A Di Đà Phật niệm tụng pháp
Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!
Mở đầu:
- Quán Không.
- Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì đồng tu.
- Quán tứ vô lượng tâm.
- Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.
Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:
Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.
Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh
Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)
Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.
Phần 3: Đại lễ bái
Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)
Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.
Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.
Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng
Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 4: Đại cúng dường
Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.
Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tát cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Đọc bài kệ cúng dường:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.
Phần 5: Tứ quy y
Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.
Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.
(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 6: Bia giáp hộ thân
Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li.(7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.
Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.
Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.
Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.
Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.
Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.
Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.
Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)
Niệm thêm chú vãng sinh: (7 biến)
Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.
Phần 8: Quán tưởng tam quang bao trùm
Kết ấn:
Hai tay kết định ấn: đặt hai tay ở vị trí dưới luân xa rốn, lòng bàn tay ngửa lên, bàn tay phải đặt lên bàn tay trái. Ngón trỏ và ngón cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau tạo thành vòng tròn. Hoặc có thể kết ấn căn bản: hai bàn tay đan vào nhau tạo thành nắm đấm, hai ngón giữa dựng thẳng lên chạm vào nhau và cong lại thành vòng tròn, đặt trước ngực.
Quán tưởng:
Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)
(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Seh (tiếng Phạn) màu đỏ phóng ra ánh sáng đỏ.
(2) Chữ Seh ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành A Di Đà Phật, hai tay ngài kết định ấn, nâng một cái bát đựng đầy cam lộ, ánh mắt từ bi nhìn chúng sinh.
(3) Quán tưởng cái bát trong tay A Di Đà Phật, cam lộ ở trong bát hóa thành một dòng ánh sáng trắng, dâng lên tạo thành vòng cung, từ đỉnh đầu của hành giả Mật tông dội xuống, thân thể của hành giả trở nên trong suốt, hoặc trắng trong như thủy tinh, nghiệp chướng đều tiêu trừ. (Hoặc quán tưởng hoa sen trên tay phóng ra ánh sáng trắng chiếu đến hành giả cũng được.)
Phần 9: Trì tâm chú Bổn tôn A Di Đà Phật
Cầm chuỗi hạt quán tưởng:
(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị A Di Đà Phật đến trước mặt mình.
Chú ngữ:
Ôm a-mi-đê-wa sê. (108 biến)
Phần 10: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa
Cửu tiết Phật phong:
(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).
Quán tưởng Nhập ngã:
(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Seh), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.
Quán tưởng Ngã nhập:
Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Bổn tôn A Di Đà Phật, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.
Quán đếm hơi thở:
Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.
(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 11: Xuất định
Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.
Tụng tán:
Tịnh nguyện trang nghiêm an lạc lợi Phổ tế trọc thế chư hữu tình Tây phương tiếp dẫn chứng vô sinh A Di Đà Phật con kính lễ.
Phần 12: Trì thêm những tâm chú khác
(Mỗi câu chú trì một lần, không cần kết thủ ấn, chắp tay là được.)
Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)
Phần 13: Niệm Phật
Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)
Phần 14: Tụng bách tự minh chú:
Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây. (3 biến)
Phần 15: Hồi hướng
Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.
Đệ tử …….. xin đem công đức này hồi hướng. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!
(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 16: Đại lễ bái
(Giống đại lễ bái ở phần 3.)
Phần 17: Niệm chú viên mãn
Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.
Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.
Giới thiệu pháp tướng A Di Đà Phật
A Di Đà Phật thân màu đỏ, khoác áo cà sa, ngồi tư thế kiết già trên đài hoa sen nghìn cánh, hai tay kết định ấn, cầm bình bát đựng đầy cam lộ, ánh mắt từ bi nhìn chúng sinh.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị lai lịch vĩ đại của A Di Đà Phật và yếu quyết tu pháp
A Di Đà Phật là một trong tam căn bản của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Có 48 đại nguyện A Di Đà Phật độ sinh vô lượng, còn có một tên gọi rất đẹp đẽ là “Di Đà của mọi nhà”.
Trong Mật giáo, A Di Đà Phật là một trong ngũ trí của hệ Đại Nhật Như Lai, sống tại Tây phương diệu quan sát tam muội. Trong Thai Tạng Giới, ngài ở vị trí phía tây của Viện Trung Đài Bát Diệp, trong Kim Cương Giới, ngài ở vị trí phía tây của Ngũ Giải Thoát Luân, là Như Lai phương tiện trí.
A Di Đà Phật có ba tên gọi: Hiển giáo gọi là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Mật giáo gọi là Cam Lộ Vương Như Lai. Ngoài ra còn có 13 Phật hiệu khác là: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Diễm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xứng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.
A Di Đà Phật còn có thân Chính Pháp Luân và thân Giáo Lệnh Luân. Thân Chính Pháp Luân là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, thân Giáo Lệnh Luân là Đại Uy Đức Kim Cang. Tây phương Tam Thánh chính là A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Phật thuyết Đại A Di Đà Kinh có hai quyển. Một quyển do tiến sĩ Vương Nhật Hưu triều Tống đính chính. Quyển kia là “A Di Đà Tam Gia Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh” (còn gọi là Đại A Di Đà Kinh), nội dung của nó là: Phật thuyết Hóa Thân Đồng Tử, mà Hóa Thân Đồng Tử tức là Liên Hoa Đồng Tử.
Hành giả Chân Phật Tông thường niệm “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật” cũng chính là Hóa Thân Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử. Vì thế, Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật dùng hoa sen làm ký hiệu.
Bản địa của Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật, lấy hiệu là Liên Sinh Hoạt Phật, tức là ý nghĩa hóa sinh từ hoa sen, chính là A Di Đà Phật.
Về sự giáo độ của chư Phật tại thế giới Ta Bà thì A Di Đà Phật là số một. Tây phương Cực Lạc thế giới có cảnh giới tam phẩm cửu sinh. Hành giả chỉ cần nhất tâm bất loạn tin chắc vào bản nguyện của A Di Đà Phật là có thể thành tựu vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Tại tịnh thổ của A Di Đà Phật, trong cửu phẩm liên hoa sinh, ngay cả người có phá giới phạm mười điều ác và người phạm ngũ nghịch trọng tội cũng có thể vãng sinh được đến đây chỉ bởi vì lúc lâm chung họ một lòng niệm Phật, từ đó có thể thấy sự siêu nhiên của thế giới Cực Lạc. Bản nguyện của A Di Đà Phật thật sự vĩ đại, đây là vị Phật Vô Lượng Thọ độ sinh đệ nhất.
Sự thù thắng của Tây phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật là tại đây có bốn loại tịnh thổ: Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thực Báo Trang Nghiêm, và Thường Tịch Quang. Đặc biệt, cõi Phàm Thánh Đồng Cư lại có thể mang nghiệp vãng sinh, là một đại phương tiện, tại Liên Hoa Thắng Cảnh, tâm sinh diệt của phàm phu sẽ chuyển thành tâm bồ đề bất sinh bất diệt.
Vì sao Tây phương Cực Lạc thế giới lại nổi danh như vậy? Căn cứ theo nghiên cứu của Ấn Thuận Đạo Sư, người Ấn Độ khá tôn sùng mặt trời chiều, tương đối sùng bái cảm giác khi mặt trời sắp lặn sau núi. Họ yêu thích sự huy hoàng và thê lương lúc mặt trời lặn, vì vậy họ phát sinh cảm giác ấy, bởi vì một ngày sắp trôi qua rồi. Cho nên từ đầu tới cuối họ đều vô cùng sùng bái buổi tà dương. Tà dương chắc chắn là ở phía Tây, ở Ấn Độ, ý nghĩa của việc Phật ở Tây phương Cực Lạc chủ yếu là vì liên quan đến việc họ sùng bái tà dương. Vì thế mà Tây phương Cực Lạc thế giới cực kì nổi tiếng. “Tà dương đẹp vô hạn, chỉ vì sắp hoàng hôn.” Tà dương phô bày ánh sáng vô cùng huy hoàng, nhưng lại có một cảm giác thê lương, cái cảm giác ngày hôm nay sắp kết thúc rồi. Vì thế, Tây phương Cực Lạc thế giới vô cùng nổi danh.
Từng có người hỏi Norlha Rinpoche: “Pháp lớn nhất của Mật giáo là gì?” Ngài ấy nói một câu: “Pháp lớn nhất của Mật giáo là Di Đà đại pháp.” Từng có người hỏi tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn): ”Ngài cả đời tu hành, từng học Đạo, học Hiển, học Mật, vậy chí hướng nằm ở đâu?” Tôi đáp: “Tây phương tịnh thổ.” ”Vì sao là Tây phương tịnh thổ?” ”Trong chư Phật, bi nguyện của A Di Đà Phật là lớn nhất, lời nguyện mà tôi đã đưa ra chính là hợp với lời nguyện của Phật che chở chúng sinh. Di Đà đại pháp giống pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ tông, hoàn toàn chỉ có niệm A Di Đà Phật, cũng tức là trì minh niệm Phật, rất nhiều người đều tu được pháp này, đây gọi là dị hành đạo (đạo dễ tu), đối với bản thân một tín đồ Phật giáo bình thường mà nói thì tương đối dễ làm. Mỗi ngày khi phải đi ra ngoài thì niệm “thập niệm pháp”, chính là hít vào một hơi, sau đó liên tục niệm, niệm đến khi hết một hơi khí đó. Rồi lại hít vào một hơi sau đó liên tục niệm đến khi hơi khí đó hết. Niệm 10 lần như vậy là có thể đi ra ngoài.
Tiến thêm một bước nữa là quán tướng niệm Phật. Bình thường ở Seattle, Liên Sinh Hoạt Phật sẽ dẫn các đệ tử nhiễu Phật, khi nhiễu Phật thì quán tưởng hình tướng của A Di Đà Phật cao như cây thông, hoặc cao hơn cả cây thông, gần như là một vị A Di Đà Phật cao tới trời ở trước mặt mình, vừa đi vừa niệm, liên tục tưởng nhớ Phật. Đây gọi là quán tướng niệm Phật, nghĩ đến hình tướng của Phật mà niệm Phật.
Nếu ở trước đàn thành tu pháp thì lại biến A Di Đà Phật thành một vị rất nhỏ, có màu vàng kim và phóng quang, trên tay cũng cầm hoa sen, một tay kết ấn ban nguyện, một tay kết ấn cầm hoa sen, một vị A Di Đà Phật nhỏ ngự ở trước trán, ở vị trí thượng đan điền. Và cũng có thể quán tưởng ngài to lớn như hư không, vừa quán tưởng vừa niệm Phật.
A Di Đà Phật rất vĩ đại, trong số chư Phật, chúng sinh niệm nhiều nhất là A Di Đà Phật. Bởi vì sức mạnh độ chúng sinh của ngài là lớn nhất, lại còn là vô lượng quang, vô lượng thọ, duyên phận của ngài với chúng sinh là sâu nhất lớn nhất.
Trong “Long Thư Tịnh Thổ Văn”, A Di Đà Như Lai có một hiệu đặc biệt, là “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật”, chúng ta niệm Phật, một lúc là đã niệm được “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật” rồi.
Niệm Phật là phương tiện! Niệm xong A Di Đà Phật còn cần niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, cần niệm Đại Thế Chí Bồ Tát. Với Quan Thế Âm Bồ Tát thì niệm “Ôm ma-ni pê-mi hùm”, còn Đại Thế Chí Bồ Tát thì niệm “Ôm xuy-xuy xua sô-ha”. Bình thường tôi niệm Phật như vậy.
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!