📓

Giảng thuyết Kinh A Di Đà - Cửu phẩm liên hoa sinh

image

Cửu phẩm liên hoa sinh - Liên Sinh Hoạt Phật giảng Kinh A Di Đà

Địa điểm: Chân Phật Mật Uyển - Seattle - Hoa Kỳ. Thời gian: Năm 1996 Quyển số: 627 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Mở đầu: Phật Thuyết A Di Đà Kinh (Kinh Văn)

Phật Thuyết A Di Đà Kinh Pháp sư Tam Tạng Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với đại chúng tỳ kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc đại A La Hán, được mọi người biết đến: trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Chu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, cùng các vị đại đệ tử như thế; và các vị Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, cùng các vị đại Bồ Tát như thế, và Thích Đề Hoàn Nhân và vô lượng chư thiên đại chúng có đủ.

Bấy giờ, Đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất: "Từ đây về phương Tây, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Ở cõi ấy có Đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp. Này Xá Lợi Phất! Vì sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Vì chúng sinh trong cõi nước đó không có các nỗi khổ, chỉ hưởng các điều vui, nên gọi là Cực Lạc.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được bao quanh bởi bốn loại báu, vì thế nên cõi ấy gọi là Cực Lạc. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó, đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn bên thềm bậc được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng được trang hoàng bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, hồng ngọc, mã não. Trong ao có hoa sen to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, hương thơm tinh khiết vi diệu. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thường nổi thiên nhạc, mặt đất bằng vàng ròng. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mandala từ trên trời rơi xuống. Chúng sinh cõi ấy, thường vào mỗi sáng sớm, đều dùng y phục đựng các hoa đẹp vi diệu, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về cõi nước của mình, thọ trai, kinh hành. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loại chim kỳ diệu đủ màu sắc: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, và chim cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót lên âm thanh hòa nhã, diễn xướng các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần; chúng sinh trong cõi ấy nghe những âm thanh này rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng.

Này Xá Lợi Phất! Ông chớ nghĩ rằng: "Những con chim này thực sự do tội báo mà sinh ra." Vì sao vậy? Vì cõi Phật ấy không có ba đường ác. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy còn không có tên gọi của đường ác, huống chi là có thật. Những con chim ấy đều do Phật A Di Đà muốn cho âm thanh của pháp được lan truyền mà biến hóa ra. Này Xá Lợi Phất! Ở cõi Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm nghìn loại nhạc cùng trỗi lên một lúc. Người nghe những âm thanh ấy tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Vì sao Đức Phật kia có hiệu là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Ánh sáng của Đức Phật ấy vô lượng, chiếu khắp mười phương cõi nước, không bị chướng ngại, vì thế nên có hiệu là A Di Đà. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên có hiệu là A Di Đà. Này Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã được mười kiếp. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là bậc A La Hán, không thể dùng toán số mà biết được, các Bồ Tát cũng như vậy. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào sinh về cõi nước Cực Lạc đều là bậc bất thoái chuyển. Trong số đó có rất nhiều vị Nhất Sinh Bổ Xứ, số lượng nhiều không thể tính đếm được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ. Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe được điều này nên phát nguyện sinh về cõi ấy. Vì sao vậy? Vì sẽ được cùng hội họp một chỗ với các bậc thượng thiện nhân như thế. Này Xá Lợi Phất! Không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi ấy. Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì khi người ấy lâm chung, Phật A Di Đà cùng các thánh chúng sẽ hiện ra trước mặt. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Này Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi ích ấy nên nói những lời này. Nếu có chúng sinh nào nghe được điều này, nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy.

Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay, tán thán công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật: ở phương Đông có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn." Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương Nam, có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn."

Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn." Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Thư Phật, Nhật Sinh Phật, Võng Minh Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn."

Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn." Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, và vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm, tán thán công đức không thể nghĩ bàn."

Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh được tất cả chư Phật hộ niệm? Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này và thọ trì, cùng nghe danh hiệu chư Phật, thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được bất thoái chuyển nơi đạo A nậu đa la tam miểu tam bồ đề. Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói. Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ở cõi nước kia, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh. Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu có lòng tin, nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy.

Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay tán thán công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật ấy cũng tán thán công đức không thể nghĩ bàn của ta mà nói rằng: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể làm được việc rất khó và hiếm có, có thể ở trong cõi Ta Bà, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Vì các chúng sinh mà nói pháp khó tin này trong tất cả thế gian." Này Xá Lợi Phất! Nên biết ta ở trong ngũ trược ác thế làm việc khó này, chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, vì tất cả thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó!"

Khi Đức Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất cùng các tỳ kheo, tất cả thế gian, trời, người, atula, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ tin nhận, đảnh lễ rồi lui ra.

01. Trình bày "A Di Đà Kinh Thích Yếu" (1)

Trước đây, những gì tôi giảng có thể gọi là rời rạc. Thế nào gọi là rời rạc? Đó là nghĩ tới đâu nói tới đó, không có một chương trình nhất định. Bây giờ chúng ta sẽ giảng kinh Phật chính thống, giống như chuyên chở cả một con tàu đầy ắp. Trước đây giảng như thuyền nhỏ, hôm nay giảng như tàu container; trước đây giảng có thể nói là vui vẻ, còn bây giờ giảng thì không vui vẻ như vậy.

Trước đây khi tôi theo học với thầy Lý Bỉnh Nam, nghe giảng Kinh A Di Đà, một lần nghe giảng kinh như thế là năm năm. Năm năm mà Thầy Lý vẫn chưa giảng xong một bộ Kinh A Di Đà, có thể thấy bộ kinh này thật vô cùng ý nghĩa!

Tuần trước chúng ta làm pháp hội, mọi người cũng đã được nghe những Mật pháp vô cùng quý báu. Tin rằng mọi người đã học xong những Mật pháp trong "Bí Mật Trong Chân Phật Mật Pháp", rồi sau đó lại học các pháp trung cấp; các pháp sơ cấp đã học xong, bây giờ là trung cấp, như pháp quán vô lượng tâm, pháp quán bảo kiếm Văn Thù Bồ Tát, hai pháp quán này thuộc về trung cấp.

Vậy thì, giữa Mật pháp trung cấp và cao cấp, chúng ta cần nghỉ ngơi một chút. Cho nên, vừa hay chọn quyển Kinh A Di Đà này để cùng nhau thảo luận, giảng giải, để chúng ta cùng nghiên cứu với nhau.

Tôi đã từng quy y lão pháp sư Lạc Quả, lão pháp sư Lạc Quả đã từng giảng giải một quyển "A Di Đà Kinh Thích Yếu". Khi tôi quy y lão pháp sư Lạc Quả là ở Sa Lộc, Đài Trung, thầy có một ngôi chùa ở Phố Lý gọi là chùa Phật Quang, cọc mốc trung tâm và đo đạc địa lý của điện chính chùa Phật Quang đều do tôi giúp thầy xem. Tuy nhiên, rất đáng tiếc là lão pháp sư Lạc Quả đã viên tịch. Hôm nay giảng Kinh A Di Đà, tôi sử dụng pháp bản của lão pháp sư Lạc Quả, cũng có ý nghĩa tưởng nhớ lão pháp sư trong đó.

Kinh này là do pháp sư Lạc Quả giảng khi còn tại thế, tôi xin đọc một đoạn cho mọi người nghe: "Đức Thế Tôn Thích Ca ra đời thuyết pháp là vì độ chúng sinh. Trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, những chúng sinh được độ bởi pháp môn Tịnh độ không thể tính đếm. Trong các pháp môn Tịnh độ, những người được độ bởi Kinh Phật Thuyết A Di Đà cũng không thể tính đếm. Nói chung, tin vào lời Phật Thích Ca, cùng tin vào lời chư Phật sáu phương, niệm Phật thành Phật, đây là nhân duyên lớn của đời người. Do vậy, mong rằng các vị cư sĩ hộ pháp, nghe pháp rồi giảng lại cho người khác, thường mơ thấy điềm lành như vậy. Huống chi là lưu thông Kinh Phật Thuyết A Di Đà, thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói. Công đức lợi ích này không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói mà diễn tả được, đó chính là nhân quả của Phật vậy."

Bốn chữ "Thích Ca Thế Tôn" ở trước, Thích Ca là một họ, cho nên chúng ta thường nói rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn thuộc về một chủng tộc gọi là tộc Thích Ca. Nơi Ngài sinh ra, theo nghiên cứu hiện nay, thực ra là ở vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nepal. Phật giáo phát triển mạnh ở Ấn Độ, Nepal và Kashmir.

Từ thuở ban đầu, trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập đạo, chỉ có đạo Bà La Môn, lúc đó chưa có tên gọi Phật giáo. Chỉ sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ chân lý, thì danh xưng Phật giáo mới bắt đầu tồn tại.

Thế Tôn nghĩa là gì? Thế Tôn có nghĩa là bậc được tất cả mọi người trên thế gian hết sức tôn kính. Câu này có nghĩa là: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc được tất cả mọi người trên thế gian tôn kính."

Khi xưa, lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ dưới cội bồ đề, trời đất đã có sáu lần chấn động lớn. Thực ra, sau khi rời cung điện xuất gia, Ngài không phải lập tức đến dưới cội bồ đề ngồi thiền để giác ngộ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trước tiên đã đi tham bái các vị thầy Bà La Môn, tổng cộng đã tham học với vô số vị, nhưng nổi tiếng nhất có sáu vị thầy.

Ngài từng treo một chân lơ lửng trên cây, đầu chúc xuống để tu luyện; từng nhịn ăn nhiều ngày, ngồi trong bụi gai để cho gai đâm vào thân thể; cũng từng không mặc quần áo ngồi trên núi cao tuyết phủ để tu luyện ; và còn từng lặn xuống đáy sông nín thở để tọa thiền.

Ngài tu luyện trên núi tuyết tổng cộng sáu năm, tức là tu luyện trong rừng khổ hạnh sáu năm. Sau sáu năm tu luyện, Ngài cảm thấy trình độ của mình chỉ có thể tạm thời quên đi nỗi đau khổ, chỉ có thể đưa tinh thần của mình lên đến tầng trời thứ tư, Ngài luôn muốn tiến lên cao hơn nhưng không thể. Có rất nhiều vị tiên nhân nói với Ngài: "Ngươi theo ta thì không sai đâu." Tiên nhân nói với Ngài: "Ở chỗ ta, ngươi có thể học được thuật thôi miên." Phật Thích Ca Mâu Ni không dùng miệng để trả lời, chỉ dùng mắt nhìn chằm chằm vào thầy của mình, và thầy đã bị Ngài thôi miên.

Thầy nói với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Ngươi có thể đi được rồi, vì ngươi đã học được hết những gì ta có thể dạy."

Phật Thích Ca Mâu Ni lại đến chỗ một vị tiên nhân khác, vị tiên nhân này có khả năng phun lửa từ miệng. Vị tiên nhân đó nói với Phật Thích Ca Mâu Ni: "Hãy theo ta học đi." Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Sau khi học được cách phun lửa, con sẽ phải đi làm đầu bếp sao?" Vị đạo sĩ phun lửa hỏi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Vậy ngươi muốn đạt được điều gì?" Đức Phật nói: "Con muốn đạt được chân lý đích thực của cuộc đời." Vị đạo sĩ phun lửa đó nói: "Ta không có những điều đó."

Lại có một vị tiên nhân nói với Phật Thích Ca Mâu Ni: "Ta có thể muốn ăn gì là có ngay thứ đó!" Ông ta chỉ cần đặt cái nồi trước cửa hang là lập tức biến ra thịt gà, thịt vịt, bánh bao, cả đống thức ăn đầy ắp, nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không học điều này.

Tiếp đến, Ngài gặp một vị tiên nhân có trình độ rất cao, vị tiên nhân này có thể bay lượn, và còn có thể ngồi trên cành cây đung đưa như đánh đu. Tuy nhiên, Phật hỏi ông ta: "Chân lý là gì?" Kết quả là vị tiên nhân đó nói: "Ta cũng không biết."

Một lần nọ, khi Phật Thích Ca Mâu Ni muốn đứng dậy khỏi tòa kim cang dưới cội bồ đề, Ngài phát hiện mình không thể đứng dậy và không thể đi được, chỉ có thể bò đến sông Ni Liên Thiền để uống nước. Khi bò được nửa đường, may mắn có một cô bé chăn cừu dâng sữa cừu cúng dường Ngài.

Ngài ngộ ra một câu "Người tu hành cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần và thể xác". Tuy về mặt tinh thần đã khai ngộ, nhưng về mặt thể xác vẫn cần phải bổ sung thức ăn. Hôm nay, Thượng sư dạy mọi người đừng nghĩ rằng nhịn đói tu hành là rất có nghị lực. Chúng ta không nên ăn quá nhiều để tránh dư thừa thịt. Vì vậy, ăn chỉ để đáp ứng nhu cầu của thể xác và tinh thần, vừa đủ là tốt.

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni hiểu được đạo lý này, Ngài đã chủ trương rằng thể xác và tinh thần cần phải hài hòa. Tuy nhiên, năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên đã lần lượt rời bỏ Ngài, bởi vì họ nhận thấy Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu ăn uống trở lại.

Cho nên khi các bạn thấy tôi ăn uống, hãy biết rằng tôi đang học theo Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy trong thời gian tu hành, tôi cũng đã trải qua nhiều ngày nhịn đói, nhưng thực tế, tinh thần con người cần giấc ngủ, thể xác con người cần thức ăn. Tu hành bằng cách nhịn ăn rất dễ gây tổn thương cho cả thể xác lẫn tinh thần.

Vì vậy, Ngài đã rời khỏi những vị tiên nhân Bà La Môn này để tìm kiếm chân lý của riêng mình. Cuối cùng, Đức Phật đến bên sông Ni Liên Thiền, dưới cội bồ đề. Ngài ngồi thiền ở đó từ tối đến sáng, và khi trời gần sáng, Ngài nhìn thấy một ngôi sao ở phương Đông, ngôi sao ấy chiếu vào tâm Ngài. Cuối cùng Ngài đã hiểu được thế nào là chân lý.

Tâm ấn mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ, tôi đã giảng cho mọi người vào hôm thứ Bảy rồi. Chân lý là gì? Chân lý chính là sự hợp nhất giữa bản thân với tâm thức vũ trụ! Ngoài "sự hợp nhất giữa bản thân với tâm thức vũ trụ" là chân lý ra, không có điều gì khác là chân lý cả. Những vì sao trên bầu trời vũ trụ chính là đại diện cho chân lý, ngôi sao chiếu vào tâm biểu thị rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã hợp nhất với tâm thức vũ trụ.

Bây giờ, mọi người đều đã khai ngộ. Nhưng trong tu tập thực sự, các bạn cũng phải đạt được sự hợp nhất với tâm thức tối thượng của vũ trụ, không thể sau khi khai ngộ về mặt tinh thần rồi thì để thân thể rơi vào hỗn loạn, vì vậy thực tế là phải tu hành.

Bây giờ nói đến câu thứ hai: "Thích Ca Thế Tôn, xuất thế thuyết pháp." Phật Thích Ca Mâu Ni từ đâu đến? Thực ra Phật Thích Ca Mâu Ni đến từ cõi trời Đao Lợi. Ngài từ cõi trời Đao Lợi trực tiếp giáng sinh xuống thế giới Ta Bà này, vì vậy khi vừa sinh ra, Ngài đã có thể bước đi trên hoa sen, mỗi bước chân đều sinh ra hoa sen, và còn có thể nói: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn". Đây chính là thuyết pháp, vừa sinh ra đã bắt đầu thuyết pháp.

Có một vị lão hòa thượng nói: "Nếu lúc đó tôi có mặt ở đó, tôi sẽ đánh chết Ngài bằng một gậy rồi đem cho chó ăn." Tại sao người này lại nói như vậy? Mọi người hãy suy nghĩ xem! Bởi vì vừa sinh ra đã biết đi, dưới chân sinh hoa sen, lại còn biết mở miệng nói chuyện, nếu không phải yêu quái thì là gì? Thực ra không phải vậy! Đây là lời của Thiền tông. Bởi vì Thiền tông có câu: "Gặp Phật giết Phật, gặp tướng diệt tướng, phàm những gì có tướng đều là hư vọng." Điều này nói hơi sâu một chút.

May mà vị lão hòa thượng đó không có mặt ở đó, tuy nhiên, khi câu nói này của Phật vừa được thốt ra, thiên hạ đều chấn động, mọi người đều nói: "Thằng nhỏ này quá kiêu ngạo, không phải là coi thường người khác sao? Làm sao có thể nói 'Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn' được?"

Hiện nay có nhiều người tu hành bắt chước câu nói của Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ mới ăn chay được ba ngày đã nói "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn", cho rằng không ai ở trên mình, tất cả đều ở dưới mình. Tuy nhiên, học theo cách này là sai. Đây là lời thuyết pháp đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni, ý nghĩa bề ngoài là như vậy.

Các bạn có biết trong ngày đầu tiên giáng sinh, khi Ngài nói "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn", chữ "ngã" này ám chỉ điều gì không?

Chữ "ngã" này chỉ "chân lý", chữ "ngã" này chỉ "tâm thức vũ trụ", chữ "ngã" này chính là "đại ngã vô cùng tận", chữ "ngã" này là "bất tử", là "vô hình", là "vô cùng lớn", là "vô hạn".

Hôm nay giảng rõ như vậy là tốt rồi, nếu không giảng rõ, mọi người đều biến thành ma. Chữ "ngã" này không phải chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài không nói về "tôi", Ngài nói về "trời" và "đất", Ngài đã chỉ ra "cái tôi lớn vô cùng" này.

Tất cả mọi người trên thế giới đều chỉ nói về "cái tôi của chính mình", chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói về "cái tôi của trời", "cái tôi của đất", "cái tôi vô cùng lớn". Vì thế ngay khi Phật Thích Ca ra đời, Ngài đã thuyết pháp. Một bậc vĩ đại như vậy, đương nhiên khi sinh ra phải có hoa sen mọc dưới chân, và lập tức biết đi, lập tức biết thuyết pháp.

Mặc dù từ cõi trời Đao Lợi giáng sinh và có khả năng thuyết pháp, nhưng Ngài vẫn phải trải qua những khổ hạnh ở cõi người; sáu năm trong rừng khổ hạnh, chịu đựng vô vàn khổ đau. Vì vậy môi trường tu hành của chúng ta ngày nay quá tốt, không có gì lạ khi tất cả đều rơi vào "Tam ma địa ngủ gật".

Người ta ngồi thiền là phải ngồi giữa rừng gai, để những cái gai đâm vào thịt mà ngồi thiền, như vậy mới không ngủ gật, đây là biểu hiện của sự tu hành, là nghị lực thực sự tập trung tinh thần. Người tu hành vì ăn ít, có thể khi ngồi thiền bụng đói, nhưng có thể chuyển hóa cơn đói, có thể chuyển hóa bệnh tật trong cơ thể, có thể chuyển hóa tất cả những phước báu của mình, có thể thực sự có được sức mạnh tinh thần, để cho dòng pháp của vũ trụ tràn đầy thân thể.

Đức Phật trụ thế và thuyết pháp đều có ý nghĩa của nó. Như ngài Milarepa, tu hành mười hai năm, đến cuối cùng, tất cả y phục đều rách nát, giống như lá cây rơi trên thân vậy, chỉ cần cơ thể hơi động đậy, tất cả lá cây đều rơi xuống đất. Vì thế có những cô gái mang đồ đến cúng dường Ngài đều sợ hãi, bởi vì trên thân Ngài không còn lấy một thứ gì, tất cả đều rách nát.

Vì độ chúng sinh mà phải chịu nhiều khổ đau như vậy. Vậy mà chúng ta bây giờ mới tu được bao lâu? Mọi người có thể cho rằng tu một ngày đã là rất khổ rồi. Tôi cứ nghĩ mãi, tại sao các bạn ăn cơm không thấy khổ? Mà còn đều đặn ba bữa mỗi ngày. Các bạn chỉ thấy được cơm hữu hình, mà không thấy được cơm vô hình.

Thật ra, dòng chảy pháp của vũ trụ chính là thức ăn vô hình của chúng ta; các bạn có được dòng sữa pháp tuyệt vời như vậy từ vũ trụ, chúng ta gọi đó là sữa - sữa pháp của vũ trụ, sữa của Phật pháp, thế mà cho các bạn uống cũng không chịu uống. Một ngày chỉ bảo uống một lần cũng không uống, thật lạ! Mọi người chỉ thích ăn cơm.

Hiện nay tôi không ăn sáng, những ngày gần đây, buổi sáng tôi chỉ uống đơn giản một ly sữa nhỏ mà thôi, không ăn gì cả. Dành một bữa để uống sữa pháp - sữa của Phật pháp. Khi bạn thật sự có thể nếm được sữa pháp, bạn sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc chân thật, còn hạnh phúc hơn cả trúng số độc đắc; khi có thể uống được sữa pháp của vũ trụ, cũng giống như toàn bộ vũ trụ đều thuộc về bạn.

Pháp thoại tối nay nhằm mong mọi người thực sự có thể nếm được sữa pháp của vũ trụ. Ai đã nhận được sữa pháp của vũ trụ xin giơ tay! Vừa rồi sữa pháp của vũ trụ đã tuôn xuống. Tôi tin rằng những ai đang chụp ảnh, nếu gặp được duyên lành, sẽ chụp được hình ảnh sữa pháp đang tuôn xuống. Mong mọi người rửa ảnh ra xem, sẽ thấy như một thác sữa vậy; thác nước thì là nước, nhưng thác này là thác sữa, sức mạnh của nó thật vô cùng vĩ đại!

Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế gian này không phải để dạy người ta cầu tài lộc, nên câu thứ hai mới nói "Thích Ca Thế Tôn, xuất thế thuyết pháp." Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế gian là để giảng về pháp của sữa pháp này.

Những gì tôi nói với mọi người hôm nay chính là giảng về pháp của sữa pháp này. Các bạn đi theo tôi, chắc chắn sẽ có sữa pháp để uống, không cần phải tốn bao nhiêu tiền, bởi vì chỉ cần khi tu pháp có thể thực sự hợp nhất với vũ trụ, sữa pháp nhất định sẽ tuôn xuống. Chắc chắn có thể cảm nhận được hương vị thơm ngát bên trong, tràn đầy khắp thân thể, toàn thân đều có thể tỏa sáng, trở thành một với chân lý, vũ trụ chính là của bạn, đây chính là "sự sống vĩnh hằng" mà Cơ Đốc giáo nói đến, là "vô sinh" mà Phật giáo nói đến, điều này chúng ta đã nói đến lần trước.

Trạng thái ban đầu khi nhập Tam ma địa là ở thiên tâm và đỉnh huyệt có cảm giác tê tê, sữa pháp tuôn xuống, làm cho tất cả tế bào ở đầu đều tràn ngập niềm hạnh phúc. Sau đó sữa pháp tiếp tục chảy xuống phần thân trên của bạn, tất cả tế bào ở thân trên và đầu đều ngập tràn hạnh phúc, rồi sữa pháp chảy xuống đến chân, khiến tất cả tế bào trong toàn thân đều tràn đầy hạnh phúc, đây chính là Đại Lạc Kim Cang, đây chính là Tam ma địa ở giai đoạn sơ cơ.

Khi có được Tam ma địa sơ cơ, sữa pháp sẽ chảy từ đỉnh huyệt xuống bình thân thể của bạn, khiến cho bình thân thể của bạn tràn đầy sữa pháp. Bạn biết không! Những cô gái xinh đẹp kia giống như trái bầu vậy, có hình dạng như trái bầu, có nghĩa là bên trong tràn đầy dòng pháp, bắt đầu từ đỉnh đầu, rồi khi tràn đầy thì trái bầu này trở nên trong suốt, trái bầu này chính là đại diện cho một con người.

Hôm nay Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết pháp, tôi theo học với Phật Thích Ca Mâu Ni, giải thích về pháp, và tôi thực sự đã thể nghiệm được pháp này. Vì bản thân đã có sự thể nghiệm nên tôi mới giảng cho mọi người nghe. Điều này vô cùng quý giá, và là điều chân thật, quý báu, không thể dùng tiền mà mua được.

Cuối cùng, tôi xin nói thêm một câu mà Phật đã dạy: "Trên trời dưới đất, chỉ có chân lý là tối thượng". Vậy chân lý là gì? Chân lý chính là sự hợp nhất hoàn toàn với sữa pháp của vũ trụ, chỉ có như vậy mới đạt được "sự sống vĩnh hằng" và "vô sinh", ngoài ra, không có một thứ gì trên thế gian này là tồn tại mãi mãi!

Om mani padme hum.

02. Trình bày "A Di Đà Kinh Thích Yếu" (2)

Tuần trước chúng ta đã nói về "Thế Tôn Thích Ca, xuất thế thuyết pháp." Sự xuất thế thuyết pháp này chính là "vì độ chúng sinh nên thuyết tám vạn bốn nghìn pháp môn, trong đó những người được độ bởi pháp môn Tịnh Độ thì không thể tính đếm được." Điều này có nghĩa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế gian là để độ chúng sinh. Còn bản thân tôi nghĩ rằng, việc tôi đang thuyết pháp ở đây cũng là để độ chúng sinh.

Tuy nhiên, đôi khi nghĩ lại, độ chúng sinh thật ra là chúng sinh khó độ. Có lúc lại nghĩ, không chỉ chúng sinh khó độ, mà độ chính mình cũng khó. Một người nếu có thể thật sự độ được chính mình, đã đủ tư cách gọi là bậc thánh nhân. Những người trên thế gian này, ai cũng có hoài bão lớn lao, hiện nay có những người muốn tu hành, ngay từ đầu đã phát tâm bồ đề muốn độ chúng sinh. Thực ra, tôi nghĩ thế này, trong tương lai tông phái của chúng ta, nếu có một người được độ, hoặc hai người được độ, hoặc nhiều hơn nữa - mười người được độ, thì đã là rất đáng mừng rồi.

Thật ra, độ chúng sinh là việc rất khó khăn, muốn độ chúng sinh cần phải thuyết rất nhiều pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni đối với chúng sinh Tiểu thừa thì giảng pháp Tứ đế; đối với chúng sinh Đại thừa thì giảng pháp Lục độ; đối với chúng sinh Trung thừa thì giảng pháp Thập nhị nhân duyên. Phật Thích Ca Mâu Ni thuở xưa cũng giảng Kinh A Di Đà, vì vậy khi pháp sư Lạc Quả nói đến đoạn này, ngài đã dạy rằng: "Chỉ riêng những người được độ bởi pháp môn Tịnh Độ đã không thể tính đếm được."

Pháp môn Tịnh Độ là gì? Pháp môn Tịnh Độ bắt nguồn từ hòa thượng Huệ Viễn của Trung Quốc. Khi ngài đến lầu tạng kinh xem kinh sách và đọc được Kinh A Di Đà, ngài nhận thấy trong kinh dạy rằng: "Chỉ cần niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, Phật sẽ đến tiếp dẫn vãng sinh về Tây phương". Hòa thượng Huệ Viễn cho rằng bộ kinh này là một pháp môn rất thuận tiện và tốt đẹp, vì vậy ngài đã thành lập Niệm Phật Xã ở Lư Sơn (Bạch Liên Xã). Pháp môn này được gọi là pháp môn Tịnh Độ, cũng chính là tông phái Tịnh Độ tông trong Phật giáo ngày nay.

Lúc mới bắt đầu, tôi đã từng đọc một cuốn sách của Tịnh Độ tông, đó là "Văn Tịnh Độ Long Thư". Trong cuốn sách này mô tả có rất nhiều người, nhờ học Tịnh Độ và niệm Phật, mà đạt được đại thành tựu vãng sinh Tây phương.

Trước đây tôi cũng đọc cuốn sách này và vô cùng xúc động. Tuy hiện nay chúng ta tu Mật pháp, nhưng mỗi lần tu Mật pháp xong, sau khi kết thúc pháp hội đồng tu, chúng ta đều có niệm Phật. Chúng ta lấy tu Mật pháp làm chính, lấy niệm Phật làm phụ. Tôi luôn nghĩ rằng, vì Mật pháp cần phải có người đại trí tuệ mới tu được, còn Tịnh Độ thì sao? Bất kể bạn là đại trí tuệ hay tiểu trí tuệ, tất cả đều có thể tu được. Cho nên, không bắt được chuyến bay đầu tiên thì có thể bắt chuyến thứ hai. Dù Mật pháp chưa tu đến tương ứng, nhưng nếu bạn niệm Tịnh Độ thuần thục, chư Phật Bồ Tát vẫn sẽ đến tiếp dẫn bạn vãng sinh. Vì vậy, Thượng sư truyền pháp không chỉ giảng Mật tông mà còn giảng Tịnh Độ, giăng nhiều tấm lưới như vậy chính là để bắt được cá.

Kinh A Di Đà này, số người được độ cũng không thể tính đếm được. Vì đây là kinh do Đức Phật thuyết giảng, và vì chúng ta tin Phật, nên chúng ta tin vào cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Khi chúng ta niệm danh hiệu của Ngài, Ngài nghe được tiếng gọi của chúng ta và sẽ đến tiếp dẫn. Giống như việc hôm nay các bạn vừa nghe tôi nói "Chủ nhân của tôi xin nghỉ một tiếng đồng hồ", các bạn đều tin đó là sự thật! Bởi vì các bạn tin tưởng Lư Thắng Ngạn! Nếu các bạn không tin lời tôi nói, thì đoạn vừa rồi của tôi chẳng khác nào nói khoác.

Từ đó chúng ta biết rằng: "Do tin vào lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni và lời dạy của chư Phật sáu phương, việc niệm Phật thành Phật là nhân duyên lớn của đời người. Do vậy, mong rằng các vị cư sĩ hộ pháp, sau khi nghe pháp hãy giảng lại cho người khác. Thường xuyên có những giấc mộng tốt lành như vậy, huống chi là lưu thông Kinh Phật Thuyết A Di Đà, thọ trì đọc tụng, và giảng giải cho người khác. Công đức lợi ích này không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói mà diễn tả được, đó chính là nhân quả của Phật vậy."

Trong những kinh Phật thuyết giảng, có kinh nói về khoa học, có kinh nói về triết học, thiên văn, địa lý, chính pháp, và cả những pháp phương tiện. Bậc đại trí giác ngộ như vậy rất hiếm có trên thế gian này. Bởi vì bản thân tôi cũng đã từng đến thế giới Tây phương Cực Lạc, và tôi còn cam đoan rằng, tôi là người từ thế giới Tây phương Cực Lạc đến, nếu sau này khi tôi ra đi, có lẽ cũng sẽ trực tiếp trở về nơi đó. Những điều tôi đã "thấy" trước đây đều rất chân thật, cho đến bây giờ vẫn còn rõ ràng như ở trước mắt vậy. Vì đã thực sự chứng kiến, nên tôi càng tin tưởng sâu sắc vào sự hiện hữu của thế giới Tây phương Cực Lạc.

Ngày nay các pháp sư thuyết giảng kinh, trong sách viết thế nào thì họ giảng y như vậy. Có người hỏi: "Thầy đã từng đến thế giới Tây phương Cực Lạc chưa?" Họ đáp: "Nếu tôi đã đến đó thì tôi đã chết rồi!" Như thể hỏi họ đã đến đó chưa là đang thúc họ mau chết vậy, bởi vì trên nhà tang lễ đều treo biển "Vãng sinh Tây phương" mà!

Tuy nhiên, hôm nay Thượng sư có thể nói với mọi người rằng: "Tôi thật sự đã đến đó, và tôi đã đến một lần, only one, chỉ một lần duy nhất. Về việc muốn đến đó lần nữa, Ngài nói: 'Đợi khi ra đi hẳn rồi hãy đến!'"

Vì vậy, tôi cam đoan với mọi người rằng thế giới Tây phương Cực Lạc thực sự tồn tại, và chư Phật ở đó vô cùng trang nghiêm. Mọi người có thể tin vào lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni, và cũng có thể tin vào những lời tôi nói hôm nay. Chỉ cần chúng ta thường xuyên niệm Phật và tưởng nhớ đến Phật vào buổi sáng và tối khi có thời gian, với sự nhất tâm bất loạn, chắc chắn Phật sẽ đến tiếp dẫn chúng ta. Như pháp sư Lạc Quả đã dạy: "Tóm lại, tin vào lời Phật Thích Ca, tin vào lời chư Phật sáu phương, niệm Phật thành Phật, đó là nhân duyên lớn của đời người."

Tôi cảm thấy Phật Thích Ca Mâu Ni rất thông minh và có trí huệ lớn. Sự lựa chọn của Ngài khác với sự lựa chọn của người đời. Người đời nếu sinh ra là thân vương tử thì sẽ chọn làm vua trong tương lai, không muốn xuất gia, đây gọi là "nhân duyên lớn". Nếu ngày xưa Phật Thích Ca không xuất gia mà làm vua một nước nhỏ ở Ấn Độ thì ngày nay chẳng ai biết đến Ngài. Ngày nay ai biết tên các vị vua của những nước nhỏ ở Ấn Độ chứ! Nói thật, ngay cả các đời tổng thống Mỹ, tôi cũng chỉ biết một vài người, như Washington khai quốc, Lincoln, Wilson, Jefferson! Chỉ biết những người nổi tiếng này thôi, còn lại không biết. Cho nên thực tế mà nói, sự lựa chọn của Phật Thích Ca là đúng đắn, Ngài muốn xuất gia thành Phật, không muốn làm vua.

Nói thêm, trước đây khi tôi từ chức thiếu tá trong quân đội, cấp trên của tôi đã nói với tôi: "Đừng nghỉ! Nếu anh không nghỉ, tôi sẽ cho anh lên trung tá, và còn có thể thăng tiến xa hơn nữa, có thể lên đến thiếu tướng, làm tướng đấy!" Tôi nói: "Tôi không muốn, tôi không muốn làm tướng, bởi vì nếu bây giờ tôi làm tướng, chẳng có mấy ai biết đến tôi, chỉ có vài thuộc cấp biết tôi thôi." Vì vậy, ngày nay tôi học Phật cũng là vì nhân duyên lớn của đời người, nhờ đó mà hiện nay trên toàn thế giới mới có hơn trăm nghìn đệ tử.

Vì vậy sự lựa chọn ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều đang chọn lựa một nhân duyên lớn trong cuộc đời, làm vua hay làm tướng đều không có ý nghĩa bằng việc học Phật. Giống như những người giàu có trên thế gian này, đôi khi người ta chưa chắc đã biết đến họ. Chúng ta hôm nay học Phật, học pháp chính là vì một nhân duyên lớn. Điểm xuất phát của chúng ta giống như Phật Thích Ca Mâu Ni vậy, như thế cuộc đời của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn bất kì ai khác.

Pháp sư Lạc Quả dạy: "Như vậy, mong rằng các vị cư sĩ hộ pháp, sau khi nghe pháp hãy giảng lại cho người khác. Thường xuyên có những giấc mộng tốt lành như vậy, huống chi là lưu thông Kinh Phật Thuyết A Di Đà, thọ trì đọc tụng, và giảng giải cho người khác. Công đức lợi ích này không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói mà diễn tả được, đó chính là nhân quả của Phật vậy." Chúng ta đều là những người có nhân Phật và quả Phật, hôm nay nghe Kinh Phật Thuyết A Di Đà, chúng ta phải thường xuyên giảng về công đức của Phật A Di Đà cho mọi người, in ấn Kinh Phật Thuyết A Di Đà, thường xuyên niệm Phật, hoặc đọc tụng kinh này, và thường xuyên giảng giải kinh này cho người khác. Điều này mang lại rất nhiều công đức và có ý nghĩa sâu sắc. Người giảng kinh là gieo nhân Phật vào tâm chúng sinh, còn người nghe sẽ đạt được quả Phật! Hôm nay xin giảng đến đây.

Om mani padme hum.

03. Trình bày "A Di Đà Kinh Thích Yếu" (3)

"Phật Thuyết A Di Đà Kinh" là do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng về Phật A Di Đà, không phải Phật A Di Đà thuyết giảng về Phật Thích Ca Mâu Ni. Giảng tới giảng lui đều là A Di Đà Phật, không giảng cũng là A Di Đà Phật, bây giờ giảng cũng là A Di Đà Phật, một lát nữa giảng xong vẫn là A Di Đà Phật.

Tại sao phải giảng về Phật A Di Đà? Bởi vì chỉ cần thọ trì danh hiệu của Phật A Di Đà thì sẽ có công đức và lợi ích. Bản thân Thượng sư cũng thường niệm A Di Đà Phật, khi các bạn đảnh lễ Thượng sư, Thượng sư liền niệm "Nam mô A Di Đà Phật", điều này là niệm cho các bạn nghe, để in vào tâm các bạn, để trong tâm có hạt giống Phật, sau này sẽ nảy mầm và phát triển.

Chúng ta thường niệm A Di Đà Phật cho người khác, đây chính là "nhân Phật" và "quả Phật".

Thật ra, trước khi có "Phật Thuyết A Di Đà Kinh", trên thế gian này đã có A Di Đà Phật rồi, A Di Đà Phật là vị Phật tồn tại vĩnh hằng. Hôm nay, có lẽ các bạn không biết A Di Đà Phật tối nay có đến hay không? Thực ra không đến mà cũng có đến. Bởi vì Ngài không đến không đi, không ở đây mà cũng ở đây, cho nên gọi là "Như Lai".

Niệm Phật có thể thành Phật, tại sao vậy? Bởi vì bản thân bạn vốn là Phật. Khi bạn niệm Phật, miệng được thanh tịnh; khi tai nghe được Phật, tai được thanh tịnh; khi tai nghe được Phật, ấn Phật này khắc vào tâm bạn, tâm bạn được thanh tịnh. Nhờ những yếu tố này mà bản thân tự chuyển hóa thành hình tượng Phật.

Pháp niệm Phật của Tịnh Độ tông thực ra cùng một nguyên lý với việc tu hành và thành Phật của Mật tông. Hôm nay cũng có người hỏi tôi: "Thầy học Mật tông, tại sao lại giảng Kinh A Di Đà?" Thực ra Kinh A Di Đà của Tịnh Độ tông chính là pháp phương tiện của Mật tông. Khi chúng ta niệm Phật, miệng sẽ không nói lời thô tục; khi chúng ta niệm A Di Đà Phật, tai chỉ nghe được danh hiệu A Di Đà Phật; khi chúng ta quán tưởng hình tướng trang nghiêm của Phật trong tâm, đó chính là pháp quán tưởng của Mật tông. Như vậy không phải là tam mật thành tựu sao? Ngày nay ở Đài Loan có rất nhiều tông phái, phần lớn nghi thức lễ bái và tu hành của họ đều dùng niệm tưởng.

Tuy bản thân chúng ta học Mật tông, nhưng cũng dạy mọi người niệm Phật, vì vậy cần phải giảng quyển Kinh A Di Đà này cho mọi người.

Mấy câu tiếp theo là: "Nay giải thích kinh này, xin tuân theo Thiên Thai tông, giải thích theo Ngũ trùng huyền nghĩa." Ý nghĩa là: hôm nay khi giải thích Kinh A Di Đà này, vẫn phải theo phương pháp của Thiên Thai tông để giải thích bộ kinh điển này.

Khi Thiên Thai tông giải thích và phiên dịch tất cả kinh điển, đều phải giảng về "Ngũ trùng huyền nghĩa". "Ngũ trùng" nghĩa là năm tầng, năm trình tự - từ một đến năm. Còn "huyền nghĩa" là gì? Đó là dùng cách diễn giải huyền diệu để giải thích ý nghĩa bên trong kinh.

Ngũ trùng gồm: Thứ nhất, "Thích danh" là giải thích tên kinh. Thứ hai, "Biện thể" là giải thích thể tướng của bản kinh. Thứ ba là "Minh tông", làm rõ tông chỉ của kinh, Đức Phật thuyết kinh này với mục đích gì? Thứ tư là "Luận dụng", bàn về cách vận dụng bộ kinh này như thế nào, có những phương pháp nào để ứng dụng? Thứ năm là "Phán giáo", nghĩa là phân định giáo pháp của Phật để độ chúng sinh, xem xét độ nông sâu của giáo pháp đó.

Vì vậy, khi giải thích bộ kinh này, chúng ta sẽ dùng năm phương pháp này, thông qua hỏi và đáp để giải thích bộ kinh điển này.

Hôm nay giảng "Phật Thuyết A Di Đà Kinh" đến đây.

Om mani padme hum.

04. Ngũ trùng huyền nghĩa — Thích danh

Trước tiên chúng ta sẽ nói về tầng thứ nhất trong Ngũ trùng huyền nghĩa. Tầng thứ nhất chính là "Thích danh", nghĩa là giải thích tên của bộ kinh này. Bộ kinh này lấy gì làm tên? Đó chính là năm chữ "Phật Thuyết A Di Đà". Thực ra, bộ kinh này dùng tên của hai vị làm tên kinh, một vị là Phật Thích Ca Mâu Ni, vị kia là Phật A Di Đà, tức là Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng về Phật A Di Đà. Tại sao nói là người thuyết giảng? Bởi vì lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni là người!

Tại sao nói Phật A Di Đà cũng là người? Chúng ta giải thích rằng cả hai vị đều là những người đã chứng đắc quả vị giác ngộ tối thượng vi diệu. Vậy thế nào là Phật? Đại giác chính là Phật. Khi một người đạt được đại giác ngộ, danh hiệu của người đó chính là "Phật".

Vì thế trong kinh Phật có câu: "Người giác ngộ là Phật, người chưa giác ngộ là chúng sinh." Cho nên có thể nói hai vị này đều là "bậc cứu cánh", nói cho cùng, đó là "con người chân chính". Vậy chúng ta là người gì? Chúng ta không phải là người sao? Nếu ai đó nói chúng ta không phải là người, chúng ta sẽ rất tức giận. Không sao cả! Chúng ta không phải là người, mà là Phật. Lần sau có người mắng bạn: "Anh không phải là người!" Bạn có thể nói: "Không sao cả! Vì tôi là Phật".

Đức Phật - Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật A Di Đà đều là những bậc giác ngộ viên mãn. Hai chữ "viên mãn" này thật sâu sắc! Đó chính là những bậc đã đạt được chân lý, thông đạt được đại đạo, vì vậy khi bắt đầu giải thích thì trước tiên phải giải thích tên của bộ kinh này.

05. Ngũ trùng huyền nghĩa — Biện thể

Trong Ngũ trùng huyền nghĩa, tầng thứ hai là "Biện thể", nghĩa là phân biệt bộ kinh này thuộc thể loại gì? Thuộc dạng thể văn như thế nào? Kinh Phật Thuyết A Di Đà lấy gì làm thể? Lấy "thực tướng" làm thể. Vậy thực tướng là gì? Thực tướng còn gọi là phi tướng, nghĩa là không có tướng, không không tướng. Như đã viết ở trên "vô phi hữu phi vô tướng" và "ly tứ tướng, tuyệt bách phi". Trong đó, "tứ tướng" được nhắc đến trong Kinh Kim Cang, đó là "vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng", nghĩa là không còn bốn tướng này. Vì vậy, khi không còn bốn tướng này, gọi là "thực tướng".

Tôi giải thích về "vô ngã tướng". Hôm nay tôi đang thuyết pháp ở đây, hôm nay tôi không thuyết pháp ở đây, hai điều này mâu thuẫn với nhau. Hiện giờ tôi đang thuyết pháp ở đây, các bạn có tin không? Các bạn tin! Nhưng nếu tôi nói rằng hôm nay tôi không thuyết pháp ở đây, các bạn có tin không? Các bạn không tin! Bởi vì hiện giờ đang thuyết pháp. Nhưng giả sử tất cả các bạn đều đã về hết, tôi cũng đã đi rồi, bỗng nhiên có một người đến, bên trong không có ai cả, người đó có tin rằng hôm nay tôi thuyết pháp không? Người đó không tin. Ở đây có một vấn đề tồn tại: có "ngã" thì có phiền não, không có "ngã" thì không có phiền não.

Phiền não trên thế gian này đều do cái "ngã" mà sinh ra. Hôm nay có người chửi người khác, tôi không phiền não, nhưng chửi tôi thì tôi phiền não, đi kiện ra tòa, ra tòa kiện người ta, vì anh chửi tôi nên tôi kiện anh, đó chính là có cái "ngã", có cái "ngã" xuất hiện. Giả như bạn tu luyện đến mức không còn "ngã", thì lời chửi từ đây vào, đi qua đây, rồi từ phía sau đi ra, vì không chạm được vào "ngã" nên những lời chửi đó vô dụng, do đó không có phiền não. Chúng sinh có phiền não là vì có "ngã tướng", cho nên chư Phật Bồ Tát dạy chúng ta phải "vô ngã tướng".

Hôm nay người khác có tiền là chuyện của họ, nhưng đôi khi nói đến chuyện có tiền sẽ bị người khác ghen tị, bởi vì "ngã tướng" hiện ra; không có tiền bạn cũng phiền não, vì "ngã tướng" cũng hiện ra. Giả như bỏ được cái "ngã" này đi, bạn sẽ không ghen tị với người khác, cũng không bị người khác ghen ghét. "Ngã tướng" chính là nguồn gốc của phiền não, điều này rất sâu sắc, vì vậy người tu hành phải tu đến mức "vô ngã tướng". Hiện giờ tôi đã tu đến mức chỉ còn nửa cái ngã, có người đánh vào bên này, vừa hay đánh trúng nửa phần "không có" của tôi, tôi không cảm thấy đau, còn nếu muốn đánh bên này, tôi tránh sang bên kia, cũng đánh trúng nửa phần không có. Tuy tôi vẫn thấy bạn muốn đánh tôi, nhưng phiền não chỉ còn chút ít.

"Vô nhân tướng" là gì? Đó chính là không có ta, cũng không có người. Có cái ta thì sẽ nảy sinh cái tâm tự ngã; có cái người thì sẽ có sự so sánh. Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta phải vô nhân tướng. Ví dụ: khi có sự so sánh giữa hai bên, tôi cũng tin Phật, bạn cũng tin Phật, tôi nói Phật của tôi lớn hơn Phật của bạn, bạn nói Phật nhà bạn linh ứng hơn Phật nhà tôi; tôi hỏi bạn tụng chú gì? Người đó nói họ tụng chú vãng sinh, tôi nói tôi tụng chú Thất Phật, tôi hơn bạn sáu vị Phật. Thôi xong! Như vậy, "có ta", "có người", lại còn so sánh nữa, thế thì gay go rồi! Tôi muốn hỏi bạn, bạn tu pháp gì?

Tu Hoàng Tài Thần, họ nói Hoàng Tài Thần chuyên kiếm tiền; rồi họ hỏi tôi tu gì? Tôi tu Dược Sư Phật. Tôi liền nói: Dược Sư Phật của tôi chuyên cứu độ chúng sinh, chuyên cứu người, còn Thần Tài của anh chỉ có mùi tiền. Đây chính là "có ngã tướng", "có nhân tướng" đều hiện ra, so sánh lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau. Vì vậy chúng ta không thể rơi vào cái bẫy đấu tranh. Bởi vì Phật giáo dạy chúng ta phải "vô ngã", "vô nhân", phát triển rộng ra thành "không có chúng sinh", cuối cùng trở thành "vô vi mà làm". Trụ trong Niết bàn rồi lại ra khỏi Niết bàn, tất cả đều tự do tự tại. Người thực sự đạt đến cảnh giới này mới thực sự không còn bốn tướng.

Chỉ khi đã trừ hết bốn tướng mới gọi là tuyệt bách phi, chỉ khi đã lìa bốn tướng mới gọi là thực tướng. Theo lời Phật Thích Ca Mâu Ni dạy, chỉ khi đạt đến cảnh giới "trừ tứ tướng, tuyệt bách phi" mới được gọi là cảnh giới thực tướng, mới thực sự là như ý. Tất nhiên, cảnh giới này rất cao, không phải người bình thường như chúng ta có thể đạt được. Vì vậy hiện giờ tôi mới tu được một nửa, mỗi lần chụp ảnh phóng quang vẫn còn lộ ra một tay một chân. Cho nên nếu bạn đánh vào tay tôi, đánh vào chân tôi, tôi vẫn sẽ đá lại bạn.

Hôm nay tôi giảng về "biện thể", biện thể chính là lấy thực tướng làm thể. Trước đây có một đồng môn tranh luận với tôi về vấn đề này. Anh ấy nói: "Thế giới Tây phương Cực Lạc có những nơi đẹp đẽ như vậy, làm sao có thể là thực tướng được? Vậy thể của Kinh Phật Thuyết A Di Đà là thực tướng, có đúng không?" Tôi trả lời anh ấy như thế này: "Anh nhìn thấy tướng, tôi nhìn thấy không, tất cả cảnh tượng ở thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà là một sự biến hóa, là từ không mà biến thành có; vì vậy người nhìn bề ngoài sẽ thấy tướng, người nhìn bên trong vẫn thấy là không."

Vậy nên hôm nay Lư Thắng Ngạn đang thuyết pháp ở đây, có hay không? Không! Bởi vì nếu phân tích ra, đây chỉ là quần áo, lời tôi nói ra chỉ là một thứ vô hình, toàn thân thể tách ra chỉ là thịt, xương và máu, khi tách rời ra thì chẳng có người. Vậy cái "tôi" này ở đâu? Thiền tông bảo người ta tham cứu "hiện giờ tôi đang ở đâu?", "ai đang thuyết pháp?". Nếu bây giờ các bạn có thể nói ra được "ai đang thuyết pháp", thì tất cả các bạn đều thành Phật.

Om mani padme hum.

06. Ngũ trùng huyền nghĩa — Minh tông

"Minh tông": "Sau khi biện thể phải minh tông, hỏi kinh này lấy gì làm tông, đáp lấy tín nguyện trì danh làm tông; hỏi tin là tin điều gì? Đáp tin lời Phật Thích Ca thuyết."

Bởi vì tin vào lời Phật Thích Ca Mâu Ni dạy. Đã từng có người hỏi tôi: "Phật là gì?" Có người nói: "Tâm chính là Phật, Phật chính là tâm." Chúng ta vì trong tâm nghĩ Phật, niệm Phật, nên có thể thành Phật. Tông phái này xem tâm người như một thửa ruộng - tâm điền, tức là mảnh ruộng tâm. Trong mảnh ruộng này chúng ta trồng đậu thì được đậu, trồng dưa thì được dưa. Hôm nay chúng ta gieo hạt giống Phật vào tâm điền, thì sẽ sinh ra Phật tử, thật ra, pháp này chính là một loại nhân quả.

Bởi vì chúng ta thường xuyên niệm Phật, miệng niệm, tai nghe, tâm nghĩ đến, đây là một phương pháp đơn giản nhất. Chính vì đơn giản nên mới có thể độ được nhiều chúng sinh; nhưng cũng vì quá đơn giản nên có nhiều người không tin. Vậy tại sao chúng ta phải tin vào bộ kinh này? Bởi vì đó là lời Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Chúng ta tin vào lời Phật Thích Ca Mâu Ni dạy, nên chúng ta tin rằng niệm Phật có thể thành Phật. Trong kinh còn nói rằng, đây là sự tán thán chung của chư Phật sáu phương. Đã là chư Phật sáu phương cùng tán thán thì chắc chắn phải vô cùng chân thật.

Theo tôi biết, có rất nhiều người niệm Phật đã thành Phật. Từng có một người thợ rèn, ông tự đặt ra quy tắc là mỗi lần đập sắt phải niệm một tiếng Phật, nên mỗi ngày ông vừa rèn sắt vừa niệm Phật, cho đến lúc sắp rời khỏi thế giới này vẫn còn đang rèn sắt. Ông có một bài kệ nổi tiếng rất hay: "Binh binh bang bang, rèn sắt thành gang; ta nay niệm Phật, vãng sinh Tây phương." Ông vừa rèn sắt vừa niệm bài kệ này, niệm xong, đứng thẳng mà vãng sinh.

Vì vậy mọi người hãy nghĩ xem: một người thợ rèn vì mỗi ngày đều rèn sắt, cứ đập một nhát sắt lại niệm một câu "A Di Đà Phật", cứ như vậy cho đến khi đứng niệm một bài kệ rồi thành Phật. Người thợ rèn này tất nhiên không có nhiều kiến thức, hoàn toàn dựa vào sức lao động của bản thân để kiếm sống. Bản thân ông không có kiến thức cao siêu gì, bạn nói với ông về bất kì quyển kinh nào trong Đại Tạng Kinh ông đều không hiểu, chỉ biết một câu "A Di Đà Phật", ngoài ra không biết gì khác, nhưng ông vẫn cứ rèn sắt, và vẫn thành Phật.

Vì vậy, tông phái này là một tông phái thành Phật rất thuận tiện. Khi chúng ta học Phật, nếu có thể học được với lòng kiên trì như vậy, mỗi ngày niệm Phật không ngừng, và niệm Phật đến mức thuần thục, thì cũng có thể vãng sinh. Thực ra, chỉ cần bốn chữ này là có thể thành Phật: "tín nguyện trì danh". Giống như khi tôi gặp mọi người cũng sẽ niệm một câu "A Di Đà Phật", gặp một người niệm một câu, gặp hai người niệm hai câu. Hôm nay có bao nhiêu người đến thì niệm bấy nhiêu câu "A Di Đà Phật", vì vậy, tôi cũng đang tu pháp này.

Các bạn hãy tự nghĩ xem, mỗi ngày các bạn niệm được bao nhiêu câu "A Di Đà Phật"? Có nhiều người đang chuyển hàng, thì mỗi khi chuyển một món có thể niệm một câu "A Di Đà Phật". Đôi khi, chúng ta có thể tìm cơ hội trong lúc làm việc, như là khi làm bất cứ việc gì, đều có thể niệm một câu "A Di Đà Phật". Ví dụ như làm việc ở bưu điện, tôi thấy trong ti vi có người đang đóng dấu bưu điện, vừa nhai kẹo cao su vừa đóng dấu; thực ra họ có thể mỗi lần đóng dấu là niệm một câu, cứ "bộp, bộp" đóng dấu như vậy, chắc chắn cũng sẽ có thành tựu.

Chỉ cần có lòng kiên trì, tôi tin rằng khi bạn niệm danh hiệu Ngài, Đức Phật ngồi ở nơi đó, ngồi ở Tây phương xa xôi, bạn đã niệm danh hiệu Ngài lâu như vậy mà Ngài vẫn không động lòng thì còn gọi là Phật được sao! Bởi vì bạn luôn niệm danh hiệu của Ngài, chắc chắn Ngài sẽ rất gần gũi với bạn. Khi bạn sắp lâm chung, Ngài nhất định sẽ đến nắm lấy bạn, dù cho bạn đã kiệt sức, nhưng chỉ cần Ngài nâng lên một cái, bạn sẽ về được Tây Phương.

Vì vậy người Trung Quốc có câu tục ngữ: "Lâm thời ôm chân Phật", có thể nói là lúc chết, khi sắp chết mới ôm chân Phật. Tuy nhiên, trong kinh Phật có dạy, dù bạn lâm thời ôm chân Phật vẫn có tác dụng, bởi vì Bồ Tát vốn từ bi mà! Người đệ tử này đã lâu không nghĩ đến ta, đến lúc chết mới niệm danh hiệu ta, nhưng Phật được gọi là Đại Từ Phụ (người cha đại từ đại bi), Đại Từ Mẫu (người mẹ đại từ đại bi), dù bạn không tốt, nhưng lúc lâm chung còn nghĩ đến Ngài, Ngài vẫn sẽ kéo bạn một cái.

Nghe nói ở thế giới Tây phương Cực Lạc cũng có trường mẫu giáo, phải bắt đầu từ lớp mẫu giáo. Có những người trước đây thường xuyên niệm Phật hàng ngày, đã niệm đến mức hình thành dáng Phật, chỉ trong chớp mắt, bên này vừa mất thì bên kia đã hiện ra. Còn những người "lâm thời ôm chân Phật" tất nhiên cũng có thể vãng sinh, nhưng chỉ được vãng sinh vào trường mẫu giáo của cõi Phật.

Ở đây nói rằng, chỉ cần trì danh hiệu Phật tức là niệm Phật, khi niệm Phật đến lúc công phu thuần thục, đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn, thì sẽ đầy đủ vô lượng công đức. Vô lượng công đức này, đương nhiên chính là thành Phật. Thực ra, một người niệm Phật, muốn niệm đến mức nhất tâm bất loạn, quả thật không phải dễ dàng.

Bởi vì nhất tâm bất loạn chính là thiền định, cũng chính là cảnh giới Tam ma địa mà Mật tông chúng ta thường nói, niệm Phật cũng có thể niệm đến mức nhập Tam ma địa. Bởi vì niệm Phật là để tập trung tinh thần; thiền định cũng là để tập trung tinh thần; Mật tông nhập Tam ma địa cũng là để tập trung tinh thần. Thực ra, những tông phái này đến cuối cùng đều đi cùng một con đường, khi đạt đến cảnh giới đó chính là "nhất tâm bất loạn". Bởi vì khi bạn niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, tâm sẽ không còn điên đảo. Khi cảnh giới khác đến lôi kéo bạn sẽ không thể lôi kéo được, bởi vì tâm bạn chỉ hướng thẳng về Tây phương.

Quyển Kinh A Di Đà này lấy "tín nguyện trì danh" làm tông chỉ. Lấy "tín nguyện trì danh" làm tông chỉ chính là Tịnh Độ tông.

Mục đích cuối cùng là vãng sinh về tịnh thổ. Tôi hy vọng sau này ở thế giới Tây phương Cực Lạc sẽ thấy mọi người đều là những liên hoa đồng tử hóa sinh từ hoa sen, ai ai cũng thành Phật. Đừng để khi viện trưởng đến thăm trường mẫu giáo, lại thấy các bạn đều là những đứa trẻ sơ sinh, lúc đó nhìn lại mới biết là bạn chưa từng niệm Phật tu hành, đến lúc sắp chết mới kêu vài tiếng.

Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng dù thế nào đi nữa, mọi người phải thường xuyên niệm Phật, và đừng quên. Đừng như những người thế tục thông thường, đến lúc lâm chung vẫn còn nhớ nghĩ đến ông bà cố, cha mẹ, rồi mọi người khóc lóc thảm thiết. Ah! Tệ nhất là vẫn còn lo nghĩ về tài khoản ngân hàng, kim cương, vàng bạc có cất giữ an toàn không.

Vì vậy, điều quan trọng nhất chỉ có một câu: "Nhất tâm thành Phật, nhất tâm niệm Phật." Khi lâm chung chỉ cần "nhất tâm niệm Phật" mà thôi, không nên nghĩ đến điều gì khác.

Om mani padme hum.

07. Ngũ trùng huyền nghĩa — Luận dụng

Kinh A Di Đà, đến điểm thứ tư là "luận dụng", nghĩa là bàn về tác dụng của bộ kinh này. Bộ kinh này do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, vậy việc giảng bộ kinh này có tác dụng gì? Có công dụng gì? Câu trả lời của bộ kinh này là: nhằm giúp hành giả vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc và không còn thối chuyển. Mục đích quan trọng nhất trong bộ kinh này chính là "vãng sinh tịnh thổ".

Trước đây trong kinh Phật thường đề cập đến việc nhiều tông phái đều phải dựa vào sức mình để tu hành, như Mật tông cần rất nhiều tự lực, Thiền tông cũng chủ trương dựa vào sức mình để tu. Tuy nhiên, trong Kinh A Di Đà dạy rằng: cần một phần tự lực, nhưng cũng cần nương vào sức mạnh của Phật.

Thiền tông thông thường hoàn toàn dựa vào việc tự mình tọa thiền, cho đến khi tâm quang của mình tỏa chiếu, rồi cùng vũ trụ giao hòa, nghĩa là dùng sức mạnh tâm linh của chính mình để thành Phật, lấy "vô niệm làm tông", dùng sức tu của bản thân để thành Phật.

Mật tông tuy dựa vào quán tưởng, trước tiên quán tưởng Phật, sau đó vận dụng sức mạnh của chính mình (cũng cần dựa vào lửa đan điền của bản thân), rồi luyện thành bảy luân xa, khai mở đỉnh đầu, và trực tiếp thành Phật. Vì vậy, Tam Bảo của Mật tông nói về: khí, mạch, điểm.

Về "khí" thì sao? Trước tiên vận khí trong cơ thể ra, đạo lý là trước hết vận khí khắp toàn thân, tức là dẫn khí này thông qua các kinh mạch toàn thân, sau đó tập trung khí tinh thuần nhất kết thành một điểm. Vậy điểm này thì sao? Thông qua bảy luân xa, từ đan điền đi lên đến Tề luân, đến Tâm luân, đến Hầu luân, đến Mi tâm luân, đến đỉnh khiếu, rồi thoát ra. Mật tông chính là nói về pháp tu "khí mạch điểm" này, rồi vận chuyển cho đến khi hòa nhập vào vũ trụ.

Vì vậy, tu Mật tông và Thiền tông đều khá khó khăn, nhưng tu Tịnh Độ tông lại đơn giản nhất, bởi vì bạn chỉ cần dựa vào việc niệm Phật, không cần phải tu "khí mạch điểm", cũng không cần phải tu cái "vô niệm mà niệm", "vô vi mà vi", "vô tâm mà tâm" này nọ, không cần phải tu những thứ đó.

Thực ra, Tịnh Độ tông giống như nói rằng, bình thường tôi chỉ niệm Phật, niệm "Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật", bởi vì niệm lâu ngày thì sẽ quen. Giống như việc cầu nguyện hàng ngày vậy, ngày nào cũng cầu nguyện, thì Phật ở trong hư không sẽ nghe được lời cầu nguyện của bạn mỗi ngày. Trước đây có người hỏi tôi: Ngày nào cũng cầu nguyện với Ngài như vậy, Ngài có bị phiền không? Thực ra Ngài không phiền đâu, bởi vì tâm lượng của Ngài rất lớn, Ngài không giống như chúng ta chỉ là một con người, tâm lượng của Ngài rất rộng lớn.

Giống như trước đây khi tôi còn ở Đài Loan, sáng sớm vừa mở cửa ra là đã có hơn ba trăm người ùa vào như thác nước chảy vào phòng khách. Ai cũng phải xếp hàng, lấy giấy, đăng ký, rồi cãi nhau, đánh nhau. Hồi đó ở Đài Loan, cứ 8 giờ sáng mở cửa là bắt đầu hỏi việc cho đến 12 giờ trưa, có khi không kịp ăn cơm trưa. Lúc đó tôi quy định mỗi người chỉ được 3 phút, nhưng nhiều người vừa đến đã chuẩn bị sẵn cả mấy tờ giấy câu hỏi.

Thật ra, với sức một mình tôi đối phó với nhiều người như vậy, dĩ nhiên tôi rất đau đầu và phiền lòng, bạn biết đấy, bên này hỏi, bên kia cứ hỏi liên tục không ngừng. Tuy nhiên có một điều rất kỳ diệu là chỉ cần tôi ngồi trên chiếc ghế tiếp khách đó, liên tục bảy tám tiếng đồng hồ mà không cần đi vệ sinh lấy một lần, giống như vòi nước bị khóa vậy.

Như thể có một lưới ánh sáng từ trên không trung bao phủ lấy mình, người ta hỏi gì là trả lời ngay đó, lại không hề cảm thấy mệt mỏi, thật là lạ. Nhưng đôi khi cũng cảm thấy, cứ phải lặp đi lặp lại những ngày như thế này, quả thật là một việc rất phiền não.

Vậy, khi chúng ta thường xuyên niệm Phật và tưởng nhớ đến chư Phật Bồ Tát như vậy, liệu Phật có cảm thấy phiền không? Thực ra là không! Tại sao vậy? Bởi vì con người chỉ là một phần rất nhỏ trong thế giới này, trong khi ánh sáng của vũ trụ mạnh hơn con người không biết bao nhiêu lần. Hiện nay nhân loại có bao nhiêu tỷ người? Tôi biết riêng Trung Quốc đại lục đã có một tỷ người, nghe nói đó cũng là con số lớn nhất!

Tuy nhiên, ở thế giới Tây Phương Cực Lạc có đến "ba mươi sáu vạn tỷ" vị Phật A Di Đà. Vì vậy, khi chúng ta niệm một tiếng A Di Đà Phật, chỉ cần một vị Phật nghe thấy là đủ rồi, có những vị còn chưa nghe thấy nữa! Cho nên trái đất nơi chúng ta đang sống, trong mắt Phật A Di Đà chỉ nhỏ bé như một hạt cát mà thôi. Vì thế, việc các ngài cứu độ chúng ta rất đơn giản, và các ngài cũng không cảm thấy phiền hà gì, bạn cứ việc niệm lớn tiếng, nếu bạn có thể niệm được ba vị Phật đến thì càng tốt.

Trong bộ kinh này dạy rằng, hy vọng bạn có thể cầu nguyện mỗi ngày, mỗi ngày niệm Phật. Tuần trước tôi có nói: ít nhất khi bạn đang niệm Phật, bạn sẽ không chửi mắng người khác; ít nhất khi bạn đang niệm Phật, trong tâm trí bạn sẽ không có những ý nghĩ xấu xa; ít nhất khi bạn đang niệm Phật, tay bạn sẽ không làm điều xấu.

Thật ra, khi bạn niệm Phật, miệng bạn đang tụng thần chú; khi niệm Phật, trong tâm trí cũng sẽ nghĩ đến hình tượng Phật; đôi tay bạn cũng sẽ chắp lại, và khi tay chắp lại chính là kết thủ ấn; khi tâm trí nghĩ đến Phật, đó chính là quán tưởng.

Vì vậy, nói đến cùng, việc niệm Phật của Tịnh Độ tông, do niệm đến mức ý nghĩ, tư tưởng tạo ra sóng não hướng lên trên rung động, một khi sóng não phát sinh, tất cả chư Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đều nhận được sóng não của bạn.

Một ngày nào đó khi việc niệm Phật của bạn đã thuần thục, cứ niệm mãi cho đến khi thuần thục, sức mạnh sóng não của bạn sẽ rất lớn, tạo ra một lực hút, một sức hút từ sự khẩn cầu. Khi thân thể này (ngôi nhà này) sắp hư hoại, lúc đó vừa buông bỏ thân xác, chỉ còn lại năng lượng của tâm niệm vừa phát sinh, từ sóng não này vừa phát ra, Phật sẽ kết nối với bạn, hai luồng ánh sáng giao nhau, một khi hút là sẽ đưa bạn về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Tông phái này chính là tông phái vãng sinh bất thoái. Nghĩa là khi bạn niệm Phật đến mức trong não phát sinh từ trường, có thể hút A Di Đà Phật xuống, Ngài sẽ đưa bạn lên, đó chính là cách vãng sinh. Sức mạnh này bao gồm lực của chính bản thân và lực của Phật ban xuống, hai bên giống như hai nam châm hút nhau vậy, một khi đến gần nhau sẽ phát ra tiếng "cạch" và dính vào nhau.

Tuy nhiên, Thiền tông và Mật tông thì khác. Trong Thiền tông và Mật tông, chư Phật đứng vững một chỗ, bạn phải tự tu, tu cho đến khi có đủ năng lực mới có thể tiến lên phía trước để gần gũi với các Ngài, không phải là sự tương tác từ cả hai phía. Vì vậy Tịnh Độ tông dễ hơn, còn Thiền tông và Mật tông thì khó hơn.

Bây giờ mọi người nghĩ xem: Ôi! Vậy tại sao chúng ta lại học Mật tông! Chúng ta học Tịnh Độ tông là được rồi. Tịnh Độ tông có một cách nói rằng, tông phái này thu nhận tất cả mọi người, từ người có trí tuệ cao cho đến người có trí tuệ thấp.

Bởi vì chúng ta ở đây đều là những người có trí tuệ cao, nên chúng ta mới học Mật tông, ai cũng không muốn bị người khác xem là kẻ có trí tuệ thấp. Tuy nhiên, vì bản thân chúng ta có nhiều mặt còn trí tuệ thấp và sức lực chưa đủ để tu Mật, nên tông phái của chúng ta cũng có pháp môn niệm Phật. Mặc dù chúng ta tu Mật, nhưng trong Mật giáo cũng có đặt vào pháp môn Tịnh Độ. Ví như cảnh giới của Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc, đó là cảnh giới của chính bạn. Khi bạn tu Mật tông, ồ! cứ tiến lên, đến một điểm nào đó không leo lên được nữa, cứ lăn hoài ở đó, vừa hay chúng ta lại có niệm Phật, Ngài cũng đến gần, "cạch"!

Vì vậy những người tin theo tông phái của chúng ta, không sót một ai, tất cả đều về Tây phương. Người có khả năng thì đi tàu vũ trụ, người không có khả năng thì đi máy bay, ở đây chúng ta không có ai phải đi xe đạp cả, đây chỉ là ví dụ thôi. Thực ra, giống như là nói nếu đã không bắt kịp tàu tốc hành, thì chúng ta đi tàu chậm như ở Đài Loan vậy, từ từ mà đi, người nhanh người chậm cuối cùng đều đến cùng một nơi, không ai thiệt thòi gì.

Tôi thấy người nhanh không cần kiêu ngạo, người chậm cũng đừng buồn phiền, bởi vì đi chậm có một cái lợi là có thể ở thế gian ăn thêm vài bát cơm, phải không? Còn có thể trải qua thêm vài mối tình nữa, lên thiên đường quá sớm, chưa chắc đã có những niềm vui gì tốt đẹp.

Om mani padme hum.

08. Ngũ trùng huyền nghĩa — Phán giáo tướng

Điều thứ năm trong Ngũ trùng huyền nghĩa được gọi là "Phán giáo tướng". Những giáo lý mà Đức Phật đã giảng, mỗi bộ kinh đều tương đương với một "giáo". Đức Phật vì muốn cứu độ chúng sinh đã thuyết rất nhiều pháp, trong đó có những pháp rất sâu sắc, cũng có những pháp rất đơn giản. Đừng nghĩ rằng bộ kinh này, "Phật Thuyết A Di Đà Kinh", hoặc những giảng dạy về Tịnh Độ là những điều đơn giản.

Bởi vì ba đời chư Phật cũng đều sinh ra từ bộ kinh này. Bộ kinh này cũng là giáo lý viên mãn mà Đức Phật đã thuyết giảng.

Tuy nhiên, bên trong cũng mang một ý nghĩa "phương tiện", đây chính là điểm rất quan trọng của bộ kinh này.

Những điều đã nói về Ngũ trùng huyền nghĩa ở trên, trước khi đề cập đến kinh văn, năm loại giáo tướng này đều đã được giảng giải. Từ tuần sau mới thực sự giảng đến kinh văn. Hôm nay xin dừng tại đây!

Om mani padme hum.

09. Giải thích tên kinh — Phật (1)

Hôm nay giảng về "Phật Thuyết A Di Đà Kinh", vẫn chưa lật đến trang đầu tiên, chỉ mới nhìn thấy tiêu đề của sách mà thôi, tiêu đề này cần giải thích thành ba phần. Phần thứ nhất là "Phật". Phần thứ hai là "Thuyết". Phần thứ ba là "A Di Đà".

Trước tiên nói về "Phật". Mọi người đều biết, hiện nay mọi người tin theo đều là Phật giáo. Trước tiên hỏi mọi người: "Phật là gì?" Chắc chắn mọi người sẽ nói: "Không phải hỏi thừa sao?" Mọi người sẽ nói: "Phật là vị ngồi ở đó." "Rốt cuộc Phật là gì?" "Phật ở phương Tây sao?" "Phật ở trong temple (ngôi chùa) sao?" "Phật ở trong tâm của bạn sao?"

À! Phật có thần thông, có thể biến hóa đủ kiểu! Có người nói, mẹ của bạn chính là Quan Thế Âm Bồ Tát, cha của bạn chính là A Di Đà Phật. Rốt cuộc Phật tồn tại bao nhiêu ở thế gian? Ngài đến như thế nào? Đi ra sao? Trước đây mọi người đều biết, tôi cũng đã từng nói về định nghĩa của Phật.

Trước đây có người nói rằng: Phật đều ở trong chùa. Có người nói rằng: Bức tượng gỗ kia, đó chính là Phật. Có người nói rằng: Bức tượng đồng kia, đó chính là Phật. Nếu người điêu khắc tượng Phật chạm khắc Phật thành hình dạng gì, thì Phật sẽ có hình dạng đó. Có người chạm khắc Phật thành đầu trọc, thì đó là Phật đầu trọc. Có người chạm khắc tóc của Phật thành búi tóc cuộn lên, thì đó là Phật có búi tóc. Cũng có người chạm khắc Phật để râu, thì đó là Phật có râu. Có người tạo đôi lông mày của Phật thành màu trắng, thì đó là Phật lông mày trắng.

Thực tế, hình tượng của Phật thì thiên biến vạn hóa, nhưng định nghĩa về Ngài thì chỉ có một. Nếu lấy hình tượng để chỉ Phật thì đó là một sai lầm. Ví dụ như có người khăng khăng nói: "Tôi muốn đến Lôi Tạng Tự để lễ Phật." Câu nói này xét về triết lý, triết học thì nói được, vì trong Lôi Tạng Tự có Phật. Sau đó lại hỏi bạn một câu: "Phật ở đâu?" Bạn trả lời: "Ở Lôi Tạng Tự." Về mặt triết lý thì câu trả lời này không đúng. "Trong Lôi Tạng Tự có Phật, nhưng Phật không nhất định ở trong Lôi Tạng Tự."

Bởi vì Phật bao trùm toàn bộ hư không, lấp đầy cả vũ trụ. Vì vậy, khi mọi người nói chuyện, cần đặc biệt chú ý đến định nghĩa triết học này. Nói rằng trong Lôi Tạng Tự có Phật là đúng! Thực sự bên trong có Phật; nhưng nói rằng Phật ở Lôi Tạng Tự thì không đúng.

Trước đây tôi đã từng kể, có một lão hòa thượng có đạo hạnh rất cao, ngồi trên pháp tòa, phía trước có một bức tượng Phật. Vì tuổi già, mỗi lần ho là ông lại nhổ đờm lên đầu của bức tượng Phật. Nhiều người nhìn thấy liền nói: "Vị lão hòa thượng này không tôn kính Phật, nếu muốn nhổ đờm thì nên ra ngoài, làm sao có thể nhổ đờm lên đầu tượng Phật được?" Lão hòa thượng trả lời mọi người, ông nói: "Xin mọi người cho tôi biết, nơi nào không có Phật?" Đây là một câu hỏi cần phải suy ngẫm!

Thực tế, nơi nào không có Phật?

Tôi nói với mọi người: "Tất cả các bạn đều là Phật."

Bạn có biết không, những người đã nhận lễ quán đảnh của Mật tông, đều là các vị Phật dự bị trong tương lai. Sau này, hãy nhờ các nghệ nhân điêu khắc tạc lại tất cả khuôn mặt của các bạn, tất cả đều có thể được thờ phụng, tất cả đều là Phật; giống như cô gái kia khi lắng nghe kinh, dáng vẻ của cô ấy chính là thế, nhưng bạn đừng coi thường dáng vẻ đó, đây chính là dáng Phật, Phật được tạc ra chính là dáng vẻ này.

Đừng nghĩ rằng ở giữa có một chút hói đầu, Phật sau này cũng sẽ có hói đầu; bạn đừng nghĩ rằng có nhiều người đeo kính, Phật hiện đại cũng có đeo kính. Bất kì một hình dáng nào, trong Mật giáo đều nói rằng: "Bất kì một hình tướng nào cũng đều là hình tướng của Phật." Bạn đừng xem thường việc trẻ con đắp người tuyết, chỉ cần người tuyết được đắp lên, chỉ cần có linh hồn của Phật bên trong, người tuyết này chính là Phật.

Tôi nói với các bạn, trong Mật tông có một giới luật, đó là giới luật nghiêm trọng nhất. Giới luật này là: "Tự sát chính là giết Phật." Bởi vì chính bạn là Phật tương lai, nếu đã giết đi Phật tương lai, thì không phải là giết Phật thì là giết gì? Vì vậy, Phật pháp không phải là nói về huyền học, mà là có lý luận triết học trong đó.

Phật cũng có ngồi đó bắt chấy, cũng có nằm ngủ ở ven đường như một người say rượu, cũng có thân thể như bộ xương chỉ còn lại một khung xương trong hoang dã. Người thực sự giác ngộ sẽ biết rằng: "Tướng của chúng sinh, đều là tướng của Phật."

Vậy định nghĩa của Phật là gì? Ba chữ, đó là: Người giác ngộ. "Người giác ngộ chính là Phật." "Người chưa giác ngộ chính là Phật tương lai."

Người giác ngộ có hai định nghĩa: Định nghĩa thứ nhất là "nhận biết", định nghĩa thứ hai là "giác ngộ". Tại sao con người có thể thành Phật? Bởi vì họ phải nhận biết những phiền não của cuộc sống, trước tiên phải nhận biết rằng cuộc sống có những chướng ngại. Hôm nay tôi muốn nói với mọi người về hai chữ "nhận biết", hai chữ này cũng rất quan trọng.

Có rất nhiều người trong suốt cuộc đời của họ có thể nói rằng không hề có hai chữ "nhận biết", từ khi sinh ra, họ đã là học sinh, bắt đầu đi học thì nỗ lực vì các kỳ thi; sau khi tốt nghiệp thì bắt đầu cạnh tranh trong công việc, muốn trở thành tổ trưởng, trưởng phòng, rồi trưởng ban, giám đốc, và cuối cùng là chủ tịch hội đồng quản trị; sau đó thì kết hôn, sau khi kết hôn thì sao? Họ lại sinh con, rồi họ lại phải chăm lo cho con cái học hành, làm việc, kết hôn, rồi sinh cháu.

Vậy thì khi sự nghiệp đã thành công, lại có cháu, thì gần như là "an nghỉ cuối đời" rồi! Một số người sẽ mong mình sống lâu hơn một chút, có thể nhìn thấy cháu kết hôn. Nói đi cũng phải nói lại, từ khi sinh ra cho đến lúc chết, rất nhiều người chưa từng nhận ra rằng "cuộc sống là có trở ngại", thực tế phiền não của họ rất nhiều, nhưng họ không thể giải quyết được hết những phiền não trong cuộc đời này.

Thời niên thiếu phiền não vì thi cử, thời thanh niên đôi khi phiền não vì tình yêu, khi kết hôn thì phiền não vì hôn nhân, thành bại trong sự nghiệp cũng là phiền não, bệnh tật của cơ thể cũng là phiền não, người già cũng có phiền não, việc hòa giải trong các mối quan hệ cũng là một phiền não. Trong thế giới cạnh tranh của cuộc sống này, phiền não thường không có hồi kết, hết đợt này đến đợt khác mà không ngừng lại. Sinh, già, bệnh, chết thực sự đều là nguồn gốc của phiền não. Danh, sắc, tiền, ăn, ngủ cũng đều là nguồn gốc của phiền não.

Những ham muốn này thực chất đều là nguồn gốc của phiền não, nhưng nếu không nhận thức được phiền não này từ đâu mà đến? Làm sao để loại bỏ? Cả cuộc đời cứ mơ hồ trôi qua như vậy. Vì thế, trước tiên cần có nhận thức, sau đó mới có giác ngộ. Chúng ta bây giờ đều đã là những người có nhận thức, bởi vì có nhận thức nên mới biết tu hành, rồi mới hiểu được sự giác ngộ, mở toàn bộ ánh sáng tâm hồn, giống như Phật.

Cái gọi là giác ngộ, chính là phá bỏ phiền não, đạt được sự giải thoát hoàn toàn. Hôm nay tôi vừa trả lời một lá thư, có một đệ tử luôn hỏi tôi: "Xin Thượng sư khai thị, làm thế nào để phá bỏ phiền não?" Tôi đã trả lời cho người ấy một bài kệ: Phiền não ở nơi đâu, tất cả đều ở trong tâm; Xưa nay vốn không có, chính tâm mình làm chủ.

Hôm nay, tôi đã nói rất nhiều về phiền não ở đây, bây giờ Thượng sư lại nói phiền não ở đâu? Vậy thì lời Thượng sư nói trước sau mâu thuẫn, câu trước chẳng ăn nhập gì với câu sau. Thực ra, ý của tôi là thế này, tôi có ý riêng của mình. Tôi thường nói: "Trước khi trái đất tồn tại, phiền não ở đâu?" Nói gần hơn, "Trước khi bạn tồn tại, phiền não của bạn ở đâu?"

Vốn dĩ không có! Chính vì có "bạn", nên mới có phiền não. Vậy phiền não chẳng phải nằm trong tâm bạn sao? Tôi lại nói: "Sau khi bạn chết, phiền não ở đâu?" Phiền não lại không còn nữa, chẳng phải bạn đã mang theo rất nhiều phiền não như thế mà đi sao. Vì vậy, đây là một tư duy triết học.

Người Trung Quốc chúng ta từng nói một câu: "Thiên hạ vốn vô sự, kẻ tầm thường tự chuốc lấy phiền toái." Lại có một thành ngữ khác: "Tự tìm phiền não." Tôi muốn nói đến việc "tự tìm phiền não" là thế nào? Có một đệ tử viết thư cho tôi, anh ấy nói rằng mình mắc chứng sợ đi máy bay. Anh ấy thường xuyên đọc báo, thấy các vụ tai nạn máy bay, từ đó hình ảnh tai nạn máy bay đã ăn sâu trong tâm trí anh ấy. Anh ấy là một doanh nhân, nhất định phải đi máy bay, trừ khi không còn cách nào khác, anh ấy sẽ không đi máy bay.

Mỗi lần anh ấy đi máy bay đều như vậy! Vì thế, các tiếp viên hàng không trên máy bay chỉ cần nhìn thấy anh ấy là đã cảm thấy chóng mặt. Anh ấy viết thư cho tôi, nói rằng: "Làm thế nào để giúp anh ấy tránh khỏi chứng sợ đi máy bay?" Bởi vì mỗi lần khi cửa máy bay vừa đóng lại, anh ấy liền bắt đầu gõ cửa đòi ra ngoài. Toàn bộ máy bay bị anh ấy làm cho rối tung lên, tâm trạng của mọi người đều không tốt, mỗi lần anh ấy lên máy bay là mọi người cùng chịu xui xẻo theo.

Tôi đã đưa ra phương pháp điều trị cho anh ấy, đó là yêu cầu anh ấy mỗi ngày đều phải ngồi máy bay, bay đi rồi bay về, liên tục trong một tháng. Vì tay anh ấy ít nhất sẽ gõ đến mức không thể gõ nổi nữa, giọng nói cũng sẽ hét đến mức không thể hét thêm được! Đến khi anh ấy không thể gõ cửa hay hét lên được nữa, anh ấy sẽ nhận ra rằng, à! Thực ra máy bay rất an toàn! Bay đi bay lại đều không có vấn đề gì xảy ra. Loại chướng ngại tâm lý như vậy thực sự là "tự chuốc lấy phiền toái"! Đây chính là "Thiên hạ vốn vô sự, kẻ tầm thường tự chuốc lấy phiền toái."

Còn có một vị đệ tử, mỗi khi vào khách sạn, anh ấy liền chuẩn bị sẵn khăn mặt, anh còn bôi một ít xà phòng lên khăn, nói rằng có thể che mũi để không bị ngạt khói. Trước khi đi ngủ, anh nhất định phải mở vòi nước, đổ đầy nước vào bồn tắm trong phòng tắm, anh nói rằng nếu xảy ra hỏa hoạn, anh có thể nằm trong nước để không bị cháy. Mỗi lần đến khách sạn, anh cũng nhất định phải tìm lối thoát hiểm (EXIT) trước, tìm cách làm thế nào để chạy ra ngoài. Khi trả lời thư anh ấy, tôi nói: "Anh nên chuẩn bị luôn một cái dù nhảy đi thì hơn!"

Thực tế, chúng ta không thể trách anh ấy vì sự quan tâm đến an toàn của bản thân, chúng ta không thể trách anh ấy, đó là một cách để bảo vệ chính mình. Nhưng nếu đi quá xa, lần nào cũng như vậy, bạn xem, điều này chẳng phải rất khổ sao?

Giống như tôi, khi đi máy bay hoặc ở khách sạn, tôi thường nghĩ rằng: "Phật Bồ Tát phù hộ, mọi chuyện sẽ không sao." Dù có chuyện gì xảy ra, cũng là mệnh định như vậy. Đúng không? Nếu nghĩ như thế, có thể giảm bớt đau khổ trong nửa đời sau, hơn nữa còn có nhiều người đồng hành, tại sao lại không vui, nhiều người cùng đi vẫn tốt hơn đi một mình.

Bạn nói phiền não ở đâu? Khi con người có tầm nhìn rộng mở và thông suốt như vậy thì sẽ không còn phiền não. Vì thế, khi thực sự xảy ra nhiều chuyện bất ngờ, tôi thường nhìn qua và nói: "Ôi, thật may mắn quá!" Nếu là tôi, tôi thấy chẳng có gì đáng ngại. Những người như chúng ta đã nhìn thấu sinh tử thì sẽ hiểu rằng "thiên hạ vốn chẳng có chuyện gì".

Khi người ta viết báo chỉ trích Lư Thắng Ngạn, tôi còn hỏi: "Lư Thắng Ngạn là ai vậy?" Có khi, tôi đọc những bài viết chỉ trích mình, tôi lại nói: "Ôi chao! Chỉ trích hay quá! Tôi còn không chỉ trích được hay như thế!" Đó chính là đã nhìn thấu suốt rồi! Không có "bạn" thì làm gì có "bạn" từ trước?

Khi bạn ngang với vũ trụ, bạn chính là người giác ngộ, là một vị Phật giác ngộ. Khi bạn có thể giác ngộ chân lý của Phật, tâm bạn thực sự khai ngộ. Phiền não ở đâu? Bạn ở đâu? Tôi ở đâu? Chúng sinh bình đẳng, nào có kẻ thù? Những gì bạn yêu và những gì bạn ghét vốn dĩ bình đẳng như nhau!

Hiểu được chân lý này, ánh sáng tâm của bạn sẽ tỏa chiếu, ngang với với Viên Giác! Khi nhận biết được phiền não của cuộc đời, rồi vận dụng sức mạnh của sự nhận biết để đạt được giác ngộ, bạn trở thành người giác ngộ; người giác ngộ chính là Phật. Vì vậy, có người nói tượng Phật là Phật, Phật ở đâu? Nếu nói Phật ở đây thì còn cách xa Phật lắm.

Hôm nay chỉ giảng một chữ - Phật. Các bạn phải tin vào chính mình, tất cả chúng ta ngồi ở đây, mỗi người đều là Phật!

Om mani padme hum.

10. Giải thích tên kinh — Phật (2)

Tuần trước khi giảng Kinh A Di Đà, tôi chỉ giảng một chữ Phật, tôi tưởng đã giảng xong chữ Phật này rồi, nhưng khi xem lại sách thì thấy vẫn chưa giảng hết, nên hôm nay tôi sẽ tiếp tục giảng về chữ Phật này.

Tuần trước, tôi đã nói "Phật và chúng sinh là như nhau", bởi vì "chúng sinh là Phật chưa giác ngộ", còn "Phật là bậc đã giác ngộ", sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ đã giác ngộ hay chưa giác ngộ mà thôi. Vậy thì hôm nay tôi sẽ giảng về ba loại Phật khác nhau.

Loại thứ nhất, "Ngài khác với phàm phu". Bản chất của phàm phu là mê đắm trong lục trần, chìm đắm trong lục trần này, nên gọi là phàm phu, còn Phật thì vượt thoát khỏi lục trần. Lục trần là gì? Đó là "sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp". Sắc — tức là màu sắc. Thanh — tức là các âm thanh, những âm thanh hay. Hương — phân biệt thơm, hôi. Vị — cảm giác của lưỡi, một loại cảm giác ngon khi ăn đồ. Xúc — sờ vào cái tốt biết là tốt, sờ vào cái xấu biết là xấu. Pháp — nói chung, là tất cả các hiện tượng trong thế gian.

Phàm phu vì xoay vần trong lục trần này, không vượt thoát ra được, nên gọi là phàm phu; bản thân Phật đã vượt lên trên lục trần này. Bản thân phàm phu không có tự giác, không cảm nhận được mình là phàm phu, vì không có tự giác nên cũng không thể giác tha. Phật khác với phàm phu, điểm khác biệt này là vì Phật đã có sự giác ngộ và tỉnh thức, nên mới khác với phàm phu. Nếu phàm phu có được sự giác ngộ và tỉnh thức, cũng có thể giống như Phật.

Điểm khác biệt thứ hai là "Phật khác với hàng Nhị thừa". Chúng ta gọi "hàng Nhị thừa" là những người biết rằng cần phải giác ngộ và tỉnh thức, nhưng họ chỉ tu hành cho riêng mình, không quan tâm đến chúng sinh, chỉ tu cho bản thân, nên gọi là "hàng Nhị thừa". Hàng Nhị thừa chỉ có thể tự giác mà không thể giác tha, nghĩa là họ tu hành có thể tự mình giác ngộ, nhưng không có tâm cứu độ người khác. Vì vậy, cảnh giới của họ rất hạn hẹp, được gọi là "kẻ tự độ", đây chính là sự khác biệt giữa Phật và "hàng Nhị thừa".

Thứ ba, "Phật và Bồ Tát cũng có sự khác biệt". Bồ Tát có thể tự mình giác ngộ, có khả năng độ chúng sinh và giúp chúng sinh giác ngộ, đó là Bồ Tát. Tuy nhiên, giữa Bồ Tát và Phật có một điểm khác biệt, đó là Bồ Tát còn chút tình nhiễm; "tình nhiễm" là một dạng cảm xúc. Nói chung, Bồ Tát vẫn chưa hoàn toàn viên mãn, trong sự viên mãn vẫn còn chút bụi trần; còn bản thân Phật đã vượt trên Bồ Tát, hoàn toàn viên mãn, vì vậy chúng ta rất hiếm khi thấy Phật rơi lệ.

Đôi khi chúng ta thấy Bồ Tát rơi lệ vì lòng từ bi, như Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng rơi hai giọt nước mắt từ bi. Theo truyền thuyết Tây Tạng, vì Quan Thế Âm Bồ Tát rơi hai giọt nước mắt, một giọt hóa thành Lục Độ Mẫu, một giọt hóa thành Bạch Độ Mẫu, cả hai đều chuyển thế xuống trần gian để cứu độ chúng sinh.

Bồ Tát còn có một danh xưng là "Giác Hữu Tình", ba chữ này có một ý nghĩa là đem trí tuệ của mình trao cho chúng sinh hữu tình, giúp họ được giác ngộ. Nhưng vì bản thân Phật có trí tuệ viên mãn, hoàn toàn trọn vẹn, nên việc độ sinh của Phật không phải là sự chú tâm đặc biệt vào chúng sinh hữu tình, mà là một sự độ hóa tự nhiên.

Vì vậy ở đây có một sự phân biệt: Phật là sự độ hóa viên mãn, còn Bồ Tát là lòng từ bi với hữu tình. Cho nên Phật là viên mãn, Bồ Tát vẫn còn chút bụi trần, vẫn còn tình nhiễm; đây là ba điểm khác biệt giữa Phật với chúng sinh, với phàm phu, với La Hán và với Bồ Tát.

Phần lớn chư Phật hoàn toàn không có phiền não, nếu còn một chút phiền não thì không thể gọi là Phật. Vì vậy, chúng sinh chúng ta hiện nay, nếu có tâm từ bi cứu độ chúng sinh thì được gọi là Bồ Tát chứ không gọi là Phật, bởi vì bản thân Phật đã hoàn toàn siêu thoát khỏi phiền não, hoàn toàn giải thoát khỏi phiền não, tức là đã chứng đắc vô thượng bồ đề và đầy đủ lục thần thông.

Phật còn có một danh hiệu khác, tuần sau chúng ta sẽ nói về danh hiệu của Phật, đó là mười danh hiệu mà chúng ta thường nhắc đến. Đó là: Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.

Danh hiệu này rất dài, tổng cộng có mười danh hiệu, đây là những danh xưng tiêu biểu. Có vẻ như tuần sau chúng ta vẫn phải tiếp tục giảng về chữ Phật.

Om mani padme hum.

11. Giải thích tên kinh — Phật (3)

Hôm nay chúng ta tiếp tục giảng "A Di Đà Kinh Thích Yếu". "Kinh Phật Thuyết A Di Đà" hôm nay vẫn giảng về mười danh hiệu. Mười danh hiệu của Phật là: Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Tổng cộng có mười danh hiệu này, nếu giảng mỗi danh hiệu một ngày, mười lần như vậy thì gần như mất cả năm, nên chúng ta cần giảng nhanh hơn một chút.

Thế nào gọi là "Như Lai"? Danh xưng đầu tiên, Như Lai chính là Phật. "Như" tức là như như, vậy thế nào gọi là "như như"? Như như chính là "tự nhiên như vậy". Thế nào gọi là "Lai"? Chính là tự nhiên mà đến, tự nhiên mà đến - đó chính là Như Lai. "Như như mà đến, như như mà đi, cũng không đến, cũng không đi", đó chính là "Như Lai", cho nên danh hiệu này là cảnh giới rất cao. Bạn hãy suy nghĩ xem, bởi vì đã không đến thì ở đó, lại không đi thì ở đây. "Không đến không đi" là thế nào? Thật ra, đã bao hàm tất cả rồi. Vốn dĩ là như vậy!

Không có thì quá khứ, không có thì hiện tại, cũng không có thì tương lai, tiếng Anh là như vậy đó. Bạn nói có đúng không? Sao mà rắc rối quá, cái gì mà quá khứ, hiện tại, tương lai chứ, phải không? Dù sao tất cả đều như nhau thôi. Đó chính là Như Lai!

Thế nào gọi là "Ứng Cúng"? Danh hiệu này là tốt nhất, nghĩa là xứng đáng được mọi người cúng dường. Cảnh giới cao như vậy, muốn học theo ngài thì đương nhiên phải dùng tâm để suy nghĩ, dùng tâm để cúng dường, để học tập, phải dùng một tấm lòng rất chân thành để học mới đạt được chân lý. Đó chính là ý nghĩa của "Ứng Cúng" - xứng đáng được cúng dường.

Vì vậy khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài thường đi ứng cúng. Khi gặp pháp sư Quả Hiền, tôi nói: "Để tôi mời thầy." Thầy ấy đáp: "Không thể để ngài mời, tôi là ứng cúng, phải được cúng dường". Nhưng nghĩ lại, "ứng cúng" là tôi phải cúng dường cho thầy chứ? Hay thầy phải cúng dường cho tôi? Đột nhiên không rõ nữa.

Tuy nhiên, có lẽ là như thế này, bạn cúng dường Phật, cúng dường Như Lai thì không sai. Nhưng khi bạn cúng dường người nghèo khó, hoặc bố thí, bố thí cho người khác, đây cũng gọi là ứng cúng. Vì vậy cúng dường không phân biệt người này người kia, có khi là trên cúng dưới, có khi là dưới cúng trên, hai bên cùng cúng dường lẫn nhau.

Bản thân Phật có ý nghĩa Như Lai ứng cúng, với cảnh giới cao như vậy, bạn nên cúng dường Ngài. Nhưng vì bạn cúng dường Ngài, Ngài sẽ ban phúc báo cho bạn, nên Ngài cũng là ứng cúng, đạo lý là như vậy.

Danh hiệu thứ ba là "Chính Biến Tri". Thế nào gọi là Chính Biến Tri? Nghĩa là biết được cả cái chính và cái "ngoại đạo". Phật biết tất cả chân lý, đạo lý chân chính, Phật có trí huệ viên mãn, biết tất cả trí huệ. Đối với trí tuệ "ngoại đạo", Ngài cũng biết; tất cả tà thuật, Ngài cũng biết. Vì vậy, tà pháp, Tiểu thừa, Thiên thừa, tất cả đều phải biết, đây gọi là Chính Biến Tri. Cái chính bạn biết, cái "ngoại đạo" bạn cũng biết; cho nên Thượng sư cũng biết tất cả mọi thứ, trước đây tôi cũng từng học nhiều pháp "ngoại đạo", nói về mạt chược Đài Loan tôi cũng biết, mạt chược Đại Lục tôi cũng biết, phải không, mười ba quân, mười sáu quân, cái gì cũng thông. Có người hỏi một câu: "Thầy đã từng đến night club chưa?" Tôi đáp: "Chỗ nào tôi cũng đã từng đến, không có nơi nào tôi chưa từng đến cả."

Đây là điều gọi là biết cả chính pháp và tà pháp. Giả sử bạn chỉ biết tà pháp mà không biết chính pháp, điều đó không được; nếu bạn chỉ biết tà pháp mà không biết chính pháp, đó chính là ma; vì vậy khi bạn biết cả tà pháp và chính pháp, đó chính là Phật. Nếu bạn chỉ biết chính pháp mà không biết tà pháp, làm sao bạn độ được chúng sinh? Làm sao bạn hiểu được tâm chúng sinh? Muốn hiểu tâm chúng sinh, bạn phải nhập thế, phải biết tất cả mọi thứ, đó chính là ý nghĩa của Chính Biến Tri.

Tuy nhiên, nếu một vị Phật mê đắm vào tà pháp, xa rời chính pháp, đó chính là ma; nếu bạn xa rời tà pháp và tự mình đạt được chính giác, đó chính là Phật, sự khác biệt chỉ có vậy thôi. Việc tu hành của Phật không nhất thiết phải ở cảnh giới cao nhất mà từ bỏ chúng sinh, Ngài hiểu được cảnh giới của chúng sinh, cũng biết được chính giác của Phật, đó chính là Chính Biến Tri.

Danh hiệu thứ tư gọi là "Minh Hành Túc". Sự thông suốt về tất cả hành vi, có thể đến được mọi nơi, đó gọi là Minh Hành Túc. Thông suốt tất cả hành vi, hiểu rõ mọi hành động, việc nào có thể làm, việc nào không thể làm; điều gì hợp lý, điều gì không hợp lý; điều gì đúng bảy phần, sai ba phần, Ngài đều thấu tỏ, tất cả đều là những hành vi rõ ràng minh bạch. Đây chính là trí huệ viên mãn, thật không đơn giản!

Danh hiệu thứ năm gọi là "Thiện Thệ". Thế nào gọi là thiện? Tốt là thiện, không tốt là ác. Còn thệ? Chính là đi. Đi đến nơi tốt đẹp chính là Thiện Thệ. Như việc mọi người học Phật ngày nay là đi đến nơi tốt đẹp, nên gọi là Thiện Thệ. Danh hiệu này theo cách nói của chúng ta là đi đến nơi tốt đẹp; theo nghĩa đen là viên tịch về nơi tốt đẹp cũng được. Dù sao tất cả mọi người đều về Tây phương Cực Lạc, tất cả đều về Tây phương, chính là viên tịch về nơi tốt đẹp. Còn nếu bạn đi về địa ngục thì đó là ác thệ, không phải thiện thệ. Giải thích này rất đơn giản.

Thứ sáu là "Thế Gian Giải". Nghĩa là thấu hiểu tất cả mọi việc trong thế gian, giải thoát tất cả phiền não của thế gian, đó gọi là Thế Gian Giải. Giải quyết hết tất cả phiền não của thế gian này, gọi là Thế Gian Giải.

Thứ bảy gọi là "Vô Thượng Sĩ". Khi đạt đến cảnh giới của Phật, thật sự là vô thượng. Không có cảnh giới nào cao hơn nên gọi là vô thượng. Đây là cao nhất, không còn gì cao hơn nữa, nên gọi là vô thượng. Vô thượng chính là danh hiệu tốt nhất của Phật, không có gì cao hơn được nữa.

Danh hiệu thứ tám là "Điều Ngự Trượng Phu". Chữ "trượng phu" này chúng ta không thể hiểu là "chồng" (husband). Người Trung Quốc nói về trượng phu, điều ngự trượng phu, ý nói người có phẩm chất cao thượng, mạnh mẽ, có năng lực, có thể hòa giải mọi việc, phải hiểu theo nghĩa này. Điều ngự có nghĩa là xử lý mọi việc rất tốt, có thể điều chỉnh, hướng dẫn mọi người đi về nơi tốt đẹp, có thể điều phục những con người, cuộc sống, người trong thế gian, tất cả chúng sinh, đều có thể dạy dỗ họ một cách ngăn nắp trật tự, đó gọi là Điều Ngự Trượng Phu.

Danh hiệu thứ chín gọi là "Thiên Nhân Sư". Trên trời, bạn có thể dạy người trên trời, cũng có thể dạy chúng sinh ở nhân gian. Trên trời, dưới đất bạn đều là bậc đạo sư, đó chính là Thiên Nhân Sư.

Danh hiệu thứ mười là "Phật". Lần trước đã giảng về ý nghĩa của chữ "Phật", đó là giác ngộ và tỉnh thức, người đạt được chính giác chính là Phật.

Vì vậy có mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, tổng cộng là mười danh hiệu. Cách giải thích của tôi cũng gần như đúng với ý nghĩa, cách giải thích này không rời xa ý nghĩa chính của nó. Vị có đủ mười danh hiệu trên được gọi là "Thế Tôn". Thế nào gọi là Thế Tôn? Đó là bậc được tất cả mọi người trong thế gian tôn kính, nên gọi là Thế Tôn; vì vậy khi chúng ta xưng tán Phật Thích Ca Mâu Ni, đôi khi cũng gọi là Thế Tôn. Khi nói đến Thế Tôn tức là trực tiếp chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc được mọi người trong thế gian cùng tôn kính, cùng ngưỡng mộ chính là Thế Tôn.

Chỉ riêng việc giảng chữ "Phật" trong "Kinh Phật Thuyết A Di Đà", việc giải thích chữ Phật này, đến hôm nay mới vừa giảng xong. Tuần sau chúng ta sẽ giảng chữ "Thuyết", thuyết chính là giảng, giảng chính là thuyết. Nếu giảng nhanh thì đã xong rồi, còn nếu giảng chậm thì có rất nhiều điều để nói.

Có điều có thể nói, cũng có điều không thể nói; có cách nói sâu, cũng có cách nói nông; có cách giải thích, cũng có cách không nói; có cách nói dài, cũng có cách nói ngắn.

Phật pháp nói ra thật vi diệu, một chữ mà giảng gần cả tháng rồi! Vậy đến chữ "Thuyết" tiếp theo này, đương nhiên có thể nói dài hay nói ngắn. Chúng ta sẽ gặp lại vào thứ Bảy tuần sau nhé!

A Di Đà Phật!

12. Giải thích tên kinh — Thuyết

Hôm nay chúng ta sẽ giảng về chữ "Thuyết" trong "Kinh Phật Thuyết A Di Đà". Vậy ai là người thuyết giảng bộ kinh này? Chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế Phật thuyết giảng về ai? Ngài thuyết giảng về Phật A Di Đà. Vậy Ngài thuyết giảng cho ai nghe? Ngài thuyết giảng cho ngài Xá Lợi Phất.

Hôm nay chúng ta sẽ nói về ngài Xá Lợi Phất. Vậy ngài Xá Lợi Phất là ai? Ngài là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Theo kinh điển ghi chép, ngài Xá Lợi Phất là vị đệ tử thượng thủ của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong số các đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài được tôn xưng là bậc trí huệ đệ nhất. Vì sao vậy?

Xá Lợi Phất vốn theo đạo Bà La Môn, cha ngài vốn là một tu sĩ Bà La Môn rất có trí tuệ. Từ nhỏ Xá Lợi Phất đã được cha dạy dỗ trở thành người rất có trí tuệ. Khi lớn lên, ngài cũng có rất nhiều đệ tử, cuối cùng ngài quy y Phật Thích Ca Mâu Ni và dẫn theo ba trăm năm mươi đệ tử cùng quy y theo Phật.

Trí tuệ của Xá Lợi Phất, chúng ta có thể thấy được qua rất nhiều kinh điển. Ngài là bậc trưởng lão có trí tuệ siêu việt, có thể tự tại sinh tử, có thể minh tâm kiến tính.

Một lần nọ, Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng Ngài sắp phải ra đi, Xá Lợi Phất liền thưa với Đức Phật rằng con muốn đi trước Thầy. Là đệ tử phải đi trước để chuẩn bị phòng ốc cho Thầy, mua sắm đất đai, xe cộ và những vật dụng sinh hoạt cần thiết! Vì thế Xá Lợi Phất nói rằng ngài muốn đi trước để chuẩn bị.

Thế nhưng, Xá Lợi Phất có thể nói như thế này, ngài bảo: "Thầy sắp ra đi, làm đệ tử phải đi trước, chuẩn bị sẵn một số thứ cho Thầy khi Thầy đến nơi đó." Sau đó Xá Lợi Phất liền trở về nơi mình ở trước kia, dọn dẹp phòng sạch sẽ, một mình ngồi giữa nhà, nhập định và ra đi! Vì thế ngài là vị đệ tử ra đi còn sớm hơn cả Thầy. Từ đó, chúng ta có thể thấy được ngài Xá Lợi Phất có khả năng tự chủ sinh tử.

Ngày nay, giả sử có một số đệ tử nói rằng: "Thưa Thầy, nếu Thầy sắp ra đi, con muốn đi trước Thầy mười ngày." Công phu đó thật là cao siêu. Con người không thể nói muốn chết là chết một cách đơn giản như vậy! Tất nhiên những cách như treo cổ, nhảy xuống nước, tự thiêu hay cắt cổ tay không tính! Những cách này không được tính, mà phải có khả năng "tự chủ sinh tử", phải giống như ngài Xá Lợi Phất, ngồi như thế và nói: "Ôi! Con muốn đi trước Thầy mười ngày", rồi ngồi như vậy mà ra đi. Theo như tôi được biết, trong tương lai Xá Lợi Phất sẽ trở lại nhân gian thành Phật, danh hiệu của ngài sẽ là Hoa Quang Phật.

Lần trước trong quyển "Chấn động lớn của Thiền", tôi có nhắc đến vài chữ về ngài Xá Lợi Phất, có kể về câu chuyện của ngài. Bản thân ngài Xá Lợi Phất khá là không thích cái này... Nói thế nào nhỉ? Lady, ngài rất không thích. Ngài rất chấp trước, ngài nói người tu hành bên cạnh không được có phụ nữ.

Có một lần ngài đến thăm bệnh ngài Duy Ma Cật, chỉ vì bên cạnh ngài Duy Ma Cật có thiên nữ, có các cô gái hầu hạ bên cạnh, ngài Xá Lợi Phất nhìn thấy trong lòng nghĩ rằng: "Bên cạnh người tu hành lại có những cô gái đẹp như vậy đi tới đi lui, ở đó hầu hạ ông, điều này không đúng!"

Vị tiên nữ bên cạnh có tha tâm thông, biết được những suy nghĩ trong lòng ngài Xá Lợi Phất. Bỗng nhiên, từ trên trời rơi xuống rất nhiều hoa, thiên nữ rải hoa từ trên không trung, ôi chao! Có rất nhiều hoa rơi xuống, những cánh hoa rơi trúng người khác thì lập tức rơi xuống đất, chỉ có những cánh hoa rơi trên người ngài Xá Lợi Phất là dính chặt lại. Ngài Xá Lợi Phất dùng tay phủi những cánh hoa đó đi, nhưng cuối cùng vẫn không thể phủi được.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi vị tiên nữ bên cạnh: "Tại sao ta không thể phủi được những cánh hoa trên người?" Tiên nữ đáp: "Bởi vì trong lòng ngài có hoa, nên hoa mới không thể phủi đi được." Trong đó có một đạo lý rất sâu sắc.

Vị tiên nữ này lại hiện thần thông, biến ngài Xá Lợi Phất thành tiên nữ, còn tiên nữ thì biến thành Xá Lợi Phất đứng đó. Ngài Xá Lợi Phất cũng dùng thần thông, vội vàng muốn biến trở lại thành mình, nhưng không thể biến được. Tiên nữ liền nói với ngài: "Bây giờ ngài chính là tôi, còn tôi bây giờ chính là ngài. Vậy một người con gái xinh đẹp hầu hạ Bồ Tát Duy Ma Cật thì có gì không đúng đâu?"

Theo ý tiên nữ muốn nói rằng, đây chỉ là sự khác biệt về hình tướng mà thôi. Tâm này, Phật tính là như nhau, nam nữ chỉ là một loại hình tướng. Ngài Xá Lợi Phất sau khi nhận được bài học này, đã hiểu ra nam nữ chỉ là hình tướng, không có gì phân biệt. Bởi vì nam có thể biến thành nữ, nữ cũng có thể biến thành nam, tất cả những chuyển biến chỉ là vấn đề về hình tướng mà thôi.

Vì vậy, trong mắt chư Phật Bồ Tát, người phàm phu thì phân biệt nam nữ, còn Phật thì không phân biệt nam nữ, khi đạt đến cảnh giới tối cao thì hoàn toàn không có sự phân biệt nam nữ. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm muốn hóa thành nữ thì hóa thành nữ, muốn hóa thành nam thì hóa thành nam, vì thế Bồ Tát Quan Thế Âm cũng có thể là Thiên Nhân Trượng Phu Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài thị hiện thành nữ chỉ để hiển lộ tướng từ bi. Vị thiên nữ hầu cận bên Bồ Tát Duy Ma Cật đã từng hầu hạ vô số chư Phật, nên khi Xá Lợi Phất xem thường nàng, thực ra, nàng cũng là bậc rất vĩ đại.

Đức Phật thuyết bộ kinh này với đầy đủ trí huệ, công đức và thần thông lực. Bởi vì bản thân ngài Xá Lợi Phất là bậc tôn giả trí huệ đệ nhất, có thể thấy "Kinh Phật Thuyết A Di Đà" cũng là một bộ kinh điển có trí tuệ vô cùng cao siêu.

Khi Đức Phật thuyết kinh, thường có nhiều cách thuyết giảng khác nhau; có thuyết dài, có thuyết ngắn, có thuyết rõ ràng, có thuyết bằng ẩn dụ, có thuyết trực tiếp, có thuyết gián tiếp, có khi không thuyết gì cả, có khi thuyết rất nhiều, có thuyết về quá khứ, có thuyết về tương lai, có thuyết về hiện tại, vì vậy Phật pháp là vô tận.

Cho nên hôm nay tôi ngồi ở đây thuyết giảng, cũng giống như ngồi mà thuyết; hơn nữa không chỉ là ngồi, mà là ngồi trên sàn nhà mà thuyết. Ah! Tôi cũng không biết sẽ ngồi bao lâu? Tóm lại, tôi thuyết, các bạn nghe, tương lai các bạn cũng có thể thuyết. Rồi một ngày nào đó mọi người thuyết pháp, thuyết đến độ không còn gì để nói nữa, đó chính là phù hợp với lời Phật dạy "Tất cả pháp Phật thuyết, đều là không có pháp để thuyết." Khi đạt đến cảnh giới không còn pháp để thuyết, đó mới chính là "thuyết chân thật"!

Om mani padme hum.

13. Giải thích tên kinh — A Di Đà

Hôm nay giảng về "A Di Đà". A Di Đà là tiếng Ấn Độ, trong tiếng Phạn gọi là A Di Đà, dịch sang tiếng Trung gọi là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Quang nghĩa là ánh sáng vô lượng; ngoài ra cũng được dịch là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ, chữ thọ này đại diện cho thời gian, tuổi thọ dài vô lượng thời gian, gọi là Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Quang có nghĩa là: trên dưới mười phương, tất cả đều tràn đầy ánh sáng, gọi là Vô Lượng Quang, cũng chính là như chúng ta thường nói "thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương". Tam tế ở đây chính là quá khứ, hiện tại, vị lai, ngang khắp mười phương, mười phương đều tràn đầy.

A Di Đà - chúng ta đều biết đó là Phật A Di Đà. Trong quá khứ, A Di Đà Phật từng thị hiện ở thế gian, là một vị hoàng tử. Vị hoàng tử này sau khi xuất gia được gọi là tỳ kheo Pháp Tạng, sau này thành Phật chính là Phật A Di Đà. Tỳ kheo Pháp Tạng đã dùng thần thông du hành qua hàng tỷ cõi Phật, tức là những cõi Phật nơi chư Phật an trụ, nói theo cách hiện đại thì đó chính là không gian vũ trụ. Ngài đã đi qua tất cả cảnh giới trong không gian vũ trụ, sau đó chọn lấy những điều tốt đẹp nhất để thiết lập một cõi Phật trang nghiêm nhất ở phương Tây, đó chính là thế giới Tây phương Cực Lạc.

Ngài có mười hai danh hiệu, bản thân Phật A Di Đà có mười hai danh hiệu, có mười hai loại hoa, mười hai loại ánh sáng. Ngài đã phát bốn mươi tám đại nguyện, bốn mươi tám nguyện lớn, chủ yếu đều vì độ chúng sinh, Phật A Di Đà thật vĩ đại. Mọi người đều biết, ngày nay chúng ta niệm Phật, đều niệm A Di Đà Phật, được người ta niệm nhiều nhất cũng là A Di Đà Phật, vị Phật mà mọi người biết đến nhiều nhất cũng là A Di Đà Phật, và nơi mà mọi người muốn đến trong tương lai cũng chính là cõi của Phật A Di Đà.

Vì vậy, trước đây ở nhà tang lễ có một tấm biển ngang được viết rất đẹp và rõ ràng, mỗi khi xe tang đi ra đều thấy dòng chữ "Vãng sinh Tây phương", ai cũng mong muốn được về nơi đó. Thực ra, Diêu Trì của Đạo giáo cũng ở phương Tây, cho nên không phải Diêu Trì thì cũng là Tây phương, đây là hai nơi mà người đời hướng về nhiều nhất.

Phật A Di Đà hiện nay vẫn đang làm giáo chủ ở thế giới Tây phương Cực Lạc, hai vị thị giả phụ tá Phật A Di Đà chính là Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí. Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc, hiện nay vẫn đang thuyết pháp. Ở đó có bao nhiêu vị Phật A Di Đà? Bởi vì bản thân Ngài là vô lượng quang và vô lượng thọ, cho nên Phật A Di Đà cũng chính là vô lượng.

Tôi thường giảng về vị Liên Hoa Đồng Tử mà chúng ta tôn kính, và vị Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì mà tôi đã thấy ở thế giới Tây Phương Cực Lạc hai mươi năm trước, tôi luôn nhấn mạnh về cảnh giới này, nhưng chưa từng giải thích tại sao thế giới Tây phương Cực Lạc lại có Liên Hoa Đồng Tử? Nhiều người không hiểu, tại sao thế giới Tây phương Cực Lạc lại có Liên Hoa Đồng Tử? Thực ra, có lẽ mọi người cũng đã hiểu được bí mật này: "Liên Hoa Đồng Tử chính là Phật A Di Đà".

Chỉ là đổi tên gọi mà thôi, Liên Hoa Đồng Tử thực chất chính là Phật A Di Đà, chỉ là khi Ngài cho tôi thấy thì dùng một danh xưng khác. Liên Hoa, vốn dĩ ở thế giới Tây phương Cực Lạc đâu đâu cũng là hoa sen, ai ai cũng đứng trên hoa sen, đó là tên gọi chung. Đồng Tử chính là Bồ Tát, bởi vì khi Phật A Di Đà xuống độ chúng sinh, mọi người chắc chắn sẽ nói: "Ôi! Không thể nào! Tại sao một vị Phật vĩ đại như vậy lại xuống độ chúng sinh? Ở Tây phương đã đủ bận rộn rồi, sao còn phải xuống trần gian độ chúng sinh nữa?"

Thực ra, Ngài chỉ hóa hiện một danh xưng khác mà thôi. Vì vậy, khi đó Phật A Di Đà phó thác Liên Hoa Đồng Tử xuống độ chúng sinh, Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho Liên Hoa Đồng Tử, Phật A Di Đà phó thác, Bồ Tát Di Lặc ban mũ miện đỏ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền Mật pháp, chính là như vậy đó.

Vì vậy tôi luôn không dám nói rằng Liên Hoa Đồng Tử chính là Phật A Di Đà, không dám nói, nhưng hôm nay dù không dám nói cũng phải nói ra rồi, tôi nghĩ, chắc lại có người phỉ báng thôi! Tuy nhiên, cả cuộc đời tôi có thể dùng ba chữ hoặc hai chữ để đại diện, đó là "vô úy", cũng chính là "thí vô úy". "Vô úy" nghĩa là không sợ bất cứ điều gì, "thí vô úy" nghĩa là chỉ có ban cho chúng sinh, không sợ bất cứ điều gì.

Vì vậy, người ta nói gì cũng không quan trọng. Hình tướng đều không tồn tại, ngày nay nếu có người phỉ báng Phật A Di Đà, phỉ báng Liên Hoa Đồng Tử, phỉ báng Phật Thích Ca Mâu Ni, thực ra cũng không sao cả. Giống như có người đến phỉ báng Thượng sư cũng không sao, bởi vì đều là vô úy và thí vô úy; chỉ có ban cho chúng sinh, không cần sợ gì cả, đó chính là vô úy và thí vô úy. Tất cả mọi thứ đều không còn quan trọng nữa, ở thế gian này cũng chẳng có gì quan trọng nữa! Bạn nói có gì quan trọng đâu? Vấn đề thể diện, tôi đã không còn thể diện rồi! Vấn đề địa vị, tôi cũng chẳng có địa vị gì, không có! Vấn đề tiền bạc, tôi cũng sống tạm đủ thôi! Vợ, của cải, con cái, tuổi thọ, bổng lộc, những thứ này tôi đều nhìn rất nhạt nhòa, gần như không còn nữa, vậy thì bạn còn sợ gì nữa? Cho nên khi đạt đến cảnh giới này, cũng chẳng còn sợ gì nữa, cái gì cũng bố thí không sợ hãi!

Phật A Di Đà có một số thủ ấn, đây là những thủ ấn để độ chúng sinh, khi các bạn làm lễ siêu độ cũng có thể kết những thủ ấn này, rất đơn giản. Cửu phẩm liên hoa sinh, phần lớn mọi người đều biết thủ ấn cửu phẩm liên hoa sinh phải không! Thượng phẩm thượng sinh, thượng phẩm trung sinh, thượng phẩm hạ sinh, trung phẩm thượng sinh, trung phẩm trung sinh, trung phẩm hạ sinh, hạ phẩm thượng sinh, hạ phẩm trung sinh, hạ phẩm hạ sinh; đó chính là chín thủ ấn này, thủ ấn cửu phẩm liên hoa sinh của Phật A Di Đà để độ chúng sinh, khi làm lễ siêu độ, dù chỉ tụng một thời kinh, kết chín thủ ấn này, đương nhiên cũng là cửu phẩm liên hoa sinh, cũng có thể độ được chúng sinh.

Bài giảng tối nay đến đây thôi.

A Di Đà Phật.

14. Giải thích tên kinh — Kinh

Tối nay chúng ta nói về chữ "Kinh". Thực ra chữ Kinh chính là chữ đầu tiên trong Tam Tạng, tức là chữ đầu tiên trong "Kinh, Luật, Luận", chính là Kinh. Chữ Kinh này từ xưa đã được hiểu là những lời Đức Phật thuyết giảng được kết tập lại gọi là Kinh, còn có một tên gọi khác là "Thông", nghĩa là thông suốt từ đây đến đó; một cách giải thích khác, Kinh chính là "đạo lộ", có nghĩa là: con đường dẫn từ nơi này đến nơi kia chính là Kinh.

Bộ "Phật Thuyết A Di Đà Kinh" này chính là kinh điển do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Tôi nhớ trước đây Chúa Jesus từng nói một câu: "Ta là con đường." Vậy thì, cũng có thể nói rằng, Chúa Jesus nói: "Ta là Kinh."

Kinh này trước đây là tiếng Phạn, nhưng có một vị pháp sư đã dịch sang tiếng Trung với tựa đề "Pháp sư Tam Tạng Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch". Diêu Tần là một triều đại, Tam Tạng đại diện cho Kinh, Luật, Luận, còn pháp sư là một vị xuất gia thông thạo Kinh, Luật, Luận được gọi là Tam Tạng pháp sư. Pháp sư Cưu Ma La Thập, tôi xin giới thiệu với mọi người, ngài là một vị pháp sư rất nổi tiếng, là một bậc đại thành tựu giả, đã dịch rất nhiều kinh Phật và có rất nhiều đệ tử theo học. Khi sắp viên tịch, ngài đã nói một câu: "Nếu những kinh Phật tôi dịch là đúng, thì lưỡi của tôi sẽ không cháy". Quả thật, khi Cưu Ma La Thập viên tịch, sau khi hỏa táng, chiếc lưỡi của ngài thật sự không cháy, điều này chứng minh những kinh điển do Cưu Ma La Thập dịch đều vô cùng chính xác.

Ngài Cưu Ma La Thập cũng là một bậc đại học giả, là người Ấn Độ, cha và các đời tổ tiên của ngài đều là tể tướng của đất nước (tức là thủ tướng). Sau đó, cha ngài cưới một công chúa, sinh ra Cưu Ma La Thập. Từ khi còn nhỏ, ngài đã có biện tài vô ngại, có thể giảng giải nhiều kinh điển, và khi còn rất trẻ đã trở thành quốc sư. Ban đầu ngài học Phật pháp Tiểu thừa, sau đó học Phật pháp Đại thừa, rồi quay về độ vị thầy Tiểu thừa của mình.

Cưu Ma La Thập có đóng góp rất lớn trong công tác phiên dịch kinh điển Phật giáo Trung Hoa, danh tiếng của ngài từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc, và chính Phù Kiên đã thỉnh mời ngài từ Ấn Độ sang Trung Quốc để dịch kinh Phật. "Cưu Ma La Thập" trong tiếng Phạn có nghĩa là "Đồng Thọ", nghĩa là trẻ thơ, nhưng ngài lại có trí tuệ rất lớn, vì vậy cái tên này cũng phù hợp với dấu vết hoạt động cả đời của ngài. Muốn biết chi tiết về mọi việc trong cuộc đời của Cưu Ma La Thập, mọi người có thể đọc một cuốn sách của Trung Quốc tên là "Cao Tăng Truyện", trong đó có ghi chép về ngài. Vị cao tăng dịch kinh này, bản thân cũng là người có nhiều thần thông.

Om mani padme hum.

15. Tôi nghe như vầy (1)

Hôm nay chúng ta bước vào phần kinh văn của "Phật Thuyết A Di Đà Kinh". Bốn chữ đầu tiên "Tôi nghe như vầy" có nghĩa là gì? Tôi thường đọc kinh Phật và hay thấy "như vầy, như vầy", điều này giống như "dường như là, dường như là", "có vẻ như là", nhưng thực ra không nên giải thích như vậy. Đúng hơn là: giống như tôi đang ngồi trước mặt Đức Phật để nghe giảng kinh. Tại sao vậy? Bởi vì sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, các đệ tử dựa vào trí nhớ của mình, tập hợp và ghi chép lại những giáo pháp mà Phật đã thuyết giảng. Trong kinh Phật, mỗi lần mở đầu kinh văn, bốn chữ đầu tiên nhất định phải viết là "tôi nghe như vầy". Tôi nghe như vầy có nghĩa là "như tôi đã đích thân nghe Đức Phật thuyết pháp".

Hai chữ "như vầy" chính là đại diện cho "sự thành tựu của niềm tin". Mặc dù lúc đó chúng ta không có mặt để nghe, nhưng khi chúng ta đọc bộ kinh này, cũng giống như chúng ta đang có mặt để nghe Đức Phật thuyết pháp. Bởi vì chúng ta tin rằng đây là những lời Phật dạy, tin rằng kinh điển này do Phật thuyết giảng, cho nên "như vầy" chính là một dạng "sự thành tựu của niềm tin".

"Tôi nghe" là thành tựu gì? Đó chính là "thành tựu của việc tôi đến nghe" - thành tựu của việc tôi nghe. Mọi người có thể nghĩ như thế này: ai cũng đều có thành tựu, bởi ít nhất các vị cũng đã thành tựu được "việc lắng nghe". Việc tôi đến nghe cũng là một loại thành tựu, việc tôi tin tưởng cũng là một loại thành tựu; các vị không tin sao? Lấy Thiên Chúa giáo làm ví dụ, họ chuyên nói về "tin là được cứu rỗi", cái gọi là tin là được cứu rỗi, thực ra chính là thành tựu của đức tin, và rồi ở đây chúng ta thêm bốn chữ này, đó là:

Một "thành tựu của đức tin", một "thành tựu của việc lắng nghe".

Tiếp theo là hai chữ "một thời", tức là chỉ thời điểm nào đó, trong khoảng thời gian nào đó, gọi là một thời. Thực ra, thời điểm đó cũng có sự thành tựu, đó là thành tựu gì? Đó chính là "thành tựu về thời gian", sự thành tựu của thời gian. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, có rất nhiều đệ tử ngồi ở đó, tin tưởng có thành tựu, lắng nghe có thành tựu, và trong thời điểm đó có sự lĩnh ngộ chính là thành tựu về thời gian.

Sau này, khi bạn nghe pháp ở đây và tôi không còn ở cõi trần nữa, bạn cũng có thể viết "tôi nghe như vầy". Khi viết "tôi nghe như vầy", bạn phải ghi nhớ thật rõ ràng, ví dụ như vào ngày tháng năm nào đó, lúc 8 giờ tối, ai đó ngồi ở đây thuyết pháp, bạn phải ghi nhớ cho rõ! Đừng viết kiểu như: có một người hình như tên là Thượng sư Lư Hà đang thuyết pháp tại chùa Vũ Điền. Tại sao lại biến thành chùa Vũ Điền? Bởi vì nhìn chữ Lôi từ xa một chút đã biến thành Vũ Điền mất rồi. Còn chữ Lư này, không nhớ ra chữ phía dưới là gì, nên tiện tay dùng chữ Hà của sông nước, gọi là Lư Hà luôn, như vậy thì "tôi nghe như vầy" đã sai rồi. Tuy nhiên, tôi thấy mình trí nhớ không tốt, đôi khi viết lách cũng có hiện tượng này, như kiểu ghép đông với tây, đầu trâu miệng ngựa vậy.

Khi kết tập kinh điển trong quá khứ, cũng có nhiều vấn đề bị bỏ sót. Nhiều đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni phải tập hợp lại, họ nghiên cứu xem lúc đó Phật đã giảng như thế nào, cần phải tập hợp trí nhớ của nhiều người mới có thể kết tập thành kinh điển như thế này. Nếu chỉ một người viết thôi (một người viết đơn lẻ), rất có thể sẽ ghi sai hết thời gian, địa điểm, tên gọi. Gần đây tôi xem tạp chí chúng ta xuất bản, khi ghi lại lời Thượng sư giảng pháp, đôi khi nhắc đến tên người hoặc từ ngữ nào đó, vì chỉ nghe âm thanh mà không biết chữ thật sự là gì, nên vẫn còn nhiều chỗ sai. Vì vậy khi gặp danh từ riêng, cần phải chú ý một chút, nếu không sẽ bị sai.

"Tôi nghe như vầy, một thời, Phật...". Chữ Phật này cũng có một sự thành tựu, đương nhiên Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự thành tựu, đó chính là "sự thành tựu chủ yếu" - chính là Phật.

Về địa điểm thì sao? Đó là "tại vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ", đây cũng là một sự thành tựu. Thành tựu này gọi là gì? Gọi là "xứ thành tựu" - tức là sự thành tựu về địa điểm. Vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc của Phật Thích Ca Mâu Ni là do một thí chủ cúng dường cho Phật, Ngài đã thuyết pháp giảng kinh rất nhiều tại địa điểm đó, và địa điểm ấy đã trở thành một sự thành tựu. Giống như ngày nay, Lôi Tạng Tự của chúng ta cũng là một "xứ thành tựu". Không phải chữ "xứ" như trong "giấm chua" đâu nhé, đừng để sau này nghe giọng rồi viết thành: Sư Tôn giảng về thành tựu của giấm chua. Không phải chữ "xứ" trong giấm chua đâu, mà là chữ "xứ" trong xử lý kìa. Chữ "xứ" và "giấm" có âm giống nhau, thật ra người Đài Loan học tiếng Phổ thông hay bị "thều thào" khi nói. Tôi tin rằng chữ "xứ" và "giấm" phải có sự khác biệt, âm thanh chắc chắn phải khác nhau, nhưng tôi thực sự không phát âm rõ ràng được.

Tôi cảm thấy khả năng nói tiếng Phổ thông của mình khá chuẩn, bởi vì trước đây trong hơn 10 năm phục vụ trong quân đội, tôi chỉ nói tiếng Phổ thông. Nhưng khi sang Mỹ, trong khoảng 5 năm qua, tôi rất ít có cơ hội nói tiếng Phổ thông. Thượng sư Trần và những người khác đều nói tiếng Đài Loan, ông Lâm ở bên cạnh cũng nói tiếng Đài Loan, mọi người đều nói tiếng Đài Loan, chỉ có một mình tôi nói tiếng Phổ thông thì không thông. Vì vậy gần đây trình độ tiếng Phổ thông của tôi đã suy giảm nhiều, do đã lâu không có cơ hội sử dụng, nên khi thuyết pháp cũng có đôi chút không mạch lạc. Nhiều đệ tử ở Đài Loan nghe băng ghi âm đã hỏi tại sao tiếng Phổ thông của tôi lại như vậy, nói không được trôi chảy, nên ở đây tôi cũng xin họ thông cảm, thực sự là đã 5 năm không nói rồi.

Khi nào tôi nói tiếng Phổ thông? Chỉ khi thuyết pháp thôi, mà lại không có chuẩn bị, phần lớn những gì tôi giảng đều không chuẩn bị trước. Giống như chọn một đề tài, dựa vào kiến thức đọc sách thường ngày để tổ chức và trình bày, nên khó có thể nói được trôi chảy. Còn tiếng Phổ thông của các Thượng sư Trần và những vị khác, tôi còn nghe không hiểu nữa, nhưng thành thật mà nói với mọi người: tiếng Đài Loan của tôi không thể sánh với họ. Khi họ dùng tiếng Đài Loan thuyết pháp chắc chắn rất hay, nếu bảo họ dùng tiếng Đài Loan giảng kinh thuyết pháp, họ còn nói hay hơn cả người kể chuyện trong rối bóng, tiếng Đài Loan của họ "trong trẻo rõ ràng", rất tuyệt vời. Nếu mọi người hiểu được tiếng Đài Loan, chúng ta có thể mở lớp tiếng Đài do Thượng sư Trần chủ giảng, tôi phụ trách lớp tiếng Phổ thông, còn Thiếu Đông sau này có thể dạy lớp tiếng Anh và tiếng Quảng Đông.

Thực tế mà nói, vấn đề ngôn ngữ này cũng rất khó khăn, chủ yếu là vì đất nước Trung Quốc quá rộng lớn, phương ngữ quá nhiều. Tôi cũng hy vọng trong tương lai Trung Quốc chỉ nói một loại ngôn ngữ duy nhất, như vậy sẽ thuận tiện hơn cho việc thống nhất toàn Trung Quốc sau này.

Câu tiếp theo là "cùng với đại chúng tỳ kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc đại A La Hán, được mọi người biết đến" - câu này nói về "chúng thành tựu" - tức là tất cả mọi người đều có thành tựu. "Một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là đại A La Hán", tất cả đều là đại A La Hán. Đại A La Hán là một trong bốn quả vị thánh cao quý, nghĩa là mọi người đều có thành tựu. Hôm nay mọi người ngồi đây nghe pháp, sau này khi viết kinh văn có thể viết: "Tôi nghe như vầy. Khoảng một trăm năm mươi người. Đều là đại Bồ Tát." Sau này mọi người có thể viết kinh như vậy. Nhưng có vẻ không đủ một trăm năm mươi người, còn con số một nghìn hai trăm năm mươi người kia cũng là rất nhiều, ở đây chúng ta chỉ có một trăm năm mươi người là quá ít, trừ đi những người từ xa đến, từ Canada đến, chỉ còn lại ba mươi người, lại trừ đi mấy vị Thượng sư ngồi phía trước, chỉ còn lại mười người. A Di Đà Phật! Hy vọng sẽ ngày càng đông hơn.

Om mani padme hum.

16. Tôi nghe như vầy (2)

Lần trước khi giảng Kinh A Di Đà, chúng ta đã nói đến "tôi nghe như vầy". Bốn chữ này có một điển tích, được nhắc đến ở phần sau, đó là trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, tôn giả A Nan đã đến hỏi Ngài bốn việc, trong đó có một việc liên quan đến bốn chữ này.

Bốn việc đó là: Thứ nhất, A Nan hỏi Thế Tôn: "Khi Thế Tôn còn tại thế, chúng con nương theo Thế Tôn làm thầy; sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con nương theo ai làm thầy?" Thứ hai, A Nan hỏi Thế Tôn: "Khi Thế Tôn còn tại thế, chúng con nương theo Thế Tôn để an trú; sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con nương vào đâu để an trú?" Câu hỏi thứ ba là: "Khi Thế Tôn còn tại thế, Thế Tôn điều phục được các tỳ kheo ác tính; sau khi Thế Tôn diệt độ, làm sao điều phục họ?" Thứ tư, hỏi rằng: "Những lời dạy trong suốt cuộc đời của Thế Tôn, vì lợi ích cho đời sau, xét về lý nên kết tập, vậy phần đầu kinh văn nên đặt những lời gì?"

Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời bốn câu hỏi này, câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất là: "Sau khi Thế Tôn diệt độ, lấy giới làm thầy." Giới chính là giới luật. Giống như chúng ta bây giờ, Chân Phật Tông có giới luật của Chân Phật Tông, thực ra giới luật của Chân Phật Tông và Phật giáo là giống nhau.

Câu hỏi thứ hai là "lấy tứ niệm xứ làm chỗ an trú." Tứ niệm xứ là gì? Đó là: Một là quán thân bất tịnh, hai là quán thọ là khổ, ba là quán tâm vô thường, bốn là quán pháp vô ngã. Lấy bốn loại quán niệm này làm chỗ an trú, đó chính là hạt giống thành Phật.

Câu hỏi thứ ba, Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời: "Đối với tỳ kheo ác tính, dùng mặc tẫn để đối trị." Mặc tẫn nghĩa là im lặng, dùng sự im lặng để đối trị.

Câu hỏi thứ tư là về vấn đề "tôi nghe như vầy" ở đầu kinh, Ngài dạy: "Đầu kinh nên ghi 'tôi nghe như vầy'." Bốn chữ "tôi nghe như vầy" này có nghĩa là "những điều Phật thật sự đã dạy". Bốn chữ "tôi nghe như vầy" chính là những điều Phật thật sự đã dạy, khiến người nghe phải tin sâu và tiếp nhận.

Ở đây, tôi cũng xin giải thích sơ qua về "Tứ niệm xứ". "Quán thân bất tịnh" nghĩa là phải thường xuyên quán chiếu rằng thân thể của mình vốn không thanh tịnh, xác thân và bản thể của mình đều không thanh tịnh. Chúng ta cũng cần thường xuyên quán chiếu rằng trong cuộc đời này khổ nhiều vui ít, nỗi khổ nhiều hơn niềm vui. Mọi người cũng có thể nghĩ xem, ngay cả Thượng sư cũng gần như bị tiền bạc đè chết, vẫn còn đau khổ!

Điểm thứ ba là "quán tâm vô thường", nghĩa là phải thường xuyên quan sát những ý niệm của mình. Thật ra, ý niệm của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng, chưa bao giờ được yên tĩnh. Điểm thứ tư là "quán pháp vô ngã", điểm này rất quan trọng, nghĩa là trong khi tu tập phải quên đi cái tôi, bởi vì chỉ khi nào "tọa vong" (quên mình trong thiền định), bạn mới có thể tìm thấy "chân ngã" đích thực.

Nếu bạn luôn tu pháp vì cái "tôi" này, thì trí tuệ đạt được chỉ là trí tuệ nhỏ của cá nhân và phước báu nhỏ của cá nhân mà thôi; khi tu pháp đến mức bản thân đã trở thành trạng thái vô ngã, bạn mới có thể kết duyên với chúng sinh, chia sẻ pháp tu của mình cho chúng sinh, giống như việc giảng kinh vậy.

Tôi tiết lộ cho mọi người một bí mật, có thể làm giàu trong hàng trăm kiếp là vì tu pháp không phải vì bản thân mà là vì chúng sinh, chúng sinh trong hàng trăm kiếp đều mắc nợ bạn, bạn không thể không trở thành người giàu có! Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni chưa giảng rõ, "quán pháp vô ngã" này là pháp lớn thứ nhất - "không vì mình tu mà vì chúng sinh tu", phước báu của bạn sẽ vô cùng vô tận.

Trong đây có điều bí mật, mọi người hãy tu pháp cho tốt, sẽ có phước báu vô tận, trí tuệ vô cùng, một người có thể có đến hàng trăm căn nhà. Tuy nhiên, đừng nên quá tham lam, bởi vì ban đêm bạn chỉ có thể ngủ trên một chiếc giường. Trước đây có nhiều người giàu nói rằng: khi họ còn nhỏ cắt cỏ, từ bên này cắt đến bên kia, thì bên này cỏ đã mọc lên rồi.

Vì vậy, người giàu thật sự có nỗi lo của người giàu, nhà nghèo cũng có nỗi lo của nhà nghèo. Cuối cùng chỉ có một câu: nỗi lo của người có tiền vẫn tốt hơn nỗi lo của người không có tiền, mong rằng mọi người đều có nỗi lo của người có tiền.

Om mani padme hum.

17. Tôi nghe như vầy (3)

Tuần trước chúng ta đã nói về bốn câu hỏi mà tôn giả A Nan hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôn giả A Nan là thị giả của Phật Thích Ca Mâu Ni, thị giả là người thường xuyên theo hầu bên cạnh Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni từng khen ngợi Ngài (tôn giả A Nan) là "đa văn đệ nhất".

Đa văn đệ nhất nghĩa là gì? Đa văn là vì Ngài thường xuyên theo Phật Thích Ca Mâu Ni, nên được nghe nhiều đạo lý nhất, được nghe nhiều Phật pháp nhất. Tuy nhiên, dù đa văn là điều tốt, nhưng cũng có một khuyết điểm, đó là thiếu thực hành. Ngài ngày nào cũng đi nghe Phật thuyết pháp, ngày nào cũng nghe, nghe rất hoan hỷ, cái gì cũng muốn học, những pháp Phật giảng, Ngài đều biết hết, nhưng lại không thực sự tu tập nghiêm túc.

Sau khi Phật nhập Niết bàn, tất cả các vị A La Hán tập hợp lại với nhau, chuẩn bị tập trung toàn bộ những giáo lý, Phật lý mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng dạy để cùng nhau thảo luận. Cuộc hội tập này do Đại Ca Diếp làm chủ trì, nhưng vì tôn giả A Nan là người được nghe nhiều Phật pháp nhất, nên mọi người đã mời Ngài làm vị chủ tọa để điều hành cuộc kết tập này, lúc đó có tổng cộng năm trăm vị A La Hán cùng tham dự.

Tuy nhiên, vào lúc đó, Đại Ca Diếp từ chối A Nan, Ngài nói: "Tuy ông nghe được nhiều, nhưng không có thực hành tu tập và chứng ngộ thực sự, nên ông không thể vào được." Tôn giả A Nan nghe xong rất đau lòng, bốn trăm chín mươi chín vị đều được vào trong, chỉ còn lại một mình Ngài ở bên ngoài. Cuối cùng, Ngài nói: "Được rồi! Đã như vậy, tôi sẽ nhanh chóng thực tu."

Ngài bắt đầu tu tập mỗi ngày, từ sáng đến tối, liên tục tu tập bảy ngày bảy đêm, không ngủ nghỉ. Tuy nhiên, vẫn chưa chứng ngộ, Ngài vẫn chưa tìm ra được. Ngài nói: "Tôi đã nghe được rất nhiều đạo lý, nhưng vì không thực tu, nên không chứng ngộ, mọi người không cho tôi vào bên trong tham gia kết tập."

Ngài liên tục tu tập bảy ngày bảy đêm, giống như học sinh chúng ta ôn thi thâu đêm vậy. Đến ngày thứ bảy, vẫn chưa chứng ngộ; bỗng nhiên Ngài lên giường: "Chà! Tu hoài không chứng ngộ, thôi đi ngủ cho rồi." Khi Ngài vừa nằm xuống giường, vừa chạm vào giường, liền chứng ngộ.

Ngài vội vàng chạy đến chỗ kết tập để gặp tôn giả Đại Ca Diếp và nói với Ngài: "Tôi đã chứng ngộ rồi." Đại Ca Diếp rất không tin: "Làm gì có chuyện nhanh như vậy, bảy ngày mà ông đã chứng ngộ? Chắc chắn là nói dối!" Lúc họ kết tập, bốn trăm chín mươi chín vị A La Hán đang ở trong một hang núi. Đại Ca Diếp đóng cửa hang lại, cửa kín không một kẽ hở. Ngài nói với tôn giả A Nan đang đứng bên ngoài: "Nếu ông đã chứng ngộ thì hãy tự mình vào đây." Cửa đã đóng, đã khóa chặt, làm sao mà vào được?

Tôn giả A Nan từ từ phân giải thân thể của mình thành khí, rồi đi xuyên qua lỗ khóa vào trong hang núi, sau đó khôi phục lại thân thể như cũ. Ngài nói với bốn trăm chín mươi chín vị A La Hán bên trong: "Tôi đã tự mình vào được rồi!" Đại Ca Diếp nói: "Ông đã vào được, được rồi! Ông quả thật đã chứng ngộ, có thể cùng chúng ta kết tập giáo lý của Phật."

Đây là một thần thông rất lợi hại! Thần thông này giống như thần thông của kẻ trộm vậy, nếu ai quan tâm đến điều này thì chắc chắn sẽ rất tuyệt, nhất định sẽ thành đại phú gia. Nhớ lại hồi nhỏ, thật kỳ lạ, tôi thường hay mơ một giấc mơ rất kỳ lạ, thường khi đi đến trước một bức tường, tôi có thể đi xuyên qua bức tường đó; thường hay có giấc mơ như vậy, mấy lần đều mơ như thế, đều có thể xuyên tường như vậy, giống như người đi xuyên tường vậy.

Theo như thần thông hiện tại mà nói, là biến thân thể mình thành một tần số còn loãng hơn cả nước và khí. Lý thuyết là vậy, dù bạn có thể biến thành ánh sáng, biến thành chất lỏng, vẫn không thể xuyên tường được, nhất định phải biến thành sóng tần số như sóng radio mới có thể xuyên qua tường. Vì vậy trong Mật pháp, đã từng có người biến mình thành trong suốt, rồi khi hai người đâm vào nhau, người này xuyên qua thân thể người kia, người kia cũng xuyên qua thân thể người này, có những thần thông kỳ lạ như vậy.

Khi tôn giả A Nan lên tòa để kết tập và giảng lời Phật (giảng đạo lý của Phật), mọi người cảm nhận được khuôn mặt của Ngài giống hệt như Đức Phật. Lúc đó, mọi người đều cảm thấy rất lạ lùng, tại sao khuôn mặt của A Nan đột nhiên lại trở nên giống Phật như vậy?

Nghi vấn đầu tiên là nghi ngờ Phật Thích Ca Mâu Ni chưa nhập diệt, Ngài đang thuyết pháp trở lại; nghi vấn thứ hai là có thể một vị Phật từ nơi khác đã đến; nghi vấn thứ ba là A Nan đã thành Phật. Thực ra, lúc đó tôn giả A Nan cũng đã như được khai ngộ; và mỗi lần giảng kinh, Ngài đều phải nói câu "tôi nghe như vầy" trước tiên, bởi vì khi nói câu "tôi nghe như vầy" này, tâm mọi người mới an định lại, nhận ra A Nan vẫn là A Nan. Hôm nay chúng ta giảng đến đây!

Om mani padme hum.

18. Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc

Tôi tin rằng, tuần này có vài người biết tôi và Thượng sư Liên Hỏa có một chuyến đi bí mật, tôi và Thượng sư Liên Hỏa đã đến Hồng Kông vào thứ Hai, hôm nay mới về, khoảng hơn 1 giờ mới từ Hồng Kông trở về Seattle. Từ thứ Hai đến thứ Bảy, tôi và Thượng sư Liên Hỏa đều ở Hồng Kông. Tuy là chuyến đi bí mật, không cho ai biết, nhưng thực tế, như câu tục ngữ Đài Loan nói: "Trứng vịt dù kín đến mấy cũng có kẽ hở".

Nói thế nào nhỉ? Khi chúng tôi xuống máy bay tại sân bay Hồng Kông, một nhân viên sân bay - người lái xe kéo đầu máy bay - là đệ tử của chúng tôi, anh ấy đã nhận ra tôi khi thấy logo Chân Phật Tông trên túi xách và nhìn thấy mặt tôi. Khi trở về Seattle, chị Ôn, một đệ tử làm phiên dịch viên tại Sở Di trú và Hải quan ở sân bay, cũng nhìn thấy chúng tôi. Chị ấy rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi từ chuyến bay quốc tế xuống, bởi vì thứ Bảy tuần trước chúng tôi đã không thông báo về việc đi xa hay đến một quốc gia khác.

Chuyến đi Hồng Kông lần này của chúng tôi chủ yếu là để chuẩn bị một nơi đặt chân cho việc chu du khắp nơi trong tương lai, một trung tâm tại Hồng Kông. Các đệ tử ở Hồng Kông đã rất chân thành tặng cho Thượng sư một ngôi nhà, để sau này khi Thượng sư chu du khắp thế giới, có một nơi đặt chân lấy Hồng Kông làm trung tâm.

Vì vậy ngày đầu tiên, chúng tôi bận rộn đến ngân hàng mở tài khoản, ngày thứ hai, bận rộn đến văn phòng luật sư để ký giấy chuyển nhượng, ngày thứ ba, lại ký các giấy chứng nhận. Các đệ tử Hồng Kông rất chân thành, ngôi nhà đó có một phòng khách rất rộng có thể thuyết pháp, tầng trên có ba phòng ngủ, garage có thể đậu hai xe, phía trước và sau đều có vườn hoa, hai bộ thiết bị vệ sinh, phía sau nhà là khu bảo tồn chim, không được phép xây thêm nhà nữa, môi trường rất đẹp.

Tôi nghĩ sau này khi các Thượng sư của Chân Phật Tông đến Hồng Kông hoằng pháp, đều có thể ở trong ngôi nhà này. Họ đã rất chân thành tặng một ngôi nhà tốt như vậy, trị giá hơn trăm nghìn đô Mỹ, tặng cho Thượng sư.

Thật ra, như tôi đã nói lần trước, có nhiều nhà như vậy chưa chắc đã có lợi. Bởi vì ngay cả khi chưa ở, đã phải trả tiền nước, tiền điện, phí vệ sinh, phí linh tinh, phí quản lý, phí đậu xe, đủ thứ phí phải trả. Tuy nhiên, tôi nghĩ vẫn có lợi ích, vì ngôi nhà đó giống như một trung tâm vân du, một trung tâm truyền pháp.

Ở Hồng Kông, tuy nói là không cho tất cả mọi người biết, nhưng thực tế, các Thượng sư ở Hồng Kông đều biết. Tôi cũng đã giảng pháp một chút tại chỗ Thượng sư Cao An Dân, cũng giảng pháp một chút cho các đệ tử ở chỗ pháp sư Quả Hiền, còn lại thời gian là để ăn uống. Vì thời gian ở Hồng Kông rất gấp rút, thực tế chỉ có ba ngày ở đó.

Có lúc mọi người cũng nghĩ: "Thượng sư thích thế, người ta tặng xe, tặng nhà, khắp các nước trên thế giới đều có nhà, sao không tặng cho chúng con một căn?" Tuy nhiên, tôi cho rằng những ngôi nhà này, trong tương lai sẽ phát huy tác dụng trở thành trung tâm hoằng pháp của Chân Phật Tông, chứ không phải để tôi hưởng thụ cá nhân kiểu lúc ở bên này, ngày mai bay bên kia, ngày mốt lại bay chỗ khác.

Trong Kinh A Di Đà mà chúng ta đang giảng đây, Phật thuyết Kinh A Di Đà tại tinh xá Kỳ Viên, thực ra tinh xá Kỳ Viên này cũng là do đệ tử cúng dường cho Phật. Tinh xá Kỳ Viên này chính là "xứ thành tựu" - một sự thành tựu về nơi chốn - được nói đến trong phần giảng giải Kinh A Di Đà.

Có hai người đã cúng dường tinh xá Kỳ Viên cho Phật Thích Ca Mâu Ni, trong đó một người là thái tử nước Xá Vệ tên là Kỳ Đà. Ban đầu khu vườn này thuộc về ông ấy, nhưng đã được bán cho đại thần Cấp Cô Độc, sau đó ông đã cúng dường tất cả cây cối trên mảnh đất đó cho Phật Thích Ca Mâu Ni, vì vậy tên thật của tinh xá Kỳ Viên là "Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên".

"Kỳ Thụ" có nghĩa là gì? Đó là vì Kỳ Đà đã cúng dường tất cả cây cối trên mảnh đất cho Phật Thích Ca Mâu Ni, nên gọi là "Kỳ Thụ". Còn "Cấp Cô Độc", không phải là nói chuyên cho người cô độc, cái tên này rất lạ, tại sao lại gọi là "Cấp Cô Độc"?

Tên gọi này có nguồn gốc từ việc vị đại thần này chuyên giúp đỡ người khác làm điều thiện. Ông làm những việc như giúp đỡ người già không con, trẻ nhỏ không cha, khiến họ không cô đơn, giống như xây dựng viện dưỡng lão và cô nhi viện vậy. Viện dưỡng lão là dành cho người già không con, cô nhi viện là dành cho trẻ nhỏ không cha. Vì vị đại thần này thường xuyên giúp đỡ những người già cô đơn và trẻ em cô độc như vậy, nên mọi người tôn xưng ông là "Cấp Cô Độc".

Khi Phật thuyết pháp tại nước Xá Vệ, trưởng giả Cấp Cô Độc và thái tử Kỳ Đà đã dâng cúng khu vườn rộng lớn này cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có được mảnh đất rộng lớn, rừng cây tốt đẹp như vậy, nên đã an trí hàng nghìn đệ tử trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc này, khiến các đệ tử có thể an cư tu hành. Vì Phật Thích Ca Mâu Ni có được khu vườn này, nhờ đó ngài có thể thuyết pháp và độ chúng sinh, nên nguyên lý này được gọi là "xứ thành tựu".

Trong tương lai, những trung tâm của chúng ta sẽ trở thành trung tâm hoằng pháp, trung tâm thuyết pháp, trung tâm vân du, sẽ xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, mọi người đừng xem những ngôi nhà này là tài sản riêng của Thượng sư, bởi vì trong tương lai chúng sẽ phát huy sức mạnh hoằng pháp.

Tôi biết rằng, chỉ cần chúng ta chuyên tâm hoằng pháp, trời sẽ chuẩn bị cho chúng ta nhiều chỗ ở. Của cải trên trời là vô tận, và là nguồn không bao giờ cạn kiệt, chỉ cần chúng ta nghiêm túc thực hiện Phật sự, chư Phật Bồ Tát sẽ chuẩn bị cho chúng ta mọi nơi chốn để hoằng pháp.

Đúng như hôm nay Thượng sư Trịnh đã nói: "Người đắc đạo tự nhiên được nhiều người giúp đỡ", người đắc đạo tự nhiên có nhiều người đến giúp, không cầu giàu mà được giàu, không đi cầu của cải, tự nó sẽ đến; không cần phải cầu danh, tự nhiên danh tiếng vang khắp thiên hạ. Vì vậy bây giờ tôi thường nghĩ, của cải của tôi ở đâu? Tôi cho rằng của cải của tôi không nằm ở mặt đất, mà là ở trong hư không, "trong hư không đều chứa đầy của cải, thì đương nhiên bạn sở hữu tất cả".

Om mani padme hum.

19. Cùng với đại chúng tỳ kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc đại A La Hán

Trong câu đầu tiên của Kinh A Di Đà có nhắc đến một số thuật ngữ: "Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với đại chúng tỳ kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc đại A La Hán, được mọi người biết đến."

Lần trước chúng ta đã nói về "vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc", hôm nay chúng ta nói về "đại tỳ kheo tăng" là gì? Đại tỳ kheo ở đây là chỉ các vị đại hòa thượng xuất gia; thông thường khi người ta nghe đến hòa thượng thì... người Quảng Đông sợ chết khiếp, pháp sư Quả Hiền đã từng gặp một trường hợp ở China Town; thực ra, nói chung hòa thượng không có gì đáng sợ, nhưng người Quảng Đông lại rất sợ hòa thượng, điều này khiến tôi thấy rất lạ. Lần trước có một bà cụ, khi nhìn thấy pháp sư, liền thốt lên: "Ôi trời! Xui xẻo quá!" Pháp sư bước tới nói với bà: "Bà đâu có xui xẻo, tôi có thể ban phúc cho bà mà."

Vì hai người đều nói tiếng Quảng Đông nên tôi tưởng pháp sư có người thân ở đây và họ đang chào hỏi nhau. Hai người nói chuyện một hồi lâu, vì người Quảng Đông nói chuyện nghe như đang cãi nhau vậy! Nên tôi nghĩ: "Ồ! Mừng cho pháp sư, cuối cùng cũng gặp được chị em gái."

Sau đó tôi mới biết là họ đang nói về chuyện xui xẻo, khiến tôi từ đó về sau mỗi khi ra phố China Town đều mặc thường phục. Bởi vì người Quảng Đông có một sự mê tín, họ cho rằng nếu nhìn thấy người đầu trọc thì tối đó đánh mạt chược chắc chắn sẽ thua sạch. Đặc biệt người Quảng Đông rất thích cá cược ngựa, chó, gà, họ thường xuyên chơi những trò này, nên khi ra đường, mặc thường phục vẫn thuận tiện hơn.

Thực ra, danh từ đại hòa thượng có ba ý nghĩa. Thứ nhất là "khất sĩ", nghĩa là đi khất thực xin cơm như người ăn xin. Thứ hai, tại sao phải đi xin cơm? Xin cơm là để nuôi dưỡng sắc thân, nuôi dưỡng thể xác, duy trì mạng sống của mình. Có người cho rằng hòa thượng là kẻ ăn bám, không làm mà chỉ xin ăn, nhưng thực ra hòa thượng xin ăn là để ban phúc cho người khác.

Khi thí chủ cúng dường tiền của cho nhà sư, họ được phúc đức cúng dường; nhà sư nhận sự cúng dường của thí chủ và dùng Phật pháp để truyền lại cho thí chủ, đó là pháp thí. Một bên là tài thí, một bên là pháp thí, hai bên ngang nhau, không ai nợ ai. Có khi, nhà sư nhận của bạn một đồng sẽ trả lại bạn mười đồng; bạn cho nhà sư mười đồng sẽ được trả lại một trăm đồng; bạn cho nhà sư một trăm đồng sẽ được trả lại một nghìn đồng; nếu bạn không cho nhà sư tiền thì sẽ bị thua lỗ; nhà sư có phước báu lắm! Ai có duyên thì hãy xuất gia làm nhà sư! Vì vậy nhà sư là khất sĩ, nghĩa là khất thực, họ ôm bình bát đi xin cơm.

Ngoài việc khất thực, nhà sư còn phải "cầu tuệ", nghĩa là đi cầu pháp để có được trí tuệ; khất thực là để nuôi dưỡng sắc thân, cầu tuệ là để nuôi dưỡng pháp thân. Pháp thân này rất quan trọng, khi đã là người xuất gia, đã là nhà sư, không thể chỉ biết ăn cơm, mà phải tràn đầy trí tuệ. Có đầy đủ trí tuệ thì mới là cao tăng. Nếu không có trí tuệ, chỉ biết xin ăn, thì chỉ là tăng tầm thường.

Điểm thứ hai, đại tỳ kheo còn có một ý nghĩa nữa, đó là "phá ác". Phá ác là gì? Nghĩa là khi đã trở thành đại tỳ kheo, phải dạy điều thiện ngăn điều ác, phải chuyển hóa cái ác thành cái thiện, đó là trách nhiệm của đại tỳ kheo, của bậc đại hòa thượng.

Thứ ba là "khủng bố ma quỷ". Khủng bố ma quỷ là gì? Đó là khi ma quỷ nghe nói bạn là một đại tỳ kheo thì sẽ cảm thấy vô cùng kinh sợ. Trong quá khứ, khi Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đạo và truyền giới cụ túc cho tất cả đệ tử, thiên cung và ma cung đều chấn động, Ma vương đã triệu tập tất cả ma quỷ họp lại, tất cả đều rất lo lắng, không biết chuyện gì đã xảy ra.

Ma vương nói rằng: "Thế gian có một vị Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng đạo, và đã truyền giới cụ túc cho tất cả đệ tử để họ trở thành đại tỳ kheo." Chính vì vậy mà ma quỷ không thể đứng vững trong nhân gian được nữa, khiến chúng vô cùng sợ hãi.

Một vị đại hòa thượng cần có ba yếu tố này: thứ nhất là "khất sĩ", thứ hai là "phá ác", thứ ba là "khủng bố ma quỷ", đó chính là ý nghĩa của danh từ đại hòa thượng, đại tỳ kheo.

Tiếp theo, chúng ta nói về "đại A La Hán". A La Hán trong tiếng Phạn nghĩa là Thanh Văn, nhiều đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni là những vị "trong tu hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn". Mỗi vị A La Hán đều phải trải qua thời gian tu hành rất lâu dài mới có thể trở thành bậc đại A La Hán.

Tôi nhớ, vào thời Phật Thích Ca Mâu Ni, có một vị A La Hán tên là Đạt Ca Tôn Giả, cũng từng theo Đức Phật một thời gian, nhưng ngài rất chậm hiểu, vô cùng ngu muội: Phật giảng kinh, buổi sáng giảng thì buổi chiều đã quên, buổi chiều giảng thì buổi tối đã quên, buổi tối giảng thì sáng hôm sau lại không còn nhớ gì. Đạt Ca vẫn không thể lĩnh hội được Phật pháp; cuối cùng, Phật không còn cách nào khác đành dạy ngài: "Ông hãy nhớ bốn chữ: 'Giữ miệng trị ý', giữ gìn miệng lưỡi và điều phục ý nghĩ của mình." Chỉ dạy bốn chữ "giữ miệng trị ý" như vậy.

Ban đầu, vị tôn giả này nghe Phật dạy "giữ miệng trị ý", liền thật sự giữ miệng không nói lời nào, đến nỗi cả lúc ăn cơm cũng không mở miệng, cuối cùng Phật Thích Ca Mâu Ni phải nói với ngài: "Khi ăn cơm thì phải mở miệng." Được rồi! Cuối cùng ngài cũng hiểu ra, và từ đó về sau, ngoài lúc ăn cơm ra, những lúc khác ngài đều không mở miệng.

Về câu thứ hai, Phật dạy ngài phải điều phục tâm, nhưng ngài vẫn không hiểu, nên Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ cho ngài về tâm bên trong, tâm bên ngoài và tâm trong hư không. Từ đó, ngài suốt ngày chỉ quán chiếu về tâm bên trong, tâm bên ngoài và tâm trong hư không. Như vậy, ngài tu hành tổng cộng mười ba năm, rồi một ngày nọ, khi ngài đưa tay chỉ vào mình, "À!", ngài thấy một điểm sáng ở bên trong, rồi khi chỉ ra bên ngoài, bên ngoài cũng có một điểm sáng, và khi chỉ vào vũ trụ, toàn thân ngài tỏa sáng, dần dần, chướng ngại của ngài không còn nữa, nghiệp chướng đã được tiêu trừ.

Một ngày nọ, ngài đi cùng Phật Thích Ca Mâu Ni, và được mang bình bát của Phật. Phật nhận lời thỉnh cầu, một vị quốc vương mời ngài đến dùng cơm, ngài không dẫn theo ai khác ngoài Đạt Ca Tôn Giả. Đạt Ca Tôn Giả cầm bình bát đi theo Phật vào thành. Khi đến cổng thành, người gác cổng nhìn thấy Đạt Ca Tôn Giả liền nghĩ: "Tại sao Phật Thích Ca Mâu Ni lại dẫn theo một đệ tử vừa ngu vừa đần như vậy?"

Người gác cổng chỉ cho phép Phật Thích Ca Mâu Ni vào cung thọ trai, còn nghĩ rằng một đệ tử ngu ngốc như vậy thì đứng ngoài cổng là được rồi! Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong cung điện cùng quốc vương dùng cơm, nhưng như các vị biết đấy, người xuất gia khi ăn cơm nhất định phải dùng bình bát. Bất chợt, từ trong hư không có một cánh tay duỗi dài ra, từ hư không vươn qua bức tường thành cao, xuyên qua nhiều lớp cửa và cửa sổ, vươn tới tận trong cung điện, và trao bình bát cho Phật Thích Ca Mâu Ni.

Quốc vương vô cùng kinh ngạc: "Chuyện gì vậy? Sao lại có một bàn tay từ hư không đưa bình bát này đến để ngài đựng thức ăn?" Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Đệ tử của ta là Đạt Ca Tôn Giả đang đứng đợi bên ngoài thành, nhưng người vẫn luôn quan tâm đến ta, biết ta sắp dùng cơm nên đã gửi bình bát đến cho ta từ đó."

Khi mọi người nghe thấy thần thông như vậy, tôi cũng muốn học được điều này! Dù sao thì muốn lấy vật gì chỉ cần giơ tay là có. Nhưng chúng ta không thể học cách có ba tay như vậy, có hai tay rồi, không thể mọc thêm một tay nữa! Các bạn thấy đó, tất cả tượng Phật của chúng ta tuy có nhiều tay, nhưng chưa bao giờ thấy tượng Phật nào có ba tay cả.

Nếu các bạn học được thần thông này, các bạn sẽ trở thành Bồ Tát ba tay. Tôi kể câu chuyện nhỏ này để nói rằng: tất cả các vị A La Hán, dù trí tuệ cao hay thấp, đều phải trải qua một thời gian tu hành bí mật rất lâu dài. Người có trí tuệ cao có thể chứng ngộ, người có trí tuệ thấp cũng có thể chứng ngộ.

Tôn Giả Đạt Ca cũng từng được mời lên giảng kinh, vì mọi người biết ngài có công phu tu hành như vậy nên thỉnh ngài lên giảng. Khi ngài bước lên pháp tòa, không nói một lời nào, rồi chỉ nói: "Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy tôi bốn chữ, và giờ đây tôi xin truyền lại bốn chữ ấy cho mọi người, đó là 'giữ miệng trị ý'." Nói xong, ngài bước xuống khỏi pháp tòa. Những người phía dưới đều vô cùng kinh ngạc, không một ai cười nhạo ngài. Bởi vì chỉ cần thực sự tu tập bốn chữ này đến nơi đến chốn thì sẽ đạt được giác ngộ.

Thật ra, pháp tu của chúng ta ngày nay cũng vậy. Hiện nay có nhiều đệ tử vừa mở miệng đã đòi tôi dạy Kim Cang pháp, mới quy y được hai ngày đã muốn học Vô thượng mật, rồi mới học được một tháng đã nói mình đã tương ứng hết tất cả, muốn làm Thượng sư. Họ gửi cúng dường Thượng sư cho tôi chỉ có hai đồng tiền Malaysia. Trời ơi! Tiền tem gửi thư về còn không đủ! Vì vậy chúng ta học pháp không nên đặt mục tiêu cao xa, cũng không nên học đủ mọi pháp.

Hôm nay thấy pháp quán nước hay thì muốn học pháp quán nước; ngày mai thấy pháp Hộ Ma hay thì muốn học Hộ Ma; ngày kia thấy bay lượn trên không còn hay hơn thì muốn học bay; thấy mọi người đều phát tài thì lại đòi học pháp Tài Thần; rồi lại có người nói: "Ôi! Pháp nào cũng không hay bằng pháp xuất thần."

Tôi thấy, học pháp như vậy không tốt! Học pháp như vậy chắc chắn sẽ không có thành tựu! Chúng ta nên chuyên tâm vào một pháp, và khi đã đạt được tương ứng với pháp đó rồi, vẫn tiếp tục tu tập pháp ấy. Đối với những pháp môn khác, chỉ cần hiểu biết thôi, đừng tu tập, như vậy dễ khai ngộ và dễ chứng đắc.

Khi bạn đã khai ngộ và chứng đắc rồi, tự nhiên sẽ thấu hiểu được các pháp môn khác, tất cả các pháp môn bên cạnh đều sẽ dần dần thấu tỏ. Mọi người học pháp tuyệt đối không nên một lúc học tới mười pháp, nghìn pháp, vạn pháp, tuyệt đối không nên như vậy, chỉ cần niệm một danh hiệu Phật, đó đã là một công phu rất vững chắc rồi.

Có người học chú ngữ, một lúc học vài trăm câu chú, mỗi ngày đứng trước Phật đường tụng một trăm câu chú đến nỗi toàn thân đổ mồ hôi. Anh ta viết thư nói với tôi: "Con đi làm lúc nào cũng trễ." Tôi nói với anh ta: "Những câu chú đó con có thể bớt đi, trong hơn một trăm câu chú đó con chỉ cần chọn bảy câu để tụng là được rồi." Anh ta nói: "Không được đâu! Trước đây con có tụng, bây giờ không tụng nữa, Bồ Tát sẽ giận con."

Thật ra, nếu bạn chuyên tâm tụng một câu chú, thì vị Bồ Tát đó sẽ thông với tất cả các vị Bồ Tát khác. Như hiện nay chúng ta chuyên tâm vào chú của Bát Đại Bổn Tôn, nhưng có nhiều đệ tử, sau khi tụng xong chú Bát Đại Bổn Tôn rồi, lại đi tìm thêm hơn trăm vị Bổn tôn khác để tụng, tụng hết chú của hơn trăm vị Bồ Tát, tụng một hồi lâu như vậy thì việc trì tụng chú Bát Đại Bổn Tôn lại trở nên tản mát, cách tụng như vậy rất khó đạt được tương ứng.

Vì vậy, chúng ta chỉ có một vị Bổn tôn chính, còn bảy vị Bổn tôn khác thì vây quanh vị Bổn tôn chính. Chú của Bổn tôn chính có thể tụng 108 biến, hoặc 1080 biến, còn các chú khác chỉ cần tụng 3 biến. Chú của Bổn tôn chính là chú căn bản, các chú khác là chú kết duyên, đây là bí quyết tu pháp.

Cũng không thể nói rằng mình đã trở thành Thượng sư rồi, đã học được Vô thượng mật, đã học Kim cang pháp, đã đạt được thành tựu lớn rồi, rồi bỗng nhiên lại đi học cái này... nói không nên lời! (Vị Thượng sư phiên dịch chen vào :"Pháp tương ứng Thượng sư".) Cái này... chỉ là kỹ thuật nhỏ. Pháp tương ứng Thượng sư mới là "đệ nhất đại pháp"!

Người đời không biết, tôi xin kể cho các bạn một câu chuyện, hôm nay nói đến pháp tương ứng Thượng sư, tôi mới kể cho các bạn nghe. Đại sư Marpa đến Ấn Độ tìm đạo sư Naropa cầu pháp, ngài tìm thấy Naropa ngồi dưới một gốc cây lớn. Lúc đó, Naropa hiện ra một đàn thành rất lớn cho ngài xem, tất cả chư Phật đều ở trên hư không, nhưng đạo sư Naropa vẫn ngồi bên cạnh gốc cây.

Đại sư Marpa vừa thấy đàn thành hiện ra vô cùng trang nghiêm, lập tức đảnh lễ đàn thành trước, sau đó mới đảnh lễ đạo sư Naropa. Đạo sư Naropa nói với đại sư Marpa rằng: "Ngươi đảnh lễ đàn thành trước, rồi mới đảnh lễ Thượng sư của ngươi, vì ngươi đảnh lễ đảo lộn như vậy, nên sẽ mất đi con trai."

Đại sư Marpa hỏi đạo sư Naropa: "Tại sao con lễ đàn thành trước rồi mới lễ ngài, lại phải mất con trai, tội của con ở chỗ nào?"

Naropa đáp như thế nào? Ngài nói: "Trong Mật giáo 'lấy Thượng sư là thật, đàn thành là giả', không có Căn bản Thượng sư, làm sao có đàn thành? Đàn thành chính là hóa thân của Thượng sư, điều chân thật nhất chính là Căn bản Thượng sư."

Vì vậy, Mật giáo khác với những giáo pháp thông thường. Các bạn hay nhận giả làm thật, nhận thật làm giả. Nếu các bạn đã từng đọc kinh điển Mật giáo, các bạn sẽ biết: "Đàn thành được xem là giả, Căn bản Thượng sư được xem là thật."

Vì vậy "Căn bản Thượng sư là quán chiếu đệ nhất", đây là pháp tối thượng vô thượng. Nếu không có quán chiếu Căn bản Thượng sư đệ nhất, tất cả đều là lâu đài trên không, giống như xây nhà trên hư không vậy, làm sao xây được? Cho nên điều này rất quan trọng, nói như vậy có vẻ quá nghiêm túc rồi, A Di Đà Phật!

Đại pháp, tiểu pháp, trung pháp đều là pháp, không thể xem thường, nếu khởi một niệm xem thường, đó chính là tội khinh mạn trong giới Bồ Tát. Thật thà mà nói với mọi người, hiện nay tôi vẫn đang tu tập Tứ gia hành và pháp tương ứng Thượng sư. Đây là lời nói rất thật lòng.

20. Trưởng lão Xá Lợi Phất

Hôm nay giảng một đoạn khác. Nguyên văn như sau: "Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Chu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, các vị đại đệ tử như vậy."

Ở đây có tổng cộng mười sáu vị đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, khi đó họ đang lắng nghe Phật thuyết giảng Kinh A Di Đà cho ngài Xá Lợi Phất. Trong số mười sáu vị đại đệ tử này, vị đứng đầu chính là ngài Xá Lợi Phất. Trong kinh này có nhắc đến Xá Lợi Phất, vì sao ngài có tên như vậy? Ở Ấn Độ có một loài chim tên là Xá Lợi, mẹ của ngài Xá Lợi Phất có đôi mắt giống như mắt của loài chim Xá Lợi; đôi mắt của loài chim này có thể nhìn thấy chim bay rất xa trên không trung và cả cá bơi dưới nước. Mẹ của ngài Xá Lợi Phất là một người phụ nữ rất trí tuệ và có tầm nhìn xa. Khi ngài Xá Lợi Phất được sinh ra, tên của ngài có nghĩa là "con trai của chim Xá Lợi", nên được gọi là Xá Lợi Phất.

Trước đây tôi đã từng kể câu chuyện về ngài Xá Lợi Phất, ngài là bậc đệ nhất về trí tuệ, trí tuệ của ngài là cao nhất, hoàn hảo nhất và viên mãn nhất. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni sắp nhập Niết bàn, ngài Xá Lợi Phất đã biết trước, và ngài đã thông báo với tất cả đồng môn rằng Phật sắp rời khỏi thế gian này, ngài muốn làm người tiên phong mở đường, đến nơi ấy trước để đón Phật, nên ngài phải đi trước. Ngài Xá Lợi Phất trở về nơi mình ở, chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục, rồi ngồi thiền và viên tịch trước Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trước đây tôi đã từng nói, cách ra đi như vậy gọi là "tự chủ sinh tử". Trong tương lai, tôi cũng mong mình có thể tự chủ sinh tử như vậy, và cũng mong mọi người tu hành đến mức có thể tự chủ sinh tử. Một ngày nào đó, một vị thần trên trời đến trước mặt bạn và nói: "Ngày 28 tháng 6 (ngày mai), hãy chuẩn bị sẵn sàng."

Khi nghe tin này, các bạn nên vô cùng hoan hỷ, không nên buồn bã rơi lệ. Cách ra đi này rất tốt, thiên thần đến báo tin cho bạn, trước tiên gửi một bức điện tín, gọi một cuộc điện thoại cho bạn, nói khi nào nên đi, không được lưu luyến thế gian, lưu luyến cõi đời hoa lệ này nữa! Tất cả những điều đó đều phải buông bỏ! Nếu bạn còn quỳ xuống cầu xin: "Xin cho con sống thêm vài năm nữa." Như vậy thật thiếu can đảm! Đây cũng là một cách ra đi cao cấp - thiên thần đến báo trước cho bạn biết khi nào phải đi, tự mình chuẩn bị sẵn sàng, đến lúc đó ra đi, rất tốt. Tuy nhiên đây là do người khác báo tin cho bạn biết khi nào phải đi, điều này vẫn còn kém một bậc.

Tôi biết có một phương pháp là cách ra đi đẳng cấp nhất. Cách ra đi cao nhất này là khi ngồi thiền, trước tiên hạn chế mọi cử động của thịt và xương trong cơ thể, giữ cho tất cả bất động, như thể bị trói lại, sau đó dùng năng lực của mình để ngưng hoàn toàn sự tuần hoàn của máu, khiến máu trong mạch không còn chảy nữa, tất cả đều dừng lại, rồi dập tắt lò lửa trong cơ thể, tức là nguồn sinh nhiệt, sau đó đóng tất cả các cửa sổ lại, ngưng thở, cuối cùng để nguyên thần - linh hồn duy nhất - nhẹ nhàng bay ra khỏi đỉnh đầu, như vậy sẽ không thể uống rượu nữa, cũng không thể làm bất cứ việc gì, không còn biết gì nữa, thế là xong!

Tôi xin nói với mọi người, quá trình ra đi mà tôi vừa mô tả chính là quá trình "xuất ly pháp". Vấn đề là ở chỗ bạn có thể kiểm soát được xương, thịt, lò lửa, huyết dịch, hơi thở hay không, tự mình nắm giữ được và khiến linh hồn thoát ra. Nếu bạn có thể làm được như vậy, hoàn toàn dùng ý chí của mình để kiểm soát các yếu tố trong cơ thể, khiến nó đóng lại hay mở ra, đó chính là tự chủ sinh tử, là cách ra đi hạng nhất. Còn việc chờ người khác thông báo, được người khác báo trước, đó là cách ra đi hạng hai.

Cách ra đi hạng ba là khi người cõi âm đến đón bạn, chính là những người thân đã khuất, họ mở tiệc chào mừng "sinh nhật vui vẻ", bởi vì bạn đã được sinh ra ở thế giới của họ rồi mà, nên mới gọi là "sinh nhật vui vẻ". Tuy nhiên khi bạn thấy người thân đến đón, chắc chắn đó không phải là vãng sinh về thiên quốc, mà là vãng sinh về cõi âm.

Cái chết tệ nhất là khi những thứ đó... đến bắt bạn đi, là bị lôi đi chứ không phải được đón tiếp, thậm chí cũng chẳng có tiếng hát nào! Đó là xuống địa ngục rồi.

Cho nên! Tôi mong rằng các đệ tử của chúng ta đều có cái chết hạng nhất và hạng nhì. Còn có một dạng chết khác nữa là chết để tiêu nghiệp chướng, tức là khi nghiệp chướng của bạn còn rất nhiều, phải trả những nghiệp này, nên trước khi chết ở nhân gian, bạn phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị bệnh, cứ bệnh rồi kéo dài hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm, thậm chí mười năm, hai mươi năm. Thực ra khi chúng ta thấy người ta chết vì bệnh, họ đang tiêu nghiệp chướng, bởi vì họ có rất nhiều nghiệp phải trả, họ phải chịu đau khổ, vì một khi đau khổ, nghiệp sẽ tiêu, sẽ nhẹ đi, cái chết như vậy là một dạng chết để tiêu nghiệp chướng.

Cái chết như vậy cũng không tốt lắm, chúng ta nên tu tập sớm để tiêu trừ nghiệp chướng, để đến lúc đó không phải chịu cái chết đau đớn vì bệnh tật. Tốt nhất là có một vị thiên thần xuất hiện, báo cho biết thời điểm sẽ đến đón mình, đó là điều tốt nhất.

Vì vậy việc tu tập của chúng ta rất quan trọng, tu tập chính là tu tâm, tu tâm là giữ cho tâm trong sạch, tiêu trừ hết thảy nghiệp chướng. Tu tâm là giữ cho ý nghĩ thanh tịnh, tâm phải sáng suốt, nên chúng ta phải thường xuyên quét dọn, thường xuyên quét sạch nghiệp trong thân, quét sạch những bụi bặm này. Khi chúng ta đã quét sạch rồi, chúng ta sẽ không phải chịu nỗi khổ vì bệnh nghiệp! Ít nhất là có thiên thần đến báo tin, nhưng nếu chúng ta có thể tự biết được thời điểm ra đi, đó là điều tốt nhất.

Om mani padme hum.

21. Ma Ha Mục Kiền Liên

Hôm nay tôi giảng về Ma Ha Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất cùng quy y Phật Thích Ca Mâu Ni một lúc, vị Đại Mục Kiền Liên này chính là người bạn thời thơ ấu của Xá Lợi Phất. Tên Mục Kiền Liên dịch ra có nghĩa là "hái đậu". Hái đậu là gì? Thời cổ Ấn Độ có rất nhiều người tu hành, họ không ăn gì nhiều, chỉ ăn đậu hái được, bộ tộc này lấy thức ăn tu hành làm tên gọi, nên được gọi là tộc Hái Đậu, và Mục Kiền Liên chính là hậu duệ của những vị tu hành thời xưa, lấy tên thức ăn tu hành làm tên tộc.

Tôn Giả Mục Kiền Liên là một trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, được xưng tụng là "thần thông đệ nhất". Tôn Giả Mục Liên có một sự kiện thần thông rất nổi tiếng, đó là câu chuyện "Mục Liên cứu mẹ" mà trước đây cũng đã được dựng thành phim. Vì Ngài nhớ thương mẹ đã qua đời, không biết mẹ đã đi về đâu. Sau đó, Ngài nhìn vào nước, thấy dòng nước của con sông lớn đang chảy, nước chảy dần ra biển, rồi chảy xuống địa ngục, mang theo tâm ý của Mục Liên. Từ sông nhỏ đổ vào sông lớn, sông lớn đổ vào hồ, hồ lại đổ ra biển, biển chảy xuống địa ngục, Ngài nhìn thấy mẹ mình đang chịu khổ trong đạo ngạ quỷ nơi địa ngục.

Đạo ngạ quỷ là nơi những con quỷ có bụng rất to, cổ họng rất nhỏ, đầu rất lớn, cổ họng của chúng nhỏ như lỗ kim, không thể nuốt được thức ăn, bụng thì rất to mà lại luôn đói, nên mới gọi là đạo quỷ đói. Mục Liên dùng thần thông của mình, mang cơm canh vào trong đạo ngạ quỷ, đem thức ăn này đến cúng dường mẹ, nhưng khi mẹ Ngài vừa cầm thức ăn đưa vào miệng, những thức ăn này lập tức biến thành than lửa, hoàn toàn không thể ăn được!

Mục Liên nhìn thấy vậy rất đau lòng, quay về thưa với Phật Thích Ca Mâu Ni: "Như vậy phải làm sao đây?" Phật dạy: "Phải tập hợp sức mạnh của rất nhiều người xuất gia tu hành mới có thể cứu được mẹ ông."

Ý Phật là sức của một người không thể tự cứu được mình, nghiệp chướng tội ác nặng nề rất khó phá trừ, phải tập hợp sức mạnh của chư tăng mới có thể độ được mẹ của ông. Vì thế về sau mới phát triển thành việc cúng dường tất cả người xuất gia vào tháng bảy Trung Nguyên, dùng sức mạnh tụng kinh và chú nguyện của các vị xuất gia để siêu độ cho các vong linh cõi âm. Cho nên dù Tôn Giả Mục Liên đã là bậc thần thông đệ nhất mà vẫn không có đủ sức để cứu được mẹ mình, có thể thấy thần thông không phải là phương pháp duy nhất để giải trừ nghiệp chướng.

Cuối cùng, vì sự tích thần thông cứu mẹ này, tất cả ngoại đạo và nhiều tôn giáo ở Ấn Độ thời đó đều biết đến, nên họ rất ghen tị với thần thông của Ngài, việc Ngài có thể xuống địa ngục, có thể biến hóa, có thể bay lượn trên không trung, lại có thể vào địa ngục. Nhiều người tu hành rất ganh ghét, và cuối cùng, một lần khi Ngài đang tu trong núi, đã bị một số ngoại đạo lõa thể ném đá đến chết.

Trước đây, nhiều người đặt ra câu hỏi này, tại sao Tôn Giả Mục Kiền Liên - bậc thần thông đệ nhất lại không thể cứu được chính mình? Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Bởi vì Tôn Giả Mục Kiền Liên có sẵn số mệnh bị đánh chết, khi thời điểm viên tịch của Ngài đến, thần thông cũng không thể vượt qua nghiệp lực của chính mình."

Thực ra, với thần thông của Mục Kiền Liên, khi một tảng đá lớn đè xuống, Ngài có thể biến nó thành tro bay đi. Trước đây có người muốn hại Ngài, đốt nhà của Ngài, khóa cửa lại, đóng đinh cửa lại rồi đốt, nhưng Mục Kiền Liên có thể chui qua lỗ khóa mà thoát ra. Tôn Giả Mục Liên có thể bay lên, như bay từ Trái đất thẳng đến sao Thiên Vương để nghe Phật ở đó giảng kinh.

Khi các vị Bồ Tát ở sao Thiên Vương đang nghe kinh, bỗng nhiên phát hiện có một vật nhỏ như con muỗi bay qua bay lại ở đó, các vị Bồ Tát ở sao Thiên Vương hỏi Phật: "Đây là vật gì vậy?" Đức Phật ở đó đáp: "Đây chính là đệ tử thần thông đệ nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà, Tôn Giả Mục Kiền Liên."

Có thể thấy thần thông của Mục Kiền Liên có thể đến khắp nơi trong vũ trụ để nghe Phật thuyết pháp. Ngài thể hiện rất nhiều thần thông, có thể dùng bình bát thu hết tất cả mọi người ở Seattle vào trong, Mục Kiền Liên chỉ cần nâng bình bát lên, ném lên không trung một cái, toàn bộ Seattle bao gồm cả những tòa nhà bảy mươi tầng đều chui vào trong đó. Có thể thấy thần thông của Tôn Giả Mục Liên quả thật là đệ nhất, nhưng tại sao Ngài lại không chống nổi tảng đá kia?

Lời Phật dạy, mọi người hãy ghi nhớ: "Thần thông không thắng nổi nghiệp lực", khi thời điểm đến vẫn phải chịu quả báo. Hôm nay giảng về Ma Ha Mục Kiền Liên đến đây.

Om mani padme hum.

22. Ma Ha Ca Diếp

Hôm nay giảng về "Ma Ha Ca Diếp". "Ma Ha Ca Diếp" chính là Đại Ca Diếp Tôn Giả. Tôi đọc một đoạn: "Ma Ha Ca Diếp, dịch là Đại Ẩm Quang. Ẩm Quang nghĩa là có thể thu hết ánh sáng khác, khiến chúng không hiện ra. Còn có tên là Quang Ba, thân phóng hào quang rực rỡ. Lại có tên là Đại Quy Thị theo họ. Vì tổ tiên của Ngài tu đạo, cảm ứng được linh quy mang đồ đến. Ngài thuộc dòng họ Đức Mệnh. Xưa gọi là Ẩm Quang Tôn Giả, thân có sắc vàng, được truyền tâm ấn của Phật làm Sơ Tổ, là bậc hạnh đầu đà đệ nhất."

Trong số mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, Tôn Giả Đại Ca Diếp là một vị rất đặc biệt. Trong tất cả những người tu hành, Ngài là người khổ hạnh, có thể nói là đại diện cho sự khổ hạnh. Ngài ăn uống rất đạm bạc, bởi vì mỗi lần Tôn Giả Đại Ca Diếp đi khất thực, Ngài đều tìm đến những nhà nghèo khổ nhất, những người không có tiền để xin cơm. Ngài nói với mọi người rằng, vì họ không có tiền nên Ngài xin cơm từ họ, là để ban phúc cho những người nghèo khó. Sau đó, việc Ngài xin cơm từ những nhà nghèo cũng thể hiện chí nguyện của mình, Ngài chỉ ăn đủ để duy trì một chút khí lực và sinh mệnh cho cơ thể, như vậy là đủ rồi. Ngài rất phản đối việc các tỳ kheo xuất gia chuyên đi tìm những nhà giàu có, Ngài thấy một số đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, mỗi lần đi khất thực đều tìm đến những nhà giàu có, Ngài nói những người đi xin cơm từ nhà phú hộ, ai nấy đều ăn đến mặt mũi tròn trịa, bụng to, thân thể phì nộn, còn Tôn Giả Đại Ca Diếp, bản thân Ngài ăn uống đến nỗi gầy gò, trông rất khô quắt.

Mỗi lần Đại Ca Diếp đều nghiêm túc giữ giới luật, vậy Ngài ở đâu? Ngài ở giữa hai ngôi mộ, ngủ nghỉ ngay giữa các mộ phần, đó gọi là sống ở nghĩa địa. Sống trong nghĩa địa có nghĩa là ngủ giữa các ngôi mộ đấy! Ngài không ngủ trên giường cao đẹp, Ngài không ngủ ở những nơi như thế, cũng không phải tùy tiện lấy một tấm đệm, chăn mền gì đó, hoặc ngủ ở bên cạnh, không phải vậy, Ngài chỉ ngủ bên bờ sông, dưới gốc cây, giữa các ngôi mộ, Ngài tu hành như vậy đó, cho nên Tôn Giả Đại Ca Diếp là một bậc tôn giả vĩ đại, khổ hạnh.

Trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, Ngài đã đạt được giác ngộ. Một lần nọ, khi Phật ngồi trên pháp tòa thuyết pháp, bên dưới có rất nhiều đại đệ tử, các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, mọi người ngồi chật kín, có đến mấy nghìn người.

Phật Thích Ca Mâu Ni tiện tay hái một đóa hoa cầm trên tay, Ngài không nói gì, chỉ hái một đóa hoa cầm trên tay. Tất cả đệ tử đều thấy Phật hái một đóa hoa, cầm trên tay như vậy mà không nói gì, các đệ tử bên dưới không hiểu vì sao Phật lại hái một đóa hoa, cứ cầm đóa hoa trước mặt mà không nói gì, họ còn tưởng Ngài đang ngửi hương hoa; chỉ có Tôn Giả Đại Ca Diếp khi thấy Phật cầm hoa liền mỉm cười; lúc đó, tất cả các đệ tử đều không hiểu ý của Phật là gì, chỉ có Tôn Giả Đại Ca Diếp hiểu được, Phật đang truyền tâm ấn của Phật, và Tôn Giả Đại Ca Diếp biết Phật đã truyền tâm ấn cho mình. Vì Đại Ca Diếp đã biết, Ngài đã nhận được tâm ấn của Phật Tổ, nên Tôn Giả Đại Ca Diếp trở thành Sơ Tổ của Thiền tông, đây chính là tích "Thế Tôn cầm hoa, Ca Diếp mỉm cười" nổi tiếng.

Vì vậy, trong tu hành, Tôn Giả Đại Ca Diếp vốn không thiết lập đàn tràng, không cầu sự trang nghiêm, đàn tràng của Ngài ở ngay giữa hư không. Phật pháp của Ngài không được viết thành văn tự, mà là dùng tâm - dùng tâm đã đắc đạo của mình để ấn chứng tâm đắc đạo của người khác, đó chính là "Thiền", Tôn Giả Đại Ca Diếp chính là Sơ Tổ của Thiền tông.

Tôn Giả Đại Ca Diếp cũng là một người "hữu thủy vô chung". Trong số mười vị đại đệ tử, sự tu hành của Ngài vô cùng cao diệu. Nói hữu thủy vô chung nghĩa là Ngài có sinh ra nhưng không có chết đi. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, người đầu tiên chủ trì kết tập toàn bộ kinh điển Phật giáo chính là Đại Ca Diếp. Sau khi hoàn thành việc này, Ngài một mình đi đến một ngọn núi tên là Kê Túc Sơn, khi Ngài đến bên núi, núi tự động mở ra cho Ngài vào, rồi khép lại.

Lúc đó Ngài nói một câu: "Đợi khi nào Bồ Tát A Dật Đa giáng sinh ở cõi Ta Bà, trong ba hội Long Hoa, ta sẽ ra làm hộ pháp." Bồ Tát A Dật Đa chính là Bồ Tát Di Lặc. Điều này chứng tỏ rằng Ngài vốn không hề chết. Ngài đi vào trong núi Kê Túc, hiện nay có lẽ đang tọa thiền ở đó, đợi đến khi Bồ Tát Di Lặc giáng sinh, cửa núi Kê Túc sẽ mở ra và Ngài sẽ bước ra, hiện giờ Ngài đang nhập định dưới lòng đất, đây quả là điều vô cùng vĩ đại.

Con đường tu hành của Tôn Giả Đại Ca Diếp hoàn toàn tập trung vào việc tu tâm, do đó Ngài là một vị A La Hán, là một đại diện đặc biệt trong số các vị A La Hán, vì thế trong số mười đại đệ tử, Ngài được tôn xưng là "đầu đà đệ nhất". Trong suốt cuộc đời, hành vi của Ngài chưa từng phóng túng, mỗi ngày đều nghiêm túc tu hành, làm công khóa, uống nước sông, ăn thức ăn đạm bạc, ngày ngày đều như vậy.

Mỗi khi đi đường, mắt Ngài luôn nhìn xuống đất cách chân sáu thước, không nhìn ngó lung tung. Ngài có một giới luật rất nghiêm ngặt là không nói chuyện với phụ nữ, nên cả đời không gặp nạn về nữ sắc. Tôn Giả Đại Ca Diếp không gặp nạn về nữ sắc, không giống như một vị tôn giả khác thường hay gặp nạn về nữ sắc, có lẽ vì Đại Ca Diếp tướng mạo không đẹp. Đây cũng là một điển hình, một nhân vật rất đặc biệt trong số mười đại đệ tử của Phật. Thực ra, trí tuệ và sự giác ngộ của Ngài đều rất chân thật.

Om mani padme hum.

23. Ma Ha Ca Chiên Diên

Hôm nay chúng ta nói về Ma Ha Ca Chiên Diên, dịch nghĩa là Đại Văn Sức, dùng văn tự để thấu lý, chứng quả A La Hán, xưa gọi là Đại Văn Sức Tôn Giả. Trong mười vị đại đệ tử, Ngài được tôn xưng là "nghị luận đệ nhất". Vị tôn giả này thuyết pháp rất giỏi, cả đời chỉ dùng thuyết pháp để độ chúng sinh, tên Ngài là Ma Ha Ca Chiên Diên.

Ngài có một người cậu (uncle) là một vị tiên nhân nổi tiếng. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới ra đời, phụ thân của Ngài (Vua Tịnh Phạn) đã mời một vị tiên nhân đến xem tướng cho Ngài, vị tiên nhân này chính là cậu của Ma Ha Ca Chiên Diên. Ma Ha Ca Chiên Diên là con trai cả của một vị trưởng lão Bà La Môn chuyên nghiên cứu Kinh Vệ Đà, học vấn của Ngài rất uyên bác. Sau khi quy y Phật, Ngài thường có thành tựu xuất sắc trong việc nghị luận, vì vậy thành tựu của Ngài được gọi là "nghị luận đệ nhất".

Ngày nay trong Mật pháp chúng ta cũng giảng về hai loại là Sự pháp và Giáo pháp. Sự pháp là thực hành trên thực tế, Giáo pháp là lý thuyết; trong Mật pháp, Giáo pháp và Sự pháp giống như hai bánh xe của một chiếc xe đạp, thiếu một bánh thì không thể được.

Hiện nay mọi người đang nghe pháp ở đây, chúng ta đều biết trình tự tu pháp hàng ngày, chúng ta thực sự thực hành, đó chính là giáo pháp, thuộc về mặt lý thuyết; trong tương lai nếu ai có chí hướng muốn trở thành Thượng sư, người đó không những phải nắm rõ hoàn toàn về Sự pháp, mà còn phải thông suốt toàn bộ giáo lý của Mật tông.

Vì vậy, hãy nhớ kĩ! Muốn trở thành Thượng sư, mỗi ngày phải đọc kinh, mỗi ngày phải đọc sách. Hiện nay tôi cũng vậy, mỗi ngày nhất định phải đọc sách, mỗi ngày nhất định phải đọc kinh. Tôi nhận thấy hiện nay phong trào đọc sách ngày càng giảm, có người thậm chí một cuốn sách cũng không đọc. Họ nói rằng: "Kiếm tiền còn không kịp, lấy đâu thời gian đọc sách?"

Tuy nhiên tôi thấy việc đọc sách rất quan trọng, bởi vì sách chính là tri thức, trong đó sẽ dạy cho bạn rất nhiều trí tuệ; đặc biệt là những người học Phật, tu hành như chúng ta, cần phải đọc một số sách do các bậc tu hành trước đây viết, và phải đọc kinh Phật nữa. Hãy nhớ kĩ! Nhất định phải "ngày ngày đọc sách, ngày ngày đọc kinh"! Không thể chỉ muốn làm Thượng sư mà không đọc sách gì cả, đây cũng là một điểm rất quan trọng.

Chúng ta dĩ nhiên không thể mong mỗi đệ tử đều là bậc nghị luận đệ nhất, nhưng ít nhất mỗi ngày phải đọc một chút sách.

Om mani padme hum.

24. Ma Ha Câu Hi La

Hôm nay chúng ta sẽ thảo luận về Ma Ha Câu Hi La. Ngài là cậu (bác trai) của ngài Xá Lợi Phất. Trong những cuộc tranh luận với chị gái (mẹ của Xá Lợi Phất), Ngài thường giành phần thắng. Tuy nhiên, kể từ khi chị gái mang thai Xá Lợi Phất, tình thế đã thay đổi - chị gái luôn chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận. Nhận thấy đứa trẻ trong bụng chị gái đã có khả năng ảnh hưởng đến việc tranh luận ngay từ khi còn trong thai, Ngài cảm thấy buồn lòng và quyết định đi đến một nơi xa xôi để học đạo. Do tập trung cao độ vào việc học tập và tu hành, Ngài không còn thời gian để cắt móng tay. Vì thế, người đời thường gọi Ngài là "Phạm Chí Móng Tay Dài" [vị tu sĩ Bà La Môn có móng tay dài].

Cuối cùng, khi trở về và muốn gặp người cháu, chị gái nói với Ngài: "Xá Lợi Phất đã quy y Phật Thích Ca Mâu Ni rồi." Câu Hi La nghĩ: "Xá Lợi Phất ngay từ khi còn trong bụng mẹ đã có tài năng cao như vậy, vậy ai có thể làm thầy của cháu đây?" Câu Hi La đi tìm Phật Thích Ca Mâu Ni để tranh luận, và tất nhiên Phật Thích Ca Mâu Ni đã chiến thắng. Vì không thể tranh luận thắng được Phật Thích Ca Mâu Ni, cuối cùng Câu Hi La cũng quy y theo Ngài.

Chúng ta biết Ca Chiên Diên rất thích tranh luận, gặp ai cũng muốn tranh luận, vì thế trong số mười đại đệ tử của Phật, Ngài được tôn xưng là "đệ nhất về vấn đáp". Theo cách nói của chúng ta, đệ nhất về vấn đáp cũng chính là đệ nhất về tranh luận. Trong tiếng Đài Loan, người giỏi tranh luận nhất được gọi là gì? Gọi là "Thầy Cãi"!

Trước đây khi còn trẻ, tôi cũng rất thích tranh luận với người khác, từ lúc ngồi tranh luận, rồi đứng dậy tranh luận, sau đó lại ngồi xuống tranh luận. Nhưng bây giờ, thời kỳ nhiệt huyết đã qua rồi, hiện nay tôi chỉ thuyết pháp thôi, nếu ai muốn tìm tôi tranh luận, tôi đều không muốn nói chuyện, bởi vì tôi sợ, tuổi đã cao rồi, một khi tranh luận là dễ bị cao huyết áp, sung huyết não, rất nguy hiểm.

Hiện nay tư tưởng của tôi có khuynh hướng bình dị hơn, giữ một tâm trạng ổn định, không thích tranh luận với người khác nữa, cho nên nói về tranh luận thì tôi có lẽ là "tranh luận hạng bét".

Thực ra không phải là không muốn độ chúng sinh, mà là "tùy thuận", có duyên thì đến, không duyên thì đi, người đến không từ chối, người đi cũng không giữ lại, vì vậy tâm trạng như thế tốt hơn một chút, bình hòa hơn, tư tưởng hòa bình hơn, sẽ không bị tức giận đến mức sung huyết não.

Om mani padme hum.

25. Ly Bà Đa

Tối nay chúng ta nói về một đại đệ tử tên là Ly Bà Đa. Ba chữ Ly Bà Đa có nghĩa là "tinh tú", tức là những ngôi sao trên trời; vì cha mẹ của Ngài khi sinh Ngài đã từng cầu nguyện với các vì sao trên trời, nên mới sinh ra Ly Bà Đa. Ngoài tên Tinh Tú ra, Ngài còn được gọi là Giả Hòa Hợp, đây là tên do Phật Thích Ca Mâu Ni đặt cho Ngài.

Ly Bà Đa như Thượng sư Liên Chủ vừa nói, là người tu thiền định, rất thích thiền định. Gần đây tôi cũng rất thích thiền định, tuy nhiên, khi định quá sâu thì thường bị nghiêng ngả. Trước đây tôi không tin là khi ngồi thiền lại có thể bị ngủ gật, nghiêng qua nghiêng lại, không thể định tâm được. Khi người ta quá mệt mỏi, có người vừa ngồi xuống là đã vào "tứ ma địa" [ngủ gật], không những định sâu mà còn ngáy nữa. (Mọi người cười lớn.) Trước đây mỗi lần tôi nhập định đều ở trạng thái giữa tỉnh và ngủ, định thực sự phải ở giữa trạng thái tỉnh thức và ngủ mới gọi là định. Gần đây khi định tôi hơi bị run rẩy, có vẻ như đi quá sâu, đột nhiên giật mình một cái rồi tỉnh lại, có lẽ là do quá mệt mỏi.

Định thực sự có thể có nhiều tầng cảnh giới khác nhau. Như vị đệ tử của Phật là Ly Bà Đa, có lần Ngài nhập định tại một ngôi đình trống, giống như một nhà chờ trên núi, Ngài nhập định ở đó. Thực ra, ở những nhà chờ trên núi, hoặc chùa miếu, hoặc những nơi hoang vắng, thường có rất nhiều ma quỷ; tuy nhiên ở chùa Lôi Tạng của chúng ta thì không có, đừng lo sợ.

Một lần nọ, Ly Bà Đa đang ngồi thiền trong một ngôi đình trên núi, trong lúc nhập định thì thấy ma. Một con ma lớn và một con ma nhỏ ở trong đình, hai con ma đang khiêng một xác chết, rồi tranh giành nhau để ăn thịt xác chết đó, cả hai đều muốn giành phần đùi! Có vẻ như phần đùi ngon hơn những phần khác. Không biết làm sao, hai con ma đang tranh chấp, chợt thấy bên cạnh có một người tu hành đang ngồi thiền, chúng liền nhờ Ly Bà Đa làm trọng tài.

Thực ra trong lòng Ly Bà Đa nghĩ, ma quỷ vốn không biết điều lý, đã không biết điều lý thì dù có phân xử thế nào đi nữa, cuối cùng vẫn sẽ tranh chấp. Nhưng không còn cách nào khác, Ngài nghĩ, nên đồng cảm với kẻ yếu thế, ai cũng có lòng thương người yếu thế, nên Ngài nói: "Vậy thì để con ma nhỏ ăn phần đùi vậy." Con ma lớn tất nhiên không phục, kết quả là nó tức giận xấu hổ, liền định ăn thịt luôn cả Ly Bà Đa.

Vì vậy đôi khi, người làm trọng tài thường bị đánh cho tơi tả. Khi thấy hai con trâu đánh nhau, trâu húc trâu, đừng có đi can ngăn, bởi vì không khéo, cả hai con trâu sẽ quay sang húc bạn, thế là bạn chết chắc.

Ly Bà Đa chính vì can thiệp vào chuyện không đâu này, nên con ma lớn liền ăn thịt Ngài, nó lấy cánh tay của Ngài ra ăn, con ma nhỏ thấy vậy, thấy Ly Bà Đa vì phân xử giúp mình mà bị thương tổn, nó đem lòng thương cảm, liền lấy cánh tay của cái xác chết đắp vào cho Ngài, rồi con ma lớn lại ăn tay trái của Ngài, con ma nhỏ lại vội vàng đắp tay trái vào, con ma lớn lại ăn đầu của Ly Bà Đa, con ma nhỏ vội vàng lấy đầu của cái xác chết đắp vào cho Ngài, con ma lớn lại tháo hai chân của Ngài ra ăn, con ma nhỏ lại vội vàng lấy hai chân của cái xác chết đắp vào cho Ngài.

Cuối cùng con ma lớn và con ma nhỏ đều đi mất, Ly Bà Đa cũng xuất định. Ngài vốn đã nhìn thấy cảnh tượng này trong định, và bây giờ Ngài đã xuất định, sau khi xuất định thì Ngài đã trở thành một người khác, bởi vì gương mặt vốn là của Ly Bà Đa, giờ đây toàn thân từ tay chân cho đến gương mặt đều đã biến đổi, trở thành một người hoàn toàn khác.

Lần sau khi các bạn ngồi thiền mà biến thành người khác, chắc chắn là đã bị ma ăn thịt rồi; lần sau nếu tôi ngồi thiền mà biến thành người khác, các bạn sẽ không nhận ra tôi nữa. Thực ra, đây là chuyện rất đáng sợ, Ly Bà Đa đi đến đâu cũng hỏi người khác: "Diện mạo vốn có của tôi đâu rồi?" Ngài thường hỏi mọi người: "Tôi đang ở đâu?"

Các bạn không tin có chuyện như vậy sao! Tôi nói cho các bạn biết, có những người, khuôn mặt thực ra không phải là mặt của họ, bởi vì mặt của họ chính là mông của họ đấy, tôi nghe nói các viện thẩm mỹ rất thích lấy thịt ở mông để dán lên mặt. Bây giờ các viện thẩm mỹ có phương pháp căng da, cắt bỏ da ở một bên, kéo da nhăn lên, gọi là căng da; đã có thể căng da thì tất nhiên cũng có thể vá da, và chỗ nào mịn màng trắng trẻo nhất đương nhiên là mông rồi; vì vậy bạn tưởng đó là mặt của họ, nhưng thực ra không phải, đó là mông của họ đấy. Cái gọi là vá da, sự biến đổi này, đều như vậy cả, một người không nhất thiết hoàn toàn là chính họ.

Vì Ly Bà Đa cả ngày cứ đi hỏi người khác: "Tôi đang ở đâu? Tôi là ai?" Bởi vì cái xác chết đó Ngài hoàn toàn không nhận ra! Đột nhiên biến thành "người chết" đó, Ngài liền hỏi: "Tôi là ai? Tôi rốt cuộc là ai?" Ly Bà Đa ban đầu không còn nữa, bây giờ đã biến thành một Ly Bà Đa mới, vậy Ly Bà Đa mới này là ai? Ngài đi hỏi người khác: "Tôi là ai?" Điều này rất hay, có thể tưởng tượng được! Các bạn cũng có thể thường xuyên tự hỏi mình "Mình là ai?"

Ôi chao! Hồi trước khi còn trẻ, nhìn ảnh chụp tôi rất gầy, trông khá thanh tú, bây giờ soi gương, tôi thường tự hỏi: "Mình là ai?" Vì vậy gần đây tôi thường phải ăn kiêng, bởi vì thấy cái bụng này thật không ra thể thống gì, cho nên các bạn cũng nên thỉnh thoảng tự hỏi "Mình là ai?" Bởi vì các bạn trước đây cũng đâu phải như thế này. Diện mạo lúc còn trẻ có giống bây giờ không? Hoàn toàn khác! Vì vậy, câu chuyện của Ly Bà Đa chính là câu chuyện của chính chúng ta, chứ không chỉ đơn thuần là chuyện của Ly Bà Đa.

Một đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe Ly Bà Đa thường hỏi "Tôi là ai?", liền nói: "Ôi chao! Người này phi thường, công phu của người này thâm hậu quá." Rồi dẫn Ly Bà Đa đến gặp Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ngài hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni: "Thân này của tôi là ai vậy?" Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Thân thể này của ông vốn là tử thi của người khác, không phải của chính ông." Ly Bà Đa lập tức... Ồ! Cảm nhận được, đã ngộ ra, trong phút chốc Ngài liền khai ngộ! Ly Bà Đa hiểu ra rằng, cái gọi là thịt của thân thể, xương của thân thể, bao gồm tất cả vật chất của thân thể, đều từ cha mẹ mà ra, đều từ cha mẹ mà đến, không phải là cái ta thật. Khi ấy Ngài có thể khai ngộ như vậy, Phật Thích Ca Mâu Ni liền ban cho Ngài một danh hiệu là Giả Hòa Hợp, nghĩa là sự hòa hợp giả tạm mà thành.

Vì vậy, tất cả chúng ta đều đang ở nhà thuê, ở căn nhà đẹp một chút thì vui, ở căn nhà xấu một chút thì không vui; có những căn nhà rất vững chắc, rất kiên cố, có những căn nhà lại bị dị ứng phấn hoa, hay bị cảm cúm, chảy nước mũi, rồi chỗ này lại bị khoét một lỗ... ôi thôi! Không nói nữa; vì vậy mọi người phải nghĩ như thế này, chúng ta hiện giờ đang "sống trong căn nhà này", căn nhà này rồi một ngày nào đó bão đến, lửa đến, nước đến, đột nhiên gặp động đất, căn nhà này sẽ sập; nhà sập rồi, bạn không thể tìm nhà mới được nữa, bạn phải dọn nhà, và lần dọn nhà này chính là "về nhà".

Căn nhà này được làm từ những gì? Chính là đất, nước, lửa, gió, được tạo ra từ bốn thứ này. Đất - chính là thịt và xương trên thân. Nước - chính là máu và nước tiểu trong thân. Lửa - chính là nhiệt độ của thân. Gió - chính là hơi thở và không khí trong thân. Thân thể được tạo thành từ bốn thứ này. Vậy chủ nhân là ai? Chủ nhân chính là "ý thức" mà Phật đã dạy. Chúng ta tu hành là tu cái chủ nhân này, chứ không phải là tô son trát phấn lên mặt. Bạn tưởng đánh chút phấn lên mặt, để râu là đẹp sao! Đó chỉ là lớp sơn bên ngoài mà thôi.

Tô son điểm phấn giống như vẽ khung cửa trước cổng; để râu thì như cỏ mọc trong nhà. Tất cả đều chỉ là huyễn tướng, đều là giả tướng cả. Vì có những huyễn tướng này nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới ban cho Ngài danh hiệu: "Ông đã hiểu được tất cả huyễn tướng, nên biết rằng ông chính là sự hòa hợp giả tạm." Sau khi chúng ta hiểu được điều này rồi, chúng ta có thể biết được thế nào là "chân ngã"? Thế nào là "giả ngã"?

Khi ngôi nhà của bạn hư hoại và đến lúc phải dọn nhà, nếu có thể dọn đến một nơi tốt đẹp hơn, đó chính là mục đích tu hành của chúng ta. Bạn không thể dọn đến nơi tệ hơn được! Ban đầu là một ngôi nhà đẹp đẽ, thanh lịch phong nhã, vậy mà sau khi dọn đi lại biến thành có sừng, thành bốn chân, thành hình trụ tròn, thậm chí không có chân, có khi dọn nhà thành loài biết bay, loài suốt ngày bơi dưới nước, hay thành rệp chuyên cắn người.

Vì vậy tôi hy vọng sau này mọi người khi dọn nhà, hãy dọn đến nơi tốt đẹp hơn, càng dọn càng đẹp. Chúng ta học Phật tu hành, phụ nữ càng dọn càng xinh đẹp, nam giới càng dọn càng phong độ. Đây cũng là hy vọng nếu kiếp sau làm người, mong rằng sẽ dọn đến chỗ đẹp đẽ hơn, có nhiều duyên với người hơn. Còn những ai không muốn tái sinh nữa thì cứ dọn thẳng về Tây phương Cực Lạc là xong.

Tôn Giả Ly Bà Đa này nhờ lĩnh ngộ được "Ta rốt cuộc là ai" nên được gọi là Tôn Giả Tinh Tú. Ngài thường ngồi thiền nhập định, được xưng tụng là "bậc nhất về tâm không tán loạn".

Tôi nhớ lúc trước khi giảng kinh từng nói: Ngày xưa thầy giáo hỏi chúng tôi: "Cái gì là của con?" Nếu bạn trả lời thầy: "Con có rất nhiều thứ là của con." Thầy tôi sẽ nói: "Nếu là của con thì đưa cho thầy xem thử." Chúng tôi thường không đưa ra được! Chúng tôi sẽ nói: "Những thứ này không phải của chúng ta, ít nhất thì trái tim cũng là của con chứ!" Nhưng ngay cả trái tim bây giờ cũng chưa chắc là của bạn, ở Đài Bắc có một người được ghép tim, tim của họ không còn nữa, đã thay bằng tim của người khác. Ôi! Tim của bạn ở đâu? Nói thật, tôi cũng đã không còn tim từ lâu rồi.

Có người hỏi tôi: "Tại sao không có tim?" Bởi vì tim của tôi đã sớm bị những kẻ trộm tim lấy mất rồi! Ngày xưa bạn gái nói với tôi: "Em không cần gì của anh cả, em chỉ cần trái tim của anh thôi." Thế là không còn cách nào, vì tôi có quá nhiều bạn gái, nên phải chia nhiều trái tim cho họ! Quá nhiều bạn gái lại phải chia tim ra, nên bây giờ đã trở thành người "không có tim". Vì vậy, những gì chư Phật, Bồ Tát dạy không sai, ngay cả tim của bạn cũng không phải là của bạn, đúng không? Bây giờ có nhiều cô gái chuyên đi xin tim người ta, họ nói: "Anh định cho em tiền à? Em không cần đâu, em chỉ cần trái tim của anh thôi."

Cho nên, tim cũng không phải là của mình, có thể thấy mọi thứ hữu hình trên thế gian này đều không phải của chúng ta. Tôn Giả Ly Bà Đa đã nhận ra điểm này rất rõ ràng, nên Ngài được gọi là "bậc nhất về tâm không điên đảo"; tôi còn hiểu rõ hơn nữa, bởi vì tôi "vốn dĩ không có tim"!

Om mani padme hum.

26. Chu Lợi Bàn Đà Già

Hôm nay trong Kinh A Di Đà, chúng ta sẽ nói về Chu Lợi Bàn Đà Già.

Chu Lợi Bàn Đà Già là một trong hai anh em, cả hai đều quy y Phật Thích Ca Mâu Ni. Một trong hai người rất đần độn, Phật dạy ông tụng kệ nhưng ông không thể nhớ nổi. Cuối cùng, Phật đành phải dạy ông niệm sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật", nhưng khi ông nhớ được "Nam Mô" thì lại quên mất "A Di Đà". Khi ông nhớ được "Đà Phật" thì lại quên mất "Nam Mô". Gần như cả 500 vị tăng trong chùa đều cười nhạo ông, anh trai ông bảo: "Thôi, em hoàn tục đi, tu hành làm gì?"

Ông cứ khóc mãi, rồi đi ra cổng thì gặp Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật hỏi ông vì sao, ông thưa: "Tôi rất ngu đần, trí nhớ kém, ngay cả sáu chữ danh hiệu Phật cũng không niệm được." Phật hỏi ông: "Ông có biết thở không?" Ông đáp: "Có biết!" Vì người sống ắt phải thở, làm sao không biết được? Phật dạy: "Tốt, ông biết thở là đủ rồi, có thể tu thành đạo được." Phật dạy: "Thở ra là 'hô', hít vào là 'hấp', một hô một hấp là một hơi thở, được rồi, vậy ông về ngồi thiền, chú ý thở ra, hít vào tính là một, lại thở ra, hít vào là hai." Phật hỏi ông: "Như vậy ông có làm được không?" Ông đáp: "Như vậy được, rất đơn giản." Dù sao ông cũng đếm được từ một đến một trăm. Thế là ông về làm theo lời Phật dạy, hít vào, thở ra, một; hít vào, thở ra, hai. Vị tôn giả này chỉ học được pháp này thôi, không biết pháp nào khác, chỉ học mỗi pháp này, và còn cho rằng trong đó có điều gì đó thâm sâu.

Đừng thấy nó đơn giản, thực ra bên trong có cả một bài học. Bởi vì đôi khi chúng ta không để ý đến hơi thở của mình, thực ra hơi thở thường thô, gấp gáp, nhanh và phát ra tiếng ồn! Bạn có biết tại sao tôi thường ngủ một mình không? Vì tôi sợ làm người khác thức giấc, thực ra không phải họ làm phiền tôi, mà là tôi làm phiền họ! Vì vậy tôi sợ làm phiền người khác nên đành ngủ riêng.

Có những người béo thở ra tiếng to đến nỗi có thể thổi đổ cả bức tường, giống như dàn nhạc giao hưởng vậy, không chỉ có sấm sét mà còn có mưa và gió, thu âm lại làm bằng chứng mà vẫn không tin. Vì vậy thở thực sự rất khó, hơi thở tốt phải rất nhẹ nhàng, chậm rãi và dài; không thể thở hổn hển, hơi thở càng ngắn thì càng gần với cái chết, thở thô tức là có bệnh, thở gấp và ngắn nghĩa là cơ thể đã có vấn đề ở đâu đó.

Vị tôn giả này học cách thở, cuối cùng có thể thở rất nhẹ, rất dài và rất chậm, dần dần, ngay cả âm thanh của hơi thở cũng không còn nữa. Sau đó, thân tâm trở nên an lạc vô cùng, đạt đến trạng thái không tịch, bỗng nhiên ngài cảm thấy mình không còn thở nữa, toàn thân nhẹ nhõm bay bổng lên.

Trong trạng thái vô ngại này, ngài đã ngồi thiền nhập định, sau khi đạt được niềm vui thiền định này, ngài lại tiến vào cảnh giới vô ngại. Tôn Giả Chu Lợi Bàn Đà Già ngay lập tức đạt được cảnh giới A La Hán, và được tôn xưng là "niệm trì đệ nhất". Niệm - nghĩa là thường xuyên quán tưởng hơi thở của chính mình. Trì- nghĩa là vĩnh hằng, liên tục, tu hành mãi như vậy.

Cho nên một pháp tuy nhìn có vẻ rất đơn giản, nhưng thực ra ý nghĩa bên trong rất sâu xa. Người học Phật chúng ta không thể vì mình ngu dốt mà từ bỏ, cũng đừng tự thương hại mình, chỉ cần biết một pháp, thường xuyên niệm trì, tu trì, ắt sẽ có thành tựu.

Om mani padme hum.

27. Nan Đà

Hôm nay trong Kinh A Di Đà, chúng ta sẽ nói về Nan Đà.

Vị Nan Đà này, tên tiếng Phạn là Sundara Nanda, trong đó Sundara là tên của vợ ông, có nghĩa là Diễm Lệ.

Trong kinh giải thích rằng ông là em ruột của Đức Phật, em ruột của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi nghĩ rằng khi nói ông là em ruột của Phật, có lẽ là cùng cha khác mẹ, bởi vì mẹ của Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi sinh Phật không lâu đã vãng sinh, nên không thể nào trước khi vãng sinh lại sinh thêm một người em nữa.

Người em này, thân thể cũng có đủ ba mươi tướng tốt, ba mươi tướng tốt này nghĩa là rất trang nghiêm, vị em này cũng có dung mạo rất trang nghiêm, có đủ ba mươi tướng đẹp. Do có đủ ba mươi tướng tốt, dung mạo rất viên mãn, nên được tôn xưng là "dung mạo đệ nhất".

Tôi nhớ trong kinh có đề cập đến Nan Đà này, ông cũng là một người xuất gia, nhưng thực sự đã có vợ. Tôi nhớ, vào ngày cưới của ông, Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến cung điện và thuyết phục người em trai của mình xuất gia. Vì vậy ông còn giỏi hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni, ngay cả đêm tân hôn cũng chưa trải qua đã xuất gia. Phật Thích Ca Mâu Ni rất giỏi, vừa vào đã nói: "Này! Đừng kết hôn nữa, đi xuất gia với ta." Thế là ông đi xuất gia luôn. Thực ra, theo như tôi biết, lúc đó người em của Phật cũng đang gặp khó khăn về chuyện tình cảm, vì ông rất đẹp trai, được xưng là dung mạo đệ nhất, có nhiều cô gái theo đuổi. Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni rất tài, trước tiên đưa người em này lên thiên giới xem các tiên nữ, ông vừa nhìn thấy các tiên nữ trên trời, ôi chao! Từng người đều đẹp như tiên! Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni lại vào cung điện tìm em trai để xuất gia. Người em nhìn vợ mình, trời ơi! Trông như rác vậy. Cho nên, lần sau có đệ tử như vậy, nên đưa họ lên thiên giới xem tiên nữ trước, rồi xuống trần gian nhìn những cô gái đẹp sẽ thấy như rác thôi.

Việc người em này xuất gia với Phật Thích Ca Mâu Ni vào ngày cưới là có nguyên nhân như vậy. Đây là thông tin tôi tra cứu được.

Om mani padme hum.

28. A Nan Đà, La Hầu La

Hôm nay chúng ta nói về hai nhân vật trong Kinh A Di Đà, một vị đã được nói đến rồi, đó là A Nan Đà - người "đa văn đệ nhất". Vị thứ hai là La Hầu La. La Hầu La chính là con trai của Phật Thích Ca Mâu Ni, do chính thất Da Du Đà La sinh ra, là người con trai đầu tiên của Phật. Phần nói về La Hầu La nằm ở trang 18 của "Phật Thuyết A Di Đà Kinh Thích Yếu", đoạn văn này rất đơn giản, mọi người đọc qua là hiểu được, nên tôi không cần phải giảng nữa! Vậy bài giảng kinh hôm nay đến đây kết thúc. OK!

※Chú thích: Sau đây là trích đoạn về La Hầu La trong "Phật Thuyết A Di Đà Kinh Thích Yếu":

La Hầu La nghĩa là che giấu. Thuở xưa ngài bịt hang chuột sáu ngày, ở trong thai sáu năm. Da Du Đà La mang thai sáu năm mới sinh con. Mọi người trong ngoài hoàng cung, cả quốc vương và dòng họ Thích đều nổi giận, vì thế ra lệnh ném vào hố lửa. Da Du Đà La phát đại thệ nguyện: "Nếu ta có điều phi lễ, mẹ con đều chết. Nếu đây là hậu duệ của Phật, xin trời chứng giám." Nói xong bế con nhảy vào hố lửa. Hố lửa hóa thành ao mát mẻ, hoa sen nâng đỡ thân. Lúc đó vua và dân trong nước mới hết nghi ngờ. Sau khi Phật trở về nước, Da Du Đà La bảo con là La Hầu La dâng bánh vui vẻ lên Phật. La Hầu La nói: "Con còn nhỏ tuổi, kính cẩn dâng lên Phật trước đại chúng." Da Du Đà La nhờ đó dẹp được lời phỉ báng. Xưa gọi là Tôn Giả Phú Tàng, là thái tử của Phật, là bậc "mật hành đệ nhất".

29. Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa

Hôm nay giảng "Phật Thuyết A Di Đà Kinh Thích Yếu", đề cập đến hai nhân vật. Vị đầu tiên là Kiều Phạm Ba Đề. Kiều Phạm Ba Đề ở đây được dịch là "người rống như trâu", vị tôn giả này trong đời trước từng rất bất kính với người tu hành, thường bắt chước tiếng trâu rống, tiếng hừ hừ để chế nhạo họ. Vì lý do này, Phật Thích Ca Mâu Ni đã ban cho ngài một chuỗi hạt, bảo ngài niệm Phật để ngăn chặn nghiệp phỉ báng từ kiếp trước, hậu thế gọi ngài là Ngưu Tư Tôn Giả, vị tôn giả này được tôn xưng là "thọ thiên cúng dường đệ nhất".

Thọ thiên cúng dường đệ nhất nghĩa là gì? Đó là vì có rất nhiều vị thần trên trời mang nhiều thức ăn quý giá đến cúng dường ngài, dâng những y phục tốt đẹp cho ngài mặc. Tại sao ngài được như vậy mà chúng ta thì không? Bởi vì vị Kiều Phạm Ba Đề này đã học được tất cả thần chú trên cõi trời, thường xuyên tụng đọc các thần chú đó. Vào thời đó rất ít người biết được điều này, vị tôn giả này chỉ cần vừa tụng, các vị thần tiên trên trời đều vui vẻ xuống tặng lộc cho ngài.

Giống như chúng ta bây giờ nghe ca hát vậy, nghe bài hát hay thì cho ca sĩ một ít tiền thưởng. Vì Kiều Phạm Ba Đề biết tụng thần chú của cõi trời, nên chư thiên đều ban lộc cho ngài, vì vậy ngài được tôn xưng là "thọ thiên cúng dường đệ nhất".

"Tân Đầu Lư Phả La Đọa, dịch nghĩa là lợi căn bất động. Xưa được gọi là người trụ lâu trong thế gian, nhận sự cúng dường của đời sau, là bậc ruộng phước đệ nhất". Tôn Giả Tân Đầu Lư Phả La Đọa, ở đây được dịch là "lợi căn bất động", trong quá khứ, mọi người đều gọi ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa là bậc trụ lâu trong thế gian, ngài sống trong thế giới này, nhận sự cúng dường của người đời; danh hiệu của ngài là "ruộng phước đệ nhất".

Vị Tân Đầu Lư Phả La Đọa này là một vị xuất gia, nhưng ngài thường thị hiện thần thông trước mặt các cư sĩ. Nhiều cư sĩ biết vị tôn giả này có thần thông nên mời ngài biểu diễn, hễ ai mời là ngài liền biểu diễn: có thể ngồi tại chỗ rồi lập tức bay lên không trung, sau đó biểu diễn ngủ trên không và lộn nhào, ngài có thể đi trên không trung, xoay vòng như phi hành gia rồi quay về, không chỉ lộn nhào mà còn đánh quyền võ Trung Quốc trên không, còn việc có biểu diễn cởi áo hay không thì không rõ.

Vì ngài dễ dàng thị hiện thần thông nên bị Phật Thích Ca Mâu Ni quở trách. Phật Thích Ca Mâu Ni nói với vị tôn giả này rằng: "Nơi đây đâu phải gánh xiếc mà cứ biểu diễn show thần thông hoài". Cuối cùng ngài bị quở trách đến nỗi rất buồn lòng, liền phát nguyện trước Phật rằng ngài sẽ mãi mãi trụ ở thế gian này, không cầu thành Phật, mà sẽ giúp đỡ chúng sinh trong thời mạt pháp.

Vị Tân Đầu Lư Phả La Đọa tôn giả này, trong mười tám La Hán của Trung Quốc được gọi là Trường Mi Tôn Giả, chính là vị có đôi lông mày trắng rất dài kia.

30. Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na

Đầu tiên chúng ta sẽ giảng "Kinh A Di Đà Thích Yếu", sau đó giới thiệu hai vị đại La Hán. Vị đầu tiên tên là Ca Lưu Đà Di, ngài là con trai của một vị đại thần trong vương quốc của Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài có gương mặt rất đen, trông rất đáng sợ. Có lần ngài đi khất thực vào ban đêm, một số người khi mở cửa nhìn thấy ngài đã sợ chết khiếp! Ngài được tôn xưng là "giáo hóa đệ nhất". Ca Lưu Đà Di còn có thể dịch là Hắc Quang, nghĩa là ánh sáng đen.

Người ta kể rằng, trước đây khi Phật Thích Ca Mâu Ni điều hành tăng đoàn, các vị xuất gia tu hành cùng nhau, chưa có quy định không ăn sau giờ Ngọ, mà vẫn ăn sáng, ăn trưa, ăn tối như người thường. Nhưng như chúng ta đã biết, ở Ấn Độ thời đó, cách đây mấy nghìn năm không có đèn điện, người giàu thì thắp nến, người nghèo thì không có đèn. Ban đêm, khi các vị tỳ kheo cùng nhau đi khất thực, gõ cửa nhà người; khi mở cửa ra, ôi chao! Họ sợ đến chết khiếp, tưởng gặp ma! Có người sợ đến ngất xỉu; ngoài ra, một số người Ấn Độ nghĩ rằng: Chuyện gì vậy? Nửa đêm có người đến gõ cửa nhà mình, hoặc đứng im lặng trước cửa, tưởng là kẻ trộm nên đánh họ một trận. Vì xảy ra vài trường hợp tỳ kheo đi khất thực làm thí chủ sợ chết khiếp, lại có tỳ kheo đi khất thực bị thí chủ đuổi đánh vì tưởng là kẻ trộm, nên Phật Thích Ca Mâu Ni nghĩ: Đã là người tu hành thì chỉ cần đủ dinh dưỡng là được, vì vậy đặt ra quy định "từ nay về sau, các tỳ kheo khi trời tối không được đi khất thực nữa", và điều này đã phát triển thành quy định không ăn sau giờ Ngọ.

Hiện nay vì người tu hành cần phải khổ hạnh, không thể ăn quá no, và đôi khi chỉ cần một hai bữa là đủ dinh dưỡng, nên vẫn có người giữ quy tắc không ăn sau giờ Ngọ. Nhưng thời đại bây giờ đã khác, ban đêm có đèn điện, người xuất gia cũng ít khi đi khất thực, nên có người ăn tối tại nhà; đi khất thực ban đêm có lẽ cũng không làm ai sợ hãi nữa. Chính vị La Hán Hắc Quang này khi đi khất thực đã làm người ta hoảng sợ.

Tôi nhớ trước đây khi làm thành viên đoàn thánh ca của nhà thờ Thiên Chúa giáo, vào đêm Giáng sinh, chúng tôi thường đi hát thánh ca cho mọi người nghe, đi thăm viếng. Một tối nọ, vào đêm Giáng sinh, vị mục sư của chúng tôi nói: "Tối nay chúng ta sẽ đến khu dân nghèo hát cho họ nghe, sau đó ném kẹo và thiệp Giáng sinh vào nhà họ." Chúng tôi đều mặc đồng phục trắng của ca đoàn, vào nửa đêm, khoảng 11-12 giờ, cho đến 2 giờ sáng, cả nhóm trong trang phục trắng đổ về khu dân nghèo. Chúng tôi vừa hát vừa ném kẹo, thấy khe cửa là ném vào, thiệp Giáng sinh cũng ném vào như vậy. Chúng tôi cố gắng đi thật khẽ, bước chân nhẹ nhàng, giọng hát nhỏ nhẹ, không dám bước mạnh, cứ thế lướt đi trên đường.

Có vài bà cụ thức dậy đi vệ sinh nửa đêm, nhìn thấy chúng tôi đều sợ ngất đi. Những bà cụ ấy thấy một đám người mặc đồ trắng, đi nhẹ nhàng và vừa đi vừa hát, trông như ma, họ sợ đến run chân, họ nói: "Các người muốn dọa chết tôi sao!" Ôi! Lần đó, nhiều người vì chúng tôi ném kẹo, ném thiệp nên tỉnh giấc, mở cửa ra xem, trời ơi! Không trung toàn những bóng áo trắng bay! Nghe nói khu dân nghèo đó hôm sau có nhiều thầy đến làm lễ giải kinh. Thực ra không phải gặp ma, mà là gặp chúng tôi.

Tiếp theo giới thiệu một vị đại La Hán nữa, đó là Ma Ha Kiếp Tân Na. Tên này dịch ra chính là tên một ngôi sao, trong Trung Quốc có 28 sao, đây là ngôi sao thứ tư trong 28 sao. Vì cha mẹ ngài đã cầu nguyện với các vì sao trên trời nên sinh ra được vị Ma Ha Kiếp Tân Na này, ngài được tôn xưng là "ngôi sao đệ nhất".

Vị Ma Ha Kiếp Tân Na vốn cũng là một vị quốc vương, nước của ngài tên là Câu Tất Đa, ngài chính là vua nước Câu Tất Đa. Do ngưỡng mộ Phật pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni nên ngài đã xuất gia; sau khi xuất gia, ngài rất thích tu hành một mình và đã từng chứng được pháp vị Niết bàn. Sau khi quy y, ngài rất nghiêm túc tu tập theo giáo pháp của Đức Phật, sống trong hang động trên núi sâu. Ngài tu tập phương pháp luyện hỏa đan điền, khiến "hỏa" này có thể chạy khắp toàn thân, đến từng mạch máu nhỏ, từng lỗ chân lông đều có thể dùng lửa để đốt thân thể, sau đó luyện nội hỏa trở nên tinh thuần, tập trung toàn bộ lửa ở thiên đình, và còn có thể phóng ra ngoài, khiến nhiệt độ cơ thể hoàn toàn hạ xuống, có thể nhịn ăn nhịn uống trong một tháng.

Mặc dù thân thể ngài vẫn ở trên mặt đất, nhưng thực ra rất giống với lúc nhập Niết bàn; pháp vị này, sự thanh tịnh hoàn toàn này, không còn dục vọng, niềm pháp lạc đạt được, gọi là pháp vị Niết bàn. Tất nhiên, với niềm pháp lạc này, ngài có thể du hành đến tứ thiền thiên, có thể đến bất kì cõi Phật nào. Tuy không ăn bất cứ thứ gì, nhưng thực ra đã ăn tất cả, ngài đạt được pháp vị Niết bàn này hoàn toàn nhờ tu tập trong hang động trên núi sâu.

Một ngày nọ, Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trước hang động của ngài và hỏi: "Hiện giờ ông đã thỏa mãn chưa?" Ngài đáp: "Rất thỏa mãn. Phật nói: "Đã thỏa mãn rồi thì cũng phải giúp người khác được thỏa mãn!" Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni mời ngài ra làm công việc giáo giới. Bởi vì lúc bấy giờ, nhiều đệ tử khi mới quy y đều rất nghiêm giữ giới luật, nhưng sau đó lại không giữ giới nữa, nên Ma Ha Kiếp Tân Na đã ra làm vị đạo sư dạy trì giới. Khi ngài ra khỏi hang động, cách làm đã khác trước - trước kia ngài an trụ trong pháp vị Niết bàn, cuối cùng Phật Thích Ca Mâu Ni gọi ngài ra dạy giới luật cho tất cả đệ tử Phật. Ban đầu ngài được gọi là bậc tự trì giới, sau trở thành bậc dạy người trì giới, nên ngài được tôn xưng là "ngôi sao đệ nhất", và còn được gọi là "bậc giáo giới đệ nhất".

Thật ra, giới luật rất quan trọng, không có giới luật thì sẽ hành xử bừa bãi. Giữ giới cũng giống như chúng ta tuân thủ trật tự của quốc gia, chính là tuân theo pháp luật. Khi đệ tử Phật giữ giới, nhờ trì giới mà hành vi của họ trở nên rất đoan chính, nhờ hành vi đoan chính mới sinh tâm định, nhờ có định mới phát sinh trí tuệ, đạt được trí tuệ mới có thể khai ngộ, mới có thể thành Phật.

Nhiều người hỏi tôi: "Phái Chân Phật Tông có giới luật không?" Chân Phật Tông cũng có giới luật như các phái khác, chúng ta có giới luật của Hiển giáo thông thường và cả giới luật của Mật giáo. Thực ra, giới luật của chúng ta cũng rất nghiêm ngặt, xét theo giới luật thì rất nghiêm khắc, nhưng vì chư Phật Bồ Tát từ bi hơn một chút nên nhìn có vẻ thoải mái hơn, tuy nhiên hôm nay tôi muốn nói với mọi người rằng: "Muốn có thành tựu, nhất định phải có giới." Thượng sư cũng có giới của Thượng sư, vì vậy chúng ta phải đọc giới luật của Chân Phật Tông, trong quyển sách nhỏ đó đều có. Hy vọng mọi người đừng vì chư Phật Bồ Tát từ bi mà quên hết giới luật.

Mỗi hành giả khi mới bắt đầu tu tập, nhất định phải giữ giới luật; đến khi khai ngộ, tuy những giới luật đó có thể phá bỏ, nhưng vì độ chúng sinh, cũng phải để chúng sinh thấy được giới luật của mình. Thực ra, Thượng sư đã từng nói: "Nơi sư tử nhảy qua, thỏ không thể nhảy theo."

Điều này có nghĩa là những việc mà một vị đại hòa thượng có thể làm, một vị tiểu hòa thượng chưa chắc đã có thể làm theo. Khi một người đã khai ngộ, những việc họ làm không nhất thiết là những việc mà người mới vào cửa Phật có thể bắt chước. Đây là vấn đề về cảnh giới tu tập. Vì vậy, khi bạn đã trở thành sư tử, bạn có thể nhảy vực; nhưng khi chưa trở thành sư tử mà nhảy vực thì chính là tự sát. Khi tâm bạn đã bất động, bạn có thể đến night club; nhưng khi tâm còn dao động mà đến night club thì chính là tự sát. Do đó, việc tu học có từng cấp độ. Nếu các bạn muốn tự sát thì có thể đi theo thầy; còn nếu thấy mình chưa đủ sức thì tốt nhất là ở nhà ngủ ngon!

Vừa rồi Thượng sư Liên Hỏa đã cảm ơn tất cả mọi người, tôi cảm thấy chúng ta làm bất cứ việc gì cũng phải mang lòng biết ơn. Miễn là mỗi người đều tận tâm tận lực làm tốt việc của mình, và giúp đỡ làm những việc chung, chúng ta đều nên mang lòng biết ơn. Bởi vì lòng biết ơn có thể sinh ra lòng từ bi, trong vũ trụ này vốn dĩ là đồng thể đại bi; vì vậy chúng ta không chỉ cảm ơn những người bỏ tiền, bỏ công sức, những người có tâm, mà đối với những người phỉ báng chúng ta và những lời trái ý cũng phải mang lòng biết ơn. Bởi vì họ đến thử thách chúng ta, cũng chính là đang giúp đỡ chúng ta, khi bạn cũng biết ơn những lời trái ý này, thì sẽ hiểu được rằng "lời trái ý cũng chính là trợ duyên của chúng ta". Vì vậy tôi đã từng nói: "Trên thế gian này vốn dĩ không có chuyện gì cả." "Người tu hành chính là người vô sự." "Chúng ta chỉ cần tận tâm tận lực làm việc, không tính toán thành bại, đó chính là vô sự."

Om mani padme hum.

31. Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, cùng các vị đại đệ tử như thế

Chúng ta đã giới thiệu mười bốn vị La Hán, tối nay sẽ tiếp tục giới thiệu thêm hai vị La Hán nữa, tổng cộng là mười sáu vị tôn giả.

Vị thứ mười lăm được giới thiệu là Bạc Câu La. Vị tôn giả này suốt đời không thuyết pháp, không giảng đạo, không đi khắp nơi giảng đạo thuyết pháp, ngài hoàn toàn không nói chuyện. Bởi vì vị tôn giả này không nói chuyện, nhưng thích thiền định, chỉ thích tọa thiền, nên thọ mạng của ngài rất dài, sống đến một trăm sáu mươi tuổi.

Thích thiền định thì thọ mạng sẽ dài, điều này có lý của nó. Các bạn biết đấy, khi thiền định, giống như trạng thái ngủ đông của động vật, cơ thể hoạt động rất ít, dùng rất ít năng lượng để vận hành cơ thể; các bạn biết đấy, chúng ta sử dụng cơ thể quá nhanh, lại quá gấp gáp, cơ thể thường hay hư hỏng, cơ thể đều có tuổi thọ nhất định, dù sao dùng nhiều cũng sẽ hỏng. Vì Bạc Câu La từ từ sử dụng cơ thể của mình, nên sống đến một trăm sáu mươi tuổi.

Chúng ta biết có một loài động vật sống rất thọ, đó là rùa. Rùa có tuổi thọ rất cao và cũng không thích nói chuyện. Bạn nhìn những con rùa dưới đáy ao, chúng thường xuyên thiền định, cứ bò, bò, bò đến khe đá rồi ở đó... trông như đang ngủ vậy. Chúng cũng không nhiều lời. Phải biết rằng, những người thích nói chuyện, thích ba hoa thường có tuổi thọ ngắn hơn. Tại sao vậy? Trong nội công cũng có giải thích, bởi vì khi nói chuyện, khí thường xuyên phải thoát ra ngoài. Chúng ta hít vào nhiều, thở ra ít thì sẽ trường thọ; thở ra nhiều, hít vào ít thì sẽ đoản thọ.

Vị Bạc Câu La này rất ít nói chuyện, chỉ thích thiền định, nên được gọi là "thọ mạng đệ nhất". Hơn nữa, ngài cũng giữ giới không sát sinh, ngài trì giới không giết hại sinh mạng. Trong cuộc đời, ngài có mấy lần không chết, đó là khi bị đặt vào đĩa cũng không thể thiêu chết được, khi bị thiêu vẫn không chết; ở trong nước không chết, bị luộc cũng không chết, bị một con cá lớn cắn cũng không chết, bị cá lớn nuốt vào bụng rồi lại ra được mà vẫn không chết, có năm loại bất tử như vậy.

Vị tôn giả Bạc Câu La này cũng rất ít khi đau ốm, vì vậy ngoài danh hiệu "thọ mạng đệ nhất", ngài còn có một biệt danh là "đệ nhất không bệnh". Việc không bệnh tật này cho thấy ngài tu hành rất tốt, bởi vì ngài thường xuyên thiền định, bảo dưỡng cơ thể rất tốt, nên ngài... dù sao cũng rất ít khi có bệnh!

Tôi rất ngưỡng mộ "đệ nhất không bệnh" này. Ban đầu tôi còn nói to rằng: "Từ khi đến Mỹ chưa từng bị bệnh!" Nhưng bây giờ không dám nói to nữa, vì từ khi đến Mỹ, trong sáu năm ít nhất cũng bị cảm cúm một lần, hơn nữa răng còn bị sứt một miếng. Mặc dù tôi nghĩ mình rất khỏe mạnh, nhưng răng thực sự cũng là một căn bệnh. Vị đệ tử này rất tốt, biết răng tôi không tốt nên đã mua tặng tôi một bàn chải điện tự động; hai người từ Toronto chuyển đến Vancouver cũng mua bàn chải điện cho tôi. Tôi cũng đánh răng hàng ngày, không phải là không đánh đâu, cái bàn chải điện tự động đó con trai tôi cũng lấy để dùng, mỗi ngày tranh nhau dùng với tôi.

Vị tôn giả này không có bệnh tật, những người thích thiền định sẽ trường thọ, và cũng ít khi bệnh tật, bởi vì khi thiền định đến trình độ cao nhất, con người sẽ chuyển hóa thành hư không; bởi vì con người đã chuyển hóa thành hư không rồi, bạn thử nghĩ xem, hư không có bệnh tật gì? Khi gió thổi đến, có thể xuyên qua thân thể của ngài; khi lửa đốt hư không, lửa sẽ tự tắt; nước muốn dâng lên ngập hư không cũng không thể ngập được; lấy vật kim loại đánh vào hư không, hư không cũng không bị tổn hại. Một người trong thiền định, thường xuyên chuyển hóa thân thể thành hư không thì sẽ không có bệnh tật gì cả.

Người có thể thiền định cũng không có phiền não, bởi vì những việc trên thế gian không thể ảnh hưởng đến hư không. Bạn thử nghĩ xem, hư không có phiền não gì? Vì vậy, chỉ khi nào con người trong thiền định lĩnh hội được đạo lý về Không mới đạt được vô ngã chân thực, khi ý niệm vô ngã đó sinh khởi, đó mới là "thiền định chân chính". Cho nên, người đạt được thiền định chân chính là: dù có việc hay không có việc, đều tự nhiên đạt được tự tại của đại trí huệ chân chính.

Bây giờ tôi xin giới thiệu vị La Hán thứ mười sáu, tên là A Nậu Lâu Đà, dịch nghĩa là "Vô Bần". Vị này cũng là một hoàng tử, là em họ của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kiếp trước của ngài, ngài từng sinh ra trong một đất nước, khi đó đang có nạn đói, có một vị Độc Giác Phật đi khất thực, khất thực là khi đói bụng đi xin cơm; có một người rất nghèo, bản thân rất nghèo khổ, chỉ còn lại một bát cơm, đúng lúc vị Độc Giác Phật đến khất thực, nhưng người nghèo đó vẫn đem bát cơm đó cúng dường cho vị Độc Giác Phật.

Do người nghèo này chịu bố thí bát cơm duy nhất của mình cho vị Phật Độc Giác, nhờ công đức này mà đời đời kiếp kiếp ông đều giàu có, không bao giờ nghèo khổ. Nhờ công đức bố thí một bát cơm, vị nghèo khổ này được tái sinh thành bậc "Vô Bần" và mãi mãi không phải chịu cảnh nghèo khó nữa. Vì không bao giờ phải chịu cảnh nghèo khổ nên được gọi là Tôn giả Vô Bần.

Từ khi bắt đầu giảng Kinh Phật Thuyết A Di Đà, chúng ta vừa giới thiệu xong vị tôn giả thứ mười sáu, đây là một trong những vị tôn giả đứng đầu trong số một nghìn hai trăm năm mươi vị, là một trong mười sáu vị đại A La Hán được nhắc đến trong Kinh A Di Đà.

Om mani padme hum.

32. Và các vị Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử

Mười sáu vị tôn giả đã giảng xong, bây giờ sẽ giảng về một số vị Bồ Tát, đại Bồ Tát.

Trong kinh văn viết rằng: "Cùng các vị Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, và các vị đại Bồ Tát như vậy."

Ở đây, "Ma Ha" có nghĩa là "đại", "Bồ Tát" nghĩa là "giác hữu tình", có ý nghĩa là trên cầu giác ngộ, dưới độ hóa chúng sinh.

Vị Bồ Tát đầu tiên được giảng là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử. Văn Thù Sư Lợi có lai lịch rất đặc biệt, là bậc vô thượng trong tất cả các vị Bồ Tát, trong quá khứ ngài cũng từng là một vị Phật, có pháp hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, núi Thiên Thai của Trung Quốc chính là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.

Trong nhiều ngôi chùa có một vị đại Bồ Tát cưỡi sư tử (trông giống sư tử nhưng thực ra không gọi là sư tử), chúng ta gọi là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi; vị cưỡi voi là Bồ Tát Phổ Hiền. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trong Mật pháp có rất nhiều thân tướng hiển hiện.

Tại sao trong pháp hội A Di Đà này, khi Phật Thích Ca Mâu Ni đang giảng Kinh A Di Đà, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cũng có mặt để nghe kinh? Điều này chứng tỏ Kinh A Di Đà do Phật giảng vô cùng quan trọng, ngay cả Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, một vị đại Bồ Tát cao quý như vậy cũng xuất hiện trong pháp hội, cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của Kinh A Di Đà.

Trong các vị Bồ Tát, Phật là Pháp Vương, còn Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thường được gọi là Pháp Vương Tử. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có nhiều danh hiệu khác như: Diệu Đức, Diệu Cát Tường. Sư Tôn đã từng... Bây giờ nói về vấn đề pháp lực, tôi đã từng đến đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ngài thấy hàng hậu bối đến thăm cũng rất vui, ngài đã từng duỗi cánh tay màu vàng kim, cánh tay vàng kim vốn chỉ dài như thế thôi, nhưng ngài có thể biến hóa, duỗi dài ra, ồ! cứ thế vươn tới, rồi xoa đầu đứa trẻ này: "Chào con!" Trước Phật và Bồ Tát, chúng ta giống như những con muỗi nhỏ bé, chúng ta thật sự quá nhỏ bé. Vì thế, được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi xoa đầu, tôi vui đến cả tuần, đầu cũng không nỡ gội, suýt nữa thành đầu hôi.

Om mani padme hum.

33. A Dật Đa Bồ Tát

Hôm nay tôi xin giới thiệu thêm một vị Bồ Tát, đó là A Dật Đa Bồ Tát. Trong tiếng Phạn, A Dật Đa được dịch là "Vô Năng Thắng", còn được gọi là "Vô Tam Độc Giả", tam độc chính là tham, sân, si.

Bồ Tát Di Lặc trong tương lai sẽ thành Phật, hiện tại ngài đang ở quả vị Đẳng Giác Bồ Tát. A Dật Đa Bồ Tát chính là Bồ Tát Di Lặc được thờ trong các chùa hiện nay, Bồ Tát Di Lặc là vị Bồ Tát có cái bụng to, hiện đang ở cung trời Đâu Suất, ngài đang thuyết pháp ở đó. Cung trời Đâu Suất có tổng cộng bốn mươi chín viện, trong đó có một viện gọi là viện Thuyết Pháp, ngài đang thuyết pháp trong viện này. Trước đây Sư Tôn có viết, chiếc mũ đỏ của Sư Tôn, chiếc mũ Ngũ Phật đội lên đó, chính là do Bồ Tát Di Lặc đội lên.

Bồ Tát Di Lặc ở Ấn Độ và Tây Tạng có hình tướng khác với Bồ Tát Di Lặc ở Trung Quốc. Bồ Tát Di Lặc Trung Quốc có khuôn mặt to, tai dài, bụng lớn, trông rất mập mạp; nhưng ở Ấn Độ và Tây Tạng thì trông gầy hơn, có lẽ vì thức ăn ở Trung Quốc phong phú hơn, còn Ấn Độ và Tây Tạng nghèo hơn một chút. Thực ra không phải vậy! Theo kết quả nghiên cứu của tôi, trước đây ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc từng xuất hiện một vị hòa thượng Bố Đại, vị này rất mập, bụng to, mặt tròn, trước khi viên tịch đã để lại một bài kệ "Di Lặc Di Lặc Di Lặc thật", ngài muốn nói rằng: "Đã đến nhân gian một chuyến rồi, nhưng mọi người vẫn chưa nhận ra."

Bồ Tát Di Lặc này có đạo hạnh rất cao, ngài mang theo một chiếc túi vải, người ta hỏi pháp ngài: "Nghe nói ngài đã khai ngộ rồi, xin hãy giảng pháp cho chúng con nghe."

Hòa thượng Bố Đại liền đặt chiếc túi vải xuống đất, các vị hòa thượng đang hỏi ngài đều cảm thấy kỳ lạ, sao không nói gì mà chỉ đặt chiếc túi vải xuống? Theo như người có trí tuệ hiện nay, họ hiểu rằng đây là sự khai thị của hòa thượng Bố Đại, ngài muốn nói: "Ông phải buông bỏ tất cả mọi thứ."

Người học Phật phải buông bỏ tất cả, như tôi vừa nói, người học Phật phải học đến chỗ không còn mong cầu, tức là phải buông bỏ tất cả, bởi vì phải buông bỏ phiền não trong tâm, buông bỏ tất cả những chướng ngại trong tâm thuộc về thế tục và đủ loại khác, kể cả những chướng ngại của thân thể, mới có thể giải thoát, mới có thể thành Phật.

Kết quả sau khi các vị hòa thượng được khai thị như vậy, lại hỏi ngài: "Sau khi buông xuống rồi thì còn gì nữa?" Hòa thượng Bố Đại liền nhặt chiếc túi vải lên, đặt lên vai rồi bỏ đi. Điều này có ý nghĩa gì? Người có trí tuệ sau này giải thích: "Đây là phải buông bỏ tất cả phiền não trước, sau đó nhấc lên đặt lên vai, tức là phải gánh vác sứ mệnh lớn lao của Như Lai để cứu độ chúng sinh." Việc nhấc lên này chính là để cứu độ chúng sinh. Vì vậy buông xuống là Niết bàn, nhấc lên là độ sinh.

Người học Phật không chỉ cần buông bỏ, mà còn phải độ chúng sinh. Khi chúng ta tu hành cho bản thân phải không mong cầu, nếu có cầu thì cầu cho chúng sinh, "không vì mình cầu, mà vì chúng sinh cầu". Nói đến hiện tại, tuy miệng tôi luôn nói rằng mình đã vô sở cầu, không cầu gì cả, nhưng có điều gì đó cũng sẽ cầu một chút, chỉ là một chút thôi.

Tượng Bồ Tát Di Lặc ở Đài Loan còn có thêm mấy chữ rất hay: "Luôn mở miệng cười, cười người đáng cười trong thiên hạ". Tại sao lại cười người đáng cười trong thiên hạ? Bởi vì tất cả mọi người đều đáng cười! Vì thế Bồ Tát Di Lặc luôn mở miệng cười, khóe miệng ngài luôn nở nụ cười. Ngài có cái bụng to, "bụng lớn dung chứa, chứa việc khó dung trong thiên hạ"; Bồ Tát Di Lặc thường cười người đáng cười trong thiên hạ, có thể dung chứa những việc khó dung trong thiên hạ, nụ cười của ngài chính là sự giác ngộ trọn vẹn. Ngài hiểu rõ tất cả, nên mới cười tất cả mọi người trên đời. Công phu nhẫn nhục, nhẫn nại của ngài cũng rất tốt, ngài có thể dung chứa những việc khó bao dung nhất trên đời, điều này cũng cho thấy ngài đã đạt được tất cả thiên hạ.

Bồ Tát Di Lặc trong tương lai sẽ thành Phật, là vị Phật kế tiếp sau Phật Thích Ca Mâu Ni, sẽ thành Phật độ chúng sinh trong thế giới Ta Bà. Cái gọi là Long Hoa Tam Hội là ba lần thuyết pháp độ chúng sinh, chính là Bồ Tát Di Lặc sẽ trở thành giáo chủ của thế giới Ta Bà.

Om mani padme hum.

34. Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát

Hôm nay tôi sẽ giới thiệu thêm hai vị Bồ Tát, đó là Càn Đà Ha Đề Bồ Tát và Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

Khi dịch sang ra, một vị được gọi là Bồ Tát Không Nghỉ Ngơi, và vị còn lại là Bồ Tát Thường Tinh Tấn. Cả hai danh hiệu Không Nghỉ Ngơi và Thường Tinh Tấn đều thể hiện sự tu tập rất nghiêm túc; giống như những gì Thượng sư Liên Trí vừa nói, các ngài đều chú trọng vào thực hành, là những vị Bồ Tát không nghỉ ngơi và luôn tinh tấn.

Điều này cho thấy khi Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng Kinh A Di Đà, có rất nhiều Bồ Tát đến nghe pháp. Bồ Tát Không Nghỉ Ngơi và Bồ Tát Thường Tinh Tấn đều là những vị Bồ Tát có địa vị rất cao, cảnh giới của các ngài vô cùng thâm sâu, vì vậy Kinh A Di Đà không phải là một bộ kinh thông thường, mà là bộ kinh được tất cả các vị đại Bồ Tát đến nghe Đức Phật giảng.

Vì bộ kinh này cũng có thể giúp đại chúng nhanh chóng chứng đắc vô thượng bồ đề, nên bộ kinh này vô cùng quan trọng. Gần đây có đệ tử viết thư cho Thượng sư, mong Thượng sư truyền dạy cho họ pháp môn đặc biệt, cũng có nhiều người từ nơi xa bay đến để học pháp. Họ cho rằng, Thượng sư tu tập mà có thể khai ngộ nhanh như vậy, chắc hẳn phải có pháp môn bí mật nào đó, có thể phải bỏ ra rất nhiều tiền, vì thế khi một đệ tử đến thăm tôi, vào phòng tôi tham quan, anh ta hỏi: "Thượng sư có uống thuốc gì không?" Anh ta rất chú ý những vật đặt trên bàn của tôi, xem có tiên đan không, tôi hỏi anh ta: "Thuốc gì?" Anh ta nói: "Loại thuốc uống vào là có thể nhanh chóng thành tựu ấy." Ah! Thực ra không có thuốc đó! Cũng có người đến, mong được cùng Thượng sư tu pháp, khi Thượng sư đang tu pháp, họ đặc biệt chú ý, xem Thượng sư có kết ấn đặc biệt nào khác người không, hoặc tụng chú có âm thanh kỳ lạ gì mà người khác không thể tụng được, hoặc có bí quyết đặc biệt nào khác; thực ra không có! Rồi cũng có người, mong tôi có thể chỉ dạy bí mật tối thượng trong pháp tu, tức là chỉ cần một câu nói là có thể lập tức thành Phật thì càng tốt; vậy có không? Thực ra cũng không có! Hôm nay tôi xin nói thật với mọi người: "Phương pháp thành Phật nhanh nhất chính là không nghỉ ngơi và thường tinh tấn."

Nói thật ra, Không Nghỉ Ngơi và Thường Tinh Tấn không chỉ là hai vị Bồ Tát. Trong Kinh A Di Đà này có đến ba vị Không Nghỉ Ngơi và bốn vị Thường Tinh Tấn, và Thượng sư cũng là người không nghỉ ngơi và thường tinh tấn. Gần đây có một đệ tử rất buồn phiền, anh ấy nói: "Muốn rời khỏi Chân Phật Tông để đi nơi khác học pháp." Anh ấy nói đã theo tôi và quy y được một thời gian rồi, nhưng Thượng sư vẫn chưa truyền pháp cho anh ấy. Tôi đã trả lời rất thẳng thắn, tôi nói với anh ấy: "Lý do tôi có thể đạt được trình độ như ngày hôm nay, chỉ đơn giản là nhờ tâm kiên định, chỉ là nhờ có tâm bền bỉ mà thôi." Tâm kiên định là gì? Bởi vì tôi nhất định phải tu pháp mỗi ngày, hàng chục năm như một ngày, trên máy bay phải quán tưởng tu pháp, ở khách sạn cũng phải quán tưởng tu pháp, khi đi du lịch, đi bộ cũng có thể quán tưởng tu pháp, tất cả đều dùng quán tưởng để tu thành.

Bây giờ, mỗi ngày tôi vẫn tu pháp! Vậy pháp mà tôi tu có gì đặc biệt không? Thật ra không có gì đặc biệt, chỉ đơn giản là tu pháp Bổn tôn, chính là pháp mà chúng ta cùng tu vào tối thứ bảy hàng tuần ở chùa, chính là pháp mà Thượng sư tu hàng ngày. Các bạn đến tìm bí mật của Thượng sư, hoặc nhiều người đến tìm hiểu bí mật tại sao Thượng sư thành tựu nhanh như vậy, nhìn kĩ một hồi mới thấy rằng họ tu còn kém xa tôi. Tôi nghĩ pháp tu của tôi thực sự không bằng các bạn đâu, chỉ là tôi rất kiên tâm làm mà thôi.

Bây giờ Trần Ngạn Đình mỗi ngày đến Chân Phật Mật Uyển lúc 6 giờ chiều để cùng tu với tôi, thời gian tu của tôi không dài, chỉ khoảng nửa tiếng. Tôi nghĩ mỗi lần Trần Ngạn Đình tu có thể phải mất đến 50 phút, hơn nữa anh ấy một lần tu đến ba pháp, bốn pháp, năm pháp, thật ra Trần Ngạn Đình còn có pháp bí mật, còn tôi thì không. Bây giờ anh ấy tinh tấn hơn tôi, sự tinh tấn của tôi không bằng anh ấy. Tuy nhiên, mỗi ngày tôi chỉ tu một lần pháp, cứ đi từng bước một, tôi liên tục không ngừng nghỉ, giống như con rùa vậy. Tuy mọi người tu pháp rất tinh tấn, nhưng các bạn không thể như thỏ ngủ quên. Hiện nay trong số đệ tử của chúng ta, nhiều người tìm kiếm những pháp bí mật rất đặc biệt, nhưng mọi người không biết rằng, Thượng sư mỗi sáng tu tứ gia hành, mỗi tối tu pháp Bổn tôn. Không có bí mật nào cả, bí mật duy nhất chính là kiên tâm.

Nói thật ra, người không tu pháp giống như sắt, sẽ bị rỉ sét; người tu pháp giống như cỏ, sẽ phát triển. Khi sắt bị rỉ, ta không thể thấy được nó đang rỉ, lười biếng vài ngày có sao đâu! Lười biếng... là sẽ bị rỉ sét! Khi chúng ta tu pháp, không thể thấy được pháp lực, công lực đang tăng trưởng; nhưng mỗi ngày tu pháp, "cỏ" sẽ mọc lên, đó chính là bí mật lớn nhất để thành tựu. Bí mật lớn nhất chính là thường tinh tấn, không nghỉ ngơi. Vì vậy ở chỗ tôi không có tiên đan, cũng không có gì đặc biệt, cũng không có bí mật. Dù các bạn có đưa tôi nhiều tiền đến đâu, tôi vẫn chỉ truyền cho các bạn pháp Bổn tôn.

Pháp ở đâu? Từ lâu tôi đã truyền cho bạn rồi! Bạn không tu, lại nói tôi không truyền pháp cho bạn. Có người còn nói: "Làm trò gì đâu, vẫn chưa truyền à! Thượng sư định đem theo xuống mồ sao!" Có kkiên tâm, bạn sẽ đạt được, đừng nói tôi không truyền pháp, pháp đơn giản như vậy đó. Cho nên hôm nay tôi tu nửa ngày vẫn là pháp đó, họ không tu, ngược lại còn nói tôi không truyền pháp.

A Di Đà Phật.

35. Và Thích Đề Hoàn Nhân và vô lượng chư thiên đại chúng có đủ

Thích Đề Hoàn Nhân chính là Đao Lợi Thiên Chủ, tức là Đế Thích Thiên Chủ. Thích Đề Hoàn Nhân là thiên chủ của ba mươi ba cõi trời, vô lượng chư thiên đều ở trên đỉnh núi Tu Di, với Đao Lợi Thiên ở giữa, xung quanh có tám cõi trời, tổng cộng là ba mươi ba cõi trời. Về lai lịch của Thích Đề Hoàn Nhân, nghe nói có một người phụ nữ, thấy Phật Ca Diếp nhập diệt, rất cung kính Phật Ca Diếp, sau đó xây tháp cúng dường Phật Ca Diếp. Lúc đó có ba mươi hai người đến giúp người phụ nữ này xây tháp, vì thế ba mươi ba người này trở thành thiên chủ của ba mươi ba cõi trời.

Trong đoạn văn này, nói về "vô lượng chư thiên", thể hiện rằng có rất nhiều thiên nhân đến nghe Phật thuyết pháp, vô lượng chư thiên đều đến pháp hội để nghe Phật giảng Kinh A Di Đà. Những đoạn văn tiếp theo đều nói về hai mươi tám cõi trời và những chuyện về tất cả thiên nhân, mọi người có thể xem "A Di Đà Kinh Thích Yếu" sẽ hiểu rõ! Vì vậy những người đến nghe pháp có thiên nhân mười phương, hộ pháp, thiên long bát bộ, vô lượng vô số, nên mới gọi là "đại chúng có đủ".

Một người phụ nữ xây tháp cúng dường Phật Ca Diếp, liền được phúc báo làm thiên nhân, trở thành thiên chủ cõi trời Đao Lợi. Trước đây có người hỏi tôi: "Sao lại đơn giản vậy? Vậy tôi cũng xây vài cái tháp cúng dường Phật, rồi tôi sẽ thành thiên chủ trên trời luôn." Ah! Ít nhất trong Lôi Tạng Tự của chúng ta cũng có bốn tháp Quang Minh! Theo như tôi biết, việc người phụ nữ này trở thành thiên chủ cõi trời Đao Lợi có hai ý nghĩa. Điều này giống như một sự khai thị, chỉ cần làm một chút việc thiện, hoặc hành thiện, là có thể đạt được phúc báo của thiên nhân; hơn nữa, vị thiên chủ Đế Thích này vốn là cổ Phật chuyển thế, cũng là một vị Phật chuyển thế, hóa thân làm thiên chủ Đế Thích, trong đó có rất nhiều nhân quả và duyên phận.

Chúng ta biết trên cõi trời cũng có chiến tranh, những cuộc chiến trên cõi trời chính là giữa Đế Thích Thiên Chủ Thích Đề Hoàn Nhân và vua Atula thường xuyên giao chiến với nhau. Nguyên nhân nào dẫn đến cuộc chiến này? Nghe nói vua Atula đang tổ chức tiệc sinh nhật dưới đáy biển, đúng lúc đó Đế Thích Thiên Chủ cùng các thiên nhân đi du ngoạn bay qua vùng biển đó, ồn ào náo nhiệt. Vua Atula nói: "Ta đang tổ chức tiệc sinh nhật, các ngươi lại dám bay qua không trung như vậy, đây chính là sự sỉ nhục đối với ta." Chỉ vì lý do đó mà dẫn đến cuộc chiến lớn trên cõi trời. Từ điểm này chúng ta có thể thấy, trí tuệ của thiên nhân không nhất định vượt qua trí tuệ của con người chúng ta. Trí tuệ của người học Phật đôi khi còn vượt qua trí tuệ của thiên nhân. Trên cõi trời vẫn có sự tranh chấp cao thấp, lớn nhỏ.

Vì nói đến chuyện cao thấp, lớn nhỏ nên tôi mới kể, gần đây có một vị đường chủ viết thư cho tôi, nói rằng ông ấy muốn làm Thượng sư. Tôi nói với ông ấy: "Có phải hơi sớm không?" Ông ấy khẳng định nhất định phải được làm. Tôi hỏi: "Nếu không cho ông làm thì sao?" Ông ấy đáp: "Sẽ dẫn đầu tất cả các đường chủ tuyên bố độc lập." Ông ấy cho rằng Thượng sư lớn hơn đường chủ, vì đường chủ ngồi hàng đầu còn Thượng sư ngồi phía trên, đây là sự phân biệt cao thấp. Làm Thượng sư mà không giác ngộ được đạo, tất cả đều phải xuống địa ngục Kim Cang; làm đường chủ không giác ngộ được đạo, đầu thai vẫn làm người. Trách nhiệm của Thượng sư rất lớn, nên cần phải có sự so sánh như vậy.

Nói thêm, có một đệ tử cũng yêu cầu tôi cho một đạo tràng. Tôi nói: "Bên cạnh chỗ anh ở không phải đã có một đạo tràng rồi sao?" Anh ấy nói với tôi là không hợp với vị đường chủ đó. "Vậy anh muốn có đạo tràng để làm gì?" Anh ấy đáp: "Con muốn có đạo tràng để đối đầu với đạo tràng kia." Ah! Nghe như là chiến tranh vậy!

Còn nữa, có một vị Thượng sư chạy đến đây nói với tôi: đạo tràng lớn của ông ấy đã bị gián điệp từ đạo tràng nhỏ xâm nhập vào. Tôi nói: "Vậy không phải là gián điệp đấu với gián điệp sao?" Người tu hành mà tu thành như vậy, đều giống như atula vậy! Tính tranh đấu rất mạnh, hiếu chiến và háo thắng, càng tu hành thì lửa vô minh càng lớn, suốt ngày cứ thấy ai không vừa mắt là muốn đánh cho một cái vào đầu! Chuông và chày kim cang không phải để hàng ma, mà là để đánh người, những hành vi như vậy chúng ta đều biết, điều này càng ngày càng xa rời đạo.

Đạo thật sự bất khả thuyết, tự nhiên chính là đạo, tinh tấn chính là đạo, vô tư chính là đạo, vô ngã chính là đạo. Con người trên thế gian này có chiến tranh, có tranh cao thấp, có tranh lớn nhỏ, đều là vì "có ngã". Nếu như lĩnh ngộ được đạo lý này thì đã gần với đạo. Tôi mong muốn tất cả đệ tử Chân Phật Tông đều có thể thành Phật, không nhất định phải làm Thượng sư, cũng không nhất định phải làm đường chủ. Tôi tin rằng sau này các đệ tử đều thành Phật hết, chỉ có đường chủ và Thượng sư không thành Phật được. Bởi vì đường chủ và Thượng sư chỉ cần sinh một chút tâm kiêu ngạo, sẽ đọa vào địa ngục Kim Cang.

Om mani padme hum.

36. Bấy giờ, Đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất… hiệu là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp

Kinh văn: "Bấy giờ, Đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất: "Từ đây về phương Tây, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Ở cõi ấy có Đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp."

Bây giờ chúng ta thật sự đi vào nội dung kinh văn, những phần trước đã giới thiệu tên của tất cả chư Phật Bồ Tát trong pháp hội này. Giờ tôi đọc đoạn kinh văn này một lần cho mọi người nghe: "Bấy giờ, Đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất: Từ đây về phương Tây, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Ở cõi ấy có Đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp."

Hai chữ "bấy giờ" nghĩa là lúc đó. Thực ra, hai chữ "bấy giờ" này, cũng giống như khi Thượng sư Trần vừa thuyết pháp, cũng tương đương với việc nói "bấy giờ". Ngài nói về con chuột đen và con chuột trắng, chuột trắng tượng trưng cho ban ngày, chuột đen tượng trưng cho ban đêm, biểu thị thời gian "con người" sống trong thế giới này rất ngắn ngủi, và thời gian trôi qua rất nhanh.

Tôi cảm thấy mình cũng lãng phí rất nhiều thời gian ban ngày, còn thời gian ban đêm thì có lẽ không lãng phí vì đều ngủ cả, ban đêm ai cũng ngủ nên không lãng phí. Tại sao tôi nói lãng phí nhiều thời gian ban ngày? Lúc tôi còn học cấp ba, có một thầy giáo mời tôi đi ăn, bữa ăn đó rất thú vị, thầy đặt một đĩa nước tương phía trước, trên bàn ăn có để một cái lồng nhỏ, trong lồng nhốt vài con chuột con, những con chuột đó mới sinh, từ bên ngoài có thể nhìn thấy ruột và bụng của chúng, vẫn còn mới sinh ra, là những con chuột bạch rất nhỏ; thầy giáo dạy chúng tôi ăn bữa tối, là nắm đuôi chuột, chấm qua nước tương rồi ăn như vậy, giống như ăn sashimi vậy; thầy nói, chuột bạch mới sinh như thế này bổ dưỡng nhất, đây là món bổ thận mà người Trung Quốc rất thích. Tôi đã từng nói, ngày xưa tôi là người ăn tất cả mọi thứ, biệt danh của tôi là "kẻ ăn tất cả". Vì vậy tôi nói lãng phí nhiều thời gian ban ngày, vì đã ăn không ít chuột bạch, vì một con chưa đủ no, tối hôm đó ăn khoảng sáu con, giờ nghĩ lại vẫn còn cảm giác mùi chuột!

Thật ra, từ "bấy giờ" đó chính là lúc Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, cách thời điểm hiện tại đã mấy nghìn năm. Vậy thì, hiện giờ chúng ta thuyết pháp, cũng được gọi là "bấy giờ". Nói về thời gian này, theo như tôi biết thì: "Thực ra chẳng có thời gian, thời gian là do con người tạo ra." Con người chia một năm thành ba trăm sáu mươi lăm ngày, chia một năm thành mười hai tháng, rồi một tháng lại có hai mươi tám ngày, hai mươi chín ngày, ba mươi ngày, ba mươi mốt ngày, một ngày lại chia thành hai mươi bốn giờ, ở Mỹ thì còn phải chỉnh đồng hồ nhanh lên một giờ rồi lại giảm đi một giờ. Thật ra, tất cả những điều này đều do con người tạo ra.

Trong số chúng ta có người từ kiếp trước ở Ai Cập đầu thai đến, có người tiền kiếp là người Ấn Độ chuyển sinh vào cộng đồng hiện tại của chúng ta, có người Nhật, người Phi Châu, trong chúng ta còn có cả bộ tộc ăn thịt người, thậm chí có một số không phải từ cõi người chuyển sinh đến, trong số chúng ta có người tiền kiếp là một con cá kiếm, còn có một chú gấu con quý hiếm nữa. Vào thời điểm này, phá vỡ giới hạn không gian thời gian, những gì mắt nhìn thấy, quá khứ đều hiện ra hết, bạn cũng có thể thấy được tương lai của người đó. Trong chúng ta có người tương lai sẽ làm Diêm La Vương, con gấu quý hiếm kia kiếp sau vẫn là gấu quý hiếm, nhưng kiếp này là người, còn ông cá kiếm kia tương lai sẽ được sinh lên cõi trời thành thiên nhân, người bộ tộc ăn thịt người kia kiếp sau chuyển sinh làm người mổ lợn.

Hai chữ "bấy giờ" này chứa đựng rất nhiều học vấn. Hãy nhìn vào sách của Thượng sư, không cần nói đến "bấy giờ", chỉ cần nhìn tấm ảnh của tôi chụp ở trường cách đây hai mươi năm, và bây giờ tôi ngồi đây thuyết pháp, đã không còn là cùng một người nữa. Hai mươi năm trước và hai mươi năm sau có giống nhau không? Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi hai mươi năm thôi mà đã khác biệt như hai con người. Thời gian này chỉ mang tính tượng trưng, vốn dĩ không có thời gian, nhưng vì dấu vết chúng ta để lại khi bước đi, nên mới tạo thành thời gian. Vì vậy thời gian trôi qua rất nhanh, nếu chúng ta không tu hành, sẽ càng ngày càng xấu xí đi.

Nếu bạn có tính cách như heo, kiếp sau sẽ đầu thai làm heo; nếu bạn có tính hay đấu đá, gặp ai cũng muốn chiếm lợi, muốn hại người, kiếp sau sẽ đầu thai làm rắn; nếu bạn quỷ quyệt xảo trá, kiếp sau sẽ làm cáo; nếu bạn có tâm lượng hẹp hòi và nhiều mưu mẹo, kiếp sau sẽ làm rết, vì có nhiều mưu mẹo nên biến thành nhiều tay nhiều chân, bản thân có nhiều kế sách nên trở thành con rết. Kiếp sau, khi bạn chết, nếu có người khiêng kiệu đến đón, phải cẩn thận, sẽ biến thành cua. Còn nữa! Nếu có xe buýt đến đón, phải cẩn thận, sẽ biến thành sâu bướm, nếu máy bay đến đón thì sẽ biến thành chuồn chuồn. Nếu bạn nghĩ mình đang đi qua đường hầm thời gian, sẽ biến thành rắn. Đây đều là những cảnh giới sinh ra vào lúc lâm chung, và dẫn dắt bạn đi con đường tương lai.

Trong cái nhìn của Phật, "bấy giờ" đại diện cho "quá khứ", "hiện tại" và "tương lai". Thực ra có rất nhiều vị Phật, Bồ Tát có thể hóa thân, có thể tái sinh, hiện đang ở trần gian độ chúng sinh. Các ngài cũng là Phật, Bồ Tát trong quá khứ, nay các ngài là người, đang thuyết pháp, đang độ chúng sinh. Nhưng bạn xem, các ngài vẫn phải ăn cơm, đi vệ sinh, vẫn phải ngủ, có thể không nhận ra quá khứ các ngài là Phật, là Bồ Tát. Giống như bây giờ bạn không thể nhận ra ai là gấu, ai là cá kiếm, ai là người bộ tộc ăn thịt người. Đừng hỏi tôi nhé, vì nếu nói ra chắc chắn sẽ có người kiện tôi phỉ báng.

Câu thứ hai là "Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất". Trước đây khi Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, thường là đệ tử hỏi trước rồi Phật mới trả lời. Nhưng lần này khác, Phật Thích Ca Mâu Ni chủ động thuyết giảng, trực tiếp giảng cho tất cả mọi người, giảng cho Xá Lợi Phất, tại sao lại chủ động giảng như vậy? Bởi vì nếu Ngài không giảng, thì các đệ tử bên dưới và tất cả chư thiên đều không biết A Di Đà Phật là gì.

Trước đây có rất nhiều đệ tử hỏi tôi: "Phật Thích Ca Mâu Ni có phải là Phật A Di Đà không?" Bởi vì nhiều người không hiểu rõ. Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà là Phật A Di Đà. Hiện nay đôi khi bạn hỏi một số cụ bà Phật tử, hỏi họ có bao nhiêu vị Phật? Họ sẽ nói một vị, vì họ chỉ biết Phật Thích Ca Mâu Ni, nên chỉ có một vị. Thực ra, có rất nhiều vị Phật. Hôm nay chúng ta đọc danh hiệu Phật A Di Đà, đọc đến ba mươi sáu vạn tỷ, chỉ một câu đã khiến chúng ta kinh ngạc. Mãi đến giờ cứ tưởng con người là vĩ đại nhất, không ngờ số lượng Phật còn nhiều hơn chúng ta, còn vĩ đại hơn. Thực ra, con người không nên thường nghĩ mình vĩ đại nhất, thực tế con người rất nhỏ bé.

Nói về trái đất, so với bất kì hành tinh nào khác, trái đất cũng chỉ là một chấm nhỏ mà thôi. Khi chúng ta lấy thái dương hệ của mình, lấy trái đất của mình để so sánh với tất cả các hành tinh, sẽ thấy được trái đất nơi loài người chúng ta đang sống nhỏ bé đến nhường nào. Nói về sự giàu có, dĩ nhiên hiện tại chúng ta đang sống trên trái đất, tự cho rằng nó rất lớn, có thể trái đất rất giàu có. Nhưng nào ngờ, những hành tinh kia như mặt trời, sao Thiên Vương, sao Diêm Vương, sao Hỏa, sao Thổ, rất nhiều hành tinh đều lớn hơn và giàu có hơn trái đất chúng ta. Hóa ra, trái đất chỉ là một giọt nước nhỏ sinh ra từ cái hắt hơi của mặt trời mà thôi. Vì vậy, về mặt giàu có, giống như chúng ta cứ nghĩ nhà mình to, chỗ ở rộng là giàu có, thực ra người trái đất mới là nghèo nhất.

Phật nói với trưởng lão Xá Lợi Phất: "Từ đây (nơi thuyết pháp này) đi về phương Tây, qua mười vạn ức cõi Phật." Mười vạn ức cõi Phật xa đến mức nào? Chưa đến được phương Tây đã có đến mười vạn ức cõi Phật. Có thể thấy Tây phương Cực Lạc thế giới xa biết nhường nào!

Trước đây, đại đệ tử thần thông đệ nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến một cõi Phật khác để nghe giảng kinh. Giống như ở đây, ví dụ Lôi Tạng Tự là một cõi Phật, có một vị Phật đang giảng kinh, Ngạn Đình đang ngồi nghe, bỗng có một con muỗi xám bé tí đang bay qua bay lại trước mặt Ngạn Đình. Ngạn Đình thấy con muỗi này sẽ đốt mình, định đuổi nó đi hoặc vỗ cho chết, vị Phật liền bảo Ngạn Đình rằng, đừng đập chết nó, vì con muỗi xám bé nhỏ này chính là Mục Kiền Liên - đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài đã dùng thần thông từ cõi Ta Bà hiện đến cõi Phật của chúng ta để nghe kinh.

Bạn xem, người ở cõi Ta Bà này xấu xí như muỗi vậy, lại còn bé nhỏ nữa, chỉ có cái miệng há ra là dọa được người ta thôi. Chúng ta thử nghĩ xem, người ở các cõi Phật khác to lớn biết bao, còn người cõi Ta Bà của chúng ta thì bé nhỏ biết bao. Vũ trụ này vĩ đại vô cùng, không hề nhỏ bé như trong trí óc con người chúng ta tưởng tượng.

Tôi xin kể một ví dụ đơn giản. Khi hai quốc gia đang giao tranh với nhau, khi hai cường quốc trên thế giới đang đánh nhau, trong con mắt của Phật, chỉ giống như hai con vi khuẩn đang đánh nhau trên một góc rất nhỏ như râu của con ốc sên vậy. Vì thế, việc hai con vi khuẩn đánh nhau trên râu ốc sên thì liên quan gì đến Phật Thích Ca Mâu Ni?

Trước đây có người đến nói với tôi rằng: "Lư Thắng Ngạn ơi, ông nói có Phật, vậy tại sao Phật không giúp tôi? Ông nói có Phật, sao Phật không giúp đất nước tự do của chúng ta? Tại sao Phật để cho nhiều người phải chịu sự đàn áp của chính quyền xấu xa, khiến nhiều người phải chết chóc thương vong?" Vậy bây giờ, tôi xin hỏi ngược lại mọi người: "Các vị có quan tâm đến cuộc chiến của vi khuẩn không? Các vị có quan tâm con vi khuẩn nào thắng con vi khuẩn nào không?" Phật nhìn chúng sinh cũng giống như nhìn vi khuẩn đánh nhau vậy. Đây là hiện tượng tự nhiên, nếu các vị không tu hành, không thành Phật, thì cũng giống như những con vi khuẩn đó thôi. Tôi đã nói với người đó rằng: "Con người chỉ có thể tự cứu mình, không thể dựa vào người khác để cứu, cũng không thể dựa vào Phật để cứu."

"Qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc." Riêng hai chữ "Cực Lạc" này cũng cần phải giải thích rất lâu. Cõi Cực Lạc, nói chung, là một thế giới không có khổ đau và phiền não, nên gọi là Cực Lạc, là hương vị an lạc tối thượng. Không có niềm vui nào vui hơn niềm vui này nên gọi là Cực Lạc. Niềm vui của con người chúng ta thường phải trải qua đau khổ mới có được niềm vui. Người Trung Quốc có câu nói rất hay, niềm vui tột độ gọi là "thống khoái" [khoái lạc thống khổ]. "Thống khoái quá!" Các triết gia nói rằng, niềm vui lớn nhất, đau khổ nhất chính là "lạc cực sinh bi", vui đến cực điểm thì sinh ra bi thương. Khổ đau chính là niềm vui, niềm vui cũng là khổ đau, nhưng ở thế giới Cực Lạc này không có khổ đau. Trong cõi tịnh thổ này, trong thế giới Cực Lạc như vậy có một vị Phật, danh hiệu của Ngài là A Di Đà. Danh hiệu A Di Đà này có nhiều tên gọi khác, còn được gọi là Vô Lượng Quang (vô lượng ánh sáng), Vô Lượng Thọ (vô lượng thọ mạng).

"Nay" có nghĩa là hiện tại, "đang thuyết pháp". Vào thời đó, cách đây hơn hai nghìn năm đang thuyết pháp, nhưng bây giờ, có đang thuyết pháp không? "Hiện tại vẫn đang thuyết pháp", tuy nhiên thuyết pháp cũng có lúc tạm dừng để uống trà; còn hiện tại đang uống trà hay đang thuyết pháp? Tôi không biết. Tôi nghĩ, khi Phật nói A Di Đà Phật hiện đang thuyết pháp là nói về thời điểm đó đang thuyết pháp. Tuy nhiên, nếu suy rộng ra, vì dù Phật đang ăn cơm, đang ngủ, đang đi lại, hay đang uống trà, tất cả đều là đang thuyết pháp.

Bây giờ thuyết pháp đã kết thúc! Vừa rồi Phật đang thuyết pháp, bây giờ nghỉ ngơi.

Om mani padme hum.

37. Xá Lợi Phất! Vì sao cõi ấy gọi là Cực Lạc… chỉ hưởng các điều vui, nên gọi là Cực Lạc.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Vì sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Vì chúng sinh trong cõi nước đó không có các nỗi khổ, chỉ hưởng các điều vui, nên gọi là Cực Lạc."

Ý nghĩa của câu này là: Tại sao cõi này gọi là thế giới Cực Lạc? Vì chúng sinh ở cõi nước này không có các nỗi khổ, chỉ hưởng thụ tất cả niềm vui, nên gọi là Cực Lạc. Hai chữ Cực Lạc cần được giải thích, nghĩa là trong cõi này không có khổ, chỉ có vui.

Trong đây có giải thích về chữ "Lạc", lạc là gì? Trong này có nói đến "sinh chốn vui", giống như sự ra đời của chúng ta, niềm vui khi sinh ra ở đó, nhưng ở cõi người chúng ta thì sinh là khổ, không phải sinh là vui. Thế nào gọi là sinh khổ? Khi người mẹ sinh con, nhất định phải chịu đau đớn như xé xương, đó là cơn đau khi sinh nở, đó chính là khổ, có người nói nếu dưới đất có lỗ thì cũng chui xuống, khổ đến vậy đó! Nam giới không phải chịu đựng điều này, nữ giới rất khổ. Cho nên nam nữ vốn dĩ không bình đẳng, phụ nữ phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn nam giới, nên dù có đề xướng nam nữ bình đẳng, thực tế vẫn là không bình đẳng.

Ở đây nói rằng, khi sinh ra lúc nhỏ, dĩ nhiên bạn đã quên đi những nỗi khổ đó, khi còn trong bụng mẹ, bạn đang trải nghiệm sự khổ nhưng đã quên mất rồi. Bạn có biết xung quanh toàn là những dòng máu hôi tanh bao quanh bạn, khi mẹ không ăn cơm, bạn cũng bị đói trong đó. Tôi nói cho bạn biết, bạn hít thở được rất ít, hai mắt nhắm nghiền chỉ thấy tối tăm mờ mịt, nằm trong đó mười tháng khó thở vô cùng. Bạn nghĩ khi da ngứa có thể gãi được không? Tôi nói cho bạn biết, khi nằm trong bụng mẹ, da có ngứa đến mấy cũng không thể gãi được, nỗi khổ lúc đó còn hơn bất kì nỗi khổ nào. Khi bạn có thể cử động, duỗi tay duỗi chân cũng không thể phá vỡ được thành bụng. Hãy nghĩ xem, bị giam mười tháng, giam trong bóng tối không thấy ánh sáng, giống như ở trong tù vậy, đó gọi là nỗi khổ khi sinh ra.

Vậy thì nói về sự sinh ra ở Tây phương Cực Lạc thế giới, được gọi là niềm vui khi sinh, đó là một mùi hương thơm ngát, rất vi diệu, như hương thơm của hoa vậy, hoa vừa nở là người đã sinh ra. Khi con người sinh ra ở cõi này, toàn thân đều dơ bẩn; nhưng sinh ra ở cõi Phật thì khác hẳn, giống như hương thơm của hoa vậy, toàn thân đều thanh tịnh, vi diệu, đó chính là sinh ra ở chốn vui.

Tiếp theo nói về "sống ở chốn vui". Hiện nay chúng ta đang sống trên trái đất, tất nhiên nước Mỹ có môi trường sống tốt hơn so với các nước khác. Lấy ví dụ như Nepal - nơi Mật tông đang hưng thịnh nhất hiện nay, môi trường vệ sinh ở đó rất kém, trên đường đầy phân, trẻ em có thể đi tiểu ngay trên phố, trâu bò, dê, heo đi lại trên đường, đi bộ phải hết sức cẩn thận! Nói về môi trường, chúng ta sống ở Seattle, Mỹ, mùa đông rất lạnh, có tuyết rơi, có lúc lạnh đến nỗi phải mặc nhiều quần áo, đến mùa hè lại nóng bức, toát mồ hôi.

Thế giới Cực Lạc cũng có vàng, tuy nhiên, vàng ở thế giới Cực Lạc được dùng làm đường đi, lát đất bằng vàng thật, không giống như Nepal lát đường bằng phân. Dĩ nhiên rồi, thử nghĩ xem, nếu chúng ta thấy đường phố toàn vàng, toàn những khối vàng, làm sao không nhặt ngay? Ở đó, thời tiết thế giới Cực Lạc vừa phải, giống như khách sạn sang trọng hiện nay có điều hòa không khí, có điều chỉnh nhiệt độ, nhiệt độ và không khí vô cùng dễ chịu. Vào mùa hè không đổ mồ hôi, mùa đông không bị lạnh cóng tay chân. Nơi chúng ta ở đó là những ngôi nhà thủy tinh tuyệt đẹp, nhà vàng, nhà kim cương, nhà mã não, tất cả đều đẹp như vậy. Tất nhiên, không có chuyện động đất San Francisco hay động đất Los Angeles, đó chính là sống ở chốn vui, nơi ở vô cùng an lạc.

Tiếp theo nói về "niềm vui khi nhìn thấy sắc tướng" ở thế giới Cực Lạc. Niềm vui khi nhìn thấy sắc tướng này không phải là kêu bạn về phố Hoa Tây ở Đài Loan! Niềm vui khi nhìn thấy sắc tướng này cũng không phải là đi xem các show diễn giải trí, hay những màn biểu diễn hở hang, không phải vậy. Vậy niềm vui khi nhìn thấy sắc tướng là gì? Đó là khi bạn nhìn thấy những cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ, tất cả những gì mắt thấy đều khiến tâm hồn vui thích. Ví như nhìn thấy mặt đất bằng vàng, vô cùng rực rỡ và đẹp đẽ; nhìn thấy cung điện, nhà cửa bằng pha lê vô cùng tráng lệ; nhìn thấy cây cối mọc rất kỳ diệu; nhìn thấy dòng nước chảy rất đẹp; nhìn thấy những con chim đầy màu sắc rực rỡ, và rất hiền hòa, đều biết chào hỏi bạn.

Tiếp đến là "niềm vui khi nghe âm thanh", đó là niềm vui khi được nghe các loại âm thanh. Niềm vui khi nghe âm thanh là gì? Ở thế giới Cực Lạc có một loại âm nhạc, giống như tiếng tụng kinh Phạn âm, luôn vang vọng trong không trung, rất vi diệu, cứ thế từ từ trôi đi, trôi đi, đi vào tai này rồi lại trôi ra tai kia của bạn, lúc đó, vì được nghe loại âm nhạc ấy, thân thể cảm thấy vô cùng thanh tịnh.

Hiện tại nơi ở của chúng ta ở Seattle này cũng khá tốt, không có những tiếng ồn đặc biệt nào, chỉ có buổi sáng có tiếng quạ kêu mà thôi. Tuy nhiên, tiếng quạ kêu cũng là đang tụng chú đấy! Nó đang tụng âm "Ah" trong thần chú "Om Ah Hum". Khi chúng ta nghe thấy quạ biết tụng chú, thật là kỳ diệu, tôi nghĩ con quạ này trong tương lai đều có thể thành Phật, bởi vì chữ "Ah" này rất quan trọng. Khi chúng sinh bị tổn thương, âm thanh đầu tiên phát ra chính là "Ah". Niệm chữ "Ah" này đều có thể thành Phật.

Ở thế giới Cực Lạc có một loại âm nhạc rất vi diệu, khi nó chảy qua tâm bạn, chảy qua thân thể bạn, khiến cho thân tâm bạn đều được thanh tịnh, khi nghe được âm nhạc như vậy, bạn sẽ muốn cùng ca hát, cùng niệm Phật với nó, trong lòng sẽ sinh ra niềm vui. Dòng chảy pháp âm này không bao giờ ngừng nghỉ, vì vậy mới gọi là thế giới Cực Lạc.

Bởi vì những người sinh ra ở đó đều do hoa sen hóa sinh, mồ hôi chảy ra đều là mồ hôi thơm, hơi thở tỏa ra đều là hơi thở thơm, quần áo không có bụi bẩn, nên tất nhiên không cần phải tắm rửa, cũng không có mùi hôi miệng. Bạn biết đấy, ở cõi người rất dơ bẩn, cơ thể tiết ra mồ hôi hôi, trong tai rất bẩn, mắt có ghèn, mũi có gỉ mũi, mỗi ngày phải ngoáy cho sạch, không ngoáy thì không sạch được. Bạn nghĩ hôn nhau là sạch sẽ sao? Đó là truyền vi khuẩn đấy, trong lỗ chân lông toàn là vi khuẩn! Tất nhiên, chưa kể đến chất thải nữa. Tất cả những thứ này ở thế giới Cực Lạc đều không có! Bởi vì đó là do hoa sen hóa sinh, không phải do tinh huyết hóa sinh, mà là do hoa sen hóa sinh, điều này hoàn toàn khác biệt. Vì vậy những niềm vui này đều không thể nghĩ bàn, là những điều chúng ta ở cõi người không thể tưởng tượng được, niềm vui như vậy mới gọi là Cực Lạc.

Nhiều người nói rằng: "Chỉ có ở cõi người mới có niềm vui." Họ không hiểu rằng, niềm vui chốc lát chính là nỗi buồn vĩnh hằng! Thực tế, các triết gia đã từng nói một câu: "Niềm vui chốc lát chính là nỗi buồn vĩnh hằng." Chính vì cái niềm vui chốc lát đó mà phải nuôi dưỡng cả một đời, cho đến khi học xong đại học. Tôi nói cho bạn biết, khi nó cười bạn phải cười theo, khi nó bệnh bạn phải bệnh theo, khi nó khóc bạn phải ở bên cạnh khóc cùng. Nói chung, niềm vui ở cõi người đều rất ngắn ngủi, tạm bợ.

Niềm vui ở cõi Phật là niềm vui không thể nghĩ bàn, còn niềm vui chân chính chính là "sự tịch tĩnh chân chính", chính là "Niết bàn chân chính hoàn toàn", chỉ có trong tịch tĩnh mới có niềm vui chân chính. Nhiều người hỏi tôi: "Thế giới Cực Lạc rốt cuộc vui sướng như thế nào? Nếu giống như cõi người thì chúng ta cần gì phải về đó?" Tuy nhiên, niềm vui ở Tây phương Cực Lạc là niềm vui vĩnh hằng hơn, tịch tĩnh hơn, và bền vững hơn; trong khi niềm vui ở cõi người thì dơ bẩn hơn, ngắn ngủi hơn, như hoa quỳnh sớm nở tối tàn vậy.

"Tại sao cõi này được gọi là Cực Lạc?" Bởi vì tất cả những gì được thọ dụng ở cõi này đều chỉ có niềm vui mà không có khổ. Đâu như ở cõi người có một nỗi khổ gọi là sinh ly tử biệt, tin rằng nỗi khổ sinh ly tử biệt này rất nhiều người đã trải qua. Ngoài ra còn có một nỗi khổ gọi là ghét mà phải gặp, ghét mà phải gặp có nghĩa là, người mà bạn rất ghét, lại cứ suốt ngày bám theo bạn; còn người mà bạn rất thích, lại ở cách xa nghìn trùng núi, vạn dặm sông. Giống như trong văn phòng luôn có một người mà bạn rất ghét, và người đó đi đến đâu cũng như một gián điệp theo dõi bạn đến đó, điều này trong cách nói của người Trung Quốc gọi là "gặp tiểu nhân", đây chính là ghét mà phải gặp.

Điều này thường xảy ra ở cõi người, không chỉ giữa cha mẹ và con cái có ghét mà phải gặp, mà giữa anh chị em cũng có ghét mà phải gặp, bạn bè cũng có ghét mà phải gặp, vợ chồng cũng có ghét mà phải gặp, nếu không phải là ghét mà phải gặp thì đã chẳng kết hôn. Tuy nhiên, người Trung Quốc thì có khả năng chịu đựng hơn, dù có ghét mà phải gặp nhưng vẫn không ly hôn; còn người phương Tây thì thực tế hơn, sáng còn gọi nhau là "cục cưng ơi", "honey", đến tối không thoải mái là đã ly hôn rồi.

Ở thế giới Tây phương Cực Lạc không có chuyện ghét mà phải gặp đâu, không có! Giả sử bạn ở thế giới Cực Lạc bỗng nhiên gặp lại kẻ thù ở cõi người cũng được sinh về đó, bạn có thể nổi giận. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra! Tại sao không? Bởi vì những người được sinh về thế giới Cực Lạc đều là những người có tu dưỡng, có tâm vô lượng, và kẻ thù ở cõi người kia, có thể được sinh về thế giới Cực Lạc chính là vì họ đã được bạn cảm hóa, biến oán thù thành thiện hữu, vì vậy các bạn đã cùng nhau sinh về thế giới Cực Lạc, đây không còn là kẻ thù nữa, mà là người bạn tốt, người bạn thân thiện, là đạo hữu tu hành tốt.

Vì vậy khi bạn ở thế giới Tây phương Cực Lạc, gặp kẻ thù từ cõi người, đừng nghĩ rằng: "Ôi không! Hỏng rồi! Tiểu nhân lại đến nữa." Cứ yên tâm! Chỉ những người có lòng độ lượng, tâm vô lượng mới được sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Những người còn tâm đấu tranh sẽ sinh vào cõi người, đường súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ, atula. Chỉ khi từ bỏ được tâm đấu tranh mới có thể sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Nếu bạn vẫn còn tâm đấu tranh mà được sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, thì tất cả chư Phật Bồ Tát sẽ nói: "Ôi không! Hỏng rồi, tiểu nhân đến kìa." Người đó sẽ đi mách lẻo với tất cả chư Phật Bồ Tát, lại đến thế giới Tây phương Cực Lạc để gây rối, ly gián mọi người.

Chúng ta nói rằng thế giới Tây phương Cực Lạc là thế giới Cực Lạc chính là vì không có những điều này, không có đấu tranh, không có mách lẻo, không có ly gián, cho nên mới gọi là thế giới Cực Lạc! Muốn về thế giới Tây phương Cực Lạc, nhất định phải: Phải có lòng tin. Phải niệm Phật. Phải nương vào sự tu hành của chính mình. Và phối hợp với lực nhiếp thọ của chư Phật Bồ Tát mới có thể về được.

Bất kể là tôn giáo nào, nhất định phải tu tâm cho thật thiện lành, hành vi cho thật đoan chính. Nếu chỉ muốn nương vào lực của Phật mà nói rằng: "Tâm con không thiện lành, hành vi cũng không đoan chính, xin Phật cứu con là được." Không được đâu! Bởi vì bạn vẫn còn là tiểu nhân, "small person"! Mong rằng mỗi người chúng ta, hãy học tập tâm lượng rộng lớn, hành vi đoan chính, đây là điều kiện đầu tiên để về Tây phương. Om mani padme hum.

38. Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc… vì thế nên cõi ấy gọi là Cực Lạc

Kinh văn:

"Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được bao quanh bởi bốn loại báu, vì thế nên cõi ấy gọi là Cực Lạc."

Nói đến "bảy lớp lan can" nghĩa là gì? Đó chính là có bảy lớp lan can bao quanh và giới định phạm vi của cõi Cực Lạc. Mọi người chắc sẽ thấy rất lạ, tại sao cõi Cực Lạc lại cần đặt lan can? Nghe như để ngăn không cho tội nhân trốn ra, hay để ngăn người khác vào vậy? Tuy nhiên những lan can này rất trang nghiêm và đẹp đẽ, như một ranh giới. Phạm vi của Phật quốc Cực Lạc này được tạo nên rất đẹp. Theo cá nhân tôi, nếu không có những lan can này cũng sẽ có vấn đề; bởi vì theo như tôi biết, bên cạnh Phật quốc Cực Lạc có một cung điện gọi là Nghi Thành Thai Cung.

Những người sống trong Nghi Thành Thai Cung này chính là "những người niệm Phật với tâm nghi ngờ", họ sống trong thành nghi hoặc.

Thế nào gọi là Thai Cung? Thai Cung là nơi của những người sinh ra từ thai, giống như chúng ta hiện nay là thai sinh; nhưng ở Phật quốc Cực Lạc là hóa sinh từ hoa sen, có hương thơm khác biệt, có mùi hương đặc biệt, còn chúng ta thai sinh này có khí trọc đặc biệt, khác nhau, không khí hít thở cũng khác. Dù sao thì những người thai sinh đều ở trong Thai Cung này. Những người có tâm nghi ngờ và thai sinh họ cũng niệm Phật, nhưng không còn cách nào khác, vì họ là người thai sinh và có tâm nghi ngờ, nên chỉ có thể ở trong Nghi Thành Thai Cung này. Điều này trong kinh Phật rất ít đề cập đến, đây là điều tôi biết được. Những lan can này bao quanh, những người đó không thể vào được, người bên trong không phải là không thể ra ngoài, mà là người bên ngoài không thể vào được, không để khí trọc này quấy nhiễu Phật quốc Cực Lạc. Vì vậy những lan can này được thiết lập để trang nghiêm Phật quốc Cực Lạc, tổng cộng có bảy lớp.

Ngoài ra, "bảy lớp lưới giăng" nghĩa là gì? Tôi biết rằng trên vũ trụ của chúng ta có Ngọc Hoàng Đại Đế, nơi đó có một tấm lưới gọi là "Đế võng", trong mỗi điểm giao nhau của lưới đều có một viên minh châu; tấm lưới đó được giăng trên không trung, bao quanh toàn bộ Phật quốc của Đế Thích, tại mỗi điểm giao nhau của sợi tơ đều có một viên minh châu, cho nên gọi là Đế võng minh châu.

Ở thế giới Cực Lạc, Đế võng minh châu này có tất cả bảy lớp, bảy tầng Đế võng minh châu trải khắp hư không. Những ánh sáng đó trang nghiêm cho ánh sáng của Phật quốc Cực Lạc. Như hôm nay chúng ta bước ra ngoài, nhìn bầu trời Seattle không thấy một ngôi sao nào vì trời mưa; nhưng khi nhìn bầu trời thế giới Cực Lạc, có bảy lớp minh châu treo lơ lửng giữa hư không, vô cùng đẹp đẽ, như thể chúng ta đang xem pháo hoa mỗi đêm vậy, đó là sự trang nghiêm của hàng nghìn viên ngọc tỏa sáng. Hàng nghìn, hàng vạn viên minh châu trong không trung, tỏa ánh sáng chiếu rọi Phật quốc Cực Lạc, khiến quốc độ này vô cùng trang nghiêm.

Lần trước tôi giảng: Tại sao ở Phật quốc Cực Lạc, tâm trạng của mọi người đều vô cùng hoan hỷ? Bởi vì Phật quốc Cực Lạc tạo ra một loại âm nhạc vô cùng tuyệt diệu, thường xuyên lan tỏa khắp nơi, khiến trong tâm mỗi người đều cảm nhận được âm nhạc hoan hỷ đó, ai ai cũng vui vẻ, vì vậy mới gọi là Cực Lạc.

Ở cõi Phật Cực Lạc còn có "bảy lớp hàng cây", tức là có bảy tầng cây, khi cây lay động sẽ tạo ra một loại âm nhạc vô cùng tuyệt diệu, hoan hỷ, lan tỏa vào tâm của mỗi người trong Phật quốc, khiến ai ai cũng cực kì hạnh phúc, đó chính là Cực Lạc. Dù muốn hay không bạn cũng phải hạnh phúc thôi! Âm nhạc hoan hỷ đó đi vào tai, không cho phép một chút phiền não nào sinh khởi, hai chân sẽ nhảy múa vì hạnh phúc. Bất kì ai vừa có ý nghĩ phiền não, khi âm điệu hoan hỷ vang lên đều không thể cưỡng lại được, chỉ có thể hạnh phúc mà thôi. Âm thanh hoan hỷ này cũng chính là để trang nghiêm toàn bộ cõi nước Cực Lạc.

Thậm chí những lan can này, cùng với lưới giăng trên không trung, và tất cả hàng cây đều được làm bằng bốn loại báu vật vô cùng quý giá. Tại sao Phật quốc Cực Lạc lại hoan hỷ đến vậy? Nguyên nhân chính là vì có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng trên không, và bảy lớp hàng cây này, mới tạo thành một Phật quốc Cực Lạc.

Tuy nhiên không khí ở Seattle thực sự tốt hơn Tokyo và Hong Kong rất nhiều. Ở Tokyo và Hong Kong, chỉ cần ở một ngày là lỗ mũi đã đen rồi. Không khí ở Seattle tốt hơn một chút, có lẽ phải mất vài ngày lỗ mũi mới đen. Ở thế giới Cực Lạc thì hoàn toàn khác, quần áo không cần giặt, không đổ mồ hôi, cơ thể tự tỏa hương thơm, là một mùi hương kết hợp giữa hoa và một loại khí đặc biệt, khó có thể diễn tả được. Và nó luôn giữ nguyên như vậy, không bị biến chất, không bị hư hỏng. Ở Seattle chúng ta có thể nhìn thấy rất xa, các ngọn núi phía xa đều nhìn thấy rõ ràng, còn núi ở Tokyo và Hong Kong do không khí ô nhiễm nên trông có vẻ mờ ảo.

Ở thế giới Tây phương Cực Lạc, tất cả đều như đang trôi bồng bềnh. Không khí hoàn toàn như đang lơ lửng, mùi hương cũng như đang phiêu đãng, âm thanh cũng vậy, thậm chí ngay cả thân thể cũng như đang trôi nổi, tạo cảm giác vô cùng sảng khoái. Khi tôi ở nơi đó, có lúc nhìn các vị Phật Bồ Tát mà không thể mở mắt ra được, các ngài còn rực rỡ hơn cả kim cương VVS thượng hạng, tỏa ra ánh sáng vô cùng chói lọi, lấp lánh trước mặt. Vì vậy, các vị Phật Bồ Tát ở đó đều vô cùng thanh khiết, tinh khiết, và tỏa ra mùi hương vi diệu khó tả.

Thực ra, có rất nhiều thứ trên trái đất mà chúng ta không thể nhìn thấy được. Chỉ cần rời khỏi trái đất và lên không gian, ở đó có nhiều điều vượt xa trí tưởng tượng của con người. Ví dụ như vành đai của sao Thổ, nếu không có kiến thức khoa học và hiểu biết về vũ trụ, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được sao Thổ lại có vành đai đẹp đến vậy? Chúng ta cũng khó mà hình dung được trên sao Diêm Vương có rất nhiều khoáng thạch quý hiếm, còn lấp lánh hơn cả kim cương. Vũ trụ có vô vàn điều kỳ diệu mà kiến thức hiện tại của loài người không thể nào tưởng tượng được. Vì vậy, Phật quốc Tây phương Cực Lạc không phải là không có thật! Đây là điều mà chính Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giảng.

Tôi cũng đã từng đến nơi đó và tôi nghĩ tương lai mình cũng sẽ đến đó. Tuy nhiên, sau khi đến đó rồi, tôi vẫn phải quay về, bởi vì cõi người có hơi ấm! Ở thế giới Tây phương Cực Lạc lâu ngày, có lẽ sẽ cảm thấy cô đơn. Ở thế giới Tây phương Cực Lạc, mỗi ngày đều hạnh phúc, không có việc gì để làm, cũng rất cô đơn! Không trách được các vị Phật Bồ Tát phải đến cõi người để độ chúng sinh! Bởi vì cõi người vẫn có chút hơi ấm.

Om mani padme hum.

39. Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có… thành tựu công đức trang nghiêm như thế

Kinh văn:

"Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó, đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn bên thềm bậc được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng được trang hoàng bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, hồng ngọc, mã não. Trong ao có hoa sen to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, hương thơm tinh khiết vi diệu. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế."

Chúng ta hãy tiếp tục giảng Kinh A Di Đà, tôi xin đọc lại đoạn kinh văn hôm nay: "Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó, đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn bên thềm bậc được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng được trang hoàng bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, hồng ngọc, mã não. Trong ao có hoa sen to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, hương thơm tinh khiết vi diệu. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế."

Điều này có nghĩa là, tại cõi Cực Lạc, nơi ở rất tốt đẹp, mọi thứ được sinh ra cũng rất tốt đẹp, sinh ra ở đó rất hạnh phúc, sống ở đó cũng rất hạnh phúc.

"Ao bảy báu" là ao được trang hoàng bằng bảy loại báu vật vô cùng đẹp đẽ.

Có "nước tám công đức tràn đầy trong đó", vậy nước tám công đức là gì? Thứ nhất, nước này vô cùng thanh tịnh, không có chút ô nhiễm nào. Ví dụ nước hồ Washington của chúng ta là hồ ở cõi người nên bị ô nhiễm; bản chất của nước tám công đức rất trong, rất sạch, nó rất mát mẻ, chúng ta biết rằng nước này uống vào rất ngọt, có vị ngọt, uống vào đều ngọt; mọi người hãy đến thế giới Tây phương Cực Lạc, rất tuyệt! Vì Thượng sư thích nhất món tráng miệng là nước đường cho nên răng mới bị hỏng, có lẽ là vì vậy; tôi tin rằng nước đường ở thế giới Tây phương Cực Lạc uống vào không làm hỏng răng. Nước này nhẹ nhàng và mềm mại, nước trơn láng và tươi mát, khiến thân tâm đều rất an hòa, nghe tiếng nước còn có thể tạo ra tâm trạng hoan hỷ và khinh an, còn có thể khiến tất cả mọi người đều cảm thấy được tăng thêm lợi ích vô cùng, có thể khiến pháp thân của chính mình đều được tăng ích.

Đạo tổ của Đạo giáo Trung Quốc ngày xưa - Lão Tử, ngài là tổ sư của Đạo gia, cũng rất sùng bái nước. Bản thân tôi cũng rất thích nước, tôi nhìn thấy nước là vui vẻ, còn Sư Mẫu nhìn thấy nước là chóng mặt. Vì tôi thích nước, và từ nhỏ tôi đã biết bơi, còn Sư Mẫu mỗi khi bơi là chìm xuống luôn! Có lẽ là vì trong 12 cung hoàng đạo phương Tây, tôi thuộc cung Cự Giải (Con Cua). Tại sao tôi lại thích nước? Bởi vì nước mạnh mẽ nhất, khi nước lớn đến, không có gì có thể cản được. Điều này cho thấy khi chúng ta hoằng pháp, giống như sóng thần vậy, sẽ cuốn sạch tất cả mọi thứ.

Nước cũng là thứ yếu ớt nhất, vì nước luôn chảy xuống chỗ thấp, bản tính của nước có thể rửa sạch mọi ô uế trên thân người, kể cả tất cả những ô uế trong vũ trụ, tất cả đều có thể rửa sạch.

Tính chịu đựng của nước cũng là tốt nhất, bạn phải biết rằng, dùng vật tròn để đựng nước, nước sẽ trở thành tròn, dùng vật vuông để đựng nước, nước lại trở thành vuông.

Nước lại là thứ biến hóa muôn hình vạn trạng, bạn bảo nước rất nông ư? Khi nông thì rất nông, nhưng khi sâu thì còn cao hơn cả dãy Himalaya.

Sức mạnh của nước rất nhỏ sao? Nước có thể xuyên qua đá, cũng có thể xuyên qua vàng. Sức mạnh của nước khiến bạn không thể chặt đứt, chỉ cần có một lỗ nhỏ, nó liền chui vào. Khi nước lũ thực sự đến, không thứ gì có thể cản được.

Nước là thứ thuận theo tự nhiên nhất, khi thế đất thấp, nó sẽ chảy xuống; khi thế đất cao, nó sẽ dâng lên; vì vậy công đức của nước là vô tận, không thể nói hết được. Nếu con người có thể học được công đức của nước, tức là đã đạt được trí tuệ, vì nước là thứ có trí tuệ nhất. Tôi rất thích nước nên mới nói về những điều tốt đẹp của nó. Bởi vì ở thế giới Tây phương Cực Lạc cũng có rất nhiều ao nước, nếu đạt được nước, sẽ hiểu được cách nhập định vào tam muội của nước, sẽ đạt được biện tài, khéo ăn nói, khi thì nói về hình tròn, khi thì nói về hình vuông, khi thì nói về hình tam giác, khi thì nói về hình thoi.

Tuyệt vời nhất chính là nước ở thế giới Tây phương Cực Lạc! Đáy ao được lát bằng cát vàng. Bản thân tôi không thích vàng lắm, vàng vật chất ấy, tôi không thích. Nhưng tôi thích màu sắc của nó. Cho nên lần sau đến thế giới Tây phương Cực Lạc, có thể nhảy từ hoa sen xuống nước, xuống tận đáy ao nhìn cát vàng, lén vốc một nắm cát vàng, mang về cõi người là thành đại gia. Ở đây viết rằng "đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất", không có bụi bẩn, cũng không có ô nhiễm, "bốn bên thềm bậc, đều dùng bốn báu vật bao quanh". Chúng ta chỉ cần nhìn thấy ao như vậy, nói thật, đôi mắt đều vô cùng hoan hỷ; đôi mắt vô cùng hoan hỷ, chính là "thấy sắc vui", thấy sắc vui thay! Sắc này chẳng phải sắc kia. Cảnh giới vi diệu như vậy, chính là niềm vui của Phật quốc Cực Lạc.

Ngoài ra, tôi muốn nói về hoa sen! Lần trước tôi đã từng nói về thế giới Tây phương Cực Lạc, khi nhìn thấy những đóa hoa sen từng đóa một, những đóa hoa sen mà tôi nhìn thấy, đều "lớn như bánh xe", to bằng bánh xe vậy, có rất nhiều màu sắc khác nhau. Ở đây nói rằng: "Màu xanh tỏa ánh xanh, màu vàng tỏa ánh vàng, màu đỏ tỏa ánh đỏ, màu trắng tỏa ánh trắng, tất cả đều vô cùng vi diệu và rất thơm ngát." Có người hỏi: "Thưa Thượng sư, Ma Ha Song Liên Trì này rốt cuộc ở đâu trong thế giới Tây phương Cực Lạc?" Tôi sẽ nói cho mọi người một bí mật, không biết trước đây đã từng nói chưa? Ma Ha Song Liên Trì chính là đôi mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu. Mọi người sẽ nghĩ: "Hai mắt của Phật nhỏ như vậy, làm sao chứa được nhiều hoa sen đến thế?" Mọi người đừng nói rằng hai mắt của Phật nhỏ! Trong kinh điển viết rằng, đôi mắt của Phật vô cùng thanh tịnh, vô cùng sáng ngời, như ánh sáng của nước ở phương Tây vừa nói đến; hơn nữa, trong kinh Phật nói rằng, một mắt của Phật to bằng bốn đại dương. Một mắt đã to bằng các đại dương của chúng ta, vậy hai mắt còn lớn hơn cả trái đất. Vậy đầu của Phật to đến mức nào? Chúng ta không dám tưởng tượng! Cho nên trong mắt Phật, chúng ta thực sự còn chưa đáng là một hạt cát. Vì vậy đừng nghĩ rằng Ma Ha Song Liên Trì nhỏ bé, chỉ đi vài người là đã đầy. Tất cả chúng ta cùng đi, cũng chỉ như "lấp góc tường" (tiếng Đài) mà thôi! Nghĩa là tất cả chúng ta cùng đi, cũng chỉ chiếm một góc tường mà thôi.

Phật A Di Đà dạy rằng, chỉ cần chúng ta niệm Phật, một người niệm Phật, một người sẽ về Tây phương, mười người niệm Phật, mười người sẽ về Tây phương. Khi niệm Phật, thế giới Tây phương Cực Lạc sẽ nở ra một đóa hoa sen, niệm một thời gian, nhưng sau đó không niệm nữa, đóa hoa sen đó sẽ khép lại và biến mất. Vì vậy chúng ta phải niệm cho đến khi về được nơi đó. Khi chúng ta niệm đến cuối cùng, người ở đây không còn nữa, thì sẽ sinh ra ở bên đó; đây là điều Phật đã dạy, phải có lòng kiên trì, bạn mới có thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc; không có lòng kiên trì, đóa hoa đó cũng sẽ héo tàn, điều này là hoàn toàn chân thật.

Bản thân tôi cũng đã từng đến đó, vô cùng chân thật! Bởi vì từ khoảng 9 giờ tối tôi đã nhìn thấy liên tục cho đến 7 giờ sáng, suốt một đêm chỉ để ngắm nhìn cảnh sắc của thế giới Tây phương Cực Lạc. Như tôi đã nói tối nay, tôi đã từng đến thế giới Tây phương Cực Lạc, có lẽ mọi người sẽ nghĩ rằng tôi đang nói mơ, nhưng tôi muốn nói với mọi người một câu: "Vô cùng chân thật!" Nếu như trước đây 99% là lời nói dối, thì câu này hoàn toàn là sự thật, tôi chỉ mong mọi người tin vào câu nói này của tôi, đây thực sự là lời đã được rèn giũa nghìn lần, tinh khiết như vàng ròng!

Hôm nay tôi lập nên tông phái này là vì tôi thực sự đã đến đó rồi mới trở về, nên tôi mới dám lập nên tông phái này. Nếu câu nói hôm nay của tôi là giả, thì tất cả đều là rỗng không, đều là giả dối. Bởi vì câu này là thật, nên tất cả đều là thật. Hôm nay tôi đưa ra chứng minh như vậy, nói lên sự chứng minh này, đều là lời chân thật, là lời thực tế; Phật A Di Đà đang ở đây, Ngài tràn đầy trong hư không, Ngài biết rằng câu nói này của tôi là thật. Giả sử có người cầm hàng trăm triệu đô la Mỹ, bảo tôi nói câu này, họ nói: "Câu mà ông vừa nói đó, chỉ cần ông nói là giả, tôi sẽ cho ông hàng trăm triệu đô la." Tôi cũng không chấp nhận. Nói đi nói lại cả buổi, cuối cùng vẫn là thật, ông không cần đưa tiền cho tôi, tôi vẫn nói: "Thật!"

Om mani padme hum.

40. Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy… đến giờ ăn liền trở về cõi nước của mình, thọ trai, kinh hành.

Kinh văn:

"Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thường nổi thiên nhạc, mặt đất bằng vàng ròng. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mandala từ trên trời rơi xuống. Chúng sinh cõi ấy, thường vào mỗi sáng sớm, đều dùng y phục đựng các hoa đẹp vi diệu, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về cõi nước của mình, thọ trai, kinh hành."

Đây chính là nói về âm nhạc cõi trời ở thế giới Tây phương Cực Lạc. Lần trước tôi đã nói về âm nhạc cõi trời này, khi nghe sẽ khiến người ta cảm thấy vô cùng hoan hỷ, vô cùng vi diệu, vô cùng nhẹ nhàng. Ngay cả kẻ trộm khi nghe được loại âm nhạc này cũng quên mất việc đi trộm cắp; còn những tên cướp, khi nghe được âm nhạc này, tâm hung ác và lửa sân hận của chúng cũng bị dập tắt như nước dội vào. Vì vậy, những kẻ sát nhân, những người phạm tội này đều nên được đưa đến thế giới Tây phương Cực Lạc để nghe loại âm nhạc này, bởi vì sau khi được âm nhạc này tẩy rửa, những người xấu đều sẽ trở thành người tốt. Lần sau khi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, tôi đề nghị trước tiên hãy mang âm nhạc này ra cho mọi người nghe thử, đem phát trong tất cả các nhà tù, tâm mọi người đều sẽ trở nên tốt đẹp.

Ở cõi nước này "mặt đất bằng vàng ròng", mặt đất được làm bằng vàng. Tôi vẫn thường nghĩ, tại sao ở cõi này mọi người không tranh giành lợi ích để kiếm tiền, không điên cuồng tìm kiếm tiền bạc, vàng bạc, kim cương, tại sao người dân ở cõi này lại sống hòa thuận đến vậy? Tôi nghĩ điều này là có lý do, bởi vì khắp mặt đất đều là vàng! Những viên đá ở nhân gian này đều là vàng ròng, vậy còn cần vàng để làm gì nữa? Bởi vì chỉ khi không có mới thấy quý, đã là vàng khắp nơi rồi thì còn tranh giành những viên đá đó làm gì? Vì vậy người ở cõi Phật A Di Đà, họ sống rất hòa thuận với nhau, không tranh giành vàng bạc.

Ở đó, vào sáu thời trong ngày đêm, từ trên trời có những đóa hoa tuyệt đẹp rơi xuống, đây chính là một loại "niềm vui của màu sắc". Chúng sinh ở cõi Phật thường dùng những vật đựng trong sạch nhất, đặt vào đó những "phẩm vật cúng dường vi diệu", rồi đi đến các cõi Phật khác để cúng dường chư Phật, Bồ Tát ở những cõi đó. Chúng sinh ở thế giới Cực Lạc có thể biến hóa ra nhiều vật phẩm, rồi đem đi cúng dường tất cả chư Phật, Bồ Tát.

Mọi người sẽ thấy kỳ lạ, những thức ăn và những vật phẩm tinh xảo đẹp đẽ đó từ đâu mà có? Trước đây tôi đã từng xem "Công chúa ngủ trong rừng", có ba vị thiên thần dùng đũa phép chạm một cái là biến ra đồ vật. Ở thế giới Cực Lạc của Phật cũng tương tự như vậy, nhưng họ không cần dùng đến đũa phép, không phải như thế; khi bạn ở Phật quốc Cực Lạc, muốn ăn món gì thì món đó sẽ hiện ra trước mặt bạn, khi nó xuất hiện, không cần phải dùng tay lấy, nó sẽ từ từ bay đến miệng, bạn có thể ăn ngay. Sau đó những thứ này, dù là thức ăn hay những vật phẩm tốt đẹp nhất, ăn còn dư thừa, bạn vẫn có thể đem đi cúng dường chư Phật Bồ Tát khác, có thể cúng dường mười vạn ức Phật, mười vạn ức Phật ở các cõi Phật khác, tôi cảm thấy điều này thật không thể nghĩ bàn.

Ở Phật quốc Cực Lạc có rất nhiều điều tuyệt diệu, khi bạn nghĩ đến việc muốn mặc trang phục nào, trên thân đã có sẵn bộ trang phục đó, khi bạn muốn ăn món gì, món đó đã hiện ra trước mặt bạn, hoàn toàn có thể thỏa mãn mọi điều mong muốn trong tâm, vì vậy mới gọi là Cực Lạc.

Vừa rồi tôi nói về "mưa hoa mandala", đây là một loại hoa. Ví như khi chúng ta muốn thưởng thức một đóa hoa, chúng ta phải đi mua cây cảnh để trồng, phải mua cây giống về trồng, phải chuẩn bị đất, phải diệt trừ sâu bọ, phải bón phân, còn phải có mùa thuận lợi, đủ nước, hoa mới nở được! Vì quá phiền phức như vậy nên nhà tôi không có hoa thật. Nhà tôi tuy có hoa, nhưng đó là hoa nhựa, toàn là hoa giả, trông có vẻ đẹp nhưng ngửi không có mùi hương. Ở cõi Phật Tây phương Cực Lạc, không cần phải tự chuẩn bị đất, không cần bón phân, diệt trừ sâu bọ, không cần phải trồng, hoa cũng không héo tàn sau vài ngày nở.

Những đóa hoa này rơi xuống từ bầu trời, khi chúng sinh ở cõi Phật nhìn thấy hoa, họ đều cảm thấy vô cùng hoan hỷ, những đóa hoa đẹp như vậy ngày nào cũng rơi xuống cho mọi người chiêm ngưỡng. Những bông hoa rơi xuống không phải là hoa nhựa đâu, mà là hoa thật, vô cùng đẹp đẽ, và đang nở rộ, vì vậy mới gọi là "mưa hoa mandala". Đừng nghĩ rằng những đóa hoa rơi xuống này giống như hoa hồng ở nhân gian có gai nhọn; theo kinh điển mô tả, những đóa hoa này rất mềm mại và vừa ý, khi chạm vào bạn sẽ cảm thấy: "Ôi, thật tuyệt vời quá!", không giống như hoa hồng có gai, chạm vào là bị thương. Vì vậy, nói như thế này, tất cả đều là cảnh giới không thể nghĩ bàn, vô cùng không thể nghĩ bàn.

Ngoài ra, ở thế giới Cực Lạc, mọi người nghĩ rằng muốn đi cúng dường các cõi Phật khác thì phải lái xe đi phải không? Phải lái xe à? Đi tàu hỏa? Đi máy bay? Nếu không thì từ cõi này đến cõi khác xa như vậy, phải không? Phải làm sao đây? Trong kinh điển nói rằng, người ở Phật quốc đều có thần túc thông. Giống như thế nào? Được rồi! Bạn đang ăn ở đây, muốn cúng dường Phật, gói ghém phần thức ăn còn lại, chỉ trong nháy mắt, đã đến được cõi Phật khác rồi quay về, thức ăn của bạn vẫn còn ở đây, không ai ăn trộm mất, điều này cho thấy việc đi lại, "ăn uống đi lại" đều có thần thông qua lại, trong một sát-na có thể đi về, thật không thể nghĩ bàn.

Giống như chúng ta ăn cơm phải dùng bát để đựng, phải lấy bát đựng thức ăn mới có thể ăn được. Nhiều người không thích ăn cua và tôm, họ nói không phải vì không ngon, mà vì phải bóc vỏ, rất phiền phức và khó chịu; chỉ ăn phần thịt thì rất ngon, nhưng bóc vỏ thì quá khó; hỏi họ tại sao không muốn ăn? Còn phải rửa bát nữa! Nhưng ở thế giới Cực Lạc thì khác, sau khi dùng bát đựng thức ăn cho bạn ăn xong, cái bát sẽ tự động biến mất, không cần rửa, nó không còn nữa. Khi tôm cua xuất hiện, chúng đã tự động tách vỏ. Vì vậy, có rất nhiều điều tốt! Mọi người hãy đến đó để hưởng thụ nhé! Một nơi tốt đẹp như vậy quả thật không thể tìm thấy ở nhân gian, tôi nghĩ ngay cả cá ở đó cũng không có xương. Nếu có xương cá, hoặc có vỏ, hoặc còn phải rửa bát, chúng ta đều không muốn đến. Ý của tôi là nói rằng, ở thế giới Cực Lạc không có khổ, ngay cả một chút khổ nhỏ cũng không có, hoàn toàn là một Phật quốc cực lạc.

Trong kinh nói: "Vì Phật quốc Cực Lạc có rất nhiều điều tốt đẹp như vậy, nên mọi người tu hành đều lấy thế giới Tây phương Cực Lạc làm mục tiêu". Chúng ta có niềm vui từ thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác, quan trọng nhất là có pháp lạc, đó là niềm vui của việc tu hành. Ở đó vì có rất nhiều niềm vui dành cho bạn, và còn có pháp lạc, nên bạn hiểu được cách tu hành, tương lai đều có thể trở thành vị Phật kế thừa, bạn chính là vị Phật trong tương lai, sau khi tu hành sẽ thành Phật được.

Ở đây có một câu nói rằng: "Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế". Thực ra thiên quốc này, trong Cơ Đốc giáo thường nói đến thiên đường, trong Đạo giáo cũng đề cập đến cõi trời, trên trời cũng có niềm vui như vậy!

Tôi đã từng đến cõi trời Đế Thích, cõi trời Đế Thích chính là cung trời Đao Lợi, nơi đó cũng rất đẹp. Khi ra ngoài, chúng tôi ngồi trên xe bay có bánh xe rất êm ái. Do cõi trời này chỉ ở trên đỉnh núi Tu Di, gần với nhân gian, nên ở đó vẫn có chợ. Cõi trời này khác với cõi trời ở Tây phương Cực Lạc, ở Cực Lạc chỉ cần khởi ý nghĩ là có ngay, còn ở đây vẫn có mua bán, chỉ là các vị thiên nhân ở đây đều rất giàu có. Các bạn tưởng rằng khi tôi nói về sự giàu có này, chắc là họ chuyển tiền từ ngân hàng Mỹ lên cõi trời Đao Lợi để đổi tiền, họ nghĩ rằng giữa cõi trời Đao Lợi và ngân hàng Mỹ có trung tâm đổi tiền, nhưng không phải vậy! Tùy theo công đức đã làm ở nhân gian, sau khi sinh lên cõi trời Đao Lợi, việc mua bán ở đó rất đơn giản, thích món đồ trang sức nào, thích thức ăn gì, những thứ đẹp đẽ quý giá, bạn muốn có, họ có thể bán cho bạn, người bán sẽ đưa tay xin tiền, nhưng tiền từ đâu ra? Tiền sẽ ra từ các lỗ chân lông trên cơ thể, các lỗ chân lông sẽ mở ra và tiết ra một đồng vàng, như một đồng tiền vậy, đó chính là tiền để mua đồ. Tiền đó từ đâu ra? Tiền đó chính là công đức đã làm ở nhân gian, biến thành tiền công đức ẩn trong các lỗ chân lông trên cơ thể, dùng công đức để mua những thứ này. Vì vậy, khi thích món đồ nào, nhìn thấy thích, công đức sẽ tự nhiên từ cơ thể chảy ra để trao đổi, rồi mang đồ về.

Khi mua sắm quá nhiều, hưởng thụ đủ rồi, những công đức trong người không còn nữa, ôi chao! Bạn liền trở thành người nghèo! Ở cõi trời, nếu khi không còn công đức, những bông hoa cài trên đầu sẽ héo úa; quần áo đẹp đẽ đang mặc sẽ bắt đầu dơ bẩn; thân thể vốn tỏa ra hương thơm công đức, giờ lại chảy ra mồ hôi hôi; thân thể vốn rất nhẹ nhàng, bỗng nhiên cảm thấy rất nặng nề, không thể bay được; tâm hồn vốn luôn vui vẻ, bỗng nhiên cảm thấy bồn chồn, phiền não. Đây chính là khi phước báu ở cõi trời đã hưởng hết, bắt đầu phải đầu thai xuống nhân gian, hoặc đọa xuống địa ngục. Những người ở cõi trời tưởng rằng được hưởng phước trên trời là tốt lắm, nhưng thực ra một khi phước báu ở cõi trời đã hết, lại phải tiếp tục luân hồi.

Vì vậy, thiên quốc và thế giới Cực Lạc là khác nhau, ở thế giới Cực Lạc vì phước báu vô tận, có nhiều pháp lạc, và còn có thể tu hành, nên có thể tiếp tục tu hành, tiếp tục tiến bộ. Ở thiên quốc chỉ có hưởng phước, khi phước hết thì không còn gì. Vì thế trong Kinh Thánh có câu nói rằng: đến lúc đó mọi người sẽ cùng Chúa Jesus làm vua một nghìn năm, có giới hạn thời gian, sau một nghìn năm làm vua rồi, lại không biết phải làm sao? Cho nên thiên quốc của Cơ Đốc giáo và thế giới Cực Lạc của Phật giáo là hai nơi khác nhau. Công đức ở thế giới Cực Lạc là vô tận, không thể nói hết được.

Trước đây, khi chúng ta nghe những điều này đều cảm thấy rất kỳ diệu và khó tin, nhưng với sự phát triển dần dần của khoa học, ngày nay đã có cửa tự động, không cần phải đẩy cửa bằng tay, cửa tự mở. Thức ăn đôi khi cũng được chế biến sẵn, như ở Philippines có một loại cá mắt to thật sự không có xương. Vì vậy trong tương lai, nếu ai có thể phát minh ra cách ăn cua không cần bóc vỏ, ăn tôm không cần bóc vỏ, tôi nghĩ chắc chắn sẽ có rất nhiều người muốn ăn. Hôm nay chúng ta giảng pháp đến đây.

Om mani padme hum.

41. Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có… đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng.

Kinh văn:

"Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loại chim kỳ diệu đủ màu sắc: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, và chim cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót lên âm thanh hòa nhã, diễn xướng các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần; chúng sinh trong cõi ấy nghe những âm thanh này rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng."

Trước tiên tôi đọc đoạn kinh văn: "Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loại chim kỳ diệu đủ màu sắc: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, và chim cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót lên âm thanh hòa nhã, diễn xướng các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần; chúng sinh trong cõi ấy nghe những âm thanh này rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng."

Trước đây, chúng tôi đã từng đặt câu hỏi rằng: "Thế giới Tây phương Cực Lạc toàn là hóa sinh từ hoa sen, vậy tại sao lại có chim bay trên trời? Điều này là sao?" Đây là một câu hỏi hay! Bởi vì ở thế giới Tây phương Cực Lạc không có đạo súc sinh, vậy tại sao lại có những con chim bay lượn trên không trung như vậy? Theo lời giải thích của Phật, tất cả những con chim bay lượn trong thế giới Tây phương Cực Lạc đều do Phật A Di Đà biến hóa ra.

Âm thanh hay nhất trên thế giới là âm thanh gì? Có người nói đó là âm nhạc, âm nhạc hay là tốt nhất, nhưng dường như âm nhạc hiện đại không hẳn là hay, có nhiều loại nhạc không thực sự tốt. Có lúc chúng tôi tò mò, có đệ tử mở vũ trường, đệ tử này mời chúng tôi đến, vừa bước vào, âm thanh thật không chịu nổi, như sấm đánh vậy. Trước đây khi còn đi học tôi cũng từng học nhảy twist, học nhảy soul, nhảy soul và twist đều nhảy khá tốt, nhưng bây giờ không còn thịnh hành twist và soul nữa, mà thịnh hành cái gọi là disco, nhìn quả thật như ngã lên ngã xuống! Tiếng trống trong vũ trường và những tiếng kêu thảm thiết đó, nghe chẳng khác gì tiếng ồn trong lò mổ, giống như tiếng mổ lợn vậy! Âm nhạc đó, chúng tôi vừa bước vào đã phải bịt tai lại.

Tôi nhớ trước đây thầy dạy nhạc của tôi từng kể một câu chuyện: Có một người đang nổi cơn thịnh nộ, cầm dao định giết một nhạc sĩ. Vị nhạc sĩ liền chạy sang một bên, lập tức mở đàn piano ra và chơi một bản Ánh Trăng. Vừa khi tiếng đàn vang lên, trời như tối đi và trăng hiện ra, tạo nên một khung cảnh thật đẹp! Có những cây xinh đẹp, trên cây có nhiều chim đang hót! Người hung thủ ban đầu cầm dao định giết nhạc sĩ, khi nghe thấy âm nhạc tuyệt vời như vậy, anh ta đã quên mất ý định giết nhạc sĩ. Vị nhạc sĩ lại chơi tiếp những âm thanh như dòng nước chảy, từ một nơi rất xa, một dòng suối nhỏ, nước chảy rất nhẹ nhàng, chảy mãi về phương xa! Người hung thủ vốn đang rất tức giận trong lòng, khi nghe thấy âm thanh dòng nước tuyệt diệu này, cơn giận trong lòng lập tức tan biến, bàn tay đang cầm dao cũng buông xuống. Nhạc sĩ lại chơi thêm những giai điệu làm tâm hồn tràn ngập niềm vui, người hung thủ vẫn cầm dao, bắt đầu nhẹ nhàng đu đưa, chân nhẹ nhàng trượt theo, nhảy điệu valse.

Âm nhạc có thể gột rửa tâm hồn con người, những con chim mà Phật A Di Đà hóa hiện trong hư không chính là để hát những bài ca này nhằm thanh tẩy tâm hồn mọi người, loài chim này được gọi là chim cộng mạng. Tiếng hót của chúng khiến cho tâm người hướng về Phật, pháp, tăng, và điều thiện. Những gì chim này hót ra đều là pháp, đều là Phật pháp, chúng không hót lung tung. Giống như loài chim có tiếng hót hay nhất - chim họa mi, khi chim họa mi cất tiếng hót, âm thanh đều rất tuyệt vời. Những con chim mà chúng ta thấy ở thế giới Tây phương Cực Lạc đều do chính Phật A Di Đà biến hóa ra.

Việc này làm tôi nhớ lại trước đây khi bố vợ tôi sắp qua đời, lúc đó tôi đang sống ở Ballard, bố vợ tôi họ Lư, tên là Lư Kim Thủy. Một ngày trước khi ông mất, Địa Tạng Vương Bồ Tát đã dẫn bố vợ tôi đến bên giường tôi, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói với tôi: "Bố vợ ngài có một chút nghiệp chướng, đời sau sẽ chuyển kiếp thành chim." Tôi nói: "Nếu được làm chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc thì tốt quá!" Bởi vì tôi biết chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc cũng như đã thành Phật, chúng đều diễn pháp, hót lên những âm thanh tuyệt diệu và còn dạy pháp cho người khác. Nhưng không phải vậy! Ngài nói: "Cả đời ông ấy làm người cũng tốt, chỉ là thích vui chơi." Thích vui chơi như thế nào? Bởi vì ông rất thích đi du lịch, đã từng đến mũi Nga Loan hơn mười lần, từng đi chơi Bành Hồ cũng nhiều lần, như đến núi Dương Minh, đến hồ Nhật Nguyệt, nhiều đến không đếm xuể, du lịch chính là niềm vui lớn nhất trong đời ông.

Tại sao lại chuyển kiếp thành chim? Bởi vì cả đời ông ấy đến già vẫn cứ bay đi bay lại khắp nơi để du lịch, tâm của ông ấy giống như chim vậy, ngày nào cũng bay. Vì thế Địa Tạng Vương Bồ Tát tính toán một hồi lâu rồi nói: "Làm chim là tốt nhất." Đây chính là nhân quả, nếu chúng ta thích du lịch thì kiếp sau có thể sẽ làm chim. Thế là tôi nói: "Làm sao có thể như vậy được? Tôi là Lư Thắng Ngạn, bố vợ tôi cũng họ Lư, nên vợ tôi cũng họ Lư. Thật kỳ lạ, bố vợ của Lư Thắng Ngạn lại chuyển sinh vào đường súc sinh, như vậy không phải là... mất mặt lắm sao?" Tôi nói: "Như vậy thì không thể giữ được thể diện!" Địa Tạng Vương Bồ Tát hỏi: "Vậy phải làm sao?" Tôi nói: "Bây giờ tôi không biết phải nói gì với Ngài, tóm lại, xin Bồ Tát nghĩ cách là được." Địa Tạng Vương Bồ Tát rất khó xử, nhưng rồi linh cảm chợt đến, linh cảm của Bồ Tát rất sáng suốt, Ngài nói: "Bố vợ ngài tuy cả đời thích đi đây đi đó, nhưng chưa từng đi nước ngoài, không có duyên với nước ngoài, nên tương lai chuyển kiếp chỉ có thể chuyển sinh ở Đài Loan." Bồ Tát suy nghĩ một lúc rồi nói: "Được rồi, có một cách, ở Đài Loan vừa hay có một địa danh gọi là Điểu Tùng Hương." Nơi này nằm bên cạnh Phượng Sơn thuộc Cao Hùng, ngay cạnh hồ Trừng Thanh, có một địa danh gọi là Điểu Tùng Hương, đó là một vùng nông thôn rất đẹp, non xanh nước biếc. Theo lời Bồ Tát, đưa ông ấy đến Điểu Tùng Hương để đầu thai làm người, lấy cái vốn là sẽ sinh làm chim, thêm vào chữ Tùng Hương, thành ra Điểu Tùng Hương. Người này là Lư Kim Thủy, từ chuyển thế làm chim, rồi thêm vào Tùng Hương, đây gọi là "lách luật" (tiếng Đài). Cứ thế, để ông ấy chuyển thế đến Điểu Tùng Hương, đây là vấn đề giữ chút thể diện.

Sáng sớm hôm sau, điện thoại từ Đài Loan gọi đến báo tin bố vợ tôi đã qua đời. Tôi đã biết trước tin này sớm hơn họ gần một ngày, đây là sự thật! Đây là một chuyện rất thật! Người chuyển kiếp thành chim cũng không tốt lắm, vẫn là đường súc sinh, súc sinh đạo là noãn sinh, chim là noãn sinh. May mắn thay, tôi có chút giao tình với Địa Tạng Vương Bồ Tát, chỉ cần thêm hai chữ vào sau chữ "điểu" (chim) là có thể chuyển thành người, lần sau tôi phải gửi chút quà tặng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Điều này chỉ là vì chúng tôi có tu pháp, nên có thể trao đổi với Bồ Tát, có thể điều chỉnh một chút, không thể thay đổi hoàn toàn. Chuyển thế thành chim, rồi đổi thành chuyển thế ở Điểu Tùng Hương, thực ra cũng không khác nhau là mấy.

Những con chim này có thể "phát ra âm thanh vi diệu" - những âm thanh tuyệt vời nhất. Tôi nghĩ rằng phần lớn những người có khả năng ca hát đều là chim chuyển kiếp, à! Tôi không nói về những con chim bình thường trong thế gian này, mà là những con chim do Phật A Di Đà hóa hiện ở thế giới Tây phương Cực Lạc trên thiên giới; những con chim này còn có thể thuyết pháp, chúng có thể giảng về ba mươi bảy đạo phẩm, tức là những gì được nói trong kinh Phật về ba mươi bảy đạo phẩm, nói về "giới, định, huệ", được chia thành bảy phần. Mặc dù cảnh giới của con người cao hơn chim, nhưng thực ra cảnh giới của con người chúng ta cũng chẳng cao siêu gì cho lắm.

Bây giờ chúng ta nói về "bốn niệm", bốn niệm xứ cũng nằm trong ba mươi bảy đạo phẩm. Chúng ta phải thường xuyên quán tưởng rằng thân thể của chúng ta không phải là hoàn toàn thanh sạch, sự không thanh sạch của thân thể được chia thành bảy loại, bảy loại bất tịnh, chúng ta phải luôn nghĩ như vậy.

Thứ nhất là "chủng tử bất tịnh". Thực ra chủng tử của con người chính là tế bào, và tế bào không thanh sạch.

Thứ hai là "thọ sinh bất tịnh". Ngoài tế bào không thanh sạch ra, khi chúng ta thọ sinh là lúc bất tịnh nhất, bởi vì khi con người được sinh ra, trong bào thai của mẹ, xung quanh toàn là những thứ dơ bẩn bao bọc, máu bẩn bao quanh chúng ta, đó chính là chỗ ở không sạch sẽ.

Sau đó "thức ăn cũng bất tịnh", giống như chúng ta ăn những thứ mà mẹ đã tiêu hóa, những gì còn lại chúng ta hấp thụ, những gì mẹ ăn vào, tiêu hóa rồi lại phân phối cho chúng ta.

"Khi sinh ra cũng không sạch sẽ", bởi vì lúc sinh ra có rất nhiều thứ dơ bẩn cùng ra một lúc.

Chúng ta toàn thân đều không sạch sẽ, lớp da bên ngoài của chúng ta tuy trông có vẻ sạch sẽ một chút, nhưng thực ra bên trong đều không sạch, nói cho cùng ngay cả bề mặt cũng không sạch. Nhiều cô gái rất giỏi trang điểm, trước đây tôi coi việc các cô trang điểm như là đang quét sơn vậy, cô đang quét sơn khuôn mặt đấy. Thực ra, có hai hạng người biết rõ nhất các cô có đẹp hay không, có người nói thế này, đó là người giao sữa buổi sáng, bởi vì lúc đó các cô vừa mới thức dậy chưa kịp trang điểm, mở cửa ra lấy sữa, nhìn thấy mặt là giật mình ngay. Sau khi "quét sơn" xong thì trông như tiên nữ, còn khi chưa "quét sơn" thì trông như ác quỷ, khiến người ta phải sợ chết khiếp.

Có người hỏi tôi chỗ nào sạch sẽ? Trước đây tôi đã từng nói: "Ngay trong nhà vệ sinh bạn cũng có thể tu pháp." Tôi có một đệ tử hỏi tôi, anh ấy nói cha mẹ không cho anh tu pháp, anh sống trong nhà, rất chật hẹp, không có chỗ tu pháp. Tôi nói sao anh không tu pháp trong nhà vệ sinh! Anh ấy nói thế nào, anh ấy nói: "Nhà vệ sinh rất dơ, làm sao có thể tu pháp trong đó được?" Tôi nói với anh ấy: "Trong cơ thể anh cũng có nhà vệ sinh, chỉ là một cái ở trong, một cái ở ngoài mà thôi."

Hành giả Mật tông chân chính biết rằng, trên đời không có nơi nào là sạch sẽ, cũng có thể nói trên đời đâu đâu cũng sạch sẽ. Bạn nghĩ nhà vệ sinh rất bẩn, không thể tu hành ở đó, nhưng thực ra trong bụng bạn toàn là những thứ như trong nhà vệ sinh, bạn nghĩ che đậy như vậy là sạch sao? Thực ra, chỗ nào cũng sạch, cũng có nghĩa là chỗ nào cũng không sạch. Hơn nữa, khi người ta chết đi, cái mùi thịt thối rữa, thối tha đó, ôi chao! Thật là không sạch. Con người có gì đáng nói đâu? Có gì để nói là sạch sẽ đâu, cho nên dù sao thì ai cũng không sạch sẽ, tất cả đều như nhau. Ngoại trừ ở thế giới Tây phương Cực Lạc, mồ hôi chảy ra là mồ hôi thơm, chứ con người bình thường, ngoài việc xức nước hoa, hay bôi phấn thơm, hoặc cố tình tạo ra mùi thơm, thì đều là không sạch. Chúng ta phải thường xuyên nghĩ như vầy: "Thân người không sạch", vì thế chúng ta phải tu hành để về thế giới Tây phương Cực Lạc, nơi đó thanh tịnh nhất.

Ở đó thực sự có những âm nhạc tuyệt vời để nghe, những bài hát chúng ta nghe được ở nhân gian không nhất định đều hay, nhưng ở thế giới Tây phương Cực Lạc, những bài hát nghe được đều là hay nhất, hôm nay giảng kinh đến đây.

Om mani padme hum.

42. Diễn thuyết ba mươi bảy đạo phẩm (1)

Hôm nay Thượng sư Liên Hỏa giảng về "Các hành vô thường", vừa hay trong Kinh A Di Đà cũng đề cập đến việc vô thường này. Điều đầu tiên nói đến là thế gian đều rất khổ, chúng ta không cần phải nói thêm về sự khổ của thế gian nữa, trước đây cũng đã nói rồi. Thực ra, dù có giàu có đến đâu, thân thể khỏe mạnh thế nào, địa vị cao đến mấy, mọi thứ đều viên mãn, vẫn có lúc khổ; bởi vì người "có" sẽ muốn "có thêm", nên rất khổ. Như người giàu có, đã có vài triệu rồi, vẫn muốn có vài tỷ, nên rất khổ; người đã có một gia đình viên mãn, vẫn muốn có hai gia đình, ba gia đình, nên cũng rất khổ. Như Sư Tôn cũng rất khổ, vì số nhà 17102 (chú thích: số nhà của Chân Phật Mật Uyển), một vợ! Mãi mãi chỉ một vợ! Căn nhà ở Hồng Kông là tốt nhất, ba vợ bốn bồ (chú thích: số 3747)! [Ở đây Sư Tôn chơi chữ, số 7 có cùng cách phát âm với chữ vợ.] Đừng có ghen tị nhé, vì dù có ghen tị thế nào, cũng không có thời gian, vẫn rất khổ. Thân thể không làm chủ được, dạ dày không tốt, nhìn người khác ăn uống thỏa thích, cũng rất khổ. Ai dám nói thân thể này sẽ không bao giờ bệnh? Như tôi không có thời gian để bệnh, vẫn bị bệnh, tôi thường nói ở Mỹ bao nhiêu năm nay, cũng có một lần bị cảm cúm, chóng mặt ba ngày, đây cũng là khổ.

Kinh A Di Đà giảng về "tâm niệm xứ". Chúng ta biết "các hành vô thường", không chỉ các hành vô thường, mà tâm cũng vô thường. Hôm nay, có rất nhiều đệ tử đến quy y, sau khi quy y với Thượng sư, họ đều như thể đã phát lời thề sẽ mãi mãi đi theo Thượng sư, ai nấy đều tỏ ra trung thành tuyệt đối. Tôi thấy hiện tượng này cũng không tốt lắm, bởi vì chỉ cần có một chút, một tẹo không vừa ý là đã hỏng! Thượng sư làm chín mươi chín điều khiến họ hài lòng, nhưng có một điều không vừa ý, thì lòng trung thành tuyệt đối ấy liền biến thành... không nói nổi nữa! Tâm là vô thường, sẽ thay đổi, tâm người là hay thay đổi! Những lời ngọt ngào, cái sweet talk này cũng không nên tin, sáng còn gọi honey, honey, tối đã đòi divorce [ly hôn]. Vì thế sáng còn nói Thượng sư vĩ đại lắm, tối đã đem trả chứng thư quy y! Đây chính là biểu hiện của tâm cũng vô thường, tâm người là hay thay đổi.

Thời đó, khi tôi mới bắt đầu bái Phật, thành thật mà nói, tôi cũng mắc phải căn bệnh này, đây là tâm người, cũng là chuyện thường tình. Mỗi ngày tôi đều lễ bái Phật Bồ Tát vào buổi sáng. Nhưng có một lần khi tôi xem tướng cho người khác, tôi cầu chỉ dẫn từ chư Phật Bồ Tát, nhưng những gì các ngài chỉ dạy lại hoàn toàn trái ngược với những gì người đó gặp phải, có nghĩa là không chính xác. Có lẽ là do khả năng thông linh của tôi có sai sót, nhưng tôi nghĩ, thật kỳ lạ, chín mươi chín điều Phật Bồ Tát chỉ dạy tôi đều rất chính xác, sao lại có một điều không đúng như vậy? Sáng hôm đó tôi không vào Phật đường lễ bái, khi đi ngang qua Phật đường còn liếc mắt nhìn các ngài, không những thế, còn mấy ngày liền không tụng kinh, thật sự tức giận đến nỗi mắng "đồ tượng gỗ" (tiếng Đài). Ngày xưa tâm tôi như vậy đó, cũng thường dao động, có lúc tu hành chăm chỉ một chút, có lúc lại lười biếng. Khi có cảm ứng sâu sắc thì chúng ta tu hành tương đối nghiêm túc, không có cảm ứng thì chúng ta lại xa rời, đây chính là tâm vô thường, sự biến hóa của tâm.

Sự biến đổi của tâm không chỉ hoàn toàn nói về mặt tôn giáo. Ví dụ trong việc kết bạn, hôm nay người bạn này rất tốt với bạn, nhưng có thể ngày mai đã thay đổi rồi, một người bạn tốt, chỉ cần tâm vừa thay đổi, liền biến thành người chuyên phá đám, phá hoại bạn; ngược lại, cũng có người vốn là kẻ thù, cuối cùng lại trở thành bạn tốt; còn có giữa nam nữ, vốn khi yêu đương là những người bạn rất thân thiết, cuối cùng lại trở thành xa lạ; vợ chồng khi mới cưới đều rất yêu thương nhau, cuối cùng trở thành kẻ thù cũng rất nhiều; đây là gì? Đây chính là "tâm vô thường".

Tâm vô thường này sẽ khiến người vốn rất chính trực bỗng nhiên trở nên rất tham lam; người vốn rất có tu dưỡng bỗng nhiên nổi giận đùng đùng; người vốn rất thông minh bỗng nhiên làm một việc rất ngớ ngẩn. Đây chính là niệm đang biến chuyển, không thể giữ cho niệm mãi mãi chính trực, mãi mãi không nổi giận, mãi mãi thông minh. Nếu chúng ta hiểu được tình huống này rồi, chúng ta phải thu nhiếp tâm này lại. Nếu có thể học cách kiểm soát tâm mình, sẽ có thể kiểm soát được niệm và hành vi. Việc tu hành của chúng ta chính là nắm bắt được tâm, niệm và hành vi này của mình.

Ngoài ra còn có "quán pháp vô ngã", nghĩa là nhìn pháp thế gian, pháp tu hành, đều phải có tư tưởng vô ngã. Thiện pháp vô ngã, pháp tốt không có "ngã", ác pháp cũng không có "ngã". Tay phải chúng ta làm việc thiện, không để tay trái biết. Như tuần trước chúng ta quyên góp tiền từ thiện, chúng ta cũng mời phóng viên đến chụp ảnh, trên báo dường như cũng đăng tin phải không? Ah! Điều này thật là ngại quá! Bởi vì có vẻ như làm việc thiện để được đăng báo, điều này không tốt lắm; tuy nhiên chúng ta cũng xem đó như một sự khích lệ! Chúng ta làm việc thiện, bắt đầu từ việc để mọi người biết làm việc thiện, điều này cũng tốt, không phải là không tốt.

Ý nghĩa của "thiện pháp vô ngã" là: Khi bạn làm việc thiện, đừng nghĩ rằng mình đang làm việc thiện, đừng nghĩ như vậy. Thầy tôi còn dạy thêm một điều: Khi bạn độ chúng sinh, đừng nghĩ rằng "tôi đang độ chúng sinh". Khi bạn tu pháp, cũng không được nghĩ "tôi đang tu pháp".

Hãy xem việc làm thiện và tu pháp như không phải do ta làm, mà là điều diễn ra một cách tự nhiên, thì công đức đó mới là lớn nhất. Làm việc thiện vì danh tiếng, hoặc tu pháp vì muốn thành Phật, đều là "có mong cầu". Tư tưởng "quán pháp vô ngã" này chính là điều Lão Tử đã nói "không vì gì mà làm", tức là "vô vi nhi vi". Vô vi nhi vi nghĩa là không mong cầu điều gì cả, rồi ta mới làm, đó chính là vô vi nhi vi. Ví như khi chúng ta làm việc thiện, nếu muốn cho tất cả mọi người đều biết ta đang làm việc thiện, thì công đức sẽ nhỏ hơn. Nếu bạn đã âm thầm làm việc thiện, không ai hay biết, nhưng bạn đã làm, thì công đức đó mới lớn. Vì thế mới có cái gọi là dương đức và âm đức, âm đức thì công đức lớn hơn một chút.

Gần đây tôi đã bắt đầu viết một cuốn sách mới, mới chỉ bắt đầu viết thôi, hôm qua mới viết (chú thích: quyển thứ 76), là viết về chuyện tiền kiếp của tôi. Ngay từ đầu, Phật A Di Đà đã kể về việc Liên Hoa Đồng Tử đã rời khỏi Ma Ha Song Liên Trì ở thế giới Tây phương Cực Lạc để đến thế gian này chịu khổ như thế nào. Gần đây vì buổi tối ở nhà yên tĩnh hơn, nên tôi đã lục lại tất cả những ký ức về tiền kiếp trong tâm trí. Trong đó cũng bao gồm nhiều cảnh giới và hình ảnh trong Kinh A Di Đà. Mỗi đêm tôi đều đến thế giới Tây phương Cực Lạc, trở về nơi xưa cũ, nơi đó thật tuyệt vời!

Thật kỳ lạ, khi tôi còn sống ở đây trước đây, mỗi tối đều mơ màng không rõ ràng, còn bây giờ chuyển đến nơi ở mới, có lẽ nhờ ánh sáng hồ chiếu rọi, tâm như tấm gương sáng, nên mọi việc đều hiện lên rõ ràng, như một bộ phim được chiếu lại vậy. Tiền kiếp của tôi, thực sự như một bộ phim được phát lại, viết ra rất rõ ràng. Phật A Di Đà đã từng dặn dò tôi xuống trần gian một chuyến nữa; Bồ Tát Quan Thế Âm cũng chỉ dạy tôi khi xuống trần gian phải từ bi; Bồ Tát Đại Thế Chí cũng nhắc nhở tôi khi xuống trần gian, phải học hỏi trí tuệ thật tốt, nghe ba vị Bồ Tát dạy như vậy, tôi đã khóc rất nhiều.

Trong đó, tôi còn đi vào trong ma cung. Vì sắp xuống trần gian rồi mà, lúc đầu tôi ngồi trên đài sen, ngồi rất thong dong, còn thoải mái hơn cả tấm thảm chúng ta đang đặt chân lên bây giờ, nhưng có lẽ vì nghe Phật A Di Đà thuyết pháp quá vui nên đã duỗi hai chân đạp xuống dưới hoa sen. Ôi! Hỏng rồi! Không ngờ vừa đạp xuống như vậy, trái đất liền rung chuyển, đến cả ma cung cũng rung động, ngay cả Ma Vương trên trời cũng biết được rằng có một Liên Hoa Đồng Tử sắp hạ sinh xuống trần gian, vì thế Ma Vương đã phái mấy trăm thiên ma xuống. Chẳng trách tôi phải chạy trốn như chó mất chủ vậy. Sau này vẫn sẽ gặp lại những điều này, sau này những thiên ma này và Thượng sư vẫn sẽ gặp lại nhau.

Câu chuyện này rất dài, các bạn sẽ được đọc khi sách xuất bản. (Vị Thượng sư phiên dịch hỏi: "Là rất dài hay rất thảm?") "Dài lắm!" Bạn tưởng là thảm sao? Những điều thảm đã qua bớt rồi, đừng thảm thêm nữa. Tôi mong có thể sống tiếp một cách bình an thuận lợi, đừng có quá nhiều ma nạn, bởi vì tôi cảm thấy đã vất vả sống được nửa đời người rồi, nếu còn thêm ma nạn nữa thì thật là mệt mỏi. Tuy nhiên Sư Tôn vẫn ổn, tôi đã đạt được "vô ngã", nên dù có bao nhiêu ma nạn đến, tôi cũng không màng.

Tuy nhiên dù có "vô ngã" đến đâu, khi người thân của mình làm tổn thương mình thì vẫn trở thành "có ngã". Người khác có làm gì mình, mình vẫn giữ được vô ngã, nhưng khi chính người thân làm tổn thương mình, mình lại "có ngã". Điều này cho thấy việc tu hành vẫn còn tình cảm, chưa hoàn toàn đạt đến cảnh giới Không. Nếu mọi người đọc quyển sách "Chứng ngộ tính Không" của tôi, sẽ hiểu được cảnh giới mới này của Thượng sư. Trong quyển sách mới này, tôi cũng rất thẳng thắn, đề cập đến những tư tưởng vô ngã này. Chúng ta học được tư tưởng vô ngã và tư tưởng tự nhiên, thì sẽ dễ thích nghi hơn với thế giới này. Nếu bạn không có tư tưởng tự nhiên, tức là vẫn còn chấp trước; nếu trong tâm vẫn còn một chút ý niệm về ngã, thì vẫn còn đau khổ. Hôm nay, lý do Thượng sư có thể chiến thắng ma, không, không nên nói là chiến thắng, mà là kết bạn với ma, không còn bận tâm điều gì, chính là nhờ có tư tưởng tự nhiên và vô ngã.

Mong rằng mọi người có thể lĩnh hội được tự nhiên, lĩnh hội được vô ngã. Dùng tự nhiên và vô ngã, thì có thể quan sát được "chư hành vô thường" và "tâm vô thường" của thế gian này.

Om mani padme hum.

43. Diễn thuyết ba mươi bảy đạo phẩm (2)

Hôm nay chúng ta giảng Kinh A Di Đà, đang nói về "bốn chính cần" trong ba mươi bảy đạo phẩm. "Chính cần" nghĩa là sự tinh tấn chân chính không có sai lệch.

Tôi thấy có một ví dụ rất hay về tu hành, tu hành giống như khoan gỗ lấy lửa, mỗi ngày nỗ lực tu hành, ắt có ngày sẽ khai ngộ. Lấy ví dụ bản thân mình cho mọi người nghe, mỗi ngày tôi đều dậy đúng giờ, sau đó lái xe đến Chân Phật Mật Uyển, đó chính là nhà cũ của tôi, về đến nhà, vào Phật đường, thắp hương, tu Tứ gia hành, tu xong Tứ gia hành thì viết sách, mỗi ngày cố định viết hai trang; trưa mang cơm hộp, ăn xong nghỉ ngơi một chút, 1 giờ chiều bắt đầu trả lời thư. Thời gian nghỉ trưa cũng là lúc đọc thư, trả lời thư đến 4 giờ thì tan làm. Sau khi tan làm lúc 4 giờ, lại vào Phật đường làm công khóa buổi chiều, đến 5 giờ thì lái xe về nhà; cuộc sống hoàn toàn có quy củ như vậy, thay đổi rất ít, từ trước đến nay đã gần mười mấy, hai mươi năm. Qua Mỹ cũng không khác gì ở Đài Loan là mấy, nếu lúc 4 giờ, vì có khách hay có việc đặc biệt, đợi làm xong việc đặc biệt rồi, vẫn phải tu pháp. Về mặt tu hành, buổi sáng tôi nhất định tu Tứ gia hành, buổi tối nhất định tu pháp Bổn tôn.

Thực ra, tôi tu hành cũng không có phương pháp đặc biệt gì. Có người nói: "Thượng sư chắc chắn phải có phương pháp đặc biệt nào đó, chúng ta phải chú ý xem ngài tu như thế nào." Thực ra không có! Tôi rất bình thường. Điều duy nhất đáng nhắc đến là tâm lý luôn rất an bình, mỗi ngày đều tu pháp cố định như vậy, chưa từng gián đoạn. Khi đi xa, tôi tu pháp trong khách sạn, hoặc tu pháp trên máy bay. Cho nên, nói ra tôi không phải vĩ đại, mà rất bình thường, nhưng trong sự bình thường đó vẫn duy trì mỗi ngày một thời Tứ gia hành, một thời Bổn tôn pháp. Nói đơn giản, có kiên trì thì có thể đắc đạo chứng ngộ.

Trước đây nhiều người hỏi: "Sao thầy viết và xuất bản sách nhanh vậy? Có phải thầy viết buổi sáng, chiều cũng viết, tối không ngủ cũng viết?" Không phải vậy, tôi chỉ đơn giản là viết đều đặn mỗi ngày, và viết hai trang giấy, chỉ vậy thôi, không có ngày nào lười biếng! Vì thế việc tu pháp của tôi cũng giống như viết văn vậy, không có ngày nào lười biếng. Sách của tôi đã xuất bản đến quyển thứ 75, hiện đang viết quyển thứ 76 (chú thích: đến tháng 4 năm 2025 đã xuất bản đến quyển thứ 304), 50 ngày đúng 100 trang giấy, tức là một quyển sách. Đây là gì? Đây chính là "chính cần".

Tôi cảm thấy làm như vậy không có gì vĩ đại, cũng chẳng có gì đặc biệt, nhưng nếu có thể duy trì được thì đó là điều phi thường, đây chính là "khoan gỗ lấy lửa". Trước đây tôi thường nghĩ, khi nào mới có thể đạt được giác ngộ? Phật bảo tôi, mỗi ngày chỉ cần đi một bước là đủ, rồi sẽ đến đích. Tuyệt đối đừng một ngày đi cả nghìn bước, rồi sau đó ngừng lại hai mươi năm, như vậy là vô ích. Mỗi ngày chỉ cần đi một bước, nhất định sẽ đạt được mục tiêu, đây là một phương pháp tu hành. Bạn không thể nói tôi sáng cũng tu, chiều cũng tu, tối cũng tu, nửa đêm cũng tu, một tháng liền không ngủ; nhưng nếu bạn một tháng không ngủ, thì sau đó sẽ phải ngủ liền ba năm! Tu hành kiểu này là lệch lạc, không bình thường.

Trong đây nói rằng, khi tu hành, nếu đã sinh khởi những ý niệm không tốt, chúng ta phải nhanh chóng loại bỏ những ý niệm không tốt đó; nếu chưa sinh khởi những ý niệm không tốt, cũng phải phòng ngừa những ý niệm không tốt thấm vào như dòng nước. Và việc tu hành của chúng ta phải giống như khoan gỗ lấy lửa, bởi vì khoan gỗ lấy lửa phải liên tục khoan, không thể dừng lại, chỉ cần dừng là phải bắt đầu lại từ đầu. Đối với những người đã đạt được diệu pháp này, chúng ta hy vọng họ có thể tiến bộ hơn nữa, đây chính là "bốn chính cần".

Cuộc đời này, như Thượng sư Trịnh vừa nói, chúng ta tu hành đều sẽ gặp chướng ngại; chủ yếu là do đời trước có nhiều tai nạn, tạo nhiều nghiệp, nên trở thành chướng ngại trong việc tu hành. Tôi cảm thấy những chướng ngại của mình hiện giờ đã trở nên rất vi tế, tức là đã trở nên rất nhỏ, tâm lượng cũng trở nên rộng mở hơn, không còn vì những chuyện nhỏ nhặt mà phiền não, có thể nói phiền não đã hóa thành những hạt bụi li ti bay đi. Mấy ngày trước trong thiền định, tôi lại trở về Ma Ha Song Liên Trì, mọi cảnh tượng trong quá khứ hiện ra rõ ràng trước mắt.

Ma Ha Song Liên Trì có mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử, mỗi vị được vây quanh bởi năm trăm vị Trung Liên Hoa Đồng Tử, và mỗi vị Trung Liên Hoa Đồng Tử lại được vây quanh bởi năm trăm vị Tiểu Liên Hoa Đồng Tử. Nhớ lại trước khi giáng sinh, mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử đều đưa ra ý kiến về việc sau khi xuống trần nên dùng pháp môn nào để độ chúng sinh. Mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử đều trình bày kinh nghiệm tu chứng của mình, mỗi vị đều có sự khai ngộ và kiến giải rất thâm sâu, vì vậy Chân Phật Tông chúng ta độ chúng sinh theo nguyên tắc "phương tiện đa môn", tức là sử dụng nhiều pháp môn khác nhau để độ chúng sinh.

Một vị Tiểu Liên Hoa Đồng Tử cũng bước ra phía trước để phát biểu ý kiến, giơ tay hỏi: "Mặc dù con là Tiểu Liên Hoa Đồng Tử chưa chứng đắc thánh quả Như Lai, nhưng con cũng hiểu đạo lý thành Phật." Vị ấy nói: "Bây giờ con có một thắc mắc muốn hỏi chủ tôn, tuy con chưa chứng đắc thánh quả Như Lai, nhưng sau khi giáng sinh, con có thể độ chúng sinh được không? Có thể thuyết pháp không?" Đại Liên Hoa Đồng Tử trả lời: "Người chưa khai ngộ cũng có thể phát tâm độ chúng sinh, cũng có thể thuyết pháp, đây gọi là Bồ Tát phát tâm." Bởi vì khi bạn hiểu được Phật lý, đạo lý của Phật, biết được con đường về nhà, thì có thể chỉ con đường đó cho người khác; mặc dù bản thân chưa từng về nhà, nhưng biết đường thì có thể chỉ dẫn người khác về nhà, đây gọi là Bồ Tát phát tâm. Giống như bây giờ, mọi người nghĩ: "Ôi! Làm sao tôi có thể kêu gọi người khác đến lễ Phật được? Bản thân tôi còn chưa thành Phật mà!" Có người nói: "Từ khi tu hành đến giờ tôi chưa có tương ứng, cũng chẳng có cảm ứng gì, chẳng có gì cả, làm sao tôi dám thuyết pháp?" Nhưng điều đó là có thể, tại sao vậy? Bởi vì bạn biết mặt trăng ở đâu, ngón tay bạn chỉ mặt trăng chính là con đường, biết được đạo lý thành Phật thì có thể thuyết pháp, đây gọi là Bồ Tát phát tâm.

Nếu bạn đã chứng quả Phật, đạt được thánh quả Như Lai, sau đó dùng kinh nghiệm của mình để giảng giải cho chúng sinh nghe, dẫn dắt chúng sinh quay về chính giác, đó gọi là Như Lai ứng thế. Vì thế Bồ Tát phát tâm và Như Lai ứng thế đều là phương pháp độ chúng sinh.

Vị Tiểu Liên Hoa Đồng Tử này vô cùng hoan hỷ vì bản thân cũng có thể đến nhân gian độ chúng sinh. Chính vì Bồ Tát vừa phát tâm như vậy, trên trời liền rơi xuống một quả tiên, sau khi ăn quả tiên này, đạo tâm sẽ kiên cố, vĩnh viễn không thoái lui đạo tâm. Quả tiên này sau này tôi sẽ viết trong sách, thì ra người tặng những quả tiên này cho tất cả Liên Hoa Đồng Tử ăn chính là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn.

Tôi nhớ lại chuyện trong quá khứ, Phật A Di Đà từng đích thân ủy thác, đến cung Đại Nhật ở pháp giới để gặp Đại Nhật Như Lai, sau đó trở về Ma Ha Song Liên Trì họp hội, rồi tất cả các vị Liên Hoa Đồng Tử mới giáng sinh. Việc giáng sinh không phải là đột ngột rơi xuống trần gian, vì nếu rơi xuống đột ngột sẽ bị vỡ đầu, cho nên phải từng tầng từng tầng đi xuống. Chúng tôi cũng đã đến cõi trời Ma Ê Thủ La, cõi trời Ma Ê Thủ La chính là cõi trời Ma Vương, gặp Ma Vương, Ma Vương nói: "Sau này ta sẽ giả dạng giống như ngươi vậy." Ông ta đến để giúp đỡ chúng ta, để kiểm tra chúng ta, những người tu hành đều sẽ có thử thách.

Thực ra thử thách là điều rất tốt, nó có thể giúp chúng ta đạt được thành tích tốt, tu hành nghiêm túc và vượt qua thử thách. Giống như khi chúng ta lướt sóng ở Hawaii, sóng càng cao, miễn là chúng ta không ngã, rồi lại lướt lên, thì sẽ bay cao hơn nữa. Những thử thách này, sau này khi về già tôi có thể viết ra. Tôi có một trăm cửa ải khó khăn, nhưng tất cả đều đã vượt qua, thì thành Phật rồi, còn nếu không vượt qua được, thì kiếp sau lại đến!

Vì vậy chúng ta đừng sợ khó khăn, đừng sợ ma chướng, càng gặp tai nạn và thử thách lớn, chúng ta càng nâng cao được bản thân, cho nên ma đến là để giúp đỡ chúng ta, ma có rất nhiều điều tốt. Nếu sợ ma và bị ma đánh bại thì sẽ rất tầm thường. Khi tôi ở cõi trời Ma Ê Thủ La, Ma Vương nói với tôi: "Chúng ta là anh em ruột thịt, là bạn tốt, cũng có thể là vợ chồng. Có ma làm bạn đồng hành thì đạo hạnh của ngươi mới có thể vượt trội, không có ma thử thách thì chỉ là phàm phu tầm thường mà thôi."

Tôi mong mọi người đừng phiền não, đừng sợ ma, hãy giữ tâm bình an và thuận theo tự nhiên, rồi xem ma như không có gì, thì kiếp này ở nhân gian sẽ sống rất vui vẻ. Dù ma nạn có lớn đến đâu cũng không thể cản trở được đức tin của Liên Hoa Đồng Tử, bởi vì đạo tâm của bạn vĩnh viễn không thay đổi và không thoái chuyển. Người có đạo tâm không thay đổi, không thoái chuyển, chỉ cần mỗi ngày tu tập, nhất định sẽ trở về Ma Ha Song Liên Trì.

Om mani padme hum.

44. Diễn thuyết ba mươi bảy đạo phẩm (3)

Tối nay chúng ta tiếp tục giảng về "bốn như ý túc" trong Kinh A Di Đà.

Như ý túc thứ nhất là "dục như ý túc", tức là có ước muốn và lòng ham thích, ý nguyện tùy tâm. Thứ hai là "niệm như ý túc". Thứ ba là "tấn như ý túc". Thứ tư là "huệ như ý túc". Đây được gọi là "bốn thần túc".

Cái gọi là "dục như ý túc" chính là "dục thần túc". Khi người tu hành chúng ta tu tập đến mức sinh ra pháp lực, sẽ sinh ra một loại thần thông gọi là dục như ý túc, tương tự như câu chúc phúc thường thấy trong thư từ ngày nay - "tâm tưởng sự thành". Dục như ý túc này là trạng thái thần tiên sơ khởi. Chư thiên ở cõi Dục giới vẫn còn ước muốn, họ vẫn thích mặc y phục đẹp đẽ, thưởng thức món ngon, thậm chí kết giao với người đẹp, bởi vì họ vẫn đang ở trong cõi trời còn ước muốn này, nên những ước muốn đó vẫn tồn tại. Khả năng thỏa mãn được những ước muốn ấy chính là "có đầy đủ thần thông về ước muốn".

Mấy ngày trước đây Thượng sư từng đến một cảnh giới thần tiên, gọi là Thiên Hà Thắng Cảnh. Vì những ngày này đều viết về hồi ức chuyện trên trời trong quá khứ, nên đặc biệt trở lại thăm một lần nữa, rồi trở xuống, thường xuyên qua lại như vậy, nên đã thấy được rất nhiều điều kỳ diệu của các vị thần tiên. Những vị thần tiên ở Thiên Hà Thắng Cảnh, họ vẫn còn nhiều dục vọng, nếu nói về cuộc sống của thần tiên, có lẽ mọi người đều không dám tin! Có những vị thần tiên cũng có nhiều bạn gái, điều này không phải là giả đâu.

Vị Thượng sư đến từ Đài Loan hôm trước vừa nói về trầu cau ở Đài Loan, kể cho mọi người nghe: "Ở Thiên Hà Thắng Cảnh cũng có người ăn trầu cau!" Tôi nghĩ lại chuyện trước đây, đã từng có một nơi nào đó trời đổ mưa màu đỏ, tôi đoán có lẽ là do các vị thần tiên ở Thiên Hà Thắng Cảnh ăn trầu cau, họ nhổ nước trầu ra nên mới thành mưa đỏ trên trời. Mọi người thấy lạ lùng không? Sao thần tiên trên trời cũng ăn trầu cau vậy? Thực ra không có gì lạ cả, bởi vì thần tiên ở đó, mọi ước muốn của họ đều được thỏa mãn, khi họ nghĩ về việc ăn trầu cau lúc còn ở nhân gian, chỉ cần muốn ăn, ước muốn vừa sinh khởi, trước mặt họ liền có trầu cau. Họ muốn gì, chỉ cần ước muốn vừa sinh khởi, trước mặt họ liền có thứ đó. Sau khi thành thần tiên, ngay cả những cô gái mà trước đây theo đuổi không được, cũng có thể dùng ý nghĩ biến ra.

Vì vậy cảnh giới của thần tiên vượt xa trí tưởng tượng của các bạn. Không phải cứ nghĩ, ôi, trông đẹp quá! Mặc toàn thiên y! Không cần tắm rửa! Không phải vậy đâu. Cảnh giới của thần tiên chính là - ước muốn, mọi ước muốn của bạn đều được thỏa mãn, cho nên khi làm thần tiên mà muốn tắm sauna, tự nhiên sẽ hiện ra ba hồ tắm sauna cho bạn.

Mọi người chắc chắn sẽ nghĩ rằng Sư Tôn nhất định có "dục thần túc". Đúng vậy, tôi xin nói với mọi người, Sư Tôn có dục thần túc. Tôi có thể kể cho các bạn một chuyện rất thật, ví dụ: bây giờ tôi muốn xem gì, lập tức có thể xem được phim đó; bây giờ muốn nghe loại nhạc nào, lập tức có thể nghe được; bây giờ muốn ăn gì, trong nước miếng liền sinh ra hương vị của món đó, nuốt vào chính là món đó; tôi muốn thứ gì, tuy không thể có ngay lập tức, nhưng cách vài ngày, thậm chí vài tháng, một năm, hoặc vài năm sau tôi đều có thể có được, chắc chắn sẽ có được, đây gọi là "dục thần túc".

Tóm lại, khi ước muốn vừa sinh khởi trong tâm, lập tức cảm nhận được ngay. Mọi người sẽ nghĩ, thật kỳ lạ, Sư Tôn muốn xem gì là có thể xem được ngay, vậy xem vào lúc nào? Khi ngủ thì đã quên sạch hết rồi, chính là lúc vừa đắp chăn lên người, nhắm mắt lại là có thể thấy được, lúc đó vẫn chưa ngủ, vừa hay muốn xem gì thì xem được nấy, cho nên giải thích về dục thần túc chính là "ước muốn điều gì, dục vọng tùy tâm". Dục thần túc là cấp độ sơ cấp nhất, Thượng sư có được dục thần túc này, mọi người tu hành cũng có thể đạt được dục thần túc.

Thứ hai là "niệm thần túc", cũng gọi là "niệm như ý túc". Như hiện giờ, khi Thượng sư vừa nghĩ đến, giống như đã nói trong pháp hội lần trước, đã đến cung Đại Nhật Pháp Giới, từ Đại Nhật Như Lai rồi hạ xuống Ma Ha Song Liên Trì, từ Ma Ha Song Liên Trì đến cõi Ma Vương, từ cõi Ma Vương đến cõi Đao Lợi, từ cõi Đao Lợi đến cõi Đế Thích, từ cõi Đế Thích lại hạ xuống địa ngục, rồi từ địa ngục đến Phổ Đà Sơn, từ Phổ Đà Sơn đến Thiên Hà Thắng Cảnh, cứ xoay chuyển qua lại như vậy, đều là "niệm như ý túc", đó là những trải nghiệm hạ sinh trong tiền kiếp của Thượng sư, không hề quên mất. Điều này không có nghĩa là chúng ta luôn tồn tại trong không gian ba chiều, bốn chiều, năm chiều, luôn luôn lưu chuyển trong quá khứ, hiện tại, tương lai, mà là khi bạn muốn biết về tiền kiếp, chỉ cần chuyển một ý niệm trong tâm trí, những cảnh tượng của tiền kiếp sẽ lần lượt hiện ra trước mắt, đây chính là thần túc thứ hai "niệm thần túc", Thượng sư cũng có điều này.

Vì vậy để đi vào kiếp trước một đời, hai đời, ba đời, thậm chí đến năm trăm đời trước, chỉ cần khởi một ý niệm là có thể nhớ lại tất cả. Năm trăm đời giống như năm trăm bộ phim vậy, nếu muốn biết về bộ phim thứ 499, chỉ cần tìm nó trong máy tính và phát lên xem, đó chính là niệm thần túc. Thượng sư đã tu chứng được niệm thần túc, không biết các bạn đã có chưa? Nếu không thể phát lại những ký ức tiền kiếp một lần nữa, thì giống như bây giờ, sẽ không thể hiểu được mối quan hệ giữa mình với tiền kiếp. Cuốn sách mà tôi đang viết đây chính là cuốn sách về "niệm thần túc".

Có một đệ tử từ Cao Hùng đến hỏi tôi: "Pháp môn Quan Âm là gì?" Nếu làm Thượng sư như tôi mà không trả lời được câu hỏi này thì chẳng phải rất mất mặt sao? May mắn thay, khi tôi tọa thiền, trong niệm thần túc, tôi đã đến rừng Tử Trúc ở Nam Hải Phổ Đà Sơn để gặp Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong kiếp trước, Quan Thế Âm Bồ Tát có một con chim tên là chim Thái Bình. Con chim này thấy tôi từ xa ngồi trên hoa sen trắng bay đến, rất ngạc nhiên, liền kêu lên: "Liên Hoa Đồng Tử đến rồi!" Các bạn có biết con chim này thường làm gì không? Nó thường ngậm tràng hạt của Quan Thế Âm Bồ Tát, nên khi vừa mở miệng, tràng hạt liền rơi xuống đất với một tiếng "bộp". Lúc đó, Quan Thế Âm Bồ Tát nói với nó: "Đây là một lỗi lầm nghiêm trọng, ngươi thấy người đến liền mở miệng kêu lên, làm rơi tràng hạt quý giá xuống đất, lỗi lầm này chính là nhân duyên khiến ngươi phải đầu thai xuống trần gian." Trong này có rất nhiều nhân quả, tạm thời không nói đến.

Tuy nhiên, khi ở chỗ Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài đã dạy tôi pháp môn Quan Âm. Pháp môn Quan Âm nói khó thì rất khó, nói dễ thì cực kỳ đơn giản, bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát từng nói một câu rằng: "Chỉ cần niệm danh hiệu của ta, tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn." Pháp môn Quan Âm được chia thành hai giai đoạn tu tập, giai đoạn thứ nhất là "pháp nhiếp niệm", giai đoạn thứ hai là "pháp hóa niệm". Học được pháp môn Quan Âm có thể đạt được thành tựu, có thể thành Phật, pháp này cũng đầy đủ vạn pháp. Tôi đã học pháp này từ Quan Thế Âm Bồ Tát, đã viết nó trong sách, và cũng đã nhận được ấn tâm từ Quan Thế Âm Bồ Tát, ấn tâm chính là tâm ấn. Vì vậy, những gì tôi nói hôm nay về việc đến chỗ Quan Thế Âm Bồ Tát học được pháp môn Quan Âm, toàn bộ ký ức tiền kiếp này được hiện ra, đó chính là "niệm thần túc".

Như tôi đã từng nói lần trước, con của tôi và nhiều đứa trẻ khác đều đến từ cõi trời Đế Thích. Khi chúng mới sinh ra đã kết ấn Đế Thích, bà đầu bếp chính là Đại Cát Tường Thiên Nữ; mẹ tôi chính là chim Thái Bình; còn bố tôi chính là sứ giả cầm đèn. Rất nhiều nhân quả tiền kiếp liên kết với nhau, từng mắt xích một, tôi sẽ dùng niệm thần túc để viết ra tất cả. Tuy nhiên, những điều này đều không liên quan gì đến tôi, bởi vì tất cả chỉ là duyên mà thôi. Có duyên thì ở bên nhau, vô duyên thì chia lìa.

Thần túc thứ ba gọi là "tấn thần túc", tức là "tấn như ý túc". "Tấn như ý túc" là gì? "Tấn" nghĩa là "tinh tấn không gián đoạn", không ngừng nghỉ. Cuốn sách này viết ra để giải thích về sự tinh tấn không gián đoạn, không nghỉ ngơi. Thực ra, còn có một cách giải thích sâu xa hơn, khi đạt được tấn thần túc, mọi lúc mọi nơi đều là Phật, mỗi cử chỉ hành động đều là cử chỉ hành động của Phật, đây là bước tiến xa hơn nữa. Thần túc thứ nhất là "thỏa mãn ước muốn", thần túc thứ hai là "ý niệm của bạn luôn được thỏa mãn", thần túc thứ ba là "bạn hoàn toàn hợp nhất với Phật", gọi là "tấn thần túc".

Lấy một ví dụ, đôi khi chúng ta tu hành rất tinh tấn, khi nhập Tam ma địa, cảm nhận được dòng chảy pháp tràn ngập toàn thân, vô cùng xúc động, thậm chí rơi lệ, lúc đó lòng từ bi của chư Phật Bồ Tát chiếm ngự thân tâm ta, thực sự rất từ bi, khi đó tâm lượng của ta rất rộng lớn, rất ôn hòa, khi nói chuyện với người khác, làm việc đều thể hiện thân tâm của Phật Bồ Tát. Nhưng khi vừa rời khỏi chùa, rời khỏi nhà thờ, lại đi đến hộp đêm, lại uống rượu, hút thuốc, nói lời thô tục, lúc thì là Phật, lúc lại thành phàm nhân, đó không phải là tấn thần túc. Có người chỉ đi nhà thờ sám hối một lần mỗi tuần, từ thứ Hai đến thứ Bảy thì phạm tội, Chủ nhật lại vào nhà thờ sám hối. Đây chính là một vòng tuần hoàn phạm tội - sám hối - phạm tội - sám hối. Nếu chúng ta cũng như vậy, lúc nhập định thì là Phật, ra khỏi định lại phạm tội, như đang luân hồi vậy, lúc thì rất tinh tấn, tu tập rất tốt, lúc lại phạm sai lầm, đó không phải là tấn thần túc. Tấn thần túc là đã không còn gián đoạn hay thăng trầm nữa, đã giống như Phật vậy, là Phật không gián đoạn. Một sự tinh tấn không ngừng nghỉ, không gián đoạn, đó chính là "tấn thần túc", tức là đã thành Phật, trong đó có học vấn rất sâu xa.

Một vị Phật có tấn thần túc, khi nhập định là Phật, khi xuất định được gọi là "dạo chơi cõi người", dạo chơi cõi người chính là du hý tam muội. Thực ra trong du hý tam muội của Phật, tâm không hề lay động, nhưng hành vi của Ngài giống như người thường, bởi vì Ngài phải độ chúng sinh, nên hình tướng, thói quen, ngôn ngữ đời sống đều phải hòa đồng với chúng sinh. Vì vậy, dù đi đến địa ngục độ chúng sinh, đến hộp đêm độ chúng sinh, hay đến bất kỳ nơi nào để độ chúng sinh, đều phải giống như chúng sinh, nhưng điểm khác biệt duy nhất là tâm Ngài không hề lay động. Ngài muốn độ người ăn chay thành Phật thì cũng ăn chay; muốn độ người ăn mặn thành Phật thì cũng ăn mặn; muốn độ người điên thành Phật thì cũng phải giả điên! Vì vậy, Phật tùy thuận chúng sinh, trong sự tùy thuận đó rồi mới tìm cách độ hóa. Chỉ cần trong tâm luôn có Phật, không bao giờ gián đoạn, đó chính là "tấn như ý túc".

Thần túc thứ tư chính là "huệ như ý túc". Khi đã đạt được tấn như ý túc thì tự nhiên sẽ đạt được huệ như ý túc. Cần phải biết rằng trí huệ này không chỉ là kiến thức thế gian, mà là thấu hiểu tường tận tất cả các pháp. Khi người khác hỏi về bất kì pháp nào, có thể lập tức vận dụng trí huệ để trả lời rõ ràng. Là một vị Thượng sư, chúng ta phải hiểu biết tất cả các pháp, không những thế còn phải biết cách tu học những pháp này, có thể viên mãn thông suốt tất cả các pháp, đầy đủ trí huệ viên mãn, đồng thời phải giữ cho tâm mình luôn có Phật, không để mất đi. Khi đầy đủ bốn loại thần túc này thì gọi là "thần túc thông". Khi bạn hiểu được trí huệ từ đâu mà có, thế nào là "trí huệ chân chính", thì mới có "huệ thần túc thông". Khi bạn đầy đủ huệ thần túc thông, có thể nói bạn là người số một thiên hạ, tuyệt đối không phải người thứ hai.

Khi mọi người học pháp và đạt được trí huệ chân chính, sẽ cảm thấy toàn thể vũ trụ, mười phương trên dưới đều vì mình mà sinh ra, mọi trí huệ trong thiên hạ đều nằm trong tâm, không có vấn đề nào là không thông suốt, bất kì vấn đề nào cũng có thể dung thông hiểu thấu, như nghệ thuật, tôn giáo, triết học, học vấn của nhân gian, thậm chí tất cả mối quan hệ giữa người với người, cõi trời và mười pháp giới đều thấu hiểu tường tận, đó chính là "huệ thần túc".

Om mani padme hum.

45. Âm thanh của chúng diễn xướng các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần

Hôm nay giảng về "ngũ căn, ngũ lực" trong Kinh A Di Đà. Thực ra ngũ căn, ngũ lực và như ý túc là gần giống nhau. Chúng ta có thể tự đọc, về ngũ căn và ngũ lực này mọi người nhìn qua đều sẽ hiểu.

"Ngũ căn là: Thứ nhất, tín căn - tin tưởng và chấp nhận các chân lý với lòng hoan hỷ. Thứ hai, tấn căn - do tin vào các pháp nên càng thêm tinh tấn. Thứ ba, niệm căn - luôn ghi nhớ không quên chính đạo và trợ đạo. Thứ tư, định căn - thu nhiếp tâm vào chính định, tương ứng không tán loạn. Thứ năm, huệ căn - tự soi chiếu quán xét, phân biệt rõ ràng. Giải thích ngũ căn xong."

Ngũ lực là: Thứ nhất, tín lực - khi tín căn tăng trưởng, có thể phá tan sự nghi ngờ. Thứ hai, tấn lực - khi tấn căn tăng trưởng, có thể phá tan sự lười biếng. Thứ ba, niệm lực - khi niệm căn tăng trưởng, có thể phá tan sự mê mờ quên lãng. Thứ tư, định lực - khi định căn tăng trưởng, có thể phá tan sự tán loạn. Thứ năm, huệ lực - khi huệ căn tăng trưởng, có thể phá tan sự ngu mê. Năm lực này nương theo năm căn ở trên, như cây lớn sinh rễ. Người tu tập ngũ lực giống như cành lá sum suê, ắt sẽ kết quả lớn. Giải thích ngũ lực xong.

Hôm nay chúng ta nói một chút về "thất bồ đề phần". Thực ra hai chữ "bồ đề" chính là "giác", dịch thành "giác". "Thất bồ đề phần" còn gọi là "thất giác chi".

Giác chi đầu tiên chúng ta gọi là "niệm giác chi". Niệm giác chi được nói đến ở đây dạy chúng ta tu hành chính là tu tập tâm niệm của mình. Nhiều người cho rằng tu hành là việc phiền muộn nhất, mỗi ngày đều phải làm công khóa cố định. Hồi còn đi học, điều sợ nhất là làm bài tập về nhà, nếu một ngày thầy cô thông báo: "Hôm nay không có bài tập, các em về nhà không cần làm bài!" thì vui mừng biết bao! Nhưng bây giờ là người tu hành, mỗi ngày đều phải làm công khóa, nghĩ lại quả thật rất mệt mỏi. Đôi khi đúng giờ làm công khóa cố định, lại gặp chương trình ti vi hay, liền nghĩ thôi vậy; đi tiệc tùng, ngày mai lại thôi; ngày mốt có người mời ăn cơm, cũng thôi luôn, cái thôi này không phải không đi ăn, mà là bỏ qua công khóa! Rồi ngày kia nữa, hiếm khi bị cảm cúm, tinh thần không tốt, Sư Tôn từng dạy tinh thần không tốt tu pháp cũng vô ích, à, thế thì nghỉ ngơi vậy; đến thứ Bảy, định đến Lôi Tạng Tự tham gia đồng tu, ôi, xe không chạy nổi, thôi, đừng đi nữa. Cứ như vậy, dần dần cảm thấy tâm trạng thoải mái, càng ngày càng xa rời việc tu hành, cuối cùng giống như đồng hồ ngừng chạy vậy. Tâm niệm chúng ta chưa bao giờ nhớ nghĩ đến Phật, nên càng ngày càng xa rời Phật.

Thực ra mỗi ngày phải cố định vào Phật đường để làm đại lễ bái, bốn pháp gia hành; lại phải tĩnh tọa, lại phải quán tưởng, lại phải kết thủ ấn, người khác sẽ cho rằng lãng phí thời gian, một người ở đó múa tay múa chân, đang làm gì vậy? Đời người thời gian cũng không dài, lãng phí trong mật đàn có ý nghĩa gì? Có người mỗi ngày tu pháp, đã tu được một năm, hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm, bảy năm lâu như vậy rồi, mà một chút cảm ứng cũng không có.

Nhưng sau khi tu tập bảy năm như vậy mà vẫn chưa có một chút cảm ứng nào, phải làm sao đây? Sư Tôn dạy: "Chỉ cần tâm niệm càng tu càng sáng suốt, càng tập trung, đó chính là tiến bộ." Tốt nhất là khi tọa thiền, nhập định, có thể cảm nhận được niềm hoan hỷ vô cùng phát sinh. Sư Tôn khi nhập Tam ma địa, thậm chí ngay cả lúc cầm chuỗi hạt tụng chú cũng đã nhập định rồi. Trong trạng thái nhập định, sẽ cảm thấy rất nhẹ nhàng, thoải mái, chúng ta gọi cảm giác này là "pháp hỷ", chính là niềm vui trong tu pháp. Phải giải thích thế nào về niềm vui tu pháp này đây? Thật sự rất khó, nhưng tôi thường thích ví von đó như "các tế bào đang nhảy múa".

Trong cuộc đời có hai điều hạnh phúc nhất, một là ăn, hai là ngủ. Trước kia khi tôi chưa tu pháp, tôi cho rằng ăn là niềm vui số một thiên hạ, ngủ là niềm vui số hai thiên hạ. Bố tôi thì khác với tôi, ông thường nói rằng ngủ quan trọng hơn ăn. Dù sao đi nữa, ai cũng cho rằng ăn và ngủ đều rất sướng. Sư Tôn đã phát hiện ra một điều bí mật, khi chúng ta tu pháp, chính là các tế bào trong cơ thể đang ăn uống, và hương vị của pháp này rất ngon, sau khi mỗi tế bào được thưởng thức, tất cả đều nhảy múa.

Vì vậy khi công phu trở nên buồn tẻ, chúng ta càng phải tinh tấn hơn nữa. Khi đã nếm được pháp vị và các tế bào tràn đầy linh lực, niềm vui nhẹ nhàng đó sẽ giúp bạn tiếp tục tu hành mãi mãi. Trạng thái này chính là khi dòng pháp trong vũ trụ đổ đầy vào thân, khiến bạn cảm thấy toàn thân nhẹ bổng bay lên. Nếu có được trải nghiệm như vậy, sẽ không còn sợ hãi hay lười biếng tu pháp nữa, bởi vì vào mật đàn tu pháp chính là để được nhẹ nhàng, để được bay bổng! Mỗi ngày được vào trong đó thư giãn một chút, bay bổng một chút, không phải rất tốt sao? Vì vậy Sư Tôn có thể tu pháp liên tục mỗi ngày là có lý do, đó chính là mỗi ngày được vào trong đó thư giãn một chút, tu pháp và bay bổng.

Bạn biết đấy, cuộc sống con người trên thế gian này có rất nhiều nỗi khổ, mỗi người đều có phiền não riêng, nhà nào cũng có nỗi khó khăn của riêng mình. Tâm trí chúng ta thường xuyên bấp bênh, khi phiền não đến, tâm giống như một chiếc thuyền con liên tục lay động, không thể giữ được bình tĩnh; lúc tâm trạng bất ổn dễ nổi giận, cáu gắt, cũng dễ làm sai việc, thường xuyên như một con thuyền tròng trành không định. Khi chúng ta vào mật đàn tu pháp, có thể loại bỏ được tâm phiền não này, giúp con thuyền trong tâm được vững vàng, để biển tâm được bình lặng. Ý nghĩ của con người thường xoay chuyển trong biển khổ, nhưng nhờ có tu pháp, tu tâm, nên khiến ý nghĩ trở nên tĩnh lặng không sóng. Vì tu pháp có thể sinh định, từ định sinh huệ, nên chúng ta vẫn phải tu pháp mỗi ngày, tốt nhất là có thể sinh ra pháp hỷ, một khi có pháp hỷ, sẽ tinh tấn tu pháp, không còn lười biếng.

Chúng ta hãy bàn về yếu tố giác ngộ thứ hai, đó là "trạch giác chi". Trạch giác chi thực chất là một loại trí tuệ, giúp chúng ta có thể quán chiếu mọi sự việc để phân biệt đâu là chính, đâu là tà, đâu là thật, đâu là giả - đó chính là trí tuệ.

Thế giới này vốn dĩ là sự pha trộn giữa thật và giả, như tôi đã từng nói, ở đời có thật thì sẽ có giả, nói về tu hành chẳng hạn, ai cũng tự cho mình là đúng; Sư Tôn nói: "Phật pháp tôi giảng là Phật pháp thật." Nhưng người khác lại không nói như vậy! Họ sẽ nói: "Phật pháp của chúng tôi mới là thật, Phật pháp bên Thượng sư Lư là giả." Có người còn nói: "Những gì tôi đang học mới là cao siêu nhất, bên Thượng sư Lư là tà." Tuy nhiên cũng có nhiều người đến đây nghe pháp, sau khi nghe xong cảm thấy Sư Tôn giảng hay, nơi này mới là thật.

Nhưng khi gặp một người tu hành khác nói với anh ta rằng: "Anh không biết đâu! Chỗ của Thượng sư Lư không thể đến được, đó là tà đạo!" Lúc đó trong lòng anh ta sẽ nảy sinh nghi hoặc - rốt cuộc đâu là thật, đâu là giả? Không thể lựa chọn được, bởi vì không có trí tuệ. Thế là, một lúc thì Nhật Liên Tông gọi anh ta đến quy y, anh ta liền đi theo, suốt ngày niệm "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh". Rồi khi tiếp xúc với Tịnh Độ Tông, họ nói không được niệm kinh của Nhật Liên Thượng Nhân nữa, phải niệm Phật! Anh ta lại đi quy y, bây giờ lại niệm "Nam Mô A Di Đà Phật".

Sau đó có người của Tiên Thiên Đạo nói với anh ta: "Đạo của chúng tôi chỉ cần điểm đạo là lên thiên đường ngay." Thế là anh ta lại đi điểm đạo, bây giờ đổi sang niệm ngũ tự chân ngôn "Vô Thái Phật Di Lặc". Bất chợt lại có người của Thiên Đức Giáo đến nói: "Những cái đó đều thấp kém cả, Vô Hình Đạo Tổ của chúng tôi mới là cao nhất." Ồ! Thế là anh ta lại đi quy y, niệm nhị thập tự chân ngôn "Trung Hiếu Liêm Minh Đức Bác Ái Tín Nhẫn Công". [Nhị thập tự chân ngôn gồm 20 chữ đầy đủ là "trung thứ liêm minh đức, chính nghĩa tín nhẫn công, bác hiếu nhân từ giác, tiết kiệm chân lễ hòa".] Đột nhiên anh ta nghĩ: "Ôi, lâu quá không đến Lôi Tạng Tự, đến thăm một chút vậy." Thế là anh ta lại bắt đầu niệm: "Ôm bua-rua lan chưa-li". Chẳng biết làm sao! Không có trí tuệ để quán chiếu, không thể tự lựa chọn, người ta nói Đông thì theo Đông, người ta nói Tây thì theo Tây.

Người tu hành chúng ta cần phải thiền định để đạt được "trạch giác chi", tức là dùng trí tuệ để quán chiếu, vì vậy mọi việc đều phải dùng lý trí để phân biệt, không thể nghe một vài lời nói mà đã thay đổi mục tiêu tu hành của mình. Thực ra, mỗi việc đều phải dùng lý trí để phân biệt, rồi dùng trí tuệ để quán chiếu, chọn lấy cái đúng làm kim chỉ nam cho cả đời, như vậy mới đúng. Người tu hành phải biết tự lựa chọn, phải có chủ kiến, dùng lý trí để phân biệt, chứ không phải người ta nói Đông thì theo Đông, nói Tây thì theo Tây, người ta nói một chút không đúng là không đến nữa, như vậy là không đúng.

Yếu tố giác ngộ thứ ba là "tinh tấn giác chi", tu hành cần phải tinh tấn, không được gián đoạn.

Yếu tố giác ngộ thứ tư là "hỷ giác chi", như vừa nói ở trên, đó là đạt được pháp hỷ, pháp vị, không điên đảo và có thể tinh tấn.

Yếu tố giác ngộ thứ năm là "khinh an giác chi". Khinh an nghĩa là đoạn trừ phiền não, chỉ có người đoạn trừ được phiền não mới có thể đạt được thân tâm khinh an. Bởi vì nếu trong tâm có chuyện, sẽ cảm thấy rất nặng nề. Nếu tâm không có phiền não, không có việc gì, sẽ cảm thấy rất nhẹ nhàng, vui vẻ.

Yếu tố giác ngộ thứ sáu là "định giác chi", định giác chi là gì? Bởi vì tâm đã định, nên có thể bất động, đã bất động thì sẽ không còn yêu, không còn ghét.

Yếu tố giác ngộ thứ bảy gọi là "xả giác chi". Chúng ta đều biết trong thế giới này, một trong những điều khó nhất chính là buông xả; đôi khi chúng ta rất khó buông bỏ tình cảm quá khứ, như người ta thường nói "ngọn lửa tình cũ bùng cháy trở lại", ở Đài Loan có một bài hát tên là "Tình xưa miên man"; không chỉ khó buông bỏ tình yêu, tiền bạc cũng khó buông xả, còn rất nhiều thứ khác nữa, như những oán hận trong quá khứ, những điều tiếc nuối, cũng không thể buông bỏ. Vì vậy, công phu buông xả là một yếu tố giác ngộ, phải có khả năng buông xả thì mới có thể đạt được thành tựu. Tại sao Phật Thích Ca Mâu Ni có thể đạt được thành tựu? Bởi vì Ngài có thể buông xả, buông bỏ ngôi vua, buông bỏ vợ con, buông bỏ tài sản, buông bỏ tất cả những duyên bên ngoài, Ngài có thể hoàn toàn nhìn thấu, hoàn toàn buông bỏ danh vọng, lợi lộc, địa vị, thậm chí tất cả mọi thứ trên thân mình, vì vậy mới đạt được đại thành tựu. Đó chính là xả giác chi.

Bảy yếu tố giác ngộ đến đây là hết.

Om mani padme hum.

46. Bát thánh đạo phần… hết thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng

Kinh văn:

"… bát thánh đạo phần; chúng sinh trong cõi ấy nghe những âm thanh này rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng."

Tối nay chúng ta tiếp tục giảng Kinh A Di Đà. Thứ Bảy tuần trước chúng ta đã giảng về "thất giác chi", tối nay sẽ giảng về "bát chính đạo". Trong đó có đề cập đến chữ "chính", tức là nói về chính đạo, nghĩa là đi trên một con đường chân chính, tu hành của chúng ta chính là phải đi trên một con đường chân chính.

Bát chính đạo là chia chính đạo thành tám loại đạo lý để giảng:

Thứ nhất là nói về "chính kiến", chữ "kiến" này có nghĩa là "sự thấy biết chân chính". Khi Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu thuyết pháp, Ngài giảng về bốn diệu đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Hiểu rõ được đạo lý của Khổ, Tập, Diệt, Đạo chính là một loại chính kiến. Giáo pháp đầu tiên mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng là bốn diệu đế, và giáo pháp cuối cùng Ngài giảng cũng là bốn diệu đế.

Thứ hai là nói về "chính tư", "chính tư" còn gọi là "chính tư duy", nghĩa là tư tưởng của bạn rất chân chính. Tư tưởng rất chân chính là bởi vì từ chính kiến về pháp bốn đế của bản thân mà dẫn phát ra tư tưởng, đó chính là tư tưởng chân chính, gọi là chính tư duy. "Chính kiến" và "chính tư", một cái là kiến giải chân chính, đúng đắn, một cái là tư tưởng chân chính, đúng đắn.

Thứ ba là "chính ngữ", thông thường những lời chúng ta nói ra đều phải rất công chính, và phải hết sức đúng đắn, hợp lý, gọi là chính ngữ. Cái gọi là chính ngữ bao gồm cả việc không được nói ỷ ngữ, ỷ ngữ là gì? Đôi khi rất khó giải thích. Trước đây khi chúng ta mới bắt đầu học tiếng Anh, có những giáo viên nói: "Các em học tiếng Anh tốt nhất nên bắt đầu từ những từ ỷ ngữ (những từ khiếm nhã)." Tại sao giáo viên tiếng Anh lại bảo chúng ta bắt đầu học từ những từ khiếm nhã? Bởi vì nó dễ thu hút người học hơn. Trước đây khi tôi còn học đại học, có một người bạn thường xuyên đọc tiểu thuyết tiếng Anh, anh ấy học tiếng Anh rất nghiêm túc, gặp từ nào không hiểu là lập tức tra từ điển. Tôi hỏi: "Sao cậu lại chăm chỉ đến thế?" Anh ấy đáp: "Vì đó là tiểu thuyết khiêu dâm." Cốt truyện của nó rất lôi cuốn, dễ dàng kích thích hứng thú học tập. Nếu là tiếng Anh chính thống thì anh ấy không đọc nổi, chỉ có tiểu thuyết khiêu dâm mới khiến anh ấy chăm chỉ tra từ điển, những đối thoại trong loại tiểu thuyết này gọi là ỷ ngữ.

Trong chính ngữ còn có một điểm rất quan trọng là "không hai lưỡi", điểm này rất quan trọng, bởi vì hai lưỡi là một điều rất đáng sợ. Tôi nhận thấy trong thế gian này, có rất nhiều người nói nhiều không ngừng, như người Trung Quốc thường nói: "Chê nhà họ Trương, khen nhà họ Lý." Họ lúc chạy đến nhà này nói chuyện nhà kia, lúc chạy đến nhà kia nói chuyện nhà này, đây gọi là hai lưỡi, người nói lời chân chính không hai lưỡi. Thực ra trên đời này muốn tìm một người quân tử chân chính rất hiếm, ai cũng có khuyết điểm, chúng ta là người tu hành phải che giấu điều xấu, phát huy điều tốt, học những ưu điểm của người khác, không nên phô bày khuyết điểm của người khác, như vậy mới có thể thực sự học được chính ngữ.

Tôi nghĩ như lời Khổng Lão Phu Tử đã từng nói: "Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó dạy." Có lẽ ngài đang đề cập đến chính ngữ. Trước đây tôi từng đọc một quyển sách, nói về bảy đời, ba đời hay mấy đời sống chung một nhà, trong đó có một câu chung là "đừng nghe lời phụ nữ"; bởi vì một khi nghe theo lời phụ nữ thì xong rồi, nửa đời cũng không thể sống chung được. Tất nhiên, đàn ông đôi khi cũng nói hai lời, nhưng phụ nữ thường hay nói hai lời hơn một chút, vì vậy cả nam lẫn nữ đều phải giữ gìn chính ngữ.

Còn có một điều tệ hại hơn nữa là "ác khẩu", miệng lúc nào cũng thốt ra những lời chửi rủa ba chữ, năm chữ, trong tiếng Anh có cả những câu chửi bốn chữ, những điều này đều không tốt. Bởi vì đây là những lời lệch lạc, không phải là chính ngữ.

Tại sao việc tu hành lại dạy mọi người niệm Phật? Bởi vì khi niệm Phật, tâm sẽ được thu nhiếp, tại sao lại dạy bạn trì chú? Bởi vì khi trì chú, sẽ không thể ác khẩu. Chú chính là một loại chính ngữ, danh hiệu Phật cũng là một loại chính ngữ. Niệm Phật trì chú có thể thu về khẩu nghiệp của bạn, khiến cho khẩu nghiệp được thanh tịnh.

Thứ tư, chúng ta nói về "chính nghiệp". Chính nghiệp không phải là nghiệp đen, mà là nghiệp thiện màu trắng. Chúng ta nói nghiệp thanh tịnh chính là thuộc về chính nghiệp.

Thứ năm, chúng ta nói về "chính tinh tấn". Tinh tấn là tinh tấn, vậy tại sao còn phải thêm chữ "chính"? Đi trên con đường chân chính mới gọi là chính tinh tấn. Nếu không, dù có hiểu được đạo lý tinh tấn, nhưng pháp tu không đúng, đã lệch lạc mà bản thân chưa nhận ra, thì sự tinh tấn như vậy là vô dụng. Học pháp là để làm gì? Nếu học pháp chỉ để có được thần thông rồi hơn người, đấu đổ tất cả các pháp sư, thì không gọi là chính tinh tấn. Có nhiều người học kiếm thuật, chăm chỉ luyện kiếm chỉ để giết hết tất cả những người biết kiếm thuật, muốn trở thành thiên hạ đệ nhất, thì đó cũng không phải là chính tinh tấn. Có người rất tinh tấn, nhưng lại thích so đo hơn thua với đồng môn, sau khi có được pháp lực thì chuyên đi hại người bằng bùa ngải, đó cũng không phải là chính tinh tấn.

Trước đây có một vị Tổ sư của phái Bạch giáo tên là Milarepa đến tham học với Lama Ung Đông Giáp. Ngài học pháp với tâm oán hận, mục đích chỉ để trả thù những người đã từng gây hại cho gia đình. Bởi vì trước kia, dân làng đã ngược đãi họ - một gia đình góa phụ và cô nhi, và đuổi họ ra khỏi làng, nên giờ đây ngài học pháp trở về là để trừng phạt những người đồng hương đó. Milarepa đã học được thuật làm mưa đá, và khi quay về làng, ngài đã thi triển pháp thuật khiến mưa đá rơi xuống, phá hủy toàn bộ lúa mạch và lúa gạo của dân làng. Đây chính là tâm thái "người khác càng đau khổ, ta càng vui sướng". Tương tự như một vị thầy thuốc học được tà pháp, rồi thi triển khiến cả làng mắc dịch bệnh, buộc tất cả mọi người phải đến nhờ ông ta chữa trị; hoặc như người bán quan tài thi triển pháp thuật khiến nửa dân làng chết đi. Những cách học pháp như vậy đều không phải là chính tinh tấn.

Milarepa rất lợi hại, những người cô, dì trước đây đã bắt nạt ngài, tất cả đang ở trong ngôi nhà mới, đang ăn tiệc cưới, ngài liền làm một pháp thuật, pháp thuật vừa làm xong, ôi trời ơi! Tất cả chuột bọ đều tụ tập lại gặm nhấm các cột nhà mới. Mối cũng tập trung lại, ăn hết cả bốn cột trụ của ngôi nhà. Trên lầu đang uống rượu mừng, ăn tiệc cưới, cũng là ngày vui chuyển nhà, không ngờ các cột trụ vừa bị ăn xong, cả ngôi nhà sụp đổ, đè chết hơn hai mươi người. Mặc dù pháp lực của Milarepa rất mạnh, nhưng thực ra đây không gọi là chính tinh tấn, bởi vì pháp này là lệch lạc. Vì vậy khi chúng ta học pháp phải chính tinh tấn. Pháp bốn đế là một chính pháp, điều quan trọng nhất là càng học tâm càng phải bình an, càng tĩnh lặng, để đi vào Niết bàn tịch tĩnh, chứ không phải càng học pháp càng muốn đấu tranh.

Trước đây có một thời gian Sư Tôn cảm thấy mình là người số một thiên hạ, gặp một số pháp sư giỏi hơn mình là muốn tìm họ tính sổ; bây giờ thì khác, giờ là người cuối cùng thiên hạ, không dám như vậy nữa. Lúc mới học pháp, cảm thấy mình rất mạnh, trong vũ trụ mười phương trên dưới chỉ có mình ta cao nhất, ta chính là Phật. Thực ra trong thiên hạ, cao thủ còn có cao thủ hơn, núi này cao còn có núi khác cao hơn, sóng sau đẩy sóng trước, người mới thay người cũ, giờ tôi càng lớn tuổi thì đầu óc càng kém, càng mờ mịt. Con hổ con mới sinh thì trời cao đất dày chẳng sợ gì cả, bê con mới đẻ không sợ cọp, nhưng bây giờ thì cái gì cũng sợ. Mới bắt đầu học Phật thì Phật ở trước mặt; học Phật năm mươi năm rồi thì Phật ở tận chân trời. Trí tuệ của đời người thật là bao la viên mãn, không phải kiếp sống nhỏ bé của chúng ta có thể học hết được. Lý do bây giờ không dám làm người số một thiên hạ, là vì càng học càng sợ, càng học càng thấy mình nhỏ bé, càng học càng không dám ngạo mạn, cuối cùng đành phải im lặng. Vì vậy nhờ pháp bốn đế mà có thể hướng đến Niết bàn, tâm được bình an tĩnh lặng, đó là vì đã hiểu rõ tất cả.

Thứ sáu, chúng ta nói về "chính định". Ở đây chính định không phải là thiền định, mà là bất động, nghĩa là chuyên tâm đi trên con đường chân chính này, không quay đầu lại, không thoái lui tâm ban đầu. Sư Tôn đã không thoái lui tâm ban đầu, dù sao thì kiếp này đã quyết tâm đi con đường này đến cùng. Thực ra trong số những người đến tu hành, hay những người đến quy y, người có thể chính định, hoàn toàn không dao động, cũng không nhiều. Người có thể có lòng kiên trì, có thể tu hành, có tâm định tĩnh, có thể quyết chí không lay chuyển, đó gọi là chính định.

Thứ bảy là "chính niệm", chính niệm có nghĩa là ý niệm của bạn rất đúng đắn, ở đây được giải thích là tâm bất động. Chúng ta biết dùng tâm có thể tiêu diệt tất cả hoàn cảnh, ai cũng nói: "Tâm tôi đã không động"; nhưng khi hoàn cảnh vừa thay đổi, tâm liền động. Tâm người thực ra đều bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, tôi đã từng nói, đang niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, bỗng có một cô gái đẹp đi qua cửa, bạn nghĩ: "A Di Đà Phật đẹp quá!", thực ra A Di Đà Phật không phải là đẹp, A Di Đà Phật là trang nghiêm. Miệng vẫn còn niệm A Di Đà Phật, nhưng tâm đã động rồi, tâm người thật không dễ tu đến mức bất động. Ý niệm của chúng ta thường bị môi trường bên ngoài lôi kéo, vì vậy chính niệm chính là giữ tâm không động.

Có lẽ mọi người đều nghĩ rằng mình đã tu tập rất tốt rồi, tâm đã không còn động nữa. Thực ra, muốn thử xem tâm mình có động hay không rất đơn giản, chỉ cần nhắm mắt lại một chút, khi nhắm mắt lại tâm đang nghĩ gì? Có thể vừa nhắm mắt lại, bạn gái liền hiện ra trong tâm; có thể vừa nhắm mắt lại, liền thấy kẻ thù; có lúc vừa nhắm mắt lại, phát hiện trong tâm đang nói chuyện, hóa ra trong tâm toàn là đang chửi người; hoặc có khi vừa nhắm mắt lại, ôi chao! Tệ quá, vừa rồi mình xem một cuốn tạp chí, có một cô gái xinh đẹp, cô ấy liền hiện ra trong tâm. Tâm luôn luôn động, không có chuyện bất động. Nói rằng tâm mình không động, những người chưa tu tập đều là nói dối. Người chơi chứng khoán, trong tâm toàn là cổ phiếu; người thích chính trị, trong tâm đã đang bầu cử; người thích triết học, trong tâm toàn là lý thuyết triết học. Hãy nghĩ xem, tâm bạn đã từng tĩnh lặng chưa? Vì vậy Phật pháp dạy người ta phải chính niệm, chính là nói về tâm bất động.

Thứ tám là nói về "chính mệnh", thông thường mà nói, chính mệnh này cũng rất khó giải thích, Phật đã từng nói về năm loại tà mệnh, chỉ cần chúng ta thấu hiểu kĩ càng, sẽ có thể phân biệt rõ ràng giữa chính mệnh và tà mệnh.

Loại thứ nhất gọi là hiện tướng đặc biệt. Thể hiện khác với người khác, giống như khi chúng ta cùng đứng chụp ảnh, tôi phát hiện có một đệ tử cứ thò đầu ra như thế này, rất kỳ lạ, bất kể tấm ảnh nào, đầu của người đó cũng như vậy, đây gọi là hiện tướng đặc biệt, luôn thích thể hiện bản thân khác với người khác; cách giải thích này có thể không hoàn toàn chính xác, nhưng đây chính là hiện tướng đặc biệt. Có người rất thích thể hiện bản thân, thực ra thể hiện cũng là điều tốt, nhưng phải tự nhiên, đừng vì muốn thể hiện mình mà cố tình làm những hành động kỳ quặc. Ý của chư Phật Bồ Tát là như vậy rất giả tạo, bởi vì sự giả tạo của bạn và việc thể hiện những điều kỳ lạ, đây không phải là chính mệnh tốt.

Loại thứ hai là tự nói công đức. Cảm thấy mình vĩ đại, công đức đã nhiều lắm rồi, cao như trời vậy, tôi đã làm bao nhiêu việc thiện, in bao nhiêu kinh sách, độ bao nhiêu người, cúng dường bao nhiêu, tôi đã từng thuyết pháp độ chúng sinh cho hàng vạn người, không ai có công đức bằng tôi, đây cũng là tà mệnh. Bởi vì trong mắt chư Phật Bồ Tát, cái gọi là công đức chính là không có công đức, không có công đức mới là công đức thật sự. Chúng ta làm việc thiện phải không khởi tâm nghĩ đến công đức, đó mới là công đức thật sự, nếu còn nghĩ đến công đức mà làm việc thiện, thì công đức sẽ giảm một nửa. Cho nên thường xuyên khoe khoang công đức của mình lớn lao, đó chính là một loại tà mệnh.

Loại thứ ba là xem bói cho người khác - chiêm đoán lành dữ. Thực ra việc chiêm đoán lành dữ đôi khi cũng không phải là không tốt, miễn là dẫn dắt người ta hướng thiện, dẫn người vào cửa Phật, điểm xuất phát này đều là thiện. Nhưng nếu chỉ nói về điềm tốt xấu, mà không đi đúng chính đạo, thì đó là tà mệnh. Thậm chí còn nhân cơ hội lừa tiền, đe dọa người khác, thậm chí còn lừa gạt sắc dục, đây chính là tà mệnh của việc chiêm đoán lành dữ.

Trước đây chúng tôi từng đến một nơi xem bói, thầy bói nói: "Ôi chao! Không được rồi, năm nay anh phải mặc đồ trắng." Ông ta không nói thẳng ra, chỉ nói mặc đồ trắng, chúng tôi đều cảm thấy rất lạ, mặc đồ trắng là sao? Có phải là quần áo của chúng tôi đều trắng và sạch sẽ? Theo phong tục của người Trung Quốc, mặc đồ trắng là biểu hiện nhà có tang sự mới mặc đồ trắng, giống như là đồ tang vậy. Sau khi hiểu ra, chúng tôi nghĩ: "Phải làm sao đây? Là ông nội, bà nội, cha, hay là mẹ? Rốt cuộc là ai?" Chúng ta thường mong muốn người thân trường thọ, sống càng lâu càng tốt, vừa nghe nói năm nay có tang sự, trong lòng liền hoảng sợ. Lúc này, thầy bói lấy một cái búa, từ một hòn đá đập xuống một mảnh đá nhỏ, dùng một tờ giấy vàng gói lại, ông ta nói: "Vật này có thể cứu mạng người nhà anh, anh có muốn không?" Chúng tôi đương nhiên nói muốn! Một mảnh đá nhỏ này có thể cứu mạng người nhà, làm sao tôi có thể không muốn chứ! Bên cạnh ông ta đặt một ống bút, ông ta liền đưa lên trên ống bút và nói: "Muốn thì phải trả ○○ tiền, không muốn thì tôi sẽ ném xuống." Đương nhiên lúc đó trong lòng rất giằng xé, vì nếu không lấy, tức là mất đi một người thân, còn nếu muốn thì phải đưa ra bao nhiêu tiền. À! Tôi biết được thủ đoạn nhỏ của thầy bói này, nên tôi nói với ông ta: "Không lấy." Ông ta nói: "Anh không lấy, tôi thật sự ném xuống là chết đấy." Lúc đó tôi vẫn giữ tâm không động và nói không lấy. Tại sao vậy? Bởi vì lúc đó tôi cũng không có nhiều tiền như thế, hơn nữa lại còn rất keo kiệt. Thực ra, đó là lừa đảo! Hoàn toàn không có chuyện đó. Nhưng thầy bói nắm được tâm lý "Anh muốn người đó sống hay chết?" để đe dọa bạn, khiến bạn phải móc tiền ra.

Loại thứ tư làcao giọng giương oai". Thực ra khi Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến điểm này, tôi thấy cũng khá thú vị. Tôi nhận thấy những người nói to để thể hiện uy quyền thường là quan chức hoặc người giàu có. Bởi vì nếu không nói to thể hiện uy quyền, người ta sẽ không biết họ có tiền có thế, người giàu thường nói chuyện to tiếng hơn, ít nhất là vì họ đang đứng trên đống tiền mà nói chuyện. Tuy nhiên khi chư Phật Bồ Tát nói về việc thể hiện uy quyền bằng cách nói to, phần lớn là chỉ những người giàu có, quan chức hay người có phước báu. Những người giàu có, quan chức địa vị cao do họ có phước báu nên mới thể hiện uy quyền bằng cách nói to, đôi khi cũng không có gì sai! Thực ra khiêm nhường một chút thì tốt hơn là thể hiện uy quyền bằng cách nói to, nếu không sẽ bị người ta chê là "mùi thùng phân quá nồng" (tục ngữ Đài Loan). Kiêu căng ngạo mạn, mùi hôi xông trời, dễ khiến người khác cảm thấy không hài lòng hoặc gây ra tranh chấp, vì vậy đây cũng là một loại tà mệnh. Do đó, quan chức càng khiêm nhường, người giàu càng khiêm nhường thì càng được người khác tôn kính hơn.

Loại thứ năm là nói về lợi ích đạt được. Ví dụ trong việc tu pháp, giống như sáng nay có người gọi điện đến nói: "Sư Tôn, con đã đắc đạo rồi." Tôi nói với anh ấy: "Chúc mừng anh!" Vài ngày sau anh ấy lại gọi điện đến nói: "Sư Tôn, con lại không đắc đạo nữa rồi." Nói thật, việc anh ấy nói không đắc đạo mới là bình thường. Khi anh ấy nói đã đắc đạo, tôi rất buồn, bởi vì có thể đầu óc anh ấy đã có vấn đề! Trước đây cũng có người gọi điện cho tôi nói: "Sư Tôn, tối qua con đã đắc đạo rồi." Ah! Tôi rất lo lắng, bởi vì chỉ vài ngày nữa chắc chắn anh ấy sẽ bị đưa vào bệnh viện tâm thần. Cho nên đắc đạo không phải là thứ dùng miệng nói ra, cũng không phải dùng tâm, cũng không phải dùng thân thể để thể hiện; mà là trong tâm thực sự đã giác ngộ, vô cùng bình an, vô cùng an lành.

Trước đây có người gọi điện cho tôi nói rằng: "Sư Tôn, con đã đến Tây phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì và gặp được ngài." Tôi hỏi: "Vậy anh thấy tôi như thế nào?" Người đó đáp: "Thầy là một chú ếch nhỏ trong Ma Ha Song Liên Trì." Không lâu sau, tình trạng trở nên nghiêm trọng và người đó phải vào bệnh viện tâm thần. Cho nên những người nói mình đã đắc đạo thật ra là chưa đắc đạo, thần thông quá mức sẽ dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, đó chính là tà mệnh. Thần thông chân chính là không có thần thông, bởi vì tâm bạn vận hành tự nhiên như vũ trụ, tự nhiên không có thần thông gì cả, tất cả đều diễn ra một cách tự nhiên, người giác ngộ thật sự là người không tranh đua với đời, tâm luôn bình an.

Tám chính đạo này còn gọi là tám chính pháp, giống như tám con thuyền hướng về chính đạo, có thể vượt qua sông phiền não, đến được bờ bên kia của sinh tử, đạt đến Niết bàn chân chính. Phần giải thích về tám chính đạo đến đây là hết.

Om mani padme hum.

47. Này Xá Lợi Phất! Ông chớ nghĩ rằng…. muốn cho âm thanh của pháp được lan truyền mà biến hóa ra.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Ông chớ nghĩ rằng: "Những con chim này thực sự do tội báo mà sinh ra." Vì sao vậy? Vì cõi Phật ấy không có ba đường ác. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy còn không có tên gọi của đường ác, huống chi là có thật. Những con chim ấy đều do Phật A Di Đà muốn cho âm thanh của pháp được lan truyền mà biến hóa ra."

Tuần trước chúng ta đã nói về tất cả các loài chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc, âm thanh mà chúng phát ra, và giáo pháp do chính những con chim này thuyết giảng, đến đây là kết thúc.

Do đó trong kinh có nói: "Tất cả các loài chim này, ngày đêm sáu thời, phát ra âm thanh hòa nhã, những âm thanh ấy diễn giảng về ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần và các pháp như vậy; chúng sinh ở cõi đó nghe được âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng."

Ở đây có hai đoạn kinh văn: "Ông chớ nghĩ rằng: 'Những con chim này thực sự do tội báo mà sinh ra.' Vì sao vậy? Vì cõi Phật ấy không có ba đường ác." Đoạn này nói về những con chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc không phải sinh ra từ đường ác.

Trong kinh văn còn nói: "Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy còn không có tên gọi của đường ác, huống chi là có thật. Những con chim ấy đều do Phật A Di Đà muốn cho âm thanh của pháp được lan truyền mà biến hóa ra." Ý nghĩa của đoạn kinh văn này là nói, những con chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc đều do chính Phật A Di Đà biến hóa ra, không phải do nghiệp báo từ ba đường ác sinh ra. Trước đây, có một vị thiền sư hỏi: "Tại sao Phật A Di Đà lại hóa ra những con chim bay đi bay lại trong thế giới Tây phương Cực Lạc?" Tôi nghĩ việc Phật A Di Đà biến hóa ra những con chim là có lý do của Ngài, bởi vì tiếng chim hót rất hay; khi chim bay lượn trên không trung, dáng vẻ rất đẹp; bộ lông của chim rất đẹp, màu sắc phong phú, và hình dáng của chim nhìn rất đẹp. Chim tượng trưng cho sự du hành, chúng bay khắp nơi, rất tự do, đây là điều mà người ta thường mơ ước. Vị thiền sư này hỏi: "Tại sao Phật A Di Đà lại biến hóa ra những con chim bay lượn trên không trung?" Bởi vì người đời đều thích chim, nên Ngài hóa ra những con chim để thuận theo ý nguyện của chúng sinh.

Phật A Di Đà rất thông minh, Ngài không biến hóa ra những con rắn ở thế giới Tây phương Cực Lạc, nếu thế giới Tây phương Cực Lạc toàn là rắn thì tôi sẽ là người đầu tiên không dám đến. Ngoài ra tại sao thế giới Tây phương Cực Lạc không có gấu? Tại sao không có hổ? Tại sao không có voi hay tê giác? Bởi vì những con vật này hoặc là quá to lớn, hoặc là quá hung dữ, hoặc là trông rất xấu xí. Nếu trong Ma Ha Song Liên Trì có cả cá sấu thì chúng ta sẽ khốn đốn! Không phải là loài cá đói bụng đâu, mà là loài gọi là alligator, tôi còn biết từ này đấy. Nhưng những con chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc không có loại to lớn và hung dữ như đại bàng hay kim sí điểu, tất cả đều là những con chim rất hiền hòa. Giống như cách chúng ta hay ví von hiện nay, phe chủ trương dùng vũ lực gọi là phái diều hâu, phe chủ trương hòa bình gọi là phái bồ câu, bồ câu là loài chim có tính tình ôn hòa và hiền lành hơn.

Ngoài ra tôi còn nghĩ, tại sao Phật A Di Đà lại biến hóa ra những con chim ở thế giới Tây phương Cực Lạc? Bởi vì những con chim này được biến hóa ra để thuận theo sở thích của chúng sinh. Tiếng chim rất du dương, và chúng diễn xướng những âm thanh Phật pháp, khiến người nghe sinh tâm hoan hỷ.

Bản thân tôi rất ngưỡng mộ tư tưởng của Trang Tử, tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử đều như thể có thể bay lên, khi tư tưởng bay bổng, nó giống như chim vậy, lướt đi hàng vạn dặm, vượt xa trí tưởng tượng của người đời. Vì thế Trang Tử từng mơ mình là một con bướm, khi bướm bay, dáng vẻ cũng vô cùng uyển chuyển đẹp đẽ. Nhưng tôi không thích giống như bướm, bởi vì bướm đến mùa đông đều phải chết.

Sư Tôn thích chim hơn, như những loài chim bốn mùa, xuân hạ thu đông đều sống được. Ngoài ra, trước đây tôi cũng có cảm tình với chim, vì khi chưa theo đạo Phật, ở Đài Loan tôi rất thích ăn thịt chim nướng. Thịt chim nướng rất ngon, nhưng sau này, khi hiểu được Phật pháp, thấy làm vậy quá tàn nhẫn với chim, nên không còn ăn thịt chim nướng nữa.

Phật A Di Đà hóa hiện những con chim này, chủ yếu là để dạy cho người đời đừng nên phân biệt, giống như những con chim này đều có thể sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, đây chính là Pháp thân bình đẳng. Đây là điều được nói trong Kinh A Di Đà về thế giới Tây phương Cực Lạc, lời Phật dạy về lý do có loài chim cộng mạng.

Tối nay vì có đệ tử muốn học pháp, tôi đã giảng nửa ngày, dường như không có pháp nào để dạy, vừa hay hôm nay chúng ta nói về chim, vậy thì hôm nay hãy dạy một pháp về chim vậy! Các bạn đừng xem thường pháp này, Sư Tôn nói cho các bạn biết, đây cũng là một pháp trong Mật tông. Trong Mật pháp có một pháp Đại Bàng Kim Sí Điểu, nhưng tối nay Sư Tôn dạy không phải pháp Đại Bàng Kim Sí Điểu, mà là pháp Ca Lăng Tần Già.

Thần chú của pháp này là "Ôm ka-lin-pin-ka sô-ha".

Trong phép quán tưởng này, lấy Phật A Di Đà làm trung tâm, xung quanh hiện ra rất nhiều chim đẹp. Xung quanh Phật A Di Đà có rất nhiều chim nhiều màu sắc, vô cùng đẹp đẽ.

Khi thực hành pháp môn này, thủ ấn được kết là thủ ấn chim, thủ ấn chủ yếu của chim chính là đôi cánh. Thủ ấn này rất đơn giản, là hai cánh và một đầu đặt trước ngực, đây chính là thủ ấn Ca Lăng Tần Già, cũng là thủ ấn của chim cộng mạng. Trong pháp tu của chúng ta, trước tiên quán tưởng Phật A Di Đà xuất hiện, sau đó xung quanh có rất nhiều chim, có rất nhiều chim nhiều màu sắc, rồi kết thủ ấn chim. Quán tưởng những con chim đó bay lượn trong không trung, sau đó quán tưởng Phật A Di Đà phóng quang chiếu rọi hành giả. Tiếp theo tụng chú: "Ôm ca lăng tần già sô-ha", âm đọc là "Ôm ka-lin-pin-ka sô-ha".

Đây là thần chú, phép quán tưởng và thủ ấn được sử dụng khi thực hành pháp môn.

Mọi người sẽ hỏi, tu tập pháp môn này có lợi ích gì? Liệu tu tập pháp môn này có khiến chúng ta biến thành chim trong tương lai không? Không phải vậy! Pháp môn này có ý nghĩa giúp thần thức xuất ra, nhiều người ban đêm hay gặp ác mộng, khó ngủ, tu tập pháp môn này có thể ngăn chặn ác mộng, bởi vì sau khi tu tập, thân thể sẽ trở nên nhẹ nhàng, tâm hồn cũng trở nên thanh thoát như chim. Ngoài ra có nhiều đệ tử khi nằm mơ, lúc thì bị rắn cắn, lúc thì bị chó cắn, lúc thì có người cầm dao muốn giết, chạy không thoát, lúc thì gặp ma quỷ, lúc thì gặp những việc rất tàn bạo, chạy cũng không thoát; nếu tu tập pháp môn này thì trong mộng sẽ có thể bay được, những con chó và rắn đó sẽ không thể cắn được bạn.

Tóm lại, tu tập pháp môn này, ít nhất trong tương lai cũng được làm thiên nhân, chứ không phải biến thành loài quạ trong thế gian này cứ "a a a". Tuy nhiên, nếu có biến thành quạ cũng không tệ, vì nó biết niệm chú, niệm "a". Bồ câu cũng biết niệm chú, bạn có biết bồ câu niệm chú gì không? "Guru guru guru guru", guru chính là Thượng sư. Thật ra, chúng ta tu tập pháp môn này, niệm "Ôm ka-lin-pin-ka sô-ha" chính là bước đầu tiên để sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Nếu chúng ta tu tập pháp môn này tương ứng, trong mơ sẽ được an lành, tiếp đến sẽ xuất thần, đắc thần túc thông. Tôi nghĩ những người có phiền não tu tập pháp môn này cũng có lợi ích, bởi vì tâm trạng sẽ được giải thoát, như thể trên thân đã mọc cánh có thể bay được.

Tôi nhớ lúc còn nhỏ khi đến nhà thờ, thấy những bức tranh thiên thần đều có một đôi cánh. Hồi nhỏ tôi đến nhà thờ chỉ có hai mục đích, một là vào dịp Giáng sinh để lấy thiệp và kẹo, hai là vào dịp Phục sinh để ăn trứng đỏ. Còn về phần bột mì thì tôi không được chia vì còn quá nhỏ; ngoài ra, cũng vì bạn gái thời tiểu học của tôi cũng đi nhà thờ.

Pháp môn mà tôi vừa giảng cho mọi người rất dễ tu tập và rất nhẹ nhàng. Bạn có thể quán tưởng các loài chim xung quanh Phật A Di Đà bay lượn tuyệt đẹp, bạn sẽ cảm nhận được âm thanh thần chú vô cùng vi diệu, "Ôm ka-lin-pin-ka sô-ha", âm thanh thần chú này rất nhẹ nhàng, như thể sắp bay lên vậy. Thường xuyên trì tụng thần chú này, quán tưởng bầy chim bay lượn, tâm hồn sẽ như chim bay lượn, có thể vượt thoát khỏi thế gian, không trụ ở thế gian mà ở trên thiên giới, thường xuyên bay lượn như chim, sẽ không còn phiền não, tầm nhìn có thể nhìn xa, có thể thấy núi non, thấy sông nước, thấy được tướng của chúng sinh, thực sự là sống trong cõi trời.

Trì tụng thần chú này chính là kết duyên với Phật A Di Đà, bởi vì những con chim này đều là hóa thân của chính Phật A Di Đà. Cảnh giới cao nhất có thể đạt đến thế giới Tây phương Cực Lạc, có thể đi vào trong tâm của Phật A Di Đà, có thể xem pháp môn này là pháp tu sơ cấp của Phật A Di Đà. Khi bạn tu tập đến mức có thể bay trong mơ, tâm hồn trở nên nhẹ nhàng, có thể thấy được thế giới nghìn đèn nghênh đón của Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, đó chính là tương ứng, đã đắc thần túc thông, có thể đi khắp nơi. Đây chính là pháp Ca Lăng Tần Già được truyền trong tối nay.

Các bạn đã từng nghe về pháp này chưa? Trước đây có người chỉ tu một pháp này thôi mà vẫn được vãng sinh về Tây phương Cực Lạc. Những ca sĩ tu pháp này, giọng hát sẽ mãi mãi tuyệt vời. Còn một điều tốt nữa là khi người ta tặng quà cho bạn, họ sẽ tặng những bộ quần áo đẹp. Dù không tu thành tựu đi nữa, kiếp sau chuyển thế, giọng nói sẽ trong trẻo như chim, tất cả mọi người khi nghe giọng nói của bạn đều như bị điện giật vậy, ai cũng sẽ thích bạn. Nhờ vào giọng nói tuyệt vời đó, ở kiếp sau, bạn có thể đạt được tất cả của cải, nghề nghiệp tốt nhất là làm nhân viên trực tổng đài.

Pháp môn này thực sự hữu dụng, những ví dụ mà Thượng sư đưa ra trong khi giảng pháp đều rất chân thật. Vì vậy, xin nhắc lại đại ý một lần nữa, tu tập pháp môn này có thể đắc thần túc thông, phá trừ phiền não, âm thanh tuyệt diệu, vãng sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới của Phật A Di Đà, ít nhất cũng chắc chắn được sinh lên cõi trời.

Các bạn còn nhớ thủ ấn không? Thần chú là "Ôm ka-lin-pin-ka sô-ha". Trong pháp truyền thừa này, ở giữa là Phật A Di Đà, xung quanh là những con chim nhiều màu sắc. Hôm nay giảng pháp đến đây.

Om mani padme hum.

48. Này Xá Lợi Phất! Ở cõi Phật ấy… cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Ở cõi Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm nghìn loại nhạc cùng trỗi lên một lúc. Người nghe những âm thanh ấy tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế."

Giảng thêm một chút về Kinh A Di Đà. Hai đoạn kinh văn hôm nay đều rất đơn giản, mọi người có thể tự đọc. "Này Xá Lợi Phất! Ở cõi Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm nghìn loại nhạc cùng trỗi lên một lúc. Người nghe những âm thanh ấy tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế." Dù sao hai đoạn này mọi người đều rất rõ, vừa đọc là hiểu, cho nên hôm nay giảng kinh đến đây là kết thúc.

Om mani padme hum.

49. Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào… không bị chướng ngại, vì thế nên có hiệu là A Di Đà

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Vì sao Đức Phật kia có hiệu là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Ánh sáng của Đức Phật ấy vô lượng, chiếu khắp mười phương cõi nước, không bị chướng ngại, vì thế nên có hiệu là A Di Đà."

Chúng ta hãy tiếp tục giảng về "Kinh Phật Thuyết A Di Đà".

"Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Vì sao Đức Phật kia có hiệu là A Di Đà?" Đoạn này nói về báo thân chính của Phật A Di Đà. Phật hỏi Xá Lợi Phất rằng: "Theo ý ông, tại sao Phật có danh hiệu A Di Đà?"

Câu trả lời của Ngài là: "Này Xá Lợi Phất! Ánh sáng của Đức Phật ấy vô lượng, chiếu khắp mười phương cõi nước, không bị chướng ngại, vì thế nên có hiệu là A Di Đà."

Vừa rồi chúng ta đã nói về ánh sáng, ở đây sẽ giảng về ba ý nghĩa của Phật A Di Đà. Ý nghĩa thứ nhất là "Quang", ánh sáng của Phật A Di Đà là vô lượng. Thế nào gọi là "Quang vô lượng"? Ánh sáng vô lượng này giống như có thể hòa nhập vào toàn bộ hư không vậy, đạt đến trình độ như vậy mới gọi là quang vô lượng. Khi mọi người tọa thiền vào Tam ma địa, vì thân thể phát ra ánh sáng, ánh sáng này hòa nhập với ánh sáng vũ trụ, tự mình biến thành ánh sáng vũ trụ, như vậy mới có thể đạt được quang vô lượng. Trước đây, Sư Tôn đến thế giới Tây phương Cực Lạc Ma Ha Song Liên Trì, thấy các vị Liên Hoa Đồng Tử, mỗi vị đều tỏa sáng.

Hôm nay nhớ lại, những ánh sáng đó giống như gì? Dường như chính là loại ánh sáng này. Ánh sáng mà mắt nhìn thấy chiếu thẳng đến, mắt thường không thể mở ra để nhìn được, ôi! Đó thực sự là một biển ánh sáng vô tận. Ở đây nói rằng: "Phật A Di Đà là vô lượng quang." Có người hỏi: "Tại sao ánh sáng này lại vô lượng?" Ánh sáng mà chúng ta thường thấy không phải là vô lượng, đôi khi chỉ có chỗ này có ánh sáng, những nơi khác vẫn không có. Nhưng hãy nghĩ xem, vành đai ánh sáng quanh sao Thổ lớn đến mức nào? Vũ trụ lớn đến đâu? Phải biết rằng tàu vũ trụ của chúng ta bay một vòng quanh hệ Mặt Trời cần bao nhiêu năm ánh sáng? Nếu dùng tuổi thọ của chúng ta để bay vòng quanh hệ Mặt Trời hay vũ trụ, phải qua bao nhiêu đời con cháu mới có thể bay hết số năm ánh sáng đó và quay về. Thực ra, chúng ta đều biết vũ trụ này là vô lượng. Ai có thể đo được ánh sáng của mặt trời sáng bao nhiêu? Chỉ riêng ánh sáng mặt trời đã là vô lượng rồi. Do vậy có thể thấy rằng "quang vô lượng" của Phật A Di Đà là điều có thể giải thích được.

Thứ hai là "thọ vô lượng". Hãy nghĩ xem, đã là quang vô lượng thì tuổi thọ của Ngài đương nhiên cũng vô lượng. Thời gian hình thành của vũ trụ, chúng ta có thể gọi là năm ánh sáng. Đã là ánh sáng vô lượng, thì thọ mạng của Ngài cũng vô lượng.

Thứ ba là "đồ chúng vô lượng". Bản thân Phật A Di Đà có số tín đồ là vô lượng, chỉ riêng đệ tử ở Ma Ha Song Liên Trì của thế giới Tây Phương Cực Lạc đã vô lượng rồi, có mười tám vị Đại Liên Hoa Đồng Tử, bên cạnh mỗi vị Đại Liên Hoa Đồng Tử có năm trăm vị Trung Liên Hoa Đồng Tử, bên cạnh mỗi vị Trung Liên Hoa Đồng Tử có năm trăm vị Tiểu Liên Hoa Đồng Tử, bên cạnh mỗi vị Tiểu Liên Hoa Đồng Tử lại có năm trăm vị Tiểu Tiểu Liên Hoa Đồng Tử. Nghĩ như vậy, quả thật là vô lượng, không biết tính thế nào! Hôm nay tôi bảo họ tính, họ tính mãi vẫn không ra được.

Thật ra, vô lượng này cũng giống như đạo lý một hạt cát chứa đựng đại thiên thế giới, một giọt nước chứa tiểu thiên thế giới vậy. Các nhà khoa học nói rằng, chỉ riêng một điểm nhỏ ở đầu mũi kim đã có hàng tỷ hạt nhân nguyên tử, hàng tỷ proton, hàng tỷ neutron và electron. Vô lượng này, từ vĩ đại như vũ trụ cho đến nhỏ bé như lỗ kim, đều chứa đựng nhiều thành phần như vậy, cho nên vô lượng được giải thích như thế.

Ở đây giải thích: "Ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng chiếu soi khắp thế giới không hề bị ngăn ngại, sơn hà đại địa không thể cản trở được ánh sáng của Ngài, ánh sáng của mười phương cõi Phật đều là vô lượng, vì vậy nên có danh hiệu là A Di Đà."

Vừa rồi tôi đã giảng với mọi người về vô lượng quang của Đức Phật A Di Đà. Mỗi người chúng ta trong quá trình tu tập thiền định, chỉ cần đạt được trạng thái vô ngã thì cũng có thể hiển hiện vô lượng quang. Ý nghĩa của câu này là không nên nhớ nghĩ về bản thân, không nghĩ về người mình yêu thương, cũng không nghĩ về người mình ghét, không giận dữ, không đố kỵ, trong lòng không buồn phiền, cũng không vui mừng. Khi đạt được trạng thái cân bằng tuyệt đối này thì mới có thể tập trung tinh thần và đạt đến vô ngã. Lúc này sẽ cảm thấy thân thể rất nhẹ nhàng, như đang bay bổng; tinh thần vốn đã tập trung, sau đó hóa thành hư không, rồi mở rộng thành ánh sáng mười phương; trước tiên tập trung thành một điểm sáng, sau đó mở rộng điểm sáng đó, từ các lỗ chân lông tỏa ra ánh sáng mười phương. Đã vô ngã thì thân xác cũng không còn. Lúc này ánh sáng bên ngoài và ánh sáng từ thân hòa làm một, dung hợp thành ánh sáng vũ trụ, lúc đó bạn chính là Phật A Di Đà. Tu hành nhập vào Tam ma địa của Phật A Di Đà thì có thể hóa thành ánh sáng mười phương, trong ngoài hợp nhất. Khi đó, ánh sáng vũ trụ sẽ hút lấy bạn, chỉ kéo một cái là đưa bạn lên thế giới Tây phương Cực Lạc. Tôi thành thật nói với mọi người, điều này hoàn toàn dựa vào sức mạnh của thiền định, nương vào tự lực để trực tiếp sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Nói chung, Hiển giáo vì bản thân chưa thể phóng quang bay đi được, chỉ có thể nương nhờ ánh sáng của Phật A Di Đà chiếu rọi, hút lấy chút ánh sáng nhỏ như ngọn nến trên thân mình, tu hành thực ra là như vậy. Hôm nay giảng đến đây.

Om mani padme hum.

50. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy… Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã được mười kiếp

Kinh văn:

"Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên có hiệu là A Di Đà. Này Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã được mười kiếp."

Tối nay chúng ta tiếp tục giảng "Kinh A Di Đà Thích Yếu". Tuần trước đã giảng đến câu "chiếu khắp mười phương cõi nước, không bị chướng ngại, vì vậy có hiệu là A Di Đà".

Tôi đọc tiếp một đoạn kinh văn: "Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên có hiệu là A Di Đà." Đoạn này nói về thọ mạng của Đức Phật A Di Đà cũng là vô lượng.

"Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã được mười kiếp." Mười kiếp này, có lẽ là mười năm chăng? Giả sử tính một kiếp là một trăm năm thì cũng chỉ được một nghìn năm. Thực ra phải hiểu như thế này, vì sao gọi Phật A Di Đà là thọ mạng vô lượng? Bởi vì thọ mạng của Ngài quả thật rất dài, tựa như vô lượng, thực ra không phải là thực sự không có khởi đầu, không có kết thúc, mà là thọ mạng của Ngài rất dài, giống như vô lượng vậy.

Điều mà chúng ta gọi là một đại kiếp có thể tính như thế này: giống như trái đất, vũ trụ có giai đoạn "thành", sau khi thành rồi trải qua một thời gian là giai đoạn "trụ", rồi khi sự vật hư hoại đi là giai đoạn "hoại", "hoại" rồi lại trở thành "không", thành-trụ-hoại-không, tính như vậy thành một kiếp.

Nhiều nhà khoa học nghiên cứu tuổi thọ của Trái đất, phát hiện ra trước đây có cái gọi là chuyển động tạo núi, giống như núi biến thành biển, biển lại biến thành núi. Chu kỳ này đã xảy ra bảy lần, vì vậy đôi khi trên đỉnh núi có thể tìm thấy vỏ sò, còn dưới đáy biển cũng có thể có núi lửa.

Trái đất trải qua mỗi chu kỳ thành-trụ-hoại-không được tính là một tiểu kiếp; tám mươi tiểu kiếp gọi là một đại kiếp. Như vậy Phật A Di Đà đã thành Phật được mười đại kiếp rồi, chúng ta thử nghĩ xem, thọ mạng này thực sự quá dài, khó có thể tưởng tượng được có thọ mạng dài như vậy, cho nên Phật A Di Đà là quang vô lượng, cũng là thọ vô lượng.

Lại nói về "trong ánh sáng có thọ mạng, trong thọ mạng có ánh sáng". Ánh sáng vô lượng và thọ mạng vô lượng như vậy dường như đã vượt quá khả năng tưởng tượng của con người chúng ta. Có nhiều điều rất khó tưởng tượng, giống như ánh sáng di chuyển, ánh sáng của Phật A Di Đà di chuyển trong vũ trụ, đương nhiên cũng mang theo thọ mạng, bởi vì ánh sáng di chuyển ắt phải có tốc độ, đã có tốc độ thì nhất định có thời gian, đã có thời gian thì nhất định có thọ mạng. Phật A Di Đà ở một thế giới Tây phương Cực Lạc rất xa xôi, từ nơi này đến chỗ Phật A Di Đà phải trải qua không gian và thời gian của hàng tỷ năm. Chúng ta phải dùng hiện tượng vũ trụ mới có thể hiểu được ý nghĩa của quang vô lượng và thọ vô lượng.

Om mani padme hum.

51. Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn… thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Kinh văn:

"Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là bậc A La Hán, không thể dùng toán số mà biết được, các Bồ Tát cũng như vậy. Này Xá Lợi Phất! Cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế."

Ở đây lại nói: "Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là bậc A La Hán, không thể dùng toán số mà biết được, các Bồ Tát cũng như vậy."

Những vị gọi là Thanh Văn đều là người tu hành và đạt được thành tựu trong tĩnh lặng, Thanh Văn chính là A La Hán. Có một số người có thể tu theo Thanh Văn thừa, tính tình khá nóng nảy, lại khá cô độc, thích yên tĩnh, họ có thể tu theo Thanh Văn thừa, bởi vì họ không thích độ chúng sinh, chỉ cần nhắc đến việc độ chúng sinh là nổi giận. Phần lớn những vị Thanh Văn, đều thấy người trong thế gian này khó độ, nhìn mà không chịu nổi, lại sinh tâm sân hận, nên một mình tu trên núi. Thanh Văn vì bản thân khá cố chấp, nóng tính, cũng không thích chúng sinh, chỉ thích tu hành một mình, nên mới trở thành Thanh Văn.

Ở đây chúng ta có Thập Bát La Hán, tất cả đều là bậc Thanh Văn. Tượng điêu khắc của các ngài trông khá nghiêm nghị, với những nét mặt độc đáo. Mỗi vị Thanh Văn đều có điểm cố chấp riêng, có vị suốt đời không chịu mở mắt vì cho rằng nhìn thấy mọi thứ trên đời sẽ làm ô nhiễm đôi mắt. Có vị hoàn toàn không nói một lời nào, bởi họ cho rằng khẩu nghiệp đều từ miệng mà ra, nên giữ miệng như bình, không nói lời nào. Có vị không nghe bất cứ điều gì, vì cho rằng mỗi lần người ta nói chuyện đều là bàn chuyện thị phi, lời có ý nghĩa thì ít mà chuyện phiếm thì nhiều, không muốn nghe nhiều lời, nên bịt kín tai lại, nếu vô tình nghe được âm thanh nào lọt vào tai thì vội vàng chạy ra bờ sông rửa tai.

Những vị La Hán này, mỗi người đều có những điểm cố chấp riêng. Có người chỉ sống trên cây, không chịu xuống. Trước đây có một vị thiền sư Điểu Sào cũng sống trên cây không chịu xuống, có người nói với ngài: "Sống trên cây rất nguy hiểm." Ngài đáp: "Tôi ở trên cây không bao giờ sợ nguy hiểm." Chúng ta sống dưới mặt đất có nhiều nguy hiểm, đi trên đường có thể gặp tai nạn xe cộ, hỏa hoạn bất ngờ; ngoài thiên tai ra còn có những khó khăn do con người gây ra. Nhưng ngài sống trên cây lại rất an toàn, bởi vì không xâm phạm đến ai, nên người khác cũng không làm hại ngài. Vì vậy những vị Thanh Văn thực ra có lý lẽ riêng của họ.

Bây giờ chúng ta hãy nói về Bồ Tát chúng. Bồ Tát khó tu hơn Thanh Văn, vì Bồ Tát phải độ chúng sinh, Bồ Tát là người nguyện độ tất cả chúng sinh hữu tình. Không giống như Thanh Văn, Bồ Tát có thể hàng phục rồng và chế ngự hổ. Làm Bồ Tát phải sẵn sàng xả thân, nếu có con hổ đói đi đến, còn phải bước tới cho nó ăn. Bồ Tát vì lòng từ bi độ chúng sinh, nên xem tất cả chúng sinh hữu tình trong thế gian như chính mình. Thậm chí có những vị nữ Bồ Tát, khi thấy người đàn ông hung ác, còn cố ý kết duyên với họ, rồi từ đó khuyên bảo, khiến họ quay đầu hướng thiện; những vị Bồ Tát như vậy, đã xả bỏ cả sinh mạng và danh tiết của mình. Đây chỉ là ví dụ, mọi người đừng bắt chước, bởi vì nếu bạn muốn khuyên một người xấu mà không thành công, lại còn hy sinh bản thân, thì không tốt chút nào.

Bồ Tát còn được gọi là Giác Hữu Tình, tức là dùng sự giác ngộ của mình để ảnh hưởng đến chúng sinh hữu tình, khiến chúng sinh cũng được giác ngộ, đó chính là Bồ Tát.

Om mani padme hum.

52. Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào… vô lượng vô biên a-tăng-kỳ.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào sinh về cõi nước Cực Lạc đều là bậc bất thoái chuyển. Trong số đó có rất nhiều vị Nhất Sinh Bổ Xứ, số lượng nhiều không thể tính đếm được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ."

Ở đây lại nói: "Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào sinh về cõi nước Cực Lạc đều là bậc bất thoái chuyển. Trong số đó có rất nhiều vị Nhất Sinh Bổ Xứ, số lượng nhiều không thể tính đếm được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ."

Trước đây khi tôi tụng kinh, thường tụng về A-bệ-bạt-trí này, vậy A-bệ-bạt-trí là gì? Chúng ta dịch là "bất thoái", tức không thoái chuyển. Tất cả chúng sinh khi đến Tây phương Cực Lạc thế giới đều được gọi là A-bệ-bạt-trí, nghĩa là đã đạt đến trạng thái không còn thoái chuyển. Ở đây nói về bất thoái có ba ý nghĩa:

Thứ nhất gọi là danh vị bất thoái. Cần biết rằng, địa vị của chúng sinh đều là thăng trầm vô thường, ở cõi Ta Bà này, chúng sinh sống trong cõi phàm trần, địa vị đều phải thoái. Trước đây Sư Tôn có xem tướng số cho người khác, có một vị cấp trên đến hỏi tôi: "Khi nào tôi có thể đạt được chức vụ cao nhất?" Tính toán một hồi, tôi biết một năm sau ông ấy sẽ lên được chức vụ Cục trưởng cao nhất ngành đo đạc, nhưng chưa đầy một năm sau sẽ rớt xuống vị trí thấp nhất. Tôi nói với ông ấy: "Một năm sau ông sẽ được làm Cục trưởng." Nhưng tiếp theo tôi nói: "Tuy nhiên sau một thời gian, ông sẽ..." Chưa nói hết câu thì ông ấy đã nói: "Không cần nói nữa." Ông ấy bảo chỉ cần biết được chức vụ cao nhất là đủ rồi. Vị cấp trên của chúng tôi thực sự đã đạt đến chức vụ cao nhất, nhưng vì phạm phải một sai lầm, khi mọi người đến tìm ông, ông cầm kéo nói: "Đừng ai đến tìm tôi, tôi sẽ tự kết liễu!" Rồi ông lấy kéo đâm vào bụng mình, chưa đầy một năm giữ chức vụ cao đó thì đã tự sát. Đúng như lời Sư Tôn đã nói: "Từ địa vị cao nhất bỗng chốc rơi xuống thấp nhất", thậm chí là xuống tận địa ngục.

Tôi đã thấy rất nhiều trường hợp, các cấp trên của chúng tôi đều leo lên từng bước, leo đến tận đỉnh, rồi "bộp" một cái là rơi xuống. Sư Tôn là người từng trải qua ba đời thượng cấp. Bản thân tôi là kỹ sư kiêm nhân viên đo đạc, mãi mãi chỉ là nhân viên đo đạc kiêm kỹ sư; tôi tận mắt chứng kiến ba vị cấp trên đều lên đến đỉnh cao nhất, rồi rơi xuống, lại đẩy một người khác lên, rồi người đó cũng bị đẩy xuống. Chính trị cũng vậy, người này lên, người kia mất chức, rồi người khác lại lên, người khác lại mất chức, đều như thế cả.

Vì vậy đến Tây phương Cực Lạc có một điều tốt là một khi đã lên rồi thì không còn bị trượt xuống nữa, không giống như chúng ta chơi cầu trượt. Nếu Tây phương Cực Lạc mà giống như cầu trượt thì tôi không muốn đến đó. Bất thoái này có nghĩa là không còn thoái chuyển nữa, đây gọi là danh vị bất thoái.

Thứ hai là tu hành bất thoái. Trong Tây phương Cực Lạc, môi trường xung quanh tạo nên một nguồn năng lượng tích cực, khuyến khích sự tinh tấn tu tập. Tất cả những gì hành giả nhìn thấy, nghe thấy và cảm nhận được đều là những điều thiện lành của sự tu tập - từ cảnh quan thanh tịnh, âm nhạc vi diệu, đến niềm an lạc trong thiền định. Chính môi trường thù thắng này đảm bảo cho sự tinh tấn không bị thoái chuyển.

Thứ ba là niệm bất thoái. Vì tâm bạn đã hòa nhập vào biển pháp của vũ trụ, nên tâm trở nên rộng lớn vô biên, lấy tâm vũ trụ làm tâm mình. Tâm niệm của người thường chúng ta thường là những suy nghĩ nhỏ nhen, tâm lượng hẹp hòi, ví dụ như: đôi khi làm gì cũng không vừa ý (chú thích: tiếng Đài Loan), nghĩa là không được hoàn hảo. Chúng ta lấy một ví dụ: như khi tôi mời khách, tôi đi mời họ, họ không đến, trong lòng chúng ta sẽ nghĩ là họ coi thường mình; tôi mời bạn mà bạn không đến? Thật là kiêu ngạo! Chắc chắn là coi thường tôi rồi, trong lòng không thoải mái, lần sau bạn mời tôi, mười lần tôi cũng không đi. Ngược lại, nếu tôi mời khách, bạn đến, nhưng lại dẫn theo mười người, mà tôi không chuẩn bị nhiều như vậy! Trong lòng rất không vui, trên mặt cũng lộ vẻ khó chịu. Nhất là khi chỉ mang đến một chai rượu sake thường, trong lòng bạn nghĩ: "Lần này thua lỗ rồi, lần sau bạn mời khách tôi sẽ dẫn một trăm người đến." Người đến sớm, bạn chưa chuẩn bị xong, trong lòng không thoải mái; người đến muộn, lại cho là không giữ đúng giờ; có khi khách đến, làm bẩn chỗ này chỗ kia, trong lòng lại nổi giận, còn có người làm vỡ cả đồ cổ quý giá. Vì vậy để làm được mọi việc thật hoàn hảo, thật khó!

Người tu hành khác với người thế tục, người tu hành do tâm lượng rộng lớn, tư tưởng cao rộng, nên cho dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể thông cảm cho người khác, tâm họ luôn rộng lớn, tự nhiên không thoái chuyển, đây gọi là niệm bất thoái.

Nếu tâm lượng nhỏ hẹp, làm bất cứ việc gì cũng sẽ sinh phiền não; nếu tâm lượng rộng lớn, việc gì cũng không gây phiền não. Người học Phật khi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, cũng không thể nào còn những phiền não đó nữa. Không thể nào khi ở Tây phương Cực Lạc lại bỗng nhiên nghĩ: "Chết tiệt! Ai cũng được gặp Phật A Di Đà, chỉ có mình tôi là chưa được gặp, tức quá, tôi về đây!" Hoặc nói: "Tối qua Phật A Di Đà dạy sư huynh tôi một pháp bí mật, còn tôi chỉ được dạy một pháp nhỏ, tôi cũng tức lắm, quyết định bỏ về!" Đây đều là những biểu hiện của niệm thoái chuyển - tư tưởng thoái chuyển, nhưng khi đến thế giới Tây phương Cực Lạc rồi thì sẽ không còn những hiện tượng này nữa.

Danh bất thoái chuyển, tu hành bất thoái chuyển, ý niệm bất thoái chuyển, ba loại bất thoái chuyển này được gọi là A-bệ-bạt-trí.

Trong đó còn có rất nhiều vị Phật, rất nhiều vị Bồ Tát, các vị Phật tương lai, các vị Bồ Tát tương lai, đều được gọi là hậu bổ Phật, nghĩa là sự bổ sung về sau. Hậu bổ có nghĩa là bạn cứ ở đó chờ đợi, một ngày nào đó chắc chắn sẽ đến phiên mình, rồi sẽ có ngày đến lượt mình.

Om mani padme hum.

53. Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe được… được cùng hội họp một chỗ với các bậc thượng thiện nhân như thế.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe được điều này nên phát nguyện sinh về cõi ấy. Vì sao vậy? Vì sẽ được cùng hội họp một chỗ với các bậc thượng thiện nhân như thế."

Chúng ta hãy đọc một đoạn kinh văn: "Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe được điều này nên phát nguyện sinh về cõi ấy. Vì sao vậy? Vì sẽ được cùng hội họp một chỗ với các bậc thượng thiện nhân như thế." Đoạn kinh văn này dạy rằng: "Chúng ta nên phát nguyện vãng sinh về cõi Phật Tây phương Cực Lạc. Vì sao vậy? Bởi vì khi đến đó, ta sẽ được cùng hội họp với tất cả những bậc thiện nhân."

Tôi tin rằng ở thế giới Tây phương Cực Lạc, khắp nơi đều treo những túi hương thơm. Nói về các bậc thượng thiện nhân - đều là những người tốt, nói về việc hội họp một chỗ tức là mọi người cùng nhau tụ hội, những người rất tốt, rất thiện lành đều tụ hội một nơi, giống như việc chúng ta hiện nay có thể cùng nhau tụ hội, lắng nghe Phật pháp, chính là "cùng các bậc thượng thiện nhân hội họp một chỗ" vậy.

Tôi nhớ trước đây ở một nơi nọ, buổi sáng có rất nhiều người tập thể dục, có người múa kiếm, có người tập võ, có người chạy bộ, có người nhảy dân vũ. Nhưng đôi khi người ta nhận thấy họ chỉ "tập thể dục cái miệng". "Tập thể dục cái miệng" là gì? Bề ngoài thì nói là đi chạy bộ buổi sáng, nhưng thực tế mọi người tụ tập lại chỉ để nói chuyện mà chẳng chạy. Nhiều người rất thích "tập thể dục cái miệng", bàn tán chuyện thị phi, như thể không được nói thì khó chịu lắm. Thường xuyên A nói với B, B nói với C, bảo A đừng nói với B nữa, cũng bảo B đừng nói với C nữa, nhưng cuối cùng ai cũng biết hết, đây chính là "những kẻ xấu xa tụ họp một chỗ". Con người có một căn bệnh chung, thật kỳ lạ! Đó là càng là chuyện bí mật thì càng thích nghe, mà càng là chuyện bí mật thì càng thích nói; điều tốt thì tuyệt đối không nói, còn khuyết điểm của người khác thì nhất định phải nói ra.

Vì vậy chúng ta đến đây tham gia đồng tu, đến niệm Phật, cùng tu tập, nghe Phật pháp, chính là mong mọi người bớt vận động cái miệng đi một chút, vận động đôi tai nhiều hơn một chút. Ngoài ra, khi đến đây, hãy cố gắng để bản thân không có phiền não, tâm được quang minh thanh tịnh.

Tất nhiên, trong xã hội cũng có rất nhiều hội nhóm tốt, như Hội Sư Tử, Hội Rotary, Hội Đồng Tế, đều là những hội rất tốt. Tuy nhiên tôi cho rằng những hội cao cấp như vậy, đôi khi cũng không tránh khỏi một số tật xấu, những điều này sau này sẽ biến thành "hội khoe của". Hội Sư Tử, Hội Rotary đều rất tốt, nhưng một khi đến đó, nếu phải so kim cương của ai to hơn, xe có phải dòng SEL không, bộ vest may ở nước nào, áo khoác kia làm từ da chồn bắt ở Bắc Cực... những điều này tuy là "các bậc thượng thiện nhân tụ hội một chỗ", nhưng vẫn không thoát khỏi tâm thái "khoe của" của người phàm tục.

Ở nơi đây của chúng ta, khi "các bậc thượng thiện nhân cùng hội họp một chỗ", hoàn toàn không có sự hư vinh và tâm danh lợi của người phàm tục, ở đây chỉ có tu hành, niệm Phật, mọi người đều bình đẳng như nhau. Chúng ta đều phát nguyện vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, đây chính là một nguyện vọng vô thượng, không có nguyện vọng nào cao hơn thế nữa.

Chúng ta có thể thấy rằng, người đời nếu không tu hành thì trong cuộc đời chỉ có hai mục đích - một là tranh danh, hai là tranh lợi. Cuộc đời rốt cuộc đang theo đuổi điều gì? Chính là hai điều này. Nhưng hôm nay chúng ta đến đây là để vượt thoát danh và lợi, nên mới gọi là vô thượng, việc quan trọng bậc nhất mà chúng ta theo đuổi chính là đạo; còn người đời chỉ theo đuổi hình tướng bên ngoài, theo đuổi danh lợi, nên không thể hiểu được đạo. Những người đắc đạo như chúng ta không còn phiền não thế gian, nhưng những người ở ngoài cửa đạo vẫn đang theo đuổi phiền não thế gian. Khi về đến thế giới Tây phương Cực Lạc, tương lai mọi người đều là Bồ Tát, đều là La Hán. Bồ Tát và La Hán là những bậc đã dứt sạch mọi phiền não, đoạn trừ tất cả phiền não, họ tụ hội nơi Cực Lạc tịnh độ, đó mới thực sự là "chư thượng thiện nhân tụ hội một chỗ".

Om mani padme hum.

54. Này Xá Lợi Phất! Không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi ấy

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi ấy."

Chúng ta hãy đọc một đoạn kinh văn: "Này Xá Lợi Phất! Không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi ấy."

Trên thế gian này, nhiều người làm việc thiện đều mong được đăng báo, để mọi người biết họ đã làm việc tốt, đó gọi là "hữu sở vị nhi vi" (làm vì mục đích); còn người tu hành chúng ta là "vô sở vị nhi vi" (làm không vì mục đích).

Làm vì mục đích thì cũng có thể sinh lên cõi trời, không phải làm như vậy là sai, nhưng phước báo và đức hạnh có được từ cách làm này khá ngắn ngủi, không phải vô hạn, chỉ là phước báo hữu hạn mà thôi. Tất nhiên chúng ta đều cần có những thiện căn này mới có thể vãng sinh về Tây phương Cực Lạc, nhưng những thiện căn này không phải để cầu phước báo sinh thiên, mà là để cầu phước báo thanh tịnh, tức là phước báo hoàn toàn trong sạch, mới có thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Nhiều người làm việc thiện thực ra cũng chỉ vì danh tiếng; khi chúng ta làm việc thiện, phát tâm, đừng trụ tâm vào đó rồi mới sinh tâm, đừng vì có mục đích mới làm, như vậy không tốt. Không mục đích, giữ một lòng, công đức hoàn toàn thanh tịnh, mới thực sự là công đức của tịnh thổ.

Tối nay Thượng sư Liên Chủ giảng về câu "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", hoàn toàn phù hợp với đạo lý trong Kinh A Di Đà mà chúng ta đang giảng tối nay. Những thứ ô uế, chỉ cần tay chạm vào, trong thời gian rất ngắn, thân thể đã nhiễm mùi hôi. Chúng ta đến đây tu pháp, khi về thân thể đều tỏa hương thơm, vì vậy chúng ta làm bất cứ việc gì cũng phải có tiết chế.

Khổng Tử từng nói rằng, chúng ta cần biết sống vui vẻ, nhưng không được vượt quá giới hạn - tức là không vượt qua khuôn phép. Ví dụ như uống rượu cũng là việc rất vui, nhưng không được uống say, uống say thì trở thành đau khổ. Bạn có thể đến vũ trường nhảy múa cũng không sao, just exercise, chỉ là để tập thể dục, nhưng ngoài việc tập thể dục ra, nếu còn có những tiết mục khác thì đã vượt quá khuôn phép rồi. Ở Mỹ, cách chào hỏi lịch sự của họ là ôm nhau, còn người phương Đông chúng ta chỉ dừng lại ở bắt tay mà thôi, nhưng dù là ôm hay bắt tay, đều phải biết tự kiềm chế không vượt quá giới hạn. Vì vậy nhiều việc đều như thế, nếu chúng ta biết tự kiềm chế thì là thiện, không biết tự kiềm chế thì trở thành ác.

Người tu hành chúng ta cũng vậy, nếu biết tự kiềm chế thì việc tu hành sẽ không bị lạc đường lầm lối; còn tu hành mà không biết tự kiềm chế thì rất nguy hiểm. Không phải Phật sai, mà là tâm niệm sai. Từng có một người tu theo Bổn tôn Quan Thế Âm Bồ Tát, Quan Âm vốn rất trang nghiêm và thường xuyên hộ trì người đó, nhưng vì người này cảm thấy quá gần gũi với Bồ Tát Quan Thế Âm nên tâm niệm bị lệch lạc, cuối cùng còn nói rằng Bồ Tát Quan Thế Âm xuống hôn mình. Đây chính là tâm niệm không chân chính, kết quả cuối cùng đương nhiên là phải vào bệnh viện tâm thần. Vì vậy việc tu hành của chúng ta chính là tu cho tâm niệm hoàn toàn thanh tịnh, quang minh, không có những ý nghĩ xấu.

Ngoài ra, trước đây Thượng sư đã từng giảng, khi làm lễ cúng dường cần cúng dường Kim Xí Điểu, đó là một loài chim bay trong hư không, một con chim rất lớn, chuyên ăn thịt rồng. Nhưng có một đệ tử, tâm niệm không chân chính, anh ta nghĩ khi chim đang bay, liền lấy cung tên bắn vào chim. Anh ta không thể ngăn được ý nghĩ này, vốn dĩ là cúng dường Kim Xí Điểu, nhưng kết quả là mỗi lần quán tưởng đều thành bắn chết chim. Tôi tin rằng nhiều người khi quán tưởng cũng mắc phải căn bệnh này, cách tốt nhất là dừng việc cúng dường này lại.

Bởi vì những ý nghĩ trong tâm của con người qua nhiều kiếp, nhiều đời truyền lại, đều được cất giấu trong tiềm thức, bình thường không dễ hiện ra, nhưng khi tĩnh lặng lại thì sẽ hiện ra. Khi ngồi thiền, phát hiện trong tiềm thức toàn là những ý nghĩ chửi bới người khác, lúc này, cần phải chuyển đổi quan niệm, sau đó lấy một thứ thanh tịnh nhất để thay thế, chuyển đổi những ý nghĩ xấu đó đi. Thanh tịnh chính là những thứ rất trong sạch, hãy nghĩ đến một điều khác rất thanh tịnh, rất tốt đẹp, để chuyển đổi những ý nghĩ chửi bới trong tâm.

Sư Tôn từng trải qua nhiều kinh nghiệm tương tự, có một lần gặp một cô gái rất xinh đẹp bị bệnh tâm thần, khi cơn bệnh phát tác, những lời thô tục cô ấy thốt ra trong bệnh viện không ai dám nghe. Nhưng cha mẹ cô ấy nói rằng, bình thường cô ấy là người rất văn nhã, thậm chí không thể chịu được khi nghe một câu tục tĩu. Nhưng tại sao khi mắc bệnh tâm thần, những lời cô ấy nói ra lại khó nghe đến vậy? Thực ra Sư Tôn biết, đây đều là những ý niệm trong tiềm thức của cô ấy, chỉ là lúc bình thường, cô ấy đã kìm nén hoàn toàn những ý nghĩ xấu này mà thôi.

Việc tu hành của chúng ta chính là phải chuyển hóa những ý nghĩ xấu, những nghiệp ác từ kiếp trước, bằng cách dùng những ý niệm tốt đẹp, quán tưởng chư Phật Bồ Tát trang nghiêm để thay thế và chuyển đổi chúng. Đây là một phương pháp tu hành sâu sắc và vi diệu hơn. Hôm nay giảng đến đây.

Om mani padme hum.

55. Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân… vãng sinh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì khi người ấy lâm chung, Phật A Di Đà cùng các thánh chúng sẽ hiện ra trước mặt. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà."

Tối nay chúng ta tiếp tục giảng Kinh A Di Đà. Trước tiên chúng ta đọc kinh văn: "Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì khi người ấy lâm chung, Phật A Di Đà cùng các thánh chúng sẽ hiện ra trước mặt. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà."

Đoạn kinh văn này, nhiều người đọc xong trong lòng rất hoan hỷ, vì nghĩ rằng chỉ cần niệm Phật một ngày là đủ. Có người nói trong này viết tối đa chỉ cần niệm bảy ngày; nhưng thực ra Sư Tôn biết rằng, đoạn kinh văn này rất sâu sắc và khó thực hành. Nhiều người đọc đoạn kinh này tưởng rằng việc vãng sinh về Tây phương Cực Lạc dễ dàng như vậy, niệm một ngày, hay hai ngày, hoặc một tuần là có thể vãng sinh. Trong này có một số điểm khó khăn, tôi xin giải thích trước.

Thứ nhất, khi nói "nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân" đã là một điều rất khó. Như vừa rồi Thượng sư Liên Chủ có kể, có người đã thỏa thuận với thần linh, rồi trộm bài vị thần, vậy có thể gọi là người tốt không? Khi nói chuyện với Bồ Tát, người đó nói: "Con đã thưa với Bồ Tát rồi! Đây là mượn thôi." Nói rõ là mượn. Hơn nữa, ban đầu trộm một bài vị vàng, đợi kiếm được nhiều tiền hơn sẽ trả lại hai cái, tưởng rằng như vậy là công đức. Nhưng chúng ta biết, đây không phải là việc thiện.

Trước đây trong Kinh Thánh có một câu: "Trên đời này không có một người tốt nào, dù là nửa người cũng không." Nếu như không có dù chỉ nửa người tốt, vậy thì thiện nam tử, thiện nữ nhân này từ đâu ra? Theo lời Kinh Thánh, tất cả mọi người đều phải xuống địa ngục, còn nói gì đến việc vãng sinh về Tây phương Cực Lạc? Chúa Jesus cũng từng nói: "Nếu trong số các ngươi đây, ai là người tốt, chưa từng làm điều sai trái, hãy cầm đá ném ta." Vào lúc đó không ai dám cầm đá ném Ngài. Do vậy, ngay từ câu đầu tiên "thiện nam tử, thiện nữ nhân" đã là điều rất khó thực hiện.

Chữ "thiện" ở đây không nhất thiết chỉ việc làm thiện, mà là chỉ tâm địa vô cùng quang minh, tâm rất an bình, rất trong sạch, không hề cảm thấy nhất định phải lên thiên đường, cũng không cảm thấy nhất định phải xuống địa ngục, họ thấu hiểu mọi đạo lý. Tóm lại, không phải đi cầu xin điều gì, mà là hoàn toàn an trú trong một cảnh giới vô cùng quang minh, thanh tịnh. Đây mới chính là thiện nam tử, thiện nữ nhân chân chính.

Tiếp theo, cụm từ "nghe nói đến Phật A Di Đà" cũng là điều rất khó. Mọi người nghĩ, Sư Tôn hàng ngày đều niệm A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật với mọi người, làm sao lại khó được? Được rồi, chúng ta hiện đang sống ở Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, một nơi rất đẹp, nhưng bạn thử hỏi người phương Tây xem có bao nhiêu người biết đến A Di Đà Phật? Dù có nghe qua thì họ cũng không hiểu đang niệm gì? Như đã từng nói, khi mọi người niệm "Nam mô A Di Đà Phật", nhiều người phương Đông lại giải thích câu này thành: "Phương Nam không có A Di Đà Phật"; rất nhiều người phương Tây chưa từng nghe đến A Di Đà Phật, nên câu này cũng rất khó. Hôm nay chúng ta truyền bá kinh này ở phương Tây, cũng chính là hy vọng các đệ tử phương Tây có thể niệm danh hiệu Phật này, có thể có được năng lực như vậy để vãng sinh.

Tôi tin rằng nhiều người khi lâm chung không niệm A Di Đà Phật. Người phương Tây thường thích niệm "my God", có khi niệm "boy", người phương Đông thích niệm "Ôi mẹ ơi!". Đến lúc lâm chung, để niệm một câu "A Di Đà Phật" cũng rất khó. Người ta khi lâm chung, nếu không có nền tảng niệm Phật lâu dài, sẽ không có cách nào nhớ được danh hiệu này, lúc đó, ngay cả một chữ "A", chữ "A" trong câu A Di Đà Phật cũng không niệm ra được! Tôi còn nói thật với mọi người, lúc đó, trong hoàn cảnh lâm chung, có khi ngay cả họ tên của mình là gì cũng không nhớ nổi.

Tôi từng biết một chuyện, khi người ta bệnh rất nặng, có lúc bạn dẫn trẻ con đến thăm bệnh nhân: "Xem ai đến thăm này?" Bệnh nhân đó không thể gọi được tên người đó, gọi rất nhiều tên đều gọi sai. Điều này cho thấy lúc đó đã thần trí không minh mẫn, vào thời điểm đó bảo họ niệm "A Di Đà Phật" càng khó hơn. Bình thường không niệm, trong tâm không có hạt giống Phật, đến lúc đó sẽ không niệm ra được.

Tại sao có đoạn kinh văn này? Đó là vì Ngài hy vọng tất cả đệ tử biết phương pháp này rất đơn giản, rất thuận tiện, là để khuyến khích mọi người, nói rằng niệm Phật là có thể vãng sinh. Cho nên ở đây nói "nếu một ngày", thực ra không chỉ một ngày không niệm được, một câu bạn cũng không niệm nổi.

Cuối cùng Ngài nói "khi người ấy mạng chung", lúc con người lâm chung "tâm không điên đảo", cái "tâm không điên đảo" này cũng rất khó. Khi lâm chung, người ta nghĩ đến điều gì? Họ nghĩ đến nỗi đau khổ của thân tâm đang phân ly, như thể thân thể đang tan rã, như núi lở đất nứt! Lúc đó quá đau đớn, chỉ nghĩ đến cơn đau, không thể nghĩ đến A Di Đà Phật. Xung quanh có nhiều người thân vây quanh, khi mọi người rất đau buồn, bạn chỉ nghĩ đến người thân, không nỡ xa lìa người thân, lúc đó bạn chỉ nghĩ đến người thân, không thể nghĩ đến A Di Đà Phật. Có nhiều người khi lâm chung, không còn nghĩ đến người thân nào nữa, tiếng khóc cũng không còn, hy vọng cũng không còn, đau khổ cũng không còn, nhưng đôi khi lại nghĩ đến số tiền riêng của mình, chỗ cất giấu mà không ai biết, không ai dùng thì phải làm sao? Điều này là có thật.

Chúng ta có một ví dụ như thế này. Có một đệ tử là một người giàu có, từ Mỹ bay sang Nhật, rồi khi bay về Đài Loan, tại sân bay bị nghẽn mạch cơ tim, ngất xỉu ngay lập tức, đây là cơn đau tim đột ngột, khi được đưa đến bệnh viện, bác sĩ cấp cứu ngay. Sau khi hôn mê gần cả chục ngày mới tỉnh lại, lần đầu tiên tỉnh lại, ông ta nói với người thân: "Chúng ta có bảo hiểm ở bệnh viện này không?" Câu đầu tiên của vị đại gia này là hỏi có bảo hiểm hay không? Vừa nghe không có bảo hiểm, lập tức mắng người thân, bảo nhanh chóng xuất viện, chuyển đến bệnh viện có bảo hiểm. Vì vậy, một đệ tử như thế này, khi lâm chung, bạn nghĩ họ có nghĩ đến A Di Đà Phật không? Người sắp chết rồi mà vẫn còn nghĩ đến vấn đề có bảo hiểm hay không!

Vì vậy, những người có tiền riêng hoặc cất giấu tiền riêng, hãy nói cho Sư Tôn biết số két sắt, thầm thì với Sư Tôn về nơi cất giấu, Sư Tôn sẽ không lấy đâu, đây gọi là "tâm điên đảo". Thực ra, vị đệ tử giàu có này, theo tôi biết, cách đây 7 năm, không nói đến hiện tại, 7 năm trước có tài sản hơn 8 tỷ Đài tệ, khi kinh doanh tốt nhất, một tháng kiếm được 100 triệu Đài tệ. Tuy nhiên theo lời ông ấy, khi thua lỗ nhiều nhất, một tháng lỗ 20 triệu Đài tệ. Thực tế, một người giàu có như vậy, vào lúc sinh tử, vẫn chỉ nhớ nghĩ đến bảo hiểm.

Tôi còn có một đệ tử khác, trước đây từng làm Phó Bộ trưởng. Khi lâm chung, ông ấy gọi người thân đến bên, chỉ để lại hai chữ di ngôn, hai chữ đó là "Bộ trưởng". Con trai ông nghe mãi như vậy, tưởng rằng cha mình sắp nói điều gì quý giá, nhưng ông chỉ nói hai chữ Bộ trưởng. Sư Tôn thì biết, tại sao vậy? Bởi vì vị Phó Bộ trưởng này thường nói với Sư Tôn rằng, điều tiếc nuối lớn nhất trong đời ông là chưa được làm Bộ trưởng. Ông cho rằng làm Phó Bộ trưởng thì còn phải đứng dưới một người, vẫn còn một Bộ trưởng ở trên, nếu được làm Bộ trưởng thì tức là tôi đã mãn nguyện rồi, tôi đã là người lớn nhất trong Bộ này, cho nên việc chưa được làm Bộ trưởng là điều khó quên nhất trong đời ông. Xin hỏi vị Phó Bộ trưởng này khi lâm chung có nghĩ đến A Di Đà Phật không? Ông ấy ngay cả một câu "A Di Đà Phật" cũng không niệm!

Còn Sư Tôn thì sao? Mỗi ngày gặp ai cũng nói "A Di Đà Phật". Thực ra, khi đi bộ chạy bộ tôi cũng niệm "A Di Đà Phật", khi ăn cơm cũng "A Di Đà Phật", khi ngủ cũng "A Di Đà Phật", khi chống đẩy cũng "A Di Đà Phật", khi tắm rửa cũng "A Di Đà Phật", khi nhổ cỏ cũng "A Di Đà Phật". Đây không phải là nhổ bỏ A Di Đà Phật đi, mà đã trở thành thói quen, biến thành một thói quen, làm bất cứ việc gì cũng đều "A Di Đà Phật".

Có lúc, khi đi vệ sinh cũng muốn niệm ra tiếng, nhưng biết là không hợp hoàn cảnh nên chỉ niệm thầm trong tâm. Khi chúng ta bị cảm cúm thật sự rất khổ, hoặc khi đau răng cũng rất khổ, thật ra cứ tiếp tục niệm "A Di Đà Phật", đau răng thì đương nhiên chỉ có niệm thôi, lúc đau đớn, cũng niệm "A Di Đà Phật". Mỗi lần Sư Tôn đi khám răng, nhắm mắt lại và cứ niệm mãi, niệm không ngừng. Dù sao răng cứ để nha sĩ nạo, họ nạo một cái, tôi dùng một câu "A Di Đà Phật" để chống lại, khi đau thì quán tưởng A Di Đà Phật phóng quang chiếu soi tôi, khiến tôi mát mẻ, khiến dao nạo của nha sĩ đừng nạo trúng thịt của tôi.

Sư Tôn cho rằng, tương lai chắc chắn tôi có thể vãng sinh, bởi vì tôi đâu chỉ niệm có bảy ngày! Hy vọng mọi người có thể thường xuyên trì danh hiệu "A Di Đà Phật", đừng đợi đến ngày cuối cùng mới niệm! Cũng đừng chỉ niệm có bảy ngày! Bởi vì khi thực sự xảy ra, như bệnh tim đột ngột chỉ là chuyện vài giây, vài phút, bạn không kịp một ngày đâu! Không ai may mắn đến mức bị bệnh kéo dài lâu như vậy.

Thực tế có những người khi bị bệnh, họ biết phải niệm Phật, nên cứ niệm mãi, kết quả niệm cả năm mà vẫn chưa được siêu thoát; có nhiều người cứ niệm liên tục, từ lúc bị bệnh bắt đầu niệm, kết quả niệm suốt bốn năm, năm năm mà vẫn chưa chết, cuối cùng họ nổi giận, không niệm nữa, và chính trong ba giờ không niệm đó thì họ qua đời. Đây chính là tâm điên đảo, không thể giữ vững được ba giờ cuối cùng, tâm đã điên đảo mất rồi. Thực ra, việc "tâm không điên đảo" là điều khó nhất.

Vừa rồi chúng ta đều ngồi thiền, ai là người thực sự không có một chút vọng niệm nào, chỉ còn một tâm đang sống, là ai? Giơ tay lên! Khi ngồi thiền vừa rồi, bạn hãy tự nghĩ xem, mình đang nghĩ gì? Những người khi ngồi thiền vừa rồi mà không có vọng tưởng lăng xăng, đó là người đầu tiên có thể vãng sinh về Tây phương Cực Lạc. Những người vừa rồi hoàn toàn không nghĩ gì cả, hoàn toàn trống rỗng, ngồi xuống là hoàn toàn trống rỗng, không nghĩ gì hết, chắc chắn sẽ vãng sinh. Thứ hai, những người khi ngồi thiền, luôn giữ Địa Tạng Vương Bồ Tát trong tâm, nhập vào Tam ma địa của Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng chắc chắn được vãng sinh. Ngoài hai trường hợp này ra, tất cả đều không thể vãng sinh.

Thời gian ngồi thiền vừa rồi rất ngắn, chỉ có 4 phút thôi. Ngay cả Sư Tôn cũng không thể vãng sinh được, bởi vì tôi đã để ý đến đồng hồ. Bạn hãy nghĩ xem, chỉ ngồi thiền có 4 phút mà đã không thể kiểm soát được vọng niệm, suy nghĩ lung tung, vậy thì lúc lâm chung làm sao niệm Phật được? Cho nên việc giữ tâm không điên đảo là rất khó, đặc biệt là trong thời khắc lâm chung khi ý chí không thể hoàn toàn tự kiểm soát được, đó là lúc khó khăn nhất.

Những người thường ngày có niệm Phật, hoặc người nhập Tam ma địa, có thể đi vào trạng thái "không", và có thể đạt đến trạng thái "nhất", tức là trong trạng thái tinh thần thống nhất, đều có thể vãng sinh được.

Bởi vì bạn thường xuyên đi vào trạng thái không, hợp nhất với Phật, trở thành trạng thái "nhất", thân thể đã sinh ra từ tính. Trong kinh văn có viết "A Di Đà Phật cùng các thánh chúng, hiện ra trước mặt." Cái gọi là "hiện ra trước mặt" nghĩa là, Tây phương Cực Lạc thế giới tự nó là một nguyện lực rất lớn, là một từ trường rất mạnh, tự nó đang hút các chúng sinh; bản thân bạn là một nam châm, còn Ngài là một từ trường rất lớn, rất dễ dàng vì sự gần gũi của bạn, phù hợp với sự gần gũi của Tây phương, từ tính hai bên tương đồng, một khi hút vào, lập tức đến được Tây phương Cực Lạc thế giới.

Nếu thường ngày hoàn toàn không có từ tính đó, đến lúc lâm chung chỉ đơn giản niệm một câu A Di Đà Phật, chưa kịp tạo ra từ tính đó, thì giống như một chất cách điện, chỉ có câu niệm đó là có từ tính, lực hút này không đủ, không thể nào hút được bạn về, vì vậy bạn vẫn còn trong vòng luân hồi lục đạo.

Chúng ta không thể đợi đến ngày cuối cùng, hoặc tuần cuối cùng, mới bắt đầu nhất tâm bất loạn niệm Phật. Chúng ta phải thường xuyên niệm từ bây giờ, hơn nữa phải nhập định, vào Tam ma địa, sinh ra tính không của thân thể, hợp nhất với tinh thần, có như vậy mới có sức mạnh, có lực hút mới có thể vãng sinh được. Vì vậy đoạn này tương ứng với đoạn kinh văn trước, đoạn trước có nói: "Không thể với ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi đó."

Tuy nhiên Sư Tôn cho rằng, khi một người đến lúc lâm chung, tức là khoảnh khắc sắp chết, mà vẫn có thể niệm được một câu Phật hiệu, thì điều đó cho thấy vẫn còn có thể được cứu. Bởi vì câu Phật hiệu đó giống như một hạt giống, gieo vào trong tâm, nghĩa là trong tương lai khi luân hồi lục đạo, vẫn còn có Phật duyên này, có thể được nghe Phật pháp, có thể vãng sinh.

Trong lúc ngồi thiền 4 phút vừa rồi, có ai thực sự đạt được tính Không không? Hoàn toàn không có một ý niệm nào, không có vọng niệm. Có ai thực sự có ý niệm về Địa Tạng Vương Bồ Tát trong tâm không? Không nghĩ đến bất cứ điều gì khác, có ai không? Nếu có người như vậy, người đó chính là Phật, là một vị Phật chân chính. Bốn phút, không phải dễ đâu, bởi vì trong quá trình tu hành của chư Phật Bồ Tát, thường chỉ là khoảng không sinh ra giữa một niệm và một niệm.

Vì vậy, đoạn kinh văn vừa rồi, hy vọng mọi người có thể lĩnh hội, và quý trọng nhân duyên Phật pháp khó gặp này, chúng ta phải thường xuyên niệm Phật.

Om mani padme hum.

56. Này Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi ích ấy… nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi ích ấy nên nói những lời này. Nếu có chúng sinh nào nghe được điều này, nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy."

Trước tiên tụng một đoạn kinh văn: "Này Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi ích ấy nên nói những lời này. Nếu có chúng sinh nào nghe được điều này, nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy."

Vừa rồi Thượng sư Liên Thế nói rằng Sư Tôn đã bảo đảm, cam kết không trả lại giấy bảo đảm. Khi nghe điều này, trong lòng tôi rất lo sợ, bởi vì hiện nay có đến 200 nghìn đệ tử (chú thích: hiện nay đã có 5 triệu người), tôi phải bảo đảm cho 200 nghìn người, làm sao gánh nổi! Đến lúc đó dù có chặt thân thành nhiều mảnh cũng không đủ. Tuy nhiên, khi đọc đến đoạn kinh văn này thì không còn sợ nữa, bởi vì người bảo lãnh cho tấm phiếu bảo đảm này chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đúng là tấm phiếu của tôi không sai, nhưng người bảo lãnh lại là Phật Thích Ca Mâu Ni! Khi bị trả lại phiếu, mọi người đừng tìm tôi, hãy đi tìm Phật Thích Ca Mâu Ni.

Mọi người có thấy đoạn kinh văn này nói gì không? Chữ "Ta thấy lợi ích ấy", chữ "Ta" chỉ ai vậy? "Ta" chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây là Phật Thích Ca Mâu Ni thấy được lợi ích to lớn như vậy, nên vội vàng nói những lời quan trọng này: "Nếu chúng sinh nghe được điều này, thì mỗi người đều nên phát nguyện vãng sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới." Chỉ cần dựa vào câu nói này, chúng ta có thể thấy rằng người bảo lãnh chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo chúng ta rằng: "Mỗi người đều nên phát nguyện vãng sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới." Sau này nếu mọi người muốn tìm ai, hãy đi tìm Phật Thích Ca Mâu Ni.

Nhưng nếu bạn tìm được Ngài thì cũng đã vãng sinh rồi, còn nếu không tìm được Ngài thì đó là không may của bạn. Khi bạn đến tìm tôi, tôi sẽ bảo bạn đi tìm Ngài. Chính vì Phật Thích Ca Mâu Ni đã tận mắt thấy và thực sự biết rõ, nên Ngài mới dám nói những lời như vậy, và Sư Tôn cũng dám nói như vậy. Bởi vì, quả thật khi sức mạnh tưởng niệm của một người được tập trung, sẽ sinh ra một nguồn năng lượng toàn thân, mỗi người khi tinh thần tập trung đều sẽ sinh ra một nguồn lực. Việc chúng ta tu hành, làm nghi quỹ hôm nay hoàn toàn là để cầu sự thống nhất tinh thần. Ở đây là kêu gọi mọi người phát nguyện, trong tâm có nguyện vọng, tập trung tưởng niệm vào nguyện vọng đó, rồi niệm Phật, quán tưởng, như vậy sẽ sinh ra từ tính, Ngài sẽ đến hút lấy bạn, và bạn sẽ có thể vãng sinh.

Om mani padme hum.

57. Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay… Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay, tán thán công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật: ở phương Đông có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật."

Tiếp theo, mấy đoạn kinh văn phía sau càng đọc càng thấy thú vị. Hóa ra sau bao lâu nay, không chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni là người bảo chứng. Đoạn kinh văn phía sau viết như thế này: "Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay, tán thán công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật: ở phương Đông có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật." Bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni cũng rất giỏi, tổ chức của Ngài cũng rất lớn, không phải chỉ có một mình Ngài làm chủ, tôi cứ tưởng chỉ có một mình Ngài bảo chứng, nhưng thật ra phương Đông có người bảo chứng, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương trên, phương dưới, các phương đều có người bảo chứng.

Trong đoạn này là đang tán thán Phật A Di Đà, không chỉ có một mình Phật Thích Ca Mâu Ni, mà còn có rất nhiều vị Phật khác cũng tán thán Phật A Di Đà như vậy. Vì thế tôi thấy đây là một tấm vé chắc chắn, bởi vì chỉ một tấm phiếu nhỏ như vậy, một giấy thông hành, nếu mời tất cả các vị Phật đến ký thì đã kín hết rồi, tôi nghĩ còn phải bổ sung thêm nhiều tờ nữa. Phật Thích Ca Mâu Ni nói về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, không chỉ Ngài tán thán, mà ở phương Đông còn có Phật A Bệ, chữ "A Bệ" này có nghĩa là bất động, tâm không động. Thực ra trong đoạn kinh văn này, Phật Thích Ca Mâu Ni đang dạy tất cả chúng ta về tâm bất động.

Chủ nhật tuần trước, Sư Tôn đến Oregon thuyết pháp. Trong số đó có một người theo đạo Cơ Đốc, trước khi tôi thuyết pháp, đã hỏi tôi: "Ý nghĩa của cuộc sống rốt cuộc là gì?" Lúc đó tôi cũng giả vờ không hiểu, tôi nói tôi cũng muốn hỏi lại anh, và anh ấy thừa nhận thật sự không tìm ra câu trả lời. Thực ra, hiện nay mỗi người trên thế giới này đều có câu hỏi như vậy trong lòng: Cuộc đời, chúng ta sống trên thế gian này, rốt cuộc là để làm gì? Đây cũng là câu hỏi của rất nhiều người trong suốt hàng nghìn năm qua.

Từng có một người đi rất xa đến phương Đông, trong một ngọn núi sâu tìm được một vị tu hành đạo hạnh cao thâm đang tu tập ở đó, và đến hỏi câu hỏi này. Vị tu sĩ đang ngồi thiền, người đó hỏi: "Con xin hỏi Đại sư một câu, chúng ta sống trên đời này, rốt cuộc có ý nghĩa gì?" Vị Đại sư đang ngồi thiền liền mở mắt ra và nói: "Ông thấy ta ngồi đây làm gì?" Người đó đáp: "Ngài đang tọa thiền." "Vậy tọa thiền để làm gì?" "Ngài đang tĩnh tâm quán tưởng." Vị Đại sư bèn nói với người đến hỏi: "Ta đang suy nghĩ về câu hỏi của ông đấy!" Câu nói này cho thấy, tất cả mọi người trên đời đều đang suy nghĩ về câu hỏi này, hàng trăm triệu chúng sinh đều đang suy nghĩ về câu hỏi này, ngay cả các bậc cao tăng tu hành trong núi sâu cũng đang suy nghĩ về câu hỏi này.

Có rất nhiều người giải đáp câu hỏi này, ai cũng biết rằng, ôi! Chúng ta đến thế giới này là để tu hành, trái đất này là một trường huấn luyện, chúng ta được gửi đến đây là vì hành vi và tâm niệm của chúng ta chưa chính, nên cần phải tu tập để đạt đến viên mãn, rồi mới trở về nơi ban đầu. Thực ra, chân lý này, chúng ta nói rằng: "Ý nghĩa của cuộc sống là tìm kiếm chân lý." Vậy chân lý có đơn giản như vậy không? Chúng ta sống và đến với cõi người này, rốt cuộc là để làm gì? Vị cao tăng ngồi im lặng ở đó, lại là để làm gì? Hôm nay chúng ta đến đây tu hành, đến đây nghe pháp, đến đây làm những nghi quỹ này, lại là để làm gì?

Khi tôi ở Oregon, tôi đã nói với thính giả rằng: "Những gì chúng ta học là để đạt đến sự hợp nhất giữa trời và người, để tâm được vô lượng, chúng ta phải tu tập đến mức bất động trước mọi thứ trên thế gian này - tài, sắc, danh, ăn, ngủ." Bởi vì khi bất động mới không có phiền não, khi không có phiền não mới có thể đạt đến sự thanh tịnh hoàn toàn. Khi bạn đạt được sự thanh tịnh hoàn toàn, bạn mới có thể viên mãn, và trong cảnh giới này, bạn mới có thể thấu hiểu được thiên đạo. Giá trị như vậy mới không phải là giá trị của phàm phu thế tục. Vì thế tôi nói với thính giả: "Chúng ta là để theo đuổi cái vô hình, và theo đuổi chân lý vô hình, cho đến khi đạt được sự hợp nhất giữa trời và người." Giá trị như vậy mới là siêu việt, không phải là điều mà người thường theo đuổi. Nếu là điều mà người thường theo đuổi, thì đó không phải là giá trị chân thật.

Vị Phật thứ hai ở đây là Diệu Cao Phật. Tu Di Tướng Phật trong tiếng Phạn có nghĩa là diệu cao, diệu là vô cùng vi diệu, cao là cao nhất.

Vị thứ ba là Đại Tu Di Phật. Có nhiều người nói ý nghĩa của cuộc đời là theo đuổi căn nhà tốt nhất, lái chiếc xe tốt nhất, kiếm được nhiều tiền nhất. Nhưng, căn nhà tốt nhất là như thế nào? Chiếc xe tốt nhất là gì? Nhiều tiền nhất thì phải là bao nhiêu tiền mới đủ?

Ý nghĩa của cuộc đời là thực sự đạt được phước báu lớn nhất và trí tuệ cao nhất. Phước báu lớn nhất nằm ở thế giới Tây phương Cực Lạc, trí tuệ cao nhất cũng chính là trí tuệ của thế giới Tây phương Cực Lạc. Bạn đã từng thấy ngôi nhà làm bằng vàng chưa? Trên thế gian này không có, như vua Brunei có một chút, nghe nói vòi nước máy của vua Brunei đều làm bằng vàng, tôi tin rằng chậu rửa mặt của ông ấy cũng bằng vàng, bồn tắm chắc cũng bằng vàng, bàn chải đánh răng cũng bằng vàng. Nhưng tôi đã từng đến Brunei, nhìn thấy những bức tường đó, ngôi nhà đó không làm bằng vàng. Khi bạn đến thế giới Tây phương Cực Lạc, ngay cả đường đi cũng làm bằng vàng, vì vậy người có phước báu lớn nhất không phải là vua Brunei, mà là Phật A Di Đà, phước báu lớn nhất và trí tuệ cao nhất đều ở thế giới Tây phương Cực Lạc. Ý nghĩa lớn nhất của cuộc đời chúng ta hôm nay, cũng là theo đuổi phước báu lớn nhất và trí tuệ cao nhất.

Vì vậy, những danh hiệu Phật trong này đều rất có ý nghĩa. Ý nghĩa của cuộc đời chính là theo đuổi sự bất động. Giống như vị cao tăng sống trong núi sâu, ngồi bất động trong hang núi, theo đuổi sự vi diệu của việc hợp nhất giữa trời người, sự cao siêu của việc viên mãn vô thượng, phước báu lớn nhất và trí tuệ cao nhất.

Ở đây còn có một vị Phật là Tu Di Quang Phật. Vị Tu Di Quang Phật này chính là ánh sáng vô lượng, ánh sáng lớn nhất, và còn tượng trưng cho sự viên mãn. Như vậy, có nghĩa là tràn đầy khắp pháp giới, toàn bộ pháp giới đều được sung mãn.

Như vậy A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật và Diệu Âm Phật, tất cả những vị Phật này đều tượng trưng cho ý nghĩa của cuộc đời. Xin hỏi mọi người, ý nghĩa của cuộc đời này là gì? Câu trả lời đã được giải đáp hoàn toàn ở trong đây rồi.

Vị Diệu Âm Phật này còn tượng trưng cho: Dù thân tâm đang phiền não, nhưng khi nghe được âm thanh đó, liền được giải thoát hoàn toàn. Tu Di Quang Phật chính là tượng trưng cho những ánh sáng thanh tịnh, khiến toàn thân không còn ô nhiễm, hoàn toàn thanh tịnh.

Om mani padme hum.

58. Vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế… kinh được tất cả chư Phật hộ niệm

Kinh văn:

"Vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế. Mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: "Chúng sinh các ngươi nên tin kinh này, kinh được tất cả chư Phật hộ niệm."

Tối nay chúng ta sẽ tiếp tục giảng Kinh A Di Đà. Tuần trước vì Hòa thượng Ngộ Minh đến thuyết pháp nên đã cách một tuần không giảng Kinh A Di Đà, hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục.

Xin đọc lại một đoạn kinh văn: "Vô số chư Phật nhiều như cát sông Hằng như thế, mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời chân thật rằng: 'Này các chúng sinh, các ngươi nên tin kinh này, một bộ kinh ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn, được tất cả chư Phật hộ niệm.'"

Trong những đoạn kinh văn này đều nói rõ, chư Phật ở thế giới phương Đông đến hộ trì kinh này, ngoài ra còn có chư Phật ở thế giới phương Nam, phương Tây, tất cả chư Phật ở mọi thế giới đều đang hộ trì kinh này, vì vậy gọi là "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm". Điều này có nghĩa là không chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni nói như vậy, mà tất cả chư Phật trong mười phương trên dưới đều tán thán kinh này, và còn hộ trì những người niệm Phật tụng kinh.

Tôi xin giải thích một vài từ trong đoạn này. Có người hỏi: "Tướng lưỡi rộng dài là gì?" Tướng lưỡi rộng dài này rất kỳ lạ, đây là một trong 32 tướng tốt của Phật. Nói về cái lưỡi rộng, không giống như lưỡi của người bình thường chúng ta không rộng, khi Ngài mở miệng, thè lưỡi ra thì rất rộng, rất dài, nhưng không dày mà rất mỏng.

Trước đây thầy tôi đã nói với chúng tôi, lưỡi của Phật khi thè ra có thể che phủ hết cả khuôn mặt, tôi đã nói với thầy: "Vậy sao không dùng làm chăn cho tiện?" Một người mà có thể thè lưỡi ra để đắp như chăn thì chắc là ấm lắm. Về tướng lưỡi rộng dài này, khi trước thầy giải thích cho tôi, tôi thường nghĩ đến hai công dụng vi diệu. Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hay khi còn đi học, tôi rất nhút nhát (chú thích: Thượng sư phiên dịch dịch là chicken), từ "chicken" nghe không hay ho gì, nhưng trong 12 con giáp tôi lại đúng tuổi Dậu. Ngày xưa, mỗi khi nói sai điều gì, hay làm điều gì sai, hoặc khi ở cạnh con gái, mặt tôi đều đỏ bừng lên, nếu có thể thè lưỡi ra che kín mặt như vậy thì thật là hữu dụng!

Chuyện thứ hai là, khi còn nhỏ tôi thường tự nấu cơm và đun nước nóng để tắm. Lò ngày xưa là loại đốt than, trước tiên phải đặt một ít giấy xuống dưới, rồi bào một ít gỗ mỏng, sau đó cho than cốc vào. Lúc đầu cho loại than cốc đen và mịn xuống dưới, trên cùng đặt thêm than viên, rồi nhóm lửa như vậy. Sau khi nhóm được lửa, ngay khi lửa vừa cháy lên phải nấu cơm trước, đến cuối còn chút lửa tàn mới dùng để đun nước nóng. Mỗi lần tắm, mỗi người múc một xô nước nóng, rồi thêm chút nước lạnh vào, cứ thế mà tắm. Tôi cứ nghĩ, hồi đó chúng tôi dùng quạt tre để quạt lửa, nếu có "tướng lưỡi rộng dài" này thì tốt quá, không cần dùng quạt, chỉ cần thè lưỡi ra, động đậy một chút là lửa sẽ bùng lên. Trước đây tôi rất giỏi nhóm lửa, nhưng vì là trẻ con nên rất lười, đến mùa đông thường nói với mẹ: "Hôm nay đừng nhóm lửa đun nước nóng." Mẹ sẽ hỏi chúng tôi: "Vậy hôm nay con không tắm à?" Chúng tôi sẽ nói: "Trời lạnh, chúng con chỉ rửa chân thôi." Rửa chân rồi lên giường, giường sẽ không bị bẩn.

Nhiều người hỏi, tướng lưỡi rộng dài này có phải là chư Phật thường xuyên thè lưỡi ra để nói chuyện không, và lưỡi lại mỏng, liệu có giống như những người hay buông lời đồn đại, suốt ngày cứ lải nhải không? Trước đây thầy tôi giải thích rằng, tướng lưỡi rộng dài này chỉ nói những lời tán thán, toàn là lời hay. Phật thường thuyết pháp, nhưng các Ngài nói toàn những lời hay, lời thiện lành, lời Phật pháp, tuy thường xuyên nói nhưng đều là lời tốt đẹp, nên gọi là "tướng lưỡi rộng dài", khác hẳn với tướng "lưỡi dài" thông thường.

Còn tướng "lưỡi dài" kia một khi gặp nhau thì như súng máy bắn liên thanh không ngừng nghỉ, toàn nói những điều không hay, chẳng có lời tốt đẹp nào. Vì vậy người Trung Quốc có câu dạy về đạo làm người rằng: "Chuyện phiếm đừng bàn chuyện phải trái của người, nên học điều hay, đừng nói điều dở của người." Đây là nói "đừng kể xấu người, đừng khoe tốt mình." Nhưng có những người lại làm ngược lại, cứ muốn bàn tán phải trái của người khác, thực ra người đó chẳng liên quan gì đến mình, dù nói thế nào cũng chẳng dính dáng gì, vậy mà vẫn cứ bàn tán phải trái của người. Đây là tướng lưỡi dài của người đời, không phải tướng lưỡi rộng dài của Phật. Tóm lại, "tướng lưỡi rộng dài" chuyên nói điều thiện, còn "tướng lưỡi dài" chuyên nói điều ác.

Tướng lưỡi rộng dài này có nghĩa là: những lời nói đều chân thực và rất thành thật. Vì tất cả chư Phật có tướng lưỡi rộng dài đều đến tán thán bộ kinh này, cho nên tất cả chúng sinh đều nên tin tưởng và tán thán công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, đây là một bộ kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Tôi xin đọc tiếp về chư Phật ở thế giới phương Nam: "Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn."

Còn nữa: "Này Xá Lợi Phất! Ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang."

"Ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Thư, Phật Nhật Sinh, Phật Võng Minh."

"Ở thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp."

"Ở thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Sa La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn."

Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dẫn chứng chư Phật ở sáu phương Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới để tán thán bộ kinh này, đó chính là Kinh Phật Thuyết A Di Đà, được xem là kinh điển để thành Phật.

Nếu chúng ta có thể nhất tâm trì danh hiệu A Di Đà Phật, vĩnh viễn không thoái chuyển, niệm trì mãi mãi, không quên không lui sụt, nhất định sẽ được vãng sinh, và như vậy chúng ta sẽ có thể thành Phật.

Hôm nay giảng Kinh Phật Thuyết A Di Đà đến đây.

Om mani padme hum.

59. Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao… A nậu đa la tam miểu tam bồ đề.

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh được tất cả chư Phật hộ niệm? Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này và thọ trì, cùng nghe danh hiệu chư Phật, thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được bất thoái chuyển nơi đạo A nậu đa la tam miểu tam bồ đề."

Hôm nay chúng ta sẽ đọc thêm một đoạn kinh A Di Đà. Bởi vì những đoạn kinh này đều rất đơn giản và ai cũng có thể hiểu được.

"Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh được tất cả chư Phật hộ niệm? Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này và thọ trì, cùng nghe danh hiệu chư Phật, thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được bất thoái chuyển nơi đạo A nậu đa la tam miểu tam bồ đề." A nậu đa la tam miểu tam bồ đề này, dịch sang tiếng Hán là Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác".

Om mani padme hum.

60. Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Các ông đều nên tin nhận lời ta… nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy.

Kinh văn:

"Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói. Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ở cõi nước kia, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh. Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu có lòng tin, nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy."

Những đoạn này đều do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng: "Nên phát nguyện, mỗi người đều phải phát nguyện vãng sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới."

Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài Xá Lợi Phất rằng, tất cả mọi người đều phải tin tưởng lời của Ngài và chư Phật đã dạy. Khi về được cõi Phật A Di Đà rồi, đều được bất thoái chuyển, nghĩa là tâm không bao giờ thối lui.

Trong đó có đã sinh, đang sinh, sẽ sinh. "Đã sinh" là chỉ những người hiện đã sinh về cõi nước đó; "Sẽ sinh" là những người trong tương lai sẽ sinh về cõi nước đó; còn "Đang sinh" là gì? Là những người hiện đang ở tại cõi nước đó. Về phần đã sinh thì rất nhiều, như Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí và tất cả chư vị Bồ Tát đều đã sinh về đó.

Vì những đoạn kinh này đều rất dễ hiểu và đơn giản nên không cần phải giải thích, mọi người đều đã hiểu rồi. Chính vì vậy mà việc giảng kinh diễn ra nhanh hơn, và bộ kinh này sắp giảng xong rồi.

Tôi tin rằng khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng bộ kinh này cũng thường xuyên lặp lại, Ngài muốn củng cố ấn tượng cho mọi người. Vì thế mà phần sau của kinh lại lặp lại, lặp lại rất nhiều điều ở phần trước. Những người đang nghe kinh ở đây bây giờ, thực ra thông minh hơn người thời đó cả triệu lần, nên những phần lặp lại không cần phải giảng nữa. Các vị vừa đọc qua đã hiểu rõ hơn tôi rồi.

Om mani padme hum.

61. Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay … Vì các chúng sinh mà nói pháp khó tin này trong tất cả thế gian

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay tán thán công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật ấy cũng tán thán công đức không thể nghĩ bàn của ta mà nói rằng: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể làm được việc rất khó và hiếm có, có thể ở trong cõi Ta Bà, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Vì các chúng sinh mà nói pháp khó tin này trong tất cả thế gian."

Hôm nay chúng ta tiếp tục giảng Kinh A Di Đà.

Trước tiên chúng ta đọc một đoạn kinh văn: "Này Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay tán thán công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật ấy cũng tán thán công đức không thể nghĩ bàn của ta mà nói rằng: 'Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể làm được việc rất khó và hiếm có, có thể ở trong cõi Ta Bà, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Vì các chúng sinh mà nói pháp khó tin này trong tất cả thế gian.'"

Đoạn này nói rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán tất cả chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn, và tất cả chư Phật cũng tán thán Phật Thích Ca Mâu Ni có công đức không thể nghĩ bàn.

Điều cần giải thích ở đây chính là "kiếp trược". Trước hết tôi giải thích về kiếp trược, tất cả chúng ta ngồi đây hôm nay đều đang ở trong kiếp trược này, tức là từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, đó là một kiếp số, trong kiếp số này được tính là một kiếp trược. Nghĩa là khi sinh ra làm người đã là bất hạnh rồi, đã định sẵn phải sống trong một thế giới ô trược như thế này, lại không thể sống riêng mình cho thanh thản, tóm lại là bất hạnh đến cùng, đó chính là kiếp trược. Điều đầu tiên cần nói là khi chúng ta đến thế gian này một chuyến, không phải mọi thứ đều hoàn hảo, hạnh phúc, mà đều phải chịu khổ. Vì vậy thế giới này chính là kiếp trược trong ngũ trược thế giới, nghĩa là đã sinh ra trong thế giới này thì phải chịu kiếp số này.

Điều thứ hai cần giải thích là "kiến trược". Những gì mắt nhìn thấy không trong sạch mà nhơ bẩn, đó chính là kiến trược. Tôi xin lấy một ví dụ, như vừa nói về ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, tức là Tết Đoan Ngọ, ngày Tết Đoan Ngọ là ngày tưởng nhớ Khuất Nguyên. Trước đây ông làm quan Đại phu, vì nhìn thấy trong triều đình kẻ tiểu nhân đắc chí, người quân tử bị đày ải, ông nhìn thấy triều đình tối tăm, trong lòng rất đau khổ, đó chính là kiến trược, nhìn thấy toàn những điều nhơ bẩn. Có kiến trược nghĩa là mọi người nhìn thấy nhiều điều xấu; tuy cũng có người nhìn thấy nhiều điều tốt, nhưng thực ra những điều tốt đó cũng đều không tốt.

Điều thứ ba là "phiền não trược". Do nhìn thấy nhiều hiện tượng không tốt nên trong lòng sinh phiền não, tâm sinh phiền não, đó chính là phiền não trược. Chúng ta đã nhắc đến Khuất Nguyên, bản thân ông chính vì có phiền não trược, chính vì nhìn thấy trong triều đình toàn kẻ gian thần đắc chí, nên trong lòng vô cùng phiền não, liền ra bờ sông đi dạo, muốn kết thúc mạng sống của mình. Trước khi Khuất Nguyên tự vẫn, ông đã gặp một người đánh cá, người đánh cá thấy ông sầu não đầy mặt, liền nói với ông một câu: "Nếu ông thấy nước sông này sạch sẽ thì hãy dùng để rửa mặt! Nếu ông thấy nước sông này dơ bẩn thì hãy dùng để rửa chân!" Có lẽ vì Khuất Nguyên không hiểu nhiều về triết học, ông không nghe ra được lời cảnh tỉnh của người đánh cá, chỉ vì triều đình nghe theo lời gian thần, không trọng dụng ông, khiến chí hướng của ông không thể thực hiện được, cảm thấy cuộc sống vô dụng, nên đã nhảy sông tự vẫn.

Lời người đánh cá nói với ông rất có lý. Câu nói "nước sạch thì dùng để rửa mặt, nước bẩn thì dùng để rửa chân" chính là "tâm bình thường". Ví dụ như hai người không thích nhau, có xích mích, nhìn nhau không vừa mắt, nếu anh đối xử với tôi thế nào thì tôi đối xử với anh như vậy, đó chính là nước sạch có thể rửa mặt. Trường hợp thứ hai là không sao cả, anh không đếm xỉa đến tôi, nhưng tôi vẫn đối xử tốt với anh, đó là nước dù bẩn nhưng vẫn dùng để rửa chân. Trường hợp thứ ba là anh không đếm xỉa đến tôi, tôi cũng không đếm xỉa đến anh, thế là dẫn đến tự sát. Đó chính là gặp ánh sáng thì chết, như vua gặp vua, vua gặp vua thì phải chết, như tướng đỏ gặp tướng đen thì phải chết.

Thực ra chúng ta không nên học theo Khuất Nguyên, bởi vì Khuất Nguyên đã nói: "Ôi! Triều đình không đếm xỉa đến ta, ta cũng chẳng còn cách nào để quan tâm đến triều đình nữa, thôi thì chết cho xong!" Ông ấy là như vậy đó. Thực ra, là người tu hành chúng ta phải như thế này: người ta không đếm xỉa đến mình, mình vẫn cứ quan tâm đến họ, giống như đi theo đuổi bạn gái vậy, dù sao anh không để ý đến tôi, tôi vẫn có thể để ý đến anh mà! Thực ra nếu lúc đó Khuất Nguyên hiểu được triết lý này, ông có thể hết lòng giúp đỡ triều đình làm việc, bất kể triều đình đối xử với ông thế nào.

Ngày nay, các đệ tử Chân Phật Tông chúng ta muốn độ chúng sinh cũng phải như vậy, dù người ta không thèm để ý đến chúng ta, chúng ta vẫn ngày ngày bám theo họ, phải có tinh thần như thế. Tất nhiên đôi khi trong lòng chúng ta cũng có phiền não: "Ôi! Sao cố gắng nửa ngày rồi mà vẫn không lay chuyển được gì?" Ah! Không được sinh tâm phiền não! Nhưng trên thế giới này, sự thật là nó đầy rẫy kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, đó chính là thế giới như thế.

Điều thứ tư là "chúng sinh trược" là gì? Chúng sinh sống như thế này: vừa sinh ra, rồi lớn lên, học tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, cao học, lấy bằng tiến sĩ, kiếm tiền, kết hôn, sinh con, già đi, rồi chết. Thế là xong! Đó chính là quá trình của cuộc đời chúng ta. Nhưng mỗi ngày chúng ta làm những việc gì? Chính là ngủ dậy, đánh răng, rửa mặt, làm việc, kiếm tiền, về nhà, ăn cơm, đi ngủ cứ như vậy, còn có đi vệ sinh nữa. Nếu lược bỏ cuộc sống hàng ngày thì chỉ còn là zero, là "số không". Hiện nay tất cả chúng sinh nhìn thấy, cuộc sống của họ chỉ là học hành, ăn uống, ngủ nghỉ, kiếm tiền, cứ sống như vậy, hầu như không còn gì mới mẻ hơn nữa. Điều này nói lên rằng, chúng sinh đều sống như vậy, mọi người nhìn thấy, đều là như thế! Không thể có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc hơn nữa, đó chính là chúng sinh trược.

Cuối cùng, điều thứ năm gọi là "mạng trược". Trên đời cái gì dơ bẩn nhất? Con người có lẽ là dơ bẩn nhất. Đôi khi chúng ta thấy động vật chết, chúng ta sẽ tụng kinh cho chúng. Chúng ta thấy thịt động vật vẫn khá thơm ngon, có thể nấu canh, xào nấu và ăn được. Nhưng thử nghĩ xem, khi một người chết đi, người sống nhìn thấy xác chết đều phải khiếp sợ; và dù có thể ăn được hầu hết các loại thịt, nhưng thịt người thì không thể ăn được, trên thực tế, mùi của người sau khi chết còn khó ngửi hơn bất kì loài động vật nào.

Mọi người đều thắc mắc, chẳng lẽ Sư Tôn đã ngửi qua rồi sao? Ah! Sư Tôn đã từng ngửi qua! Trước đây tôi đã từng đi tụng kinh cho người khác, người ta chết rồi, tụng kinh, làm pháp sự, nhưng người đó đã chết lâu rồi, khi chết lâu thì quan tài rất to, và người ta sơn lớp sơn bên ngoài, nhưng vì trời hè nóng quá, sơn không khô được, chất dịch từ trong kẽ hở chảy ra, mùi đó thật là... Có người tự cho rằng cơ thể mình thơm tho, nhưng thực ra khi ngủ chảy nước dãi lên gối, bạn hãy nhấc lên ngửi thử xem. Được rồi! Bạn nghĩ những thứ bên trong cơ thể đều tốt đẹp sao? Thực ra tất cả đều hôi thối không chịu nổi. Lúc sống đã ô uế, lúc chết cũng ô uế, bản thân cơ thể bạn chính là tổng hợp của sự ô uế. Đó chính là mạng trược.

Phật Thích Ca Mâu Ni có thể thuyết pháp trong một thế giới dơ bẩn như vậy, quả thật là điều hiếm có và khó được.

Om mani padme hum.

62. Này Xá Lợi Phất! Nên biết ta ở trong ngũ trược ác thế… đều hoan hỷ tin nhận, đảnh lễ rồi lui ra

Kinh văn:

"Này Xá Lợi Phất! Nên biết ta ở trong ngũ trược ác thế làm việc khó này, chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, vì tất cả thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó! Khi Đức Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất cùng các tỳ kheo, tất cả thế gian, trời, người, atula, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ tin nhận, đảnh lễ rồi lui ra."

Tôi lại đọc kinh văn: "Xá Lợi Phất! Hãy biết rằng ta ở trong đời ác năm trược này, thực hiện điều khó khăn này, chứng đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, vì tất cả thế gian mà nói pháp khó tin này, thật là rất khó!" Sau khi Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất cùng các vị tỳ kheo, tất cả chư thiên, người và a tu la trong thế gian, nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ tin nhận, đảnh lễ rồi lui ra."

Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng Kinh A Di Đà, đây là điều vô cùng quý báu và khó được. Mọi người có thể nghe được bộ kinh này đã là một phúc phần lớn lao, bởi vì chính pháp thật khó được nghe! Nhưng hiện giờ mọi người đã được nghe rồi. Trước đây mọi người đều chưa khai ngộ, nhưng hôm nay đã được nghe rồi, mọi người cũng đều đã khai ngộ. Mỗi người trong tâm đều phải sinh khởi tâm hoan hỷ, phải tin tưởng và tiếp nhận.

Hôm nay, phần giảng giải cốt yếu của Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Kinh A Di Đà đến đây là kết thúc.

Om mani padme hum.

63. Phụ lục 1: A Di Đà Phật Bổn tôn pháp

Bây giờ xin trình bày chi tiết về quy trình tu quán A Di Đà Phật Bổn tôn pháp của Chân Phật Tông như sau:

1. Nhập đàn niệm chú thanh tịnh.

2. Niệm chú triệu thỉnh. Triệu thỉnh chư vị Hộ pháp.

3. Chân Phật đại lễ bái pháp.

4. Chân Phật đại cúng dường pháp. (có thể ngồi)

5. Chân Phật tứ quy y pháp.

Niệm chú tứ quy y 3 biến: Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

6. Mặc giáp hộ thân pháp.

7. Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh. (1~3 biến)

8. Hai tay kết định ấn: Ngửa hai lòng bàn tay, chồng lên nhau, ngón cái và ngón trỏ của hai tay chạm vào nhau tạo thành vòng tròn. (đặt dưới rốn)

Hoặc kết ấn căn bản: Hai tay trước tiên đan vào nhau như nắm đấm, dựng thẳng hai ngón giữa chạm vào nhau tạo thành vòng tròn. (đặt trước ngực)

9. Kết ấn quán tưởng: Trước tiên quán Không. Trong hư không hiện ra A Di Đà Phật thân hình màu đỏ, khoác cà sa, ngồi kiết già trên đài sen nghìn cánh, hai tay kết định ấn, nâng bát đầy cam lộ, mắt từ bi nhìn chúng sinh. Quán tưởng bát trong tay A Di Đà Phật, cam lộ trong bát hóa thành nước cam lộ ánh sáng trắng, nâng lên, tạo thành hình vòng cung, rót vào đỉnh đầu của hành giả mật tông, khiến toàn thân hành giả trở nên trong suốt như pha lê trắng, nghiệp chướng hoàn toàn tiêu trừ. (Hoặc đóa sen trong tay Phật phóng ra ánh sáng trắng chiếu vào hành giả cũng được.)

10. Tụng chú căn bản A Di Đà Phật: "Ôm a-mi-đê-wa sê." (108 biến) Khi tụng chú tay lần chuỗi hạt.

11. Cửu tiết Phật phong.

12. Quán tưởng A Di Đà Phật hóa thành một chấm đỏ, từ đỉnh đầu của hành giả đi vào, theo trung mạch đi xuống đến tim của hành giả, an tọa trên đài sen trong tim của hành giả, lúc này A Di Đà Phật dần dần phóng to lên, đến khi bằng với hành giả, hành giả tức là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tức là hành giả, hai thân hòa hợp làm một, không có sự khác biệt.

13. Nhập định. (Không sinh một niệm, nhất tâm bất loạn, nhập vào Tam ma địa của A Di Đà Phật.) Tay kết định ấn.

14. Xuất định. Tụng tán:

Tịnh nguyện trang nghiêm an lạc lợi, Phổ tế trọc thế chư hữu tình; Tây phương tiếp dẫn chứng vô sinh, A Di Đà Phật con kính lễ. (Chỗ này có thể thêm niệm Phật trăm lần nghìn lần.)

15. Hồi hướng:

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

16. Đại lễ bái Phật. Xuất đàn.

🌟

Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng, diệu pháp "chú, ấn, quán tưởng" của Phật A Di Đà mà tôi đã viết ra không hề phức tạp, chỉ cần hành giả thực hành theo trình tự trong thời gian dài sẽ trở nên rất thuần thục, mỗi lần vào đàn tu pháp sẽ thành thạo dần, thậm chí có thể lĩnh hội được tâm yếu bên trong, thực sự nhập vào Tam ma địa.

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều pháp tướng của Phật A Di Đà, có vị ngồi trên đài sen hai tay kết định ấn, nâng bát. Có vị Phật A Di Đà đứng, tay cầm đài sen. Có vị hai tay kết ấn ban nguyện, trong tư thế tiếp dẫn, và còn nhiều kiểu khác nữa.

Quán tưởng này là linh hoạt: Nâng bát đầy cam lộ: "Quán tưởng cam lộ hóa thành ánh sáng trắng rót vào đỉnh đầu qua thiên khiếu." Tay cầm đài sen: "Quán tưởng hoa sen hóa thành ánh sáng trắng chiếu vào hành giả." Hai tay kết ấn ban nguyện: "Quán tưởng ánh sáng trắng từ tướng bạch hào giữa chân mày A Di Đà Phật xoay tròn, bay lên không trung, tạo thành hình cung, chiếu vào đỉnh đầu qua thiên khiếu, lan tỏa khắp toàn thân tạo thành ánh sáng."

Liên Sinh Hoạt Phật nói: "Quán tưởng trong Mật pháp rất linh hoạt, điều quan trọng nhất là tập trung tâm niệm vào một vị A Di Đà Phật." Sau phần Cửu tiết Phật phong, nếu ai muốn tiếp tục tu nội hỏa minh điểm cũng được. Nếu sau khi tụng xong Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, muốn tụng Kinh A Di Đà cũng được.

Về phần hồi hướng, nếu muốn thay người khác tu pháp, có thể thêm câu: "Công đức tu pháp lần này, xin hồi hướng cho người nào đó, giúp họ vãng sinh cõi Phật, hoặc sớm kết duyên Phật, hoặc quay về điều thiện, v.v…" Hồi hướng cũng cần vận dụng linh hoạt, không cần cứng nhắc theo một khuôn mẫu không đổi.

Liên Sinh Hoạt Phật từng viết trong cuốn sách "Mật Giáo Đại Viên Mãn", trang 141, về nghi quỹ tu pháp Bổn tôn A Di Đà Phật của Tạng mật. Pháp của Tạng mật này khá phức tạp, cần tụng bảy bài văn và có quán tưởng biến hóa. Một số đệ tử khó học được, vì vậy, tôi đặc biệt viết ra "Trình tự tu pháp A Di Đà Phật của Chân Phật Tông" đơn giản hơn, cả hai đều có năng lực pháp và công đức như nhau. Hành giả có thể đối chiếu lẫn nhau.

Có Hoạt Phật Tây Tạng cho rằng, đại mật pháp dễ đạt thành tựu nhất, vững chắc nhất, và nhanh chóng thành Phật nhất vẫn là mật pháp A Di Đà Phật.

Tôi cho rằng, câu nói này rất đúng, bởi vì bốn mươi tám đại nguyện của A Di Đà Phật không phải tầm thường, Tây phương Cực Lạc thế giới tiếp dẫn chúng sinh cả linh lợi và ngu độn, pháp niệm Phật của Tịnh Độ tông, chỉ cần nhất tâm cầu vãng sinh, hoặc nhất tâm niệm Phật cầu A Di Đà Phật từ bi tiếp dẫn, chỉ cần lúc lâm chung niệm Phật bảy ngày là thành tựu.

Tôi cho rằng, "tín niệm vãng sinh" của Tịnh Độ tông là một con đường tắt trực tiếp vãng sinh. Còn một hành giả quán tu học mật, sâu hơn Tịnh Độ tông, tu mật pháp A Di Đà này, sẽ thành tựu bản tính Di Đà, ta tức Di Đà, Di Đà tức ta, là tâm là Phật, là Phật là tâm, không gì không thành tựu.

Liên Sinh Hoạt Phật nhận thấy rằng, trong tất cả sự cứu độ của chư Phật, ở thế giới Ta Bà nhân gian, Phật A Di Đà đứng hàng đầu. Gần như những đứa trẻ ba tuổi cũng biết niệm câu "A Di Đà Phật". Hào quang của Phật A Di Đà có thể chia thành: "Vô lượng quang, Vô biên quang, Vô ngại quang, Vô đối quang, Diệm vương quang, Thanh tịnh quang, Hoan hỷ quang, Trí huệ quang, Bất đoạn quang, Nan tư quang, Vô xứng quang, Siêu nhật nguyệt quang." Tây phương Cực Lạc thế giới có cảnh giới tam phẩm cửu sinh.

Tôi từng thấy pháp tướng của Phật A Di Đà: A Di Đà Phật tì kheo Pháp Tạng. A Di Đà Phật kết pháp giới định ấn. A Di Đà Phật tiếp dẫn ban nguyện. A Di Đà Phật đội mũ miện. A Di Đà Phật thân pha lê đỏ. A Di Đà Phật tư duy năm kiếp. A Di Đà Phật cầm đài sen. A Di Đà Phật ba mặt sáu tay. (Vị này rất hiếm gặp, xuất phát từ Kinh Đại Giáo Vương Du Già.)

Phật A Di Đà trong Mật giáo là một trong năm trí huệ của Đại Nhật Như Lai, sinh ra Tây phương diệu quan sát tam muội. Trong Thai Tạng Giới, ngài ở phương Tây của viện Trung Đài Bát Diệp, trong Kim Cương Giới, ngài ở phương Tây của Ngũ Giải Thoát Luân. Ngài làt trí huệ phương tiện của Như Lai.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Thân Phật Vô Lượng Thọ, như trăm nghìn vạn ức màu vàng diêm phù đàn của cõi trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Tướng bạch hào giữa chân mày xoay về bên phải uốn lượn, như năm núi Tu Di, mắt Phật như bốn biển lớn, xanh trắng phân minh rõ ràng, toàn thân các lỗ chân lông đều tỏa ánh sáng."

Tôi cho rằng, đệ tử Chân Phật Tông, nếu tự chọn Bổn tôn, có thể chọn A Di Đà Phật, bởi vì sự cứu độ của Ngài rộng lớn nhất, Pháp thân của Liên Sinh Hoạt Phật Liên Hoa Đồng Tử chính là Liên Hoa Bồ Tát của thế giới Tây phương Cực Lạc. Điều huyền diệu bên trong thực sự không thể nói hết.

Đặc biệt ghi lại kệ: Di Đà mật pháp cứu độ sâu, Không phân khôn đần phàm với tăng; Bốn tám đại nguyện rộng cứu kiếp, Thế giới Ta Bà vạn đời tôn.

~ Bài viết này được trích từ cuốn văn tập số 063 của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn - Bí Mật Trong Chân Phật Mật Pháp

64. Phụ lục 2: Khẩu quyết Bổn tôn A Di Đà Phật - Nhất tâm bất loạn

Khẩu quyết của Bổn tôn A Di Đà Phật chỉ về "nhất tâm bất loạn", nghĩa là "tâm ý chuyên nhất không tán loạn". "Nhất tâm" chính là chuyên nhất. "Bất loạn" là không điên đảo. Chỉ cần nhất tâm bất loạn tin tưởng vững chắc vào bản nguyện của A Di Đà Phật, ắt sẽ thành tựu vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Liên Sinh Hoạt Phật nhận thấy rằng thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà có năng lực độ sinh vô lượng, bởi vì thế giới này có chín phẩm liên hoa sinh, chín phẩm ấy là:

Thượng phẩm thượng sinh - dành cho người tu hành Đại thừa thượng thiện, lúc lâm chung được A Di Đà Phật đón tiếp, ngồi đài sen kim cương, trong chớp mắt liền vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, thấy Phật thoát sinh tử, đắc quả vị vô sinh pháp nhẫn.

Thượng phẩm trung sinh - dành cho người tu hành đức hạnh kế dưới bậc Đại thừa thượng thiện, lúc lâm chung được A Di Đà Phật đón tiếp, ngồi đài sen tử kim, vãng sinh về thế giới Cực Lạc, thấy Phật đắc bất thoái chuyển, trải qua một tiểu kiếp nữa sẽ đắc quả vị vô sinh pháp nhẫn.

Thượng phẩm hạ sinh - dành cho người tu hành đức hạnh kế dưới nữa, lúc lâm chung được A Di Đà Phật đón tiếp, ngồi hoa sen sắc vàng vãng sinh về thế giới Cực Lạc, được nghe và thấy Phật pháp, trải qua ba tiểu kiếp sẽ đắc quả vị hoan hỷ địa.

Trung phẩm thượng sinh - dành cho người tu hành Tiểu thừa thượng thiện, lúc lâm chung được A Di Đà Phật đón tiếp, vãng sinh về thế giới Cực Lạc, nghe pháp bốn đế, đắc quả vị A La Hán.

Trung phẩm trung sinh - dành cho người tu hành Tiểu thừa hạ thiện, lúc lâm chung, Phật đến đón tiếp, vãng sinh về thế giới Cực Lạc, trải qua nửa kiếp sau mới thành tựu quả vị A La Hán.

Trung phẩm hạ sinh - dành cho người làm việc thiện thế tục, lúc lâm chung, nghe được đức của Phật mà vãng sinh về thế giới Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp sau sẽ đắc quả vị A La Hán.

Hạ phẩm thượng sinh - dành cho người phạm mười điều ác nhẹ, lúc lâm chung niệm Phật, có thể tiêu trừ tội sinh tử trong năm mươi ức kiếp, vãng sinh về hồ báu ở thế giới Cực Lạc, sau bốn mươi chín ngày, hoa sen mới nở, mới được nghe pháp.

Hạ phẩm trung sinh - dành cho người phạm giới nhẹ, lúc lâm chung niệm Phật, có thể tiêu trừ tội sinh tử trong mười ức kiếp, vãng sinh về hồ báu ở thế giới Cực Lạc, trải qua sáu kiếp, hoa sen mới nở, mới được nghe pháp.

Hạ phẩm hạ sinh - dành cho người phạm năm tội nghịch nặng, lúc lâm chung, mười niệm niệm Phật, trong mỗi niệm có thể tiêu trừ tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, vãng sinh trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc, trải qua mười hai kiếp sau, mới được nghe pháp.

Đây là sự phân biệt của "chín phẩm liên hoa sinh". Khi tôi hiểu ra rằng, trong chín phẩm liên hoa sinh, ngay cả những người phạm mười điều ác nhẹ, những người phạm giới nhẹ, những người phạm năm tội nghịch nặng, chỉ vì lúc lâm chung nhất tâm niệm Phật, mà cũng được vãng sinh, có thể thấy sự siêu việt của thế giới Cực Lạc, bản nguyện của A Di Đà Phật thật sự vĩ đại, Ngài quả thật là vị Vô Lượng Thọ Phật đệ nhất về độ sinh.

Theo cảm nhận cá nhân tôi, việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc, chỉ cần nhất tâm bất loạn niệm Phật là có thể vãng sinh, tưởng như rất dễ, nhưng thực ra cũng khá khó khăn, bởi vì nhất tâm bất loạn cần phải lấy "thập tín" làm nền tảng, muốn niệm Phật, trước hết phải có lòng tin, và lòng tin phải kiên định, không điên đảo mới được.

"Thập tín" này, chính là tâm hợp với lý, chắc chắn không đổi dời, diệt tất cả vọng tưởng, gọi là tín tâm. Dù trải qua vô số kiếp, xả thân thọ thân, nhưng một niệm hiện tiền này quyết định không quên, gọi là niệm tâm. Không tạp gọi là tinh, không thoái gọi là tiến, chuyên trì một vị Phật, gọi là tinh tấn tâm. Tâm thuần hạnh siêng năng, trí tuệ tự sinh, gọi là tuệ tâm. Trăm thứ tạp nhiễm tan biến, tâm thể trong lặng, gọi là định tâm. Ánh sáng định phát chiếu, tiến tu không mỏi mệt, gọi là bất thoái tâm. Tiến đến công đức thuần thục, giữ gìn không mất, cùng mười phương Như Lai, khí phần tương tiếp, gọi là hộ pháp tâm. Do giữ gìn sức tu đạo, nên cùng Phật quang giao tiếp, gọi là hồi hướng tâm. An trụ tịnh giới, tâm quang thường ngưng đọng, gọi là giới tâm. Đi khắp mười phương, hóa độ chúng sinh, tùy theo nguyện ước đều được viên mãn, gọi là nguyện tâm.

Có được "thập tín" này, quyết định vãng sinh không nghi ngờ.

Sự thù thắng của thế giới Cực Lạc nằm ở chỗ có bốn loại tịnh thổ: Phàm Thánh Đồng Cư thổ, Phương Tiện Hữu Dư thổ, Thật Báo Trang Nghiêm thổ và Thường Tịch Quang thổ. Đặc biệt là Phàm Thánh Đồng Cư thổ còn có thể "mang nghiệp vãng sinh", đây là một phương tiện vĩ đại nghìn đời, trong cảnh giới hoa sen thù thắng, chuyển tâm sinh diệt của phàm phu thành tâm bồ đề bất sinh bất diệt.

Khi hành giả Mật tông tu Mật pháp, quán tưởng thân mình là đức A Di Đà Phật duy nhất hiện tại của thế giới này, phía trên là A Di Đà Phật quá khứ, phía dưới là A Di Đà Phật vị lai. A Di Đà Phật phía trên hóa thành điểm sáng hạ xuống, A Di Đà Phật phía dưới hóa thành điểm sáng đi lên, như vậy quá khứ, hiện tại, vị lai hợp thành một, rồi lại khiến mười phương thế giới hợp thành một, hóa thành thế giới Cực Lạc.

Đây là pháp tối mật "thụ cùng tam thế nhất thời, hoành biến thập phương nhất thể". Mật chú trì tụng là "Ôm a-mi-tê-wa sê." Thủ ấn là pháp giới định ấn".

Một người nếu tu Mật pháp Bổn tôn A Di Đà Phật, giữ lòng tin không nghi ngờ, nhất tâm bất loạn, khi lâm chung có thể niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đóng kín tất cả lỗ chân lông trên toàn thân, chỉ để hở Phạn huyệt đỉnh, niệm một tiếng chữ "Hum", nguyên thần sẽ xông ra từ đỉnh đầu, Tây phương Tam Thánh hiện tiền, liền được hóa sinh trong hoa sen. A Di Đà Phật và Liên Hoa Đồng Tử có mối liên hệ sâu sắc. Tây phương Tam Thánh và Liên Hoa Đồng Tử không hai không khác. Trong đây có bí mật của bí mật.

~Trích từ văn tập số 075 của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn - Chân Phật Pháp Trung Pháp

65. Phụ lục 3: Tôi thường dạy chú vãng sinh

Bác gái của tôi là người xuất gia, khi còn sống, bác đã xuất gia tại Thiên Tự ở Tân Hóa, Đài Nam. Bác rất chăm chỉ trì chú vãng sinh, bởi vì bác tin rằng trì chú vãng sinh chắc chắn sẽ vãng sinh.

Trong Phật giáo lan truyền rộng rãi một câu chuyện. Vào thời kỳ Thiên Gia, núi Lư Sơn có một vị là Trân thiền sư, khi nhập định, ông đã nhìn thấy mấy trăm người cùng lên một chiếc thuyền pháp đi về phía Tây, Trân thiền sư yêu cầu những người ở trên thuyền pháp thất bảo nhân tiện chở ông ấy đến Tây phương. Nhưng người trên thuyền nói Trân thiền sư tuy đã giảng được Kinh Niết Bàn, có định lực bất khả tư nghì, nhưng Trân thiền sư lại chưa trì tụng Kinh A Di Đà và chú vãng sinh, cho nên không thể chở ông ấy cùng về Tây phương được.

Vị Trân thiền sư này nghe vậy, sau khi xuất định, lập tức dừng giảng kinh, ngày đêm chuyên tụng Kinh Di Đà và niệm chú vãng sinh. Khi niệm chú vãng sinh được 20.000 biến thì trong thiền định nhìn thấy thần nhân gửi đến một tòa hoa sen màu trắng, đồng thời còn nói rằng, nếu pháp sư thọ chung viên tịch thì hãy ngồi trên tòa sen này vãng sinh đến nước Tây phương Cực Lạc A Di Đà Phật. Trân thiền sư liền biết công lực của Kinh A Di Đà và chú vãng sinh lớn như vậy, quyết định vãng sinh.

Vào lúc Trân thiền sư thọ chung, mọi người cũng nghe thấy trong không trung có thiên nhạc vang lên, khắp phòng tỏa hương thơm, mấy tháng không hết, Trân thiền sư đã vãng sinh rồi.

Chú vãng sinh có lợi ích gì? Nếu có người thường niệm chú vãng sinh, tụng đủ 200.000 biến, thì sẽ có hạt mầm của Phật sinh ra trong tim, nếu trì 300.000 biến, A Di Đà Phật sẽ thường trụ trên đầu người đó, ngày đêm đều bảo vệ người đó được an ổn, lúc lâm chung tự nhiên vãng sinh Phật quốc.

Cá nhân tôi khi tu trì Mật pháp độ âm, triệu thỉnh linh hồn người ngoại quốc đến trước đàn cúng của tôi, tôi thường trì chú vãng sinh, rồi thường dạy u linh niệm chú vãng sinh. Những u linh này niệm chú vãng sinh rồi nhất định sẽ cảm động A Di Đà Phật đến tương ứng, sẽ vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới.

Tu trì pháp vãng sinh, tôi dạy mọi người như sau: Trước tiên thờ cúng Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, pháp tướng của ngài tốt nhất là một tay cầm hoa sen. A Di Đà Phật trong Kim Cương Giới là vị Phật của phương Tây, trong Mật giáo, ngài là một trong ngũ trí thuộc hệ Đại Nhật Như Lai, trú trong tam muội Tây phương Diệu quan sát trí. Trong Thai Tạng Giới ngài ở phía Tây của viện Trung Đài Bát Diệp. Bốn đại Bồ Tát của ngài là Kim Cang Pháp, Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang Ngữ. Tây phương Cực Lạc thế giới có bốn tịnh thổ lớn, cửu phẩm liên hoa sinh, có cảnh hai mươi lăm Bồ Tát đến nghênh đón, là một Phật quốc tịnh thổ rất thù thắng.

Tôi dạy người ta tu pháp vãng sinh vô cùng giản tiện, mọi người có thể tay kết thủ ấn mãn nguyện, tức là tay trái nắm vào áo cà sa, tay phải duỗi thẳng, lòng bàn tay ngửa lên trời.

Hành giả Mật tông trước tiên quán tưởng bảo tướng trang nghiêm của Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, sau đó tinh thần tập trung vào đài hoa sen trên tay của A Di Đà Phật. Nếu bạn thích đài hoa sen màu đỏ thì quán tưởng đài hoa sen màu đỏ phóng quang; nếu thích đài hoa sen màu trắng thì quán tưởng đài hoa sen màu trắng phóng quang; nếu thích đài hoa sen màu vàng thì quán tưởng đài hoa sen màu vàng phóng quang, dựa theo màu sắc hoa sen mà mình thích để quán tưởng.

Sau đó tiếp tục quán tưởng đài hoa sen đó bay lên không, từ trên tay của A Di Đà Phật bay đến trên tay phải của mình, trở thành hoa sen tương lai của chính mình, và đài hoa sen trên tay mình phóng quang.

Quán tưởng hoàn tất, liền sau đó trì chú vãng sinh: ”Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê. Tô-tây-ya-tha. A-mi-ni-tô pô-pi. A-mi-ni-tô si-tam pô-pi. A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê. A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô. Ka-mi-ni ka-ka-na. Chê-tô ka-ni sô-ha.” Tổng cộng trì chú 108 biến. Sau đó là nhập thiền định.

Tôi cảm thấy nếu có người tu trì pháp này, một ngày hai lần hoặc một lần, liên tục và không gián đoạn, tất cả chúng sinh nhất định có thể vãng sinh đến nước A Di Đà Phật. Nếu muốn quy mệnh A Di Đà Phật, phải thường niệm danh hiệu hoặc trì tâm chú của A Di Đà Phật, hoặc tu Di Đà đại pháp, hoặc tu đại mật pháp chú vãng sinh mà tôi viết ra. Y theo thề nguyện của Phật thì rất dễ vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới tịnh thổ.

Tôi cảm thán, A Di Đà Phật có pháp đại thuận tiện như vậy, một người tu một người đi, vạn người tu vạn người đi, tiếc thay chúng sinh sao lại không tin. Hôm nay tôi - Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư ở tại đây, thay Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật làm một minh chứng lớn, Di Đà đại pháp, Di Đà vãng sinh pháp, Di Đà cưỡi hoa sen pháp đều là những pháp rất có công lực. Một người tu Mật, chỉ tu Tứ gia hành, sau đó tu Thượng sư tương ứng, cuối cùng tu Di Đà vãng sinh pháp, duy trì một ngày tu pháp một lần, vào ngày họ mệnh chung, chắc chắn vãng sinh, nếu không vãng sinh, Thượng sư Lư Thắng Ngạn tôi đây chịu trách nhiệm. Tôi đã liều mình đưa ra lời thề nguyện phân thân xả cốt mà nói như vậy, lẽ nào chúng sinh không tin sao?

Trí tính của A Di Đà Phật không sinh không diệt, bên trong chiếu bảo tướng của các pháp, bên ngoài chiếu căn cơ của chúng sinh, công đức của ngài vô lượng vô biên, ban lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Viết một bài kệ: Tây phương Cực Lạc hồ hoa sen, Trí huệ vô biên như biển lớn, Pháp bao tiện lợi người ngợi khen Chuyên tu vững chắc là chính đạo.

~ Bản văn này trích từ văn tập Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn số 054 - Mật Tông Yết Ma Pháp.

(Hết.)

Mục lục