📜

Diêu Trì Kim Mẫu niệm tụng pháp

image

Diêu Trì Kim Mẫu niệm tụng pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mở đầu:

  • Quán Không.
  • Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì. Trì 7 biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, thỉnh cầu tu pháp viên mãn.
  • Quán tứ vô lượng tâm.
  • Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.

Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:

Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.

Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh

Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)

Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.

Phần 3: Đại lễ bái

Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)

Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.

Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.

Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng

Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 4: Đại cúng dường

Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.

Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Đọc bài kệ cúng dường:

Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.

Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.

Phần 5: Tứ quy y

Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.

Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 6: Bia giáp hộ thân

Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.

Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.

Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.

Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)

Phần 8: Niệm chú vãng sinh: (7 biến)

Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.

Phần 9: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư

Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)

Phần 10: Kết ấn và Quán tưởng tam quang bao trùm

image

Kết ấn: Thủ ấn Diêu Trì Kim Mẫu

Hai tay kết thủ ấn Kim Mẫu. Đầu tiên hai tay đan nội phộc, hai ngón giữa dựng thẳng lên chạm vào nhau, hai ngón trỏ giơ lên mở ra hai bên, hai ngón cái giơ thẳng đặt cạnh nhau. Giữ thủ ấn trước ngực.

Quán tưởng:

Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Hum (tiếng Phạn hoặc Tạng) màu trắng tỏa ánh sáng trắng mạnh mẽ.

(2) Chữ Hum ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu, đội mũ phượng, cầm phất trần và gậy như ý, khuôn mặt mỉm cười, pháp tướng trang nghiêm, ánh mắt hiền từ nhìn chúng sinh.

(3) Quán tưởng cây phất trần và gậy như ý trong tay của Kim Mẫu phóng ánh sáng trắng lên cao, trở thành hình vòng cung chiếu đến đỉnh đầu và đi vào thân hành giả Mật tông, thân hành giả trở nên trong suốt như thủy tinh, nghiệp chướng đều tiêu trừ.

(Hoặc quán tưởng thiên tâm của Kim Mẫu phóng ra một vệt ánh sáng trắng chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Từ họng Kim Mẫu phóng ra một vệt ánh sáng đỏ chiếu thẳng đến họng của hành giả. Tâm luân của Kim Mẫu phóng ra một vệt ánh sáng xanh lam chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Ba ánh sáng trắng, đỏ, lam tan vào thân tâm của hành giả.)

Phần 11: Trì tâm chú Kim Mẫu

Cầm chuỗi hạt quán tưởng:

(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Diêu Trì Kim Mẫu đến trước mặt mình.

Chú ngữ:

Ôm chin-mủ sit-đi hùm.(108 biến)

Phần 12: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa

Cửu tiết Phật phong:

(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).

Quán tưởng Nhập ngã:

(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Hum), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.

Quán tưởng Ngã nhập:

Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Bổn tôn Diêu Trì Kim Mẫu, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.

Quán đếm hơi thở:

Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.

(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 13: Xuất định

Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.

Phần 14: Trì thêm những tâm chú khác

(Mỗi câu chú trì một lần, không cần kết thủ ấn, chắp tay là được.)

Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm pẩn-la-múa lin-thô-lin sô-ha. (Địa Tạng Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (tâm chú Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thí sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm. (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-hây sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)

Phần 15: Niệm Phật

Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Phần 16: Tụng bách tự minh chú:

Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây. (3 biến)

Phần 17: Hồi hướng

Gia trì tu pháp đạt thành tựu Trăm bệnh tiêu trừ phúc huệ tăng Mong cùng Bổn tôn hợp làm một Chúng sinh thế giới được an vui.

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

Đệ tử …….. nguyện đem công đức tu pháp này hồi hướng đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cầu nguyện Sư Phật thường trụ thế gian, không nhập niết bàn, mãi chuyển pháp luân, Phật thể an khang. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!

(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 18: Đại lễ bái

(Giống đại lễ bái ở phần 3.)

Phần 19: Niệm chú viên mãn

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

image

Giới thiệu pháp tướng Diêu Trì Kim Mẫu

Diêu Trì Kim Mẫu đội mũ phượng, tay trái cầm quả đào tiên hoặc gậy như ý, tay phải cầm cây phất trần, tướng mạo như Thiên Tiên, hình tướng thiếu nữ tuổi thanh xuân, ngồi trên cỗ xe cửu phụng, nét mặt tươi cười, pháp tướng trang nghiêm, ánh mắt hiền từ nhìn chúng sinh.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị lai lịch thù thắng và yếu quyết tu pháp của Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn

Vô Cực Diêu Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn (Diêu Trì Kim Mẫu) là một trong ba vị Bổn tôn của Chân Phật Tông Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, cũng là vị Bổn tôn đầu tiên mà Liên Sinh Hoạt Phật tu hành tương ứng. Từ buổi ban đầu, Diêu Trì Kim Mẫu đã khai mở thiên nhãn cho Liên Sinh Hoạt Phật, và ngài cũng là vị cao linh ở sau lưng Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.

Trong hang đá Đôn Hoàng, ba vị Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây Vương Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu), Hạng Quang Đồng Tử (Liên Hoa Đồng Tử) đứng ngang hàng, địa vị ngang bằng, chứng tỏ Liên Sinh Hoạt Phật (Liên Hoa Đồng Tử) và Diêu Trì Kim Mẫu có nhân duyên không thể tách rời.

Diêu Trì Kim Mẫu còn gọi là Tây Vương Mẫu, bởi vì ngài sống ở Diêu Trì Tiên Uyển, trên đỉnh Cương Phong núi Côn Luân, đồng thời vì ở phương tây, phương tây thuộc kim, cho nên gọi là Kim Mẫu. Tây Vương Mẫu và Kim Mẫu là đồng thể dị danh, tức là cùng một vị nhưng khác tên gọi, có người gọi là Vương Mẫu, có người gọi là Kim Mẫu.

Tại Nghi Nam, Sơn Đông Trung Quốc phát hiện thời kì Đông Hán trong những đồ cổ đào được thời kì đầu có khắc Diêu Trì Kim Mẫu Tây Vương Mẫu, Đông Vương Công (Đông Hoa Đế Quân), Hạng Quang Đồng Tử (Liên Hoa Đồng Tử).

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôn kính nhất là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, gọi Diêu Trì Kim Mẫu là vua của các Tiên - Tiên Vương.

Diêu Trì Kim Mẫu là Tiên Vương, A Di Đà Phật là Phật Vương, Địa Tạng Vương Bồ Tát là Địa Vương, đây là ba vị Bổn tôn tu hành của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.

Diêu Trì Kim Mẫu là một trong Ngũ Lão của Đạo gia, trấn thủ ở phương tây, cũng giống như một vị mẫu thân chăm nom tất cả sinh linh.

Ngũ Lão của Đạo gia - trung ương thuộc thổ, gọi là Hoàng Lão; phương đông thuộc mộc, gọi là Mộc Công Thượng Thánh; phương tây thuộc kim, gọi là Diêu Trì Kim Mẫu; phương nam thuộc hỏa, gọi là Hỏa Đức; phương bắc thuộc thủy, gọi là Thủy Quân hoặc Thủy Đức. Đạo gia Ngũ Lão có địa vị tương đương với Ngũ Phương Phật, cho nên địa vị của Diêu Trì Kim Mẫu rất cao quý, ngài tương đương với một vị Phật.

Trong tôn giáo của Trung Quốc từ xưa đến nay, một vị Đại La Kim Tiên cổ xưa nhất chính là Diêu Trì Kim Mẫu, vị duy nhất có thể vượt trên mọi vị Thiên Tôn, là vị Đại Thiên Tôn có pháp lực và uy lực vô cùng nhất.

Vì Diêu Trì Kim Mẫu là bậc Thượng Tiên, là vị Tiên căn bản vô thượng, trong “Liệt Tiên Truyện” có ghi chép về Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu là vị đứng đầu, là vị Thượng Tiên số một, ứng hóa thân của ngài gọi là Câu Hồi, báo thân của ngài chính là Diêu Trì Kim Mẫu, pháp thân của ngài là Tiên Thiên Nhất Khí Đại La Kim Tiên.

Sách Đạo ghi chép rằng, Huyền Huyền Thượng Nhân truyền pháp cho Đông Phương Mộc Công Thượng Thánh Thiên Tôn, sau đó Mộc Công truyền pháp cho Diêu Trì Kim Mẫu, Mộc Công gọi là Đông Vương Công, Diêu Trì Kim Mẫu gọi là Tây Vương Mẫu. Trong Đạo gia, Tây Vương Mẫu xưng với chúng sinh là Mẫu, tất cả nguyên linh là do Tây Vương Mẫu hóa ra.

Dựa theo Đạo gia tu Tiên và Phật giáo tam giới để phân biệt: Dục giới thiên — Địa Tiên. Sắc giới thiên — Thiên Tiên. Vô sắc giới thiên — Kim Tiên.

Phật giáo truyền vào Trung Quốc, cùng với Đạo giáo vốn có ở Trung Quốc đã triệt tiêu và thúc đẩy lẫn nhau, hình thành nên Phật giáo Trung Quốc. Lấy Mật giáo để nói, Vô thượng mật bộ và Nội pháp của Tạng Mật cùng với pháp khí công Đan đỉnh của Đạo gia rất gần với nhau, tu pháp có hơi khác nhưng hiệu quả như nhau.

“Diêu Trì Kim Mẫu Thu Viên Định Huệ Giải Thoát Chân Kinh” có mấy câu rất quan trọng, trong kinh văn giảng tu tinh khí thần: “Người có cái gốc vững chắc là gì, con người lấy hiếu đễ làm gốc, Đạo lấy tinh thần làm gốc.” Nho gia (Nho đạo) nói con người cần phải “lấy hiếu đễ làm gốc”, Đạo gia nói “lấy tinh thần làm gốc”, lấy tinh khí thần làm gốc, Mật giáo là “lấy khí, mạch, minh điểm làm gốc”, cũng là tinh khí thần, là cùng một thứ.

Trong kinh văn nói phải “trước trừ lục tặc, tai không nghe tiếng, mắt không nhìn sắc, thân không chạm bẩn, ý không chấp vật” chính là vô niệm, “mũi không ngửi bừa”, mũi không ngửi các thứ lung tung, “miệng không tham ăn”, miệng không ăn uống lung tung, miệng không tham ăn những đồ ngon lành. Phải trừ lục tặc trước, bởi vì hễ mê vào cái gì thì sẽ bị cái đó mê hoặc, đây chính là giặc trong người bạn, bạn sẽ không có cách nào thiền định được. “Thọ tưởng hành thức, ngũ uẩn tự minh”, đây là lời của Phật giáo. Đầu tiên trừ lục tặc cũng là lời của Phật giáo, sắc, thân, hương, vị, xúc, pháp chính là lục tặc, ngũ uẩn chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, một khi hiểu ngũ uẩn thì tinh khí thần chính là “tam gia hội hợp”, “trưởng dưỡng hoạt bát, trên dưới lưu thông, giải thoát đâu khó”, chính là khí, chỉ cần khí mạch của bạn đều thông, minh điểm có thể phát quang, tự nhiên có thể đắc đạo, có thể thành Phật thành Đạo. Mật giáo là khí, mạch, minh điểm, tương thông với tinh khí thần của Đạo gia.

Bởi vì Diêu Trì Kim Mẫu đã dẫn dắt tôi (Lư Sư Tôn) từ một phàm phu bình thường bước ra độ hóa chúng sinh, vị đầu tiên mà tôi (Lư Sư Tôn) tương ứng cũng là Diêu Trì Kim Mẫu. Tất cả mọi thứ cho đến nay, từ năm tôi 26 tuổi cho đến bây giờ, tất cả mọi thứ của tôi (Lư Sư Tôn) đều là Diêu Trì Kim Mẫu ban cho, cho nên Liên Sinh Hoạt Phật cảm tạ nhất là Diêu Trì Kim Mẫu.

Không có Diêu Trì Kim Mẫu thì không có Chân Phật Tông. Khởi nguồn của tất cả chúng ta đến từ Diêu Trì Kim Mẫu, đây cũng chính là cội nguồn pháp của Chân Phật Tông, của mọi pháp. Hôm nay có nhiều đệ tử như thế này, có True Buddha School Chân Phật Tông, có Sư Tôn, Sư Mẫu, có Thượng sư, giáo sư, pháp sư, giảng viên, trợ giảng, đường chủ, còn có các đồng môn, toàn bộ đều đến từ cội nguồn pháp Diêu Trì Kim Mẫu. Cho nên tôi mới nói, không có Diêu Trì Kim Mẫu thì không có Chân Phật Tông, không có Diêu Trì Kim Mẫu cũng không thể thay đổi vận mệnh cả một đời của tôi. Vận mệnh cả cuộc đời này của tôi đều do Diêu Trì Kim Mẫu thay đổi, nếu không có Diêu Trì Kim Mẫu thì ngày hôm nay Chân Phật Tông cũng không tồn tại.

Pháp của Diêu Trì Kim Mẫu mà Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn của Chân Phật Tông đích thân truyền vô cùng nhiều, ví dụ: Diêu Trì Kim Mẫu bổn tôn pháp. Diêu Trì Kim Mẫu bát đại pháp. Diêu Trì Kim Mẫu cửu chuyển huyền công. Diêu Trì Kim Mẫu sai khiến thần binh đại pháp. Diêu Trì Kim Mẫu thu tài chiêu tài pháp. Diêu Trì Kim Mẫu trạng nguyên khôi tinh đại pháp. Diêu Trì Kim Mẫu thủy cúng pháp. Diêu Trì Kim Mẫu lập tức có tiền pháp. Diêu Trì Kim Mẫu thế thân pháp. Diêu Trì Kim Mẫu thân phẫn nộ Hổ Đầu Kim Cang. Hắc Diện Kim Mẫu bất cộng đại pháp. Kim Diện Kim Mẫu bất cộng đại pháp. Biến Thân Kim Mẫu bất cộng đại pháp. Cửu Phụng Phá Uế chân ngôn pháp. Kim Quang phù chú. v.v…

image

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mục lục