📕

Sổ tay nhập môn Chân Phật Tông

image

Sổ tay nhập môn Chân Phật Tông

Xuất bản năm: 2019 Biên soạn: Tông ủy hội Chân Phật toàn cầu Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

I. Hỏi đáp dành cho người mới quy y

1.1. Tầm quan trọng của tín ngưỡng

Cái gọi là tín ngưỡng chính là y chỉ và mục tiêu trên phương diện tinh thần của nhân loại, có thể sản sinh ra một sức mạnh vô hình. Tín ngưỡng lương thiện bằng việc tu sửa lời nói hành vi của chính mình cho đúng để có thể nâng cao phẩm chất, đức tính và linh tính của bản thân, nhằm đạt tới mục đích siêu phàm nhập Thánh.

1.2. Vì sao cần tín ngưỡng Phật giáo?

1.2.1. Hiểu nhân quả và luân hồi

Cái gọi là nhân quả cũng chính là nhân duyên và kết quả. Tất cả sự vật trên thế gian đều có nhân quả của nó, nhân và quả gắn với nhau như hình với bóng, một chút xíu cũng không tách rời. Có người tài cao bát đẩu nhưng vẫn hoài tài bất ngộ [con người có tài năng vượt trội hơn người khác nhưng sinh không đúng thời, do vậy rất khó để sử dụng hết tài năng của mình, không được thời thế hiểu đúng và trọng dụng]. Có người thì một chữ bẻ đôi cũng không biết nhưng lại ngồi cao chót vót làm bá chủ một vùng. Có thể thấy là nhân quả báo ứng thông suốt tam thế.

Do vậy để hiểu được việc sinh ra trong phú quý hay hạ tiện, trong vinh hoa hay tủi nhục thì phải biết được rằng: "Nguyên nhân kiếp trước chính là cái ta nhận được ở kiếp này, quả của kiếp sau chính là do kiếp này tạo nên."

Phật giáo căn cứ theo định luật nhân quả trong vòng tròn tam thế của quá khứ, hiện tại, tương lai. Hiểu rằng tại kiếp này tạo nghiệp thiện hay ác sẽ thành báo ứng khổ hay vui sau này. Cái gọi là "họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu" [họa phúc không có cửa, do tự con người mời mà tới] là ý nói rằng con người tự làm tự chịu, do vậy mà thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải là không có báo ứng, chỉ là chưa tới lúc mà thôi.

Cái gọi là luân hồi là chỉ chúng sinh tùy theo nguyên nhân nghiệp thiện hay ác do chính mình tạo ra mà chiêu cảm các hình thức quả báo khác nhau, đời đời kiếp kiếp không dừng dứt phải chuyển thế trong lục đạo luân hồi.

Có thể nói rằng: nhân quả và nghiệp lực là trục tâm của lục đạo luân hồi, cũng chính là nguyên nhân chính của sự tuần hoàn trong vòng sinh tử của chúng sinh. Bởi vậy Phật nói: "Thậm chí trăm nghìn kiếp, nghiệp tạo ra không bao giờ hết, khi nhân duyên đã hội tụ đủ thì quả báo sẽ tự trổ ra." (Lục đạo, tức là trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.)

1.2.2. Nương dựa duy nhất chính pháp để tu hành, siêu thoát luân hồi

Thế giới con người là sự luân chuyển giữa khổ và vui, đời người có tám nỗi khổ. Trên phương diện sinh lý thì chẳng thể tránh khỏi cái khổ của sinh lão bệnh tử. Trên phương diện tâm lý thì là khổ vì yêu, khổ vì ly biệt, khổ vì ân oán yêu ghét, khổ vì mong cầu mà không được, những cái khổ do ngũ uẩn thiêu đốt, và khổ vì tất cả những cái khổ trên.

Mục đích tu hành là thông qua chính pháp để làm cho bản thân trong sạch và đúng đắn, để nghiệp tích lũy từ nhiều kiếp và chướng ngại của thân tâm trong đời này toàn bộ đều được tiêu trừ, đạt được sự thanh tịnh. Nói cách khác chính là khi vãng sinh có thể thuận lợi đi trên con đường hướng tới Phật quốc mà không có bất kì chướng ngại nào.

Tìm kiếm nơi an thân sau khi chết: Ý nghĩa thực sự của đời người là nâng cao phẩm tính tâm linh của bản thân, vượt thoát khỏi lục đạo, giải thoát hết phiền não. Muốn tìm cho mình một nơi chốn để an thân sau khi chết thì một khi đã đến giới hạn của cái chết, phải hiểu rằng: mọi thứ chẳng thể đem đi cùng, duy nhất chỉ có nghiệp là còn theo thân. Do vậy, ngay tại kiếp này nên chọn sẵn cho mình một nơi để vãng sinh. Theo lời Phật giáo mà nói thì chính là cần có đủ điều kiện để siêu thoát khỏi luân hồi.

Siêu phàm nhập Thánh, đoạn trừ luân hồi: Cái gọi là thập pháp giới trong Phật giáo là do mức độ cao thấp của các cõi mà phân biệt thành: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Bốn cõi đầu tiên gọi là tứ Thánh, sáu cõi sau gọi là lục phàm. Từ cõi người trở lên thì mức độ phúc báo khác nhau, còn từ cõi người trở xuống thì là mức độ tai nạn và khổ ải khác nhau. Khi hiểu được đạo lý về nhân quả luân hồi ba kiếp thì chúng ta cần phải thông qua tu hành chính pháp mà tiêu trừ những ác nghiệp mà bản thân đã tạo ra trong các kiếp quá khứ, để ta được thanh tịnh. Nhờ nâng cao phẩm chất tâm linh đến cảnh giới cao hơn và thanh tịnh hơn mà ta mới có thể chấm dứt sinh tử, siêu thoát luân hồi, thoát khổ được vui.

Giải thoát linh hồn, vĩnh sinh cực lạc: Đời người ngắn ngủi cũng chỉ đếm được vài chục năm, chớp mắt một cái thì vợ con, tiền tài cũng thành "không" cả. Bao nhiêu nhà cửa tiền tài cũng chẳng thể đem theo khi chết được, chỉ có duy nhất nghiệp còn đi theo thân này.

Nhân quả và nghiệp lực đời đời kiếp kiếp bện xoắn chằng chịt, hết vở kịch này đến vở kịch khác, nhưng rốt cục thì vẫn chỉ là một cảnh "không". Bởi vậy tu hành nếu muốn minh tâm kiến tính, giải thoát luân hồi, quay trở về tứ Thánh thì đừng có dừng lại mãi mãi trong lục đạo.

Tu hành chính pháp có thể khiến cho linh hồn được giải thoát, không phải chịu luân hồi, vĩnh viễn được sinh tại pháp môn cứu cánh của thế giới quang minh Phật quốc, nói cách khác là có thể siêu việt tam giới.

Ý nghĩa của Phật giáo là: Không làm các việc ác, thường làm các việc lành, tự làm sạch tâm ý, đó là điều Phật dạy. Không làm các việc ác, thường làm các việc lành chính là làm lợi ích cho quảng đại chúng sinh. Không chỉ độ cho chính mình mà càng cần phải làm nhiều việc thiện, từ bi độ cho người khác. (Các tôn giáo thông thường đại bộ phận đều chỉ dựa vào duy nhất điều này làm giáo nghĩa.)

Tự làm sạch tâm ý là thanh tịnh tâm của chính mình, tăng trưởng trí tuệ quang minh, chứng nhập vào tính Không, chứng ngộ chân lý vũ trụ, giải thoát phiền não, siêu xuất khỏi luân hồi.

Nhờ thông qua nỗ lực thực tu có thể tiêu trừ được ác nghiệp trong vô số kiếp, tiêu trừ tất cả phiền não, khiến cho ánh sáng Phật tính vốn có trong tự tâm được tỏa sáng, bình đẳng với Phật. Ta chính là Bồ Tát, ta chính là Phật, thể hiện tính trí bình đẳng viên mãn của Phật. (Tôn giáo thông thường cho rằng con người vĩnh viễn là người, không thể nào thành Thần Tiên, con người cũng vĩnh viễn không thể trở thành Thượng Đế. Giáo nghĩa này so sánh với Phật giáo thì không thể viên mãn bằng.) Do vậy, Phật giáo là một tôn giáo viên mãn và thần thánh nhất thế gian. Vì thế chúng ta nên tín ngưỡng, nên quy y.

1.2.3. Tám pháp trực tiếp nhất để tiêu trừ nghiệp chướng

  • Trì tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh 1000 biến trở lên. (sức mạnh của kinh)
  • Trì tụng Căn bản Thượng sư tâm chú 10.000 biến trở lên. (sức mạnh của chú)
  • Tu trừ pháp sám hối 100 đàn trở lên. (sức mạnh của pháp)
  • Lễ bái cúng dường, xây chùa, xây tháp, làm tượng Phật, in ấn kinh thư sách thiện, làm việc thiện cứu đời. (sức mạnh của bố thí)
  • Trì niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát, trực tiếp tương ứng. (sức mạnh của Phật)
  • Thiền định để có được sức mạnh giới-định-huệ. (sức mạnh của định)
  • Tu pháp Căn bản Truyền thừa Thượng sư để xin gia trì, được chịu thay và chuyển dời nghiệp chướng. (sức mạnh của Căn bản Thượng sư)
  • Chân Không hóa vô. (sức mạnh của tính Không)

1.3. Sự khác nhau giữa Phật giáo truyền thống và Mật giáo

1.3.1. Thế nào gọi là Hiển, Mật?

Hiển giáo: Là đạo lý cơ bản của Phật pháp, là giáo pháp dễ hiểu rõ ràng, là giáo pháp tùy theo ý nguyện của người khác. Hễ là các pháp môn được nói đến trong Tam Tạng Thập Nhị Bộ Chính Pháp như tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, lục độ vạn hành, ngoại trừ Mật giáo ra, thì các Phật giáo khác đều là Hiển giáo. Mật giáo: • Giáo pháp Kim Thai Lưỡng Bộ của Đại Nhật Như Lai. [chỉ hai bộ Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới của Mật giáo] • Cảnh giới bí mật thâm sâu ảo diệu của nội chứng pháp thân Phật. • Giáo pháp không được chỉ cho người chưa được quán đảnh thì chính là Mật giáo. • Sự mật và Lý mật [bí mật của thực hành và bí mật của lý thuyết] - hai cái này hợp lại gọi là Mật giáo. • Trong Phật pháp, đây là chân bí mật ẩn tàng, không được hiển lộ. • Ý Phật thâm sâu và bí mật, không phải ai cũng có thể cảm nhận được, thậm chí là tam Hiền thập Thánh cũng chưa chắc đã hiểu được.

Giáo pháp khác nhau: Hiển giáo: dựa trên những thuyết giảng của Phật Thích Ca Mâu Ni, giáo pháp có lớn nhỏ nông sâu, dựa vào lời giảng mà khởi lên hành động, ngôn từ được nói lên rất rõ ràng. Mật giáo: dựa trên những thuyết giảng của Đại Nhật Như Lai, giáo pháp là tức thân thành Phật, biểu thị chân ngôn, bí mật truyền thụ cho các thế hệ sau.

Giáo nghĩa khác nhau: Hiển giáo có học thuyết của bốn giáo phái lớn và chủ yếu như sau: • Thiên Thai tông: tên lấy từ tên núi Thiên Thai, dựa trên kinh Pháp Hoa, có pháp Đại Chỉ Quán. • Hoa Nghiêm tông: lý luận về sự vô ngại của mọi vật, dựa trên kinh Hoa Nghiêm. • Thiền tông: chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, giáo ngoại biệt truyền, thực tham thiền ngộ. • Tịnh Độ tông: lấy tam kinh nhất luận làm chính, tức là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, và Vãng Sinh Luận, lấy việc hoằng dương vãng sinh cõi tịnh độ Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật làm chính.

Học thuyết chủ yếu của Mật giáo: Lấy thân, khẩu, ý tam mật hợp nhất để tinh tấn tu trì, thực tu để đạt được đến bến bờ thành Phật. Dựa vào kinh Đại Nhật, kinh Kim Cương Đỉnh làm chủ.

Quy y khác nhau: Hiển giáo: quy y là Tam quy y, tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Mật giáo: quy y là Tứ quy y, tức là quy y Căn bản Truyền thừa Thượng sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Trong Mật giáo, nếu như không quy y Căn bản truyền thừa Thượng sư, không được Căn bản truyền thừa Thượng sư quán đảnh thì không thể tu Mật pháp, bởi vì không có sức mạnh gia trì của dòng truyền thừa thì có tu cũng như không tu, tất cả các chú pháp đều vô hiệu, không khác gì trộm pháp. Việc này là phạm vào giới samaya.

Phương pháp tu hành khác nhau: Hiển giáo: tu hành phần lớn coi trọng việc hát tụng (niệm Phật, sám hối, hát tụng, nhiễu Phật) và thuyết giảng. Ngoài niệm Phật ra thì còn có tham thiền. Mật giáo: tu hành coi trọng thực tu Mật pháp, về cơ bản vẫn xem tất cả kinh luận là kim chỉ nam cho việc tu hành thành Phật, do vậy có thể phối hợp việc tu hành vào thực tế. Trên phương diện thực tu Mật pháp thì phải theo thứ tự mà tu, khởi đầu từ Thứ tự sinh khởi, tu đến Thứ tự viên mãn, từ đó đạt được mục đích tức thân thành Phật.

Tu pháp vãng sinh khác nhau: Hiển giáo: phần lớn là tha lực cộng thêm phần nhỏ là tự lực bản thân, từ đó vãng sinh Phật quốc. Mật giáo: phần lớn là tự lực cộng thêm phần nhỏ là tha lực mà có thể tức thân thành Phật.

Vạn đức viên mãn khác nhau: Hiển giáo: học Hiển giáo để thành Phật cần trải qua ba đại a-tăng-kì kiếp. Mật giáo: học Mật giáo có thể viên đốn diệu giác, dựa vào niềm tin mạnh mẽ mà tu hành, đạt đến Tam mật tương ứng, có thể tức thân thành Phật.

Ăn mặn ăn chay khác nhau: Vào thời Phật Thích Ca Mâu Ni có quy định tăng đoàn không thực hiện việc nấu nướng, bởi vậy tất cả đều đi ra ngoài cầm bình bát khất thực hóa duyên, thí chủ bố thí cho cái gì thì ăn cái đó, tùy duyên mà ăn, không phân biệt chay mặn. Do vậy Phật Thích Ca Mâu Ni không coi trọng việc ăn chay hay mặn. Hơn nữa Phật giáo cũng không phải là một tôn giáo ăn chay. Cho đến khi Phật giáo được truyền xuống phía nam (các quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Myanmar) thì vẫn bảo lưu truyền thống này, do vậy không phân biệt việc ăn chay ăn mặn.

Hiển giáo: ở Trung Quốc, kể từ khi Lương Vũ Đế hạ chiếu thư bắt đầu đưa ra quy định tăng nhân xuất gia buộc phải ăn chay. Quy định này kể từ đó đến nay không thay đổi. Mật giáo: tiếp tục lời dạy tùy duyên mà dùng đồ ăn của Đức Phật. Nhưng trong Mật giáo, trước khi dùng đồ ăn thì phải tuân thủ hai điều dưới đây: (1) Trước khi ăn mặn cần trì chú, quán tưởng, làm siêu độ, siêu độ thần thức của các linh hồn trong các món ăn mặn được vãng sinh. Tiếp đó cần cúng dường đồ ăn tới chư Phật Bồ Tát và Kim Cang Hộ Pháp chư Tôn. Cuối cùng mới tới lượt mình ăn. Do vậy, siêu độ và cúng dường vô cùng quan trọng. (2) Nguyên tắc khi ăn mặn của Chân Phật Tông là: • Không sát sinh. (sát sinh là phạm giới) • Ăn ba loại thịt thanh tịnh, mục đích là để bồi dưỡng tâm từ bi. (không tự mình giết, không nghe thấy âm thanh giết mổ, không vì ta mà bị giết) • Siêu độ. (dùng chú Văn Thù Vãng Sinh và ấn Đại hải siêu độ) • Cúng dường. (quán tưởng biến hóa thức ăn thành vô tận vô lượng, trên cúng Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật, Bồ Tát, giữa cúng Kim Cang Hộ Pháp, Không Hành chư Thiên, dưới cúng lục đạo chúng sinh)

Sự thù thắng của Chân Phật Mật Pháp, một trong số đó chính là việc có thể siêu độ thần thức của linh hồn trong thức ăn mặn được vãng sinh, khiến cho linh hồn của gia súc được thấm đẫm ánh sáng Phật mà kết Phật duyên, đây chính điều quan trọng nhất.

Việc phân biệt Hiển - Mật vẫn còn thể hiện ở việc chế tác tượng Phật Bồ Tát khác nhau, đàn thành khác nhau, v.v…

1.4. Vì sao cần quy y?

(Ý nghĩa của quy y) Hàm nghĩa của từ quy y chính là quay về và dựa vào để được cứu độ. Căn bản của quy y chính là một chữ "tín". "Tín" (lòng tin) là sự khởi đầu của tất cả, cũng chính là: ”Công đức mẫu của Đạo là tín Tăng trưởng hết thảy pháp thiện lành Tiêu trừ hết thảy mọi nghi hoặc Thị hiện mở ra đạo vô thượng.” "Tín, giải, hành, chứng" của Phật pháp chính là bắt đầu từ lòng tin. Quy y nhận quán đảnh giống như chứng nhận một học sinh chính thức nhập học. Sau khi quy y nhận quán đảnh xong thì lập tức có được dòng truyền thừa Chân Phật Tông, sẽ là đệ tử Chân Phật chân chính. Nghiệp xấu từ từ sẽ được tiêu trừ, có 36 thiện thần bảo hộ, có được tất cả mọi công đức, không dễ bị đọa vào tam ác đạo, rất mau chóng tăng trưởng thiện nghiệp, đạt đến sự khai ngộ vô thượng.

Do vậy, ý nghĩa thực sự của việc quán đảnh quy y là một nghi thức vừa cao quý vừa thần thánh. Hễ nhận quán đảnh quy y thì thực sự đã nhập môn học Phật, là đệ tử Chân Phật chân chính. Và việc quy y không đồng nghĩa với việc xuất gia, bởi vì xuất gia phải có chữ ký đồng ý của cha mẹ hoặc vợ chồng, hơn nữa phải được tổ chức cao nhất của bản tông phái thẩm định và thông qua mới được.

Hiển giáo là Tam quy y, Mật giáo là Tứ quy y. Tứ quy y của Mật giáo, trong tiếng Phạn, "nam mô" chính là quy y. Namo guru bei - quy y Căn bản Truyền thừa Thượng sư. Namo buddha ye - quy y Phật. Namo dharma ye - quy y pháp. Namo sangha ye - quy y tăng. (Phiên âm Việt là: Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.)

1.5. Vì sao cần quy y Chân Phật Tông?

(Quy y Liên Sinh Hoạt Phật)

1.5.1. Lợi ích của quy y

Mật hiệu của Liên Sinh Hoạt Phật là Đại Phúc Kim Cang, là Căn bản Truyền thừa Thượng sư của Chân Phật Tông. Đệ tử Chân Phật tu trì pháp Căn bản Thượng sư tương ứng không những có thể cùng tương ứng với Căn bản Truyền thừa Thượng sư mà đồng thời còn có được phúc phần lớn nhất. Nếu nhập thế có thể thành tựu viên mãn mọi mong cầu của con người thế gian như sức khỏe, sống lâu, gia đình yêu kính, giàu có, trí tuệ. Nếu xuất thế sẽ thành tựu Liên Hoa Bồ Tát. (Về việc tu thành tựu xuất thế, xin tham khảo chương 3 trong cuốn sổ tay này, mục "Thứ tự tu hành Chân Phật Mật Pháp".)

Đệ tử được quy y nhận quán đảnh lập tức có 16 vị thiện thần bảo vệ cho đệ tử, 16 vị thiện thần này chính là: Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Tồi Phục Độc Hại Thiện Thần, Tăng Ích Thiên Vương, Sư Tử Uy Mãnh Thiện Thần, Dũng Mãnh Tâm Địa Thiện Thần, Nhiếp Phục Chư Ma Thiện Thần, Năng Cứu Chư Hữu Thiện Thần, Ly Nhất Thiết Phổ Úy Thiện Thần, Cứu Hộ Nhất Thiết Thiện Thần, Bì Sa Môn Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương, Bạt Trừ Tội Khổ Thiện Thần, Năng Nhẫn Thiện Thần, Hoan Hỷ Thiện Thần, Trừ Nhất Thiết Chướng Nạn Thiện Thần. Chính là 16 vị thiện thần này. Thậm chí có 36 thiện thần và nhiều thiện thần hơn nữa cũng đến để bảo vệ đệ tử Chân Phật, đây đều là lợi ích bất khả tư nghì.

Thậm chí khi nhận quán đảnh quy y sẽ có được Kim cang tam muội đà-la-ni, lập tức cảm ứng được Kim Cang Lực Sĩ, từ trong hư không sẽ hạ giáng xuống một vị Kim Cang, có thể là Chấp Kim Cang, hoặc Trì Kim Cang, hoặc Kim Cang Dạ Xoa. Các vị thần Kim Cang này thường theo bên cạnh để bảo vệ hành giả Chân Phật. Hễ là đệ tử đã quy y nhận quán đảnh, nếu dựa duy nhất vào pháp và duy trì trong thời gian dài thì có thể tự đem lại lợi ích cho bản thân và lợi ích cho người khác.

Căn bản Thượng sư tương ứng pháp là đại pháp có công đức vô biên, có thể diệt tất cả mọi nghiệp tội, mọi điều ác đều được loại trừ. Ở thế giới hiện tại, khả năng có được tương ứng với Chân Phật Căn bản Thương sư là nhanh nhất, vì thế đệ tử nên tại thế gian mà lưu truyền rộng rãi Phật pháp này.

1.5.2. Cách thức quy y

(1) Viết thư xin quán đảnh quy y từ xa: Vào lúc 7h sáng (thời gian địa phương của bạn) ngày mồng 1 hoặc 15 Âm Lịch, quay mặt về phía mặt trời mọc. Chắp hai tay lại, cung kính niệm chú Tứ quy y ba lần: ”Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê. Liên Sinh Hoạt Phật chỉ dẫn Quy y Chân Phật." Đọc ba lần và lạy ba lần.

Gửi thư đến tổ chức Chân Phật Tông để thỉnh cầu quán đảnh quy y. Ghi rõ tên, địa chỉ, tuổi và kèm theo một khoản cúng dường tùy tâm.

Địa chỉ của tổ chức Chân Phật Tông: Tổ chức Chân Phật Tông 17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 USA.

Sau khi nhận được thư của bạn, tổ chức Chân Phật Tông sẽ gửi giấy chứng nhận, một tấm ảnh của Liên Sinh Hoạt Phật và một tờ ghi chú nói rõ cấp độ tu tập mà bạn nên bắt đầu.

(2) Quy y tại địa phương, nơi có các vị Chân Phật Tông Kim cương Thượng sư thay mặt cho Sư Tôn hoằng pháp, đại diện cho Sư Tôn quán đảnh và tiến hành thủ tục quy y, và thay mặt Sư Tôn cấp chứng thư quy y.

(3) Đến gặp trực tiếp Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Thánh Tôn để được ban cho quán đảnh quy y và sau đó được phát chứng thư quy y.

1.5.3. Sau khi quy y có thể nhận thêm quán đảnh quy y nơi khác không?

Hễ là đệ tử đã quy y Chân Phật Tông, khi đã được tiếp nhận quán đảnh quy y thì đã có được pháp mạch truyền thừa của Chân Phật Tông. Sau này không nên tiếp tục nhận quán đảnh quy y của các tông phái khác nữa, nếu không sẽ làm hỗn loạn truyền thừa Chân Phật, cũng sẽ mất đi truyền thừa Chân Phật Tông trân quý.

1.6. Vì sao cần quán đảnh?

1.6.1. Thế nào gọi là quán đảnh?

Trong Phật giáo Mật tông, nhận quán đảnh có công đức rất lớn. Việc quán đảnh này sẽ khiến một phàm phu chỉ trong một chốc lát đã trở thành một Phật tử. Thân, khẩu, ý sau khi quán đảnh cũng tức là thân khẩu ý của Phật. Mặc dù vẫn chưa thành Phật nhưng trên phương diện lý luận thì đã có hạt giống Phật, đã là một vị Phật "dự bị". Quán đảnh là một hiện tượng “ba trong một”, là sự kết hợp giữa ý thức vũ trụ, Căn bản Truyền thừa Thượng sư và đệ tử thọ nhận quán đảnh. Quán đảnh có ba ý nghĩa: • Thanh tịnh - tiêu trừ nghiệp chướng từ quá khứ của thân này. • Gia trì - pháp lực tu hành của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phủ xuống toàn thân của bạn. • Thọ ký - ý nghĩa quan trọng nhất là đặt hạt giống và ý thức Phật lên thân của người tu hành. Quán đảnh Mật giáo phân làm bốn loại: • Ngoại quán đảnh. • Nội quán đảnh. • Mật quán đảnh. • Mật mật quán đảnh.

1.6.2. Nhận thức cơ bản về việc quán đảnh

Muốn tu hành Mật giáo đều cần phải được quán đảnh. Quán đảnh cần phải nhận thức và hiểu rõ truyền thừa của chính mình. Nếu sau đó lại đi nhận thêm quán đảnh của Thượng sư không phải của Chân Phật Tông thì sẽ mất đi dòng chảy truyền thừa Chân Phật Tông, mất nhiều hơn được. Quán đảnh cũng có thứ tự của nó, không thể vượt cấp. Quy định của tổ sư là dựa theo Thứ tự sinh khởi rồi mới đến Thứ tự viên mãn. Thực sự có được cảm ứng rồi mới tiếp tục nhận quán đảnh cao cấp hơn. Hành giả sau khi nhận được quán đảnh của Căn bản Truyền thừa Thượng sư rồi thì không nên lại nhận quán đảnh cùng pháp đó do Kim cương Thượng sư thông thường ban cho.

Từ quán đảnh Nội pháp trở lên (ngoại trừ pháp Bảo bình khí) thì tất cả đều phải do Căn bản truyền thừa Thượng sư đích thân quán đảnh cho, không thể quán đảnh từ xa. (Tham khảo "Phân loại quán đảnh của Chân Phật Mật Pháp" do Tông Ủy Hội biên tập.)

Thượng sư thông thường nếu chưa nhận được quán đảnh một pháp nào đó từ Căn bản Truyền thừa Thượng sư, nghĩa là vẫn chưa có được dòng chảy truyền thừa của pháp đó, thì không thể đi quán đảnh cho hành giả Chân Phật. Còn hành giả tại thời điểm nhận quán đảnh Bổn tôn nào thì đều phải quán tưởng, trì chú, kết thủ ấn, thân khẩu ý đều phải đúng, tương hợp với Bổn tôn đó và phải quán đang thọ nhận ban quán đảnh gia trì từ Bổn tôn đó phía trên đỉnh đầu.

1.7. Thế nào gọi là truyền thừa?

Thế nào gọi là Căn bản Truyền thừa? Phật giáo thông thường có truyền thừa hay không? Cái gọi là truyền thừa cũng giống như huyết mạch, người chưa được quán đảnh thì cũng chưa phải là đệ tử của tông phái, không thể được phép tu bất kì pháp nào của tông phái. Nhưng, là đệ tử của tông phái, nếu nhận quán đảnh của tông phái khác, tức làm làm hỗn loạn pháp mạch của truyền thừa, nói cách khác là làm hỗn loạn huyết mạch, sẽ mất đi truyền thừa, cũng mất đi sức mạnh gia trì của truyền thừa.

Người tạo lập ra truyền thừa gốc được xem là Nguyên Thủy Phật, huyết mạch từ ngài mở ra, liên tiếp không dừng từ đời này qua đời khác. Hiển giáo thông thường chỉ dựa vào việc tụng bằng miệng Thánh hiệu A Di Đà Phật để cầu xin ngài tiếp dẫn đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Bởi vì Hiển giáo thông thường không thuộc về Mật giáo, do vậy không được gọi là truyền thừa, cũng không được gọi là Bổn tôn.

1.8. Thế nào gọi là Hoạt Phật?

Vì sao gọi người sáng lập Chân Phật Tông là Liên Sinh Hoạt Phật? Hotogtu trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là Hoạt Phật - Phật sống, là để chỉ những thành tựu giả. Ý nghĩa gốc chính là minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử, hay còn được gọi là "người trở lại". Thông thường Hoạt Phật là để chỉ những bậc thành tựu giả. Trên nguyên tắc mà nói, nếu là Phật, Bồ Tát, La Hán, Thanh Văn của thiên thượng giới hạ sinh tại nhân gian để độ chúng sinh, thì sự hiện sinh của các vị này được gọi là "thành tựu giả", là người đã giải thoát khỏi mọi phiền não, tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, nói cách khác là Phật sống không chệch một li.

Liên Sinh Hoạt Phật một cách tự nhiên cũng là một "người trở lại", bởi vì ngài chính là Liên Hoa Đồng Tử chuyển thế. Hơn thế nữa ngài còn được chính Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền dạy Mật pháp chân chỉ, được các Hoạt Phật ở Tây Tạng đến quy y học pháp. Các Hoạt Phật Tây Tạng và các đệ tử quy y đều công nhận ngài là đại Hoạt Phật trong số các Hoạt Phật.

Liên Sinh Hoạt Phật là vị thầy của các vị Hoạt Phật: Tây Tạng Đạt Thừa Hoạt Phật, Khước Khắc Thoát Cát Hoạt Phật, Tát Già Cát Mã Hoạt Phật, Bổn Lạp Hoạt Phật, Hạ Khắc Đức Cách Hoạt Phật, Già Nhiếp Hoạt Phật, và các đại pháp sư Hiển giáo như pháp sư Thích Đại Hùng ở Singapore, pháp sư Thích Tuệ Tung ở Phật Quang Sơn, pháp sư Thích Hội Đạt của chùa Nguyên Hanh, pháp sư Thích Tịch Quang, v.v… đều quy y Liên Sinh Hoạt Phật.

5 triệu đệ tử tôn xưng Căn bản truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Thánh Tôn là Hoạt Phật: Bởi vì Liên Sinh Hoạt Phật pháp lực vô biên, đại bộ phận các đệ tử đều từng được ngài dùng thần thông cứu độ. Có người nhiễm bệnh nặng, có người mắc những chứng bệnh nan y mà các bác sĩ đều phải bó tay, thì đều được đại pháp lực của ngài chữa trị mà khỏi bệnh. Nguyện lực từ bi của Liên Sinh Hoạt Phật bao trùm toàn bộ chúng sinh. Những sự việc về ngài đã cứu giúp giải trừ tai nạn cho đệ tử ở khắp mọi nơi là không thể đếm được.

Kalu Rinpoche nói: “Trên thế giới, Liên Sinh Hoạt Phật là thành tựu giả cao nhất dùng tiếng Hoa để hoằng pháp độ chúng sinh bằng việc thực tu Mật pháp. Thế nhân cần biết tôn sư, trọng pháp, thực tu. Mật pháp của Liên Sinh Hoạt Phật nhất định có thể giúp thế nhân đạt được thành tựu lớn. Tôi (Kalu Rinpoche) dùng cả hai tay để nâng tấm ảnh pháp tướng của Liên Sinh Hoạt Phật là vì tôi tôn sùng Liên Sinh Hoạt Phật, giống như tôi dùng hai tay để nâng tượng Phật đầy tôn kính vậy.”

Tây Tạng Pháp Vương Hoạt Phật nói: “Tôi thấy trên thân Liên Sinh Hoạt Phật có thọ ký của Cát Tường Thiên Nữ. Tôi cũng thấy thọ ký của Phật Thích Ca Mâu Ni trên đỉnh đầu của Liên Sinh Hoạt Phật. Để là một vị Hoạt Phật thì chỉ cần có thọ ký của Cát Tường Thiên Nữ là đủ rồi, huống hồ ngài còn có cả thọ ký của Phật Thích Ca Mâu Ni, được Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký các danh hiệu Acharya [A xà lê], chính là biểu trưng của Pháp Vương, Liên Sinh Hoạt Phật chính là Pháp Vương.”

Liên Sinh Hoạt Phật là Đại Trì Minh Kim Cương Acharya, là minh chứng cho sự thị hiện của Chân Phật. Nay chứng minh sự thị hiện của Đại Trì Minh Kim Cương Acharya như sau: • Hiện tướng viên mãn. [Hình tướng ngay tại thân này đẹp, viên mãn tròn đầy như kinh sách đã mô tả về một vị Phật.] • Thành tựu cầu vồng. [Thành tựu năng lực chuyển hóa thân vật lý thành thân ánh sáng.] • Có một phạm huyệt. [Khai thông được huyệt đạo đỉnh đầu, ngao du tự tại mọi cõi giới.] • Công khai bát tự. [Công khai ngày giờ tháng năm sinh mà không bị tổn hại do tà pháp.] • Thành tựu siêu độ. [Thành tựu khả năng siêu mọi chúng sinh lên cõi Tịnh độ.] • Ban phúc chịu thay. [Ban được phúc cũng như nhận nghiệp, chịu tội thay cho chúng sinh.] • Thành tựu đại trí. [Thành tựu trí huệ vô song, hiểu biết khắp thập phương pháp giới.] • Nham truyền bảo tạng. [Được trao truyền các kho tàng giáo lý ẩn giấu từ chư Phật, Bồ Tát.] • Báo hóa nhị thổ. [Hiện thân ở hai thế giới cùng lúc, cõi Ta Bà và cõi Tịnh thổ.] • Bát phong bất động. [Không bị ảnh hưởng, thoát khỏi sự ràng buộc 8 ngọn gió thế gian là được – mất, khen – chê, tốt – xấu, khổ đau – hạnh phúc.]

Liên Sinh Hoạt Phật là một vị Kim Cương Thượng Sư với đầy đủ mười phẩm chất, bản thân ngài đã thành tựu như sau: • Hiểu rõ Hiển-Mật pháp. • Có đầy đủ ba trí tuệ. • Đã đắc chứng đại thần thông. • Luôn luôn kiên nhẫn. • Không nhầm lẫn thứ tự của Mật pháp. • Tất cả vì chúng sinh. • Hoàn toàn phù hợp với đạo lý của Phật. • Tinh thông tất cả kinh luận. • Trí huệ vô thượng. • Nội minh phát quang, thực tu đạt đến chứng ngộ.

Nguyện lực vĩ đại của Liên Sinh Hoạt Phật: Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật) phát tâm, vì lòng từ bi đối với chúng sinh, tôi có thể đưa ra lời đại nguyện rằng, đời đời kiếp kiếp lưu lại thế gian, cho đến khi chúng sinh đều thành Phật thì tôi mới thành Phật. Tôi cũng phát tâm, thân này của tôi vào địa ngục chịu mọi khổ nạn, phân thân xả cốt, giống như đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát: "Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật." Tôi không bỏ lại một chúng sinh nào.

1.9. Liên Sinh Hoạt Phật tại kiếp này đã thành tựu những gì?

Liên Sinh Hoạt Phật là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh tại cõi Ta Bà, tại thế giới Ta Bà này ngài đã tu luyện và tự mình chứng ngộ thành Phật. Ngài được Phật Thích Ca Mâu Ni ban cho Phật hiệu là: Hoa Quang Tự Tại Phật.

1.10. Liên Sinh Hoạt Phật vẫn khỏe mạnh tại thế, vì sao đệ tử Chân Phật Tông lại cần dùng pháp tướng của ngài để thờ cúng tại đàn thành?

Chủ tôn tại đàn thành của đệ tử Chân Phật Tông phải là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử (chính là Pháp thân của Liên Sinh Hoạt Phật), nhờ vào việc sắp đặt nổi bật nguồn gốc của truyền thừa gốc, bởi vì Mật giáo không có sự gia trì của dòng truyền thừa gốc thì không thể có được thành tựu.

Con người thông thường nếu chưa chứng ngộ thành Phật mà dùng pháp tướng để cho người ta cúng bái lễ lạy thì sẽ bị giảm thọ, hơn nữa càng nhanh chóng chết sớm. Nhưng 5 triệu đệ tử có cư sĩ tại gia, có những người xuất gia, còn có cả các vị Hoạt Phật, Rinpoche,… đều thờ cúng và lễ lạy pháp tướng của Liên Sinh Hoạt Phật, có người đã thờ cúng tới hơn 20 năm. Thế mà Liên Sinh Hoạt Phật vẫn khỏe mạnh tại thế, điều này đã quá đủ để chứng minh Liên Sinh Hoạt Phật đã viên mãn mười phẩm chất như đã nói ở trên, ngài là sự thị hiện của một vị Phật thực sự.

1.11. Vì sao cần tu trì Chân Phật Mật Pháp?

Chân Phật Mật Pháp và các Mật pháp khác có gì khác nhau? Tu hành là để theo đuổi chân lý vĩnh hằng, mong cầu tăng trưởng trí tuệ và phúc phận. Đời người có rất nhiều đau khổ, rất nhiều vô thường, bất kể bạn có tìm kiếm được hay không tìm kiếm được [danh lợi, tình ái… thế gian], cuối cùng thì cũng đều chớp mắt một cái là chẳng còn gì, tất cả đều hóa thành hư không. Bạn nhận rõ được chân tướng thì sẽ hiểu được vì sao cần tu hành.

1.11.1. Chân Phật Mật Pháp phù hợp cho người tu hành thời hiện đại

Chân Phật Mật Pháp duy trì chính tín chính niệm của Phật pháp nhưng lại có sự điều chỉnh cho phù hợp với trào lưu của thời đại, đặc điểm như sau: (1) Chân Phật Mật Pháp của Chân Phật Tông là đại chúng hóa, phổ cập hóa và thực dụng hóa, thích hợp để tu trì tại gia. (2) Chân Phật Mật Pháp dung hợp cả Đạo - Hiển - Mật. Liên Sinh Hoạt Phật không hề giữ và giấu những tâm yếu và bí mật ngữ mà hoàn toàn chia sẻ ra, dựa trên phương thức Mật tông để tu trì. Ngài cũng vận dụng Đạo pháp để giúp đời, và những lý luận về Phật giáo và giới luật của Hiển giáo để phù hợp với con người thuộc bất kì tôn giáo nào cũng có thể tu trì. (3) Người sáng lập Chân Phật Tông Liên Sinh Hoạt Phật với tâm từ bi bình đẳng luôn đề xướng việc bố thí không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, địa vị cao thấp, do vậy mà tất cả pháp hội đều là các đệ tử tùy tâm cúng dường. (4) Bất luận là người xuất gia hay cư sĩ tại gia, ăn chay hay ăn mặn, mỗi người đều tùy theo nhân duyên mà tự nguyện phát tâm. Nhưng trước khi dùng cơm thì đều phải siêu độ và cúng dường. (5) Chân Phật Mật Pháp tiêu trừ nghiệp chướng nhanh chóng, là tông phái thích hợp nhất với việc thực tu trong thời đại ngày nay. Chân Phật Mật Pháp là nền tảng thực tu Mật pháp mà nhiều năm qua Liên Sinh Thánh Tôn đã dựa theo. Đó là những tâm đắc mà ngài đã trải nghiệm qua từ phàm phu đến chứng ngộ Phật quả, loại bỏ đi những gánh nặng bám chấp truyền thống của Phật pháp, loại bỏ những cái rườm rà, chỉ giữ lại những gì tinh hoa nhất để phù hợp với xã hội hiện đại hóa ngày nay, kết tinh lại thành pháp tu luyện tối giản nhất, để mỗi ngày tu hành đều sản sinh ra sự chuyển hóa tạo ảnh hưởng một cách âm thầm. Do vậy mà tương ứng nhanh, đây chính là điểm thù thắng của Chân Phật Mật Pháp.

1.11.2. Ý nghĩa trọng đại của Chân Phật Tông trong thời mạt pháp

(1) Trên phương diện nhập thế, có thể thành tựu viên mãn những nguyện vọng của con người thế gian như sức khỏe, sống lâu, gia đình yêu quý, giàu có, trí tuệ. (2) Trên phương diện xuất thế, có thể đoạn trừ phiền não, liễu sinh thoát tử, đạt được chính đẳng chính giác trí huệ Phật quả. (3) Tinh thần của Chân Phật Tông là hướng dẫn con người đến cái thiện, dùng chân lý và thiện mỹ để chiếu sáng tâm chúng sinh, mọi người cùng tu hành, cùng đi trên con đường quang minh thành Phật. (4) Chân Phật Tông là toàn mỹ, là thù thắng nhất trong Phật pháp, có thể giúp con người tránh khỏi hiểm họa chiến tranh. (5) Chân Phật Tông là tông phái tu hành Phật pháp chân chính thực sự dành cho con người thế gian, là phúc đức lớn nhất của hiện tại và tương lai. (6) Chân Phật Tông là tông phái hoàn hảo nhất để cứu huệ mệnh của toàn nhân loại. (7) Chân Phật Tông được rồng và trời hộ trì, chư Phật hoan hỷ, là phúc báo lớn nhất của nhân gian. (8) Chân Phật Tông là một tông phái lớn giúp cứu khổ cứu nạn, cứu mệnh cứu đời.

1.11.3. Dựa vào duy nhất Chân Phật Mật Pháp do Liên Sinh Hoạt Phật truyền thụ, tinh tấn tu trì có thể chứng ngộ chân lý

Bởi vì Chân Phật Mật Pháp là do chính Liên Sinh Hoạt Phật chứng ngộ thành Phật, là nghi quỹ hoàn hảo nhất để thực tu, dựa vào pháp này để tu hành đến cuối cùng có thể chứng ngộ thành Phật, so với các tôn giáo khác thì trực tiếp hơn, chính xác hơn. Mặc dù chưa từng chủ trương Chân Phật Mật Pháp của mình là độc nhất vô nhị, nhưng chân lý chứng ngộ của Liên Sinh Hoạt Phật và chân lý chứng ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni là giống nhau. Ngài tôn trọng Đạo giáo, Hiển giáo, Mật giáo. Giáo nghĩa của Chân Phật Tông rộng lớn, hoàn toàn và phù hợp với chân lý, tổng hợp tất cả những tác dụng lớn nhất của giáo nghĩa từ xưa tới nay.

II. Giới thiệu tóm tắt về Chân Phật Tông

2.1. Giới thiệu tóm tắt về người sáng lập Chân Phật Tông

Liên Sinh Hoạt Phật

Phần 1

Liên Sinh Hoạt Phật tên thật là Lư Thắng Ngạn, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1945 Âm Lịch tại Hậu Hồ, tỉnh Gia Nghĩa, Đài Loan, tại một trại nuôi gà bên bờ suối Ngưu Trù. Ngài tốt nghiệp trường Trắc Lượng, chính là khoa Trắc Lượng thuộc học viện Khoa học Công nghệ Trung Chính (khóa 28), có bằng kỹ sư, sau đó ngài phục vụ 10 năm trong quân đội. Trong thời kỳ ở quân đội, ngài đã đạt được những giải thưởng Lạc Đà Vàng, Lạc Đà Bạc cho hoạt động văn học nghệ thuật quân đội quốc gia. Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của ngài là tản văn, thơ ca và bình luận. Thời thanh niên, ngài là một thanh niên văn nghệ cực kì năng động.

Một ngày vào năm 1969, Liên Sinh Hoạt Phật theo mẹ đến tham bái ngôi chùa Ngọc Hoàng Cung tại thành phố Đài Trung. Tại đây, ngài đã được Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn mở thiên nhãn, thiên nhĩ, hơn nữa ngài còn tận mắt nhìn thấy ba vị Bồ Tát hiện thân khai thị cho ngài rằng, ngài cần “nhất tâm học Phật, nhất tâm học Pháp, nhất tâm hướng thiện”. Trong hư không còn xuất hiện hai chữ "trung nghĩa", nhắc nhở ngài cần hoằng pháp để làm lợi ích cho chúng sinh, quảng độ chúng sinh hữu tình. Đêm đó, thần thức của Liên Sinh Hoạt Phật đã được Phật Bồ Tát đưa đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Ngài tận mắt nhìn thấy tiền thân của chính mình (Pháp thân) chính là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử - Bạch Y Thánh Tôn của mười tám đại Liên Hoa Đồng Tử tại Ma Ha Song Liên Trì ở Tây phương Cực Lạc. Vì độ chúng sinh mà ngài trở về Ma Ha Song Liên Trì, hơn thế nữa còn lên con thuyền từ bi hạ sinh tại nhân gian.

Kể từ hôm đó, mỗi buổi tối, Liên Sinh Hoạt Phật đều cùng tu luyện Mật pháp với vị linh sư vô hình là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh (cách gọi tôn kính của Liên Sinh Hoạt Phật đối với Pháp thân của Phật Bồ Tát), cứ như vậy mà trải qua ba năm. Dưới sự chỉ dẫn của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, vào năm 1972, ngài đã đến vùng núi ở huyện Nam Đầu bái Liễu Minh Hòa Thượng - truyền nhân đời thứ 14 của phái Thanh Thành Đạo giáo làm thầy, học tập Đạo pháp, đan đỉnh phù lục, cửu tinh địa lý đại pháp, Trung mật và Tạng mật Hồng giáo đại pháp, ngũ minh, v.v… Ngài đã trở thành truyền nhân đời thứ 15 của Đạo giáo Thanh Thành phái, đạo hiệu là Huyền Hạc Đạo Trưởng.

Do nhân duyên đã nói ở trên, vào năm 1972, Liên Sinh Hoạt Phật đã hoàn thành hoàn chỉnh việc tu trì Mật pháp. Đối với các khẩu quyết tâm yếu để chứng ngộ thành Phật, cũng như những đại pháp bí mật "nghìn năm bất truyền" của các giáo phái chủ yếu được trao truyền một cách bí mật thì ngài đều thông hiểu rõ, thành tựu Bí Mật Chủ (chi tiết xin đọc cuốn văn tập số 129 của Liên Sinh Hoạt Phật "Bước vào thế giới âm dương bí mật", trang 23), thành tựu quả vị Đại Phúc Kim Cang (chi tiết xin đọc cuốn văn tập số 157 của Liên Sinh Hoạt Phật "Thêm một chuyến ngao du", trang 116) (Quả vị tương đương với Thập Địa Bồ Tát.)

Bắt đầu từ năm 1970, Liên Sinh Hoạt Phật trước sau đã quy y đạo sư Ấn Thuận, pháp sư Lạc Quả, pháp sư Đạo An của Hiển giáo. Năm 1972 thì ngài thọ Bồ Tát giới tại chùa Bích Sơn Nham ở Nam Đầu, giới sư là pháp sư Hiền Đốn, pháp sư Huệ Tam, pháp sư Giác Quang, sư phụ dạy bài khóa và nghi thức là pháp sư Thượng Lâm và pháp sư Thiện Tứ.

Vào năm 1972, ở chỗ của Liễu Minh Hòa Thượng, Liên Sinh Hoạt Phật đã nhận quán đảnh học Mật pháp. Từ năm 1981 trở đi, vì nhân duyên này mà ngài tiếp tục xin quán đảnh truyền thừa của các vị Thượng sư ở nhân gian. Họ là:

  • Trong phái Nyingma (Hồng giáo), Trung mật, Liên Sinh Hoạt Phật sớm đã có được tâm ấn và quán đảnh truyền thừa của Liễu Minh Hòa Thượng, được nhận tín vật truyền thừa gồm có: chuông kim cang nhỏ mà Norlha Rinpoche sử dụng, bảo vật chiếc hộp Văn Thù, sách Pháp của cung điện Potala ở Tây Tạng, v.v…
  • Trong phái Sakya (Hoa giáo), Liên Sinh Hoạt Phật có được quán đảnh Đại Nguyên Thắng Huệ, quán đảnh Acharya của Sakya Chứng Không Thượng Sư, được nhận tín vật truyền thừa gồm có: bức tượng Thánh của Phật Thích Ca Mâu Ni mà Sakya Chứng Không Thượng sư đem theo bên mình rất lâu, ngọc ấn của Tuyết Sơn Sư Tử, hoa sen, hũ ngọc, chìa khóa kim cang, v.v.
  • Trong phái Kagyu (Bạch giáo), Liên Sinh Hoạt Phật đã nhận được quán đảnh Ngũ Phật từ Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ mười sáu, được nhận tín vật truyền thừa gồm có: chuỗi tràng hạt bằng thủy tinh trắng mà Pháp Vương thường cầm trong tay, bảo bình của tu viện Rumtek ở Sikkim, v.v…
  • Trong phái Gelugpa (Hoàng giáo), Liên Sinh Hoạt Phật đã được nhận quán đảnh Vô Thượng Mật Bộ của Thubten Dhargye Rinpoche, được nhận tín vật truyền thừa gồm: bức tượng đất sét Kim Cang Thủ Bồ Tát, tượng đất sét Kim Cang Hợi Mẫu, tượng vàng Thời Luân Kim Cang của Cam Châu Hoạt Phật, pháp luân bằng kim cương, chuông chày kim cang bằng vàng, chày kim cang một cổ ba mặt, quần áo của Sư Tử Pháp Vương, chuỗi gồm 108 chày kim cang bằng vàng của Thubten Dhargye Rinpoche, v.v…

Phần 2

Ngày 16 tháng 6 năm 1982, toàn bộ gia đình Liên Sinh Hoạt Phật đã di cư đến Seattle nước Mỹ. Ngài ở tại Linh Tiên Các khổ tu tất cả các pháp bí mật. Thời gian này, ngài được Phật Thích Ca Mâu Ni sờ đầu thọ ký, đỉnh đầu hóa bàn tay Phật. (Điều này là xác nhận ngài đã đạt quả vị Thập Địa Bồ Tát.)

Ngày 27 tháng 8 năm 1982 (ngày 10 tháng 7 Âm Lịch), pháp thân của tổ sư Mật giáo - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đã xuất hiện trong thiền định của Liên Sinh Hoạt Phật, và trong suốt một năm ngài đã truyền thụ pháp Đại Viên Mãn đệ nhất (tổng cộng gồm 18 bộ), hơn nữa còn ban cho quán đảnh Đại Trì Minh Kim Cương Acharya, ban cho danh hiệu là Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả. Sau đó Liên Sinh Hoạt Phật lại nhận được quán đảnh và gia trì của Tam Tôn Phật ở ngọn tuyết sơn Rainier.

Liên Sinh Hoạt Phật ở tại căn nhà của mình mà ngài gọi tên là Linh Tiên Các, ở quận Ballard, Seattle, đã đóng cửa ẩn tu ba năm. Trong thời gian này ngài đã nghiên cứu và học tập: • Đại Huyễn Hóa Võng Mật Tục. • Mật Tập Kim Cang Mật. • Thắng Lạc Kim Cang Mật Tục. • Diễm Mạn Đức Già Mật Tục. • Thời Luân Kim Cang tối bí mật. • Tát Đan Già Du ca tương ứng hỏa diễm pháp. • Kim Cương Man Đỉnh tối bí mật pháp. • Pháp song thân Tịch Tĩnh Bổn Tôn và Phẫn Nộ Bổn Tôn. • Vô thượng mật tục của Đại Viên Mãn địa thủy hỏa phong không. • 6 pháp của Naropa: chuyết hỏa, huyễn thân, giấc mộng, quang minh, thiên thức, trung ấm.

Liên Sinh Hoạt Phật đã hoàn thành nghiên cứu và học tập toàn bộ những khẩu quyết trọng yếu của bốn thứ tự pháp tu: tác mật, tu mật, du già mật, vô thượng du già mật. Ngài đã du nhập đến Tỳ Lô Tính Hải, thực sự thành tựu tám ngoại pháp và tám nội pháp.

Xưng hiệu mà Liên Sinh Hoạt Phật được chư Phật chứng nhận là: Tây phương Liên Trì Hải Hội, Ma Ha Song Liên Trì, Thập Bát Đại Liên Hoa Đồng Tử, Bạch Y Thánh Tôn, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư, Chủ Kim Cương Chân Ngôn Giới Bí Mật Chủ, Đại Trì Minh Đệ Nhất Thế Linh Tiên Chân Phật Tông, Lư Thắng Ngạn Mật Hành Tôn Giả.

Trong ba năm Liên Sinh Hoạt Phật đóng cửa ẩn tu, vô số các vị tổ sư Tạng Mật trong lúc Hoạt Phật thiền định đã hiển hiện pháp thân để chỉ dạy những "chí thâm tinh nghĩa" và "thậm thâm nội nghĩa". Trong quá trình học pháp, Liên Sinh Hoạt Phật đã được chư Phật Bồ Tát hiện pháp thân để ban gia trì: • Phật Thích Ca Mâu Ni chạm đỉnh đầu thọ ký. • A Di Đà Phật đích thân ủy thác. • Bồ Tát Di Lặc ban cho mũ miện đỏ. • Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đích thân truyền Mật pháp.

Liên Sinh Hoạt Phật bởi vì có nhân duyên đại sự mà đã đến nhân gian, khởi đầu với thân phàm phu, từng bước từng bước tu hành theo thứ tự, thực tu thực chứng, tu trì cho đến khi chứng ngộ "tức thân thành Phật". Thậm chí ngài còn từ bi phát nguyện cứu thế: "Phân thân xả cốt độ chúng sinh, đời đời kiếp kiếp tại nhân gian. Địa ngục chưa sạch, thề không thành Phật", và thề nguyện "không từ bỏ bất kì chúng sinh nào".

Ngày 28 tháng 6 năm 1983 (ngày 18 tháng 5 Âm Lịch), vừa hay trùng với sinh nhật của Liên Sinh Hoạt Phật, Liên Sinh Hoạt Phật đã chứng đắc thành tựu thân "cầu vồng bất tử". Lúc này có hàng triệu Không Hành Mẫu hoan hô tán thán! Thành tựu "cầu vồng bất tử" tức là Vô thượng chính đẳng chính giác (hoặc còn được gọi là Tức thân thành Phật).

Ngày 6 tháng 5 năm 1992, Liên Sinh Hoạt Phật đã được Phật Thích Ca Mâu Ni đặc biệt thọ ký là Hoa Quang Tự Tại Phật.

Phần 3

Năm 1975, tại Đài Loan, Liên Sinh Hoạt Phật đã thành lập Linh Tiên Tông, năm 1983 tại Seattle nước Mỹ, ngài chính thức thành lập Chân Phật Tông, ngoài ra vào năm 1985 thành lập Chùa Tổ của Chân Phật Tông là Seattle Lôi Tạng Tự, phục vụ cho việc hoằng dương Chân Phật Mật Pháp.

Ngày 19 tháng 3 năm 1986 (tức mồng 10 tháng 2 Âm Lịch), tại Chân Phật Mật Uyển ở Redmond nước Mỹ, Liên Sinh Hoạt Phật chính thức được pháp sư Thích Quả Hiền xuống tóc, trở thành người xuất gia để quảng độ chúng sinh.

Suốt 20 năm trở lại đây, Liên Sinh Hoạt Phật đã dành toàn bộ thời gian vào ba việc lớn sau:

I) Tinh tấn sáng tác Có thể nói Liên Sinh Hoạt Phật là nhân vật số một trong việc viết văn độ chúng sinh. Những giáo lý của "tức thân thành Phật" và cảnh giới "minh tâm kiến tính" trong truyền thống Mật giáo đều là những vấn đề rất trừu tượng, sâu sắc khó hiểu. Liên Sinh Hoạt Phật đã dùng trí huệ vô thượng của con người siêu việt để diễn đạt và giải thích những lý thuyết Phật giáo và Phật pháp thâm sâu ảo diệu. Mỗi ngày ngài đều viết văn không hề gián đoạn. Tính đến tháng 4 năm 2024, ngài đã hoàn thành 300 cuốn văn tập có nội dung Phật học, hơn nữa ngài vẫn đang tiếp tục sáng tác. Không chỉ có vậy, các tác phẩm của ngài còn được dịch ra các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, Nhật, Bồ Đào Nha, Việt, Pháp, Hàn Quốc, Indonesia và Thái, sách được xuất bản và quảng bá rộng khắp trên toàn thế giới. Ngoài ra thư viện Quốc hội Mỹ đã lưu giữ toàn bộ các tác phẩm của ngài.

II) Tinh tấn tu pháp Mỗi ngày Liên Sinh Hoạt Phật đều thiền định, mỗi ngày đều tu Chân Phật Mật Pháp, đặc biệt là tu Mật pháp, tụng kinh niệm chú, say mê đọc sách, nghiên cứu toàn bộ Kinh, Luật, Luận của Đại Tạng Kinh. Sự thiền định tinh tấn và thậm thâm của Liên Sinh Hoạt Phật chứa đầy sức mạnh thần thông, minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử. Hơn nữa, mỗi ngày ngài tu pháp để độ chúng sinh, hóa giải tai nạn, cứu thế cứu người.

III) Tinh tấn thuyết pháp Bắt đầu từ năm 1990 đến nay, Hoạt Phật mỗi ngày đều không ngừng thuyết pháp. Ngài lấy những kinh nghiệm chứng ngộ của bản thân để làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình. Hiện nay, pháp ngữ khai thị của Hoạt Phật đã được tổng kết lại thành sách như sau: Pháp ngữ khai thị: • Đại thành tựu cầu vồng (7 tập) • Lời lời thăng hoa (5 tập) • Bộ Đại thành tựu cầu vồng mới (5 tập) • Nói chuyện ngang dọc về Phật pháp (4 tập) • Tâm sự cùng bạn (10 tập) • Theo đuổi những thứ trên mặt đất, sẽ đánh mất những thứ trên thiên đường (1 tập) • Bài ca của Hoạt Phật (10 tập)

Hạng mục giảng dạy Phật pháp • Phật học tổng thuyết (1 tập) • Mật giáo đại quang hoa - Giảng giải chi tiết nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh (1 tập)

Giải thích kinh Phật • Giải thích Chân Phật Kinh (1 tập) • Cửu phẩm Liên Hoa Sinh - Phật giảng kinh A Di Đà và Di Đà pháp yếu (1 tập) • Tịnh quang của vô thượng cứu cánh / Đại trí huệ đến paramita (Giải thích Tâm Kinh - 1 tập) • Thấu kính thanh tịnh (Giải thích kinh Viên Giác - 4 tập) • Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh (4 tập) • Thanh kiếm trí huệ của Mật giáo (Giải thích Mật tông đạo thứ đệ quảng luận - 13 tập) • Đại tâm ấn - Liên Sinh hoạt Phật giảng Lục Tổ Đàn Kinh (5 tập) • Giảng nghĩa Hỷ Kim Cang / pháp Đại viên mãn / Đạo Quả • Giảng thuyết kinh Kim Cang (4 tập) • Giảng thuyết kinh Duy Ma Cật

Liên Sinh Hoạt Phật văn tập

Đến tháng 4 năm 2024, tổng cộng có 300 cuốn văn tập (vẫn tiếp tục được viết thêm).

Ngoài những pháp ngữ khai thị được nói đến ở trên ra còn có rất nhiều băng hình ghi lại những khai thị tại các pháp hội, được lưu truyền qua các phương tiện truyền thông để độ chúng sinh.

Liên Sinh Hoạt Phật nói rằng toàn bộ cuộc đời của ngài là học pháp, hoằng pháp, du ngoạn khắp nơi, và lui về ở ẩn.

Bắt đầu từ năm 1989, Hoạt Phật thường đáp ứng những lời mời của đệ tử ở khắp các quốc gia trên thế giới, ngài vân du khắp nơi để hoằng pháp, in dấu chân trên khắp năm châu lục, cử hành vô số hoạt động hoằng pháp quy mô rất lớn, từng chủ trì một pháp hội có tới bảy vạn người tham dự, cảnh tượng vạn người quy y thực sự khiến người ta cảm động.

Phần 4

Bởi Liên Sinh Hoạt Phật là một bậc giác ngộ chân chính, ngài đã kêu gọi được vô số người đến xin quy y, đến nay toàn cầu đã có hơn 5 triệu đệ tử, trong số đó không ít là các vị Lama Hoạt Phật của Mật tông Tây Tạng và các pháp sư Hiển giáo.

Các vị Hoạt Phật Tây Tạng đến quy y gồm có: Đạt Thừa Hoạt Phật, Kháp Khắc Thoát Khắc Hoạt Phật, Tát Già Cát Mã Hoạt Phật, Bổn Lạp Hoạt Phật, Hạ Khắc Đức Cách Hoạt Phật, Già Nhiếp Hoạt Phật, Thổ Đăng Gia Thố Hoạt Phật v.v…

Các đại pháp sư Hiển giáo đến quy y gồm có: pháp sư Thích Đại Hùng ở Singapore, pháp sư Thích Tuệ Tung ở chùa Phật Quang Sơn, pháp sư Thích Hội Đạt ở chùa Nguyên Hanh Đài Loan, pháp sư Thích Tiệp Viên ở chùa Ấn Tâm, Thích Tục Bách tức Đức Hải Đại Hòa Thượng ở Việt Nam, v.v…

• Năm 1988, Pháp chủ hội Phật giáo Đài Loan Trung Quốc Ngộ Minh Trường đã đích thân đến thăm Liên Sinh Hoạt Phật, ca ngợi Chân Phật Mật Pháp là Phật pháp chân thực, là chính pháp. • Năm 1989, trưởng lão Kalu Rinpoche - bậc thực tu đạt thành tựu tối cao phái Bạch giáo của Phật Giáo Tây Tạng, đã tán thán và ca ngợi Liên Sinh Hoạt Phật là thành tựu giả thực tu Mật pháp cao nhất trong số những người dùng tiếng Hán để hoằng pháp độ chúng sinh trên thế giới. • Năm 1991, Ông Kháp Khắc Hoạt Phật của phái Gelugpa với hơn 1300 vị Hoạt Phật và Lama đã đích thân tặng "Pháp Vương bảo tọa" tôn quý nhất cho Liên Sinh Hoạt Phật. Cùng năm này, các vị trưởng lão của bốn đại giáo phái Tạng mật, Yoeser Rinpoche của phái Hồng giáo, Sang Sang Rinpoche của phái Hoàng giáo, Chiêm Dương Rinpoche của phái Sakya, đã đích thân đến hộ trì Liên Sinh Hoạt Phật tổ chức đại pháp hội Hộ Ma tại Hồng Kông. • Năm 1995, tại nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài tại Bắc Kinh Trung Quốc, Liên Sinh Hoạt Phật đã gặp gỡ với sư phụ của Lama Panchen đời thứ mười là Hạ Lỗ Hoạt Phật. Hạ Lỗ Hoạt Phật nói: "Liên Sinh Hoạt Phật đã nội chứng Mật giáo tam muội, trên thân có quang khí cực mạnh, là một vị Hoạt Phật chân chính." • Năm 1996, người đại diện đời thứ 100 của tổ sư Hoàng giáo - đại sư Tsongkhapa, trụ trì của tu viện Ganden - một trong ba ngôi đại tự của dòng Mũ Vàng Tây Tạng, Pháp Vương Ganden Tripa, vị Pháp Vương tối cao của phái Mũ Vàng toàn thế giới, đã đặc biệt từ miền Nam Ấn Độ đến Seattle thăm chính thức Liên Sinh Hoạt Phật, ngoài ra còn đem theo nhiều tặng phẩm đích thân tặng cho Liên Sinh Hoạt Phật, gồm: một bộ long bào Pháp Vương, một chiếc chuông kim cang của Pháp Vương, một chiếc chày kim cang của Pháp Vương, một chiếc trống của Pháp Vương, ba pháp bảo của tổ sư, một số thuốc trân quý nhất của Mật giáo.

Pháp Vương Ganden Tripa nói với Liên Sinh Hoạt Phật rằng: "Món quà long bào Pháp Vương chỉ mặc trong những pháp hội lớn nhất, long bào Pháp Vương này có pháp lực vô cùng, từng đường kim mũi chỉ đều được trì chú mà đan thành áo. Liên Sinh Hoạt Phật mặc long bào Pháp Vương này thì chính là Đại Pháp Vương."

Chày, chuông, trống đều là những pháp khí được Pháp Vương sử dụng nhiều năm rồi, tượng trưng cho dòng chảy pháp tối cao của Hoàng giáo Tạng mật này chảy trong người Liên Sinh Hoạt Phật. Việc Pháp Vương Ganden Tripa ban tặng long bào Pháp Vương này là một ấn chứng trân quý vô thượng. Liên Sinh Hoạt Phật không chỉ có ấn chứng của Phật Bồ Tát mà còn có ấn chứng của Pháp Vương ở nhân gian. • Ngày 16 tháng 11 năm 1996, Liên Sinh Hoạt Phật đã lên đường đi thăm Ấn Độ, đi thăm các miếu tự của Phật giáo Tây Tạng. Ở tại tu viện Drepung, một trong ba ngôi đại tự của Tạng mật, ngài đã ngồi trên pháp tọa thuyết pháp cho hơn hai nghìn tăng chúng. Tại ngôi chùa Karma Lekshey Ling, ngài đã được tiếp nhận nghi thức "tọa sàng đại điển" của Bạch giáo được Kachen Rinpoche cử hành long trọng.

Phần 5

Tháng 7 năm 1996, Liên Sinh Hoạt Phật đã có được khởi thị của Thập phương Như Lai, ngài đặt bút viết cuốn văn tập số 120 "Cảnh giới mới của Phật Vương". Trong cuốn sách này, Hoạt Phật đã hé lộ những cơ mật lớn nhất của Thập phương Như Lai, hé lộ thân phận thực sự của Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Kim Cương Thượng Sư chính là một trong những ứng hóa thân của Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, trong kiếp này đã hóa danh là Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng cõi Ta Bà, đem Chân Phật Mật Pháp để quảng độ chúng sinh.

Do vậy, truyền thừa chân chính của Liên Sinh Hoạt Phật là: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - A Di Đà Phật - Liên Hoa Đồng Tử - Liên Sinh Hoạt Phật.

Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh thế giới Ta Bà thuyết pháp độ chúng sinh, mười tám đại Liên Hoa Đồng Tử và các trung, tiểu Liên Hoa Đồng Tử ở tại Ma Ha Song Liên Trì đều hạ sinh tại nhân gian để hộ trì Phật pháp.

Lai lịch truyền thừa của Liên Hoa Đồng Tử là: Đại Nhật Như Lai là vị Phật ở địa thứ 13, ngài là vị Phật chính nhất của Thai Tạng Giới và Kim Cương Giới. Dưới Đại Nhật Như Lai có một phi tử quan trọng nhất là Phật Nhãn Phật Mẫu. Hai con mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu chính là Ma Ha Song Liên Trì, cũng chính là Tây phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật. Trong Song Liên Trì có mười tám đại Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở nhân gian chính là Lư Sư Tôn, chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Do vậy, truyền thừa Chân Phật Tông của chúng ta chính là: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - A Di Đà Phật - Liên Hoa Đồng Tử - Liên Sinh Hoạt Phật.

Phần 6

Toàn bộ quá trình tu hành của Liên Sinh Hoạt Phật như sau: Đầu tiên ngài trải qua Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Phật môn Hiển giáo, cuối cùng là tu trì Mật pháp mà đạt thành tựu. Do vậy, trong toàn bộ hệ thống của Chân Phật Tông vẫn còn gìn giữ và dung hợp rất nhiều pháp thuật Đạo giáo, phù lục, linh cơ thần toán, địa lý phong thủy, các pháp môn nhập thế, nhằm giúp chúng sinh giải quyết khó khăn hoạn nạn, loại bỏ ưu phiền, đạt được mục đích quảng độ chúng sinh là: Tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí. [Trước tiên dùng lòng tham để lôi kéo, sau đó dẫn nhập vào trí huệ Phật.]

Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thành lập Chân Phật Tông, đem đến cho con người thế gian một pháp môn tu trì thực tu thực chứng. Liên Sinh Hoạt Phật đã có lời hứa như sau với đệ tử của mình: "Chỉ cần bạn không quên Căn bản truyền thừa Thượng sư, mỗi ngày đều tu, lúc lâm chung, Liên Hoa Đồng Tử nhất định sẽ hiện thân tiếp dẫn bạn vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì tịnh độ."

Một đời hoằng pháp độ chúng sinh của Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài luôn nghiêm khắc tuân thủ lời giáo huấn của Liễu Minh Hòa Thượng (Thanh Chân Đạo Trưởng): "Không được quy định giá tiền, tất cả đều phải tùy duyên.” Cả một đời Hoạt Phật đã phụng hành như vậy, điều này đã trở thành nhân cách vĩ đại của ngài.

Tính đến năm 2023, Chân Phật Tông đã có hơn 5 triệu đệ tử quy y trên toàn thế giới [5 triệu là con số tượng trưng đã được sử dụng qua rất nhiều năm, biểu thị số lượng rất nhiều], tổng cộng có hơn 400 phân đường và trung tâm hoằng pháp phân bố trên khắp thế giới, đã xây dựng được 62 tòa Lôi Tạng Tự, tất cả đều do các đệ tử tự nguyện đứng ra tiến hành và tổ chức.

Liên Sinh Hoạt Phật dùng nhãn quang và tư thái của một hành giả đã khai ngộ để ứng xử trước sự phát triển nhanh chóng của tông phái: Tất cả mọi nỗ lực tích cực đều không được vì ý đồ riêng, sự sống còn hay kết thúc của các tổ chức hoằng pháp tất cả đều phải tùy duyên. Trong hơn mười năm qua, Chân Phật Tông đã thành lập rất nhiều tổ chức hoằng pháp tương đối lớn ở khắp nơi trên thế giới: • Tổng hội Mật giáo Chân Phật Tông Trung Quốc. • Tổng hội Mật giáo Chân Phật Tông Malaysia. • Tổng hội Mật giáo Chân Phật Tông Indonesia. • Hội công đức Hoa Quang thế giới. • Hiệp hội Phật giáo Nội Minh Quốc Tế. • Chân Phật báo. • Tạp chí Nhiên Đăng. • Mạng thông tin Chân Phật. • Truyền hình hoằng pháp.

Tháng 11 năm 1997, Liên Sinh Hoạt Phật đã đích thân thành lập "Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới" (gọi tắt là Tông Ủy Hội), các sự vụ hành chính của tông phái đều giao cho Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới phụ trách xử lý.

Phần 7

Với tấm lòng bi mẫn ôm trọn cả trời người, Liên Sinh Hoạt Phật đã quan tâm đến sự an dưỡng cho những người già, tích cực đẩy mạnh ba sự nghiệp: • Viện dưỡng lão. • Chăm sóc xoa dịu nỗi đau lúc lâm chung. • Chân Phật mộ viện.

Liên Sinh Hoạt Phật khích lệ đệ tử giúp đỡ những nhóm người dễ bị thương tổn trong xã hội, đẩy mạnh ba sự nghiệp lớn, quan tâm chăm sóc người già, giúp cho họ vào lúc sinh mệnh sắp hết có thể được an tịnh bình yên mà bước vào thời điểm lớn lúc lìa xa cõi đời.

2.2. Nguồn gốc sâu xa và truyền thừa của Chân Phật Tông

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là một trong những ứng hóa thân của Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Hóa danh trong một kiếp là Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng xuống cõi Ta Bà, dùng Chân Phật Mật Pháp để quảng độ chúng sinh.

Nguồn gốc căn cơ của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - A Di Đà Phật - Liên Hoa Đồng Tử - Liên Sinh Hoạt Phật.

Truyền thừa trực tiếp vô thượng của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn: Thích Ca Mâu Ni Phật - A Di Đà Phật - Di Lặc Bồ Tát - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ - Liên Sinh Hoạt Phật.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đã được: • Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký. • Phật A Di Đà phó thác. • Bồ Tát Di Lặc trao mũ miện đỏ. • Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ Mật pháp.

Tại thế gian này, Liên Sinh Hoạt Phật đã có được truyền thừa của bốn dòng phái lớn của Mật giáo gồm: • Bạch giáo (phái Kagyupa) - Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16. • Hoàng giáo (phái Gelugpa) - Thubten Dhargye Rinpoche. • Hoa giáo (phái Sakya) - Sakya Chứng Không Rinpoche (Dezhung Rinpoche thứ ba). • Hồng giáo (phái Nyingmapa) - Trung Mật - Liễu Minh Hòa Thượng (Thanh Chân Đạo Trưởng).

2.3. Nhân duyên và mục đích thành lập Chân Phật Tông

Nhân duyên sáng lập: • Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký. • Phật A Di Đà phó thác. • Bồ Tát Di Lặc trao mũ miện đỏ. • Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ Mật pháp.

Do có được những ký thác chắc chắn như vậy mà ngài có được tất cả mọi nhân duyên với Mật pháp, vì thế trong thời đại suy thoái của Phật pháp này, vì cứu độ chúng sinh mà ngài sáng lập tông phái.

Mục đích sáng lập: Việc sáng lập tông phái hoàn toàn không phải là tạo lập một tông phái thù thắng độc lập mà là để phát triển đạo lý Phật giáo, dạy cho thế giới đại đồng, cứu chúng sinh khỏi khổ ách, không bài xích tôn giáo khác, cũng không ngăn cấm các giáo pháp khác, dùng phương tiện thiện xảo để xây dựng tất cả chính pháp.

2.4. Thành lập Chân Phật Tông dựa trên điều gì?

Chân Phật Tông là do Liên Hoa Đồng Tử tiếp tục lời thề nguyện mà lại đến, cũng chính là: "Đã được thọ ký Trở lại Ta Bà Phân thân vô số Ở khắp muôn phương Thần lực tự tại Bất khả tư nghì Mọi loại phương tiện Độ hóa chúng sinh Ai nấy miễn nhiễm Còn được tịnh tâm Đồng sinh Cực Lạc."

Chân Phật Tông có Chân Phật Kinh, thuật lại nguồn gốc của Liên Hoa Đồng Tử. Chính pháp tu hành của Chân Phật Tông là pháp nội chứng Pháp thân Như Lai, ảo diệu, bí mật mà sâu xa, dựa theo kinh Đại Nhật, kinh Kim Cương Đỉnh. Bởi vì Liên Sinh Hoạt Phật là một vị sư phụ quy phạm Đại Trì Minh Kim Cương Acharya, nhờ pháp nội chứng này đã chứng minh Chân Phật Thế Giới là Chân Phật Tông.

2.5. Cơ cấu tổ chức của Chân Phật Tông

2.5.1. Vì sao cần thành lập Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới?

(1) Ý nghĩa của việc thành lập Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới: Để Chân Phật Tông có bộ máy tổ chức kiện toàn hơn, để tất cả các nhân viên hoằng pháp của tông phái (Thượng sư, giáo thọ sư, pháp sư, giảng sư, trợ giảng, người phụ trách pháp vụ của các chùa và Phật đường) và các tổ chức được Chân Phật Tông chứng nhận trên khắp thế giới gồm Lôi Tạng Tự, phân đường, đồng tu hội hoạt động trong quỹ đạo một cách có tổ chức, có kỷ luật, có trật tự, từ đó càng hoằng dương Chân Phật Mật Pháp một cách sâu rộng hơn, để quảng đại chúng sinh có được nhận thức mới và niềm tin nương dựa vào bản tông. Vì sự phát triển của Chân Phật Tông trong tương lai mà xây dựng một dạng thức hoạt động kiện toàn hơn, để thuận lợi hơn cho việc cứu độ quảng đại chúng sinh.

(2) Sự ra đời của Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới: Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới ra đời do chính Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật đích thân thành lập, trình tự thành lập của tổ chức này như sau: A. Toàn thể các Thượng sư hiện có của Chân Phật Tông công khai bỏ phiếu, lựa chọn ra 21 vị Thượng sư làm ủy viên cho Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới (gọi tắt là Tông Ủy Hội). B. Trong số 21 vị ủy viên, lại chọn ra 7 ủy viên có số phiếu lựa chọn cao nhất để làm thành Tổ nòng cốt Tông vụ ủy viên hội Chân Phật Tông thế giới (gọi tắt là Tổ nòng cốt Tông Ủy Hội), phụ trách lãnh đạo, xử lý tất cả mọi sự vụ của tông phái.

2.5.2. Vì sao cần thành lập Tổng hội Mật giáo?

Tôn chỉ thành lập Chân Phật Tông Mật giáo tổng hội tuân theo giáo thị của người sáng lập Chân Phật Tông - Liên Sinh Hoạt Phật: "Dùng Phật pháp để tịnh hóa nhân gian, lấy việc học Phật làm đẹp cuộc sống, lấy giáo lý đạo Phật để độ hóa nhân tâm."

Tập trung sức mạnh cảm hóa của tôn giáo để làm cho tâm con người xã hội hướng về sự lương thiện, thuần khiết và chân thật, hơn nữa là phát dương tư tưởng từ bi của tôn giáo, dựa vào niềm tin rằng "người đói ta đói, người nghèo ta nghèo" để quan tâm đến chúng sinh, báo đáp lại xã hội.

2.6. Lý luận cơ bản của Chân Phật Tông

(1) Lấy trọng tâm là lời dạy của tổ sư Mật giáo Liên Hoa Sinh Đại Sĩ "kính sư, trọng pháp, thực tu", dựa vào sự thực tu thực chứng để chứng minh Phật pháp là có cơ sở lý luận, không phải là mê tín, đồng thời yêu cầu đệ tử quy y tu hành mỗi ngày.

(2) Đối với hành vi, yêu cầu: • Bên ngoài: mọi việc ác không làm, làm mọi điều thiện. • Bên trong: tu luyện Mật pháp, đạt đến lý tưởng thành Phật là thân, khẩu, ý tam nghiệp thanh tịnh. Đồng thời yêu cầu đệ tử tuân thủ giới luật cơ bản của Hiển-Mật như 14 đại giới căn bản của Mật giáo, Sự sư pháp ngũ thập tụng, và giới luật Chân Phật Tông.

(3) Lấy tâm thái bình đẳng và bao dung để đối đãi với các tông phái khác.

(4) Trong quá trình hoằng pháp làm lợi cho chúng sinh, vận dụng các pháp môn nhập thế tốt đẹp và tiện lợi để viên mãn nguyện vọng của chúng sinh, từ đó dẫn dắt con người đến với trí huệ Phật.

(5) Không phân biệt bất kì tôn giáo tín ngưỡng, bất kì chủng tộc nào, tại gia, xuất gia, ăn chay, ăn mặn, ai cũng có thể quy y để tu trì Chân Phật Mật Pháp.

2.7. Tôn chỉ của Chân Phật Tông

Lấy "kính sư, trọng pháp, thực tu" làm gốc. Lấy "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử" làm đích, từ đó nỗ lực tu tâm tu pháp.

2.8. Lý luận và vận hành của tăng đoàn Chân Phật Tông

(1) Dựa trên tinh thần của Chân Phật Tông Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật làm nền tảng.

(2) Dựa trên tôn chỉ của Chân Phật Tông là "kính sư, trọng pháp, thực tu" làm gốc, lấy "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử" làm mục đích, lấy sự giải thoát làm cứu cánh.

(3) Nghiêm khắc tuân thủ Mười bốn đại giới cơ bản của Mật giáo, Sự sư pháp ngũ thập tụng, Chân Phật Tông xuất gia giới, và Giới luật Chân Phật Tông. Nghiên cứu pháp nghĩa, nghiêm khắc giữ giới luật. Lấy lý luận chính tín chính kiến để cùng giúp đỡ, cổ vũ lẫn nhau, cùng tu cùng chứng, cứu đời độ người.

(4) Coi việc phát triển lâu dài chính pháp Chân Phật của tông phái là thiên chức.

(5) Lấy việc phát triển kiện toàn bền vững của tăng đoàn để tiếp tục pháp mạch chính pháp của Chân Phật.

(6) Dựa vào việc giảng dạy bằng lời nói và bằng ví dụ thực tế mà tự độ mình và độ người khác, hoằng dương Chân Phật Mật Pháp.

2.9. Sự thù thắng của Chân Phật Tông

(1) Có thể lấy thành tựu quả vị làm nguyên nhân để tạo lập phương tiện tu trì.

(2) Có pháp Căn bản Thượng sư tương ứng, còn gọi là "Liên Hoa Đồng Tử Kim Cương tương ứng đại pháp", là pháp đem lại cảm ứng nhanh nhất giữa Căn bản truyền thừa Thượng sư và các đệ tử.

(3) Chân Phật Tông có một bộ hoàn chỉnh trình tự tu hành pháp nhập thế và pháp xuất thế, và Đại Bản Tôn Pháp thích hợp với con người với các căn khí Đạo - Hiển - Mật để tu trì.

(4) Chân Phật Tông có một vị Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Đại Trì Minh Lư Thắng Ngạn tôn giả đã được thập phương tam thế tất thảy chư Phật Bồ Tát cùng minh chứng là một vị Kim Cương Thượng Sư với đầy đủ mười phẩm chất để là một vị Căn bản Truyền thừa Thượng sư.

(5) Chân Phật Tông là một tông phái đã được nghiệm chứng. Chân Phật Mật Pháp ngoài khả năng hiển hiện thần thông nhập thế cứu độ đã được nghiệm chứng ra thì điều khiến cho thế nhân kinh ngạc còn là thành tựu xuất thế của nó tương đương với việc đạt được nghiệm chứng viên mãn. Nhìn chung những người tu tập Chân Phật Mật Pháp sau khi vãng sinh đều có được một dạng xá lợi nào đó từ tro, bao gồm cả nhiều người là tội phạm bị xử tử, nhưng sau khi quy y Liên Sinh Hoạt Phật rồi, tro của họ sau khi hỏa thiêu đều có hạt xá lợi. (Các đệ tử Chân Phật Tông sau khi vãng sinh có được những hiện tượng cát tường rất nhiều, không thể kể hết.)

Do vậy có thể thấy rằng: Chân Phật Tông là một tông phái đã được nghiệm chứng, Chân Phật Mật Pháp là Phật pháp chính tín thù thắng.

III. Tiến trình tất yếu của tu tập Chân Phật Mật Pháp

3.1. Giới luật cần giữ để tu trì Chân Phật Mật Pháp

(Cho hành giả Chân Phật sau khi quy y)

3.1.1. Giới luật hành giả Chân Phật nên giữ (10 giới luật lớn để tu pháp)

Mọi đồng môn Chân Phật Tông phải học tập và tuân thủ những giới luật dưới đây: 1. Năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. 2. 14 đại giới căn bản của Mật giáo. 3. Sự sư pháp ngũ thập tụng. 4. Giới luật Chân Phật Tông. 5. Truyền thống về pháp của Chân Phật Tông. 6. Nghi quỹ giới luật.

Mười đại giới luật của tu pháp: 1. Phải kính sư. 2. Phải trung thực. 3. Đừng coi trọng tiền bạc. 4. Đừng chủ quan. 5. Đừng phỉ báng. 6. Đừng nghĩ xấu. 7. Đừng để mình ô uế. 8. Đừng hại người. 9. Đừng coi trọng sắc. 10. Đừng bất cẩn.

3.1.2. Tầm quan trọng của giới samaya

Giới samaya trong Mật giáo là để chỉ lời thề ước giữa bản thân ta với Căn bản Truyền thừa Thượng sư, với Bổn tôn, với Hộ pháp, nói cách khác chính là "lời thề liên minh".

Nếu có sự phỉ báng Căn bản Truyền thừa Thượng sư thì chính là phá giới samaya, cũng chính là phá hoại lời thề liên minh. Việc này trong Mật giáo mà nói thì cực kì nghiêm trọng, sẽ bị đọa vào địa ngục kim cang.

3.1.3. Muốn tu trì Mật pháp đạt thành tựu cần có ba loại bồ đề tâm

  • Hạnh nguyện bồ đề tâm.
  • Thắng nghĩa bồ đề tâm.
  • Tam ma địa bồ đề tâm.

Ba loại bồ đề tâm này cũng là tâm Bồ Tát của hành giả Mật giáo đích thực.

3.2. Khái niệm cơ bản về tu trì Chân Phật Mật Pháp

3.2.1. Tại thế gian này hành giả Chân Phật nên tu trì thế nào?

(1) Hành giả Chân Phật nên thực sự thẳng tiến trên con đường tu hành, đây chính là thực tu.

(2) Hành giả Chân Phật học tập tu pháp cần tuân thủ nghi quỹ, không thể coi thường xem nhẹ, không chừng dễ mắc phải tội bất cẩn. Trừ khi gặp các hoàn cảnh dưới đây thì có thể tu phần trọng tâm của pháp, còn lại tất cả nên theo nghi quỹ hoàn chỉnh để tu pháp. • Khi đi ra khỏi nhà (ví dụ như ở trên máy bay, trên xe ô tô, trên tàu thuyền, v.v…), cúng phẩm không đủ, có thể quán tưởng để tu, đây là phương pháp tiện lợi. • Lúc lâm chung, vì thời gian không còn nhiều, có thể chỉ tu quán tưởng. • Người đã khai ngộ có thể chỉ cần tu quán tưởng.

(3) Hành giả Chân Phật có thể tùy theo thời gian và địa điểm mà tu pháp, tâm thanh tịnh thì tất cả đều thanh tịnh.

3.2.2. Vì sao người quy y cần thực tu?

Hành giả Mật giáo cần coi trọng việc thực tu. • Chỉ duy nhất thực tu mới có thể có được sức mạnh gia trì của dòng truyền thừa. • Là một phương pháp sửa đổi những yếu kém của con người thế gian một cách từ từ. • Thực tu có thể hiểu được sự thù thắng của Chân Phật Mật Pháp. • Thực tu có thể tiêu trừ nghiệp chướng của bản thân. • Có thể đạt được sự an lạc vĩnh hằng và lợi ích ngay tại hiện thực trước mắt. • Có thể chấm dứt sinh tử, minh tâm kiến tính. • Có thể hiểu được chân lý vũ trụ đích thực.

3.2.3. Chuẩn bị tâm lý để tu trì Chân Phật Mật Pháp

Đối với Căn bản Truyền thừa Thượng sư cần có nhận thức và niềm tin cơ bản, hơn nữa cần có tâm cung kính kiền thành. • Xem Căn bản truyền thừa Thượng sư là tổng trì của Phật, pháp, tăng, Bổn tôn, Không hành, Hộ pháp. • Cần có sự quyết tâm tu hành để giải thoát phiền não.

3.3. Tu trì Chân Phật Mật Pháp như thế nào?

3.3.1. Thứ tự tu hành Chân Phật Mật Pháp

(trình tự)

Thứ tự tu hành Chân Phật Mật Pháp là trước tiên tu Ngoại pháp, tiếp theo là Nội pháp, tiếp nữa là Mật pháp, cuối cùng là Mật mật pháp. Nói cách khác là tu hành theo đúng thứ tự, trước tiên tu Thứ tự sinh khởi (tức là Ngoại pháp), tiếp đến là tu Thứ tự viên mãn (tức là Nội pháp, Mật pháp, Mật mật pháp).

Thứ tự tu trì như sau: 1. Tứ gia hành pháp. 2. Thượng sư tương ứng pháp. 3. Bổn tôn pháp. 4. Bảo bình khí. 5. Chuyết hỏa pháp. 6. Khai trung mạch. 7. Khai ngũ luân. 8. Kim cang pháp. 9. Vô thượng mật. 10. Đại viên mãn.

3.3.2. Chân Phật Mật Pháp phân thành thứ tự quán đảnh nào?

(1) Sơ quán - Ngoại pháp. (Bao gồm quán đảnh tứ gia hành pháp, quán đảnh Căn bản Thượng sư tương ứng pháp, quán đảnh chư tôn.) (2) Nhị quán - Nội pháp. (Bao gồm bảo bình khí, chuyết hỏa pháp, minh điểm pháp, vô lậu pháp, trong đó không truyền vô lậu pháp phi pháp khí.) (3) Tam quán - Vô thượng mật (Mật pháp). (4) Tứ quán - Đại viên mãn (Mật mật pháp).

3.3.3. Vì sao khi bắt đầu tu Mật giáo cần tu Tứ gia hành trước tiên?

Tu trì Tứ gia hành: (1) Trì niệm "tứ quy y chú" sẽ sản sinh ra sức mạnh nương dựa hoàn toàn duy nhất, giúp cho tâm đệ tử hoàn toàn dựa vào Căn bản Truyền thừa Thượng sư, dựa duy nhất vào Phật, pháp, Thánh hiền tăng, có được niềm tin nương dựa hoàn toàn mới có thể đạt được đạo tâm kiên cố và thành tựu. (2) Đại lễ bái pháp thể hiện lòng kiền thành cung kính đối với chư Phật Bồ Tát, Kim Cang Hộ pháp, Không hành chư Thiên, có thể điều phục tâm ngạo mạn của bản ngã, phá bỏ chấp ngã, thanh tịnh nghiệp thân khẩu ý, hơn nữa còn có thể khỏe mạnh thân này. (3) Cúng dường mandala pháp là để tích lũy tư lương, tăng trưởng phúc huệ. (4) Kim Cang Tâm Bồ Tát pháp có thể tiêu trừ tội chướng từ vô số kiếp. Tứ gia hành là cơ sở của Mật giáo, tu trì đúng sẽ đạt được sự tương ứng hoàn toàn chân chính thì đã là đạt được quả vị Bồ Tát ở mức độ "đẳng giác". Nếu như không có tư lương này thì làm sao có thể học tập Mật pháp được.

3.3.4. Vì sao cần tu Thượng sư tương ứng pháp?

Thành tựu Mật giáo đến từ sự gia trì của Căn bản Truyền thừa Thượng sư, trong đó các bí quyết tuyệt chiêu cũng là do Căn bản Truyền thừa Thượng sư truyền dạy, đây chính là duyên khởi của truyền thừa, cũng chính là duyên khởi tính Không trong Đại thừa. Do vậy nhất định cần tu Thượng sư tương ứng pháp. Hơn nữa, Thượng sư tương ứng pháp là phương pháp nhanh nhất có được cảm ứng giữa Căn bản Truyền thừa Thượng sư và đệ tử. Do vậy, phàm là đệ tử Chân Phật Tông thì nhất định cần tu Căn bản Thượng sư tương ứng pháp. Tu Căn bản Thượng sư tương ứng pháp có thể đạt được sự tương ứng, rồi tiến thêm một bước nữa để tu Bổn tôn pháp thì mới không có sự sai sót.

3.3.5. Thế nào gọi là ba căn bản của Mật giáo?

Cái gọi là ba căn bản của Mật giáo là: Căn bản Truyền thừa Thượng sư, Căn bản Bổn tôn, Căn bản Hộ pháp, đây chính là ba cơ sở của tu hành Mật pháp. • Căn bản Truyền thừa Thượng sư là sự gia trì gốc. (gia trì thành tựu) • Căn bản Bổn tôn là sự thành tựu gốc. (thành tựu siddhi) • Căn bản Hộ pháp là sự nghiệp gốc. (bảo vệ người tu hành đạt đến chính niệm, giữ được chính kiến cho đến khi thành tựu)

Trong ba căn bản này thì Căn bản Truyền thừa Thượng sư vẫn là quan trọng nhất. Bởi vì Bổn tôn và Hộ pháp cần phải do Căn bản Truyền thừa Thượng sư ban quán đảnh cho thì mới tu trì một cách "như pháp" được. (Liên Sinh Hoạt Phật văn tập số 154, trang 94.)

Hành giả Chân Phật Tông chúng ta gần nhớ rõ Căn bản Truyền thừa Thượng sư tâm chú, Căn bản Bổn tôn chú, Căn bản Hộ pháp chú, ba câu chú căn bản này cần phải trì tụng đủ.

3.3.6. Vì sao có bát đại Bổn tôn pháp?

Có một số hành giả Chân Phật thực sự có duyên đặc biệt với một Bổn tôn nào đó, cá tính tương hợp, nguyện lực tương đồng. Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng những hành giả này có thể lựa chọn tu trì pháp Bổn tôn, nhờ đó càng sớm có ngày thành tựu tương ứng, đây chính là tấm lòng từ bi của Liên Sinh Hoạt Phật đã mở rộng pháp môn tiện lợi cho hành giả.

Mật giáo nhấn mạnh sức mạnh gia trì của Căn bản truyền thừa, do vậy tu trì bất kì một vị nào trong số bát đại Bổn tôn pháp (trừ Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử Bổn tôn pháp ra) thì trong phần chính hành của nghi quỹ tu trì đều cần phải quán tưởng ba ánh sáng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư bao trùm gia trì, và trì tụng Căn bản Thượng sư tâm chú 108 biến.

3.4. Thứ tự thành tựu khi tu trì Chân Phật Mật Pháp

3.4.1. Ba đại thành tựu

  • Thành tựu trì minh: là những thành tựu đạt được khi trì chú ngữ.
  • Thành tựu Tam ma địa: là những thành tựu đạt được khi thiền định.
  • Thành tựu Hộ Ma: là thành tựu đạt được khi tu pháp Hỏa Cúng.

3.4.2. Thành tựu cửu phẩm

• Phẩm thứ nhất: tâm tưởng sự thành. • Phẩm thứ hai: sai khiến được quỷ thần. • Phẩm thứ ba: túc mệnh thông đạt. • Phẩm thứ tư: Trì Minh Tiên Vương. • Phẩm thứ năm: Chuyển Luân Thánh Vương. • Phẩm thứ sáu: quả vị Thượng Bồ Tát sơ địa. • Phẩm thứ bảy: quả vị Thượng Bồ Tát ngũ địa. • Phẩm thứ tám: quả vị Thượng Bồ Tát bát địa. • Phẩm thứ chín: chứng Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, thầy của trời người, Phật.

IV. Các vấn đề liên quan khác

4.1. Khả năng linh dị có thuộc về Chân Phật Mật Pháp không?

Chân Phật Mật Pháp là tu trì thông qua tam mật hợp nhất thân - khẩu - ý. Dưới sự gia trì của dòng truyền thừa gốc mà đạt tới mục đích giải thoát cuối cùng là "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử".

Tu trì khả năng linh dị không nhất định cần phải có sự gia trì của dòng truyền thừa gốc, cũng không nhất định là phải tu luyện đến khi tam mật hợp nhất, lại càng không phải là phương pháp tu trì để đạt đến "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử".

Khả năng linh dị hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc mục tiêu của pháp tu trì Chân Phật Mật Pháp, bởi vì tất cả khả năng linh dị đều không thuộc về Chân Phật Mật Pháp chân chính, càng không thể đại diện cho Chân Phật Mật Pháp.

4.2. Sự khác biệt về danh từ Thượng sư

Thượng sư trong "Mười bốn đại giới căn bản của Mật giáo" và "Sự sư pháp ngũ thập tụng" có phải là chỉ tất cả các vị Kim cương Thượng sư không?

Cách gọi Thượng sư trong "Mười bốn đại giới căn bản của Mật giáo" và "Sự sư pháp ngũ thập tụng" không phải là để chỉ tất cả các vị Kim cương Thượng sư. Mà là chỉ một vị Căn bản Truyền thừa Thượng sư mà thôi. Trong văn tập của Liên Sinh Hoạt Phật, từ lâu trong các sáng tác đã thường nhắc đến cách gọi "Thượng sư", cũng chỉ là chỉ Căn bản Truyền thừa Thượng sư, hoàn toàn không phải là các Kim cương Thượng sư khác. Xin mọi người khi đọc cần phân biệt rõ, hiểu rõ trong đầu.

(Hết)

Mục lục