📜

Địa Tạng Vương Bồ Tát niệm tụng pháp

image

Địa Tạng Vương Bồ Tát niệm tụng pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mở đầu:

  • Quán Không.
  • Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì đồng tu.
  • Quán tứ vô lượng tâm.
  • Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.

Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:

Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.

Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh

Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)

Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.

Phần 3: Đại lễ bái

Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)

Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.

Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.

Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng

Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 4: Đại cúng dường

Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.

Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tát cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Đọc bài kệ cúng dường:

Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.

Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.

Phần 5: Tứ quy y

Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.

Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 6: Bia giáp hộ thân

Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.

Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.

Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.

Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)

Niệm thêm chú vãng sinh: (7 biến)

Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.

Phần 8: Quán tưởng tam quang bao trùm

image

Kết ấn: Ấn Địa Tạng nâng ngọc

Hai mu bàn tay úp vào nhau, tay phải đặt trên tay trái, tựa ngón út tay trái vào giữa ngón cái và ngón trỏ tay phải. Tựa ngón út tay phải vào giữa ngón cái và ngón trỏ tay trái. Giữ ấn trước luân xa rốn. (Ấn này còn được gọi là ấn kim cương bộ samaya).

Quán tưởng:

Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Ha (tiếng Phạn hoặc Tạng) màu vàng phóng ra ánh sáng trắng.

(2) Chữ Ha ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành một vị Địa Tạng Vương Bồ Tát, đầu dội mũ Ngũ Phật, mặc áo cà sa, toàn thân màu trắng, hai tay ngài nâng ngọc minh châu (bảo châu), ngồi trên đài hoa sen.

(3) Lại quán tưởng bảo châu phóng quang, trở thành hình vòm từ lỗ trên đỉnh đầu chiếu dội xuống hành giả, toàn thân hành giả thanh tịnh.

Phần 9: Trì tâm chú Bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát

Cầm chuỗi hạt quán tưởng:

(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Địa Tạng Vương Bồ Tát đến trước mặt mình.

Chú ngữ:

Địa Tạng Vương Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn: (dùng để tiêu nghiệp) Ôm pẩn-la-múa lin-thô-lin sô-ha. (108 biến) Địa Tạng Vương Bồ Tát tâm chú: (dùng khi tu pháp Bổn tôn) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (108 biến)

Phần 10: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa

Cửu tiết Phật phong:

(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).

Quán tưởng Nhập ngã:

(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Ha), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.

Quán tưởng Ngã nhập:

Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.

Quán đếm hơi thở:

Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.

(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 11: Xuất định

Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.

Tụng tán:

Lời thề Địa Tạng sâu như biển Địa ngục chưa sạch không thành Phật Lợi ích trời người Đại Bồ Tát Độ hết chúng sinh chứng bồ đề.

Phần 12: Trì thêm những tâm chú khác

Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật)

Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát)

Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát)

Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu)

Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần)

Ôm ah hùm ben-za gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ)

Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lián-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử)

Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)

Phần 13: Niệm Phật

Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Phần 14: Tụng bách tự minh chú:

Ôm ben-za sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya ben-za sa-tô tê-nô-pa ti-cha Chê-chô mê-pa-wa su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-ơ-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-ơ-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-ân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ pan-ga-guân Sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta ben-za ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya sa-to ah hùm pây. (3 biến)

Phần 15: Hồi hướng

Nguyện lấy Địa Tạng làm Bổn tôn Độ hết chúng sinh cõi u minh Ngày ngày đều hành Bồ Tát pháp Minh châu chiếu sáng hóa vạn đèn.

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

Đệ tử …….. xin đem công đức này hồi hướng. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!

(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 16: Đại lễ bái

(Giống đại lễ bái ở phần 3.)

Phần 17: Niệm chú viên mãn

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

image

Giới thiệu pháp tướng Địa Tạng Vương Bồ Tát

Địa Tạng Vương Bồ Tát đầu đội mũ Ngũ Phật, mặc áo cà sa, toàn thân màu trắng, hai tay nâng ngọc bảo châu, ngồi trên đài hoa sen.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị lai lịch vĩ đại của Địa Tạng Vương Bồ Tát và khẩu quyết tu pháp

Địa Tạng Vương Bồ Tát là một trong những vị Bổn tôn của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tên tiếng Phạn của ngài là Ksitigarbha, mật hiệu là Bi Nguyện Kim Cang hoặc Dư Nguyện Kim Cang. Địa Tạng Vương Bồ Tát là một trong bốn đại Bồ Tát của Phật giáo, cùng với Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, cùng được người đời tôn sùng. Vì lời nguyện lớn lao rất sâu rất rộng của ngài nên ngài còn được gọi là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Trong Địa Tạng Thập Luân Kinh, ngài hiển hiện thân Phật, thân Bồ Tát, thân Thanh Văn, thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thậm chí là thân Diêm La Vương, cũng là nghìn nơi cầu nghìn nơi hiện. Trong mandala Thai Tạng Giới của Mật tông, ngài ở tại Viện Địa Tạng, trong mandala Kim Cương Giới, Kim Cương Tràng Bồ Tát của nam phương Bảo Sinh Phật cũng chính là Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát có rất nhiều tướng, thông thường hình tướng đầu đội mũ Ngũ Phật, tay nâng viên ngọc minh châu tỏa sáng, thân khoác áo cà sa, ngồi trên tòa hoa sen, tay cầm tích trượng là nhiều nhất. Ở Nhật Bản, bên đường ở vùng nông thôn, có hình tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát để đầu trọc và đứng thẳng được lưu truyền rất rộng rãi. Địa Tạng Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Diệu Tràng Bồ Tát, Vô Biên Tâm Bồ Tát đều là những tên gọi khác của Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Các danh xưng của Địa Tạng Vương Bồ Tát có: Kim Cương Nguyện Địa Tạng, Kim Cương Bảo Địa Tạng, Kim Cương Bi Địa Tạng, Kim Cương Tràng Địa Tạng, Phóng Quang Địa Tạng, Đỉnh Thiên Hạ Địa Tạng, Hộ Tán Địa Tạng, Diên Mệnh Địa Tạng, Mâu Ni Địa Tạng, Tán Long Địa Tạng, Phá Thắng Địa Tạng, Bất Hưu Tức Địa Tạng, tay cầm những pháp khí khác nhau.

Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Đao Lợi Thiên đã được Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò, là vị Bồ Tát đại bi giáo hóa lục đạo chúng sinh.

Xưng hiệu Địa Tạng nghĩa là: An nhẫn bất động Như Lai địa, tĩnh lự thâm mật như bí tạng.

Địa Tạng còn có 6 Địa Tạng:

1. Kim Cương Nguyện Địa Tạng - tay trái cầm cờ đầu người, tay phải kết ấn cam lộ, chuyên cứu độ đạo địa ngục.

2. Kim Cương Bảo Địa Tạng - tay trái cầm bảo châu, tay phải kết ấn cam lộ, chuyên cứu độ đạo ngạ quỷ.

3. Kim Cương Bi Địa Tạng - tay trái cầm tích trượng, tay phải kết ấn tiếp dẫn, chuyên cứu độ đạo súc sinh.

4. Kim Cương Tràng Địa Tạng - tay trái cầm cờ xí kim cương, tay phải kết ấn thí vô úy, chuyên cứu độ đạo atula.

5. Phóng Quang Địa Tạng - tay trái cầm tích trượng, tay phải kết ấn ban nguyện, chuyên cứu độ cõi người.

6. Đỉnh Thiên Hạ Địa Tạng - tay trái cầm ngọc như ý, tay phải kết ấn thuyết pháp, chuyên cứu độ đạo trời.

Thần kỳ nhất là Địa Tạng Vương Bồ Tát hiển hiện thân Diêm La Vương, ở trong địa ngục độ đủ loại sinh linh khổ nhất ác nhất.

6 sứ giả là:

1. Diễm Ma sứ giả. (hóa địa ngục)

2. Trì Bảo đồng tử. (hóa ngạ quỷ)

3. Đại Lực sứ giả. (hóa súc sinh)

4. Đại Bi thiên nữ. (hóa tula)

5. Bảo Tạng thiên nữ. (hóa người)

6. Nhiếp Thiên sứ giả. (hóa trời)

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni tại Đao Lợi Thiên thuyết pháp cho mẹ mình là phu nhân Maya, đã ủy thác lục đạo cho Địa Tạng Vương Bồ Tát, và Địa Tạng Vương Bồ Tát là một trong tám vị đại Bồ Tát, nguyện lực vô cùng vĩ đại, ngài còn phát lời thề “địa ngục chưa trống thề không thành Phật”.

Địa Tạng Vương Bồ Tát vô cùng vĩ đại, đặc biệt lời nguyện to lớn của ngài là lớn nhất trong các vị Bồ Tát. Phật Thích Ca Mâu Ni từng ở cung Đao Lợi Thiên dặn dò Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng khi Phật Thích Ca Mâu Ni rời đi, lúc viên tịch, tất cả chúng sinh và chư Thiên đều cần nương nhờ vào Địa Tạng Vương Bồ Tát. Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò Địa Tạng Vương Bồ Tát hãy làm đạo sư của trời người. “Địa ngục chưa trống thề không thành Phật” là lời thề nguyện của ngài.

Địa Tạng Vương Bồ Tát độ chúng sinh là theo hình thức chăn cừu, có nghĩa là đem tất cả cừu đưa sang bờ bên kia rồi cuối cùng còn lại một mình ngài, lúc ấy ngài mới thành Phật. Ngài muốn tất cả chúng sinh đều thành Phật rồi ngài mới thành Phật, đó là vị Bồ Tát với tâm từ bi lớn nhất, nguyện lực lớn nhất.

Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni lại ủy thác thiên giới và nhân gian cho Địa Tạng Vương Bồ Tát mà không phải là Bồ Tát nào khác? Chủ yếu là vì trong số tám vị đại Bồ Tát, duy có Địa Tạng Vương Bồ Tát là hiện tướng xuất gia, Phật Thích Ca Mâu Ni hy vọng Phật pháp tương lai sẽ do người xuất gia nắm giữ, người tại gia thì yêu mến ủng hộ.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cũng phát lời thề rằng: “Địa ngục chưa trống thề không thành Phật, phân thân xả cốt độ chúng sinh.” Thật ra “Địa ngục chưa trống thề không thành Phật” chính là lời thề lớn lao của Địa Tạng Vương Bồ Tát, có thể thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát đã đem đến cho Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn những giáo hóa cực sâu. Và khẩu quyết tu trì Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn tôn pháp chính là: không có tâm phân biệt.

Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng là huynh đệ của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Ở Cửu Hoa Sơn trong bốn đại đạo tràng ở Trung Quốc, đạo tràng của Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng chính là do Kim Kiều Giác xây dựng, là một đại đạo tràng vô cùng thần kỳ, Kim Kiều Giác ở đây cũng chính là Kim Liên Hoa Đồng Tử.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn từng hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Địa Tạng Vương Bồ Tát có tịnh thổ nào?” Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: “Tịnh thổ này thế nhân không biết, cũng chưa có ai lưu truyền, và trong thiên hạ, người đầu tiên và duy nhất biết đến danh hiệu của tịnh thổ này chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đó.” Lại hỏi: “Tịnh thổ ấy tên là gì? Lẽ nào là tịnh thổ Cửu Hoa?” Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: “Không phải, tên đầy đủ của tịnh thổ này là Địa Tạng Bồ Tát Thúy Vi Nam Phương Cực Lạc Thế Giới.”

Vì vậy, hành giả tu trì pháp Bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng có thể vãng sinh Phật quốc tịnh thổ, chính là Địa Tạng Bồ Tát Thúy Vi Nam Phương Cực Lạc Thế Giới.

Địa Tạng Bồ Tát vốn có sáu vị sứ giả theo bên cạnh, trong số đó, Đại Lực sứ giả được Địa Tạng Bồ Tát dặn dò là giao cho Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn mang theo bên người để sai khiến, vì thế trên ngón cái tay phải của Lư Sư Tôn có ký hiệu của Đại Lực sứ giả.

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!