📗

3002. Để cuộc sống bừng sáng

image

Để cuộc sống bừng sáng

Văn tập số: 3002 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Thượng sự - Sư Mẫu Lư Lệ Hương Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu. Tán gẫu dưới bầu trời xanh

Lời tựa của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Thế giới này vốn rất bình thường, bởi vì có con người nên mới trở thành rất không bình thường. Chỉ toàn là những âm thanh ồn ào huyên náo. Và những bi kịch buồn đau của nhân gian. Không những thế: Có một chút loạng choạng. Có một chút nhơ bẩn. Tôi cúi người trên bàn viết những lời tán gẫu này. Chẳng phải là để làm hình mẫu cho ai. Chẳng phải là biểu hiện bên ngoài cho đẹp đẽ. Chỉ là mở ô ra hưởng lấy chút mát mẻ. Hy vọng rằng có thể khiến con người trong thế giới đầy âu lo này. Có thêm được một chút bình an. Lời bạt: Thượng sư Liên Hương (Lư Lệ Hương) sắp xuất bản cuốn tuyển tập mới, có nhờ tôi viết lời mở đầu. Tôi nhắc đến những lời tán gẫu dưới trời xanh, ý muốn ám chỉ rằng thiên hạ vốn vô sự, chỉ vì có con người nên mới "lắm chuyện". Chuyện đời cần những lời chân thành, cuốn sách này chính là những lời chân thành. Mùa hè, năm 2000.

01. Hồi tưởng về mưa

Còn nhớ ngày nhỏ, khi làm văn tả trời mưa, trong bài văn, tôi đã tìm cách nói hết những sự bất tiện của mưa. Tôi không thích mưa. Bởi vì, tôi chẳng có tiền mua áo mưa, ủng đi mưa, ô che mưa. Tôi lại nhút nhát, không dám đi nhờ ô của người khác, thế nên cứ đội mưa ướt sũng mà đến trường, rồi lại đội mưa ướt sũng trở về nhà. Mùa mưa ở Đài Loan nổi tiếng với mưa gió bão bùng, tôi đi bộ trên đường bị mưa to gió lớn thổi tới tấp, cảm giác hạt mưa rơi xuống với áp lực như bị tạt nước vậy. Những cơn gió to thổi thốc từ sau lưng, khiến cho những bước đi của tôi loạng choạng lảo đảo, muốn ngã dúi về phía trước. Cứ mỗi khi bầu trời dày đặc mây đen với tiếng sấm vang rền, nỗi sợ hãi trong lòng tôi chẳng có người nào biết, tôi chỉ có mỗi cách thầm cầu nguyện rằng trời chỉ xám xịt để ra oai thế thôi, sẽ chẳng có mưa đâu. Nhưng kết quả lại là mưa to gió giật, mưa liên tiếp như xối nước. Lúc tan học, tôi một mình đi đường tắt, tôi thường chạy trên những con đường ở miền quê, trên những đường bờ ruộng, mưa càng to thì tôi chạy càng nhanh, dường như tôi trở thành cái bóng của mưa. Thế nhưng, tôi cũng thường ngã nhoài trên đường bờ ruộng ngập bùn, trong lòng tôi dâng lên một nỗi tủi hờn, nước mắt giàn giụa, nước mưa lẫn với nước mắt. Suốt thời tiểu học, tôi cứ chống chọi với mùa mưa như thế. Thực tế, ngôi nhà của tôi là kiểu nhà cũ tường đất được làm từ bùn, mái nhà cũng là kiểu nhà cũ lợp cỏ, chỉ cần qua vài lần gió mạnh thổi tốc mái thì sẽ thành ra ngoài trời mưa to trong nhà mưa nhỏ. Bởi vậy, cho dù tan học, dũng cảm đội mưa chạy về nhà thì tôi cũng vẫn bị mưa dột vào nhà mà ướt, quần áo thường xuyên ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt. Nhà tôi nghèo, nghèo đến nỗi trong thiên hạ chẳng còn một chỗ nào cho tôi tránh mưa! Mưa từng khiến cho tôi cảm thấy sự khốn cùng. Mưa khiến tôi cảm thấy yếu đuối. Mưa rửa trôi hết lòng tự trọng của tôi. Mưa gây nên bao sự phiền nhiễu. Dường như cuộc đời đã an định rằng tôi và mưa có nhân duyên đặc biệt. Seattle có nửa năm là mùa mưa, mùa mưa đến thì mưa giăng mịt mùng, mưa liên miên suốt cả ba tháng là chuyện bình thường. Sư Tôn nói: "Tôi thích mưa, thích nghe tiếng mưa, thật là thơ tình họa ý, những cảm xúc sáng tác dâng trào, vẽ tranh thoăn thoắt, trong lòng có mưa, trong tranh có mưa, mưa thấm đẫm chúng sinh" Những cơn mưa thuở nhỏ, những cơn mưa ở Seattle đem đến những cảm xúc khác nhau, khiến tôi có nhiều hồi tưởng. Vũ trụ chứa đựng muôn vàn hiện tượng, sự vận chuyển của muôn vàn hiện tượng là hoàn toàn tự nhiên. Có thể phá bỏ quan điểm của chính mình mới có thể hiểu thấu được hoàn cảnh tự nhiên. Đến ngày hôm nay, cuối cùng thì tôi cũng đã tìm lại được chính mình từ trong mưa.

02. Mỗi ngày của cuộc đời

Mùa thu ở Seattle luôn có những cơn mưa phùn liên miên. Bởi vậy tôi cũng đã quen với những tiếng mưa tí ta tí tách. Mỗi buổi sáng ngủ dậy, tôi vẫn không quên nhìn ra ngoài cửa sổ xem mưa có còn rả rích hay không. Tối qua có sấm rền vang, tiếng sấm ùng oàng xen lẫn với tiếng mưa. Hễ gió thổi là cây cũng phát ra tiếng xào xạc, lá cây liên tiếp rụng xuống. Thì ra là mưa nóng lòng muốn kể cho tôi nghe câu chuyện của mùa thu. Mưa nói: cả một đời người, trải qua những giai đoạn kể từ lúc thanh niên, thành niên, trung niên cho đến lúc lão niên dường như cũng giống như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cũng giống như lá trên cây, mùa xuân thì đâm chồi nảy lộc, mùa hè thì cành lá xum xuê, mùa thu thì lá khô rụng xuống, mùa đông thì héo quắt khô gầy. Mưa còn nói: đời sống của lá cây rất ngắn ngủi tạm thời, kể từ lúc nảy mầm cho đến khi lìa cành chỉ trong vòng một năm mà thôi. Mặc dù tiếc cho đời sống ngắn ngủi, nhưng lá cũng đã thể hiện hết sự rực rỡ của nó. Lá đã hoàn thành sứ mệnh của lá, bởi vậy mà tự nhiên thoải mái buông mình rơi xuống mặt đất. Câu chuyện mùa thu mà những cơn mưa kể nghe thật hay, nhưng cũng khiến người ta suy ngẫm, và lại càng khiến người ta thức tỉnh. Bởi vì, con người khi bước vào tuổi 50, chẳng phải là đã đến giai đoạn mùa thu của cuộc đời rồi sao, sau quãng thời gian rụng lá là lại phải đón sự tàn cuộc của mùa đông. Có ai mà không lo lắng vì điều này? Có ai mà không vì điều này mà thở dài cảm thán cho cuộc đời ngắn ngủi! Lá cây muốn mãi mãi lưu giữ được hình ảnh đẹp đẽ nhất, nhưng nhân duyên hợp tan, bởi vậy nó không thể tự kiểm soát được. Con người muốn khỏe mạnh sống lâu, nhưng đạo lý thành-trụ-hoại-không vốn là nguyên tắc của tự nhiên. Nếu hiểu được và biết cách thích ứng với điều này thì sẽ cảm thấy rằng: mùa xuân thật tốt, mùa hè thật tốt, mùa thu cũng rất tốt, mùa đông lại càng tốt. Cuối cùng tôi đã hiểu, cho dù cuộc đời đi đến giai đoạn cuối mùa thu thì cũng cần nắm chắc lấy quãng thời gian của mùa thu, rung động trước mùa thu. Cần sống cho vui vẻ, có ý nghĩa, cần sống trọn mỗi ngày của cuộc đời.

03. Liên tưởng về ngày sinh nhật

Mỗi lần tôi nhận được thiệp chúc mừng sinh nhật của đồng môn gửi tới, hoặc khi gặp người nào đó chúc mừng sinh nhật tôi, tôi thường cảm thấy không thoải mái lắm. Tôi tỏ ra rất bối rối, nhất thời không biết cần làm gì nữa, không biết cần phải hành xử thế nào, trong lòng luôn trỗi dậy một cảm giác không sao mô tả được. Tôi cứ ngây người ra, ngay cả một câu nói cảm ơn cũng nghẹn lại trong cổ họng mà không thốt ra được. Thanh niên ngày nay đều thích tổ chức sinh nhật, đặc biệt là người sống ở các nước phương Tây, họ xem ngày sinh nhật là một ngày lễ quan trọng. Theo tập tục truyền thống của người Trung Quốc, tổ chức sinh nhật thì đa số dùng các loại thực phẩm cho các dịp lễ như rùa trường thọ, đào trường thọ, mì trường thọ nấu giò heo, trứng đỏ [ND: trứng gà được nhuộm đỏ phần vỏ ngoài ] để tượng trưng cho sự hoan hỉ, dâng cúng trời đất, cầu nguyện sống lâu. Người cao tuổi hoặc người có đức cao vọng trọng tổ chức sinh nhật thì trong ngoài thành phố đều vô cùng náo nhiệt, ai nấy đều biết hết. Nói thật lòng: tôi không quen tổ chức sinh nhật, thiệp sinh nhật, quà sinh nhật, bài hát chúc mừng sinh nhật đều khiến tôi cảm thấy bối rối! Còn nhớ lúc nhỏ, tôi nói với mẹ tôi một cách đầy hào hứng: "Hôm nay là sinh nhật con đó." Mẹ tôi lập tức sầm mặt xuống, nói một tiếng lạnh lùng, bảo tôi đi tìm một cây gậy. Tôi hỏi để làm gì? Mẹ tôi đáp rằng: "Dùng gậy đánh cho mày một trận để cho mày biết hôm nay là sinh nhật!" Mẹ tôi còn nói: "Cái đồ ngốc này, nhà ta nghèo đến mức có được bữa ăn còn khó, lại còn đòi sinh nhật à!" Còn nhớ hơn 20 năm trước, tôi cũng từng nói với Sư Tôn rằng: "Hôm nay là sinh nhật của tôi." Sư Tôn đáp lại với khẩu khí có chút hài hước rằng: "Sống mỗi ngày còn quan trọng hơn tổ chức sinh nhật. Nếu muốn ăn bánh ga-tô thì có thể ra chợ mua một chiếc bánh bông lan về ăn, thế là được rồi." Hơn nữa, từ nhỏ tôi đã rèn luyện thói quen tiết kiệm, không muốn người khác phải tiêu tiền vì mình, thấy người khác tiêu tiền, bản thân tôi cũng thấy xót xa. Tôi thích câu nói đầy chí lý đó của Sư Tôn - "Sống mỗi ngày quan trọng hơn tổ chức sinh nhật." Câu nói này đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí tôi, vĩnh viễn không quên. Kể từ giây phút đó, tôi đã lấy thêm dũng khí, xốc lại tinh thần để phấn đấu vì mỗi ngày trong cuộc đời, mỗi bước chân đi lại vững chắc hơn, mỗi ngày trôi qua đều tràn đầy cảm xúc, mang niềm tin vững chắc để chào đón ngày mai.

04. Sao Thái Tuế giáng đầu

Rất nhiều người quan tâm đến hành vận của năm tuổi, nếu như gặp trúng sao Thái Tuế, bất luận là trực xung hay thiên xung thì đều lo lắng sợ hãi, tinh thần bất an, làm việc gì cũng lo lắng không yên, thậm chí còn ảnh hưởng đến giấc ngủ, cũng như thường run lập cập không biết cần phải làm gì. Nói chung, không chỉ là sao Thái Tuế giáng đầu là xung, người ta còn nói rằng tuổi gặp số 9 thì chắc chắn sẽ xung, ví dụ như 9, 19, 29, 39, 49, 59, v.v… Nhưng trong những số có con số 9 này thì chỉ có 49 tuổi là tương đối đặc biệt, bởi vì nó xung với năm lưu niên, xung với năm con giáp, lại mang số 9, thành ra có cả ba thứ đại xung. Tôi đã từng đọc một cuốn sách ghi lại những tai họa xảy ra vào năm Thái Tuế, trong sách ghi chép lại những nhân vật gặp tai họa vào năm lưu niên nhiều đến nỗi tôi cũng không đếm, tuy nhiên, những người chết thì đa số là người xung phạm sao Thái Tuế và người mang tuổi có con số 9, thật khiến người ta sợ hãi! Do vậy, rất nhiều người kị húy con số 9, hỏi những người đó bao nhiêu tuổi thì họ đều không dám trả lời thẳng mà thường sẽ nói bớt đi hoặc nhiều hơn một tuổi, họ cho rằng nói như vậy thì có thể tránh được tai nạn ập đến thân. Năm lưu niên của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, nó sẽ theo quỹ đạo vận mệnh đã được định sẵn mà vận hành, vận hành đến đâu thì sẽ phát sinh ra sự việc gì đều hoàn toàn là định số, giống như sự luân chuyển, tiết khí của bốn mùa xuân, hạ, thu đông là theo quy luật. Tôi tuổi trâu, vào năm 49 tuổi chính là năm có vận mệnh đại cực xung. Tuy nhiên, tôi cho rằng, năm 49 tuổi có thể không hoàn toàn tốt lành, nhưng hà tất phải lo lắng sợ hãi, khiến cho tâm lý bị áp lực. Nghĩ về mặt tốt thì đại xung mới có thể đại phát, không xung thì không phát. Có xung thì mới có cái tốt, giống như sóng biển nổi lên, sức dâng lên càng cao thì bọt nước trắng sủi lên mới càng cao càng đẹp. Xung phạm sao Thái Tuế thì ngoài cúng an sao Thái Tuế cầu bảo hộ bình an ra, càng cần phải cảnh tỉnh bản thân đối với mọi thứ cần phải suy nghĩ cân nhắc cẩn thận trước khi làm, thận trọng từng bước. Đối với phương diện tu hành thì càng cần nỗ lực tinh tấn gấp nhiều lần, từ việc trì chú, quán tưởng, thiền định mà đạt được sự chuyển hóa. Do vậy, việc "xung" này sẽ đẩy bản thân lên một tầng cao hơn, gặt hái được những điều không ngờ tới. Gặp sao Thái Tuế giáng đầu. Là lo? Hay mừng? Nhìn nhận nó thế nào cũng được.

05. Thị phi chốn nhân gian

Tôi biết một câu chuyện, có một người phụ nữ đi làm ở công ty, bởi sếp phân bổ công việc không công bằng mà cô sinh ra tâm trạng bực bội không vui. Nhiều lần cô hẹn gặp sếp nói chuyện để đấu tranh cho sự bất bình đẳng trong phân công công việc, nhưng đều không đạt được sự thỏa hiệp. Cô tự cho rằng mình nhận được sự đãi ngộ không công bằng, lại không muốn chấp nhận thiệt thòi mà thỏa hiệp, bởi vậy cô đã từ chức. Cô nói: "Tôi thật hối hận đã làm việc cho công ty này." Vì đổi nơi làm việc, rất khó khăn cô mới có thể tìm được một người bạn cùng thuê phòng trọ, có thể thấy niềm vui sướng trên nét mặt cô. Không lâu sau, vì sống cùng một nhà, một thân hai quen, tiếp xúc thường xuyên, nên đã mất đi sự lịch thiệp ban đầu, thường xuyên xảy ra cãi cọ, cuối cùng chỉ còn cách không ở cùng nhau nữa. Cô nói: "Tôi thật hối hận vì đã ở cùng với loại người ấy." Cô tìm được việc ở một công ty khác, lại vì những mâu thuẫn trong nhân sự, không chịu được việc người khác chia bè phái, ghét thái độ nói chuyện của người khác, nghi ngờ người khác nói xấu mình sau lưng, cô tự cho rằng mình phẩm cách cao thượng, công chính liêm minh, không muốn cùng hội cùng thuyền với những người kia, do vậy cô lại rời khỏi công ty, cũng lại nói: "Thật là hối hận." Hơn nữa, cuộc sống hôn nhân của cô, vì sinh kế gia đình mà cô thường xuyên tranh luận với chồng, trở mặt nổi giận là chuyện thường xuyên. Nghiêm trọng hơn nữa là cuộc hôn nhân 10 năm không con cái, cuối cùng cô tuyên bố ly hôn, lại là một tiếng thở dài thườn thượt, hối hận vì đã kết hôn! Tâm tình khổ não trăm bề, cô hướng đến con đường học Phật, cho rằng cửa Phật thanh tịnh, Phật pháp vô biên mới là nơi để an thân lập mệnh, không ngờ chuyện vô thường luôn xảy đến bất kì lúc nào, tâm không tĩnh được, cô thường ngồi quắt queo nghĩ ngợi lung tung, luôn luôn cảm thấy người khác muốn làm hại cô. Cô nói: "Không tu thì không có chuyện gì, càng tu thì càng lắm chuyện, cửa Phật lắm thị phi, chi bằng đóng cửa lại tự tu." Cô loạng choạng bước chân rời đi. Cô bị mắc kẹt trong những quan niệm, luôn sống trong sự hối hận, thật sự khiến người ta thương hại. Nếu có thể nghĩ nhiều hơn cho người khác, đứng từ góc độ của người khác để xem xét, quan tâm đến người khác nhiều hơn một chút, thì sẽ có những cảm giác khác đi, sẽ thay đổi những quan niệm của bản thân.

06. Nói chuyện nhân gian

Tục ngữ nói, con người sinh ra có ba cái khó: "Lên trời khó", ý nói rằng tu hành đạt được thành tựu lên được cõi trời là rất khó. "Kiếm tiền khó", kiếm tiền là vất vả, chẳng có chuyện ngồi chờ sung rụng không làm mà có ăn, thậm chí có làm việc cật lực cũng vẫn chẳng kiếm được nhiều tiền. "Làm người khó", trên đời chẳng có ai luôn nhận được sự tán dương ca ngợi, đa số là thường bị nửa khen nửa chê. Tôi cảm thấy trong ba cái khó này, cái khó nhất chính là làm người. Đối với việc lên trời, mặc dù khó, nhưng vẫn có người lên trời được. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều người tu hành đạt được thành tựu lớn, họ không chỉ lên trời mà còn lên được đến những quả vị Phật, Bồ Tát cao quý, có thể thấy ở khắp nơi, do vậy mặc dù lên trời là khó, nhưng là vẫn có thể thành tựu được. Đối với việc kiếm tiền khó, có lẽ chỉ cần bỏ sức lực, tâm lực thì nhiều ít cũng có thể kiếm được một chút tiền. Một khi phúc duyên đến thì vận may sẽ đến, có thể kiếm được nhiều tiền trở thành triệu phú, thậm chí trở thành người giàu đẳng cấp thế giới. Bởi vậy mặc dù kiếm tiền khó, nhưng vẫn có những cơ hội kiếm tiền đang đợi bạn. Cái khó cuối cùng là làm người khó, thật sự đây là một việc khó khăn nhất, tự cổ chí kim vẫn chẳng có người nào thật sự được người người yêu quý, nhận được sự tôn kính của mọi người và được người người tán dương. Làm người vốn dĩ là khó nhất. Nhân vật bình thường thì có phiền phức nhỏ, nhân vật có vai vế thì có phiền phức lớn. Đưa mắt ra nhìn thiên hạ, những người nổi danh đều khiến người khác đố kị, những kẻ vô danh tiểu tốt thì bị người khác kì thị coi thường, tiêu tiền phóng khoáng thì người ta bảo là lãng phí, tiết giản một chút thì người ta bảo là ki bo bủn xỉn, mặc quần áo đẹp, đeo đồng hồ xịn, lái xe xịn, thì người ta nói là tỏ ra vẻ hư vinh, nếu chất phác không đánh phấn tô son thì người ta bảo mặt nhàu cũ rích………… Làm người thật khó. Bất kể là bạn làm tốt thế nào thì người ta vẫn luôn có lời phê bình, đây chẳng phải là do những bản tính vốn có của con người như bản ngã lớn, ích kỉ, đố kị… gây nên sao? Tính cách con người vốn có những căn tính yếu kém, nếu như dựa vào quan điểm tính cách để quan sát vạn tượng vạn vật thì trên thế gian này sao có thể có người hoàn mĩ "làm người thành công" đây? Bởi vậy, làm người cần phải có lý trí để đo lường bản thân, làm gì cũng cố gắng giữ sự cân bằng tốt nhất, đi trên con đường trung đạo, bất kể người khác nói gì đi nữa thì ý chí của bạn vẫn kiên cường, dũng cảm tiến lên trước thì mới có thể đạt đến mục tiêu lý tưởng.

07. Giữa được và mất

Cái chết của Công nương nước Anh Diana tạo nên một sự chấn động trên toàn thế giới, khiến tất cả mọi người trên toàn cầu phải chú ý. Bầu trời dường như phủ một bức màn u ám, một bầu không khí bi thương bao trùm, các phương tiện truyền thông thì đua nhau đưa tin bài. Người dân ở khắp nơi cảm thương, tiếc nuối cho cái chết của Công nương, thậm chí có người thu thập những tư liệu lịch sử có liên quan để viết nên một cuốn hồi kí về cô, hát lên bài hát "Ngọn nến trong gió" cảm động đến tận đáy lòng, khiến rất nhiều người rơi nước mắt! [ ND: bài hát "Candle in the wind" ] Tôi từng đọc một bài báo đăng tin như thế này: "Theo thống kê của một công ty chuyên cắt xén báo chí, các tờ báo lớn đưa tin về cái chết của Công nương Diana còn nhiều hơn so với các tin tức thời kì gay cấn nhất của chiến tranh thế giới thứ hai. Các tờ báo lớn của nước Anh đã sử dụng 35% trang báo để đăng bài về sự kiện này, trong khi tin tức về sự bại trận của Đức Quốc Xã chỉ chiếm 26% mặt báo. Điều này khiến cho cái chết của Công nương Diana trở thành tin tức lớn nhất thế kỉ này ở nước Anh." Mọi người đều biết, sự việc khi Công nương Diana kết hôn rất ồn ào, khi ly hôn cũng rất ồn ào, khi chết lại càng ồn ào. Vào những lúc trà dư tửu hậu nói về chuyện này, mọi người có sự đồng cảm, nói đùa rằng: đời người chẳng phải là vì danh vì lợi sao? Được như Công nương Diana chết mà còn nổi tiếng như vậy thì có chết cũng tốt. Giống như cô ấy, đã hưởng hết mọi vinh hoa phú quý rồi thì chết cũng chẳng thấy hối tiếc gì! Cổ nhân nói: "Tiền tài, con cái, tuổi thọ" là ba phúc báo lớn của đời người, nhưng ít người có được sự viên mãn không khiếm khuyết. Nhà giàu, có tiền có con, nhưng lại không thọ; nhà nghèo có con, sống lâu nhưng lại không có tiền; thêm nữa, có người có tiền sống lâu nhưng lại không có con. Do vậy, về mặt nhân duyên quả báo, vốn dĩ đã có định số từ lâu bạn sẽ được gì, mất gì, có được sẽ có mất. Giống như Công nương Diana, cô ấy đã có được rất nhiều, và cũng đã mất rất nhiều. Cô ấy có được cuộc hôn nhân lên địa vị Công nương, rồi lại đánh mất cuộc hôn nhân này. (ly hôn) Cô ấy có được sự nổi tiếng với danh hiệu Công nương, và cũng nhận được nhiều sự phỉ báng khủng khiếp. Cô ấy có được sự giàu sang của vương thất, nhưng lại mất đi sự tự do. Cô ấy ly hôn để lấy lại sự tự do, nhưng lại gặp tai nạn xe mà mất mạng. Công nương đã chết rồi, rốt cục cô ấy đã được gì, mất gì? Đến điểm cuối cùng của cuộc đời thì, kì thực chẳng có gì là được, cũng chẳng có gì là mất. Trong cả cuộc đời, được và mất những thứ hữu hình chẳng qua chỉ là những huyễn tướng tạm thời ngắn ngủi mà thôi. Cái mà ta thực sự có được là: thế giới tâm linh vô hình đã thoát tục không còn ưu phiền, một cái tâm trong sáng.

08. Thân tâm an định

Hồi đầu tháng 6, báo chí truyền thông đua nhau đưa tin về tác giả Lâm Thanh Huyền, người đã viết được 105 cuốn sách, đột ngột vào khoảng mùa đông năm ngoái đã rời bỏ người vợ đầu tiên của mình, rồi vào tháng 3 năm nay đã lập tức kết hôn với cô Phương Thuần Trân, nhưng kết hôn mới được 3 tháng thì đã sinh con rồi. Bởi vậy, cảm giác đầu tiên của các độc giả là "Chúng ta đã bị Lâm Thanh Huyền lừa rồi." Quần chúng bàn tán xôn xao, tạo nên một cuộc bài trừ sách của ông, cảm thán cho một người đạo sư cải cách tâm linh, một người đã rất gần với hình tượng một vị thánh rồi mà sao có thể làm cái việc quay lưng với luân lý như vậy được! Tôi đọc bài báo nói về cuộc tình thứ hai của ông cũng không thể không thở dài cảm thán rằng sao có thể như vậy chứ! Tôi đã đọc những sáng tác của ông, đã nghe những băng ghi âm diễn thuyết của ông, ông đã để lại cho tôi một ấn tượng giống như cái tên của ông - đó là thanh cao và huyền diệu. Còn giờ đây, hình tượng đẹp đẽ đó đã bị hủy hoại rồi, thật sự khiến người ta buồn thay! Nhớ đến rất nhiều những cuốn sách "hạt giống tâm hồn" của ông, độc giả xem chúng như sách quý, khi gặp ông thì cúi lạy trước ông như đối với một giáo chủ. Thế nhưng bây giờ thì hành vi của ông và sách của ông đã tạo nên một sự hỗn loạn nhận thức, không biết cần phải định nghĩa thế nào. Lẽ nào ông ấy là một người viết một đằng, nói một nẻo, làm gì là chuyện khác, tâm khẩu bất nhất sao? Lẽ nào ông ấy nhất thời hồ đồ mà phạm sai lầm, muốn sửa chữa thì cũng đã muộn rồi chăng? Lẽ nào tâm hồn của ông đã trống rỗng, vô vọng, không thể an bình được nữa sao? Lẽ nào ông tự cam lòng rơi vào dòng sông tình ái, không thể vượt qua được tình ái sao? Lẽ nào đây là nhân duyên? Nghiệt duyên? Tôi nghĩ có thể quan sát sự việc này theo một góc độ khác, hãy xem ông như một người bình thường, không có gì đặc biệt, một người bình phàm làm những việc bình phàm, vậy thì đây cũng là việc bình thường. Nghĩ như vậy, tâm lý sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Có câu nói rằng: nếu tu hành vẫn chưa đạt đến công phu thiền định sâu, chưa đạt đến cảnh giới thanh tịnh cao nhất, thì khi sự khảo nghiệm xảy đến, chỉ cần không cẩn thận là sẽ trượt ngã, đây cũng là một chuyện rất bình thường. Bởi vậy, Lâm Thanh Huyền đã gặp phải sự chỉ trích mãnh liệt của đại chúng trong xã hội, nguyên nhân thứ nhất là do thân phận và địa vị của ông không như người khác; nguyên nhân thứ hai là, một người tự xưng là đạo sư cải cách tâm linh, người chuyên giảng dạy cho người khác làm thế nào để thân tâm an định nhưng kết quả lại vội vã ly hôn, vội vã kết hôn và đẻ con, cái việc "lên tàu trước mua vé sau" này thật khiến cho độc giả không sao mà giữ cho thân tâm an định được.

09. Ai hợp thì sống

Còn nhớ khi tôi mới di cư đến nước Mỹ, tôi có đọc được bài báo đăng trên báo chí thấy mọi người quan tâm đến vấn đề "hạt nêm" dùng trong ẩm thực ảnh hưởng đến sức khỏe như thế nào. Nội dung bài báo có nhắc đến: những người làm kinh doanh ngày nay vì tranh giành lợi ích, không từ thủ đoạn, đại đa số dùng chất hóa học để sản xuất hạt nêm, nên đã không còn dùng cách thức truyền thống được giữ gìn để chiết xuất ra những thành phẩm thuần chất nữa. Những loại hạt nêm được tạo nên bởi những sản phẩm hóa học này ăn vào thì miệng khô, tinh thần hôn trầm, da trở nên mẫn cảm, rất có khả năng dẫn đến tổn thương gan, rụng tóc, nếu tiếp tục dùng những hạt nêm này thì cũng giống như tự sát từ từ vậy! Kể từ khi đọc xong bài báo về loại hạt nêm muốn lấy mạng người ta, ngay hôm đó tôi đã vứt hết hạt nêm trong bếp của mình đi, và từ đó tôi cũng không bao giờ đụng đến nó nữa. Thậm chí tôi còn bảo với người thân bạn bè rằng đừng sử dụng hạt nêm nữa, hơn nữa còn kêu gọi mọi người cùng loại bỏ nó luôn. Ai dè, một bài báo trên tờ báo tuần trước đã bất ngờ đăng tin rằng hạt nêm không có tác dụng phụ, còn nói rằng: nó có thể làm cho món ăn ngon hơn, giúp người ta khai vị, chỉ cần bỏ thêm một chút hạt nêm vào món ăn thì mùi vị món ăn sẽ ngon hơn, ăn rồi là muốn ăn thêm nữa, hãy cứ yên tâm mà dùng, không cần phải sợ không cho thêm hạt nêm thì món ăn sẽ mất đi vị ngon. Hai bài báo này khiến tôi cảm thấy mình hồ đồ mất rồi, rốt cục là ăn hay không ăn thì tốt? Sau khi ngẫm nghĩ thì cuối cùng, tôi rút ra được mấy ý chính là: Mỗi loại thực phẩm đều có bản chất đặc thù của nó. Mặc dù bản chất đều có ích, nhưng không nhất định là sẽ hợp với mỗi người. Bất kì loại thức ăn nào, sau khi ăn mà sinh ra hiện tượng không tốt thì đều là không thích hợp. Không thích hợp cho mình ăn thì không chắc đã không thích hợp cho người khác ăn. Do vậy, thực phẩm tốt không chắc là tốt hoàn toàn, những thứ không tốt chưa chắc đã là không tốt hoàn toàn. Ví dụ như mọi người đều biết rằng morphine là thuốc độc, nhưng bác sĩ lại dùng chúng để chữa bệnh.

10. Tản mạn về ẩm thực

Mấy ngày trước, nhận lời mời của đồng môn, tôi đã đến tham quan Đại Học State ở bang Washington. Đến giờ ăn trưa, chúng tôi đi ra bên ngoài khuôn viên trường đại học để tìm nhà hàng ăn, cũng không có mục tiêu cụ thể nào, nhưng tình cờ gặp một cửa tiệm bán bánh pizza của Ý, chúng tôi đồng thanh nói: "Lâu rồi không ăn pizza, hôm nay hết mình hưởng thụ một phen thôi!" Khi tôi bước vào nhà hàng, trong đầu tôi đột nhiên trỗi dậy kí ức về 15 năm trước khi mới di cư đến Seattle, có một đệ tử là tiến sĩ Từ Hiến Đường đã cúng dường Sư Tôn và cả gia đình đến một nhà hàng để ăn pizza. Năm người ngồi trên cái ghế đẩu cao cao đó, ngồi xung quanh một cái bàn tròn chân cao. Cảnh tượng khi ấy còn rất mới mẻ trong kí ức của tôi, nhưng loáng một cái đã là chuyện 15 năm trước rồi! Tôi còn nhớ khi đó, tại bàn ăn, Sư Tôn nói với tiến sĩ Từ rằng: "Di cư đến Seattle đã một năm rồi, đây là lần đầu tiên đi ăn quán." Tiến sĩ Từ hỏi: "Hương vị của pizza thế nào, có ngon không?" Sư Tôn khựng lại một lúc rồi trả lời: "Tôi không biết là trên đời này lại có cái thứ khó ăn đến vậy!" Tiến sĩ Từ cười lớn ha ha! Sư Tôn nói thêm: "Nếu bảo anh là pizza ngon, e rằng lần sau anh lại mời tôi đi ăn pizza nữa, do vậy tôi cứ nói thẳng, cái mùi vị kì lạ này thực sự tôi không dám thử!" Tiến sĩ Từ cười không dừng lại được, còn vừa cười vừa bảo, Sư Tôn nói chuyện hài hước quá. Khi mới di cư đến nước Mỹ, chúng ta đều không quen món ăn Tây, chỉ nhớ những món ăn Đài Loan, đặc biệt là những món ăn vặt của Đài Loan, vừa mới nghĩ đến ăn các món Đài Loan là đã thèm chảy nước miếng rồi. Sống trong xã hội phương Tây đã 15 năm rồi, cũng chẳng biết thế nào mà tự động thói quen ăn uống cũng đã dần dần bị đồng hóa rồi, giờ đây chúng tôi đã hoàn toàn tiếp nhận các món ăn Tây. Nếu liên tục nhiều lần ăn món Trung Quốc thì sẽ càng muốn đổi sang ăn món Tây. Do vậy cơ hội chia đều cho món Tây và món Trung. Tôi biết ẩm thực là một môn nghệ thuật, là một loại kiến thức, là một dạng hưởng thụ, tuy nhiên, thói quen ăn uống là quan trọng nhất. Mặc dù mỗi người đều có thói quen ăn uống của riêng họ, nhưng thói quen này cũng sẽ vì hoàn cảnh, tuổi tác, thể chất mà thay đổi. Khi đồng môn hỏi, Sư Tôn, Sư Mẫu thích ăn gì để chúng con nhân tiện từ Đài Loan mang tới cúng dường? Trước đây tôi sẽ trả lời rằng: "Sư Tôn thích ăn đồ ngọt, Sư Mẫu thích ăn lạc." Nhưng bây giờ thì đã thay đổi rồi, có lẽ là do liên quan đến hoàn cảnh và tuổi tác! Bây giờ chúng tôi cũng có thể ăn pizza như món ăn chính rồi.

11. Giữa thơm và thối

Những thứ ăn được trên đời này, nói ra thì cũng thật kì lạ, có những thứ ăn vào thì rất thơm, rất ngon miệng, nhưng cũng có những đồ ăn có mùi vị kì quái đặc thù, ví dụ như sầu riêng, đậu hũ thối, phô-mai, còn có những đồ ăn có mùi vị kì quái tùy theo cảm nhận của từng người, v.v... Con người thông thường đều thích mùi thơm, không thích mùi thối. Tuy vậy, bất luận là đồ ăn thơm ngon thế nào thì sau khi nuốt vào bụng, lúc đi ra cũng đều biến thành mùi thối hết. Nghĩ mà xem, thơm chẳng phải cũng từ thối biến đổi mà thành sao? Những động vật như gà, vịt, bò, lợn đều rất hôi, nhưng sau khi nấu thành món ăn thì lại trở nên rất thơm. Thực vật cũng như vậy, mọi loại rau đều cần phân bón, con người trước kia dùng nước tiểu, phân, cứt gà để tưới bón cho cây, khiến cho cây rau vừa dài vừa xanh vừa to. Rau ăn vào trong bụng, sau khi được tiêu hóa, chúng lại biến thành phân và nước tiểu, phân và nước tiểu lại được lấy dùng để làm phân bón, rau ăn vào bụng rồi lại biến thành phân bón, quá trình này chính là một vòng tuần hoàn. Buổi sáng còn thơm, buổi tối đã biến thành thối, đồ thối thông qua vòng tuần hoàn lại biến thành thơm. Cái thơm chính là cái thối, cái thối chính là cái thơm. Càng thối càng thơm, rất thối, rất thơm, rất ngon. Mọi thứ trên đời này là một dạng luân hồi. Thơm - thối cũng vậy.

12. Xưa và nay

Trong tiếng Anh có một câu tục ngữ: No man can serve two masters. (Không ai phục vụ hai chủ.) Trong tiếng Trung cũng có một câu khá tương tự, đó là: Người đồng thời thờ hai chủ không thể trung thành như nhau đối với cả hai. Ý của câu tục ngữ muốn nói rằng: hãy tập trung phụng sự chủ nhân của bạn, không nên có suy nghĩ sai lầm mà đi phụng sự chủ nhân khác. Thế nên, câu tục ngữ này khiến người ta nhớ đến thời xưa, địa vị giữa chủ nhân và đầy tớ khác nhau rất nhiều. Đầy tớ từ nhỏ đã đi theo chủ nhân, bị người ta sai bảo. Chủ nhân có chết đi thì đầy tớ trung thành cũng vô cùng đau đớn suy sụp, cuộc sống như mất đi mục tiêu, không biết đi về nơi nào, trong lòng vĩnh viễn nhớ về chủ nhân. Hình thái chủ tớ này là sự chênh lệch giàu nghèo. Khi con người còn chưa văn minh, chưa có những tri thức phong phú mà ngày nay gọi là kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học, giáo dục, do vậy những nhu cầu và đòi hỏi về vật chất đơn giản, gần như chỉ dựa vào sức lao động để đổi lấy ngày ba bữa cơm ăn là đủ, ngoài ra không có nhu cầu nào khác. So với xã hội phồn vinh ngày nay, con người đã trở nên thực dụng, từ lâu đã trở thành chủ nghĩa xã hội công lợi, người lao động và tư bản tranh chấp khắp nơi, do vậy muốn tìm một người đầy tớ có thể nhờ cậy được đúng là nói dễ hơn làm, quan niệm trung thành với chủ nhân đã không còn nhiều nữa rồi. Con người hiện đại đề cao sự tự do, bình đẳng, khi nhận làm một công việc thì chủ nhân và nhân viên có hợp đồng với nhau, mỗi bên sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ riêng. Nếu ở chỗ khác có lợi ích nhiều hơn một chút thì lập tức nhân viên có mới nới cũ, nói nhảy việc là nhảy việc, chủ cũng chẳng giữ được nhân viên. Bởi vậy, quan niệm "trung thành tuyệt đối với chủ nhân" đã không còn hợp với trào lưu tư tưởng hiện đại. Có lẽ, quan niệm "trung thành tuyệt đối với chủ nhân" giờ đây đã trở thành "trung thành tuyệt đối với lợi ích của bản thân".

13. Lý thuyết y học

Đau khổ nhất của đời người không gì sánh bằng việc mắc bệnh. Khi bệnh tật ập đến thân, con người vốn đầy ý chí sục sôi tuổi trẻ thì nay bị bệnh tật dày vò đến mức chí khí cùn nhụt thờ ơ. Từ xưa đến nay, có bao nhiêu anh hùng nằm trên giường bệnh thở than, chẳng còn ý chí, mọi thứ đều mất hết cả rồi! Bệnh tật là điều đáng sợ nhất, có ai không sợ bệnh tật chứ? Y học hiện đại phát triển, giáo dục người ta cần kiểm tra sức khỏe định kì để sớm phát hiện ra nguồn gốc của bệnh, để trị liệu từ sớm, mới có thể cứu chữa được. Tuy nhiên, tôi cho rằng phát hiện ra bệnh từ sớm, có phương pháp trị liệu từ sớm thì cũng chưa chắc trăm phần trăm sẽ chữa khỏi được. Hơn nữa, quá trình chữa bệnh cũng sẽ có khả năng gia tăng mức độ xấu đi của bệnh. Đôi khi, biểu hiện bề ngoài là đã chữa khỏi bệnh rồi, nhưng những di chứng ẩn trong cơ thể thỉnh thoảng lại phát tác, sẽ đeo bám bạn đến cuối đời. Hiện tại rất phổ biến việc lấy máu để kiểm tra sức khỏe, phân tích hàm lượng của 45 chất trong máu, biết về mức độ cholesterol, mỡ trong máu, đường trong máu, hormone... của cơ thể chính mình xem có ở trong phạm vi bình thường hay không, hay là cao quá hoặc thấp quá. Rồi lại theo sự kê đơn chỉ thị của bác sĩ mà điều chỉnh để mong đạt được hiệu quả sức khỏe tốt. Tuy nhiên, nếu bác sĩ bảo với bạn rằng: lượng cholesterol trong máu của bạn quá cao, huyết áp cao, mỡ máu cao, nếu không uống thuốc trường kì thì rất có khả năng sẽ dẫn đến nhồi máu cơ tim mà chết, hoặc sẽ bị đột quỵ mà chết, hoặc là..., hoặc là... Kết quả kiểm tra sức khỏe, điều khiến người ta sợ hãi nhất là lời của bác sĩ nói: bạn có thể sẽ bị nhồi máu cơ tim, bạn có thể sẽ bị đột quỵ, bạn có thể sẽ... Những khả năng này sẽ khiến người ta càng thêm nghĩ ngợi, vĩnh viễn lo lắng mãi không yên. Tôi nghĩ, người sợ lấy máu, sợ nghe lời bác sĩ phân tích bệnh lý, từ chối kiểm tra sức khỏe thì cần phải mau chóng chú ý đến cuộc sống bình thường mỗi ngày, chú ý việc ăn uống, sống có quy tắc, lựa chọn thức ăn thanh nhẹ, ăn uống vào thời gian nhất định, với lượng nhất định cũng như vận động thích hợp để cân bằng lại hàm lượng các chất trong máu không bị quá cao quá thấp, thì có lẽ cũng là một ý kiến hay. Nếu chỉ dựa vào mỗi việc uống thuốc mà không chú trọng đến ăn uống hàng ngày thì thuốc tiên cũng vô ích, không phải thế sao? Lý thuyết y học cũng giống như lý thuyết Phật học, Phật pháp dạy người ta sống trang nghiêm, cũng có nghĩa là như cần sống chỉn chu nỗ lực mỗi ngày của cuộc sống.

14. Tâm lý học bệnh tật

Nói chuyện khám bệnh uống thuốc thật khiến người ta phiền não. Mắc bệnh thì không khám bác sĩ, không uống thuốc không được. Thường xuyên có những người vì mắc bệnh nhẹ mà không chữa trị, để bệnh tình diễn biến nhiều năm thành bệnh mãn tính đeo bám liên miên. Lại còn có những người bỏ qua việc khám bệnh định kì, dẫn đến việc bệnh trạng vốn dĩ có thể phòng ngừa được hoặc chữa khỏi được biến chuyển thành bệnh ung thư giai đoạn cuối không còn hy vọng chữa trị. Rất nhiều người đều như vậy. Tuy nhiên, cũng có người khi mới mắc bệnh nhẹ đã rối rít hết cả lên, thậm chí chỉ một cái hắt xì hơi cũng vội vàng đi khám bệnh, yêu cầu được uống thuốc, cảm thấy rằng nếu không có thuốc thì bệnh nặng sẽ ập đến, uống thuốc rồi thì sẽ yên tâm, nhưng chẳng bao giờ nghĩ rằng uống thuốc cũng có tác dụng phụ, chẳng hề nghĩ đến việc làm sao để tăng cường sức đề kháng của bản thân, loại bỏ những bệnh nhẹ trên phương diện thói quen tâm lý. Bởi vậy, bản thân có mắc bệnh hay không, có cần phải chữa trị uống thuốc hay không, vẫn cần dựa vào những hiểu biết về quan niệm và kinh nghiệm đối với bệnh lý của mỗi người. Người khác hắt xì hơi có thể vẫn khỏe mạnh bình thường, nhưng bản thân hắt xì hơi thì rất có khả năng là dấu hiệu sớm của việc cảm sốt, mỗi người mỗi khác. Có một người họ hàng từng nói với tôi về cách nhìn nhận đối với việc mắc bệnh. Người đó nói: "Không khám bác sĩ không chữa bệnh cũng tốt, càng chữa càng nặng thôi!" Nguyên nhân là vì: có một nha sĩ chẳng nhổ đi cái răng sâu của người đó mà lại nhổ nhầm một cái răng tốt, thế là người đó thường xuyên đem theo cái răng tốt hoàn toàn không có khiếm khuyết gì cả này chỉ cho mọi người xem, nhằm thể hiện sự hối hận vì đã đi khám nha sĩ! Bác sĩ khám bệnh sai, kiểu bác sĩ lang băm là có, trên báo đài tạp chí đăng những bài như cưa nhầm chân, mổ nhầm dao, chữa nhầm bệnh, thật sự khiến người ta sợ hãi! Chẳng trách khiến cho người ta sinh ra quan niệm đối với việc chữa bệnh là: "Không còn cách nào khác mới đi khám bệnh, vạn bất đắc dĩ mới đi khám bệnh." Thử hỏi: Lương y ở đâu? Thuốc tốt ở đâu? Tôi nghĩ: thuốc thang trên thế gian này chuyên chữa bệnh cho người có duyên, tuyệt đối không phải là ai ai cũng dùng được, hiệu quả sẽ khác nhau tùy từng người, do thể chất và nhân duyên của mỗi người mà định đoạt. Nếu thuốc có thể triệt để trị tận gốc bệnh của con người thì làm gì còn chuyện mắc bệnh mà chết. Mặc dù thuốc không thể chữa bách bệnh một trăm phần trăm, nhưng cũng có thể chữa được các triệu chứng của bệnh, chữa được nhiều loại bệnh khác nhau... Sao không điều trị tạm thời cái đã.

15. Bắt tay với Tổng thống Mỹ

Chính tại Chân Phật Mật Uyển, đúng vào lúc tôi đang bận rộn với các việc của Tông Ủy như thường lệ, Phật Thanh mừng rỡ chạy đến bảo với tôi rằng: "Con vừa mở đài nghe thông báo rằng năm rưỡi chiều nay, Tổng thống Bill Clinton sẽ từ thủ phủ xa xôi đến Seattle, tại chợ Pike Place (thường được gọi là chợ trời), sẽ có bài phát biểu về quan điểm chính trị cho sự kiện bầu cử tháng 11 năm nay. Chuyên môn ở trường học của con là chính trị và tâm lý học nên con muốn nhân cơ hội này thử trải nghiệm một phen." Phật Thanh còn nói: "Con không tìm được người bạn nào đi cùng, bởi vì các bạn học sau khi kết thúc kì nghỉ hè thì đã đi học lại từ lâu rồi, mẹ đi cùng con được không?" Thế là chẳng chuẩn bị gì cả, chúng tôi vội vàng lái xe đi. Không những thế còn phải dừng lại bên đường hỏi người đi đường chỉ dẫn hướng đi đúng, bởi vậy nên chúng tôi cũng thuận lợi tìm được đến nơi (chợ trời). Thì ra trên đường lớn ở khu chợ này đã sắp đặt tạm thời một sân khấu ngoài trời. Tạm thời, mấy con đường ở khu vực xung quanh đặt biển: "Cấm xe lưu thông". Mấy con đường đó tự nhiên trở thành nơi cho người tụ tập quan sát, mọi người đứng ngay tại đó. Lúc này, mây đen mịt mù, sấm chớp rền vang, khiến người ta cảm thấy một bầu không khí u ám ảm đạm. Tôi và Phật Thanh theo dòng người đứng xếp hàng chuẩn bị tiến vào khu vực sân khấu. Không ngờ vẫn phải thông qua cửa kiểm tra an toàn, lại càng không ngờ tới là có vé mời mới được vào. Điều kì lạ nhất là: có một nhân viên an ninh đã tặng cho chúng tôi hai tấm vé, khiến chúng tôi vui mừng khôn xiết. Chúng tôi theo màu sắc phân khu vực trên vé mà đứng ở một nơi xa, rất ghen tị với những khách quý được ngồi ở ngay trước sân khấu. Tuy nhiên, trong cõi vô hình đã có Bồ Tát sắp xếp, nơi chúng tôi đang đứng chính là một góc có tầm nhìn rất tốt, chúng tôi cảm thấy thật may mắn. Lúc này, trời đổ mưa phùn nhỏ, mưa rơi trên đầu, trên người tạo nên những đợt lạnh run người, rõ ràng là mưa đang thử lòng kiên nhẫn của những người chờ đợi. Nghe thông báo Tổng Thống Clinton sẽ đến muộn, tôi đưa mắt nhìn đồng hồ, có khả năng phải chờ hơn hai tiếng nữa, mưa thì càng ngày càng to. Tôi đổi ý, không muốn chịu rét cóng ở dưới mưa nữa, muốn lập tức rời khỏi hiện trường. Nhưng ngoảnh đầu nhìn quanh, thấy biết bao nhiêu là những người dân địa phương to cao như ngựa đang vây kín trái phải phía sau tôi, dòng người chật kín đường phố, khiến người ta không thể nào rút khỏi hiện trường được. Tôi bị kẹt cứng một cách tuyệt vọng, chỉ còn cách định tâm lại mà trì chú, quán tưởng mưa đang thanh tịnh thân mình. Tôi nhận thấy rằng, giữa đám đông nhộn nhạo mà có thể tập trung suy nghĩ, trì chú trong mưa cũng có sự thú vị của nó. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi bị kẹt giữa dòng người như vậy. Trong lúc mọi người sốt ruột chờ đợi, cuối cùng thì Tổng thống Clinton cũng đến. Bài diễn thuyết ngắn gọn và tinh yếu của ông đề cập đến vấn đề cắt giảm thuế, phòng chống tội phạm, đề cao giáo dục,... rất nhiều các chính sách mang tính thúc đẩy, giành được sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng, tiếng vỗ tay ầm ầm như sấm. Bài diễn thuyết kết thúc, ông đi xuống sân khấu, bắt tay những khách mời ngồi ở khu vực khách quý. Sau đó, ông đột ngột quay người đi về phía khu vực chẳng hề bắt mắt, thế rồi đứng ngay trước mặt tôi, đưa tay ra bắt tay tôi với Phật Thanh và cười một cái! Phật Thanh cực kì vui, hứng khởi vạn phần, nói: "Có nghĩ cũng chẳng thể nghĩ được rằng Tổng thống lại bắt tay con. Việc không thể cũng có thể biến thành sự thực, đúng là một việc nằm ngoài dự liệu, tiếc quá tiếc quá! Lại chẳng đem theo máy ảnh." Chúng tôi kể chuyện này với Sư Tôn, Sư Tôn đã giải thích mọi thắc mắc: người tu hành chân chính sẽ có Phật Bồ Tát gia trì phóng quang, tự nhiên sẽ có sức mạnh thu hút, người khác nhìn thấy ánh sáng của bạn thì tự khắc sẽ đến gần bạn thôi. Tôi nghĩ: Có thể tập trung tâm ý thì bất kì nơi nào đều có thể tu hành, đều có thể trì chú, dù trong đám đông nhộn nhạo, hay trong mưa cũng vậy.

16. Gặp ở sân bay

Như thường lệ, một năm hai lần, mỗi khi Seattle Lôi Tạng Tự tổ chức pháp hội lớn là mẹ tôi luôn từ nghìn dặm xa xôi vượt đại dương không chịu thua kém ai, mau chóng tới tham gia pháp hội, còn tôi thì lần nào cũng đến sân bay đón, chào mừng bà đến, bản thân tôi cũng cảm thấy hân hoan khi được gặp lại bà. Nhà chờ máy bay đông kín người, tiếng nói chuyện rôm rả, xôn xao đầy ắp cả không gian. Tôi chỉ còn cách đứng một bên im lặng, nhìn những cảnh tượng người đi đón máy bay muôn hình muôn sắc ấy khiến tôi có một chút cảm tưởng. Khi bảng điện tử hiển thị máy bay đã hạ cánh, đột nhiên có người hét lớn "Đã 20 năm tôi không gặp mẹ tôi rồi!" Cũng có em bé nhảy tưng tưng hét lên gọi bố, một số người thì đón người thân bạn bè. Nhưng tôi thì khá đặc biệt, tôi không chỉ đón một người là mẹ tôi mà nhân tiện tôi còn đón cả một đoàn đệ tử Chân Phật Tông hành hương cũng đến nữa. Hành khách lần lượt đi qua cửa hải quan, kéo hành lý đi qua, người đi đón thì mừng rỡ tự động tiến lên trước để đón, tặng cho người thân bạn bè món quà mừng gặp mặt tốt đẹp nhất, bắt tay, bá vai, kính lễ, ôm hôn, cũng có cả những khuôn mặt đau buồn và những cảnh tượng khóc sướt mướt, thật khiến người ta thấy cảnh sinh tình. Nhìn ra xa xa, có một người già một thân một mình dựa nghiêng vào cột nhà đứng đợi máy bay, nhìn ông có bộ dạng rất đáng thương. Ông đi bộ từng bước từng bước qua trước mặt tôi, lúc tôi đang nhìn rõ hơn xem ông là ai thì tôi giật nảy mình! Ông chẳng phải là một nhân vật lừng lẫy huy hoàng từng tham gia vào chính trị tranh cử chức tổng thống Đài Loan sao? Sự cô độc bây giờ so với phong thái khi xưa cách xa nhau nghìn dặm. Khi xưa, nếu ông được bầu chọn làm tổng thống thì hôm nay chẳng còn cảnh tuổi tác đã cao mà vẫn phải một mình lái xe đến sân bay đi đón người thân rồi. Đúng lúc tôi đang trầm ngâm suy nghĩ về danh vị cuộc đời phù du giống như khói mây qua trước mắt, tên tuổi là gì, cái gì làm nên tên tuổi, thì lúc này, mẹ tôi và đoàn người Chân Phật Tông hành hương đã đi tới. Mọi người hết sức mừng rỡ hỏi thăm lẫn nhau, luôn miệng nói A Di Đà Phật, chắp tay cúi lạy để chào hỏi, bầu không khí ở sân bay lúc này bỗng giống như đạo tràng niệm Phật ở Chân Phật Tông vậy, pháp hỉ tràn đầy.

17. Thư giãn thật sự

Đi du lịch, tôi vẫn luôn có thói quen chuẩn bị những thứ như máy ghi hình, máy ảnh, sổ ghi chép, chủ yếu là để tìm kiếm cơ hội bắt lấy những sự việc thú vị xảy ra trên đường đi, hoặc những câu danh ngôn chí lý mà mọi người nhắc đến để xem chúng như những tấm gương tinh tấn để học hỏi. Tôi cảm thấy đi du lịch theo đoàn có đông người, náo nhiệt, rất vui! Mỗi khi đến một nơi nào đó, những chiếc máy ảnh luôn phát ra âm thanh xoạch xoạch, tóm gọn lấy những cảnh đẹp. Cá nhân chụp ảnh, tập thể chụp ảnh, mỗi người đều phô ra những nụ cười ngọt ngào nhất để lưu lại một khoảnh khắc quá khứ, những tấm hình đẹp nhất, sau này xem ảnh, nhớ lại năm xưa, dư vị vẫn còn rõ nét! Xe du lịch đi xuyên qua thành phố và nông thôn, từng trạm từng trạm trên bản đồ thành phố và các địa danh ở nông thôn đều sẽ được ghi vào trong cuốn sổ ghi chép của tôi, cuốn sổ tay này ghi lại những suy nghĩ phong phú về người, việc, địa điểm và sự vật mà tôi đã gặp trong toàn bộ chuyến đi. Tuy nhiên, chuyến du lịch Nhật Bản vào tháng 5 năm nay không giống những chuyến đi trước đây, tôi không mang theo máy quay phim, không mang sổ ghi chép, chỉ có một chiếc máy ảnh cầm tay nhỏ gọn, nhưng cứ vào lúc tôi muốn dùng đến nó thì cái máy ảnh bỗng dưng "dở chứng", không thể dùng được. Tôi đã quyết định thử một chuyến du lịch hoàn toàn không lưu giữ lại hình ảnh gì, ngược lại tôi đã có một sự thư giãn hoàn toàn, một sự hưởng thụ hoàn hảo, có thể nắm trọn vẹn những tâm tình vui vẻ lúc đó, thong dong tiêu dao, tự do tự tại thăm thú phong cảnh tự nhiên, thu hết vào trong mắt, gói gọn lại trong tim, hoàn toàn không vướng bận gì cả. Cho dù sau này không có bất kì tư liệu kỉ niệm nào, cho dù sau này quên sạch những nơi mà mình đã từng du lịch tới, tôi chỉ muốn ngay lúc này tận hưởng sự thư giãn hết mức có thể. Lần sau có đi du lịch lại nơi này thì cũng lại là một sự tận hưởng một lần nữa mà không hề nhàm chán. Tôi cảm thấy việc ghi lại sự vật có thể giúp cho chúng ta nhớ lại, tuy nhiên, kí ức cũng sẽ theo thời gian mà mờ nhạt và tan biến đi. Có thể hoàn toàn gạt qua một bên những sự vật sự việc phức tạp, không còn chút lo lắng nào, thư giãn thật sự, nắm trọn lấy niềm vui ngay tại lúc này mới là ý nghĩa của việc du lịch.

18. Liên tưởng về thực vật thủy sinh

Có thể đến từng rậm Amazon du lịch là một sự việc phát sinh nằm ngoài kế hoạch, bởi vì mục tiêu của chúng tôi là đến thành phố São Paulo hoằng pháp. Trước tấm thịnh tình khó lòng từ chối, chúng tôi đã nhận lời mời cùng đồng môn ở Brazil cùng đi du lịch. Rừng rậm Amazon nằm ở phía bắc của châu Nam Mĩ, diện tích rộng khoảng gấp sáu lần Đài Loan, là khu rừng rậm lớn nhất thế giới. Nghe nói nếu chặt phá khu rừng này sẽ gây ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu. Bởi vậy khu rừng này đã được xếp vào danh sách rừng rậm cần bảo tồn của thế giới, vĩnh viễn không thể chặt phá. Do vậy, khu rừng này vẫn mang những sắc thái của rừng rậm nguyên thủy. Chúng tôi tổng cộng có 50 đồng môn cùng thích núi, thích nước, thích tự nhiên, tràn đầy sức sống tuổi trẻ, hào hứng khởi hành từ sông Negro, thành phố Manaus, lên thuyền đi về phía rừng rậm. Đến bìa rừng, chúng tôi chia thành năm nhóm, đổi sang đi thuyền không có mái che, mười người ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, đi thành hàng theo con đường nước trong rừng sâu. Thuyền đi lại giữa cây rừng. Phóng tầm mắt nhìn ra cảnh vật xung quanh là cả một vùng cảnh quan thiên nhiên rộng lớn. Có một sự lôi cuốn tự nhiên, cái mùi xa xăm kì lạ, nguyên sơ mà thần bí ấy dường như đang kể với chúng tôi về đạo của tự nhiên. Tôi tưởng rằng rừng rậm đều chỉ có đồi núi cao, không ngờ trong rừng rậm cũng có những con đường nước. Cũng lại là lần đầu tiên tôi ngạc nhiên nhìn thấy những cây cổ thụ cao lớn hết cây này tới cây khác sinh trưởng dưới nước. Điều đặc biệt kì lạ nhất là hơn một nửa phần cành cây đều sinh trưởng chìm trong nước. Vì điều này mà tôi đã nảy sinh những suy ngẫm sâu sắc về kì quan của rừng núi! Cây sống nhờ vào nước, nước nhờ cây làm nền mà trở nên đẹp đẽ rực rỡ vạn phần. Cây và nước ở nơi đây tình nghĩa đậm sâu, cùng dựa vào nhau, cùng nâng đỡ nhau. Cây quên hết những sự phấn đấu cam khổ ngày xưa. Nước cũng không nhớ được đã từng chảy qua bao nhiêu những con đường gồ ghề. Nước và cây hòa hợp hạnh phúc. Hưởng thụ những thiền ý của hiện tại. Tôi say đắm trong nó, dường như cuối cùng tôi đã quên đi cảnh giới của chính tôi. Đột nhiên, tôi nghe thấy trên đầu, chim bòng chanh, chim tu-căng, và rất nhiều loài chim mà tôi không biết tên bay tới bay lui kêu ri rích ri rích, tấu lên khúc nhạc miên man lên bổng xuống trầm, lúc ấy tôi mới dừng những suy nghĩ trong đầu mình. Chúng tôi đi du lịch trong rừng Amazon năm ngày, duy có những cảnh quan này là thật sự để lại cho tôi có những ấn tượng sâu sắc không thể nào quên, khiến người ta phải thở dài cảm thán rằng tạo hóa của thiên nhiên thật bất khả tư nghì.

19. Tinh thần của Đức Phật

Cuối cùng, vào tháng 11 năm 1996, tôi đã được đặt chân đến những thánh địa nơi có những dấu tích cuộc đời của Đức Phật mà tôi mong ngóng từ rất lâu trong một chuyến du lịch Ấn Độ. Đích thân đi du lịch một chuyến đến nơi đây giống như trở về thời đại của Đức Phật 2500 năm trước, đắm mình trong ân đức của Phật, những cảm giác trong lòng thật quá vui sướng! Tuy nhiên, điều khiến người ta tiếc nuối nhất là tám thánh địa lớn nơi có những di tích của Đức Phật không ngờ đã bị hư hỏng toàn bộ, hơn nữa còn không nhìn thấy một viên gạch hay một mảnh ngói nào còn lưu lại, không còn lưu lại một vật phẩm nào làm căn cứ lịch sử. Ngay cả sau khi Đức Phật niết bàn 200 năm sau, vua Ashoka vì tôn kính Đức Phật mà đã cho xây dựng vô số tháp xá lợi, đặt ở cả tám đại thánh địa, thì cũng đã hoàn toàn không còn tồn tại, những gì có thể nhìn thấy chỉ là những viên gạch trên nền móng đổ nát của những tháp xá lợi. Cây bồ đề nơi Đức Phật thành đạo từ lâu đã bị sét đánh gãy, cây bồ đề hiện tại là do người đời sau trồng mới lại. Khi Đức Phật đản sinh, nơi mỗi bước chân nở ra hoa sen đang được xây dựng lại. Thượng sư Liên Trí nói: "Năm ngoái tôi đã đến đây, năm nay sao lại thay đổi hoàn toàn thế này?" Nhân viên quản lý nói: "Đây chỉ là địa điểm mang tính tượng trưng, địa điểm thật sự không có ai biết." Nơi Đức Phật từng tắm trên sông Nairanjananadi, ngày nay sông đã cạn khô không nước, lòng sông đã biến thành nơi rửa đá và nơi những người khuân vác tụ tập. Nơi Đức Phật lần đầu chuyển pháp luân, vườn Lộc Dã nơi Phật giảng Tứ Thánh Đế, cũng đã được hậu thế dùng gạch xếp nên một chiếc kim cang tọa hình chữ thập một cách đơn giản và thô sơ, nhằm tượng trưng cho địa điểm kính lễ. Trong khu vườn Cấp Cô Độc xưa kia cúng dường Đức Phật có gắn mấy chữ "Kì Viên Tịnh Xá" bằng vàng, giờ đây, đừng nói là những miếng vàng không còn tồn tại mà toàn bộ khu vườn chỉ còn là một nơi hoang dại. Câu Thi Na là nơi Phật niết bàn, hậu thế đã xây dựng nên một kiến trúc nhỏ, bên trong có thờ một vị Phật nằm độc nhất vô nhị để cho người đời thăm bái. Còn nơi mà Đức Phật khi thuyết pháp thường nhắc đến, sông Hằng thanh tịnh không gì sánh bằng, bây giờ đã thay đổi không còn có thể nhận ra được nữa. ............. Lúc đó, tôi cảm khái! Những di tích di vật của Đức Phật hoàn toàn không được bảo lưu ư? Có lẽ những hạt xá lợi trong viện bảo tàng là những di vật duy nhất còn lại của Đức Phật. Hướng dẫn viên du lịch nói: "Cũng từng có người tranh cãi về việc những xá lợi này là thật hay giả." Những thứ trên đời này, rốt cục cái nào là thật? Cái nào là giả? Cái nào mới đáng để bảo lưu? Đi du lịch một chuyến tới Ấn Độ, tôi đã ngộ ra rằng Đức Phật đừng nên để lại bất kì vật phẩm gì cho hậu thế. Trong cõi vô hình, Đức Phật đã dạy chúng sinh rằng: Mọi vật chất cuối cùng cũng trở về hư không. Thứ mà Đức Phật để lại cho chúng ta là: "Tinh thần của Phật, trí huệ bát nhã vô thượng của Phật."

20. Kì quan giao thông

Ấn Độ là một đất nước vô cùng nghèo nàn, lại rất bẩn và lộn xộn, không theo kịp thời đại, vô cùng lạc hậu. Chỉ nói về phương diện giao thông đã khiến tôi kinh ngạc vạn phần, hết hồn hết vía. Ngoài thủ đô New Delhi ra, đường xá ít có những vạch kẻ phân biệt làn xe trái phải, thường thấy những dòng xe cộ đi ngược chiều nhau lộn xộn như chuột chạy, phía sau xe còn gắn chữ viết rằng: "Hoan nghênh bấm còi xin mời vượt". Đi đến chỗ nào cũng khiến người ta giật mình thon thót vì sợ, vô cùng nguy hiểm! Xe buýt không chỉ chật ních hành khách mà ngay cả trên nóc xe cũng có hơn ba chục người ngồi bên trong phần gờ bảo vệ, trên cửa sổ cũng có người ngồi, cửa xe cũng có người bám vào, xe đi trên đường thì lượn lắc giống như đang biểu diễn kĩ xảo. Các con đường thì phần lớn là nhấp nhô gồ ghề, có những đoạn thì không thể nào di chuyển được, xe lắc lư khiến người ngồi trong xe ngã dúi vào nhau, thỉnh thoảng đập đầu vào cửa sổ xe, rồi đập đầu vào nóc xe, trên đầu mọc mấy cái u. Còn có cả xe người kéo, xe đạp, xe máy, xe lam, xe tải lớn đi đi lại lại cùng đám xe trâu kéo, xe ngựa kéo, xe lạc đà kéo, xe voi kéo, nói đơn giản là sự hòa trộn phương tiện giao thông cổ đại và hiện đại. Trong màn bụi dày đặc, cảnh tượng này nhìn giống như một trận chiến tranh hỗn loạn. Dọc đường, bất kể là ở thành phố hay nông thôn đều có thể trông thấy gia súc hoặc động vật hoang dã chạy đuổi nhau. Sợ nhất là những con gấu đen ăn thịt người to cao khổng lồ xông ra chặn đường. Còn có những con voi to hơn cả xe du lịch, trên lưng chở cây lớn, lừ đừ bước đi trên đường, tôi lo lắng cái vòi to dài của con voi mà quấn lấy cái xe du lịch thì khẳng định là toàn bộ mọi người sẽ "quy tiên"! Giao thông tệ hại như vậy bảo sao người ta không nghi ngờ. Lẽ nào họ thực thi "quyền bình đẳng giữa quyền đi đường của người và động vật" hay sao? Bởi vậy, có thể nói: trên thế giới chỉ có một và duy nhất kì quan giao thông lớn này! Khi ấy, tôi đang nghĩ: "Thì ra những xe trâu, xe voi, xe ngựa, xe dê... được nói đến trong kinh Phật quả nhiên là thật." Mặt khác thì tôi vừa thốt lên kinh ngạc vừa cảm khái: vì sao phương thức giao thông của 2500 năm trước đến bây giờ vẫn còn sử dụng? Tôi cảm thán đất nước Ấn Độ lạc hậu như vậy, liền liên tưởng đến các vị như Đức Phật, Long Thọ Bồ Tát, Đề Bà, Thiên Thân, Vô Trước... đều sinh ra ở Ấn Độ, thế mà vẫn tu hành đạt đến thành tựu vĩ đại! Sư Tôn nói: "Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại là tìm kiếm cái bên trong, không tìm cầu cái bên ngoài. Trong hoàn cảnh khó khăn lại càng khơi dậy sự tìm hiểu của con người đối với hư không và cuộc đời, hơn nữa còn khá sâu sắc. Lý do hành giả Ấn Độ hiểu được về an bần lạc đạo là nhờ vậy."

21. Đồ ăn ở Ấn Độ

Trong ba tuần du lịch Ấn Độ, tôi đã trải nghiệm được sâu sắc: trên đời có rất nhiều sự việc, nếu không đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, thâm nhập để hiểu và thông cảm thì rất khó dùng ngôn ngữ để mô tả những tình tiết sâu sắc trong đó, và cũng rất khó dùng văn tự để mô tả rõ ràng tường tận trôi chảy những trạng thái tình cảm lúc đó. Thời gian ở Ấn Độ, vì ngày ba bữa cơm, chúng tôi đã trải qua những hoàn cảnh khốn khó, dường như mỗi người đều mắc chứng "khủng hoảng đồ ăn". Nói đến đồ ăn ở Ấn Độ, dạ dày tôi lập tức có phản ứng buồn nôn. Đến giờ nhớ lại, tôi vẫn còn cảm giác sợ hãi. Không ngờ dạ dày cũng có sự phản ứng ác liệt như vậy đối với đồ ăn. Kì thực, chẳng phải là chúng tôi kén chọn đồ ăn, chủ yếu là vì vấn đề vệ sinh thực phẩm quá tệ. Rất nhiều người sau khi ăn đã bị tiêu chảy, cứ ăn là bị đau bụng, chỉ còn cách ăn lương khô mà chúng tôi tự mang theo, ăn tạm mấy cái bánh quy và mấy thanh chocolate để chống đói, cũng phải bỏ ăn nhiều bữa. Sau khi thu thập ý kiến nhằm giải quyết hoàn cảnh khốn khó đem lại lợi ích cho mọi người, chúng tôi đã rút ra một cách hay: "Ăn chuối và uống nước đóng chai làm thức ăn chính là an toàn nhất." Ở nơi đó, dùng một đồng đô-la Mỹ có thể mua được hơn trăm quả chuối. Ba lô của mỗi người đều đựng đầy chuối, khi đói bụng thì ăn dăm ba quả, có khi ăn cả bảy quả, v.v... rồi uống thêm nước cũng có thể cảm thấy no bụng. Bữa bữa ăn chuối, ngày ngày ăn chuối, những ngày ăn chuối liên miên thật khó quên! Đi cùng tôi có mười bảy Thượng sư và pháp sư, không ai là không thán phục công lực ăn uống ngon lành và an toàn của Sư Tôn. Bất kể là ăn cá tanh ươn, hoặc ăn mì xào có mùi gián, thậm chí là cơm trắng có lẫn mấy hạt cứt chuột nhỏ nhỏ đen đen, Sư Tôn vẫn có thể ăn sạch sẽ. Mọi người chậc lưỡi trầm trồ hỏi: "Sư Tôn dùng kinh chú gì để thanh tịnh đồ ăn, có thể ăn mà vẫn bình yên vô sự vậy?" Thế là, tôi nhớ đến Sư Tôn đã từng khai thị rằng: hành giả gặp lửa, có thể hòa tan vào lửa, gặp nước hòa tan vào nước, gặp nóng hòa tan vào nóng, gặp lạnh hòa tan vào lạnh, gặp gió hòa tan vào gió. Thế nên cuối cùng tôi đã hiểu được, Sư Tôn ở Ấn Độ đã hòa tan vào đồ ăn của Ấn Độ.

22. Bò ở Ấn Độ

Ai bảo làm bò chẳng sướng Bò có thể bình yên sống qua ngày Không bị người giết mổ Không bị người đánh roi Không bị người hắt hủi Muốn sống bao lâu thì sống. Ai nói làm bò chẳng sướng Bò có thể lăn lê nằm ngang nằm dọc Bất kể là ở thành phố hay nông thôn Bất kể là đèn xanh hay đèn đỏ Bất kể là giữa trung tâm giao lộ Đâm ngang xiên dọc ta cứ đi Chẳng khác gì Quốc Vương Sở Bá. Ai bảo làm bò chẳng sướng Bò có thể ăn uống chơi đùa thích gì làm nấy Dàn thành từng hàng nghênh ngang trên đường Con người cung kính cho ăn Hứng chí lên thì lăn vào đồng ruộng. Ai bảo làm bò chẳng sướng Cao cao vênh vênh Người người kính lạy Đi giày da bò bị xem là báng bổ Thánh Bò của Ấn Độ là đây.

23. Nhân duyên khác biệt

Đầu năm nay, chúng tôi đi du lịch đến thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam. Chúng tôi đã đến thăm rất nhiều chùa, lễ bái chư Phật Bồ Tát, phát hiện ra ít có những tượng điêu khắc Phật Bồ Tát trang nghiêm. Khung cảnh các ngôi chùa đa phần là u ám, đơn giản và chật hẹp, xem ra đã nhiều năm không tu sửa, nhưng đồng thời khiến người ta cảm thấy sự cổ kính và ảm đạm của chúng. Chúng tôi lái xe đi thăm quan khắp nơi, đi khắp các đường phố lớn nhỏ, thậm chí đến cả chợ thực phẩm, khắp hang cùng ngõ hẻm đều đầy các mẹt hàng rong bày bán trên mặt đường, ảnh hưởng đến mĩ quan của thành phố, trông rất nhếch nhác. Những tiếng ồn ào từ các mẹt bán hàng trên đường phố trở thành nét đặc trưng của địa phương. Đệ tử Việt Nam nói: "Việt Nam không có trung tâm thương mại, đều là các hàng quán nhỏ." Điều này cũng thật khiến người ta ngạc nhiên! Dân số Việt Nam đông đúc, bất kì thời gian nào trong ngày người cũng đông như núi như biển, ít xe ô tô, nhiều xe máy, gây tắc nghẽn toàn bộ các con đường trong thành phố, đến mức mà không khí đầy khói bụi đen, che mờ cả thành phố, giống như là chụp ảnh có thêm ống kính bị cháy vậy, không khí ám khói không sạch, mờ mờ mịt mịt. Chúng tôi cũng nếm thử những hương vị độc đáo của địa phương từ các hàng quán bên đường. Tiếng còi xe máy vang lên từng hồi liên tiếp, còn ngay trước mắt, lớp khói bụi hòa lẫn với hơi nóng tỏa ra từ bát canh trên mặt bàn, khiến trong lòng tôi dâng lên rất nhiều cảm xúc! Cùng là con người, sống trên những đất nước khác nhau thì cũng mang những số phận khác nhau. Người dân Việt Nam đa phần là nghèo, chiến tranh Việt Nam đầy đau khổ. Ôi! Đây đều là nhân duyên cả! Kì thực, không chỉ người sinh sống ở các quốc gia khác nhau thì sẽ có vận mệnh khác nhau. Tôi cảm thấy điều có liên quan là: những con chim bồ câu ở Việt Nam không ngờ lại chỉ toàn da bọc xương, không có thịt. Ông chủ nhà hàng nói: "Chim bồ câu ở Việt Nam đều gầy, ăn hương vị của da là đã thỏa mãn rồi!" Những con chim bay tự do sinh sống trên bầu trời cũng có sự khác nhau tùy theo quốc gia. Đặc biệt là: những con chim bồ câu sống trên bầu trời Việt Nam cũng phải chịu sự gầy gò, nghèo đói, động vật cũng có số phận khác nhau! Mỗi chúng sinh đều có nhân duyên, sống ở đất nước nào thì cũng đều có số phận đã định rồi.

24. Nói về nghệ thuật cao xa

Sư Tôn khi viết sách đã từng viết về vấn đề "Nghệ thuật là gì?" Đẹp chính là nghệ thuật, xấu cũng là nghệ thuật, thoải mái cũng là nghệ thuật, ác tâm cũng là nghệ thuật. Sư Tôn cũng từng khai thị rằng: lúc còn nhỏ, thư pháp của Sư Tôn luôn được điểm dưới C, thư pháp của Sư Tôn bây giờ so với lúc còn nhỏ cũng chẳng hơn gì, xem ra cũng vẫn như thế, nếu so sánh với thư pháp truyền thống thì không biết là thuộc về dạng thư pháp của môn phái nào. Tuy nhiên, qua quá trình phân tích tỉ mỉ và luyện tập chăm chỉ, thư pháp của Sư Tôn đã có tiếng nói riêng độc đáo, thẩm mĩ nghệ thuật độc đáo, từng trang tác phẩm đều luôn có nét đặc biệt. Tôi nói: "Thư họa của Sư Tôn là một dạng siêu việt, chúng không bị trói buộc bởi hình thức, không bị hạn chế vào dạng thức truyền thống, nhưng chúng vẫn tiềm tàng vẻ đẹp truyền thống, một giọt mực thơm lan tỏa hương thơm mạnh mẽ." Khi tôi thưởng thức những tác phẩm của Sư Tôn, tôi phát hiện ra đa số là chúng là thư pháp "ý bút", ít có thư pháp "công bút". [ ND: ý bút là khi tác phẩm được thể hiện một cách phóng khoáng, các nét thể hiện không cần sắc nét tỉ mỉ. Công bút là dùng các kỹ pháp căn bản để thể hiện chữ hoặc tranh, ngọn bút thể hiện tác phẩm một cách sắc nét, rõ ràng theo chủ ý của tác giả.] Thậm chí chỉ đơn giản là phẩy mấy nét bút là đã xong một bức tác phẩm, dường như đã có thần có lực. Từ đây có thể thấy Sư Tôn vốn có tài năng bẩm sinh, phong cách tự nhiên không gò bó. Tôi thỉnh thị Sư Tôn: "Làm sao để vẽ được một bức tranh đẹp có nghệ thuật sâu sắc?" Sư Tôn đáp rằng: "Tôi quán tưởng bố cục những ý tưởng của mình trong thế giới nội tâm tương đối lâu đó! Trong cái lộn xộn cũng có trật tự, cũng là nghệ thuật. Những bố cục gọn gàng trang nghiêm cũng có nghệ thuật ngoạn mục. Nghệ thuật là vạn tượng, là vạn tượng thì cũng không thể nào phân tách ra được, bất kể là trên phương diện hình thể vật lý hay phương diện tinh thần thì đều là nghệ thuật." Nhờ vậy tôi đã hiểu được, hóa ra nghệ thuật cũng rất đa dạng, rất khó cầm nắm. Hóa ra, nghệ thuật là một kiểu cảm nhận. Tôi từng tham quan triển lãm tranh ở phòng mỹ thuật thành phố Đài Trung, Đài Loan, có rất nhiều tác phẩm của các họa sĩ bày ra lung linh trước mắt. Tôi từ tốn chiêm ngưỡng nghệ thuật của mỗi bức họa. Tôi có thể hiểu được những bức tranh có hình ảnh, có chi tiết và dễ hiểu. Khó hiểu nhất là thể loại tranh vảy màu, và tranh không có hình tượng cụ thể, một mảng đen đen, vượt quá cả tranh ý bút, đứng trước những bức tranh ấy, nghĩ ngợi rất lâu để đoán và tưởng tượng ý cảnh của chúng, nhưng tôi vẫn chẳng nhìn ra được ý gì cả. Sau đó, phải nhờ có sự giải thích thông qua cái nhìn nghệ thuật của Sư Tôn, tôi mới hiểu cách thưởng thức nghệ thuật của tranh. Tôi còn hiểu được rằng có đôi khi, nghệ thuật hiện lên rất rõ ràng, có thể nhìn ra được, có đôi khi ẩn đi nhìn không ra, chỉ có thể dùng tâm để cảm nhận sâu bằng trực giác. Tranh của Sư Tôn là nghệ thuật trong nghệ thuật. Cảm thấy nó giống cái gì thì giống cái đó. Tôi xem tranh của Sư Tôn có cảm tưởng là: Quý phái cao xa. Thuyền nhỏ lênh đênh. Vừa thấy ý tình. Tự nhiên tự nhiên.

25. Tự nhiên là đẹp

Dường như chớp mắt một cái, Sư Tôn đã lại hoàn thành tập tranh thứ năm rồi, đặt tên là "Tâm an nhàn". Thử tính xem, từ tập tranh thứ nhất đến tập tranh thứ năm, cộng thêm những bức không được đưa vào tập tranh, và những bức tranh được những người yêu thích thỉnh đi, tổng cộng lại là khoảng hơn 800 bức. Trong thời gian hai năm ngắn ngủi mà sáng tác được nhiều tác phẩm như vậy, có thể gọi Sư Tôn là "họa sĩ năng suất". Từ đó có thể thấy, Sư Tôn vẽ tranh cũng giống như viết sách, mỗi ngày đều cầm bút không ngừng nghỉ. Những họa sĩ bình thường ngày ngày vẽ tranh, nhưng không nhất định mỗi ngày sẽ vẽ xong một tác phẩm. Chúng ta biết nhiều họa sĩ từng nói rằng: trong quá trình tôi luyện, muốn vẽ được một bức tranh mà trong lòng cảm thấy hoàn toàn hài lòng thì thường phải vẽ trên 500 bức hoặc 1000 bức thì mới có thể chọn ra được một bức trong số đó, số còn lại chỉ là rác rưởi đáng vứt đi. Thế rồi lại đặt bức tranh kiệt tác này lên mặt bàn, nghĩ ngợi rất lâu xem cần viết lời đề cho tranh thế nào, đôi khi phải mất tới mấy ngày, rồi lại phải tham khảo thêm dạng mẫu của cổ nhân rồi mới có thể viết lời đề và đóng dấu. Bởi vậy, hiếm có họa sĩ nào có thể đặt bút đề thơ ngay tại chỗ. Tôi làm phụ tá vẽ tranh cho Sư Tôn, giúp Ngài cắt giấy, mài mực, rửa bút lông. Mực và đá mực là hiểu rõ nhất tài vẽ tranh xuất chúng của Sư Tôn. Chỉ cần nhấc bút lên là Sư Tôn có thể phác nên những nét vẽ rất tự nhiên thoải mái để thể hiện những ý tưởng trong đầu mình trên bức tranh, hơn nữa không chút do dự, Sư Tôn có thể lập tức đề mấy câu thơ trong đầu mình. Bức tranh đẹp đẽ kết hợp với những lời thơ cảm động lòng người cực kì sống động, không thể không khiến người ta đập bàn khen "Tuyệt!". Có lúc, thỉnh thoảng ở Biệt Thự Cầu Vồng, hoặc ở Chân Phật Mật Uyển, hoặc khi đi hoằng pháp ở bên ngoài, Sư Tôn thường đồng ý lời thỉnh cầu của mọi người mà lập tức cầm bút vẽ tranh ngay trong bữa tiệc cả nghìn người. Mọi người chăm chú quan sát không rời mắt, không ai là không chậc lưỡi thán phục cây bút có thần! Tôi còn nhớ có lần triển lãm nghệ thuật, tôi đứng trước một bức tranh treo trên tường, tỉ mỉ quan sát một tác phẩm đẹp long lanh, tôi phát hiện ra có một vài căn nhà bị vẽ hơi nghiêng nghiêng. Chẳng phải nhà là phải đứng thẳng sao? Điều này khiến tôi dừng chân trước bức tranh nghĩ ngợi rất lâu. Sau đó, tôi hiểu được ý nghĩa nghệ thuật của những ngôi nhà nghiêng. Thì ra những ngôi nhà cổ xiêu vẹo cũng không ảnh hưởng đến vẻ đẹp của chúng, chúng cũng đẹp như những ngôi nhà mới vậy. Đối diện với một ngôi nhà mới với bốn bức tường trắng tinh không tì vết, hầu hết mọi người đều cảm thấy vẻ đẹp của nó. Tuy nhiên, trải qua sự bào mòn của thời gian, sự hủy hoại bởi gió thổi mưa quật, ngôi nhà đã bị nghiêng, lớp sơn bong ra, lớp vôi sẽ bửa ra, lộ ra những viên gạch đỏ liên tiếp, rồi sẽ mọc rêu, thế là bức tường sẽ có nhiều màu sắc, cảm giác hiện thực phong phú, và thường thì nó sẽ biến thành một bức tranh đẹp lạ. Những tư liệu bố cục của Sư Tôn đa dạng hóa, mọi lúc mọi nơi đều có thể tóm được ý cảnh đẹp đẽ, bất kì sự vật nào dưới con mắt nhìn của Sư Tôn cũng đều đẹp cả! Tôi cảm thấy quan điểm thẩm mĩ có thể có nhiều góc độ khác nhau. Mỹ nữ không nhất định cần phải vẽ xinh đẹp như tiên nữ mới được coi là đẹp - con người có cả trăm vẻ đẹp. Cây không nhất định cần phải vẽ um tùm xum xuê, chúng có quá trình sinh trưởng tự nhiên. Hoa không nhất định cần phải vẽ là hoa đỏ lá xanh, bởi xuân hạ thu đông, hoa nở hoa tàn. Tôi cho rằng, vẽ ra được cái chất nghệ thuật thực sự của sự vật chính là cái đẹp tự nhiên!

26. Thiền cảnh của bức tranh thị nữ

Tập tranh "Minh nguyệt tố tâm" mà Sư Tôn vẽ có đôi chút khác với những tập tranh trước đây, bởi vì tập tranh này có rất nhiều những bức tranh vẽ thị nữ mà trong những tập tranh trước không có. Tôi thưởng thức tỉ mỉ những bức vẽ thị nữ này, mỗi nàng mỗi vẻ chẳng ai giống ai, tư thế duyên dáng, không thể không khiến người ta đập bàn khen "Tuyệt!". Họa sĩ thông thường có quan điểm giống nhau, cho rằng vẽ cây, hoa, cảnh vật thì tương đối dễ, bởi vì chúng ở trạng thái tĩnh, còn vẽ động vật có trạng thái động như chim, gà, vịt, trâu, ngựa, v.v... thì khó hơn, đặc biệt vẽ người là khó nhất, ngọn bút bất cẩn một chút là sai một li đi một dặm. Muốn vẽ được cái thần của con người thì không có công phu thâm hậu không thể vẽ được. Thông thường học vẽ người phải luyện tập vẽ từng bộ phận của con người trước, vẽ cả trăm lần, nghìn lần lông mày, đôi mắt, cái miệng, cái mũi, cái tai, luyện vẽ liên tục thì mới có thể hạ bút thành tranh. Tôi còn nhớ khi xưa tôi học vẽ, họa sĩ Chu Mộc Lan hướng dẫn rằng: khi vẽ trang phục của người nhất định cần phải tưởng tượng bên trong trang phục đó có da thịt, có hình thể, như vậy mới có thể thể hiện được bức tranh vẽ người tạo cảm giác nổi 3D. Tôi đã lướt xem qua rất nhiều bức tranh thị nữ, phát hiện ra phần lớn mỹ nữ được vẽ theo cách tả thực. Mỹ nữ được vẽ cực đẹp cực xinh, xinh như tiên trời, bất kì ai nhìn đều phải khen ngợi vẻ đẹp tuyệt thế đó. Tuy nhiên, tôi cảm thấy những bức tranh mỹ nữ này phải chăng khiến người ta cảm thấy một cảm giác xa xăm. Sư Tôn vẽ mỹ nữ hoàn toàn khác. Ngài phá bỏ những khung luật cũ kĩ, phong cách vẽ có tính sáng tạo, không quan tâm đến mỹ nữ béo hay gầy, không quan tâm mỹ nữ xinh hay xấu, hoàn toàn dựa trên sự tương đồng giữa tâm trí và bàn tay của chính mình để tóm lấy những nét đẹp nghệ thuật của nhân vật để biểu đạt cái mỹ cảm của ý, nhờ cái đẹp của ý cảnh mà chiếm được cảm tình của người xem tranh. Ví dụ, có một bức thể hiện tâm trạng trầm tư, bước chân ngập ngừng, bối cảnh sau lưng xa dần, đột nhiên ánh mắt lóe lên, cái ý cảnh quay đầu lại đẹp và kì diệu vô cùng. Ngoài ra còn có bức mỹ nữ chơi đàn, mắt nhắm lim dim, bên cạnh là một que hương đang cháy, từng vòng khói cuộn bay lên, quyến luyến trong sự thiền định của thanh nhạc, cái ý cảnh này khiến người ta mong ngóng khát khao. Mặc dù ai ai cũng thích đẹp, cái đẹp có cảm giác lôi cuốn, đẹp là một dạng nghệ thuật, tuy nhiên nghệ thuật hoàn toàn không có thứ gọi là cái đẹp điển hình. Tôi cho rằng chúng sinh có trăm nghìn sắc thái, không có sự kì lạ nào là không có, có thể vẽ ra được ý cảnh của nhân vật mới là nghệ thuật trong nghệ thuật. Ý cảnh đẹp sẽ còn lưu lại trong tâm trí người ta mãi mãi.

27. Lựa chọn tranh

Gần đây, có rất nhiều những người yêu thích nghệ thuật, thích sưu tập tranh và sách tranh đã liên tục gửi thư đến hỏi: "Đã lâu không thấy tập tranh mới của Sư Tôn, không biết khi nào sẽ xuất bản?" Chính vì nhân duyên này mà Sư Tôn lấy ra một chồng tranh lớn, yêu cầu mấy Thượng sư chúng tôi cùng chọn ra 40 bức tranh đẹp nhất để chuẩn bị xuất bản tập tranh. Chúng tôi được dịp vây quanh chồng tranh lớn thưởng thức một phen, thật là sướng hết cả mắt. Chúng tôi say sưa trong những ý cảnh của các bức tranh. Màu sắc của những bức tranh đó, có bức thì hiện lên vẻ đẹp cổ điển, thanh tịnh cao quý, đẹp đẽ tỉ mỉ, có một số bức thì mang vẻ đẹp hiện đại, sinh động sôi nổi. Chúng tôi ca ngợi về chủ đề bố cục, Sư Tôn đã cô đọng những cảnh vật thiên nhiên vào trong những bức tranh, khá giàu tính nghệ thuật, đem lại cho người ta những giá trị quan. Điều khiến người ta đập bàn khen "Tuyệt!" là những câu thơ và từ trên mỗi bức tranh đặc biệt xuất chúng. Thơ và từ đều sáng tạo, đặt bút thành văn, khiến người ta say mê, đọc chúng, ngâm nga chúng, đọc lên thành tiếng, ý vị lại càng nồng đượm. Tôi ngưỡng mộ nhất là những chữ thư pháp đề tranh của Sư Tôn, tuôn chảy tự nhiên mà tự thành phong cách riêng, không bị giới hạn vào thư pháp cổ điển, không bắt chước theo kiểu chữ đãi thư, thảo thư, giai thư, hành thư. Hay thậm chí kiểu chữ nét kim mảnh hoặc các kiểu chữ khác, không cố tình tạo kiểu hay uốn éo, các nét bút rất phóng khoáng nhưng quyết đoán, thế bút như bay như lượn, tự nhiên như không. Nhờ sự lựa chọn tỉ mỉ cẩn thận của mấy Thượng sư, cuối cùng chúng tôi đã chọn ra được 40 bức tranh đẹp nhất. Nhưng kết quả là, đến lần đánh giá thẩm mỹ thứ hai của các Thượng sư, chúng tôi nhận thấy 40 bức tranh đó chưa phải là những bức đẹp nhất, thế là chúng tôi lại lựa chọn lại từ đầu. Cuối cùng, có hai Thượng sư khác am hiểu về tranh nhất đến, cũng góp lời bình luận. Trái với kì vọng của chúng tôi, họ dựa vào kinh nghiệm đánh giá tranh mà đánh giá công bằng, nhưng tôi không nghĩ bức tranh được chọn lần thứ hai là kiệt tác. Đúng là mỗi người có quan điểm khác nhau. Chúng tôi đem 40 bức tranh này trình lên Sư Tôn. Sư Tôn xem xong những bức tranh đó cũng ngẩn người ra một lúc, nét mặt lộ vẻ không ưng lắm. Sau đó Sư Tôn lấy ra mấy bức tranh, rồi thêm vào những bức tranh mà Sư Tôn tự mình chọn. "Xin hỏi Sư Tôn, tập tranh đó sẽ đặt tên là gì?" "Sẽ đặt tên là Cũng là bụi trần." "Vì sao nhất định phải đặt tên là Bụi trần?" "Đó là vì tôi vẽ tranh tùy ý, nghĩ gì thì vẽ đó." "Ồ! Tôi hiểu rồi, bụi trần tức là tự nhiên." Thế giới hội họa là vô cùng tận, ý cảnh của hội họa là bất khả tư nghì, quan điểm thẩm mỹ của mỗi người cũng khác nhau, những bình luận cũng chẳng bao giờ giống nhau, chỉ có những bức mà mình thích thì mình mới cho là đẹp. Tranh và thư pháp là nghệ thuật, nghệ thuật có thể tu tâm dưỡng tính, rèn dũa năng lực, tô điểm cuộc sống.

28. Bản quyền của Phật pháp

Tôi đọc báo thấy một mẩu tin, tiêu đề là: "Bị kiện vì chưa được trao bản quyền dịch và in ấn sách Phật, trụ trì thiền viện Tu Nguyên bị phạt tù một năm". Mẩu tin tức này thật sự khiến người ta kinh ngạc! Trong suy nghĩ của tôi, in sách Phật mà bị kiện ra tòa là chuyện mà lần đầu tiên tôi nghe thấy. Tôi chưa từng nghe nói đến thiền viện Tu Nguyên, tôi cũng không biết vị trụ trì của thiền viện, nên cũng không để ý đến chuyện này. Trong quá khứ, giới Phật giáo khắp nơi cổ vũ thiện tín đại đức xuất tiền để in ấn rộng rãi sách Phật, gieo trồng công đức, hơn nữa trong sách Phật còn ghi rõ "Hoan nghênh biên dịch và in ấn, lan truyền rộng rãi", việc xây dựng công đức này có thể gặp ở khắp nơi. Còn giờ đây, không ngờ người tố cáo kia nói rằng: không thể tùy ý tặng người khác, làm như vậy tức là có tội mạo phạm tới Phật, hành vi sỉ nhục Phật. Không những thế, kiểm sát viên lại còn tin theo lời tố cáo này, đem quy vào tội vi phạm bản quyền tác giả để kiện và phạt. Kì thực, Phật pháp vốn cần được lan truyền rộng rãi, bố thí pháp là một trong ba loại bố thí được nói đến trong Phật pháp, tức là mình biết gì về Phật pháp thì đều có thể thí tặng cho chúng sinh. Bởi vậy có thể khẳng định rằng những tác giả đã viết sách xuất bản cũng muốn truyền bá rộng rãi Phật pháp. Vì sao lại không thể tặng cho người khác? Điểm mấu chốt trong việc này vốn là vấn đề lợi ích bản quyền. Lẽ nào việc bán bản quyền hoặc dịch và in sách là việc tranh giành lợi ích sao? Phật pháp có thể tặng cho người khác hay không, là một chuyện hoàn toàn khác. Tôi nghĩ rằng Phật pháp là do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền lại, không có Đức Phật truyền pháp thì không có Phật pháp. Nếu bàn về bản quyền thì chỉ có duy nhất Đức Phật có quyền bàn. Nếu đã kiện tụng thì chỉ có duy nhất Đức Phật thắng kiện. (Bài viết này là quan điểm của người viết, hoàn toàn không thích hợp với quy định pháp luật về quyền tác giả.)

29. Triết lý về học Phật

Học Phật tu hành là việc có giá trị nhất trong đời người, cũng là mục đích đúng đắn nhất của đời người. Đặc biệt là khi phẩm vị của bạn đến được với pháp vị, khi tâm hiện quang minh, đối với mọi sự việc của thế gian có thể có được cái nhìn tổng quát, luôn vui vẻ với mọi sự, cuộc sống trở nên phong phú hơn thì bạn càng có được cuộc sống hoàn thiện và giàu ý nghĩa. Có rất nhiều người không nghĩ như vậy. Họ cho rằng việc tu hành là việc của người xuất gia, không phải là việc của người tại gia. Thậm chí họ còn coi những hành vi tu hành thần thánh vượt ra ngoài thế gian là sự giết thời gian do người già nghỉ hưu không có việc gì để làm, họ bỏ qua khía cạnh thanh tịnh trang nghiêm của Phật pháp. Chúng sinh thế tục đâm đầu vào trong những đám lợi ích, đào tới đào lui, hỗn loạn và mất phương hướng, trải qua bao nhiêu gian khổ, và cuối cùng thì mọi nỗ lực đều bay theo gió. Đương nhiên cũng có những người có được phúc báo tốt, có được cả danh cả lợi, gia tài đồ sộ, hưởng thụ vinh hoa phú quý, nhờ vào sự giàu có và thế lực, sự nổi tiếng mà có thể hô gió gọi mưa, thật sự đúng là có tiền cũng có thể sai quỷ đuổi ma. Cho dù là đại gia thì cũng có thể làm gì? Có tiền, nhưng chưa chắc về phương diện tinh thần và tâm linh đã được vui vẻ, giải thoát khỏi phiền não, vẫn chẳng tránh được những cái khổ do sinh, lão, bệnh, tử gây nên trên cơ thể vật lý, chết rồi thì chung quy cũng hóa thành cát bụi, cuối cùng cũng vẫn chẳng đem theo được bất kì vật gì của nhân gian! Nếu có thể đời sống hóa Phật pháp, hơn nữa, mỗi ngày dành một chút thời gian ngồi trước đàn thành, đối diện với chư Phật Bồ Tát trang nghiêm để mà trầm tư, quán tưởng, thiền định, cảm nhận về thế giới thanh tịnh, đắm mình trong biển pháp trí huệ, nội tâm sẽ từ từ hướng về sự an bình tĩnh lặng, gặp chuyện gì cũng có thể vui vẻ chấp nhận, bình tĩnh như chẳng có chuyện gì xảy ra, tâm tĩnh lặng như nước đứng yên. Đến được cảnh giới này rồi thì thì sẽ thực sự ngộ ra được cái gì gọi là ý nghĩa thực sự của đời người.

30. Chuyển tâm

Vào thời Đức Phật, có một tích truyện tương đối nổi tiếng, cho đến nay hành giả vẫn thường lấy tích truyện này để xem như sự cảnh tỉnh và cổ vũ để khiến bản thân tràn đầy hy vọng vào việc tu hành của bản thân. Hồi đó, tăng đoàn của Đức Phật có một tì kheo tên là Chu Lợi Bàn Đặc [ND: Cūlapanthaka], sinh ra đã ngu đần, khả năng ghi nhớ rất kém, không thể đọc thuộc được bất kì bài kệ nào, nên ông cực kì buồn phiền, bởi vậy đã chạy đến trước mặt Đức Phật mà lớn tiếng khóc. Rất nhiều người cười nhạo sự ngu đần của ông. Phật Đà biết ông là người thật thà, do vậy rất đồng cảm với ông, chỉ có cách sai ông làm công việc quét dọn đơn giản, còn dặn ông vừa quét dọn vừa niệm đúng một câu là "Quét sạch bụi bẩn". Chu Lợi Bàn Đặc y theo lời dạy của Phật Đà, chăm chỉ làm việc, nhất tâm trì tụng, cuối cùng đã ghi nhớ kĩ câu kệ "Quét sạch bụi trần". Lâu ngày, công phu của ông tiến bộ, ông dần dần hiểu được ý nghĩa của câu kệ này, ông nghĩ: "Dục vọng của con người chính là bụi trần, từ dục vọng mà sinh ra đủ mọi nguyên nhân khổ não tai họa, người khôn ngoan cần phải loại bỏ dục vọng thì mới có thể thoát được sinh tử, tâm mới có thể thanh tịnh, giải thoát và tự do, minh tâm kiến tính." Dần dần, Chu Lợi Bàn Đặc đã từ bỏ được ba loại tâm độc, khiến ông tiến vào trí huệ bình đẳng, tâm ông rộng mở và cuối cùng đã rũ sạch được bụi bẩn trong tâm. Tích truyện này khiến tôi nghĩ đến sự khác biệt rằng có người trì niệm kinh chú một nghìn biến thì đã có được cảm ứng lớn, thế nhưng có người cũng niệm một nghìn biến cũng chẳng có được cảm ứng gì cả, thì ra sự khác biệt chính là nằm ở chỗ "chuyển tâm". Khi niệm kinh chú, cần phải hiểu ý nghĩa của kinh văn, hơn nữa cần duy trì việc thực tu, cho đến khi chuyển tâm, thì nhất định sẽ có được cảm ứng. Tu pháp cũng giống như vậy, tu đến khi chuyển tâm, khế hợp với tâm của Phật Bồ Tát, thì chắc chắn sẽ thành tựu. Chuyển tâm là điểm trọng yếu của tu hành.

31. Thay đổi suy nghĩ thiện ác

Có một đồng môn làm việc trong phòng thí nghiệm của bệnh viện. Do yêu cầu của thí nghiệm thực tế nên thường xuyên phải dùng động vật để thí nghiệm phân tích, thông qua đó thu được kiến thức về y học và thuốc, đem lại đóng góp cho nhân loại. Vì những thí nghiệm này mà thường xuyên phải làm chết những động vật vô tội. Anh kể rằng, vì muốn tránh bản thân mắc phải nghiệp sát sinh nên anh thường để người khác thực hiện, anh chỉ tham gia vào phân tích nghiên cứu. Anh còn nói, mặc dù không phải là tự mình sát sinh, nhưng chứng kiến những tiếng kêu thảm thiết của động vật khi bị giết, chẳng phải là cũng không khác gì phạm vào nghiệp sát sinh "không nghe thấy giết, không nhìn thấy giết, tự mình giết" rồi sao. Vì công việc sát sinh để làm thí nghiệm này mà trong lòng người đồng môn ấy thường cảm thấy bất an, mang cảm giác tội lỗi lớn, trong đầu thường xuất hiện những suy nghĩ sợ hãi về việc sát sinh. Ngày nghĩ sao thì đêm mơ vậy, buổi đêm anh mơ thấy động vật máu me nằm đầy kín cả một quảng trường mà hốt hoảng tỉnh giấc! Tôi bảo anh: anh đừng nghĩ nhiều đến chuyện nghiệp sát sinh của mình rất nặng nữa, tuyệt đối đừng nghĩ bản thân mình là kẻ sát sinh điên cuồng, sẽ vì suy nghĩ này mà gây ra tội. Ngược lại, chỉ cần anh hiểu cách thay đổi suy nghĩ, nghĩ rằng: có rất nhiều người bị bệnh đang đau đớn rên rỉ, đang đợi thí nghiệm của anh thành công để đến cứu giúp họ, công việc của anh chính là vì phúc lợi cho mọi người, là một công việc thần thánh, là công việc cứu người. Học cách vượt lên trên những suy nghĩ thông thường. Trong lúc anh phân tích động vật cũng tập trung suy nghĩ làm siêu độ cho bọn chúng, trì chú, quán tưởng Phật Bồ Tát phóng quang tiếp dẫn chúng vãng sinh. Học cách chuyển đổi những suy nghĩ xấu thành suy nghĩ tốt, dùng những suy nghĩ thiện lành mà nhìn việc thế gian, làm tất cả mọi việc tốt, việc thế gian đều sẽ trở thành tốt đẹp. Tu hành tam mật thanh tịnh cũng nằm ở việc thay đổi suy nghĩ, là dùng thân, khẩu, ý vốn không thanh tịnh, nhờ phương pháp tu hành là chuyển hóa ý nghĩ mà tu đạt đến sự thanh tịnh. Hiểu được cách thay đổi suy nghĩ thì một suy nghĩ thanh tịnh, tất cả đều thanh tịnh. Sư Tôn từng khai thị rằng: "Tu hành là nhằm hiển lộ ra mặt sáng của con người, không phải là tiêu diệt mặt sáng đó." Điểm này rất quan trọng.

32. Người bám chấp vào thân thể

Còn nhớ hơn 10 năm trước, có một vị là bác sĩ Âu, trong lúc ngồi nói chuyện đã nhắc đến phương pháp làm đông lạnh cơ thể người để chết rồi lại hồi sinh. Ông ấy có thái độ rất lạc quan, tin rằng một ngày nào đó niềm hy vọng mới về việc kéo dài cuộc đời sẽ có khả năng thành hiện thực. Mọi người trố mắt há miệng ra nghe, biểu hiện hào hứng khác thường. Đông lạnh cơ thể người tức là năm phút trước khi chết sẽ được áp dụng phương thức xử lý, lúc này người sắp chết sẽ được đẩy vào khoang đông lạnh, rồi đợi 5, 10, 20 năm, thậm chí lâu hơn, cho đến khi kĩ thuật y dược đã tìm được phương thức tốt thì mới "rã đông" cơ thể người, dùng phương thuốc đúng để chữa trị, khiến người đó sống lại. Trước đó không lâu, báo chí truyền thông đã đưa tin về chuyện này, gây xôn xao dư luận trong một khoảng thời gian. Mặc dù biết rằng tổ chức "đông lạnh cơ thể người" nói: "Đến nay vẫn chưa có kĩ thuật hồi sinh", nhưng họ vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu không ngừng. Trước mắt đã có 35 hội viên chết được bảo quản trong những khoang đông lạnh. Tôi cảm thấy khoa học càng tiến bộ thì càng phát sinh ra những việc kì quái. Chưa nói đến những chuyện khác, chỉ nói đến năm 97 đã có "nhân bản người", "đông lạnh người", "độc quyền thị trường vệ tinh, khống chế viễn thông toàn cầu" đã gây sốc cho con người trên toàn thế giới. Mọi người quan tâm chú ý, lo lắng những phát minh mới này liệu có đem đến mối đe dọa cho nhân loại hay không, làm nhiễu loạn các hiện tượng của tự nhiên, các phép tắc vận động của vật chất và xã hội loài người. Tôi có rất nhiều câu hỏi đối với việc đông lạnh cơ thể người, thậm chí tôi tin rằng nó là một sự hỗn loạn thọ mệnh loài người, là một việc không ra sao cả. Nếu như người chết bị đông lạnh 100 năm, thời gian đông lạnh trăm năm không lão hóa, nếu thật sự lại hồi sinh một lần nữa thì những người vốn là thế hệ trẻ của người đó đều đã biến thành trưởng bối già của người đó rồi. Con người sau khi chết, thần thức sẽ rời khỏi thân thể người, trong những năm tháng trăm năm đông lạnh, thần thức sẽ đi về đâu, sau khi sống lại, thần thức làm sao để trở lại. Sau khi sống lại, chất lượng cuộc đời ở đâu. Sau khi sống lại, làm sao để thích ứng với hoàn cảnh con người và sự việc hoàn toàn thay đổi. Phật pháp là cứu người sau khi chết trở về với tâm linh, cầu đạo giải thoát, không phải là bám chấp vào thân thể xương thịt này. Trên thế gian, những vật hữu hình đến cuối cùng cũng chẳng còn gì, sinh mệnh vốn dĩ là nhân duyên hòa hợp mà thành, có duyên khởi thì tất có duyên diệt.

33. Liên tưởng về việc nhân bản

Kể từ khi trung tâm nghiên cứu động vật bang Oregon nước Mỹ nhờ nghiên cứu cấy ghép phôi thai đã nhân bản thành công hai con khỉ, tin tức này sau khi được công bố ra toàn thế giới đã tạo nên một sự chấn động. Dường như mỗi người đều cảm thấy kích động đối với những viễn cảnh có thể phát sinh từ thành quả nghiên cứu này. Hơn nữa họ còn phân tích những lợi ích và tác hại có thể xảy ra đối với tương lai của nhân loại. Mặc dù trên báo chí vẫn thường xuyên thấy có những bài báo về việc nhân bản, mỗi bài báo lại bày tỏ quan điểm riêng, các quan điểm rất khác nhau. Có bài báo cho rằng nhân bản động vật là việc tốt, có thể làm vật thí nghiệm, đây là một cống hiến lớn đối với y học và khoa học. Đa số mọi người phản đối việc nhân bản người, ngay cả Tổng thống Clinton cũng phát biểu về điều này, rằng không được nhân bản người. Cũng có bài báo nói lựa chọn những nhân vật có tri thức cao để nhân bản nhằm nâng cao chất lượng con người, ví dụ như các nhà khoa học, Tổng thống hoặc các nhân vật được công chúng coi trọng. Có một câu nói nghe ra tương đối thích hợp là tránh nhân bản toàn bộ thân thể người, chỉ có nhân bản các bộ phận nội tạng như gan, tim, thận,... để cung cấp cho những bệnh nhân chờ nội tạng để chữa bệnh là được rồi. Việc nhân bản người, thời cơ tốt nhất là sau chiến tranh thế giới, khi nhân loại bị diệt vong rất nhiều, và những lúc thiếu nhân khẩu. Nhân bản người sẽ tạo nên sự loạn luân, người làm vợ hoặc người làm chồng sẽ không biết người nào mới là phối ngẫu gốc của mình. Nhân bản người sẽ khiến người ta sợ hãi khi nhìn thấy kẻ thù của mình đi đầy đường, chủ nợ của mình đi đầy đường. Giới tôn giáo cho rằng việc sống chết của con người có vòng tuần hoàn nhân quả của nó, nên thuận theo nhân mà sinh, thuận theo quả mà chết, nếu mà nhân bản thêm ra một "ta" nữa thì sẽ không chỉ loạn luân lý đạo đức mà cũng mất đi định luật tuần hoàn của nhân quả. Bởi vậy, tôi nghĩ đến một câu hỏi đem thỉnh giáo Sư Tôn: "Phật pháp bao la như biển, rộng như hư không, bao gồm tất cả, là tám vạn bốn nghìn pháp môn, không biết Phật Đà đã từng nói đến việc nhân bản người hay chưa?" Sư Tôn khai thị rằng: Có. Nhân bản người là phép "phân thân" trong Phật pháp. Di Lặc Bồ Tát duy thức đại thần biến. Quan Thế Âm Bồ Tát có 32 ứng hóa thân. Mỗi vị Phật đều trăm nghìn tỉ hóa thân. Tôi lập tức tiếp lời nói: "Sư Tôn cũng có vô số phân thân để độ hóa chúng sinh. Liên Hoa Đồng Tử cũng có nhiều hóa thân ở cõi Ta Bà. Kì diệu thay! Kì diệu thay!"

34. Phật pháp và thần thông

Nói đến thần thông thường khiến cho người ta cảm giác rất thần bí ảo diệu. Tuy nhiên, người theo đuổi thần thông thực sự rất nhiều. Người thích nhờ thần thông để hỏi việc lại càng nhiều. Sư Tôn từng khai thị rằng: "Thần thông của người có căn khí cao có thể đến và đi một cách tự nhiên dễ dàng, chỉ cần nhập định là thể đến được bất kì cảnh giới nào. Thần thông của người có căn khí trung thì có thể có các thần, binh, tướng của cõi trời giúp đỡ. Thần thông của người có căn khí thấp thì sẽ tương thông với ma quỷ." Việc tu hành của người thông linh, nếu vẫn chưa đạt đến được cảnh giới thanh tịnh quang minh thì sẽ bị linh quỷ giả làm Phật Bồ Tát để liên kết với người đó, và người đó cũng không biết cách mà phân biệt được. Mặc dù thần thông có thể giúp biết được quá khứ và tương lai, nhưng khi bạn đã biết được ác nghiệp mà mình đã tạo ra trong kiếp trước thì sẽ tạo ra một áp lực, tâm trạng nặng nề, luôn cho rằng đời này đã hết mọi khả năng rồi, không có cách nào bù đắp được những ác nghiệp đã tạo ra từ kiếp trước, thậm chí còn sinh ra cảm giác bất lực đối với Phật pháp. Nếu là người thông linh bảo với bạn rằng, tương lai sẽ xảy ra việc lớn, có khả năng sẽ nguy hại đến tính mạng, khiến bạn lo lắng sợ hãi, ăn không ngon, ngủ không yên, ngày ngày sống trong run sợ và đau khổ, phải làm sao đây? Thời đại Phật Đà có mười đại đệ tử, tôn giả Mục Kiền Liên được xưng là đệ nhất thần thông, nhờ thần thông mà ngài biết được kiếp nạn của mình đã đến, nhưng cũng không có cách nào trốn thoát được, cuối cùng vẫn là thần thông chẳng thắng được nghiệp lực và đành chết. Tôi cho rằng, vì là thần thông không thắng được nghiệp lực, ngược lại chi bằng chẳng cần biết quá khứ và tương lai, cứ thực tu một cách thực tế vững chắc còn quan trọng hơn. Còn đối với những tai họa xảy đến bất ngờ thì vẫn nên giữ tư tưởng thuận theo nghịch cảnh, giữ cho tâm trạng được bình tịnh, điềm tĩnh. Mặc dù thần thông có thể độ chúng sinh, nhưng thần thông cũng không phải là cứu cánh. Duy có thực tu, ngộ được chân lý, giải thoát sinh tử thì mới là điều hành giả cần theo đuổi. Có sáu loại thần thông là: thần túc thông, thiên nhĩ thông, thiên nhãn thông, túc mệnh thông, tha tâm thông, lậu tận thông.

35. Liệu sức mà làm

Từng có một đệ tử Phật rất chăm chỉ đi lễ Phật, thường xuyên tham gia các hoạt động tình nguyện của các chùa chiền. Cô thường im lặng ít nói, chắm chúi làm việc, thích giúp đỡ người khác, tốt bụng và độ lượng, luôn nghĩ cho người khác trước. Những ai biết cô đều ca ngợi cô. Một hôm, cô rất vội vã đến gặp người bạn thân để mượn tiền. Bạn thân của cô không chần chừ do dự đã cho cô vay tiền. Tuy nhiên, lần này tới lần khác, đã hơn ba lần vay mượn, tổng cộng số tiền vay mượn cũng đáng kinh ngạc khiến người bạn cảm thấy rất kì lạ, đành hỏi cô: "Chồng cô là tiến sĩ có thu nhập cao, chi tiêu của gia đình ba người sơ sơ cũng thừa đủ, hơn nữa cô vẫn luôn rất đơn giản và tiết kiệm, lẽ nào...?" Cô cười cười trả lời: "Xin đừng nói cho người khác biết, tôi đã đem hết số tiền tiết kiệm tích góp được trong nhiều năm để đóng góp cho các chùa rồi. Ngay cả tiền lương mỗi tháng chồng tôi lĩnh về cũng đều đem quyên góp hết rồi. Bây giờ các chùa đang huy động từ thiện cứu tế, rất thiếu tiền!" Bạn cô nói: "Vì sao mà cô phải ép mình như vậy? Sao không để dành lại một ít cho chi phí sinh hoạt?" Cô vẫn cười khẽ và trả lời: "Có rất nhiều người nghèo, người đáng thương cần giúp đỡ, tôi lại thích làm việc thiện, Phật Đà cũng đã dạy chúng sinh hành thiện bố thí đó thôi!" "Hành thiện bố thí rõ ràng là tốt rồi, nhưng giống như cô thế này, ngay cả đến tiền ăn cũng không dành lại mà đem bố thí, đến mức đi vay nợ, nếu cứ tiếp tục thế này cuối cùng sẽ có ngày đi đến đường cùng, có ai sẽ cứu giúp cho cô đây?" - Bạn cô nói. Kì thực, Phật pháp vô biên, Phật Đà giáo hóa chúng sinh không chỉ là từ thiện bố thí, trong lục độ vạn hành có bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát nhã, bố thí chỉ là một trong số đó thôi. Bố thí là Phật pháp, nhưng Phật pháp không chỉ có mỗi bố thí. Tôi nghĩ đến Sư Tôn từng so sánh rằng: "Bạch mã là ngựa, nhưng không phải ngựa nào cũng là bạch mã." Về sau, đệ tử này đến quy y Sư Tôn, tu trì Chân Phật Mật Pháp, lúc đó mới biết chân đế của Phật pháp.

36. Quỹ đạo của nhân quả

Làm điều thiện có thiện báo, làm điều ác có ác báo, nếu không làm việc thiện, cũng không làm việc ác, liệu có phải là không có thiện báo và ác báo không? Về mặt biểu hiện thì tưởng rằng ta không làm việc ác, nhưng kì thực là vẫn chưa tu đến cảnh giới thanh tịnh, suy nghĩ vẫn cứ lòng vòng hỗn loạn, rất dễ phạm vào việc nảy sinh suy nghĩ ác mà tạo nghiệp. Có người tốt bụng và độ lượng, nhưng vô ý lại làm hại người khác, gây ra tội, có phải là vẫn sẽ nhận lấy ác báo không? Giữa làm việc thiện và phạm tội, liệu có sự bù đắp lấy công chuộc tội hay không? Phật pháp nói về nhân quả, trồng nhân gì thì được quả đó. Tục ngữ nói rất hay rằng: trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, tuyệt đối không có chuyện trồng dưa lại được mướp. Trật tự nhân quả rõ ràng, không sai một li, làm một việc thiện thì được một thiện công đức, làm một việc ác thì sẽ có một ác báo, chắc chắn không có chuyện lấy công chuộc tội. Đừng cho rằng người khác luôn dùng thủ đoạn lén lút, tìm mọi cách lừa bịp, tâm địa cay độc, không từ thủ đoạn mà kiếm chác lợi ích, ấy thế mà không chỉ không gặp phải ác báo mà ngược lại, xem ra còn gặp rất nhiều vận may, mọi việc thuận lợi, tài nguyên dồi dào. Kì thực, bọn họ đang hưởng những phúc báo mà họ đã trồng từ kiếp trước, đến khi phúc báo hưởng hết rồi thì tài phúc cũng sẽ theo đó mà mất đi, cũng có khả năng đang từ đại gia trở thành ngập trong nợ nần. Cũng có người tu hành lâu năm, bình thường lạy Phật đọc kinh trì chú, học Phật tu hành, nhưng cả đời số phận vẫn bấp bênh, liên tiếp gặp kiếp số, ác vận không dừng, khổ không sao kể xiết! Hiện tượng này chính là trong nghiệp chướng mà vẫn bền bỉ tu trì thì cuối cùng sẽ qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai. Thiện báo và ác báo chắc chắn luôn vận hành theo quỹ đạo nhân quả. Hành vi lời nói, mỗi vật mỗi việc đều sẽ có nhân quả hết. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời, tất cả mọi được mất, căn bản đều là khởi đầu từ nhân và thu về được quả.

37. Luân hồi

Nếu có thể nghĩ kĩ về những sinh vật trong vũ trụ, quá trình cuộc sống của chúng từ khi sinh ra cho đến lúc chết có sự khác biệt gì, thì sẽ phát hiện ra sự huyền bí của cuộc đời, rất đáng tìm hiểu. Cuộc đời của một số sinh vật, kể từ lúc sinh ra đến lúc chết đi, chỉ tồn tại trong chớp mắt là đã tiêu biến, ví dụ như các loại nấm vi sinh hoặc tế bào. Cũng có những sinh vật thì tuổi thọ dài hơn, sống đến mấy chục năm, mấy trăm năm, thậm chí mấy nghìn năm, ví dụ như khủng long, voi, rùa, cá voi, v.v... Bất kể là đời sống có dài thế nào thì chung quy cũng không thể vĩnh viễn được. Bọn chúng gặp phải nạn đại hồng thủy hoặc động đất thì cũng sẽ tuyệt chủng hoặc tiến gần tới sự diệt vong. Trong số những sinh vật tồn tại trong vũ trụ, có thể nói làm con người là may mắn nhất, tuy nhiên so sánh giữa người và người với nhau thì lại có những sự khác biệt rất lớn. Có người thì sinh ra trong gia đình nghèo khó, chịu cảnh nghèo khổ cả đời. Có người sinh trưởng trong gia đình giàu sang, hưởng thụ vinh hoa phú quý cả đời. Lại có người từ nhỏ đã mắc bệnh bẩm sinh, hoặc chân tay tàn tật không vẹn toàn, nhưng cũng có người thì lại khỏe mạnh, ít bệnh tật. Muốn lấy ví dụ về sự khác biệt lớn lao trong hệ sinh thái vũ trụ thì lấy ví dụ chẳng hết. Những sự khác biệt này rốt cuộc là vì sao? Cũng có thể nói một cách đơn giản rằng, chúng sinh vốn tiềm tàng những nhân quả luân hồi, nhân duyên quả báo huyền bí, do vậy mới có những đời sống và vận mệnh khác nhau. Chỉ cần lấy luân hồi mà phân tích về cuộc đời và số phận là gần gũi nhất. Một kiếp qua đi, một kiếp lại đến, là tốt hay xấu đều có nhân quả rõ ràng. Chỉ là có mắt nhưng nhìn không ra, có tai nhưng nghe không thấy. Tâm quang minh vi diệu khó đo lường mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của chân lý này.

38. Địa ngục ở đâu

Nếu có người hỏi: Địa ngục ở đâu? Tôi sẽ giơ tay trả lời ngay: Tôi biết. Sau đó, tôi sẽ khẳng định chắc chắn với người đó rằng: "Nhân gian này giống như địa ngục." Nghĩ mà xem, bệnh viện chẳng phải giống như nơi thi hành án của địa ngục sao? Bác sĩ chính là quan thi hành án. Một khi bệnh nghiệp ập tới thì cũng giống như bị phán một tội trạng vậy. Đi vào nơi hành hình của bệnh viện chịu sự dẫm đạp, ví dụ như bị mổ, mổ tim, mổ não, mổ bụng, cắt ruột, cắt gan, phanh bụng moi ruột, cắt cổ tay, cưa chân, thật khiến người ta sợ hãi làm sao! Không tránh khỏi một ngày sẽ có thời điểm vĩnh viễn không thể thức dậy được nữa, một ngọn lửa thiêu thành tro, trở về với đất, bụi quy về bụi, khí quy về khí. Khi linh hồn bị lựa chọn vào địa ngục thì sẽ một lần nữa bị phán hình phạt, bị giày xéo đau đớn. Cảnh giới nhân gian chính là cảnh giới tu hành, tu hành chính quả siêu thoát lục đạo luân hồi, thăng lên Tứ Thánh Giới mới không phải chịu khổ trong lục đạo luân hồi. Nghĩ đến những sinh, lão, bệnh, tử khổ, yêu phải xa cách khổ, oán ghét mà phải gặp mặt khổ, mong cầu không được khổ, ngũ uẩn thiêu đốt khổ, v.v... của chốn nhân gian, so với cái gọi là khổ của 18 tầng địa ngục thì có thể nói là cũng chẳng thua kém gì. Bởi địa ngục chỉ là nơi linh hồn chịu khổ, nhân gian có cái khổ của linh hồn tinh thần cộng thêm cả cái khổ của thân thể xương thịt. Có đúng thế không? Tôi nhớ đến bài kệ vô thường mà Sư Tôn niệm: Mắt thấy người ta khổ Lòng nóng như lửa đốt Chẳng phải vì người khác Mà nghĩ đến lượt ta. Khiến tôi thức tỉnh và có cảm nghĩ rằng: Trông thấy người ta khổ Nghĩ sẽ đến lượt mình Sinh tử nếu chẳng thoát Lục đạo mãi nổi chìm.

39. Tán gẫu chuyện tôn giáo

Thỉnh thoảng ngồi tán gẫu cùng đồng môn, chúng tôi vẫn chỉ nói dăm ba câu là lại quay về chủ đề Phật pháp, đây cũng là một chuyện vui. Họ mới quy y cửa Phật không lâu, cũng chưa hiểu nhiều về tín ngưỡng. Họ hỏi: "Tôn giáo chỉ là dạy người ta làm việc thiện phải không?" Tôi đáp: "Đúng là tôn giáo đều dạy người ta làm việc thiện. Tuy nhiên, làm việc thiện không thể đại diện cho tôn giáo. Con người xã hội thông thường hoặc các tổ chức chính phủ đều có thể làm được, không nhất định phải là người theo tôn giáo thì mới có thể hành thiện bố thí. Lấy việc giúp đỡ người khác là niềm vui là nguyên tắc làm người cơ bản." Có một số giáo phái thực sự có thiên hướng làm các việc gây quỹ và bố thí, nhưng thiếu mất phần tu sâu hơn là công phu nội tu thiền định và trí huệ. Họ cho rằng đóng góp tiền giúp đỡ những người cần giúp đỡ mới là phương pháp tốt nhất trực tiếp giúp người, thế nhưng họ không biết rằng cứu độ trên phương diện tâm linh mới là phương pháp giải quyết triệt để cảnh khốn cùng. Mãi mãi chẳng thể cứu hết những người nghèo trên đời. Người nghèo có vận mệnh của người nghèo, sẽ không vì có được sự cứu giúp từ thiện mà sẽ giải quyết được sự nghèo khó. Nếu không hiểu cách làm sao để tự lực cánh sinh thì rất có khả năng sẽ nghèo cả đời. Nghèo dường như là một cái hố thủng vĩnh viễn lấp mãi không đầy. Hành thiện bố thí là yếu tố người tu hành nên có. Có thể "xả" tức là có thể kết duyên rộng lớn. Bồi dưỡng tâm linh, loại trừ tâm tham, có được thiện tâm, dễ đi vào nghĩa đế của Phật môn. Họ nghe xong gật gật đầu rồi hỏi: "Chỉ cần không làm việc hổ thẹn với lòng mình, sống có lương tâm thì cũng không nhất định phải có tín ngưỡng tôn giáo, phải không?" Tôi nói, con người không phải thánh hiền, ai có thể không có sai lầm chứ, trong mỗi hành động suy nghĩ thường sẽ có lỗi lầm, mặc dù tự mình cho rằng không có lỗi gì xấu hổ với lương tâm, nhưng họ có nghĩ được rằng phạm lỗi ngay trong ý nghĩ cũng nhiều như sao trên trời. Ý niệm có thể thanh tịnh tức là có thể khiến cho khẩu thanh tịnh, thân cũng thanh tịnh. Do vậy, không làm việc hổ thẹn với lương tâm cũng chỉ là thân thanh tịnh mà thôi. Lại hỏi: "Mỗi ngày cứ y theo pháp mà tu trì là được, hà tất phải học đủ loại lý thuyết Phật học phức tạp mà Phật đã giảng?" Phật giáo nói về Không, về Vô, nói về Niết bàn siêu thoát, nói về Bát nhã trí huệ, đó là những sự thăng hoa tâm linh mà con người tìm kiếm trong cuộc đời. Thành tựu những phương châm bảo điểm của quả vị, nếu không có Phật giáo thì làm gì có những thành tựu giả tu thành chính quả, phụng hành theo những lời chỉ dạy. Sau khi quy y, tốt nhất là nên đọc nhiều sách của Sư Tôn, nên xem nhiều những băng ghi hình, băng ghi âm Sư Tôn thuyết pháp, từ từ nghiền ngẫm những lý thuyết Phật học trong đó, mở rộng kiến thức, rất nhanh chóng sẽ có thể hiểu được tầng lớp thứ tự của pháp giới, thậm chí hiểu được sự thật vi diệu rằng mọi tôn giáo là bình đẳng, mọi pháp là bình đẳng, Phật và ta là một.

40. Khai thị của Hoạt Phật

Nghe Sư Tôn khai thị, kể đến một đoạn đối thoại trong một câu chuyện cũ rằng: Người đến hỏi: "Sư phụ ngài đâu?" Đáp: "Sư phụ tôi đang ở trong Đại Hùng Bảo Điện dọa nạt chúng sinh." Kì thực, sư phụ đang giảng kinh Địa Tạng, bởi vì trong kinh văn có nói đến rất nhiều những câu chuyện con người ta chịu hình phạt khi xuống địa ngục. Nghe khai thị, nghe giảng kinh cần có một vài căn cơ mới có thể lĩnh hội được nội dung ý nghĩa, nếu không sẽ sinh ra sự hiểu lầm, xuyên tạc bóp méo những kiến giải, dẫn tới chúng sinh hiểu sai, đó thật sự là điều không thể lường được. Nhân đây, tôi lấy ví dụ một vài khai thị về hỏi đáp thiền ý của Sư Tôn. Đệ tử hỏi: "Không thấy Chân Phật Báo có những bài viết về kiến tính." Đáp: "Trần trụi hết thì sẽ kiến tính." Thực ra, "trần trụi hết" không có ý nghĩa là hoàn toàn không mặc quần áo, mà là ý rằng "tâm trần trụi hết", tâm không còn bị trói buộc, không hề phiền não, tâm trần như nhộng. Đệ tử hỏi: "Sư Tôn, con muốn hoàn tục." Đáp: "Anh vốn dĩ chính là tục rồi, còn muốn hoàn tục thế nào nữa?" Ý ở đây là, nếu chưa tu đến được sự thanh tịnh thì đều vẫn là tục cả. Đệ tử này hiểu ra thì lại càng tinh tấn thực tu hơn. Đệ tử hỏi: "Sư Tôn, ngài là Hoạt Phật, vậy khi nào có thể độ hết chúng sinh?" Đáp: "Nếu có thể độ hết chúng sinh thì Phật Thích Ca Mâu Ni đã độ hết từ lâu rồi. Hết thảy những người xuất gia sẽ đều thất nghiệp." Đây là một trong ba điều mà Phật không thể làm, không thể độ hết giới chúng sinh. Sư Tôn là một vị Hoạt Phật thực tu chứng ngộ, khai thị của Ngài rất sinh động và tự nhiên, cực kì cuốn hút mọi người, khiến cho người nghe tinh thần phấn chấn, tiếng cười không ngớt vang lên, tiếng vỗ tay không ngừng dứt, pháp vị tràn đầy, nếu có thể lĩnh hội được kĩ càng thì lời khai thị nào cũng là thiền cơ. Nếu không dùng tâm để nghe giảng thì chỉ có thể nghe được những thứ bề ngoài, sẽ chỉ thấy là toàn chuyện cười.

41. Phật tâm

Dưới nhãn quang của Phật, chúng sinh là bình đẳng không khác biệt, không có người tốt kẻ xấu, không có thiện và ác, không có nghèo và giàu, không có thị phi phỉ báng, lại càng không có cái gì là khổ và vui. Thế nhưng trên thế gian này, đích thực là có người tốt kẻ xấu, có sự phân biệt thiện ác, có sự chênh lệch giàu nghèo, có nỗi khổ không thể nói thành lời, và những niềm vui khiến quên hết mọi thứ. Lại càng có đầy rẫy những thị phi và phỉ báng bao vây lấy ta khiến ta phiền phức không thể nào chịu được. Những hiện tượng khác biệt bất bình đẳng này nhiều không kể xiết, khiến cho người ta phiền não, thở ngắn than dài! Khiến người ta khó tự chủ được. Thế nhưng mênh mông chúng sinh vẫn không ngừng khổ sở van nài chư Phật Bồ Tát đại từ đại bi phóng đại quang minh hóa giải khổ ách, cầu khẩn quý nhân trợ giúp, cầu thăng quan phát tài, cầu tài cầu phúc, chuyển nghèo thành giàu, loại bỏ mọi khó khăn, tránh được kiếp số, tiêu trừ nghiệp chướng... Vĩnh viễn là những sự cầu khẩn van nài bất tận. Kì thực, trên thế gian này vốn dĩ vĩnh viễn tồn tại vô số phiền não, bởi vì con người thế gian sống trong những tư tưởng ngã chấp ngã kiến, do vậy mới sinh ra những phiền não, những bi ai do tự bản thân mình tạo ra. Nếu tự mình không lĩnh hội được cho đúng những nghĩa đế thật sự của Phật pháp, dựa vào tu hành để vượt lên phiền não thì cho dù Phật Đà có giải trừ khó khăn cho bạn thì bạn cũng sẽ chỉ có được sự thư giãn tạm thời. Một cơn sóng đi qua lại một cơn sóng nữa đến, vẫn cứ là lăn lộn trong phàm trần, giống như là khi hạt giống bị vùi lấp thì cái mầm lại sinh ra!

42. Luận bàn về đạo tâm

Bàn về ý nghĩa thật sự của hai chữ "đạo tâm" sẽ khiến cho người ta suy nghĩ luẩn quẩn trong đầu rất nhiều, nói thế nào mới là cách giải thích chuẩn xác đây? So sánh thế nào mới có thể đạt được một sự rõ ràng dễ hiểu đây? Có lẽ hành giả từng bước thực tu thì mới có thể lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu ảo diệu của hai chữ này. Tôi cho rằng ý nghĩa hẹp của "đạo tâm" là "tâm nghĩa lý". Cái gọi là tâm nghĩa lý, tức là đạo nghĩa, là đạo lý. Cái gọi là đạo nghĩa, tức là đạo nghĩa và chính nghĩa. Cái gọi là đạo lý, tức là nguyên tắc làm người và xử thế. Ý nghĩa rộng của "đạo tâm" là "tâm cầu đạo". Tâm cầu đạo tức là sự thâm nhập vào kho tàng kinh điển, hiểu nghĩa đế của Phật đạo, loại bỏ sự bám chấp, không màng đến danh lợi thế gian, theo đuổi con đường chính đạo, vượt lên trên mọi điều thế tục, hướng về cảnh giới thanh tịnh vô thượng, tâm an trụ trong thiền định, không chịu tác động của những ảnh hưởng bên ngoài. Hoàn cảnh cuộc sống của con người hiện đại chỗ nào cũng đầy sự mê hoặc, đầy rẫy danh lợi, tranh đấu quyền thế, vì những sự đòi hỏi của hiện thực mà cảm thấy khó khăn, đã làm ô nhiễm tâm linh vốn dĩ thanh tịnh, khiến tinh thần chịu áp lực. Do vậy, khó gặp được chí sĩ có đạo đức, chính nghĩa, lại càng khó tìm được kẻ sĩ có đạo. Bởi vậy, người tu hành đa số vì những mối liên hệ với hoàn cảnh sống xung quanh nên mới bước chân đi và mới dừng lại ở "cảnh giới hữu cầu". Rồi một ngày kia khi nghiệp chướng xảy đến, sự nghiệp thất bại, hôn nhân kiềm tỏa, con cái bất hiếu, bệnh tật đeo bám, kiện cáo quan trường, v.v... thì đạo tâm tu hành cũng lập tức rời bỏ thật xa. Đây chính là điều mà ta gọi là: khi còn chưa đạt đến cảnh giới thanh minh thì đạo tâm của hành giả rất dễ thay đổi. Thật ra, dưới nhân quả nghiệp báo, những tai nạn của đời người tất sẽ xảy ra. Có một số tai họa không có liên quan gì đến tu hành. Hành giả dùng tâm cảnh siêu việt để quan sát thế sự thì khi gặp tai họa lớn cũng đều chuyển hóa thành những hình tướng huyễn giả, hình tướng không huyễn. Hành giả có đạo tâm chân chính là có sự tương ấn với tâm Phật, tâm trong sáng thanh tịnh, kiên cố bất biến, có thể bao dung hết thảy sự vật.

43. Mạn đàm về quán đảnh

Hành giả Mật giáo đều biết, tu học Mật pháp coi trọng truyền thừa, có được pháp mạch truyền thừa rồi thì mới có lực gia trì của truyền thừa, tu hành mới có thể đạt được thành tựu. Lực gia trì có thể nói là xuất phát từ việc quán đảnh quy y. Do vậy quán đảnh quy y và quán đảnh tu pháp là vô cùng quan trọng. Tôi từng thỉnh thị Sư Tôn xem pháp Tụ Quang là phải trực tiếp quán đảnh hay là có thể quán đảnh từ xa? Sư Tôn giải thích rằng theo quy tắc chặt chẽ của Mật giáo thì bất kể pháp nào cũng đều phải quán đảnh trực tiếp. Sư Tôn nghĩ đến các đệ tử đông, lại phân bố ở khắp nơi trên thế giới, đường xá xa xôi, muốn đến Seattle một chuyến để nhận quán đảnh trực tiếp gần như là một việc không thể. Lộ phí đắt đỏ chỉ là vấn đề thứ yếu, khó khăn nhất vẫn là vấn đề xin thị thực. Vì từ bi chúng sinh và mong muốn quảng truyền Phật pháp nên Sư Tôn đã mở ra một pháp môn tiện lợi, phân thân cách không quán đảnh từ xa. Tuy nhiên, các nội pháp từ nhị quán trở lên, hoặc là các pháp được đặc biệt chỉ định, thì vẫn phải quán đảnh trực tiếp. Hành giả cần có hiểu biết trong việc nhận quán đảnh: có thể "từ thấp lên cao", nhưng không thể "từ cao xuống thấp". Nói cách khác là, cùng một pháp giống nhau, nếu đã nhận quán đảnh của một vị Thượng sư bình thường thì có thể nhận tiếp quán đảnh từ Sư Tôn, nhưng không thể cùng một pháp mà sau khi được Sư Tôn quán đảnh xong lại nhận quán đảnh từ một Thượng sư bình thường khác. Tôi từng nghe nói, có một Thượng sư trong tông phái nói trước đại chúng rằng: "Bây giờ mọi người muốn quán đảnh gì, tôi có thể ban quán đảnh đó cho mọi người, thậm chí không hạn chế số lượng quán đảnh." Thật ra, điều này là sai rồi. Sư Tôn từng khai thị rằng: "Thời điểm bạn cần tu pháp nào thì hãy xin quán đảnh pháp đó, như vậy mới là tu như pháp, hoặc như pháp mà bạn đang tu và Bổn tôn mà bạn muốn nhận quán đảnh giống nhau thì lúc đó giới nguyện mới tương thông với nhau." Có rất nhiều đồng môn rất thích xin quán đảnh, một lần xin quán đảnh thì yêu cầu 5, 10, 15 pháp khác nhau. Kì thực, thỉnh cầu Sư Tôn quán đảnh nhiều nhất là không quá ba pháp. Sau khi hành giả nhận quán đảnh xong, tốt nhất là tự mình ghi lại, mới không phạm vào lỗi "từ cao xuống thấp".

44. Quán đảnh truyền thừa có ngọn nguồn

Có một số đồng môn thích lao đến những chốn ồn ào, chỉ cần nghe thấy ở nơi nào có Rinpoche ban quán đảnh là chạy ngược chạy xuôi để đi nhận quán đảnh hết. Họ thiếu nhận thức về ý nghĩa chân thực của việc quán đảnh. Quán đảnh là phải có dòng truyền thừa, nếu không có quán đảnh truyền thừa thì cũng tương đương như không quán đảnh, chẳng có tác dụng. Quán đảnh truyền thừa chính là các vị Tổ sư nhiều đời một người truyền lại cho một người, tiếp tục truyền đến cho Căn bản Thượng sư, rồi lại từ Căn bản Thượng sư truyền đến cho chúng ta. Đây chính là pháp lưu truyền thừa, nó có khởi nguồn của nó. Trên đầu của các đệ tử Chân Phật Tông có Căn bản Thượng sư, luôn luôn nhớ đến Căn bản Thượng sư, nhận quán đảnh từ Căn bản Thượng sư thì mới là quán đảnh truyền thừa đúng đắn. Gần đây tại Indonesia, có một đồng môn từng đi một vòng quanh Tây Tạng, sau khi trở về liền đội một chiếc mũ có bông hoa to, ngồi trên pháp tọa cao cao và bắt đầu quán đảnh cho mọi người. Có rất nhiều đồng môn đã đến để nhận quán đảnh, làm dấy lên rất nhiều chuyện cười, dồn dập những bức thư gửi đến để hỏi xem có thể nhận quán đảnh từ đồng môn này không. Để không bị trả lời lặp lại những bức thư với nội dung phong phú như vậy, nên ở đây tôi giải đáp ngắn gọn để cho mọi người hiểu rõ tầm quan trọng của quán đảnh: 1. Giữa đồng môn với nhau không thể làm quán đảnh, nếu không sẽ làm loạn dòng truyền thừa. 2. Các Thượng sư Acharya [A-xà-lê] do Sư Tôn ban danh hiệu thì có thể quán đảnh cho người khác. 3. Pháp sư của tông phái có thể gia trì cho người khác, nhưng không thể quán đảnh cho người khác. Bởi vì pháp sư thì vẫn chưa nhận được quán đảnh trao trách nhiệm và quán đảnh truyền pháp từ Sư Tôn. Điều quan trọng nhất là: đồng môn Indonesia kia quán đảnh cho đồng môn, không những làm loạn truyền thừa, mà quán đảnh của anh ta cũng không phải là truyền thừa Chân Phật Tông.

45. Phiền não của Như Lai

Đọc "Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh", khi đó tôi mới nhận ra rằng không chỉ chúng sinh có phiền não, hóa ra Phật cũng có phiền não. Địa Tạng Bồ Tát trong kinh văn nói: "... chỉ mong Thế Tôn đừng vì các nghiệp của chúng sinh hậu thế mà buồn lo..." Nói với Phật như vậy ba lần. Tôi vốn cho rằng thân, khẩu, ý của chúng sinh vẫn chưa đạt đến cảnh giới thanh tịnh nên mới có phiền não. Nhưng còn Phật đã có "thập lực", đã đạt đến giải thoát tự tại, hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm, giác hạnh viên mãn, thành tựu hết thảy trí huệ Như Lai, thì sao lại có phiền não được đây? Sư Tôn giải thích rằng: chúng sinh phiền não vì bản thân, vì những việc thế tục mà bận tâm lo nghĩ, sự phiền não vô bờ bến thành vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại, tâm vĩnh viễn không thể tĩnh lại, thế nên mới là chúng sinh. Phiền não của Phật không giống với chúng sinh, Phật lo âu thanh tịnh, không phải là vì bản thân mình mà là lo âu vì chúng sinh trong thiên hạ, phiền não vì chúng sinh còn chưa khai ngộ! Thì ra phiền não của chúng sinh là ích kỉ vì bản thân, là vẩn đục. Còn phiền não của Phật là vì chúng sinh, là thanh tịnh. Từ đây, tôi liên tưởng đến Sư Tôn cũng có rất nhiều phiền não: Mỗi ngày siêng năng viết sách, chưa từng gián đoạn. Mỗi ngày siêng năng giảng kinh thuyết pháp khai thị. Mỗi ngày siêng năng tu pháp trì chú gia trì. Mỗi ngày siêng năng vẽ tranh, dùng tranh để truyền đạt tâm ý. Mỗi ngày siêng năng trả lời thư hỏi việc. Thỉnh thoảng, vì bồi dưỡng nhân tài đặc biệt mà Sư Tôn sẽ dạy học riêng. Sư Tôn vất vả như vậy, tức cũng giống như Phật: "Phiền não vì đệ tử chưa sớm thành tựu." Các đệ tử nên tinh tấn tu hành đi.

46. Sau khi đọc "Chuyện lạ về siêu độ”

Mỗi lần Sư Tôn hoàn thành xong một cuốn sách mới, tôi nhất định sẽ "giành quyền" đọc bản thảo trước tiên, để hưởng thụ sự thích thú khi là người đầu tiên được đọc! Tốc độ đọc sách của tôi rất chậm, bởi vì từ trước tới nay tôi có thói quen đọc không bỏ sót một chữ nào, đặc biệt là khi đọc sách của Sư Tôn, tôi sẽ đánh dấu các kí hiệu quan trọng trên đầu sách, thậm chí là ghi chép tóm tắt. Sau khi đọc xong, tôi sẽ suy nghĩ một lượt để đưa vào thành những tâm đắc sau khi đọc sách của bản thân. Sau khi tôi đọc xong cuốn mới nhất số 131 - "Chuyện lạ về siêu độ", tôi có một cảm giác không thể nói ra, có một sự thôi thúc muốn chạy ra đường lớn và hét to lên rằng: "Trên đời này chỉ có Liên Sinh Hoạt Phật mới có thể viết một cuốn sách kì lạ như vậy! Trên đời này chỉ có Liên Sinh Hoạt Phật mới có thể giúp người ta giải quyết việc siêu độ khó khăn nhất!" Nhiều câu chuyện về âm linh ma quỷ cổ quái li kì, thâm sâu không thể đo lường được nhắc đến trong sách, ví dụ như đóng giả người khác, sống nhờ trên thân người khác, thậm chí đóng giả thành Bồ Tát, Kim Cang, Thần Thánh, v.v... để trêu đùa người dương, đều lần lượt được Sư Tôn dùng chú lực, công lực thiền định, sức mạnh thần biến để thâm nhập vào mandala mà hiểu rõ được, âm linh quỷ quái không thể nào không khuất phục, mau chóng biến hiện nguyên hình. Điều khiến tôi khâm phục nhất là, bất luận những âm linh đó xảo quyệt thế nào thì Sư Tôn vẫn từ bi độ hóa chúng, do vậy u minh địa phủ đều biết Sư Tôn là một hành giả chân tu duy nhất trong thiên hạ, là người có tình chân thành duy nhất trong thiên hạ. Chương "Bồ Tát ma" trong sách có nội dung cốt truyện đặc biệt khiến tôi cảm thán! Có người tên là Kim Kí, mặc dù thông minh lanh lợi, nhưng đáng tiếc là tâm địa bất chính, không đủ trung hậu, học pháp tu pháp là vì mục đích danh lợi, thậm chí còn ẩn giấu những mục đích xấu xa gây bất lợi cho Chân Phật Tông, đã bị Hộ Pháp Kim Cang Giáng Tam Thế Minh Vương biết rõ. Do vậy, để bảo vệ Chân Phật Tông, Minh Vương đã lập tức khéo léo biến hóa nhập vào tâm của Kim Kí, khiến cho anh ta mơ mơ hồ hồ tự rời bỏ Chân Phật Tông. Kim Kí đi rồi, Minh Vương mới cảm thấy an lòng. Đoạn nội dung này khiến tôi tán thán một vị thành tựu giả chân chính, đích thực có được sự bảo vệ linh nghiệm của Thiên Long Bát Bộ Kim Cang Hộ Pháp. Sư Tôn đã hiểu rõ hết trí huệ của Như Lai, lại có khả năng to lớn trong việc siêu độ cho linh hồn trung ấm, là Bí Mật Chủ trong không gian vũ trụ, có thể tiếp dẫn con người đến cảnh giới mà trong lòng họ mong muốn, người quy y sẽ có được đại phúc báo đó!

47. Sư Phật và đệ tử

Tôi quen biết sư tỉ Liên Hoa Phái Nhuận đã rất lâu rồi, khoảng hai mươi năm trước, bà ấy là bạn học thời trung học với tôi. Tháng trước, bà ấy đến thăm nhà tôi ở hồ U Linh, tôi mời bà ở lại nhà dùng cơm, chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện, nói chuyện trên trời dưới đất và việc người, cảm thán vì người tu hành sai lầm nhiều quá! Bà ấy rất thông minh, giỏi quan sát sắc diện, biết nắm bắt cơ duyên được ăn cơm cùng Sư Tôn này mà xem xét thời cơ có thể hỏi việc một cách tự nhiên. Nhân đây tôi nêu ra những câu hỏi mà bà ấy đã hỏi, chắc hẳn cũng đem đến pháp vị nồng đượm cho hành giả. "Sư Tôn, nếu đệ tử Chân Phật nhẹ dạ nghe theo những tin đồn, rồi lập tức khởi tâm nghi hoặc, đánh mất lòng tin vào Căn bản Thượng sư, thì phải làm sao?" "Thì mặc kệ thôi! Bởi vì họ chưa thâm nhập vào nghĩa đế của Phật pháp, không hiểu nhiều về Sư Tôn thì mới không có đủ tín tâm. Cũng có thể nói rằng: căn bản là họ đã không có lòng tin vững chắc thì làm sao có chuyện lòng tin có thể mất đi được?" "Đệ tử không chỉ mất đi lòng tin, mà còn nghe sai đồn bậy, vì sao Sư Tôn không khuyên giải họ?" "Sư Tôn ngày ngày thuyết pháp giảng kinh, ngày ngày viết sách độ chúng, dùng hết tâm lực mà chỉ bảo, để con người ngầm thay đổi mà ngay họ cũng không ý thức được, nếu như vẫn không hiểu thì đúng là họ có chướng ngại vô minh rồi! Trên thế gian này, muốn tìm được một vị sư phụ hằng trì không gián đoạn, viết ra những pháp yếu, viết hơn trăm cuốn sách quả thực là khó lắm! Muốn tìm một vị sư phụ có thể giảng "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" lại càng khó hơn nữa! Người có duyên thì biết đây là "báu vật", sẽ trân trọng truyền thừa Chân Phật, người vô duyên thì cứ mặc kệ họ đi!" "Sư Tôn, có một số đồng môn thích đi đến các đạo tràng của các tông phái khác, không thể ổn định một chỗ ở đạo tràng Chân Phật Tông, phải làm sao mới tốt đây?" "Sư Tôn đã nói rồi: đệ tử như nước chảy, chảy đến chảy đi, chảy đến chỗ nào thì dừng lại ở chỗ đó. Con mắt của chúng sinh phần lớn là con mắt phàm trần, không có cách nào dùng trí huệ để quan sát, do vậy chẳng có cách nào khiến tâm họ định lại ở một chỗ được." "Đúng vậy, chúng sinh mang con mắt phàm trần. Quan niệm của cá nhân tôi là: chỉ có độc một mình đại tác gia siêu thắng viết hơn trăm cuốn sách là Sư Tôn đây, từng quyển từng chữ quý như châu ngọc, chỉ dẫn cho con người siêu phàm nhập thánh, tức thân thành Phật, không có bất kì đại pháp sư nào có thể so sánh bằng." - Liên Hoa Phái Nhuận đáp. "Thật ra, các đệ tử tốt xấu lẫn lộn, cũng là hiện tượng bình thường. Có rất nhiều đệ tử tốt, đương nhiên cũng có những đệ tử rất dở tệ. Nhưng Sư Tôn vẫn đối xử bình đẳng, giáo hóa họ bằng mọi cách." - Sư Tôn nói. "Sư Tôn thường nghĩ thế này: tôi cần phải cảm ơn tấm lòng cúng dường của đệ tử, cho dù là các đệ tử đã thối lùi đạo tâm thì chí ít họ cũng đã từng phát tâm quy y, có suy nghĩ về cái duyên này thì tôi vẫn phải cảm ơn họ." Tôi ngồi bên cạnh, nghe hết cuộc trò chuyện của Sư Tôn và Liên Hoa Phái Nhuận, trong lòng tôi cảm động không nói lên lời. Một người là đệ tử quy y kiền thành. Một người là Sư Tôn siêu thắng. Trong Mật giáo, đây chính là samaya quy y giữa Căn bản Thượng sư và đệ tử.

48. Tự nhiên mà vậy

Mỗi lần có phóng viên phỏng vấn Sư Tôn, sau cùng luôn có một câu hỏi giống nhau, đó là xin Liên Sinh Hoạt Phật nói một chút về tương lai Chân Phật Tông có kế hoạch gì, có triển vọng gì? Sư Tôn không chút do dự, trả lời thẳng thắn rằng: "Chẳng có kế hoạch gì, chẳng có triển vọng gì." Khiến cho các phóng viên nghe xong đều cảm thấy đầy kinh ngạc! Danh tiếng của Chân Phật Tông đã lan xa rộng khắp, nhân sĩ ở các tôn giáo đều đã quen tai với thanh danh Liên Sinh Hoạt Phật. Địa vị Hoạt Phật rất cao quý, đệ tử quy y tới bốn triệu người, hơn ba trăm phân đường phân bố ở khắp nơi trên toàn thế giới, sự nghiệp Phật giáo to lớn như vậy, thế mà lại không có kế hoạch, không có triển vọng gì hay sao? Sư Tôn nói: Tôi coi trọng sự tự nhiên và vô vi, thuận theo tự nhiên, khác các pháp sư của tông phái khác. Tôi chưa từng nghĩ muốn độ bao nhiêu người! Tôi chưa từng nghĩ đến việc lập tổ chức Chân Phật Tông! Tôi chưa từng nghĩ đến kế hoạch tương lai của Chân Phật Tông! Tuy nhiên: Tôi viết sách độ chúng sinh mỗi ngày, chưa từng gián đoạn. Tôi thuyết pháp độ chúng sinh mỗi ngày. Tôi vì chúng sinh mà tu pháp gia trì mỗi ngày, hóa giải đủ loại khốn khó của chúng sinh. Tôi nỗ lực hoằng pháp mỗi ngày. .... Tôi nghe những lời nói này của Sư Tôn, lĩnh hội được sâu sắc cảnh giới siêu nhiên của Sư Tôn, đích thực là khác biệt và nổi bật so với đám đông. Người thuận theo tự nhiên sẽ không để bản thân bị trói buộc vào những kiểu cách cũ, hoặc bị trói buộc bởi người khác, cuộc sống có được sự tự do tự tại, sống trong sự tự do tự tại, thuận theo và hợp với sự vô vi. Độ chúng sinh không nằm ở kế hoạch, mà nằm ở tâm chân thành, cứ tự nhiên mà độ. Tôi nghĩ đến cuộc sống của Thần Tiên là tiêu dao tự tại, cuộc sống của Thần Tiên làm gì có kế hoạch gì?

49. Hợp cơ duyên

Phật quang phổ chiếu cả thế giới, tâm chân thành thì tự nhiên sẽ cảm nhận được ánh sáng chiếu rọi, tăng phúc tăng huệ. Vào ngày đản sinh của Liên Hoa Đồng Tử, vào thời điểm chính Ngọ tu pháp là dễ có được cảm ứng lớn nhất, bởi vì thời khắc này là lúc Liên Hoa Đồng Tử thực thi ý nguyện đến cõi Ta Bà, ánh sáng tỏa rực rỡ, chuyển pháp luân rộng khắp, quảng độ chúng sinh. Tu pháp vào thời khắc này tất sẽ có những cảm ứng thù thắng. Có người tu pháp vào ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử, đêm đó liền mơ thấy Sư Tôn vẩy nước cam lộ từ bảo bình để chữa cho chỗ đau ốm, trải qua một cảm giác mát rượi, thế rồi khỏi đau bệnh. Cũng có người tu pháp vào ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử thì tận mắt nhìn thấy trên trời xuất hiện cầu vồng, hơn nữa còn thấy Sư Tôn đứng ở chính giữa vầng cầu vồng phóng quang chiếu rọi lên mình, người đó cảm động đến rơi nước mắt. Cũng có người tu pháp vào ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử, đúng vào lúc nhập tam ma địa thì nhìn thấy Sư Tôn đưa tay ra chạm vào đầu, gia trì cho người đó. Còn có người tu pháp vào ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử thì đêm đó mơ thấy Sư Tôn biến hóa thành Kim Cương Tát Đỏa đang được thờ cúng trong nhà người đó, dạy cho người đó tu pháp, khiến cho người đó tràn đầy pháp hỷ. Lại có người tu pháp vào ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử liền lập tức gặp vận may. Vốn dĩ công việc kinh doanh èo uột, vắng vẻ ít khách, gần như sắp phải đóng cửa đến nơi, đột nhiên buôn bán tấp nập, đơn hàng đổ đến như tuyết rơi, đáp ứng không xuể, thu nhập như nước chảy chỗ trũng. Đồng tu hội Hoành Tân ở Tokyo Nhật Bản, vào trước ngày đản sinh Liên Hoa Đồng Tử năm nay, đường chủ đã dẫn dắt đồng môn cùng tu trì chú, hoàn thành một triệu biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, nhằm vào ngày đản sinh 18 tháng 5 âm lịch, chọn mua vé số mang số 0518, kết quả là đã trúng giải một triệu Yên Nhật. Đồng môn của đồng tu hội này vui mừng nhảy nhót như chim sẻ vì có được cảm ứng nhờ việc trì chú, vui không tả xiết. ........ Những sự việc cảm ứng về tu pháp trong ngày đản sinh thật sự là rất nhiều, cảm ứng thần kì, mỗi người mỗi khác, nhưng kết quả thì đều khiến người người sửng sốt và hài lòng. Những việc này có thể ứng nghiệm là vì Sư Tôn có đầy đủ sáu thần thông, hóa thân thành vô số hòa vào tam thiên đại thiên thế giới, dùng thần lực vô thượng để cứu độ chúng sinh, thật sự là một vị Hoạt Phật nhân gian hiếm thấy!

50. Giáo huấn về thân

Gần đây khi hồi tưởng lại lúc mới thành lập Chân Phật Tông, vì muốn phổ biến và hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, quảng độ chúng sinh nên khi đó, chỉ cần có người phát tâm muốn thành lập phân đường để tổ chức các buổi đồng tu là Sư Tôn lập tức không hề do dự mà ban cho tên hiệu của phân đường. Do vậy, chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi, các phân đường đã được thành lập ở khắp nơi trên thế giới, mỗi ngày các đệ tử quy y mới nhiều như măng mọc sau mưa, sinh sôi phồn thịnh. Về sau, tình hình xin thỉnh tên phân đường càng ngày càng nhiều, mặc dù đây là một hiện tượng tốt, thể hiện lòng nhiệt tình tích cực hoằng dương Chân Phật Mật Pháp của mọi người, tuy nhiên chúng tôi nghĩ đến việc cần tránh cho khoảng cách giữa các phân đường với nhau quá gần thì mới không phát sinh ra hiện tượng tranh chấp lẫn nhau, mới không khiến cho các đồng môn tham gia đồng tu cảm thấy khó chọn lựa xem là nên đi đến phân đường nào, cảm thấy ngại khi đi đến phân đường nọ mà không đi đến phân đường kia, rất khó xử! Mặc dù đã giới hạn khoảng cách giữa các phân đường phải từ 45 phút đến 1 tiếng lái xe trở lên, nhưng chẳng bao lâu sau, vì hết hợp đồng thuê địa điểm nên các phân đường phải dọn đi, kết quả là càng chuyển thì lại càng gần nhau. Cuối cùng thì có lúc bốn phân đường ở cùng một khu, thậm chí cùng trên một con đường. Do vậy con đường đó gần như tuần nào cũng đều làm pháp hội, hết lượt này đến lượt khác, rất là náo nhiệt, giống như là đang cạnh tranh nhau vậy. Vô hình trung, các đồng môn tự nhiên phân biệt thành: anh thuộc phân đường kia, tôi thuộc phân đường này, mỗi người chỉ nỗ lực vì phân đường mà mình thuộc về mà thôi. Do vậy, tôi hỏi ý kiến Sư Tôn xem phải làm sao để hướng dẫn cho họ đoàn kết và hợp tác để đạt được nhận thức chung, nắm tay kề vai mà nỗ lực hoằng dương Chân Phật Mật Pháp. Sư Tôn chỉ thị rằng: "Hành giả cần học tập Bồ Tát hạnh, lòng dạ rộng rãi bao dung với mọi người, đừng phân biệt anh, tôi, người ta. Việc của người khác thì cũng cần xem như việc của mình. Cùng mang một dòng truyền thừa, làm pháp hội trên cùng một con phố, phải hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, nhiệt tình giúp đỡ, có qua có lại, mọi người cùng hoằng pháp thì mới là phù hợp với Bồ Tát hạnh đó!"

51. Khẩu quyết của Thượng sư

Khi bạn quy y cửa Phật, tự nhiên bạn sẽ có một cách nghĩ với sự tận tụy sâu sắc, muốn làm một hành giả mẫu mực. Bạn nỗ lực đọc kinh, trì chú, thực hành thực tu, lĩnh hội những điều thú vị diệu kì trong Phật pháp, nhập thiền định ba-la-mật, toàn tâm toàn ý cố gắng đạt thành tựu. Tuy nhiên, Phật pháp rộng lớn như đại dương mênh mông, làm sao tìm được một điểm khởi đầu, rốt cục thì bắt đầu từ đâu để làm nền móng mà tu lên đây? Thật ra, vấn đề này chỉ cần đọc một chút các sách của Sư Tôn thì không khó tìm được lời giải đáp. Tuy vậy, khi bạn tìm được đáp án rồi, khi bạn y theo thứ tự mà tu lên thì có thể do nhân duyên của mỗi người khác nhau mà sẽ sinh ra các hiện tượng tu pháp khác nhau. Nhưng cũng rất khó để từ một pháp mà ta hoàn toàn không hiểu gì cả, rồi trong khi mò mẫm học tập, từ lúc không biết gì đến khi thành thạo, ngày ngày thực tu rồi có được những tâm đắc, tâm đắc này chính là cảm nhận của việc tu pháp. Tuy nhiên, hành giả luôn luôn vì kinh nghiệm chưa có đủ nên vẫn không biết cảm nhận tu pháp của bản thân là đúng hay sai. Đến được giai đoạn này rồi thì tốt nhất là thỉnh thị một vị thầy sáng suốt chỉ điểm cho bạn thì mới không tốn công và lãng phí thời gian vô ích, thậm chí bạn còn có thể đi sai đường, nguy cơ trùng trùng mà vẫn không biết quay trở về điểm ban đầu, hậu quả lại càng không thể lường được. Do vậy, hành giả đem những tâm đắc tu pháp của mình để thỉnh thị một vị minh sư, nhờ minh sư xác nhận cho bạn xem là đúng hay sai là một việc rất quan trọng. Cần làm sao để tìm được một vị minh sư thật sự hiểu rõ về Phật pháp đây? Tôi nói cho mọi người biết ba điều quan trọng: Kinh nghiệm. Tâm yếu. Giác thọ. Ba điều này, Căn bản Truyền thừa Thượng sư của Chân Phật Tông đều có. Những điều Căn bản Thượng sư muốn dạy cho bạn là: kinh nghiệm, tâm yếu, giác thọ.

52. Tinh thần hoằng pháp (1)

Gần đây, có không ít các phân đường và các Lôi Tạng Tự gửi thư đến mời Sư Tôn, họ biểu thị rằng: mặc dù Sư Tôn đã tuyên bố "mấy năm này sẽ lui về ở ẩn", nhưng trước khi Sư Tôn chính thức ở ẩn thì chúng tôi vẫn hết lòng muốn mời Sư Tôn đến. Tấm lòng tha thiết mong Sư Tôn đến của các đệ tử vô cùng khẩn thiết, những lời mời gọi liên tiếp không dừng. Bản thân tôi cũng nhận được không ít những lời nhờ vả của đồng môn, hy vọng tôi sẽ sắp xếp hành trình. Tôi nói: "Không phải là tôi không muốn giúp sắp xếp hành trình, nhưng tôi tôn trọng suy nghĩ của Sư Tôn." Tuy nhiên, đôi khi tôi cũng bị đối phương hiểu sai ý, cho rằng tôi không công bằng khi giúp đỡ người khác. Thật ra, hoằng pháp độ chúng cũng là trách nhiệm của tôi, làm gì có đạo lý là không giúp đỡ! Xin hãy nghĩ mà xem, hai năm rưỡi nay, Sư Tôn chưa từng đi ra nước ngoài, chẳng đi đến nơi nào cả, chẳng phải là bình đẳng hay sao? Có Thượng sư hỏi tôi, Sư Tôn nói là ẩn cư thì bà có cảm tưởng gì không? Tôi đáp: Mấy năm trước Sư Tôn nói ẩn cư, tôi lo lắng hỏi Sư Tôn rằng: "Còn chưa già đã nói chuyển ẩn cư, hơi sớm quá, các đệ tử đều cần Ngài mà!" Khi đó, Sư Tôn chỉ nói ngắn gọn với giọng điệu hóm hỉnh rằng: "Tôi chẳng thích làm người già bảy, tám chục tuổi, già thì sẽ hồ đồ, già thì lại cố chấp, còn đứng trên phương diện tên tuổi địa vị thì nên là con cái kế thừa nghiệp của cha, cần để cho các đệ tử đi truyền pháp luân mới phải." Năm nay Sư Tôn lại nhắc đến chuyện lui về ở ẩn, và cùng với việc thành lập "Chân Phật Tông Tông Vụ Ủy Viên Hội", tôi có suy nghĩ mới là: "Bất kì việc gì mà là nghĩ cho Sư Tôn là được." Do vậy ngược lại, tôi sẽ gắng sức hỗ trợ quyết định ẩn cư của Sư Tôn. Xin đừng quên rằng Sư Tôn thực hiện theo ý nguyện mà đến thế giới Ta Bà, đó là không từ bỏ một chúng sinh nào, dù có ẩn cư hay không ẩn cư thì vẫn độ chúng sinh, đây chỉ là thay đổi một chút cách thức độ chúng sinh mà thôi.

53. Tinh thần hoằng pháp (2)

Bắt đầu từ năm 1985, trong suốt 10 năm ròng rã, vì việc hoằng pháp độ chúng sinh mà Sư Tôn như ngựa không dừng vó, chạy băng băng đến khắp mọi nơi trên thế giới, đem những kinh nghiệm thành tựu trong quá trình tu hành của bản thân mà thản nhiên công khai truyền thụ Mật pháp, truyền ngọn đèn Phật pháp, tiếp tục huệ mệnh Phật, trăn trở thoắt đông thoắt tây, thoắt nam thoắt bắc khắp các nơi, giống như A Di Đà Phật hiện tướng lưỡi dài rộng tại cõi Ta Bà vậy. Những ngày tháng hoằng pháp thông thường là, vừa mới kết thúc hoằng pháp một vòng tại một đất nước, sau đó lại tổ chức nhiều đại pháp hội tại các vùng miền, rồi lại hết sức tranh thủ thời gian đi đến các phân đường khai thị. Khi toàn bộ cuộc hành trình kết thúc trở về đến nước Mỹ, vừa hạ hành lý còn chưa kịp nghỉ ngơi thì chúng tôi đã lập tức lại đến Mật Uyển quan tâm đến các bức thư đệ tử gửi đến. Khi đó, những sai sót vẫn còn chưa được điều chỉnh thì sẽ lại cần điều chỉnh, rồi lại tiếp tục sớm sắp xếp chuyến hành trình tiếp theo. Có lúc đi hoằng pháp ở nước ngoài phải đặc biệt vội vã trở về chủ trì đại pháp hội xuân thu tại Seattle để cho những đoàn thể đến hỏi chuyện đông như núi như biển được mãn nguyện. Tinh thần hoằng pháp của Sư Tôn thật khiến người ta bái phục, thể lực Ngài khỏe như Kim Cang, bền vững kiên cố.

54. Vị giáo chủ chất phác

Các thế hệ của phái Mũ Vàng Gelugpa tương truyền rằng chức danh của vị giáo chủ cao nhất được gọi là Ganden Tripa, nói cách khác đây là danh xưng mỗi một đời giáo chủ, phái Gelugpa sẽ xem vị đó là thủ lĩnh tinh thần. Vị Pháp Vương Ganden Tripa hiện tại chính là vị đại biểu thứ 100 từ tổ sư Tsongkhapa, khi mà Pháp Vương Ganden Tripa chủ trì pháp hội thì Dalai Lama cũng vẫn xếp hàng sau. Pháp Vương Ganden Tripa đương nhiệm vì ngưỡng mộ và biết Liên Sinh Hoạt Phật đã lâu, nên dù xa xôi nghìn dặm từ Nam Ấn Độ đã đến Seattle. Ngài nói với chúng tôi rằng: Gặp được Liên Sinh Hoạt Phật giống như gặp được bạn cũ. Vô cùng ca ngợi và tôn kính những thành tựu của Liên Sinh Hoạt Phật. Liên Sinh Hoạt Phật thật thà tự nhiên như vậy, vừa hồn nhiên vừa nhân từ, khiến cho tôi ấn tượng sâu sắc. Liên Sinh Hoạt Phật quảng truyền Mật pháp, đã viết 122 cuốn sách, quảng độ chúng sinh, đó mới là tinh hoa của Phật pháp, nếu có thể dịch sang tiếng Tạng thì tốt biết mấy, tôi không đọc không được. …………………………… Những lời nói xuất phát từ đáy lòng này của Pháp Vương Ganden Tripa được Ngài nói ra đầy cảm động, khiến những người có mặt tại đó đều xúc động. Ngài tiếp tục lấy ra áo bào Pháp Vương, chuông chày Kim Cương, khăn khata, cát truyền thừa, thuốc viên truyền thừa, tượng Phật, hạt xá lợi, v.v… tặng cho Sư Tôn. Rồi còn lần lượt giải thích những ý nghĩa chân thực của từng món đồ. Trong nghi thức người tặng người nhận những tín vật này, Pháp Vương và Sư Tôn hai người chìm trong bầu không khí ngầm thấu hiểu lẫn nhau, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của pháp hội và mấy ngày ở cùng nhau, tôi đã phát hiện thấy Ngài là một vị Pháp Vương thật thà chân chất, nhất là tùy duyên tùy hỉ. Ánh mắt Ngài nồng hậu từ bi, trong những lời nói nhẹ nhàng đã bộc lộ trí huệ bất khả tư nghì cao thâm của một vị thành tựu giả, thể hiện rõ một sức hấp dẫn khó mà cưỡng lại, khiến người ta cảm thấy sùng kính sâu sắc. Pháp Vương đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với mọi người, đặc biệt là: Buổi tối đầu tiên Ngài đến Seattle đã lập tức thỉnh chúng tôi mua hộ những cúng phẩm cần thiết, còn nói rằng hôm nay là ngày tốt để tu Hộ Pháp. Thì ra, cúng phẩm để tu Hộ Pháp của Ngài ấy là rượu và thịt sống. Trình tự và cảnh giới mà Ngài khai thị trong pháp hội rất khớp với các pháp mà Sư Tôn đã truyền, chứng minh ý nghĩa ảo diệu chân thực của Chân Phật Mật Pháp. Khi Ngài ấy nghỉ ngơi vào buổi trưa ở Chân Phật Mật Uyển, Ngài ấy nằm ngủ trên chiếc ghế sofa trong phòng vẽ tranh của Sư Tôn (Chân Phật Mật Uyển vốn không trang bị giường đệm, Sư Tôn bình thường ngủ dưới đất), tùy duyên tùy hỉ, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, không nề hà câu nệ. Trên phương diện ẩm thực thì Ngài ấy cũng không câu nệ chuyện ăn thịt hay ăn rau, cứ đơn giản tiện lợi, với nguyên tắc là không ăn quá lượng. Pháp Vương còn có nhiều thói quen giống với Sư Tôn, do vậy đặc biệt để lại cho tôi ấn tượng tốt đẹp sâu sắc. Tôi nghĩ: Hoạt Phật tu hành đến cảnh giới cao nhất thì thói quen sinh sống của họ đều tự do tự tại giống nhau. Chú thích: Pháp Vương Ganden Tripa vào ngày 7 tháng 9 năm 1996 đã đến Seattle, hộ trì Sư Tôn chủ trì pháp hội.

55. Giữa mây và nước

Trong pháp hội ngày 7 tháng 2, Sư Tôn đã chính thức tuyên bố lui về ở ẩn. Một câu tuyên bố lui về ở ẩn này đã làm trào dâng một đợt sóng lớn, làm lay động tới con tim của các đệ tử, khơi dậy một cảm giác không còn cách nào chống lại được, biểu lộ ra những tình cảm sâu sắc - những đôi mắt rưng rưng đỏ mọng, những dòng nước mắt tuôn rơi không cầm lòng được! Thế là Sư Tôn cứ thế mà đi ẩn cư ở trong núi rừng sao? Sẽ không còn gặp lại Sư Tôn nữa sao? ....... Một ngày là thầy, suốt đời là thầy, tình cảm thầy trò thân thiết như cha con, chẳng nỡ rời xa. Giữa thầy và trò tồn tại một giới nguyện samaya một khi đã hình thành thì chẳng bao giờ thay đổi, đã ghi lòng tạc dạ rồi! Nhớ lại khi xưa Sư Tôn từng khai thị rằng: Ẩn cư thì không còn bám chấp vào danh lợi địa vị nữa. Không nhận cúng dường thì không còn bám chấp vào lợi ích. Lời nói rõ ràng thẳng thắn dạy dỗ chúng sinh, không màng danh lợi. Sư Tôn tôn sùng nhất là đạo tự nhiên, hướng đến cuộc sống tự do như mây trắng, mây bay đến đâu thì đến đó. Tâm như mây trắng luôn tự tại, ý như nước chảy mặc đông tây. Tâm như mây trắng, ý như nước. Ẩn cư, chính là muốn trở về với bản chất tự nhiên. ....... Cuối cùng tôi đã hiểu, việc ẩn cư của Sư Tôn là một kiểu dạy dỗ, dạy dỗ mọi người cần giống như mây, và cần tự nhiên giống như nước. Mọi sự vật trên đời cuối cùng sẽ đều trở về với bản chất tự nhiên. Chỉ khi đó mới nhận ra rằng nơi nào có mây có nước thì sẽ có Sư Tôn. Khi nỗi nhớ trào dâng, chúng ta hãy ngẩng đầu nhìn lên những đám mây trắng trên bầu trời, hoặc đi ra ngắm biển, ngắm hồ mà tưởng nhớ đến những lời dạy dỗ của Sư Tôn, cảm nhận lòng yêu thương và từ bi của Sư Tôn. Cầu mong bản thân cũng có thể hòa tan vào mây trắng bay bay, theo mọi dòng nước chảy đến bất kì nơi nào. Cảm ơn lời dạy dỗ của Sư Tôn!

56. Nỗi lòng không cần cúng dường Sư Tôn

Ngày 1 tháng 9 năm nay, trong buổi đại pháp hội, Sư Tôn đã đối diện với năm nghìn người, trịnh trọng tuyên bố: "Kính mong mọi người không cần cúng dường Sư Tôn nữa." Muốn các đệ tử hãy đem cúng dường chuyển thành việc thăm nom những người bệnh, đi cứu giúp những người nghèo khổ, hành thiện bố thí, đi cứu khổ cứu nạn, đi xây chùa in ấn kinh sách, như vậy thì cũng như cúng dường Sư Tôn, công đức như nhau. Sau lời tuyên bố này, Sư Tôn lập tức viết thành văn tự, công bố trên các trang báo khác, thông qua việc đăng báo mà hi vọng đệ tử ở nơi xa sẽ biết được. Điều không dự tính được là sau khi các tòa báo nhận được văn bản tuyên bố này đã gọi điện đến để xác nhận xem có phải là Hoạt Phật tự tay viết ra bút tích hay không. Vì họ ngạc nhiên! Từ trước đến nay họ chưa từng thấy người nào không muốn tiền, tiền càng nhiều thì chẳng phải sẽ làm được càng nhiều việc thiện hay sao? Đại bộ phận đệ tử Chân Phật đọc xong văn bản thì có phản hồi là: Đệ tử Mật giáo cúng dường sư phụ thì mới là hợp với lễ tiết trong "Sự sư pháp ngũ thập tụng". Cúng dường sư phụ thì mới không phạm vào việc chỉ cầu xin mà không có đáp lễ. Cúng dường sư phụ cũng như cúng dường tất cả chư Phật, là phúc điền tối thắng, rất nhanh chóng đắc chứng bồ đề quả. Cúng dường sư phụ sẽ được gia trì tiêu trừ chướng ngại, phiền não và nghiệp chướng. Cho dù Sư Tôn đã nhiều lần nhắc lại lời tuyên bố này và giảng giải nên chuyển đổi việc cúng dường ra sao, đi hành thiện bố thí, nhưng tấm lòng các đệ tử cúng dường Sư Tôn vẫn rất chí thành kiên định. Sự việc này khiến tôi nghĩ đến một câu nói trong quy tắc nghi thức Mật tông là, "Nếu thầy dạy bảo thế nào thì hãy hoan hỉ làm theo..." Đã là ý của Sư Tôn "Kính mong mọi người không cần cúng dường Sư Tôn nữa" thì mọi người chúng ta nên theo lời dạy này mà làm mới phải. Sư Tôn tuyên bố như vậy tất nhiên là có tư tưởng triết lý vĩ đại, mở rộng và nâng cao ý nghĩa của việc cúng dường, phổ cập đến hết thảy chúng sinh, đây là cảnh giới vô cùng siêu nhiên. Từ lâu Sư Tôn đã phá bỏ tất cả mọi ngã kiến, hơn nữa còn là một hành giả du già có thể kết hợp "anh, tôi, người khác" làm một. Hô hào các đệ tử chuyển cúng dường thành đi làm các việc bố thí hành thiện khác, khẳng định là ngày nay rất hiếm thấy.

57. Tương ứng về mặt trời

Gió bắc vù vù, mưa phùn liên miên. Suốt một tháng trời âm u mưa dầm dề dài dằng dặc. Vào ngày làm pháp hội đó, đột nhiên, gió dừng, mưa cũng tạnh. • Ngài huyễn hóa vô cùng Không một chút ồn ào, đến trong sự yên ắng Âm thầm vận thần thông Xua tan mây đen Đẩy lùi màn sương dày đặc Mặt trời hiện ra Ánh sáng lan tràn. • Chẳng nịnh bợ, chẳng đua đòi Tự nhiên nhậm vận Sự xuất hiện của Ngài Chính là thắng lợi của niềm tin Cảm ứng liên tiếp lặp lại Bất khả tư nghì. • Khi pháp hội cầu phúc kết thúc Bạch Tài Thần hóa thành giọt mưa Rơi trên đỉnh đầu, rơi vào trong tim Cảm giác mát rượi, hoan hỉ tràn đầy A! Những giọt mưa tài phúc Lễ gột rửa thanh tịnh! • Chú thích: vào dịp xuân mới năm Đinh Sửu, một tháng trước pháp hội cầu phúc, suốt cả tháng trời đều âm u, dự báo thời tiết thông báo rằng ngày diễn ra pháp hội trời cũng sẽ có mưa. Kết quả là, trong hai ngày liên tiếp diễn ra pháp hội, mặt trời chiếu sáng chói chang, thời tiết cực kì đẹp. Đến khi pháp hội kết thúc, sau khi thu dọn hết các vật phẩm thì trời mới lại bắt đầu mưa. Đây là cảm ứng vô cùng thù thắng.

58. Tấm lòng biết ơn

Phương xa chim bay đến ngâm vịnh lời cảm ơn Lòng biết ơn khắc ghi vào tâm khảm Chẳng nói nguyên nhân, chẳng nói vì sao Chỉ là lời cảm ơn nói mãi vẫn chẳng hết. Âm thanh chân thành, khiến người ta mãnh liệt đắm say Nhưng cũng khiến người ta không hiểu lời cảm ơn từ nơi nào đưa đến Trong nội tâm lâu nay luôn hồi tưởng Đã bao lần tỉnh ngộ sâu sắc Hiểu được ra chân đế của cảm ơn. Cảm ơn, không nhất định để hai bên cùng có lợi Cảm ơn, xuất phát từ sự thể hội tỉ mỉ của mỗi người Cảm ơn, xuất phát từ ý thức sâu nhất về bình đẳng vượt trội Hành giả vẫn thường mang tấm lòng biết ơn Biết ơn chư Phật Bồ Tát, chư Thiên, Đạo sư, cha mẹ, các chúng sinh Trong lòng thường biết hơn, mọi việc đều viên dung Người đối với ta tốt, đáp lễ nên cảm ơn Người đối với ta xấu, ta cũng vẫn cảm ơn Trong cõi lòng biết ơn, chuyển hóa thành sức mạnh Tu hành càng siêu việt Ôi! Tấm lòng biết ơn, người người đều cần có.

59. Âm thanh tự nhiên

Thời gian qua giống như mùa hè Mexico Đặc biệt là góc bầu trời tây bắc Cực kì thuần khiết yên bình Không một bóng người, như chốn Đào Nguyên Ngôi nhà sơ sài trên đỉnh núi đứng cạnh biển cả Chẳng có điện thoại Chẳng có báo chí Chẳng có truyền hình. ... Gần như đoạn tuyệt với thế giới Tâm linh bỗng nhiên dừng lại trong không tịch Rắn, rết, thằn lằn từ trong núi Còn cả những côn trùng chẳng biết tên đã thành những người khách quen thuộc Đi rồi lại đến Cua trên bờ biển cả đàn cả lũ Ào ào bò lên Cả đàn cùng múa, hết lượt này lại đến lượt khác. Tiếng thủy triều bốn bề vang vọng Là nhạc giao hưởng, là nhạc cõi trời Ban đêm, chẳng nhìn thấy núi, chẳng nhìn thấy biển Chỉ có những vì sao đua nhau lấp lánh làm bầu bạn Trong sát-na, dường như rơi vào đường hầm thời gian. Ô! Tôi của hiện tại là ai? Tôi của quá khứ là ai? Tôi vẫn là tôi? Tôi đã suy biến? Tôi đã thành hư không? Chỉ có những vì sao biết được lòng tôi.

60. Ấn tượng của biển

Biển Punta Mita ở Mexico Nghe nói, biển ôm trọn trăm sông, khoan hồng độ lượng Biển là bậc trí giả, tùy hỉ tùy duyên Do vậy, tôi đi gặp biển, thăm biển. Ngồi trên bãi biển, lắng nghe tiếng biển ì ầm Biển thích tự do tự tại Biển thích cuộc sống lang thang Biển nói, đời người như kẻ lang thang Nước chảy bèo trôi, chẳng tìm được nguồn cội Tôi nói, đời người như sóng biển Hết nổi lại chìm, hết sinh lại diệt. Tôi thong thả ngồi bên biển ngẫm nghĩ Mong làm bạn với biển trong từng suy nghĩ Tôi cưỡi trên những con thuyền cao su, cùng biển rong chơi Đạp gió rẽ sóng vượt ra khơi. Lao nhanh vào trong lòng của biển Giây phút đó, thuyền lật rồi Con người chìm xuống biển Như rơi vào một thế giới khác Mờ mịt và hoảng hốt thất kinh. Biển nói, đừng sợ hãi! Chúng ta đều đã từng chết Ôi! Con đường này hình như quen thuộc Liễu rủ hoa cười lại gặp làng (*) Tôi sâu sắc hiểu ra: đời người mong manh, sinh tử huyễn diệt. (*) Đây là một trong hai câu thơ: "Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn" - có nghĩa tưởng đi đến tận cùng sông nước là hết lối, nhưng không ngờ lại gặp một ngôi làng, ý nói rằng trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn còn hy vọng tìm được lối thoát.

61. Lên núi

Leo núi, leo núi Người người thích leo núi Nhưng leo núi gì Là núi vinh hoa phú quý, ai nấy hoan hỉ, công danh lợi lộc. Leo núi, leo núi Núi non trùng trùng, cao thấp nhấp nhô Mồ hôi như mưa, dốc hết tâm lực Đỉnh núi này rồi lại chóp núi kia Gió mây hiểm ác, ta vẫn kiên cường. Leo núi, leo núi Trổ hết tài năng, lưu danh đỉnh núi Rực rỡ chói lòa, tài năng lộ rõ Những người thủ lĩnh Cùng nhau hát ca. Leo núi, leo núi Ở trên đỉnh cao nhưng vẫn cô đơn Vì sao vẫn hướng đến đỉnh cao Chỉ vì danh và lợi Và chẳng có đường lui. Leo núi, leo núi Hành giả leo núi thật tự do Tự tại nhậm vận Nâng lên, đặt xuống, thiền cơ ảo diệu Lên cao, thật giỏi lắm Đi xuống, lại càng giỏi hơn Thử hỏi xưa nay có được bao người!

62. Duyên đến duyên đi là bình thường

Có một người đã mất đi lòng tin Nay gặp được duyên lòng tin đã trở lại Cả thế giới lại đáng yêu bừng sáng Chìm đắm trong những tháng ngày tươi vui Trong lòng này âm thầm cảm tạ Lặng lẽ bôn ba, chấp thuận vì cuộc sống Biết bao hi vọng gửi gắm cuộc đời này. Rồi một ngày, duyên đột nhiên biến mất Như khói thuốc tan đi, không để lại tăm tích Niềm tin bị tổn thương, dày vò, dẫm đạp và đau đớn Như con diều đứt dây, rơi xuống vực sâu vạn dặm Ôi! Duyên đến duyên đi, Nhân duyên đẹp đẽ Chỉ còn hoài niệm, Mộng tưởng có ngày duyên trở lại Thế nhưng, thế nhưng, ... Nghe Phật nói: Tâm điềm tĩnh chính là đạo, Ôi! Tâm điềm tĩnh mới có thể bền lâu!

63. Truy điệu - Viết cho Thượng sư Liên Phẩm

Khi gió thu bắt đầu thổi tới Bất ngờ, ngài đã ra đi Trong yên lặng Chẳng để lại lời nhắn nhủ gì Tôi chẳng đến kịp để nói Xin hãy đợi một chút! Xin hãy nghe tiếng thì thầm trong lòng của chúng tôi. Con người ngài hào sảng, lương thiện Thích việc bố thí, vui vẻ giúp người Đài Loan Chân Phật Báo, Hoa Quang Công Đức hội Trưởng thành lên từ bàn tay ngài Nào là trại hè, tọa đàm Phật học, chữa bệnh từ thiện Để lại bao tiếng tăm dư vị Nơi đây có thứ ngài yêu nhất... Sư Tôn thiền định kiếm tìm Thấy ngài tay kết thủ ấn hoa sen Ngồi trên hoa sen đỏ, gió nhẹ khẽ đưa đẩy Bay về hồ sen nơi ngài từ đó đến, Việc ngài đi như có điềm báo trước Ngài đã tìm được cõi tịnh thổ vĩnh hằng. Cảnh giới thanh tịnh vô thượng đó Mặc dù ngài ở chốn xa xôi Khoảng cách là một sự cách trở Mỗi lần gió thu bắt đầu thổi tới Trong lòng lại miên man nhớ ngài Lời ca "Trân trọng chào tạm biệt" Vĩnh viễn chúc phúc ngài!

64. Thảnh thơi ra đi

Trong cõi vô hình, vận mệnh đã định thời khắc phải ra đi, Mẹ đã quyết định thời điểm này, thì ai cũng chẳng ngăn trở được Kiên quyết vứt bỏ đi mọi việc vặt vãnh Tự nhiên bảo đi, thế là đi luôn! Như thể nói với chúng con rằng, Dù có bảo nhân gian tươi đẹp, Dù có bảo tiền bạc, châu báu, áo quần, biệt thự xa hoa, đều chẳng ích gì, Chẳng thà nói rằng, trút bỏ chính là cần trần trùi trụi. Mẹ đã lựa chọn phương thức để rời đi, có lẽ đã thị hiện đạo lý vô thường, cảnh tỉnh con người sinh mệnh như mộng, huyễn, bào, ảnh, như sương cũng như điện, chớp mắt đã tan biến rồi. Hãy trân trọng giá trị sở tại của sinh mệnh mà ngay lập tức thực tu. Mặc dù điểm cuối cùng của đời người chắc chắn sẽ phải bước trên hành trình chia ly này, nhưng sự ly biệt của tình thân thì bất kì ai cũng vẫn đều cảm thấy đau lòng bi thương, đặc biệt là tình cảm giữa mẹ và tôi vô cùng thân thiết. Bởi vậy, tôi cảm thấy khó mà gạt bỏ được cảm giác đau lòng. Trước đây, tôi luôn cho rằng khóc chẳng đẹp đẽ chút nào, khóc là thể hiện sự yếu đuối, khóc không thể giải quyết được sự việc, thậm chí sẽ đánh mất sự tôn nghiêm. Chính vì bản tính kiên cường cứng rắn, gặp chuyện gì cũng không khóc này mà tôi từng bị Sư Tôn gọi là "nữ tướng không đổ lệ". Bây giờ, khi phải từ biệt mẹ, tôi đã không thể kìm lòng, nước mắt tuôn trào như suối. Tôi không còn kìm nén bản thân được nữa, tôi đã khóc rồi! Chỉ khi nhìn thấy cảnh tượng lúc Sư Tôn thực hành cứu độ thân trung ấm và pháp dịch chuyển thần thức thù thắng nhất của Mật giáo để chuyển dời và dẫn dắt thần thức của mẹ đi, từ thiên môn vãng sinh Phật quốc, trong lòng tôi mới có thể từ đau thương chuyển hóa thành niềm hoan hỉ, ca ngợi mẹ đã có được phúc báo tốt! Viết bài kệ nhớ về mẹ: Ở nơi ấy trên trời Mẹ đừng quên chúng con ở nơi này Giữ lại những lời nói Xin nhẹ nhàng thổ lộ Trái tim con sẽ nghe được lời mẹ Mặc dù trời đất cách trở Nhưng hương vị nỗi nhớ còn mãi Biết đâu, biết đâu Thời gian chính là vĩnh hằng Xa cách cũng là một nét đẹp. ND: người mẹ được nhắc đến trong chương sách này là mẫu thân của Sư Tôn.

65. Phụ lục. Đọc đi đọc lại các tác phẩm của Sư Tôn

Thưa Sư Tôn, Thượng sư, pháp sư, trợ giảng, đồng môn của Thập Thiện Đường, và đồng môn đến từ các nơi trên thế giới, xin chào mọi người! (mọi người vỗ tay) Khi tôi vừa xuống xe buýt, sư tỉ Liên Hoa Thục Mỹ, người phụ trách quảng bá các tác phẩm của Sư Tôn ở Đài Loan, nói với tôi rằng cô ấy đã đến Hong Kong từ sớm vào ngày 20 hay 21 để quảng bá album Thời Luân Kim Cang. Tôi xin hỏi album Thời Luân Kim Cang mọi người đã xem chưa? Ai đã mua rồi xin giơ tay, không ít đâu nhỉ! (cười) Cô ấy kể, mấy ngày nay cô ấy cùng Sư Tôn đi đến vài phân đường, đồng môn đều tập trung ở các phân đường, cô ấy rất muốn phục vụ mọi người nên đã gửi album này đến các phân đường cho mọi người. Cô ấy nói mỗi phân đường đều không cho cô ấy cơ hội, ở đây cô ấy không có cách nào bán được những album này. Tôi cũng không rõ rốt cục là có chuyện gì. Tôi biết cuốn album này rất qua trọng, trước khi tham gia pháp hội Thời Luân Kim Cang, tốt nhất là mỗi người nên mua một cuốn và đọc thử xem. Đọc xong rồi bạn sẽ biết về nghi quỹ, truyền thừa và ý nghĩa trọng yếu của Thời Luân Đại Pháp. Vào ngày 27 tháng 8 tới đây khi Thượng sư chủ đàn khai thị, khi Sư Tôn khai thị, thì bạn nghe là hiểu ngay. Vì sao chúng tôi lại phát hành album này? Đơn vị tổ chức đã thu thập đủ mọi tư liệu về Thời Luân Kim Cang mà trong quá khứ Sư Tôn đã khai thị, gom chúng lại thành một quyển sách để sau đó ủy nhiệm cho nhóm quảng bá các tác phẩm của Sư Tôn tại Đài Loan xuất bản thành album này, để tiện lợi cho các đồng môn sẽ đến tham gia trước khi nhận được quán đảnh thì sẽ có thêm hiểu biết về pháp Thời Luân Kim Cang. Số tiền mà nhóm quảng bá thu được toàn bộ sẽ xung công quỹ, đều góp vào quỹ dùng để quảng bá các tác phẩm của Sư Tôn. Nhóm quảng bá là do Tông Ủy Hội ủy nhiệm. Thông qua hoạt động quảng bá của nhóm, các tác phẩm của Sư Tôn ở Đài Loan đã tiêu thụ được nhiều hơn gấp đôi. Trước đây giả dụ một cuốn sách in ra ba nghìn bản thì bây giờ đã in tới năm, sáu nghìn bản, thậm chí có lần là chín nghìn bản, mười nghìn bản. Trước đây, các nhà xuất bản in sách thì đa số là lưu hành trong các phân đường, còn lưu hành ở trên thị trường thì tương đối ít. Hiện nay, nhóm quảng bá đang cực kì tích cực quảng bá tác phẩm của Sư Tôn. Rất nhiều đồng môn ít nhiều đều đã đọc thấy những bài báo cáo về tình hình này trên Chân Phật Báo. Bây giờ tôi sẽ nói ngắn gọn một chút về cảm tưởng của cá nhân tôi khi đọc những tác phẩm của Sư Tôn, nghe băng ghi âm và ghi hình của Sư Tôn, biết đâu có thể có một vài hữu ích cho các bạn đồng môn. Tôi đọc các tác phẩm của Sư Tôn rất chậm, tôi nghĩ quái lạ, đồng môn đọc hơn một tiếng là đã đọc xong một cuốn sách rồi, còn tôi sao tận mấy ngày mới đọc xong được một cuốn. Chắc vì khi còn nhỏ tôi không thích đọc sách, tốc độ đọc sách quá chậm, đọc xong cần hiểu, cần tiếp thu nên tương đối chậm. Lần đầu tiên đọc, cảm nhận khác với lần đọc thứ hai, thứ ba, cảm nhận mỗi lần đọc đều khác nhau. Bởi vì khi bạn đang đọc, bạn sẽ suy nghĩ, có lẽ sau một khoảng thời gian, bạn lại có nhân duyên khác để đọc lại cuốn sách này, cùng là một đoạn văn đó, nhưng bạn lại có cảm nhận khác đi. Do vậy, tôi muốn nói với các đồng môn rằng, đọc sách xong đừng vội quẳng nó sang một bên, cần không ngừng ôn tập, vì mỗi lần đều sẽ có những ích lợi khác nhau, những lợi ích rất nhiều. Cũng giống như khi tôi nghe băng ghi âm, khi tôi lái xe, tôi đã quen nghe băng ghi âm thuyết pháp của Sư Tôn rồi. Tôi ở Seattle Lôi Tạng Tự, mỗi lần đều đích thân nghe khai thị của Sư Tôn, thế nhưng tôi vẫn nghe lại những băng ghi âm của Sư Tôn. Rất nhiều khi một cuốn băng tôi nghe lại rất nhiều lần. Có một lần, khi tôi có khúc mắc trong lòng, tôi nghe được một câu trong băng ghi âm rằng "bạn buông bỏ mới có thể tự tại, bạn không thể buông bỏ thì nút thắt trong lòng bạn chính là phiền não của bạn". Chính là câu nói này, tôi đã ngẫm nghĩ một lúc, ngồi trong chiếc xe ô tô đó nghĩ một hồi, nghĩ thông rồi thì lập tức buông bỏ nó, lúc đó có thể buông bỏ luôn. Tôi nói kì lạ thật, vì sao tôi thường xuyên nghe, trước đây đều không phát hiện ra câu nói này có ích như vậy, hôm nay câu nói này sao lại có ích như thế? Tôi lại suy nghĩ, ồ! Hóa ra bởi vì khi trong lòng bạn có chuyện khúc mắc, đúng vào lúc bạn cần sự tưới đẫm của Phật pháp thì khi bạn nghe, bạn sẽ dùng đến nó. Vì vậy, nên nghe thường xuyên, cũng là rất có ích. Khi bạn cần có Phật pháp tưới đẫm, bạn hãy nghe, trước đây bạn không có cảm giác gì, khi mà bạn cần đến thì bạn sẽ hiểu được lợi ích của nó. Do vậy, thường xuyên đọc sách của Sư Tôn, nghe băng ghi âm Sư Tôn thuyết pháp, đây cũng là đang thực hành thanh tịnh. Bởi vì bạn đã dung nhập vào trong những văn tự Phật pháp, bạn đang nghe băng ghi âm cũng là quán tưởng nghĩ đến những điều trong khai thị của Sư Tôn, cũng giống như bạn đang đọc sách, đọc tụng kinh văn vậy, bạn để tâm chìm đắm vào trong Phật pháp. Bạn nói xem đây có phải là thực hành thanh tịnh hay không? Bạn muốn thanh tịnh, bạn muốn thành tựu, trước tiên tâm của bạn cần thanh tịnh, tâm không thanh tịnh thì làm sao thành tựu được? Thường xuyên dung nhập vào trong sự thực hành thanh tịnh, tâm linh của bạn sẽ càng được nâng cao, việc thế tục sẽ làm ít đi, việc thanh tịnh làm nhiều lên, tâm linh của bạn nâng cao thì càng ngày càng gần với Phật. Bạn chỉ cần đọc, bạn lập tức có thể lĩnh hội được cảnh giới đó của Phật. Khai thị của Sư Tôn từng nói rằng, bạn sẽ càng dễ tiếp thu hơn người khác, càng có thể lĩnh hội được nhiều hơn, đây chính là điều mà hôm nay tôi muốn nói với mọi người. Cần thực hành thanh tịnh như thế nào ư, thì đọc sách của Sư Tôn đó, nghe băng ghi âm Sư Tôn cũng tương đương với đọc kinh sách, niệm tụng kinh văn. Do vậy, hôm nay nói cho mọi người nghe cảm tưởng của tôi, hy vọng các đồng môn nghe được cuộc nói chuyện này sẽ có được chút ích lợi. Om mani padme hum. Khai thị tại Thập Thiện Đường ở Hong Kong ngày 24 tháng 8 năm 2000.

66. Phụ lục. Báo cáo về đại pháp hội Thời Luân Kim Cang tại Hong Kong

[Tin tức từ TBSN / Tiểu Vũ đưa tin]

Vào hồi 10 giờ sáng ngày 25 tháng 8, hội công đức Hoa Quang tại Hong Kong và hội đồng tu Thập Phương đã tổ chức bữa tiệc chào mừng Sư Tôn tại khách sạn Regent. Trước tiên là Sư Mẫu nói chuyện với mọi người, và còn nhắc đến bốn câu pháp ngữ của Sư Tôn, cùng chia sẻ với mọi người những tâm đắc của mình. Sư Mẫu bày tỏ rằng, mấy ngày nay đến thăm các phân đường, đã nghe rất nhiều khai thị của Sư Tôn, có được một vài điều tâm đắc, hy vọng chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau ôn tập. Sư Mẫu nói, trước đây Sư Mẫu nghi ngờ Phật Thích Ca Mâu Ni rõ ràng đã thuyết pháp 49 năm, nhưng sao lại bảo là không hề thuyết pháp. Sư Tôn cũng từng nói đã viết hơn trăm cuốn sách, khai thị đã 30 năm, nhưng cũng bảo "viết cũng như không viết, nói cũng như không nói", thế là vì sao? Bởi vì đó vốn dĩ chính là phép tắc tự nhiên của vũ trụ. Sư Tôn chỉ đang lặp lại lời của Phật Thích Ca Mâu Ni nói mà thôi. Sư Mẫu cũng chỉnh lý lời nói của Sư Tôn thành bốn câu pháp ngữ: Thứ nhất: tịch tĩnh là việc hạnh phúc nhất. Thứ hai: bồ đề tâm là công đức lớn nhất. Thứ ba: vô thường là chân lý cứu cánh nhất. Thứ tư: trí huệ là tôn giáo vĩ đại nhất. Mỗi khi trong cuộc sống có phát sinh phiền não, hy vọng đồng môn sẽ ngẫm nghĩ đến bốn câu này, sẽ có được lợi ích thật sự, có thể đạt đến trí huệ vô thượng chân chính.

67. Phụ lục. Hong Kong truyền pháp tiện lợi cho đệ tử toàn cầu

Thưa Sư Tôn, các vị Thượng sư, thầy giảng dạy, pháp sư, trợ giảng, đồng môn của Hong Kong Lôi Tạng Tự và đồng môn ở các nơi, chúc mọi người buổi tối tốt lành! Nhắc đến Hong Kong Lôi Tạng Tự khiến tôi nhớ lại tiền thân của nó, chính là Tín Pháp Đường. Nhắc đến Tín Pháp Đường, tôi cũng lại liên tưởng đến Thượng sư Liên Hàn, ông ấy là đường chủ sớm nhất của Tín Pháp Đường, cũng chính là vị đường chủ thứ nhất. Trải qua bao nhiêu năm nay, dưới sự dẫn dắt của Thượng sư Liên Hàn, Thượng sư Liên Hùng, và hội đồng Hong Kong Lôi Tạng Tự mà đã sinh ra tòa Lôi Tạng Tự này. Việc này phải nhờ vào tấm lòng nhiệt tình và phát tâm của họ. Ấn tượng của tôi đối với Hong Kong Lôi Tạng Tự vô cùng sâu sắc. Chúng ta lại nói chuyện một chút, lần này Sư Tôn truyền đại pháp Thời Luân Kim Cang, đặc biệt từ bi nghĩ cho các đệ tử Chân Phật, do vậy mới chọn lựa Hong Kong làm địa điểm để truyền đại pháp này, để cho đệ tử ở các quốc gia lân cận và đệ tử ở các nước phương Tây đều tiện lợi đến Hong Kong tham dự pháp hội này. Giả dụ tổ chức pháp hội này tại Seattle hoặc ở Đài Loan thì có lẽ rất nhiều người sẽ không dễ dàng đến được. Đặc biệt là đệ tử ở các vùng ở Trung Quốc, họ không thể nào đi Đài Loan được, cũng không dễ dàng đến được Seattle. Do vậy, Sư Tôn đã quyết định chọn địa điểm ở Hong Kong để truyền đại pháp Thời Luân Kim Cang này. Cũng tức là từ bi để tất cả các đệ tử tiện lợi đến được đây tham gia vào pháp hội thù thắng này. Muốn truyền đại pháp này, bởi vì đã lựa chọn làm tại Hong Kong, thế thì đương nhiên việc lựa chọn nhân tài cũng lựa chọn Thượng sư tương đối lão thành, tương đối có thâm niên - đó là Thượng sư Liên Hàn. Ông ấy không những là một vị Thượng sư lão thành từng trải, ông ấy cũng là một vị Thượng sư giỏi luôn tỉ mỉ tu trì Phật pháp trên cả phương diện lý thuyết và thực hành. Kể từ khi lựa chọn Thượng sư Liên Hàn chủ trì pháp hội Thời Luân Kim Cang này, Sư Tôn đã ban quán đảnh cho ông ấy, tôi biết rằng ông ấy ngày đêm không ngừng nghiên cứu và tu trì. Trong khoảng thời gian này, ông ấy cũng đích thân đến Seattle. Tôi tin rằng Thượng sư Liên Hàn trong lúc truyền pháp có thể thuật lại một cách tinh tế sâu sắc, cũng tin rằng mọi người có thể có được pháp hỷ tràn đầy. Lần này đến Hong Kong, tôi thấy các nhân viên làm việc của đơn vị tổ chức mỗi người đều gầy đi mất mấy cân, Thượng sư Liên Hàn hình như cũng gầy đi một chút, Thượng sư Liên Hùng dường như gầy đi cả chục cân. Tôi còn thấy rất nhiều đồng môn quá khứ đã từng đến Seattle, nay đến tham gia pháp hội, so với bây giờ đều đã khác xưa, đều gầy đi mấy cân rồi. Vì công tác chuẩn bị cho đại pháp hội lần này mà đơn vị tổ chức đã họp vô số lần, bàn bạc lên kế hoạch rất chu toàn, để cho đại chúng tham dự pháp hội có thể tham gia được pháp hội lần này như ý nguyện, có thể thuận lợi nhận được quán đảnh Thời Luân Kim Cang lần này. Do vậy, đơn vị tổ chức đã rất vất vả rồi, công tác chuẩn bị của họ đã bắt đầu được lên kế hoạch từ rất rất sớm, tiến hành từng bước, càng ngày càng bận, càng ngày càng chuẩn bị cho pháp hội một cách chặt chẽ. Do vậy, tôi vừa xuống máy bay đã thấy những gương mặt quen thuộc đều đã gầy đi, chúng tôi hỏi họ: "Mọi người gầy đi rồi đúng không?" Họ nói: "Đúng thế! Đúng thế! Mỗi người chúng tôi đều gầy đi mất mấy cân." Thật sự họ đã rất vất vả. Do vậy, lần này các đồng môn có thể đến hội trường này tham dự pháp hội, cũng hi vọng mọi người có thể tuân thủ một vài quy định của đơn vị tổ chức, để họ có thể tiện lợi sắp xếp, mọi người giữ trật tự, có thể đoàn kết nhất trí để làm tốt được pháp hội này như mong muốn. Đại pháp hội Thời Luân Kim Cang lần này có thể nói là rất nhiều đồng môn của Chân Phật Tông đều đưa cả gia đình tới tham dự, những ai có thể đến thì gần như đều đã đến cả, ai không thể đến thì phải chờ đến sự may mắn lần sau. Tuy nhiên, cũng không biết có lần sau không nữa, tôi cũng không dám bảo đảm, việc này cần hỏi Sư Tôn rồi! Pháp hội lần này đặc biệt náo nhiệt. Tôi biết không chỉ trong giới tôn giáo xôn xao mà cả bên ngoài cũng xôn xao. Có người ngoài tôn giáo biết được đã nói rằng, có Liên Sinh Hoạt Phật đại thành tựu như vậy truyền pháp Thời Luân Kim Cang thì họ phải mau chóng tới tham gia để còn nhận quán đảnh Thời Luân Kim Cang. Ngoài ra, còn có đồng môn nói rằng tháng bảy sẽ sinh con, nhưng kết quả là em bé vẫn chưa sinh ra, bèn chọn một cái tên hay trước, rồi mua vé máy bay, ngày 27 tháng 8 nhất định sẽ ôm theo em bé đến nhận quán đảnh. Thành tâm như vậy quả là tuyệt vời quá! Cũng có người ngồi xe lăn đáp máy bay đến nhận quán đảnh, tôi có biết mấy người như thế. Hơn nữa, cũng có những người vốn mắc bệnh nặng, họ cũng nghĩ không còn hi vọng gì. Kết quả là bác sĩ nói: "Anh cần phải mổ!" Đồng thời đã sắp xếp ngày phẫu thuật cho anh ta. Vốn dĩ anh ta không muốn phẫu thuật, kết quả là bản thân anh biết rằng cần đến nhận quán đảnh đại pháp này, liền thông báo với bác sĩ rằng: "Tôi muốn trước khi mổ, tôi đi nhận quán đảnh đại pháp này, vì tôi muốn nhanh khỏi bệnh." Bầu không khí sôi động của đại pháp hội quán đảnh Thời Luân Kim Cang đã sôi sục trong lòng rất nhiều đệ tử. Tôi đang nghĩ vào ngày 27 tháng 8 tới, tất cả mọi chỗ ngồi có thể phải người nọ ngồi trên lòng người kia thì mới ngồi hết được, có thể số lượng người sẽ đông gấp đôi so với dự tính. Do vậy, ở đây tôi xin nói với đơn vị tổ chức rằng: sự vất vả của các bạn là rất xứng đáng! Các bạn thật sự đã vất vả rồi! Sự vất vả của các bạn rất có giá trị! Sự vất vả của các bạn đã đem đến cho hàng nghìn hàng vạn đại chúng đến tham dự pháp hội một sự may mắn rất lớn, cũng đem đến phúc đức vô lượng cho các chúng sinh vô hình, sự vất vả này thật có ý nghĩa, là công đức vô lượng đó! Cuối cùng, chúng ta hãy cùng chúc phúc cho pháp hội này tất cả đều thuận lợi cát tường, công đức viên mãn, để đại chúng đến tham dự pháp hội đều có được quán đảnh vĩ đại này, có thể tu trì đại pháp này, trì chú này, có thể hiểu được về nội thời luân, ngoại thời luân, biệt thời luân mà thành tựu. Om mani padme hum! (Khai thị tại Hong Kong Lôi Tạng Tự ngày 24 tháng 8 năm 2000.)

68. Phụ lục. Chuyến du hành quên hết phiền lo cùng Phật

Thân là hành giả Mật giáo, lần này khi đi thăm các đạo tràng, mỗi lần đến một ngôi chùa, tôi sẽ luôn chắp tay quán tưởng đảnh lễ chư Phật Bồ Tát, và quán tưởng hai tay chạm vào chân Phật, và chư Phật cũng phóng ánh sáng trắng, đỏ, lam bao trùm lấy mình, nhờ vậy sản sinh ra pháp vị và cảm giác hoàn toàn thanh tịnh, khi làm như thế thì tâm trạng cũng đặc biệt tốt. Vừa nãy Sư Tôn đã khai thị rất rõ ràng ý nghĩa của bài hát, điệu múa, trò chơi, màn hoa, tôi nghĩ, đến tuần này, những tiếng cười vui vẻ phát ra từ nội tâm của chúng ta chính là những tiếng hát thanh tịnh. Hơn nữa, sự thanh tịnh này là những tràng cười lớn thoải mái không có một chút suy nghĩ ô nhiễm, lại càng là những âm thanh đẹp đẽ tuyệt diệu hơn, những thanh âm thanh tịnh nhất. Chuyến đi bộ của chúng tôi, leo núi lễ Phật, tức là đi thanh tịnh, là vũ điệu thanh tịnh. Đương nhiên ăn mặc chỉnh tề, sạch sẽ, trang nghiêm, chỉ cần xuất phát tự nội tâm để trang điểm cho bản thân, khiến người khác cảm thấy thoải mái, không nhếch nhác, thì cũng không khác gì cúng dường màn hoa rồi. Chúng tôi ngắm núi, ngắm sông, tâm không còn ý niệm ô nhiễm đi hành hương đến các đạo tràng tâm linh, cũng tức là một chuyến đi chơi rồi. Do vậy, cả tuần lễ này, tôi nghĩ chúng tôi đều đang hưởng thụ sự thanh tịnh và niềm vui của chốn thiên đường. Mặc dù sau khi trở về, có rất nhiều công việc đang chờ chúng tôi hoàn thành, nhưng mọi lời nói hành động của chúng tôi đều là tu hành. Tu pháp không nhất định là cần ngồi bên trong đàn thành, ra khỏi đàn thành chúng ta cũng vẫn phải tu hành. Điều này cho chúng ta trải nghiệm vô cùng sâu sắc. Khi còn nhỏ, tôi đã theo tín ngưỡng Phật giáo rồi, nhưng trước khi quen Sư Tôn, tôi mới chỉ dừng lại ở biểu hiện quỳ lễ thôi. Mãi đến sau khi quen Sư Tôn, tôi mới nhận ra trí huệ của Phật pháp mênh mông như biển. Tôi theo Sư Tôn hoằng pháp độ chúng đã 25 năm nay, trong vai trò xử lý các công việc tạp vụ. Tôi thấy có nhiều người thế này, có những việc hỏi mãi không hết, có những vấn đề giải quyết mãi không xong, tôi cũng từng cảm thấy rất phiền não, trong lòng nghĩ: vì sao những người này chỉ nghĩ về mong cầu cho bản thân, vì sao không nghĩ cho tôi một chút? Tuy nhiên, sau nhiều năm nghe những lời giảng pháp của Sư Tôn, cộng thêm sự tu hành của bản thân, dần dần, tôi bắt đầu thay đổi. Bây giờ, cho dù có nhiều đồng môn đến tìm tôi hơn nữa thì tôi đều dựa vào tâm vui vẻ, tâm hoan hỉ để tiếp nhận công việc vĩnh viễn không bao giờ làm hết này. Do vậy, khi sư tỉ Liên Thường nói: có biết bao công việc đặt lên vai Sư Mẫu, vì sao chẳng bao giờ thấy Sư Mẫu có bộ dạng chau mày ủ mặt, thở ngắn than dài? Tôi nói với cô ấy rằng: độ chúng sinh cần có lòng từ bi, bằng không làm sao có thể thu hút chúng sinh vào cửa Phật được? Từ đó có thể thấy là, chỉ cần tâm chúng ta chuyển hóa thì những phiền não trước đây lại trở thành một dạng pháp hỉ đó! Chuyến du lịch lần này, có thể cùng đi một chuyến quên hết buồn lo cùng Phật, cũng là một chuyến du hành đến thiên giới, trong lòng ngập tràn tình cảm biết ơn. Vừa nãy khi hát bài "Tấm lòng biết ơn", hát được một nửa, tôi không hát tiếp được nữa, vành mắt đều đỏ lên. Lời ca của bài hát này vô cùng có ý nghĩa, giống như kể về một đời con người, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, khiến cho người ta có rất nhiều rất nhiều cảm xúc. Hôm nay là lần đầu tiên tôi có cơ hội thưởng thức tỉ mỉ những ca từ này. Câu hát "tôi đến từ nơi nào, tình cảm đi về đâu" trong bài hát đã thức tỉnh chúng ta. Bạn từ nơi nào đến? Tương lai sẽ trở về đâu? Đây chính là việc tu hành Mật giáo của chúng ta, bởi vì chúng ta đều tu Chân Phật Mật Pháp, sau này sẽ đều trở về Ma Ha Song Liên Trì. Ngoài ra còn câu "nửa cuộc đời tôi, hãy để tôi có được dũng khí được làm chính mình", dường như muốn nói với chúng ta rằng, hành giả Mật giáo luôn có Căn bản Thượng sư ở trên đầu gia trì cho ta, để chúng ta trên con đường tu hành trong đời này có thể thuận lợi đến được bờ bên kia, để chúng ta có thể dũng mãnh, tinh tấn tu pháp, quay trở về với chính mình tự nhiên, có dũng khí để làm chính mình. Do vậy, tôi vô cùng cảm động, mỗi câu từ của bài hát này đều rất có ý nghĩa. Chúng ta hãy cùng chờ đến lần sau lại gặp mặt nhé! Cũng chúc phúc cho mọi người lên đường mạnh khỏe may mắn. Om mani padme hum! (Khai thị trong chuyến du lịch Tokyo Nhật Bản năm 2000.)

69. Phụ lục. Sum họp chúc mừng sinh nhật

[Cùng chúc cát tường tại Đại Hùng Điện - Seattle, nước Mỹ đưa tin / Pháp sư Huệ Quân ]

Bất Cấu Bất Tịnh Cát Tường Thiên, Khiên Chỉ Thiên Nữ hạ phàm trần, Hộ trì Thánh Tôn độ chúng sinh Hoa sen ngát hương mừng chúc thọ. Ngày 15 tháng 2 âm lịch (tức 26 tháng 3 dương lịch), cũng là ngày sinh nhật của Sư Mẫu Liên Hương Thượng Sư - người mẹ của hai triệu đệ tử. Trời vừa sáng, ở Chân Phật Mật Uyển đã có đồng môn dâng lên một lẵng hoa tươi, đính kèm thiệp chúc mừng sinh nhật, trên đó ghi đầy những tâm tình chúc mừng của các đệ tử. Bình thường Sư Mẫu ăn mặc mộc mạc giản dị: một chiếc lược đã dùng hơn mười năm, hoặc bộ quần áo, đôi giày đã dùng mấy năm, hiếm thấy có đồ mới, chịu vất vả đã quen, cũng không nỡ từ bỏ việc pháp vụ mà an tâm nghỉ ngơi. Đối với những khổ tâm trong lòng các đệ tử, Sư Mẫu lại càng kiên nhẫn khuyên bảo, khéo léo giảng giải thông qua các ví dụ khiến người ta thâm nhập vào trí huệ của Phật. Đối với việc chăm sóc Sư Tôn, việc lớn việc nhỏ, Sư Mẫu đều có thể quản lo. Sư Mẫu xử lý công việc, ứng đối với trí huệ hơn người, nghị lực của Sư Mẫu trong công việc thì lại càng khó có ai thay thế được. Buổi tối ngày hôm nay, Sư Tôn và Sư Mẫu đã đến Lôi Tạng Tự tham gia pháp hội sám hối đại bi. Vừa bước vào trong chùa đã phát hiện ra trong đại điện trang hoàng đầy bóng bay nhiều màu sắc, khiến người ta thích thú. Sau khi pháp hội kết thúc, người chủ trì Thượng sư Liên Diệu bất ngờ tuyên bố hoạt động chúc mừng sinh nhật Sư Mẫu, thế là rộ lên một bầu không khí sôi nổi ấm áp chúc mừng sinh nhật. Đầu tiên là các đệ tử biểu diễn cho các phóng viên truyền hình thông báo về tình hình tổ chức chúc mừng thánh đản của Cát Tường Thiên Nữ, phần giữa thì có xen phần quảng cáo (sợi chỉ ngũ sắc của Cát Tường Thiên Nữ), rồi tiếp theo là hợp xướng "Bàn tay của Sư Mẫu" (cải biên từ bài hát "Bàn tay của Khiên Nguyễn"), đồng môn đã đặc biệt làm ra một bàn tay khổng lồ tượng trưng cho nỗ lực vất vả làm pháp vụ của Sư Mẫu, không nề hà khó nhọc. Tiếp theo, các ngọn đèn trong đại điện đều được tắt hết, đồng môn cùng thắp lên những que ánh sáng huỳnh quang, Thượng sư Liên Diệu và mọi người cùng hát bài "Ánh trăng nói hộ lòng tôi", để bày tỏ tấm lòng kính trọng ngưỡng mộ của đồng môn đối với Sư Mẫu. Khi đèn đóm lại được bật sáng, các đệ tử đẩy ra ba chiếc hộp bánh sinh nhật rất to do pháp sư Liên Hinh cúng dường, mọi người cùng hát bài "Chúc mừng sinh nhật", ai nấy cầm hoa quỳ xuống dâng tặng Sư Mẫu, ấm áp cảm động. Sư Mẫu bày tỏ: công khai chúc mừng thế này, thật là ngại quá. Rồi ngay tại đó mọi người cũng đưa ra một vài câu đố hài hước và xoắn não để tất cả cùng được vui vẻ.

70. Phụ lục. Sư Mẫu không thích nổi danh

(Viết bởi Thượng sư Huệ Quân) Trước đây, mỗi lần người viết viết một bài viết mới, nhắc đến Sư Mẫu, hoặc trong ảnh chụp có Sư Mẫu, khi sắp đăng lên báo luôn bị Sư Mẫu phát hiện và ngăn lại. Sư Mẫu nói: "Tôi thích âm thầm làm việc, không thích ra mặt, xin đừng đăng báo." Sư Mẫu tôn sùng nhất, tôn kính nhất là Căn bản Thượng sư của chúng ta. Sư Mẫu thường nói, đệ tử Chân Phật cần dựa chủ yếu vào Căn bản Thượng sư, nương dựa vào Chân Phật căn bản truyền thừa. Trong chương sách "Thượng sư Liên Hương có lui về ở ẩn không", Sư Tôn đã hết lời ca ngợi tinh thần làm việc âm thầm của Sư Mẫu. Chương viết này của Sư Tôn đã được đăng trên Chân Phật Báo kì 153, trong chuyên mục "Chân Phật luận kiếm". Sư Tôn tuyên bố sẽ ẩn cư, khiến cho các đệ tử nhận ra toàn bộ cảnh giới tu hành thanh đạm của bậc Thánh giả. Một ngày kia Sư Tôn ẩn cư, bảo Chân Phật Tông Ủy tầm cỡ to lớn thế giới phải phát triển làm sao đây? Thượng sư Liên Hương đã quán xuyến và hiểu rõ hết mọi việc lớn nhỏ của tông phái, lại còn có sự ủy thác và gợi ý của Căn bản Thượng sư, tiếp tục trợ giúp cho Tông vụ Ủy viên hội Chân Phật Tông Thế giới. Đặc biệt trong nhiều năm qua, Sư Mẫu đã nghe theo chỉ thị của Căn bản Thượng sư, từ lâu đã giúp đỡ các Lôi Tạng Tự, phân đường, Thượng sư, pháp sư, đồng môn nhiều không kể xiết. Bình thường, ở trung tâm hồi đáp thư tín, điện thoại gọi đến tìm Sư Mẫu xin chỉ thị về các việc pháp vụ nhiều vô số kể, thế nhưng Sư Mẫu luôn luôn căn cứ theo chỉ đạo của Sư Tôn để hướng dẫn cho những người xin giúp đỡ. Sau đó, Sư Mẫu sẽ báo cáo lại rõ ràng rành mạch với Sư Tôn về pháp vụ của ngày hôm đó. Những việc pháp vụ ban ngày chưa xử lí hết, đến tối vẫn còn những việc bận rộn làm mãi không xong. Buổi tối mồng hai Tết, khi mọi người đang thưởng thức bữa cơm ngon thì Sư Mẫu vẫn còn ở trung tâm hồi đáp thư ôm chiếc điện thoại, trả lời việc trợ giúp pháp vụ của chúng sinh. Đợi đến khi Sư Mẫu về nhà thì lại có điện thoại thỉnh giáo Sư Mẫu về pháp vụ, tình cảnh này đã chẳng còn là chuyện lạ nữa. Sư Mẫu chỉ thích âm thầm vun trồng cho Chân Phật Tông, hồi đầu đã cực lực phản đối việc đặt cho Sư Mẫu bất kì chức vụ gì. Bây giờ, do Tông vụ Ủy viên hội đề cử Sư Mẫu là vị Thượng sư chỉ đạo cao nhất vĩnh viễn, Sư Mẫu lại càng dốc hết toàn bộ tâm lực cho sự phát triển của Tông Ủy Hội. Sư Mẫu bây giờ còn bận hơn trước nữa, ngày đêm vì Tông Ủy Hội, lên kế hoạch cho những việc của tông phái cho Chân Phật Tông thế giới. Sư Mẫu tôn sùng chỉ thị của Căn bản Thượng sư, y theo những điều chỉ dạy mà thực hiện. Sư Mẫu ngày đêm bôn ba, bận rộn vì việc của tông phái. Mặc dù Sư Mẫu không thích nổi danh, nhưng những việc làm khiến người khác cảm động của Sư Mẫu đã khiến cho người viết không thể kìm được mà viết ra bài viết này.

(Hết)

Mục lục