📙

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

image

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

Đây là bản kinh được sử dụng và lưu truyền trong Chân Phật Tông.

Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

(Dịch từ nguyên bản tiếng Trung trong Phật Đệ Tử Văn Khố - Đài Loan)

Mục lục

Quyển Thượng

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật ở thành Vương Xá, cùng với tám vạn đại tì kheo, các Bồ Tát ba vạn sáu nghìn người. Trong một đời đã rời xa tất cả cái chướng. Ở trước Như Lai. Khuyên thỉnh tuyên thuyết. Phương tiện mật ý. Làm thành Phật địa. Đều được thanh tịnh. Sự nghiệp Như Lai. Nhậm vận thành tựu. Nhờ uy đức của chư Phật mà kiến lập. Để bảo hộ pháp khí. Thọ trì Đại thừa. Như sư tử gầm. Chấn đại pháp lôi. Mười phương nghe tiếng. Đức ấy cao lớn. Như núi Tu Di. Trí năng sâu rộng. Tựa như biển lớn. Hàng phục chúng ma. Hút các ngoại đạo. Khiến họ thanh tịnh. Có đủ mọi lực. Vô ngại giải thoát. An trụ bất động. Niệm định tổng trì. Vui thuyết biện tài. Tứ đẳng lục độ. Vô lượng phương tiện. Tất cả pháp nghĩa. Đều có đầy đủ. Tùy thuận chúng sinh. Chuyển bất thối luân. Chỉ trí hữu-vô. Khéo giải pháp tướng. Hiện vào ba cõi. Năm mắt thấy biết. Căn của chúng sinh. Uy đức vô lượng. Chở che đại chúng. Thiền định trí năng. Để tu tâm ấy. Tướng đẹp nghiêm thân. Mọi tướng đệ nhất. Tâm như hư không. Xả mọi sắc đẹp ở trong thế gian. Đạt mọi pháp tính. Trí năng vô ngại. Khéo biết chúng sinh. Vãng lai các cõi. Đủ mọi tam muội. Gần vô đẳng đẳng. Trồng căn lành lâu. Đắc được trí năng tự tại của Phật. Có đủ mười lực. Bốn không sợ hãi. Mười tám bất cộng pháp. Thông đạt các cõi lành. Đóng mọi cửa ác đạo. Xem chúng sinh bình đẳng. Coi như con của mình. Thị hiện sinh thân. Ở trong năm cõi. Muốn độ chúng sinh. Làm đại y vương. Sống trong sinh tử. Khéo biết các bệnh. Cho thuốc đúng bệnh. Bảo họ uống vào. Mãi lìa sinh tử. Có ai nghe được. Đều được giải thoát. Có được đầy đủ công đức vô lượng. Đã từng cúng dường, trong kiếp quá khứ, vô lượng chư Phật. Thấy rõ Phật tính. Như các Như Lai. Thường nói chúng sinh. Đều có Phật tính.

Các vị ấy là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát. Định Quang Bồ Tát Ma Ha Tát. Long Thụ Bồ Tát Ma Ha Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát. Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Dược Thượng Bồ Tát Ma Ha Tát. Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát. Đà La Ni Bồ Tát Ma Ha Tát. Bảo Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát. Bất Hưu Tức Bồ Tát Ma Ha Tát. Tín Tướng Bồ Tát Ma Ha Tát. Vô Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát. Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát như thế có ba vạn sáu nghìn người.

Lại có tám mươi vạn ức chư thiên uy lực. Và các tì kheo, tì kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, người, loài không phải người... Vua Thích Đề Hoàn Nhân và vô lượng thiên nhân. Ở tại không trung. Mưa báu hoa trời. Vô lượng thiên nhạc. Tự nhiên tạo ra. Phạm Ma Tam Bát Thiên. Đốt hương trời vi diệu. Cung dường các Như Lai. Hương khói khắp thập phương, trải vô lượng thế giới. Nguyện đều cúng dường khắp, tất cả Phật mười phương. Cúng dường mười phương tất cả mọi pháp. Cúng dường mười phương tất cả các đại Bồ Tát. Các chư thiên này. Vì lợi như thế. Cúng dường chư Phật. Để cầu Đại thừa. Tức đạo vô thượng.

Bấy giờ Thế Tôn. Cùng vô lượng vô biên đại chúng như vậy vây quanh trước sau. Đi về phía rừng cây sa la. Vào ngày 15 tháng 2. Lúc sắp nhập niết bàn. Dùng thần lực Phật. Đại bi che chở. Thu nhận chúng sinh. Phát âm thanh lớn. Âm thanh đầy ắp. Tất cả mười phương. Tùy tiếng mỗi loài. Để bảo chúng sinh. Hôm nay Như Lai Ứng Chính Biến Tri. Thương xót chúng sinh, che chở chúng sinh, thu nhận chúng sinh. Đều coi bình đẳng. Như con của mình. Người không nơi nương dựa, ta làm nơi nương dựa. Người chưa thấy Phật tính, ta cho thấy Phật tính. Người chưa rời phiền não, ta cho rời phiền não. Người chưa được yên ổn, ta cho được yên ổn. Người chưa được giải thoát, ta cho được giải thoát. Người chưa được an lạc, ta cho được an lạc. Người chưa lìa nghi hoặc, ta cho lìa nghi hoặc. Người chưa được sám hối, ta cho được sám hối. Người chưa được niết bàn, ta cho được niết bàn.

Khi ấy bên đường. Sạch sẽ bằng phẳng. Đất lành may mắn. Ngang dọc ngay ngắn. Mười nghìn do tuần. Phật thấy đất này. Sạch sẽ bằng phẳng. Liền dừng chân nghỉ. Bảo các tì kheo. Nay ở tại đây. Có thể thuyết pháp.

Khi ấy. Tì kheo A Nan bạch Phật rằng. Thế Tôn! Như Lai Thế Tôn, xưa thường thích núi. Có suối thanh tịnh. Vườn cây hoa trái. Nay ở chỗ này. Không có suối chảy. Cũng chẳng có cây. Cũng không làng mạc, quốc thổ nhân dân. Hôm nay Như Lai. An cư thuyết pháp. Người từ xa đến. Đói lả mệt nhoài. Tính mạng không ổn. Có ăn có mạng. Có mạng có thân. Có thân có đạo. Không ăn không mạng. Không mạng không thân. Không thân không đạo. Nay ở nơi này. Không có những việc phù hợp như vậy. Làm sao Thế Tôn, ở đây thuyết pháp?

Khi ấy, bậc đại trí Xá Lợi Phất. Dùng trí lực Phật. Bảo A Nan rằng. Trước nên vì pháp. Không cần nghĩ nhiều. Như Lai Thế Tôn. Không chỉ mười lực. Bốn không sợ hãi. Như Lai Thế Tôn. Có sức mạnh vô lượng. Tất cả không lo ngại. Trí năng vô lượng. Uy thần vô lượng. Người không nơi nương dựa, cho có nơi nương dựa. Người chưa thấy Phật tính, lệnh cho thấy Phật tính. Người chưa rời phiền não, lệnh cho rời phiền não. Người chưa được yên ổn, lệnh cho được yên ổn. Người chưa được giải thoát, lệnh cho được giải thoát. Người chưa được an lạc, lệnh cho được an lạc. Người chưa lìa nghi hoặc, lệnh cho lìa nghi hoặc. Người chưa được sám hối, lệnh cho được sám hối. Người chưa được niết bàn, lệnh cho được niết bàn. Như Lai Thế Tôn. Có thần lực vô lượng như vậy. Lo gì Như Lai. Mà không tự nhiên. Tôi nhớ ngày xưa. Duy Ma Đại Sĩ. Vì chúng sinh thuyết pháp. Bồ Tát phương khác. Thanh Văn Duyên Giác. Chư Thiên uy lực. Long Thần đại chúng. Tụ tập trong nhà. Chưa từng có ăn. Khi ấy tôi nghĩ. Các thiên chúng này. Lấy gì mà ăn. Đại Sĩ Duy Ma. Liền bảo tôi rằng. Thanh Văn thiếu trí. Nên nhớ chính pháp. Nói phải thấy rằng. Cơm áo ghế giường. Là làm hại mạng. Duy Ma Đại Sĩ. Khi nói lời ấy. Thiên nhân đắc đạo. Còn tôi hổ thẹn. Nay điều ông nghĩ. Cũng lại như thế.

Khi ấy Như Lai. Liền bảo A Nan. Thật đúng như lời đại trí Xá Lợi Phất nói. Nên nghĩ Đại thừa. Chớ nghĩ an thân. Nói xong lời ấy. Liền nhập tam muội. Dùng uy thần lực. Ngay trên mặt đất. Có bông hoa vàng. Từ đất mọc lên. Hoa ấy vươn cao. Bốn mươi vạn do tuần. Phủ khắp ba nghìn đại thiên thế giới. Lưới võng lưu ly, phủ trên hoa vàng. Bên dưới hoa vàng, có hồ bơi quý, ngang hàng với hoa, tên là nước tám loại công đức. Nước thơm tràn đầy. Xung quanh hồ nước có đủ loại hoa. Có hoa upala. Có hoa kumuda. Có hoa paduma. Có hoa pundari. Các loài hoa như thế. Vô lượng đủ loại danh hoa. Trang nghiêm hồ quý. Nếu nhìn hoa vàng hồ quý như vậy. Đắc pháp nhãn tịnh. Huống chi xuống nước, tắm ở trong hồ. Nếu được tắm gội, sẽ đắc thanh tịnh vô sinh pháp nhẫn. Bên dưới hoa vàng. Có bảo tọa sư tử. Sư tử tọa này. Cao trăm do tuần.

Khi ấy Như Lai. Ngồi trên bảo tọa. Các lỗ chân lông. Toàn thân trên dưới. Phóng đại quang minh. Ánh vàng của Như Lai. Cùng sắc với hoa vàng. Xung quanh hoa quý. Ánh vàng tuôn ra. Chiếu khắp mười phương, tất cả Phật thổ. Hoa vàng ánh Phật. Chiếu đến nơi nào. Sơn cốc lãnh thổ. Cao thấp bằng phẳng. Đều thành kim sắc. Không còn nhơ bẩn. Địa ngục ngừng lại. Ngạ quỷ giải thoát. Trừ Nhất-xiển-đề [Icchantika - hạng người không có lòng tin]. Báng kinh Phương Đẳng. Với thần lực Phật. Các quốc thổ khác. Và cả cõi này. Đều là ngang hàng. Không có khác biệt. Thập phương chư Phật. Thấy ánh sáng ấy. Đồng loạt cất lời. Tán thán Thích Ca. Lành thay lành thay. Thế Tôn đại từ. Nay phóng quang minh. Khác ánh sáng thường. Ngày xưa phóng quang. Chiếu phương đông trước. Ngày nay phóng quang. Cùng lúc bốn phương. Chiếu khắp mười phương. Nên biết ánh sáng này, muốn độ tất cả chúng sinh khổ não. Ra ngoài ba cõi. Đến đại niết bàn.

Khi ấy. Chư Phật mười phương. Dị khẩu đồng thanh. Bảo các thị giả. Các đại Bồ Tát. Các thiện nam tử. Các người nên biết. Hôm nay trong nước thế giới Ta Bà. Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Phóng đại quang minh. Tất nói diệu pháp. Độ chúng sinh khổ. Giờ đây các người. Nên sang nước đó. Cúng dường Phật ấy. Xin giải mối nghi. Nghe kinh nhận pháp. Chúng sinh nước ấy. Trước nay cương ác. Giả dối không thật. Không tin một thừa. Thích Ca đại từ. Vạn phương tiện khéo. Để mở ba thừa. Độ thoát ba cõi. Tuy nói ba thừa. Thượng ngữ cũng khéo. Trung ngữ cũng khéo. Hạ ngữ cũng khéo. Nghĩa vị thậm thâm. Đầy đủ thuần khiết. Phật Thế Tôn ấy. Trăm nghìn vạn kiếp. Cũng chẳng gặp được. Kinh pháp nói ra. Chẳng dễ được nghe. Đại chúng nước ấy. Chẳng dễ gặp thời. Nơi Thích Ca sinh. Kim hoa kỳ diệu. Chẳng dễ được thấy. Vì thế các người. Nay qua nước ấy. Gặp được Phật ấy. Thỉnh hỏi điều nghi. Mình được lợi ích. Lợi cả chúng sinh.

Lời ấy nói xong. Mười phương cõi Phật. Mỗi cõi đều có. Mười ức Bồ Tát. Lập tức đứng dậy. Để làm lễ Phật. Rồi cùng đi đến. Mỗi một Bồ Tát. Đều có trăm nghìn âm nhạc. Mưa báu diệu hoa. Đi đến chốn Phật. Khi tới nơi rồi. Nhiễu Phật bảy vòng. Lễ dưới chân Phật. Lui ngồi một bên. Cùng nhau nói ra. Dị khẩu đồng thanh. Mà bạch Phật rằng. Thế Tôn. Chúng con hôm nay. Có điều nghi vấn. Cúi mong Thế Tôn. Vì chúng con nói. Lợi ích chúng sinh.

Khi ấy. Phật bảo các Bồ Tát Ma Ha Tát đến đó rằng. Các thiện nam tử. Nếu có điều nghi. Nay đều hỏi được. Ta sẽ vì ngươi. Quyết định nói rõ.

Khi ấy. Các Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Như Lai nước con. Chỉ nói một thừa. Cớ sao Như Lai. Lại nói ba thừa.

Khi ấy Thế Tôn. Dùng trí vô ngại. Bảo các Bồ Tát. Hôm nay các người. Vì lợi chúng sinh. Hỏi ta nghĩa đó. Vậy hãy lắng nghe. Các thiện nam tử. Ví dụ một người. Lại có ba tên. Khi nhỏ gọi thiếu niên. Hai mươi gọi trung niên. Quá tám mươi gọi lão niên. Nay ta nói ba thừa. Cũng là vì như thế. Với người Thanh Văn, tâm còn sơ bé, ta nói Tiểu thừa. Với người Duyên Giác, tâm ở mức trung, ta nói Trung thừa. Với người Bồ Tát, có đạo tâm lớn, ta nói Đại thừa. Các thiện nam tử. Hãy nghe cho kĩ. Lý vô nhị biên. Đồng quy một chốn. Tách ra khác luật. Chung quy nhất quán. Lý là một thừa. Phân thành ba thừa. Thanh Văn Duyên Giác thừa. Đều nhập Đại Thừa. Như Đại thừa đó. Tức là Phật thừa. Cho nên ba thừa. Tức là một thừa.

Khi thuyết pháp này. Trong hội tất cả. Mười nghìn Bồ Tát. Đắc vô sinh nhẫn. Tám trăm tì kheo. Đắc quả La Hán. Hai vạn thiên nhân. Đắc pháp nhãn tịnh. Tám trăm vạn người. Phát tâm bồ đề.

Khi đó Bồ Tát. Đến từ mười phương. Cùng nhau chắp tay. Mà bạch Phật rằng. Chúng con hôm nay. Nhờ lực Phật kia. Mà đến nước này. Được thấy Thế Tôn. Được nghe Đại thừa. Mong cho chúng con. Thọ trì kinh này. Sau khi Phật diệt. Ở quốc độ này. Và những nơi khác. Dưới cây núi rừng. Nơi thần tiên ngụ. Thành thị làng mạc. Đồng hoang mộ địa. Dưới cây đất trống. Tháp chùa tăng phường. Các hội giảng pháp. Nơi người tục ở. Nhà nhà người người. Lan truyền rộng rãi. Khiến kinh còn mãi. Là vì cớ sao. Kinh này tồn tại. Khiến cho đường ác. Cắt đứt lâu dài. Sở dĩ như thế. Từng nghe Phật nói. Địa ngục chẳng nhàn. Nếu tụng một câu. Chư Thiên hoan hỷ. Thường đến thân cận. Tự nhiên tu thiện. Nếu có người nào. Nghe kinh Phương Quảng. Vui mừng kính tín. Viết chép đọc tụng. Thọ trì lễ bái. Xưng niệm trong kinh. Một danh hiệu Phật. Một tên Bồ Tát. Người ấy đời này. Được sống yên ổn. Không thấy cái ác. Đến khi mệnh hết. Bồ Tát chúng tôi. Đến trước người đó. Dẫn về nước tôi. Cùng sinh một nơi. Là duyên cớ gì. Là vì người đó. Thọ trì kinh này. Người thọ trì kinh. Tức giữ thân Phật. Người giữ thân Phật. Nên biết người ấy. Tức là Bồ Tát. Vì thế người này. Bạn học cùng tôi. Ấy là nhân duyên. Thọ trì kinh này. Nguyện sinh một chốn. Không lìa bỏ nhau.

Khi ấy lại có. Các quỷ thần vương. Đại Phạm Thiên Vương. Ba mươi ba thiên. Hộ thế Tứ Thiên Vương. Kim Cang Mật Tích. Các quỷ thần vương. Tán Chỉ Đại Tướng. Na La Long Vương. Nan Đà Long Vương. Bà Nan Đà Long Vương. A Tu La Vương. Ca Lâu La Vương. Đại Biện Thiên Vương. Quỷ Tử Mẫu Thiên Vương. Quỷ thần thần vương các núi. Thụ Thần Vương. Hà Thần Vương. Hải Thần Vương. Địa Thần Vương. Thủy Thần Vương. Hỏa Thần Vương. Phong Thần Vương. Thế rồi vô lượng vô biên các thần vương. Và đại chư Thiên. Đứng dậy khỏi chỗ. Cúi dưới chân Phật. Chắp tay cung kính. Mà bạch Phật rằng. Thế Tôn. Từ nay chúng con. Thường thường hộ trì. Lời Thế Tôn nói. Kinh Phương Quảng này. Nơi nào có kinh. Thần vương chúng con. Thường ở trước kinh. Mà làm thanh tịnh. Nếu ở trong tháp. Hoặc ở trong đền. Tại nhà cư sĩ. Hoặc nơi trống trải. Nếu có người nào. Dùng tay bất tịnh. Cầm lấy kinh này. Hoặc chẳng cung kính. Đọc tụng kinh này. Con khiến kẻ đó. Đi đứng ngồi nằm. Thân tâm bất an. Khắp nơi sợ hãi. Vướng mắc việc ác. Thân này không yên. Chết vào địa ngục. Nếu người cung kính. Thân tâm thanh tịnh. Cầm vào kinh này. Tắm gội thắp hương. Thọ trì đọc tụng. Hoặc là viết chép. Ghi nhớ không quên. Nhớ kinh điển này. Không làm việc ác. Nếu được như thế. Thần vương chúng con. Vì kinh điển này. Bảo hộ người ấy. Người ấy nếu nằm. Thì đứng phía trước. Không cho thấy ác. Và cũng không cho. Ác nhân ác quỷ. Làm hại người ấy. Hoặc nơi họ sống. Bảo vệ nhà ở. Nếu muốn đi lại. Thần vương chúng con. Đi trước người đó. Để mà mở đường. Muốn gì cho nấy. Đi lại bốn phương. Chẳng hề chướng ngại. Thường thấy việc lành. Tới khi mệnh chung. Sinh lên cõi trời. Nhờ đó gặp Phật. Không mất Đại thừa.

Khi đó Thế Tôn. Bảo các Bồ Tát. Và thần vương rằng. Đúng vậy đúng vậy. Điều các người nói. Như kinh điển này. Không thể được nghe. Huống hồ nhìn thấy. Nếu muốn thọ trì. Đọc tụng kinh này. Thường tắm gội sạch. Mặc quần áo mới. Quét sạch nhà cửa. Treo lên cờ lọng. Trang nghiêm trong nhà. Thắp mọi hương thơm. Chiên đàn hương. Bột hương. Các loại phấn thơm. Lễ bái. Sáu thời như thế. Ban đầu một ngày. Cho đến bảy ngày. Trong thời gian đó. Đọc tụng kinh này. Chính tâm chính ý. Chính niệm chính quán. Chính tư duy. Chính tư nghì. Chính thọ trì. Chính dụng hành. Chính giáo hóa. Ngày đêm sáu thời. Lễ bái trong kinh. Chư Phật Bồ Tát. Mười hai bộ kinh. Nếu mà có thể. Lễ bái đọc tụng. Cung kính tin theo. Tội nặng được nói. Ở trong kinh này. Đều diệt trừ hết. Chẳng có nghi ngờ. Là cớ vì sao. Kinh Đại Phương Quảng. Mười phương chư Phật. Theo đó tu hành. Theo đó hộ trì. Là mẹ chư Phật. Là vua các kinh. Kho tàng diệu nghĩa. Là đạo Bồ Tát. Kinh điển Đại thừa. Rộng sâu vi diệu. Cũng như thế gian. Có đủ sáu đại. Không thể nghĩ bàn. Sáu đại là gì. Một là đại địa. Hai là đại thủy. Ba là đại hỏa. Bốn là đại phong. Năm là đại nhật. Sáu là đại không. Kinh như đại địa. Chứa đựng tất cả. Sạch bẩn tốt xấu. Kinh như đại thủy. Tẩy trừ uế ác. Mọi thứ bất tịnh. Kinh như đại hỏa. Đốt cháy tất cả. Phiền não uế ác. Mọi thứ bất tịnh. Kinh như đại phong. Thổi bay tất cả. Bất tịnh uế ác. Kinh như đại nhật. Phổ chiếu tất cả. Những chỗ tối tăm. Kinh như đại không. Có thể dung nạp. Tất cả tốt xấu. Kinh Phương Quảng này. Là kinh Đại thừa. Quảng đại vô đối. Cao đến Bồ Tát. Vừa đến Thanh Văn. Thấp đến hữu tình. Đều dung nạp hết. Vì thế các người. Thọ trì kinh này. Lưu truyền kinh này. Tín kính kinh này. Sẽ khiến các người. Và các Bồ Tát. Nhập trí huệ Phật. Thấy rõ Phật tính. Sẽ khiến các người. Chư thiên thần vương. Và người thọ trì. Thường được thấy ta. Và thấy tất cả. Chư Phật vị lai. Chuyển đại pháp luân. Ngồi tại đạo tràng.

Đại chúng khi ấy. Có một Bồ Tát. Tên là Tín Tướng. Từ trong đại chúng. Đứng khỏi chỗ mình. Sửa sang y phục. Lễ dưới chân Phật. Và bạch Phật rằng. Thế Tôn. Nay chúng con đây. Có điều muốn hỏi. Kính mong Thế Tôn. Vì con mà nói. Lời Thế Tôn nói. Có lợi ích lớn. Vô lượng chúng sinh.

Khi ấy. Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Nếu có điều hỏi. Tùy ý hỏi đi. Ta sẽ vì ngươi. Mà giải thích rõ. Điều ngươi muốn hỏi. Cũng lợi ích lớn. Vô lượng chúng sinh.

Tín Tướng Bồ Tát. Bèn bạch Phật rằng. Thế Tôn! Con nhớ ngày xưa. Quá khứ xa lắm. Vô lượng đời trước. Có Phật Thế Tôn. Tên là Bảo Thắng. Người nghe tên Phật. Đều sinh về trời. Sau đó không lâu. Ở tại vương quốc Thiên Tự Tại Quang. Trong đồng cỏ hoang. Có một hồ lớn. Nước đã cạn khô. Ở trong hồ có. Mười nghìn cá lớn. Bị phơi dưới nắng. Sắp vào cửa tử. Có một đại sĩ. Tên là Lưu Thủy. Nhìn thấy cá lớn. Sinh lòng từ bi. Cho nước thức ăn. Sống thêm ít ngày. Biết mạng cá ngắn. Nên xưng ba lần. Tên Phật Bảo Thắng. Cá nghe thấy được. Lập tức chết cả. Sinh về Đao Lợi. Vì nhân duyên này. Nay mong Thế Tôn. Vì đại chúng đây. Và các chúng sinh. Ở đời tương lai. Nói tên chư Phật. Và nghe danh hiệu. Thích Ca Thế Tôn. Cũng được lợi ích. Vô lượng vô biên. Vô biên công đức. Thường sống ở nơi. Giàu có vui vẻ. Đã thấy Phật tính. Nhờ nhân duyên này. Nên xin thỉnh cầu. Mong nguyện nói rõ. Độ thoát trọng tội. Do những giới cấm. Mê hoặc chúng sinh.

Khi ấy Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát Ma Ha Tát. Thiện nam tử. Nếu ta quảng thuyết tất cả danh hiệu chư Phật mười phương. Trăm nghìn vạn kiếp. Cũng chẳng nói hết. Tất cả thứ nước. Đếm được số giọt. Cũng không biết hết. Danh hiệu chư Phật. Các núi Tu Di. Biết được cân lạng. Cũng không biết hết. Danh hiệu chư Phật. Tất cả mặt đất. Đếm được hạt bụi. Cũng không biết hết. Danh hiệu chư Phật. Thế giới hư không. Biết được ranh giới. Cũng không biết hết. Danh hiệu chư Phật. Ta vì các người. Lược nói ba đời. Danh hiệu chư Phật. Nếu ai nghe được. Qua tai một lần. Tới lúc mạng hết. Cũng sinh về trời. Nghe rồi tín kính. Lại còn cố gắng. Ra sức chép viết. Xưng tên lễ bái. Diệt được vô lượng. Trọng tội sinh tử. Được phúc vô lượng. Người ấy mệnh chung. Mười phương thế giới. Tùy ý vãng sinh. Cũng được thấy ta. Và thấy vị lai. Hiền kiếp chư Phật.

Thế Tôn khi ấy. Nói với đại chúng. Các người phải nên. Sửa sang y phục. Chính tâm chính thân. Chính ý chính niệm chính quán. Người muốn nghe pháp. Một lòng phải kính lễ Tu Di Đăng Vương Phật. Kính lễ Bảo Vương Phật. Kính lễ Bảo Thắng Phật. Kính lễ A Di Đà Phật. Kính lễ Tỳ Bà Thi Phật. Kính lễ Đa Bảo Phật. Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính lễ tất cả pháp nhiếp trì. Kính lễ quá số lượng. Kính lễ vô lượng loại. Kính lễ vô biên pháp. Kính lễ nan tư nghì. Kính lễ trụ lực, lực trung lực. Kính lễ mười lực không kinh sợ. Kính lễ tam giới tôn. Kính lễ tất cả đại đạo sư. Kính lễ các vị có thể cắt đứt trói buộc. Kính lễ các vị đã đến được bỉ ngạn. Kính lễ các vị đã vượt qua mọi thế gian. Kính lễ các vị đã vĩnh viễn rời khỏi đạo sinh tử. Kính lễ tam muội đắc giải thoát. Kính lễ hư không không nương dựa. Kính lễ đại pháp vương trong đại chúng. Kính lễ các vị phá hoại bốn ma. Kính lễ các bậc đại từ phụ. Chỉ mong đời đời gặp chư Phật. Thấy rõ Phật tính. Đến đại niết bàn. Là vì sao? Tất cả hữu hình. Đều có Phật tính. Thế là đại chúng. Chắp tay mười ngón. Một lòng lắng nghe. Một lòng cúng dường.

Nghe ta nói ba đời. Tên chư Phật mười phương. Cho đến năm vô gián. Phải sinh tướng giải thoát, nếu người không căn lành, ta cũng sẽ nói cho. Tự họ không thể hiểu, hạt cháy tự mất đi, chỉ còn lại chân thực. Trừ bỏ tướng Tiểu thừa, chỉ còn lại Đại thừa, trừ bỏ hai thừa ấy. Chỉ còn lại một thừa, nếu người không căn lành, không nghe được tiếng đó. Từng cúng vô lượng Phật, nay được nghe tên Phật, nên biết cần thọ trì. Người thiếu phần giải thoát, an trụ đất thanh tịnh, nay ở trong pháp ta Kinh hành làm Phật sự, thọ trì và đọc tụng, lễ bái danh hiệu Phật Rời bỏ các việc ma, diệt trừ bốn trọng cấm, vô gián Nhất-xiển-đề. Người ấy đời vị lai, chắc chắn thành Phật đạo. Người không sinh lòng tin, tam ác đạo đọa chắc. Tin rồi chăm lễ bái, sẽ thấy vô lượng Phật. Phải nên nhất tâm lễ, nguyện trừ vô lượng tội, cho nên nay kính lễ.

Tất cả đại chúng, chắp tay lắng nghe, thu về thân tâm, không cho động chuyển. Cúi rạp xuống đất. Một lòng lắng nghe.

Khi ấy Thế Tôn. Xưng danh xướng rằng. Nam mô quá khứ vô lượng chư Phật. Nam mô Nhị vạn Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, Nam mô Tam vạn Nhiên Đăng Phật. Nam mô Đại Thông Trí Thắng Phật. Nam mô Thập lục Tử Phật. Nam mô Không Vương Phật. Nam mô Đa Bảo Phật. Nam mô Vân Tự Tại Đăng Vương Phật. Nam mô Uy Âm Vương Phật. Nam mô Vô Số Quang Phật. Nam mô Tư Thiện Phật. Nam mô Phân Thân Chư Phật. Nam mô Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật. Nam mô Tịnh Hoa Túc Vương Phật. Nam mô Tịnh Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Long Tôn Vương Phật. Nam mô Vân Lôi Âm Vương Phật. Nam mô Vân Lôi Túc Chủ Hoa Trí Phật. Nam mô Bảo Vương Phật. Nam mô Sa La Thụ Vương Phật. Nam mô Thượng Uy Đức Bảo Vương Phật. Nam mô Quang Minh Vương Phật. Nam mô Bách Ức Định Quang Phật. Nam mô Quang Viễn Phật. Nam mô Nguyệt Quang Phật. Nam mô Chiên Đàn Hương Phật. Nam mô Thiện Sơn Vương Phật. Nam mô Tu Di Thiên Quan Phật. Nam mô Tu Di Đẳng Diệu Phật. Nam mô Nguyệt Sắc Phật. Nam mô Chính Niệm Phật. Nam mô Ly Cấu Phật. Nam mô Vô Trược Phật. Nam mô Long Thiên Phật. Nam mô Bất Động Địa Phật. Nam mô Lưu Ly Diệu Hoa Phật. Nam mô Lưu Ly Kim Sắc Phật. Nam mô Kim Tạng Phật. Nam mô Viêm Quang Phật Nam mô Viêm Căn Phật. Nam mô Địa Chưởng Phật. Nam mô Nguyệt Tượng Phật. Nam mô Nhật Âm Phật. Nam mô Giải Thoát Hoa Phật. Nam mô Trang Nghiêm Quang Minh Phật. Nam mô Hải Giác Thần Thông Phật. Nam mô Thủy Quang Phật. Nam mô Đại Hương Phật. Nam mô Ly Hư Cấu Phật. Nam mô Xả Yếm Ý Phật. Nam mô Bảo Viêm Phật. Nam mô Diệu Đính Phật. Nam mô Dũng Lập Phật. Nam mô Công Đức Trí Tuệ Phật. Nam mô Tế Nhật Nguyệt Phật. Nam mô Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang Phật. Nam mô Vô Thượng Lưu Ly Quang Phật. Nam mô Tối Thượng Thủ Phật. Nam mô Bồ Đề Hoa Phật. Nam mô Nguyệt Minh Phật. Nam mô Nhật Quang Phật. Nam mô Hoa Sắc Vương Phật. Nam mô Thủy Nguyệt Quang Phật. Nam mô Trừ Nghi Minh Phật. Nam mô Độ Khổ Hạnh Phật. Nam mô Tịnh Tín Phật. Nam mô Thiện Túc Phật. Nam mô Uy Thần Phật. Nam mô Pháp Tuệ Phật. Nam mô Loan Âm Phật. Nam mô Sư Tử Âm Phật. Nam mô Long Âm Phật. Nam mô Xứ Thế Phật. Nam mô Tự Tại Phật. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật. Nam mô Vô Lượng Quang Phật. Nam mô Vô Biên Quang Phật. Nam mô Vô Ngại Quang Phật. Nam mô Vô Đối Quang Phật. Nam mô Quang Viêm Vương Phật. Nam mô Thanh Tịnh Quang Phật. Nam mô Hoan Hỷ Quang Phật. Nam mô Trí Tuệ Quang Phật. Nam mô Bất Đoạn Quang Phật. Nam mô Nan Tư Quang Phật. Nam mô Vô Xưng Quang Phật. Nam mô Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Nam mô Tướng Hảo Tử Quang Phật. Nam mô Viễn Chiếu Phật. Nam mô Bảo Tạng Phật. Nam mô Vô Lượng Âm Phật. Nam mô Cam Lộ Vị Phật. Nam mô Long Thắng Phật. Nam mô Thắng Lực Phật. Nam mô Sư Tử Âm Phật. Nam mô Ly Cấu Quang Phật. Nam mô Đức Thủ Phật. Nam mô Diệu Đức Sơn Phật. Nam mô Nhân Vương Phật. Nam mô Vô Thượng Hoa Phật. Nam mô Úy Lực Vương Phật. Nam mô Long Tự Tại Vương Phật. Nam mô Sư Tử Y Vương Phật. Nam mô Tự Tại Vương Phật. Nam mô Phổ Quang Phật. Nam mô Phổ Minh Phật. Nam mô Chiên Đàn Hương Quang Phật. Nam mô Đa La Ma Bạt Chiên Đàn Hương Phật. Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bảo Tích Phật. Nam mô Thượng Đại Tinh Tiến Phật. Nam mô Phổ Tịnh Phật. Nam mô Ma Ni Tràng Phật. Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật. Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật. Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật. Nam mô Kim Cương Lao Cường Phật. Nam mô Phổ Tán Kim Quang Phật. Nam mô Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh Phật. Nam mô Dũng Mãnh Phật. Nam mô Bi Quang Phật. Nam mô Từ Lực Vương Phật. Nam mô Từ Tạng Phật. Nam mô Chiên Đàn Hốt Trang Nghiêm Thắng Phật. Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật. Nam mô Thiện Giác Phật. Nam mô Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Kim Sơn Bảo Cái Phật. Nam mô Kim Hoa Viêm Quang Tướng Phật. Nam mô Đại Cự Quang Minh Phật. Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật. Nam mô Kim Hoa Quang Phật. Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật. Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật. Nam mô Bất Động Quang Phật. Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật. Nam mô Thiên Quang Minh Phật. Nam mô Từ Huệ Thắng Phật. Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật. Nam mô Thế Tịnh Quang Phật. Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Phật. Nam mô Diệu Tôn Trí Vương Phật. Nam mô Bảo Cái Đăng Vương Phật. Nam mô Long Chủng Thượng Trí Tôn Vương Phật. Nam mô Nhật Nguyệt Quang Phật. Nam mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật. Nam mô Huệ Phan Thắng Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Vô Cấu Tạng Phật. Nam mô Quang Minh Tướng Phật. Nam mô Kim Viêm Quang Minh Phật. Nam mô Kim Diệm Quang Minh Tạng Phật. Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật. Nam mô Diệu Âm Thắng Phật. Nam mô Thường Quang Tràng Phật. Nam mô Quan Thế Đăng Vương Phật. Nam mô Huệ Y Đăng Vương Phật. Nam mô Pháp Thường Thắng Vương Phật. Nam mô Tu Di Quang Phật. Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật. Nam mô Ưu Bát La Hoa Quang Phật. Nam mô Cường Thắng Lực Vương Phật. Nam mô Huệ Lực Vương Phật. Nam mô A Sơ Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật. Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật. Nam mô Tài Quang Phật. Nam mô Kim Hải Quang Phật. Nam mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật. Nam mô Đại Thông Quang Phật. Nam mô Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Vương Phật. Nam mô Hiện Vô Ngu Phật. Nam mô quá khứ vô lượng phân thân chư Phật. Nam mô quá khứ nhất Phật, thập Phật, bách Phật, thiên Phật, vạn Phật. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Nam mô nhất ức, thập ức, bách ức, thiên ức, vạn ức, na do tha, hằng hà sa, vô lượng a tăng kỳ Phật. Nếu người nào được nghe vô lượng a tăng kỳ danh hiệu chư Phật đời quá khứ, người đó được tám mươi vạn kiếp không phải đọa địa ngục khổ, vì thế nay kính lễ.

Có người vì lễ bái Chư Phật đời quá khứ Diệt tội đắc bản tâm Lại không tạo mười ác Và cả năm nghịch tội Thường được nghe chính pháp Đầy đủ đạo Đại thừa Cho nên nay kính lễ. Chỉ trừ hai hạng người Một, báng kinh Phương Đẳng Hai là Nhất-xiển-đề Nếu người tâm thanh tịnh Không phải Nhất-xiển-đề, Thường thấy vô lượng Phật Cho nên nay kính lễ. Nếu có phạm trọng tội Và năm tội vô gián Mà lòng tin thanh tịnh Cũng được như pháp trụ Đều vì do kính lễ Diệt trừ mười ác nghiệp Đều đắc giới Đại thừa Cho nên nay kính lễ.

Khi Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười nghìn Bồ Tát đắc vô sinh nhẫn. Tám trăm Thanh Văn phát thiếu phân tâm. Năm nghìn tì kheo đắc đạo A La Hán. Một ức thiên nhân đắc pháp nhãn tịnh.

Nam mô hiện tại vô lượng chư Phật. Nam mô Thập ức Vương Minh Chư Phật. Nam mô Ly Cấu Tử Kim Sa Phật. Nam mô Vô Lượng Minh Phật. Nam mô Nhật Chuyển Quang Minh Vương Phật. Nam mô Hương Tích Phật. Nam mô Sư Tử Ức Tượng Phật. Nam mô Sư Tử Du Hý Phật. Nam mô Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Nam mô Thiên Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Nam mô Bảo Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Nan Thắng Phật. Nam mô Tu Di Tướng Phật. Nam mô Tu Di Đăng Vương Phật. Nam mô Bảo Đức Phật. Nam mô Bảo Nguyệt Phật. Nam mô Bảo Viêm Phật. Nam mô Bảo Nghiêm Phật. Nam mô Nan Thắng Sư Tử Vương Phật. Nam mô Đại Quang Vương Phật. Nam mô Bất Động Phật. Nam mô Dược Vương Phật. Nam mô Trang Nghiêm Phật. Nam mô Lâu Chí Phật. Nam mô Nguyệt Cái Phật. Nam mô Phổ Quang Phật. Nam mô Bảo Vương Phật. Nam mô Duy Vệ Phật. Nam mô Thức Vương Phật. Nam mô Tùy Diếp Phật. Nam mô Câu Lâu Tần Phật. Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Nam mô Ca Diếp Phật. Nam mô Lôi Âm Vương Phật. Nam mô Ký Pháp Tạng Phật. Nam mô Chiên Đàn Hoa Phật. Nam mô Chiên Đàn Diếp Phật. Nam mô Diệu Ý Phật. Nam mô Vô Thượng Thắng Phật. Nam mô Cam Lộ Cổ Phật. Nam mô Tỳ Bà Thi Phật. Nam mô Nhật Nguyệt Quang Minh Phật. Nam mô Vô Thắng Phật. Nam mô Cụ Túc Trang Nghiêm Vương Phật. Nam mô Quang Minh Biến Chiếu Công Đức Vương Phật. Nam mô Phá Hoại Tứ Ma Sư Tử Hống Vương Phật. Nam mô Kim Cương Bất Hoại Phật. Nam mô Lưu Ly Quang Phật. Nam mô Tu Di Sơn Vương Phật. Nam mô Tịnh Quang Minh Vương Phật. Nam mô Thiện Đức Phật. Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật. Nam mô Đà La Ni Du Hý Phật. Nam mô Thủ Lăng Nghiêm Định Tam Muội Lực Vương Phật. Nam mô Thiện Kiến Định Tự Tại Vương Phật. Nam mô Vô Thượng Công Đức Phật. Nam mô Thần Thông Tự Tại Phật. Nam mô Vô Sắc Tướng Phật. Nam mô Vô Thanh Tướng Phật. Nam mô Vô Hương Tướng Phật. Nam mô Vô Vị Tướng Phật. Nam mô Vô Súc Tướng Phật. Nam mô Tam Muội Định Tự Tại Phật. Nam mô Tuệ Định Tự Tại Phật. Nam mô Tướng Giác Tự Tại Phật. Nam mô Phổ Nhiếp Phật. Nam mô Báo Đức Phổ Quang Phật. Nam mô Thi Khí Phật. Nam mô Tỳ Xá Phù Phật. Nam mô Ca La Cưu Tôn Đại Phật. Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Nam mô Ca Diếp Phật. Nam mô Ý Lạc Mỹ Âm Phật. Nam mô Hoan Hỷ Phật. Nam mô A Súc Phật. Nam mô Tu Di Tướng Phật. Nam mô Tu Di Đỉnh Phật. Nam mô Sư Tử Âm Phật. Nam mô Sư Tử Tướng Phật. Nam mô Hư Không Trụ Phật. Nam mô Vân Lôi Tự Tại Phật. Nam mô Thường Diệt Phật. Nam mô Đế Tướng Phật. Nam mô Bất Phạm Tướng Phật. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô Phạm Tướng Phật. Nam mô Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Phật. Nam mô Đa La Ma Bạt Chiên Đàn Hương Phật. Nam mô Tu Di Tướng Phật. Nam mô Vân Tự Tại Vương Phật. Nam mô Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy Phật, Nam mô bách ức ngã Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô hiện tại nhất Phật, thập Phật, bách Phật, thiên Phật, vạn Phật. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp tới nay. Nam mô nhất ức, thập ức, bách ức, thiên ức, vạn ức, na do tha hằng hà sa đẳng vô lượng a tăng kỳ Phật.

Nếu người nào được nghe vô lượng a tăng kỳ danh hiệu Phật đời hiện tại, người ấy sáu mươi vạn kiếp chẳng phải đọa vào địa ngục khổ, vì thế nay kính lễ.

Có người vì lễ bái Chư Phật đời hiện tại Độ thoát các ác nghiệp Diệt trừ năm nghịch tội Thường ở đất thanh tịnh An trú pháp Thích Ca Mãi rời tam ác đạo Được thấy Phật Di Lặc Và cả nghìn vị Phật Vì thế nay kính lễ Lại thấy Phật mười phương Thường sinh cõi thanh tịnh Được nghe đệ nhất nghĩa Biết rõ Như Lai thường.

Khi Phật nói danh hiệu chư Phật đời hiện tại, hai hằng hà sa số Bồ Tát được nhập môn đà-la-ni. Bốn mươi hai ức chư Thiên và người đều phát tâm bồ đề vô thượng.

Nam mô vị lai hiền kiếp vô lượng chư Phật. Nam mô Di lặc Phật. Nam mô Tịnh Thân Phật. Nam mô Hoa Quang Phật. Nam mô Quang Minh Phật. Nam mô Hoa Túc Phật. Nam mô Danh Tướng Phật. Nam mô Diêm Phù Na Đề Kim Quang Phật. Nam mô Pháp Minh Phật. Nam mô Bảo Minh Phật. Nam mô Phổ Minh Phật. Nam mô Phổ Tướng Phật. Nam mô Phổ Quang Phật. Nam mô Sơn Hải Huệ Phật. Nam mô Mục Tại Thông Vương Phật. Nam mô Bảo Trang Nghiêm Phật. Nam mô Phất Sa Phật. Nam mô bách ức Tự Tại Đăng Vương Phật. Nam mô Bảo Tướng Phật. Nam mô Hỷ Kiến Phật. Nam mô nhị vạn quang tướng trang nghiêm Phật. Nam mô tam vạn đồng hiệu Phổ Đức Phật. Nam mô Vân Lôi Âm Vương Phật. Nam mô tứ vạn bát thiên Định Quang Phật. Nam mô Bảo Nguyệt Vương Phật. Nam mô Ly Cấu Quang Phật. Nam mô Diệu Sắc Phật. Nam mô Diệu Sắc Quang Minh Phật. Nam mô Phá Nhất Thiết Chúng Nan Phật. Nam mô chúng Hương Phật. Nam mô chúng Thanh Phật. Nam mô thập thiên quang minh trang nghiêm Phật. Nam mô bát thiên ức trang nghiêm quang minh Phật. Nam mô Bảo Hoa Trang Nghiêm Phật. Nam mô Thượng Thủ Đức Vương Phật. Nam mô Tử Kim Quang Minh Phật. Nam mô Ngũ Bách Thụ Ký Hoa Quang Phật. Nam mô Na La Duyên Bất Hoại Phật. Nam mô Hảo Hoa Trang Nghiêm Phật, Nam mô Kim Cương Định Tự Tại Phật. Nam mô vị lai nhất Phật, thập Phật, bách Phật, thiên Phật, vạn Phật. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp tới nay. Nam mô nhất ức, thập ức, bách ức, thiên ức, vạn ức na do tha hằng hà sa vô lượng a tăng kỳ Phật.

Nếu người nào được nghe vô lượng a tăng kỳ danh hiệu Phật đời vị lai, người ấy sáu mươi vạn kiếp chẳng phải đọa vào địa ngục khổ, vì thế nay kính lễ.

Có người vì lễ bái Chư Phật đời vị lai Ba chướng và năm nghịch Trừ hạng Nhất-xiển-đề Đều sẽ được trừ diệt An trú trong pháp Phật Được thấy vô lượng Thường được nghe chính pháp Vì thế nay kính lễ.

Có người vì lễ bái Tam thế thập phương Phật Diệt trừ tội quá khứ Vị lai và hiện tại Mười nghiệp ác đã tạo Giờ đây được trừ diệt Tương lai thấy Phật tính Vì thế nên tin tưởng Viết chép đọc tụng kinh Đời đời chốn sinh ra Không sinh ác tà kiến Thường chính đắc giải thoát Không sinh nơi biên địa Không sinh vào ác quốc Không gặp ác quốc vương Trong bốn ức vạn kiếp Không đọa địa ngục khổ Vì thế nay kính lễ. Diệt trừ mười ác nghiệp Đắc đại đà-la-ni.

Khi Phật nói danh hiệu chư Phật đời vị lai, năm vạn Bồ Tát trụ bất thối địa. Bảy trăm tì kheo ni đắc đạo A La Hán. Sáu mươi hai ức chư Thiên và người dân đắc pháp nhãn tịnh.

Nam mô tổng trì đại đà-la-ni. Thập nhị bộ kinh: tu đa la, kỳ dạ, thọ ký, già đà na, ưu đà na, ni đà na, a ba đà na, y đế viết đa già, sà đà già, tỳ phật lược, a phù đà đạt ma, ưu ba đề xá. Tất cả đại tạng. Các ba la mật. Có người nghe được. Mười hai bộ kinh. Các Ba la mật. Đọc tụng lễ bái. Tin vui thọ trì. Thế thì người đó. Hai mươi vạn kiếp. Không đọa địa ngục khổ. Đắc túc mạng trí. Vì thế nay kính lễ.

Khi Phật nói tên mười hai bộ kinh, tám vạn năm nghìn Bồ Tát đắc kim cương tam muội. Mười ức Thanh Văn phát tâm Đại thừa. Mười nghìn tì kheo, tì kheo ni đắc đạo A La Hán, vô lượng trời người đắc pháp nhãn tịnh.

Nam mô thập phương vô lượng chư đại Bồ Tát. Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát. Nam mô Bất Hưu Tức Bồ Tát. Nam mô Bảo Chưởng Bồ Tát. Nam mô Dược Vương Bồ Tát. Nam mô Dược Thượng Bồ Tát. Nam mô Dũng Thí Bồ Tát. Nam mô Bảo Nguyệt Bồ Tát. Nam mô Nguyệt Quang Bồ Tát. Nam mô Mãn Nguyệt Bồ Tát. Nam mô Đại Lực Bồ Tát. Nam mô Vô Lượng Lực Bồ Tát. Nam mô Việt Tam Giới Bồ Tát. Nam mô Bạt Đà Bà La Bồ Tát. Nam mô Di Lặc Bồ Tát. Nam mô Bảo Tích Bồ Tát. Nam mô Đạo Sư Bồ Tát. Nam mô Đức Tạng Bồ Tát. Nam mô Lạc Thuyết Bồ Tát. Nam mô Long Thụ Bồ Tát. Nam mô Bảo Đàn Hoa Bồ Tát. Nam mô Thượng Hạnh Bồ Tát. Nam mô Vô Biên Hạnh Bồ Tát. Nam mô An Lập Hạnh Bồ Tát. Nam mô Tịnh Hạnh Bồ Tát. Nam mô Đà La Ni Bồ Tát. Nam mô Kim Cương Na La Diên Bồ Tát. Nam mô Thường Bất Khinh Bồ Tát. Nam mô Túc Vương Hoa Bồ Tát. Nam mô Hỷ Kiến Bồ Tát. Nam mô Diệu Âm Bồ Tát. Nam mô Đức Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát. Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát. Nam mô Tịnh Tạng Bồ Tát. Nam mô Tịnh Nhãn Bồ Tát. Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát. Nam mô Diệu Đức Bồ Tát. Nam mô Từ Thị Bồ Tát. Nam mô Thiện Tư Nghị Bồ Tát. Nam mô Không Vô Bồ Tát. Nam mô Thần Thông Hoa Bồ Tát. Nam mô Quang Anh Bồ Tát. Nam mô Quang Minh Bồ Tát. Nam mô Huệ Thượng Bồ Tát. Nam mô Huệ Quang Minh Bồ Tát. Nam mô Trí Tràng Bồ Tát. Nam mô Tịch Căn Bồ Tát. Nam mô Nguyện Huệ Bồ Tát. Nam mô Hương Tượng Bồ Tát. Nam mô Bảo Anh Bồ Tát. Nam mô Bảo Minh Bồ Tát. Nam mô Trung Trụ Bồ Tát. Nam mô Chế Hạnh Bồ Tát. Nam mô Giải Thoát Bồ Tát. Nam mô Pháp Tạng Bồ Tát. Nam mô Đẳng Quán Bồ Tát. Nam mô Bất Đẳng Quán Bồ Tát. Nam mô Đẳng Bất Đẳng Quán Bồ Tát. Nam mô Định Tự Tại Vương Bồ Tát. Nam mô Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát. Nam mô Pháp Tướng Bồ Tát. Nam mô Quang Tướng Bồ Tát. Nam mô Quang Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Đại Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Bảo Tích Bồ Tát. Nam mô Biện Tích Bồ Tát. Nam mô Bảo Thủ Bồ Tát. Nam mô Bảo Chưởng Bồ Tát. Nam mô Bảo Ấn Thủ Bồ Tát. Nam mô Thường Cử Thủ Bồ Tát. Nam mô Thường Hạ Thủ Bồ Tát. Nam mô Thường Thảm Bồ Tát. Nam mô Hỷ Căn Bồ Tát. Nam mô Hỷ Vương Bồ Tát. Nam mô Biện Âm Bồ Tát. Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát. Nam mô Nhiếp Bảo Cự Bồ Tát. Nam mô Bảo Dũng Bồ Tát. Nam mô Bảo Kiến Bồ Tát. Nam mô Đế Võng Bồ Tát. Nam mô Minh Võng Bồ Tát. Nam mô Vô Duyên Quán Bồ Tát. Nam mô Huệ Tích Bồ Tát. Nam mô Bảo Thắng Bồ Tát. Nam mô Thiên Vương Bồ Tát. Nam mô Hoại Ma Bồ Tát. Nam mô Điện Đức Bồ Tát. Nam mô Tự Tại Vương Bồ Tát. Nam mô Công Đức Tướng Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Sư Tử Hống Bồ Tát. Nam mô Lôi Âm Bồ Tát. Nam mô Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát. Nam mô Hương Tượng Bồ Tát. Nam mô Bạch Hương Tượng Bồ Tát. Nam mô Diệu Sinh Bồ Tát. Nam mô Hoa Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Phạm Võng Bồ Tát. Nam mô Bảo Trượng Bồ Tát. Nam mô Vô Thắng Bồ Tát. Nam mô Nghiêm Thổ Bồ Tát. Nam mô Kim Kế Bồ Tát. Nam mô Châu Kế Bồ Tát. Nam mô Quang Nghiêm Đồng Tử Bồ Tát. Nam mô Trì Thế Bồ Tát. Nam mô Thiện Đức Bồ Tát. Nam mô Nan Thắng Bồ Tát. Nam mô Chiếu Minh Bồ Tát. Nam mô Hoa Quang Bồ Tát. Nam mô Bảo Đàn Hoa Bồ Tát. Nam mô Tát Đà Ba Luân Bồ Tát. Nam mô Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Nam mô Pháp Tự Tại Bồ Tát. Nam mô Đức Thủ Bồ Tát. Nam mô Bất Thuấn Bồ Tát. Nam mô Đức Đính Bồ Tát. Nam mô Thiện Tú Bồ Tát. Nam mô Thiện Nhãn Bồ Tát. Nam mô Diệu Tý Bồ Tát. Nam mô Phất Sa Bồ Tát. Nam mô Sư Tử Bồ Tát. Nam mô Sư Tử Ý Bồ Tát. Nam mô Phù Giải Bồ Tát. Nam mô Na La Diên Bồ Tát. Nam mô Thiện Ý Bồ Tát. Nam mô Hiện Kiến Bồ Tát. Nam mô Phổ Thủ Bồ Tát. Nam mô Điện Quang Bồ Tát. Nam mô Hỷ Kiến Bồ Tát. Nam mô Minh Tướng Bồ Tát. Nam mô Diệu Ý Bồ Tát. Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát. Nam mô Thâm Huệ Bồ Tát. Nam mô Tịnh Căn Bồ Tát. Nam mô Vô Ngại Bồ Tát. Nam mô Thượng Thiện Bồ Tát. Nam mô Phúc Điền Bồ Tát. Nam mô Hoa Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Đức Tạng Bồ Tát. Nam mô Nguyệt Thượng Bồ Tát. Nam mô Bảo Ấn Thủ Bồ Tát. Nam mô Châu Đính Vương Bồ Tát. Nam mô Lạc Thực Bồ Tát. Nam mô Lạc Đế Bồ Tát. Nam mô Huệ Kiến Bồ Tát. Nam mô Đăng Vương Bồ Tát. Nam mô Thâm Vương Bồ Tát. Nam mô Hoa Vương Bồ Tát. Nam mô Diệu Sắc Bồ Tát. Nam mô Thiện Vấn Bồ Tát. Nam mô Thiện Đáp Bồ Tát. Nam mô Liễu Tướng Bồ Tát. Nam mô Định Tướng Bồ Tát. Nam mô Phát Hỷ Bồ Tát. Nam mô An Trụ Bồ Tát. Nam mô Bố Ma Bồ Tát. Nam mô Huệ Thí Bồ Tát. Nam mô Cứu Thoát Bồ Tát. Nam mô Huệ Đăng Bồ Tát. Nam mô Dũng Thí Bồ Tát. Nam mô Trí Đạo Bồ Tát. Nam mô Nguyện Huệ Bồ Tát. Nam mô Tứ Nhiếp Bồ Tát. Nam mô Giáo Âm Bồ Tát. Nam mô Hải Diệu Bồ Tát. Nam mô Pháp Hỷ Bồ Tát. Nam mô Đạo Phẩm Bồ Tát. Nam mô Tổng Trì Bồ Tát. Nam mô Từ Vương Bồ Tát. Nam mô Đại Tự Tại Bồ Tát. Nam mô Phạm Âm Bồ Tát. Nam mô Diệu Sắc Bồ Tát. Nam mô Bảo Đàn Lâm Bồ Tát. Nam mô Sư Tử Âm Bồ Tát. Nam mô Diệu Thanh Bồ Tát. Nam mô Diệu Sắc Hình Bồ Tát. Nam mô Chủng Chủng Trang Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Thích Tràng Bồ Tát. Nam mô Đính Sinh Bồ Tát. Nam mô Minh Vương Bồ Tát. Nam mô Đại Quang Bồ Tát. Nam mô Xa Đề Bồ Tát. Nam mô Vô Úy Bồ Tát. Nam mô Mật Tích Bồ Tát. Nam mô Hoa Thiểm Bồ Tát. Nam mô Thượng Thủ Bồ Tát. Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Bồ Tát. Nam mô Thần Thông Bồ Tát. Nam mô Hải Đức Bồ Tát. Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát. Nam mô Y Vương Tự Tại Bồ Tát. Nam mô Ca Diếp Bồ Tát. Nam mô Vô Cấu Tạng Vương Bồ Tát. Nam mô Trì Nhất Thiết Bồ Tát. Nam mô Cao Quý Đức Vương Bồ Tát. Nam mô Lưu Ly Quang Bồ Tát. Nam mô Vô Úy Bồ Tát. Nam mô Hải Vương Bồ Tát. Nam mô Sư Tử Hống Bồ Tát. Nam mô Đà La Ni Bồ Tát. Nam mô Na La Diên Bồ Tát. Nam mô Tín Tướng Bồ Tát. Nam mô Trì Địa Bồ Tát. Nam mô Quang Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Quang Minh Bồ Tát. Nam mô Đại Biện Bồ Tát. Nam mô Từ Lực Bồ Tát. Nam mô Đại Bi Bồ Tát. Nam mô Y Vương Bồ Tát. Nam mô Y Lực Bồ Tát. Nam mô Y Đức Bồ Tát. Nam mô Phổ Tế Bồ Tát. Nam mô Phổ Nhiếp Bồ Tát. Nam mô Định Quang Bồ Tát. Nam mô Phổ Quang Bồ Tát. Nam mô Chân Quang Bồ Tát. Nam mô Câu Lâu Bồ Tát. Nam mô Thiên Quang Bồ Tát. Nam mô Bảo Vương Bồ Tát. Nam mô Di Quang Bồ Tát. Nam mô Giáo Đạo Bồ Tát. Nam mô Đạo Sư Bồ Tát. Nam mô Đại Nhẫn Bồ Tát. Nam mô Hoa Vương Bồ Tát. Nam mô Hoa Tích Bồ Tát. Nam mô Tuệ Quang Bồ Tát. Nam mô Hải Tuệ Bồ Tát. Nam mô Kiên Ý Bồ Tát. Nam mô Thích Ma Nam Bồ Tát. Nam mô Kim Quang Minh Bồ Tát. Nam mô Kim Tạng Bồ Tát. Nam mô Thường Bi Bồ Tát. Nam mô Pháp Thượng Bồ Tát. Nam mô Tài Thủ Bồ Tát. Nam mô Sơn Quang Bồ Tát. Nam mô Sơn Huệ Bồ Tát. Nam mô Đại Minh Bồ Tát. Nam mô Tổng Trì Bồ Tát. Nam mô Sơn Vương Bồ Tát. Nam mô Đăng Vương Bồ Tát. Nam mô Sơn Đính Bồ Tát. Nam mô Sơn Tràng Bồ Tát. Nam mô Sơn Vương Bồ Tát. Nam mô Phục Ma Bồ Tát. Nam mô Lôi Âm Bồ Tát. Nam mô Vũ Vương Bồ Tát. Nam mô Lôi Vương Bồ Tát. Nam mô Bảo Luân Bồ Tát. Nam mô Bảo Anh Bồ Tát. Nam mô Bảo Thủ Bồ Tát. Nam mô Bảo Tạng Bồ Tát. Nam mô Bảo Minh Bồ Tát. Nam mô Bảo Định Bồ Tát. Nam mô Bảo Ấn Bồ Tát. Nam mô Bảo Tràng Bồ Tát. Nam mô Bảo Nghiêm Bồ Tát. Nam mô Bảo Thủy Bồ Tát. Nam mô Bảo Quang Bồ Tát. Nam mô Bảo Đăng Bồ Tát. Nam mô Bảo Hiện Bồ Tát. Nam mô Bảo Tạo Bồ Tát. Nam mô Bảo Tác Bồ Tát. Nam mô Lạc Pháp Bồ Tát. Nam mô Tịnh Vương Bồ Tát. Nam mô Đính Tướng Bồ Tát. Nam mô Kim Quang Bồ Tát. Nam mô Bảo Kế Bồ Tát. Nam mô Thiên Quang Bồ Tát. Nam mô Nguyên Hiểm Bồ Tát, Nam mô Thanh Tịnh Bồ Tát. Nam mô Chiếu Vị Bồ Tát. Nam mô Trí Năng Bồ Tát. Nam mô Nguyệt Biện Bồ Tát. Nam mô Nguyệt Quang Bồ Tát. Nam mô Pháp Luân Bồ Tát. Nam mô Quang Tịnh Bồ Tát. Nam mô Thường Thí Bồ Tát. Nam mô Phổ Đức Bồ Tát. Nam mô Phổ Minh Bồ Tát. Nam mô Thắng Tràng Bồ Tát. Nam mô Nhu Âm Bồ Tát. Nam mô Đức Viêm Bồ Tát. Nam mô Tướng Quang Bồ Tát. Nam mô Hải Nguyệt Bồ Tát. Nam mô Hải Tạng Bồ Tát. Nam mô Thắng Nguyệt Bồ Tát. Nam mô Tịnh Huệ Bồ Tát. Nam mô Siêu Quang Bồ Tát. Nam mô Nguyệt Đức Bồ Tát. Nam mô Nhật Quang Bồ Tát. Nam mô Kim Cương Bồ Tát. Nam mô Viêm Tràng Bồ Tát. Nam mô Tôn Đức Bồ Tát. Nam mô Hải Minh Bồ Tát. Nam mô Hải Quảng Bồ Tát. Nam mô Chiếu Cảnh Bồ Tát. Nam mô Huệ Minh Bồ Tát. Nam mô Công Đức Bồ Tát. Nam mô Minh Đạt Bồ Tát. Nam mô Mật Giáo Bồ Tát. Nam mô Tu Na Bồ Tát. Nam mô Bố Thí Bồ Tát. Nam mô Sắc Lực Bồ Tát. Nam mô Điều Phục Bồ Tát. Nam mô Ẩn Thân Bồ Tát. Nam mô nhất Bồ Tát. Nam mô thập Bồ Tát. Nam mô bách Bồ Tát. Nam mô thiên Bồ Tát. Nam mô vạn Bồ Tát. Nam mô nhất bách vạn Bồ Tát. Nhị bách vạn, tam bách vạn, tứ bách vạn, ngũ bách vạn, lục bách vạn, thất bách vạn, bát bách vạn, cửu bách vạn, thiên thiên vạn chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Nam mô nhất ức, thập ức, bách ức, thiên ức, vạn ức. Nam mô vạn vạn ức chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Nam mô nhất na do tha, thập na do tha, bách na do tha, thiên na do tha, vạn na do tha. Nam mô vạn vạn na do tha chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay.

Nam mô nhất hằng hà sa. Nam mô nhị hằng hà sa. Nam mô tam hằng hà sa. Nam mô tứ hằng hà sa. Nam mô ngũ hằng hà sa. Nam mô lục hằng hà sa. Nam mô thất hằng hà sa. Nam mô bát hằng hà sa. Nam mô cửu hằng hà sa. Nam mô thập hằng hà sa. Nam mô bách hằng hà sa. Nam mô bách ức vô lượng hằng hà sa chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Có thể trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay.

Nếu người nào được nghe tên Đại Sĩ, các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát, thì người đó trong bốn mươi nghìn kiếp không đọa địa ngục khổ. Không thuộc ngục tam giới. Thường thuộc giải thoát vương.

Không sinh biên địa Không sinh ác quốc Không chịu ác thân Không sinh tà kiến Không sinh hạ tính Không sinh ngoại đạo Thân căn đầy đủ Thường nghe chính pháp Không chịu cấm giới Thường được đầy đủ Đại thừa oai nghi Thường thấy Phật tính Cho nên nay kính lễ An trú trong Phật pháp Đời sau thành Phật đạo.

Khi nói xong tên các đại Bồ Tát, có tám mươi tám ức tín nam nữ thanh tịnh ngộ quả A Na Hàm. Chín mươi tư ức chư Thiên đắc quả Tư Đà Hàm. Bảy nghìn tám ức tì kheo đánh mất tâm lại có được bản tâm, và ngộ quả A La Hán. Mười ức Bồ Tát đắc đại đà-la-ni. Đời vị lai thành Phật đạo.

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

Quyển Thượng hết.

Quyển Trung

Khi ấy, Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng. Thiện nam tử. Như ngươi tự nói. Quá khứ có Phật. Tên là Bảo Thắng. Chúng sinh khổ não. Nghe được tên Phật. Chết sinh về trời. Nay lại thỉnh ta. Nói tên chư Phật. Để các chúng sinh. Lìa khổ xuất thế. Nay ta vì người. Và cả đại chúng. Nói đủ tam bảo. Lý là một bảo. Tùy thuận nói ba. Nếu người nào nghe. Chí tâm nhớ nghĩ. Vào lúc lâm chung. Được thiện tri thức. Dạy cho xưng tên. Tam Bảo ba lần. Nói như thế này. Nam mô Phật. Nam mô pháp. Nam mô tăng. Xướng lên như thế. Người ấy mệnh chung. Không đến tam đồ. Tùy ý mà vui. Mười phương thế giới. Đều được vãng sinh. Nên phụng chư Phật. Thấy chư Bồ Tát. Văn Thù Phổ Hiền. Tuyên thuyết Đại thừa Đại Thông Phương Quảng. Khi nghe pháp xong. Lập tức đạt được. Vô sinh pháp nhẫn. Thiện nam tử. Nếu có người trong muôn kiếp. Rộng rãi tu các hành. Trồng xuống thiện căn. Nay được nghe thấy. Tên của Tam Bảo.

Khi ấy. Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Vì sao gọi là Tam Bảo? Một tướng ư. Hai tướng ư. Ba tướng ư. Nếu là một tướng. Tức là một quy. Nếu là ba tướng. Tức là ba quy. Nếu là ba quy. Phật pháp khác biệt. Tăng cũng như thế. Nếu là ba quy. Chúng sinh thấy ba ức kiếp hành đạo. Không thể một thừa. Chỉ mong Thế Tôn. Lợi ích chúng sinh. Vì con mà nói. Con nghe xong rồi. Cũng vì chúng sinh. Mà giải thích rõ. Sau khi Phật diệt. Nếu có người nghe. Cũng được an trú. Ba bồ đề đạo.

Khi ấy. Phật ca ngợi Tín Tướng Bồ Tát. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Tất cả chúng sinh. Muôn kiếp đến nay. Vô minh che mờ. Lao tù tam giới. Lưu chuyển sinh tử. Cùng bao sợ hãi. Lục đạo vãng lai. Không nơi nương dựa. Bởi vậy quy mệnh thiên thần. Dấn thân ngoại đạo. Tự trói chân tay. Hại sinh cầu mệnh. Tránh sao khỏi hoạn. Tránh lửa gặp vực. Hoạn không thể né. Vì thế Đại Thánh Như Lai. Xót thương chúng mê. Mà rời khỏi định. Khai diễn Tam Bảo. Làm nơi nương dựa. Ban đầu vì người mới học mà nói hai thừa. Nói Tam Bảo ba thể phân biệt theo cấp. Sau vì Đại Sĩ phạm hạnh tu hành lâu ngày. Nói Tam Bảo một thể rốt ráo. Trong một Phật bảo. Đã có pháp tăng. Thiện nam tử. Vì sao gọi là bảo? Giống như thất bảo của thế gian. Có thể cứu mạng. Cho nên Tam Bảo tại thế. Đạo dưỡng pháp thân. Hành giả có thể kế thừa. Có đủ trí năng thân mệnh. Cũng gọi là bảo. Tam Bảo ba tướng khác biệt. Phật hiện vương cung. Hai thân ứng-pháp. Gọi là Bồ Tát. Vì độ chúng sinh. Tu hành khổ hạnh. Đạo tràng dưới cây. Hiện thành chính giác. Tự giác giác tha. Nên gọi là Phật. Phật là Giác Giả. Tăng là thụ hóa. Đệ tử nhờ được dạy mà đắc được lý. Vì thế gọi là tăng. Tăng có hai loại. Một là hòa hợp. Được gọi là tăng. Hai là vô vi. Cũng gọi là tăng. Người đắc vô vi. Nhờ chân không giải huệ. Tính Không vô vi. Mê hoặc tương tục. Chứng kết vô tận. Vì đã diệt mọi kết. Thánh chúng cùng trụ. Hòa hợp không tranh. Vì hai nghĩa này. Mà gọi là tăng. Thiện nam tử. Pháp là tất cả pháp thiện ác. Hữu vi vô vi. Đạo lý chư Phật. Ác pháp thì lìa. Thiện pháp thì kính. Vì tâm mẫu mực. Đều là pháp bảo. Vì thế có Nhị Bảo Phật - tăng. Con người dị thể. Pháp và tăng Phật. Đồng thể khó tách. Vì sao khó tách? Nếu có người nói. Phật - tăng Nhị Bảo. Nhưng chỉ là người tu hành lấy tên giả. Năm phần pháp thân mà người tu hành có được. Các thiện công đức. Chia thành pháp bảo. Không phải nghĩa này. Là cớ vì sao. Nay vì lấy những thiện công đức này. Được làm con người. Không ai lìa pháp. Mà thành người khác. Nên là Nhị Bảo. Nay giải thích người và pháp. Có giống có khác. Nhờ pháp thành người. Pháp thuộc về người. Nên nói như thế. Năm phần pháp thân. Mười lực vô úy. Ba mươi hai tướng. Tám mươi vẻ đẹp. Các ba la mật. Vô lượng tam muội. Lấy làm Phật bảo. Tiểu thừa năm phần. Nói là tăng bảo. Các công đức này. Hữu vi vô vi. Pháp tướng đạo lý. Làm thành quy củ. Gọi là pháp dụng. Điều này đồng thể. Tuy nói hai nghĩa. Cũng có pháp thể. Khác Phật pháp tăng. Vì thế pháp bảo. Đã nói ba điều. Chúng sinh quy y. Tránh khỏi tam giới. Sợ hãi sinh tử. Tất cả hành nhân. Tuy tránh phần thô. Nhưng khổ vi tế. Vẫn chưa diệt hết. Vì thế nói rằng. Tột cùng Tam Bảo. Cần hiểu rõ rằng. Ngày xưa Tam Bảo. Nói Phật có khổ. Pháp là vô thường. Tăng cũng vô thường. Khổ này. Không phải nơi nương dựa chân thực. Nay nói hành giả thường trụ. Nhận ra pháp tính lý không. Vĩnh viễn rời bỏ tám điên đảo. Không có sinh diệt. Không khổ mong cầu. Làm nơi nương dựa chân thực. Gọi là Phật bảo. Pháp thường có được. Quy củ tột cùng. Gọi là pháp bảo chân thực. Hành giả thường trụ. Biết pháp tính chân thực. Chứng thường trụ vô vi. Vì thế gọi là tăng. Cũng nhờ vĩnh viễn diệt tận tám điên đảo. Cùng với chín Thánh chúng. Tất cả hòa hợp. Mãi không tranh tụng. Vì thế gọi là tăng bảo. Ngày xưa Tam Bảo. Người khác pháp khác. Tam Bảo giờ đây. Tại một Phật một thể. Phân làm pháp tăng. Chính vì nghĩa này. Ta vì pháp nói. Một tướng Tam Bảo. Nay các chúng sinh. Hướng về một thừa.

Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Nên quán việc gì. Để cầu Đại thừa. Phật nói. Thiện nam tử. Nên quán tam giới vô thường. Để cầu Đại thừa.

Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng. Vì sao gọi là. Quán tại vô thường. Phật nói. Muốn quán vô thường. Loại trừ phiền não. Nên hành chính niệm. Từ bi đứng đầu. Thuyết pháp độ người. Mà không cần chứng. Gọi là Bồ Tát. Không bỏ chúng sinh. Vì cầu Đại thừa. Thiện nam tử. Ví như một thành. Rộng một do tuần. Có rất nhiều cửa. Đường hiểm hắc ám. Cực kì đáng sợ. Vào được thành này. Nhận được sướng vui. Lại có một người. Chỉ có một con. Yêu thương hết mực. Nghe tiếng thành này. Được sướng vô cùng. Lập tức bỏ con. Muốn vào thành ấy. Người này khéo léo. Qua được đường hiểm. Đến cửa thành kia. Một chân đã vào. Chưa nhấc chân kia. Liền nhớ đến con. Thế là nghĩ đến. Đứa con duy nhất. Sau này ra sao. Nếu ta không đến. Ai sẽ chăm nom. Để lìa mọi khổ. Bỏ ngay lạc thành. Trở về chỗ con. Thiện nam tử. Bồ Tát từ bi. Cũng làm như thế. Vì nỗi thương xót. Tu tập ngũ thông. Đã tu tập xong. Rủ lòng ban hết. Mà không cần chứng. Là cớ vì sao. Vì xót chúng sinh. Xả hết ngũ thông. Thậm chí sống ở. Trong đất phàm phu. Thiện nam tử. Thành kia. Được ví như niềm vui đại giải thoát. Nhiều cửa đi vào. Được ví như tám vạn bốn nghìn tam muội. Đường hiểm gian nan. Ví như ma đạo. Đến được cửa thành. Ví như ngũ thông. Một chân bước vào. Ví như trí năng. Một chân chưa vào. Ví như đại Bồ Tát chưa chứng giải thoát. Nói một đứa con. Ví như tất cả chúng sinh năm đạo. Thương nhớ đứa con. Ví như tâm đại từ. Trở về chỗ con. Ví như điều chuyển chúng sinh. Thật đắc giải thoát. Không giành chứng đắc. Tức là phương tiện. Thiện nam tử. Vì thế Bồ Tát Ma Ha Tát. Đại từ đại bi. Cứu hộ không bỏ. Không thể nghĩ bàn. Một lần nữa. Thiện nam tử. Bồ Tát Đại Sĩ. Từ mới phát tâm. Tất đến bồ đề. Thường vì chúng sinh. Dạy mười pháp thiện. Thế nào là mười. Một không sát sinh. Hai không trộm cắp. Ba không tà dâm. Bốn không vọng ngữ. Năm không hai lưỡi. Sáu không ác khẩu. Bảy không nói lời vô nghĩa. Tám không tham lam đố kỵ. Chín không sân hận buồn bực. Mười không tà kiến. Bồ Tát như vậy. Có đủ từ bi. Từ năng dạy thiện. Nhìn đời mà vui. Bi năng cứu khổ. Độ thoát địa ngục. Thấy các chúng sinh. Cầu cửa niết bàn. Lại không biết chỗ. Bồ Tát cần phải. Ở nơi chúng sinh. Tu tập bi tâm. Chính vì bi tâm. Mà vì chúng sinh. Mở cửa niết bàn. Hiển thị chốn yên ổn. Cho đắc quả Đại thừa. Nên gọi là hạnh Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tín Tướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng. Thế Tôn. Thế nào là chính niệm. Nên làm pháp bất sinh bất diệt. Thế Tôn. Pháp nào bất sinh. Pháp nào bất diệt.

Thiện nam tử. Khiến ác pháp không sinh. Còn thiện pháp không diệt. Nếu tu hạnh này. Đi trong tam giới. Thanh tập ngũ dục. Không thể làm bẩn. Thiện nam tử. Muốn hành tam giới. Cứu độ chúng sinh. Nên dùng mười pháp. Đi trong tam giới. Theo văn tự thế tục. Nói là có ba đời. Vô thượng bồ đề. Không ở ba đời. Cứu cánh bồ đề. Không đọa số đông. Huống hồ trong chúng sinh ba cõi ba đời. Cái gì là mười. Một là dù được khen ngợi hay phỉ báng, tâm không tăng giảm. Hai là nếu nghe thấy thiện ác, tâm không phân biệt. Ba là ở trong ngu dốt hay trí huệ, tâm từ bi bình đẳng. Bốn là nhìn chúng sinh cao thấp, ý luôn bình đẳng. Năm là với sự khinh thường hay cúng dường, tâm cũng không đổi. Sáu là trước khiếm khuyết của người khác, đừng thấy cái lỗi của họ. Bảy là thấy mọi thừa là một thừa. Tám là nếu nghe ba điều ác, cũng đừng kinh sợ. Chín là ở trước các Bồ Tát, hãy nghĩ đến Như Lai. Mười là Phật thoát khỏi ngũ trọc, hãy nghĩ đó là rất hiếm có. Bồ Tát như thế. Có đủ mười pháp. Đoạn trừ ngu si. Phiền não kết tập. Không gì cản trở. Bồ Tát Đại Sĩ. Đi trong tam giới. Lấy đại bi làm gốc. Sống ở nơi phàm tục. Như ánh sáng không bụi. Gọi là khó nghĩ bàn. Nếu người ở tịnh quốc. Trì giới đủ một kiếp. Hễ gặp lúc nhàn rỗi. Hành từ và đại bi. Thân ngữ và ý nghiệp. Đều đạt được thanh tịnh. Đời này đã loại trừ. Nghiệp đọa tam ác đạo. Bồ Tát sinh cõi ấy. Không nên lo sợ hoài. Có tội ở ác đạo. Đau đầu sẽ được trừ. Bởi vậy nên thế nào. Nếu muốn cắt trói buộc. Diệt trừ các phiền não. Tuy sinh vào cõi ác. Hộ pháp tăng trí năng. Ức kiếp ở tịnh thổ. Thường thọ tịnh giới hành. Không bằng sinh cõi này. Từ sớm đến hôm sau. Ta thấy cõi của A Súc Phật. Cõi Tây phương Cực Lạc. Hai cõi nước ấy rất thanh tịnh. Cũng không có khổ não. Tại đây làm công đức. Cũng không có gì lạ. Nếu người ở cõi này. Nhẫn nhịn việc không thể. Cũng dạy người khác nhẫn. Thì phúc ấy tối thắng. Vì thế các Bồ Tát. Hành động tại cõi ác. Cứu độ các chúng sinh. Đừng lo âu phiền não. Kiên cố bồ đề tâm. Ắt đắc đạo vô thượng.

Khi ấy. Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Nay chúng con đây. Muốn hỏi nhân duyên bồ đề của Bồ Tát. Nếu Phật bằng lòng nghe. Con sẽ xin được hỏi. Phật nói. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Ngươi tại vô lượng kiếp. Có trăm nghìn Phật. Trồng mọi thiện căn. Lâu thành Bồ Tát. Phương tiện đã làm. Thành các Bồ Tát. Hỏi về đạo bồ đề kiên cố. Tùy ý mà hỏi. Ta sẽ vì ngươi. Phân biệt giải thích.

Khi Hư Không Tạng Bồ Tát nhận được sự cho phép thì bạch Phật rằng. Thế Tôn. Sao gọi là Bồ Tát. Tâm họ kiên cố. Và không mệt mỏi. Sao gọi là Bồ Tát. Lời đã quyết định. Thì không hối hận. Sao gọi là Bồ Tát. Tăng trưởng thiện căn. Sao gọi là Bồ Tát. Không có sợ hãi. Uy nghi không chuyển. Sao gọi là Bồ Tát. Thành tựu pháp thiện. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo biết từ một địa. Cho đến địa thứ mười. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo biết mọi phương tiện. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo giáo hóa chúng sinh. Sao gọi là Bồ Tát. Đời đời không mất. Cái tâm bồ đề. Sao gọi là Bồ Tát. Có thể một lòng, không chạy lung tung. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo cầu pháp bảo. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo thoát khỏi tội phá giới phạm cấm. Sao gọi là Bồ Tát. Có thể ngăn chặn phiền não. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo có thể tùy thuận. Đi vào trong đại chúng. Sao gọi là Bồ Tát. Khéo mở ra pháp môn. Sao gọi là Bồ Tát. Có được sức mạnh nhân duyên đầu tiên, không để mất thiện căn. Sao gọi là Bồ Tát. Không do người khác dạy, mà có thể tự thực hành sáu ba la mật. Sao gọi là Bồ Tát. Có thể xả thiền định. Hiện sinh cõi Dục giới. Sao gọi là Bồ Tát. Ở trước các pháp Phật. Đắc tâm bất thối chuyển. Sao gọi là Bồ Tát. Đi trong tam giới. Giáo hóa chúng sinh. Khiến tăng thiện căn. Không đứt Phật tính.

Khi ấy Thế Tôn ca ngợi Hư Không Tạng Bồ Tát. Lành thay lành thay. Có thể hỏi Như Lai. Về việc của Bồ Tát. Nay người hãy lắng nghe. Rồi khéo mà suy nghĩ. Thưa Thế Tôn. Con nguyện lắng nghe. Xin nhận lời chỉ dạy.

Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát. Lại có bốn pháp. Kiên cố tâm ấy. Mà không mệt mỏi. Thế nào là bốn. Một là, ở trước chúng sinh khởi tâm đại bi. Hai là tinh tấn không lơ là. Ba là sinh tử như mộng. Bốn là chính ý tư duy về trí năng của Phật. Bồ Tát có bốn pháp này. Kiên cố tâm ấy. Mà không mệt mỏi.

Lại có bốn pháp. Lời đã quyết định. Thì không hối hận. Thế nào là bốn. Một là quyết định thuyết pháp. Hiểu rõ vô ngã. Hai là quyết định nói các nơi sinh. Không thể có tướng vui. Ba là quyết định thường ca ngợi Đại thừa. Bốn là quyết định nói nghiệp tội nghiệp phúc. Không đánh mất quả báo. Đây gọi là bốn pháp.

Lại có bốn pháp. Tăng trưởng thiện căn. Thế nào là bốn. Một là giữ giới. Hai là nghe nhiều. Ba là bố thí. Bốn là xuất gia. Thì gọi là bốn.

Bồ Tát lại có bốn pháp. Để không lo sợ. Uy nghi không chuyển. Thế nào là bốn. Một là thất bại. Hai là tiếng xấu. Ba là phỉ báng. Bốn là khổ não. Thì gọi là bốn.

Bồ Tát lại có bốn pháp. Thành tựu pháp trắng. Thế nào là bốn. Một là dạy người để họ tin vào tội phúc. Hai là bố thí không cầu quả báo. Ba là bảo hộ chính pháp. Bốn là dùng đại trí năng dạy các Bồ Tát. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo hiểu biết một địa. Cho đến cả mười địa. Một là trồng thiện căn lâu ngày. Hai là lìa bỏ các sai lầm. Ba là khéo biết phương tiện. Bốn là siêng làm tinh tấn. Hồi hướng bồ đề. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo biết phương tiện. Thế nào là bốn. Một là thuận theo ý chúng sinh. Hai là trước công đức của họ thì khởi tâm tùy hỷ. Ba là có tội thì sám hối tội. Bốn là khuyên thỉnh chư Phật chuyển đại pháp luân. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo giáo hóa chúng sinh. Thế nào là bốn. Một là thường cầu lợi làm yên chúng sinh. Hai là tự hy sinh niềm vui của mình. Ba là mềm mỏng nhẫn nhục. Bốn là có thể loại bỏ tính cao ngạo. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Có thể đời đời không mất đi tâm bồ đề. Thế nào là bốn. Một là thường nghĩ nhớ về tất cả chư Phật mười phương. Hai là những công đức làm được thì bố thí cho tất cả chúng sinh, thường làm bồ đề. Ba là gần gũi thiện tri thức. Bốn là tán dương Đại thừa. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Có thể nhất tâm. Không chạy lung tung. Thế nào là bốn. Một là lìa tâm Thanh Văn. Hai là lìa tâm Bích Chi Phật. Ba là cầu pháp không biết chán. Bốn là những pháp nghe được thì rộng rãi nói cho người khác. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo cầu pháp bảo. Thế nào là bốn. Một là ở trong đại pháp sinh bảo tưởng, vì khó có được. Hai là ở trong đại pháp, sinh cứu dược tưởng, vì trị bệnh của chúng sinh. Ba là ở trong đại pháp, sinh tài lợi tưởng, vì để không mất. Bốn là ở trong đại pháp, sinh diệt khổ tưởng, vì đến niết bàn. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo thoát khỏi tội phá giới phạm cấm. Thế nào là bốn. Một là đắc vô sinh pháp nhẫn, vì chư pháp vô lai. Hai là đắc vô diệt nhẫn, vì chư pháp vô khứ. Ba là đắc nhân duyên nhẫn, biết mọi pháp do nhân duyên sinh. Bốn là đắc trụ nhẫn, vì không có dị tâm tương tục. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo ngăn phiền não. Thế nào là bốn. Một là bốn hồi tưởng. Hai là ngăn mọi căn. Ba là nhờ khả năng đắc thiện pháp lực. Bốn là nhờ sống một mình tách biệt. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo có thể tùy thuận. Đi vào trong đại chúng. Thế nào là bốn. Một là do cầu pháp không cầu thắng. Hai là thường sinh cung kính, tâm không ngạo mạn. Ba là duy cầu pháp lợi, không tự hiển hiện. Bốn là dạy người khác về pháp thiện, không cầu danh lợi. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Khéo mở ra pháp thí. Thế nào là bốn. Một là thủ hộ chính pháp. Hai là tự ích trí năng và cũng ích lợi cho tiền nhân. Ba là thường hành pháp thiện nhân. Bốn là không chỉ cho người ta pháp phân biệt sạch bẩn. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Có được sức mạnh nhân duyên đầu tiên, không để mất thiện căn. Thế nào là bốn. Một là thấy người ta sai thì không cho là ngu. Hai là ở trước người sân hận tức giận phải thường tu từ tâm. Ba là thường nói các pháp nhân duyên. Bốn là thường niệm vô thượng bồ đề. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Không do người khác dạy, mà có thể tự thực hành sáu ba la mật. Thế nào là bốn. Một là thường bố thí pháp, cho người ta những lời hướng dẫn. Hai là không nói tội phá giới cấm của người ta. Ba là khéo biết pháp thu nhận, giáo hóa chúng sinh. Bốn là thông đạt pháp sâu sắc. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Có thể xả thiền định. Hiện sinh cõi Dục giới. Thế nào là bốn. Một là tâm ấy mềm mại. Hai là khả năng có được sức của các căn lành. Ba là không bỏ tất cả chúng sinh. Bốn là thường có thể khéo tu sức mạnh trí năng phương tiện. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Ở trong pháp Phật đắc tâm bất thối chuyển. Một là ở trong vô số sinh tử không sinh lòng chán ghét và rời bỏ pháp. Hai là thường siêng cúng dường vô lượng chư Phật. Ba là tu hành từ tâm vô lượng. Bốn là tín giải vô lượng Phật huệ. Thì gọi là bốn.

Thiện nam tử. Lại có bốn pháp. Không đoạn Phật tính. Thế nào là bốn. Một là vì các chúng sinh, không thối lui bản nguyện. Hai là tin tưởng thọ trì, thực hành bố thí. Ba là ham muốn tinh tấn. Bốn là thường siêng làm Phật đạo với tâm sâu sắc. Thì gọi là bốn. Bồ Tát Ma Ha Tát. Du hành tam giới. Làm đủ mọi hạnh. Lợi ích chúng sinh. Thường tu xuất thế. Không đoạn Phật tính.

Khi Phật nói bốn pháp Đại thừa. Bốn vạn Thiên nhân đều phát ba bồ đề tâm. Hai vạn năm nghìn người đắc vô sinh pháp nhẫn. Bốn vạn tám nghìn Bồ Tát được đạt đến pháp giới nhẫn. Khéo nhập Phật huệ.

Bấy giờ Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nay ngươi hãy nên. Thọ trì kinh này. Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn! Tên gọi là gì? Phụng trì ra sao?

Phật nói. Kinh này tên là. Đại Thông Phương Quảng. Năng phá ma cảnh. Hoại quân ngoại đạo. Tiêu trừ phiền não. Năng giải ngũ dục tà kiến trói buộc. Phá ngục ba cõi. Tháo mọi sinh tử. Hướng về niết bàn. Hạt giống chân chính. Khô héo lâu ngày. Thấm nhuần lợi ích. Mưa nhân duyên lớn. Mưa pháp lục độ. Tăng trưởng chúng sinh mầm hoa Tam thừa. Thành tựu Nhất thừa bồ đề cực quả. Thiện nam tử. Ngươi hỏi tên kinh. Ta nói như thế. Người nên thọ trì.

Khi ấy. Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn! Con từ quá khứ. Nơi vô lượng Phật. Nơi vô lượng hội. Trong vô lượng chúng. Nghe các loại pháp. Các loại việc. Các loại tướng. Các loại thừa. Chưa từng nghe thấy. Pháp hy hữu này. Việc hy hữu này. Tướng hy hữu này. Đại thừa hiếm có. Con thường thọ trì. Khiến không đoạn tuyệt. Thế Tôn. Như Lai thường trụ. Pháp tăng không diệt. Chúng sinh ba cõi. Tự sinh tự diệt. Không thấy Như Lai. Và theo pháp tăng. Xướng lời diệt độ. Chúng con giờ đây. Nhờ uy thần Phật. Du hành ba cõi. Thuận theo thời nghi. Giả nói diệt độ. Thế Tôn. Chúng con giờ đây. Sau khi Phật diệt. Cùng với tám vạn pháp thân Đại Sĩ thông đạt Phật huệ đã lâu. Lưu thông kinh này. Khiến chúng sinh trong pháp giới. Thọ trì đọc tụng. Tu hành đúng thuyết. Nhất thời thành Phật. Không dám buông xả. Thế Tôn. Nếu thiện nam tử. Thiện nữ nhân. Sau khi Phật diệt. Trong đời trọc ác. Nếu có thọ trì đọc tụng. Viết chép quyển kinh. Đắc bao nhiêu phúc.

Phật nói. Thiện nam tử. Nếu người nào đem trân bảo đầy ba nghìn đại thiên thế giới. Dùng để bố thí. Không bằng nghe được tên kinh này. Phúc còn hơn cả phúc bố thí kia. Cũng việc như thế. Nếu người nào đem trân bảo đầy ba nghìn đại thiên thế giới. Dùng để bố thí. Không bằng có người. Nhiếp trì kinh này. Phúc nhiều hơn thế. Cũng việc như thế. Nếu người nào đem trân bảo đầy ba nghìn đại thiên thế giới. Dùng để bố thí. Không bằng có người. Viết chép kinh điển Đại thừa Phương Quảng. Cho dù một chữ một câu. Hoặc một bài kệ. Phúc nhiều hơn thế. Cũng việc như thế. Tuy rằng bố thí trân bảo của vô lượng cõi nước. Không bằng chí tâm đọc tụng một bài kệ. Cũng việc như thế. Tuy rằng bố thí mạng chúng sinh đầy cả mười nghìn thế giới. Không bằng chí tâm giải nghĩa một câu. Vì người khác mà nói nghĩa của một bài kệ. Phúc này còn hơn cả phúc kia. Ấy là vì sao? Bố thí tài thực. Là thế gian bố thí. Nuôi dưỡng tính mạng. Không xuất thế gian. Thí pháp Đại thừa. Nuôi dưỡng chúng sinh. Đạo căn bồ đề. Tiếp nối tam thừa. Trí năng thường mệnh. Thiện nam tử. Người đọc trì kinh này. Vốn là người ác. Nay là người lành. Vốn là người khổ. Nay là người vui. Vốn bị trói buộc. Nay được giải thoát. Vốn chưa được độ. Nay đã được độ. Vốn là vô trí. Nay là luận sư. Vốn là hữu lậu. Nay là vô lậu. Vốn là phàm hạnh. Nay là Thánh hạnh. Vốn là mất đạo. Nay nhập Thánh đạo. Đọc trì kinh này. Trí như Thánh huệ. Cùng Phật Như Lai. Cùng có niết bàn.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Như Phật đã nói. Vốn là phàm hạnh. Nay là Thánh hạnh. Vốn là phiền não. Đọc trì kinh này. Cùng Phật Như Lai. Cùng có niết bàn. Phá giới ngũ nghịch. Phỉ báng chính pháp. Đọc trì kinh này. Đoạn trừ phiền não. Cùng đắc niết bàn. Nghĩa này khó hiểu. Cúi mong Thế Tôn. Vì con nói rõ.

Phật nói. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Ngươi đã hỏi hay. Ta sẽ đáp hay. Vì các chúng sinh. Không được gặp Phật. Tà kiến phạm giới. Phỉ báng chính pháp. Nếu Phật tại thế. Chung quy không phạm giới. Không phỉ báng chính pháp. Là vì sao? Ví như trưởng giả. Chỉ có một con. Yêu thương rất nhiều. Nếu cha còn sống. Ngày đêm dạy bảo. Mọi việc đều theo. Đứa con hiếu thuận. Nghe lời cha dạy. Nên không phạm lỗi. Nếu cha đi xa. Không hẹn ngày về. Đứa con quên mất. Phạm nhiều lỗi lầm. Không rõ ngày về. Tưởng rằng đã chết. Bi thương kêu khóc. Lại khởi tâm hư. Sầu não hồ đồ. Quên lời cha dạy. Ví dụ không theo. Và phỉ báng pháp. Một thời gian lâu. Cha trở về nhà. Đứa con vui mừng. Nhớ lời cha dạy. Thọ trì không phạm. Nhờ được thấy cha. Tin rằng chưa chết. Không gọi đọa nghịch. Giữ lời cha dạy. Thuận theo mà làm. Không gọi phỉ báng. Thiện nam tử. Trưởng giả tức là Như Lai. Đứa con tức là tất cả chúng sinh. Lệnh cha tức là giáo giới. Đi xa tức là đi nơi khác giáo hóa. Vì không thấy cha nên nói là đã diệt. Vì sầu não nên đã bị che chắn. Vì không giữ nên là phạm giới. Vì nói đã diệt nên là nghịch tội. Vì mê lầm nên là phỉ báng. Như Lai Thế Tôn. Giáo hóa nơi khác trở về. Chúng sinh thấy vậy. Liền sinh tín tâm. Biết Phật không diệt. Phật vì thuyết pháp. Trả lại bản tâm. Không gọi phạm giới. Vì biết không diệt. Không gọi đọa nghịch. Thuận theo lời dạy mà làm. Làm đúng lý sẽ đắc giải ngộ. Không gọi là phỉ báng pháp.

Thiện nam tử. Người đọc trì kinh này. Tức có thể tiêu trừ tội phiền não trọng ác trong vô lượng sinh tử. Nghe tên kinh này. Tức được nghe Phật. Người thấy kinh này. Tức được thấy Phật. Người giữ kinh này. Tức giữ thân Phật. Người làm kinh này. Tức làm Phật sự. Người nói kinh này. Tức nói việc Phật. Người giải kinh này. Tức giải nghĩa Phật. Nếu làm việc Phật. Khéo giải nghĩa Phật. Con người như thế. Mãi không phiền não. Cớ là vì sao. Có được kinh này. Đoạn trừ phiền não.

Thiện nam tử. Nếu tám vạn kiếp, xem là một ngày. Lấy ba mươi ngày, làm thành một tháng. Lấy mười hai tháng, làm thành một năm. Lấy số năm ấy. Qua trăm nghìn vạn ức kiếp. Gặp được một vị Phật. Lại qua từng ấy số năm. Gặp được một vị Phật. Kinh này khó gặp. Lại qua số năm nói trên. Gặp được kinh này. Tức là gặp được thập phương tam thế chư Phật. Vì thế người trí. Thọ trì đọc tụng. Viết chép giảng nói. Có thể trừ được trọng tội tà kiến vô minh phiền não kết lậu. Sống trong ruộng phúc. Có thể trừ được vô lượng cúng dường của thế gian.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Bích Chi Phật còn không thể tiêu trừ hết cúng dường thế gian. Huống hồ phàm phu lại tiêu trừ được cúng dường.

Phật nói. Thiện nam tử. Bích Chi Phật không tiêu trừ được cúng dường. Không có lẽ ấy. Tuy không thể thuyết pháp độ người. Nhập định tam muội. Từ tam muội khởi. Hiện đại thần thông.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Trong kinh có nói. Tà kiến phá giới. Không được sống trong cùng một cõi nước. Uống nước chung một dòng sông. Nói giới Bồ Tát. Sám hối buông thả. Người này gọi là. Đánh mất Thánh đạo. Không nhập số đông. Cớ sao lại nói. Tiêu được cúng dường. Nếu tiêu cúng dường. Tức cùng chư Phật. Cùng nhận ứng cúng. Hơn cả La Hán. Và Bích Chi Phật. Chỉ mong Thế Tôn. Phân biệt nói rõ. Con nghe xong rồi. Cũng vì chúng sinh. Giải thích như Phật. Khiến cho chúng sinh. Cũng được độ thoát.

Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Nay như các người. Từ bi có đủ. Thương xót chúng sinh. Mà hỏi việc này. Lắng nghe cho kĩ. Khéo mà nghĩ nhớ. Ta sẽ vì ngươi. Phân biệt giải thích. Thiện nam tử. Cảnh giới kinh này. Chẳng phải Thanh Văn Duyên Giác đều biết được. Cũng chẳng phải cảnh giới mà các ma ngoại đạo hay phàm phu hiểu được. Duy Phật hay biết. Ngươi cũng được biết. Thiện nam tử. Ta thường vì người hành đạo Bồ Tát mà giảng thuyết, bố thí và tán thán. Không quán tốt xấu. Thành tựu phúc điền.

Và nói lời này. Bố thí súc sinh. Được trăm phúc báo. Bố thí xiển-đề. Được nghìn phúc báo. Thiện nam tử. Người đoạn thiện căn. Chết thành xiển-đề. Người không hổ thẹn. Chết làm súc sinh. Súc sinh xiền-đề. Quả báo chín muồi. Được nhận cúng dường. Trồng ruộng phúc của người. Huống chi người ấy. Vì lấy nghĩa này. Từ kinh Đại thừa. Đại Thông Phương Quảng. Lực uy đức lớn. Không thể nghĩ bàn. Có thể khiến người. Phá giới ngũ nghịch. Phỉ báng chính pháp. Tà kiến phiền não. Đều được trừ diệt. Được nhận cúng dường.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Chư Phật Như Lai. Bất khả tư nghì. Đại Thông Phương Quảng. Sức mạnh uy thần. Cũng bất khả tư nghì. Người thọ trì kinh. Công đức người ấy. Cũng bất khả tư nghì. Phật nói. Đúng vậy đúng vậy. Như ngươi đã nói. Đắc công đức vô biên không thể nghĩ bàn.

Khi ấy Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Thiện nam tử. Ta nhớ thuở xưa. Quá khứ có kiếp. Gọi là Thanh Tịnh. Ta ở kiếp ấy. Cúng dường chín mươi hai ức na do tha chư Phật Như Lai. Do hành Tiểu thừa. Mắc nhiều tội lỗi. Phạm giới vô lượng. Nên không thấy được. Các Như Lai ấy. Thọ ký cho ta. Lại qua kiếp này. Đến kiếp Lạc Kiến. Ta ở kiếp này. Cúng dường bốn mươi hai ức chư Phật Như Lai. Cũng không thấy được. Các Như Lai này. Thọ ký cho ta. Lại qua kiếp này. Đến kiếp Phạm Âm. Ta ở kiếp này. Cúng dường hai mươi hai ức chư Phật Như Lai. Cũng không thấy được. Các Như Lai này. Thọ ký cho ta. Lại qua kiếp này. Đến kiếp Tâm Hỷ. Ta ở kiếp này. Cúng dường tám vạn bốn nghìn chư Phật Như Lai. Cũng không thấy được. Các Như Lai này. Thọ ký cho ta. Lại qua kiếp này. Đến kiếp Cứu Khổ. Cõi nước Trang Nghiêm. Phật hiệu Đại Thí Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri. Mười hiệu đủ cả. Ta ở kiếp ấy. Cúng dường bốn mươi ức chư Phật Như Lai. Được nghe kinh này. Trừ hết phiền não. Vẫn chưa tự thấy. Ta vào lúc ấy. Đều đem tất cả. Món đồ cúng dường. Bất khả tư nghì. Mà đem dâng cúng. Các Như Lai ấy. Cũng không thấy thọ ký cho ta. Thiện nam tử. Thuở xưa ta ở trong ngần ấy kiếp. Cúng dường ngần ấy chư Phật Như Lai. Tôn trọng tán thán. Được trừ phiền não. Có đủ cấm giới uy nghi của Thanh Văn. Tịnh tu phạm hạnh. Học làm bố thí. Tất cả giữ giới và hạnh đầu đà. Lìa bỏ kiêu ngạo sân hận ngu si. Từ tâm nhẫn nhục. Năng nói điều đã được nghe. Chăm làm tinh tấn. Mọi điều được nghe. Thọ trì không quên. Độc cư nơi xa. Nhập các thiền định. Khi xuất định rồi. Theo điều đã nghe. Đọc tụng suy ngẫm. Các Như Lai ấy. Cũng không thấy thọ ký cho ta. Là cớ vì sao. Là vì vi phạm phá hỏng nhiều cấm giới đã nhận. Vì chấp sâu vào Thanh Văn hạnh nhị thừa. Vì không nghe kinh Đại thừa Phương Quảng. Bởi vì nghĩa đó. Nếu là hàng các Bồ Tát Ma Ha Tát. Nên rời xa hạnh nhị thừa. Tu tập kinh điển Đại thừa Phương Quảng. Thì được thọ ký. Nếu ta từ một kiếp này đến một kiếp khác. Nói danh hiệu Phật. Không thể nói hết. Thiện nam tử. Qua thời đó về sau. Ta được gặp Định Quang Phật. Vì vô lượng đại chúng. Thuyết kinh Đại thừa Đại Thông Phương Quảng này. Ta vào lúc ấy. Được nghe được thấy điều Phật đó nói. Thọ trì đọc tụng. Tư duy ý nghĩa. Liền đắc vô sinh pháp nhẫn. Định Quang Như Lai. Liền thọ ký ta. Ngươi vào đời sau. Sẽ được làm Phật. Hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri. Vì thế. Thiện nam tử. Thọ trì kinh này. Chóng đến Phật địa. Huống chi tiêu trừ. Cúng dường thế gian. Của hạng trời người. Thiện nam tử. Vì thế. Sức mạnh của kinh điển Đại thừa thí kho báu không thể nghĩ bàn. Thí ân huệ cho kẻ phá giới bần cùng nương dựa pháp này như có bảo châu.

Thiện nam tử. Đại thừa như biển lớn. Tiểu thừa như nước đọng trong vết chân trâu. Đại thừa như Tu Di. Tiểu thừa như tổ kiến. Đại thừa như nhật nguyệt. Tiểu thừa như đánh mất sao. Thừa này gọi Đại thừa. Thừa không thể nghĩ bàn. Dung nạp các chúng sinh. Giống như trong hư không. Trong tất cả các thừa. Thừa này là hạng nhất. Đại thừa này như vậy. Vượt qua mọi thừa khác. Tiểu thừa có hạn lượng. Không thể độ tất cả. Duy thừa vô thượng này. Độ hết thảy chúng sinh. Nếu làm vô lượng này. Đại thừa của hư không. Hư không không có lượng. Cũng không có hình sắc. Đại thừa cũng như thế. Không lượng không chướng ngại. Tất cả các chúng sinh. Đi trên Đại thừa này. Nên quán tướng thừa này. Mà dung nạp rộng rãi. Nếu tại vô lượng kiếp. Nói công đức Đại thừa. Và đi theo thừa này. Không thể đạt cùng tận. Trong tất cả các thừa. Đại thừa là tối thắng. Chí tâm nhận Đại thừa. Được tới cây bồ đề. Không chướng ngại trói buộc. Nay thừa vô thượng này. Thắng mọi thừa thấp kém. Ngồi bên dưới cây đạo. Quán mười hai nhân duyên. Vì thương xót chúng sinh. Mà nói kinh Đại thừa. Các chúng sinh mười phương. Nếu đi theo Đại thừa. Cũng lại không tăng giảm. Dung nạp như hư không. Đại thừa chẳng nghĩ bàn. Thần thông đại trí năng. Vì thế các chúng sinh. Nên chăm chỉ tu tập. Tất cả các thiên chúng. Thiên ma và ngoại đạo. Muốn trừ phiền não trói. Quy y nơi Đại thừa. Có đủ sáu thần thông. Cửa tam minh tam đạt. Phá được ma ngoại đạo. Và các loại tà kiến. Đại thừa tối quan trọng. Phá được các phiền não. Có đầy đủ căn lành. Vì thế sức Đại thừa. Thật sự khó nghĩ bàn. Tất cả pháp thế gian. Và cả pháp xuất thế. Pháp hữu học vô học. Thu vào trong Đại thừa. Nếu có chúng sinh hành ác đạo. Thân cận thiện tri thức tà kiến. Tránh xa và quy về Đại thừa. Nếu ai không thích cầu Đại thừa. Không thể phá hoại phiền não kết. Muốn cầu giải thoát học Đại thừa. Nếu có người lớn giải việc lớn. Nghe nói Đại thừa tâm hoan hỷ. Cần biết tức là người Đại thừa. Đắc tâm tịch tĩnh có thần thông. Đều nhờ Đại thừa tự trang nghiêm. Nếu người có thể hành đại hạnh. Hạt giống Tam Bảo sẽ không đứt. Nếu ai thích thú theo Đại thừa. Người này tức được vô lượng phúc. Đến được mười phương các thế giới. Cúng dường mười phương vô lượng Phật. Như thế Đại thừa kinh Phương Quảng. Các thừa thế gian không thể thắng. Đầy đủ uy đức phá sinh tử. Vì thế Đại thừa khó nghĩ bàn. Được ở trong sắc đắc tự tại. Đầy đủ thành tựu pháp thân thường.

Nếu có người theo Đại thừa này. Người ấy nhận được vô thượng lạc. Xả thân tự thí tu từ bi. Vì thế đắc thừa vô thượng này. Giữ giới tinh tấn tu phạm hạnh. Năng dùng thần thông che nhật nguyệt. Đều vì tu lâu hạnh Đại thừa. Tự tâm siêng tu thường tinh tấn. Người này liền đắc trong Đại thừa. Phải nhận vô lượng khổ não báo. Tu tập Đại thừa được trừ diệt. Nếu năng an trụ kinh Đại thừa. Hưởng lạc dài lâu như chư Phật. Đầy đủ chính niệm siêng tinh tấn. Được bốn như ý thần thông lực. Nương dựa chính pháp và chân nghĩa. Đều nhờ tu lâu kinh Đại thừa. Đầy đủ mười lực không sợ hãi. Ba mươi hai tướng đẹp trang nghiêm. Kim cương tam muội tất cả trí. Đều nhờ từ lâu tu Đại thừa.

Thiện nam tử. Nếu có trì kinh điển Đại thừa này. Một chữ một câu cho đến một bài kệ. Mãi thoát các khổ nạn. Sau không đọa ác đạo. Được đến chốn an lạc. Sau này thời ác thế. Người có được kinh này. Ta đều sẽ thọ ký. Sau cùng thành Phật đạo. Người trì giữ kinh này. Phật thường gần người ấy. Người ấy thường gần Phật. Người ấy được Phật pháp. Chư Phật hộ người đó. Được đại thần thông huệ. Năng chuyển đại pháp luân. Độ các cõi sinh tử. Năng phá hoại ma quân. Ở chỗ Định Quang Phật. Ta nghe kinh phương tiện. Trụ nhẫn được thọ ký. Hiệu Thích Ca Mâu Ni. Sau khi ta diệt độ. Nếu ai học kinh này. Ta cũng ban thọ ký. Nếu đời sau có người. Giải được nghĩa kinh này. Vì người ngu mà nói. Tuy Phật không tại thế. Không đoạn nơi Tam Bảo. Cũng như Phật hiện tại. Bởi thế cho nên. Ta từ vô lượng Phật. Thọ trì kinh điển này. Ở trong thời mạt kiếp. Vì người mà quảng thuyết. Nhờ đó mà có được. Ba mươi hai tướng tốt.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Tất cả chư Phật đều cùng nói ba mươi hai tướng này. Nay Phật cũng lại nói ba mươi hai tướng. Là do nghiệp duyên gì mà được thành tựu. Chỉ mong Thế Tôn. Vì con mà nói.

Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát rằng. Thiện nam tử. Như Lai thành tựu vô lượng công đức. Nhờ đó đắc ba mươi hai tướng. Nếu ta quảng thuyết. Hết kiếp chẳng hết. Nay ta vì ngươi. Mà nói sơ lược. Thiện nam tử. Như Lai chí tâm hộ trì tịnh giới nên được tướng lòng bàn chân bằng. Vì tu hết thảy bố thí ân huệ nên được tướng tay chân có nghìn vòng xoáy. Không lừa tất cả chúng sinh nên được tướng gót chân đầy đặn. Vì hộ chính pháp nên được tướng ngón tay thon dài. Không phá hoại người nên được tướng giữa các ngón tay có lớp màng lụa. Vì đem y phục tuyệt diệu dâng cúng và bố thí nên được tướng tay chân mềm mại. Vì lấy đồ ăn thanh tịnh bố thí nên được tướng bảy chỗ đầy đặn. Vì tu mười pháp thiện nên được tướng thân trên như vua sư tử. Vì thường lấy thiện pháp giáo hóa chúng sinh nên được tướng đầy đặn tròn trịa. Vì thường cứu giúp người khỏi sợ hãi nên được tướng cánh tay khuỷu tay tròn trịa. Vì thấy người khác tạo nghiệp Tam Bảo thì vui vẻ trợ giúp nên được tướng tay dài chấm gối. Vì thường tu vạn pháp thiện nên được tướng thân thanh tịnh. Vì thường thí thuốc cho người bệnh nên được tướng những thứ ăn vào đều hiện lên vị ngon. Vì thường đúng hẹn nói pháp thiện nên được tướng gò má sư tử. Vì ở trước chúng sinh có tâm bình đẳng nên được tướng bốn mươi hai răng. Vì thích hòa hợp không tranh tụng nên được tướng răng khít. Vì lấy trân bảo bố thí nên được tướng răng thẳng đều. Vì thân khẩu ý thanh tịnh nên được tướng hai răng trắng. Vì bảo vệ được bốn họa miệng nên được tướng lưỡi rộng dài. Vì thành tựu vô lượng công đức nên được tướng thượng vị trong các vị. Vì thường nói lời dịu dàng với chúng sinh nên được tướng Phạm âm. Vì tu tập từ tâm nên được tướng mắt mỏng dài. Vì chí tâm cầu vô thượng bồ đề nên được tướng lông mi như vua trâu. Vì tán thán mọi công đức của người khác nên được tướng bạch hào. Vì cung kính cúng dường cha mẹ, hòa thượng, a-xà-lê nên được tướng nhục kế. Vì vui thích nói pháp Đại thừa nên được tướng thân mềm mại. Vì thích bố thí đồ bôi trét nên được tướng ánh sáng vàng kim. Vì xa lìa tụ tập nói chuyện thế gian nên được tướng từng lỗ chân lông đều xoay về bên phải. Vì thích nhận lời dạy của sư trưởng bạn tốt nên được tướng tất cả lông tơ trên tay chân đều xoáy lên trên. Vì không lấy việc xấu gán cho chúng sinh nên được tướng tóc khỏe mượt. Vì thường khuyên chúng sinh tu tam muội nên được viên mãn như Ni Câu Đà. Vì ở nơi sinh sống thích làm tượng Phật nên được tướng sức lực như Na La Diên. Thiện nam tử. Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu công đức vô lượng như vậy. Sẽ có được ba mươi hai tướng như thế.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Con quán các pháp. Đều không tướng mạo. Lại quán Như Lai. Không có hạnh đó. Vì sao Phật nói. Quảng tu mọi hạnh. Con quán chư Phật pháp tăng. Khổ tập diệt đạo. Ngũ ấm lục nhập thập pháp giới. Thập nhị nhân duyên. Các ba la mật. Nhân quả trong ngoài. Không, vô, tướng, nguyện. Không thấy sinh ra. Không thấy diệt mất. Như huyễn như hóa. Như bóng ảnh tiếng vang. Như trăng trong nước. Lông rùa sừng thỏ. Như hoa trong hư không. Như con của người đá. Như mặc áo bóng. Cưỡi voi tưởng tượng. Như có như không. Và lấy có không. Chẳng có chẳng không. Chẳng thường chẳng đoạn. Chẳng sinh chẳng diệt. Chẳng trong chẳng ngoài. Chẳng thấy chẳng biết. Cũng như hư không. Cớ sao lại nói. Con tu các pháp. Con quán Như Lai. Cũng không phải chúng sinh, thọ mạng, sĩ phu. Cũng không phải mắt, không phải sắc, không phải sắc tướng hành mà mắt thấy. Cũng không phải tai, không phải âm thanh, không phải thanh tướng hành mà tai nghe thấy. Không phải mũi, không phải mùi, không phải hương tướng hành mà mũi ngửi thấy. Không phải thân, không phải xúc chạm, không phải xúc tướng hành mà thân chạm thấy. Không phải ý, không phải pháp, không phải pháp tướng hành mà ý nghĩ thấy. Không phải thức, không phải sắc, không phải sắc tướng hành mà thức nhận thấy. Không phải sắc, không phải khổ, không phải khổ tướng hành mà sắc biểu lộ. Chẳng ngã chẳng nguyện. Chẳng hành chẳng uẩn. Chẳng thực chẳng hư. Chẳng tụ chẳng tán. Chẳng xuất chẳng nhập. Thọ tưởng hành thức. Cũng lại như thế. Chẳng đến chẳng đi. Không có nơi trụ. Không có tâm ý ý thức. Không có thân khẩu ý nghiệp. Chẳng một chẳng hai. Chẳng quá khứ vị lai hiện tại. Chẳng sạch chẳng bẩn. Chẳng ta, chúng sinh, thọ mạng, sĩ phu. Chẳng thường chẳng đoạn. Không sinh không diệt. Không tu không hành. Không xả không nhận. Rốt ráo thường trụ. Cớ sao lại nói. Quảng tu các hạnh.

Khi ấy. Phật ca ngợi Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Ngươi trong đời quá khứ. Đã từng cúng dường. Vô lượng chư Phật. Đã thấu đạt lâu. Không nghĩa vô thượng. Của đạo Đại thừa. Hiểu rõ vạn pháp. Đều là không tịch. Cũng biết Như Lai. Rốt ráo thường trụ. Thiện nam tử. Ví như bảo châu lưu ly thanh tịnh. Tuy ở trong bùn. Trải qua nghìn năm. Tính nó thường sạch. Thoát bùn vẫn thế. Nay như các người. Cũng giống như thế. Thấu hiểu pháp tướng. Bản tính thanh tịnh. Nay như các người. Dù tại ba cõi. Trong bùn ngũ trọc. Giúp Phật hoằng dương giáo hóa. Cũng không bị bùn làm bẩn. Vì không nhiễm bẩn. Mới hỏi nghĩa này. Thiện nam tử. Nay ngươi nghe kĩ. Ta sẽ nói cho. Tất cả vạn pháp. Thật không tướng mạo. Vì có văn tự. Nên có nói pháp. Trong pháp không chữ. Trong chữ không pháp. Vì do lưu truyền. Nói có văn tự. Ở trong văn tự. Không có bồ đề. Ở trong bồ đề. Không có văn tự. Đệ nhất nghĩa đế. Tuy không văn tự. Trong đạo thế tục. Nói có văn tự. Chúng sinh Phật tính. Vô thượng bồ đề. Không lìa văn tự. Thiện nam tử. Đúng như đã nói. Như Lai vô tận vô sinh. Không tu không hành. Lìa mọi tu hành. Không nhập chính vị. Cũng không thối chuyển. Một đời không sinh vào Đâu Suất Đà Thiên. Không từ trời xuống. Không ở thai đời. Trong tất cả pháp. Tâm không trụ lại. Cũng không nói rằng. Ta đã đi qua sinh lão bệnh tử. Cũng không ở trong bốn phương, mỗi phương đi bảy bước. Cũng không tự nói. Ta là bậc vô thượng ở thế gian. Chẳng ở trong cung, chọn gái tiêu khiển. Không tập những việc kỹ nhạc thế gian. Cũng không học tranh tài cưỡi ngựa. Vì muốn độ chúng sinh nhập niết bàn. Thị hiện tướng già để hoại tham thân. Thị hiện tướng bệnh để hoại tham thọ. Thị hiện tướng chết để hoại tham dục, tham ngã vào thứ mà ta sở hữu. Thị hiện tướng sa môn vì khiến chúng sinh không cầu thân làm Phạm Thiên Đế Thích. Siêng cầu pháp xuất thế vô thượng. Bước ra khỏi hoàng cung thị hiện xuất ly ba cõi lao ngục. Và biểu lộ vì đây không phải quả cuối cùng nên thị hiện không yêu ghét. Vì thế được ba mươi hai tướng làm trang nghiêm thân ấy. Vì chỉ cho chúng sinh ruộng phúc tốt lành, cắt bỏ lưới vây, quẳng bỏ chuỗi ngọc. Phái ngựa lệnh trở về, hoàn trả phóng thả xiển-đà-la [xiển-đà-la, hay chiên-đà-la, hạng người bị coi là hạ tiện nhất ở thời Đức Phật], thị hiện xa rời tất cả phiền não. Hiện cạo nhẵn râu tóc thị hiện không tham tất cả pháp. Thọ trì thân phận thầy tu thị hiện điều phục chúng sinh.

Ở bên Uất-đà-già-la [Uất-đà-già-la, còn gọi là Uất-đầu-lam-phất, là vị đại sư mà Đức Phật theo học], thăm hỏi nhận pháp, thị hiện phá hoại tâm tự cao. Sáu năm khổ hạnh để điều phục ngoại đạo. Hiện nhận ăn uống theo pháp thế tục. Hiện nhận cỏ khô cho thấy đã biết đủ. Ngồi trên đệm cỏ cho thấy phá bỏ kiêu ngạo. Chư thiên long thần tán thán cung kính cho thấy quả báo công đức trang nghiêm. Hàng phục ngoại đạo cho thấy sức mạnh dũng mãnh. Tay phải chỉ đất cho thấy sức mạnh làm phúc. Vì mặt đất chấn động biểu thị báo ơn. Nguyện tu vô tướng. Được đắc đạo vô thượng bồ đề. Thị hiện biết hết tất cả pháp tướng. Quán pháp bình đẳng. Tên gọi là Phật. Trí năng của Phật. Không ai thắng nổi. Pháp yếu nói ra. Biết Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì theo nghĩa ấy. Gọi là Như Lai. Thấy biết tất cả. Việc trong ba đời. Pháp thiện bất thiện. Gọi Tát Bà Nhã. Vì lời chân thật. Gọi thiên nhân sư. Nếu có người học. Quán được như vậy. Gọi là Bồ Tát. Nếu quán khác đi. Không gọi Bồ Tát. Mà là lừa gạt. Tất cả chư Phật. Thiện nam tử. Tất cả chư Phật. Không xuất không nhập. Không sinh không diệt. Vì độ chúng sinh. Xướng ngôn xuất thế. Vì độ chúng sinh. Xướng ngôn diệt độ.

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Con thật biết lâu. Pháp tướng lý không. Chư Phật Như Lai. Không xuất không diệt. Không sinh vương cung. Không diệt dưới cây. Chung quy thường trụ. Vì độ chúng sinh. Tu mọi khổ hạnh. Mà nhập niết bàn. Thực không động chuyển. Chư Phật Như Lai. Chân thực thường tồn. Ứng thân ba cõi. Hiện năm loại pháp thân. Thế nào là năm. Một là pháp thân thực tướng. Hai là pháp thân công đức. Ba là pháp thân pháp tính. Bốn là pháp thân ứng hóa. Năm là pháp thân hư không. Sở dĩ gọi là pháp thân thực tướng. Siêu việt thắng quả thực tướng. Hằng trụ pháp giới. Vì thế gọi là pháp thân thực tướng. Sở dĩ gọi là pháp thân công đức. Vì độ chúng sinh. Thí công tích hành. Vạn thiện đầy đủ. Vì thế gọi là pháp thân công đức. Pháp thân pháp tính. Đạt ngộ tất cả pháp tướng. Cùng tận mọi lẽ. Từ cảnh giải tỏ nghĩa không. Giải nghĩa không đầy đủ. Từ cảnh được tên. Gọi là pháp thân pháp tính. Vì sao gọi là pháp thân ứng hóa. Như Lai xuất thế. Ứng đủ năm đạo. Thiện ác đều hiện. Cứu hết mọi vật. Từ hóa vật được tên. Nên gọi là pháp thân ứng hóa. Sở dĩ lại gọi là pháp thân hư không. Hư không vô biên. Pháp thân vô biên. Hư không không thể đo lường. Pháp thân cũng không thể đo lường. Thân của Như Lai. Cũng như thái hư. Vì độ chúng sinh. Ứng thân năm phần. Nên biết Như Lai. Vô sinh vô diệt. Các pháp cũng thế. Vì độ chúng sinh. Mà Phật hiện pháp.

Khi ấy. Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát rằng. Thiện nam tử. Ngươi và Như Lai. Cùng giải pháp tướng. Tất cả cảnh giới. Vô chướng vô ngại. Thiện nam tử. Tương lai có kiếp. Tên gọi Thanh Tịnh. Cõi nước Khoái Lạc. Nước ấy đều lấy các đại Bồ Tát luận nghĩa Đại thừa. Từ đầu không nghe tên nhị thừa. Huống chi ác đạo. Ngươi vào kiếp ấy. Sẽ được làm Phật. Hiệu là Thanh Tịnh Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri. Các phương lớn khác. Đều đến nước ấy. Nghe nhận kinh Đại thừa Đại Thông Phương Quảng. Vì thế tất cả chúng sinh. Nếu nghe tên Hư Không Tạng Bồ Tát. Lễ bái cúng dường. Đều được sinh về thế giới Khoái Lạc ấy. Nếu có chúng sinh. Cầu nơi Đại thừa. Chưa đắc vô sinh. Thọ trì kinh này. Cần biết người này. Không quá mười Phật. Khiến được thọ ký.

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

Quyển Trung hết.

Quyển Hạ

Khi ấy. Phật Thích Ca Mâu Ni vì Tín Tướng Bồ Tát. Vì tất cả chúng sinh và bản thân mình. Hỏi danh hiệu chư Phật. Phật nói thập phương tam thế chư Phật, mười hai bộ kinh, và đại Bồ Tát tăng đã xong. Lại muốn đại sư tử hống. Sư tử hống này. Là quyết định thuyết. Quyết định thuyết này. Vì biết rõ Như Lai. Thường trụ không diệt. Và nói chúng sinh. Đều có Phật tính. Các ma sợ hãi. Ngoại đạo quy phục. Nên gọi là sư tử hống. Hiển thuyết như vậy đã xong. Phật lộ tướng lưỡi rộng dài phủ khắp ba nghìn đại thiên thế giới. Tất cả thế giới. Sáu loại chấn động. Sáu loại chấn động này. Đông trồi tây sụt. Tây trồi đông sụt. Nam trồi bắc sụt. Bắc trồi nam sụt. Ở giữa trồi ngoài rìa sụt. Ngoài rìa trồi ở giữa sụt. Gọi là sáu loại chấn động trên mặt đất. Lưỡi phóng đại quang minh. Ánh sáng phổ chiếu. Ánh sáng phổ chiếu này. Chuyển vô thường thành thường. Chuyển bất tịnh thành tịnh. Chuyển khổ thành vui. Chuyển vô minh thành minh. Khi ấy, chỗ mà Phật quang chiếu đến. Núi rừng quốc thổ. Sông hồ biển lớn. Sông núi Thiết Vy. Tất cả địa ngục. Cao thấp ngay ngắn. Đều được thanh tịnh. Không còn dơ bẩn. Giống như Đông phương thanh tịnh trang nghiêm Mãn Nguyệt thế giới.

Khi ấy. Thích Ca phân thân chư Phật. Từ trên không hóa xuống dưới. Giống như mưa hoa. Từ đất hóa ra. Giống như mây mọc. Đầy ắp hư không. Không một chỗ hở. Lúc này các vị hóa Phật. Dị khẩu đồng âm. Đều nói Như Lai. Thường tính bất diệt. Nói các chúng sinh. Đều có Phật tính. Còn nói các pháp. Đều quy về không. Nhân quả vạn hành. Đều quy một thừa. Chúng sinh nhìn thấy. Lời vừa nói xong. Bỗng nhiên biến mất. Chỉ thấy Thích Ca. Ở trên bản tọa. Đúng vào lúc ấy. Tất cả đại chúng. Đều thấy hóa Phật. Cho nên điều thấy. Đều là Thích Ca. Sức mạnh uy thần. Từ phụ Thích Ca. Khi hiện sức mạnh thần thông uy đức này. Trong đại chúng khi ấy. Bốn mươi hằng hà sa Bồ Tát đắc vô sinh pháp nhẫn. Tám vạn Thanh Văn phát tâm Đại thừa. Mười nghìn tì kheo đắc đạo A La Hán. Một vạn tám nghìn tì kheo ni đắc đạo A Na Hàm. Bốn ức ưu bà tắc đắc đạo Tư Đà Hàm. Mười ức ưu bà di đắc đạo Tu Đà Hoàn. Vô lượng trời người đắc pháp nhãn tịnh. Tự biết số mệnh. Biết pháp hữu vi. Đều là vô thường.

Trong đại chúng ấy. Có Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát. Đứng dậy khỏi chỗ. Sửa sang y phục. Cúi dưới chân Phật. Và bạch Phật rằng. Thế Tôn. Như nói ở trên. Nghe danh hiệu Phật. Cũng diệt được tội. Nghe tên của pháp. Cũng diệt được tội. Nghe tên của tăng. Cũng diệt được tội. Vì sức mạnh Phật. Vì sức mạnh pháp. Vì sức mạnh tăng. Như Phật lực ấy nên cầu Phật. Như pháp lực ấy nên cầu pháp. Như tăng lực ấy nên cầu tăng. Sao phải cầu ba. Như nói ở trên. Duy có một thừa. Chúng sinh thấy ba. Phật tự nói ba. Huống chi chúng sinh.

Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát rằng. Lành thay lành thay. Thiện nam tử. Mau hỏi nghĩa này. Lợi ích chúng sinh. Hãy nghe cho kĩ. Nay ta vì ngươi. Phân biệt giải thích. Không chỉ Phật lực. Không chỉ pháp lực. Không chỉ tăng lực. Cũng là chúng lực. Phật là cha mẹ nơi chúng sinh trở về. Bồ Tát tăng là chứng minh tri thức. Đứa con mê là chúng sinh. Nếu có tỉnh ngộ. Tự sinh chán lìa. Vì niệm lực nhiều. Cầu xuất tam giới. Biển cả phiền não. Kinh điển Phương Quảng. Làm con thuyền lớn. Thiện nam tử. Phật tức là pháp. Pháp tức là tăng. Tăng tức vô vi. Vô vi là không. Vô vi không. Hữu vi không. Nội không ngoại không. Đại không tiểu không. Đều quy một không. Không chẳng khác biệt. Thiện nam tử. Điều mà ngươi hỏi. Cần nên cầu một. Đâu cần cầu ba. Thiện nam tử. Ví như có người. Sợ hãi hư không. Du hành khắp nơi. Tìm chỗ ẩn thân. Chẳng thoát hư không. Thiện nam tử. Thập phương Phật nói. Và điều ta nói. Vạn nhân duyên lành. Tam Bảo tam thừa. Chẳng qua có một. Vì để khéo hợp. Các sơ, trung, hậu. Tất cả chúng sinh. Phân biệt nói ba. Cho nên gọi là. Một tướng Tam Bảo.

Sư Tử Hống Bồ Tát nói. Lành thay lành thay. Thật như Thánh giáo. Con biết từ lâu. Vì các chúng sinh. Hỏi việc như vậy.

Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Như Phật đã nói. Chẳng hai chẳng ba. Vì kinh Phương Quảng. Là mẹ chư Phật. Bồ Tát đại đạo. Con mắt học giả. Thu về tà kiến. Cứu hộ tâm thất lạc. Đoạn trừ ba ác đạo. Mở cánh cửa vô thượng bồ đề. Đưa các Thanh Văn. Đi tới Đại thừa. Con sẽ lấy đại đà-la-ni chú. Để bảo vệ họ. Tịnh trì giới hạnh. Tu học kinh này. Cũng sẽ bảo vệ. Hoặc lại có người. Kính trọng kinh này. Tu hành bảy ngày. Hoặc có ác ma. Muốn đến quấy nhiễu. Khiến các ác ma. Không thể thừa cơ. Thế Tôn. Con sẽ bảo hộ. Cho kinh điển này. Ở đời thật lâu. Tận bồ đề tính.

Phật nói. Thiện nam tử. Ngươi hộ kinh này. Tức hộ Tam Bảo. Cũng hộ người hành giáo.

Khi ấy. Sư Tử Hống Bồ Tát. Ở tại trước Phật. Mà nói chú rằng:

Nam mô Phật. Nam mô pháp. Nam mô tăng. A-tan-ti. Thô-lô-ni. Tua-thua. Ha-a-ka-tu-ni. Pô-pi. Sa-pô-ta-mô-ni. Pô-pi. I-sưa-mô-thua. Pi-pô-sưa-na. Pi-mo-la-xiêu-pô-li. Ta-mô-ni. Chuy-na. Pô-lô-ni-cha-yê. Tô-mô-li-chưa-li. Hô-lô-hô-lô. Sư-pinh-ti. Man-thua-lua-man-thua-lua. Sô-ha.

Mỗi lần trăm biến. Nhiễu phải bảy vòng. Bảy ngày như thế. Một ngày ba thời. Trong bảy ngày đó. Không niệm kinh khác. Tâm nghĩ Phương Quảng. Không cảnh gì khác. Thế Tôn. Chú đà-la-ni này. Tám trăm vạn ức chư Phật đã nói. Nay con nói ra. Nếu có người phỉ báng chú này. Tức là phỉ báng các Phật Như Lai ấy. Người đã phỉ báng chú này. Đời đời không thành đạo. Không thoát ba cõi. Là cớ vì sao? Chú này có thể khiến người đánh mất tâm có được tâm gốc. Là chú đà-la-ni. Một lần qua tai. Nghe rồi viết chép. Không uống rượu thịt. Tự giữ trai giới. Xa rời hý luận. Không vào quán chợ. Thường làm đại từ. Quý việc tọa thiền. Người đó hoặc từ vô lượng kiếp đến nay. Tam chướng trọng tội. Nghe chú này rồi. Chí tâm thọ trì. Ngày ngày đọc tụng. Thường niệm không quên. Người này cho đến khi đắc đạo bồ đề. Không đọa tam đồ.

Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát rằng. Lành thay lành thay. Năng hộ Tam Bảo. Nghĩ thương chúng sinh. Lệnh xuất tam hữu. Nói chú như thế. Làm lợi ích lớn. Vô lượng người học. Mở mang đạo giáo. Cắt các tà kiến. Thiện nam tử. Tất cả chúng sinh. Nghe thấy tên ngươi. Và âm thanh chú. Tin kính không phỉ. Người ấy đời này an ổn. Và khi mệnh chung. Thường thấy chư Phật. Cũng được thấy ta. Cũng thấy thân ngươi. Và các Bồ Tát. Tự biết được làm Phật. Chắc chắn không nghi ngờ. Tất cả thấy Phật tính. Nhờ niềm tin thanh tịnh. Vạn thiện thành Phật đạo. Sẽ xả tất cả ác. Phật nói. Nếu có thiện nam tử. Thiện nữ nhân. Sau khi ta diệt độ. Hoặc một ngày. Hoặc một đêm. Hoặc một giờ. Hoặc một niệm. Lễ bái chư Phật mười phương ba đời. Mười hai bộ kinh. Các đại Bồ Tát. Tâm nhớ Đại thừa. Nghĩ đệ nhất nghĩa. Người đó một niệm. Trong cái búng tay. Thập ác ngũ nghịch. Phỉ báng Phương Đẳng. Tất cả ác nghiệp. Đều được diệt trừ. Không còn mảy may. Nếu có tì kheo. Tì kheo ni. Hoặc Bồ Tát. Hoặc sa di. Hoặc sa di ni. Hoặc người mất bản tâm. Thân phạm bốn tội nặng. Bát cấm lục trọng. Thập ác ngũ nghịch. Phỉ báng Phương Đẳng. Nay sinh lòng tin. Lễ bái danh hiệu chư Phật mười phương ba đời. Ác nghiệp như thế. Đều được diệt trừ. Không còn mảy may.

Lời vừa nói xong. Khi ấy. Thiện Kiến Vương Tử và ba nghìn người. Ở thời Định Quang Phật. Bất ngờ phút chốc. Đến chỗ của Phật. Lễ dưới chân Phật. Đồng thanh bạch Phật rằng. Thế Tôn. Chúng con hoặc từ vô lượng kiếp đến nay. Ác nghiệp đã tạo. Không thể nói hết. Hoặc phạm mười ác. Hoặc phạm năm nghịch. Hoặc báng Phương Đẳng. Hoặc tạo vô lượng a tăng kỳ tội. Cầu dựa Như Lai. Mười hai bộ kinh. Các Bồ Tát chúng. Phát lộ sám hối. Mong nhận chúng con. Phật nói. Muốn sám mười ác. Muốn sám năm nghịch. Thậm chí Nhất-xiển-đề. Người muốn thấy Phật tính. Nên làm như vậy. Tùy ý mà nói.

Khi ấy ba nghìn người. Nghe từ âm của Phật. Chỉnh đốn lại y phục. Chắp tay và làm lễ. Trễ áo bên vai phải. Gối phải quỳ xuống đất. Rồi nói như thế này. Thế Tôn. Chúng con hôm nay. Quy mệnh mười phương Phật. Quy mệnh mười phương pháp. Quy mệnh mười phương tăng. Tiếp đó quy mệnh cúi lạy Đông phương A Súc Phật. Cũng quy mệnh Nam phương Bảo Tướng Phật. Cúi lạy Tây phương A Di Đà Phật. Cũng lại quy mệnh Bắc phương Thắng Diệu Phật. Cúi lạy Thượng phương Hương Tích Như Lai. Cũng quy mệnh Hạ phương Ức Tượng Như Lai. Cúi lạy Đông phương Phổ Hiền Đại Sĩ. Cũng quy mệnh Nam phương Trì Thế. Cúi lạy Tây phương Quan Âm Đại Sĩ. Cũng quy mệnh Bắc phương Mãn Nguyệt. Cúi lạy Thượng phương Hư Không Tạng Đại Sĩ. Cũng quy mệnh Hạ phương Kiên Đức Đại Sĩ. Cúi lạy Bổn Sư Định Quang Như Lai. Cũng quy mệnh Phật tính vị lai. Cúi lạy phân thân Hóa Phật các phương khác. Quy mệnh thầy Thích Ca của con ngày nay. Cúi lạy Đại Sĩ Duy Ma Văn Thù. Cũng quy mệnh A Nan Ca Diếp. Cúi lạy Thánh nhân xuất hiện ở bốn đạo. Cũng quy mệnh những vị mới phát tâm dạy dỗ. Cúi lạy Đại Tạng mười hai bộ kinh Phương Đẳng chính điển. Cũng quy mệnh các kinh pháp khác. Cúi lạy tám phần xá lợi hình tượng. Cũng quy mệnh chư Phật hiện tại. Tứ Vương bốn phương Sơ-Lợi-Thích-Phạn. Ba mươi ba Thiên. Hư không trên trời. Trên đất dưới đất. Rừng núi dưới cây. Tất cả thần tiên. Người có đại thần túc. Người có thiên nhãn. Người có thiên nhĩ. Mong đều nghe biết. Và chứng minh cho. Nguyện tất cả chúng sinh. Hoặc người chưa sám hối. Đều được diệt hết tội. Nói lời như thế này. Chúng con hoặc từ vô thủy thế giới cho đến thân ác ngày nay. Tâm loạn cuồng điên. Vô lượng đảo kiến. Phiền não ác nghiệp. Không thể kể hết. Các tội đã làm. Không tự nhận biết. Phát tâm mãnh liệt. Không thấy đời sau. Chỉ thấy đời này. Thích thói phiền não. Xa rời thiện căn. Ác nghiệp ngăn trở. Gần ác tri thức. Ở bên tì kheo, tì kheo ni làm việc phi pháp. Ở bên cha mẹ làm việc phi pháp. Hoặc tự do dùng đồ vật của tăng. Ở bên năm bộ tăng làm việc thị phi. Hoặc nói vô lượng ác nghiệp của thế gian. Hoặc giết chúng sinh có thiện căn bồ đề. Hoặc phỉ báng pháp sư. Nói pháp là phi pháp. Phi pháp nói là pháp. Nói Như Lai vô thường, chính pháp vô thường, tăng bảo vô thường. Không thích huệ thí. Tín thọ tà pháp. Vì thế ngày nay. Vô lượng sợ hãi. Vô lượng hổ thẹn. Quy y Tam Bảo. Chư Phật từ bi. Phương Đẳng phụ mẫu. Bồ Tát tri thức. Cho phép chúng con. Phát lộ sám hối. Mong trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Nguyện sau không tạo tác.

Lại nữa Thế Tôn. Chúng con hoặc từ vô lượng kiếp đến nay tạo tác ngũ nghịch. Hoặc phạm các giới cấm của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Làm hạng Nhất-xiển-đề. Nói ra lời thô ác. Phỉ báng chính pháp. Tạo nghiệp nặng này. Chưa từng hối cải. Tâm không hổ thẹn. Hoặc phạm các tội thập ác ngũ nghịch. Tự biết chắc chắn đã phạm việc nặng như thế. Bản tâm ban đầu không sợ hãi hổ thẹn. Lén nhận cúng dường. Chưa từng để lộ. Đối với chính pháp. Không có tâm trân trọng hộ trì. Trong thời gian ấy. Phỉ báng khinh chê. Nói nhiều tội ác. Hoặc lại nói rằng. Không có Phật pháp tăng, không có thập ác ngũ nghịch, trọng tội vô gián đã tạo như thế. Vì thế hôm nay. Vô lượng sợ hãi. Vô lượng hổ thẹn. Quy y Tam Bảo. Chư Phật từ bi. Phương Đẳng phụ mẫu. Bồ Tát tri thức. Cho phép chúng con. Phát lộ sám hối. Mong trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp tới nay. Nguyện sau không tạo tác.

Lại nữa Thế Tôn. Chúng con hoặc từ vô lượng kiếp đến nay. Hoặc bốn đảo kiến. Hay bốn pháp trọng. Nói điều thô ác. Đại tội ô trọc. Nói là bốn trọng. Phạm nói không phạm. Không phạm nói phạm. Tội nhẹ nói nặng. Tội nặng nói nhẹ. Sạch nói không sạch. Không sạch nói sạch. Hoặc lại tà kiến. Ca ngợi sách đời. Bất kính kinh Phật. Các luận nghĩa xấu. Nuôi tám bất tịnh. Đúng là lời Phật. Lại bảo lời ma. Đúng là lời ma. Lại bảo lời Phật. Hoặc lại tín thọ. Thuyết của sáu thầy. Hoặc nói thế này. Như Lai hôm nay. Rốt cục niết bàn. Tam Bảo vô thường. Thân tâm nghi hoặc. Vô lượng đảo kiến. Vì thế hôm nay. Vô lượng sợ hãi. Vô lượng hổ thẹn. Quy y Tam Bảo. Chư Phật từ bi. Phương Đẳng phụ mẫu. Bồ Tát tri thức. Cho phép chúng con. Phát lộ sám hối. Mong trừ trọng tội sinh tử từ vô lượng kiếp tới nay. Nguyện sau không tạo tác.

Lại nữa Thế Tôn. Chúng con hoặc từ vô lượng kiếp đến nay. Đến thân hình này. Hoặc phạm tội lấy đồ của tăng. Hoặc phạm vào đồ của mười phương tăng. Hoặc phạm vào đồ của tăng hiện tại. Hoặc phạm vào đồ của ngũ bộ tăng. Thậm chí đồ của một tì kheo. Đồ của tất cả thí chủ. Hoặc lại tự xưng. Ta đắc chính pháp. Tứ thiền tứ quả. Bởi vì ác nghiệp. Nhân duyên bất thiện. Hoặc vốn xuất gia. Tạo bốn trọng tội. Tám cấm sáu trọng. Mười ba tội tăng. Hai pháp bất định. Ba mươi xả đọa. Chín mốt tội đọa. Bốn pháp sám hối. Rất nhiều học pháp. Bảy pháp diệt tránh. Hoặc phạm lần lượt. Các giới như thế. Từ đột-cát-la [những giới nhỏ nhặt nhất trong giới luật của vị tì kheo]. Đến bốn tội nặng. Hoặc năm nghịch tội. Phỉ báng chính pháp kinh điển thâm sâu. Tạo hạnh Nhất-xiển-đề. Lại giấu không hối. Ngày đêm tăng trưởng. Từng nghe Phật nói. Nếu phạm bốn trọng. Cho đến năm nghịch. Hoặc báng chính pháp. Nếu không phát lộ. Đọa chắc địa ngục. Chư Phật Bồ Tát. Thanh Văn Duyên Giác. Không thể cứu hộ. Sư tăng phụ mẫu. Chư thiên thế nhân. Cũng không thể cứu. Vì thế hôm nay. Vô lượng sợ hãi. Vô lượng hổ thẹn. Vì thế hôm nay. Quy y Tam Bảo. Quá khứ Đa Bảo. Vị lai Thiên Phật. Hiện tại phân thân chư Phật Thích Ca. Chư Phật từ bi. Phương Đẳng phụ mẫu. Bồ Tát tri thức. Cho phép chúng con. Phát lộ sám hối. Mong trừ vô lượng kiếp tới nay. Phiền não chướng. Nghiệp chướng. Báo chướng. Bốn tội vô gián. Mười tội trọng ác.

Lại nữa Thế Tôn. Chúng con hôm nay. Vì các chúng sinh. Và bản thân mình. Trước mười phương Phật. Nay xin sám hối. Tất cả chúng sinh. Từ vô lượng kiếp. Không biết chư Phật. Và ơn cha mẹ. Không hiểu pháp thiện. Tạo các pháp ác. Tự cậy tên tuổi. Và nhiều tài bảo. Tuổi trẻ phóng túng. Làm các nghiệp ác. Tùy ý làm bừa. Không nhìn thấy họa. Phàm phu vô tri. Làm hạnh ngu si. Gần gũi bạn xấu. Phiền não loạn tâm. Vì năm dục vọng. Tâm sinh oán hận. Không biết thỏa mãn. Làm bao điều ác. Gần kẻ bất chính. Ghen ghét bủn xỉn. Vì cảnh bần cùng. Mà làm việc ác. Và dùng nữ sắc. Làm trò gian ác. Lệ thuộc người khác. Nên thường sợ hãi. Không được tự do. Kết bao phiền não. Tham dục ngu si. Nhiễu động tâm trí. Khát tình dồn ép. Tạo tác ác nghiệp. Thân khẩu ý ác. Ba nghiệp tích tập. Các tội như thế. Nay đều sám hối. Hoặc không cung kính. Phật pháp thánh tăng. Các tội như vậy. Nay đều sám hối. Hoặc không cung kính. Bồ Tát Duyên Giác. Các tội như vậy. Nay đều sám hối. Bởi vì vô trí. Phỉ báng chính pháp. Không biết cung kính. Cha mẹ sư trưởng. Các tội như vậy. Nay đều sám hối. Mê muội che mờ. Kiêu mạn phóng túng. Vì tham sân si. Tạo bao điều ác. Các tội như vậy. Nay đều sám hối. Nay con cúng dường. Chư Phật mười phương. Mong các chúng sinh. Trụ nơi mười địa. Đều được đầy đủ. Như Lai chính giác.

Khi ấy. Phật bảo Thiện Kiến Vương Tử. Lành thay lành thay. Đại sĩ đại sĩ. Tự quan sát mình. Ác nghiệp bất thiện. Sinh lòng sợ hãi. Giãi bày ác tội. Lại vì chúng sinh. Sám hối các tội. Vì thế gọi ngươi. Là chân đại sĩ. Tự lìa mọi ác. Lại khiến chúng sinh. Rời xa mọi ác. Vì thế gọi ngươi. Là chân đại sĩ. Không mong cho mình. Lại mong chúng sinh. Đắc thành chính giác. Vì thế gọi ngươi. Là chân đại sĩ.

Khi ấy, Thiện Kiến Vương tử cùng với ba nghìn người sám hối xong, đọc bài kệ tán thán Phật rằng:

Duy Phật một người bậc đệ nhất Tam giới phụ mẫu nhất thiết trí Hết thảy các hàng không sánh bằng Cúi lạy Thế Tôn bậc hiếm có Người phàm làm ơn vì lợi mình Thí tiền vì mong nhận phúc báo Phật đại nhân từ không như vậy Oán thân ghét yêu lợi cho đều Bậc đại tinh tấn con quy mệnh Phật Nhị Túc tối thượng tôn kính [Nhị Túc là một tôn hiệu của Phật Đà, chỉ Phật là bậc viên mãn hai thứ phúc và trí, nên còn gọi là Nhị Túc Tôn.] Trí năng nhìn người đều thấy biết Chư Thiên không hiểu trí năng này Quá khứ vị lai chư Phật nay Tất cả con đều rập đầu lễ Như vậy nay con quy mệnh Phật Cũng như cung kính ba Thế Tôn.

Khi ấy. Chư Phật mười phương. Liền vì Thiện Kiến Vương Tử và ba nghìn người. Mà nói bài kệ dạy rằng: Nếu muốn cầu Phật đạo Thường theo người đa văn Làm theo lời thầy tốt Thành Phật cũng chẳng lâu Nếu giữ giới thanh tịnh Gọi là tì kheo thật Nếu có thể quán không Gọi là đắc tam muội Nếu có thể tinh tấn Gọi là người hành đạo Nếu có đắc niết bàn Gọi là vì thực lạc Trì giới đại sa môn Đại giới thanh tịnh ni Nửa tháng thường bố tát [Bố tát: ngày tụng giới, nghi thức sám hối sớm nhất của Phật giáo.] Kết tịnh hành khất thực Thân khoác tăng già lê [Tăng già lê: một trong ba y phục của tăng.] Y bát mang theo mình Chư Thiên đều hoan hỷ Cung kính chắp tay lễ Ta khiến các thiên nhân Làm người theo hầu hạ Cũng như các tiểu thiên Phụng sự Thiên Đế Thích Ngày nay được hiện báo Vị lai không thể lường Xuất gia giữ giới cấm Gọi là báo ơn Phật Lại nữa Thiện Kiến Vương Trừ ta và Bồ Tát Tất cả người thế gian Tâm sinh thanh tịnh tín Biết hết mười phương Phật Thường trụ không niết bàn Pháp tăng cũng như vậy Những hạng người như thế Gọi là báo ơn Phật. Lại nữa Thiện Kiến Vương Tất cả người thế gian Tâm không phân biệt tướng Biết rõ đạo một thừa Quá khứ và vị lai Mười phương và hiện tại Duy có một Phật thừa Không hai cũng không ba Nếu phát được ý này Tâm không phân biệt tướng Các hạng người như vậy Gọi là báo ơn Phật. Lại nữa Thiện Kiến Vương Nếu lại có một người Sau khi ta diệt độ Tâm thường sinh tín giải Đều nói các chúng sinh Đều có Như Lai tính Các hạng người như vậy Cũng gọi báo ơn Phật Nếu tu một niệm lành Không cầu quả báo trời Hướng thẳng đạo vô thượng Cũng gọi báo ơn Phật Lại nữa Thiện Kiến Vương Sau khi ta diệt độ Nếu lại có một người Có lúc đọc kinh này Kính trọng Phật pháp tăng Hiếu thuận cúng dường thầy Các hạng người như vậy Cũng gọi báo ơn Phật Nếu có người bỏ tiền Thức ăn và quần áo Phổ thí cho đại chúng Cũng gọi báo ơn Phật Lại nữa Thiện Kiến Vương Trong thời mạt pháp ta Nếu có hóa một người Chốc lát nghe kinh này Hơn mọi cúng dường khác Trăm ức Bồ Tát chúng Vì thế kinh Đại thừa Mẹ chư Phật Bồ Tát Niệm Phật kính kinh này Và các Bồ Tát chúng Tâm ngay không này nọ Gọi là báo ơn Phật Lại nữa Thiện Kiến Vương Ai trong thời mạt pháp Nếu muốn báo ơn Phật Một niệm trong thiền định Thắng tất cả con người Sống trong ba nghìn cõi Hạng phỉ báng thiền định Như giết tất cả người Và các loài chúng sinh Đầy trong ba nghìn cõi Hạng hủy hoại thiền định Tội ấy cũng như thế Nếu người thấy tu thiện Phỉ báng không chịu tin Đoạn diệt giống Tam Bảo Không gọi báo ơn Phật.

Khi ấy. Thiện Kiến Vương Tử và ba nghìn người. Được Phật dạy như thế. Hoan hỷ đảnh lễ nhận. Lại nói bài kệ rằng.

Chúng con ngày nay Cúi lạy quá khứ Vị lai hiện tại Chư Phật ba đời Cũng lại quy mệnh Thích Ca Văn Phật Cúi lạy tám vạn Bốn nghìn pháp tạng Cũng lại quy mệnh Các kinh pháp khác Cúi lạy quá khứ Duy Ma Văn Thù Cũng lại quy mệnh Đa văn đại trí A Nan Xá Lợi Cúi lạy vô học Năm phần pháp thân Cũng lại quy mệnh Thủy học sơ nhân Cúi lạy vừa xong Lại thuyết kệ rằng Chư Phật nói gì thật Cái gì là không thật Thật và cả không thật Hai việc không thể đắc Vì thế tướng chân thật Không đùa nơi các pháp Vì thương xót chúng sinh Phương tiện chuyển pháp luân Các thánh trước đến giờ Phật đã đến như vậy Thực tướng và nơi đi Phật cũng thế không khác Các thánh nói sự thật Phật cũng nói sự thật Vì thế gọi là Phật Là Ta Tha Ga Ta [Tathagata: Đấng Như Lai] Tâm nhẫn chắc như giáp Sức tinh tấn như cung Trí sắc nhọn như tên Phá các giặc ngạo mạn Hợp nhận thiên thế nhân Tất cả mọi cúng dường Vì thế gọi là Phật Lấy hiệu A La Hán Biết đúng thực tướng khổ Cũng thực biết nhân khổ Biết thực tướng khổ tận Cũng biết đạo khổ tận Chân chính giải bốn đế Định thực bất khả biến Cho nên trong mười phương Hiệu Tam Miểu Tam Phật Đắc tam minh vi diệu Hạnh thanh tịnh cũng đủ Vì thế hiệu Thế Tôn Bỉ Xà Già La Na Hiểu biết tất cả pháp Tự đắc diệu đạo pháp Hoặc lúc thuận tiện nói Vì thương xót tất cả Diệt trừ lão bệnh tử Cho đến nơi yên ổn Vì thế gọi là Phật Lấy hiệu Tu Già Đà Biết đời trước tới nay Cũng biết đời tận đạo Vì thế gọi là Phật Hiệu Lộ Già Bỉ Đà Giới định huệ đẳng nhãn Luôn xuất hiện đúng lúc Vì thế gọi là Phật Hiệu A Nậu Đa La Đại bi độ chúng sinh Khéo léo dạy điều chuyển Vì thế gọi là Phật Phú Lâu Sa Đàm Miểu Trí năng không phiền não Nói giải thoát tối thượng Vì thế gọi là Phật Đề Bà Ma Thiểu Xá Tam thế động bất động Tận và bất tận pháp Dưới cây đạo đều biết Vì thế gọi là Phật.

Khi ấy. Chư Phật mười phương nhập thần thông tam muội. Và tự nhấc mình. Ở tại không trung. Dị khẩu đồng thanh. Xướng lời như vậy. Thiện Kiến Đại Sĩ và ba nghìn người. Tội tính các người. Không ở ngoài. Không ở trong. Không ở giữa. Vì tâm thật nên thiện lực thật. Vì tâm giải nên tội tính giải. Vì không huệ nên tội tính không. Vì tín lực nên phúc lực nhiều. Nếu người có thể sám hối như vậy. Thì vì mình thấy ta. Cũng thấy Đa Bảo Phật và các phân thân. Sám hối diệt tội. Vì thường thấy ta ngày nay giáo hóa các Bồ Tát. Người sám hối như thế. Khiến ta và phân thân. Diệt độ Đa Bảo Phật. Tất thảy đều hoan hỷ. Mười phương hiện tại Phật. Và quá khứ vị lai. Cũng thấy cũng cúng dường. Cũng khiến được hoan hỷ. Theo kinh Đại thừa này. Được vào cửa bồ đề.

Phật bảo các đệ tử. Có tội muốn sám hối. Cần như Thiện Kiến Vương. Lễ chư Phật ba đời. Mười hai bộ kinh quý. Các đại Bồ Tát tăng. Lần lượt một lòng lễ. Cũng như gặp thân ta. Gặp tướng ta. Thấy tướng ta. Thấy một tướng Phật. Hai tướng Phật. Mười tướng Phật. Thấy trăm tướng Phật. Nghìn tướng Phật. Vạn tướng Phật. Cũng như thấy vô lượng tướng Phật. Lần lượt một lòng lễ như vậy. Người này phúc đức vô lượng. Diệt trừ trọng tội sinh tử. Trong a tăng kỳ kiếp. Không đọa ba ác đạo. An trú nơi Phật đạo. Chắc chắn không nghi ngờ. Vì thế hối các tội. Chí tâm tin đạo lý. Chắc chắn được diệt tội.

Khi ấy. Thiện Kiến Vương Tử và ba nghìn người. Đều đồng thanh nói. Dùng kệ tán Phật.

Thế Tôn đại từ bi Đại Pháp Vương họ Thích Tiếng như sư tử gầm Thu nhận mọi chúng sinh Coi như một người con Cũng không hề này khác Nhờ thấy bậc vô thượng Cho nên nay kính lễ.

Khi ấy. Phật bảo Thiện Kiến Vương Tử và ba nghìn người. Nếu hay phát lộ. Sám hối như thế. Không che giấu tội. Là Bồ Tát thật. Người vào đời sau. Ắt được làm Phật. Lại nữa thiện nam tử. Sau khi ta diệt. Nếu có người thành tâm lễ mười phương chư Phật. Mười hai bộ kinh. Các Bồ Tát tăng. Thì gọi là báo ơn Tam Bảo. Tức diệt ngay được tội thập ác ngũ nghịch và báng kinh Phương Đẳng. Diệt xong tội này. Người được độ hợp với Tu Đà Hoàn. Thì ban cho quả Tu Đà Hoàn. Người được độ hợp với Tư Đà Hàm. Thì ban cho quả Tư Đà Hàm. Người được độ hợp với A Na Hàm. Thì ban cho quả A Na Hàm. Người được độ hợp với A La Hán. Thì ban cho quả A La Hán. Người được độ hợp với Bích Chi Phật. Thì ban cho quả Bích Chi Phật. Người được độ hợp với Bồ Tát. Thì ban cho quả Bồ Tát. Nay trong kinh này các đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Đắc nhất sinh thực tướng. Đều do lễ thập phương tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc nhị sinh pháp giới. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc trí tột cùng. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc ngộ đệ nhất nghĩa đế. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc thủ lăng nghiêm tam muội. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc hư không tam muội. Trí ấn tam muội. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc bất thối nhẫn. Như pháp nhẫn, như pháp giới nhẫn. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc đà-la-ni. Đại niệm tâm vô vô ngại trí. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc sư tử hống tam muội. Kim cương tam muội. Ngũ trí ấn tam muội. Đều do lễ tam thế chư Phật. Hoặc có Bồ Tát đắc bình đẳng tam muội. Đại từ đại bi A nậu đa la tam miểu tam bồ đề Phật hạnh. Đều do lễ tam thế chư Phật.

Khi ấy. Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Tất cả chúng sinh. Tâm loạn cuồng mê. Tạo tác ác nghịch. Làm sao tự biết. Mà được diệt tội.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi. Như trên đã nói. Nếu có người nghe kinh điển Phương Quảng này. Và nghe danh hiệu chư Phật mười phương ba đời. Mười hai bộ kinh. Các đại Bồ Tát. Tâm sinh hoan hỷ. Vô lượng tín kính. Viết chép thọ trì. Đọc tụng trôi chảy. Ở nơi thanh tịnh. Dọn dẹp một phòng. Phấn thơm phủ sàn. Lấy cờ phướn tốt. Trang nghiêm bên trong. Trước tiên thắp hương. Sau đó thỉnh Phật. Không kể nhiều ít. Xịt nước hoa trước. Mặc quần áo sạch. Hễ đi vệ sinh. Lại một lần tắm. Bố trí bảo tọa. Tu lâu kinh này. Biết rõ pháp tướng. Không nhân ngã kiến. Thỉnh mệnh lệnh trên. Phân biệt ca ngợi. Thắp lên hương quý. Nhất tâm bất loạn. Chính ý chính niệm. Nhất tâm niệm Phật. Thì những người này. Hòa hợp với trên. Nếu không hòa hợp. Sân hận tranh tụng. Không gọi là hối. Ôm lòng sân hận. Tức trái với đạo. Nhớ đến Đại thừa. Nghĩ đệ nhất nghĩa. Bảy ngày bảy đêm. Không được nằm ngủ. Một ngày ba thời. Đọc tụng kinh này. Ngày đêm sáu thời. Thắp hương cúng dường. Lễ bái sám hối. Xưng chư Phật Bồ Tát trong kinh này. Danh hiệu mười hai bộ kinh. Tâm tâm bất loạn. Tâm tâm không rối. Tâm tâm không khác. Giờ giờ tinh tấn. Ngày ngày tinh tấn. Tâm sinh tín niệm. Tâm sinh hoan hỷ. Tâm tâm thứ lớp. Tâm tâm tương tục. Tâm tâm thâm trọng. Tâm tâm không lìa. Tâm tâm nghĩ tội. Tâm tâm niệm Phật. Tâm tâm niệm pháp. Tâm tâm niệm tăng. Tâm tâm niệm giới. Tâm tâm niệm xả. Tâm tâm niệm thiên. Người này đọc tụng như thế. Lễ bái như thế. Chí tâm như thế. Sám hối như thế. Từ ngày thứ nhất. Đến ngày thứ sáu. Lại lấy phấn thơm phủ sàn. Lại dùng nước thơm tắm gội. Lại đốt các loại hương quý. Thâm tâm cúng dường. Với thành tâm này. Người ấy sám hối. Chấn động mười phương. Ta lúc bấy giờ. Cùng vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật. Vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ Tát. Theo âm thanh đó. Đi vào trong phòng. Chứng nhận cho họ. Bảy ngày như thế. Nhất định diệt tội. Tịnh trừ nghiệp tội. Chắn chắn không ngờ. Cho nên biết rằng. Hạng kẻ phàm phu. Chưa hợp chân đế. Cần lấy tướng mộng. Nếu thấy một mộng. Tức diệt một tội. Thấy năm giấc mộng. Tức diệt năm tội. Người đó ban đêm. Mơ thấy thân mình. Muốn qua sông lớn. Đi trên cầu lớn. Cần biết người ấy. Nhất định độ thoát. Hoặc khi người ấy. Mơ thấy thân mình. Người được tắm gội. Trời mưa xuống mình. Cần biết người ấy. Sẽ được thanh tịnh. Hoặc khi người ấy. Mơ thấy thân mình. Đi vào trong đại hội của sa môn. Vào rồi ngồi xuống. Cần biết người ấy. Chân Phật đệ tử. Hoặc khi người ấy. Mơ thấy thân mình. Đi vào chùa tháp. Nhìn thấy tượng lớn. Và thấy Bồ Tát. Cần biết người ấy. Đã đắc chính môn. Hoặc khi người ấy. Mơ thấy thân mình. Tự có được quả. Rồi lại tự ăn. Cần biết người ấy. Còn được quả báo.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi. Nếu có tì kheo. Tì kheo ni. Bồ Tát. Nam nữ tịnh tín. Sa môn. Sa môn ni. Mất tâm tán loạn. Thân phạm giới cấm. Đã nói ở trên. Sám hối như thế. Sẽ chẳng có lý. Không được diệt tội. Trừ những kẻ không chí tâm sám hối.

Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật rằng. Thế Tôn. Khi hành pháp này. Nhiều người được không. Phật nói. Một người trở lên. Hai mươi người trở xuống. Khi hành pháp này. Cũng đừng niệm thêm kinh điển khác. Từ khi sám hối. Sau chớ tái phạm. Gọi là pháp hối. Nên nghĩ thế này. Chúng ta từ nay. Như chết sống lại. Ta nên giữ giới. Ta nên tinh tấn. Ta nên đọc tụng. Đại thừa Phương Đẳng. Khi ấy người này. Nên nghĩ như sau. Kể từ hôm nay. Kiên trì giới cấm. Nguyện như kim cương. Khi người đó nghĩ như thế. Duy Ma Đại Sĩ. Lại cùng vô lượng Bồ Tát. Đứng trước người đó. Để mà làm chứng. Đại Đức Phổ Hiền. Sẽ làm Yết ma. Đại Đức Ca Diếp. Cho họ nương dựa. Phật bảo Văn Thù. Đó là diệt tội. Đó là giải thoát. Đó là cụ giới. Đó là đắc trụ.

Khi ấy Thế Tôn. Lại bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát rằng. Nếu có phạm vào bốn trọng tám cấm. Sáu pháp mười giới. Ba quy năm giới. Tám cấm mười thiện. Từng điều giới luật. Cho đến ngũ nghịch. Phỉ báng Phương Đẳng. Trừ Nhất-xiển-đề. Nếu không sám hối. Giãi bày các tội. Người ấy mệnh chung. Chắc chắn bị đọa. Địa ngục A Tì.

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng. Thế Tôn. Thế nào gọi là. Địa ngục A tì. Chỉ mong Như Lai. Vì các chúng sinh. Nói nhân duyên ấy. Hình trạng lớn nhỏ. Khổ vui thọ báo. Kiếp số bao nhiêu.

Phật bảo Văn Thù. Vui thay vui thay. Mau hỏi nghĩa này. Hãy nghe cho kĩ. Và các đại chúng. Hãy khéo nghĩ suy. Ta sẽ vì ngươi. Mở mang phân biệt. Vì sao gọi là. Địa ngục A tì. A nghĩa là vô. Tì nghĩa là gián. Gián thì chẳng vui. Nên gọi vô gián. A tức là vô. Tì tức là che. A tức là vô. Tì tức là cứu. A tức là vô. Tì tức bất động. A là cực nóng. Tì là cực phiền. A là không nhàn. Tì là không trụ. Không trụ không nhàn. Gọi ngục A tì. A là đại hỏa. Tì là cực nóng. Mãnh hỏa nhập tâm. Gọi ngục A tì.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát rằng. Thiện nam tử. A tì địa ngục. Ngang dọc bằng nhau. Tám vạn do tuần. Trên bảy lớp tường sắt. Có bảy lớp lưới sắt. Dưới có mười tám vạc. Vòng xung quanh bảy lớp. Đều là rừng dao. Trong bảy lớp tường thành. Lại có rừng kiếm. Dưới có mười tám vạc. Từng cái vạc ấy. Tám vạn bốn nghìn lớp. Ở bốn góc của nó. Lại có bốn con chó lớn bằng đồng. Thân nó cao lớn. Bốn mươi do tuần. Mắt như ánh điện. Nanh như cây kiếm. Răng như núi dao. Lưỡi như móc sắt. Vuốt như xiên sắt. Đuôi như rắn sắt. Tất cả chân lông. Đều phun ra lửa. Khói ấy hôi thối. Vật hôi ở đời. Chẳng thể sánh bằng. Ngục ấy bốn cửa. Mỗi một bên cửa. Lại có mười tám lính ngục. Đầu như đầu la sát. Miệng như miệng la sát. Trên đầu mười tám sừng. Tay chân như xiên sắt. Trong bảy lớp tường thành. Có vô số cờ sắt. Đỉnh cờ phun ra lửa. Như dòng suối sục sôi. Tuôn sắt chảy thành dòng. Đầy trong thành A tì. Bốn cửa thành A tì. Trên mỗi một cửa ấy. Lại có mười tám nồi đồng. Phun trào ra sắt. Chảy tràn bốn cửa. Đầy thành A tì. Giữa từng cái vạc. Lại có tám vạn bốn nghìn mãng xà lớn bằng sắt. Nhả độc phun lửa. Đầy khắp trong thành. Tiếng rắn gào thét. Như trời nổi sấm. Mưa trút sắt viên. Đầy thành A tì. Việc khổ trong thành. Tám vạn ức thiên. Cái khổ trong khổ. Cái phiền trong phiền. Đều tập hợp trong. Địa ngục A tì. Bốn hướng có cửa. Bên ngoài mỗi cửa. Lửa cháy hừng hực. Đông tây nam bắc. Giao nhau thông suốt. Tám vạn do tuần. Tường sắt vòng quanh. Lưới sắt che kín. Đất cũng bằng sắt. Lửa táp xuống dưới. Bốn bề trên dưới. Cùng lúc xung quanh. Cùng khởi việc khổ. Như trên đã nói. Bốn trọng tám cấm. Phạm giới ngũ nghịch. Phỉ báng Phương Đẳng. Nếu không sám hối như trong kinh này. Và không hổ thẹn. Người ấy mệnh chung. Như đại tráng sĩ. Gập mình ngoặt tay. Rơi vào trong ngục. Tràn đầy trong thân. Nhiệt não cấp bách. Miệng ngậm không nói. Chỉ có mở mắt ngậm miệng. Ngậm miệng mở mắt. Người ấy chịu tội. Vạn ức đao luân. Từ trên rơi xuống. Xuyên vào từ đầu. Bay ra từ chân. Tất cả việc khổ. Gấp trăm nghìn vạn. Điều nói ở trên.

Nếu có người phạm bốn trọng. Chịu đại khổ não. Đủ năm đại kiếp. Tám cấm gấp bội. Năm nghịch gấp bội. Phỉ báng Phương Đẳng gấp bội. Phỉ báng Tam Bảo. Trộm đồ của tăng. Làm ô uế tịnh hạnh tì kheo. Làm ô uế tì kheo ni. Kẻ báng sư hại thầy. Gian dâm phụ nữ. Hạng người như thế. Tội tăng gấp bội. Trừ Nhất-xiển-đề. Đoạn tuyệt thiện căn. Không thoát A tì. Hạng tội nhân ấy. Trong khi chịu khổ. Mãnh hỏa nhập tâm. Nóng nực mà chết. Lính quỷ la sát. Cầm xiên sắt đập xuống đất. Quát cho sống dậy. Nghe tiếng liền sống. Một ngày một đêm. Chết đi sống lại. Vạn lần như thế. Chịu đại khổ não. Như nói ở trên. Người ấy ra khỏi địa ngục A tì. Vì nhân duyên phá giới. Ăn không của bố thí của tín chúng. Lại vào mười tám địa ngục nhỏ. Được gọi là địa ngục băng lạnh. Địa ngục hắc ám. Địa ngục nóng bỏng. Địa ngục bánh xe dao. Địa ngục bánh xe kiếm. Địa ngục xe lửa. Địa ngục phân sôi. Địa ngục nước sôi. Địa ngục sông vôi. Địa ngục rừng kiếm. Địa ngục giường sắt. Địa ngục cột đồng. Địa ngục máy sắt. Địa ngục bánh xe sắt. Địa ngục hầm sắt. Địa ngục viên sắt. Địa ngục đá nhọn. Địa ngục uống đồng. Cứ tám trăm vạn năm. Mới được thoát ra. Thường sinh nơi thấp. Trong năm trăm đời. Không biết Tam Bảo. Gặp thiện tri thức. Được phát bồ đề. Không gặp tri thức. Lại đọa địa ngục. Phạm tội đột-cát-la. Nếu không sám hối. Chịu khổ địa ngục. Tám trăm vạn năm theo ngày tháng của Tứ Thiên Vương. Phạm tội ba-dạ-đề thì lại chịu gấp hai lần. [Tội ba-dạ-đề, hoặc ba-dật-đề: tiếng Phạn là pāyattika, một trong các giới cụ túc của tì kheo, tì kheo ni, một trong các tội nhẹ.] Tội tăng tàn lại chịu gấp hai lần. [Tội tăng tàn: tiếng Phạn là sanghāvasesa là trọng tội ở mức độ thấp hơn bốn trọng tội giết-trộm-dâm-dối.] Các tội nhân này. Khi phải chịu khổ. Chẳng nói gì khác. Chỉ kêu lên rằng. A ba ba. A cha cha. A la la. A bà bà. Vì thế có tội. Cần mau sám hối. Quy về Tam Bảo.

Lại nữa. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát. Nếu có người muốn mau chóng diệt tội. Như trong kinh này. Phát lộ sám hối. Hành đạo bảy ngày. Ngày ăn một bữa. Tư duy chính quán. Nhớ đến khi Như Lai thành Phật. Đại nhân tướng. Giác nhân tướng. Bất động nhân tướng. Giải thoát nhân tướng. Quang minh nhân tướng. Mãn trí năng nhân tướng. Đầy đủ các tướng ba la mật. Các tam muội hải tướng như hàng thủ lăng nghiêm. Bồ Tát Ma Ha Tát. Từ thắng ý từ tam muội khởi nhập diệt ý định. Từ diệt ý định khởi hoàn nhập thủ lăng nghiêm định. Từ thủ lăng nghiêm định khởi nhập huệ cực tam muội. Từ huệ cực tam muội khởi nhập các pháp tướng tam muội. Từ các pháp tướng tam muội khởi nhập quang minh tướng tam muội. Từ quang minh tướng tam muội khởi nhập sử tử âm thanh tam muội. Từ sư tử âm thanh tam muội khởi nhập sư tử phấn tấn tam muội. Từ sư tử phấn tấn tam muội khởi nhập sư tử chấn động tam muội. Từ sư tử chấn động tam muội khởi nhập hải ý tam muội. Từ hải ý tam muội khởi nhập phổ trí tam muội. Từ phổ trí tam muội khởi nhập đà-la-ni ấn tam muội. Từ đà-la-ni ấn tam muội khởi nhập phổ hiện sắc thân tam muội. Từ phổ hiện sắc thân tam muội khởi nhập pháp giới tính tam muội. Từ pháp giới tính tam muội khởi nhập sư tử vương tam muội. Từ sư tử vương tam muội khởi nhập diệt các ma tướng tam muội. Từ diệt các ma tướng tam muội khởi nhập không huệ tam muội. Từ không huệ tam muội khởi nhập giải không tướng tam muội. Từ giải không tướng tam muội khởi nhập đại không trí tam muội. Từ đại không trí tam muội khởi nhập biến nhất thiết xứ sắc thân tam muội. Từ biến nhất thiết xứ sắc thân tam muội khởi nhập biến nhất thiết xứ sắc thân tam muội. Từ biến nhất thiết xứ sắc thân tam muội khởi nhập quán tâm tướng tam muội. Từ quán tâm tướng tam muội khởi nhập Bồ Tát Ma Ha Tát kim cương tướng tam muội. Từ Bồ Tát Ma Ha Tát kim cương tướng tam muội khởi nhập kim cương đỉnh tam muội. Từ kim cương đỉnh tam muội khởi nhập tất cả hải tam muội. Từ tất cả hải tam muội khởi nhập tất cả đà-la-ni hải tam muội. Từ tất cả đà-la-ni hải tam muội khởi nhập tất cả Phật cảnh giới hải tam muội. Từ tất cả Phật cảnh giới hải tam muội khởi nhập tất cả chư Phật giải thoát giải thoát tri kiến hải tam muội. Từ tất cả chư Phật giải thoát giải thoát tri kiến hải tam muội trở dậy, sau đó nhập vào vô lượng vô biên các tam muội hải môn. Từ các tam muội hải môn khởi nhập tịch ý diệt ý tam muội. Từ tịch ý diệt ý tam muội khởi nhập kim cương dụ định đại giải thoát tam muội môn.

Phật bảo Văn Thù. Sau khi ta diệt. Nếu có thiện nam tử. Thiện nữ nhân. Sinh một niệm tín tâm. Nếu có thể viết chép đọc tụng một bài kệ. Niệm tướng này. Nhớ tướng này. Quán tướng này. Tín tâm thành tựu. Chỉ trong một niệm. Mãi lìa ám chướng. Biết rõ Như Lai. Thường trụ bất diệt.

Khi ấy Thế Tôn. Vì các đại chúng. Lại nói bài kệ.

Các quỷ thần lực sĩ Súc sinh Tượng Vương ác Dâm nữ và ác long Vô lượng các kẻ ác Bà Tẩu, A Xà Thế Đề Bà, Ương Quật Ma Thân tâm khởi tội nghịch Phải đọa ngục A tì Ba đời sinh tín lễ Mười phương vô lượng Phật Thích Ca lâm niết bàn Vì trụ vô lượng kiếp Người nước Ma Già Đà, Đều phát bồ đề tâm Đều do cung kính lễ Thập phương tam thế Phật, A Nhã Kiều Trần Như Năm trăm hàng Thanh Văn Đời sau thành Phật đạo Đều do cung kính lễ Thập phương tam thế Phật Ngoại đạo Bà la môn Thập tiên Đại Phạm Chí Nay đắc A La Hán Vì xưa đời quá khứ Đều do cung kính lễ Thập phương tam thế Phật Tự ngộ đệ nhất nghĩa Trong mười phương Phật thổ Tất cả Bồ Tát chúng Vãng sinh vô lượng thọ Đều do cung kính lễ Thập phương tam thế Phật Lại nữa Thiện Kiến Vương Ta xưa làm quốc vương Tên là Đại Tiên Dự Ngày còn chưa thành Phật Cúng dường người xuất gia Năm trăm Bà la môn Thực phẩm và y phục Nhà ở và chỗ ngủ Đầy đủ hai mươi năm Khi đó ta nói rằng Các thầy phát bồ đề Là các Bà la môn Tuy luôn nhận cúng dường Lại không tin Tam Bảo Các thầy đáp ta rằng Thế gian không bồ đề Và cũng không giải thoát Chúng ta nghe lời ấy Vì hộ kinh Phương Đẳng Đoạn lìa Bà la môn Mạng căn năm trăm người Người đó mạng đã hết Liền đọa ngục A tì Vì đã đọa địa ngục Khi ấy phát ba niệm Kính lễ Phật ba đời Kính tín kinh Phương Đẳng Đại Sĩ Bồ Tát tăng Khi phát ba niệm xong Liền thoát khỏi địa ngục Vãng sinh Cam Lộ Cổ Thọ mạng mười tiểu kiếp Đều do sinh tín tâm Kính lễ mười phương Phật Các vị Bà la môn Ban đầu phỉ báng kinh Nên đọa vào địa ngục Sau tin liền được thoát Huống chi ngươi Bồ Tát Có đủ tâm hổ thẹn Vốn mình thực không tội Là vì các chúng sinh Sám hối bốn cấm trọng Và năm tội vô gián Ngay cả Nhất-xiển-đề Nếu có kẻ phàm phu Thân phạm tội như thế Nếu theo đây sám hối Trừ diệt bốn cấm trọng Ngũ nghịch Nhất-xiển-đề Tất đắc thành Phật đạo Chỉ trừ kẻ không tin Nếu có tâm tín giải Cung kính lễ chư Phật Chẳng có lý không thành Khi ấy Thiện Kiến Vương Cùng cả ba nghìn người Đồng thanh bạch Phật rằng Nếu chúng con thành Phật Nguyện vượt dòng sinh tử Chỉ mong thiên nhân tôn Vì con mà nói rõ Nếu có người thọ trì Viết chép và đọc tụng Công đức được ra sao Phật nói Thiện Kiến Vương Các người nghe cho khéo Ta vì ngươi mà nói Nếu ai dùng thất bảo Cúng dường nghìn thế giới Thí cho tất cả chúng Lại năng khéo thuyết pháp Đắc được quả La Hán Không bằng có một người Nghe tên chư Phật này Thậm chí một niệm tín Hoặc lại lễ một thời Phúc ấy hơn phúc kia Huống hồ đọc tụng viết Người kính tín lễ bái Công đức không thể lường Nếu người năng viết chép Thọ trì và đọc tụng Phát tâm thời lễ bái Còn hơn xây chùa tháp Trong khắp nghìn thế giới Khi ấy Đại Ca Diếp A Nan, Xá Lợi Phất Hộ tháp Kim Cương sĩ Các Phạm và Đế Thích Chuyển Luân Tứ Thiên Vương Cúi đầu lễ chân Phật Đồng thanh bạch Phật rằng Như Lai tạ thế rồi Chúng con sẽ lưu truyền Giáo hóa các chúng sinh Hộ niệm người lễ bái Được tâm thường an ổn Hoặc phạm phá trọng cấm Ngũ nghịch báng Phương Đẳng Khiến được nghe tên Phật An trú đất thanh tịnh Cũng như Thiện Kiến Vương Đời sau thấy Phật tính.

Khi ấy. Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các đại chúng. Các người nghe kĩ. Nay ta vì ngươi. Nói nhân duyên gốc. Ta ở thời xưa. Quá vô lượng kiếp. Nơi Diệu Quang Phật. Nghe danh thập phương tam thế Phật. Tâm sinh hoan hỷ. Chắp tay nghe nhận. Nơi nơi chốn chốn. Giáo hóa vô lượng vô biên chúng sinh. Nghe tên chư Phật. Khi ấy trong chúng. Duy có ba nghìn người. Cùng pháp nghĩa ta. Sinh vô lượng tín tâm. Theo ta lễ bái. Danh hiệu chư Phật. Nay thấy mười phương đều thành chính giác.

Phật bảo đại chúng. Các thiện nam tử. Muốn diệt bốn trọng. Trọng tội vô gián. Phỉ báng Phương Đẳng. Tội Nhất-xiển-đề. Đều do tín tâm. Lại nữa thiện nam tử. Nếu ai không tin. Khinh thường bất kính. Liền vì phỉ báng mười hai bộ kinh này. Và vì phỉ báng sắc thân kim cương. Và vì phỉ báng Đại Sĩ Văn Thù Sư Lợi. Và vì phỉ báng chư Phật mười phương. Người này chắc chắn đọa địa ngục là điều chẳng hề giả. Là vì sao. Là vì bất tín. Phỉ báng chính pháp. Phỉ báng thượng nhân. Phỉ báng tất cả thập phương tam thế Phật. Đọa chắc địa ngục. Tin danh hiệu Phật. Chí tâm lễ bái. Thì không có lý. Không trừ diệt được. Thập ác ngũ nghịch. Và báng Phương Đẳng. Chỉ trừ kẻ không tin. Đoạn thiện căn của người. Thành kẻ Nhất-xiển-đề. Các thiện nam tử. Trăm ức Thích Ca. Lần lượt phân thân. Phật quốc giáo hóa. Thích Ca sau cùng. Tức là thân ta.

Ba nghìn người khi ấy. Nay đều thành Phật. Nghìn người đầu tiên. Hoa Quang đứng đầu. Nghìn người tiếp theo. Lâu Chí đứng đầu. Nghìn người sau cùng. Di Lặc đứng đầu. Vì thế các người. Cần nên kính lễ danh hiệu thập phương tam thế chư Phật. Ngươi vào đời sau. Nên vì đại chúng. Khai xiển đạo giáo. Rộng cứu người mù. Được rời tam giới. Yên lặng nhàn cư. Sống yên đạo tràng. Như ta không khác.

Khi ấy Đà La Ni Bồ Tát. Lập tức đứng dậy. Sửa sang y phục. Chắp tay cung kính. Và bạch Phật rằng. Thế Tôn. Kinh này tên gọi là gì. Phụng trì ra sao. Tu hành thế nào.

Phật bảo Ngài Đà La Ni Bồ Tát rằng. Thiện nam tử. Tên kinh này là Đại Thông Phương Quảng. Cũng gọi là sám hối trừ tội được phúc. Thọ trì như thế. Cũng gọi là kinh ba nghìn người trang nghiêm thành Phật. Thọ trì như thế. Quảng đại vô đối. Thọ trì như thế. Phổ nhiếp tất cả. Thọ trì như thế. Vô lượng tạng môn. Thọ trì như thế. Kim cương bảo tạng. Giúp các cấm trọng. Thọ trì như thế.

Đà La Ni Bồ Tát bạch Phật rằng. Thế Tôn. Theo như Phật nói. Kinh này như vậy. Duy đại lợi ích. Vô lượng chúng sinh. Diệt tội thành Phật. Kinh này tức là. Mẹ của chư Phật. Đạo của Bồ Tát. Mắt của Thanh Văn. Nhà của thiên nhân. Có những sự việc. Không thể nghĩ bàn. Con nên thọ trì. Thiên thượng nhân gian. Nơi nơi chốn chốn. Tuyên truyền quảng bá. Khiến cho không đoạn. Khiến trụ lâu dài.

Phật nói. Lành thay lành thay. Đại Sĩ như thế. Tổng trì vô lượng. Tất cả đại tạng. Ở đời mai sau. Ngồi chỗ ta ngồi. Đi chốn ta đi.

Khi Phật nói kinh này. Vô lượng Bồ Tát trụ bất thối bất động địa. Tám vạn Thanh Văn phát tâm Đại thừa. Mười nghìn tì kheo đắc quả A La Hán. Tám vạn bốn nghìn thiên nhân đắc pháp nhãn tịnh. Trăm nghìn chúng sinh phát tâm A nậu đa la tam miểu tam bồ đề.

Phật nói xong kinh này. Hoa vàng hồ quý. Bỗng nhiên biến mất. Phật thu ánh sáng. Thế giới Ta Bà. Cao thấp bất tịnh. Uế ác như cũ. Vì người làm ác. Địa ngục như cũ. Thuyết xong kinh này. Về rừng sa la. Tất cả đại chúng. Hoan hỷ phụng hành.

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

Quyển Hạ hết.