📜

Đại Nhật Như Lai kim cương giới niệm tụng pháp

image

Đại Nhật Như Lai kim cương giới niệm tụng pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mở đầu:

  • Quán Không.
  • Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì đồng tu.
  • Quán tứ vô lượng tâm.
  • Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.

Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:

Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.

Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh

Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)

Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.

Phần 3: Đại lễ bái

Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)

Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.

Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.

Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng

Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 4: Đại cúng dường

Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.

Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tát cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Đọc bài kệ cúng dường:

Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.

Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.

Phần 5: Tứ quy y

Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.

Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 6: Bia giáp hộ thân

Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.

Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.

Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.

Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)

Phần 8: Niệm chú vãng sinh: (7 biến)

Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.

Phần 9: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư

Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)

Phần 10: Kết ấn và Quán tưởng tam quang bao trùm

image

Kết ấn: Kim cương giới Đại Nhật Như Lai thủ ấn (ngũ trí ấn)

Tay trái nắm lại, duỗi ngón trỏ ra, năm ngón tay phải nắm lấy ngón trỏ tay trái, ngón cái tay phải đè lên đầu ngón trỏ tay trái.

Quán tưởng:

Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Fan (tiếng Phạn) màu trắng phóng ra ánh sáng màu trắng.

(2) Chữ Fan ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành Đại Nhật Như Lai, pháp thân Đại Nhật Trí, thân ngài có màu vàng của diêm phù đàn kim [Loại vàng được sản xuất từ dòng sông Nada chảy qua rừng cây diêm phù, này có màu vàng đỏ óng ánh như tia lửa, là loại quí nhất trong các loại vàng.], giống như tướng của Bồ Tát, đội mũ miện ngũ trí, đầu đội búi tóc như vương miện, toàn thân phóng ra ánh sáng đủ màu sắc, thân khoác dải lụa, đây là ấn hiệu của bậc chính giác tối cao tại Hội Đầu Đà Thiên [còn có tên khác là Ngũ Tịnh Cư Thiên, Ngũ Bất Hoàn Thiên] tay kết ấn trí quyền.

(3) Thiên tâm của Đại Nhật Như Lai phóng ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Vị trí họng của ngài phóng ra một đường ánh sáng đỏ, chiếu thẳng đến họng của hành giả. Tâm luân của ngài phóng ra một đường ánh sáng xanh lam, chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Ba ánh sáng trắng, đỏ, lam hòa tan vào trong thân tâm của hành giả.

Phần 11: Trì tâm chú Đại Nhật Như Lai

Cầm chuỗi hạt quán tưởng:

(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Đại Nhật Như Lai đến trước mặt mình.

Chú ngữ:

Ôm ben-za ta-tu fan. (108 biến)

Phần 12: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa

Cửu tiết Phật phong:

(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).

Quán tưởng Nhập ngã:

(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Fan), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.

Quán tưởng Ngã nhập:

Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Đại Nhật Như Lai, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.

Quán đếm hơi thở:

Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.

(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 13: Xuất định

Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.

Phần 14: Trì thêm những tâm chú khác

Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật)

Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát)

Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát)

Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu)

Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần)

Ôm ah hùm ben-za gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ)

Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lián-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử)

Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)

Phần 15: Niệm Phật

Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Phần 16: Tụng bách tự minh chú:

Ôm ben-za sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya ben-za sa-tô tê-nô-pa ti-cha Chê-chô mê-pa-wa su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-ơ-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-ơ-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-ân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ pan-ga-guân Sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta ben-za ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya sa-to ah hùm pây. (3 biến)

Phần 17: Hồi hướng

Gia trì tu pháp đạt thành tựu Trăm bệnh tiêu trừ phúc huệ tăng Mong cùng Bổn tôn hợp làm một Chúng sinh thế giới được an vui.

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

Đệ tử …….. xin đem công đức này hồi hướng. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!

(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 18: Đại lễ bái

(Giống đại lễ bái ở phần 3.)

Phần 19: Niệm chú viên mãn

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

image

Giới thiệu pháp tướng Kim cương giới Đại Nhật Như Lai

Thân ngài có màu vàng của diêm phù đàn kim [Loại vàng được sản xuất từ dòng sông Nada chảy qua rừng cây diêm phù, này có màu vàng đỏ óng ánh như tia lửa, là loại quí nhất trong các loại vàng.], giống như tướng của Bồ Tát, đội mũ miện ngũ trí, đầu đội búi tóc như vương miện, toàn thân phóng ra ánh sáng đủ màu sắc, thân khoác dải lụa, đây là ấn hiệu của bậc chính giác tối cao tại Hội Đầu Đà Thiên [còn có tên khác là Ngũ Tịnh Cư Thiên, Ngũ Bất Hoàn Thiên] tay kết ấn trí quyền, có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ngồi tư thế kiết già trên tòa bảy sư tử.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị lai lịch thù thắng của Đại Nhật Như Lai

Đại Nhật Như Lai tiếng Phạn chính là Maha Vairocana, còn gọi là Biến Chiếu Kim Cang, có nghĩa là ánh sáng lớn chiếu khắp nơi, là mặt trời to lớn chiếu khắp nơi, hoặc chiếu tất cả mọi nơi.

Đại Nhật Như Lai có ý nghĩa là ánh sáng chiếu khắp tất cả vạn vật trong vũ trụ mà không có một chút chướng ngại nào.

Bởi vì Đại Nhật Như Lai, đối với bên trong thì chiếu xuyên pháp giới chân như, đối với bên ngoài thì chiếu xuyên tất cả chúng sinh và không có trở ngại. Sự viên mãn các đức hành của ngài, pháp tính vĩnh viễn bất biến của ngài, có thể nói là tập hợp pháp tính của tất cả chư tôn, hơn nữa còn đầy ắp mọi nơi, vì thế được tôn là chủ tôn của Mật tông, tức là Đại Nhật giáo chủ.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn biết Đại Nhật Như Lai có một xưng hiệu khác mà thế nhân không biết, tôn xưng của ngài là: Tối Cao Hiển Quảng Nhãn Tạng Như Lai.

Hình tượng của Đại Nhật Như Lai trong mandala Kim cương giới gọi là Đại Nhật Trí pháp thân, tay kết ấn trí quyền.

Trong Thai tạng giới, gọi là Đại Nhật Lí pháp thân, ấn tướng là pháp giới định ấn.

Hình tượng Đại Nhật Như Lai không có tướng đứng, chỉ có tướng ngồi, ở đây có một tầng ý nghĩa sâu xa hơn. Bởi vì ngài là Trung Ương Thiền Định Phật, hình tượng của ngài chính là ở trong thiền định rất sâu.

Vairocana Đại Nhật Như Lai cũng chính là tổ sư của Mật giáo, ngài là một vị quan trọng nhất trong Ngũ Phật, pháp giới thể tính trí là quan trọng nhất, cũng có thể nói là toàn bộ ngũ trí tập trung trên người Vairocana Đại Nhật Như Lai, từ bản thân ngài lại hóa tiếp ra.

Đại Nhật Như Lai có Phật Mẫu, chính là Đại Cát Tường Thiên Mẫu (Đại Cát Tường Kim Cang Minh Phi), cũng chính là Phật Nhãn Phật Mẫu. Trước đây, tôi viết là Vô Tà Nhãn Như Lai, chính là Phật Nhãn Phật Mẫu, kì thực là một vị, Phật Mẫu và Vairocana Đại Nhật Như Lai là một. Nếu có song thân, Phật Mẫu đại diện cho trí huệ, Bổn tôn (Phật Phụ) đại diện cho phương tiện. Tuy nhiên, nếu có phương tiện mà không có trí huệ thì cũng không thành, vì thế song thân là tượng trưng cho trí huệ và phương tiện, ý nghĩa là ở đây.

Đại Nhật Như Lai có ba biểu trưng: Thứ nhất, quang minh biến chiếu, ý nghĩa là ánh sáng của ngài không đâu là không chiếu đến, bất kì pháp giới nào cũng đều có thể được chiếu tới. Thứ hai, trí huệ biến chiếu, trí huệ của ngài là tổng hợp của mọi trí huệ bên trong các pháp giới, chính là trí huệ viên mãn, cũng chính là trí huệ biến chiếu. Thứ ba, phá phiền biến chiếu, ngài có thể phá bỏ mọi phiền não.

Vì thế, “biến chiếu” của ngài có ba ý nghĩa, một là quang minh, một là trí huệ, một là phá bỏ mọi phiền não.

Đại Nhật Như Lai (Phật Vairocana) có ba thân: 1. Pháp thân — biến khắp pháp giới. 2. Báo thân — tại Đại Tự Tại Thiên, tịnh thổ Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng cung. 3. Ứng thân — tùy hình lục đạo đủ loại giáo hóa.

Đại Nhật Như Lai là pháp thân, báo thân, ứng thân, có thể nói ngài là mẹ của Chư Phật, thân của ngài màu trắng, thiên y váy xếp màu trắng, đầu đội mũ Ngũ Phật, kết ấn trí quyền, ấn chuyển pháp luân, mọi pháp luân đều là do ngài chuyển động, mọi trí huệ viên mãn nhất.

Chú ngữ Kim cương giới của ngài là “Om benza tatu fan” nghĩa là “tôn sùng Biến Chiếu Kim Cương Đại Nhật Như Lai có trí huệ nhất”. Chú ngữ Thai tạng giới của ngài là “Ah ua la hum khan”, chính là đất, nước, lửa, gió, không. Chú ngữ của cả hai bộ Kim và Thai là: “Om benza tatu fan ah ua la hum khan.” Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng mọi người niệm là “Ah wei la hum khan”, có khi thì niệm là “Ah ua (âm ở giữa ua và wei) la hum khan”, âm đọc như vậy mới chuẩn xác.

“Om benza tatu fan ah ua la hum khan.”

Ngày xưa Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn từng nói, tiền thân của Liên Sinh Hoạt Phật là Liên Hoa Đồng Tử, tiền thân của Liên Hoa Đồng Tử là Vô Tà Nhãn Như Lai, tên gọi khác của Vô Tà Nhãn Như Lai chính là Phật Nhãn Phật Mẫu. Phật Nhãn Phật Mẫu vốn là Đại Cát Tường Kim Cang Minh Phi, là do Đại Nhật Như Lai sinh ra.

Liên Sinh Hoạt Phật từ lâu đã biết mình là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì của Tây phương Cực Lạc thế giới hạ sinh, chính là A Di Đà Phật phó thác mà thừa nguyện lại đến.

Nguồn gốc mà ngài truy tìm là: Đại Nhật Như Lai hóa hiện Phật Nhãn Phật Mẫu, hai con mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu chính là Ma Ha Song Liên Trì, Phật Nhãn Phật Mẫu hóa hiện Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện Liên Sinh Hoạt Phật.

Cho nên truyền thừa của ngài chính là: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - Liên Hoa Đồng Tử - Liên Sinh Hoạt Phật.

Kinh Đại Nhật (Đại Tì Lô Giá Na thành Phật thần biến gia trì kinh), và một quyển khác là kinh Kim Cương Đỉnh (Kim cương đỉnh nhất thiết Như Lai chân thực nhiếp Đại thừa hiện chứng đại giáo chủ kinh), hai cuốn kinh điển này đều là do Đại Nhật Như Lai thuyết. Mật giáo chính là lấy Đại Nhật Như Lai làm tổ sư.

Trong Mật giáo, hai bộ kinh điển của Kim cương giới, Thai tạng giới là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đỉnh đều lấy Vairocana Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn.

Đại Nhật Như Lai trong mandala có hai bộ, có Thai tạng bộ (Thai tạng giới) và Kim cương bộ (Kim cương giới). Thai tạng giới là nhân, Kim cương giới là quả, Thai tạng giới là mandala của nhân, Kim cương giới là mandala của quả, có nghĩa là bạn đang tu hành mandala của nhân và tu hành mandala của chứng quả.

Vì thế, các vị của Thai tạng giới gọi là “lí hóa thân”, nghĩa là hóa thân của Phật lí, các vị trong Kim cương giới gọi là “tri hóa thân”, nghĩa là hóa thân của trí huệ. Một là nhân, một là quả, hai cái khác nhau, hai cái không giống nhau.

Còn Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là người đã từng đến Đại Tự Tại Thiên, cũng đã đi vào cung Pháp Giới Tối Thắng, gặp mặt Đại Nhật Như Lai.

Đại Nhật Như Lai Vairocana đích thực ở tại Đại Tự Tại Thiên thuyết pháp. Đại Tự Tại Thiên không phải là cõi trời thứ sáu của Dục giới, mà là đỉnh của Sắc giới Thất Bất Hoàn Thiên.

Đại Tự Tại Thiên này không phải là cõi trời của Thiên Ma mà con người bình thường tưởng tượng ra, mà là cõi tịnh thổ do Đại Nhật Như Lai biến hiện, cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng nằm ở tịnh thổ Đại Tự Tại Thiên này. Bên trong tịnh thổ này đều là Bồ Tát thập địa, cũng tức là những Bồ Tát chuẩn bị thành Phật. Bồ Tát thập địa ở tại cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng nghe Đại Nhật Như Lai thuyết pháp.

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!