phần. Cô ghi nhớ rất rõ ràng Lư Sư Tôn đã đích thân đến nhà cô trong giấc mơ như thế nào. Sư Tôn chỉ ra tường tận mọi thứ, hoàn toàn không bỏ sót điều gì. Tố Tố cũng nhớ rất rõ ràng. Cuối cùng cô đã thấy rõ Lư Sư Tôn cũng có thể xem phong thủy trong giấc mơ. Thật bất khả tư nghì!

Tôi có thể xuất linh hồn ra khỏi lỗ trên đỉnh đầu. Tôi có thể hóa thân bên ngoài thân! Hóa thành mười người, trăm người, nghìn người…. Tôi có thể đến trong một suy nghĩ. Tôi có thể duy thức "duy tâm cảnh vô". Tôi có thể "minh không vô biệt". Tôi có thể hợp nhất tự tâm và hư không (tính Không). Trung quán.

Diêu Trì Kim Mẫu đã dạy tôi những pháp này: Duy thức, trung quán, quảng hành, thâm kiến. Diêu Trì Kim Mẫu đã dạy tôi những phương pháp thuận lợi cho việc cứu độ chúng sinh. Thần toán và phong thủy. Thật sự là rất vĩ đại!

35. Phát công gia trì lực

Ngày 13 tháng 9 năm 2020. Tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự diễn ra pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang. Dưới sự gia trì của chú lực: "Ôm pê-cha chua-ta ma-ha sê xi-li ha-ru-ka hùm pây." Hai tay tôi hướng lên trên, hướng xuống dưới, hướng sang trái, hướng sang phải, hướng ra bốn xung quanh, vẽ ra một vòng tròn dòng chảy pháp.

Đối với tín chúng có mặt tại pháp hội và tín chúng xem qua mạng, tín chúng ở khắp các đất nước trên thế giới, tôi đều phóng ra những dòng chảy pháp và dòng chảy tâm. Tôi hy vọng rằng khi làm như vậy, lực gia trì do tôi phát công có thể hợp nhất cùng với đệ tử của tôi, để có thể tạo nên tổ hợp hoán vị trên thân thể và tâm linh của các đệ tử. Có bệnh trừ bệnh. Không bệnh khỏe thân. Tâm linh đoan chính. Không gặp phiền nhiễu.

Những pháp hội của tôi khi phát huy công lực thì sức mạnh gia trì luôn luôn tạo ra kỳ tích. Tôi có mấy chuyện để chứng minh như sau: Pháp hội tại sân vận động Đại Túc ở Hồng Kông làm lễ Hộ Ma Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Bầu trời đêm hiện lên hai vệt ánh sáng đỏ. Chư tôn xuất hiện trong ánh sáng đỏ. Cháu trai của Thượng sư Liên Mãn trên đầu có mọc một khối u to, sau khi được gia trì thì ngày hôm sau khối u đã biến mất. Còn có một đệ tử nhỏ tuổi suốt ba năm phải ngồi xe lăn, sau khi được gia trì thì bất ngờ đã đứng dậy khỏi xe lăn và chạy khắp nơi. ...

Còn nữa: Pháp hội Thời Luân Kim Cang tại Jakarta ở Indonesia. Thời Luân Kim Cang hiển hiện, mặt đối mặt với Lư Sư Tôn. (vô cùng rõ ràng) Lúc quán đảnh, có một gia đình cũng đưa một bệnh nhân đang cắm ống tiêm, đặt ống thở và nằm trên giường truyền nước của bệnh viện đến pháp hội. Bệnh nhân nằm liệt trên giường bệnh đã nhiều tháng, không thể ngồi dậy được. Khi đi qua tràng phan quán đảnh, không ngờ bệnh nhân đã ngồi dậy được, hơn nữa còn bước xuống giường đi lại. Tất cả những người có mặt ở hội trường đều trông thấy. Đúng là chuyện chưa từng có. ...

Còn nữa: Pháp hội Bạch Liên Hoa Vương ở Hồng Kông. Bạch Liên Hoa Vương là vị quốc vương đời thứ hai của vương quốc Shambhala, vị quốc vương đầu tiên là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Khi quán đảnh đã xuất hiện kỳ tích: Người bị câm nhiều năm bỗng mở miệng nói được. Người bị mù nhiều năm bỗng lại nhìn thấy được. Đúng là chuyện chưa từng có. ...

Còn nữa: Đại pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang tại quảng trường Trung Chính Kỷ Niệm Đường ở Đài Loan. [Đài tưởng niệm quốc gia Tưởng Giới Thạch] Tôi niệm chú âm để phát công lực. Có đệ tử bị dị tật các ngón tay dính vào nhau, không thể xòe ngón tay ra được, lực gia trì vừa phát ra thì các ngón tay đã tách ra khỏi nhau. Người có khối u ung thư thì biến mất. Còn có cả người bị bệnh mãn tính nhiều năm, đột ngột khỏi bệnh. ...

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Tôi và Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn tương ứng. Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn pháp lực vô biên. Tương ứng với một vị thì sẽ tương ứng với mọi vị. Trong các pháp hội của tôi, chư Tôn đều hạ giáng, xuất hiện những kỳ tích như thế này cũng là điều bình thường.

36. Kim Mẫu cũng nói về thiền cơ

Có một hôm, Diêu Trì Kim Mẫu hạ giáng, bất ngờ nói thiền cơ. Kim Mẫu nói: "Xin hỏi Lư Sư Tôn, cái gì là bồ đề? Cái gì là phiền não?" Tôi nghe xong thì biết Kim Mẫu đang nói thiền ngữ. Tôi đáp: "Vốn là sự tĩnh lặng." Kim Mẫu hỏi: "Cái gì là sinh tử? Cái gì là niết bàn?" Tôi đáp: "Chẳng qua chỉ là giấc mơ ngày hôm qua."

Kim Mẫu hỏi: "Lư Sư Tôn còn có mong cầu gì không?" Tôi đáp: "Chỉ là chim kêu thôi!" Kim Mẫu hỏi: "Lư Sư Tôn độ chúng sinh như thế nào?" Tôi đáp: "Sư Tử cao tiếng gầm!"

Kim Mẫu hỏi: "Tại thế gian, Lư Sư Tôn tiến thoái ra sao?" Tôi đáp: "Hai chân ở dưới bụng." Kim Mẫu hỏi: "Thế nào gọi là một vị bất động?" Tôi đáp: "Nhìn Tây, ngó Đông, đi, ngồi, nằm, đứng.

Kim Mẫu hỏi: "Lư Sư Tôn lên pháp tọa giảng pháp gì?" Tôi đáp: "Huyễn hoặc." Kim Mẫu hỏi: "Vì sao là huyễn hoặc?" Tôi đáp: "Chẳng thể nói được."

Kim Mẫu hỏi: "Con được mà cũng chẳng được?" Tôi đáp: "Con mất mà cũng chẳng mất." Kim Mẫu hỏi: "Đó là gì?" Tôi đáp: "Nam bắc đông tây." Kim Mẫu hỏi: "Nam bắc đông tây có tác dụng gì?" Tôi đáp: "Dùng kim cương cứng chắc để đóng vào không khí."

Kim Mẫu hỏi: "Tổ sư thiền tông có nói, tâm ấn chẳng dài chẳng ngắn, chẳng vuông chẳng tròn, chẳng trong chẳng ngoài, cũng chẳng ở giữa. Giờ ta hỏi Lư Sư Tôn, tâm ấn là hình dạng gì?" Tôi đáp: "Chẳng liên quan!" Kim Mẫu hỏi: "Tổ sư Thiền Tông nói: ta vốn đến Trung Thổ, truyền pháp cứu những chúng sinh mê lầm. Khi hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành. Lư Sư Tôn nghĩ sao?" Tôi đáp: "Vỗ tay cười ha ha!" Kim Mẫu hỏi: "Cười cái gì?" Tôi đáp: "Làm thừa quá mức cần thiết!" Kim Mẫu và tôi nói chuyện thiền cơ, vô cùng vui vẻ!

37. Milarepa và vô thượng mật

Khi tiến sĩ Trương Trừng Cơ dịch cuốn "Milarepa đại sư toàn tập", tôi đọc thấy Milarepa cũng tu vô thượng mật. Đó là:

Ngày mồng 8 tháng Gà Lửa, vào lúc nửa đêm, trong cái am cỏ của Milarepa bỗng xuất hiện một vùng ánh sáng thù thắng rất lớn, hơn nữa còn tỏa ra một hương thơm đặc biệt. Đó chính là sự xuất hiện của Tuyết Sơn Trường Thọ Ngũ Tiên Nữ, năm vị tiên nữ trang điểm lộng lẫy với ngọc ngà châu báu vô cùng diễm lệ. Một tiên nữ cầm hương trầm. Một tiên nữ cầm đồ ăn ngon. Một tiên nữ cầm nhạc cụ. Một tiên nữ cầm thiên y. Một tiên nữa cầm hoa tiên.

Năm vị tiên nữ Trường Thọ Cát Tường dâng những cúng phẩm này để cúng dường Milarepa tôn giả. Thêm nữa, họ còn hát lên một khúc kệ thơ, tôi trích lại như sau: "Hỡi chí tôn mang đầy đủ các tướng quý của bậc Thượng sư Ngài sinh ra với căn gốc đầy đủ sự an nhàn viên mãn. ...

Chuyên tâm nhất trí tu tập thiền quán. Bỏ đi hết thảy tám ham muốn thế gian. Giải thoát khỏi những ràng buộc cản trở của tam hữu. Trở thành vị tu sĩ thật kì lạ hiếm có. [Tam hữu là ba cảnh có, nghĩa là ba cõi có chúng sinh, cảnh vật, nghiệp quả, nghiệp duyên, sinh tử, đồng nghĩa với tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Chúng sinh luân hồi trong tam giới, cho rằng có tam giới, cho nên gọi là Tam hữu .] ...

Chúng con năm chị em Cùng nhau dâng lên khúc hát cúng dường ngài. Hoa sen, vỏ ốc và dấu ấn Cùng hình voi là bốn tướng Mẫu Chị em chúng con mỗi người đều có đủ. Xin ngài hãy ban gia trì ấn Karma. ...

(Bài thơ này rất dài, tôi chỉ trích ra một đoạn, vì Milarepa tu khí-mạch-minh điểm rất thù thắng, khiến cho Ngũ Tiên Nữ Cát Tường Trường Thọ đặc biệt đến để cầu Milarepa song vận gia trì vô thượng mật.)

Hơn nữa, năm vị tiên nữ này đều mang đầy đủ các tướng của vị "minh phi".

1. Hoa sen. 2. Vỏ ốc. 3. Dấu ấn. 4. Hình voi.

Milarepa biết được thỉnh cầu của Ngũ Tiên Nữ Cát Tường Trường Thọ, ngài cũng hát lên một bài đạo ca, tôi xin trích như sau: Với truyền thừa Naropa thù thắng Ta nhờ khí mạch đắc tự tại Trong tất cả nghìn vạn cúng dường Ấn Karma là thù thắng nhất. ...

Khi phương tiện và trí huệ giao hòa kết hợp Cả hai tan chảy cống hiến cho đại lạc. Bốn cực lạc cũng như bốn khoảnh khắc Cũng tức là thể tính của bốn thân. ...

Nắm chắc lấy con đường thành đạo nhanh chóng Theo đó mà chăm chỉ hành trì Chắc chắn các nàng sẽ đắc được giải thoát Ta cũng ở lại trong cõi vô sinh. ...

Tôi (Lư Sư Tôn) nhân đây cũng giải thích rằng:

1. Milarepa là một thành tựu giả tu trì khí-mạch-minh điểm, đã chuẩn bị đầy đủ "kham năng”. 2. Ngũ Tiên Nữ Cát Tường Trường Thọ có đầy đủ bốn tướng tốt đẹp là "hoa sen, vỏ ốc, dấu ấn, hình voi", cũng tức là những biểu tượng của một vị minh phi. 3. Đôi bên kết hợp, có thể thông trung mạch, nâng lên hạ xuống, mở năm luân xa, phóng quang, đạt được thành tựu tối cao của Mật giáo. 4. Đây là một pháp tu hành, không phải là tà dâm. 5. Tiếc thay! Người thế tục chỉ toàn phỉ báng, tuy nhiên, thực tế chắc chắn sẽ có rất nhiều người mắc bệnh và ô nhiễm, bởi vì trong vạn người cũng chẳng thể tìm được một người đủ phẩm chất để tu hành pháp này. Tôi nói: "Mọi pháp là tự nhiên."

38. Bài kiểm tra trong mơ

Diêu Trì Kim Mẫu biết tôi là "kham năng giả", [kham năng giả: người có khả năng chịu được, gánh vác được các sự khổ của cõi thế gian mà không thực sự bị dính mắc] cũng biết tôi đã là "người thông đạt", nên gần đây có cho tôi một bài kiểm tra như sau:

Thứ nhất: Trong mơ, tôi trở về nhà cũ ở thành phố Cao Hùng: "Căn nhà số 77 đường Lâm Sâm quận Tân Hưng thành phố Cao Hùng." (Căn nhà này hiện tại không còn tồn tại, đã bị gỡ bỏ. Tên đường cũng đã thay đổi, nó là con đường ở phía trước chợ cảng Đại Cảng.) Tôi bước vào trong nhà. Cha mẹ, anh chị em tôi không ngờ đã qua đời hết rồi. Cả nhà chỉ còn lại mỗi mình tôi. Tôi nghĩ: "Sống chết có số, giàu sang tại trời." Tôi không đau lòng. (Bởi vì chẳng có ai là sẽ không chết.) Tôi dùng Mật pháp của mình để siêu độ cho họ. Thế rồi tôi tỉnh dậy.

Thứ hai: Trong mơ, tôi rơi xuống một hang động, bên trong có trăm nghìn con rắn, bọn chúng quấn lấy toàn thân tôi. Bình sinh tôi sợ nhất là rắn. Những con rắn này bắt đầu cắn tôi. Lúc này, tôi bất ngờ không sợ nữa. Tôi thấy da thịt chính mình bị cắn dứt ra từng mảng từng mảng. Tôi cũng không oán hận chúng. Tôi nghĩ: "Lũ rắn đói, đương nhiên sẽ ăn thịt tôi." Thế rồi tôi tỉnh dậy.

Thứ ba: Trong mơ, tôi về đến nhà tôi ở Mỹ. Vừa vào nhà thì… ôi thảm rồi! Trong nhà bị lật tung mọi thứ như một đống rác. (Tất cả mọi thứ đều bị lục tung.) Két sắt cũng bị mở tung! Bên trong trống rỗng! Tôi trở thành người trắng tay. Vàng bạc, hồng ngọc bích ngọc, đồng hồ đắt tiền… Tất cả đều bị trộm sạch. Tôi nghĩ: khi tôi đến nhân gian là hoàn toàn tay trắng, khi rời khỏi nhân gian cũng tay trắng ra đi, vốn dĩ chẳng thể đem theo một vật gì, chẳng phải thế sao? Thế nên tôi cũng thản nhiên! Cuối cùng thì tỉnh giấc.

Thứ tư: Trong mơ, tôi nằm ngủ trên giường. Đột nhiên tỉnh dậy, nhìn thấy ở cửa phòng mình có một cô gái khoảng 18 tuổi, là một mĩ nhân xinh đẹp rạng ngời. Cô mặc bộ quần áo bằng vải lưới màu trắng xuyên thấu, tôi nhìn thấy rõ cơ thể cô, bộ ngực nhô cao, eo thon nhỏ, cái mông cong, cặp đùi trắng, đôi mắt quyến rũ khẽ cười, khiến người ta chẳng thể kháng cự. Cô ta tìm mọi cách để mê hoặc tôi. Đương nhiên tôi biết tôi là "kham năng giả". Cô gái xinh đẹp này lai lịch không rõ ràng, tôi cũng chẳng bị tác động bởi cô ta. Với tôi thì sự có mặt của cô ta ở đây cũng thế mà không ở đây cũng thế. Thế rồi tôi tỉnh giấc.

Thứ năm: Trong mơ, tôi đi gặp một vị Hoàng Đế. Hoàng Đế ban cho tôi làm Quốc sư, ngoài ra còn giao cho tôi quản lý việc Phật giáo trong thiên hạ. Ban cho tôi y phục đẹp đẽ. Ban cho tôi thức ăn ngon. Ban cho tôi cung điện, thất trân bát bảo. Ban cho tôi 108 thị nữ, cô nào cũng xinh đẹp như tiên trên trời. Giường ngủ của tôi được nạm ngọc lục bảo, ấm áp và thơm tho. Tôi được hưởng thụ những điều vinh hoa phú quý nhất của nhân gian. Nhưng ngày qua ngày, cuộc sống trở nên nhàm chán, lâu ngày chẳng còn chút hứng thú nào. Tôi từ chức, muốn trở về núi rừng, Hoàng Đế nổi cơn phẫn nộ, muốn chặt đầu tôi để thị uy dân chúng. Trong mơ, tôi thở dài nói: "Vinh hoa phú quý chỉ như một giấc mộng mà thôi!" Thế rồi tôi tỉnh dậy.

Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Đây là bài kiểm tra con trong mơ, vừa đủ qua bài, cho con 80 điểm, thi đỗ."

39. Biết đời như mộng vô sở cầu

Tu hành đến một giai đoạn, tôi có một câu nói trở thành châm ngôn của mình, câu nói đó là: "Biết đời như mộng vô sở cầu." (Bài "Mộng thơ" của Vương An Thạch.)

Tôi thể nghiệm được rằng: Mỗi người đều sẽ chết. Chết rồi thì tất cả mọi sự đời đều chẳng còn, hoàn cảnh cũng chẳng còn. Tám ham muốn thế gian cũng chẳng còn. Nhà cửa. Xe cộ. Tiền bạc. Vàng bạc châu báu. Tất cả đều chẳng còn gì! Ha ha ha! Thật sảng khoái!

Hơn nữa: Có người chửi tôi, phỉ báng tôi, tôi xem như gió thổi qua tai, chẳng hề bị tác động. Giờ đây, người chửi tôi, người lăng mạ tôi đã quy tiên trước cả tôi rồi! Tôi cười cười nói: Ai chà! Sao lại đi sớm thế? Phải là tôi đi trước mới đúng chứ!

Còn nữa: Đệ tử của tôi đã chạy xa rồi! Mang theo cả chùa, đường, hội cao chạy xa bay rồi. Mang theo mọi thứ cao chạy xa bay thì cũng chẳng sao. Còn những ác ngôn ném thẳng vào mặt tôi thì tôi cũng chẳng bồn chồn. Đó chẳng qua chỉ là những vở kịch thường diễn trong cuộc đời: "Lừa thầy diệt tổ." Ai chà! Thật sảng khoái!

Còn nữa: Bất kể là Lôi Tạng Tự có to thế nào. Bất kể là đệ tử có nhiều bao nhiêu. Bất kể là Chân Phật Tông đứng vững ra sao. Thành, trụ, hoại, không. Sau này, quá khứ, hiện tại. Tu thành, tu bất thành, có tu, không tu, mấy người thành tựu, mấy người sa đọa. ...

Những thứ này đều là chuyện vặt vãnh!

Còn nữa: Nghe nói, trái đất ấm lên, ấm lên thì ấm lên thôi! Nghe nói, bệnh dịch đến rồi, đến rồi thì đến thôi! Nghe nói, cường quốc đối địch nhau, đối địch thì đối địch thôi! Nghe nói, nạn đói xảy ra, đói thì đói thôi! Có sợ không? Sợ cái cóc khô!

Còn nữa: Muốn thành tiên cần xây dựng ba nghìn công lao. Muốn thành tiên cần xây dựng tám trăm công đức. Điều này ấy à? Tôi chẳng cần miễn cưỡng bản thân bám chấp vào việc thành tựu, bán mạng mà tìm cách thành tựu. Tôi chỉ là cứ tự nhiên mà làm. Thành tiên? Thành người? Thành quỷ? Ha ha! Tôi giữ bổn phận, còn lại mặc kệ nó đến đâu thì đến!

Còn nữa: Tôi rất kinh ngạc khi suy nghĩ của tôi đã trở thành như thế này, tôi không có một chút áp lực nào. Chẳng có việc lớn gì, chẳng có việc nhỏ gì, tất cả đều vô sự. Biết đời như mộng! Tất cả đều mặc xác nó đi!

40. Tôi thích Trương Bá Đoan

Tôi đọc thơ Tống, đọc đến những bài thơ của Trương Bá Đoan, cảm thấy ý cảnh thật sâu xa. Tôi càng đọc càng thích. Ông không chỉ có tư tưởng của Đạo gia mà còn có cả tư tưởng của Phật giáo.

Ông phê bình những đạo sĩ giả: "Chẳng phân biệt được ngũ hành tứ gia, Chỉ nhận ra thủy ngân, chì, bạc. Tu đan hỏa được hay không vẫn chẳng hề hay biết, Từ lâu đã tự xưng ẩn cư, Mà chẳng biết bản thân đã sai lầm. Lại còn dạy người khác đi sai đường, Hại người ta vĩnh viễn lạc trong mê cung. Tựa như tự lừa tâm mình rằng ta an bình và kiên nhẫn."

Trương Bá Đoan cũng biết về pháp Song thân: Ngưu Lang Chức Nữ tình duyên hợp đạo. Phục Hy - Nữ Oa gắn bó, lẽ tự nhiên. Nhật với nguyệt thuyền quyên quấn quýt. Hai khí ấy luôn cùng nhau vận chuyển. Đó vốn chính là vũ trụ diệu kì. Nào ai hiểu được sự uyên thâm ấy. Nếu âm và dương đặt thành tách biệt. Làm sao thành tựu được vị thần tiên.

(Trương Bá Đoan nói, đây vốn là pháp môn hai khí cùng nhau vận chuyển, nhưng có ai có thể đạt tới cảnh giới như vậy đây? Ông khuyên thế nhân đừng tạo nên tội lỗi.)

Bài thơ đầu phê phán những kẻ giả vờ làm đạo nhân để truyền đạo, trên thực tế là hại người hại mình. Bài thơ sau là những kẻ chưa đạt đến “kham năng” [năng lực tu hành rất cao] nhưng vẫn dùng cách này để lợi dụng người thì nghiệp chướng gây nên sẽ rất nặng.

Còn nữa: Tôi thích những trải nghiệm của Trương Bá Đoan. Ở Tứ Xuyên ông đã gặp gỡ Lưu Hải Thiềm, nhận được chân truyền. Có thiền sư tu định, có thể xuất thần đi đó đây. Thế là, hai người cùng thiền định, hẹn cùng đến Dương Châu thưởng hoa.

Lần thiền định này, nguyên thần thoát ra từ lỗ đỉnh đầu. Thiền sư đến trước. Trương Bá Đoan đến sau. (Quả nhiên thiền sư có công lực thiền định thâm hậu.) Trương Bá Đoan nói: "Sao không hái một bông hoa về làm kỉ niệm nhỉ?" Thế là mỗi người đều hái một bông hoa rồi đi.

Hai người ở trong căn phòng yên tĩnh đồng thời mở mắt. Trương Bá Đoan hỏi thiền sư: "Hoa của ông đâu?" Hai tay thiền sư trống không, chẳng có hoa. Còn Trương Bá Đoan lấy ra từ ống tay áo hai đóa hoa quỳnh. Một đóa đưa cho thiền sư. Vì sao lại như vậy chứ?

Về sau, có người hỏi Trương Bá Đoan: "Vì sao trong tay thiền sư chẳng có hoa?" Trương Bá Đoan đáp: "Tôi là người tu tính cũng tu mệnh, bởi vì tụ thì thành hình, tan thì thành khí, do vậy, tôi có thể xuất thần đi hái hoa. Nhưng thiền sư thì chỉ tu tính mà không tu mệnh, do vậy ông ấy có thể xuất thần, nhưng không thể thành hình, bởi thế nên không thể hái hoa."

Trong bữa yến tiệc Diêu Trì thần tiên, tôi đã gặp Trương Bá Đoan. Tôi hỏi Bá Đoan: "Hiện giờ ở nơi nào?" Bá Đoan đáp: "Thoắt ẩn thoắt hiện." Tôi hỏi: "Tu Phật hay tu Đạo?" Bá Đoan đáp: "Phật hay Đạo cũng chẳng có gì khác." Câu trả lời của Trương Bá Đoan khiến tôi được khai sáng rất nhiều, hóa ra là cả hai con đường đều quy về một mối.

41. Tư tưởng Phật học của Trương Bá Đoan

Kinh Kim Cang có ba bài kệ: Tất cả pháp hữu vi, Như mộng huyễn bào ảnh, Như sương cũng như điện, Nên quán chiếu như vậy.

Còn nữa: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng.

Còn nữa: Như Lai nói mọi Tâm đều cũng chẳng phải là tâm, chỉ mượn danh từ mà gọi là Tâm, do vậy, hỡi Tu Bồ Đề, tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai không thể nắm bắt.

Chúng ta lại đọc những lời của Trương Bá Đoan: “Bắt được cá thỏ trong tay Có thể bỏ nơm và lưới. Đã chở được người tới bến Bè kia cũng chẳng còn cần.

Chưa ngộ thì vẫn cần dựa vào lời nói, ngộ rồi thì lời nói cũng chẳng còn cần. Mặc dù những câu trên đều đã là vô vi, hà cớ gì lại cần phải bỏ phương tiện đi [sau khi đạt được mục đích]?

Bài thơ này nói về: Hữu vi. Vô vi. Tuy nhiên, Trương Bá Đoan chủ trương "hữu vô dung hợp", tương tự như tư tưởng Trung quán của Long Thụ Bồ Tát.

Trương Bá Đoan còn có những lời thơ:

[Tâm như] con trâu sắt, hình dạng xấu xí, tính ương ngạnh thích tranh giành. Mọi người đều có [con trâu này], vật vã cưỡi nó mà đi.

Gieo mầm vàng khắp vườn, đợi tới khi vừa có thể dùng được, dùng thần thủy tưới nước. Trong cung nếu không có thú vật, sẽ an bình như trẻ sơ sinh.

Sự động tĩnh của càn khôn trời đất, sinh ra lớn lên, cuộc sống gia đình, toàn bộ đều là nhờ chỗ đó. Đói ăn tủy hổ, khát uống nước thủy ngân, nửa đêm đánh xe đi vào trong lửa, [lúc đó] ánh sáng rực rỡ sắc màu sẽ tỏa ra, đáy biển dậy sóng huy hoàng. Thằng bé cười. Yến tiệc bên hồ hoa kết thúc. Trở về theo ánh trăng sáng."

Tôi nói: những câu từ này khá khó hiểu. Nhưng tôi hiểu được chúng. Cái nói đến trong những câu từ này là "tâm". Trương Bá Đoan gọi "tâm" là "thú vật". Rồi lại điều phục tâm thành "trẻ sơ sinh". Tiếp theo đó là những hương vị của Mật giáo. Thủy thần. Chuyết hỏa. Ánh sáng rực rỡ sắc màu tỏa ra, đáy biển dậy sóng huy hoàng. Còn đối với vấn đề tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai không thể nắm bắt, thì cũng chính là thằng bé cười, yến tiệc bên hồ hoa, trở về theo ánh trăng.

Tôi nói: "Hay! Hay! Hay!" Tôi hỏi Trương Bá Đoan: "Chứng quả khi nào?" Trương Bá Đoan đáp: "Không dính mắc chút nghiệp chướng." Tôi hỏi: "Phật tính là gì?" Trương Bá Đoan đáp: "Quên hết!" Tôi hỏi: "Tu hành là gì?" Trương Bá Đoan đáp: "Là cái bè!" (Mọi pháp vốn dĩ là chẳng có pháp nào.) Tôi hỏi: "Chân đế của chúng thiện phụng hành là gì?" Trương Bá Đoan đáp: "Vô sinh pháp nhẫn." Câu trả lời của Trương Bá Đoan chính là những lời của một bậc Như Lai Chính Trí, được gọi là Vô thượng thượng chú, chính đẳng chính giác.

42. Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị

Lúc tôi ở Bắc Kinh, tôi đã đến Bạch Vân Quán, đó là đạo quán của Toàn Chân Giáo. Tôi đọc tiểu thuyết võ hiệp, biết được danh hiệu của Toàn Chân Thất Tử. Ở đạo quán tại Hồng Kông, tôi đã trông thấy tượng kim thân của Vương Trọng Dương và Khâu Trường Xuân. (Toàn Chân Giáo là do Vương Trọng Dương sáng lập.)

Tôi kể cho mọi người biết: "Trong bữa yến tiệc tại Diêu Trì tiên cảnh, tôi thật sự đã gặp Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị. Đó là hai trong số bảy nhân vật của Toàn Chân Thất Tử, giờ đây họ đã thành Tiên rồi." Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị đều sống vào thời đại Kim Triều, cùng là người Ninh Hải.

Vương Trọng Dương đã độ hóa Mã Ngọc như thế nào? Vương Trọng Dương từ núi Chung Nam đến độ hóa Mã Ngọc. Mã Ngọc hỏi: "Tiên sinh từ đâu đến?" Trọng Dương đáp: "Ta không quản đường xa nghìn dặm mà đặc biệt đến đây để giúp những người trong cơn say trở về." Mã Ngọc lúc này mới nhớ ra, ngày xưa ông từng làm thơ, có một câu rằng: "Trong cơn say vẫn có người trợ giúp." Vương Trọng Dương nói một câu đã trúng đích. Mã Ngọc rất tin tưởng và nể phục, bái Vương Trọng Dương làm thầy. Trọng Dương tiên sinh sống tại nhà Mã Ngọc, dạy cho Mã Ngọc rất nhiều đạo pháp, cuối cùng đã đưa Mã Ngọc trở về hang động trên núi Côn Lôn mù sương để tu hành.

Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị là vợ chồng. Hai người xa cách nhau 20 năm. Khi Trọng Dương tiên sinh sống tại nhà Mã Ngọc đã xảy ra một sự việc vô cùng thú vị. Tôn Bất Nhị đang ngủ trong phòng mình, bỗng nhiên thấy Trọng Dương tiên sinh nằm ngủ bên cạnh. Tôn Bất Nhị tức giận, bèn khóa chặt cửa phòng lại, sau đó bỏ sang thư phòng kể với Mã Ngọc, nhưng lại thấy Mã Ngọc và Vương Trọng Dương đang ở thư phòng luận đạo. Mã Ngọc nói: "Trọng Dương tiên sinh chẳng rời khỏi đây dù chỉ một phút." Ba người vội vàng đến phòng của Tôn Bất Nhị, mở cửa ra, trong phòng chẳng hề có Vương Trọng Dương tiên sinh nào. Bởi thế, Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị tôn kính Vương Trọng Dương như thần linh.

Cuối cùng: Mã Ngọc đã đi tu hành trong hang động trên đỉnh núi Côn Lôn mù sương. Tôn Bất Nhị ở lại am Toàn Chân tu hành. Cuối cùng hai người đều đắc đạo.

Mã Ngọc để lại một bài kệ: "Sáu mươi mốt tuổi đời. Tại thế chẳng ai biết. Một tiếng thét như sấm. Mênh mang theo gió bay."

Tôn Bất Nhị để lại một bài kệ: "Đủ ba nghìn công lực vượt khỏi tam giới. Nhảy thoát ra khỏi cái vỏ bọc âm dương. Tung hoành ngang dọc tự do ẩn hiện. Hồn say chẳng về Ninh Hải quê xưa." (Trước khi đi, Tôn Bất Nhị nói với những người ở nhà rằng, bà muốn đến Diêu Trì Tiên Cảnh.)

Chính vì thế mà ở yến tiệc Diêu Trì, tôi đã gặp Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị. Theo như tôi biết: Mã Ngọc đã tu pháp đan đỉnh. Tôn Bất Nhị tu pháp nữ đan. Tôi hỏi Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị: "Pháp đan đỉnh có phải là pháp chuyết hỏa không? Pháp nữ đan có phải là pháp thủy thần không?" Mã Ngọc đáp: "Hai pháp khác nhau, nhưng kết quả đều là một." Tôn Bất Nhị đáp: "Thiên nhất thần thủy, kết đan, thấu quang." Tôi phần nào hiểu được, có thể cùng tu Phật và Đạo để bổ trợ cho nhau!

43. Bài tụng Vô tướng

Cuốn sách "Thiên hạ đệ nhất linh" là cuốn văn tập thứ 281 mà tôi viết. Trong sách, những phần liên quan đến Diêu Trì Kim Mẫu rất nhiều. Bởi vậy, luật sư Châu Huệ Phương ở ban xuất bản Chân Phật Bát Nhã Tạng đã có một kiến nghị: "Xin Lư Sư Tôn vẽ một bức pháp tướng Diêu Trì Kim Mẫu để cho lên bìa sách." Tôi nghe xong, cười lớn ha ha ha! Là vì tôi cho rằng kiến nghị của luật sư Châu Huệ Phương có nhãn quang độc đáo. Tuy nhiên, tôi cũng hiểu rõ ràng rằng: "Tất cả những gì có hình tướng đều thuộc về sự hư vọng."

Trên đời này có rất nhiều pháp tướng của Diêu Trì Kim Mẫu, hơn nữa trong những lời truyền miệng về Ngài thì Ngài có rất nhiều hình tướng. Có tướng Hổ thần phẫn nộ, có tướng Lão Mẫu, có tướng trung niên uy nghiêm, có tướng từ bi, có tướng tiên nữ...

Diêu Trì Kim Mẫu cũng có hình tướng vô cùng xinh đẹp, vẻ đẹp ấy không có câu từ nào mô tả được, cũng chẳng thể vẽ được ra, có thể nói là vẻ đẹp tuyệt thế. Nghiêm túc mà nói: "Thiên hạ đệ nhất linh" như Ngài chỉ là kim quang vô lượng, về căn bản là không có hình tướng. Tôi còn nói, năm xưa, tôi đã đến thiên thượng giới, đã gặp Liên Hoa Đồng Tử, Ngài cũng chỉ là một vầng ánh sáng trắng chói lọi mà thôi. Cũng là không có hình tướng.

Chúng ta đọc kinh Kim Cang, phẩm thứ 20 "Lìa sắc lìa tướng":

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có thể dựa vào sắc thân đầy đủ mà thấy Phật không?" "Không được, thưa Thế Tôn! Không nên dựa vào sắc thân đầy đủ mà thấy Như Lai. Là vì sao? Như Lai nói: mọi tướng đầy đủ tức chẳng đầy đủ, thì gọi là mọi tướng đầy đủ.

Còn nữa: Phẩm thứ 26 "Pháp thân phi tướng".

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có thể dựa vào ba mươi hai tướng mà quán đó là Như Lai không?" Tu Bồ Đề nói: "Đúng thế! Đúng thế! Dựa vào ba mươi hai tướng mà quán Như Lai." Phật nói: "Tu Bồ Đề! Nếu dùng ba mươi hai tướng mà quán Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai." Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật nói, không nên dựa vào ba mươi hai tướng mà quán Như Lai." Khi ấy, Thế Tôn bèn nói bài kệ: Nếu do sắc thấy ta Do âm thanh cầu ta Người ấy hành tà đạo Không thể thấy Như Lai.

Cá nhân tôi cho rằng hai phẩm này chủ yếu nói về sự vô tướng. Đây là bài tụng Vô tướng đệ nhất nghĩa. Còn về thiên hạ đệ nhất linh Diêu Trì Kim Mẫu, đương nhiên Ngài cũng là vô tướng, không có hình tướng. Liên Hoa Đồng Tử cũng là vô hình vô tướng, huống chi là Diêu Trì Kim Mẫu.

Còn vì sao nói Như Lai có 32 tướng? Quan Thế Âm có vô số biến hóa thân? Diêu Trì Kim Mẫu có bao nhiêu hình tướng? Liên Hoa Đồng Tử cũng như thế? Câu trả lời rất đơn giản: "Đó là vì chúng sinh trong thiên hạ mà hóa hiện ra như vậy." Tất cả những hình tướng này vốn là hư huyễn.

Mật giáo có pháp tu tập "thiên sắc thân", đương nhiên, thiên sắc thân này cũng là biến huyễn mà ra. Cá nhân tôi cho rằng: Tu tính --- vô hình. Tu mệnh --- hữu tướng. Nhưng tướng này cũng là hư vọng. Hiểu được đạo lý này mới không thấy mâu thuẫn tới mâu thuẫn lui, không khiến ta bị bối rối lẫn lộn.

44. Tuôn chảy từ tâm (1)

Một: "Cảm ơn chàng đã gửi tặng lá phong, em thật lòng cảm thấy chiếc lá phong này thật đẹp. Lá phân thành năm cánh! Những đường vân như đan! Em cũng thật sự rất vui mừng, vui mừng đến nỗi ánh mắt sáng bừng lên. Mặc dù lá còn chưa đỏ hết, nhưng thật sự là rất đẹp đó! Em vui sướng tới mức muốn bay lên! Em sẽ kẹp chiếc lá vào trong sách, gìn giữ nó! Gìn giữ nó! Mỗi khi nhớ chàng sẽ lại lấy ra ngắm. Em thật sự vô cùng hạnh phúc!"

Ta nói: "Có giấc mơ thật đẹp! Sẽ có một ngày lá phong đỏ hết, hơn nữa còn đỏ thắm đỏ đượm. Đặt lá phong ở trong tim nàng. Đặt lá phong ở trong tim ta. Chờ đợi! Chờ đợi! Không biết ai từng nói, càng chờ đợi càng yêu!"

Hai: "Em thấy là em thường hỏi chàng "có thể nào đừng chia ly không", chàng luôn an ủi em rằng ta sắp gặp nhau rồi. Thế là, em bất chợt nghĩ đến: liệu có thể nào em nói chuyện với bức pháp tướng thì chàng sẽ có thể nghe được pháp bảo chăng? (Em nói chuyện với Liên Hoa Đồng Tử thì chàng sẽ nghe thấy.) Nếu vậy thì thật tốt! Chúng ta mãi mãi ở bên nhau! Từ trước tới nay chưa từng chia ly! Dòng chảy từ tâm chàng đi vào tim em! Dòng chảy từ tâm em đi vào tim chàng!"

Ta nói: "Người có buồn vui tan hợp, Trăng có tỏ mờ tròn khuyết, Xưa nay vẫn khó vẹn toàn, () Dịp Tết Trung Thu năm nay, Đành cùng ánh trăng trò chuyện. Ta nói để nàng hay biết Tu hành chính là nghĩ suy Nghĩ suy mà chẳng suy nghĩ Chẳng nghĩ mà là nghĩ suy. Ý nghĩ gặp nhau, Chính là vĩnh hằng! Bấy lâu nay chúng ta chưa từng chia ly." [(*) ba câu đầu trích từ bài thơ Thủy điệu ca đầu - Trung Thu của Tô Thức.]

Ba: "Em nói chàng nghe, em cảm thấy mình đã may mắn lắm rồi, em có thể bay đến Seattle gặp chàng, em thật sự là người may mắn nhất trên đời. Gặp được chàng thật vui! Mỗi ngày đều mong ngóng có thể nhìn thấy chàng. Bên ngoài bức tường bao, phía trước cửa chùa, trong xe ô tô, cứ như thế đó, giấc mơ của em đều rất ngọt ngào. Sau đó, ngày hôm sau, chúng ta gặp mặt lại cùng vẫy tay, đây chính là những mong ngóng của em!"

Ta nói: "Chúng ta tu hành Mật giáo, cần đặt Căn bản Thượng sư trên đỉnh đầu, mỗi ngày cần nhớ về Căn bản Thượng sư ba lần: sáng sớm, giữa trưa, chiều tối. Đây là pháp môn tu hành Thượng sư tương ứng tốt nhất. Pháp Bổn tôn cũng vậy. Ta nói: Ta hòa nhập vào nàng, Nàng hòa nhập vào ta, Ta ở nơi nào thì nàng ở nơi đó!"

45. Tuôn chảy từ tâm (2)

Bốn: "Chàng có biết vì sao có một lần em hỏi chàng, liệu chàng có giống như Tổ sư Đạt Ma, đổi lấy một thân phận khác rồi đi đến Tây Tạng? Kì thực đó là một ý nghĩ bất chợt của em! Nếu chàng làm như vậy thì em có thể đến bên đó trước để đợi chàng. Chàng còn nhớ chàng từng khai thị về cửa núi dẫn đến vùng Tuyết Sơn đó không? Khi đó em nghĩ trong lòng: có người con gái đang đợi người con trai mà cô yêu thương trở về. Em biết nơi đó từng là nhà của chúng ta."

Ta nói: "Tổ sư Đạt Ma sau khi viên tịch ở Trung Thổ, đã đổi sang một thân phận khác, trở về Ấn Độ, rồi lại đến Tây Tạng. Ở Tây Tạng, tên gọi của Ngài là Dampa Sangye. Ngài đã truyền dạy pháp Xả thân cho Mã Cát Lạp Tôn, sáng lập ra phái Giác Vũ. Ta cũng nói để nàng biết: ta đã ở Tây Tạng rất nhiều kiếp………. Trong đó có một kiếp ta là Mipham Rinpoche, ta là khenpo của Dung Giới Tự. Khi ta còn trẻ, ta đã từng quen nàng rồi. Nàng chính là Trác Mã của ta. [Trác Mã - Dolma, là cách xưng hô của người Tây Tạng, ý nghĩa là Độ Mẫu.] Sau đó, chúng ta đã thề nguyện rằng "Mãi mãi bên nhau!". Ta đã làm được rồi! Nàng hóa thân thành Kachangka của ta. Ta vĩnh viễn giữ chặt Kachangka của ta, độ hóa tín chúng của ta. Đây là một câu chuyện thật buồn thương!

Bản tình ca của Dalai Lama thứ 6: [Tsangyang Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, người nổi tiếng với những bài thơ về Phật giáo, về tình yêu lãng mạng, không tuân thủ theo sắc giới của nhà Phật.]

Trầm tư nghĩ về nét mặt tôn kính của Thượng sư, Vì sao chẳng thể nào xuất hiện, Nào ngờ khuôn mặt người yêu dấu, Rõ ràng sống động trong tâm ta.

Còn nữa: Gió ơi! Từ nơi nào thổi tới? Gió à! Từ quê hương đến đây! Hỡi người ta yêu thời tuổi trẻ Gió hãy đưa nàng mau tới đây!

Còn nữa: Ban ngày xinh đẹp vô song Ban đêm thịt da thơm ngát Người yêu suốt đời của ta Phù dung thua vẻ diễm kiều. ...

Ta mượn ngòi bút của Dalai Lama thứ 6 để nói với nàng rằng: Nàng là Trác Mã của ta! Nàng là Trác Mã ta ngày nhớ đêm mong! Nàng là Trác Mã xinh đẹp của ta."

Năm: "Hôm nay chàng cùng em đã hẹn ước đời đời kiếp kiếp ở bên nhau. Bất kể chân trời góc biển, bất kể chuyện gì phát sinh, bất kể chia ly ngay tức thì, bất kể người ở xa thiên lý vạn lý,... Cho dù chỉ một giây thương nhớ. Cho dù chỉ một phút thương nhớ. Cho dù chỉ một giờ thương nhớ. ...

Đó là những lời chàng nói, đó là vĩnh hằng. Một lần nhớ chàng, trời sẽ rơi xuống những giọt nước mắt nhớ thương, bởi vậy mới có hồ Sammamish. Một lần nhớ chàng, cây sẽ rơi đầy một thảm lá, bởi vậy mùa thu Seattle cây chỉ còn lại những cành khô. Em nói em nhớ chàng một lần, tuyết của đỉnh Tuyết Sơn Tây Tạng quanh năm chẳng tan."

Ta nói: "Nếu có thể đưa những nỗi khổ tâm này, Dùng trên phương diện thiền định, Ta sẽ ôm nàng thật chặt, Hai ta cùng thành Phật chẳng khó gì."

46. Tuôn chảy từ tâm (3)

Sáu: "Em từng nghĩ, nếu như có một ngày, chàng không còn ở bên cạnh em, em sẽ từ bỏ dung nhan của mình. Bởi vì em từng nói với chàng rằng, em trang điểm cũng chỉ vì mỗi mình chàng thôi. Vẻ xinh đẹp của em đều là vì chàng. Chàng có biết chăng? Tất cả những gì em làm đều chỉ vì mình chàng. Bởi vậy, Không có chàng, dung nhan xinh đẹp này, đối với em mà nói, cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, căn bản chỉ là một gánh nặng. Nhưng chàng bảo: Muốn em mãi mãi xinh đẹp! Bất kể thế nào chàng cũng sẽ quay lại tìm em. Em muốn biết điều chàng nói có phải là thật hay không?"

Ta nói: "Là thật. Ta từng nói với nàng rằng, ta có một bức Diêu Trì Kim Mẫu trong hình dạng thiên nữ, dung nhan của Ngài cũng xinh đẹp tựa như nàng. Mỗi lần ta nhìn ngắm vị Diêu Trì Kim Mẫu ấy, ta đều gọi tên nàng. Vị Diêu Trì Kim Mẫu ấy đẹp tuyệt trần! Ta nói: Con người cần trang điểm bằng y phục. Phật cần trang điểm bằng vàng ngọc. Nàng đã thấy Quan Thế Âm Bồ Tát với bộ dạng đầu bù tóc rối bao giờ chưa? Khi Tsongkhapa ca ngợi Bồ Tát, Ngài ấy viết như thế này:

Om! Cát tường như ý! Hiện lên trong vầng mây trắng sáng rực rỡ như điện Dáng Ngài tuyệt trần, được trang sức bởi hư không Tỏa hương thơm ngát trắng trong của người con gái trẻ Vị Thiên nữ với sự bi mẫn vô song khoan thai bước tới. Nét mặt Ngài tựa hoa sen, đôi mắt đen lay láy. Lọn tóc tết, rủ dài cùng búi tóc xanh lấp lánh. Tha thướt duyên dáng Ngài cất giọng diệu kì, Một lần nữa cầu thỉnh Ngài ban ân phước tới cùng con. ...

Và nhiều lời miêu tả đẹp đẽ khác.

Phật giáo khi miêu tả Bồ Tát thì đều là được trang điểm bởi bảy loại ngọc ngà châu báu, mặc thiên y váy xếp. Hơn nữa, mặc dù ta coi trọng hành vi nội tại, nhưng cái bên ngoài cũng cần thể hiện sự rực rỡ rạng ngời. Ta muốn nói với nàng rằng: Sau này ta hóa thành vô hình thì cũng vẫn ở bên cạnh nàng."

Bảy: "Dù chẳng mong muốn, nhưng đã là ngày cuối cùng ở lại Seattle rồi. Em thật sự chẳng muốn rời đi! Quãng thời gian vui vẻ này là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời này. Mắt nhìn nhau. Miệng mỉm cười. Tâm liền tâm. Ý liền ý. Thật sự là một niềm hạnh phúc xa xỉ. Em sẽ mãi khắc ghi, bởi vì tất cả mọi thứ đều chân thực nhường ấy. Em sẽ trân trọng! Hẹn gặp lại chàng!"

Ta nói: "Ta chỉ có thể nói với nàng rằng, lời cam kết của ta đối với nàng sau này sẽ chẳng hề thay đổi. Trong giấc mơ đã có ấn kí. Trong không trung đã có dòng chảy từ tâm. Đất, nước, lửa, gió đều khắc cốt ghi tâm! Ta có một đóa hoa sen, nàng cũng có một đóa hoa sen."

47. Tuôn chảy từ tâm (4)

Tôi từng kể rằng từ lúc còn trẻ tuổi, tâm trí tôi lúc nào cũng bay bổng nhảy nhót như khỉ như ngựa, tôi chẳng thể tự mình kiểm soát được những dòng chảy nội tâm. Sau khi học Phật thì sự sục sôi của tuổi trẻ có giảm bớt chút ít. Không còn cuồng dại như lúc trước! Có người nói tôi đã trút bỏ mọi ràng buộc. Có người nói tôi chơi trò tam muội. Có người nói tôi "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Rốt cục tôi là gì? Ngay đến tôi cũng chẳng biết. (Trong chuyện tình cảm, tôi rất vụng về.)

🌟

Xem ra có vẻ như rất mâu thuẫn. Tôi tự thừa nhận rằng tôi xử lý bất kì việc gì đều rất quyết đoán. Nhưng trong chuyện tình cảm thì tôi lại rất yếu mềm. Xuất gia, là rời khỏi ngôi nhà thế tục. Là bước vào ngôi nhà của Như Lai. Nhưng, Lý trí vẫn luôn không ngăn được những tình cảm thế tục. Cỏ dại đã khô héo rồi, vàng úa cả một vạt. Nào hay biết? Một ngọn gió xuân mơn man, mưa trút xuống! Cỏ lại mọc lên mơn mởn xanh rì. Như lời sư phụ từng nói, lấy tảng đá to đè bẹp cỏ dại, sau khi nhấc tảng đá lên, cỏ lại hồi sinh.

🌟

Tôi học Mật giáo. Tôi biết cái gì cũng đều là Phật pháp. Dâm là Phật pháp. Nộ là Phật pháp. Si là Phật pháp. Cần phải chuyển hóa dâm, nộ, si.

Tôi đã thành tựu trở thành "kham năng giả". Tôi thật sự đã tu pháp vô lậu, pháp minh điểm, pháp chuyết hỏa đến mức độ hoàn mĩ. Tôi đưa sự quán tưởng, trì chú, nhập tam ma địa hòa nhập vào đó, thành tựu này của tôi làm con người thế tục chấn động.

Từ trong mâu thuẫn, tôi đã giải thoát bản thân! Thân thanh tịnh. Khẩu thanh tịnh. Ý thanh tịnh. Tôi trưởng thành từ trong khói hương mê man, giải thoát khỏi những sự ràng buộc, tôi tuyệt đối chẳng như những kiểu người thế tục.

🌟

Dòng chảy tâm của tôi thăng hoa. Trong tất cả mọi việc tôi luôn ở trong sự thiền định, đã đạt được trí huệ siêu việt. Có người nào có thể từ trong tình ý miên man mà tu xuất được đóa hoa sen thanh tịnh tinh khiết? Tôi đã vượt lên khỏi những đau thương, những lãng mạn! Tôi đã trưởng thành trong tình cảm nam nữ!

Thì ra, tâm linh và thể xác có thể kết hợp được, không phải là đối lập nhau. Phật, Bồ Tát và ẩm thực nam nữ có thể dung hợp, không phải là giết lẫn nhau.

Tôi viết ra những lời tuôn chảy từ tâm là để: "Nhờ tình cảm nam nữ, viết nên chuyện thành Phật." Tứ Hỉ chuyển hóa thành Tứ Không. Lạc và Không song vận. Lan tỏa ra ánh sáng cầu vồng.

Đương nhiên tôi biết rằng: Rất ít người có thể đạt đến thành tựu như vậy! Trong vạn người cũng chẳng tìm ra nổi một người. Tôi trân trọng tình cảm. Tôi trân trọng Phật pháp trân quý. Tôi thấy Tứ Thủ Phương Mẫu, Bát Phương Không Hành Mẫu, Nhị Thập Thiên Thiên Nữ khen ngợi tôi! Hoan hô ngưỡng mộ! Thành tựu vạn tuế! Mêng mông những đóa sen!

(Hết)

Mục lục