Đại Uy Đức Kim Cang niệm tụng pháp
Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!
Mở đầu:
- Quán Không.
- Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì. Trì 7 biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, thỉnh cầu tu pháp viên mãn.
- Quán tứ vô lượng tâm:
Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm.
Quán tưởng bên tay phải của hành giả là những người thân phụ hệ, bên tay trái là những người thân mẫu hệ, sau lưng có ân nhân, sư trưởng, bạn bè thân hữu, trước mặt có oan thân trái chủ, xung quanh có lục đạo chúng sinh quây vòng quanh, tất cả cùng tu Mật pháp, cùng thành tựu Phật đạo.
- Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.
Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:
Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.
Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh
Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)
Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. Nam mô Đại Uy Đức Kim Cang. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.
Văn cầu thỉnh Đại Uy Đức Kim Cang:
Hết thảy Chư Phật chí tôn diệu cát tường Chủ tôn bẻ gãy nhà ngục ma quân nội ngoại Thế nên để cho Tsongkhapa hóa thân người Thượng sư Kim Cang là một nay kính lễ. Văn Thù Phẫn Nộ Kim Cang Đại Uy Đức Pháp đại mật nhị cấp tu thành tựu Chân nghĩa nương nhờ Thượng sư không nhiễm bẩn Kể rõ sự nghiệp ngục chủ thỉnh hộ trì. Yamantaka Minh Vương lệnh tại Luân chuyển giáo chủ tối đại thắng tôn Mọi ma sợ hãi đều quy y hết Thỉnh trừ ma sự ban đại gia hộ.
Phần 3: Đại lễ bái
Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)
Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.
Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.
Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng
Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 4: Đại cúng dường
Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.
Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Đọc bài kệ cúng dường:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.
Phần 5: Tứ quy y
Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.
Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.
(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 6: Bia giáp hộ thân
Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.
Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.
Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.
Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.
Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.
Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.
Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.
Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)
Thập phương Quan Thế Âm. Nhất thiết chư Bồ Tát. Thệ nguyện cứu chúng sinh. Xưng danh tất giải thoát. Nhược hữu trí tuệ giả. Ân cần vị giải thuyết. Đãn thị hữu nhân duyên. Độc tụng khẩu bất xuyết. Tụng kinh mãn thiên biến. Niệm niệm tâm bất tuyệt. Hỏa diễm bất năng thương. Đao binh lập tồi chiết. Khuể nộ sinh hoan hỉ. Tử giả biến thành hoạt. Mạc ngôn thử thị hư. Chư Phật bất vọng thuyết. Cao Vương Quan Thế Âm. Năng cứu chư khổ ách. Lâm nguy cấp nan trung. Tử giả biến thành hoạt. Chư Phật ngữ bất hư. Thị cố ưng đính lễ. Trì tụng mãn thiên biến. Trọng tội giai tiêu diệt. Hậu phúc kiên tín giả. Chuyên công thọ trì kinh.
Nguyện dĩ thử công đức. Phổ cập ư nhất thiết. Tụng mãn nhất thiên biến. Trọng tội giai tiêu diệt.
Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh (chung)!
Phần 8: Niệm chú vãng sinh: (7 biến)
(Tay kết ấn Đại hải siêu độ.)
Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.
Phần 9: Niệm kệ Tứ vô lượng tâm
Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, là từ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là bi vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, là hỉ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng, là xả vô lượng.
Phần 10: Phát bồ đề tâm
Đọc văn phát bồ đề tâm:
Đệ tử Liên Hoa ……. kể từ khi quy y Căn bản Thượng sư, Tam Bảo, hướng thẳng đến bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Mọi điều thiện lớn nhỏ đều hồi hướng cho chúng sinh mau chóng thành Phật đạo.
Niệm phát bồ đề tâm chân ngôn: (3 biến)
Ôm bô-đi-chi-ta ben-za sa-ma-ya ah hùm.
Phần 11: Kim cang tâm
Đọc bài kệ sám hối: (3 biến)
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp Đều vì vô thủy tham sân si Đều sinh ra từ thân ngữ ý Nay con hết thảy xin sám hối.
Niệm chú sám hối: (108 biến)
Ôm ben-za sa-ma-ya su-tô ah.
Phần 12: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư
Cầm chuỗi hạt quán tưởng:
(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Căn bản Truyền thừa Thượng sư đến trước mặt mình.
Liên Hoa Đồng Tử tâm chú:
Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)
Phần 13: Kết ấn và Quán tưởng
Kết ấn:
Hai tay đan nội phộc, hai ngón giữa dựng lên, đầu ngón tay chạm vào nhau tạo thành vòng khép kín.
Quán tưởng:
Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)
(1) Đầu tiên quán tưởng từ Văn Thù Bồ Tát. Trong không trung hoàn toàn trống không, có một chủng tử chữ Phạn “Di” hiện ra, chữ “Di” biến thành một vị Văn Thù Bồ Tát có màu vàng đỏ, đầu đội mũ Ngũ Phật nhỏ. Râu tóc búi cao, một đầu hai tay, hiện tướng đồng tử, tay phải cầm một cây bảo kiếm, tay trái kết ấn thuyết pháp, ngồi trên lưng một con sư tử. Toàn thân Văn Thù Bồ Tát đeo đầy chuỗi ngọc thể hiện sự trang nghiêm.
(2) Văn Thù Bồ Tát từ đỉnh môn phóng ra một luồng ánh sáng đen, trong ánh sáng đen này hiện ra một vị Đại Uy Đức Minh Vương.
Nếu quán tưởng theo Đông mật: Đại Uy Đức Minh Vương tổng cộng có sáu mặt, sáu cánh tay, sáu chân, bụng ngài màu đen, toàn thân đeo đầy đầu lâu xương sọ, quấn váy da hổ, tóc dựng thẳng đứng, mắt đỏ lồi ra, mỗi khuôn mặt đều có ba con mắt, khuôn mặt chính há to miệng thể hiện tướng đại phẫn nộ, răng nhọn lộ ra ngoài, lưỡi thè ra như chớp, phía trên cái đầu ở trên cao nhất là Văn Thù Bồ Tát, đầu ở phía bên phải đều thè dài lưỡi ra, đầu ở phía bên trái thì bặm môi thể hiện tướng phẫn nộ, đầu ở phía sau có khuôn mặt cười lớn đầy hung bạo phía trên bốn cái đầu có một đầu Quỷ Vương, phía trên đầu Quỷ Vương mới là đầu của Văn Thù Bồ Tát, chỉ có đầu Văn Thù là tướng hiền từ, còn những đầu khác đều là tướng phẫn nộ.
Sáu cánh tay của ngài đều cầm pháp khí. Bên phải, cánh tay thứ nhất cầm kiếm sắc, cánh tay thứ hai cầm chày kim cang, cánh tay thứ ba cầm mũi tên. Bên trái, cánh tay thứ nhất cầm dây thừng bằng lụa hoặc kết ấn kì khắc, cánh tay thứ hai cầm kinh Bát Nhã, cánh tay thứ ba cầm cung. Toàn thân ngài phần lớn là màu xanh đen, cưỡi trên một con trâu nước màu xanh đen, dưới chân của con trâu nước là tòa hoa sen lớn.
Nếu quán tưởng theo Tạng mật: Đại Uy Đức Kim Cang trên cao nhất là tướng của Văn Thù Bồ Tát, xuống thấp hơn là Quỷ Vương, tiếp theo là bốn khuôn mặt, khuôn mặt chính phía trước là đầu trâu tướng phẫn nộ, răng lộ ra ngoài, lưỡi như chớp, có hai sừng trâu lớn, ba con mắt trâu, hiện ra 18 cánh tay, ngoài tay cầm pháp khí ra thì những cánh tay khác đều kết ấn phẫn nộ, hai chân to dẫm lên hai con thú, toàn thân đeo đầu lâu xương sọ thể hiện tướng trang nghiêm, thân trên màu vàng, thân dưới màu đen. Những cái khác thì giống với Đông mật.
(3) Sau khi đã quán tưởng rõ hình tướng, quán tưởng tiếp thân của Đại Uy Đức Kim Cang bắt đầu xoay vòng, trở thành một khối ánh sáng màu tím với đại pháp lực, sau đó từ đỉnh môn tiến nhập vào trong thân của hành giả, lập tức quán tưởng mình thành Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương.
Phần 14: Trì tâm chú Đại Uy Đức Kim Cang
Tâm chú: Ôm ya-ma-ta-ka hùm pây ôm chuy-li ka-la-lu-pa hùm khan sô-ha.. (108 biến)
Phần 15: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa
Cửu tiết Phật phong:
(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).
Quán tưởng Nhập ngã:
(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Di), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.
Quán tưởng Ngã nhập:
Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Đại Uy Đức Kim Cang, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.
Quán đếm hơi thở:
Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.
(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 16: Xuất định
Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.
Phần 17: Trì thêm những tâm chú khác
(Mỗi câu chú trì một lần, không cần kết thủ ấn, chắp tay là được.)
Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)
Phần 18: Niệm Phật
Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)
Phần 19: Tụng bách tự minh chú:
Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây. (3 biến)
Phần 20: Hồi hướng
Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.
Đệ tử …….. nguyện đem công đức tu pháp này hồi hướng đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cầu nguyện Sư Phật thường trụ thế gian, không nhập niết bàn, mãi chuyển pháp luân, Phật thể an khang. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!
(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 21: Đại lễ bái
(Giống đại lễ bái ở phần 3.)
Phần 22: Niệm chú viên mãn
Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.
Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.
Giới thiệu pháp tướng Đại Uy Đức Kim Cang
Đại Uy Đức Kim Cang (Độc Hùng Đại Uy Đức) có một mặt hai tay hai chân (chân trái duỗi thẳng, chân phải cong), tay phải cầm rìu, tay trái cầm thiên linh cái, toàn thân màu xanh đen, tóc đỏ dựng thẳng như ngọn lửa, thị hiện tướng phẫn nộ, hai chân đứng theo thế cung tên, chân trước cong chân sau thẳng, dẫm trên hoa sen.
Đại Uy Đức Kim Cang còn có hình tượng 6 mặt, 6 cánh tay, 6 chân, cưỡi trâu nước xanh. Ngoài ra còn có hình tượng là 9 mặt, 34 cánh tay, 16 chân. Cũng có hình tượng 32 mặt, 36 tay, gọi là 13 vị Đại Uy Đức Kim Cang.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị về lai lịch vĩ đại của Đại Uy Đức Kim Cang và lợi ích tu trì pháp
Đại Uy Đức Kim Cang là giáo lệnh luân của A Di Đà Phật, còn gọi là Cát Kiệt Đa Kiệt, là Ngũ Phương Phật hóa thân thành Ngũ Đại Kim Cang. Hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát gọi là Bố Úy Kim Cang, Uy Đức Kim Cang, tiếng Phạn là Yamantaka, có ý nghĩa là hàng phục mọi ma. Danh xưng của ngài gồm có Địch Trị Tử Vong, Thánh Yamantaka Uy Nộ Vương, Hàng Phục Diêm Ma Tôn, v.v… Trong mandala Thai Tạng Giới, vị Kim Cang này đứng bên trái của Bát Nhã Bồ Tát trong Trì Minh Viện.
Lai lịch của Đại Uy Đức Kim Cang, theo như truyền thuyết lịch sử Tây Tạng, khi xưa, Diêm Ma La hiện ra Ma Vương mang hình tướng con trâu nước với đầu trâu có sừng và thân người, làm hại rất nhiều người. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ứng hóa nhập vào tam ma địa của Diêm Ma Pháp Vương, hiển hiện tướng đại uy mãnh cũng là đầu trâu thân người, đã hàng phục Diêm Ma La, cho nên cũng gọi là Hàng Diêm Ma Tôn. Cho nên, tâm chú của Đại Uy Đức Kim Cang là: “Om chuli kalalupa hum khan soha.” Cũng có thể niệm “Om chuli kalalupa hum khan soha. Om yamantaka hum pei.” Cũng có thể niệm thêm là “Om arapacha nadi. Om chuli kalalupa hum khan soha. Om yamantaka hum pei.” Đây là một chuỗi, là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biến hóa thành Đại Uy Đức Kim Cang Hàng Phục Diêm Ma Tôn.
Đại Uy Đức Kim Cang có cái gọi là “Đàn thành 13 vị Đại Uy Đức Kim Cang”. Đàn thành 13 vị là chỉ cái cuối cùng, pháp lực của Đại Uy Đức Kim Cang vô cùng uy mãnh.
9 mặt của Đại Uy Đức Kim Cang đại diện cho chín bộ khế kinh Đại thừa, 34 cánh tay và thân ngữ ý đại diện cho sự tinh thông 37 đạo phẩm, 16 chân đại diện cho sự triệt ngộ 16 tính Không, ngọn lửa kim cang phẫn nộ đại diện cho từ bi thanh tịnh hàng phục.
Bởi toàn thân Đại Uy Đức Kim Cang có màu xanh đen, dáng vóc đặc biệt cao lớn, hơn nữa còn có ngọn lửa quanh thân, đây là một hình tướng cực kì phẫn nộ, cho nên ngài có thể phá tan và hàng phục tất cả ác ma độc long, đoạn trừ mọi chướng ngại, khiến tất cả ác ma trông thấy đã khiếp sợ. Luật lệnh của Đại Uy Đức Kim Cang có sức mạnh to lớn, có thể làm tiêu tai, kính ái, tăng ích, hàng phục, có thể hàng phục bốn loại ma gồm Thiên ma, bệnh ma, phiền não ma, tử ma, cho nên sức mạnh uy lực của ngài tương đương với Phật.
Người tu trì pháp Đại Uy Đức Kim Cang nên chọn tu trì pháp Văn Thù Bồ Tát trước, bởi vì Văn Thù là nguồn gốc của Đại Uy Đức Kim Cang, đây là từ một tâm mà hóa làm hai vị của Văn Thù Bồ Tát, như thế sẽ tương đối dễ thành tựu hơn. Giả như bạn tu luyện thành thục pháp Văn Thù rồi, lúc này vì “đã lập được cái gốc vững chắc, đạo sẽ sinh trưởng”, tự nhiên sẽ có duyên phận rất lớn với Đại Uy Đức Kim Cang, sau đó lại tu pháp kim cang, tự nhiên rất nhanh chóng tương ứng. Muốn tu trì pháp này phải học được “pháp chuyển”, tức là kết ấn Đại Uy Đức Kim Cang giáo lệnh luân, chân phải duỗi thẳng, chân trái cong và giơ lên xoay vòng, từ tâm phẫn nộ biến thành tướng phẫn nộ. Công đức của pháp này rất lớn, tất cả oan gia ác nhân đều sẽ thất bại, tất cả quỷ thần đều phải nghe lệnh.
Phần lớn thi triển các pháp kim cang đều là hàng ma trừ ác, khiến oan gia ác nhân đều thất bại, đặc biệt uy lực của pháp Đại Uy Đức Kim Cang là nỗi khiếp sợ của các ma, pháp lực và sắc lệnh của ngài có thể nói là số một. Người tu pháp này cũng chắc chắn sẽ thành Phật, cho nên Hoàng giáo coi pháp Đại Uy Đức Kim Cang là pháp tối cao. Đại Uy Đức Kim Cang là Hộ pháp của Tổ sư Tsongkhapa của Hoàng giáo, cũng là Hộ pháp căn bản của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn của Chân Phật Tông.
Truyền thừa cao quý của pháp Đại Uy Đức Kim Cang của Chân Phật Tông Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.
Thubten Nyima — Thubten Dali — Thubten Dhargye — Thubten Qimo (tức Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn). Pháp bản Đại Uy Đức Kim Cang của Liên Sinh Pháp Vương Lư Thắng Ngạn chính là đến từ tổ sư Thubten Nyima.
Pháp Đại Uy Đức Kim Cang của Chân Phật Tông có các hạng mục cần chú ý đặc biệt như sau, nếu có người muốn tu trì thì xin tuân thủ: 1. Hệ thống Đại Uy Đức Kim Cang từ phong luân trong đất nước lửa gió chuyển hóa thành, chính là chữ “yam” trong tam tự chú “ram yam kham” hóa sinh, cho nên người mang họ Dương có thể nhận quán đảnh, có thể nghe pháp, nhưng không được tu pháp này. 2. Tu trì pháp Đại Uy Đức Kim Cang nhất định phải giữ nghiêm giới luật, người phạm trọng giới hoặc phạm năm giới đều không được tu, trừ phi hướng về Kim Cang Tát Đỏa cầu sám hối. Niệm 21 biến Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chú, niệm xong cầu sám hối, cho đến khi xuất hiện tướng sám hối rất tốt thì mới xem là có thể tu trì. 3. Tu trì pháp Đại Uy Đức Kim Cang phải có phẩm tính thượng đẳng. Người tu trì nhất định phải giữ giới samaya.
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!