Giảng luận Đại Viên Mãn cửu thứ đệ - Tập 1
(Liên Sinh Hoạt Phật giảng Đại Viên Mãn cửu thứ đệ)
Văn tập số: N/A Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên tập và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Bài giảng số 1
Một chân pháp giới chẳng nhiễm vạn cảnh, ứng hóa tại thế gian rộng rãi giảng truyền Đại Viên Mãn cửu thứ đệ
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã dùng phương thức "di truyền" để giấu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" vào trong bộ não kiếp trước của Lư Sư Tôn.
(Trong đại pháp hội Hộ Ma Tịnh Thổ Tam Tôn diễn ra tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở Hoa Kì vào ngày 2 tháng 6 năm 2013, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đã khai thị tinh yếu.)
Hôm nay là buổi đầu tiên chúng ta bắt đầu nói về "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Đầu tiên, tôi xin nói về việc tôi đã có được truyền thừa pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" như thế nào.
Tôi có bốn vị sư phụ Mật giáo, người thứ nhất là Liễu Minh Hòa Thượng, người thứ hai là Sakya Chứng Không Thượng Sư, người thứ ba là Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, người thứ tư là Thubten Dorjie Thượng Sư. Đây là bốn vị thầy căn bản của tôi. Trong số đó, vị thầy thứ nhất Liễu Minh Hòa Thượng thuộc phái Nyingmapa, Nyingmapa gọi là Cựu giáo. Mật giáo phân ra làm Cựu giáo và Tân giáo. Cựu giáo thì gọi là phái Nyingmapa.
Những tư tưởng của phái Nyingma là cũ, là cổ xưa. Hoàng giáo là Gelugpa, Hoa giáo là Sakya, Bạch giáo là Kagyupa, ba phái này thuộc về Tân giáo. Còn phái Nyingma là thuộc về Cựu giáo, là cổ xưa, chính là Hồng giáo. Bản thân Liễu Minh Hòa Thượng thuộc Hồng giáo. Khi còn ở Tứ Xuyên, ông ấy học tập pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" từ chỗ của Norlha Rinpoche. Do vậy, tôi nhận quán đảnh "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" ở chỗ của Liễu Minh Hòa Thượng thì đây là truyền thừa nhân gian của tôi.
Ngoài ra, tôi có một kiếp, nếu mà các bạn đã đọc cuốn "Đại chuyển thế của Pháp Vương" thì có thể đã biết, Sư Tôn từng có một kiếp là tán phổ (hoàng đế) Tây Tạng, tính từ cuối lên thì là vua Trisong Detsen đời thứ ba, cũng chính là vị Trisong Detsen đã mời Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng. Khi ấy, vị đầu tiên vào Tây Tạng chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, vua Trisong Detsen đã bái Liên Hoa Sinh Đại Sĩ làm thầy, học tập "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Hơn nữa, bên cạnh Liên Hoa Sinh Đại Sĩ còn có một vị chính là Tịnh Mệnh tôn giả (Tịnh Mệnh đại sư, còn gọi là Tịch Hộ đại sư), khi ấy họ ở cùng nhau, và họ còn xây Chùa Samye, hay còn gọi là Chùa Nhậm Vận. Ý nghĩa của nhậm vận chính là rất tự do tự tại, là ngôi chùa có thể nhậm vận trong hư không và trong thế giới Ta Bà.
Bản thân vua Trisong Detsen lúc học pháp cũng rất bí mật, bởi vì các vương thần khi ấy đều phản đối Phật giáo tương đối nhiều, tôn giáo ở Tây Tạng khi ấy là đạo Bon, Tây Tạng vốn tôn thờ thần linh tổ tiên, tôn thờ tự nhiên, đạo Bon và đạo Shaman cũng giống nhau cùng thờ đá, thờ cây, thờ núi, thờ sông hồ, thờ tất cả tổ tiên, tôn giáo này gọi là đạo Shaman. Khi ấy ở Tây Tạng, đạo Shaman vô cùng hưng thịnh. Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng, vua Trisong Detsen mặc dù nghênh đón Liên Sư nhưng khi ngài tu pháp thì lại rất bí mật.
Sau này, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ một mặt đi ngao du khắp Tây Tạng, đến Bhutan, thậm chí đến Nepal. Trong khi ngao du, ngài đã viết pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" bí mật lên những tấm da dê, giấu trong hang đá, giấu trong hồ nước, giấu trong cây, giấu ở những nơi bất kì, để sau này có người hữu duyên có thể phát hiện và lấy ra. Duy nhất có một cách giấu khác biệt, đó chính là ngài đã giấu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong não của vua Trisong Detsen. Bởi vì Sư Tôn có nhân duyên chuyển thế như vậy nên Sư Tôn có thể ngồi thiền, tập trung vào trong thiền định là có thể hiển hiện ra "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" mà năm xưa Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã giấu vào trong não của tôi.
Ở đây gọi là truyền thừa "cách thời đại", nếu nói theo khoa học ngày nay thì chính là "gen di truyền", tôi có di truyền của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", bởi vậy tôi có thể hiểu được "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Ở đây có hai truyền thừa, truyền thừa thứ nhất là truyền thừa nhân gian, là do Liễu Minh Hòa Thượng quán đảnh "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho Lư Sư Tôn, truyền thừa thứ hai chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã dùng phương thức "di truyền" để giấu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của chính mình vào trong não của vua Trisong Detsen, chờ đến khi chuyển thế, vì đã có "gen" của "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" rồi, nên trong khi ngồi thiền có thể tự tâm tuôn chảy ra pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Nói thẳng thắn với mọi người, "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là đỉnh cao, giống như đỉnh Chomolungma trên dãy núi Himalaya vậy, cũng chính là đỉnh Thánh Mẫu, là đỉnh núi cao nhất, là đỉnh cao nhất của mọi Mật giáo. Thành tựu lớn nhất số một là thân thể Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có thể hóa thành cầu vồng, rồi giống như cầu vồng có thể biến mất hút về phía chân trời của hư không, thân thể hóa thành ánh sáng cầu vồng, đây là thành tựu tuyệt vời số một. Chúng ta cũng có thành tựu tuyệt vời số ba, đó chính là Thượng sư Liên Hoa Ích Dân, xá lợi toàn thân của ông ấy là thành tựu tuyệt vời số ba. Thế còn sự tuyệt vời thứ hai chính là hóa thành ánh sáng cầu vồng, nhưng vẫn còn để lại quần áo, lông tóc, móng tay, đó là thành tựu tuyệt vời số hai. Chính vì vậy mà "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" được gọi là đỉnh cao.
Những kinh tục tích tồn về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có 640 vạn kinh điển Tục Bộ, là 640 vạn quyển đó! "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của ngài ấy có 640 vạn bộ kinh điển. "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" được truyền sớm nhất và đầu tiên bởi A Đạt Nhĩ Mã Phật Phổ Hiền Vương Như Lai, Phổ Hiền Vương Như Lai khác Phổ Hiền Bồ Tát, ở đây là hai vị Như Lai, Phổ Hiền Vương Như Lai chính là A Đạt Nhĩ Mã Phật, thuộc về Phật ở địa thứ 16. Tì Lô Giá Na Phật Đại Nhật Như Lai thuộc về Phật ở địa thứ 13. Quan Thế Âm Bồ Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát thuộc về Phật ở địa thứ 11, bản thân Phật cũng phân thành các cấp, đây là do con người chúng ta phân ra.
Tuy nhiên, vị Phật đầu tiên nhất chính là Phổ Hiền Vương Như Lai. Trước kia, trong cuốn sách số 056 "Mật giáo Đại Viên Mãn" của tôi, tôi đã viết về "Bà Tiên Như Lai", vì sao lại gọi là Bà Tiên Như Lai? Thật ra đó chính là Phổ Hiền Vương Như Lai, tôi viết thành Bà Tiên Như Lai, Bà trong từ Ta Bà, Tiên trong từ tiên nhân, Phổ Hiền (Pu Xian) --- Bà Tiên (Po Xian) , tôi cố ý viết thành Bà Tiên, vì sao vậy? Bởi vì tôi không muốn nói để mọi người biết là Phổ Hiền Vương Như Lai, đây là huyền cơ mà tôi cần giấu.
Khi tôi viết sách, đôi khi tôi cũng có giấu một vài huyền cơ ở trong đó, tôi cố ý dùng phát âm gần giống để viết ra, chỉ là chúng sinh không hiểu không thấy mà thôi. Pháp này truyền đến đời vua Lãng Đạt Mã, tức là sau vua Trisong Detsen, trải qua một đời vua nữa, rồi đời vua kế tiếp chính là vua Lãng Đạt Mã. Lãng Đạt Mã diệt Phật, tiêu diệt toàn bộ Phật giáo. Vì Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã biết trước vị vua này sẽ hủy diệt Phật giáo nên ngài ấy mới giấu hết mọi kinh điển đi, giấu ở các nơi khác nhau, ở Bhutan, ở Nepal, thậm chí là giấu trong sông hồ.
Những thứ ngài đã giấu thì rất vi diệu, có rất nhiều người không thừa nhận các pháp terma, nhưng cũng có rất nhiều người thừa nhận, chỉ cần đó là một vị đại sư terton có duyên với terma thì đều là đệ tử trong đời quá khứ của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Người đó sẽ có cảm ứng, vào những lúc trăng tròn, thuyền trôi đến giữa hồ nước nào thì được dặn là chờ ở đó. Chờ cái gì? Chờ kinh điển xuất hiện, ví dụ như đột ngột có con cá nhảy lên, một con cá có đôi mắt to từ dưới hồ nhảy lên, miệng nó sẽ nhả ra một thứ, giống như là ánh sáng vậy, chíu! Rơi trên thuyền, mở ra xem thì đó chính là kinh điển mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ năm xưa đã giấu. Thật không ngờ terma lại nằm trong bụng của con cá ở hồ này. Trùng hợp như vậy, sự việc vi diệu như vậy đều có khả năng xuất hiện. Như tôi đây là hay nhất! Trong gen của tôi đã có sẵn "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", mọi người nghe xong, có cảm thấy kì lạ không?
Những terma của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vô cùng ảo diệu. Vào thế kỉ thứ 14, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từng hóa thân thành Longchenpa tôn giả, ngài ấy đã từng chỉnh lí "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", viết thành hai cuốn sách, chủ yếu nhất là Longchen Nyingthig, cũng chính là "Đại Viên Mãn tâm trong tâm", rất quan trọng. Pháp "Đại Viên Mãn tâm trong tâm" gọi là Nyingthig. Tuy nhiên, pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" ban đầu vốn là chỉ cái gì? Nãy giờ nghe cả buổi rồi vẫn không biết! Để tôi nói, nó có "ngoại tam thứ đệ", "nội tam thứ đệ", và "vô thượng tam thứ đệ".
Cái gọi là "ngoại tam thứ đệ" là nói về cái gì đây? Nói về Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Cái gọi là "nội tam thứ đệ" là Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ của Mật giáo. Ba thứ tự du già rất to lớn cuối cùng là cái gì? Đó chính là Đại Du Già (Maha Yoga), A Nỗ Du Già (Anu Yoga, là du già vô song), và A Để Du Già (Ati Yoga, vô thượng du già). Ba bậc ở ngoài, ba bậc ở trong, ba bậc du già được gọi "Chín bậc Đại Viên Mãn", bao gồm tất cả Mật pháp. Sau khi được Longchenpa tôn giả chỉnh lí, viết ra những trọng điểm thì được gọi là Longchenpa Nyingthig, có hai bộ, Longchenpa Nyingthig thuộc về bộ Tâm trong tâm của "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", cũng chính là phần quan trọng nhất.
Sau này, đến thế kỉ 18, có một vị gọi là Jigme Lingpa, ông ấy là một terton, quá khứ cũng từng là đệ tử chuyển thế của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, ông ấy chuyên đi tìm những terma của "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" xem rốt cuộc chúng ở đâu. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ thị cho ông: "Cái cây to này, ông hãy chặt nó xuống, ở trong sẽ có terma của ta." Ông ấy thật sự đã chặt cái cây đó, chẻ ra, bên trong đúng thật là có kinh điển, chính là do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ để lại. Trong các hang động cũng có terma của ngài.
Có một lần, Jigme Lingpa đến bên một tảng đá lớn, ông ấy ngồi lên trên nó, bên trong tảng đá phát ra âm thanh nói với ông: "Bên trong tảng đá này có kinh điển." Trước đây, các giáo phái mới Gelugpa, Sakya, Kagypa không mấy tin tưởng vào terma, chỉ dựa vào những gì mắt nhìn thấy. Bên trong đá có kinh điển à, mọi người không tin, đem cưa ra cưa, lấy rìu ra chặt, sau khi chém vỡ thành nhiều mảnh vụn, bới ra xem, bên trong thật sự thấy có kinh điển, hơn nữa lại còn được viết trên tấm da dê thời xưa, nội dung bên trong chính là pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" viết bằng tiếng Phạn. Bên trong não của Sư Tôn cũng có terma, chúng đã biến thành gen của chính tôi rồi. Bởi vậy, tôi có thể giảng pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" vô cùng rõ ràng.
Chúng ta cần phải được quán đảnh "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", đầu tiên phải quán tưởng cây quy y. Cây quy y chính là trung tâm tín ngưỡng của chính bạn, bất kể là đạo Cơ đốc, phái Nyingma, phái Gelug, phái Sakya, phái Kagyu, thì đều có cây quy y. Cũng giống như cây như ý, từ trong nước công đức mọc lên một cái cây, có thân, có cành, có lá, hình thành nên một cái cây như vậy, ở chính giữa là Căn bản Thượng sư của bạn. Trong phái Nyingma thì thượng sư chính là Guru Rinpoche, chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, phía trên đều là các vị tổ sư của dòng truyền thừa, tổng cộng có 15 vị thầy truyền thừa.
Sau này, tôi sẽ lần lượt nói với mọi người về các thượng sư của truyền thừa. Ở trên cao nhất chính là A Đạt Nhĩ Mã Phật Phổ Hiền Vương Như Lai, bởi vì ngài đã truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", tiếp theo chính là tất cả các vị tổ sư. Đầu tiên, pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" được truyền giữa các vị Phật với nhau, sau đó được truyền ở các thiên thượng giới. Sau đó được truyền giữa các đế vương ở các cõi địa thượng. Cuối cùng mới truyền ở thế giới Ta Bà, mới đến nhân gian, truyền thừa ở nhân gian cũng có rất nhiều các vị tổ sư, sau này tôi sẽ lần lượt giới thiệu cùng mọi người. Ở chính giữa cây quy y là Guru Rinpoche, cũng chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. "Om benza pema hum" chính là tâm chú ngắn nhất của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.
Ngài ấy ngồi ở chính giữa của cây quy y, sau lưng ngài cũng chính là 640 vạn bộ kinh điển Tục Bộ của Đại Viên Mãn, toàn bộ đều ở sau lưng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Phía trên cây quy y có các vị tổ sư truyền thừa xếp hàng, phía bên phải của Liên Sư có ba hộ chủ của Mật giáo, đó là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát và Quan Âm Tứ Thủ. Phía bên trái của Liên Sư là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, cùng tất cả Duyên Giác, Thanh Văn, v.v… đều ở bên này. Ở phía trước chính là Phật Thích Ca Mâu Ni cùng thập phương tam thế chư Phật, nghìn vị Phật của hiền kiếp tương lai, xếp vòng tròn xung quanh.
Cho nên, sau lưng Liên Sư là kinh điển, trước mặt là Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tất cả chư Phật của thập phương tam thế, hai bên có Quan Âm Tứ Thủ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Kim Cương Thủ, ở bên kia thì có Thanh Văn, Duyên Giác, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên và tất cả Bồ Tát. Ngoài ra, phía thấp nhất thì có Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên, toàn bộ đều ở bên dưới phía trước mặt của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Mọi người hãy dùng bộ óc để tưởng tượng xem. Từ trong biển, từ trong nước bát công đức sinh ra một cái cây to, ở chính giữa cây to là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, phía trên là toàn bộ các vị tổ sư truyền thừa, bên phải là Mật giáo Tam Tôn, bên trái có Thanh Văn, Duyên Giác, trước mặt có Thích Ca Mâu Ni Phật, sau lưng có kinh, tục bộ, có 640 vạn bộ, bên dưới có các vị thần Kim Cang, thần Hộ Pháp, trong tất cả mọi khoảng trống đều có các thiên thần giáng xuống trú ngụ trong đó. Đây chính là cây quy y. Nói cách khác là, vào lúc quy y, ta thường niệm: "Namo guru bei, namo buddha ye, namo dharma ye, namo sangha ye.", kì thực chính là cần phải quán tưởng cây quy y này, đây là điều chủ yếu nhất.
Pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" vô cùng quan trọng, nó bao gồm tất cả mọi thứ của Mật giáo. Ở đây có hai vị tổ sư truyền thừa vĩ đại nhất, một vị là Guru Rinpoche Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, ngài chính là tổ sư truyền thừa. Một vị là Liễu Minh Hòa Thượng, chính là vị thầy truyền thừa ở nhân gian của tôi. Trong việc chỉnh lí Đại Viên Mãn thì người quan trọng nhất là Longchenpa, vị tổ sư này rất quan trọng, bởi vì ngài ấy đã chỉnh lí tất cả Kinh Bộ và Tục Bộ.
Ngoài ra còn phải kể đến Jigme Lingpa, ông ấy đã đi khắp nơi để lấy ra những thứ của pháp Đại Viên Mãn, khi lấy ra được thì đều vô cùng thần kì. Thật ra ở đây không có gì mâu thuẫn, bởi vì "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" có "ngoại tam thừa", "nội tam thừa" và "du già tam thừa", chúng có tính thứ tự, đầu tiên là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tiếp theo là Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, cho đến cao nhất thì chính là Đại Du Già, A Nỗ Du Già, A Để Du Già. A Để Du Già là quan trọng nhất, nên hoàn toàn không có mâu thuẫn gì cả.
Có một câu chuyện cười, người con trai hỏi người bố già: "Bố à, trên đời này có rất nhiều điều mâu thuẫn đúng không?" Người bố trả lời: "Đương nhiên, ví dụ như bà mẹ già của con, cả đời chỉ chuyên chú vào hai việc, một là ăn cơm, hai là giảm béo." Ăn cơm và giảm béo là hai việc mâu thuẫn nhau, cơ bản chính là mâu thuẫn, vừa muốn ăn vừa muốn giảm béo.
Trong thiên hạ có rất nhiều việc mâu thuẫn. "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" bản thân không hề mâu thuẫn, đây là điều rất quan trọng. Có một câu chuyện cười, trường học quy định giáo viên lên lớp không được nghe điện thoại. Một hôm, chúng tôi có tiết học vật lí, điện thoại của thầy giáo đổ chuông, thầy giáo bèn nhìn học sinh hỏi: "Đây là điện thoại của lãnh đạo, rốt cục có nên nhận điện thoại không?" Tất cả các học sinh đều trả lời: "Lãnh đạo gọi điện đến thì nhất định phải nhận rồi." Thầy giáo liền đi ra ngoài, kêu lên một tiếng: "Bà xã, bà làm gì vậy? Tôi đang lên lớp mà." Vợ cũng là lãnh đạo, điều này cũng mâu thuẫn rồi. Đứa con hỏi mẹ: "Vì sao ai cũng kêu mẹ là chanh chua vậy?" Bà mẹ trả lời: "Đó là lời khen ngợi mẹ là người phụ nữ hoạt bát đáng yêu." Hai điều này khác nhau rất xa. [ ND: ở đây có sự chơi chữ, trong tiếng Hán Việt, "bát phụ" là danh từ để gọi người phụ nữ đanh đá chanh chua, nhưng đồng thời chữ "bát" còn có nghĩa là hoạt bát, do vậy ở đây người mẹ đã cố ý tách từ "bát phụ" thành người phụ nữ hoạt bát. ]
Ở đây có một câu chuyện cười nói rằng đời người cũng giống như Tây Du Kí. Khi còn nhỏ chúng ta giống như Tôn Ngộ Không, rất nghịch ngợm, đại náo thiên cung. Lúc trẻ thì chúng ta giống như Trư Bát Giới, dám yêu dám hận. Lúc trưởng thành thì chúng ta giống như Sa Ngộ Tĩnh, công việc rất nhiều, vừa thật thà, vừa trung hậu. Khi già, chúng ta giống như Đường Tam Tạng, lôi thôi lằng nhằng, rất phiền phức. Đây không phải mâu thuẫn, mà là mọi thứ cứ theo đời người mà diễn ra.
"Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cũng không mâu thuẫn. Đầu tiên học Thanh Văn, tiếp theo là học Duyên Giác, sau đó là học Bồ Tát. Tiếp theo là tiến nhập vào Mật giáo, đầu tiên học Sự Bộ, tiếp theo học Hành Bộ, tiếp nữa học Du Già Bộ, cuối cùng là tiến nhập vào Đại Viên Mãn, có Đại Du Già, A Nỗ Du Già, A Để Du Già. Đây chính là thứ tự, cũng giống như đời người, từ lúc trẻ, cho đến trung niên, cho đến khi già, chính là theo một thứ tự. Thứ cuối cùng chúng ta cần học là A Để Du Già, chính là thứ cần học cuối cùng trong Đại Viên Mãn. Trong pháp Đại Viên Mãn có rất nhiều thứ, vô cùng vô cùng nhiều, nhưng tuyệt đối không hề mâu thuẫn với nhau.
Có một người cực kì tin vào phong thủy, có chuyện gì cũng đi hỏi thầy phong thủy, luôn muốn dự đoán trước lành dữ họa phúc. Một hôm, anh ta ngồi bên dưới bức tường, bỗng nhiên có động đất, tường đổ sập, đè anh ta ở bên dưới, anh ta kêu to để cầu cứu, những người hầu đều đến và nói với ông chủ rằng: "Ông chủ, xin hãy cố chịu một chút, chúng tôi quay về hỏi thầy phong thủy trước đã, xem xem hôm nay có thể động thổ được hay không." Đây chính là mâu thuẫn đó, thật sự đang ở vào lúc cấp bách như vậy thì bạn cũng chẳng thể để ý quá nhiều thứ được nữa.
Điều quan trọng nhất mà bạn phải nắm chắc, thứ quan trọng nhất chính là cái cuối cùng, A Để Du Già, đó cũng chính là Nyingthig, Nyingthig chính là A Để Du Già, sau này tôi sẽ nói với mọi người về A Để Du Già, sẽ giống như Đường Tam Tạng lôi thôi loằng ngoằng. Sư Tôn khai thị thì không có lôi thôi loằng ngoằng, nhưng có thể sẽ nói rất nhiều thứ lôi thôi loằng ngoằng, bởi vì nãy giờ tôi cứ nói vòng quanh về Đại Viên Mãn, đến cuối cùng thì mới nói vào phần chính, mới nói cho mọi người biết về cái cốt lõi là Nyingthig: "Ồ! Thì ra Phật pháp chính là cái này, Phật pháp chân chính chính là cái này."
Cái gọi là Nyingthig, tôi lấy một ví dụ để nói cho các bạn nghe. Có một vị vua lệnh cho hai người thợ điêu khắc con chuột, một người điêu khắc ra con chuột sống động như thật, người thứ hai cũng điêu khắc ra con chuột nhưng không giống lắm. Khi vua định tuyên bố người thợ thứ nhất chiến thắng, người thợ thứ hai đề nghị để cho con mèo đến gần để xem bức điêu khắc nào tốt hơn. Kết quả lại khác, con mèo thích bức con chuột mà không giống lắm, nguyên nhân là vì sao? Là bởi vì người thợ này dùng nguyên liệu là xương cá để điêu khắc, do vậy con mèo mới chọn bức điêu khắc của người này.
Hôm nay chúng ta nói về Nyingthig cũng giống như vậy, chúng ta muốn Nyingthig - cái cốt lõi của pháp Đại Viên Mãn, chúng ta muốn nắm bắt lấy cái cốt lõi, cái quan trọng nhất này. Con mèo chọn bức điêu khắc không giống mới là thứ tốt thật sự, giống quá thì ngược lại không phải là thứ tốt, bởi vì nguyên liệu không giống nhau. Mọi người biết ý nghĩa của Nyingthig - tâm trong tâm, cũng chính là thứ mà bản thân bạn muốn nhất, cần có nhất.
Thầy giáo hỏi học sinh: "Nếu so sánh các trò như những bông hoa tươi xinh đẹp, vậy thì có thể so sánh thầy với cái gì?" Học sinh nói: "Không biết." Thầy giáo nói: "Nghĩ thử xem, người nào thường cầm cái kéo, ở trong vườn hoa cắt tới cắt lui?" Học sinh trả lời: "Là kẻ trộm hoa." Thật ra thì là người làm vườn đó.
Thầy giáo đúng là người làm vườn, Sư Tôn cũng giống như thầy giáo, muốn dạy cho mọi người "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" thì nhất định cần phải điều chỉnh những quan niệm của mọi người cho rõ ràng trước. "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là gì, truyền thừa của nó là gì, nguồn gốc của nó là gì. Phái Nyingma là Mật giáo cổ xưa lâu đời nhất, cũng chính là Mật giáo mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đưa từ Ấn Độ vào Tây Tạng, Tây Tạng khi ấy vẫn không tin thờ Mật giáo, thời đó họ tín ngưỡng đạo Bon.
Sau khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng thì Tây Tạng mới có Mật tông, mới có Mật giáo. Do vậy, những gì mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã truyền chính là pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Nguồn gốc của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là hóa hiện hợp nhất của ba vị A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật và Quan Thế Âm Bồ Tát.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là gì? Nghĩa là đứa trẻ sinh ra từ hoa sen, từ hoa sen mà sinh ra, không có cha không có mẹ, là đứa bé sinh ra đã nằm trong bông hoa sen, chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, cũng chính là Liên Hoa Sinh Đồng Tử. Đồng Tử chính là Đại Sĩ, Đại Sĩ chính là Đồng Tử, là giống nhau, là một không phải là hai. Do vậy, ngài ấy là Liên Hoa Đồng Tử của chúng ta. Nguồn gốc rất sâu đó! Sư Tôn là Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng là Liên Hoa Đồng Tử, vì khi ngài ấy ra đời cũng là hóa thân từ hoa sen mà!
Hôm nay tôi bắt đầu giảng "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", phần mở đầu thì tôi giới thiệu đến đây thôi. Cảm ơn mọi người. Om mani padme hum.
Bài giảng số 2
Nguồn gốc và truyền thừa của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ”
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong buổi đồng tu Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tại Seattle Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 8 tháng 6 năm 2013.)
Đầu tiên cần nói về nguồn gốc và lai lịch của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Lần trước tôi đã nói qua về truyền thừa, nguồn gốc cũng tương đương với truyền thừa, tất cả mọi pháp đều từ sự giác ngộ chính đẳng chính giác của Phật mà tuôn chảy ra. Dòng chảy pháp là như vậy. Ban đầu Phổ Hiền Vương Như Lai, ngài ấy cũng là vị Phật đầu tiên của toàn bộ Phật pháp, còn gọi là Thái Sơ Phật, có nghĩa là vị Phật sớm nhất, Hồng giáo thì gọi ngài là A Đạt Nhĩ Mã Phật, từ sự chính giác của ngài mà tuôn chảy ra pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Giữa Phật và Phật với nhau thì có cùng một tâm, chỉ cần bạn thành Phật rồi thì bạn sẽ biết ở đâu có Phật, bạn sẽ biết ai là Phật, có thể cảm ứng thấy được. Bản thân Phật mà nói, khi ngài tuôn chảy ra pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" thì Ngũ phương Ngũ Như Lai đều lập tức biết được pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Ngũ phương Ngũ Như Lai chính là Tì Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, A Súc Phật, Bảo Sinh Phật, Bất Không Thành Tựu Phật, năm vị Phật này lập tức đã có pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Ngoài ra, những vị Phật khác cũng đều biết hết.
Trong truyền thừa của chúng ta thì pháp này gọi là gì? Trước đây, có một người là Thanh Hải Vô Thượng Sư có cái gọi là "tâm ấn", có nghĩa là "ta ban cho con tâm ấn". Nhưng mà có phải là tâm ấn thật không? Tâm ấn không phải là gài ở trong tim một cái ấn, mà thật ra là tâm của tôi và tâm của bạn là giống nhau. Phật tuôn chảy ra pháp môn, mọi vị Phật đều có được pháp môn này, là pháp môn tâm và tâm tương ấn, chỉ có pháp môn tâm và tâm tương ấn, pháp môn tâm tâm tương ấn mới là "tình nhân" chân chính đó.
Khi tâm của một vị Phật tràn đầy pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" thì tâm của mọi vị Phật đều giống như vậy, những tâm giống nhau cứ chảy qua chảy lại, nên tất cả đều có được truyền thừa Đại Viên Mãn, đây gọi là tâm tâm tương ấn. Bạn và tôi tâm tâm tương ấn, tâm của tôi tràn đầy trong bạn, tâm của bạn chắc chắn cũng tràn đầy trong tôi, đây chính là pháp môn ấn tâm. Ấn tâm, trong Phật pháp mà nói, còn gọi là mật ý, pháp mang những ý niệm bí mật tuôn chảy ra, khi ấy, tất cả đều có được dòng chảy pháp mang ý nghĩa bí mật.
Đầu tiên, "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" được truyền giữa Phật với Phật. Tiếp theo là Ngũ Phương Phật truyền cho Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Tát Đỏa là báo thân Phật, bởi vì pháp thân Phật thì không có hình tướng. Ngũ Phương Phật truyền cho Kim Cang Tát Đỏa, bởi vậy Kim Cang Tát Đỏa có được pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trước. Cũng có nghĩa là từ vị Phật đầu tiên cổ xưa nhất là Phổ Hiền Vương Như Lai, đến Ngũ Phương Phật cùng tất cả các vị Phật, tiếp theo là Kim Cang Tát Đỏa, mà Kim Cang Tát Đỏa là báo thân Phật, nên đó là truyền thừa thứ ba.
Bản thân Kim Cang Tát Đỏa hiển hiện ra Kim Cang Thủ Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát đến thiên giới, đến Đao Lợi Thiên ở cõi trời thứ 33, ở Đao Lợi Thiên có năm trăm thiên tử, trong số đó có một người gọi là Thắng Tâm Thiên Tử, Kim Cang Thủ Bồ Tát liền chọn Thắng Tâm Thiên Tử làm người đầu tiên ở thiên giới để truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Kim Cang Thủ Bồ Tát quán đảnh cho Thắng Tâm Thiên Tử, truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho người này. Đó là truyền thừa tại thiên giới. Truyền thừa này gọi là "truyền thừa trì minh".
"Truyền thừa trì minh" là thế nào? Rất đơn giản, sau này, khi Di Lặc Bồ Tát hạ sinh tại Long Hoa Tam Hội ở nhân gian để độ chúng sinh, thì tất cả đều là "truyền thừa trì minh". Bồ Tát chỉ cần từ tâm mình phóng ra một tia sáng thì tia sáng này chiếu rọi bao trùm lấy tâm của mọi người, mọi người lập tức sẽ minh tâm kiến tính, có được truyền thừa minh tâm kiến tính. Chỉ cần một câu "namo buddha ye", ánh sáng liền chiếu đến bạn, tất cả nghiệp chướng đều tiêu trừ hoàn toàn.
Khi ấy tại Long Hoa Tam Hội, Di Lặc Bồ Tát độ tất cả chúng sinh đến thiên thượng giới, độ họ đến Phật quốc tịnh thổ, đó là "truyền thừa trì minh" của Di Lặc Bồ Tát. Do vậy, ban đầu, truyền thừa ở thiên thượng giới chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát dùng ánh sáng của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" chiếu đến Thắng Tâm Thiên Tử để quán đảnh cho người này. Thắng Tâm Thiên Tử đã có được truyền thừa Đại Viên Mãn, ánh sáng này rất lợi hại, gọi là "truyền thừa trì minh". Ánh sáng vừa chiếu đến thì lập tức rõ ràng minh bạch, minh tâm kiến tính. Về sau, Thắng Tâm Thiên Tử chuyển thế đến vương quốc Orgyen, làm con trai của quốc vương, gọi là Cực Hỉ Kim Cang, khác với Hỉ Kim Cang.
Ở Tây Tạng, Kim Cang gọi là Dorje. Lúc này, Kim Cang Thủ Bồ Tát lại đến nhân gian quán đảnh cho Cực Hỉ Kim Cang, quán đảnh xong thì lập tức có được pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", truyền thừa ở nhân gian bắt đầu. Truyền thừa tiếp sau đó ở nhân gian đã trở thành "truyền thừa khẩu nhĩ", miệng tôi giảng, tai bạn nghe, quán đảnh cho bạn như thế thì gọi là truyền thừa khẩu nhĩ. Cuối cùng, Cực Hỉ Kim Cang đã truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho Diệu Cát Tường Hữu, Diệu Cát Tường Hữu lại truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho Cát Tường Sư Tử, Cát Tường Sư Tử lại truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Truyền thừa này ở nhân gian tương đối dài, việc truyền cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là chủ yếu nhất.
Cát Tường Sư Tử đã truyền cho một vài người Tạng, bao gồm Vajrasana, còn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là người Ấn Độ. Sau khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng, ngài ấy đã truyền cho vua Tây Tạng khi đó là Trisong Detsen. Còn nữa, ngài ấy còn truyền cho Yeshe Tsogyal, Yeshe Tgogyal chính là vị minh phi chủ yếu nhất của ngài. Vua Trisong Detsen khi ấy đã bí mật học pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Nên nói như thế này, khi vua Trisong Detsen học pháp thì không hoàn toàn hiểu được đầy đủ trọn vẹn, do vậy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã cất giấu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" vào trong não của vua, đây cũng gọi là truyền thừa đó!
Từ Phổ Hiền Vương Như Lai cho đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đến vua Trisong Detsen, đến Yeshe Tsogyal. Yeshe Tsogyal biết rằng Tây Tạng sắp gặp họa diệt Phật, đó chính là do vua Lãng Đạt Mã diệt Phật, vì vậy bà cũng đem toàn bộ pháp Đại Viên Mãn mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã truyền cho giấu đi, giấu tại Tây Tạng, Nepal, Bhutan, tại những nơi bất kì ở khu vực lân cận, toàn bộ đều giấu hết, giấu trong núi đá, giấu trong hư không, giấu dưới đáy hồ, giấu trong cây lớn, là như vậy đó.
Đến cuối cùng, Longchenpa tôn giả và Jigme Lingpa tôn giả là hai vị terton chủ yếu nhất. Hai vị đã đem tất cả những terma tập hợp lại thành pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Ngoài ra, Longchenpa tôn giả còn tập hợp lại thành Longchenpa Nyingthig chính là pháp chủ yếu nhất. Tôi phải giảng cho mọi người về truyền thừa này trước.
Truyền thừa nào là nhanh nhất? Đương nhiên là truyền thừa mật ý, chính là ấn tâm, truyền thừa tâm tâm tương ấn là nhanh nhất.
Ở đây có một câu chuyện cười. Có ba gia đình cùng bán một mặt hàng. Ba gia đình này cạnh tranh với nhau. Bởi vì bán cùng một mặt hàng giống nhau, các cửa hàng gần nhau, và vì cửa hàng của ba gia đình này ở gần nhau nên họ cùng cạnh tranh buôn bán. Cửa hàng bên phải treo một tấm biển hiệu rất to, trên đó có viết: "Đại hạ giá, rẻ bất ngờ", cửa hàng bên trái treo lên tấm biển hiệu to hơn: "Giảm giá sốc, đại chiết khấu". Hai bên cạnh tranh, cửa hàng ở giữa treo lên tấm biển: "Lối vào". Có ba nhà mà! Bên này là "đại hạ giá", bên kia là "giảm giá sốc", nhà ở giữa viết "lối vào", vậy thì nhà nào nhanh nhất? Lối vào là nhanh nhất.
Truyền thừa cũng như vậy. Di Lặc Bồ Tát độ chúng sinh rất nhanh, bởi vì "truyền thừa trì minh" của Bồ Tát là dùng tâm quang của ngài ấy chiếu rọi, tất cả nghiệp chướng của con người đều tiêu diệt hết, chỉ một câu "namo buddha ye" là lập tức bay đến Phật quốc, cách độ này là nhanh nhất. Sau này, không biết chúng ta có thể gặp được lúc Di Lặc Bồ Tát hạ giáng không, để tâm quang của ngài ấy chiếu tới chúng ta, toàn bộ nghiệp chướng được tiêu trừ, chỉ còn lại Phật tính, trực tiếp đến Phật quốc, thế thì không cần phải nói nhiều nữa.
Còn những thứ như "đại hạ giá", "chiết khấu lớn", "giảm giá sốc", "thanh lý giải phóng mặt bằng", muốn thanh lý hàng hóa, ở Đài Loan chúng ta hay thấy "giảm giá sốc", đều không có tác dụng gì cả. Có tác dụng nhất phải là như Di Lặc Bồ Tát hạ giáng, dùng ánh sáng của ngài chiếu đến bạn, toàn bộ nghiệp chướng của bạn tiêu trừ, còn lại Phật tính, rồi trực tiếp thành Phật.
Sư Tôn cũng tiếp nhận quán đảnh của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, tôi từng viết trong sách, trong những cuốn sách viết thời kì đầu đó! Khi xưa, tôi có hai lần quán đảnh. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đưa tôi, linh hồn (trung ấm) của tôi xuất ra khỏi đỉnh đầu, ở trong hư không, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đưa linh hồn của tôi bay bay bay bay, bay đến Nepal. Trong sách tôi viết là Nepal, ở bên trong một hang động, trong đó là một nghĩa địa, khu mộ phần. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Bất kể Lư Thắng Ngạn anh là ai, thì ta cũng ăn anh trước đã." Ngài ấy liền túm lấy tôi, bỏ vào trong miệng ngài, sau đó tôi đi xuống bên trong thân thể ngài, rồi lại từ mật luân đi ra "viu" một cái, rất kinh khủng đó.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ há to miệng nuốt tôi vào trong, sau đó tôi từ mật luân của ngài thoát ra, việc này tương đương với việc những ô uế trên thân thể tôi đã được thanh tịnh rồi. Chiêu này của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng rất có tác dụng, giống như "truyền thừa trì minh" vậy, trong chốc lát đã tiêu trừ hết nghiệp chướng của tôi, Phật tính liền hiển hiện.
Ở đây có một câu chuyện cười nói về thân thể người. Có một nhân viên ở tiệm bánh ngọt tên là Cường, trên mặt có in vết bạt tai, là do bị đánh, trở vào bên trong cửa tiệm. Ông chủ hỏi: "Trên mặt cậu có cái gì vậy?" Cường nói: "Hôm qua, có một cô gái nói sinh nhật bà của cô ấy, cô ấy muốn cháu giao bánh tới, nhưng cháu không biết bà cô ấy bao nhiêu tuổi, vì thế cháu liền hỏi người khách nữ đó, kết quả là bị ăn một cái tát." Ông chủ hỏi: "Khách hàng sao có thể đánh cậu chứ?" Cường nói: "Cháu chỉ hỏi người khách nữ này là: bà cô bao nhiêu tuổi?" Thật ra ở đây anh ta chỉ muốn hỏi xem bà của cô gái tuổi tác được bao nhiêu rồi, chứ không phải hỏi là ngực của cô ấy to cỡ nào. Từ này có hai nghĩa khác nhau. [ ND: trong tiếng Hán, từ nai nai vừa có nghĩa là bà nội, vừa có nghĩa là bộ ngực ]
Sư Tôn bị Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ăn vào, có nghĩa là bị ngài nuốt từ miệng vào bụng, "viu" một cái, lại từ mật luân của ngài đi ra, thật sự tôi chẳng có cảm giác gì cả, chỉ là bị ngài ấy nuốt vào, xong lại bị ngài ấy đẩy ra ngoài, giống như là đi tiểu phóng ra bên ngoài thôi. Thế nhưng khi ngài ấy nuốt tôi vào rồi phóng tôi ra ngoài như vậy thì giữ lại bản tính của tôi, còn tất cả những tập tính không tốt thì đều giúp tôi tiêu trừ hết. Sau đó là quán đảnh thứ hai, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ toàn thân phóng quang, phóng tỏa ánh sáng rực rỡ. Chà! Ánh sáng này rất sáng, trong ánh sáng xuất hiện trăm vị văn võ, là các vị Phật Bồ Tát thanh cao tao nhã và các vị thần Kim Cang hung tợn, tổng cộng có một trăm vị, những ánh sáng ấy toàn bộ đều chiếu đến tôi, đây chính là quán đảnh của trăm vị văn võ. Cái này mới lợi hại.
Nhờ có pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong não tôi, bởi vì cần phải thuyết pháp, nên gần đây tôi thường tự gia trì cho chính mình, xem xem có linh cảm gì nổi lên thì đem những linh cảm đó nói cho mọi người nghe. Nói toàn bộ một trăm phần trăm cho mọi người nghe.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đem terma của ngài ấy gia trì cho tôi, Sư Tôn năm xưa từng chuyển thế tại Tây Tạng (làm vua Trisong Detsen), Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đặt terma trong não tôi. Bây giờ tôi không có sách ở đây, trước kia tôi có từng viết một cuốn sách là "Mật giáo đại viên mãn", mọi người có thể đọc thử, bây giờ những gì tôi nói và những gì tôi đã viết đại khái là giống nhau! Trước kia, tôi viết là Bà Tiên Như Lai, thật ra đó chính là Phổ Hiền Vương Như Lai.
Trước khi tôi giảng "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", tôi ấn ấn vào đỉnh đầu mình, gia trì một lát, linh cảm đến rồi, đã xuất hiện rồi, thế thì tôi sẽ giảng nguồn gốc của Đại Viên Mãn cho mọi người nghe. Bởi vì Sư Tôn có terma của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" ở bên trong não cho nên chỉ cần gia trì, trong não liền sinh ra linh cảm, thế là tôi có thể giảng nó. Tôi sẽ nói toàn bộ một trăm phần trăm, nói toàn bộ một trăm phần trăm cho mọi người nghe.
Có một câu chuyện cười tôi xin kể với mọi người, cười một chút cũng tốt, thư giãn thoải mái. Đời người giống như một câu chuyện cười, ở Trung Quốc Đại Lục, mỗi tỉnh đều có một bí thư tỉnh, mỗi địa phương đều có một bí thư của địa phương. Thượng sư Liên Ấn, bố của anh là bí thư ở đâu vậy? Là bí thư ở Cáp Nhĩ Tân à. Nếu như bố của Thượng sư Liên Ấn là tổng bí thư thì tuyệt vời quá rồi. Tổng bí thư hiện nay là Tập Cận Bình, nghĩa là chủ tịch. Bố của Thượng sư Liên Ấn cũng là bí thư, tuyệt vời quá, thế là cũng rất to rồi.
Có một bí thư hỏi một nông dân: "Nếu anh có một mẫu ruộng, anh có thể quyên góp nó cho đất nước được không?" Nông dân nói: "Được." Chà! Thật là hào phóng. Bí thư lại hỏi: "Nếu anh có một trăm vạn, anh có sẵn lòng đóng góp cho đất nước không?" Nông dân nói: "Tôi sẵn lòng." Bí thư lại hỏi: "Nếu anh có một con trâu, anh có sẵn lòng đóng góp cho đất nước không?" Nông dân nói: "Tôi không đồng ý." Bí thư lại hỏi: "Vì sao vậy?" Nông dân bèn nói: "Bởi vì đúng là tôi có một con trâu."
Sư Tôn kể câu chuyện này là có ý nghĩa của nó. Tôi sẽ đem toàn bộ pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" dạy cho mọi người, tặng miễn phí. Pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của Hồng giáo là truyền thừa lâu đời nhất, nhưng Mật tông hiện tại đang lưu truyền tại Tây Tạng dường như vẫn vô cùng khao khát có được pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", tuy vậy vẫn còn rất lộn xộn, vẫn chưa có trật tự. Sư Tôn đặc biệt chỉnh lí pháp này, đặc biệt giảng cho mọi người nghe, đây là pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" độc đáo.
Vì sao lại như vậy? Khi xưa Hồng giáo truyền pháp xuống, mặc dù rất phổ cập, nhưng đã bị vua Lãng Đạt Mã diệt trừ sạch, ông vua này đã loại bỏ hết tất cả Phật pháp. Khi ấy, những người xuất gia đã phải chạy trốn khắp nơi, Mật pháp bị rơi rụng tản mát, giống như Yeshe Tsogyal và Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã đem Mật pháp giấu trong hang động, trong hư không, giấu dưới đáy hồ, giấu dưới đáy biển, giấu ở rất nhiều nơi, tất cả đều không còn như trước nữa. Mãi cho đến sau này mới có người đào chúng ra. Vì thế mà pháp môn "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" này đã bị tản mát phân tán, không có người nào chỉnh lý. Sau này, một tăng nhân lang bạt của phái Hồng giáo, ông ấy một thân một mình, tên là Zurchen Shakya Jungne, ông ấy đã thu thập pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", và sau đó do Zurchung Sherab Drakpa chỉnh lý, và sau đó lại được Zur Shakya Sengge [ Dropukpa - con trai của Zurchung Sherab Drakpa ] hoằng dương, tuy nhiên cũng rất phân tán, ba vị này được gọi là ba người họ Zur.
(Chú thích: trong giai đoạn đầu của Phật giáo Tây Tạng, có ba vị đại sư phái Nyingma đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành phái Nyingma. Ba vị đại sư này được lịch sử gọi là Tam Zur, cụ thể là Zurchen Shakya Jungne, gọi là Đại Zur, thuộc gia tộc họ Zur, Zurchung Sherab Drakpa là con nuôi của Đại Zur, gọi là Tiểu Zur, và Zur Shakya Sengge là con trai của Tiểu Zur.
Tương truyền, ba vị họ Zur đã chỉnh lý kinh sách đã bị tản mát của phái Nyingma, chế định ra nghi quỹ và quy phạm tu tập Đại Viên Mãn, xây dựng chùa chiền, từ đó hình thành nên phái Nyingma. Ba vị họ Zur thuộc về truyền thừa kinh điển của phái Nyingma, tức là hệ thống Karmapa, nội dung đã truyền chủ yếu là hai bộ "Huyễn Biến" và "Tập Kinh".)
Phái Nyingma sớm nhất của Hồng giáo là do ba vị họ Zur chỉnh lý kinh điển, nhưng truyền thừa của ba vị họ Zur cũng đã suy tàn rồi. Do vậy Hồng giáo không có nhân vật hạt nhân chủ yếu xuất hiện. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng đã tạ thế, vậy cái cốt lõi chủ yếu của Hồng giáo nằm ở đâu? Đương nhiên, có chùa của Hồng giáo, ví dụ như Mẫn Châu Lâm Tự chính là một ngôi chùa Hồng giáo, nhưng không có người nào lãnh đạo. Mọi người so sánh mà xem, trong Mật tông Tây Tạng, hãy xem phái Hoàng giáo hiện tại đang chấp chính, có Dalai Lama, có Panchen Lama, họ có những nhân vật cốt lõi.
Tây Tạng trước đây có cung điện Potala, cũng có ba ngôi chùa lớn là tu viện Drepung, Sera, Ganden, là ba ngôi chùa chủ yếu nhất. Nhân vật chủ yếu, một người là Panchen, một người là Dalai, bởi vậy mà Hoàng giáo có nhân vật cốt lõi. Bản thân Hoa giáo cũng có nhân vật cốt lõi, pháp vương hiện tại của họ là Pháp Vương Trizin, còn có một vị là Pháp Vương Dagchen, ông ấy là vị pháp vương thứ hai, sống tại Seattle. Hai vị pháp vương này có truyền thừa, là nhân vật cốt lõi thuộc gia tộc Khon.
(Chú thích: dòng họ Khon đến từ thiên nhân thuộc dòng dõi trời, truyền thừa của phái Sakya sớm nhất có thể bắt nguồn từ Long Vương Hộ, ngài là một trong bảy vị Tịch Hộ Tĩnh Mệnh. Vua Tây Tạng Trisong Detsen đã mời Tịch Hộ và Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng, vào khoảng năm 779 sau Công Nguyên thì xây dựng chùa Samye, Tịch Hộ đảm nhiệm chức trụ trì chùa Samye. Tên gọi Thất Giác Sĩ là chỉ bảy tì kheo thọ giới từ Tịch Hộ lần thứ nhất tại chùa Samye, họ là Thiên Vương Hộ, Biện Chiếu Hộ, Long Vương Hộ, Thiện Thệ Hộ, Bảo Hộ, Trí Vương Hộ, Bảo Vương Hộ.
Em trai của Long Vương Hộ là pháp mạch chủ yếu của truyền thừa phái Sakya của gia tộc họ Khon. Trước đời quan Khon Khước Kiệt Ba, gia tộc họ Khon là đệ tử của phái Nyingma. Chùa Sakya là do quan Khon Khước Kiệt Ba xây dựng, sau khi xây chùa Sakya, quan Khon Khước Kiệt Ba đã thu nhận đệ tử rộng rãi, truyền giáo thuyết giảng, sáng lập nên phái Sakya. Chùa Sakya đều do những người đàn ông của gia tộc họ Khon nắm quyền, dần dần hình thành nên một chính giáo hợp nhất trong cục diện gia tộc họ Khon. Trong lịch sử của phái Sakya, vị tổ thứ năm của phái Sakya có cống hiến vượt bậc cho sự phát triển của phái Sakya.)
Hoa giáo được truyền trong một gia tộc, không phải là Hoạt Phật chuyển thế, họ cũng có Hoạt Phật chuyển thế, nhưng nói chung thì những người chủ trì của phái này đều là người của gia tộc họ Khon, họ cũng có những ngôi chùa chính, gọi là chùa Sakya. Bạch giáo là phái Gelug, họ có nhân vật cốt lõi không? Có đó! Chính là Đại Bảo Pháp Vương, Đại Bảo Pháp Vương đội mũ đen, và Đại Tích Đỗ Ba đội mũ đỏ, họ là những nhân vật cốt lõi. Các chùa chính đương nhiên cũng có, Chùa Long Đức ở Sikkim chính là chùa của Đại Bảo Pháp Vương, chùa này ở Ấn Độ. Còn ở Tây Tạng có chùa Sở Bố, là chùa cốt lõi của Bạch giáo. Còn có chùa Đại Tích Đỗ Ba Bát Bạng. Ngoài ra, còn có Cống Cát Hoạt Phật đến hoằng pháp tại Trung Quốc, là Cống Cát Hoạt Phật của chùa Cống Cát ở núi Cống Cát, có ba đạo tràng chủ yếu, rất là to.
Còn Hồng giáo thì sao? Phái Nyingma rất tản mát, không có nhân vật cốt lõi. Ai là giáo chủ? Không có. Hoàng giáo có Dalai, Panchen, Bạch giáo có Đại Bảo Pháp Vương, Đại Tích Đỗ Ba, Cống Cát Hoạt Phật là chủ yếu nhất. Hoa giáo thì sao? Có Trizin Pháp Vương, Dagchen Pháp Vương. Còn Hồng giáo thì không có. Trước kia thì có Dugjom Pháp Vương, đệ tử của ngài ấy tương đối nhiều. Ngoài ra, bây giờ thì có Zhatral Rinpoche, Phật Mẫu của ngài ấy là Phật Mẫu Kamala, Zhatral Rinpoche đã 104 tuổi rồi, là trưởng lão của Hồng giáo. Trước kia, ở Nepal có Urgyen Rinpoche, ngài ấy cũng thuộc Hồng giáo.
Còn có một vị đại Hoạt Phật ở vùng Kham Tây Tạng, là Norlha Thượng sư hoằng pháp tại Trung Nguyên. Truyền thừa nhân gian của Sư Tôn chính là từ Thượng sư Norlha ở Kham Tây Tạng truyền cho Liễu Minh Hòa Thượng, Liễu Minh Hòa Thượng lại truyền cho tôi, quán đảnh cho tôi. Khi ấy, tôi vẫn còn chưa biết "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là cái gì, thế nhưng ngài ấy đã quán đảnh cho tôi rồi. Đây là truyền thừa nhân gian của tôi. Liễu Minh Hòa Thượng theo học Norlha Thượng sư ở Tứ Xuyên, điều này tôi cũng cần nói rõ ràng với mọi người.
Trên phương diện "truyền thừa trì minh" thì chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đem terma truyền thừa mật ý đặt vào trong não tôi, như thế là tôi trở thành có truyền thừa mật ý rồi. Còn có một loại nữa mà rất ít người biết, hơn nữa hình như người bình thường rất ít nói đến, đó chính là "thậm thâm thiền định thanh tịnh truyền thừa". Ví dụ, khi vừa cố gắng niệm nhập tam ma địa, tôi liền kết thủ ấn nhập tam ma địa, tôi sẽ làm cửu tiết Phật phong, ánh sáng trắng đi vào lỗ mũi phải, đi một vòng, lại đi ra từ lỗ mũi trái, ánh sáng đi vào từ lỗ mũi trái rồi lại đi ra từ lỗ mũi phải, rồi lại đi vào từ hai lỗ mũi và đi ra từ cả hai lỗ mũi. Đầu tiên cần làm cửu tiết Phật phong đó! Bởi vì khi tinh thần của tôi chỉ tập trung vào việc hít thở thì tâm trí của tôi trở nên rất thống nhất.
Khi tinh thần của tôi đã thống nhất thì pháp lưu sẽ hạ xuống, khi thật sự thiền định, hai mắt nhắm lại, pháp lưu hạ xuống, tôi sẽ tiến nhập vào trong thiền định, nhất tâm bất loạn. Vào chính lúc ấy, có Phật Bồ Tát xuất hiện chỉ thị cho tôi biết "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là cái gì. Một sự xuất hiện khác thì nói cho tôi biết pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là gì, tu thế nào, làm ra sao. Điều quan trọng nhất nằm ở đâu? Nằm ở A Để Du Già (Ati yoga). "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" chính là nằm ở trong A Để Du Già.
Vì sao lại gọi là "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ"? Ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự tôi đã giảng qua rồi, ba thứ tự đầu tiên là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, ba thứ tự tiếp theo là Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, ba thứ tự sau cùng là Đại Du Già (Maha yoga), A Nỗ Du Già (Anu yoga), A Để Du Già (Ati yoga), cộng vào là chín thứ tự, vì thế gọi là "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Sau đây, tôi xin hỏi, pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" ở nhân gian rốt cục đã có ai từng giảng chưa? Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thì Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng rồi, ở nhân gian đã có giảng rồi, Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng ba thứ tự. Tiếp theo là Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, là ai đã giảng? Là Kim Cang Tát Đỏa giảng. Cuối cùng là Đại Du Già, A Nỗ Du Già, A Để Du Già là ai đã giảng? Là do Phổ Hiền Vương Như Lai truyền thụ. Như vậy, mọi người đã hiểu cái gọi là pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" rồi. Ngày mai tôi sẽ giảng cho mọi người pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" nói về cái gì. Om mani padme hum.
Biểu đồ minh họa truyền thừa chèn ở dưới đây.
Bài giảng số 3
Pháp Đại Viên Mãn có thể thông kì kinh bát mạch khiến thân thể bạn khỏe mạnh
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị buổi thứ ba về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong đại pháp hội Hộ Ma Mã Đầu Minh Vương tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 9 tháng 6 năm 2013.)
Đại Viên Mãn có công đức gì? Đại Viên Mãn là gì? Có hai ông vua đều rất giỏi nói khoác. Vua của nước lớn thì nói khoác thế nào đây? "Ta có đội quân năm trăm vạn binh, ngươi còn chưa đầu hàng sao?" Vua của nước nhỏ nói: "Đương nhiên ta đầu hàng, đất nước của ta thật sự quá nhỏ bé, không thể chứa được hết năm trăm vạn tù nhân đâu." Mọi người nghe có hiểu không? Pháp Đại Viên Mãn là vô cùng vĩ đại, có thể nói là pháp vĩ đại nhất, cao sâu nhất trong Mật giáo.
Thật ra, pháp Đại Thủ Ấn, ở đây là Đại Thủ Ấn của Bạch giáo, Đại Uy Đức của Hoàng giáo, Đại Viên Thắng Huệ của Hoa giáo, ba pháp này cùng với Đại Viên Mãn của Hồng giáo, thì Đại Viên Mãn của Hồng giáo là có sớm nhất, còn ba pháp kia có khả năng là lấy từ trong pháp Đại Viên Mãn ra làm thành một pháp riêng. Tôi chỉ có thể nói như vậy thôi, pháp Đại Viên Mãn rất lớn, không phải là một pháp nhỏ. Pháp Đại Viên Mãn là một pháp vô cùng hay, tiếng Anh gọi là so good, vô cùng hay, vô cùng lành, trong kinh Phật thường hay nhắc đến "lành thay, lành thay", ý nghĩa chính là rất tốt rất tốt đó.
Pháp Đại Viên Mãn là rất tốt rất hay, so good, so happy, vô cùng sung sướng, là cực lạc, pháp Đại Viên Mãn là pháp cực lạc đó. Tu pháp này thì vô cùng vui vẻ, vì thế mới gọi là so happy, rất vui sướng, tâm linh vô cùng sảng khoái. Sảng nghĩa là vui thích, khoái nghĩa là sung sướng, pháp Đại Viên Mãn là một pháp rất vui vẻ và sung sướng. So wonderful, là number one, Đại Viên Mãn là số một, vô cùng tuyệt vời. Rồi lại còn so nice. Nice, tôi không biết giải thích, nice chính là rất hay, rất vi diệu, trong pháp Đại Viên Mãn có rất nhiều rất nhiều điều vi diệu.
Ngoài ra còn có một cái là so perfect. Perfect nghĩa là hoàn mĩ, bởi vậy, pháp Đại Viên Mãn là vô cùng hoàn mĩ, vì vô cùng hoàn mĩ cho nên mới gọi là Đại Viên Mãn. Hoàn mĩ vô khuyết, không có một chút khuyết điểm nào nên gọi là Đại Viên Mãn. Pháp Đại Viên Mãn có thể khiến bạn trong khi tu hành đạt được niềm vui, đạt đến đỉnh cao, sau đó đạt được sự viên mãn. Có được sự xảo diệu phi thường, có được những thứ vô cùng tốt đẹp, vô cùng sung sướng, vô cùng sảng khoái. Pháp hay như vậy mà không học, ở nhân gian gặp được nhưng lại lãng phí bỏ qua thì đời người chẳng còn mấy ý nghĩa, sống trên đời này chẳng có ý nghĩa gì nữa. Bạn không học pháp Đại Viên Mãn, không học Phật pháp, thì đời này sống tại nhân gian cũng là lãng phí thôi.
Vì sao pháp Đại Viên Mãn lại tốt như vậy? Thứ nhất, nó có thể khiến thân thể bạn khỏe mạnh. Vì sao tu pháp Đại Viên Mãn lại khỏe mạnh? Nói chung thì tất cả mọi pháp, thân thể của mỗi cá nhân khỏe mạnh hay không khỏe mạnh là điều rất khó nói, nhưng học pháp Đại Viên Mãn rồi, bên trong pháp này có rất nhiều cách để thông kì kinh bát mạch, ví dụ như kinh mạch và luân xa trên thân thể bạn, bảy luân xa, trung mạch, mạch trái mạch phải, kinh mạch toàn thân, đều thông suốt.
Bởi vì trong pháp Đại Viên Mãn, có một pháp gọi là "thể vị pháp", là vị trí của thân thể, bạn triển khai một động tác, ví dụ như cánh tay của bạn đưa ra, ở đây có mạch, vươn tay ra, ở đây có mạch, nâng lên, có mạch, hạ xuống, có mạch, các bộ phận trên thân thể đều có đầy các mạch, tu pháp Đại Viên Mãn có thể khiến kinh mạch toàn thân bạn đều được thông suốt, đó chính là vì có pháp "thể vị" trong pháp Đại Viên Mãn. Ví dụ như Sư Tôn đánh kim cang quyền, đây chính là tư thế, ngồi có tư thế của ngồi, đứng có tư thế của đứng, nằm có tư thế của nằm, có rất nhiều vị trí tư thế, ví dụ như tư thế di chuyển, tư thế quay lên trên, rất nhiều pháp thể vị có thể khiến kinh mạch của bạn thông suốt, thân thể khỏe mạnh.
Khí và huyết trên thân bạn toàn bộ có thể trôi chảy, hoàn toàn trôi chảy, không có nơi nào là khí huyết không chảy đến được. Không giống như một số người già, họ cái gì cũng đi lên, huyết áp tăng lên, đường máu tăng lên, ba cao, bảy cao, sáu cao, cái gì cũng cao. Chỉ có một niềm vui vĩnh cửu, đó là khí huyết không tăng thì mới có niềm vui vĩnh cửu. Nếu như khí huyết mà tăng thì bạn sẽ chẳng thể có niềm vui vĩnh cửu, tất cả mọi thứ của bạn sẽ cùng tăng cao.
Pháp Đại Viên Mãn này chính là khiến cho huyết khí của bạn có thể thông đến bất kì nơi nào. Nơi không có huyết khí đến thì ngũ tạng lục phủ chắc chắn sẽ vô cùng suy yếu. Huyết khí của người nào mà không đến được tim thì chết từ lâu rồi. Nếu như huyết khí không đến được phổi thì bạn cũng không thể thở được. Huyết khí không đến được gan thì gan sẽ bị xơ cứng, cơ quan nào mà huyết khí không tới thì cơ quan đó sẽ bị hoại tử. Pháp Đại Viên Mãn có tư thế, có thể khiến cho huyết khí toàn thân bạn hoàn toàn đủ đầy, thân thể sẽ khỏe mạnh, rất đơn giản như vậy.
Ngoài ra, tâm linh của bạn sẽ vô cùng vui vẻ. Kì lạ, tâm linh sao có thể vui vẻ được nhỉ? Tâm của con người chúng ta là vô hình, tâm của bạn nên vĩnh viễn được giữ gìn trong một trạng thái vui vẻ phi thường. Pháp Đại Viên Mãn giúp bạn hiểu rõ cái tâm vốn có của bạn, như tôi vừa nói, chỉ cần bạn khai ngộ rồi, bạn sẽ hiểu được tâm của chính mình. Bạn hiểu được tâm của chính mình thì bạn sẽ không để những phiền não ở trong tâm nữa. Bạn sẽ gạt bỏ hết những phiền não trong tâm, duy trì sự vui vẻ vĩnh viễn.
Pháp Đại Viên Mãn có thể khiến bạn minh tâm, chính là khai ngộ. Minh tâm rồi, bạn sẽ rất vui vẻ, thân thể khỏe mạnh, tâm linh vui vẻ, thân tâm có thể hợp nhất, những gì mà tâm nghĩ đến thì thân thể sẽ làm được, thân tâm sẽ hợp nhất, thân tâm có thể dung hòa lẫn nhau. Pháp Đại Viên Mãn có thể khiến thân tâm bạn hài hòa, là một trạng thái hợp nhất hoàn toàn. Thân tâm hài hòa chính là đại viên mãn, nhục thể của bạn và tâm linh của bạn đều có thể vô cùng hài hòa.
Người tuổi tác cao thì khi tu pháp Đại Viên Mãn cũng có thể luyện đến khi thân tâm hài hòa. Trong tâm bạn nghĩ ra sao thì thân thể có thể biểu hiện ra trạng thái thân tâm hài hòa đó. Có rất nhiều người thân tâm không hài hòa, học vị càng cao, học thức càng nhiều, siêu thông minh, nhưng mà sao? Chưa chắc thân tâm họ đã hài hòa, điều này rất quan trọng. Bạn có biết không? Có rất nhiều tội phạm học lực rất cao, là tiến sĩ, hoặc những luật sư rất nổi tiếng, hoặc những nhà khoa học rất nổi tiếng, nhưng họ cũng gây ra rất nhiều nghiệp.
Vì sao vậy? Vì thân tâm không hài hòa. Nếu như thân tâm thật sự hài hòa thì tâm lý sẽ rất vui vẻ, sẽ không ghét người khác. Bởi vì sinh ra lòng thù ghét thì tâm đã bại hoại rồi. Nếu như bạn hận một người thì tâm của bạn đã bại hoại rồi, bạn sẽ có phiền não, điểm quan trọng chính là ở chỗ này đó! Hôm qua, tôi ở trước cửa Mật Uyển nói: "Bạn chấp vào cái gì thì bạn sẽ phiền não cái đó. Bạn không chấp vào cái gì, cái gì bạn cũng I don’t care, không quan tâm, thì bạn sẽ không có phiền não nữa. Bạn care cái gì thì bạn sẽ có phiền não. Bạn yêu một người thì bạn chắc chắn sẽ bị tình yêu trói buộc. Bạn ghét một người thì bạn chắc chắn sẽ bị lòng thù hận trói buộc. Tình cảm đặt vào đâu thì bạn chắc chắn sẽ bị tình cảm trói buộc. Bạn sinh lòng hận thù với người nào đó thì bạn tuyệt đối sẽ bị lòng thù hận này trói buộc, bạn sẽ không vui vẻ được.
Vì thế, bạn tu pháp Đại Viên Mãn, sau khi minh tâm, bạn sẽ biết: "Chà! Thì ra là như vậy. I don't care everything." Lúc này thì bạn sẽ không bị thứ gì trói buộc nữa, không gì có thể trói buộc được bạn, phiền não cũng không còn, phiền não sẽ giảm nhẹ. Tu pháp Đại Viên Mãn, tâm linh của bạn trong đó sẽ vui vẻ, bởi vì bạn đã khai ngộ rồi thì đương nhiên tâm linh của bạn sẽ vô cùng vui vẻ, thân thể khỏe mạnh, tâm linh vui vẻ, thân tâm hài hòa, điều này cực kì tốt, chính là cực kì viên mãn. Thân tâm hài hòa chính là đại viên mãn.
Sau đó, bạn lại nỗ lực tu tiếp thì bạn có thể tức thân thành Phật, là thân thể này, thân thể đều thành Phật. Cái này lạ nhỉ! Đại bộ phận sẽ là trung ấm (linh hồn) của chúng ta thoát ra, sau đó Bổn tôn đến tiếp dẫn thành Phật. Thân thể làm sao thành Phật được? Một thứ là tổ hợp của đất, nước, lửa, gió, làm sao thành Phật? Bạn sẽ chuyển hóa hết những thứ này, pháp Đại Viên Mãn có thể giúp bạn chuyển hóa hết toàn bộ thân thể, không còn thân thể nữa, chỉ còn lại Phật tính, như thế là thành Phật rồi. Bạn hóa thành một dải cầu vồng, thân thể biến thành một dải ánh sáng, thế là thành Phật rồi, đây gọi là tức thân thành Phật.
Còn có một cái gọi là "tức sinh thành Phật", sinh trong từ sinh mạng, đời này bạn tu pháp Đại Viên Mãn, đời này bạn thành tựu rồi thì chắc chắn đời này bạn sẽ thành Phật, đây gọi là thành Phật trong một đời.
Kể một câu chuyện cười vậy! Thời tiết nóng quá, mọi người đều thấy buồn ngủ. Thư kí Tiểu Lị đi làm luôn đến muộn, lúc sắp hết giờ làm, giám đốc hỏi Tiểu Lị: "Tiểu Lị à, buổi tối có rảnh không?" Tiểu Lị vốn có tình cảm với anh chàng giám đốc trẻ tuổi đẹp trai này, vừa nghe thấy hỏi: "Tiểu Lị à! Buổi tối có rảnh không?" thì cô ấy đã vui sướng tới mức suýt ngất xỉu rồi, cô ấy lập tức trả lời: "Rảnh, tối nào em cũng rảnh." Anh chàng giám đốc trẻ tuổi đẹp trai liền bảo cô: "Vậy thì xin cô mỗi tối đi ngủ sớm một chút, để sáng sáng không đi làm muộn."
Ở đây gọi là hy vọng thành thất vọng. Chúng ta tu pháp này thì sẽ không thất vọng đâu, chỉ cần bạn tinh tấn tu pháp Đại Viên Mãn thì đời này bạn sẽ có thể thành tựu. Mật giáo có ba loại pháp, như Kim Cang Tát Đỏa đã giảng, ngài ấy giảng ba pháp: Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ. Bạn chỉ tu mỗi pháp Sự Bộ thì cần bảy kiếp mới thành Phật, không phải bảy năm, bảy năm thì rất nhanh là đến rồi, mà là bảy kiếp mới có thể thành Phật. Pháp Hành Bộ thì cần năm kiếp mới có thể thành Phật. Du Già Bộ thì cần ba kiếp mới có thể thành Phật.
Tu hành khó lắm, Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, tu pháp Sự Bộ cần bảy kiếp mới có thể thành Phật, tu pháp Hành Bộ thì cần năm kiếp mới có thể thành Phật, tu pháp Nhất vị Du Già thì cần ba kiếp mới có thể thành Phật. Có thể một kiếp thành Phật thì phải tu Đại Viên Mãn.
Pháp Đại Viên Mãn có hai phương pháp thành Phật. Loại thứ nhất là thân thể đều hóa thành ánh sáng, giống như Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vậy, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là truyền nhân của pháp Đại Viên Mãn, khi ngài ấy muốn nhập niết bàn thì thân thể liền biến hóa, toàn bộ thân thể liền biến thành ánh sáng cầu vồng. Viu! Ngài ấy thành Phật và đi mất. Ngài ấy đã đến Phật quốc Orgyen của chính mình, căn bản là ngay cả thân thể này cũng không còn nữa, đây chính là tức thân thành Phật, thân ở đây là thân thể.
Ngoài ra, bạn tu kém một chút thì cũng có thể tức sinh thành Phật, trong kiếp này bạn có thể thành Phật, thành tựu rất lớn. Tôi từng nói rồi, Thượng sư Liên Hoa Ích Dân có xá lợi toàn thân, thân thể hỏa táng xong thì đương nhiên thân thể không còn, nhưng cái mà ta thấy được là tất cả xương, tất cả xương do đất, nước, lửa, gió ngưng kết lại mà thành thì toàn bộ đều hóa thành những hạt xá lợi, gom lại thì cũng không thể nói là cao như núi, nhưng xá lợi nhiều như vậy thì gói ghém thế nào đây? Những cái hũ đựng tro bình thường thì không thể chứa được. Những chiếc hũ bình thường thì từng hũ từng hũ đều là xá lợi, chí ít cũng phải tới mấy hũ đó! Thùng rác ở Mỹ cái nào cũng rất to, dùng cái thùng to như thế để đựng thì cũng tạm được, một người ngồi xuống, bên trong đều là hạt xá lợi, toàn thân xá lợi, thật là tuyệt vời đó.
Mọi người sau này xem Sư Tôn sau khi hỏa táng xong thì… í? Sao chẳng có gì hết vậy, thế thì các bạn có thể biết rằng đó là toàn thân đã hóa thành ánh sáng cầu vồng đi mất rồi. Chẳng còn gì cả. À có rồi! Có rồi! Sư Tôn có hai hạt xá lợi, ở bên tai phải có một hạt, ở bên tai trái có một hạt, nếu để mỗi người sờ thử thì thời gian không đủ mất.
Tu pháp Đại Viên Mãn có nhiều lợi ích như vậy, hóa thân cầu vồng, thân hóa cầu vồng, toàn thân hóa thành một dải ánh sáng, trực tiếp thành Phật. Lợi ích của pháp Đại Viên Mãn là để cho thân thể bạn khỏe mạnh, tâm linh vui vẻ, thân tâm rất hài hòa, có thể tức thân thành Phật, cũng có thể tức sinh thành Phật, cũng có thể thân hóa cầu vồng, hóa thân cầu vồng có một dải cầu vồng nghĩa là thành tựu rồi. Giống như khi Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 sau khi hỏa táng, trong không trung liền xuất hiện một dải cầu vồng đó.
Gần đây khi Sư Tôn muốn truyền pháp của Trường Mi tôn giả, bầu trời phía trên Seattle Lôi Tạng Tự xuất hiện một vệt mây, vệt mây dài này vắt ngang qua bầu trời phía trên Seattle Lôi Tạng Tự, chúng ta có chụp ảnh lại đó, khi ấy trời trong vạn dặm không mây! Chỉ có đúng một dải mây dài vắt ngang ở trên bầu trời phía trên Seattle Lôi Tạng Tự của Trường Mi tôn giả, xuất hiện hai lần, bởi vì có hai bên lông mày mà! Chúng hiện lên trên bầu trời, rất vĩ đại đó.
Trước kia, khi Sư Tôn muốn giảng "Lục Tổ Đàn Kinh", bầu trời phía trên Đài Loan Lôi Tạng Tự xuất hiện sáu dấu chân, màu đen, khi ấy cũng là bầu trời trong vạn dặm không mây, chỉ có sáu dấu chân lớn này in lên bầu trời, "Lục Tổ Đàn Kinh", sáu dấu chân, là Lục Tổ đó! Những việc này đều là trời hiện lên những tướng lạ khác thường. Bạn nói xem, đang là trời trong vạn dặm không mây nhé! Chỉ có ở đây lại có một dải mây dài cong như lông mày, xuất hiện hai lần, một lần ở bầu trời phía trên Lôi Tạng Tự, một lần ở phía đối diện với Lôi Tạng Tự, hai dải mây dài. Bởi vì tôi muốn truyền pháp Trường Mi tôn giả, do vậy xuất hiện ra thiên tướng như vậy.
Khi giảng "Lục Tổ Đàn Kinh" thì bầu trời xuất hiện sáu dấu chân. Hơn nữa, khi bạn nhìn dải mây ấy một lúc, đi vào bên trong Lôi Tạng Tự rồi lại đi ra, thì mây cũng biến mất luôn. Lại là một bầu trời trong vắt vạn dặm không mây! Rõ ràng là có một dải mây rất lớn mà, vắt ngang qua bầu trời, sao mà vừa đi vào, đi ra đã lại biến mất rồi, đi đâu mất rồi? Tiêu biến rồi, hơn nữa trông nó giống như vệt lông mày vậy. Có thể thấy là mỗi lần Sư Tôn muốn thuyết pháp thì đều sẽ có trời ban dị tượng đó.
Người cha nói với con trai: "Bài kiểm tra đầu năm học sao mà đã bị điểm 0 vậy?" Con trai rất thông minh nói: "Thầy giáo bảo tất cả đều bắt đầu từ số 0." Hôm nay chúng ta cũng cần bắt đầu từ số 0, pháp Đại Viên Mãn cũng là bắt đầu từ số 0, từ 0 biến thành Đại Viên Mãn.
Cá nhân tôi cảm thấy pháp Đại Viên Mãn là pháp cực kì hay, vô cùng vi diệu, là pháp số một, hơn nữa còn rất viên mãn, rất perfect hoàn mĩ, là một pháp vô cùng hoàn hảo. Sau này, khi tôi giảng tiếp về pháp Đại Viên Mãn sẽ còn xuất hiện nhiều thứ rất vi diệu nữa, những thứ rất hay sẽ xuất hiện. Vùng Trung Nguyên vì sao lại có pháp Đại Viên Mãn? Bởi vì Mật giáo đến Trung Thổ, sớm nhất thì có một người là Lama Bạch Phổ Nhân, đây là người sớm nhất, ông ấy đến Trung Thổ hoằng pháp.
Nói về thời hiện đại, thời cổ đại không nói nữa. Cổ đại thì có ba vị đại sĩ thời Khai Nguyên (Đường Huyền Tông) là Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không, ba vị này ở vào thời Đường. Nói về thời hiện đại thì là Lama Bạch Phổ Nhân, tiếp theo là Thổ Đăng Ni Mã (Alak Zenkar Rinpoche), Thổ Đăng Ni Mã đến Trung Thổ hoằng pháp, Thổ Đăng Ni Mã là đệ tử của Cam Châu Hoạt Phật, Thổ Đăng Ni Mã dạy cho Thổ Đăng Đạt Lực, Thổ Đăng Đạt Lực truyền pháp cho Thổ Đăng Đạt Cát, Thổ Đăng Đạt Cát lại truyền pháp cho Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là Thổ Đăng Kì Ma. Bây giờ Thổ Đăng Kì Ma sau này lại truyền pháp cho Thổ Đăng Siddhi, đây là một truyền thừa. Sư Tôn cũng có truyền thừa của Thổ Đăng Ni Mã, Thổ Đăng Ni Mã cũng đến Trung Thổ hoằng pháp.
Tiếp theo thì sao? Có Norlha Rinpoche, Norlha Rinpoche cũng đến Trung Thổ hoằng pháp, ông ấy cho rằng Phật giáo ở Trung Thổ cần phát triển hưng thịnh, do vậy, ông nói với Cống Cát Hoạt Phật rằng: "Ông cũng cần đến Trung Thổ hoằng pháp."
Do vậy, sau khi Cống Cát Hoạt Phật kế tục Norlha Rinpoche, ông ấy cũng đến Trung Thổ hoằng dương Mật pháp. Tại Tứ Xuyên, Norlha Rinpoche đã kết Phật duyên với Liễu Minh Hòa Thượng, Liễu Minh Hòa Thượng giảng Kinh Kim Cang cho Norlha Rinpoche, còn Norlha Rinpoche thì lại dạy và quán đảnh cho Liễu Minh Hòa Thượng pháp Đại Viên Mãn của Hồng giáo.
Liễu Minh Hòa Thượng sau khi nhận được quán đảnh thì lại quán đảnh pháp Đại Viên Mãn cho Sư Tôn, đây chính là truyền thừa ở nhân gian của Sư Tôn. Cống Cát Hoạt Phật Thượng sư có đến Trung Thổ để hoằng pháp, ông ấy ở Thành Đô, ở Trùng Khánh, ở Côn Minh, ở Nam Kinh, ông ấy đã đi rất nhiều nơi, ông ấy còn đến cả Vân Nam Côn Minh nữa. Mặc dù ông ấy là một vị Hoạt Phật của Bạch giáo, là Hoạt Phật của Đại Thủ Ấn, nhưng ông ấy cũng học pháp Đại Viên Mãn, Norlha Thượng sư cũng quán đảnh cho ông ấy pháp Đại Viên Mãn. Những vị này đều có truyền thừa pháp Đại Viên Mãn.
Thế còn truyền thừa pháp Đại Viên Mãn ở nhân gian của Sư Tôn là từ Norlha Thượng sư, Liễu Minh Hòa Thượng đến Sư Tôn, đây là truyền thừa nhân gian chủ yếu nhất, còn cái khác thì là truyền thừa cách thời đại. Ngoài ra còn có "thậm thâm thiền định thanh tịnh" truyền thừa, nghĩa là ở trong thiền định, tôi đã minh tâm kiến tính rồi, tôi tu cửu tiết Phật phong, tu Kim cang tụng, tu Bảo bình khí, tinh thần tập trung, tự nhiên nhập vào thiền định, các vị Phật Bồ Tát hóa hiện lên trong thiền định đã dạy tôi khẩu quyết và chỉ cho tôi những điểm chính nằm ở đâu, đây gọi là truyền thừa thậm thâm thiền định thanh tịnh, trên đời này rất hiếm có đó.
Hôm nay tôi giảng cho mọi người biết pháp Đại Viên Mãn là gì, nó có thể khiến thân thể bạn khỏe mạnh, tâm linh vui vẻ, thân tâm hài hòa, đạt được chứng ngộ, có thể tức thân thành Phật, có thể tức sinh thành Phật, có thể thân hóa cầu vồng, tương lai có thể trực tiếp thành Phật, hơn nữa còn là có thể thành Phật trong một kiếp. Om mani padme hum.
Bài giảng số 4
Tì kheo ni công chúa nước Orgyen hoài thai thánh linh sinh hạ vị tổ số một của pháp Đại Viên Mãn tại nhân gian Cực Hỉ Kim Cang
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong buổi đồng tu A Di Đà Phật tại Seattle Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 15 tháng 6 năm 2013.)
Hôm nay tôi muốn giới thiệu vị tổ đầu tiên tại nhân gian của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", đó là Cực Hỉ Kim Cang (Garab Dorje). Ngài sinh ra tại đất nước Orgyen, sự ra đời của ngài cũng rất vi diệu. Khi ấy, có một công chúa là con của Quốc vương rất tin Phật, công chúa nguyện cả đời không lập gia đình, nguyện xuất gia làm tì kheo ni. Khi ấy ở Ấn Độ gọi là nữ Brahmin, nghĩa là tì kheo ni xuất gia. Công chúa cũng không lấy chồng mà đã cạo đầu xuất gia rồi.
Khi cô xuất gia tu hành, cô mơ thấy một tòa tháp lưu li, có Phật quang giáng xuống, Phật cầm tháp lưu li đặt trên đỉnh đầu cô quán đảnh ba lần. Có một tia sáng thanh tịnh màu trắng đi vào bên trong thân thể của tì kheo ni, là một tia ánh sáng lấp lánh đi vào bên trong người tì kheo ni. Là một công chúa con vua, cô ấy không kết hôn, hơn nữa lại là tì kheo ni xuất gia, thế mà bụng cô tự nhiên lại cứ to lên, đây là một sự việc rất phiền phức. Đại bộ phận các lão tổ sư khi ra đời thì đều có rất nhiều kì tích, rất nhiều sự việc thần kì. Do vậy, tôn giáo không tách rời khỏi những kì tích, không tách rời những thần tích, không có thần tích thì không được gọi là tôn giáo. Tì kheo ni này cũng giống như Đức mẹ Maria của chúa Jesus vậy, thật sự là trinh nữ hoài thai, bụng càng ngày càng to lên.
Vị mà giáng xuống là từ Đao Lợi Thiên, là Thiên Vương của 33 Thiên cung, tên là Song Huỳnh. Ngài ấy sinh hạ thái tử Thắng Tâm, thái tử Thắng Tâm là một trong số năm trăm vị thiên tử của 33 cõi trời, là con trưởng. Lần trước tôi đã giảng rồi, Thắng Tâm thiên tử được Kim Cang Thủ Bồ Tát quán đảnh pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", từ đó ở thiên thượng giới, ngài đã tu hành "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", sau đó, ngài hạ giáng đến nhân gian, chính là hạ giáng lên thân của tì kheo ni kia.
Trải qua mười tháng hoài thai, công chúa cảm thấy mình là một tì kheo ni thanh tịnh, bỗng dưng lại có con, đây là một việc rất xấu hổ. Thế là cô bèn lén ôm đứa con chạy đến một cái hố tối tăm bên trong một hang núi, cô bỏ lại đứa bé ở trong hang, để mặc nó, sống chết không quan tâm. Lâu sau, cô nghĩ đứa bé này chắc hẳn đã chết đói rồi, cô liền quay trở lại xem, baby này vẫn còn cười với cô, và nó vẫn sống khỏe mạnh, cũng không bị chết đói!
Đột nhiên, một linh cảm tâm linh khiến cô cảm động nói rằng: "Đứa bé này là thánh hiền chuyển thế, cô không được bỏ nó, hãy đưa nó về nuôi dưỡng cẩn thận." Tì kheo ni cũng cho rằng đứa bé này là thánh hiền, thế là cô thật sự đã đem đứa bé về nuôi dưỡng. Cha của tì kheo ni là Quốc vương, cũng cho rằng đứa bé này là thánh hiền, do vậy đặt tên cho đứa bé, dịch ra tiếng Trung nghĩa là Cực Hỉ Kim Cang. Đây là một câu chuyện thần kì của Ấn Độ thời cổ đại, không giống như Jesus, Jesus thì con người trong thiên hạ đều biết.
Trước kia bà Trần Truyền Phương có kể một câu chuyện cười, có một cô gái sinh con trong bệnh viện, bác sĩ khoa sản phụ chúc mừng cô: "Chúc mừng cô! Cô đã sinh ra một công tử. Cô hãy nói với chồng mình là cô đã sinh được một công tử rồi." Cô ấy bèn nói: "Tôi không có chồng." Bác sĩ khoa sản phụ nghe xong thì hiểu ra, liền nói: "Thế thì cô nói với bạn trai rằng cô đã sinh ra một bé trai rồi." Cô gái nói: "Tôi không có bạn trai." "Hả?" Bác sĩ không nói gì, cuối cùng, ông ấy chỉ nói: "Thế này vậy! Chúc mừng cô! Chúa Jesus thứ hai đản sinh rồi." Bởi vì cô ấy không có chồng, cũng không có bạn trai, thế thì làm sao mà có con đây?
Tì kheo ni còn có thánh linh nói cho cô ấy biết rằng đây là thánh hiền đến chuyển thế, Quốc vương cũng cho rằng đó là thánh hiền đến chuyển thế, và còn đặt tên cho đứa bé, gọi là Cực Hỉ Kim Cang. Khi đứa bé lên bảy tuổi, cậu bé đã biện luận cùng 500 vị pandita, pandita ở Ấn Độ là từ để gọi các bậc đại thiện tri thức, đại thiện tri thức của Phật pháp. Một đứa bé bảy tuổi biện luận cùng với 500 vị pandita, thật bất ngờ là đứa bé bảy tuổi đã thắng. Bởi vậy, bản thân đứa bé có thiên phú. Về sau, cậu bé quyết định tu hành chăm chỉ, và cậu bé đã đến một nơi gọi là núi Thái Dương Quang Minh.
Được rồi! Hôm nay tôi sẽ giảng về thái dương xuất hiện. Ở bên cạnh có một vòng hào quang, chính là đại diện cho Cực Hỉ Kim Cang, bởi vì hôm nay tôi sẽ giảng về Cực Hỉ Kim Cang. Ngài ấy đến núi Thái Dương Quang Minh, liên tục ở đó tu hành cho đến khi 32 tuổi. Khi ấy Kim Cang Thủ Bồ Tát cũng xuất hiện trước mặt ngài, mở ra terma pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" đã giấu trong não ngài, vừa mở ra thì ngài liền hiểu rõ tất cả: "Chà! Thì ra ta đã từng tu hành pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" ở cõi trời rồi."
Chính vào năm 32 tuổi, tại núi Thái Dương Quang Minh, trong sát-na, ngài đã trực tiếp thành Phật. Hôm nay, trong hư không hiển hiện thái dương, ánh sáng của mặt trời, chính là núi Thái Dương Quang Minh mà Cực Hỉ Kim Cang ở bên đó tu hành mà hiển hiện ra. Do vậy, hôm nay vì sao lại hiện ra ánh sáng mặt trời? Bởi vì núi mà Cực Hỉ Kim Cang tu hành gọi là núi Thái Dương Quang Minh. Bạn xem, mặt trời hiển hiện trong hư không còn có cả ánh sáng của ngài xuất hiện nữa.
Tiếp tục nói về Cực Hỉ Kim Cang, sau khi ngài ấy khai ngộ, ngài bắt đầu độ chúng sinh. Sau khi ngài thành Phật, ngài liền đến rừng Thi Đà Lâm hoằng pháp. Rừng Thi Đà Lâm ở Ấn Độ là một nghĩa địa, và ở đó cũng không có chuyện hỏa táng, chỉ là đem tử thi đến bỏ lại nơi đó, rồi chẳng quan tâm nữa, mau mau bỏ đi. Do vậy, ở nơi đó tử thi chất thành đống, rất nhiều xác chết, để cho chim ăn, côn trùng ăn, có một chút giống với hình thức thiên táng ở Tây Tạng. Thiên táng là xẻ thịt ra, vứt lên không trung, để cho chim kền kền đến tranh nhau mổ rỉa. Thi Đà Lâm ở Ấn Độ phần lớn đều quăng tử thi ở đó, dùng vải bọc lại, để lại ở đó rồi bỏ đi, từ đó không quan tâm đến nữa.
Do vậy, toàn bộ khu nghĩa địa rất đáng sợ, Thi Đà Lâm ở Ấn Độ rất đáng sợ. Tuy vậy thì Thi Đà Lâm cũng là một nơi tốt nhất để tu hành, cũng là nơi mà các Không Hành Mẫu, Không Hành Phụ tụ họp, rất kì lạ! Đặc điểm hoàn cảnh đất nước khác nhau, đó là một nơi vô cùng đáng sợ, âm u, nhưng những người tu hành thì đại bộ phận đều ở đó, bởi vì tu hành chính là cần phải nghĩ rằng: "Rốt cục thì ta cũng sẽ chết, có một ngày, ta cũng sẽ đến đây." Và khi ấy suy nghĩ này sẽ thức tỉnh tâm tu hành tinh tấn của bạn. Khi mà tất cả mọi thứ đều buông bỏ, cái gì là ái hận tình thù, account (tài khoản) ngân hàng, xe hơi, nhà cửa, vợ đẹp bồ xinh, khi tất cả đều buông bỏ thì sẽ khơi dậy tâm tu hành thật sự của bạn.
Vì thế nên khi xưa, rất nhiều người tu hành đều tập trung ở Thi Đà Lâm để tu hành. Cực Hỉ Kim Cang bèn đến Thi Đà Lâm hoằng pháp, hoằng dương pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Khi ấy, có rất đông người đến nghe ngài ấy giảng pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Sau cùng có một người đến, người này chính là vị tổ sư thứ hai tại nhân gian của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", là vị tổ sư thứ hai tại nhân gian, tên gọi là Diệu Cát Tường Hữu (Mañjuśrīmitra), truyền thừa lúc này là Thắng Tâm Thái Tử --- Cực Hỉ Kim Cang. Lần trước tôi nói là Đại Cát Tường Hữu là vì tôi nhớ đến Đại Cát Tường Thiên Nữ, do vậy mới nói thành Đại Cát Tường Hữu. Nhưng thật ra Đại cũng chính là Diệu, không khác là mấy! Nhưng tên gọi đúng thì là Diệu Cát Tường Hữu.
Diệu Cát Tường Hữu đi nghe pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", có được niềm hoan hỉ và quán đảnh của Cực Hỉ Kim Cang, ngài đã ở bên cạnh Cực Hỉ Kim Cang tổng cộng hơn 70 năm, Cực Hỉ Kim Cang khi ấy 32 tuổi thì chứng ngộ, thành Phật, đến Thi Đà Lâm hoằng pháp. Diệu Cát Tường Hữu ở cùng Cực Hỉ Kim Cang hơn 70 năm, thì chẳng phải là hơn trăm tuổi sao? Người Ấn Độ rất ít người sống đến hơn trăm tuổi đó.
Hẳn là thế này, cách tính năm của Ấn Độ khác với cách tính năm của chúng ta bây giờ. Một năm của chúng ta tính là một tuổi, họ thì nửa năm đã tính là một tuổi rồi. Do vậy, thật ra, Diệu Cát Tường Hữu ở cùng với Cực Hỉ Kim Cang là khoảng 30 năm, không phải là hơn 70 năm.
Có người nói Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm, nhưng e rằng chỉ là 25 năm thôi. Có người nói Phật Thích Ca Mâu Ni sống đến 80 tuổi, thật ra, cũng chưa chắc, khả năng chỉ là 60 tuổi.
Cực Hỉ Kim Cang truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho vị tổ thứ hai là Diệu Cát Tường Hữu. Khi truyền cho Diệu Cát Tường Hữu xong thì Cực Hỉ Kim Cang bèn nhập niết bàn, khi ngài niết bàn thì thân hóa thành cầu vồng, toàn thân đều tiêu biến, biến thành một dải ánh sáng bay lên hư không, vô cùng kì diệu. Cách nhập niết bàn này là vô cùng tuyệt diệu, chính là toàn thân hóa thành một dải cầu vồng bay lên hư không rồi tan biến mất. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng vậy, thân hóa cầu vồng, biến thành một dải cầu vồng bay vào hư không. Cực Hỉ Kim Cang đã kết thúc một đời như vậy. Đây là vị tổ sư đầu tiên tại nhân gian của pháp Đại Viên Mãn. Ngày mai tôi sẽ giảng cho mọi người về vị tổ thứ hai là Diệu Cát Tường Hữu. Om mani padme hum.
Bài giảng số 5
Diệu Cát Tường Hữu (Mañjuśrīmitra) niết bàn lại truyền pháp Đại Viên Mãn cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong đại pháp hội Hộ Ma Bất Động Minh Vương tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 16 tháng 6 năm 2013.)
Chúng ta lại giới thiệu tiếp về vị tổ sư thứ hai của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", chính là Diệu Cát Tường Hữu. Diệu Cát Tường Hữu sinh ra tại một gia đình Bà La Môn tương đối giàu có. Bà La Môn nghĩa là người tu hành. Ấn Độ có bốn tầng lớp lớn, thứ nhất là người tu hành, địa vị cao nhất, thứ hai là hoàng tộc, thứ ba là thương nhân, thứ tư là nô lệ. Cho đến hiện tại thì bốn tầng lớp này cũng vẫn chưa kết hôn chéo lẫn nhau.
Trong đó thì tầng lớp Bà La Môn là cao nhất, họ rất tôn kính những người tu hành. So sánh với ngày nay thì Ấn Độ giống như Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc, còn nước Cộng Hòa Nhân Dân như Mỹ thì căn bản là không coi trọng người tu hành, không tôn kính người tu hành. Nhưng ở Ấn Độ thì họ rất tôn kính người tu hành, xếp người tu hành vào tầng lớp số một. Diệu Cát Tường Hữu sinh trưởng trong một gia đình người tu hành giàu có. Ngài ấy rất có Phật duyên, sau khi ra đời cũng rất nỗ lực học Phật, ngài đi khắp nơi bái sư phụ, ngài đã bái 500 vị pandita.
Cực Hỉ Kim Cang đã tranh biện cùng 500 vị pandita, vì sao mà Diệu Cát Tường Hữu này cũng lại bái 500 vị pandita làm thầy? Trong kinh Phật nhắc đến con số 500, cái gì cũng 500, ví dụ như 500 thương nhân qua sông, 500 tì kheo, 500 tì kheo ni,… cái gì cũng 500, 500 là có ý nghĩa gì đây? Ở Ấn Độ, 500 mang ý nghĩa là nhiều, không phải 500 ngoại đạo nghĩa là đúng 500 người, không phải 500 pandita thì nghĩa là đúng 500 vị đại thiện tri thức, đây chỉ là một so sánh, chỉ là để biểu thị rằng ngài ấy đã bái rất nhiều sư phụ thôi. Giống như nói Đề Bà Đạt Đa đem 500 tì kheo rời bỏ Phật Thích Ca Mâu Ni thì thật ra ý nghĩa chỉ là rất nhiều thôi.
Có một câu chuyện cười, lão Tiền nói với lão Lý rằng: "Đêm qua xui xẻo quá." Lão Lý nói: "Xảy ra chuyện gì vậy?" Lão Tiền nói: "Đêm qua tôi về nhà sớm, trước đây tôi toàn nhằm lúc tối ôm người hầu, kết quả là tôi lại ôm nhầm bà vợ tôi." Lão Lý nói: "Vậy thì có liên quan gì đâu!" Lão Tiền nói: "Nhưng mà, bà vợ tôi lại nói: "Tiểu Mã, lão Tiền về nhà rồi, mày còn chưa đi sao?"
Tôi nói về sự hiểu lầm. Chúng ta đừng hiểu lầm ý nghĩa của con số 500, người Ấn Độ nói 500, người Tây Tạng nói 500, trong kinh Phật nói 500 nghĩa là so many, nghĩa là rất nhiều rất nhiều đó.
Diệu Cát Tường Hữu bái 500 vị đại thiện tri thức, học tập Phật pháp, ngài đã nghiên cứu rất nhiều về Phật pháp, dường như ngài đã học Phật pháp bát thánh, có nghĩa là Phật pháp bát thứ đệ. Bình thường, ngài rất ngạo mạn rằng: "Phật pháp tôi đều học hết rồi, cái gì tôi cũng hiểu." Lúc này, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thân nói với ngài rằng: "Còn có Phật pháp tốt hơn nữa, ở trong rừng Thi Đà Lâm, có một người là Cực Hỉ Kim Cang đang dạy "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", vẫn còn có Phật pháp cao sâu nhất. Ông cần đi bái Cực Hỉ Kim Cang làm thầy."
Diệu Cát Tường Hữu nói: "Tôi mới là người hiểu hết Phật pháp. Cực Hỉ Kim Cang thì có cơ gì chứ? Ông ta không đáng làm thầy tôi. Bây giờ tôi đã là thầy của chúng sinh rồi." Diệu Cát Tường Hữu rất ngạo mạn. Bởi vậy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mới bảo ông: "Thật đó, Phật pháp mà ông học còn chưa đủ đâu, còn có pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" A Để Du Già cao sâu hơn, vi diệu hơn, ông còn không đi học sao?" Diệu Cát Tường Hữu nói: "Tôi rất vĩ đại rồi! Không đi học nữa." Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên: "Hay là ông đi tham khảo một tí cũng được!" "Được! Vậy tôi sẽ biện luận cùng ông ấy."
Bản thân Diệu Cát Tường Hữu muốn đến Thi Đà Lâm để biện luận Phật pháp cùng Cực Hỉ Kim Cang, ông ấy rất ngạo mạn đi đến Thi Đà Lâm, trông thấy Cực Hỉ Kim Cang gật đầu một cái "Ừ!", động tác này chính là biểu thị "chẳng có gì to tát cả". Chúng ta học Phật không thể như vậy, ngạo mạn như thế là không tốt. Thật ra, rất ít người học Phật mà tôn trọng lẫn nhau.
Giống như người viết văn chương vậy, văn nhân thường coi thường lẫn nhau. Tôi viết văn, anh ta cũng viết văn, tôi xem thường anh, anh xem thường tôi. Võ tướng cũng coi thường lẫn nhau, đố kị tới lui, người nào vượt lên trước ta thì ta sẽ ghét người đó. Người có tiền cũng có thể bị coi thường. Bởi thế, khi Bill Gates đi ra đường, đột nhiên bị ném một quả trứng trúng mặt. Ông ấy nói: "Tôi với anh có quan hệ gì không?" "Anh và tôi chẳng có quan hệ gì cả, vì sao anh lại ném trứng vào mặt tôi?" "Tôi không thích kẻ có tiền vậy thôi." Bởi vì bản thân người này không có tiền, nên anh ta ghen tị với những người có tiền.
Tài hoa càng cao, kẻ thù càng nhiều, tài hoa trung bình thì kẻ thù cũng ở mức bình thường. Nếu như bạn chẳng có tài hoa thì căn bản là sẽ chẳng có kẻ thù. Nếu như bạn là một kẻ ngốc thì ai sẽ coi bạn là kẻ thù đây? Người có năng lực lớn thì sẽ có kẻ thù lớn, người có năng lực nhỏ thì sẽ có kẻ thù nhỏ. Không có năng lực thì không có kẻ thù, thế giới này là như vậy.
Diệu Cát Tường Hữu cho rằng bản thân đã học được toàn bộ Phật pháp rồi "Cực Hỉ Kim Cang nhà ngươi, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo ta bái ông làm thầy, nhưng tôi chẳng biết ông là ai?" Hai người bắt đầu biện luận. Kì thực, những gì mà Diệu Cát Tường Hữu đã học là "nhất thiết hữu bộ", những gì mà Cực Hỉ Kim Cang đã học là "nhất thiết không bộ", hai người đấu nhau, những gì mà Diệu Cát Tường Hữu nói thì đều bị Cực Hỉ Kim Cang bác bỏ, những gì Cực Hỉ Kim Cang nói thì Diệu Cát Tường Hữu nghe không hiểu. Diệu Cát Tường Hữu không có cách nào trả lời được, bởi vì ông ấy không hiểu. Do vậy Diệu Cát Tường Hữu đã thua trong cuộc tranh biện.
Trên thế giới này, không thua thì là thắng. Có một chàng trai không muốn tiêu tiền, lần đầu tiên đến nhà bạn gái, vì không muốn tiêu tiền nên anh ta nghĩ ra một kế sách, khi anh ta vừa vào nhà bạn gái thì đã làm bộ mặt đau khổ nói rằng: "Hôm nay xui xẻo quá, có một cái đồng hồ mới mua, vốn định tặng em, không ngờ trên xe buýt đã bị kẻ móc túi lấy mất rồi." Bạn gái nghe xong vô cùng cảm động, nói đầy tiếc nuối: "Sau này cẩn thận một chút." Chàng trai lập tức đồng ý: "Chắc chắn rồi, tên móc túi quả thật rất đáng ghét, lần sau, anh sẽ không cầm theo cái gì cả, xem xem nó sẽ trộm cái gì." Thật là keo kiệt, theo đuổi bạn gái mà như vậy chắc chắn sẽ thất bại.
Trước kia, tôi đến nhà Sư Mẫu thăm Sư Mẫu, mỗi lần đến tôi đều đem theo thứ gì đó, không có lần nào là không, không lần nào đi tay không đến nhà bạn gái cả, không hề có chuyện như vậy. Tôi luôn hai tay cầm theo thứ gì đó đến nhà Sư Mẫu. Em gái của Sư Mẫu trông thấy thì bảo tôi một câu: "Sau này, đồ để lại, còn người không cần phải vào đâu." Có chuyện như vậy đó. Phải vậy không? Đúng mà. Bạn xem! Tôi đi đến nhà bạn gái, tuyệt đối luôn đem theo thứ gì đó, làm như thế là rất khéo léo đó.
Diệu Cát Tường Hữu đi đến chỗ của Cực Hỉ Kim Cang, hai tay không, cũng chẳng mang lễ vật, lại còn coi thường người ta, nhìn là muốn trói lại đánh rồi, lại còn muốn tranh biện. Cực Hỉ Kim Cang bèn tranh biện cùng ông ấy, Diệu Cát Tường Hữu không trả lời được. "Phải làm sao đây?" Khi ấy, Diệu Cát Tường Hữu vô cùng xấu hổ, nói: "Rốt cục Cực Hỉ Kim Cang đã nói gì, thật sự ta không hiểu." Diệu Cát Tường Hữu vốn tràn đầy tự tin, kết quả là nay thật sự không hiểu, nên vô cùng xấu hổ. Ông nói với Cực Hỉ Kim Cang: "Ở đây có dao không?" Cực Hỉ Kim Cang nói: "Có! Bình thường thái thức ăn nên có dao mà! Ông muốn làm gì?" Diệu Cát Tường Hữu nói: "Hôm nay tôi xấu hổ vô cùng, tôi muốn cắt lưỡi mình."
Cực Hỉ Kim Cang nói: "Ông không cần phải cắt lưỡi mình, như thế thì lại tạo thành nghiệp chướng không tốt, làm tổn hại đến thân Phật trang nghiêm. Con người chính là Phật mà! Mỗi người đều có Phật tính mà! Ông không thể tự làm hại bản thân được! Cắt lưỡi mình thì chẳng phải là làm tổn hại Phật tính của chính mình sao?" Bởi vậy tôi nói người học Phật không thể tự sát chính là như vậy. Bởi vì tự sát là giết hại Phật tính của chính mình, cắt lưỡi tương đương với làm tổn hại thân Phật trang nghiêm, đó là tự làm hại bản thân. Nghe Cực Hỉ Kim Cang nói như vậy, Diệu Cát Tường Hữu chỉ có thể nói: "Tôi đã tranh luận thua ông rồi, tôi không còn biết giấu mặt vào đâu nữa, tôi lại cũng không đem theo lễ vật, vậy tôi phải làm sao đây?"
Cực Hỉ Kim Cang bèn nói với Diệu Cát Tường Hữu: "Ông hãy cùng ta học pháp, ta sẽ dạy toàn bộ các pháp cho ông." Diệu Cát Tường Hữu rất xấu hổ, phủ phục xuống đất, ngay tại chỗ đã bái Cực Hỉ Kim Cang làm thầy, học tập A Nỗ Du Già, A Để Du Già, Đại Du Già một cách rất khiêm tốn, bởi vì ông ấy ngạo mạn nhưng thất bại, nên nay trở nên rất khiêm tốn, đã cúi rạp mình xuống đất để quy y Cực Hỉ Kim Cang. Diệu Cát Tường Hữu đã theo Cực Hỉ Kim Cang học pháp 75 năm. Thời Ấn Độ Cổ đại thì nửa năm tính là một năm, người ta tính như vậy cho nên mới thành ra là 75 năm.
Có một hôm, Cực Hỉ Kim Cang biến hóa thành cầu vồng, bay đến hư không, Diệu Cát Tường Hữu liền cầu nguyện sư phụ rằng: "Sư phụ! Sư phụ! Bây giờ thầy muốn niết bàn, thầy hãy dạy cho con khẩu quyết quan trọng nhất đi!" Đột nhiên, từ hư không rơi xuống ba cuốn sách, chính là ba yếu quyết, rơi trúng đầu Diệu Cát Tường Hữu mấy cái, thế là Diệu Cát Tường Hữu đã khai ngộ ngay tại chỗ. Sự chứng ngộ của ngài cũng giống với Cực Hỉ Kim Cang.
Diệu Cát Tường Hữu sau đó đã đi đến một nơi khác, đi đến Bodhgaya, phía tây của Bodhgaya có một rừng Thi Đà Lâm, Diệu Cát Tường Hữu liền đi đến Thi Đà Lâm đó, trở thành một vị sư phụ, hơn nữa còn truyền pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho mọi người biết. Thời gian truyền pháp của ngài rất dài, cho đến tận khi ngài nhập niết bàn. Ở đây cũng có bí mật, là bí mật gì vậy?
Tôi kể một câu chuyện cười trước. Có một bé gái mới lên hai tuổi rưỡi, thế nhưng đã cực kì thông minh, hỏi gì cũng biết. Có một lần, mommy của cô bé hỏi: "Mắt dùng để làm gì?" Bé gái đáp: "Để nhìn các thứ." Mommy lại hỏi: "Tai dùng để làm gì?" Cô bé nói: "Để nghe." Mommy lại hỏi: "Thế còn miệng?" Bé gái nói: "Để ăn các thứ!" Mommy lại hỏi: "Còn mũi thì sao?" Bé gái bèn trả lời: "À, để ngoáy gỉ mũi."
Bây giờ Sư Tôn sẽ nói bí mật của Diệu Cát Tường Hữu. Sau khi đã minh tâm kiến tính thì ngài cũng đến Thi Đà Lâm ở Bodhgaya để truyền thụ Phật pháp, chính là Bodhgaya nơi có cây bồ đề mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã thiền định đó, là khu rừng Thi Đà Lâm nằm về phía tây. Diệu Cát Tường Hữu ở đó truyền pháp độ chúng sinh, khi viên tịch thì ngài ấy hóa thành cầu vồng. Tôi nói cho mọi người biết, có hai vị Diệu Cát Tường Hữu. Sau khi Diệu Cát Tường Hữu viên tịch, pháp thân của ngài ở Áo Minh thiên cung đột nhiên cảm thấy nhiệm vụ còn chưa hoàn thành, ngài vẫn còn phải đi độ một người cách thời đại nữa. Người này chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.
Khi Diệu Cát Tường Hữu nhập niết bàn, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khi ấy còn chưa thành tựu, nhưng Diệu Cát Tường Hữu biết tương lai Liên Hoa Sinh Đại Sĩ sẽ có thành tựu rất lớn, do vậy, ngài phải đến thế giới Ta Bà lần nữa. Bởi vậy, pháp thân của ngài thật sự đã từ Áo Minh thiên cung hạ giáng, hạ giáng trên một bông hoa sen, hoa sen vốn đang khép lại, nhưng vì ngài hạ giáng ở bên trong nên hoa sen từ từ mở ra, bên trong là một baby, một cơn gió thổi qua, đứa bé liền lớn phổng. Đó là ai? Chính là Diệu Cát Tường Hữu sau này, điều này không được ghi lại trong kinh điển.
Tại biển Đạt Lai Quách Khiếu, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hóa sinh thành một baby, Diệu Cát Tường Hữu lại hóa sinh ở bên cạnh ngài, cũng là hóa sinh trong hoa sen, hoa sen nở ra, một cơn gió thổi đến, Diệu Cát Tường Hữu lập tức lớn lên. Vào lúc ấy, ngài bèn thuyết pháp cho đứa bé mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã hóa sinh thành. Ngài đã dạy cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ những khẩu quyết trọng yếu của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Những điều này không được viết trong sách. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ từ lớn lên, Diệu Cát Tường Hữu đã truyền cho ngài pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong bí mật. Chúng ta gọi Diệu Cát Tường Hữu này là Hậu Diệu Cát Tường Hữu, còn Diệu Cát Tường Hữu đầu tiên thì gọi là Tiền Diệu Cát Tường Hữu.
Diệu Cát Tường Hữu từng tập hợp toàn bộ 640 vạn bài kệ của Cực Hỉ Kim Cang phân thành ba bộ, bộ thứ nhất gọi là Tâm Bộ, bộ thứ hai là Giới Bộ, bộ thứ ba là Khẩu Bộ. Tâm chính là heart, giới trong từ kết giới, khẩu thì là kuchi, tôi biết mimi là tai, tôi từng học tiếng Nhật cổ. Còn mọi người thì trẻ tuổi, tôi nói để mọi người biết, những gì tôi học là do bố mẹ tôi chỉ cho. Mọi người đều có một cái miệng to. Ở đây là Khẩu Bộ, còn có Tâm Bộ và Giới Bộ.
Diệu Cát Tường Hữu phân 640 vạn bài kệ thành ba loại để dạy, Tâm Bộ là nói về các vấn đề về "trụ tâm", tâm của bạn làm sao để trụ vững là điều rất quan trọng, là những vấn đề về trụ tâm. Tâm của con người chúng ta rốt cục là ở đâu, chúng ta không biết. Nhưng bạn cần phải tập trung tinh thần, suy nghĩ của mình lại, đây chính là vấn đề của việc trụ tâm, trong Tâm Bộ đều có giải thích. Giới Bộ là nói về rất nhiều nghi quỹ trọng yếu, nghi thức rất trọng yếu rất quan trọng, tu hành Giới Bộ rất tinh tấn, cái này thuộc về phạm vi của Giới Bộ. Ngoài ra, Khẩu Bộ là dạy về các khẩu quyết trọng yếu.
Bởi vậy, Diệu Cát Tường Hữu đã phân 640 vạn bài kệ của Cực Hỉ Kim Cang thành Tâm Bộ, Giới Bộ, Khẩu Bộ. Hậu Diệu Cát Tường Hữu cũng biến hóa thành một Liên Hoa Đồng Tử để dạy một Liên Hoa Đồng Tử khác, chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Có hai Liên Hoa Đồng Tử sao? Bản thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là hóa sinh từ hoa sen, nên ngài ấy chính là Liên Hoa Đồng Tử! Ai bảo không phải Liên Hoa Đồng Tử? Hậu Diệu Cát Tường Hữu cũng hoa sinh từ hoa sen, cũng là Liên Hoa Đồng Tử.
Vì thế, Liên Hoa Đồng Tử hiện tại là xuất chúng, có càng ngày càng nhiều Liên Hoa Đồng Tử, đều là hóa sinh từ hoa sen. Hậu Diệu Cát Tường Hữu, vị tổ sư thứ hai của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", chính là Hậu Diệu Cát Tường Hữu hóa sinh từ hoa sen. Liên Hoa Đồng Tử lại dạy cho Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng là hóa sinh từ hoa sen mà. Điều này rất kì diệu đó! Thật ra thì cũng không kì lạ, bởi vì đến Tây phương Cực lạc thế giới rồi thì ai cũng là hóa sinh từ hoa sen, đều là Liên Hoa Đồng Tử. Sau này, nếu có người nói rằng không có Liên Hoa Đồng Tử thì cấm không cho đến Tây phương Cực lạc thế giới. Bởi vì Tây phương Cực lạc thế giới toàn là hóa sinh từ hoa sen mà! Nếu như nói không có Liên Hoa Đồng Tử thì không cần phải đến Tây phương Cực lạc thế giới nữa đâu!
Buổi trưa hôm nay bà Trần Truyền Phương kể một câu chuyện cười về tính trung thực, có một người mẹ trẻ đang dỗ dành một baby, người mẹ nói: "Nếu như con không ngủ thì con đi ngủ cùng với ông nội đi." Baby liền nói: "Con không muốn đi ngủ cùng ông nội." "Nếu con không đi ngủ cùng ông nội thì mẹ sẽ đi ngủ cùng ông nội đó." Ông nội đi qua và đã nghe thấy. "Chà! Muốn đi ngủ cùng ông nội." Cả buổi tối ông không ngủ được. Đến hôm sau tỉnh dậy, ông nội liền nói với con dâu: "Cô không thể dạy con trẻ như vậy được, một đằng thì cô dỗ trẻ con, một đằng thì cô lừa người già, thế là không được."
Đây là một vấn đề về tính trung thực. Bây giờ tôi sẽ kể một câu chuyện cười về tính trung thực, không giống câu chuyện mà bà Trần Truyền Phương kể. Một doanh nhân khởi nghiệp thành công nói với đứa con của mình: "Một người thành công cần có hai điều kiện tất yếu là tính trung thực và trí tuệ." Đứa con hỏi bố: "Tính trung thực là gì?" Người bố nói: "Trung thực nghĩa là biết rõ ngày mai sẽ phá sản thì hôm nay cũng vẫn phải giao hàng hóa đến tay khách hàng, đó chính là trung thực." Đứa con liền hỏi: "Thế cái gì là trí tuệ?" Người bố bèn nói: "Đừng có làm việc ngốc nghếch như vậy." Đây chính là điểm mâu thuẫn giữa trung thực và trí tuệ.
Học Phật không thể bốc phét (khoác lác), bạn học đến cái gì thì bạn nói cái đó, chưa học đến cái gì thì không thể nói về cái đó. Hôm nay, thật sự là trong đầu tôi có Diệu Cát Tường Hữu thì tôi mới có thể nói về Tiền Diệu Cát Tường Hữu và Hậu Diệu Cát Tường Hữu. Diệu Cát Tường Hữu đã học pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" như thế nào, cần phải biết được quá trình ngài học pháp. Sau này, đầu tiên tôi cần phải nói về các vị tổ sư, bởi vì sau Diệu Cát Tường Hữu là Cát Tường Sư Tử (Shri Singha), sau Cát Tường Sư Tử là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Giới thiệu xong về bốn vị tổ sư này thì mới đi vào chủ đề của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ".
Vì thế trước khi đi vào chủ đề, tôi sẽ giảng về bốn vị tổ sư chủ yếu trước. Một người là Cực Hỉ Kim Cang, là tổ sư đầu tiên tại nhân gian. Diệu Cát Tường Hữu là tổ sư thứ hai tại nhân gian. Cát Tường Sư Tử là tổ sư thứ ba tại nhân gian. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là tổ sư thứ tư tại nhân gian. Đây là bốn vị tổ sư quan trọng nhất. Thật ra, trong pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" không chỉ có mấy vị này, bởi vì có rất nhiều người học, rất nhiều học sinh, nhưng thật sự trở thành thế hệ tổ sư, độ cực kì nhiều chúng sinh thì chỉ có bốn vị này, thế nên bốn vị này tương đối quan trọng. Vì thế nên tôi cũng mới giới thiệu cùng mọi người về bốn vị tổ sư này.
Mẹ hỏi con trai: "Con à! Năm nay con sáu tuổi rồi, hoạt bát hiếu động, vô cùng đáng yêu, giống như chú hổ con vậy." Con trai nói: "Hây hây hây! Con là hổ con, thế mẹ là gì?" Mẹ nói: "Mẹ là mẹ của con." Con trai nói: "Không đúng, phải như bố thường nói, mẹ là hổ cái." Cách xưng hô lẫn nhau, hổ con, hổ mẹ thì đều rất vĩ đại đó.
A nói với B: "Trong đời tôi chỉ cầu xin thượng đế làm một việc, không biết thượng đế có thể làm được không?" A nói: "Tôi chỉ cầu xin tôi không chết." Không thể nào! Đây là việc không thể nào có, cầu bất tử là không thể được, con người đều phải chết mà. Con người đến lúc chết thì vạn sự đều ngừng, tất cả đều chẳng còn gì, yêu gì, hận gì, bao nhiêu tiền, nghèo ra sao, có bao nhiêu quyền thế… cũng chẳng có tác dụng gì. Người học Phật cần hiểu điều này, vì vậy cũng không nên quá nặng nề mọi thứ. Nói dễ nghe một chút thì là biết rằng cái mà ta có chỉ là nhất thời, nghĩa là lúc này ta sống được tốt là được, sống được thiện là được, ta thật sự tu Phật pháp là được, ta thật sự làm việc thiện là được, ta thật sự phát bồ đề tâm là được, ta thật sự tu một đàn pháp là được, ta thật sự đang trì chú là được, ta nghiêm túc đọc một cuốn sách thiện là được.
Chúng ta chỉ có thể như vậy. Tất cả những thứ khác đều nên xem nhẹ. Giống như Bill Gates, bây giờ ông ấy cũng biết rồi, kiếm tiền chẳng có ý nghĩa gì cả, ông ấy không muốn làm chủ tịch của Microsoft, ông ấy về hưu, để cho người khác đi làm việc vất vả, ông ấy biết rằng kiếm nhiều tiền hơn cũng không có tác dụng gì. Ông ấy lập hội từ thiện, ông ấy cũng giúp đỡ người khác, hơn nữa còn giúp rất nhiều người nữa. Ông ấy biết rằng sẽ đến một ngày tới lượt ông ấy, ông ấy cũng biết sẽ chẳng có được thứ gì. Bởi vậy, người học Phật giống như tôi vừa nói ở trên, mọi người làm đúng theo như vậy, biết rằng mọi thứ chỉ là nhất thời, tất cả mọi thứ bạn đều rất hoàn mĩ, rất thiện, rất thanh lương, rất thanh tịnh, như vậy là được rồi. Những thứ khác thì đừng quản lo. Om mani padme hum.
Bài giảng số 6
Shri Singha - vị tổ sư nhân gian thứ ba của pháp Đại Viên Mãn là tộc người Đảng Hạng thời Tây Hạ
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong buổi đồng tu Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Seattle Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 29 tháng 6 năm 2013.)
Vị tổ sư thứ ba của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" chính là Sư Lợi Tinh Ha (Shri Singha). Theo những lời đồn đại phổ thông thì ngài là người Hán, nghĩa là một người Đông Thổ. Thế nhưng ngài ấy cũng sống ở Thiên Trúc, chính là Ấn Độ. Rất kì lạ, vì sao ngài ấy ở Đông Thổ, lại cũng ở Ấn Độ được?
Trong truyền thuyết, vị tổ sư thứ ba của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là người Hán, ngài cũng có một tên gọi của người Hán, gọi là Tống Huệ Thọ, ngoài tên gọi này ra thì những lời đồn đại khác cũng rất nhiều. Thật ra ngài không phải là người Hán, Sư Tôn biết điều này, ngài là người Tây Hạ, sinh trưởng tại Cam Túc, ngài là tộc người Đảng Hạng.
Người của vương triều Tây Hạ gọi là tộc người Đảng Hạng, trong số đó có một người là Tống Huệ Thọ, từ nhỏ đã rất yêu thích Phật pháp, hiểu biết rất nhiều loại ngôn ngữ, hiểu ngôn ngữ Đảng Hạng. Bởi sinh ra ở Cam Túc nên ngài hiểu một chút tiếng Tạng, cũng hiểu một chút tiếng Phạn. Như tôi vừa nói, ngài ấy đã học thanh minh [ND: thuyết minh về ngôn ngữ văn tự ], nghĩa là trên phương diện ngôn ngữ, ngài đã học nhiều ngôn ngữ của các nước, bao gồm tiếng Phạn, tiếng Tạng, tiếng Hán, tiếng Tây Hạ, và cả chữ viết của Tây Hạ, ngài ấy đều biết hết.
Ngài ấy cũng học Ngũ minh, từ nhỏ đã thích Phật học. Ngài đã học nội minh, cũng học phương pháp chữa bệnh, chính là y phương minh, cũng học cả nhân minh, nghĩa là nhân quả và học logic. Những gì mà ngài ấy học chính là Ngũ minh: nhân minh, thanh minh, nội minh, công xảo minh, y phương minh. Ngài ấy cũng đã học rất nhiều kĩ thuật, rất hiếu học, vô cùng thông minh, ngài rất muốn học Phật pháp sâu hơn nữa. Do vậy, ngài đã từ Cam Túc đi theo con đường tơ lụa mà sang đến tận Afghanistan. Khi ngài đến được Afghanistan thì đột nhiên Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện.
Các vị cổ nhân khi xưa đều có thể nhìn thấy Bồ Tát. Bạn xem, Cực Hỉ Kim Cang nhìn thấy Kim Cang Thủ Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát đã tác động lên não bộ của ngài, khiến ngài biết rằng ngài ấy vốn là Thắng Tâm thiên tử, mở ra toàn bộ pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", thế là ngài lập tức hiểu ngay về "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Ở đây là Kim Cang Thủ Bồ Tát giúp ngài khai mở, ngài cũng nhìn thấy Bồ Tát. Vị tổ sư thứ hai là Diệu Cát Tường Hữu cũng là do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến chỉ bảo cho ngài cần mau mau đi bái Cực Hỉ Kim Cang làm thầy. Ngài ấy cũng nhìn thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Sư Lợi Tinh Ha ở một nơi trên đất Afghanistan đã nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện nói với ngài rằng: "Ngài cần phải đi tìm Diệu Cát Tường Hữu, ở chỗ ngài ấy có Phật pháp thứ đệ viên mãn thật sự." Quan Thế Âm Bồ Tát nói với ngài một lần. Sư Lợi Tinh Ha nghĩ: "Phật pháp hiện nay của ta chưa phải là hay nhất, nên đi đến nơi nào đây?" Ngài ấy muốn đi tìm cầu Phật pháp viên mãn nhất, nhưng ngài ấy chỉ hiểu Phật pháp thông thường. Ngài ấy muốn biết Phật pháp sâu hơn nữa, cái gọi là Ngoại mật, Nội mật ngài ấy đều chưa học, huống hồ là pháp cửu thứ đệ viên mãn nhất. Cái gì mà A Nỗ, A Để, Maha Yoga, căn bản là ngài chẳng hiểu.
Vì thế, ngài muốn học Ngoại mật và Nội mật, ở đâu có thể học được Phật pháp này? Chính là Ngũ Đài Sơn. Vì sao có thể học Phật pháp ở Ngũ Đài Sơn? Bởi vì khi Phật pháp từ Ấn Độ truyền đến Trung Thổ thì đầu tiên là truyền tới Ngũ Đài Sơn. Vì thế, Sư Lợi Tinh Ha từ Cam Túc vùng Tây Hạ đã đến Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây. Ngài ấy bái một vị sư phụ, vị sư phụ này hiểu về Mật pháp, thế là ngài đã học Ngoại mật và Nội mật, vị sư phụ này tên là Bối Lạp Ca Địa, việc này thật kì diệu. Sau khi ngài học xong, Quan Thế Âm Bồ Tát lại hiển hiện lần thứ hai, nói rằng: "Ngài hãy mau chóng đến Thi Đà Lâm ở Sơ Sa Châu tại Ấn Độ." Đây chính là Thi Đà Lâm ở một nơi gọi là Sơ Sa Châu thuộc phía Tây của Bodhgaya. Đi đến nơi đó có thể học được pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" chân chính, là Mật pháp viên mãn nhất.
Quan Thế Âm Bồ Tát đã xuất hiện lần thứ hai nói cho ngài biết rồi, Sư Lợi Tinh Ha liền rời khỏi Trung Thổ, rời khỏi Ngũ Đài Sơn, đi một mạch đến Thi Đà Lâm ở Sơ Sa Châu ở phía tây Bodhgaya. Ở đó thì ngài đã gặp được Diệu Cát Tường Hữu, và ngài đã ở lại đó học pháp. Ngài đã học pháp tại đó 25 năm, học pháp thật sự là rất không đơn giản. Năm xưa, Atisa tôn giả từ Ấn Độ đến Sri Lanka, sau đó lại đến Jambi Indonesia để học pháp, ngài học pháp cùng Kim Châu Đại Sư, đã học bao nhiêu năm? 12 năm, không sai. Sư Lợi Tinh Ha học pháp ở chỗ của Diệu Cát Tường Hữu 25 năm, Atisa tôn giả học cùng Kim Châu Đại Sư 12 năm. Sư Tôn từng đến Jambi ở Indonesia rồi, Sư Tôn cũng đã đến Bodhgaya rồi. Thế còn Tây Hạ, rất nhiều kiếp trước, Sư Tôn đã ở Tây Hạ, tất cả những nơi này đều có một chút liên hệ với tôi. Do vậy tôi mới biết ngài ấy là tộc người Đảng Hạng ở Tây Hạ, không phải là người Hán đích thực. Điều này chỉ có tôi biết, chỉ có tôi giảng, người khác không biết.
Lại nói, vị đầu tiên xuất hiện tại nhân gian để dạy pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cho lão tổ sư Cực Hỉ Kim Cang là Kim Cang Thủ Bồ Tát, chỉ thị cho lão tổ sư thứ hai Diệu Cát Tường Hữu mau đi học pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, chỉ thị cho lão tổ sư thứ ba Sư Lợi Tinh Ha là Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong Mật giáo, ba vị này là Tam Hộ Chủ. Bạn không cảm thấy kì lạ sao? Vì sao không phải là Địa Tạng Vương Bồ Tát? Vì sao không phải là Phổ Hiền Bồ Tát? Vì sao không phải là Trừ Cái Chướng Bồ Tát? Vì sao không phải?
Bởi vì các vị hiển hiện cần thuộc về Mật giáo, do vậy mà ba vị hộ chủ của Mật giáo xuất hiện, vì cần học Mật giáo nên ba vị hộ chủ đã xuất hiện, điều này chỉ có Sư Tôn biết thôi. Quan Thế Âm Bồ Tát đại diện cho từ bi, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đại diện cho trí huệ, Kim Cang Thủ Bồ Tát đại diện cho pháp lực, tổng hợp của ba điều này chính là Kim Cang Tát Đỏa. Kì thực Tam Hộ Chủ đều là do Kim Cang Tát Đỏa hóa hiện ra.
Do vậy, Kim Cang Tát Đỏa mới là tổ sư chân chính của Mật giáo. Điều này chỉ có Sư Tôn nói, người khác không hiểu, người khác không biết. Kim Cang Tát Đỏa là một vị Bồ Tát rất vĩ đại, ngài ấy là Pháp Vương Tử của Ngũ Phật, trung ương Tì Lô Giá Na Phật, tây phương A Di Đà Phật, đông phương A Súc Phật, nam phương Bảo Sinh Phật, bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, Ngũ Phật đều là Phật ở địa thứ 13, tổng hợp của Ngũ Phật chính là Kim Cang Tát Đỏa. Kim Cang Tát Đỏa lại phân ra thành Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Kim Cang Thủ Bồ Tát, sự hóa hiện này là vô tận không dừng, vô cùng vĩ đại, và cũng có truyền thừa.
Có một người bị vợ đánh, nguyên nhân là vì đã đọc trộm một cuốn sách, cuốn sách này tên là "Dạy bạn cách đánh vợ", kết quả là bị vợ phát hiện ra, liền đánh cho một trận. Phía sau cuốn sách có ghi chú: "Người đọc cuốn sách này chắc chắn sẽ bị vợ đánh."
Ý của tôi muốn nói rằng Phật và Bồ Tát hóa hiện tới hóa hiện lui, bạn không thể hiểu được nhân duyên của các vị đâu. Câu chuyện cười tôi vừa kể có nghĩa là, vì bạn đọc cuốn sách "Dạy bạn cách đánh vợ", thế rồi, vợ chắc chắn sẽ đánh bạn, đây là một logic, một mối quan hệ nhân quả.
Nói cách khác là sự hóa hiện của Phật Bồ Tát đều có mối quan hệ nhân quả. Ba vị lão tổ sư chính là như vậy. Sư Lợi Tinh Ha đến Sơ Sa Châu ở Thiên Trúc để tìm Diệu Cát Tường Hữu, ở lại đó 25 năm. Khi Diệu Cát Tường Hữu sắp viên tịch nhập niết bàn, ngài đã hóa thành một dải cầu vồng, từ phía trên linh cốt tháp ở Sơ Sa Châu bay lên. Sư Lợi Tinh Ha nói: "Con còn chưa chứng ngộ mà! Sư phụ, thầy mau truyền cho con một khẩu quyết đi." Từ trong cầu vồng lại xuất hiện Diệu Cát Tường Hữu, ngài đã đặt vào tay Sư Lợi Tinh Ha một cuốn sách nhỏ có viết khẩu quyết ở trong đó, Sư Lợi Tinh Ha mở ra xem thì ngài hoàn toàn hiểu tất cả, đã khai ngộ rồi. Vị tổ sư thứ ba ở nhân gian của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" đã khai ngộ như vậy đó, ngài theo sư phụ học pháp 25 năm.
Đệ tử Chân Phật Tông của chúng ta rất cừ, hỏi: "Anh học pháp bao năm rồi?" "Ba năm, chẳng có chút cảm ứng gì cả, tôi muốn bỏ đi rồi." Người ta học 25 năm, đương nhiên, ở Ấn Độ nửa năm tính là một năm, do vậy 25 năm cần phải chia đôi, nhưng thế thì cũng vẫn là thời gian rất dài, đều đòi hỏi công phu nhiều năm. Chúng ta thường nói "bước lên đài mười phút, dưới đài luyện mười năm". [ ND: chỉ có khổ luyện thì mới có thành công ]
Bạn xem, các trò diễn xiếc của Trung Quốc rất lợi hại. Quả bóng đặt trên đầu rơi xuống vai, rồi lại rơi xuống tay, sau đó lại chuyền qua bên này, chuyền qua chuyền lại, lại chuyền ra sau lưng như thế này, bóng vẫn không rơi xuống đất, chỉ có chuyền tới chuyền lui trên thân, lăn tới lăn lui vẫn ở trên thân, luyện như thế suốt 10 năm, thế nhưng lên biểu diễn thì chỉ mất 10 phút thôi! Những trò xiếc ấy luyện tập từ nhỏ tới lớn, "bước lên đài mười phút, dưới đài luyện mười năm", rất không đơn giản.
Chúng ta học Phật pháp cũng như vậy, nếu không mài dũa từ nhỏ, giống như Sư Tôn đã mài dũa hơn 40 năm rồi! Cuối cùng mài dũa nên một con người, vẫn còn không dám nói bản thân mình có cái gì, sư phụ dạy chúng ta cần khiêm tốn một chút, cần hạ giọng một chút. Sư phụ thường nói: "Anh cần hạ giọng một chút, bởi vì tiếng tăm của anh đã quá lớn rồi, trở thành bia bắn tên của mọi người rồi." Vì thế cần khiêm tốn một chút, điều này là đúng đó, tiếng tăm quá lớn, giống như Jesus Christ ra ngoài hoằng pháp, ngài vừa xuất hiện đã hiển hiện mười loại đại thần thông, ngài ấy có thể đi trên mặt biển.
Thánh Peter vừa trông thấy Jesus đi trên mặt biển liền nói: "Tôi cũng có thể đi trên mặt biển được không?" Jesus nói: "Chỉ cần ngài có tín tâm, ngài sẽ có thể đi trên mặt biển." Thánh Peter liền bước tới biển, và thật sự có thể đứng trên mặt biển. Đó là Jesus đã khiến cho thánh Peter dựa vào tín tâm của chính ông ấy để mà bước trên mặt biển. Lúc ấy thì Thánh Peter trông thấy sóng biển to như vậy, thân thể lắc tới lắc lui, ông ấy càng lúc càng sợ, sau đó đã đánh mất tín tâm, tùm! Thế là rơi xuống biển. Trong Kinh Thánh có ghi lại như vậy.
Tuy nhiên, Jesus Christ đã hiển hiện thần thông quá lớn, ví dụ như có một người bị tâm thần đi qua, ngài liền kêu người bị tâm thần kia "bình thường đi", sau đó kêu những ma quỷ bên trong người bị tâm thần "mau biến đi", thế là những con ma quỷ liền đi hết, rất nhiều ma quỷ đã chạy đi và nhập vào những con lợn, những con lợn ấy đều bị điên, trở thành crazy pigs (lợn điên), toàn bộ đều nhảy xuống vách núi mà chết. Những thần tích mà Jesus đã tạo ra rất lợi hại, ngài có thể kêu người chết sống lại, có một người đã chết mấy ngày rồi, người đó là đệ tử và cũng là bạn của Jesus, Jesus đi thăm người đó, thần thông mà ngài hiển hiện này mới lợi hại, bởi vì người này đã chết ba, bốn ngày rồi, toàn thân đã quấn vải kín rồi.
Jesus đi đến nơi đó, hỏi rằng: "Ôi? Cậu ta làm sao vậy?" Người ta nói: "Cậu ta đã chết ba ngày rồi." Jesus nói: "Tôi sẽ gọi cậu ta tỉnh dậy." Jesus liền gọi: "Tỉnh dậy đi." Thế là người đó liền tỉnh dậy, thần thông này của Jesus quá lớn. Do vậy, câu chuyện về đấng cứu thế Messiah đã lan truyền đến mọi người ở khắp các địa phương. Quốc vương La Mã cho rằng ngài là đấng cứu thế Messiah, là vua của vạn vị vua, to hơn cả Đế quốc La Mã.
Vì vậy mà đương nhiên binh lính La Mã đã bắt ngài lại, tiếng tăm quá lớn mà, bởi thế họ mới bắt ngài lại. Ngài mới hoằng pháp ba năm đã bị đóng đinh trên thập tự giá rồi. Sư Tôn hoằng pháp 40 năm, vẫn chưa bị đóng đinh lên thập tự giá là may mắn lắm rồi. Cảm ơn Chúa, cảm ơn Thánh Allah, cảm ơn Jehovah, Sư Tôn vẫn chưa bị đóng đinh vào thập tự giá, thật sự là quá hạnh phúc rồi, MC vừa nãy mới nói rằng: "Niệm hơn một vạn biến Thượng sư tâm chú để Sư Tôn hạnh phúc và vui vẻ."
Sư Tôn nghe vậy thì rất vui mừng. Vì sao vậy? Bởi vì Sư Tôn vốn dĩ rất vui vẻ, vốn dĩ rất hạnh phúc. Có thể hoằng pháp bốn mươi mấy năm mà chưa bị đóng đinh vào thập tự giá, chỉ bị người ta chửi tới chửi lui thôi, như thế là đủ hạnh phúc rồi. Amen! A Di Đà Phật! Thật ra thì cũng giống nhau, A Di Đà Phật và Amen đều tương tự nhau, đều có một chữ "A".
Tôi không cảm thấy cuộc sống của tôi có nhiều ưu phiền hoặc kiểu như vậy. Nếu như có gì phải lo lắng thì đó cũng là việc của Tông Ủy Hội, không phải tôi. Bản thân tôi rất vui vẻ. Còn Tông Ủy Hội thì lo lắng cái gì? Họ tự lo việc của họ, tôi không quản. Sư Tôn đã tu đến vô sinh pháp nhẫn rồi. Thế nào gọi là vô sinh pháp nhẫn? Hai chữ "vô sinh" là rất quan trọng, bạn chỉ cần hiểu được hai chữ "vô sinh" thì bạn đã có thể vui vẻ rồi. Bạn không hiểu hai chữ "vô sinh" thì bạn vĩnh viễn đau khổ.
Bạn còn cho rằng "hữu sinh" thì đảm bảo bạn còn đau khổ. Hễ ốm là bạn đau khổ. Hễ đau răng là bạn đau khổ. Còn "hữu sinh" thì tuyệt đối còn đau khổ. Nếu như bản thân bạn hóa thành "vô sinh" thì bạn sẽ không còn đau khổ, sự chịu đựng này gọi là pháp nhẫn, bạn hiểu được dạng nhẫn nhục này của Phật pháp. Đã khai ngộ minh tâm thì bạn lập tức hiểu được vô sinh pháp nhẫn, người khai ngộ chính là đạt được quả vị vô sinh pháp nhẫn. Nhưng nếu như bạn vẫn không nhẫn được, không có cách nào nhẫn nhục được, thì là bạn vẫn chưa thực tiễn được sự khai ngộ của bạn.
Nói thật lòng, Chân Phật Tông ở nhân gian nhất định cũng cần phải có power (sức mạnh), không thể không có sức mạnh được. Vì Chân Phật Tông ở nhân gian độ chúng sinh, đối với những người chặn đứt con đường giác ngộ của người khác thì đương nhiên Chân Phật Tông cần pháp huy power của mình. Anh chặn đứt huệ mệnh của người khác đương nhiên sẽ có quả báo. Tất cả các đệ tử Chân Phật Tông của chúng ta phải đoàn kết nhất trí, lập chí hướng thành Phật, hộ trì Chân Phật Mật Pháp, liên tục kéo dài không ngừng. Đây là điều nhất định phải làm được, nên cần hộ trì điều này.
Đương nhiên, chúng ta không thể giống như đạo Hồi có quân đội đánh nhau khắp nơi. Chúng ta không phải Hồi giáo, chúng ta cũng bảo vệ tăng đoàn của mình, bảo vệ và kéo dài huệ mệnh của Chân Phật Tông, đây là điều nên làm, mọi người nên đoàn kết nhất trí, cần nhận thức rõ, cần biết rằng đừng gây nên sự tình gì trong đoàn thể của mình. Tôi thì cho rằng Chân Phật Tông ở nhân gian, chúng ta ở nhân gian tu pháp, chúng ta là một tăng đoàn, tăng đoàn và tất cả những cư sĩ tại gia kết hợp lại, không thể chia rẽ.
Đối với người cản trở Phật pháp lưu truyền và chặn đứt huệ mệnh của người khác, cần phải đưa ra "lời nói đanh thép" và sức mạnh của bạn thì tông phái của chúng ta mới có thể sinh tồn được, bằng không thì cũng lại chia năm xẻ bảy, không chỉ là chia năm xẻ bảy mà toàn bộ đều lụi bại hết. Những gì chúng ta sử dụng đương nhiên là Phật pháp và pháp luật ở nhân gian, đó là những gì chúng ta có thể dùng. Chúng ta thuộc chính phái thì phải dùng phương pháp của chính phái để giải quyết các vấn đề. Như vậy có đúng không? (Đúng!) Như vậy có phải không? (Phải!) Cần kêu gọi điều này, cần làm, bỏ tiền bỏ sức đều là điều nên làm.
Mặc dù cá nhân tôi, bản thân đã tu đến quả vị vô sinh pháp nhẫn, nhưng tôi cảm thấy Chân Phật Tông ở nhân gian, có một số việc vẫn phải dùng phương pháp ở nhân gian để ngăn chặn thì mới là chính xác. Sư Tôn là người không quan tâm, có sỉ nhục tôi thế nào tôi cũng vẫn rất hạnh phúc, rất vui vẻ. Tôi sẽ chẳng làm sao cả, có vấn đề gian nan trước mặt tôi tôi cũng phớt lờ. Con người tôi là như vậy, hơn nữa vì bản thân tôi tu đến "vô sinh", do vậy con người tôi đã đưa ra một lời thề: "Bản thân tôi không kiện người ta."
Tuy nhiên, Tông Ủy Hội và Hộ Pháp Kim Cang, Phật Bồ Tát ngồi ở đây nhìn, các vị sẽ không kiện người ta, Thất Phật ở trên đầu chúng ta, mỗi vị đều ngồi rất ngay ngắn, các vị sẽ không kiện người ta, các vị căn bản là không kiện được. Nhưng đều có Kim Cang Hộ Pháp ở đây, Kim Cang Lực Sĩ, Vi Đà, Già Lan, còn có tất cả các thần Kim Cang ở đây, các vị đều đang hộ trì cho Phật pháp. Đây chính là đạo lí mà! Sư Tôn đã chứng vô sinh pháp nhẫn của bát địa, nếu như mọi người khai ngộ thì sẽ biết thế nào là vô sinh pháp nhẫn. Mọi người nói khai ngộ chính là "vô sinh", không sai! Khai ngộ chính là "vô sinh". Thế nhưng, vô sinh là trạng thái gì? Bản thân bạn cần đi tìm hiểu.
Điều tôi muốn hỏi bạn là, vì sao lại là "vô sinh"? Đây mới là khai ngộ. Bạn cần hiểu được hai chữ "vô sinh", vì sao lại là "vô sinh"? Nếu như bạn hiểu được vì sao lại là "vô sinh", bạn mới được gọi là khai ngộ. Không phải nói là: "Tôi hiểu rồi, khai ngộ chính là vô sinh." Nhưng vì sao là vô sinh, bạn cần giải thích rõ ràng thì mới gọi là khai ngộ đó! Khai ngộ là vô sinh và cũng là vô tử, khai ngộ cũng là thường lạc ngã tịnh, đây mới gọi là khai ngộ. A Để Du Già cao sâu nhất của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", đến cuối cùng tôi sẽ dạy bạn khẩu quyết, thì bạn sẽ có được vô sinh pháp nhẫn, bạn lập tức minh tâm kiến tính.
Sư Lợi Tinh Ha là một vị tổ sư rất vĩ đại, ngài là người Tây Hạ, bản thân ngài sau khi đã học hiểu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" thì có rất nhiều người theo ngài học pháp. Người đầu tiên theo ngài học pháp chính là Ca Nạp Tô Trá, người thứ hai theo ngài học pháp là Tất Mã Lạp Mễ Trá, người thứ ba chính là vị tổ sư được truyền dạy những điều quan trọng nhất - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Sau khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đến Tây Tạng, Tây Tạng đã phái năm người học Phật đi tìm Sư Lợi Tinh Ha, kết quả là có một người học thành công, người này là Bì Lư Già Na (Vajrasana).
Sư Lợi Tinh Ha đã truyền dạy cho rất nhiều đệ tử, trong số đó Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là vị Thượng sư thứ tư của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" vĩ đại nhất. Vì sao trong lịch sử Đường triều không có Tống Huệ Thọ - Sư Lợi Tinh Ha là một vị tổ sư vĩ đại như vậy cơ mà? Bởi vì ngài ấy không phải là người của Đường triều, mà là người của Đại Bạch Cao Quốc Tây Hạ bên cạnh Đường triều.
Bản thân Sư Lợi Tinh Ha thường xuyên đi đi về về giữa Ngũ Đài Sơn và Ấn Độ. Vì sao ngài ấy có thể thường xuyên đi về như vậy? Thần thông của ngài ấy rất lợi hại, ngài ấy có thể cầm một nắm cát, thổi một hơi khí, tung cát vào hư không, thế là người của ngài liền đi vào trong cát, rất thần tốc đã có thể đến Ngũ Đài Sơn rồi, rồi lại rất thần tốc đã trở về Ấn Độ rồi. Ngài ấy có thể đi lại trong đất. Pháp thuật này gọi là "độn thổ", Trung Quốc mới có, còn người phương Tây chưa bao giờ nghe qua độn thổ là cái gì. Ngài ấy có thể đi lại dưới mặt đất, hơn nữa tốc độ còn cực kì nhanh. Trong "Phong Thần Bảng" có một người gọi là Thổ Hành Tôn, người này cũng có thể đi lại dưới mặt đất.
Sư Tôn cũng từng nằm mơ giống như vậy, chỉ cần tôi hóa thân thể mình thành hư vô, xuyên xuống mặt đất, hai mắt nhắm lại, muốn đến nơi nào thì tôi liền xuất hiện ở nơi đó. Chỉ cần tôi nghĩ đến nơi nào, chỉ cần hai mắt tôi nhắm lại, hóa thân thể thành hư vô, liền độn nhập vào trong đất, thân thể lập tức có thể xoay tít. Muốn đến nơi nào? Muốn đến Đài Loan. Viu! Khi trồi lên thì đã ở ngay tại nhà ở Đài Loan, tôi đã xuất hiện trong nhà mình ở Đài Loan rồi. Hoặc là xuất hiện tại nhà đệ tử ở Đài Loan, hoặc xuất hiện tại rất nhiều nơi trên thế giới, tôi đều có thể xuất hiện.
Tuy nhiên, tôi nói để mọi người biết, đây là ở trong mơ, là ở trong mơ tôi có thể làm được. Tôi cũng thường có những giấc mơ bay đi bay lại và những giấc mơ đi xuyên qua mặt đất, khi vừa xuống lòng đất thì thân thể dường như xoay tít, trong đầu tôi nghĩ: "Hây! Mình đến Singapore vậy!" Chỉ một suy nghĩ thì người đã xuất hiện tại Singapore rồi, muốn gặp người nào là gặp được người đó. Thế nhưng đó đều là ở trong mơ.
Kẻ uống rượu thì nói: "Vũ trụ trong hũ rượu lớn." Tôi thì là: "Vũ trụ trong giấc mơ lớn." Trong mơ, vũ trụ của tôi rất lớn. À! Câu này là "Vũ trụ trong ống tay áo lớn, ngày tháng trong hũ rượu dài", đúng rồi! Sư Tôn cũng biết thần toán, là vũ trụ trong ống tay áo đó! Nghĩa là bấm vài cái, trong ống tay áo tính toán một chút, thế là liền biết nên làm thế nào. Người uống rượu thì luôn say sưa, chỉ một lát là hết một ngày, hết hai ngày, chẳng mấy chốc mà qua một năm, ngày ngày uống rượu, ngày tháng rất dài. Say xỉn mụ mị, không được như vậy. Người học Phật không thể như vậy, một ngày không tu thì một ngày là ma. Một ngày không tu hành thì ngày đó bạn chính là ma. Do vậy, chúng ta phải tu hành vững bền và chắc chắn.
Sư Lợi Tinh Ha phân pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" thành bốn loại phương pháp Ngoại mật, Nội mật, Bí mật, Cực mật. Vì thế, những người học Phật pháp ở Tây Tạng ngày nay đều biết đến bốn loại phương pháp Ngoại mật, Nội mật, Bí mật, Cực mật này. Sư Lợi Tinh Ha cũng đã giảng hai Nyingtik, một là "Không Hành Nyingtik", chính là pháp mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã truyền cho Yeshe Tsogyal, Nyingtik chính là tâm yếu khẩu quyết quan trọng nhất, còn gọi là "tâm trong tâm" [ ND: cốt lõi của cốt lõi ]. Ngoài ra, còn có một Nyingtik nữa, chính là Vima Nyingtik, là Nyingtik của một vị tổ sư khác. Như vậy, Sư Lợi Tinh Ha đã truyền hai Nyingtik, ngài ấy biết về hai khẩu quyết này, sau này chúng ta sẽ nói tới.
Chơi bài cũng có khẩu quyết đó. Play mahjong đánh mạt chược cũng có khẩu quyết, có kĩ thuật và phương pháp đó. "Chơi bài chơi được tốt, chứng tỏ đầu óc tốt." Chơi bài cũng cần có đầu óc đó. "Đánh bài đánh rất kinh, chứng tỏ suy nghĩ đỉnh." Suy nghĩ cũng phải rất rõ ràng. "Đánh bài rất vi tế , chứng tỏ hiểu kinh tế." "Chơi bài không sợ gian, chứng tỏ người mạnh dạn." Không sợ bị dọa. "Thắng cũng không phát ngôn, chứng tỏ người tinh khôn. Thua cũng không đầu hàng, vẫn cạnh tranh ngang tàng." Tinh thần cạnh tranh vẫn mạnh mẽ. "Thắng thua vẫn tỉnh bơ, chứng tỏ rất có cơ." Có sự kiềm chế là đúng rồi.
"Đánh bài có lắm chiêu, chứng tỏ tố chất siêu. Đánh bài thích đấu đá, chứng tỏ thanh niên hóa. Dám đánh một thẻ đơn, chứng tỏ có hậu trường. Thắng thua đều không bỏ, có thể thành sừng sỏ." Sừng sỏ nghĩa là người đứng đầu đó! Sư Tôn thì thắng thua đều bỏ đi, vì đã thắng chắc rồi nên tôi chạy thôi. Thua thì tôi cũng mau mau chạy để không bị thua quá nhiều. "Các đồng chí thích chơi bài, có hy vọng rồi, cố lên!" Những câu nói đùa này nghĩa là sao? Là một sự khéo léo, đánh bài cũng là một sự khéo léo, đánh cho khéo, đánh cho hay, đánh cho tuyệt vời thì mới là cao thủ đánh bài.
Vợ hỏi chồng: "Vì sao mỗi lần rửa tay xong đều cảm thấy tay rất trắng nhỉ?" Chồng nói: "Vì tay bị úng nước mà." Vợ hỏi: "Vì sao mỗi lần rửa chân xong cũng đều cảm thấy chân rất trắng?" Chồng nói: "Vẫn là vì chân bị úng nước mà." Vợ hỏi: "Vì sao mỗi lần tắm xong đều cảm thấy thân thể mình rất thon thả nhỉ?" Chồng nói: "Là vì não của em bị úng nước rồi." Cái này rất có logic đấy.
Đôi khi, chúng ta nhìn nhận sự việc là vấn đề ở góc độ. Hai người đang đứng nói chuyện như thế này, bạn nhìn từ đằng sau, bạn cho rằng hai người họ đang kiss hôn nhau, đây là vấn đề góc độ, sự khác biệt trong góc độ thì bạn sẽ nhìn lầm, chỉ là hai người đang đối thoại thôi, chứ không phải đang kiss. Vì thế, đừng hiểu lầm, rất nhiều sự việc là vấn đề của góc độ.
Bạn cho rằng mấy ngày nay ăn bớt đi một bữa cơm, thân thể bạn đã trở nên thon thả hơn chăng? Thế thì não bạn bị úng nước rồi, khác rất xa đó, là vấn đề góc độ. Con gái hỏi bố: "Bố ơi! Bố ơi! Con là gì của bố?" Con gái cho rằng bố sẽ trả lời: "Con là người tình bé bỏng sweet heart của bố, con là cục cưng của bố!" Nào ngờ, bố của cô bé quay đầu lại nói một cách ai oán: "Con là "Hình phạt cho sự bốc đồng" của bố." [ Tên một bài hát ] Là vấn đề góc độ. Bố của cô bé nói cũng đúng, sau khi bốc đồng thì hình phạt chính là sinh ra cô bé.
Chúng ta học Phật pháp cũng cần phải dùng góc độ bao quát để nhìn nhận. Như hôm nay tôi nói, góc độ của Tông Ủy Hội và góc độ của Sư Tôn là khác nhau. Góc độ của Sư Tôn là không quan tâm, không kiện cáo người ta. Nhưng theo góc độ của Tông Ủy Hội thì cần phải hộ trì cả tông phái. Sư Tôn nói không kiện người ta, nhưng cũng không phải là bảo tất cả đệ tử Chân Phật Tông đều không kiện người ta, mà đều để cho người ta kiện. Bạn nói xem, bạn không kiện người ta, nhưng người ta kiện bạn đó! Còn gì nữa? Một vấn đề khác, khi vợ chồng ly hôn, thì phải làm sao? Bạn nói xem, bạn học Phật rồi, thì tất cả đều cho đối phương hết, bạn có sẵn lòng không? Người ta sẽ lấy hết đi đó! Bạn phải làm sao? Vì thế, trên góc độ này, bạn cũng phải kiện tụng thôi.
Có đúng không? Góc độ của Sư Tôn là không quan tâm, vô sinh pháp nhẫn, tôi có thể không kiện người ta. Góc độ của Tông Ủy Hội là cần xem xét bao quát, những người này là những kẻ chặn đứt huệ mệnh của người khác mà! Tông Ủy Hội vì sao lại không ra mặt? Sư Tôn thì không kiện người ta, nhưng Hộ Pháp Kim Cang Tông Ủy Hội thì cần ra mặt đó! Hôm nay những gì tôi nói chính là vấn đề góc độ, học Phật là cần học tính bao quát, Sư Tôn đã là người học được tính bao quát rồi, sau khi Sư Tôn minh tâm kiến tính thì đã phát lời thề "không kiện cáo người ta, cũng không phỉ báng người ta". Sư Tôn chưa bao giờ phỉ báng người ta, cũng không muốn chỉ trích người khác, không muốn. Thế nhưng trên góc độ của Tông Ủy Hội thì cần phải làm như vậy. Đây là vấn đề góc độ. Hôm nay nói với mọi người đến đây thôi. Om mani padme hum.
Bài giảng số 7
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cùng Sư Lợi Tinh Ha học pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" 25 năm
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong đại pháp hội Hộ Ma Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 30 tháng 6 năm 2013.)
Hôm nay tôi sẽ giảng về Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là một trong tám đại Bổn tôn của Chân Phật Tông chúng ta. Guru Rinpoche của Mật giáo, nghĩa là Thượng sư Rinpoche, nghĩa là vị tổ sư tối cao của tất cả Tạng mật, chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Khi ngài ra đời là năm thứ tám sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni niết bàn, sinh ra trên biển Đạt Lai Quách Khiếu. Miền bắc của Ấn Độ không có biển, nhưng mà họ gọi tất cả những hồ lớn là biển, vì thế mới gọi là biển Đạt Lai Quách Khiếu. Trên biển Đạt Lai Quách Khiếu mọc đầy hoa sen, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã sinh ra từ hoa sen.
Khi ấy, có một vị vua nước Orgyen ở bắc Ấn Độ đi đến những địa phương khác để tìm kiếm báu vật, trên đường trở về đã được Không Hành Mẫu chỉ thị: "Tại biển Đạt Lai Quách Khiếu có một baby ra đời, ông cần đi đem baby này về nuôi dưỡng." Thế là vị vua này bèn đến biển Đạt Lai Quách Khiếu và thật sự đã trông thấy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đúng là có một baby ở đó, đứa bé ở trong một bông hoa sen. Vua bèn ôm đứa bé về, đặt tên là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, bởi vì ngài sinh ra ở trong hoa sen.
Cho nên, Liên Hoa Đồng Tử đều là sinh ra từ hoa sen. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ sinh ra từ hoa sen. Còn nữa, lần trước tôi đã nói, sau khi Tiền Diệu Cát Tường Hữu viên tịch thì đã chuyển thế thành Hậu Diệu Cát Tường Hữu, ngài ấy cũng sinh ra từ hoa sen, cũng là Liên Hoa Đồng Tử. Về sau, Hậu Diệu Cát Tường Hữu cũng dạy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có nguồn gốc là thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, là ngữ của A Di Đà Phật, là tâm của Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển thế mà thành. Có thể nói, thân khẩu ý của ngài chính là tổng hợp của thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, khẩu của Phật A Di Đà, ý niệm của Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyển thế thành Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, là hợp nhất. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ nhỏ đã có Phật duyên, ngài ấy từ bỏ vương vị, sau đó đã cạo đầu xuất gia. Ai là người cạo đầu xuất gia cho ngài ấy? Là A Nan tôn giả. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển thế, là A Di Đà Phật chuyển thế, là Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển thế, kết quả lại là được A Nan tôn giả cạo đầu xuất gia.
Ví dụ kiểu này vào thời hiện đại cũng có. Mọi người biết rằng khi Sư Tôn 43 tuổi, tôi có mái tóc đen và dài, rất là đẹp, tôi rất giữ gìn mái tóc này, mỗi ngày tôi đều soi gương chải tóc đó! Khi ấy tôi luôn mang theo lược bên mình, chải tóc đến khi bản thân mình thấy hài lòng thì thôi, rất tao nhã đó! Thế nhưng khi ấy, Bồ Tát chỉ thị cho tôi: "Đến năm 43 tuổi sẽ xuất gia!" Tôi nói: "Không muốn xuất gia." On Friday night, I can go to tarven, drink wine, go to night club dancing, or go to karaoke singing songs (Tối thứ sáu, tôi có thể đi đến quán rượu, uống rượu, đi đến các câu lạc bộ đêm khiêu vũ, hoặc đi hát karaoke.) It's so good, I don't want to be a monk. (Như thế quá tuyệt, tôi không muốn làm nhà sư.) Kết quả là, năm đó vào một lần tôi đi tắm, tôi vuốt ra được cả một nắm tóc rơi xuống đất, tôi nhìn lại thì thấy trên đầu chẳng còn được bao nhiêu tóc. Tóc rụng rồi, tóc tôi đã trở nên rất thưa. Chẳng còn cách nào, Bồ Tát nói 43 tuổi tôi sẽ cạo đầu xuất gia, tôi xem thời gian thì cũng đúng là 43 tuổi rồi.
Khi ấy, vừa hay có đại hòa thượng Quả Hiền ở Hồng Kông, bây giờ ông ấy cũng già rồi, ông ấy đến Seattle, ông ấy là đệ tử quy y tôi. Khi ấy, tôi lái xe đưa hòa thượng Quả Hiền đến Vancouver Canada, khi ấy Tam Nguyên (Thượng sư Chân Tam Nguyên) ở đó. Đúng vậy không? Là tôi đã lái xe đưa Quả Hiền đi, lái xe hơn ba tiếng đồng hồ đến Vancouver, rồi lại lái xe quay về. Pháp sư Quả Hiền là đệ tử của tôi, ông ấy đã quy y tôi, ông ấy nói với tôi: "Ngày 10 tháng 2 âm lịch là một ngày rất đẹp." Vì sao ngày 10 tháng 2 lại là ngày đẹp? "Bởi vì Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng cạo đầu xuất gia vào ngày hôm đó." Khi xưa, A Nan tôn giả đã cạo đầu cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển thế, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tỏa hào quang.
Cũng vào ngày 10 tháng 2 đó, tôi đã để cho đại hòa thượng Quả Hiền cạo đầu cho tôi tại chùa Huệ Tuyền ở Sa Điền Hồng Kông. Phật Thanh đứng trên lầu ở Mật Uyển nói: "Bố ơi đừng cạo đầu!" Nó hét lên: "Bố ơi đừng cạo đầu!" Thế nhưng tóc đã cạo rồi, chẳng có cách nào khác. Hơn nữa nếu như không cạo đầu thì tóc cũng sẽ rụng hết, thế nên cạo luôn cho xong. Quả Hiền đem đến rất nhiều áo cà sa, ông ấy giúp tôi mặc lên bộ quần áo cà sa của Hiển giáo. Tôi soi gương, trông không hẳn là đẹp lắm, nhưng cũng không hẳn là xấu.
Quả Hiền đứng phía sau nói: "Chà! Cạo đầu xong trông rất trang nghiêm đó!" Tôi nghĩ: "Cạo thì cũng cạo rồi! Đợi ông quay về tôi lại hoàn tục." Tôi hỏi ông ấy: "Sau khi ông về Hồng Kông còn đến đây nữa không?" Ông nói: "Còn đến." Còn đến, thế thì tôi xong rồi, nếu như tôi hoàn tục thì không được rồi. Có đúng không? Phải dứt khoát giữ nguyên như thế này. Về sau, ông ấy còn đến mấy lần nữa. Những khoản đóng góp của ông ấy cho Seattle Lôi Tạng Tự là nhiều nhất.
Khi ấy, có tám đại gia, mỗi đại gia bỏ ra 20.000 đô Mỹ, thế nhưng hòa thượng Quả Hiền một mình đã bỏ ra 100.000 đô Mỹ. Thật đó! Nhà tài trợ vàng cho việc xây chùa thật sự là ông ấy. Mọi người hùn tiền lại để mua đất xây chùa, Seattle Lôi Tạng Tự đã được xây dựng nên như vậy đó. Tôi thật sự rất nhớ ông ấy. Tôi đi Hồng Kông, ông ấy đến hỏi tôi: "Sư Tôn, ngài minh tâm kiến tính rồi, rốt cục là cái gì vậy?" Tôi thấy huệ căn của ông ấy rất sâu, ông ấy có huệ căn rất lớn, tôi bèn nói bên tai ông ấy một câu. Ông ấy nói: "Thế thì tôi biết rồi." Pháp sư Quả Hiền bây giờ cũng là một đại hòa thượng đã khai ngộ rồi.
Sau khi A Nan tôn giả cạo đầu cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Liên Sư đã bái rất nhiều sư phụ. Rất nhiều người nói rằng nhiều điều trong sách của Sư Tôn đều được sao chép từ trong các kinh điển. Rất nhiều điều trong sách của Sư Tôn đều được sao chép từ trong Đại Tạng Kinh. Vốn dĩ Phật pháp chính là đọc kinh sách, cảm thấy Phật pháp này rất hay, thì đương nhiên tôi sẽ dùng chúng trong sách. Lấy từ Đại Tạng Kinh không được sao? Đại Tạng Kinh không có bản quyền, bởi vì Đại Tạng Kinh không có tác giả mà! Chỉ có người phiên dịch, do vậy không có bản quyền, ai cũng có thể sao chép.
Mọi người có sao chép Kinh A Di Đà không? Có sao chép Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm không? Có sao chép Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh không? Mọi người đều sao chép mà, đạo văn mà! Thế mà còn nói sách của Sư Tôn đều là sao chép. Những gì giáo viên dạy, từ điển quốc ngữ, có cái nào không phải là sao chép chứ. Lư Thắng Ngạn tôi cũng sao chép, cha mẹ tôi dạy tôi: "Con viết "Lư Thắng Ngạn", đây là tên của con." Tôi liền viết "Lư", thế cũng là sao chép từ cha tôi, mẹ tôi, "Lư Thắng Ngạn" cũng là sao chép. Có thứ nào không phải là sao chép chứ? Không có thứ nào là không phải sao chép.
Phật pháp, bạn sinh ra là đã biết sao? Tôi bảo bạn nhé, bạn sinh ra thì chỉ biết ăn các thứ thôi! Chỉ biết uống sữa, còn thì cái gì cũng không biết. Bản thân chúng ta chính là sao chép mọi thứ của xã hội. Cái gọi là văn chương chính là giống như đem các loại rau, hoa quả, thịt, canh, tất cả bỏ vào xào nấu, xem xem mùi vị ra sao, giống như các nguyên liệu của nồi lẩu thôi! Văn chương chính là như vậy, gom rất nhiều thứ lại, xào nấu thành món ăn, xào nấu ngon thì là văn chương hay, xào nấu dở tệ thì là văn chương dở ẹc, chính là như vậy mà thôi! Bạn cho rằng văn chương đều là những thứ ở trong bụng bạn sao? Tôi nói cho bạn biết, dù có treo ngược bạn lên thì một miếng nước bọt bạn cũng không nhổ ra được đâu!
Đạo văn là gì? Tôi nói cho bạn biết, những thứ ở trong đầu, những thứ viết trên sách, những câu nói của Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta đưa chúng vào sách. Các tác phẩm của mọi thành tựu giả, chúng ta cho rằng có liên quan đến bài viết này, chúng ta liền đưa chúng vào sách. Sau đó, cắt xén thêm bớt, giống như làm thợ may vậy, chỗ nào cần cắt thì cắt bớt, chỗ nào cần nới thì nới ra, kết hợp với hình thể mà mọi người mặc, và thế là ra được bộ quần áo rất đẹp. Cùng một tấm vải, cùng một vật liệu, văn chương đều là những vật liệu giống nhau, tư liệu đều đưa cho bạn rồi, bạn đã gom hết toàn bộ mọi tư liệu rồi, sau đó tổ hợp chúng lại, cắt xén thêm bớt, thế là thành một bài văn chương. Đây mới gọi là sáng tác của chính mình.
Tuy nhiên, chính bạn cần phải có sự sáng tạo, cần tạo ra những thứ mới mẻ. Tôi nói cho bạn biết, trong Phật pháp chỉ cần làm được thứ gì mới thì mọi người sẽ nói bạn là "phụ Phật ngoại đạo" [ ND: Chỉ những kẻ nương nhờ Phật giáo, sống trong Phật giáo mà lập ra học thuyết sai lầm, phản lại chính nghĩa của Phật giáo. ] "Những điềuu đó không phải do Phật nói." "Do tự anh tạo ra thôi." Sáng tạo cũng không được, sáng tạo cũng bị chửi là "phụ Phật ngoại đạo". Vì thế, không thể tự mình sáng tạo ra Phật pháp, cần dựa hoàn toàn theo thánh ngôn lượng của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Cho nên, thế nào gọi là đạo văn? Chẳng phải là bạn phải sao chép gen của cha mẹ bạn thì mới sinh ra bạn sao, từ nhỏ ngôn ngữ bạn nói ra chẳng phải là bắt chước theo bố mẹ nói sao, ở trường học thì học theo giáo viên, sao chép lời giáo viên, ở nhà thì sao chép lời cha mẹ, ngoài xã hội thì sao chép những thứ trong xã hội, đến chỗ nào thì bạn sao chép theo chỗ đó. Xã hội là một thùng thuốc nhuộm lớn, và mọi thói quen đều được sao chép từ thùng thuốc nhuộm lớn này mà ra. Có người nào là không sao chép? Bao gồm cả việc ăn, uống, vệ sinh, đều là sao chép cả.
Bản thân nghĩ mà xem, khi bạn mới ra đời, bạn biết cái gì? Không có cái gì cả, tất cả đều phải bắt chước. Được rồi, tôi giải thích xong rồi. Bạn cho rằng văn tự mà tôi xuất bản đều là sao chép đúng không? Đương nhiên rồi, đó đều là những chữ trong từ điển quốc ngữ mà, đều là sao chép từ đó ra, nếu bạn không làm thế thì bạn làm thế nào? Vốn dĩ chính là như vậy. Trước đây, giáo viên ngữ văn nói với chúng ta rằng: "Các trò không biết làm văn à? Các trò không biết sao, văn chương trong thiên hạ là một sự sao chép lớn!" Văn chương trong thiên hạ là một sự sao chép lớn, không phải anh sao chép tôi thì là tôi sao chép anh. Bây giờ cũng có người sao chép văn chương của tôi. Sao chép của tôi cũng không sao cả, lấy những thứ quý giá của tôi đi biên tập lại thành một cuốn sách cũng không sao cả.
Bởi vì tất cả văn chương, tất cả tri thức, tất cả kiến thức, tất cả Phật pháp, đều là sao chép mà ra. Những thứ tôi sao chép đến từ thầy của tôi, thầy dạy cho tôi thế nào thì tôi viết ra như thế. Vì thế, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khi ra đời hoàn toàn không hiểu Phật pháp, ngài ấy đã bái nhiều vị sư phụ, người đầu tiên chính là Hậu Diệu Cát Tường Hữu, không phải là Tiền Diệu Cát Tường Hữu. Long Thọ Bồ Tát cũng là sư phụ của ngài, Bì Mã Lạp Mễ Trá, Vima Nyingtik vĩ đại nhất cũng là sư phụ của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Sư Lợi Tinh Ha là sư phụ mà ngài theo học lâu nhất, cũng tới 25 năm. Trùng hợp như vậy. Sư Lợi Tinh Ha cũng theo học Diệu Cát Tường Hữu 25 năm. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ theo Sư Lợi Tinh Ha học pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" cũng 25 năm. Sau đó, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã tổng hợp những thứ đó đến Thi Đà Lâm tu hành.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng đi ra từ khổ hạnh. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng từng ở Tuyết Sơn tu khổ hạnh sáu năm. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng tu khổ hạnh ở Thi Đà Lâm. Khi tu khổ hạnh thì như thế nào? Pháp tọa của ngài là các thi thể, ngài xếp các thi thể lại làm thành pháp tọa. Ngài lấy những tấm vải quấn các thi thể, bởi khi người Ấn Độ chết thì họ đều dùng vải trắng để quấn thi thể lại, ngài đã lấy những mảnh vải này để làm quần áo cho mình, khoác lên thân thể mình, đồ mặc trên thân chính là những thứ đó. Pháp khí của ngài là pháp khí bằng xương người, ví dụ như xương cánh tay, hay xương sườn này, phía trên cắm vào ba cái đầu lâu, ngài lấy thứ này làm pháp khí, gọi là "kachangka".
Thế ngài ấy ăn cái gì? Người ta đem thi thể đến, sau khi vứt ra đó thì cũng ném đi một ít cúng phẩm, giống như là rắc hoa lên trên cúng phẩm vậy, rồi lại ném ra một ít bánh bao, hoặc là món cà-ri mà người Ấn Độ ăn, hoặc là bánh mì Ấn Độ, những thứ này được ném ở nghĩa địa để cúng tế. Đồ ăn của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là những thứ này. Tiếp theo, pháp tọa của bản thân ngài, nơi mà ngài ngồi chính là ngồi lên các xác chết. Hiện tại, các yogi ở Ấn Độ đều lấy tro cốt sau khi hỏa thiêu để bôi lên thân thể và mặt của mình.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tu hành ở đó, có được sự hỗ trợ và giúp đỡ của Phổ Ba Kim Cang. Phổ Ba Kim Cang là thần thủ hộ của Thi Đà Lâm, khi ấy, Phổ Ba Kim Cang chứng kiến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ như vậy, ngài đã đấu pháp cùng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, kết quả là bị Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hàng phục, trở thành quyến thuộc của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Vì thế, thân phẫn nộ của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là Phổ Ba Liên Sư Phẫn Nộ Thân. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tiến nhập vào trong tâm của Phổ Ba Kim Cang, biến thành tướng Phổ Ba Kim Cang của Guru Rinpoche.
Ngoài ra, khi ấy Mã Đầu Minh Vương cũng hỗ trợ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Vì thế, trong Không Hành Nyingtik của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", trong Không Hành khẩu quyết của ngài đã có hai vị Minh Vương ở bên cạnh Liên Sư. Cuối cùng, tại Thi Đà Lâm, ngài đã đạt được đại thần thông viên mãn, rất viên mãn, đại thần thông uy lực mạnh nhất.
Về sau, vua Trisong Detsen biết Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thần thông quảng đại bèn mời ngài vào Tây Tạng. Tây Tạng khi ấy yêu ma quỷ quái, có rất nhiều ma quỷ, người dân thì tin vào đạo Bon, đạo này còn gọi là Hắc giáo. Đạo Bon chọn cái tên cũng rất hay, đúng là binh binh boong boong. Cả Tây Tạng đều tứ tung bát nháo, đều tín ngưỡng nào là đất đá, cây cối, mặt trời, mặt trăng, núi, hồ…. Họ đều tin vào những thứ của giới tự nhiên, ngay cả sói cũng tin. Loài sói ở đó là sói hoang, ở Tây Tạng có một loài sói, sói xuất hiện từng bầy từng bầy.
Bên cạnh đó, họ cũng tin vào báo, thần sói, thần báo, thần rắn, thần trâu, thần gì cũng có, Hắc giáo chính là như vậy. Vì thế, vua Trisong Detsen đã thỉnh Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đến Tây Tạng truyền Phật pháp chân chính, vua Trisong Detsen chính là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, còn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là tổng hợp của thân Thích Ca Mâu Ni Phật, khẩu A Di Đà Phật, tâm Quan Thế Âm Bồ Tát.
Hai người vừa gặp mặt, một người là Văn Thù, một người là Thích Ca, một người là Quốc vương, một người là Pháp vương. Vốn dĩ, Quốc vương cho rằng bản thân rất vĩ đại, "Cả Tây Tạng đều là của ta, mặc dù ông là đại pháp sư, ông đến chỗ của ta, ông phải đảnh lễ trước ta mới phải." Hai người đứng ở bên bờ sông Yarlung Tsangpo, ai phải đảnh lễ trước ai đây? Một người là vua Trisong Detsen hóa thân của Văn Thù, một người là hóa thân tổng hợp của Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát.
Vua Trisong Detsen không muốn cúi đầu, "Ta cũng là vua mà!", "Ta là Quốc vương, làm gì có chuyện ta cúi đầu trước ông?". Còn vị Pháp vương kia thì cho rằng "Ta là Thích Ca mà! Ta là A Di Đà Phật, ta là Quan Thế Âm Bồ Tát, làm gì có chuyện ta cúi đầu trước ông?" Hai người cứ đứng đối diện nhau ở đó. Kết quả là, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nghĩ: "Người ta mời ta đến, ta là khách, ông ấy là chủ, thôi ta cứ cúi đầu một cái là xong." Thế là, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ liền cúi đầu trước, chắp tay và cúi thấp đầu để kính một lễ. Thế nhưng, vừa làm lễ thì quần áo của Quốc vương liền bốc cháy, phát hỏa, bị cháy xém một bên. Lúc này thì đã biết ai vĩ đại hơn rồi.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng tổng cộng dài tới 55 năm, ở đó ngài có bốn thành tựu rất lớn: Thành tựu thứ nhất, ngài đã thu phục tất cả ma quỷ ở Tây Tạng, yêu ma quỷ quái, tà ma ngoại đạo, toàn bộ đều quy thuận Phật pháp, toàn bộ đều trở thành hộ pháp của bản thân Phật pháp. Tối hôm qua vừa mới nói mọi người cần làm Hộ Pháp Kim Cang, nghĩa là giúp đỡ True Buddha School Chân Phật Tông, giúp đỡ hoằng dương tông phái, mọi người làm Hộ Pháp Kim Cang, bỏ tiền bỏ sức, điều này rất quan trọng. Vì thế, bản thân việc Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng là rất quan trọng, ngài đã hàng phục tất cả tà ma ngoại đạo và yêu ma quỷ quái, thần thông của ngài rất lợi hại. Hôm nay, chúng ta vì hàng phục những yêu ma quỷ quái này nên mới bỏ tiền bỏ sức làm Hộ Pháp Kim Cang. Đây là cống hiến đầu tiên vĩ đại nhất của ngài đối với Tây Tạng, truyền Phật pháp vào Tây Tạng, thu phục tất cả tà ma ngoại đạo, yêu ma quỷ quái ở Tây Tạng, khiến cho Tạng mật sau đó trở thành một Phật quốc Tạng mật.
Thành tựu thứ hai, ngài đã truyền pháp cho một số người chủ yếu, người đầu tiên mà ngài truyền là Yeshe Tsogyal, chính là vợ của ngài, tương đương với Phật Mẫu của ngài. Thứ hai là truyền cho vua Trisong Detsen. Chủ yếu là truyền pháp cho vua Trisong Detsen và Yeshe Tsogyal.
Thành tựu thứ ba rất vĩ đại. Ngài đã xây dựng Chùa Samye, còn gọi là Chùa Nhậm Vận. Ngài đã dùng hình tượng của toàn bộ vũ trụ để xây nên chùa Samye, ở giữa là núi Tu Di, bên cạnh có bốn đại châu, tám tiểu châu, bảy biển vàng (biển nước thơm), dựa theo hình thức ấy mà xây dựng nên chùa Samye. Điều hay nhất của chùa Samye là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã thuê Vajrasana, Vajrasana là một người thông dịch, ông ấy hiểu Phạn văn, cũng hiểu cả Tạng văn, ông ấy đã dịch Phạn văn sang Tạng văn, tại chùa Samye, ông ấy đã phiên dịch rất nhiều kinh Phật. Kinh Phật tiếng Tạng chính là từ đó mà ra. Cống hiến lớn thứ ba của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là xây dựng chùa Samye.
Cống hiến lớn thứ tư, bản thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã đem Không Hành Nyingtik, chính là những tâm yếu khẩu quyết của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" mà ngài biết được yêu cầu Yeshe Tsogyal giấu trong hư không, dưới đáy hồ, trong hang đá tại Nepal, Tây Tạng, Bhutan, giấu hết toàn bộ những kinh điển này, bởi vì Liên Hoa Sinh Đại Sĩ biết rằng tương lai sẽ có vua Lãng Đạt Mã diệt Phật, sẽ có một khoảng thời gian mấy trăm năm không có Phật pháp.
Vì vậy phải cất giấu những Phật pháp này đi, giấu trong hang đá, giấu dưới đáy sông hồ, giấu trong hư không, giấu trong rừng sâu, giấu ở những nơi bất kì. Đợi các Rinpoche chuyển thế trong tương lai sau khi thông qua sự mở bày của trời, sự chỉ thị của Không Hành Mẫu mà đi tìm những terma này, một lần nữa lấy lại được Phật pháp. Đây chính là điểm vĩ đại thứ tư của bản thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.
Có thể nói Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là lão tổ sư đầu tiên của Mật giáo Tây Tạng. Ngài có tổng cộng năm vị đại minh phi, hai mươi vị trung minh phi, năm mươi vị tiểu minh phi, thời gian ngài sống rất dài, sống lâu nhất. Cuối cùng, ngài cưỡi thiên mã, thiên mã mà Tứ Thiên Vương dâng tặng cho ngài, ngài cưỡi trên lưng thiên mã, khi bay lên không, ngài đã nói một câu: "Thế gian tham lam, nhất đao lưỡng đoạn." Tất cả sự tham lam trên đời cần phải thẳng tay cắt đứt. "Biến ngũ độc thành ngũ dụng". Ngũ độc tham-sân-si-nghi-mạn có thể linh hoạt sử dụng được. "Bạn có thể tự tại như như." Trong Phật pháp, bạn có thể tự tại như như. Đến lúc ấy, khi bạn đã có được Phật pháp rồi, người hiểu được kính sư, trọng pháp, thực tu nhất định có thể minh tâm kiến tính, khai ngộ, đắc chứng. Như vậy là tôi đã nói với mọi người xong về Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.
Tôi lại kể mấy câu chuyện cười. Có một đứa trẻ phàn nàn với mẹ: "Sao mẹ lại sinh ra con béo như vậy?" Người mẹ trả lời: "Mẹ sinh ra con chỉ có hơn ba cân, trách mẹ cái gì chứ?" Đúng mà! Không phải mẹ sinh ra bạn béo như vậy, là chính bạn tự biến mình thành béo như thế. Con người vì sao lại béo? Là vì cái miệng của anh béo, cái miệng của anh to quá, cái gì cũng ăn hết nên mới béo, đây là quan hệ nhân quả mà! Hôm nay chúng ta học Phật pháp cũng vậy, anh sẽ trở thành như thế nào, xem anh ăn thứ gì thì anh sẽ biến thành như thế. Phật pháp cũng là nhân quả đó! Cái này không thể trách sư phụ được, ai bảo anh ăn bậy bạ. Có đúng không?
Phật pháp cũng như vậy, quan hệ nhân quả, ăn gì thì sẽ trở thành cái đó. Tôi nhớ Thượng sư Liên Trí từng nói một câu, trước kia bà ấy làm y tá, trước cửa bệnh viện có đặt một tấm bảng: "Bạn ăn thứ gì thì sẽ trở thành người như thế." (You are what you eat.) "Có bạn gái 40 kg thì thấy vô cảm. Có bạn gái 50kg thì thấy xúc cảm. Có bạn gái 60kg thì thấy gợi cảm. Có bạn gái 70kg thì thấy tình cảm. Có bạn gái 80kg thì thấy mặc cảm."
Thế nên, Thượng sư Huệ Quân béo như vậy chẳng có liên quan gì đến True Buddha School Chân Phật Tông cả, là vì miệng của bà ấy thôi. Tại một bệnh viện, bệnh nhân đang xếp hàng để kiểm tra thính lực. Có một người xông lên phía trước để tìm y tá: "Tôi là số 33." Y tá nói: "Số 33 đã qua rồi, vừa nãy gọi tên ông, ông không nghe thấy sao?" Người kia rất tức giận nói: "Tôi mà nghe thấy thì tôi đã không đến đây kiểm tra."
Thật ra, con người có rất nhiều điểm mâu thuẫn. Rõ ràng biết rằng không thể ăn nhưng bạn vẫn ăn. Rõ ràng biết rằng ăn thứ này thì sẽ béo nhưng bạn vẫn ăn. Đây chính là chỗ mâu thuẫn đó. Bản thân con người cần hàng phục được chính mình trước, đừng lúc nào cũng muốn hàng phục người khác, hàng phục bản thân mình trước là quan trọng. Có một bà vợ nhìn vào gương khóc: "Mình càng ngày càng béo, càng ngày càng già, càng ngày càng xấu." Vợ hờn giận với chồng: "Chồng à! Anh mau khen em cái gì đi, dỗ em đi." Chồng nghĩ một lúc rồi nói: "Vợ à, thị lực của em vẫn còn tốt lắm."
Chúng ta học Phật không được tự dỗ dành. Bất kể là cảnh giới học Phật như thế nào, bạn cần thực tu, bạn thực tu rồi thì pháp lực mới có thể tăng trưởng, đó là đạo lí chắc chắn. Vừa nãy chúng ta cúng rong biển sợi. Cúng rong biển sợi để làm gì? Nghĩa là mong muốn pháp lực tăng trưởng, tất cả mọi người đã đến đây nhận quán đảnh thì pháp lực đều tăng trưởng. Muốn pháp lực tăng trưởng, làm sao để tăng trưởng? Bạn nhất định cần chăm chỉ thực tu thì pháp lực mới tăng trưởng được.
Vì thế, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói phải kính sư, phải trọng pháp thì mới có thể thực tu, đây là sự liên quan, liên hệ nhân quả. Bạn tôn kính sư phụ thì tự nhiên sẽ tôn trọng pháp của sư phụ. Bạn tu pháp của sư phụ thì pháp lực sẽ tăng trưởng, đến cuối cùng bạn sẽ đạt được chứng ngộ. Kính sư, trọng pháp, tu hành thực tế, bạn sẽ đạt được chứng ngộ. Đây là mối liên hệ nhân quả đó! Bạn không kính sư, bạn sẽ không trọng pháp, bạn sẽ không thực tu, không thực tu thì bạn sẽ không chứng quả, sự liên hệ nhân quả mà.
Có một chàng trai có IQ rất cao, cậu ta tỏ tình với bạn gái, trên tờ giấy viết: "5201314", nghĩa là "Anh yêu em trọn đời trọn kiếp." Cậu ta viết những con số này đưa cho bạn gái xem, bạn gái đó cũng có IQ rất cao, cô ấy gửi lại một mảnh giấy viết: "(520+1314)x10" Chà! Chàng trai này vui mừng như điên: "Em yêu anh trọn đời trọn kiếp, nhân lên mười lần." Chàng trai này rất vui mừng. Mọi người dùng máy tính tính thử xem, đáp án của phép tính này là "18340", nghĩa là "Tát cho một cái chết luôn." Vậy thôi. Om mani padme hum.
Bài giảng số 8
Longchenpa tôn giả - Tổ sư của phái Nyingmapa là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong buổi đồng tu Đại Chuẩn Đề Phật Mẫu tại Seattle Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 6 tháng 7 năm 2013.)
Hôm nay tôi giảng pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", không thể không nhắc đến một vị tổ sư, vị tổ sư này chính là Longchenpa. Lúc đầu tôi cho rằng nói đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là được rồi, nhưng không thể không nói đến Longchenpa và Jigme Lingpa tôn giả. Vì sao cần nói đến Jigme Lingpa tôn giả? Bởi vì Jigme Lingpa là vua Trisong Detsen chuyển thế. Vì thế nhất định cần phải nói đến Jigme Lingpa tôn giả. Còn vì sao phải nói đến Longchenpa? Bởi vì ngài ấy đã tổng hợp lại hai Nyingtik, nghĩa là những khẩu quyết quan trọng nhất của pháp cốt lõi của cốt lõi, ngài ấy là người kết hợp Vima Nyingtik và Không Hành Nyingtik lại với nhau.
Vì thế tôi nhất định cần phải nói, nếu như không nói về hai vị này thì tôi cảm thấy không nói tiếp được. Nên hôm nay tôi sẽ nói về Longchenpa. Ông ấy sinh năm 1308, tuổi đời cũng không quá dài, con người này rất quan trọng. Vì sao cần nói? Bởi vì, ở Tây Tạng, Văn Thù Bồ Tát có ba hóa thân lớn, vị thứ nhất chính là Longchenpa, vị thứ hai là Sakya Pandita, nghĩa là người có trí huệ cao nhất của phái Sakya Hoa giáo, vị thứ ba chính là tổ sư Tsongkhapa. Ở Tây Tạng ba vị này được gọi là Văn Thù tam đại hóa thân. Vì thế nhất định cần phải nói về Longchenpa. Longchenpa đại diện cho phái Nyingma, Tsongkhapa đại diện cho Gelugpa, Sakya Pandita đại diện cho Sakya, lần lượt là ba vị tổ sư của Hồng giáo, Hoàng giáo, Hoa giáo.
Longchenpa từ nhỏ đã vô cùng thông minh, không giống như Sư Tôn, từ nhỏ đã vô cùng ngu ngốc, thật đúng là tương phản. Mọi người thi cử thì đều đỗ, đều xếp hạng tốt nhất, tôi thì luôn đứng bét. Vì thế, khi tôi đi học, tôi lưu ban hai lần, đó là một việc rất mất mặt. Bởi vì lưu ban nên mới phải chuyển từ trường Cấp hai công lập Cao Hùng số hai sang trường Cấp hai công lập Cao Hùng số ba. Có người hỏi tôi: "Ngài lưu ban hai lần, vì sao mà đến cấp ba thành tích lại có thể đứng nhất lớp?"
Bởi vì tôi vẫn được xem là nghiêm túc với chuyện học hành, mặc dù lưu ban, nhưng trong số những học sinh lưu ban, tôi là đứa khá nhất. Khi chuyển sang lớp học lưu ban đó, ai cũng học kém hơn tôi mà! Rồi bỗng nhiên, tôi học hành có hứng thú trở lại. Khi ấy, tôi còn học hơn người khác, nên mới bồi dưỡng thói quen học hành, mới dần dần học lại, kết quả là lại thi đỗ cấp ba. Khi thi đỗ cấp ba thì tôi đã rất thích học hành rồi. Vì thế, trong sáu học kì tại cấp ba, tôi đều đứng nhất lớp.
Longchenpa từ nhỏ đã rất thông minh, rất thích học hành, ngôn ngữ gì cũng biết, kĩ năng gì cũng biết, tôi đã từng nói về Ngũ minh, ngài học thanh minh nên hiểu rất nhiều ngôn ngữ, Phạn văn cũng hiểu, Tạng văn cũng hiểu, Hán văn cũng hiểu, ngôn ngữ gì cũng hiểu hết, đây gọi là thanh minh. Giống như con người chúng ta bây giờ, tiếng Pháp cũng hiểu, tiếng Anh cũng hiểu, tiếng Tây Ban Nha cũng hiểu, tiếng Phổ thông cũng hiểu, tiếng quê hương của bạn cũng hiểu, tiếng Quảng Đông cũng hiểu, đây gọi là thanh minh, là học ngôn ngữ. Longchenpa biết rất nhiều ngôn ngữ. Công xảo minh cũng biết. Nhưng mà như các công cụ hiện nay, những công cụ mà người ta dùng để phát trực tiếp trên mạng thì đương nhiên thời ấy Longchenpa không biết.
Tôi đang nói về thời đại đó, mọi kĩ thuật ngài ấy đều hiểu. Còn cả nội minh cũng hiểu, nội minh nghĩa là Phật học, Hiển giáo, Mật giáo ngài ấy đều học. Ngài ấy đã bái hai mươi mấy vị sư phụ Mật giáo để học Phật pháp, có được rất nhiều truyền thừa, đây là nội minh. Nhân minh, nhân quả luân hồi, môn học về logic, ngài ấy cũng hiểu. Ngoài ra còn có y phương minh, nghĩa là bạn mắc phải bệnh gì thì tôi sẽ kê đơn thuốc cho bạn, việc này ngài ấy cũng biết. Ngài ấy biết hết cả Ngũ minh, vì vậy, ngài ấy là một người rất có trí huệ, rất có tri thức.
Ngài ấy đã bái hơn hai mươi thượng sư để học Phật pháp, trí nhớ của ngài phi thường, năng lực lại rất tốt. Đến năm 27 tuổi, ngài đã gây xôn xao cả Tây Tạng, mọi người đều nói ngài là một thiên tài, một thiên tài rất vĩ đại. Khi ấy, ngài đã có được Nyingtik của truyền thừa "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" Tất Mã Lạp Mễ Trá (Vimalamitra?) từ vị thầy tên là Cố Mã Thượng sư. Ngài ấy đã học Vima Nyingtik từ Cố Mã Thượng sư, Nyingtik chính là Nyingtik của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Về sau, ngài lại đi tìm cầu Không Hành Nyingtik, Không Hành Nyingtik là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giảng cho Yeshe Tsogyal và vua Trisong Detsen.
Khi xưa, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có hiện ra, nói rằng Longchenpa cần đi đến đâu để tìm thầy, hơn nữa thầy nào có Mật pháp Không Hành Nyingtik, sau đó Lonchenpa liền đi bái vị thầy đó. Vì thế, đến năm 32 tuổi, ngài đã có được truyền thừa Không Hành Nyingtik từ chỗ của Bối Mã Thượng sư. Longchenpa cũng biết sáng tác văn chương, ngài ấy có thể sáng tác, hiểu văn học, ngài đã kết hợp hai Nyingtik lại, mọi người gọi là Longchen Nyingtik, cái này cũng rất quan trọng.
Bây giờ pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" mà chúng ta giảng chính là giảng Longchenpa Nyingtik. Vì vậy, không thể không nhắc đến vị lão tổ sư này. Vốn dĩ tôi nghĩ chỉ nói đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, sau đó là vua Trisong Detsen, tiếp đến là Sư Tôn, như thế là được rồi, không ngờ, vẫn còn phải nói về hai lão tổ sư, nguyên nhân chính là ở đây. Bởi vì ngài Longchenpa đã kết hợp hai Nyingtik lại với nhau. Các tác phẩm của Longchenpa vô cùng nhiều, vì thế, truyền thừa của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" có thể liên tục lưu truyền, nhờ có sự liên hệ của Longchenpa mà cho đến hiện tại, pháp lưu của ngài liên tục không gián đoạn.
Vì nghiên cứu Không Hành Nyingtik mà Longchenpa có được lực gia trì của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và Yeshe Tsogyal. Giống như khi Sư Tôn giảng "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" thì tôi cũng được Tổ sư Tsongkhapa tại hư không gia trì. Ngày đầu tiên tôi giảng thì Tổ sư Tsongkhapa đã xuất hiện tại hư không, chính là hình tướng của Tsongkhapa, xung quanh ngài là miên man ánh hào quang, tất cả ánh hào quang đều dội xuống đầu tôi, từ lỗ chân lông thấm vào bên trong thân thể tôi. Trong chốc lát, tôi đã đọc xong hết "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận", đã có thể đọc hiểu hết. Tính đến hiện tại mà nói thì đại bộ phận mọi người đều đọc không hiểu "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận", bởi vì văn tự vô cùng thâm sâu ảo diệu.
Hơn nữa, người không hiểu Mật giáo, hoặc là người thật sự hiểu được Mật giáo từ tứ quán trở lên mới có thể hiểu được "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" thì cũng không có ai trực tiếp giảng "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận". Trong thế giới người Hoa, chỉ có Lư Sư Tôn mới giảng "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận". Bài giảng về "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" của tôi được phát trên truyền hình, chính là kênh của Thượng sư Liên Duyệt, kênh của bà ấy cũng chính là Truyền hình Trung Thiên, kênh này có "Lục Tổ Đàn Kinh" và "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận". Bà ấy là nhà sản xuất chương trình "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận". Khi "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" phát sóng, còn có cả những Lama Tây Tạng, nghĩa là các Thượng sư, chuyên xem chương trình "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" của tôi. Sau khi xem xong họ còn viết thư đến nói: "Cảm tạ ngài đã giảng Mật tông đạo thứ đệ quảng luận." Rất nhiều điều họ không hiểu thì cuối cùng đã hiểu được rồi. Rất không đơn giản, những bài thuyết pháp của Sư Tôn là vô giá, thật đó.
Vào dịp lễ Tình Yêu Valentine's Day, vợ nói: "Anh yêu, em thích nước hoa Pháp." Vào ngày lễ Tình Yêu Thất Tịch, vợ lại nói: "Anh yêu, kim cương tượng trưng cho sự vĩnh hằng." Vào ngày sinh nhật vợ, vợ lại nói: "Anh yêu, em… " Chồng lập tức cắt ngang: "Đợi chút ! Vợ yêu, em có thích thứ gì rẻ rẻ một chút không?" Vợ nói: "Có chứ! Em thích anh nhất đó!" Thứ rẻ nhất không ngờ lại là người chồng. Sư Tôn thuyết pháp có thể nói là rất rẻ đó, là món quà rất rẻ. Thế nhưng pháp này là quý giá nhất đó.
Rốt cuộc, Longchenpa tôn giả có cống hiến gì? Chúng ta cần phải kể đến cống hiến của ngài ấy, cống hiến chân chính của ngài là như sau. Thứ nhất, ngài có rất nhiều các tác phẩm về Mật pháp, bởi vì ngài là một pandita, do vậy các tác phẩm của ngài rất nhiều, sách viết rất nhiều, lưu truyền vô cùng rộng rãi. Thứ hai, ngài ấy còn trực tiếp hoằng pháp. Ngài ấy không chỉ viết sách mà còn hoằng pháp, đi khắp nơi giảng kinh thuyết pháp, giảng pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Sau đó, ngài ấy còn kết hợp Vima Nyingtik và Không Hành Nyingtik thành Longchen Nyingtik, có nghĩa là ngài ấy đã kết hợp những thứ quan trọng nhất lại. Vì thế, ngài ấy cũng rất vĩ đại, có thể dung hợp hai khẩu quyết vào với nhau, việc này cũng là vô cùng vĩ đại.
Sau khi Longchenpa viên tịch, rời xa thế gian, ngài ấy vẫn tiếp tục gia trì cho tất cả chúng sinh, đây cũng là điểm rất vĩ đại. Có nghĩa là sau khi ngài viên tịch, ngài ấy đã rời khỏi nhân gian rồi, nhưng ngài ấy vẫn hiển thị trong hư không để gia trì cho chúng sinh. Khi tôi giảng "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận", Tổ sư Tsongkhapa hiện thân gia trì cho Sư Tôn, khiến tôi có thể giảng liên tục, cho đến khi giảng xong "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận". Từ trong "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận", tôi đều nói ra được hết rất nhiều pháp bí mật của Mật giáo.
Khi Longchenpa tại thế có một lần gặp phải một sự việc vô cùng nguy hiểm. Quan viên chính phủ khi đó yêu cầu quân đội bắt ngài, ngài liền chạy trốn, thật ra ngài ấy chạy trốn không được. Ngài một mình cưỡi ngựa, ngài ấy trốn vào đâu được? Bởi vì truy binh rất đông, rất nhiều người kéo đến. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã xuất hiện bảo rằng: "Hãy đi con đường xa nhất, hướng về con đường hẻo lánh, đi theo đường vòng rộng rồi lại vượt lên trên." Nghĩa là vốn dĩ con đường này là đường chính, phía sau có binh lính đuổi theo, như vậy thì đảm bảo sẽ bị bắt. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiện thân bảo ngài rằng lập tức đi theo con đường hẻo lánh, đi thành một vòng lớn, đừng đi con đường đó, bởi vì con đường đó có truy binh.
Khi truy binh ập đến, khi chúng gần như sắp bắt được Longchenpa, trong hư không đột ngột giáng xuống một màn mây mù màu đen cản trở đám truy binh, truy binh không dám tiến lên trước, bởi vì không nhìn thấy đường. Đợi đến khi Lonchenpa đã chạy thoát theo đường nhỏ, mây đen mới tản ra. Khi mây đen tản ra thì truy binh mới tiếp tục đuổi theo. Ấy? Đuổi không kịp Longchenpa rồi, không biết ngài ấy đã đi đâu rồi. Thật ra, ngài ấy đi theo đường vòng, rồi lại chuyển hướng, ngài ấy đã chạy đến Bhutan rồi. Longchenpa từng sống tại Bhutan. Ở Bhutan, ngài cũng xây dựng một ngôi chùa, sau đó ngài ấy lại trở về Tây Tạng. Ngài từng gặp một chuyện như vậy, đây là điều mà tôi biết được. Mọi người chưa chắc đã biết được rõ ràng như vậy, ở trong đầu tôi hiện lên một sự việc như vậy.
Ngài ấy cũng từng tu pháp ở rừng Thi Đà Lâm. Phái Nyingma khi ấy có Mã Đầu Minh Vương, Đại Bàng Kim Sí Điểu, và Phẫn Nộ Liên Sư, ngoài ra ở đây còn Bát Đại Heruka (Bát Đại Kim Cương Minh Vương), trong pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của phái Nyingma đều có phương pháp tu trì Bát Đại Heruka, Mã Đầu Minh Vương, Đại Bàng Kim Sí Điểu, Phẫn Nộ Liên Sư. Hành giả nam bình thường có thể tu pháp Heruka, chính là pháp Kim Cang, Heruka chính là Bát Đại Kim Cang pháp. Hành giả nữ có thể tu Đại Lạc Phật Mẫu pháp.
Đại Lạc Phật Mẫu là ai? Chính là Yeshe Tsogyal Phật Mẫu của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Có thể tu Yeshe Tsogyal, cũng có thể tu Sư Diện Không Hành Mẫu (Không Hành Mẫu mặt sư tử). Khi bắt đầu tu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", có thể tu Yeshe Tsogyal Đại Lạc Định Hành Mẫu, cũng có thể tu Sư Diện Không Hành Mẫu xem như là Bổn tôn của hành giả nữ.
Nếu muốn tu pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", bạn phải chọn một trong hai, Sư Diện Không Hành Mẫu hoặc là Đại Lạc Không Hành Mẫu, đây là pháp tu của hành giả nữ. Hành giả nam có thể tu Bát Đại Heruka.
Đừng cho rằng Heruka trông khó coi, Heruka chính là thần Kim Cang, thật ra tâm của ngài rất từ bi, rất lương thiện. Mặc dù diện mạo của ngài vô cùng hung ác, nhưng luôn luôn tốt hơn con người hiện đại. Con người hiện đại thì "mặt thiện tâm ác", mặt mũi rất đẹp đẽ, nhưng trong lòng thì rất ác độc, khẩu Phật tâm xà mà! Người Quảng Đông thích nói là khẩu Phật tâm xà, nghĩa là tướng mạo rất tốt nhưng tâm địa bất hảo. Kì thực, tướng mạo của Heruka rất hung ác, nhưng tâm thì lại rất từ bi. Vì thế, hành giả chúng ta khi trông thấy Heruka rất hung ác xuất hiện thì đừng có bỏ chạy. Bởi vì bản thân ngài thật sự rất từ bi đó.
Có một câu chuyện cười, có một "em gái khủng long" đến nhà bạn làm khách. [ ND: em gái khủng long là tiếng lóng, dùng để gọi những cô gái xấu xí ]. Con trai hơn mười tuổi của người bạn trông thấy cô ấy bèn nói: "Cô này xấu quá." Em gái khủng long nghe xong thì rất không vui, đang chuẩn bị nổi khùng. Người bạn vội vàng kêu đứa con trai nhận lỗi, cậu con trai lập tức nói với em gái khủng long: "Cô à, thật ra cô cũng khá xinh đấy." Em gái khủng long nghe thế thì rất vui, đang chuẩn bị tỏ ra khiêm tốn thì nghe người bạn liền lớn giọng dạy dỗ con trai: "Mẹ bảo con nhận lỗi, chứ không bảo con nói dối."
Con người chỉ nhìn thấy một vẻ bề ngoài, đôi khi là như vậy. Thật ra có rất nhiều biểu hiện. Trong tiểu thuyết "Ỷ thiên đồ long kí" của Kim Dung, mẹ của Trương Vô Kị nói với con trai rằng: "Con gái càng xinh đẹp thì càng hay nói dối, con hãy nhớ lấy câu này." Thế nhưng, hành giả Mật giáo không thể phỉ báng phụ nữ. Dù sao cũng không thể nói như vậy. Bởi vì biết người biết mặt khó biết lòng, vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương, hoàn toàn không phải người có diện mạo xinh đẹp thì tâm địa sẽ bất hảo, và cũng không chắc rằng người có diện mạo rất xấu thì tâm sẽ xấu. Thật ra không nên nói như vậy.
Vì thế, luôn luôn phải dùng huệ nhãn của bạn để quan sát, dùng trí huệ của bạn để quan sát thì bạn mới có thể hiểu được tất cả. Trước kia, tôi có quen một "em gái khủng long" ở trường Trắc Lượng, tôi gọi cô ấy là chị cả. Ở trường, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của cô ấy, tôi cần cái gì cô ấy đều giúp đỡ tôi, cô ấy rất thích giúp đỡ người khác, rất nổi tiếng ở trường học. Mọi người xem cô ấy là một người rất xấu xí, nhưng cô ấy vẫn luôn luôn giúp người. Vì vậy, không thể tùy tiện đánh giá một con người.
Bản thân Lonchenpa tôn giả có thành tựu lớn là vì ngài ấy bản chất thông minh, tài trí và có phương hướng đúng đắn thì ngài ấy mới có thể đạt được thành tựu rất lớn. Ngài ấy có trí huệ lớn, có thể dung hợp tất cả các pháp của Mật giáo, tiến vào bên trong pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", sau đó đã truyền lại pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" rất quý giá. Cả cuộc đời ngài cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, cũng có rất nhiều lời phỉ báng dành cho ngài, thậm chí còn có quan binh của chính phủ muốn bắt ngài. Khi ấy, thật may là trời giáng mây đen chặn trước mặt quan binh, việc này là vô cùng thù thắng, vô cùng khó gặp.
Bản thân Sư Tôn cũng gặp phải những tai nạn rất lớn, cũng có rất nhiều sự việc truyền kì. Bạn xem, khi Sư Tôn giảng "Lục Tổ Đàn Kinh", có người chụp một tấm ảnh, sư tỉ Từ Nhã Kì chụp ảnh lại, trong chương trình "Thắp sáng ngọn đèn tâm" đã từng phát sóng rồi đó, trong hư không có sáu dấu chân màu đen, chính là sáu bước chân, sáu bàn chân, tôi giảng "Lục Tổ Đàn Kinh" thì trong hư không liền xuất hiện như vậy. Giống như pháp hội mùa thu năm nay tôi giảng về Trường Mi tôn giả thì trong hư không liền hiển hiện đám mây hình cặp lông mày dài (Trường Mi). Có đúng vậy không? Mọi người đều đã nhìn thấy rồi.
Tôi vẽ tranh, rất ít khi tôi vẽ đại bàng. Hôm ấy, tôi vẽ hai con chim đại bàng, khi vẽ con đại bàng thứ hai, tất cả các đồng môn đều nhìn lên bầu rời, trên không liền xuất hiện một con chim đại bàng. Hình như cũng có video trên mạng đó, có phải không? Ngày hôm đó, đúng lúc tôi vẽ đại bàng, thật là trùng hợp. Ngoài ra, còn có một lần, tôi vẽ Seattle Lôi Tạng Tự, phía sau lưng Lôi Tạng Tự tỏa ánh sáng đỏ. Đúng không? (Đúng!) Sau khi vẽ xong, buổi tối hôm đó, phía sau lưng Seattle Lôi Tạng Tự đều là ánh sáng màu đỏ. Cái đó gọi là gì? Cái đó gọi là tương ứng. Mỗi lần tôi vẽ tranh xong thì lập tức xuất hiện thứ ở trong tranh. Giống như hôm đó vừa hay tôi vẽ Seattle Lôi Tạng Tự, trên không liền xuất hiện ánh sáng màu đỏ, đỏ rực, là kiểu ánh sáng cầu vồng lúc hoàng hôn, đẹp vô cùng.
Có rất nhiều sự việc đều trùng hợp cực kì. Ví dụ tôi vẽ tranh, có một lần, tôi vẽ xong một mĩ nữ, tối hôm đó thật sự xuất hiện một cô gái xinh đẹp trước đây chưa từng gặp, giống hệt với mĩ nữ mà tôi đã vẽ. Hơn nữa, tôi vẽ tóc cô ấy màu vàng kim, thì tóc của cô gái xinh đẹp hôm ấy cũng có màu vàng kim. Tôi cầm bức vẽ ra để đối chiếu với cô gái đó thì thật sự là rất giống. Tôi vẽ một mĩ nữ thì có một mĩ nữ xuất hiện, sau này, tôi cần vẽ nhiều mĩ nữ hơn mới được. Sự việc cảm ứng kiểu này nhiều vô cùng, trùng hợp vô cùng.
Bởi vậy, Phật Bồ Tát thật sự là vô cùng linh ứng, biết tôi đang làm cái gì liền khiến cho tôi cảm ứng thấy rất nhiều sự tình, vô cùng kì lạ. Ví dụ, ngài nói với tôi: "Ngày mai hãy chuẩn bị lá phù." Tôi nói: "Là phù gì vậy?" Ngài nói: "Thượng an phù, người đầu tiên đến gặp chính là cần ba lá phù này thì anh ta sẽ khỏi bệnh." Kết quả, đúng là như thế! Vào ngày hôm đó, người đầu tiên đến tìm gặp tôi, anh ta nói với tôi anh ta mắc bệnh gì, muốn xin phù như thế nào, tôi bảo: "Chuẩn rồi." Tôi lấy lá phù cất trong người ra đưa cho anh ta nói: "Chính là ba lá phù này, Phật Bồ Tát đã giao ba lá phù này cho anh." Trùng hợp đến như vậy đó.
Pháp sư Liên Ngôn có ở đây không? Bà ấy về rồi. Cũng là một việc rất trùng hợp, bà ấy nghe tôi thuyết pháp tại Kim Cương Lôi Tạng Tự ở New York, khi nhìn thấy trong mắt tôi có thứ gì đó, bà liền đưa cho tôi mảnh khăn giấy, nói: "Sư Tôn, thầy cầm lấy lau mắt đi." Tôi liền lau lau mắt. Vốn dĩ, tôi định cầm khăn giấy đi vứt, vừa hay Liên Ngôn đứng bên cạnh, bà ấy liền cầm lấy tờ khăn giấy của tôi bỏ vào trong túi áo, nói rằng để lát nữa bà ấy vứt, bà ấy tạm để trong túi trước. Sau đó, bà ấy bay trở về Panama. Gặp một đệ tử nữ quỳ trước pháp sư Liên Ngôn, kể rằng mắt của cô ấy mù rồi, bởi vì bị lửa xộc vào nên mắt bị mù rồi.
Thế thôi xong! Pháp sư Liên Ngôn nói: "Một pháp sư như tôi thì làm sao cứu được cô?" Bà ấy nhớ ra: "Trong túi áo của tôi có tờ khăn giấy Sư Tôn đã dùng để lau mắt." Bà ấy liền đưa tờ khăn giấy cho đệ tử bị mù mắt này lau mắt. Chờ chút, Liên Ngạn, Liên Hỉ có ở đây không? Hai người đã từng nghe chuyện này chưa? Hai người đến từ Thường Hoằng Lôi Tạng Tự ở Panama đúng không? Hai người có biết câu chuyện này không? Biết à! Pháp sư Liên Ngôn đưa tờ khăn giấy cho đệ tử kia lau mắt. Ngày hôm sau, cô ấy mở hai mắt ra thì lại có thể nhìn được rồi. Thật sự là có một chuyện kì diệu như vậy. Thế nhưng, nếu như bây giờ bạn đưa cho tôi tờ khăn giấy, bảo tôi lau mắt, sau đó cầm về đưa cho ai đó lau thì lại không linh đâu, muốn có sự trùng hợp vô cùng kì diệu như vậy thì phải có linh cảm xuất hiện thì mới có cách giải quyết được. Mọi người đừng thấy tất cả Phật Bồ Tát, vị thì đứng, vị thì ngồi, các vị ở đây đều bất động, nhưng thật sự là các vị có huệ nhãn, người nào có thiên nhãn thì nhìn là thấy mỗi một vị đều bay tới bay lui, đều hoạt động tới lui đó.
Khi tôi viết sách, bạn cho rằng Sư Tôn viết sách rất dễ dàng sao? Viết sách kì thực cần phải dựa vào linh cảm, muốn viết như thế nào đều phải dựa vào linh cảm. Viết sách không phải là đơn giản, thật sự không phải là dễ dàng. Nếu như khi tôi không biết ngày mai cần viết cái gì, thì buổi tối đó đi ngủ, có vị lại đến, đặt vào trong đầu tôi một chương sách cho tôi đọc: "Ngày mai, ngài sẽ viết chương sách này." Ngày hôm sau tỉnh dậy tôi đã ghi nhớ rồi, bèn mau chóng ghi ra những điểm chính để khỏi quên. Sau đó tôi đi ăn sáng, ăn sáng xong thì lại đi viết sách, và như thế là có thể viết ra chương sách đó. Mỗi lần tôi viết sách đều như vậy. Khi đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, khi không có văn chương, không có linh cảm gì, thì các vị lại đem một chương sách cho tôi xem, tôi viết sách như vậy đó. Vì vậy, Sư Tôn cũng là sao chép lại linh cảm mà Phật Bồ Tát đưa cho tôi đó.
Đời người giống như một giấc mộng, thật sự đó! Mộng huyễn, chuyển thế, luân hồi, trải qua một đời lại một đời cứ chuyển biến như vậy. Nghĩ mà xem, thật đó, từ vua Trisong Detsen chuyển thế thành Jigme Lingpa tôn giả, lại chuyển thế thành Lư Sư Tôn, mà vua Trisong Detsen lại là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà Văn Thù Bồ Tát lại có liên kết với A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Đại Uy Đức Kim Cang lại có liên kết với nhau. Cứ như vậy chuyển tới chuyển lui, thật sự là giống như một giấc mộng. Chúng ta ở trong thế giới mộng huyễn này cần phải làm sao đây? Chúng ta cần nhớ, cần chăm chỉ tu hành. Sống một ngày cần vui vẻ một ngày, sống một ngày cần tu pháp một ngày, sống một ngày cần cảm ơn một ngày. Phải cảm ơn đó! Vì sao? Bởi vì người học Phật trong lòng không thể có thù hận, có nghiệp chướng. Do đó, tất cả đều phải cảm ơn, tất cả đều phải tu pháp, tất cả đều phải vui vẻ. Bạn đừng để bị vướng bận, nghĩa là khi bạn đang sống, đừng vướng bận vào những phiền não. Sống một ngày, vui vẻ một ngày; sống một ngày, cảm ơn một ngày; sống một ngày, tu hành một ngày. Om mani padme hum.
Bài giảng số 9
Jigme Lingpa viết "Công Đức Tạng" - Terma Đại Viên Mãn
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong đại pháp hội Hộ Ma Trường Thọ Như Lai tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 7 tháng 7 năm 2013.)
Hôm nay tôi muốn giới thiệu về Jigme Lingpa tôn giả. Ban đầu tôi nghĩ giới thiệu đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là được rồi, tuy nhiên, sau này còn có hai vị tôn giả nữa, bởi vì họ đều có mối liên hệ, Longchenpa Nyingtik đang lưu truyền hiện nay cũng chính là khẩu quyết về pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" của Longchenpa. Jigme Lingpa cũng có được sự gia trì của Longchenpa, sức mạnh gia trì rất lớn, bản thân ngài cũng là người phát triển Longchen Nyingtik. Vì thế không thể không giới thiệu Jigme Lingpa. Jigme Lingpa sinh năm 1730, cách thời đại của chúng ta tương đối gần, khi sinh ra ngài cũng đã rất thông minh, vừa ra đời đã rất thông minh rồi.
Tối qua tôi đã kể rằng Sư Tôn rất ngu ngốc, sinh ra đã ngốc rồi. Tôi sinh năm 1945, vừa đúng lúc Mỹ ném bom B-52 xuống Đài Loan, chủ yếu là ném bom xuống sân bay Thủy Thượng, vì thế mà vùng Gia Nghĩa cũng bị ném bom. Vốn dĩ ông nội Lư Xương của tôi rất giàu có, toàn bộ những ngôi nhà trên một con phố là nhà của ông nội tôi, ông nội tôi còn có nhiều đất đai ở Đông Thế Trường ở Gia Nghĩa. Năm 1945, tôi sinh ra tại một trại nuôi gà ở Gia Nghĩa, đó là ở bên suối Ngưu Trù, suối Ngưu Trù là một vùng nông thôn, thuộc về huyện Hậu Hồ của Gia Nghĩa ngày nay. Ở đó có một trại nuôi gà mà ông nội tôi để lại, tôi đã được sinh ra ở đó.
Chúa Jesus ra đời tại một máng nuôi ngựa, Lư Sư Tôn thì sinh ra ở chuồng gà, hai việc này cũng có điểm chung. Jesus ra đời cũng vì vấn đề hộ khẩu, trải qua một thời gian ở Bethlehem thì Đức Mẹ Maria mới sinh ra Jesus tại máng ngựa. Sau khi sinh ra Jesus, người bạn trai của Maria trong lòng rất buồn bã, họ vẫn còn chưa động phòng mà Maria đã sinh ra Jesus rồi, rốt cuộc là có chuyện gì vậy? Tên của người bạn trai ấy là Joseph, Joseph là một thợ mộc, anh ta rất muốn chia tay Maria, nhưng Thánh Linh nói với anh ta rằng đây là thai Thánh, thai từ thiên đường đến, không thể chia tay được. Do vậy họ mới không chia tay.
Vì thế, khi Jesus độ chúng sinh, ngài quay trở về quê hương của mình, người ta bảo: "Đó là con trai của người thợ mộc thôi!" Chẳng qua những con người ở vùng quê đó tương đối khó độ. Sư Tôn sinh ra ở trại gà, vận mệnh cũng tương tự như Jesus, Jesus ở máng ngựa, tôi ở chuồng gà. Sau khi ra đời, mọi người đều nghe về câu chuyện của tôi, bởi vì tôi sinh non, bảy tháng đã ra đời rồ. Khi ấy, cha mẹ tôi rất vui: "Choa! Cuối cùng tôi đã có một đứa con trai rồi." Bố tôi chạy đi kể với họ hàng, họ hàng nó với bố tôi: "Anh mới kết hôn bảy tháng mà đứa bé đã sinh rồi, thế đứa bé này rốt cục là con ai?"
Trong lòng bố tôi rất không thoải mái, vận mệnh của tôi rất giống với Jesus. Lúc nhỏ tôi bẩm sinh đã không khỏe mạnh, sau này lại ăn uống thiếu thốn, chẳng trách mà tôi lại thấp bé như vậy, đó chính là nỗi đau trong lòng tôi! Cần phải cầu tới Tăng Trưởng Thiên Vương trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương. Thật ra, rất nhiều người ở trong mơ đã nhìn thấy linh thể của tôi, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử Lư Sư Tôn to cao như núi Tu Di. Cầu Trường Thọ Phật Như Lai, hy vọng vào những năm cuối đời, để cho tôi phúc phần tăng trưởng, chiều cao tăng lên, A Di Đà Phật! Phúc phần cần tăng trưởng mà! Kính ái cần tăng trưởng mà! Trí huệ cũng cần tăng trưởng mà! Chiều cao cũng cần tăng trưởng mà! Như thế mới gọi là tăng chứ!
Lúc nhỏ, tôi bẩm sinh ốm yếu, con nhà người ta chí ít cũng uống sữa mẹ, không thì sữa bò, thế còn tôi thì uống cái gì? Tiếng Đài Loan gọi là nước gạo, gạo nghiền thành bột, bỏ thêm nước vào nấu. Lúc nhỏ thứ mà tôi uống chính là nước gạo, thế nên tôi lớn lên rất thấp lùn, bẩm sinh ốm yếu, sau đó lại thiếu dinh dưỡng, cho đến tận khi học cấp ba cũng không được bổ sung dinh dưỡng gì cả. Tuy vậy, lúc nhỏ tôi rất thích vận động, tập xà đơn, xà đôi, vòng đôi, luôn luôn vận động. Có một lần, sau khi tắm xong, tôi cởi trần và chỉ mặc một chiếc quần đùi, bố tôi trông thấy cơ thể tôi liền giật nảy mình: "Thằng nhóc này, chẳng cho nó ăn cái gì mà cũng có thể luyện tập được cơ thể như vậy." Trông giống như là sinh ra đã có xương cốt như sắt thép vậy. Tôi cũng luyện cơ bắp toàn thân, đến bây giờ vẫn duy trì được.
Jigme Lingpa ban đầu là một tiểu sa-di, ngài rất thông minh. Năm 13 tuổi, ngài đã gặp Thổ Đăng Đa Kiệt. Gia đình Jigme Lingpa không giàu có, vì vậy ngài mới bị gửi đến chùa làm một tiểu sa-di. Lúc tôi còn nhỏ, nhà tôi rất nghèo, vì sao vậy? Ông nội tôi có nhiều tiền, cả đường phố đều là nhà của ông, thế nhưng sau khi bị quân đội Mỹ ném bom, Đài Loan khi ấy vẫn thuộc về Nhật Bản, quân đội Mỹ chính là muốn ném bom vào quân Nhật, sau khi ném bom, những ngôi nhà của ông nội tôi đều bị cháy rụi.
Jigme Lingpa đã bái rất nhiều sư phụ, vào năm 13 tuổi, ngài đã bái một vị thầy tên là Đồ Khước Đa Kiệt. Vị thầy này đối xử với ngài rất tốt, thầy đã dạy cho ngài pháp Đại Thủ Ấn của Bạch giáo. Vì thế, ngài đã có được truyền thừa Đại Thủ Ấn. Thế nhưng Jigme Lingpa vẫn chưa thỏa mãn, đã bái rất nhiều sư phụ, ngài đã có được rất nhiều kiến thức Mật giáo, rất nhiều Bổn tôn gần như ngài đều đã có được hết.
Đến năm Jigme Lingpa 28 tuổi, ngài bế quan. Khi bế quan thì ngài dùng phương pháp thiền định, hễ thiền định là đầu của ngài liền tách ra, người ta mà đầu bị tách ra thì rất đau đớn, thế nhưng đầu ngài tách ra thì lại rất thoải mái, giống như bông hoa sen nở cánh hoa tách ra vậy. Từ bên trong nhật nguyệt luân ở chính giữa hoa sen liền xuất hiện một vị tôn giả, tôn giả này tên là vua Trisong Detsen, vua Trisong Detsen cai trị Tây Tạng. Sau vua Trisong Detsen, cách hai, ba đời thì không còn Tạng Vương nữa.
Vua Trisong Detsen hiển hiện trong bông hoa sen, Trisong Detsen nói với Jigme Lingpa: "Ta có pháp Đại Viên Mãn, là khi xưa Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền cho ta. Ngài, Jigme Lingpa tôn giả, chính là hóa thân thứ hai của ta." Ngài ấy chính là Trisong Detsen chuyển thế.
Vì sao tôi muốn giảng về Jigme Lingpa? Bởi vì Trisong Detsen chuyển thế thành Jigme Lingpa, bản thân tôi cũng là Trisong Detsen chuyển thế. Mọi người nghĩ xem, hoa sen nở ra, đầu tách ra, biến thành một đóa hoa sen, bên trong có nhật nguyệt luân, trong nhật nguyệt luân xuất hiện một vị tôn giả Trisong Detsen, sau đó nói rằng ngài thật sự có truyền thừa của pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Vì thế, Jigme Lingpa đã trực tiếp mở ra truyền thừa của pháp Đại Viên Mãn.
Jigme Lingpa ngồi yên lặng trong thiền định, đột nhiên hoa sen lại khép lại, ngài lập tức tỉnh ngộ, thì ra ngài chính là người kế thừa pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ", ở đây nghĩa là ngài đã khám phá ra tiền kiếp của ngài, bản thân ngài chính là vua Trisong Detsen chuyển thế. Điều này là quá tuyệt vời, ngài lập tức tỉnh ngộ, rất nhanh chóng ngài đã chứng ngộ được pháp Đại Viên Mãn. Khi ngài đã chứng ngộ pháp Đại Viên Mãn, ngài vô cùng sung sướng.
Lúc này, còn có một vị tôn giả xuất hiện giảng giải cho ngài pháp Đại Viên Mãn, vị tôn giả này chính là Longchenpa, thế thì lại càng vĩ đại hơn. Longchenpa hiện lên giải thích cho ngài pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ". Vì thế, Jigme Lingpa tôn giả là tổ sư của pháp Đại Viên Mãn. Bởi vì ngài là Trisong Detsen chuyển thế, Trisong Detsen là người được đích thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ gia trì, cái gọi là terma chính là tất cả các pháp Đại Viên Mãn được đặt bên trong não của ngài. Mà Jigme Lingpa là Trisong Detsen chuyển thế, nên tự nhiên ngài ấy có thể lĩnh ngộ được pháp Đại Viên Mãn. Sư Tôn cũng như thế, có thể lĩnh ngộ được pháp Đại Viên Mãn, chính là nguyên nhân này.
Jigme Lingpa tôn giả cũng viết sách, cũng viết sách giống như Longchenpa tôn giả. Ngài ấy có một tác phẩm hay tuyệt vời, tên là "Công Đức Tạng", chính là pháp Đại Viên Mãn được giấu trong não của ngài. Trong não của Sư Tôn cũng giấu pháp Đại Viên Mãn. Ngài ấy có được sự gia trì của Longchenpa tôn giả, Longchenpa tôn giả hiện lên giải thích cho ngài nghe, vì thế ngài đã viết rất nhiều tác phẩm. Lão tổ sư Jigme Lingpa này cũng từng quảng truyền pháp Đại Viên Mãn, vô cùng thù thắng. Pháp Đại Viên Mãn của ngài phân thành hai loại, một loại là có tính chất quảng đại, và một loại là có tính chất thậm thâm, nghĩa là những khẩu quyết vô cùng sâu của pháp Đại Viên Mãn, cùng với những khẩu quyết có tính chất rộng lớn của pháp Đại Viên Mãn, đó là những gì mà tổ sư Jigme Lingpa đã có được. Nguyên nhân phải kể đến Jigme Lingpa chính là vì vua Trisong Detsen.
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy pháp cho vua Trisong Detsen, cùng Yeshe Tsogyal. Yeshe Tsogyal ở cùng với Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, một người là Pháp vương, một người là minh phi của Pháp vương, ba người họ đều có được truyền thừa của pháp Đại Viên Mãn, đây là một sự việc vô cùng thù thắng.
Chúng ta biết rằng Mật giáo có bốn đại pháp. Đối với Hồng giáo thì đó chính là pháp Đại Viên Mãn, đối với Bạch giáo thì là pháp Đại Thủ Ấn, Hoa giáo thì gọi là pháp Đại Viên Thắng Huệ, Hoàng giáo thì là pháp Đại Uy Đức, chính là bốn đại pháp này. Sư Tôn có truyền thừa của pháp Đại Viên Mãn, có truyền thừa của pháp Đại Thủ Ấn, cũng có truyền thừa của pháp Đại Viên Thắng Huệ, cũng có truyền thừa của pháp Đại Uy Đức, bốn loại truyền thừa đều có.
Vì thế, mọi người đến với Sư Tôn ở đây thì Hồng, Hoàng, Bạch, Hoa trong Mật giáo đều có hết. Sư Tôn có bốn vị Căn bản Thượng sư, Thượng sư thứ nhất là Liễu Minh Hòa Thượng, ngài ấy thuộc Hồng giáo, truyền thừa của ngài đến từ Norlha Hotogtu Thượng sư ở vùng Kham Tây Tạng. Khi Liễu Minh Hòa Thượng ở Tứ Xuyên đã theo Norlha Thượng sư. Bởi vậy, ngài đã có truyền thừa pháp Đại Viên Mãn của Hồng giáo. Thứ hai chính là Sakya Chứng Không Thượng sư của Hoa giáo, ngài ấy có pháp Đại Viên Thắng Huệ, ngài cũng dạy Sư Tôn, vì thế Sư Tôn cũng có được truyền thừa Đạo Quả và Hỉ Kim Cang. Thứ ba, Bạch giáo có pháp Đại Thủ Ấn, chính là do Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 ban cho Sư Tôn "Ngũ Phật nghiêm đỉnh quán", đây là truyền thừa của Ngũ Phật.
Truyền thừa của pháp Đại Thủ Ấn rốt cục từ đâu đến? Đến từ Bảo Ý Bồ Tát, A Đạt Nhĩ Mã Phật truyền pháp Đại Thủ Ấn cho Bảo Ý Bồ Tát. Bảo Ý Bồ Tát là ai? Chính là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử lại truyền cho Ngũ Phương Phật, Ngũ phương Ngũ Như Lai, rồi lại từ Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 quán đảnh cho Sư Tôn lại từ đầu. Vì thế, Sư Tôn biết rằng pháp Đại Thủ Ấn có bốn phương pháp, một là "chuyên nhất du già", một là "li hí du già", một là "nhất vị du già", cuối cùng là "vô tu du già". Tiếp theo, thứ tư là pháp Đại Uy Đức, là do Thubten Dorje Thượng sư truyền cho Sư Tôn.
Pháp Đại Uy Đức là gì? Là Đại Uy Đức Kim Cang 13 tôn pháp vô cùng hoàn thiện, bao gồm pháp Thời Luân Kim Cang, còn có đủ loại Phật pháp. Sư Tôn thu thập tất cả truyền thừa của bốn phái Hồng - Hoàng - Bạch - Hoa. Mọi người đến đây rồi thì không phải đến với người khác nữa.
Có một khách hàng đã phàn nàn rất nhiều: "Em ơi, món ăn của nhà hàng này chán quá." Cô gái phục vụ nhà hàng nói: "Sao có thể chứ?" Khách hàng nói: "Không tin thì kêu ông chủ của các cô đến ăn thử xem." Cô gái nói: "Thật xin lỗi! Ông chủ của chúng tôi đã sang nhà hàng bên cạnh ăn cơm rồi."
Tôi bảo mọi người, Sư Tôn mở ra nhà hàng này, cái gì cũng có, bảo đảm bạn ăn ngon, ăn no, lại còn được thưởng thức tuyệt vời, giá tiền thì lại rẻ, tất cả đều có hết, không cần phải đi đến chỗ khác ăn đâu.
Từ rất lâu trước đây Sư Tôn đã viết cuốn sách "Mật giáo Đại Viên Mãn", là cuốn số 56, trong cuốn sách này còn có "tâm trong tâm", chính là Nyingtik. Vì sao khi ấy tôi đã viết thành sách rồi? Bởi vì khi ấy tôi đã biết rồi. Mọi người đọc cuốn sách này sẽ biết những điều ảo diệu bên trong, bên trong là pháp cốt lõi của cốt lõi, chính là Nyingtik. Những thứ mà Sư Tôn dành cho mọi người đều rất trân quý đó.
Một người chồng nói với vợ: "Em yêu, em đoán thử xem anh mua quà gì cho em?" Vợ thờ ơ nói: "Cái gì vậy?" Người chồng chỉ vào một chiếc xe ô tô màu trắng ở gần đó: "Em có nhìn thấy cái xe ô tô màu trắng kia không?" Vợ rất háo hức nói: "Em thấy rồi, không ngờ anh lại mua xe tặng em." Lúc này người chồng nói: "Anh mua cho em một cái bàn chải đánh răng màu trắng." Cũng là màu trắng mà.
Những gì Sư Tôn tặng cho mọi người là rất quý giá đó. Không phải là những vật dụng hàng ngày, mà là những lễ phẩm quý giá để mọi người có thể vãng sinh Phật quốc, có thể chấm dứt sinh tử. Sư Tôn không phải là kẻ điên đâu! Không phải là những lời nói điên rồ, bạn đọc cuốn sách số 56 sẽ thấy tôi còn viết về "Công khai pháp vô thượng của Hồng giáo do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền".
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có truyền cho Sư Tôn pháp Đại Viên Mãn không? Ngài ấy sống cách Sư Tôn rất xa, mặc dù ngài ấy sống tới một nghìn tuổi, nhưng khi ấy tôi vẫn còn chưa ra đời mà! Làm sao có được truyền thừa của pháp Đại Viên Mãn? Tôi đã từng nhận hai truyền thừa, một là ngài ấy đã túm tôi vào trong một ngôi mộ cổ ở Nepal và ngài ấy đã quán đảnh cho tôi. Đầu tiên là ngài nuốt tôi vào bụng, sau đó tôi từ luân xa bí mật của ngài đi ra. Sau đó toàn bộ các lỗ chân lông của ngài đều phóng quang, tất cả mọi ánh sáng đều đi vào từ lỗ chân lông của tôi, đây là một quán đảnh rất vĩ đại đó! Quán đảnh qua lỗ chân lông, lỗ chân lông của ngài phóng quang, toàn bộ đều phóng vào bên trong lỗ chân lông của tôi. Tôi bị nuốt vào từ miệng của ngài, rồi đi ra từ luân xa bí mật, đúng là thay da đổi thịt đó! Tôi lại cũng là Trisong Detsen chuyển thế nữa.
Vì thế, nhờ có terma ở trong não của tôi nên tôi mới có thể đại công khai pháp vô thượng của Hồng giáo do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền, trong cuốn sách số 56 đã có nói rồi. Không phải là tôi uống rượu say rồi nói linh tinh đâu. Ở đây có một câu chuyện cười. Có một nữ sinh vào toilet đi vệ sinh. Có một gã say xỉn xông vào nhà vệ sinh nữ, nghe thấy âm thanh của tiếng đi tiểu, gã say rượu liền nói: "Đừng rót nữa, tôi thật sự không thể uống tiếp được đâu." Nữ sinh này giật thót mình, không dám đi tiểu tiếp nữa, nhưng không nhịn được bèn đánh một cái rắm. Gã say rượu liền nói: "Ô hô! Lại khui thêm chai nữa." Tôi muốn nói rằng Sư Tôn không phải là gã say rượu, tôi nói những lời rất thật, tôi không dọa mọi người, trong cuốn sách số 56, tôi đã viết "Mật giáo Đại Viên Mãn", khi ấy tôi còn rất trẻ! Nhưng tôi đã có được pháp rồi.
Jigme Lingpa thường có một giấc mơ, mơ thấy thân thể của mình biến thành rất to, nằm thẳng bắc ngang qua hai ngọn núi, rất nhiều người đi lên trên người ngài. Quái lạ! Sư Tôn lúc nhỏ cũng thường mơ thấy giấc mơ ấy! Giấc mơ này rất kì lạ đặc biệt, tôi đã viết trong sách. Giấc mơ của tôi là như thế nào vậy? Cũng là có hai ngọn núi lớn, thân thể của tôi nằm ở giữa hai ngọn núi, đầu ở núi này, chân ở núi kia, có rất nhiều chúng sinh đi trên người tôi. Điều này cho thấy Jigme Lingpa lại đến để độ hóa chúng sinh.
Hiện nay, truyền thừa của Jigme Lingpa cũng rất nhiều, lưu truyền rộng rãi ở Tây Tạng. Longchen Nyingtik của Longchenpa cũng lưu truyền rất rộng. Còn nữa, hiện nay Sư Tôn độ chúng sinh cũng rất nhiều, thuyết pháp, viết văn, chúng tôi có cùng một giấc mơ giống nhau! Chúng tôi thật sự đang độ chúng sinh đó! Không giống như một số người được gọi là "phụ Phật ngoại đạo" đâu! Hay là "đạo sĩ tóc rối" đâu! Những gì Sư Tôn đã giảng thì khác, những gì Sư Tôn viết cũng là chính pháp.
Sau này khi tôi giảng đến chính pháp, tôi sẽ giới thiệu với mọi người thế nào là Thanh Văn thừa, thế nào là Bồ Tát thừa, thế nào là Duyên Giác thừa, sự phân biệt nằm ở đâu. Trong pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" có ba thừa này, là do Phật Thích Ca Mâu Ni giảng. Trên phương diện du già thì có Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ. Phân biệt như thế nào? Ba thừa sau cùng là Maha Du Già, A Nỗ Du Già, A Để Du Già, ba thừa này phân biệt như thế nào, tôi đều có thể lần lượt giải thích rõ ràng cho mọi người, mọi người sẽ hiểu được.
Có một câu chuyện cười, một cô gái luôn có rất nhiều chàng trai vây quanh. Một hôm, không thể chịu đựng được nữa, cô ấy phàn nàn với Tiểu Minh: "Đáng ghét quá! Vì sao xung quanh tớ luôn có một đám ruồi nhặng vậy?" Tiểu Minh liền trả lời: "Tớ không biết! Khả năng là vì cậu trông giống một đống phân!" Tất nhiên không phải thế rồi. Những nữ sinh xinh đẹp khi học cấp hai, cấp ba, đại học thì sẽ có rất nhiều người theo đuổi, đó chính là nguyên nhân mà các cô gái xinh đẹp đều không thể có được bằng tiến sĩ, bởi vì họ sớm đã có người theo đuổi, sớm đã lập gia đình, nên không tiếp tục học nữa. Nhưng vì sao cũng có rất nhiều nữ sinh có thể lấy được bằng tiến sĩ? Bởi vì họ không có người theo đuổi, không lấy chồng được, tốt nhất là đi học, vì thế lấy được bằng tiến sĩ. Rất nhiều tiến sĩ là như vậy, họ không có người theo đuổi mà! Tốt nhất là ngày ngày đi học.
Ấy! Phật Thanh cũng lấy được bằng tiến sĩ Luật, nó rất thích đi học, vẻ ngoài trông cũng không tệ, tướng mạo cũng khá được. Khi nó học cấp 3 thì Andy đã luôn theo đuổi nó rồi, trên bàn học của Andy viết đầy tên "fo-ching", thật sự là theo đuổi rất gắt gao. Cuối cùng chẳng còn cách nào, nó liền đi Santa Clarita California học đại học, hai đứa vẫn có liên lạc. Phật Thanh lại đến New York học tiến sĩ, đó là trường Lawyer School (Học viện Pháp luật), Andy vẫn không ngừng theo đuổi, thật đó! Hai người yêu nhau cuối cùng đã trở thành người một nhà, chẳng có cách nào. Không phải tiến sĩ nào cũng đều xấu, Phật Thanh cũng là tiến sĩ, thế mà tôi quên, I forgot.
Có một câu chuyện cười. Vợ rất tức giận nói với chồng: "Rốt cục anh có muốn bỏ thuốc không?" Chồng nói: "Được thôi! Anh chỉ cần hút thuốc vào hai thời điểm đặc biệt là được rồi." Vợ nói: "Vậy thì tốt, là hai thời điểm nào?" "Một là lúc trời mưa, hai là lúc trời không mưa."
Có rất nhiều việc rất khó giải quyết, thế nhưng chúng ta nhất định cần giải quyết được một việc. Việc này chính là: cuộc đời của chúng ta có thể đạt được sự giải thoát. Phật pháp chính là giải thoát cuộc đời của chúng ta, để chúng ta có thể đến được cảnh giới tốt đẹp hơn. Tôi chúc phúc mọi người đều có thể học tập Phật pháp được tốt. Om mani padme hum.
Bài giảng số 10
Thanh Văn thừa tin rằng nhân gian khổ nhiều vui ít, nhiều người đi vào núi sâu tu hành
(Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" trong buổi đồng tu Hoàng Tài Thần tại Seattle Lôi Tạng Tự, Hoa Kì, vào ngày 13 tháng 7 năm 2013.)
Hôm nay nội dung tôi muốn giảng là "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ pháp" là gì? Cửu thứ đệ là chín thứ tự nào? Tôi giải thích với mọi người một chút. Vốn dĩ pháp mà tôi muốn giảng hôm nay rất khô khan, nếu như là pháp sư khác giảng thì bản thân ông ta cũng mệt mà người nghe cũng mệt. Bản thân pháp "Đại Viên Mãn cửu thứ đệ" rất khó nghe hiểu. Trước tiên tôi kể một câu chuyện cười. Một buổi tối, đêm đã khuya, có đứa bé đang ngủ thì khóc ré lên. Khi người bố quyết định hát một khúc hát ru để dỗ con ngủ, vừa hát được mấy câu thì hàng xóm liền chạy sang cự nự: "Thôi cứ để thằng bé khóc đi! Anh đừng hát nữa." Cho thấy rằng anh ta hát rất khó nghe.
Pháp hôm nay tôi muốn giảng không phải là rất dễ nghe, thế nhưng vẫn cứ phải giảng. Trước hết chúng ta giảng về ba thừa đầu tiên, ở giữa có ba Mật thừa, tiếp theo là ba thừa của Nội mật, cộng vào là thành chín thừa. Ba thừa đầu tiên chính là do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng, ba thừa ở giữa là Kim Cang Tát Đỏa giảng, ba thừa sau cùng là Bản Sơ Phật giảng, có phân biệt như vậy. Vì thế, chúng ta nói về pháp mà Phật Đà thuyết trước đã. Chín thứ tự này cũng chính là chín nấc thang, từng nấc từng nấc thang đi đến viên mãn. Điều này rất quan trọng, giống như trèo cầu thang vậy, bậc thứ nhất, bậc thứ hai, bậc thứ ba, bậc thứ tư, bậc thứ năm, bậc thứ sáu, bậc thứ bảy, bậc thứ tám, bậc thứ chín. Đến bậc thứ chín thì là cao nhất rồi. Do đó gọi là cửu thứ đệ, ý nghĩa là chín bậc thang.
Chúng ta học Phật không thể làm người mù. Lúc đang dạo phố, có một người ăn mày đeo kính râm chặn một người đàn ông và vợ ông ta lại. Ông ta chặn người đàn ông trước, nói: "Soái ca, hãy làm ơn làm phước! Tôi là người mù." Người đàn ông đang chuẩn bị lấy tiền từ trong túi ra, bà vợ liền ngăn lại: "Đủ rồi! Quá rõ ràng rồi, hắn ta không phải là người mù." Người đàn ông liền nghĩ một lúc rồi chỉ vào bà vợ, hỏi kẻ ăn mày mù: "Người phụ nữ này có xinh không?" Sau khi tên mù nhìn vợ của người đàn ông liền nói: "Ôi! Xinh quá." Người đàn ông nói với bà vợ: "Không sai đâu, hắn ta đúng là mù rồi." Học Phật không thể làm một kẻ mù, cần phải xem xét rõ ràng, chín thứ tự này đều cần phải hiểu rõ ràng. Có người học Phật nhưng thật sự là kẻ mù. Rõ ràng là Phật pháp nhưng lại cố chấp không học. Thế họ học cái gì? Học xem bói. Đoán mệnh là pháp thế tục, thuộc về pháp thế gian.
Mặc dù cái gì cũng đều là Phật pháp, không sai! Thế nhưng, học Phật pháp cần học điều mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, Kim Cang Tát Đỏa giảng, Bản Sơ Phật giảng, như vậy thì mới là chính đạo. Có người nói "cửa hông thì cũng là cửa", giống như là ở đây bạn đi qua cánh cửa của phòng âm thanh và ghi hình thì đó cũng là cửa, cũng có thể vào được đại điện, cửa hông cũng là cửa, thế nhưng đi cửa này thì xa hơn, cửa nào gần nhất thì đó là cửa chính, cửa nào xa hơn thì đó là cửa hông. Phải đi vòng vòng vòng vòng một hồi thì mới vào tới nơi, cũng đúng thôi! Thật ra, đoán mệnh cũng không sai, xem địa lý cũng không sai, chẳng qua đó vẫn chỉ là pháp thế tục mà thôi.
Phật Thích Ca Mâu Ni tương đối là không chủ trương pháp thế tục. Vì thế, ngài đã tổ chức tăng đoàn, tăng đoàn chính là những người xuất gia. Những người tại gia thì phải đi vòng rất nhiều con đường, bởi vì họ cần phải làm rất nhiều việc thế tục. Hôm nay có một đồng môn hỏi tôi, mỗi ngày anh ta phải làm việc kiếm tiền, thế nhưng trong khi kiếm tiền thì lại mất đi công phu tu hành. Những người xuất gia thì tương đối chuyên nghiệp hơn, người xuất gia ngày ngày đều làm công khóa tu hành, chuyên nghiệp hơn, không có kiếm tiền, không ở bên ngoài làm các việc thế tục. Đời người vốn dĩ rất ngắn ngủi, bạn làm sự nghiệp thế tục, bận rộn với những việc thế tục, thời gian tu hành sẽ ít đi, thì lại càng khó hơn. Vì thế, nếu như muốn tu hành thì xuất gia vẫn chuyên nghiệp hơn một chút. Sự khác biệt giữa đi đường chính và đi cửa hông nằm ở đây.
Đời người rất ngắn, cái gì đáng trân trọng thì cần trân trọng, cái gì nên từ bỏ thì từ bỏ. Đồng môn nói với tôi: "Tiền kiếm được cũng không tồi! Gia đình cái gì cũng tốt, tuy vậy vẫn cảm thấy chính xác là đang sống qua ngày tại thế gian. Có đúng không?" Thật ra, chính xác là cần có một phương pháp tu hành về mặt tinh thần. Người tại gia vẫn cần dành ra một chút thời gian để tu hành. Người xuất gia thì chuyên môn với công phu tu hành, có nghĩa là tập trung vào đạo giải thoát và đạo bồ đề.
Đầu tiên Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về Thanh Văn thừa, là thứ bậc đầu tiên trong chín thứ bậc. Thanh Văn tu Tứ Thánh Đế khổ - tập - diệt - đạo, cũng chủ trương "vô ngã", nhưng cho phép có tâm vĩnh cửu. Điều này tương đối khó giải thích, một người có tâm liên tục tồn tại thì đó là Thanh Văn thừa.
Có một câu chuyện cười, xe hơi cưới tàu hỏa, chẳng bao lâu thì li hôn. Xe hơi vô cùng đau buồn kể: "Anh ấy ngày ngày lo lắng cho mình bị đâm, còn mình thì sao, mình lúc nào cũng sợ anh ấy đi chệch khỏi đường ray, không thể chịu được. Vì thế mà hai chúng tôi li hôn." Xe hơi và tàu hỏa li hôn. Thật ra, Thanh Văn thừa chính là xe hơi, chở được ít người, đại bộ phận đều là tu hành một mình, khá nhiều người đi vào trong núi sâu tu hành, thậm chí người xuất gia còn nhiều hơn. Thanh Văn thừa cho rằng thời gian ở thế gian rất ngắn, rất khổ, thời gian vui vẻ thì chẳng có nhiều.
Mọi người thử nghĩ một chút mà xem, tôi thường hay nói: "Một tuổi bắt đầu một cuộc đời", đều là cha mẹ chăm sóc cho bạn! Chẳng có gì khổ, chẳng có gì vui, bắt đầu đi học thì bắt đầu khổ rồi. Người khác đi học cảm thấy rất vui, nhưng tôi đi học thì lại thấy rất đau khổ. Bởi vì tôi thi cử thường trượt. Vì thế mà tôi phải ở lại lớp! Tôi bị lưu ban hai lần đó! Đối với tôi mà nói thì đi học đương nhiên là rất khổ. Rõ ràng là bình thường tôi rất thoải mái, nhưng hễ gặp thi cử là tôi liền khổ sở, gặp kì thi là tôi lại không ngủ được. Hễ gặp kì thi là lại không dám nhìn người khác nữa, rất là khổ, rất mệt mỏi. Tuy nhiên, đi học là khổ, vì sao vẫn cần đi học? Ai đưa ra quy định đó? Thật khiến tôi tức chết mất. Lúc 10 tuổi, việc học hành là quan trọng nhất. Mọi người chăm chỉ phấn đấu. Học sinh tiểu học cũng hiểu rằng cần phấn đấu học hành, phấn đấu đứng thứ nhất. Tôi từng có một người bạn học như thế này, cậu ấy luôn đứng thứ nhất, có một lần rớt xuống vị trí thứ hai, cậu ấy liền tự sát. Khổ quá! Không đứng thứ nhất được thì rất đau khổ. Còn học sinh yếu kém như tôi đây, lần nào cũng đứng bét lớp, tôi chẳng thấy khổ tí nào. Bởi vì tôi vốn dĩ chính là như vậy, trái lại, rất nhiều người phía bên kia cạnh tranh tới lui thì rất khổ. Đi học có khổ không? Khổ chứ! Khi Phật Thanh học tiến sĩ Luật, nó nói: "Học luật khổ quá!" Sách à! Đọc đọc đọc, cuối cùng cầm sách lên, tức giận quăng cuốn sách đi thật xa. Kết quả là cũng vẫn phải bò bò bò bò, bò đi mà nhặt sách về rồi đọc tiếp. Đi học vốn dĩ là khổ mà! Có cái gì không khổ? Học xong, tốt nghiệp rồi đi làm, thế cũng là khổ!
Bạn cho rằng làm việc rất vui vẻ sao? Sếp của bạn bất ngờ điều bạn vào vị trí rất vất vả lại lương thấp. Mỗi người đi làm chẳng phải khổ sao? Kiếm tiền là khổ! Kiếm tiền rất khó đó, kiếm tiền có thể coi là một việc khó, cũng rất khổ. Gia đình, có khổ không? Gia đình là cái gông trói tay bạn lại, nhốt bạn vào trong hoàn cảnh ấy, một tờ giấy đã trói buộc hai người lại với nhau. Có khổ không? Gia đình cũng là khổ mà! Bạn xem rất nhiều người li hôn, những người yêu nhau thật sự rất ít, những người mà bạn trông thấy đại bộ phận đều là khổ. Hễ cãi nhau là hai người thận chí nửa năm cũng không thèm nói chuyện.
Có gia đình nào không khổ? Bạn nói xem, trước khi kết hôn, yêu đương có khổ không? Tình yêu mới là thuốc đắng, Vu Tiên đã nói rồi, bạn tìm thấy tình yêu chính là tìm thấy kẻ thù. Như tôi vừa kể, xe hơi và tàu hỏa kết hôn, tàu hỏa từ sáng tới tối lo lắng xe hơi bị đâm, còn xe hơi thì từ sáng tới tối lo lắng tàu hỏa trật bánh, tàu hỏa sẽ rơi khỏi đường ray. Liệu có trật đường ray không? Xã hội hiện đại, bất kể bạn có kết hôn hay không, con trai muốn theo đuổi con gái, bất kể là con gái đã kết hôn hay chưa, có bạn trai hay chưa, hoặc là như thế nào đó thì vẫn cứ theo đuổi thôi! Con gái cũng thế, bất kể là người con trai kia đã kết hôn hay chưa, hay là đã có bạn gái chưa, bất kể như thế nào cũng vẫn theo đuổi! Khắp nơi là các cuộc tình tay ba, tay bốn, tay năm, tay sáu, tay bảy, rốt cục là tay nào mới là thật đây? Chẳng thể hiểu được. Như thế có khổ không? Thật sự là thuốc đắng. Gia đình chính là một cái gông đã đóng khung bạn lại, một tờ giấy khiến cho bạn vĩnh viễn không thấy được ngày hết hạn nằm ở đâu, một tờ giấy đã hạn chế bạn, đều là khổ cả!
Càng khổ hơn là còn có những tai nạn liên quan đến đất nước lửa gió. Bỗng dưng động đất, bỗng dưng hỏa hoạn, bỗng dưng gió bão, bỗng dưng ngập lụt, những của cải vất vả kiếm được bỗng chốc tiêu tan, có khổ không chứ? Khổ mà!
Người với người ở cùng nhau là khó nhất, cái gọi là "làm người khó" đó là bạn và người khác rất khó hòa đồng, tự nhiên hôm nay đang tốt, ngày mai đã xấu rồi. Hôm nay tâm trạng tốt, ngày mai đã lại thành xấu, ngày sau nữa tâm trạng lại tốt, ngày sau đó nữa tâm trạng lại không tốt. Thời tiết cũng như vậy, hôm qua lạnh, hôm nay nóng, ngày mai càng nóng hơn, có phiền phức không? Nóng thì cũng nóng chết mất, lạnh thì cũng lạnh chết mất. Seattle đây này! Nóng thì nóng muốn chết, lạnh thì lạnh muốn chết. Trước kia Seattle đâu có nóng như thế, chính là vì những người di dân đến đây mang theo cả cái nóng tới.
Trước kia Seattle rất lạnh. Khi tôi đến đây, từng có cả ba năm chẳng hề đổ mồ hôi. Gần đây tôi phát hiện thấy mình đổ mồ hôi, thời tiết biến đổi rồi, bạn cho rằng lòng người không thay đổi sao? Lòng người cũng thay đổi đó. Hôm nay nói yêu bạn, aishiteru, ngày mai lại nói NO! Chia tay! Thay đổi quá nhanh, lật mặt cũng nhanh như lật sách vậy, thay đổi liên tục, chỉ không phải là thay đổi mỗi ngày mà thôi. Buổi tối ăn cơm vẫn còn vui vẻ, sau khi ngủ một giấc dậy thì không còn vui vẻ nữa rồi. Bạn nói xem có khổ hay không? Khổ mà! Làm người gì đây chứ! Chẳng bằng tu hành, chúng ta đi tu, tu Thanh Văn, đi vào trong núi sâu tu, bởi vì khổ quá mà! Cái thứ nhất chính là khổ, rời xa nhân gian, tôi tự mình đi tu hành, buông bỏ tất cả nỗi khổ của nhân gian.
Tập hợp tất cả các cái khổ lại thì vẫn còn đó! Bệnh khổ không khổ sao? Khổ nhất chính là bệnh đó! A Di Đà Phật! Bạn vào bệnh viện, những quỷ tốt của Diêm Vương cầm dao cưa đầu của bạn, cầm dao cưa bụng của bạn, xem xem bạn bị bệnh ở chỗ nào thì sẽ giúp bạn mổ. Nước Mỹ thích nhất là mổ đó, chỗ nào có bệnh thì mổ ở chỗ đó. Bạn nói xem, đau răng có đau không? Đau chết đi được, điều này bác sĩ nha khoa biết, đau đến chết đi được, sợ chết khiếp. Trước kia chúng ta nhổ răng là dùng sợi dây chỉ buộc vào răng, một đầu buộc vào phía trên cánh cửa, dùng chân đạp vào cánh cửa một cái thì răng cũng bay ra luôn, ngày xưa nhổ răng là như vậy, có khổ không chứ? Khổ mà! Hễ vào viện là bất kì ai cũng bị xâu xé, nhỏ xíu như bệnh cảm, nhiễm lạnh một tí, đau đầu một tí là đã khiến bạn rất không thoải mái rồi, thỉnh thoảng lại đau, đau lưng, đau vai. Bảy mươi tuổi rồi, tôi chưa bao giờ đi soi chiếu bao giờ, bác sĩ bảo tôi "đi soi ruột đi", "đi kiểm tra mắt đi". Tôi bảo: "Mắt tôi có chỗ nào cần phải kiểm tra chứ?"
Tám đại pháp của Diêu Trì Kim Mẫu (có pháp luyện mắt), mắt của tôi có thể chuyển động rất lợi hại đó, chữ rất nhỏ tôi đều có thể nhìn rõ được. Tôi lái xe chưa bao giờ đeo kính, trước nay chẳng hề đeo kính. Có một số người rất khổ sở, có hai cặp kính, một là kính viễn thị, hai là kính loạn thị, viễn thị, loạn thị, cận thị, ba loại kính, bốn loại kính, viễn thị đều có cả, rất khổ sở đó. Có người đi mổ laser, nghe nói sau khi mổ laser, mấy năm sau lại tái phát. Liên Chủ đó! Mắt ông thế nào rồi? Vẫn tốt à? Số ông thế là may đó! Ông ấy đi mổ laser, thật may tất cả đều vẫn tốt. Thật đó! Rất nhiều người thân thể có bệnh, khổ muốn chết. Già, có khổ không? Khổ mà! Bạn nhìn xem những người ở viện dưỡng lão, khá nhất thì là dùng những dụng cụ hỗ trợ cho việc đi lại, tiếp đến những người kém hơn thì phải ngồi xe lăn, tiếp đến người kém hơn nữa thì toàn thân phải cần có người khác phục vụ. Một số người có thể lái xe là rất tốt rồi, người không thể lái xe, phải để người ta lau lau rửa rửa thì còn công dụng gì đây?
Đời người căn bản chính là khổ đó! Sống cũng khổ, già cũng khổ, bệnh cũng khổ, chết cũng khổ. Sự đau đớn lúc sắp chết thì cho dù bạn có quyền uy gì, bạn là quốc vương hay hoàng tộc, hoặc bạn là người gì thì cũng đều phải già, phải chết. Hơn nữa, đến lúc tuổi già, bệnh tật ập đến thân bạn rồi thì bạn sẽ biết khổ sở là thế nào. Rốt cục bạn trẻ được bao lâu? Từ 20 tuổi đến 40 tuổi, là lúc tinh hoa nhất, được bao nhiêu năm? 20 năm, trừ đi 10 năm cho việc ngủ, chỉ còn lại 10 năm, bạn có gì gọi là vui chứ? Vẫn là tu hành tốt hơn mà! Thanh Văn thừa nghĩa là những người đi vào núi sâu tu hành, tu đạo giải thoát, nhận định rằng bản thân mình chẳng có, là Không! Chỉ còn lại một cái tâm, tâm tương tục [ ND: liên tục không gián đoạn]. Tu khổ, tập, tập trung tất cả mọi cái khổ lại, diệt, diệt hoàn toàn các nhân của khổ này, biến thành vô ngã mới có thể giải thoát. Đây chính là Thanh Văn thừa.
Thứ tự thứ hai gọi là Duyên Giác thừa. Thế nào là Duyên Giác thừa? Bạn có 12 nhân duyên, bởi vì tất cả đều là nhân duyên quả báo, trong Phật pháp gọi là 12 loại nhân duyên quả báo "vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử", nghĩa là cái này biến thành cái kia, cái kia lại biến thành cái khác, biến đổi tới cuối cùng thì lại quay trở về biến thành cái này, gọi là pháp "thập nhị nhân duyên". Biến tới biến lui, đến cuối cùng, biến thành một sự trống rỗng. Duyên Giác thừa chính là ngẫm nghĩ theo sự biến hóa của thập nhị nhân duyên, nghiền ngẫm mà biết về vô ngã, và còn hiểu được về "vô ngã" và "vô pháp". Pháp là thứ gì, chính là tất cả mọi thứ trên thế gian, những thứ này cũng đều là Không cả. Xe hơi, nhà cửa, bao gồm cả bạn bè tốt, thậm chí là vợ con, người yêu, đều là không hết. Sao lại không là không được chứ? Có một ngày sẽ đều biến thành không hết! Theo pháp nhân duyên thì đều biến thành không, không có một thứ tương tự nào là của bạn, con cái không phải là của bạn, vợ cũng không phải là của bạn, người thân yêu nhất cũng không phải của bạn, xe đắt tiền nhất cũng không phải của bạn, nhà cửa cũng không phải là của bạn, tất cả mọi thứ đều không phải là của bạn, đều sẽ hư hoại, bao gồm chính bản thân bạn cũng sẽ hư hoại.
Vì thế, Duyên Giác thừa cho rằng là vô ngã, vô pháp, pháp ở đây là đại diện cho tất cả mọi thứ của thế gian, chứ không phải là pháp trong Phật pháp. Đây gọi là "ngã pháp đều không" [ ND: ta và mọi thứ đều là không ]. Bạn đã nhận thức được tất cả mọi thứ trên thế gian đều là không, bao gồm cả bản thân cũng không có. Sau đó, bạn theo đó mà đi vào trong núi sâu, y theo pháp thập nhị nhân duyên mà đạt được giải thoát, cái này trong Phật giáo gọi là "Nhị thừa". Giai đoạn thứ nhất gọi là Thanh Văn thừa, giai đoạn thứ hai gọi là Duyên Giác thừa. Chúng ta tu hành thì nên suy nghĩ như vậy, "khổ, tập, diệt, đạo, 12 nhân duyên". Tiếp theo là Bồ Tát thừa, là do Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Bồ Tát lấy việc làm lợi cho người khác là chính, chỉ vì người khác, dựa vào phương pháp "lục độ". Lục độ chính là nội dung trước đây Sư Tôn thường giảng, cần bố thí, cần giữ giới, cần tinh tấn, cần nhẫn nhục, cần trí huệ, cần thiền định, dùng những phương pháp này để dạy bảo chúng sinh.
Bồ Tát lấy việc lợi tha làm chủ, dựa vào sự tu hành lục độ, Bồ Tát hoàn toàn là "ngã không", "pháp không", khi đến cảnh giới Bồ Tát thì tâm liên tục dường như cũng không có nữa. Sư Tôn cũng không còn tâm nữa, bởi vì tâm đã bị người ta lấy đi mất rồi. Vì thế, tôi không còn tâm. Đây là Bồ Tát thừa. Tôi giới thiệu đơn giản ngắn gọn mấy thừa này như vậy, bạn cho rằng tu hành rất dễ sao? Ba thừa này rất khó, đều cần tu hành thời gian dài, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói như vậy.
Có một người chủ nông trại có một con gà chạy rất nhanh, rất nhiều khách du lịch đều tranh nhau đến để xem con gà này rốt cục chạy nhanh tới mức nào. Một hôm có một phú ông đến, trông thấy con gà này, phúc ông vô cùng kích động, định bỏ tiền ra mua. Khi phú ông nói với người chủ nông trại rằng: "Ta sẽ bỏ một trăm nghìn đồng ra mua con gà của anh." thì thấy người chủ nông trại lắc đầu, nét mặt chẳng có chút biểu cảm. "Trăm nghìn đồng ít quá sao? Thế thì, hai trăm? Năm trăm? Một triệu để mua con gà của anh nhé." Mỗi lần phú ông tăng tiền, người chủ trang trại đều lắc đầu không biểu cảm gì cả. Cuối cùng, phú ông không chịu nổi nữa, bèn hỏi: "Ta đã đưa ra nhiều tiền như vậy rồi, vì sao anh không bán cho ta?" Người chủ nông trại trả lợi: "Bởi vì tôi không bắt được nó."
Tôi nói cho bạn biết, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa rất đơn giản. "Bạn hãy ngẫm nghĩ về khổ, tập, diệt, đạo thế là giải thoát rồi." "Bạn hãy ngẫm nghĩ về thập nhị nhân duyên, đến cuối cùng là không, thì bạn cũng giải thoát rồi." "Làm một Bồ Tát thì tâm nào cũng không còn nữa, tâm của chính mình cũng không còn, chỉ là luôn giúp đỡ người khác, dùng pháp lục độ vạn hành, luôn luôn giúp người." Đây là tư lương đạo, thu thập tư lương của cõi trời, thì có thể giải thoát đến nơi tốt đẹp hơn, trở thành một vị Bồ Tát, bản thân hoàn toàn không còn nữa.
Thật ra, Thanh Văn cũng là vô ngã đó. Duyên Giác cũng là vô ngã đó! Còn có vô pháp, Bồ Tát cũng là vô ngã, vô pháp đó! Sau đó lại đi làm việc lợi tha, làm những việc của tư lương đạo. Duyên Giác và Thanh Văn thì tương đối ít làm những việc của Bồ Tát thừa, chỉ là khiến cho bản thân được giải thoát xong là thôi. Vì thế, họ đều đi vào núi sâu tu hành. Còn Bồ Tát tại thế gian thì luôn giúp đỡ người khác, dùng pháp để giúp đỡ người khác, dùng tiền để bố thí giúp đỡ người khác, hơn nữa còn làm liên tục không ngừng, luôn luôn làm tư lương đạo. Đó là phương pháp của Bồ Tát, tuy nhiên cũng đều không phải là rất dễ dàng đâu. Cũng giống như con gà kia chạy rất nhanh, muốn mua được nó cũng rất khó, bởi vì bạn chẳng đuổi kịp được nó. Tu hành không dễ đâu! Phật Thích Ca Mâu Ni mới chỉ có giảng về ba loại Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa mà bạn đã khó làm được rồi, rất khó để theo kịp rồi.
Có những người rất ki bo kẹt sỉ, bo bo giữ tiền để làm cái gì? Đương nhiên cũng có lợi, chuẩn bị cho tương lai già rồi thì vẫn có tiền để tiêu, nhưng mà tiêu không hết, tiêu không hết thì hãy để làm phúc cho người khác. Còn con trai, con gái, cháu trai, cháu gái, chúng đều cần tiêu tiền của bạn, như chúng ta hiện nay đều đã đang tiêu tiền của con mình, tiêu hết sạch tiền của chúng rồi. Của mình cũng là của chúng, tiền của mình cũng là tiền của chúng sinh, sau này cũng chẳng biết tiền sẽ đi về đâu nữa. Bạn bo bo giữ chặt tiền, đến cuối cùng, con cái bạn cũng tiêu hết sạch, cháu trai cháu gái cũng tiêu hết sạch. Ông nội tôi giữ tiền chặt muốn chết, nhưng sáu bà vợ cũng tiêu hết sạch tiền của ông. Lúc ông chết thì mỗi bà vợ cũng mang theo một hòm vàng bạc châu báu, giống như chiếc hòm kho báu ở Đảo Hải Tặc vậy, còn đem theo rất nhiều tiền bạc bỏ đi nữa, bố tôi liền trở thành kẻ nghèo xác xơ. Bởi vì của cải đã bị các bà mẹ lấy đi hết rồi. Nghe nói bà nội tôi, bà là người vợ thứ ba, lúc ông nội tôi qua đời, bà cũng cầm hòm tiền dọn đi, bỏ đi đến nhà bạn trai. Ông nội thì không tiêu tiền, còn bà nội thì đem theo hòm tiền đó dọn tới nhà bạn trai, bạn trai tiêu hết sạch tiền rồi thì bà lại một mình quay trở về, trở về nhà bố mẹ tôi nói: "Anh nuôi tôi đi!" Bạn xem, ai có số may thì người ấy tiêu. Bạn cho rằng đó là tiền của bạn sao? Ông nội tôi cho rằng có sáu hòm giống như đảo kho báu, cũng từng hòm từng hòm châu báu giống như vậy, nhưng rồi ai tiêu? Sáu bà vợ đều lấy đi hết, mỗi người lại còn tái giá với người khác nữa. Bố tôi lại chẳng kiếm ra tiền. Khi tôi kết hôn, chiếc nhẫn một carat vẫn là dùng tiền lương của tôi để mua, chỉ hơi to một chút thôi, là một carat nhỉ? À 0,2 carat! Có viên nhỏ như vậy sao? Thảm quá! Tôi thật sự chẳng có tiền để cưới vợ, tôi tiết kiệm được hơn bốn vạn Đài Tệ để kết hôn, đến lúc cưới xong thì tiền cũng không còn. Cái gì là của bạn đây? Chẳng có thứ gì là của bạn cả, chẳng có đâu. Rất nhiều người cho rằng vợ là của ta, chồng là của ta, NO! Bạn cho rằng người yêu là của bạn, NO! No way! Để cho bạn trân trọng tạm thời thì được thôi.
Rất khó theo đuổi một món đồ, tu hành càng khó hơn! Bạn vào núi sâu tu hành cả đời, thật ra, công phu của bạn cũng không có được bao nhiêu. Vì thế, ba thừa mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói cũng giống như con gà chạy nhanh kia, muốn bắt nó cũng rất khó, muốn có được nó là rất khó, bạn cũng chẳng có được, bởi vì bạn chẳng có cách nào bỏ đi cái tôi, cũng chẳng thể nào bỏ hết nào là pháp, nhà cửa, xe cộ, vàng bạc tài bảo, và còn cả người mà bạn yêu nhất nữa, còn nói chuyện tu hành cái gì chứ?
Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa đều nói xong rồi. Mọi người nghe rồi là được, dù sao mọi người cũng không có nắm được, đương nhiên cũng có người nắm được, nếu bạn tu hành vô cùng nghiêm túc thì có thể xem bản thân mình thành không, buông bỏ hết tất cả mọi thứ, như thế thì cũng rất gần rồi. Chỉ là bạn không thể buông bỏ hết được, bạn không thể bỏ hết, buông bỏ không được, bản thân bạn không có cách nào biến mình thành không được, những thứ bên ngoài không thể coi như không có được, thế thì bạn không thể giải thoát được bản thân.
Tôi lại giảng tiếp về Mật tam thừa vậy! Mật giáo ban đầu có "Sự mật", lúc mới bắt đầu là "Sự mật". Thế nào là "Sự mật"? Điều tôi nói đến là "Pháp sự mật", Bổn tôn là Bổn tôn, bạn cần lễ bái Bổn tôn giống như người hầu, sau đó là cúng dường Bổn tôn. Bổn tôn là chủ nhân của bạn, bạn là người hầu, Mật pháp như vậy gọi là pháp "Sự mật". Tôi phân biệt một cách đơn giản cho mọi người thấy thế nào gọi là "Sự mật". Đó là mọi loại phương pháp phục vụ Bổn tôn của bạn. Bạn muốn thỉnh Bổn tôn đến, ví dụ như muốn thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu, đầu tiên bạn phải niệm kinh chú của Chuẩn Đề Phật Mẫu, niệm bảy ngày bảy đêm, đốt đèn để cúng dường, lấy hoa, hương, đèn, trà, quả để cúng dường, cuối cùng Bổn tôn sẽ hạ giáng.
Lúc này Bổn tôn sẽ gia trì cho bạn, bạn giữ giới luật của Bổn tôn, bạn tu trì pháp của Bổn tôn, đây gọi là "Sự mật". Cơ sở đầu tiên của Mật giáo đó là Bổn tôn là chủ nhân của bạn, bạn là người hầu, mỗi ngày bạn đều phải cúng dường Bổn tôn, lễ lạy Bổn tôn, cần sám hối với Bổn tôn, bạn làm sai việc gì, phạm vào giới luật gì, bạn đều phải sám hối với Bổn tôn, cách thức mở đầu chính là như vậy. Bổn tôn là chủ nhân của bạn, bạn là người hầu, cách tu hành Mật giáo như vậy gọi là "Sự mật", có thể giúp thanh tịnh sắc thân của bạn. Thân thể của bạn giữ giới luật, khẩu giữ giới luật, ý niệm giữ giới luật, đó là điều quan trọng nhất. Khi thỉnh cầu Bổn tôn gia trì, bạn phải làm đủ các nghi quỹ, để Bổn tôn gia trì cho bạn, đây là phương pháp số một.
Thứ hai là tiến thêm một bước nữa, gọi là "Hành mật". Đây là nấc thang thứ năm (thứ tự). Thế nào là "Hành mật"? Nghĩa là Bổn tôn và bạn đã có thể "đối sinh" rồi. Cái mà hiện tại chúng ta đang tu chính là "Hành mật". Thế "Hành mật" là gì? Chính là Bổn tôn xuất hiện trên biển, tại hoa sen, tại nhật nguyệt luân, từ chú tự xoay vòng, Bổn tôn xuất hiện rồi, bạn không cần phải niệm kinh rất lâu nữa, bạn chỉ cần trì chú của Ngài là được rồi, hoặc là quán tưởng Ngài là được rồi, hoặc kết thủ ấn của Ngài là được rồi. Làm như vậy thì Ngài sẽ đến để gia trì cho bạn, khiến thân khẩu ý của bạn thanh tịnh, đây gọi là làm "đối sinh". Bổn tôn là Bổn tôn, bạn là bạn, nhưng một cách nhanh chóng, Bổn tôn liền xuất hiện, đây gọi là "đối sinh".
Đương nhiên cũng cần cúng dường Ngài, bái lạy Ngài, thỉnh cầu Ngài gia trì, để khiến cho thân khẩu ý của bản thân bạn được thanh tịnh, đây gọi là "Hành mật". "Sự mật" nói về phương pháp phụng sự Bổn tôn, bạn là người hầu. Đến "Hành mật" thì Bổn tôn chính là bạn bè của bạn, mối quan hệ giữa bản thân bạn và bạn bè. "Tôi mời … {祂-也+你-人} đến nhà tôi, tôi dâng trà cho bạn, mời bạn gia trì cho tôi, chỉ đạo cho tôi về Phật pháp." Lúc này gọi là "Hành mật", có nghĩa là Bổn tôn có thể đối diện với bạn, tác dụng của "đối sinh" cũng là thanh tịnh thân khẩu ý của bạn.
"Du già mật" chính là bậc thứ sáu. Tôi tóm gọn một cách đơn giản, mật thứ nhất, Bổn tôn là chủ nhân của bạn; mật thứ hai, Bổn tôn là bạn, friend của bạn; mật thứ ba "Du già mật" thì Bổn tôn chính là bạn rồi, như thế là tương ứng rồi. "Du già mật" chính là tương ứng, bạn và Bổn tôn đã rất gần rồi, Bổn tôn dung nhập vào bên trong thân thể của bạn, lời bạn nói ra là lời của Bổn tôn, âm thanh bạn nghe thấy chính là âm thanh của Bổn tôn, thân thể bạn chính là Bổn tôn, đây chính là giai đoạn thứ sáu.
Mật tam thừa có ba giai đoạn: Sự mật, Hành mật, Du già mật, là do Kim Cang Tát Đỏa giảng, cũng có thể nói rằng do Kim Cang Thủ Bồ Tát giảng, nói như vậy là rất rõ ràng rồi nhỉ! Mật giáo cao nhất, chúng ta còn chưa nói đến Ma ha du già, A nỗ du già, A để du già, bởi vì pháp Đại Viên Mãn đặc biệt nói về A để du già, còn chúng ta chỉ mới nói đến Mật tam thừa thôi. Mật thứ nhất, Bổn tôn là chủ nhân của bạn, mật thứ hai - Hành mật - Bổn tôn là bạn của bạn, mật thứ ba gọi là Du già mật, Du già mật thì gọi là tương ứng. Khi đã tương ứng cùng Bổn tôn thì Bổn tôn chính là bạn, bạn chính là Bổn tôn.
Ở Đài Loan, có một lần tôi ho rất dữ dội, không có cách nào ngừng ho. Kì lạ! Lên pháp tọa thì không ho, xuống khỏi pháp tọa thì lại ho. Vì thế, rất ít người biết tôi đang bị ho, tôi ho rất dữ dội. Thế nhưng hễ lên pháp tọa, bắt đầu giảng pháp thì lại không ho nữa. Cổ họng tôi ngứa thì ấn vào một chút là cũng không ho nữa. Khi một người bị ho thì rất khó mà bảo họ không ho nữa là có thể không ho, nếu mà thế thì bạn đã là bác sĩ rồi! Chuyên trị ho! Trong Du già mật, tôi đã tu đến mức độ tương ứng rồi, Bổn tôn chính là tôi, tôi chính là Bổn tôn đó! Mỗi lần khi tôi sờ đầu cho mọi người, tôi chắp tay lại, sau đó Bổn tôn liền hạ giáng xuống thân tôi, tay của tôi chính là tay của Diêu Trì Kim Mẫu, khi sờ đầu thì chính là tay của Diêu Trì Kim Mẫu đang sờ đầu mọi người đó, có nghĩa là Bổn tôn của tôi đang sờ đầu mọi người. Đó là Du già mật.
Bạn có thể khiến cho Bổn tôn của bạn dung nhập vào bên trong thân thể của bạn, hợp nhất cùng với bạn, thì đó gọi là Du già mật. Vì thế, khi tôi bị ho, chữa không khỏi, tôi đã khám nhiều bác sĩ rồi đều chữa không khỏi, phải làm sao đây? Có một hôm, tôi đột nhiên nhớ đến Du già mật, tôi liền nói với Diêu Trì Kim Mẫu: "Diêu Trì Kim Mẫu à! Ngài chính là con, con chính là Ngài, Ngài có thích bị ho không? Con đang bị ho đây! Lẽ nào Ngài không ho sao? Ngài cũng phải ho chứ? Nếu như Ngài không thích ho thì hãy để con khỏi ho đi!" Ngày hôm sau tôi khỏi luôn rồi! Nói chuyện với Kim Mẫu như thế là khỏi rồi!
Còn có một lần, cũng là khi tôi ở Đài Loan, tôi gặp một chứng bệnh viêm da cơ địa, rất nặng! Tôi cũng nói với Diêu Trì Kim Mẫu: "Diêu Trì Kim Mẫu, con đã đi khám hết các bác sĩ rồi, thuốc gì cũng bôi hết rồi, thuốc gì cũng uống cả rồi, Ngài là con, con là Ngài mà! Ngài không giúp con thì còn giúp ai đây? Con uống một chén nước cúng dường Ngài, đây chính là thuốc, ngày mai sẽ phải khỏi đó." Đúng thật! Ngày hôm sau tôi đã khỏi rồi. Cô Honifa phiên dịch viên có biết sự việc này. Cô ấy nói: "Ấy! Thật à!" Thật sự là ngày hôm sau tôi đã khỏi hoàn toàn, Sư Mẫu cũng biết chuyện này, chứng viêm da cơ địa kì lạ đó! Các loại thuốc tôi đều đã uống rồi, thuốc tiêm cũng tiêm rồi, các loại thuốc bôi cũng đều bôi rồi, chẳng có cái nào khỏi cả, uống chén nước của Diêu Trì Kim Mẫu thì khỏi luôn.
Trong lớp của thiền sư Dược Sơn có hai đệ tử, một người tên là Đạo Ngộ, một người tên là Vân Nghiêm. Một hôm, mọi người đang ngồi ở ngoại ô tham thiền, trông thấy bên đường có một cái cây mọc rất sum sê, lá xanh um tùm, còn một cái cây khác thì lại chết khô. Thiền sư Dược Sơn liền thử kiểm tra công hành của hai đệ tử, đầu tiên hỏi Đạo Ngộ: "Cây sum sê tốt, hay cây chết khô tốt?" Đạo Ngộ liền trả lời: "Cây sum sê tốt." Câu trả lời này không có đạo hạnh gì cả. Hỏi Vân Nghiêm, Vân Nghiêm nói: "Cây khô tốt." Câu trả lời này cũng chẳng có đạo hạnh gì cả. Lúc này vừa hay có một sa-di tới, thiền sư Dược Sơn bèn hỏi anh ta: "Là cây sum sê tốt, hay cây chết khô tốt?" Sa-di liền nói: "Sum sê thì kệ nó sum sê, chết khô thì kệ nó chết khô." Đây là cảnh giới cao nhất của tâm, chỉ có hai chữ "bất động", tâm của bạn mà động thì là chết rồi.
"Có tiền tốt, hay là không có tiền tốt?" Mọi người đều nói: "Có tiền tốt." Người tu hành chân chính thì là như thế này, "có tiền cũng tốt, không tiền cũng tốt, tiền nhiều cũng tốt, tiền ít cũng tốt, không tiền cũng tốt". Đây mới là hành giả chân chính. Sư Tôn bảo mọi người, mọi người báo danh đèn quang minh, báo danh Thái Tuế, hoặc cái gì đó, làm siêu độ, làm cầu phúc, phí báo danh tùy ý, nghĩa là ý gì? Nghĩa là nhiều cũng tốt, ít cũng tốt, không có cũng tốt, chính là bất động đó! Bạn không bị ảnh hưởng. Trên thực tế, trên thế giới này, tâm của mỗi người đều chịu ảnh hưởng, hôm nay người ta chửi bạn một câu, bạn liền nghĩ tận ba ngày xem cần chửi trả người ta thế nào.
Ví dụ như một cô gái xinh đẹp đi trên đường, một chàng trai từ phía sau đi tới, khoác lấy vai cô. Cô gái xinh đẹp này liền nói buổi tối cô ấy sẽ không ngủ được mất, bởi vì chàng trai kia đã ăn mất "đậu phụ" của cô ấy rồi, trái tim đã xúc động lắm rồi! Trái tim của mỗi người đều kích động rồi thì ai đó nói một câu rất khó nghe, bạn nghe thấy thì: "Ai da! Tôi chịu không nổi nữa.", thế là buổi tối liền mất ngủ. Sư Tôn cũng từng mất ngủ, vì sao lại mất ngủ? Vì trái tim rung động đó mà! Còn một điểm khác, là bạn tuổi tác đã cao rồi, chất melatonin không còn nữa, về mặt sinh lý, con người đi ngủ, mắt nhắm lại, chất melatonin cứ thế sản sinh ra, chính là hormone, khiến bạn đi vào trạng thái ngủ. Nếu như bạn không có chất melatonin, tuổi tác đã cao, hormone giảm bớt, thì sẽ mất ngủ, là do chất melatonin không còn nữa.
Về mặt tâm lý, bạn có chuyện phiền não, nghĩ không thông, thì tối đó bạn cũng sẽ không ngủ được. Bạn không có chuyện gì, vô sự vô tâm, thì chỉ một lúc là đi vào giấc mộng rồi. Bạn cũng không biết lúc nào mình ngủ nữa, dường như lên giường là ngủ luôn rồi. Ngủ ra sao? Bạn cũng không nói ra được, dù sao thì cũng ngủ mất rồi. Người không ngủ được thì cứ nằm bên cạnh quay qua quay lại, bởi vì có điều phiền não mà! Về mặt tâm lý có phiền não, về mặt sinh lý thì chất melatonin đã ít đi một nửa, thì bạn sẽ mất ngủ. Chính là vì bạn "bất không". Vốn dĩ chính là như vậy. Một cái là sinh lý, một cái là tâm lý. Nếu bạn thật sự bất động, ngã không, pháp không, thì ba thừa đầu tiên cũng gần như đủ tốt rồi.
Sự mật, Hành mật, Du già mật, Sư Tôn cũng đã giải thích rất rõ ràng rồi. Mặc dù nói đơn giản và ngắn gọn thì cũng đã nói cho mọi người rõ ràng rồi. Lần sau tôi sẽ giảng tiếp về ba thừa sau cùng là Ma ha du già, A nỗ du già, A để du già. Om mani padme hum.
(Hết tập 1)