📙

Mật giáo đại quang hoa

image

Mật giáo đại quang hoa

🪷 Giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh

Cuốn số: 662 Xuất bản năm: 1/1/2006 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

(Tập hợp các khai thị của Liên Sinh Hoạt Phật vào tháng 11/1992).

Xin chào các vị Thượng sư, các đồng môn. Cơ duyên ngày hôm nay vô cùng khó gặp, cũng xem như lần đầu tiên Biệt thự Cầu Vồng chính thức được sử dụng. Kể từ hôm nay tại đây sẽ thường xuyên có những hoạt động hoằng pháp. Bởi vậy trước hết tôi muốn giải thích thật rõ ràng chi tiết toàn bộ nghi quỹ của Mật pháp, nói cách khác là giảng thật chi tiết toàn bộ. Việc giải thích toàn bộ này chính là hy vọng tôi sẽ không bỏ sót bất kì điều gì trong nghi quỹ Mật pháp. Hơn nữa, tôi sẽ giảng toàn bộ những khẩu quyết và những gì bản thân tôi đã đạt được trong quá trình tu pháp của mình để cho mọi người có thể biết được, để mọi người có thể cùng có được những hiểu biết như vậy. Ý nghĩa của việc giảng giải chi tiết chính là giảng thật kĩ càng hết mọi thứ. Bởi vì tông phái của chúng ta hiện tại có 120 vạn đệ tử và ngày một tăng thêm. Nếu mỗi lần như thế này, tôi truyền dạy một lần sau đó người khác truyền lại, thậm chí tới người khác lại truyền lại thêm một lần nữa, như vậy càng truyền đi càng biến đổi, cuối cùng biến thành tam sao thất bản. Nên ý của tôi chính là muốn có thể giải thích Mật pháp rất rõ ràng, rất chi tiết để cho tất cả mọi đệ tử đều có thể hiểu thông hiểu thấu, từ đó dựa vào pháp này mà tu. Mỗi người sẽ đều có thể đạt được thành tựu tuyệt hảo, mỗi người sẽ đều có được sự học hỏi tốt nhất, đến cuối cùng mỗi người đều có thể thành Phật. Điều này là tối quan trọng. Trên thực tế, bản thân Mật pháp này chính là chân lý của vũ trụ, bởi vì nếu bạn dựa vào Mật pháp đích thực để tu, bạn chắc chắn sẽ có được trí huệ vô thượng. Ở đây có rất nhiều khẩu quyết quan trọng, trong quá trình giảng giải nghi quỹ không thể nào bỏ qua. Trước đây tôi đã viết trong sách rồi, đương nhiên cũng khá chu toàn rồi, nhưng cũng có rất nhiều thứ không thể nào viết ra bằng văn tự được, nói cách khác là trên văn bản không có cách nào để mô tả chi tiết, để viết ra một cách cực kì rõ ràng được. Nếu như rất nhiều đệ tử chỉ dựa vào sách để học như vậy, rồi nếu như họ dùng một cách hiểu khác để giải thích nghi quỹ này, thì rất dễ phát sinh những sai lệch. Bởi vậy nói tóm lại, những bài giảng mà chúng ta sẽ được học trong mấy ngày này có thể giúp mọi người có được khẩu quyết Mật pháp chính xác 24/11/1992 - Biệt thự Cầu Vồng, Mỹ.

01. Chuẩn bị trước khi tu pháp

Mỗi lần chúng ta bắt đầu tu pháp, nhất định cần tịnh thân. Thế nào gọi là tịnh thân? Ý nói ở đây chính là một sự chuẩn bị trước khi bạn tu pháp. Có rất nhiều người biết rằng trước khi tu pháp nhất định cần tắm rửa sạch sẽ hoặc trai giới. Vậy vì sao cần tắm rửa trai giới? Ý nghĩa của việc tắm rửa chính là để cho thân thể của bản thân sạch sẽ. Vậy còn trai giới thì sao? Chính là ăn đồ ăn thanh tịnh. Vậy thì trong khi tu pháp, đương nhiên không nên ăn quá no. Nếu như bạn vừa mới ăn no xong mà lại tiến hành tu pháp luôn thì bụng căng tức. Nhưng nếu để bụng quá đói cũng không tốt. Do đó nên chọn thời gian để tu pháp là lúc không quá no, không quá đói. Ngoài ra, trước khi tu pháp bạn cần đánh răng súc miệng, mà tốt nhất vẫn là tắm một cái. Khi tắm thì cần rửa tay, như vậy sẽ làm cho toàn bộ thân thể sạch sẽ. Nếu cần ăn thì nên ăn thức ăn thanh tịnh, việc này thuộc về phương diện trai giới. Tất cả những điều này biểu hiện cho việc bạn cần thanh tịnh thân khẩu ý trước tiên. Khi bước vào đàn thành cần trang nghiêm cung kính, yên tĩnh, thân tâm của bạn cần thư giãn nhẹ nhàng. Nói như vậy không có nghĩa là đi vào bên trong là để chuẩn bị đi ngủ, mà là thân tâm của bạn cần thoải mái, thả lỏng, việc này rất quan trọng. Nếu bạn vừa mới đi từ bên ngoài, chạy hoặc đi bộ ở sân tập thể dục, vừa về nhà còn đang thở hồng hộc mà bạn lập tức đi vào đàn thành để tu pháp ngay thì sẽ không có cách nào làm tâm của bạn yên tĩnh lại được. Hoặc ví dụ bạn vừa mới cãi nhau gay gắt với người nhà, máu dồn lên hừng hực, lúc này mà đi vào Mật đàn tu pháp thì cũng chẳng có cách nào an tịnh được. Hoặc khi bạn có rất nhiều việc lo lắng phiền não, vừa nghe được rất nhiều tin tức xấu, vào lúc rất lo lắng này mà bạn vào Mật đàn tu pháp cũng sẽ rất khó có được tương ứng. Nói cách khác, khi bạn vào Mật đàn, không những thân thể cần sạch sẽ mà suy nghĩ của bạn cũng cần phải bình tịnh như nước. Khi hồ nước không có gió thổi thì mặt nước hồ sẽ bình lặng như tấm gương. Dùng tâm trạng này để tu pháp thì rất dễ có được cảm ứng. Lúc khí huyết đảo lộn lung tung, lúc rất tức giận, hoặc trong lòng có rất nhiều lo lắng phức tạp đều rất khó tu pháp. Thân tâm thư giãn, không vướng bận việc gì cả, khi đó hãy vào đàn thành để tu pháp.

02. Trước khi bắt đầu tu pháp

Khi chúng ta bước vào Mật đàn tu pháp, trước khi bắt đầu, chúng ta thường làm động tác vỗ tay. Thế nhưng khi chúng ta cùng tu thì lại không làm như vậy. Việc vỗ tay này là một động tác để bắt đầu. Vỗ tay chính là cần vỗ hai cái. Tác dụng của việc vỗ tay là "đánh thức", biểu thị rằng bạn sắp bắt đầu tu pháp. Ý nghĩa của việc đánh thức là thỉnh mời Phật Bồ Tát ở tại đàn tràng hoặc trong hư không xin hãy chú ý đến việc bạn sắp tu pháp. Bởi vậy mới gọi là đánh thức. Cuối cùng, khi bạn muốn rời khỏi đàn thành hoặc muốn ngồi xuống, bạn cũng vỗ tay như vậy. Việc này cũng là đánh thức, để thông báo với các vị rằng bạn sắp rời đi. Ý nghĩa khác của việc đánh thức chính là giải tán, ý nói rằng: Tôi đã tu pháp xong rồi, xin mời tất cả chư Phật Bồ Tát có thể đi nghỉ ngơi, các vị có thể tự do rồi. Ý nghĩa của việc vỗ tay khi ngồi xuống tu pháp và đứng dậy sau khi tu xong chính là như vậy đấy. Cũng có người bắt chéo hai tay rồi búng ngón tay. Vỗ tay xong thì bắt chéo tay rồi búng ngón tay một cái. Hai việc này có ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Trong Mật giáo có nhiều nghi quỹ rất lạ và ảo diệu. Nói về việc vỗ tay, rất nhiều người đều cho rằng thật ra bạn không cần phải vỗ tay vẫn có thể tu pháp như thường, giống như lúc nãy chúng ta cùng đồng tu đều không vỗ tay. Trên thực tế, ngay khi chúng ta khi tập trung lại, Phật Bồ Tát cũng biết chúng ta sắp bắt đầu cùng tu rồi. Nhưng khi chỉ có một mình cá nhân bạn "len lén" đi vào trong Mật đàn, Phật Bồ Tát sẽ không thấy bạn. Hoặc giả bạn sắp bắt đầu tu rồi nhưng Phật Bồ Tát không chú ý đến bạn, vậy thì bạn vỗ tay chính là để biểu thị một dạng bắt đầu, một kiểu đánh thức. Sau cùng lại một lần vỗ tay (hai cái) nữa, biểu thị rằng tu đến đây là kết thúc rồi. Hành động vỗ tay này có ý nghĩa nghi quỹ sâu xa của nó trong đó.

03. Thanh tịnh

Khi sắp bắt đầu tu pháp, chúng ta đều biết rằng cần niệm chú thanh tịnh. Thanh tịnh ở đây chính là làm thanh tịnh thân khẩu ý. Ngoài ra còn cần niệm thêm An thổ địa chân ngôn. Niệm An thổ địa chân ngôn chính là để phụng thỉnh tất cả các Thổ Thần đến để hộ trì và bảo vệ bạn tu pháp. Lúc bắt đầu, chúng ta niệm: (Thanh tịnh thân khẩu ý) Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. (An thổ địa chân ngôn) Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha. Khi niệm những câu chú này, rất nhiều người hỏi có cần phải quán tưởng không, có cần phải kết thủ ấn không. Đúng là trong nghi quỹ của Mật giáo, thường khi trì chú cần phải có quán tưởng và kết thủ ấn. Khi quán tưởng, trì chú, kết thủ ấn cùng thực hiện đồng thời thì chúng ta có thể gọi là Tam mật hợp nhất. Nhưng trong tông phái của chúng ta, khi niệm chú thanh tịnh thì không có. Chúng ta trì chú là được rồi, việc kết thủ ấn và quán tưởng ở đây là không cần thiết. Bởi vì khi niệm chú thanh tịnh là bạn đã thanh tịnh thân khẩu ý của bạn luôn rồi. Lúc vừa mới vào Mật đàn, trước đó làm các công việc thanh tịnh, nghĩa là bạn đã trai giới, tắm rửa. Thân đã thanh tịnh, khẩu đã thanh tịnh do bạn đã đánh răng súc miệng, ý đã thanh tịnh do bạn đã làm xong việc điều chỉnh lại tâm ý của mình, gạt đi mọi phiền não lo lắng, tức giận và những tạp niệm ra bên ngoài đàn thành hết rồi. Thân tâm của bạn đã thư giãn, do vậy khi bạn đi vào trong đàn thành, không thể nào lại có tạp niệm hoặc tức giận. Tất cả những phiền não đều phải bỏ ra bên ngoài đàn thành, thân tâm hoàn toàn thư giãn thả lỏng. Đây là bước thứ nhất, chúng ta niệm xong chú thanh tịnh này thì có thể nói là đã làm xong bước một, làm xong bước một là có thể lắc chuông kim cang rồi.

04. Triệu thỉnh

Tiếp theo là triệu thỉnh. Ở đây khi triệu thỉnh có một điều rất quan trọng, đó chính là khẩu quyết, bí quyết, kinh nghiệm tu pháp của Sư Tôn. Bình thường khi chúng ta triệu thỉnh sẽ cần niệm chú triệu thỉnh, chắp tay lại, đọc ba lần: "Ôm ah hùm sô-ha." Bạn triệu thỉnh chủ tôn ở trong Mật đàn, triệu thỉnh các chư vị khác, thậm chí triệu thỉnh thêm tất cả quyến thuộc. Hoặc có thể thỉnh tất cả các vị Phật của thập phương tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai), tất cả các vị Bồ Tát Ma Ha Tát. Đầu tiên phải triệu thỉnh: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Tiếp đó cần xem trong Mật đàn của bạn vị chủ tôn là ai thì bạn triệu thỉnh vị đó đến. Dùng ý niệm để triệu thỉnh. Trong Mật thừa, triệu thỉnh thường được thực hiện bởi sự kết hợp giữa thủ ấn, thần chú và quán tưởng. Hiện nay chúng ta tu pháp chỉ là chắp tay lại để niệm chú triệu thỉnh. Đây là dùng ý niệm để triệu thỉnh. Thế nào gọi là dùng ý niệm để triệu thỉnh? Khi bạn chắp tay lại, bạn quán tưởng Tâm luân mở ra trở thành một đóa hoa sen. Trong hoa sen có một nguyệt luân, trong nguyệt luân có chủng tự Bổn tôn của bạn. Giả sử nếu đó là Phật A Di Đà thì sẽ là chữ "Seh". Chính là chữ Seh này in trên nguyệt luân của bạn.

image

[Seh, đọc là "sê" là đọc theo tiếng Tạng. Theo Ấn Độ cổ đại, chủng tự này là "Hrih", đọc là "hật rị". Theo các chú ngữ của riêng Sư Tôn sau này chúng ta cũng sẽ gặp nhiều cách đọc là "chui", "chuây", hoặc "chu li".] Lúc này bạn quán tưởng tâm của bạn biến thành một đóa hoa sen, ở trong hoa sen có một chữ Seh, có một nguyệt luân, ở trong nguyệt luân có một chữ Seh. Chữ Seh này theo màu sắc của Bổn tôn mà phóng quang ba lần. Trong trường hợp này, bạn là A Di Đà Phật, màu sắc của ngài là màu đỏ, phóng ánh sáng đỏ ba lần, đi qua trung mạch, xuyên lên đỉnh đầu, rồi đi ra khỏi đỉnh đầu phóng vào hư không ba lần. Việc này chính là dùng ý nghĩ của bạn để triệu thỉnh. Khi sử dụng niệm chú để triệu thỉnh: "Ôm ah hùm sô-ha" (3 biến), đồng thời lúc niệm này, bạn có thể dùng ý quán tưởng làm cho hoa sen ở Tâm luân nở ra, trong bông hoa sen có nguyệt luân, trong nguyệt luân có chú tự phóng ra ánh sáng đỏ ba lần. Sự quán tưởng của bạn ở đây chính là dùng ý để triệu thỉnh. Để triệu thỉnh, còn có thể dùng thủ ấn và dùng chú ngữ. Khi miệng chúng ta niệm lên chính là dùng chú ngữ để triệu thỉnh. Thậm chí khi bạn chỉ cần phụng thỉnh: "Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật." Hoặc nếu chủ tôn của bạn là Diêu Trì Kim Mẫu, thì phụng thỉnh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, cũng chính là bạn đã triệu thỉnh rồi.

🌟

Mỗi lần tôi ăn cơm cũng đều triệu thỉnh chư vị. Kì thực việc triệu thỉnh của riêng tôi rất đơn giản, có lúc tôi chẳng phụng thỉnh, lại cũng không niệm bất kì chú ngữ gì. Với tôi mà nói, mỗi lần ăn cơm mà lại phải nói một câu "Ôm ah hùm sô-ha" thì thật phiền phức. Phật Bồ Tát chính là ở xung quanh ta mà thôi, bạn chỉ cần chắp tay lại: "Xin mời các ngài ăn cơm, xin mời các ngài ăn cơm", chính là chỉ niệm đơn giản như vậy. Các vị lập tức liền nghe thấy. Mỗi lần ăn cơm tôi đều vỗ tay: "A! Thỉnh các ngài tới đây, các ngài ăn cơm thôi", chính là như vậy, rất đơn giản. Tôi chỉ cần phát khởi suy nghĩ của mình, các vị đều rất dễ cảm nhận được, các vị ở rất gần, hơn nữa việc này rất bình thường với tôi.

🌟

Quay lại với các bạn. Vì sao chúng ta lại niệm câu chú "Ôm ah hùm sô-ha" này? Kì thực câu chú này là vĩ đại nhất. Ba chữ "Ôm ah hùm" chính là Tam tự chú, đại diện cho vũ trụ. “Ôm” chính là vũ trụ, “Ah” chính là Phật, “Hùm” chính là thành tựu. “Sô-ha” cũng như là Amen, chính là xin thỏa mãn lời ước nguyện trong tâm. Lúc này, khi khởi đầu tu tập trong đàn thành, bạn muốn gì? Chẳng phải trong tâm bạn có mong muốn triệu thỉnh các vị sao, chẳng phải đó là ước nguyện trong tâm sao? (Ví dụ nguyện ước trong tâm tôi ngay bây giờ là mong muốn được thành tựu Phật Bồ Tát đó!) Triệu thỉnh các vị, phụng thỉnh tất cả đến đây. Câu chú này được dùng làm chú triệu thỉnh, là câu chú vĩ đại nhất. Vốn dĩ câu chú này là để triệu thỉnh Ngũ Phương Phật, nên khi triệu thỉnh mà niệm câu chú này thì các vị từ Ngũ Phương Phật trở xuống đương nhiên đều sẽ nghe được, các vị sẽ đều đến hết. Bởi vậy việc sử dụng câu "Ôm ah hùm sô-ha" chính là tương đương với việc triệu thỉnh tất cả chư tôn của toàn bộ vũ trụ. Nhắc lại, đây là câu chú vĩ đại nhất. Còn nếu dùng thêm ý để triệu thỉnh cũng vô cùng tốt. Trong suy tưởng bạn chắp tay lại, Tâm luân mở ra thành bông hoa sen, bên trong có nguyệt luân, nguyệt luân có chú tự, phóng ánh sáng ba lần. Nếu bạn có thể quán tưởng được như vậy, mà quán tưởng được rất rõ ràng thì Phật Bồ Tát nhất định sẽ tới. Đây là Mật pháp rất quan trọng, tối quan trọng: hoa sen, nguyệt luân, chú tự, phóng quang.

🌟

Kinh nghiệm trong tu Mật giáo là triệu thỉnh có thủ ấn càng hiệu quả. Chúng ta còn có thể dùng ấn triệu thỉnh. Cách này tôi chưa từng dạy cho mọi người. Trước đây hầu hết mọi người khi triệu thỉnh thì chắp tay lại, chỉ dùng chú để triệu thỉnh, thậm chí còn không dùng ý để triệu thỉnh. Hôm nay ở đây tôi đã dạy mọi người cách dùng ý để triệu thỉnh rồi. Ngoài ra còn có thể dùng ấn triệu thỉnh. Là thế nào? Chính là dùng thủ ấn. Thế chắp tay có phải là thủ ấn không? Chắp tay là thủ ấn để xin đáp ứng nguyện ước trong lòng mình, có ước mong trong tâm mình thì chắp tay lại. Nhưng bây giờ, bạn có thể dùng hai bàn tay đan ngoại phộc, rồi dùng móc câu - để tạo ra thủ ấn móc kim cang.

🌟

Giả định bạn đã niệm chú rồi, nhưng Phật Bồ Tát vẫn không đến, rồi suy nghĩ quán tưởng lại cũng không rõ ràng. Đã niệm chú rồi nhưng niệm không thành tâm thì sẽ không thể làm thanh tịnh chú này được. Như vậy dù bạn đã niệm xong chú thanh tịnh, cũng niệm xong cả chú triệu thỉnh, thì từ đầu tới cuối cũng không thực sự được thanh tịnh cho lắm. Việc dùng ý quán tưởng cũng có thể không chuẩn xác, ví dụ bông hoa sen trong tâm bạn bị nghiêng sang một bên. Như vậy chẳng còn cách nào khác là tôi đành phải dạy thêm các bạn dùng ấn. Dùng thủ ấn Móc kim cang chính là dùng ấn để triệu thỉnh.

image
image

Hình ảnh thủ ấn móc kim cang như hình trên, là hình một cái móc. Làm ấn ngoại phộc rồi dùng thêm ngón trỏ tay phải để làm thành hình móc câu. Ở đây chúng ta cũng dùng quán tưởng, tay kết ấn, miệng niệm: "Nam mô Kim Cang Câu Bồ Tát Ma Ha Tát" niệm 3 lần. Quán tưởng chiếc móc câu này bay thẳng lên giữa không trung, ở nơi rất cao rất cao. Bổn tôn ở trên mây cao giữa không trung, do vậy bạn cần quán tưởng ở trên mây có Bổn tôn, chiếc móc câu này sẽ bay lên không trung và móc vào đám mây kéo xuống. Chiếc móc câu này không được móc vào cổ áo của Phật Bồ Tát đâu nhé, đừng có làm sai, chỉ có thể móc vào đám mây của ngài thôi, hoặc có thể móc vào pháp tọa của ngài.

🌟

Trong Mật pháp có nhiều thứ rất vi diệu, hôm nay tôi chính là đang giảng về một thứ rất vi diệu như vậy cho mọi người biết. Mặc dù chỉ là một loại ý niệm, một loại nghi quỹ, nhưng có thể biến thành hiện thực. Bạn phụng thỉnh "Namo Kim Cang Câu Bồ Tát Ma Ha Tát" ba lần, để cho móc câu lớn lên vươn tới hư không, vượt qua các tầng mây với tới đám mây của Phật Bồ Tát, kéo xuống dưới, các vị sẽ từ phía trên hạ giáng, đây chính là bí mật. Khẩu quyết (bí mật, bí quyết) chính là ở đây.

🌟

Vào đàn thành tu pháp, phụng thỉnh Phật Bồ Tát, nhưng các bạn đều viết thư tới hỏi tôi: "Sư Tôn ơi mỗi ngày con tu pháp, không biết Phật Bồ Tát có đến không?" Tôi nói: "Bạn thế là tiêu rồi! Mỗi lần bạn tu pháp đều không biết Phật Bồ Tát có đến hay không, tâm của bạn rốt cục đã dùng vào chỗ nào mất rồi?" Bạn phụng thỉnh Phật Bồ Tát chư Tôn, Phật Bồ Tát sẽ phải đến, làm sao lại không đến chứ? Chính là vì bản thân bạn dụng tâm chưa đủ, phải dùng chú thỉnh, dùng ý thỉnh, còn dùng ấn thỉnh. Dùng ấn thỉnh là một cách phụng thỉnh vô cùng vi diệu. Dùng ý thỉnh cũng vô cùng vô cùng vi diệu nữa. Hôm nay tôi đã nói hết cho mọi người biết về mọi khẩu quyết và tâm yếu rồi, chính là hy vọng 120 vạn đệ tử chúng ta ai ai cũng có thể thành Phật, chứ không phải là tu mấy năm vẫn chẳng có cảm ứng gì, hoặc là càng tu lại càng không muốn tu, chẳng khác nào đi vào trong đàn thành lãng phí mất nửa tiếng, bốn mươi phút, một tiếng đồng hồ. Như thế đi vào trong đàn thành sẽ giống như đi vào trong hầm trú ẩn vậy, trốn máy bay một lúc. Nghiêm trọng hơn nữa là đi vào đàn thành cũng giống như đi ra ngoài cãi nhau một trận, hoặc là đi vào trong đàn thành để ngủ gật một lúc vậy.

Tương ứng - Phật Ngã hợp nhất.

Tu pháp cần rất chân thực. Bạn vào trong đàn thành tu thì cần phải đạt được Trời - Người hợp nhất hoàn toàn, liên kết giao tiếp được với Phật Bồ Tát. Hôm qua chúng ta đã nói: hít thở bằng cùng lỗ mũi. [Ý rằng bằng việc hợp nhất với Phật Bồ Tát thì ta sẽ cùng với các ngài hít thở bằng cùng lỗ mũi. Hơi thở của Phật Bồ Tát chính là hơi thở của ta, hơi thở của ta cũng chính là hơi thở của Phật Bồ Tát.] Hít thở bằng cùng lỗ mũi chính là biểu thị ở trong Mật đàn, Phật và ta hợp nhất, ở cùng nhau. Bạn không thể tu cả nửa ngày trời mà ta vẫn là ta, Phật vẫn là Phật. Phật có đến không? Không biết! Không biết là coi như xong rồi đấy. Hôm nay tôi dạy mọi người cách triệu thỉnh, đây là pháp cực kì quan trọng. Bạn đã biết cách dùng móc câu, không chỉ có thể kéo các vị xuống, mà còn có thể gọi các vị xuống trước mặt ta. Không chỉ gọi các vị xuống trước mặt ta mà các vị còn đi vào trong tâm ta. Không chỉ đi vào trong tâm ta mà bạn còn biến thành các vị nữa! Đây mới được gọi là Mật giáo, mới được gọi là tương ứng. Bạn tu Thượng sư tương ứng pháp, tu Bổn tôn pháp, bạn đều cần phải biến thành các vị, chứ không phải Phật là Phật, ta là ta, hai đối tượng tách biệt.

🌟

Khẩu quyết của việc triệu thỉnh - khí động. Ở đây vẫn còn có chỗ vi diệu nữa. Đó là các vị đến hay không đến bạn cần phải biết rõ ràng. Bổn tôn ở trên các tầng mây trong hư không. Giả sử Quan Thế Âm Bồ Tát là Bổn tôn của bạn, bạn chú ý có thấy thiên y màu trắng của ngài chuyển động không? Bạn hãy chú ý một chút, mắt của ngài có cử động không? Bạn còn cần chú ý đến chân của ngài. Rồi đám mây của ngài có bay đến trước mặt bạn không, chân của ngài có chuyển động không. Đây là một khẩu quyết rất quan trọng, cực kì quan trọng. Bạn dùng móc kim cang, câu ngài đến, sau đó bạn dùng ý niệm để quán tưởng ngài, tưởng tượng thiên y của ngài chuyển động, tưởng tượng nước trong tịnh bình của ngài đang quán đảnh cho bạn, tưởng tượng chân của ngài đang chuyển động, đang bay múa, tưởng tượng ánh mắt ngài đang nhìn bạn, đang chú ý đến bạn, tưởng tượng mũ miện của ngài, thậm chí là xiêm y pháp của ngài đều đang bay bay trong gió. Đây chính là chuyển động của Bồ Tát. Bởi vì có được chuyển động này thì mới xác định là ngài đã đến. Lúc đó những việc này đều sẽ biến thành hiện thực.

🌟

Trước đây trong lúc tu pháp chúng ta niệm: "Ôm ah hùm sô-ha" 3 biến xong thì lắc chuông kim cang, nhưng lại không biết rằng trong câu chú này vốn có nhiều thứ ảo diệu như vậy, cũng có ý, có ấn, có chú, có tất cả mọi cách triệu thỉnh. Đó là các khẩu quyết bí mật trong Mật giáo. Vào thời điểm cấp bách, thời điểm chúng ta gặp phải sự việc rất khẩn, cần triệu thỉnh rất nhanh, bạn có thể sử dụng cùng lúc tất cả mọi cách triệu thỉnh này. Đầu tiên dùng chú, sau đó là móc kim cang, và tiếp đó quán tưởng chư vị thật sống động. Dấu hiệu nhận biết chư vị hạ giáng Có nhiều bạn vẫn không biết liệu các ngài có đến không. Vậy bạn cần phải tu tập đến trình độ nào để biết được? Khi bạn triệu thỉnh các ngài, nếu các ngài rẩy nước chú (nước cam lộ) lên bạn hay khi ánh sáng trắng vừa chiếu tới bạn, bạn sẽ lập tức có cảm giác tê tê như có dòng điện chạy. Bạn sẽ có cảm giác, có cảm nhận ngay. Giờ thì bạn sử dụng cả ba cách thức, đã dùng ý triệu thỉnh rồi, niệm chú cũng đã niệm rồi, móc kim cang triệu thỉnh ấn cũng đã làm rồi, cũng quán tưởng Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển động trong gió, thiên y đều bay bay, nước chú quán đảnh cho bạn, ánh mắt ngài cũng nhìn bạn rồi, tất cả đều đến trước mặt bạn. Bạn đã làm đủ hết mọi thứ hoàn chỉnh rồi. Tới lúc này, bạn chỉ cần thực sự thả lỏng mở tâm mình ra, thực sự dùng toàn bộ ý niệm chí thành của bạn để tu pháp thì khi các ngài từ bi rẩy nước cam lộ, bạn sẽ thấy cảm giác tê tê.

🌟

Bạn đừng thấy Sư Tôn chắp tay triệu thỉnh các vị Phật Bồ Tát chư tôn một cách rất thoải mái và tùy ý: "Xin mời cả nhà ăn cơm đi! A Di Đà Phật mời ăn cơm, Quan Thế Âm Bồ Tát mời ăn cơm, Đại Thế Chí Bồ Tát mời ăn cơm!" mà nghĩ rằng Sư Tôn qua loa cho xong nhé. Tôi biết rất rõ chư vị có tới hay không tới. Chứ không phải tôi cứ "nói mời" xơi xơi vậy, rồi mặc kệ không quản, cứ ăn uống mà không cần biết chư vị có hạ giáng hay không. Nhưng cũng có lúc (tôi thỉnh) các vị không đến, vì sao lại thế? Bởi vì tôi ăn được nửa bữa cơm rồi mới nhớ ra là cần triệu thỉnh. Do thức ăn ngon quá, thế là tôi cứ tới tới tới, đũa cứ gắp gắp gắp, ăn ăn ăn. Oa! Lúc này mới nhớ ra là mình chưa triệu thỉnh, lập tức liền vỗ tay mời các vị lại từ đầu. Ha! Nhưng các vị chẳng tới! Có những lúc khác tôi cảm thấy rất có lỗi, nhưng tôi thấy Sư Mẫu từ bên cạnh đi tới, bà cầm một đĩa thức ăn, thức ăn đó vẫn chưa ai động tới. Tôi liền lấy đĩa đó rồi triệu thỉnh các vị xuống để cúng dường đồ ăn trong đĩa này. Và chư vị liền hạ giáng. Vì vậy, bạn cần phải thấy rõ được các vị có tới hay không tới. Giả sử hôm nay nếu tôi không biết chư vị có tới hay không, nhưng tôi lại cứ ngồi ở đây nói với mọi người là "Tôi biết đấy", thì tôi sẽ trở thành nói khoác. Trong quá trình tu pháp mỗi ngày, Phật Bồ Tát có quán đảnh, gia trì cho bạn hay không, tôi nói là tôi biết. Vậy hôm nay trước mặt Phật Bồ Tát, giả dụ tôi giảng là "Tôi biết" nhưng Phật Bồ Tát ở phía sau lại nói: "Thực sự ông cũng chẳng biết", thì đúng là tôi trở thành nói dối, vọng ngữ.

🌟

Mỗi ngày tu pháp, ở trước mặt Phật Bồ Tát, bạn cần phải biết rõ mình có đang được các vị quán đảnh cho mình, gia trì cho mình, sờ đầu mình, phóng quang đến mình, rẩy nước chú đại bi cho mình, làm thanh tịnh thân tâm của mình hay không. Một hành giả chân chính sẽ biết được điều này, bởi cảm giác mà bạn nhận được này rất kiên minh. Kiên minh là thế nào? Kiên là kiên cường, kiên cố, minh là cực kì rõ ràng, không phải giống như người Quảng Đông hay nói rằng "hình như thế, có vẻ thế, gần gần thế, hình như có, hình như không có". Bạn nghĩ sao? Có là có, không có là không có. Nó là một kiểu xúc giác, một kiểu chạm vào, một kiểu tiếp xúc, rất rõ ràng, không phải là "hình như có rồi lại hình như không có". Có người nói hôm nay cảm thấy tu hành rất tốt, tôi hỏi tốt như thế nào? Người đó nói: "Thân thể rất nhẹ." Đương nhiên là anh thấy nhẹ rồi. Gần đây bụng dạ không tốt, không ăn cơm, gầy đi một chút, thân thể đương nhiên là nhẹ rồi. "Cảm thấy rất an." An chính là rất bình an, đương nhiên là an rồi, anh ở trong đó ngủ một giấc mà, chẳng cần nghĩ ngợi gì cả. Không phải là như vậy đâu! Tuyệt đối không phải là những biểu hiện này. Bởi thế việc triệu thỉnh cho đúng là vô cùng quan trọng, khẩu quyết của nó nằm ở những chuyển động của Phật Bồ Tát, tay chân phải có chuyển động, thiên y lay động, mắt cử động, các vị thực sự giáng lâm. Điểm chính yếu nằm ở đây.

🌟

Khẩu quyết lúc khẩn cấp. Vào lúc thực sự khẩn cấp, Mật giáo dạy rằng cần vỗ vào đùi chân phải một cái, rồi vỗ vào đùi chân trái một cái. Vì sao lại vỗ đùi? Bởi vì chân biểu trưng cho hành động, vỗ đùi của chính bạn sẽ cảm ứng Phật Bồ Tát tới để hành động. Đây cũng chính là một bí mật. Lại có pháp giảng rằng, ở trong chân phải, chân trái của bạn ẩn giấu 500 Không Hành Dũng Phụ (Dakas) và 500 Không Hành Dũng Mẫu (Dakinis). Trong Mật giáo, Không Hành Dũng Phụ và Không Hành Dũng Mẫu đều có sự tương ứng với chân phải, chân trái của hành giả Mật tông. Bạn vỗ đùi chính là thỉnh cầu sự hành động, thì Không Hành Dũng Phụ và Không Hành Dũng Mẫu sẽ hành động, sẽ tới để giúp bạn. Bạn có vấn đề khó khăn gì, bạn cứ nói với chư vị. Vào lúc không đủ thời gian để thực hiện nghi quỹ triệu thỉnh, những lúc cấp bách nhất, bạn có thể vỗ đùi chân phải chân trái. Đây chính là một điều tôi tâm đắc, cũng là một khẩu quyết. Lúc không thực sự cấp bách thì không được dùng chiêu này. Còn bình thường chúng ta triệu thỉnh chỉ dùng ý, dùng chú, dùng ấn, sau đó quán tưởng y phục của các vị chuyển động, pháp khí chuyển động, mắt cử động, chân cử động là được rồi. Đây chính là bí mật, bí quyết của triệu thỉnh, tâm yếu của triệu thỉnh.

🌟

Vì sao bây giờ Sư tôn mới giảng? Nhưng vì sao trước đây trong sách tôi không viết ra tỉ mỉ như vậy? Vì sao lại không nói chi tiết cho mọi người? Là bởi vì giả sử tôi viết hết sạch ra những khẩu quyết mà tôi trải nghiệm được này thì sẽ có rất nhiều đệ tử không thể trong chốc lát mà làm nhiều bước cùng lúc như vậy được. Vì khi ngồi xuống tu tập, chỉ riêng việc triệu thỉnh đơn giản thì họ cũng đã mất đứt nửa tiếng đồng hồ. Bạn nói xem có đúng không? Tôi chỉ mới giảng đến bước thứ hai thôi, bạn đã thấy phải dùng đến rất nhiều công đoạn như vậy rồi. Trên thực tế, trong việc tu học Mật pháp, tôi hy vọng rằng, sau khi các bạn đã luyện tập thành thạo, quen thuộc các bước cơ bản rồi thì mới bổ sung, giảng lần lượt từng thứ trọng yếu, từng vấn đề trọng điểm để các bạn có thể dễ dàng hiểu rõ. Nếu không làm theo cách như thế, không để trải qua một khoảng thời gian cho bạn thực hành đủ mà đã giảng kĩ ngay, thì sẽ có rất nhiều người thấy Mật pháp rất hay, rất tỉ mỉ, nhưng lại dài quá. Họ không cảm thấy muốn thực hành quá công phu như vậy. Ngay từ đầu họ đã cảm thấy muốn thoái lui rồi. Bởi vậy nên tôi tách ra cần niệm chú thanh tịnh, rồi niệm chú triệu thỉnh, thì giải thích sẽ đơn giản hơn. Đợi tới khi mọi người có thể thâm nhập sâu hơn rồi thì có thể dùng đến những cách thức này. Sau đó tôi sẽ lại tiếp tục phân tích những chi tiết này tỉ mỉ hơn. Rồi từ việc bản thân hiểu một cách thấu đáo, bạn sẽ từ từ tu, từ từ tiến vào những cảnh giới như thế. Ngoài ra, sau khi mọi người đã tu trì một khoảng thời gian, quay lại học những khẩu quyết, tâm đắc này lại càng có thể gia tăng mức độ sâu sắc của việc thực hành pháp và tu pháp của mình, toàn bộ đều sâu hơn. Triệu thỉnh cần thực hành như vậy, mọi người đã hiểu rõ chưa? Phần này rất quan trọng.

🌟

Chú Kim Cang Tát Đỏa để triệu thỉnh. Ngoài ra còn có một thần chú triệu thỉnh, các bạn đã từng biết hay đã từng niệm qua chưa? Đó là chính là chú Kim Cang Tát Đỏa cũng có thể triệu thỉnh được. Lúc trước chúng ta đã nói về thần chú "Ôm ah hùm sô-ha" để triệu thỉnh Ngũ phương Phật. Các vị từ Ngũ phương Phật trở xuống, toàn bộ đều triệu thỉnh được. Nhưng bên cạnh đó, nếu bạn dùng chú Kim Cang Tát Đỏa "Ôm, ma-ha sa-may-a, sô-ha. Ôm ma-ha, sa-may-a, hùm, ah" thì cũng triệu thỉnh được. Vì sao có thể dùng chú Kim Cang Tát Đỏa để triệu thỉnh? Bạn có biết vị Phật Nguyên Thủy - Phật A Đạt Nhĩ Mã còn được gọi là Kim Cương Tổng Trì không? Ngài ở địa thứ 16 (cấp độ, địa vị thứ 16). Nếu đem so sánh thì bình thường Hiển giáo chỉ nói tới có 10 địa [thập địa Bồ Tát], còn Phật A Đạt Nhĩ Mã thuộc về địa thứ 16. Ngũ phương Phật còn được gọi là Ngũ Đại Kim Cương Trì hay là năm vị Kim Cương Trì. Còn Kim Cang Tát Đỏa chính là vị Kim Cương Trì thứ sáu, là hóa thân tổng hợp của năm vị Kim Cương Trì. Các hóa thân tổng hợp lại chính là vị Kim Cương Trì thứ sáu này. Vì vậy, triệu thỉnh bằng chú Kim Cương Tát Đỏa là vĩ đại tương đương với triệu thỉnh Ngũ Đại Kim Cương Trì, Ngũ phương Phật. Do đó ta hoàn toàn có thể dùng tên gọi Kim Cang Tát Đỏa để triệu thỉnh, ở đây có nguồn gốc của nó. Trước hết chúng ta cần biết Phật A Đạt Nhĩ Mã còn được gọi là vị Phật Nguyên Thủy, khi phiên âm ra tiếng Trung thì được gọi là Phổ Hiền Vương Như Lai. Trong Kim cương thừa thì ngài được gọi là Kim Cương Tổng Trì. [Phật A Đạt Nhĩ Mã = Phổ Hiền Vương Như Lai = Bản Sơ Phật = Samantabhadra = Kuntu Zangpo = Kim Cương Tổng Trì = Principal Vajradhara = Adi Buddha = Primordial Buddha. Đây là các tên gọi khác nhau của cùng một vị.] Vậy thì Ngũ phương Phật chính là Ngũ Đại Kim Cương Trì, đều được gọi là Kim Cương Trì, vị Kim Cương Trì thứ sáu chính là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva). Hai chữ Tát Đỏa cũng tương đương với chữ Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát mà chúng ta vẫn gọi có thể được gọi thành Quan Âm Tát Đỏa, Chuẩn Đề Bồ Tát có thể được gọi thành Chuẩn Đề Tát Đỏa, Liên Hoa Sinh Bồ Tát có thể được gọi thành Liên Hoa Sinh Tát Đỏa. [Tát Đỏa là phiên âm của từ Sattva, còn có nghĩa là chiến binh. Bồ Tát chính là phiên âm của từ Bodhi-Sattva, là Bồ Đề - Tát Đỏa, là những chiến binh dũng mãnh mang trong mình tâm Bồ Đề. Có thể gọi tắt Bồ Đề - Tát Đỏa thành Tát Đỏa.] Kim Cang Tát Đỏa cũng chính là tổ sư của Kim cương thừa. Bởi vì Long Thụ Bồ Tát mở cửa tháp sắt để gặp mặt Kim Cang Tát Đỏa và nhận pháp, nên truyền thừa có thể tính bắt đầu từ Kim Cang Tát Đỏa. Điều này giải thích tại sao việc dùng thần chú của Kim Cang Tát Đỏa để triệu thỉnh lại tuyệt hảo như thế. Giảng về phần triệu thỉnh xong rồi, chúng ta sẽ tiếp tục phần thứ ba: Đại lễ bái.

05. Đại lễ bái

Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y làm trước hay sau chỉ thuộc về vấn đề trình tự. Có người triệu thỉnh xong thì niệm Tứ quy y chú, lại cũng có người thực hiện Đại cúng dường trước, bởi vì đã triệu thỉnh các vị xuống rồi thì chúng ta sẽ làm Đại cúng dường luôn. Có người chỉ thực hành mỗi Đại lễ bái. Thứ tự các việc này có thể thay đổi, không quan trọng lắm. Trong Mật giáo, những việc cần tiến hành trước gọi là Tiền hành, tiếp theo là Chính hành và cuối cùng là Hậu hành. Ba phần này kết hợp lại với nhau chính là một nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh. Hiện tại chúng ta đang nói tới các pháp trong phần Tiền hành. Tôi nhớ là tôi đã dạy mọi người thực hành Đại lễ bái, tiếp theo niệm Tứ quy y, và Cúng dường sẽ xếp sau cùng. Xin nhắc lại là có người đưa Cúng dường lên làm trước, hoặc là ngay vừa bắt đầu đã Cúng dường rồi, sau đó mới đến Tứ quy y, việc này không quan trọng. Chỉ cần bạn có thể thực hành hết, Phật Bồ Tát đều có thể tiếp nhận. Sáng ba chiều bốn, sáng bốn chiều ba cũng đều như nhau cả, cộng lại đều là bảy. Việc khác biệt này có thể được, miễn là không được để thiếu sót bước nào. Tuy vậy, kì thực là nếu có thiếu sót cũng vẫn có thể bù đắp được. Niệm Bách tự minh chú của Kim Cang Tát Đỏa chính là để sửa chữa những lỗi lầm và thiếu sót.

🌟

Ba công dụng lớn của Bách tự minh chú. Bách tự minh chú của Kim Cang Tát Đỏa có ba ý nghĩa. Lý do vì sao chú này vĩ đại chính là vì trong câu chú có ba ý nghĩa rất to lớn. Thứ nhất là sám hối. Vì sao lại có tác dụng sám hối? Bởi vì có quán Không, trong câu chú Kim Cang Tát Đỏa có ý nghĩa về tính Không, lại rộng lớn giống như hư không. Thế nên với những lỗi lầm mà bạn đã phạm phải, chỉ cần niệm Bách tự minh chú của Kim Cang Tát Đỏa, là hư không sẽ đem chúng đi, tất cả sẽ hóa thành hư không. Tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp đều hoàn toàn hóa thành hư không. Chính vì thế trong câu chú có ý nghĩa sám hối. Ngoài ra, ý nghĩa thứ hai là có sự gia trì của Ngũ phương Phật. Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú là vị Kim Cương Trì thứ sáu, là hóa thân của Ngũ phương Phật, niệm chú của ngài sẽ có được sự gia trì của Ngũ phương Phật. Ý nghĩa này rất lớn. Ý nghĩa thứ ba, bởi vì câu chú có bao hàm tính Không, một loại chú ngữ có tính Không của hư không, nên nếu niệm câu chú này, tất cả đều sẽ hóa thành hư không. Nếu trong quá trình bạn tu pháp có một vài khuyết điểm nhỏ, lỗi lầm nhỏ như hạt vừng, ví dụ như tâm ý của bạn chưa đủ chân thành, niệm chú không đủ nhất tâm, quán tưởng không rõ ràng hoặc thiếu mất một vài điểm, hay đáng lẽ bạn cần phải làm một công đoạn mà bạn lại không làm như tu pháp xong mới biết là mình quên cúng dường chẳng hạn, thì không thành vấn đề, cứ niệm Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú là có thể bổ khuyết được, vì bản thân câu chú có ý nghĩa bổ sung những thiếu sót khuyết điểm mà bạn đã phạm phải. Thậm chí ngay cả lỗi tạp niệm [suy nghĩ lung tung] cũng có thể bù đắp được. Trong khi tu pháp, ý niệm của chúng ta có thể không thanh tịnh, không những không thanh tịnh mà có khi trong suy nghĩ còn phạm tội nữa. Lúc này, niệm chú 100 âm là có thể sửa chữa toàn bộ tội chướng, chướng ngại, khuyết điểm, thiếu sót. Bởi vậy mới nói Bách tự minh chú có ba tác dụng lớn: một là sám hối, hai là được Ngũ phương Phật gia trì, ba là bổ sung, sửa chữa mọi khiếm khuyết và lỗi lầm. Đây chính là công đức của Kim Cang Tát Đỏa Bách tự minh chú.

🌟

Thủ ấn Tôi giảng tiếp về Đại lễ bái. Thông thường, Đại lễ bái được nói đến trong Mật giáo đều là việc lạy với toàn thân nằm trên mặt đất. Đây là một hành động rất kiền thành, rất cung kính. Mọi người thích đưa tay chạm vào đỉnh đầu, thậm chí chạm vào phía sau gáy, rồi lại chạm vào họng, chạm vào tim, sau đó lại lạy nằm xuống. Mọi người chỉ đều chắp tay mà thôi, rất ít người làm thủ ấn. Vậy thủ ấn này xuất phát từ đâu ra? Lại có thủ ấn đảnh lễ Phật, thủ ấn đảnh lễ Bồ Tát, thủ ấn đảnh lễ Hộ pháp Kim cang. Tôi cần giảng cho rõ ràng rằng, đây thuộc về Đông mật, Trung mật. Trong Tạng mật, thủ ấn tương đối ít. Bản thân Mật tông Tây Tạng có thủ ấn, nhưng họ rất ít dùng thủ ấn. Ngược lại, trong Đông Mật, Trung Mật - hay Đài mật cũng vậy, việc dùng thủ ấn tương đối nhiều. Sự khác biệt ở chỗ đó. Các thủ ấn này tuy đều là ấn Mật giáo, nhưng thuộc về ấn của Đông mật và Trung mật. Thủ ấn mà Chân Phật Tông chúng ta dùng - đảnh lễ Phật, Bồ Tát, Hộ pháp Kim cang đều là ấn của Đông mật.

🌟

Quán tưởng Đại lễ bái Bởi vì khi chúng ta bắt đầu tu pháp thì ban đầu là ngồi xuống tu, ngồi xuống rồi thì tới phần Lễ bái lại cần đứng dậy làm Đại lễ bái, giống như phân tách ra làm hai công đoạn. Cho nên chúng ta hiện tại luôn luôn chỉ cần ngồi một mạch, tu trì Phật pháp và Mật pháp hoàn chỉnh xong xuôi là xong. Cái gọi là ngồi và quán tưởng Đại lễ bái là to tôi tự tạo ra, còn bình thường người khác thì nhất định cần phải đứng dậy để làm Đại lễ bái. Chúng ta quán tưởng Đại lễ bái ở đây chính là sau khi ngồi xuống tu pháp, ngồi ngay ngắn rồi, không cần phải đang từ ngồi rồi lại đứng lên lễ bái, rồi lại ngồi xuống. Như vậy thì tương đối tiện hơn. Thậm chí khi có nhiều người tập trung lại mà tất cả đều Đại lễ bái thì có lúc sẽ không ngồi xuống lại được do vướng rất nhiều yếu tố. Bởi thế tôi mới dạy mọi người làm quán tưởng Đại lễ bái. [Điều này càng đúng khi trong pháp hội của Sư Tôn thường đông người, ngồi san sát nhau, vốn không có đủ chỗ để có thể lễ bái bình thường, buộc phải quán tưởng.]

🌟

Chạm đỉnh đầu. Vì sao có một số người Tạng lại đưa tay ra đằng sau đầu? Đó là vì khí công. Các bạn có thể không biết rằng não của chúng ta vốn được bao bọc bởi hộp sọ. Chỉ có ở phía sau chỗ này là lộ ra, hai huyệt Thái dương ở đây, tác động vào huyệt Thái dương không tới được não bộ, nhưng phía sau cổ lại thuộc về bộ phận tiểu não, chạm vào đây chính là kích thích thần kinh tiểu não, điều tiết khí toàn thân. Bạn chắc không nghĩ đến điều này, nhưng trước đây tôi cũng chưa dạy mọi người cần phải làm như vậy. Gần đây tôi thấy cần phải điều chỉnh công năng của ngũ tạng trên thân thể chính mình. Tôi vốn cũng không biết việc nhất định phải chạm vào chỗ này là có ý nghĩa gì? Tôi cảm thấy chạm vào thiên tâm là đã rất cung kính rồi. Vì sao lại cần chạm vào phía sau đầu? Thật kì lạ! Vì sao người Tạng họ lại cần làm như vậy nhỉ? Hiện tại mỗi ngày tôi có quy định về thời gian. Buổi sáng viết văn xong, tôi liền luyện công. Tôi luyện công sẽ triệu thỉnh: Nam mô Vô Cực Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật. Nam mô U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đương nhiên là tôi không dùng tiếng Quốc ngữ rồi, tôi dùng Đài ngữ [cười]. Khi tôi triệu thỉnh, các bạn đừng có cười nhé, tôi triệu thỉnh các vị đến giúp tôi luyện công như sau: Thỉnh ngài tới a...! Thỉnh ngài tới a...! [Sư Tôn dùng tiếng Đài để nói]. Nam mô Vô Cực Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, thỉnh ngài tới a...! Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, thỉnh ngài tới a...! Nam mô U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát. [Sư Tôn vừa hát những lời trên bằng tiếng Đài, vừa làm động tác khởi động chân khí.] Làm như vậy rất nhanh đó! Trong chốc lát các vị liền "xẹt" giống như điện, lập tức đến ngay, rất nhanh chóng. Tôi chỉ cần niệm rất nhẹ nhàng như vậy là các vị đã nhanh chóng đến rồi. Khi các vị đến, tôi niệm rất chân thành, nói ra những lời từ trong lòng mình. Tôi thường sẽ hát khi thỉnh mời các vị, hát lên những lời triệu thỉnh từ trong lòng mình, cứ hát lên là các vị đến. Khi các vị đến rồi thì hai tay này tự động chắp lại, các vị dùng tay này ấn vào phía sau đầu của tôi. Tôi liền hỏi là việc này là sao, đập vào chỗ này rồi lại ấn vào bên kia. Là sao vậy? Các vị liền nói cho tôi biết, vị trí đó điều khiển lục phủ ngũ tạng bên trong của ta. Khi kích thích vào chỗ đó sẽ kích thích một bộ phận nhất định, công năng của bộ phận đó sẽ hồi phục lại bình thường, bộ phận đó sẽ trẻ lại. Oa! Chẳng mấy chốc mà biến thành 30 tuổi mất. [Sư Tôn nói bằng tiếng Đài và cười.] Chạm vào đây (sau đầu) xong lại đưa tay về chỗ đỉnh này (thiên tâm). Ở đây là ánh sáng trắng. Hãy nhớ là Bổn tôn ở trước mặt bạn, bạn đã triệu thỉnh ngài đến rồi, ngài ở ngay không gian phía trên đối diện với bạn. Bạn chạm vào chỗ này, ánh sáng trắng từ trán của ngài sẽ chiếu đến trán của bạn, ánh sáng này chính là nằm ở đây. Chạm xuống dưới (cổ họng), ánh sáng đỏ. Rồi chạm vào tâm luân, ánh sáng xanh lam. Giải ấn. Sau đó là lạy sát đầu xuống đất. Việc lạy này đều cần quán tưởng. Chúng ta làm pháp lễ lạy, khi ba ánh sáng chiếu vào bạn, bạn cần phải quán tưởng chính bạn nằm sấp trên đất. Khi bạn nhấc tay lên để giải ấn, bạn cần quán tưởng mình nằm sấp xuống mặt đất, sau đó lại đứng dậy để để làm tiếp bước lạy thứ hai. Việc này rất quan trọng.

🌟

Trong quá trình này, Bổn tôn phóng quang, bạn tiếp nhận ánh sáng thì sẽ có hiện tượng dung nhập. Dung nhập là như thế nào? Dung nhập không phải là ánh sáng chiếu vào bạn giống như chiếu tới "thiết bàn" [cái bàn sắt], bạn sẽ không hấp thụ được ánh sáng. Ánh sáng chiếu vào bạn mà bạn là bàn sắt thì bạn sẽ phản xạ lại ánh sáng, cũng tương đương như chẳng hề được chiếu đến. Ở đây là thân, khẩu, ý cần thanh tịnh. Sau khi bạn đã làm thanh tịnh thân khẩu ý rồi, ý niệm thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, thân thể thanh tịnh, thì khi ánh sáng chiếu vào, bạn sẽ có cảm giác giống như đèn điện chiếu vào thân, sau đó ánh sáng đó sẽ dung nhập vào trong thân thể bạn. Ánh sáng đỏ chiếu vào bạn, hòa tan vào toàn thân bạn. Ánh sáng xanh lam chiếu vào bạn, hòa tan vào toàn thân bạn. Chúng ta làm Đại lễ bái là có ý nghĩa của nó.

🌟

Triệu thỉnh Tam Vương. Có người hỏi Sư Tôn, vì sao mỗi lần thầy triệu thỉnh đều cần triệu thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát? Chúng con có thể bắt chước Sư Tôn cũng triệu thỉnh như vậy không, cũng là ba vị này? Các bạn triệu thỉnh ai cũng được, tôi không quản việc này. Tôi chỉ quản được việc của chính mình thôi. Nguyên do từ lúc đầu tôi đã biết các vị đó là Tam Vương. Diêu Trì Kim Mẫu là Tiên Vương, ngài ở hồ ngọc trong núi Côn Lôn, là nơi tập trung của các vị tiên. Ngài là vị vua của các thần tiên, bản thân ngài đã tồn tại từ thời cổ đại rồi. Còn đối với Phật A Di Đà, tôi tôn sùng gọi ngài là Phật Vương, vì sao lại là Phật Vương? Bởi vì đối với thời hiện tại này, trong Hiển giáo, Mật giáo, sự cứu độ của Phật A Di Đà là lớn nhất. Bạn cũng biết rằng ở Trung Quốc chúng ta, ở khu vực Đông Nam Á, mỗi người đều niệm Nam mô A Di Đà Phật. Không chỉ có người xuất gia niệm A Di Đà Phật mà ngay cả Đạo gia cũng niệm. Đạo gia niệm Vô Lượng Thọ Phật. Kì thực, Vô Lượng Thọ Phật chính là A Di Đà Phật. Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang đều là A Di Đà Phật. Do vậy sự cứu độ của Phật A Di Đà là lớn nhất. Bốn vị Phật khác đương nhiên cũng có cứu độ, nhưng bản thân Phật A Di Đà phát ra lời nguyện lớn nhất, bởi vậy ngài là Phật Vương. Ngoài ra, U Minh Giáo Chủ - Địa Tạng Vương Bồ Tát, ngài đương nhiên không chỉ là độ chúng sinh ở địa ngục. Ngài độ cả chúng sinh khắp sáu cõi, bao gồm trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, lục độ chúng sinh ngài đều độ cả. Bởi vì đối với tam ác đạo là đạo địa ngục, đạo ngạ quỷ, đạo súc sinh, ngài đều độ hết. Do vậy chúng ta tôn sùng gọi ngài là U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương - chính là Địa Vương.

🌟

Vì lời nguyện lớn của bản thân tôi, vì mong muốn trước đây của tôi vào lúc mới bắt đầu tu hành, là bắt đầu từ chỗ Diêu Trì Kim Mẫu. Do vậy tôi không thể vì học Phật mà quên đi Tiên Vương, đây là ân nghĩa. Lúc đó, tôi mới bước ra từ Đạo gia, chính Diêu Trì Kim Mẫu độ hóa tôi, đây là cái ân. Tôi không thể vì học Phật mà cắt đứt cái ân huệ này. Chúng ta làm người thường hay nói về việc cần phải nhớ lấy cái ân, ân nghĩa này không thể cắt đứt. Chúng ta không thể nào nói một cách vô tình kiểu như qua cầu rút ván, ăn cháo đá bát, do vậy tôi luôn luôn triệu thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu đầu tiên. Còn lại các bạn có thể tùy ý triệu thỉnh. Thứ hai tôi luôn triệu thỉnh Phật A Di Đà, thứ ba là triệu thỉnh U Minh Giáo Chủ - Địa Tạng Vương Bồ Tát, các vị đến dạy cho tôi lấy tay ấn vào phía sau đầu này, việc này là cực kì vi diệu.

image
image

🌟

Lục phủ ngũ tạng quyền Gần đây tôi luyện công rất chăm chỉ, ngày nào cũng tập. Có rất nhiều chư vị Phật Bồ Tát tới dạy tôi tập, trong đó có Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Lúc tôi tập, tư thế luyện công mà ngài giúp tôi cũng thiên kì bách quái [nhiều điều kì lạ lạ lùng khó có thể mô tả được]. Ngài dạy tôi từng bước từng bước một, cứ như vậy dần dần điều chỉnh lá lách, điều chỉnh thận. Cũng có các tư thế giúp điều chỉnh tim, gan. Trong tương lai, tôi sẽ sáng tạo ra một bộ "lục phủ ngũ tạng quyền". (mọi người đều cười vui vẻ) Quyền pháp này cũng chính là để khí lực mạnh lên. Khí lưu thông đến chỗ nào thì chỗ đó sẽ được khai mở, chỗ đó sẽ hoạt động, chỗ đó sẽ được kích hoạt, sẽ làm chỗ đó tăng thêm sự vững chắc kiên cố, trở thành bất hoại. Bản thân "lục phủ ngũ tạng quyền" mà nói ra thì là có pháp lực như vậy. Tôi cho rằng đã từng có quyền pháp như thế rồi, trước đây có lẽ đã bị thất truyền, ngày xưa hẳn là có thứ này. Vì nếu có người tu đến cảnh giới giống tôi hẳn là sẽ xuất hiện quyền pháp này ngay và sẽ được ghi chép lại. Mặc dù tôi chưa từng học đến, nhưng trong khi luyện công thì Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát đã đến dạy như thế, Chuẩn Đề Phật Mẫu cũng đến dạy như thế, rồi cả Thần hộ pháp - Đại Uy Đức Kim Cang đến cũng dạy như thế, Hàng Tam Thế Minh Vương cũng đến dạy như thế. Hết sức kì lạ, các vị Phật Bồ Tát đó, mỗi vị dạy tôi những tư thế khác nhau, rất kì lạ. Tuy thế, làm sao để tôi giảng đây nhỉ? Ví dụ như thế "tê giác ngắm trăng" này, bạn có biết tê giác ngắm trăng như thế nào không? (Sư Tôn biểu diễn động tác và cười.) Là cả thân người nằm xuống, còn cái đầu thì cong lên nhìn ra sau, gọi là tư thế "tê giác ngắm trăng", còn có tư thế "tiên nhân chỉ đường", "bạch xà thổ tín".

Oa! Rất nhiều chiêu thức. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát mỗi lần đến, ngài dạy tôi tay phải vươn ra như thế này, sau đó vài nghìn cánh tay của ngài chuyển động thế này để thị phạm cho tôi thấy, giơ lên cao nhất. Còn có hạ xuống, nâng lên, giữ nằm ngang, giải tán, đây chính là giáng, đề, trì, tán. Hạ xuống như thế nào, nâng lên ra sao, giữ thăng bằng kiểu gì, giải tán ra sao, rất nhiều kiểu tư thế ảo diệu. Các chuyển động và tư thế của thân, cũng giống như "ngôn ngữ cơ thể", có thể chuyển dịch nghĩa thành các bài tập về khí. Bây giờ rất thịnh hành "ngôn ngữ cơ thể" đúng không. Chư Phật Bồ Tát đầu tiên dạy tôi các chuyển động của thân, sau đó liền chỉ dạy cho tôi thấy chúng có ý nghĩa gì. Kì thực đây chính là luyện khí thông mạch và giữ lại hạt [minh điểm], hoàn toàn là vẫn nằm trong công phu của khí - mạch - điểm. Chúng ta thực hành Đại lễ bái thì thấy là Đại lễ bái cũng có kĩ thuật đặc thù của nó. Người Tạng thực hiện Đại lễ bái sẽ điểm vào phía sau rồi điểm vào ba vị trí trắng, đỏ, lam, cuối cùng nằm úp xuống. Đây cũng là một hình thức luyện thân thể.

🌟

Cách quán tưởng chi tiết Ngoài ra, trong Đại lễ bái, bên cạnh việc quán tưởng ánh sáng trắng, đỏ, lam ra, còn có quán tưởng nào khác không? Đương nhiên là có. Bình thường Hiển giáo làm lễ bái chính là đối diện với đàn thành để lạy, không cần quán tưởng. Mật giáo thì lại cần quán tưởng. Tôi đã từng viết một bài kệ Đại lễ bái, là lạy toàn bộ bình đẳng tất cả. Khi chúng ta quán tưởng, ngoài việc quán tưởng Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện ra rất rõ ràng trước mặt thì còn có thể quán tưởng phía sau của ba vị này có tất cả các vị Phật Bồ Tát của mười phương ba cõi cũng đều hiện ra. Vậy thì quán tưởng như thế nào? Bạn cần phải quán tưởng tất cả các vị Phật Bồ Tát đến trước mặt bạn, nhưng làm sao để quán, làm sao có thể quán cho hết? Đương nhiên là không quán hết được. Bạn quán tưởng về một vị đã khó rồi. Có rất nhiều người ngay cả một vị cũng không quán tưởng được. Quán cả nửa ngày... Ôi chà, vẫn thiếu cái tai rồi (cười). Có người quán tưởng được cái đầu thì lại không thấy được cái thân, có người quán được y phục của ngài nhưng lại không thấy đầu. Tưởng tượng thế nào cũng không quán nổi. Tôi nói cho mọi người biết, kì thực phương pháp quán tưởng có một cách rất hay, đó chính là quán tưởng lông mày trước, rồi quán tưởng tiếp đến mắt, mũi, miệng, tai, đầu tóc. Tới sau khi quán tưởng hết thân thể, tay chân, thiên y, toàn bộ lập tức có thể cho ngài biến mất luôn. Tôi không dạy các bạn phải mãi mãi giữ toàn hộ hình ảnh quán tưởng mà không cho nó tan đi. Không cứ nhất định cần phải giữ chặt "ngài" ở chỗ đó, không nhất thiết phải giữ cho "chư vị" không được đi mất. Không cần phải như vậy đâu. Tôi quán tưởng như thế này. Ví dụ khi tôi nghĩ đến Phật A Di Đà, vừa nghĩ tới là ngài đã xuất hiện rồi. Ngài đứng trên hoa sen, mặc thiên y vi diệu, đầu của ngài, tai của ngài rất dài, trên đầu có nhục kế, một tay giữ ấn ban nguyện, một tay cầm hoa sen. Khi bạn đã quán tưởng ngài rõ ràng rồi, có thể lập tức không cần ghi nhớ hình ảnh nữa, lập tức để ngài biến mất luôn, có thể làm như vậy. Đợi đến sau khi bạn luyện tập đủ lâu thì chỉ cần ấn vào đầu một cái là có thể làm các ngài hiện ra, giống như bạn chỉ vừa nhắm mắt lại là lập tức thấy các ngài hiện ra rất rõ ràng trước mặt. Việc này cần có thời gian luyện tập dài lâu. Trước đây tôi không hẳn là quán tưởng được rõ ràng như thế. Còn như bây giờ, buổi sáng hôm nay ở Chân Phật Mật Uyển, khi tôi làm cúng dường ở bên ngoài trời ở đàn tràng bên ngoài, có vài người [có thiên nhãn] đã nhìn thấy các vị đến. Tôi chú ý thấy một số người đã quay đầu lại để nhìn. Kì thực tôi đã quán tưởng chính mình thành Phật A Di Đà, kim thân cao sáu trượng, cao rất là cao lên đến tận mây. Tay cầm tịnh thủy - nước cam lộ liền biến hóa, biến thành nghìn nghìn vạn vạn giọt nước cam lộ, vừa rắc xuống là tất cả mọi vật đều thấm đẫm. Bản thân tôi biến thành Phật A Di Đà kim thân cao sáu trượng như vậy, rất rất cao, cao đến tận mây, chính là tôi đã quán tưởng như vậy. Thậm chí ngay cả khi đang nói chuyện với các bạn đây, tôi cũng có thể quán tưởng được rất rõ ràng. Tuy nhiên hãy nhớ, bạn không cần phải quán tưởng giữ mãi hình ảnh đó rất lâu. Không cần thiết phải tiếp tục quán tưởng Phật A Di Đà ở nguyên một chỗ mãi. Còn việc quán tưởng tất cả các vị Phật của thập phương tam thế thì thế nào? Hãy lấy các vì sao để quán tưởng, dùng ánh sáng của các vì sao. Giống như các bạn quán tưởng chủ tôn ở trước mặt, phía sau các vị chủ tôn là toàn bộ các đốm sao sáng lấp lánh, vô cùng vô tận các đốm sao. Đây là cách để lạy hết thập phương tam thế tất cả Phật tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát trong Đại lễ bái. Khi Đại lễ bái, đầu tiên quán tưởng vô số đốm và ánh sao, sau đó quán tưởng chủ tôn ở phía trước các đốm và ánh sao lấp lánh này, tiếp đó quán tưởng bản thân đảnh lễ tới tất cả chư Phật Bồ Tát. Cách quán tưởng này đem lại công đức cực kì khổng lồ.

🌟

Lạy tất cả bình đẳng - sự trang nghiêm của tâm. Đây là mục thứ ba, cũng chính là Đại lễ bái. Lạy tất cả bình đẳng chính là tất cả chư Phật ta đều lạy hết. Bình thường Hiển giáo không có việc quán tưởng như vậy, cũng không có việc phóng quang gia trì, chỉ Mật giáo mới có. Công đức của việc lạy tất cả trong Mật giáo này đương nhiên là vô cùng vĩ đại. Bởi vì tất cả các vị Phật của thập phương tam thế đều ở trước mặt bạn, bạn chỉ cần đảnh lễ một cái thôi là bằng với các bạn bên Hiển giáo đảnh lễ mất vài năm. Do họ thường luôn chỉ đảnh lễ một vị hoặc vài vị mà thôi. Đảnh lễ của chúng ta một lúc là cả nghìn nghìn vạn vạn các vị, tất cả ta đều đảnh lễ hết. Nguyên nhân Mật giáo có thể tức thân thành Phật chính là ở đây. Hiển giáo phải trải qua ba đại a-tăng-kì kiếp [vô số kiếp] mới có thể thành Phật, còn Mật giáo có thể tức thân thành Phật bởi vì công đức của sự thực hành này rất lớn. Thành tựu của bản thân Mật giáo vô cùng siêu việt. Mật giáo có trí huệ vô thượng, sử dụng trí huệ vô thượng, pháp vô thượng, nghi thức vô thượng để thành tựu đại pháp vô thượng, sau đó sẽ thành tựu được Phật quả. Do vậy Đại lễ bái của Mật giáo là lạy tất cả, lạy tất cả chính là một lần lạy là hoàn toàn lạy hết tất cả chư Phật.

🌟

Giống như nghi thức Hộ Ma (hỏa cúng) của Mật giáo chúng ta, bên Hiển giáo thì thắp hương. Khi Hiển giáo thắp hương, mỗi lư hương thắp một que hoặc ba que hương. Hộ Ma của chúng ta mỗi lần đốt tới cả vài nghìn vài vạn que hương, chúng ta làm một lần Hộ Ma thì tương đương với Hiển giáo thực hành cả vài năm, vì chúng ta đã đốt nhiều hương như vậy cơ mà. Hiển giáo làm gì có Hộ Ma. Chỉ có Mật giáo có Hộ Ma. Hộ Ma của Mật giáo chính là một hình thức cúng dường cực kì cực kì lớn, cũng là một kiểu cúng dường vĩ đại nhất, tập hợp lại tất cả mọi công đức. Đại lễ bái của Mật giáo, chỉ một lạy là lạy cả nghìn nghìn vạn vạn tất cả các vị chính là như vậy. Các bạn tuyệt đối đừng coi thường việc thực hành Đại lễ bái này. Đại lễ bái cũng hoàn toàn dạy các bạn làm sao để hàng phục bản thân mình, làm sao để hàng phục "ngã mạn" (sự ngạo mạn) của chính mình. Trước mặt các vị Phật Bồ Tát, bạn có thể đại lễ bái biểu thị sự cúi mình trước các ngài. Điều này chính là phát lộ sự sám hối, chính là giao toàn bộ thân khẩu ý của mình cho Phật Bồ Tát, giao toàn bộ bản thân bạn cho Bổn tôn. Một lạy là lạy tất cả, chính là lễ bái tất cả với tất cả sự cung kính, việc này chỉ có trong nghi quỹ của Mật giáo. Do đó công đức của việc này vô cùng vĩ đại, không được xem nhẹ Đại lễ bái.

🌟

Trong các buổi đồng tu, rất nhiều người thực hành Đại lễ bái như sau. (Sư tôn làm mô phỏng hành động lễ bái qua loa, mọi người cười.) Không có chút năng lượng nào, cũng không có tí sự trang nghiêm thành kính nào. Bạn phải biết rằng rằng sự thành kính và trang nghiêm tới từ bên trong, tới từ trái tim của bạn. Bạn sử dụng sự quán tưởng phải tạo ra được cảm thức về sự trang nghiêm và thành kính này. Rất nhiều người thoạt nhìn Đại lễ bái bên ngoài thì nghĩ đơn giản, sau khi tới tham dự đồng tu vài buổi thì tự thấy rằng "hai ba ngày là tôi biết hết rồi". Chỉ vài ngày là thấy họ đã trốn đi hết sạch. Học được một cái thủ ấn cúng dường, kết được vài cái thủ ấn, rất đơn giản, rất easy [dễ], anh ta không biết rằng bên trong còn có rất nhiều kiến thức ẩn mật to lớn khác. Bởi vậy sau khi tôi giải thích hết ra sẽ khiến mọi người biết sự vĩ đại của Mật pháp nằm ở đâu, chứ không phải chỉ là vài kĩ năng biểu diễn bên ngoài.

🌟

Đại lễ bái để chứng nhập "vô ngã" Đại lễ bái cần có thể chấp nhận bản thân không còn "tự ngã". Có rất nhiều người tu rất nhanh, bộp bộp bộp… Oa! 20 phút là xong rồi, như vậy là kết thúc rồi. Hỏi anh ta, anh vừa mới tu xong một đàn pháp, vậy anh có cảm giác gì không? "Cảm nhận gì chứ, con làm một đàn là một đàn thôi! Sư Tôn bảo con tu 200 đàn mà! Con tu chỉ trong một chốc, một ngày đã tu xong mấy đàn rồi, rất nhanh sẽ tu xong 200 đàn thôi." Xong anh lại hỏi tôi: "Phải làm sao đây, vì sao nghiệp chướng của con vẫn còn nặng như vậy?" Nghiệp chướng đương nhiên là nặng rồi! Cái tâm của anh không hề lĩnh ngộ được cái gì cả, như vậy là tâm trang nghiêm sao? Khi làm đại lễ bái, cái tâm phải vô cùng trang nghiêm, bạn cần phải từ trong tâm mình kính lễ một cách vô cùng kính cẩn trang trọng. Tất cả Phật Bồ Tát đều vô cùng trang nghiêm, ý thức vũ trụ rất vĩ đại. Bạn đảnh lễ tất cả, bạn cần khiêm tốn nhún mình, bản thân cần phát lộ lòng sám hối, phải là làm một công phu tu hành thực sự, không phải là qua loa quýt luýt. Mục thứ ba nói về Đại lễ bái, hy vọng mọi người có thể hiểu được thông suốt.

🌟

Đại lễ bái - công đức khổng lồ Vì sao trong pháp Tứ gia hành lại có phân chia ra làm Tứ quy y, Đại lễ bái, Đại cúng dường và Kim cang tâm [Kim Cương Tát Đỏa]? Bạn tự mình thử nghĩ xem, vì sao Đại lễ bái lại cần phải tách ra để làm riêng? Chính bởi vì công đức của thực hành này cực kì lớn. Mỗi ngày khi bạn tu tập, đầu mỗi thời khóa nên thực hiện Đại lễ bái một cách cung kính kiền thành. Vừa là rèn luyện thân thể chính mình, vừa có được công đức khổng lổ cùng sự gia trì của nghìn nghìn vạn vạn Phật Bồ Tát khi các ngài phóng quang gia trì. So với việc đảnh lễ thông thường, Đại lễ bái cùng với sự quán tưởng này đem lại kết quả rất khác biệt. Ý nghĩa của cả "thân tâm toàn bộ nằm xuống lạy", chính là khi Đại lễ bái, bạn có thể chấp nhận được mình hoàn toàn không còn tự ngã (cái tôi) nữa, hoàn toàn buông lỏng các giới hạn, hoàn toàn dung nạp nghìn nghìn vạn vạn ánh sáng của Phật Bồ Tát chiếu đến bạn. "Tôi lĩnh thọ mọi ân đức của Phật Bồ Tát, tôi sẵn lòng đem tất cả nghiệp chướng của bản thân tiêu trừ hoàn toàn." Làm Đại lễ bái như vậy mới là vĩ đại chân chính, mới là Đại lễ bái có công đức lớn nhất. Tôi thấy chúng ta hôm nay nói đến mục thứ ba rồi. Ngày mai chúng ta tiếp tục bài giảng, mỗi ngày đều giảng, trong vòng mấy ngày này tôi sẽ giải thích hết toàn bộ nghi quỹ cho mọi người, có được không?

06. Tôn chỉ của Chân Phật Tông

Thông báo [vào năm 1992 tại Biệt thự Cầu Vồng, Mỹ] Tôi muốn thông báo với mọi người một chút. Biệt thự Cầu Vồng này trong tương lai sẽ là nơi giảng dạy Phật pháp. Vậy còn lần này thì sao? Lần này thì vẫn chưa thể để cho mọi người ở lại đây được, nguyên nhân chủ yếu là vì vẫn còn nhiều việc nhỏ chưa thể chu toàn. Do vậy chưa thể để mọi người lưu lại đây, thế nên để lần sau nhé! Lần sau có thể ở lại đây được rồi. Có một quy định về việc ở lại, nói cụ thể là người đến đây muốn ở lại cần chuẩn bị túi ngủ. Sau khi khóa giảng dạy kết thúc, các bạn về nhà và cũng đem theo túi ngủ của mình về. Ở đây việc giặt chăn ga không được thuận tiện lắm, cũng sợ rằng mỗi cái chăn ga lại có mùi riêng của mỗi người nữa (mọi người cười). Có người buổi tối ngủ vẫn còn chảy nước miếng đấy (mọi người cười). Đương nhiên nếu ở khách sạn thì tắm giặt hàng ngày không có vấn đề gì. Nhưng vì thời gian bạn ngủ lại đây tương đối dài, như thế thì mùi có thể sẽ ám vào chăn ga. Không chỉ có ga trải giường, đương nhiên là cả đệm cũng sẽ bị ám mùi nữa khiến cho những người lần sau đến ngủ lại sẽ cảm thấy không quen lắm. Do vậy chúng tôi đã nghĩ rồi, hy vọng những người đến ở lại sau này, mỗi người đều tự mang túi ngủ của mình đến. Sau khi khóa học kết thúc lại tự mình đem túi ngủ về. Ngoài chuyện này ra thì khả năng vẫn còn vài quy định nữa. Nếu phát sinh ra vấn đề thì chúng tôi sẽ công bố để cho mọi người sinh hoạt phù hợp với quy định lớp học ở đây. Thời gian khóa học tiếp theo, dự định là vào tháng 5 năm tới sẽ có một kì. Nhưng rất nhiều người sẽ đến và tất cả khó có thể cùng ở lại đây được hết, nên chúng tôi cũng có quy định là chỉ nhận 20 nam và 20 nữ. Khi tham gia lớp học cần phải nộp luận văn, chúng tôi xem luận văn cũng biết bạn đã đến được trình độ nào rồi. Người ở trình độ nào thì sẽ đến học cùng người ở trình độ đó, đây là điểm thứ nhất. [Chúng tôi vẫn giữ nguyên việc dịch các đoạn nói chuyện như trên, mặc dù bản thân chúng không thực sự là "kiến thức". Mong muốn rằng chúng ta có thể cùng "cảm nhận", cùng "sống" lại trong không gian, thời gian cách đây gần 30 năm, nơi Sư Tôn bắt đầu giảng pháp những ngày đầu tiên tại Mỹ. Những khoảnh khắc đơn sơ và giản dị thế này đã trở thành lịch sử.]

🌟

Minh tâm kiến tính. Tự chủ sinh tử. Điểm thứ hai! Tôi sẽ nói một chút về tôn chỉ Chân Phật Tông chúng ta. Hiện tại đệ tử đã rất đông, có rất nhiều người, nếu có nhiều đệ tử không hiểu tôn chỉ của tông phái thì không hay chút nào. Ý nghĩa chủ yếu trong tôn chỉ tông phái chúng ta là Tự chủ sinh tử. Tự chủ sinh tử cũng chính là Vô sinh vô tử. Nếu có thể hoàn toàn tự chủ được việc sống chết thì cũng chính là Phật sống, cũng gần như thành Phật rồi. Ngoài ra còn cần phải Minh tâm kiến tính, thoát khỏi phiền não, đây đều là tôn chỉ của tông phái chúng ta. Ý nghĩa của tôn chỉ chính là mục tiêu này, là ngọn cờ này, bạn cứ theo phương hướng này mà đi là đúng đường. Tôi nhắc lại, mục đích chủ yếu nhất của những người học Phật chúng ta, chính là Tự chủ sinh tử, Minh tâm kiến tính. Hiểu rõ tâm của chính mình, nhìn ra được Phật tính vốn có của chính mình, như vậy tự mình có thể sinh ra, có thể chết đi, tới cuối cùng khi nhập niết bàn an tịnh thì không còn sinh tử mà thành tựu Phật quả. Đây chính là tôn chỉ chủ yếu của tông phái. Tiêu trừ nghiệp chướng, thoát khỏi phiền não cũng có thể xem như là một phần của Tự chủ sinh tử.

🌟

Trong xã hội này có rất nhiều kiểu học Phật, có rất nhiều nhóm tư tưởng, cũng có rất nhiều kiểu rẽ nhánh. Thế nào gọi là rẽ nhánh? Chính là những thứ sinh ra thêm, nằm ngoài tôn chỉ gốc của Phật pháp. Vậy thì rẽ nhánh là có những cái gì? Ví dụ như học vẽ tranh Phật, vẽ thangka chính là rẽ nhánh của Phật giáo. Cũng có người học về âm nhạc Phật giáo, âm nhạc của Phật giáo cũng chính là một rẽ nhánh. Cũng có người học Phật công, nghĩa là luyện công trong Phật giáo, cái này cũng được phân vào loại rẽ nhánh. Ngoài ra còn có các lớp nghệ thuật, các lớp nấu ăn chay nữa. Học chữa bệnh, khí công, nhân điện, những cái này đều thuộc về rẽ nhánh. Ý nghĩa của rẽ nhánh chính là hỗ trợ thêm cho Phật pháp, có thể bổ trợ Phật pháp, nhưng hoàn toàn không phải là tôn chỉ chính, không có liên quan gì nhiều đến tôn chỉ cả. Bạn muốn đi học khí công, tôi cho rằng rất tốt. Việc này giúp về khí lực thân thể, giúp cho sự khỏe mạnh của bạn, nên bạn có thể đi luyện khí. Tuy nhiên tôn chỉ chân chính của Chân Phật Tông là Tự chủ sinh tử, Minh tâm kiến tính, tôn chỉ này bạn không được quên. Nói cách khác là tương lai bạn muốn học khí công, tốt thôi, nhưng nếu bạn nói tôi học khí công đây, không học Phật pháp nữa, như vậy là bạn đã vứt bỏ đi tôn chỉ rồi. Hoặc nếu nói bạn đi học nhân điện lấy việc chữa bệnh làm chính, giúp người ta chữa bệnh. Sau khi bạn giúp mọi người chữa bệnh rồi lại không học Phật pháp nữa, thì đây chính là chỉ thấy cái ngọn mà quên đi cái gốc. Vốn dĩ bạn nên Minh tâm kiến tính, Tự chủ sinh tử, nhưng học chữa bệnh xong rồi, bạn liền biến thành chuyên gia chữa bệnh, không phải là chuyên gia học Phật thì bạn sẽ không thể nào thoát khỏi sinh tử được. Tóm lại, tôn chỉ của tông phái là phải lấy việc thoát khỏi sinh tử, minh tâm kiến tính làm chính. Mọi việc rời xa khỏi "Tự chủ sinh tử, Minh tâm kiến tính" đều được gọi là rẽ nhánh. Tôi nói như vậy mọi người có hiểu không?

🌟

Huệ mệnh song tu. Ngoài ra vẫn còn điểm nữa. Ngày trước Mật tông chú trọng vào nội tu. Thế nào gọi là nội tu? Chính là thuộc về Tu mệnh, Tu mệnh chính là tu hành những việc hỗ trợ cho thân thể này. Trên khía cạnh Phật pháp mà nói, có một quãng thời gian việc này cũng bị hiểu nhầm là một dạng rẽ nhánh vì Mật giáo chú trọng nội tu. Kì thực bên trong Phật pháp có cả Tu huệ, có cả Tu mệnh, đây gọi là "Huệ mệnh song tu". Trên phương diện Tu huệ thì không chú trọng tu hành thân thể, nói cách khác là tôi ăn cực kì ít, cực kì đơn giản. Nếu như bản thân sinh bệnh cũng mặc kệ! Còn việc ở? Ở dưới gốc cây, quần áo thì mặc đồ rất cũ sờn. Còn như đi đường, tôi không muốn ngồi xe do người khác kéo, hoặc xe có người phục vụ, luôn luôn tự mình phục vụ mình thôi, không muốn gánh chịu thêm nghiệp của chúng sinh, muốn tự mình đảm đương tất cả mọi thứ. Việc tu hành của những hành giả kiểu này có thể nói là tới gần với khổ hạnh. Họ hoàn toàn chỉ coi trọng phương diện tu trí huệ. Gặp lúc mắc bệnh, họ vẫn ngồi yên, phát sốt rồi họ vẫn ngồi yên, thân thể mắc bệnh tới mức vô cùng nghiêm trọng rồi, họ vẫn mặc kệ. Họ cho rằng thân thể là thứ rác rưởi, do có thân thể này mà họ không thể siêu thoát, không thể giải thoát được, bởi vậy họ muốn làm cho cái thân thể này bị hủy hoại ghê gớm. Sau đó họ sẽ theo đuổi một kiểu thành Phật trên phương diện trí huệ, trên phương diện lý tính. Trước đây, rất nhiều hành giả chúng ta đều đi trên con đường này. Nhìn chung những người học Phật tu đạo đi trên con đường này rất nhiều, đều muốn loại trừ hẳn cái thân thể này, gọi đây là "bị thịt thối". Cái bị thịt thối này họ không cần nữa. Họ ghê tởm cái bị thịt thối này, mỗi ngày đều muốn đánh chết nó. Có người tự ngược đãi bản thân, tu hành đến mức tự tàn nhẫn với mình. Tự tàn nhẫn với mình là như thế nào? Chính là cầm lấy con dao cắt bên ngày một miếng, cắt bên kia một miếng, cắt bên kia một miếng nữa, treo ngược thân thể của mình lên, ngồi trong khu rừng đầy cây gai, treo ngược thân thể, dùng lửa để tự đốt thân thể, dùng nước để làm trương phình thân thể của mình. Nói tóm lại là dùng mọi phương pháp tự ngược đãi chính mình, nhằm khiến tinh thần tập trung để đạt đến định rồi tới trí huệ vô thượng, cuối cùng đạt được trí huệ thành Phật. Những pháp này gọi là Tu huệ, không phải là Tu mệnh. Mật tông thì không giống như vậy. Mật tông chủ trương cần tu trí huệ và cũng cần tu thân thể. Cần phải tu thân thể cho tốt thì bạn mới có thể có được thọ mệnh (tuổi thọ dài), lúc đó mới có thể đi tìm hiểu được chân lý của vũ trụ. Chính vì thế pháp được giảng sẽ không giống nhau. Hành giả tu đạo có thể chọn tu thiền cũng được, tu đạo cũng được, tu theo con đường khổ hạnh, mặc kệ hay vứt bỏ hoàn toàn cái thân thể bị thịt thối này của chính mình cũng được. Nhưng hành giả tu Mật giáo thì chú trọng tu hành trên phương diện trí huệ, đồng thời cũng chú trọng khí của thân thể chính mình, tu hành để khai thông mạch, minh điểm. Cái này gọi là "Huệ mệnh song tu". Theo bản thân Sư Tôn thì nên cần cùng tu cả huệ và mệnh, vì thân thể và tinh thần của bản thân rất tốt thì trí huệ mới phát triển được. Bạn đủ thể lực, thọ mệnh dài thì mới có thể hiểu được chân lý của Phật pháp. Nếu bạn không coi trọng sinh mệnh bản thân, mà chỉ cầu trí huệ, mệnh không còn nữa thì huệ từ đâu tới? Thân thể xương thịt này không còn nữa thì trí huệ Phật pháp mà bạn tìm kiếm cũng không thể tìm được. Do đó Chân Phật Mật Pháp chúng ta chú trọng "Huệ mệnh song tu". Bạn cần phải đạt được trí huệ thành Phật, nhưng thân thể của bạn cũng cần phải chăm sóc cho cực kì khỏe mạnh, tinh thần cực kì thịnh vượng. Thậm chí đối với việc tu nội hỏa, khí, mạch, minh điểm, bạn còn phải trực tiếp hóa thân thể của bạn thành cảnh giới hư không. Trước đây Mật giáo có một giai đoạn bị coi là ngoại đạo, nguyên nhân chính là vì việc chú trọng đến vấn đề khí mạch của thân thể này.

🌟

Ý nghĩa lớn của Phật pháp Bất luận bạn dùng phương pháp gì để thành tựu Phật quả, để Minh tâm kiến tính, Tự chủ sinh tử, thì chúng đều thuộc về tôn chỉ của Phật pháp. Còn những mục đích khác đều thuộc về rẽ nhánh, đều chỉ là những thứ để bổ trợ cho Phật pháp. Hy vọng mọi người có thể hiểu rõ được ý nghĩa này, đừng nên chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc. (Tại Biệt thự Cầu Vồng, Seattle, Mỹ, 25/11/1992)

07. Cúng dường Đại Mạn đà la (Mandala)

Hôm nay chúng ta lại nói về mục thứ tư. Mục thứ tư mọi người tu cái gì đây? Chính là làm pháp cúng dường đại mandala. Việc cúng dường này trong Mật giáo là dùng bát cúng (cúng 8 món đồ) bố trí tại đàn thành. Nhìn chung trên phương diện học Phật ta thường dùng ngũ cúng, và đương nhiên còn có rất nhiều pháp cúng không giống nhau, nhưng chúng ta cũng không giới thiệu nhiều như vậy. Có nơi cúng 5 món, 7 món, 8 món, 21 món, 22 món, 27 món, 37 món. Ở đây chúng ta chỉ nói về ngũ cúng (5 món) và bát cúng (8 món).

🌟

Chú, ấn và quán tưởng cúng dường. Ngũ cúng chính là hương, hoa, đèn, trà, quả. Bát cúng thì cộng thêm phần thơm, là loại phấn thơm mà chúng ta dùng để thoa lên người. Ngoài đàn hương ra thì thêm một hũ phấn thơm này. Rồi thêm một chén nước có sữa tắm để dùng làm nước tắm, thêm một vỏ ốc như ý, như vậy là thành bát cúng, ngoài năm món trên thì thêm ba món này nữa là thành bát cúng. Bát cúng cần quán tưởng biến hóa. Khi chúng ta làm cúng dường, cần kết ấn cúng dường, dùng chú cúng dường để gia trì cho đồ cúng, gia trì cúng phẩm: "Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru-na-na men-cha-la khan ni-ni-ya ta-ya-mi.” Đây chính là câu chú cúng dường. Trước tiên khi kết ấn cúng dường, bạn cần quán tưởng cúng phẩm biến hóa. Đặt mọi đồ cúng ở trước mặt bạn, đầu tiên quán tưởng chúng là một điểm, rồi nhân lên thành một hàng, rồi lại nhân lên thành một mặt phẳng, rồi lại nhân lên thành đầy ắp cả không gian hư không, giống như bài kệ mà chúng ta thường niệm: "Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp tốc tốc chứng bồ đề." Rồi trì thêm chú cúng dường. Thủ ấn này chạm vào thiên tâm rồi giải ấn. Có nhiều lúc tôi cảm thấy không thoải mái lắm khi mọi người công khai cúng dường Sư Tôn hồng bao. Giống như hôm qua, tôi ngồi ở đây, tôi xua tay nói với các vị: "Mọi người không cần làm thế đâu." Ý tôi nói không cần là như thế nào? Là bởi vì tôi không quán đảnh gì cho mọi người cả. Khi có quán đảnh thì có thể nói là bạn có cầu xin, vậy thì nhất định cần đưa cúng dường (đây là luật lệ trong việc nhận Mật pháp). Hồng bao trong quán đảnh cũng được xem là cúng dường. Nhưng cứ lần nào tôi thuyết pháp xong đi xuống, mọi người đều đưa hồng bao cho tôi, tôi cảm thấy không hay lắm. Ý của tôi muốn nói là... Tôi cũng chẳng biết cần phải nói thế nào (mọi người đều cười), tóm lại tôi cảm thấy ở trước mặt mọi người, nhận hồng bao, mà lại không quán đảnh, thì không thấy thoải mái lắm. Vậy nếu các bạn vẫn nhất quyết muốn cúng dường thì khi kết thúc buổi học này, các bạn muốn quán đảnh pháp gì, chúng ta sẽ làm pháp quán đảnh. Như vậy xem ra còn tương đối có ý nghĩa một chút, chứ không thì cũng không hay lắm, có đúng không?

🌟

Ý nghĩa của việc chạm vào thiên tâm [thiên tâm là vị trí thiên nhãn - con mắt thứ ba] Mọi người sẽ thấy khi nhận cúng dường, tôi chạm vào đầu, chính là khi tôi cầm hồng bao các bạn cúng chạm vào thiên tâm một cái, giống như lúc mọi người kết ấn cúng dường cũng chạm vào thiên tâm để giải ấn. Vì sao tôi lại chạm vào thiên tâm? Mọi người có biết hay không? Có người nói là chuyển thành cúng dường Phật, hoặc là chuyển như thế nào đó, tóm lại là chuyển tới chuyển lui (cười). Kì thực tôi chạm vào thiên tâm là có ý nghĩa của nó. Chúng ta ở đây là những người xuất gia, hoặc không thì cũng là thượng sư, cho nên nhất định khi có đệ tử cúng dường cho các vị, các vị cũng nên học Sư Tôn mà chạm vào thiên tâm một cái đi (mọi người cười). Rồi sờ xem thử có bị sốt hay không (mọi người cười). Tất nhiên không phải như vậy đâu. Ý nghĩa của việc chạm vào thiên tâm một cái, thứ nhất là cung kính trước sự cúng dường của bạn, bởi vì việc chạm vào thiên tâm chính là một biểu hiện ý nghĩa cung kính, tôi cung kính đối với sự cúng dường của bạn. Thứ hai là từ thiên tâm này phát ra ánh sáng ba màu trắng đỏ lam để gia trì cho cúng dường của bạn, đây là ban phúc cho người cúng dường. Sau khi phóng ánh sáng gia trì xong, nhận lấy rồi thì tự mình vẫn cần quán tưởng cúng dường này biến thành nghìn nghìn vạn vạn, rất rất nhiều hồng bao. Việc này là sao? Việc này chính là ban phúc cho bạn, trả lại cho người cúng dường, chuyển sang người cúng dường. Bởi vậy việc chạm vào thiên tâm một cái có nhiều ý nghĩa ở trong nó như vậy, nên thiên tâm này không được tùy tiện chạm vào đâu (cười). Chạm một cái, biểu thị tôi tôn kính bạn, tôn kính việc cúng dường của bạn. Thế nên Kalu Rinpoche cầm tấm ảnh của tôi lên chạm vào đầu một cái, chính là biểu thị "tôi tôn kính ngài", đây là ý nghĩa thứ nhất. Ý nghĩa thứ hai là lập tức phóng quang, quán tưởng ánh sáng từ giữa chân mày của mình chiếu lên món cúng dường này, chính là giúp bạn tiêu tai, cầu phúc, tăng ích, kính ái, hàng phục. Lại quán tưởng nghìn nghìn vạn vạn hồng bao để bạn phúc ngược lại cho bạn. Cần nhớ việc cúng dường này là như vậy.

🌟

Cúng dường thật Hôm nay chúng ta thực hiện Đại cúng dường, kết ấn cúng dường, niệm chú cúng dường, gia trì quán tưởng nghìn nghìn vạn vạn đồ cúng phẩm dâng lên Phật Bồ Tát. Trong Mật giáo còn có Cúng dường thật, cúng dường thật là cúng dường thực sự, là thực tế cần đi mua rất nhiều đồ về, làm một lần cúng dường lớn, bày ra trước mặt Phật để sám hối, nói hết cho Phật Bồ Tát nghe những phiền não của bản thân. Khi thỉnh cầu Phật Bồ Tát ban phúc cho bạn, bạn cần phải làm cúng dường thật lớn thì mới có hiệu quả. Vì thế trong Mật giáo rất nhiều đệ tử khi cầu pháp, lần đầu tiên đến chỗ của Thượng sư cúng dường rất lớn. Cúng dường lớn chính là cúng vải vóc để Thượng sư may y phục, long bào, pháp y, chính là cúng dường đồ ăn, đem những đồ ăn tốt nhất ngon nhất cúng dường Thượng sư.

🌟

Cúng dường tùy hỉ. Ngoài ra còn có rất nhiều đệ tử cúng dường những tư lương mà bản thân Thượng sư cần. Tư lương chính là tiền đó! Trước đây ở Tây Tạng các đệ tử cần cúng dường trâu, là trâu yak, rồi cừu và những sản vật ở trên núi cho sư phụ của họ. Ví dụ như bạn học một pháp lớn thì cúng 20 con trâu, học một pháp nhỏ thì cúng 2 con trâu, họ có quy định như vậy (mọi người cười). Nhưng ở đây Sư Tôn chẳng có quy định gì (cười). Nếu tôi nói với mọi người rằng học pháp lớn cần 20 con trâu, bạn dắt 20 con trâu tới, tôi cũng không biết phải nuôi ở đâu (mọi người cười). Ở Tây Tạng, mọi người dùng trâu, cừu để làm tư lương. Còn ở nước Mỹ chỗ của chúng ta thì tư lương lại chính là tiền, là đô-la! Sư Tôn không có quy định cúng dường bao nhiêu, tuyệt đối không có quy định này. Trước đây Tổ sư đã nói, sau này Sư Tôn truyền pháp, tất cả đều phải là tùy hỉ. Giả sử nếu Sư Tôn có quy định với mọi người về tiền, vậy thì Sư Tôn coi như phạm giới rồi, bản thân tôi đã phạm giới với Tổ sư. Trước đây Thanh Chân Đạo Trưởng (Liễu Minh Hòa Thượng) cũng đã từng nhắc chuyện này với tôi, là "trong tương lai khi con ra ngoài đi khắp giang hồ...", là xuống núi đó mà (mọi người cười), "...luôn luôn phải ghi nhớ không được có quy định về số lượng tiền cúng dường cho người ta, dù bất kể con siêu độ, cầu phúc, an thần vị, an thái tuế, an đèn quang minh, con làm bất kì pháp sự gì, luôn luôn chỉ được có hai chữ này: Tùy hỉ." Đây chính là điều sư phụ tôi căn dặn, tôi phải tuân thủ. Tôi chắc chắn tuân thủ điều này, bất kể cúng dường như thế nào tôi cũng đều làm, cho dù anh chỉ gửi có hai đồng tiền Mã Lai đến, muốn được an đèn quang minh, lại muốn cả an sao thái tuế, lại muốn lập bài vị tổ tiên, lúc đó lại muốn tham gia cầu phúc, siêu độ, phần còn lại thì cúng dường Sư Tôn (mọi người cười). Ví dụ bạn có biết Thượng sư Liên Hỏa, Thượng sư Liên Thế hiện đang ở đây muốn đặt làm tấm bài thẻ tổ tiên ở Đài Loan, giá của mỗi tấm đã là 20 đô-la Mỹ rồi không? Có người chỉ gửi hai đồng tiền Malaysia đến và thỉnh cầu mọi việc trên. Tôi biết hai đồng tiền Mã Lai ở Malaysia khá hữu ích, một đồng có thể mua được một bát mì, vậy hai đồng có thể ăn được hai bữa rồi, cũng là thực tế thôi, thực tế thì cũng không sai. Nhưng theo tôi, bạn cũng nên nhẩm tính một chút! Không nên để cho Lôi Tạng Tự thường xuyên phải bù tiền ngược lại cho các sự thỉnh cầu của các bạn (mọi người cười). Đây là Sư Tôn nói đùa thôi. (cười) [2 đồng Mã Lai là 2 Ringit = khoảng 11,.300 đồng Việt Nam. Đây là chuyện có thật đã từng xảy ra.]

🌟

Cúng dường quy mô lớn và biến hóa Trên phương diện cúng dường, chúng ta nên xuất phát từ tâm, hoàn toàn dùng tâm mình để cúng dường thì chính là cúng dường tốt nhất. Ý nghĩa của việc cúng dường lớn là bày biện rất nhiều thực phẩm để cúng dường. Tất cả đều bày rất đầy, rất nhiều trong mọi khả năng có thể của hành giả. Việc này là để chứng minh tấm lòng thành tâm của bạn nhằm hy vọng Phật Bồ Tát sinh lòng hoan hỷ, sẽ ban phúc cho bạn. Giống như ngày trước, khi đại sư Tsongkhapa cầu pháp từ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, ngài cũng phải bày cúng dường rất lớn, chính là đi mua vải vóc quý nhất, hoa quả, đồ ăn ngon nhất, rồi bày ra trước Phật, cúng dường rất lớn. Trong lúc ngài tu pháp đã từng nhìn thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thực sự xuất hiện ở đàn thành. Ngài mô tả đã nhìn thấy hào quang tỏa ra từ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, kết hợp các sợi vải bông cotton màu cầu vồng thành các đốm tròn dầy và lớn trong quầng ánh sáng bao quanh. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở giữa vòng ánh sáng đó hiện ra cho ngài nhìn thấy. Ngài Tsongkhapa thực sự nhìn thấy Bồ Tát, đây là hiện tượng tương ứng tuyệt hảo khi cúng dường. Trong Chân Phật Tông, chúng ta làm cúng dường quy mô lớn tương đối ít, đại bộ phận mọi người đều cầm một món đồ tới, rất nhỏ rất nhỏ. [Đây là vào năm 1992.] Mỗi lần Lôi Tạng Tự chúng ta đồng tu xong, người đến đồng tu rất đông, 8 giờ tối thứ bảy mọi người đến đồng tu cũng đông xấp xỉ như thế này. Tôi thấy mọi người đều tới để uống nước chú Đại bi. Khi Thượng sư gia trì nước chú Đại bi xong, mọi người đều đến uống nước chú Đại bi, và tôi cũng quan sát một chút xem có ai mang đồ cúng dường tới không (mọi người cười). Tôi thấy ngay cả một miếng bánh cũng không có, dù chỉ một miếng bánh nhỏ cũng không thấy. Còn những hoa quả bày ở bên trong đều sắp hỏng, cũng đã cúng dường được mấy ngày rồi. Cũng có vài đệ tử mua một ít hoa quả đến đặt trên bàn cúng, nhưng sau khi cúng bái xong, họ lại liền thu gom rất nhiều hoa quả đem đi, chỉ để lại hai quả nhỏ nhỏ, nói là muốn để lại cho người của Lôi Tạng Tự ăn (mọi người cười). Những hoa quả này trên thực tế cũng vẫn sẽ được tiếp tục bày ở đó thêm vài ngày nữa cho tới khi gần hỏng mới dọn đi. Đối với việc cúng dường Phật Bồ Tát, bạn chắc chắn cần phải phát tâm chân thành cung kính. Bản thân đi mua đồ cúng dường, hay thực hiện cúng dường quy mô lớn đều cần bày biện cả ra với toàn tâm toàn ý mới khiến Phật Bồ Tát sinh ra tâm hoan hỷ mà chứng nhận. Như vậy bạn mới có thể cầu phúc được, Phật Bồ Tát sẽ ban phúc cho bạn. Về điểm này, trong rất nhiều giáo lý và giáo phái đều có hướng dẫn rõ ràng. Khi bạn đặc biệt muốn cầu phúc cho việc gì đó, bạn cần làm cúng dường lớn như vậy.

Ngoài ra còn có một thứ gọi là biến hóa cúng dường. Đệ tử Chân Phật Tông chúng ta hôm nay, đại bộ phận đều đã học biến hóa cúng dường, nhưng chưa thực hiện cúng dường quy mô lớn. Mới chỉ là quán tưởng biến một thứ nhỏ thành rất nhiều rất rất nhiều (mọi người cười).

Phương thức này có thể được chấp nhận trong tông phái của chúng ta, nhưng bắt buộc phải quán tưởng. Ví dụ như một quả táo biến thành một hàng quả táo, biến thành một bề mặt đầy táo, lại biến thành cả một không gian đầy táo, đảm bảo không thể ăn hết, đây chính là sự quán tưởng trong Mật giáo. Quán tưởng xong thì sẽ gia trì bằng chú cúng dường. Như vậy việc biến hóa là hoàn toàn có thể được.

🌟

Cúng dường đồ cúng phù hợp Cũng có người hỏi về đồ cúng dường, trong tu hành Mật pháp cần cúng gì thì thích hợp. Mọi người đã biết Hoàng Tài Thần và Tứ Thiên Vương, Ngũ Lộ Tài Thần và Tài Bảo Thiên Vương, Hắc Tài Thần, Hồng Tài Thần, Bạch Tài Thần, Hoàng Tài Thần, đều cần phải cúng dường rượu, với các vị này cúng dường rượu là đúng rồi. Ngoài ra, Bạch Tài Thần cần cúng nước tắm, cúng thế là đúng và phù hợp. Nói chung chúng ta nên biết các thứ mà các vị thần, Hộ pháp cần để cúng dường những thứ đó cho họ. Vậy đối với Phật Bồ Tát, bạn cần cúng gì? Đối với cúng Phật Bồ Tát thì không phải là Phật Bồ Tát thích cái gì, mà là bạn thích cái gì. Theo Mật giáo mà nói thì bản thân Phật Bồ Tát không thích không ghét, tâm thái của các vị vĩnh viễn giữ ở trạng thái giữa sự không thích và không ghét, vậy bạn sẽ cúng dường thế nào? Bạn cúng dường đồ gì các ngài cũng không thích, mà bạn cúng dường đồ gì các ngài cũng không ghét. Vậy thì cần cúng dường thứ mà bạn thích, cúng vậy là đúng và phù hợp. Bạn thích nhất những đồ gì, bạn cúng dường cái đó cho Phật Bồ Tát. Còn các vị thần thích thứ gì, bạn cúng thứ đó cho các thần thì các vị sẽ thích, các vị sẽ ban phúc cho bạn. Còn bạn thích nhất cái gì, bạn có thể sẵn lòng từ bỏ nó để cúng lên Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát sẽ vì tấm lòng của bạn như vậy mà trong lòng sinh ra hoan hỷ, như vậy có thể tương ứng.

🌟

Chúng ta ở Đài Loan, có rất nhiều người bái đồng tử, kiển tử tiên (tiếng Đài, chỉ linh hồn trẻ con). Chúng ta nói kiển tử tiên chính là đồng tử, bái đồng tử thì cần cúng cái gì? Theo tôi được biết thì trước đây cần cúng viên bi, dây chun, rồi thì bộ bài (mọi người cười). Bởi vì là linh hồn trẻ con nên thích chơi dây chun, thích chơi bi, thích chơi đánh bài, vậy thì cần cúng những thứ này cho "thần trẻ con", rất đơn giản, bạn cúng ba thứ này là phù hợp rồi. Tuy nhiên trẻ con thời nay thì không giống như vậy. Trẻ con bây giờ chơi trò chơi điện tử (mọi người cười), do vậy, đối với trẻ con bây giờ bạn nhất định cần cúng dường ti vi, trong đó còn phải cài sẵn trò chơi nữa, dù chúng nghiện hay không nghiện trò chơi thì cũng làm như vậy (Sư Tôn dùng ngón tay bấm bấm, mọi người cười). Đã là thứ mà chúng thích thì bạn cứ vậy mà làm, sẽ rất dễ tương ứng với chúng, sự thực là như vậy. Lại nói đến Đại Phạm Thiên Vương (Brahma Deva) ở trung tâm một thành phố ở Thái Lan. Mọi người đều biết rồi, đó là một vị Thánh có bốn mặt, gọi là Tứ diện Phật [ND: Phật bốn mặt]. Ngài có 8 cánh tay, nghe nói ngài thích nhất là xem thiếu nữ múa. Thế là rất nhiều người phát nguyện rằng sau này nếu tôi đạt được như điều tôi muốn, tôi sẽ múa trước mặt ngài cho ngài xem. Việc này chính là do Đại Phạm Thiên Vương thích, bạn cứ theo ý thích của ngài mà làm theo, liền được tương ứng. Thế nên bạn hãy nhớ, về những thứ để đem cúng dường, Hộ pháp thích cái gì thì bạn liền cúng cái đó. Còn đối với Phật Bồ Tát thì ngược lại, bạn thích cái gì thì bạn cúng cái đó, các ngài sẽ khởi tâm hoan hỷ mà hồi đáp lại bạn.

🌟

Ý niệm quán tưởng biến hóa Trên phương diện cúng dường mà nói, theo truyền thống Tây Tạng, mọi người cần dùng gạo, dùng gạo đặt trong lòng bàn tay để quán tưởng biến hóa. Nói chung rất nhiều vị từng học qua Tạng mật đều biết việc dùng gạo, bởi vì người Tây Tạng xem hạt gạo rất trân quý, thế nên dùng gạo để làm thứ quán tưởng biến hóa. Vậy sau khi cúng dường gạo xong thì sao? Họ rắc gạo đi liền biến thành nghìn nghìn vạn vạn hạt gạo được phát tán đầy khắp trong hư không. Do vậy khi khai quang, họ cũng dùng gạo để rắc. Khai quang rắc gạo chính là tượng trưng cho ánh sáng. Còn lúc quán tưởng biến hóa thì tượng trưng cho thất trân bát bảo. Riêng đối với chúng ta mà nói thì gạo là một thứ đồ tương đối bình thường, chúng ta không dùng gạo. Chúng ta chỉ dùng ý niệm để quán tưởng biến hóa thôi, còn bên Tạng mật thì có thể dùng gạo, bên Chân Phật Tông chúng ta thì không gắn chặt với việc dùng gạo, chúng ta dùng ý niệm. Khi bạn cúng, bạn quán tưởng biến hóa thành nghìn nghìn vạn vạn hạt gạo là có thể được rồi.

🌟

Tư lương của việc tu hành: Tiền, Bạn, Pháp, Địa Về phương diện Đại cúng dường thì kì thực còn tồn tại một ý nghĩa khác nữa. Cúng dường chính là tư lương, không phải là bạn cho Phật Bồ Tát tư lương, mà là để Phật Bồ Tát ban cho bạn được tư lương. Trong quá trình tu hành bạn muốn có được đầy đủ tư lương, bạn buộc phải biết pháp Đại cúng dường - cúng dường Mandala. Việc này để cầu Phật Bồ Tát ban phúc cho bạn có được nhiều tư lương, để bạn trong kiếp này có thể tận tâm tu hành. Với một hành giả chân chính, thì chỉ cần anh ta sau khi học được pháp đại cúng dường Mandala chân chính, sẽ có được sự ban phúc của Phật Bồ Tát. Lúc này tự nhiên sẽ xuất hiện thí chủ đến giúp đỡ anh ta tu hành, cho anh ta tư lương. Bạn muốn đóng cửa ẩn tu, nhưng không có người cúng dường bạn, ở trước mặt Phật Bồ Tát bạn thực hiện Đại cúng dường, tự nhiên bằng cách nào đó sẽ có người biết bạn có tâm tu hành. Thí chủ đó sẽ sẽ giúp bạn đi tu hành, giúp bạn có thể đóng cửa tu, cúng cho bạn thực phẩm, đưa cho bạn tiền để bạn có thể yên tâm mà đi tu hành. Ngày xưa rất nhiều đại thành tựu giả thực hiện Đại cúng dường trước chư Phật Bồ Tát, sau đó tự nhiên có rất nhiều thí chủ xuất hiện giúp đỡ họ tu hành. Tu hành có bốn thứ không thể thiếu, trong Mật giáo là như vậy đó! Có nhiều đại hành giả ngày xưa không cần đến những thứ này, anh ta nói rằng "Tôi tu khổ hạnh". Nhưng còn thời hiện đại, bạn bắt buộc cần có bốn thứ: Một là tiền! Trong Mật giáo có nhiều thứ rất quý giá. Ví dụ như tượng Phật, ba vị Phật ở vị trí cao nhất trên kia, mỗi bức tượng cũng có giá trị tới 20.000 đô la Mỹ. Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Phật A Di Đà, mỗi bức tượng đều 20.000 đô Mỹ. Bạn không có tiền thì làm sao bạn cúng Phật đây? Bạn cũng cần làm pháp cúng dường nữa, một số vật phẩm trong Mật giáo không phải là vàng thì cũng là bạc, kém một chút thì là đồng, tạm được thì là sắt, tiếp sau nữa thì là sứ, đất nung. Chỉ nói đơn giản một vài pháp khí như chuỗi tràng hạt, chày kim cang, chuông kim cang, chày một cổ, trống da người, hay như cái pháp tọa này, đàn thành trang nghiêm này, rất nhiều thứ không có tiền thì không làm được. Giả sử bạn muốn thực hiện cúng dường quy mô lớn cũng cần có tiền, do vậy thứ đầu tiên là Tiền.

🌟

Thứ hai là Bạn hữu! Bạn ở đây chính là đạo hữu, là bạn bè cùng tu hành. Bạn một mình tu hành mà không có thiện tri thức cùng sát cánh với bạn, bạn sẽ không có được trí huệ chân chính, một người tự lần mò thì không được. Bạn cần có bạn bè cùng học tập Phật pháp thật sự, người đồng hành cùng chân thành với nhau, hoàn toàn nhất tâm. Có bạn đồng tu mới có thể dễ dàng trao đổi những kinh nghiệm và trải nghiệm với nhau, có được sự hiểu biết chung, từ đó có thể nhanh chóng tu thành tựu Phật pháp. Tuy vậy, ngày trước có nhiều người không thể có được người "Bạn" này. Có người chồng mỗi lần ngồi xuống tu, vợ anh ta liền đem ngay một xô nước dội thẳng từ trên đầu xuống (mọi người cười), nếu không thì bà ấy cũng lấy vài viên đá trong tủ lạnh ra rồi thả từ cổ áo xuống cho đá chạy trên lưng. Trường hợp này chính là không có được người bạn đồng hành. Do vậy có được bạn đạo là vô cùng quan trọng, trao đổi hiểu biết, kinh nghiệm lẫn nhau, học hỏi được lẫn nhau, hơn nữa nếu có thiện tri thức ở bên cạnh thì là tốt nhất.

🌟

Thứ ba chính là Pháp! Bạn có tiền có bạn rồi, nhưng không có Phật pháp chân chính thì cũng không được. Do vậy các bạn buộc phải tìm được một vị thầy chân chính, vị thầy hiểu rõ Phật pháp, vị thầy đã đi qua con đường này rồi, do vậy thầy có thể dạy bạn cách đi trên con đường này từ đầu để thành Phật. Thầy dạy cho bạn phương pháp, dạy cho bạn kĩ xảo thì bạn mới có thể thành tựu Phật pháp được, điểm này cũng rất quan trọng.

🌟

Thứ tư là Địa điểm tu hành! Địa điểm bạn tu hành cũng rất quan trọng. Ví dụ như ở Biệt Thự Cầu Vồng đây rất là tốt, là một nơi nhiều linh khí. Địa điểm bạn tu hành vốn thường chính là nơi bạn sống. Nếu địa lý không tốt, không có linh khí, những người sống xung quanh lại rất phức tạp, bạn vừa thắp hương lên người ta liền chửi bạn rồi. Không có được thiên thời, thiên thời chính là hoàn cảnh xung quanh bạn mà không tốt, địa lý không tốt, con người xung quanh bạn cũng không tốt, thì từ đầu tới cuối bạn đều không thể có được điều kiện an tịnh để tu hành.

🌟

Bốn thứ Tiền, Bạn, Pháp, Địa có được từ đâu? Từ việc cúng dường. Bạn cần hiểu rằng Đại cúng dường sẽ đem lại Tiền, Bạn, Pháp, Địa. Bạn không có cách nào khác là cần nắm rõ về Đại cúng dường. Nếu bạn có chút lơ là việc cúng dường, thì Tiền, Bạn, Pháp, Địa, bạn sẽ chẳng thế nào có được. Tôi có thể nói như thế này. Trong kiếp này tôi đã thực hành rất nhiều Đại cúng dường. Giả sử tôi muốn đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh, thì kiếp sau tôi có thể tái sinh thành Quốc Vương. Vì sao có thể nói chắc chắn rằng kiếp sau sẽ tái sinh làm Quốc Vương? Do Quốc Vương có rất nhiều tiền mà! (cười) Tại sao tôi có thể đảm bảo điều này? Bởi vì trong kiếp này, tôi đã thấu hiểu pháp cúng dường chân chính, cúng dường bằng tấm lòng của mình. Tôi có thể chuyển hóa những thứ mà tôi cúng dường thành tài phúc như của một vị Thiên Vương. Bởi vì có nhiều tư lương như vậy, đương nhiên có thể sở hữu đất đai rộng lớn, và những người bạn đồng hành chính là chúng sinh. Sinh ra mà có nhiều tiền như vậy, có nhiều phương pháp rộng lớn như vậy để cai trị, bạn chẳng phải Quốc Vương sao? Tiền, bạn, pháp, địa mà bạn có sẽ hóa thành cả một quốc gia. Bởi vậy bạn tu hành cần phải thực sự hiểu về pháp Đại cúng dường Mandala. Sau này bạn sẽ là một Quốc Vương. Rất nhiều vị xuất gia biết cúng dường Phật Bồ Tát, rất nhiều đại sư Mật giáo biết cúng dường Phật Bồ Tát, họ đã học pháp Đại cúng dường. Kì thực rất nhiều vị Quốc Vương trước đây đều là những người xuất gia. Rất nhiều vị vua, rất nhiều tổng thống, tiền kiếp đều là những người xuất gia. Đó là bởi vì họ biết cúng dường, họ hiểu phương pháp Đại cúng dường. Cho nên sau này các bạn nên tu tập phương pháp Đại cúng dường này cho tốt đi! Nếu trong kiếp hiện tại này có được nhiều tư lương để tu hành, trong kiếp sau bạn sẽ thành người trung lưu phú quý, Mà không chỉ là người trung lưu phú quý, bạn sẽ thác sinh ra trong những gia đình của Thiên Vương, thành quyến thuộc của Tứ Thiên Vương. Thậm chí nếu có được nhiều tư lương hơn nữa để cúng dường, bạn sẽ trở thành Tài Bảo Thiên Vương [Vị vua trời chuyên ban phát về tài bảo do họ có quá nhiều phước báu tích tập được]. Do vậy pháp Đại cúng dường này vô cùng quan trọng.

🌟

Nói về ý nghĩa chủ yếu của mục này tôi muốn nhấn mạnh với mọi người thì chính là việc cúng dường toàn tâm và rộng rãi của bạn sẽ có được tâm hoan hỷ của Phật Bồ Tát. Lúc đó Phật Bồ Tát sẽ ban phúc và ban tư lương cho bạn, bạn sẽ có đầy đủ tiền, bạn, pháp, địa. Lúc đó việc tu hành của bạn sẽ không còn vấn đề gì nữa.

image

08. Tứ quy y

Tiếp theo chúng ta tu pháp Tứ quy y. Pháp Tứ quy y cũng tương tự như vậy, có chú, có ấn, có quán tưởng. Khi tu Tứ quy y, mọi người chú ý pháp Tứ quy y này chính là Sức mạnh nương dựa duy nhất của bạn. Sức mạnh nương dựa duy nhất nghĩa là bạn chỉ dựa vào duy nhất truyền thừa của bạn, dựa vào duy nhất vị thầy của mình, chính là Căn bản Thượng sư, chính là dòng truyền thừa của bạn. Tất cả sức mạnh được sản sinh ra trong dòng truyền thừa được gọi là Sức mạnh nương dựa duy nhất. Câu chú này là: Namo Guru bei. Namo Buddha ye. Namo Dharma ye. Namo Sangha ye. Khi bạn niệm câu chú này, trước hết chúng ta quán tưởng Thượng sư, Tam bảo, kinh điển ở trước mặt bạn xoay vòng biến thành một luồng ánh sáng trắng từ trong hư không chiếu xuống quán đảnh cho bạn. Thượng sư, Tam bảo, tất cả mọi kinh điển kết hợp lại thành một luồng ánh sáng trắng, từ trong hư không hướng về hành giả để quán đảnh. Quán đảnh dội xuống toàn thân ta đều thấm đẫm nước cam lộ, nước cam lộ tỏa ra ánh sáng màu trắng. Chúng ta quán tưởng từ các lỗ chân lông này tỏa ra rất nhiều sương khí màu đen. Bởi vì lúc này chúng ta đang được quán đảnh, nên nghiệp trên toàn thân ta đều từ những lỗ chân lông này mà thoát ra ngoài. Trước hết là chúng ta quán tưởng như vậy, quán tưởng xong thì niệm ba lần: Namo Guru bei. Namo Buddha ye. Namo Dharma ye. Namo Sangha ye. Các dòng truyền thừa của chúng ta Pháp Tứ quy y này gọi là Sức mạnh nương dựa duy nhất, nên Căn bản thượng sư [ND: root guru – vị thầy gốc] cực kì quan trọng. Bởi vì tất cả mọi pháp đều là do Căn bản Thượng sư truyền cho mọi người, sau đó mọi người sẽ dựa theo pháp đó mà tu. Bây giờ chúng ta nói về Thượng sư của bản thân Sư Tôn. Trước đây khi tôi ở Ballard (Washington) tu hành, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ trong hư không biến hóa xuất hiện, ngài đưa tôi đi đến Nepal, đưa đến một nơi gọi là Pon-je-pu ở Nepal, không biết các bạn có ai nghe nói đến nơi đó chưa? Ngài đưa tôi đến đó để quán đảnh, truyền pháp, ngài tiếp tục dạy cho Sư Tôn như vậy. Trong phái mũ đỏ (Nyingma) của Mật giáo, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là Thượng sư của Sư Tôn. Đối với dòng mũ vàng (Gelugpa), Sư Tôn đã quy y Thubten Dargye Thượng sư. Thubten Dargye Thượng sư ban cho tôi chiếc chày kim cương, chuông kim cương do dòng Gelugpa làm, chúng không lớn lắm. Thubten Dargye Thượng sư nói với Sư Tôn rằng hai chiếc chuông và chày kim cương này chính là để ban quán đảnh vô thượng mật cho con. Chiếc chuông kim cương và chày kim cương này tôi để ở trong phòng làm việc ở trên tầng của tôi. Ngoài ra, thầy Thubten Dhargye của tôi còn viết một bài kệ, chính là bài kệ mà tôi treo ở trong bếp, do chính tay ngài viết: "Thổ lộ Gia Đà Hộ Phạm Giáo", mấy chữ ở trên đó là Thổ Đăng Tự Như, Thổ Đăng Tự Như chính là Thubten Lama, là truyền thừa phái Gelugpa của Thubten Lama. Thổ Đăng Tự Như là pháp hiệu mà Căn bản Thượng sư của tôi đặt cho tôi, tôi chính là Thổ Đăng Tự Như. Trước đây có một khoảng thời gian tôi tự gọi mình là Thubten Chi-mo (Thổ Đăng Kì Ma), không có gì sai ở đây, bởi vì hồi đó ngài viết cho tôi một mảnh giấy, trên đó có viết hai chữ Thubten. Khi đó thầy cũng dùng cả chữ Chi, thầy nói với tôi rằng con thích chữ nào thì con chọn chữ đó. Tôi xem thử, trên đó có một chữ Ma, tiếng Đài gọi là Ma Ha, tôi liền thích cái chữ Ma viết trên đó, nên tôi chọn pháp hiệu là Thổ Đăng Kì Ma. Có lần tôi ở Hồng Kông, thầy lại nói với tôi, thầy nhận thấy rất nhiều đệ tử của thầy không tốt, là những đệ tử này này...! Thầy nói là thầy thích......, thầy thích nói một cách hơi thô và thẳng thừng (mọi người cười). Thầy nói đệ tử mang pháp hiệu có chữ Kì đều không tốt, tất cả đều là...., xem ra không nên nói ra, bởi vì nói ra cũng không khác gì tự mắng tôi (mọi người cười). [ND: Do Sư Tôn chọn tên Kì Ma.] Thầy nói không muốn có những đệ tử này nữa, tôi cần phải đổi tên lại từ đầu, thế nên chúng tôi đều bị khai trừ hết, tất cả những đệ tử mà tên có chữ Kì đều bị khai trừ. Tôi cũng không biết thầy có khai trừ tôi hay không. Tóm lại, thầy nói rằng đệ tử mà tên có chữ Kì là đều không tốt, đều muốn loại bỏ hết, rồi thầy bất ngờ viết ra cái tên Thổ Đăng Tự Như đưa cho tôi, tôi chỉ còn cách đổi pháp hiệu thôi. Bởi vì chẳng phải thầy nói các đệ tử có chữ Kì đều không tốt sao! Không tốt thì không cần nữa, nên thầy viết cho tôi tên mới là Thổ Đăng Tự Như. Ở đoạn sau ngài còn thêm mấy chữ - "Chân Chủ Liên Hương" (mọi người cười). Thế thì Sư Mẫu mới là người chủ, còn tôi biến thành phó rồi! (mọi người cười). Thế nhưng tôi là Thổ Đăng Tự Như cũng tốt, tự do tự tại, ai làm chủ, ai làm phó, tôi không quản (mọi người cười). Dù sao tên tôi được viết trước là tốt rồi… ha ha (mọi người cười). Thầy viết: Thổ Đăng Tự Như, Chân Chủ Liên Hương, bài kệ này là do thầy tự tay cầm bút viết, sau đó bảo đệ tử của Tín Pháp Đường bên Hồng Kông làm cho đẹp, đóng khung xong, làm cho sạch sẽ rồi treo lên. Thầy còn bảo tôi và thượng sư Liên Hương đứng ở trước bài kệ này của thầy chụp một tấm ảnh, chứng minh là thực sự đã treo nó lên rồi (mọi người cười), trong lòng thầy thực sự rất vui. Còn đối với dòng Hoa giáo (Sakya), trên phương diện truyền thừa thì mọi người đều biết rồi. Sakya Chứng Không cũng là một lão sư phụ, sau khi tôi gặp được thầy, thầy liền quán đảnh cho tôi, quán đảnh rất nhiều, sau đó quán đảnh cho tôi cả Quán đảnh Acharya (A-xà-lê) nữa. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng bán Quán đảnh Acharya cho tôi giống như vậy. Ở đây là Thubten Dargye Thượng sư quán đảnh cho tôi Vô thượng mật. Khi tôi gặp Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 của dòng mũ đen (Kagyu), ngài lại ban cho tôi quán đảnh Ngũ phương Phật. Quán đảnh Ngũ phương Phật này là lớn nhất, lớn hơn cả quán đảnh Acharya. Nếu như bạn hiểu Mật pháp, bạn sẽ biết rằng Ngũ phương Phật, còn gọi là quán đảnh Tôn Thắng Phật Đảnh Ngũ phương Phật là đỉnh cao của mọi quán đảnh, là quán đảnh cao nhất. Ở phía trên có một vị Phật, ở trước trán có một vị Phật, hai bên tai có hai vị Phật, ở sau đầu có một vị Phật, đây chính là Ngũ phương Phật. Còn vị nào lớn hơn cả Ngũ phương Phật? Có Phật A Đạt Nhĩ Mã, vị Phật nguyên thủy, là Phổ Hiền Vương Như Lai. Nhưng bản thân ngài là Pháp thân Phật, là Kim Cương Tổng Trì, hóa thân thực sự của ngài là Ngũ phương Phật. Bởi vậy sau khi bạn nhận quán đảnh Tôn Thắng Phật Đảnh Ngũ phương Phật rồi, còn có gì to lớn hơn Ngũ phương Phật đây? Không có đâu. Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật hợp lại thành một vị tôn, Đông phương A Sơ Phật. Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật còn được gọi là Bất Động Phật, Nam phương Bảo Sinh Phật, Tây Phương A Di Đà Phật, Trung Ương Đại Nhật Như Lai, cho nên quán đảnh Ngũ phương Phật này là lớn nhất, lớn hơn cả quán đảnh Acharya. Bởi vậy tôi nghĩ Đại Bảo Pháp Vương rất kì lạ, vì sao ngài vừa mới gặp tôi đã lập tức ban quán đảnh Ngũ phương Phật cho tôi. Đây vốn là quán đảnh này là lớn nhất, lớn hơn cả quán đảnh Acharya. Quán đảnh cần có thứ tự. Chúng ta biết rằng có bốn thứ tự quán đảnh là quán đảnh bí mật, quán đảnh mật, quán đảnh nội pháp, quán đảnh ngoại pháp. Cũng có rất nhiều loại quán đảnh khác là quán đảnh bình, quán đảnh chày kim cương, quán đảnh chuông kim cương, quán đảnh mũ miện, quán đảnh tên, đây đều là những quán đảnh thuộc hàng cao cấp khó có được, là những quán đảnh cần có thứ tự tu hành.

🌟 Tôn kính quy y sư phụ Chúng ta đã quy y vị thầy mà có thể dựa vào duy nhất rồi. Lúc tôi mới bắt đầu tu hành, tôi quy y Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh. Thầy dạy tôi rất nhiều thủ ấn. Tôi được các vị Phật Bồ Tát đưa đến trong hư không, tới Ma Ha Song Liên Trì. Còn Thanh Chân Đạo Trưởng (Liễu Minh Hòa Thượng), thầy dạy tôi rất nhiều Đạo pháp và Mật pháp, rất là nhiều. Còn ở Ngọc Hoàng Cung, tôi gặp một người phụ nữ mặc áo xanh, chính là Sư Cô Thiên Đại. Cô bảo tôi chắp tay lại, quỳ xuống, như thế này này, lập tức nhanh chóng có thể hợp nhất trời và người, có thể mở thiên nhãn. Đối với quãng thời gian quá khứ này của tôi, tôi đã gặp rất nhiều vị thầy. Mỗi người từ đó cho đến nay, tôi đều vô cùng cung kính. Mặc dù sau này sư cô Thiên Đại cũng quy y Chân Phật Tông, cũng quy y Sư Tôn, cô thường nói một câu này, chính là "thầy độ trò, trò độ thầy", nói chung là hết thầy lại trò, hết trò lại thầy mới là đúng. (cười) Có được một giai đoạn trải nghiệm, vị linh sư vô hình của tôi - Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, cứ tới nửa đêm lại tới dạy tôi suốt ba năm. Thầy dạy tôi vô cùng chi tiết tỉ mỉ. Có người chất vấn vì sao tôi không gọi ngài một tiếng là sư phụ, là Tam Sơn Cửu Hầu sư phụ, vì sao tôi chỉ luôn gọi là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh? Kì thực hai tiếng "tiên sinh" là một cách gọi tôn kính nhất trong thời kì cổ đại. Người hỏi này có nền tảng về văn hóa Trung Hoa kém quá, bởi vậy mới không biết hai tiếng "tiên sinh" này. Con người hiện đại khi viết Lư Thắng Ngạn tiên sinh thì chỉ là một cách gọi phổ thông mà thôi, nhưng vào thời cổ đại thì một người được gọi là "tiên sinh" thì vô cùng khó đạt được, vô cùng thanh cao. Một người có phẩm hạnh và chứng ngộ rất cao thì mới được gọi là "tiên sinh". Do vậy ngài tự xưng là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, còn có Cổ Liên tiên sinh, đều xưng là tiên sinh cả, đều là những vị Phật cổ vĩ đại đến để dạy Sư Tôn. Những sự việc này đều vô cùng chân thực.

🌟 Gia trì thông qua việc mắng mỏ Những dòng truyền thừa này của Sư Tôn đều là vô cùng chân thực. Trong cuộc đời này của tôi, tôi cũng nói thẳng với mọi người, ai tôi cũng đều dám mắng hết. Trong mọi trường hợp, tôi mắng chính là đang gia trì cho bạn đó! Thế thì có vấn đề gì đâu nhỉ (mọi người cười), đúng không? Một vị Phật mắng một chúng sinh, cũng là vì yêu thương, vì yêu quá thôi! Là vì thích người đó! Tôi không thích bạn thì tôi mắng bạn làm gì? Đúng không? Bởi vì tôi quan tâm tới bạn! Vì muốn tốt cho bạn, tôi mới mắng bạn. Bởi vậy mắng cũng được xem như một kiểu yêu thương, một kiểu gia trì, một kiểu yêu thương xuất phát từ trong lòng, lúc đó thầy mới mắng bạn vậy. Thầy của tôi cũng mắng tôi như vậy. Thubten Dargye Thượng sư mắng tôi rất nhiều. Tôi thường hay bị mắng nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn. Kì thực trước đây Sakya Chứng Không cũng mắng tôi rất thậm tệ, thầy cũng mắng tôi, rất nhiều sư phụ đều mắng tôi, nhưng tôi tuyệt đối không dám mở miệng nói lại. Trong cuộc đời này của Lư Thắng Ngạn tôi, tôi dám nói câu này, thầy của tôi có thể mắng tôi, tôi tuyệt đối không dám mắng lại thầy. Làm gì có chuyện đồ đệ gia trì cho sư phụ (mọi người cười), không thể có chuyện này đâu nhé! Làm gì có chuyện đệ tử gia trì cho thầy. Do vậy tôi nhận được sự gia trì của thầy, trong lòng rất rõ ràng. Việc thầy mắng tôi là rất nên có, và một câu nói tôi cũng không dám thốt lên. Trong lòng thì sao? Tôi luôn rất phục, bởi vì thầy chắc chắn là quan tâm đến bạn đó! Chắc chắn là nhớ đến bạn, còn khi thầy bạn không mắng bạn thì là không nhớ đến bạn đâu, cơ bản là bạn và thầy chẳng có mối quan hệ nào cả! Bởi vì thầy quan tâm đến bạn, yêu thương bạn, nhớ đến bạn, nên bạn xứng đáng bị mắng. Thế nên các sư phụ của tôi thường hay mắng tôi, thầy rất thích mắng tôi. Nhưng khi tôi thực sự đến chỗ thầy thì một câu thầy cũng không mắng, hơn nữa lại còn ôm chặt lấy tôi (mọi người cười). Thật đấy! Tôi nói tôi ở bên ngoài toàn nghe thấy sư phụ mắng tôi. Tốt, hôm nay tôi đến lạy sư phụ, tôi đi lạy sư phụ, thầy vui mừng không kể xiết, thầy nói thầy mắng tôi muốn chết, vậy mà tôi vẫn đến thăm thầy. Vì sao trong lòng thầy lại vui? Thầy nói: "Ai chà! Tên đệ tử này, mắng nó thế nào, nó cũng không bỏ đi, tên đệ tử này vẫn nhớ về sư phụ." Trong việc này có một sức mạnh, đó là Sức mạnh nương dựa duy nhất. Bạn dựa vào duy nhất người thầy đó thì bạn cần phải nghe lời thầy. Pháp mà thầy truyền cho, bạn chắc chắn cần phải trân trọng. Chú âm mà thầy đọc bạn không được thay đổi. Pháp mà thầy truyền xuống, bạn không được thay đổi. Vì sao vậy? Bởi vì thầy có lực gia trì của truyền thừa, ở bên trong có sức mạnh nương dựa duy nhất.

🌟 Chú âm và sức mạnh nương dựa duy nhất của truyền thừa Bạn có thể cho rằng những thứ mà bạn học được ở bên ngoài hay hơn thầy của bạn. Pháp của thầy bạn có khuyết điểm, chú âm của thầy có khiếm khuyết. Đương nhiên chú âm của tôi có khiếm khuyết (mọi người cười). Vì sao vậy? Bởi vì tôi là "củ khoai lang" [ND: tiếng lóng chỉ Đài Loan, vì đất nước Đài Loan hình củ khoai.], là người Đài Loan mà! Chú âm mà tôi đọc vẫn có khẩu âm của tiếng Đài mà! Nhưng nếu bạn dựa theo âm tiếng Tạng của người Tạng để đọc thì có chính xác được 100% không? Để tôi kể cho bạn biết, có ba loại phương ngữ ở Tây Tạng, ở Tây Tạng không phải chỉ dùng một loại ngôn ngữ, đừng nhầm lẫn. Có ba loại ngôn ngữ, các vị Hoạt Phật Tây Tạng (tulku) ở ba khu vực này niệm chú âm hoàn toàn không giống nhau. Vùng Himalayas có hơn 200 loại ngôn ngữ, chú ngữ mà mỗi vị sư phụ truyền dạy ở mỗi địa phương hoàn toàn không giống nhau. Bạn nói xem cái nào mới chính xác? Chưa kể chú âm của tiếng Tạng lại được dịch từ tiếng Phạn [ND: Sankrit ] mà ra, dịch từ tiếng Ấn Độ ra, còn tiếng Ấn Độ lại được truyền thừa từ Phật giáo nguyên thủy, từ âm tiếng Phạn nguyên thủy, âm đúng nhất là âm tiếng Phạn nguyên thủy. Thực tế bạn chỉ cần đúng theo chú âm của sư phụ truyền lại, bạn niệm đúng y như âm của chính sư phụ là bạn có thể đạt thành tựu được. Bạn niệm theo âm của thầy thì không có gì sai cả. Ở đây là sức mạnh gì? Đây chính là Sức mạnh nương dựa duy nhất, không phải sức mạnh gì khác. Những Mật pháp mà Sư Tôn truyền ở đây và những pháp ở bên ngoài có chỗ nào không giống nhau không? Có, có những chỗ không giống nhau. Thủ ấn có khác không? Có, có khác. Chú âm có khác không? Có, có khác. Quán tưởng có khác không? Có, có khác. Nhưng bạn muốn chọn lựa cái nào? Bạn cần chọn lựa truyền thừa trực tiếp, cái mà bạn được trực tiếp truyền cho, thì mới là chính xác! Đây là sức mạnh gì? Đây gọi là sức mạnh nương dựa duy nhất. Bạn đừng nói rằng Sư Tôn truyền cho bạn thủ ấn này, thì bạn đi tới đạo tràng khác lại thấy: hầy, thủ ấn của họ không giống của bạn này. Thủ ấn của họ có vẻ mới là đúng! Thủ ấn của Liên Sinh Sư Tôn này e rằng sai rồi, vậy thì bạn dùng theo thủ ấn của họ thôi. Như vậy là bạn sai rồi. Bởi vì vấn đề ở đây là Sức mạnh nương dựa duy nhất. Có lần tôi gặp một đệ tử, anh ta đến chỗ của tôi ở đây, anh nói: "Sư Tôn à!" Tôi hỏi: "Có chuyện gì vậy?" Anh nói: "Con ở đây, nhưng con cũng quy y một sư phụ khác ở bên ngoài kia rồi." Tôi nói: "Rất tốt! Ngài ấy dạy con cái gì rồi?" Anh nói: "Thủ ấn Uế Tích Kim Cương của thầy ấy có vẻ như không giống với thủ ấn của Sư Tôn dạy." Tôi nói: "Có phải là như thế này không? Vậy con làm thế nào?" Anh liền nói: "Sư Tôn, con thấy thầy ấy nhiều tuổi hơn thầy đó!" (mọi người cười) Tôi nói: "Con nói thế là có ý gì?" (mọi người cười) Ý của anh ta chính là ai tuổi cao hơn thì người đó thắng (cười). Bởi vì vị sư phụ kia tu pháp Uế Tích Kim Cương, nên tôi liền nói với đệ tử kia rằng, con thử kết thủ ấn cho ta xem nào. Anh liền đưa tay kết ấn ..... (mọi người cười). Anh vừa kết ấn xong thì lập tức giải ấn, buông tay ra. Anh ta có ý gì đây? (mọi người cười). Anh nói thủ ấn này không thể dạy cho Sư Tôn được (mọi người cười). Ý của anh chính là thủ ấn này không thể dạy cho Sư Tôn, đây là do tôi tự học được, làm sao tôi có thể dạy lại cho thầy, có đúng vậy không? Ai chà, trong lòng tôi cảm thấy rất nực cười. Kì thực, tôi đã học thủ ấn Uế Tích Kim Cương từ rất lâu, rất rất lâu rồi. Tôi học từ lão hòa thượng Huệ Tam, ngài cũng là sư phụ của Sư Tôn. Ngài học pháp Uế Tích Kim Cương. Lão hòa thượng Huệ Tam đã viên tịch rồi, đó là vào lúc tôi thọ Bồ Tát Giới, ngài là một trong ba vị sư phụ khi đó. Bởi lão hòa thượng Huệ Tam học pháp Uế Tích Kim Cương nên ngài đã dạy thủ ấn cho tôi. Thủ ấn này kết như thế này này (Sư Tôn thị phạm kết thủ ấn). Đây là thủ ấn Uế Tích Kim Cương. Còn anh đệ tử kia sau khi đi tới nơi khác học xong, anh liền sợ tôi học trộm, anh kết rất nhanh, rồi lập tức buông tay ra, sợ tôi học trộm mất (cười). Hành động như vậy cũng không ra sao cả, tôi cho rằng việc này cũng không có ý nghĩa gì cả. Những thứ mà Sư Tôn đã học được là vô cùng vô tận. Bạn xem, tôi có bao nhiêu sư phụ, 20 vị, 20 vị thầy. Những thứ mà tôi đã học được rất nhiều, tôi đã học hai mươi mấy năm rồi, lẽ nào một cái thủ ấn Uế Tích Kim Cương tôi cũng không biết sao? Bởi vì anh ta có tâm so sánh như vậy, hơn nữa lại đi theo người khác học, anh ta không chắc có thể có được Kim cương Mật pháp chân chính. Có lẽ sau này anh ta ở chỗ của Sư Tôn đây học hành cẩn thận, tôi sẽ truyền pháp cho. Ví dụ tôi truyền Bất Động Minh Vương kim cương pháp, mọi người đều biết trong pháp này có rất nhiều khẩu quyết, rất nhiều bí mật. Pháp mà tôi dạy, các bạn cứ y theo như vậy mà học là sẽ có được Sức mạnh nương dựa duy nhất, chính là sức mạnh gia trì của truyền thừa. Bạn theo người khác học, hoặc là bạn nghe bên này một câu, nghe bên kia một câu, thì chỉ là thay đổi lớp vỏ bên ngoài thôi, còn Sức mạnh nương dựa duy nhất chắc chắn sẽ không còn nữa.

🌟 Lực gia trì của Thượng sư Các bạn đã từng đọc cuốn sách tên gọi hình như là "Các vị đại sư của Himalayas" chưa? Lúc ở Đài Loan tôi đã đọc cuốn sách này rồi, thực tế là khoảng mười mấy năm trước tôi đã đọc nó, nó được viết bởi một vị Lama Tôn giả. Trong cuốn sách này ngài có một chương rất quan trọng, không biết các bạn có chú ý thấy không? Có một vị Thượng sư trèo lên một cái cây, trên cây có một tổ ong. Vị Thượng sư kia nói với con ong: "Lũ mi sẽ không đốt ta, lũ mi sẽ không đốt ta." Ông trèo từ trên cây xuống, và lũ ong không đốt ông tẹo nào. Kì thực lũ ong đó rất dễ đốt người ta. Đệ tử của ngài nhìn sư phụ trèo lên cây, ong trong tổ ong không cắn ông, thấy rất kì lạ, liền hỏi sư phụ: "Thầy niệm chú gì mà bầy ong không đốt thầy?" Vị thượng sư kia nói với đệ tử: "Chỉ có một câu này thôi con hãy nhớ lấy. Đó là trèo lên cây nói với ong trong tổ là đừng đốt tôi, chúng sẽ không đốt con đâu." Thế là anh chàng đệ tử thực sự trèo lên cây, các bạn đừng có cười! (cười) Anh trèo lên cây rồi và nói với bầy ong: "Sư phụ tôi dạy, bảo với lũ mi sẽ không đốt ta." Ồ! Lũ ong đó tất cả đều ngoan ngoãn không đốt anh ta. Kết quả tiếp sau, anh thấy thế này thì tốt quá, anh ta lập tức chạy đi dạy cho người khác. Đệ tử đó lập tức đi dạy cho người khác rằng: "Anh chỉ cần trèo lên cây đó, rồi nói với lũ ong: "Lũ mi sẽ không đốt ta", thì chúng sẽ không đốt anh đâu." Những người khác nghe xong lời anh, sau đó cũng thực sự trèo lên cây, nói với bầy ong rằng: "Lũ mi sẽ không đốt ta." Kết quả là bị ong đốt muốn chết (mọi người cười), mà là cùng một câu nói thôi! Tôi nói cho mọi người biết, vì sao cùng một câu nói mà có người nói thì có hiệu quả, có người nói thì lại không có hiệu quả? Người nói có hiệu quả là do có lực gia trì của Thượng sư, còn người khác nói không có hiệu lực là do không có lực gia trì của Thượng sư. Bởi vậy, khi một Mật pháp được đưa ra, người dạy pháp phải là người thầy. Bạn phải có lực gia trì của Thượng sư thì Mật pháp này mới có hiệu quả. Hôm nay có vài người đến học Sư Tôn mấy pháp này. Nếu bạn chỉ là cứ từ trong sách chọn ra lấy vài pháp để học, nhưng do không có Sức mạnh nương dựa duy nhất, không có lực gia trì của Thượng sư thì sẽ mất đi công hiệu, không có hiệu quả gì cả. Thế nên việc truyền dạy trong Mật giáo thì quán tưởng, chú ngữ, thủ ấn đều phải cần được sư phụ dạy và quán đảnh. Nguyên nhân nằm ở đâu? Có nhận quán đảnh thì mới có sức mạnh gia trì của Thượng sư, khi đó bạn tu pháp mới dễ tương ứng, nguyên nhân chính là như vậy. Ngày xưa khi Milarepa tu học Lama Ngokpa, pháp mà ngài học không hề có chút tương ứng gì. Mãi sau này chỉ có Thượng sư Marpa ban quán đảnh cho, ngài quay trở về tu luyện thì mới có được tương ứng. [ ND: Sau một thời gian dài thử thách nhưng Đại dịch giả Marpa vẫn không dạy pháp cho, Milarepa rất đau đớn và buồn khổ. Lúc này sư mẫu (vợ của ngài Marpa) thương Milarepa quá, bà liền trộm thánh tích, giấu đồ và giả mạo chỉ lệnh từ chồng, giả yêu cầu của Marpa lệnh cho đại đệ tử lớn là Lama Ngokpa thay mặt thầy truyền pháp cho Milarepa. Các vị này thường đã tập pháp là sẽ lập tức có tương ứng ngay. Lama Ngokpa vốn đã là một đại thành tựu giả, truyền pháp xong nhưng Milarepa tập mãi vẫn không thấy dấu hiệu thành tựu gì. Ngokpa rất ngạc nhiên tra hỏi thì mới biết Thượng sư Marpa chưa đồng ý trao pháp cho Milarepa.] Ngài học cùng một pháp giống nhau, bản thân Ngokpa Lama cũng là đệ tử của đại sư Marpa, pháp được học tuy là giống nhau, nhưng tu vẫn sẽ không tương ứng được. Trừ phi Căn bản Thượng sư (vị thầy gốc) ban quán đảnh cho, có được Sức mạnh nương dựa duy nhất thì mới có thể tương ứng. Bởi vậy ở mục này chúng ta niệm: "Namo Guru bei - Namo Buddha ye - Namo Dharma ye - Namo Sangha ye", chính là sản sinh ra Sức mạnh nương dựa duy nhất. Sức mạnh này là sự kết hợp hoàn toàn giữa Căn bản Thượng sư và đệ tử, là một dạng sức mạnh nương dựa duy nhất vào nhau không thể nào phân tách. Sức mạnh này chính là được sản sinh ra từ trong mấy câu chú Tứ quy y. Thượng sư quán đảnh cho bạn, Tam Bảo quán đảnh cho bạn, tất cả mọi Mật pháp quán đảnh cho bạn. Khi bạn niệm câu chú Tứ quy y này là bạn hoàn toàn yêu cầu Thượng sư, Tam Bảo, tất cả mọi Phật pháp ban quán đảnh cho bạn. Nếu không làm như vậy, sẽ không có Sức mạnh nương dựa duy nhất, thì cũng vô hiệu thôi. Niệm chú này cần phải niệm 1 triệu biến mới có thể thực sự sản sinh ra Sức mạnh nương dựa duy nhất. Đây là một thực hành vô cùng quan trọng trong Tứ gia hành. Rất nhiều đệ tử không hiểu tầm quan trọng của chú Tứ quy y "Namo Guru bei - Namo Buddha ye - Namo Dharma ye - Namo Sangha ye" hoàn toàn nằm ở việc thỉnh cầu quán đỉnh gia trì của Thượng sư, Tam Bảo, tất cả mọi pháp Phật. Khi chúng ta tập pháp Tứ quy y, trước tiên cần quán tưởng, rồi mới trì chú. Quán tưởng cũng cần rất rõ ràng, Thượng sư, Phật, pháp, tăng, Tam Bảo, tất cả mọi Phật pháp, kết hợp lại thành một vùng ánh sáng trắng lớn chiếu rọi vào quán đỉnh cho bạn, sau đó mới đọc chú Tứ quy y. Trên thế giới này, bây giờ muốn tìm một vị thầy giỏi và đệ tử giỏi cũng không dễ dàng gì, thầy và trò cũng không dễ gì tìm được tới nhau. Nhưng chỉ cần bạn có tâm hướng đạo, bạn hướng về chân lý, hướng về ý thức vũ trụ, có tâm mong muốn thành tựu, bạn chỉ cần hết sức chân thành thỉnh cầu, các vị sư phụ đều sẽ truyền pháp cho bạn, chắc chắn sẽ quán đảnh, hơn nữa luôn luôn ở bên cạnh bạn. Bởi vậy một đệ tử chân chính, chỉ cần sau khi đã chuẩn bị tốt rồi thì vị thầy này nhất định sẽ hiện thân. Đừng sợ không có Thượng sư đích thực đến truyền pháp cho bạn. Chỉ cần đệ tử chuẩn bị mọi thứ đều tốt rồi, Thượng sư sẽ xuất hiện trước mặt người đó, việc này vô cùng quan trọng. Tuy vậy đệ tử có đầy đủ căn khí thượng đẳng cũng rất hiếm. Muốn có được một vị thầy chân chính thực sự chứng đắc cũng rất hiếm. Trên thế giới này, Thượng sư đã thực sự chứng đắc cũng không nhiều.

🌟 Giới nguyện Samaya Trước khi bạn quy y, nhất định cần phải nhận ra và tìm ra được thầy của chính mình. Nhưng sau khi quy y xong, bạn tuyệt đối không được tìm những khuyết điểm của sư phụ. Đừng cho rằng tôi không còn khuyết điểm, tôi thực sự có khuyết điểm, tôi cũng không cho rằng thầy của tôi không có khuyết điểm gì cả, thầy của tôi cũng thực sự có khuyết điểm. Đừng cho rằng thầy của bạn nổi cơn tức giận là bạn liền nghĩ ngay vị thầy này không tốt rồi, không thể được. Cũng đừng cho rằng thầy của bạn làm sai ở đâu liên nghĩ rằng sư phụ này không tốt. Sau khi bạn đã quy y, bạn phải không được hối hận. Bạn có biết không, Mật giáo chính là như vậy, giữa Sư phụ và Đệ tử có tồn tại giới nguyện, chính là giới nguyện samaya để hoàn toàn hợp nhất Thượng sư và đệ tử. Khi bạn phê bình sư phụ của chính mình, hoặc hủy báng miệt thị sư phụ của chính mình, cũng chính là bạn đang hủy báng miệt thị bản thân. Giới nguyện Samaya bền chắc không thể phá bỏ. Do đó trước khi muốn quy y, bạn cần hiểu cho rõ ràng, tuyệt đối không được hối hận sau khi đã quy y rồi. Tôi nói với mọi người câu này, trước khi muốn quy y, bạn phải nhận thức rõ ràng. Sau khi quy y, tuyệt đối không được phá giới. Trong Mật giáo có giới nguyện Samaya, giới này rất quan trọng, không thể phá hủy. Con người đều có khuyết điểm. Sư phụ của tôi cũng có khuyết điểm đó thôi! Chỉ là tôi không tiện nói ra mà thôi, đúng không? Những khuyết điểm đó của sư phụ chúng ta cũng có phải học chúng đâu! Chúng ta chỉ học ưu điểm của thầy thôi. Mà kì thực chúng ta chỉ học Phật pháp của thầy, vì thầy hiểu Phật pháp và dạy lại cho chúng ta, chúng ta sẽ có được Sức mạnh nương dựa duy nhất để chúng ta đi tu được thành tựu, chỉ đơn giản như vậy thôi. Bạn làm sao quản được sư phụ bạn như thế nào? Bạn muốn quản sư phụ ca hát, bạn muốn quản sư phụ nhảy múa, bạn muốn quản sư phụ uống rượu ư? Những việc này không cần bạn phải quản thầy. Bạn cũng không học thầy những điều này, cái bạn học chính là Phật pháp mà! Đừng có nhầm lẫn. Tôi có rất nhiều sư phụ, và mỗi vị sư phụ đều có cách sống riêng, tôi cũng chẳng bận tâm. Tôi chỉ học Phật pháp của thầy, tôi cung kính thầy, cung kính Phật pháp của thầy. Bạn có được Sức mạnh nương dựa duy nhất, giữa thầy và trò có sức mạnh nương dựa duy nhất, sức mạnh này cần liên kết lại với nhau và gia tăng lên, cần rất kiên cố chắc chắn không thể phá bỏ. Khi bạn đã quy y rồi là đã có giới nguyện Samaya, có Sức mạnh nương dựa duy nhất cực kì vĩ đại. Bạn nghe Phật pháp của thầy rồi đi tu sẽ có hiệu lực, đây chính là thầy đã truyền cho bạn lực gia trì của truyền thừa đó! Mọi người đã hiểu giữa Thượng sư và đệ tử trên thực tế là mối liên hệ trực tiếp, rất trực tiếp rất thân mật. Chú Tứ quy y chính là như vậy, bạn tu Tứ quy y xong, lực gia trì sẽ càng được tăng trưởng và rất kiên cố.

09. Mặc giáp hộ thân

Chúng ta lại nói tiếp về Mặc giáp hộ thân. Để thực hiện Mặc giáp hộ thân, chúng ta kết ấn chắp tay kim cang như thế này, và niệm câu chú: "Ôm bua-rua lan chưa-li" (7 biến), chạm ấn vào vị trí thiên tâm, cổ họng, tim, vai trái, vai phải, đưa ấn trở lại đỉnh đầu và giải ấn. Khi giải ấn thì cần quán tưởng, quán tưởng Kim Cang Tát Đỏa hoặc quán tưởng Hộ pháp ở đàn thành biến hóa thành bốn vị phía trước, sau, trái, phải bảo vệ cho bạn tu pháp. Việc này chính là để phòng ma quỷ. Phòng ma quỷ là sao? Chúng ta còn gọi là phòng hộ lực - phòng là phòng ngừa trong không gian, hộ là bảo hộ, lực là sức mạnh. Khi chúng ta làm động tác Mặc giáp hộ thân, xem ra có vẻ rất đơn giản, chỉ có chắp tay lại thành thủ ấn kim cang, chạm vào thiên tâm, họng, tim, vai trái, vài phải, trở về đỉnh đầu giải ấn.

🌟 Tam nghiệp chuyển tam mật. Một thủ ấn, một câu chú, một quán tưởng, đó chính là Mật pháp. Nhìn chung mà nói, Phật pháp không tách rời khỏi ba yếu tố này, quán tưởng chính là bí mật của "Ý", chú ngữ chính là bí mật của "Khẩu", thủ ấn chính là bí mật của "Thân", bí mật của thân thể. Thân - Khẩu - Ý thanh tịnh chính là bí mật của bản thân Đại Nhật Như Lai, chính là bí mật của Như Lai. Dùng bí mật của Như Lai hóa thành bí mật của khẩu, bí mật của ý và bí mật của thân, việc tu hành mà hành giả giữ cho tam mật hợp nhất này chính là dùng tam mật để thanh trừ tam nghiệp. Nói một cách đơn giản là dùng tam mật để thay thế cho tam nghiệp, việc thay thế này chính là chuyển tam nghiệp thành tam mật, chính là từ phàm phu biến thành Như Lai. Mật pháp chính là dựa trên điều này để tu, gọi là pháp của Mật giáo, hoàn toàn nằm ở vấn đề tu thân - khẩu - ý thanh tịnh.

🌟 Thụy mộng đại thủ ấn Hiển giáo chưa từng nghe nói đến Mặc giáp hộ thân, chỉ trong Mật giáo mới có, trong đó có rất nhiều rất nhiều phương pháp phòng hộ. Ví dụ như Sư Tôn có dạy qua mọi người về Thụy mộng đại thủ ấn, đây chính là lúc bạn đi ngủ sẽ thực hiện một công phu để bảo vệ. Dùng tư thế nằm kiểu sư tử, trì chú, quán tưởng Bổn tôn hoặc Thượng sư phát ánh sáng chiếu đến bạn. Rồi chính bạn lại phát ra ánh sáng đỏ từ cổ họng mình, biến thành một lớp màn màu đỏ để che chắn, giúp bản thân có thể ngủ một giấc ngon lành, tu xuất miên quang. Đây chính là sức mạnh phòng hộ của Thụy mộng đại thủ ấn. Khi tu hành, bạn thực hiện phòng hộ, quán tưởng thỉnh Kim cang thần ở bốn mặt bảo vệ cho bạn, kết thủ ấn, trì chú, quán tưởng. Nếu tất cả bạn đều làm đủ tốt, tập trung quán tưởng đủ sâu, kết thủ ấn đủ chính xác, niệm chú cũng đủ tốt, tự nhiên bạn sẽ có được sự bảo hộ của thần Hộ pháp.

🌟 Cần làm mặc giáp hộ thân ở đâu? Bình thường có rất nhiều nơi bạn cần chú ý đến và cũng cần tu mặc giáp hộ thân, bởi vì không phải chỉ có mỗi lúc tu pháp thì mới có ma quỷ đến để quấy nhiễu. Ở những nơi nào sẽ có ma quỷ tới quấy nhiễu? Khi bạn đến bệnh viện cần chú ý, rất nhiều người ở trong bệnh viện có vong linh bám theo thân. Vì sao họ lại mắc bệnh? Bởi vì linh hồn bám theo thân, quỷ thần làm hại, bởi vậy mới sinh bệnh. Khi đến bệnh viện thăm bệnh nhân, trước đó bạn hãy thực hiện mặc giáp hộ thân, bằng không lúc bạn đi thăm người bệnh, các vong linh sẽ theo bạn trở về nhà. Thế là chính bạn cũng biến thành bị vong linh bám theo thân. Mỗi lần chúng ta giúp siêu độ vong linh bám theo thân đều rất vất vả, bởi vậy khi cần đến bệnh viện, trước tiên hãy làm Bia giáp hộ thân. Bạn đến lò giết mổ, các oan hồn ở lò giết mổ rất nhiều, do vậy cần làm Bia giáp hộ thân. Đến những nơi đó mà bị oan ma bám theo thì phiền phức lắm! Do vậy trước đó cần làm mặc giáp hộ thân. Đi tới rạp chiếu phim, rạp hát, cũng cần phải làm mặc giáp hộ thân. Vì sao bên trong rạp hát lại có ma? Bạn có lẽ không biết rằng bên trong rạp hát có nhiều nhất chính là cô hồn dã quỷ. Những ma quỷ sống lang thang là thích đến nơi đó nhất, bởi vậy cần làm mặc giáp hộ thân. Ngoài ra, đi tới đám cưới hoặc đám tang đều cần làm mặc giáp hộ thân. Chính là đám cưới, là khi bạn kết hôn đó! Khi đó các vong linh tổ tiên sẽ đến để chúc mừng. Còn khi ai đó chết thì họ lại đến để mở hội chúc mừng sinh nhật, chúc mừng người đó sinh vào thế giới của họ. Khi bạn kết hôn thì tổ tiên cũng muốn đến tham gia hôn lễ của bạn, họ rất quan tâm đến cháu chắt của mình, đến việc đại sự của cháu chắt. Vì vậy tới đám cưới hoặc đám tang đều cần làm mặc giáp hộ thân. Những nơi vui chơi mại dâm thì tốt nhất đừng nên tới, còn đã đi thì trước đó cần làm mặc giáp hộ thân (mọi người cười). Ở những chỗ đó có ma quỷ gì nhiều nhất? Là quỷ sắc đó! (mọi người cười) Bạn vốn dĩ là pháp thân Phật thanh tịnh, một khi đi tới đó, quỷ sắc bám theo thân, làm thế nào cũng không thể thanh tịnh lại được. Sự thanh tịnh mất đi thì bạn cũng cứ thế trượt dài đi. Chính vì những nơi đó có quỷ sắc nên cần làm Bia giáp hộ thân. Nói chung đối với những chỗ này, bạn không chỉ cần làm mặc giáp hộ thân mà có lúc bạn cũng cần niệm Bách tự minh chú. Đến khu vực xung quanh các chỗ này thì bạn hãy niệm Bách tự minh chú, việc này sẽ rất tốt cho bạn. Còn đối với họ, những u linh, những chúng sinh đó, cũng đều có lợi ích.

🌟 Bảo vệ lúc đi ngủ Mặc giáp hộ thân có thể được dùng ở rất nhiều nơi. Có đệ tử hỏi Sư Tôn: "Sư Tôn có pháp nào đặc biệt không? Xin dạy chúng con lúc buổi tối đi ngủ, không cần phải làm Thụy mộng đại thủ ấn nữa, Thụy mộng đại thủ ấn dài quá." Anh ta nói có lúc lên giường đi ngủ thì đã rất mệt rồi, nên muốn làm Thụy mộng đại thủ ấn thì cũng cần ngắn và nhanh như Bia giáp hộ thân thôi. Do pháp Thụy mộng đại thủ ấn dài quá, mới thực hiện được một nửa thì anh đã ngủ mất rồi do quá mệt. Bạn biết đấy, ban ngày làm việc vất vả quá, hễ nhìn thấy cái giường là đã mệt muốn chết rồi, lên giường lại còn phải tu pháp nữa, ai dà! Cái Chân Phật Tông này cũng làm người ta mệt chết mất (moi người cười), ngủ thì ngủ thôi, lại còn phải làm Thụy mộng đại thủ ấn gì nữa. Bạn không biết sao, lúc ngủ là lúc dễ mất đi ý thức, trong khi ban ngày bạn có thể tỉnh táo mà giữ được. Ví dụ như Sư Tôn, ban ngày đảm bảo 100%, còn buổi tối cũng đảm bảo 100% là tỉnh giác. Còn các bạn thì sao? Tôi không dám nói. Ban ngày bạn có thể tỉnh táo được 100%, buổi tối chưa chắc đã có thể giữ được ý thức. Buổi tối muốn bảo vệ được mình thì nhất định cần có hộ thân, cần có sức mạnh phòng hộ, bởi khi đó ma quỷ đến muốn lấy cắp khí của ta. Ta vừa đi ngủ là mệt muốn chết, rõ ràng đã ngủ rất lâu nhưng càng ngủ càng mệt. Ban ngày rõ ràng bạn rất tỉnh táo, nói chuyện đạo lý với người ta như thánh hiền, tới buổi tối vừa ngủ một cái thì trở nên mơ hồ. Thế là xong rồi, dù có tự đập vào đầu mình xem vì sao lại xảy ra "chuyện này, chuyện kia", nhưng buổi tối lên giường đi ngủ thì đã lại mơ hồ như thế. Bởi vậy mới nói buổi đêm khi ngủ rất dễ mất đi ý thức tâm thần.

🌟 Quán tưởng Tam tự chú Mặc giáp hộ thân có một cách thực hiện đơn giản, hôm nay tôi sẽ dạy mọi người. Oa! Mọi người đều có được pháp bảo rồi (mọi người vỗ tay). Trong xã hội hiện đại mọi người đều thích thứ gì đơn giản, cái gì dài và chán, phiền phức quá thì không thích. Khi vừa lên giường, bất kể là bạn nằm theo tư thế nào, đầu tiên hãy quán tưởng ngón chân cái của bạn kéo dài ra, cả hai ngón chân cái nhập vào với nhau đều kéo dài ra, kéo ra rất rất dài. Rồi lại quán tưởng đỉnh đầu mình, ngay đỉnh đầu, chính là chỗ thiên khiếu (huyệt đỉnh đầu) cũng kéo dài ra. Có vẻ giống như là bạn biến thành "độc giác" (một sừng) đúng không? Bạn không cần phải lo lắng gì nhiều như vậy (cười). Ngón chân cái nhập vào nhau kéo dài ra, chỗ thiên khiếu cũng kéo dài ra, bạn bắt đầu biến hóa, bộ phận đầu gối biến thành năm mũi nhọn. Khu vực từ đầu gối trở lên cho đến cổ biến thành hình dạng của thân chày kim cang, phần đầu thì cũng biến thành năm mũi nhọn. Bạn có biết bạn đã biến thành cái gì không? Chính là một chiếc chày kim cang. Lúc này, bạn đã biến thành một chiếc chày kim cang rồi. Năm mũi nhọn này chụm lại với nhau rồi chĩa ra, phần cơ thể biến thành đoạn thân của chày kim cang, phần đầu gối cũng biến thành năm mũi nhọn [rồi chụm lại chĩa ra]. Ngón chân cái biến thành phần mũi nhọn kéo dài của chày kim cương, cả hai đầu nhọn đã chụm lại của chày đều chĩa ra. Trước tiên bạn cần quán tưởng chính mình biến hóa như thế, rồi niệm Tam tự chú: "Lang. Yang. Kang". Bạn cứ liên tục niệm chú âm này, cứ niệm cho tới khi ngủ luôn cũng được, hoặc không thì niệm 21 biến, 49 biến, 108 biến, cứ niệm cho tới khi ngủ luôn. [Lang. Yang. Kang: chính là chú của 3 chủng tự: Ram - Yam - Kham] Khi bạn quán tưởng, cần quán tưởng cực kì rõ ràng, rồi bạn lại niệm chú ngữ, thì trên giường của bạn sẽ xuất hiện một chiếc chày kim cang đang nằm ngủ. Vậy là bạn biết rồi đó! Chày kim cương nằm đó ngủ, nằm trên giường. Ma quỷ nào tới mà trông thấy, oa, đây chính là báu vật để phá ma đó! Chúng sẽ không dám lại gần, bởi vì bạn đã niệm Tam tự chú - Lang. Yang. Kang. Chữ Kang này chính là kiên cố, kiên cố và rắn chắc, bạn trở nên vô cùng chắc khỏe, trở thành một chiếc chày kim cang nằm trên giường, ma quỷ không dám lại gần xâm phạm. Thực hành này là dễ nhất, đơn giản nhất, là sức mạnh phòng hộ "easy" [dễ] nhất. Tu pháp này còn có thể trường thọ, vừa kiên cố vừa trường thọ, vô cùng tốt.

🌟 Chúng ta cần biết cách ứng dụng pháp Bia giáp hộ thân: Bạn có thể lấy quần áo ra, niệm "Om, bo-ru-lan, ze-li" bảy biến. Niệm bảy biến "Om, bo-ru-lan, ze-li" gia trì vào mũ nữa. Thế là quần áo biến thành bộ áo giáp, mũ biến thành mũ cối, chúng ta gọi là mũ thép, mũ cối, còn thân thể thì biến thành bộ áo giáp thực sự. Mọi người cần biết cách ứng dụng Bia giáp hộ thân vào cuộc sống. Bản thân ma quỷ nói chung đều có pháp lực mạnh, nhưng khi bạn biết làm Bia giáp hộ thân rồi, sẽ có thần hộ pháp bảo vệ bạn, việc tu hành của bạn sẽ không còn gặp ma chướng. Mỗi hành giả đều phải biết về sức mạnh phòng hộ, ở đây chính là Bia giáp hộ thân. Bạn có thể quán tưởng chày kim cương có màu vàng kim, chày kim cương bằng vàng này cộng thêm niệm Lang. Yang. Kang. Hôm nay những ai ở tại đây nghe và biết pháp này, sau đó trở về và thực hiện như thế, sẽ sản sinh ra sức mạnh phòng hộ. Tôi nhắc lại, khi đi ngủ bản thân nằm trên giường biến thành chày kim cương, ma quỷ không dám đến gần, chính là sức mạnh bảo vệ tốt nhất. Hôm nay tôi đã giảng xong ba mục rồi, là Đại cúng dường, Tứ quy y và Bia giáp hộ thân. Kì thực vẫn còn có rất nhiều kiểu pháp Bia giáp hộ thân, ví dụ như Tứ linh hộ thân pháp, pháp này tôi đã từng viết trong sách rồi. Ngoài ra còn có nhiều pháp hộ thân khác nữa cũng đều có hết. Trên thực tế mọi người chỉ cần biết pháp Bia giáp hộ thân của Kim Cương Tát Đỏa này là đã rất tốt rồi. Vào buổi tối lại làm pháp phòng hộ bằng quán tưởng chày kim cương nữa. Tôi tin tưởng rằng mọi người sẽ cực kì kiên cố vững chắc. Tương lai mọi người tu hành đều sẽ đạt được Phật quả rất tốt. Om mani padme hum.

image

[ND: Một ví dụ về chày kim cương để các bạn có thể quán tưởng khi ngủ. Bạn có thể tìm các hình chày kim cương khác trên mạng có họa tiết đơn giản hơn nếu muốn.]

10. Thề nguyện và con đường tu hành

Các vị Thượng sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người! Hôm nay là ngày thứ ba tại biệt thự Cầu Vồng tôi giảng chi tiết về nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh. Trước khi bắt đầu bài giảng pháp, tôi muốn nhấn mạnh điểm trọng yếu của Mật pháp, cũng như nhấn mạnh rằng cá nhân tôi trong quá trình nghiên cứu và học tập Mật pháp đã có những chứng ngộ rất quan trọng.

🌟 Ma Ha Song Liên Trì đích thực Mọi người đều biết khi tôi 26 tuổi đã đến Ngọc Hoàng Cung và được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn. Vào buổi tối hôm đó, tôi đã được ngài đưa tới Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì. Đối với trải nghiệm kiểu này, theo như tôi biết thì có người đã từng trải qua, tuy cũng khá hiếm. Khi tôi 26 tuổi đã gặp được trải nghiệm này, rõ ràng sống động, vô cùng chân thực. Thế rồi tôi nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử tỏa ra ánh sáng trắng lấp lánh giống như những tia điện, rồi mỗi một đóa hoa sen đều to như cái bánh xe, giống như những gì mà Kinh A Di Đà đã mô tả về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới và Ma Ha Song Liên Trì. Tất cả đều giống như mô tả vậy. Trải nghiệm chân thực này đã trở thành một sự hậu thuẫn về mặt tinh thần cho tôi sau này khi tôi học tập Phật đạo. Trước đó tôi chưa từng bao giờ nghĩ tới Liên Hoa Đồng Tử là gì. Trước năm 26 tuổi, căn bản là tôi chẳng hề biết cái gì gọi là Liên Hoa Đồng Tử. Mãi cho đến tận ngày hôm đó, bắt đầu từ buổi tối hôm đó về sau, tôi mới biết có Liên Hoa Đồng Tử. Tên gọi Liên Hoa Đồng Tử này, cũng chính vào lúc mà tôi gặp ngài, đích thân ngài nói với tôi, danh hiệu của ngài là Liên Hoa Đồng Tử. Trải nghiệm kiểu này rất hiếm, tôi biết rằng trên thế gian này rất hiếm. Tôi thực sự đã đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì. Tôi thường xuyên nhấn mạnh và lặp lại câu nói này. Ý của tôi là hy vọng mọi người có thể kiên định tín tâm, giống như tôi đã kiên định tín tâm. Từ đó khi chúng ta quy y Chân Phật Tông và tu hành mới có được mục đích chân chính, mới có thể có được thành tựu chân chính. Tín tâm này vô cùng quan trọng. Bản thân tôi thường xuyên muốn nói ra lời thề nguyện, thường xuyên muốn đưa ra lời thề nguyện, nhưng lại nghĩ khi đã phát lời thề nguyện rồi, giả sử nếu tôi là người vọng ngữ (nói khoác) thì nói ra lời thề cũng có tác dụng gì đâu? Giả sử bạn không vọng ngữ, bạn rất chân thành nói với mọi người trên thế gian này rằng bạn đã đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì, ai tin sẽ tin, ai không tin thì vẫn không tin. Đây cũng là việc chẳng có cách nào giải quyết ổn thỏa, nên mới nói đây chính là nhân duyên. Hôm nay ở đây, tôi tuyên bố với mọi người lời thề này. Trước đây tôi chưa từng nói ra, bởi vì mỗi lần chúng ta nói đến chuyện muốn thề thốt là tôi liền dừng ngay lại. "Vào năm tôi 26 tuổi, buổi tối hôm đó, tôi đã đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đã đến Ma Ha Song Liên Trì, nói với Liên Hoa Đồng Tử những gì tôi đã nhìn đã nghe. Giả sử tất cả việc này là do tôi tự bịa ra, tôi nguyện sẽ xuống địa ngục kim cương, vĩnh viễn không siêu sinh." (mọi người vỗ tay) Trước nay tôi rất hiếm khi thề thốt. Nguyên nhân mà tôi ít khi thề là có những lúc đưa ra lời thề cũng chẳng có tác dụng gì, ngược lại có một số người nghe được lời thề của tôi cũng nói rằng ngay cả lời thề này cũng là giả nốt, thế thì tôi cũng chẳng còn cách nào cả. Trước trời, Phật Bồ Tát chư Tôn, tôi phát ra lời thề nguyện như thế này: "Những gì tôi nhìn thấy, tôi nghe thấy, vào buổi tối năm tôi 26 tuổi đó, giả sử là do tôi tự bịa đặt ra, tôi thề sẽ xuống địa ngục kim cương, vĩnh viễn không siêu sinh." Đây là một lời thề rất nặng, vĩnh viễn ở trong địa ngục kim cương không còn thấy mặt trời nữa! Vĩnh viễn không thể chuyển thế làm người, vĩnh viễn kẹt lại ở địa ngục kim cương, đây thực sự là một lời thề vô cùng nặng. Việc tôi thề trước Phật Bồ Tát hoàn toàn là sự thật.

🌟 Thọ kí thành Phật Việc thứ hai tôi muốn nói với mọi người chính là việc năm nay ở Đài Loan [1992], tôi đã gặp Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê. Mọi người đều cảm thấy rất kì quái, Lư Thắng Ngạn càng nói càng điên rồ, uống cà phê ư? Phật Thích Ca Mâu Ni và Lư Thắng Ngạn uống cà phê ấy à? Tôi đưa ra lời thề thứ hai: Phật Thích Ca Mâu Ni viết cho tôi mấy chữ "Hoa Quang Tự Tại Phật" có phải là thật không? Tôi nói cho mọi người rằng đó là giả! Vì sao lại nói là giả? Vì lúc ban đầu không phải ngài viết là "Hoa Quang Tự Tại Phật", mà ngài viết "Đại Quang Tự Tại Phật". Ngài đưa cho tôi mấy chữ ngài viết là "Đại Quang Tự Tại Phật". Tôi không thích cái chữ "Đại" này nên nói với Đức Phật rằng Lư Thắng Ngạn tôi không thích chữ "Đại", không muốn được gọi là đại sư, gọi là tiểu sư đi, ngài sửa cho tôi một chữ thành "Tiểu Quang Tự Tại Phật" đi. Thế là "Tiểu Quang" liền biến thành "Hiểu Quang" pháp sư rồi (mọi người cười). Không phải là cái chữ Hiểu đó, mà là chữ Tiểu này cơ. (*trong tiếng Trung, chữ Tiểu (nhỏ) và Hiểu (sớm) đều có cách phát âm giống nhau là xiao). Chữ Hiểu của Đức Phật là chữ Hiểu trong từ "xuân hiểu" - buổi sáng sớm mùa xuân. Còn tôi yêu cầu Phật Thích Ca Mâu Ni không dùng chữ Đại Quang. Bản thân tôi không thích chữ Đại Quang. Tôi vốn không thích làm lớn, tôi chỉ thích làm nhỏ thôi. Kết quả là Phật Thích Ca Mâu Ni giúp tôi sửa, bỏ chữ Đại đi, đổi thành Hoa, thế là thành Hoa Quang Tự Tại Phật. Việc này là sự thật. Lần thứ hai ngài sửa cho tôi là vô cùng chân thực, tôi thực sự nhìn thấy rất rõ ràng Phật Thích Ca Mâu Ni mặc Âu phục. Sự việc là như vậy. "Tôi đã nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni viết cho tôi mấy chữ Đại Quang Tự Tại Phật, sau khi tôi yêu cầu, Phật Đà đã sửa cho tôi chữ Đại thành chữ Hoa. Giả sử sự việc này là Lư Thắng Ngạn bịa đặt ra, và hoàn toàn không có việc như vậy, không hề nhìn thấy, không hề nghe thấy, đều là Lư Thắng Ngạn bịa đặt, tôi nguyện xuống địa ngục kim cương, vĩnh viễn không siêu sinh." (mọi người vỗ tay). Ở trước mặt Phật Bồ Tát, trước mặt Như Lai, trước mặt Kim Cương Hộ Pháp, trước mặt tất cả chư Tôn, tôi phát ra lời thề này, đây là lời thề rất nặng thứ hai.

🌟 Cảm nhận khi tu pháp Hôm nay tôi đưa ra ba lời thề trang nghiêm. Đây là lời thề trang nghiêm thứ ba. Có rất nhiều người tu Chân Phật Mật Pháp, tôi cũng giống như mọi người, mỗi ngày đều tu Chân Phật Mật Pháp và đã tu hai mươi mấy năm rồi, không gián đoạn một ngày nào. Đương nhiên trong tất cả đệ tử cũng có rất nhiều người đã tu nhiều năm, cảm ứng của các bạn như thế nào? Có rất nhiều người nói với tôi, có người có cảm ứng, có người không có cảm ứng, có người có tương ứng, có người không có tương ứng. Tôi sẽ kể về chính tôi: Khi tôi tu pháp ở Ballard, nơi này ở lệch về phía bắc Seattle, cảm nhận trong mỗi lần tu pháp đều không giống nhau. Có lúc cảm nhận rất tốt, có lúc không có cảm nhận gì. Còn về cảm ứng trong mỗi lần tu trì, có lúc rất mạnh mẽ, có lúc rất nhẹ rất nhạt, thời kì đó là như vậy. Mấy năm gần đây thì khác. Khi chuyển đến tu pháp tại Chân Phật Mật Uyển, trong thời gian này cảm nhận của tôi mỗi lần tu pháp như thế nào? Cảm nhận của tôi khi đó là khắp toàn thân có một khối khí bao bọc lấy xung quanh mình. Bên ngoài khối khí này có ánh sáng, ở giữa ánh sáng và khí có lửa. Đúng vậy, chính là bao bọc xung quanh tôi có một khối khí, bao quanh khí có lửa, bao quanh lửa có ánh sáng, còn cả người thì được giữ lại trong toàn bộ hư không, ở hư không phía trên. Trong mỗi một đàn pháp, cảm nhận đó vô cùng mãnh liệt, hơn nữa còn thực sự có xúc giác, nghĩa là có thể chạm vào cái khối khí bao trọn lấy bạn, cảm giác không phải giống như gió thổi một cái, mà là giống như bị điện giật, là cảm giác về một thứ rắn chắc bám dính lấy bạn. Mỗi lần tôi tu một đàn pháp đều luôn có cảm nhận rất rõ ràng và mãnh liệt. Thế còn cảm ứng của các bạn thế nào? Tôi không biết, tôi không có cách nào giúp các bạn phát lời thề cả, bây giờ chỉ có tôi phát lời thề thôi: "Tôi tu pháp, mỗi một đàn pháp, đều có khí, lửa và ánh sáng cuộn vòng xung quanh, chính là một cảm nhận hòa trộn lẫn nhau, vô cùng kiên cố, vô cùng rõ ràng. Giả sử những gì Lư Thắng Ngạn nói hôm nay là do tự mình bịa đặt ra, căn bản là không hề có việc này, tôi thề sẽ xuống địa ngục kim cương, vĩnh viễn không siêu sinh." (mọi người vỗ tay) Tôi tuyên bố với mọi người về ba lời thề này, ý của tôi chủ yếu là hy vọng trong quá trình tu trì, trong mỗi lần tu trì, các bạn đều có thể có được cảm nhận kiên cố và rõ ràng như vậy. Tôi cũng hy vọng các bạn có thể đích thân đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì, lại càng hy vọng các bạn có thể nhìn thấy rất rõ ràng chư Phật, Bồ Tát, thỉnh cầu được Phật Bồ Tát gia trì quán đảnh cho bạn, thọ kí cho bạn thành Phật. Ý của tôi cực kì rõ ràng như thế. Tôi nhắc lại là hy vọng mỗi người các bạn chưa từng được tới Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì có thể đến đó, hơn nữa có thể trở về, đây là điều thứ nhất. Điều thứ hai chính là hy vọng các bạn tu hành sẽ được Phật Bồ Tát thọ kí thành Phật. Điều thứ ba là trong quá trình tu pháp của các bạn, mỗi lần tu các bạn đều có thể có được những cảm nhận kiên cố, rõ ràng và vi diệu nhất. Nếu được như vậy, giả sử các bạn đều có được ba điều trên rồi, tự khắc bạn sẽ không thối lui cái tâm ban đầu, không thối lui đạo tâm. Các bạn có thể tu trì Chân Phật Mật Pháp một cách kiên trì, hơn nữa ai ai cũng đều có thể đạt được Phật quả, thành tựu Phật quả, sẽ đi độ hóa được càng nhiều chúng sinh hơn nữa.

🌟

Con đường tu hành Con đường tu hành rất khó, thực sự là không hề dễ dàng. Nhưng tôi cảm thấy trong cuộc đời này, nếu bạn không đi con đường tu hành thì thực sự vô cùng đáng tiếc. Trước đây khi tôi vẫn chưa khai ngộ, tôi vô cùng đau đớn và tuyệt vọng, trút xuống bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, tôi nỗ lực hết sức, tinh tấn hết sức để đạt được mục tiêu. Thế rồi sau khi đã đạt tới sự khai ngộ rồi, tôi cũng như vậy, vẫn đau đớn và tuyệt vọng, vẫn nỗ lực trong mồ hôi và nước mắt, vì sao vậy? Không phải vì bản thân mình, là vì tôi nhìn chúng sinh trên thế giới này, mặc dù tôi đã khai ngộ rồi, tôi đã khai ngộ rồi, tôi đã biết rồi đã hiểu rõ rồi, nhưng nhìn chúng sinh trên thế gian, rất nhiều chúng sinh vẫn chưa khai ngộ, không biết gì, không hiểu gì, tôi đương nhiên vô cùng đau lòng! Khi chưa khai ngộ, tôi rất đau lòng. Sau khi khai ngộ rồi, tôi lại càng đau lòng, bởi vì tại sao con người thế gian vẫn chưa hiểu việc tu hành này, nó tốt như vậy, nó quan trọng như vậy. Tu hành có thể đạt được thành tựu, có thể vượt trội, có thể vô cùng tốt đẹp, có thể hợp nhất với toàn bộ vũ trụ. Một đại pháp tốt đẹp như vậy, vì sao con người vẫn không hiểu? Thế nên khi chưa khai ngộ thì tôi đau đớn tuyệt vọng, sau khi khai ngộ rồi tôi vẫn đau đớn và tuyệt vọng như thế. Hôm nay tôi thấy mọi người có thể cùng ngồi ở đây nghe pháp, tôi ngồi ở đây giảng pháp. Vậy là mọi người đều cực kì có duyên phận, một duyên phận rất sâu rất phi thường đối với Phật. Vì thế hãy nên trân trọng pháp mà bạn có được. Sau khi bạn có được pháp rồi thì hãy nên kiên trì, hãy luôn luôn tiếp tục tu hành. Tôi đã tu được hơn hai mươi năm rồi, giả sử Phật pháp này là giả, vậy chẳng phải là tôi đã tự lừa mình suốt hơn hai mươi năm sao? Có phải tôi đã tự lừa dối mình suốt hơn hai mươi năm không? Chính bởi vì tôi đã đi qua con đường này rồi, các bạn cũng sẽ làm được giống như tôi, sẽ đến lúc Phật đến thọ kí cho bạn thành Phật, chẳng phải là tốt vô cùng hay sao? Bạn sẽ có được sự tự do tự tại khổng lồ, sẽ có được sự viên mãn khổng lồ, có được sự quang minh khổng lồ, sẽ có mọi thành tựu vượt trội hơn cực kì nhiều so với những thứ như thất trân bát bảo, danh lợi địa vị, vợ con phú quý. Bởi vậy, gia đình đầm ấm, vợ chồng viên mãn, những thứ này chẳng đáng kể gì. Trong con mắt của Phật Bồ Tát chúng đều là bụi trần, đều là cát bụi. Bạn xây nhà mới to hơn thì cũng chỉ là bụi trần thôi, danh lợi địa vị cao hơn cũng chỉ là bụi trần, giàu có số một thế giới cũng chỉ là bụi trần, yêu thương vợ chồng cũng chỉ là bụi trần. Chỉ có duy nhất việc tu hành mới là thực sự siêu việt. Trong toàn bộ vũ trụ này, cảnh giới quang minh, viên mãn và tự do tự tại đó mới là vô thượng đại trí huệ chân chính, là quả vị của Phật quốc. Do đó tôi hy vọng trong tông phái của chúng ta, ngày càng có nhiều người chuyên tâm nhất trí đi trên con đường này càng tốt. Ngày nay có rất nhiều người xuất gia tu hành, họ có tinh thần chuyên nhất luôn luôn đi trên con đường pháp này. Vậy thì chúng ta cần cổ vũ họ do họ hạ quyết tâm như thế, họ có cái tâm quyết đoán như thế, có sự xuất ly tâm như thế, phát bồ đề tâm như thế là rất hiếm và rất quý. Nếu do những ràng buộc nhân duyên của kiếp này, tạm thời bạn chưa thể xuất gia được thì cũng không cần phải căng thẳng. Nhưng bạn hãy ghi nhớ một ngày nào đó, khi bạn có thể buông bỏ việc của thế tục thì bạn hãy buông bỏ, bởi vì những việc của thế tục rốt cục vẫn thuộc về thế tục, việc của thế tục rốt cục vẫn thuộc về cát bụi, cát bụi vĩnh viễn là cát bụi. Có câu nói, khí trở về với khí, đất trở về với đất, tất cả mọi thứ của thế gian vĩnh viễn thuộc về cát bụi. Chỉ có linh khí trên người bạn, chỉ có tâm linh mới là siêu việt. Bởi thế đi trên con đường tu hành này là sự lựa chọn chân chính duy nhất. Còn những người thế gian không hiểu, chúng ta không gọi họ tỉnh dậy được thì trước tiên chúng ta cần gọi chính mình tỉnh dậy đã, sau đó dựa vào sự tu tập của bản thân để đi độ hóa chúng sinh. Hôm nay trước khi bắt đầu buổi thuyết pháp của ngày thứ ba, tôi có mấy lời nói với mọi người như vậy. 26/11/1992

11. Tứ vô lượng tâm

Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu giảng về nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh. Hai ngày trước chúng ta đều nói về phần Tiền hành, còn hôm nay chúng ta sẽ nói về phần Chính hành. Phần Tiền hành bao gồm niệm chú Thanh tịnh, Triệu thỉnh, thực hiện Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y, Bia giáp hộ thân. Trong Chân Phật Mật Pháp của chúng ta, kì thực vẫn có thể thêm vào một mục nữa, chính là Tứ vô lượng tâm. Bài kệ Tứ vô lượng tâm cũng vô cùng quan trọng, nếu bạn có thể thực sự hiểu được bài kệ Tứ vô lượng tâm thì bạn cũng rất vĩ đại.

🌟

Từ bi hỉ xả Tứ vô lượng tâm chính là từ - bi - hỉ - xả. Từ là gì? Là đem đến niềm vui cho chúng sinh, cho mọi người. Bi là gì? Là kéo chúng sinh ra khỏi đau khổ. Hỉ là gì? Là làm những việc đem lại hạnh phúc vô lượng. Còn xả? Là có thể từ bỏ toàn bộ bản thân để đi làm các việc từ - bi - hỉ. Đó chính là từ - bi - hỉ - xả. Nếu bạn có thể thực hiện được từ - bi - hỉ - xả thì bạn chính là thánh nhân rồi, và tâm này của bạn chính là Tứ vô lượng tâm. Vô lượng nghĩa là gì? Là tâm quảng đại không thể đo đếm, nếu mỗi người có được cái tâm như vậy thì thế giới này đã thành một thế giới đại đồng rồi, không cần Khổng Tử phải đến dạy. Bởi vì con người thế gian không có lòng từ - bi - hỉ - xả, thay vào đó họ có tâm gì chứ? Tâm làm chúng sinh đau khổ để cho mình vui vẻ; thấy người khác làm việc thiện thì không thích, trong lòng không thoải mái; muốn thấy người khác từ bỏ mọi thứ còn bản thân mình thì lại keo kiệt bủn xỉn. Phần lớn chúng sinh đều như vậy cả. Tâm tính của chúng sinh đều là như vậy.

🌟 Pháp xả thân Học Tứ vô lượng tâm rất quan trọng, có thể đem đến cho chúng sinh niềm vui, loại bỏ đau khổ. Ta sẽ vô lượng hoan hỉ làm những việc thiện lành, và từ bỏ hết mọi thứ của mình. Chúng ta có một vị gọi là Machig Labdron - Mã Cát Lạp Tôn Giả, người sáng lập phái Giác Vũ. Đây là một vị nữ tổ sư rất nổi tiếng ở Tây Tạng, biểu tượng của ngài là chữ "Xả". Ngài là người sáng tạo ra pháp xả thân, người khởi xướng pháp xả thân trong Mật tông Tây Tạng. Xả như thế nào? Quán tưởng hai con mắt hóa thành mặt trời và mặt trăng của vũ trụ, da trên thân thể hóa thành mặt đất rộng lớn của vũ trụ, xương và thịt hóa thành cát bụi và núi non của vũ trụ, máu chính là những con sông, hồ, đại dương, hơi thở thì hóa thành gió, lông tóc trên thân thể hóa thành cây trên trái đất. Quán tưởng tất cả mọi thứ trên thân thể bạn, bao gồm chính bản thân bạn, đều cắt ra, từ bỏ hết để cho mọi chúng sinh. Đây chính là ý nghĩa chính của pháp xả thân của bản thân Mã Cát Lạp Tôn Giả - tổ sư của phái Giác Vũ. Khi bạn đã từ bỏ tất cả rồi, xả hết, hi sinh toàn bộ bản thân bạn cho chúng sinh, bạn chính là Vô Ngã. Vô Ngã nghĩa là gì? Bạn từ bỏ hết tất cả bản thân mình, bạn liền biến thành Vô Ngã [ND: không còn bản ngã, không còn cái tôi]. Bạn không thể từ bỏ hết, không xả hết được, thì là vẫn còn tham niệm. Vô Ngã là gì? Miệng hay nói Vô Ngã, tôi đã thành tựu Vô Ngã rồi. Làm gì có chuyện đơn giản như vậy! Ví dụ có lúc bạn cần cúng dường, bởi vì bạn đến Biệt Thự Cầu Vồng để nghe giảng pháp bảy ngày nên bạn liền chia tiền bạn mang theo thành bảy phần, mỗi ngày cúng dường một hồng bao, vừa đủ bảy phần. Nhưng ngẫm nghĩ lại thì, ai chà, không được rồi! Chia thành bảy phần, vậy thì tôi ăn cái gì đây? Thế nên cần giữ lại một nửa, tôi cần phải ở hotel, tôi cần phải mua bánh mì và trứng để ăn sáng nữa. Buổi trưa thì có thể "ăn chùa" rồi! Buổi tối cũng có thể "ăn chùa", nhưng có lúc cũng cần đi tới cửa hàng mua sắm, đến siêu thị mua một ít nhu yếu phẩm. Không biết chừng trông thấy thứ gì hay hay còn phải mua một ít nữa. Có rất nhiều người từ Đài Loan đến, anh ta còn cần mang vài cái lò nướng về nước, bởi vậy cần giữ lại một ít tiền. Tôi vốn dĩ có 1000 đồng, nếu chia thành bảy phần và giữ lại 300 đồng thì không đủ, vậy thì tôi giữ lại 900 đồng sẽ tốt hơn, còn 100 đồng thì đem cúng dường, mỗi hồng bao 10 đồng, thế là vẫn còn dư lại 30 đồng, buổi tối vẫn còn có thể ăn một ít đồ ăn vặt. Cứ tính tính tính tính như vậy. A! Thật là tốt quá. Thực tế là như vậy đó! Đệ tử tính toán như vậy cũng là đúng, không có gì sai cả. Trên thực tế khi bạn đi ra ngoài, bạn luôn cần có lộ phí, cần tiền đi taxi, mua đồ nọ thứ kia, chắc chắn là cần. Sư Tôn cũng sẽ cảm thấy ngại lắm nếu bạn phải rỗng túi vì Sư Tôn. Ý của tôi là như thế này, khi bạn cúng dường không phải là bạn chỉ cúng dường mỗi Sư Tôn. Bạn thấy cái gì thiện, cái gì tốt, thì bạn cần làm việc đó. Bạn cảm thấy việc đó có ý nghĩa, có thể giúp đỡ người ta, bạn có thể dành toàn bộ tấm lòng mình để làm việc đó. Đây cũng là một kiểu cúng dường. Sau khi bạn đã cúng dường, bạn sẽ kết được duyên rất tốt lành. Duyên cực kì tốt lành lập tức sẽ đến.

🌟 Cúng đồ ăn Ví dụ bạn cúng đồ ăn, bây giờ rất phổ biến việc cúng bữa ăn. Việc cúng bữa ăn là rất tốt, giống như là bạn tới chùa, bỗng nhiên có người nói rằng bữa tối hôm nay tôi sẽ trả tiền toàn bộ đồ ăn, một mình tôi cúng bữa ăn. Thế là mọi người đến ăn đều là người nhận, còn người cúng thì là người bố thí. Bạn cúng đồ ăn rồi thì không nên có lòng mong cầu được báo đáp, không có tâm đòi hỏi mà nói rằng, này, mọi người ăn bữa cơm của tôi hôm nay sau này phải trả lại tôi. Không được như vậy, không được có cái tâm này. "Tôi cúng bữa ăn" chính là muốn kết duyên với mọi người. Hôm nay bạn ăn của người ta 10 đồng, tới kiếp sau, một kiếp là dài bao nhiêu nhỉ, một kiếp có lẽ là khoảng 60 năm, 60, 70 tuổi đã tính là thượng thọ rồi đó! Có người sống một kiếp tới tận 80 tuổi, có người sống tới cả 100 tuổi, 120 tuổi cũng có. 10 đồng tiền này sau 120 năm sẽ sinh ra lợi tức rất nhiều, 10 đồng tiền trải qua 120 năm sẽ trở thành bao nhiêu tiền? Giá trị của "số tiền" này cho tới kiếp sau, cũng không rõ là trải qua bao lâu nữa, khi họ lại cùng xuất hiện tại dương gian, (ở cõi âm thì không tính)! bạn sẽ gặp lại anh ta, anh ta sẽ gặp lại bạn, thì sẽ có cảm tình với bạn. Anh ta chắc chắn sẽ thích bạn, bởi vì kiếp trước bạn đã ăn của anh ta một bữa ăn đó! Tới kiếp sau bạn gặp lại cô gái đã mời cúng cho bạn từ kiếp trước, thì bạn sẽ có cảm tình tốt, rằng con người này rất tốt, thấy rất thích, thế là cưới làm vợ. Còn giả sử kiếp sau bạn là phụ nữ, còn anh ta là đàn ông, anh ta lấy bạn làm vợ là anh ta trả nợ bạn từ kiếp trước đó! (mọi người cười) Thế nên cho dù người vợ có nhéo tai anh ta, tát vào mặt anh ta, mắng mỏ anh ta, anh ta vẫn ngoan ngoãn làm trâu làm ngựa, bởi vì anh ta trả nợ bạn mà! Vẫn còn nợ, bởi vì kiếp trước anh ta đã ăn của bạn một bữa ăn. (mọi người cười) Còn với sếp, nếu kiếp trước sếp cũng từng ăn của bạn một bữa cơm, kiếp này sếp nhìn bạn sẽ rất thuận mắt, vô duyên vô cớ bảo bạn rằng ngày mai sẽ tăng lương cho bạn. Vì sao vậy? Cũng vì kiếp trước đã ăn của bạn một bữa cơm đó! Vị quan tòa này rõ ràng biết bạn đã làm sai. Đến trước mặt quan tòa bạn sợ muốn chết, nhưng vì vị quan tòa này kiếp trước đã ăn của bạn một bữa cơm, nên ông ta vừa nhìn bạn một cái, ý, kì lạ thật, con người này rõ ràng có tội, nhưng lại cảm thấy bộ mặt này rất thiện, nên phán tội nhẹ nhẹ một chút, giảm bớt đi vài tháng, cho anh ta được án treo, cho anh ta không bị giam nữa, phạt chút tiền là được rồi. Bạn cúng bữa ăn sẽ rất có lợi ích. Người nhận bữa ăn của bạn có thể cho bạn mượn bất kì thứ gì, có thể cho bạn bất kì cái gì, việc gì cũng cảm thấy có cảm tình với bạn, người đó sẽ là quý nhân trong tương lai của bạn. Kiếp sau bạn có được bao nhiêu quý nhân, bạn tự mình tính thử xem. Mỗi lần bạn cúng bữa ăn để kết duyên với chúng sinh, mọi người gặp bạn đều sẽ thích bạn. Ví dụ Michael Jackson ở nước Mỹ, là người ca sĩ đó, chắc chắn kiếp trước anh ta đã cúng bữa ăn (cười), bởi vì mọi người hễ gặp anh đều thích anh ta! Cực kì điên cuồng vì anh ta, bán cả đồ đạc đi vì anh ta, bất luận thế nào cũng lấy tiền đi mua vé nghe anh ta hát. Anh ta có thể hấp dẫn rất nhiều chúng sinh trong kiếp này bởi vì tất cả những người này kiếp trước đều đã ăn của anh ta một bữa cơm, tạo thành duyên nghiệp, tới kiếp này sẽ phải trả. Tạo được duyên với chúng sinh, tạo được phúc với chúng sinh, tạo được lộc với chúng sinh, kết nối được sự giúp đỡ của chúng sinh, tạo được duyên với Phật pháp, đều là như vậy. Tạo được duyên với đại thiện tri thức, tạo được duyên với đại minh sư, tất cả đều nhờ việc cúng bữa ăn mà có. Đây chính là "xả". Tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ mà thôi, còn rất nhiều ví dụ khác nữa không biết bao nhiêu mà kể. Tôi lấy ví dụ này để nói về việc "xả", chính là nói rằng nếu bạn có thể hy sinh với toàn bộ tấm lòng của mình, đến cuối cùng khi bạn có thể xả hoàn toàn Vô Ngã thì sẽ là vĩ đại nhất. Xả bỏ hoàn toàn, tới khi Vô Ngã thì có thể thành Phật được. Bản Sinh Kinh của Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể về kiếp trước của ngài, việc xảy ra từ mấy kiếp trước, ở đó ngài cũng không nói gì khác ngoài một chữ "xả". Cắt thịt cho chim ăn, là xả. Xả thân cho hổ ăn, là xả. Rất nhiều các câu chuyện về Vua Nai, Vua Voi của ngài đều để nói về chữ Xả. Không biết mọi người có biết không, rằng có thể nhận ra được cái tâm từ-bi-hỉ-xả là có thể thành Phật, thực sự rất vĩ đại. Có thể xả một cách hoàn toàn Vô Ngã, không còn tồn tại Ngã tâm, sẽ thành Phật. Bởi vậy bài kệ Tứ vô lượng tâm rất vĩ đại.

12. Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Tiếp theo chúng ta lại nói đến mục thứ bảy, mục thứ bảy chính là niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh. Vì sao lại niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh? Bởi vì kinh Phật mà lần đầu tiên tôi tiếp xúc chính là Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh. Bản kinh vào triều đại nhà Đường đã có rồi, là một kinh điển rất linh nghiệm, niệm kinh này sẽ có được sự linh nghiệm rất lớn. Kì thực trong kinh chỉ có Phật hiệu và tôi thích mấy chữ này ở trong đó: "Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại." (Có thể diệt trừ đau khổ của sinh tử luân hồi, diệt trừ mọi sự độc hại.) Tôi mới nhìn thấy "Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại" liền cảm thấy rất hoan hỉ. Bởi vì khi đó, bản thân tôi cảm thấy đời người này quá khổ, hơn nữa những thứ độc hại lại quá nhiều, mới bước chân ra ngoài xã hội đã gặp phải rất nhiều khó khăn. "Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại" chính xác là phù hợp với sự cầu xin thoát khỏi đau khổ luân hồi của chúng sinh. Bởi vậy tôi rất thích Cao Vương Kinh. Hơn nữa bản kinh này vào thời Đường đã được rất nhiều người truyền tụng, rất có linh nghiệm, ngoài ra rất mau chóng cảm ứng. Thế là tôi liền đem Cao Vương Kinh vào trong Chân Phật Mật Pháp, hy vọng mọi người có thể niệm bản kinh này.

🌟

"Thất Phật diệt tội chân ngôn" là một câu chân ngôn cực kì hay. Khi chúng ta đọc chân ngôn này để gia trì, rồi lại niệm thêm chú Vãng sinh, (chú Vãng sinh là của Đức Phật A Di Đà), đều có thể vãng sinh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì. Bởi vậy cũng cần niệm chú Vãng sinh. Vậy thì khi niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, niệm chú Vãng sinh có cần quán tưởng không? Giả sử khi bạn làm pháp siêu độ thì bạn cần quán tưởng. Phương pháp quán tưởng đơn giản nhất là kết thủ ấn Đại hải siêu độ, rồi niệm chú Vãng sinh bảy biến, tiếp đó bạn quán tưởng thuyền pháp hiện ra trước mặt, đem những chúng sinh ở dưới địa ngục muốn được siêu độ lên thuyền rồi thuyền hướng về hư không trung bay lên, cuối cùng là giải ấn. Tôi nhắc lại, đây chính là ấn Đại hải siêu độ. Kết ấn Đại hải siêu độ, quán tưởng trên biển lớn có con thuyền pháp, các chúng sinh ở cõi địa ngục lên thuyền pháp bay đi, chúng sinh sẽ thoát khỏi khổ luân, giải ấn.

🌟

[ND: Bài đọc thêm: Kinh nghiệm đọc Cao Vương Kinh của tôi.] (Văn tập số 216 - Định trong định - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) Cao Vương Kinh, tức là Cao Vương Quan Thế Âm Kinh, là kinh điển mà tôi rất thích niệm, trì kinh này có linh nghiệm. Bản thân tôi đánh giá rất cao Cao Vương Quan Thế Âm Kinh. Nội dung của kinh này đều là các Thánh hiệu của Phật Bồ Tát, hơn nữa còn có Thất Phật diệt tội chân ngôn, chư Phật Bồ Tát của tam thế thập phương đều dung hợp trong kinh này. Kinh văn ngắn. Rất dễ mang. Công đức cao. Trong đó, có hai câu: "Năng diệt sinh tử khổ - Tiêu trừ chư độc hại" vô cùng lợi ích. Sau khi tôi khai ngộ - chứng "nhất như", thì: "Thực vô sinh tử khổ - Thực vô chư độc hại". [ND: Vốn chẳng hề có khổ sinh tử, cũng chẳng có độc hại nào - chúng đều vô tự tính.] Tuy nhiên tại thế gian của con người hữu tình, "Năng diệt sinh tử khổ - Tiêu trừ chư độc hại" cũng đã gắn sâu vào nhân tâm. Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết, từ việc niệm Cao Vương Kinh có thể trải nghiệm được thiền định, tam ma địa. Vì sao lại nói như vậy? Tôi nói cho mọi người hay: Kinh văn ngắn vỏn vẹn vài phút, khi miệng niệm kinh văn, từng câu từng chữ có đi vào tai bạn rồi đọng lại trong tâm bạn hay không? Lúc niệm kinh: Có hay không vọng niệm lớn xen vào? Có hay không vọng niệm nhỏ xen vào? Có hay không thoáng vọng niệm vi tế? Có hay không vọng niệm vi tế nhất không thể nhận ra được xen vào? Bạn có thể một câu không lơ là, trong vòng vài phút đồng hồ ngắn ngủi, tinh thần chuyên nhất mà niệm đến khi xong không? Điều tôi hỏi là, bạn thực sự có thể hoàn toàn tập trung tinh thần để đọc hết Cao Vương Kinh, dù một vọng niệm cũng không có không? Kinh nghiệm của chính tôi là: "Rất khó!" Tôi đã thử đọc lớn tiếng, đọc nhỏ, đọc thầm, tưởng niệm từng chữ từng chữ một, rồi phát hiện ra là chẳng có cách nào chống lại vọng niệm xen vào. Kinh văn chỉ ngắn vỏn vẹn vài phút mà đã có vọng niệm xen vào rồi. Thế là tôi rèn luyện bản thân, mỗi khi có vọng niệm, lập tức cảnh giác, lập tức loại bỏ vọng niệm. Tôi cố gắng tập trung chú ý vào những trọng điểm của kinh văn, hoặc chú ý vào từng chữ, hoặc chú ý vào các chữ quan trọng, hoặc lưu lại từng chữ vào trong tâm, để cho mỗi chữ khi đọc lên giữ lại ở trong tâm, không cho phép vọng niệm xen vào. Về sau từ từ vọng niệm ít đi, cứ thế cho đến khi vọng niệm không còn xen vào nữa. Việc luyện tập lặp đi lặp lại như vậy cuối cùng mới có thể đạt được khả năng đọc tụng Cao Vương Kinh không còn vọng niệm. Tôi thực sự rất kính phục Phật Thích Ca Mâu Ni, bởi vì Phật Đà sau khi ngộ đạo ở dưới gốc cây bồ đề thì vọng niệm cũng không còn. Không còn một giờ khắc nào là không trong thiền định. Thiền định này không phải là nhắm mắt im lìm bất động. Mà là trong bất kì lúc nào, làm bất kì việc gì, hoặc trong lúc thuyết pháp khai thị đều có thể chuyên nhất. Làm được như vậy cũng thực sự không dễ dàng gì! Tôi có thể luyện tập sự tập trung chuyên nhất vào Cao Vương Kinh, rồi trở thành chuyên nhất vào từng lời nói từng hành động, rồi tiếp tục đến mức độ loại bỏ vọng niệm, vọng niệm không còn xuất hiện nữa. Cứ như vậy mà chứng nhập vào biển vũ trụ quang minh. Hư không in vào tôi. Tôi in vào hư không. Phát bồ đề tâm. Lập tức chứng ngộ. Chứng nhập rồi thì mọi "lậu hoặc" và ô nhiễm đều hết sạch thôi!

13. Quán tưởng tam quang bao trùm

Chúng ta chuyển sang mục thứ tám. Mục thứ tám chính là sang phần Chính hành. Trong Mật giáo có Tiền hành, tiếp theo đó là Chính hành. Chính hành bao gồm ba mục: quán tưởng - khi quán tưởng là phải kết thủ ấn, trì chú - niệm chú ngữ, cuối cùng là nhập Tam Ma Địa. Ba mục này thuộc về Chính hành. Tôi thường nói, khi các bạn ở trên máy bay, hoặc đi xe buýt công cộng, không có cách nào để làm đại lễ bái, niệm chú tứ quy y, hay cúng dường được. Hoặc giả thời gian không đủ, bạn còn phải đi làm nữa. Nếu cứ phải thực hiện cả bảy mục trước đó, thời gian thực hiện chúng sẽ rất dài. Thế thì thì tôi sẽ tu hành một cách đơn giản nhất, chính là Chính hành, chỉ làm quán tưởng, trì chú, nhập Tam Ma Địa thôi. Còn những lúc bình thường, bạn cần tu một đàn Mật pháp hoàn chỉnh, không được chỉ làm ba mục, nhất định cần làm đủ Tiền hành, Chính hành và Hậu hành, ba phần này kết hợp lại mới là một nghi quỹ hoàn chỉnh. Chỉ khi bạn thực sự không có thời gian, hoặc khi đang ở những chỗ đặc thù, thì có thể chỉ tu Chính hành. Đây là những trường hợp rất đặc biệt, rất ngoại lệ, bất khả kháng thì mới có thể làm như vậy. Đầu tiên chúng ta nói về quán tưởng. Đối với quán tưởng, ví dụ bạn tu pháp bổn tôn A Di Đà Phật, bạn kết thủ ấn A Di Đà Phật, đây là ấn cơ bản của A Di Đà Phật. [ Xem hình ] Ấn cơ bản và ấn thiền định không giống nhau. Ấn thiền định là như thế này (Sư Tôn thị phạm kết thủ ấn.) Bạn kết ấn cơ bản cũng được, kết ấn thiền định cũng được, sau đó thì quán tưởng. Bây giờ tôi sẽ bắt đầu giảng về quán tưởng. Tôi sẽ nói về quán tưởng mà tôi thực hiện. Quán tưởng mỗi một vị sẽ khác nhau. Mỗi một vị Phật Bồ Tát, Bát Đại Bổn Tôn của chúng ta hoàn toàn không giống nhau, quán tưởng Hoàng Tài Thần lại càng khác biệt, quán tưởng Kim Cương Tâm Bồ Tát cũng không giống, thủ ấn, chú ngữ, quán tưởng của ngài cái nào cũng khác. Mọi người có thể tham khảo và nghiên cứu kĩ hơn trong cuốn "Chân Phật - Bí mật trong bí mật", sẽ có thể hiểu rõ ràng hơn.

🌟 Quán không Bây giờ tôi sẽ nói về chính bản thân tôi khi tôi tu pháp bổn tôn A Di Đà Phật, sẽ cần quán tưởng thế nào. Khi tôi quán tưởng A Di Đà Phật, trước tiên là quán không (quán tưởng hư không). Rất nhiều đệ tử hỏi tôi quán không là làm sao? Bởi vì khi anh ta nhắm mắt lại, trong đầu từ đầu tới cuối đều không thể "bất không" được (nghĩa là không thể trống rỗng). "Bất không" của anh ta ở đây không phải là Bất Không Thành Tựu Phật đâu nhé (mọi người cười). Không phải đâu. Đầu của anh ta "bất không" nghĩa là có rất nhiều thứ trong đầu, nhiều suy nghĩ linh tinh phức tạp. Quán không là quán thế nào? Trong Mật pháp tôi từng đề cập đến rồi, đó là bầu trời trong xanh không mây, bạn nhìn lên bầu trời không gợn một chút mây nào, trời trong vắt, cả một vùng không gian màu xanh lam rộng lớn. Các bạn cần phải quán tưởng được trạng thái này của bầu trời. Đây chính là quán không. Như khi chúng ta đi trên máy bay, khi máy bay vượt lên trên mây, bạn nhìn hướng về bầu trời phía trên thấy bầu trời rất xanh, trong vắt, tròn đầy đồng nhất, không có một chút tạp chất nào. Bạn cần quán tưởng về bầu trời trong xanh không mây trong đầu bạn, sau đó gia trì bằng đọc chú Quán không: "Om, su-ba-wa, su-da, sar-va, dhar-ma, su-ba-wa, su-do, hang." Đây chính là câu chú quán không, bạn cần ghi nhớ chính xác, cần phải luyện đọc thật lâu, bởi vì khi niệm chú ngữ cần phải nghĩ về nó, nghĩ về chú âm rồi đọc ra. Khi niệm chú, nếu bạn là người "thổi gió" (tiếng lóng), ví dụ như ba cái răng cửa thì bạn bị thiếu mất một cái, thì khi niệm chú, âm phát ra lại càng không giống, bạn nói sẽ thành "sờ sờ sờ", chỉ phát ra được âm thanh này, như vậy là bạn bị gọi là "thổi gió". Nhưng cũng có lúc khi chúng ta niệm bị sai một chút, ví dụ bình thường tôi niệm rất tốt, niệm rất nhanh, rất chính xác, nhưng [thi thoảng] khi tôi giảng trước mặt mọi người là cần phải niệm cho thật chính xác thì tôi lại niệm lập bập luôn. Tôi cũng chẳng hiểu điều này là do bị tâm lý gì nữa. Nói tóm lại là cứ tự nhiên đọc thì lại đúng. (cười)

🌟 Quán tưởng nguyệt luân Vậy là bạn dùng chú quán không để gia trì cho việc quán tưởng hư không của bạn. Câu chú này thực sự là dùng để gia trì thêm. Quán không xong thì bạn lại quán tưởng tiếp nguyệt luân. Chính là quán tưởng như thế này (Sư Tôn kết ấn). Đầu tiên kết ấn cơ bản của A Di Đà Phật, trong hư không, bên dưới là vùng biển rộng lớn mênh mông, bên trên là bầu trời, dưới là mặt biển, từ xa xa phía đường chân trời có một nguyệt luân (đĩa mặt trăng) từ từ nhô lên, nói cách khác là ở giữa trời và biển treo lơ lửng một nguyệt luân màu xanh lam rất tròn. Quán tưởng nguyệt luân chính là như vậy. Quán tưởng nguyệt luân chính là tưởng tượng một đĩa mặt trăng. Vì sao cần quán tưởng nguyệt luân? Trước đây tôi rất băn khoăn vì sao quán tưởng lại phải là quán tưởng nguyệt luân? Tại sao không quán tưởng mặt trời? Tại sao không quán tưởng các vì sao? Tại sao không quán tưởng những cái khác mà nhất định phải là mặt trăng? Bởi vì ánh sáng của mặt trời mạnh quá, bạn quán tưởng một cái là mắt bạn không thể chịu được. Còn nếu quán tưởng các vì sao thì chúng lại quá nhỏ. Còn nếu quán tưởng những thứ khác trên thế gian thì cái nào mới có thể tượng trưng cho sự thanh tịnh đây? Trong hoàn cảnh này mặt trăng chính là thanh tịnh nhất, ánh trăng chính là thanh tịnh nhất, trong ánh trăng còn có cả hương vị, bởi vậy quán tưởng mặt trăng chính là sự thanh tịnh. Nguyệt luân còn tượng trưng cho cái gì nữa? Nguyệt luân còn tượng trưng cho "siddhi", chính là "siddhi" trong câu chú Om, guru, liansheng, siddhi, hum. Siddhi là Phật quốc, là đất nước của các vị Phật, chính là tịnh độ. Thế nên, bạn thường xuyên quán tưởng nguyệt luân, bạn nghĩ về bầu trời không mây, về một vùng biển lớn, từ mặt nước nhô lên một vầng nguyệt luân, nguyệt luân chính là siddhi, chính là tịnh độ, cũng chính là Phật quốc, vô cùng rõ ràng. [ ND: Siddhi nghĩa gốc là "thành tựu". ] Rồi bạn quán tưởng tiếp đến chủng tự Hri của Đức Phật A Di Đà. [ ND: Hri (theo Sankrit), hoặc cũng đọc là Seh (theo Tạng ngữ), hoặc là Chuây theo 1 số dòng Tôn Sư dạy. ] Chú tự Hri này xuất hiện ở giữa nguyệt luân. Có thể quán tưởng chú tự này. Có người hỏi tôi chú tự màu sắc gì là tốt nhất, tôi nói Phật A Di Đà ở phương Tây là thuộc về màu đỏ, vậy thì chú tự chính là màu đỏ. Bạn quán tưởng chủng tử tự Hri màu đỏ xuất hiện, bạn đã hiểu rõ chưa? Rất rõ ràng. Bầu trời xanh trong vắt không mây, chủng tử tự Hri màu đỏ trong nguyệt luân, mặt biển mênh mông, rất rõ ràng. Hri tượng trưng cho cái gì? Chính là chủng thức của hành giả. Chủng thức - thức trong từ ý thức, chính là Phật tính, là Phật tính của chính bạn. Trong hư không, hiện lên trên nguyệt luân là Phật tính của bạn. Nếu bạn tu bổn tôn A Di Đà Phật, bạn cần quán tưởng chữ Hri ở giữa nguyệt luân. Chữ Hri màu đỏ quay vòng tròn, rồi từ trong nguyệt luân xuất hiện A Di Đà Phật. Kim thân của A Di Đà Phật từ trong nguyệt luân hiện ra. Nói cách khác là một vị A Di Đà Phật biến hóa hiện ra ở trước mặt bạn, bổn tôn chính là ở trong hư không, ngay trước mặt bạn, nói như vậy bạn có thể quán tưởng được không? Phật A Di Đà có liên quan gì đến bạn? Phật A Di Đà chính là pháp thân của bạn. Ở đây có ba quán tưởng: một quán tưởng nguyệt luân, một quán tưởng chủng tử tự, một quán tưởng bổn tôn. Quán tưởng nguyệt luân chính là Phật quốc tịnh độ, quán tưởng chủng tử tự - chữ Hri chính là Phật tính của bạn. Bổn tôn A Di Đà Phật chính là pháp thân của bạn. Sau khi bạn tu thành tựu, pháp thân của bạn chính là Phật A Di Đà. Bạn biến Phật A Di Đà thành nghìn vị, vạn vị, nghĩa là bạn có nghìn vị vạn vị bổn tôn đứng trước mặt bạn, thân ngoài hóa thân, vô cùng vô cùng vi diệu.

🌟 Quán tưởng thế nào? Rất nhiều người nói với tôi: "Sư Tôn, con học quán tưởng, học lâu như vậy rồi, mà từ đầu tới cuối đều quán không được?" Tôi bảo bạn quán bầu trời trong không mây đi, được đúng không? Có thể tưởng tượng ra được. Biển lớn bạn cũng có thể tưởng tượng ra được. Hẳn là cũng tưởng tượng ra được ở giữa mặt biển và bầu trời có một mặt trăng. Một chữ Seh chắc là không có khó khăn gì đúng không. Thế rồi Phật A Di Đà hiện ra từ trong mặt trăng cũng rất rõ ràng. Bạn vẫn thường nhìn tượng Phật A Di Đà đó thôi! Tai ngài rất dài và rộng, lông mày cong cong như trăng khuyết, đôi mắt sáng như biển lớn, cái mũi cao như núi. Miệng và môi đều rất trang nghiêm, nét mặt cực kì viên mãn, trên đỉnh đầu có búi tóc. Tướng mạo của ngài, thân hình của ngài rất trang nghiêm, vô cùng chuẩn mực. Thiên y váy xếp của ngài, tay ngài cầm hoa sen, bàn chân của ngài, tòa sen của ngài, bạn đều có thể quán tưởng ra được, rất tỉ mỉ rất cẩn thận. Oa, thật trang nghiêm. Ngay lúc này tôi cũng có thể quán tưởng được rất rõ ràng và trang nghiêm. Nhưng rất nhiều người nói với tôi thực sự là không có cách nào quán tưởng được, tôi hỏi lại vì sao. Anh ta nói, mỗi lần con quán tưởng nguyệt luân màu xanh lam thì nó luôn luôn biến thành màu đen, con không tưởng tượng thành màu xanh được. Tôi hỏi anh có bị mù màu không? Anh nói, không hề. Không hề? Vì sao luôn luôn lại bị như vậy nhỉ? Vậy thì anh cần chú ý nhìn màu xanh nhiều hơn, cứ nhìn thật nhiều, rồi lại nghĩ về nó, tưởng tượng nó, cố hết sức để tưởng tượng màu xanh, có ngày sẽ thành công. Anh nói, chữ Phạn đó anh không viết được. Tôi nói, có sách dạy chữ Phạn mà, trong đó có các chú tự. Anh đi mua một cuốn sách rồi tìm hiểu về chữ đó cẩn thận, sau đó viết lại một lần, vẫn chưa giống thì viết lại hai lần, ba lần, bốn lần, viết nghìn lần vạn lần, rồi cũng sẽ viết được một cách cực kì hoàn hảo, cực kì tốt. Anh ta làm theo lời tôi nói, thế rồi cũng làm được. Nhưng anh lại nói, bổn tôn xuất hiện rồi, nhưng có vấn đề! Tôi hỏi, có vấn đề gì? Anh nói, bổn tôn luôn đứng không thẳng! Vậy anh cần phải quán tưởng ngài đứng thẳng đi! Phải quán tưởng ngài thật thẳng. Ai chà! Bổn tôn luôn luôn nghiêng về một bên, con thực sự đã cố gắng... Tôi thường gặp phải chuyện như vậy. Anh nói bất kể anh quán tưởng bổn tôn xuất hiện như thế nào thì ngài cũng luôn nghiêng về một bên, lúc nào cũng lệch lệch. Tôi bèn ngẫm nghĩ, lẽ nào tim của người này khả năng cũng bị lệch, bởi vậy mọi thứ đều lệch về một bên (đùa - cười). Thế nhưng việc này vẫn có thể sửa được. Khi tôi còn làm trong ngành trắc lượng, trước đây luôn phải treo một quả bóng, nghĩa là dùng một sợi dây nối vào một quả bóng và treo lên như thế này để đo xem cái cột đó có thẳng hay chưa, xem cái ống tre đó đã thẳng hay chưa. Tôi lúc nào cũng phải dùng quả bóng và sợi dây để đo, đo độ nghiêng của cột tre xong rồi thì có thể làm cho nó đứng rất thẳng. Tôi luôn dùng phương pháp trắc lượng từ từ điều chỉnh cho thẳng lại. Oa! Rất chính xác! Cái cột bóng rổ ở Biệt thự Cầu Vồng của chúng ta đó, tôi dùng dây treo hòn đá, bởi vì lúc đó tôi không có bóng, nên tôi đã dùng sợi dây buộc một đầu vào hòn đá để treo lên đo và làm cái cột đó rất thẳng. Nhưng mấy ngày này gió rất mạnh, có thể gió đã thổi cái cột bóng rổ đó bị nghiêng đi mất rồi. Vẫn còn một vấn đề nữa, có đệ tử nói với tôi, mỗi lần quán tưởng Phật A Di Đà đến trước mặt, anh không thể nhìn chính diện ngài mà chỉ có thể nhìn nghiêng từ mặt bên. Ai chà, việc này lạ quá! Hễ ngài xuất hiện là ngài lại xoay nghiêng, nghiêng, nghiêng, quay một bên mặt như thế này. Ai chà, kì lạ ghê! Phật A Di Đà không quan tâm tới bạn rồi. Liệu có thể có hiện tượng này không? Có. Thực sự là có kiểu hiện tượng này, vậy phải làm sao? Dùng "tẩy" để tẩy hết hình ảnh của ngài trong đầu đi, rồi lại quán tưởng ngài đến lại từ đầu. Thực sự đã từng có vấn đề này rồi, ngài hễ xuất hiện là lại hiện thân đứng xoay về mặt bên, chẳng bao giờ hướng thẳng mặt cả. Anh ta hỏi tôi phải làm sao? Tôi nói, thử lại, buộc phải làm cho ngài quay thẳng lại, nói cách khác là nếu ngài cứ như vậy, bạn dùng hơi thổi vào ngài (Sư Tôn dùng miệng thổi, mọi người cười) để cho ngài quay thẳng lại. Tôi không tin là lúc nào ngài cũng xuất hiện mà quay người một bên. Tôi từng kể một chuyện có thật. Có một đệ tử như thế này, anh ta học Sư Tôn cách biến hóa thực phẩm, anh niệm đại bàng Kim Sí Điểu. Anh bắt chước quán tưởng giống Sư Tôn, quán tưởng một con chim rất lớn. Vù! Con chim từ hư không bay tới. Oa, thực sự là rất tốt đó! Là "Đại bàng Kim Sí Điểu - Hoang dã quỷ thần chúng" đó. Thực sự anh quán tưởng rất tốt. Nhưng rồi không may là anh cũng nghĩ đến một mũi tên bắn ra, bắn trúng vào con chim đại bàng đó. (mọi người cười) Bạn biết mũi tên khi bắn ra rồi đó, "víu"! Mũi tên này rất to, bắn một cái là trúng ngay con chim, thế là rơi cái "bộp"! (mọi người cười) Mỗi lần anh ta đến đều luống cuống và bực bội, nói với Sư Tôn rằng: "Sư Tôn, con không thể tu pháp này được." Tôi nói: "Vì sao vậy?" "Mỗi lần con quán tưởng đại bàng Kim Sí Điểu đều xuất hiện ý nghĩ ác, là có một mũi tên bay từ bên cạnh tới bắn chết con chim này." Ai chà! Tôi cũng bó tay rồi (mọi người cười)! Ác nghiệp của người này rất nặng, bản thân trong tâm anh có hạt giống ác, có tu hành, có Phật duyên tốt, nhưng cũng có hạt giống ác luôn đeo bám, mỗi lần anh quán tưởng đều không thể quán tưởng nghiêm túc được. Ai da! Anh ta quán tưởng Thượng sư, Thượng sư tướng mạo rất trang nghiêm. Bức tượng sứ hình Thượng sư được làm rất tốt, đôi mắt rất trang nghiêm. Nhưng khi anh quán tưởng ra thì, ai chà, tại sao đôi mắt Thượng sư lại biến thành đầy dục vọng thế này? (mọi người cười) Anh nói anh không thể tu pháp được. Anh nói mỗi lần quán tưởng, hình tướng của Thượng sư hiện ra lập tức biến thành đầy dục vọng. Ai chà! Tôi đâu có như vậy nhỉ? (mọi người cười) Nhưng thực sự là anh ta bị như vậy đó, anh kể với tôi như vậy. Nghiệp chướng này rất nặng, gặp phải hiện tượng này cũng giống như một kiểu chướng ngại, một kiểu cản trở trên con đường đạo. Cách duy nhất để phá bỏ là buộc phải có chính niệm. Tấm lòng phải rộng mở, phải thường đi du lịch ngắm cảnh, ngắm núi ngắm sông, ngắm thiên nhiên, ngắm trời ngắm đất, ngắm mặt trời, ngắm trăng ngắm sao để vun đắp cho tâm hồn thêm phong phú rộng mở. Khi tâm đã phong phú rộng lớn rồi thì khi bạn ngồi xuống để quán tưởng sẽ không có những suy nghĩ bất hảo nữa. Những suy nghĩ tự động sẽ thanh tịnh, Phật A Di Đà hiện đến sẽ cực kì đoan trang nghiêm túc. Ngài phóng quang gia trì cho bạn, tam quang sẽ bao trùm, ánh sáng trắng, ánh sáng đỏ, ánh sáng lam đi vào trong bạn, hòa nhập với thân tâm bạn. Trước đây tôi từng nói rằng có thể dựa vào pháp khí của các vị để phóng quang cũng được. Ví dụ tòa hoa sen phóng ra ánh sáng trắng theo đường vòng cung đến gia trì cho bạn. Có lúc, ví dụ như Chuẩn Đề Phật Mẫu, 18 pháp khí trên các cánh tay của ngài đều phóng quang gia trì cho bạn, việc này hoàn toàn có thể.

🌟

Quán tưởng không rõ, phải làm sao? Bạn cần phải thường xuyên ngắm nhìn thứ mà bạn phải quán tưởng. Thậm chí chính bạn cũng phải vẽ mandala, phải vẽ ra, vẽ một đĩa mặt trăng, vẽ biển lớn, vẽ chú tự, vẽ Phật A Di Đà ở trước chú tự. Bạn cứ từ từ vẽ, vẽ mắt của ngài, vẽ lông mày của ngài, mũi của ngài, tai của ngài, mặt của ngài, búi tóc của ngài, cánh tay của ngài, chân, thiên y váy xếp, những thứ trang sức trang nghiêm trên thân ngài, bạn đều vẽ tất cả ra, vẽ, vẽ, vẽ. Tâm của bạn đặt vào trong bức vẽ, vẽ đủ lâu thì hình ảnh sẽ nằm trong tâm bạn, lúc đó bạn có thể quán tưởng rất rõ ràng. Bạn có biết các vị La Ma ở Tây Tạng làm những bức mandala, tất cả những thứ này đều từ tâm mà vẽ ra, in rõ trong tâm. Phương pháp làm việc của họ là: "Tôi vẽ ra, vẽ tượng Phật, tâm của tôi chính là tâm của Phật, tâm này chính là Phật.” Bạn quán tưởng Phật Bồ Tát chính là thân Phật, tâm Phật, là Phật đang thực hiện việc này. Giống như là bạn đang vẽ chính tâm bạn! Lúc này chính là bạn đang vẽ tâm bạn! Tâm của bạn thanh tịnh, quán tưởng của bạn chắc chắn sẽ rất thanh tịnh, rất rõ ràng trong sáng. Tâm của bạn không thanh tịnh, khi bạn quán tưởng đương nhiên sẽ có tạp niệm và không rõ ràng, thậm chí do có những suy nghĩ không tốt nên chúng cũng xuất hiện luôn trong lúc quán tưởng. Việc này chính là để tu sửa suy nghĩ của bạn, tu sửa thân tâm của bạn. Tam quang bao trùm chính là để chỉnh sửa ý niệm của bạn đó! Ý niệm của bạn phải thanh tịnh, bạn luôn luôn cần tu cho ý thanh tịnh. Có siddhi, có Phật tính, có pháp thân, ánh sáng quang minh từ hư không sẽ chiếu soi bạn, việc này chính là để sửa tâm của bạn, sửa ý của bạn đó! Khi bạn hoàn toàn đồng nhất vừa khít với ánh sáng quang minh, tôi nói cho bạn hay, bạn không cần phải sợ hãi gì nữa. Tới lúc tuổi già, bệnh tật, hơi thở đã rất ngắn rất gấp rồi, sắp chết rồi, bạn phải bám víu vào cái gì đây? Lúc đó bạn cần dựa vào cái gì? Lúc đó mắt chỉ cần nhắm lại, cõi tịnh độ sẽ hiện lên trước mặt, Phật A Di Đà sẽ hiện lên trước mặt vì bình thường bạn đã quen luyện tập như vậy rồi. Tịnh độ, Phật tính, bổn tôn, pháp thân đều ở ngay trước mặt bạn. Bạn vừa nhắm mắt liền vãng sinh tới Tây Phương, việc này bình thường bạn vẫn luôn tu hành rồi! Sự tiếp dẫn thành Phật này chính là ở mức độ cơ bản nhất. Có Phật quốc, có Phật tính, Phật tính của chính bạn, có pháp thân của bạn hiện ra trước mắt, bạn sẽ biến thành pháp thân, trực tiếp đi đến Phật quốc, vãng sinh thành Phật.

🌟 Niệm Phật kết hợp quán tưởng Niệm Phật trong Hiển giáo không đạt tới mức độ công phu như vậy! Bởi vì ở đây chúng ta phải quán tưởng và kết hợp niệm Phật mới có thể đến được cảnh giới này. Nếu bạn cứ chỉ niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, ngày ngày niệm Nam mô A Di Đà Phật và bạn không quán tưởng gì, chỉ dùng miệng để niệm mà thôi, thì đây là pháp niệm Phật đơn thuần. Tuy bạn niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, nhưng nếu trong tâm trí bạn lại chỉ nghĩ tới bùn thì tôi nói cho bạn biết, đến với bạn sẽ chỉ có bùn thôi. Bởi vì bạn không quán tưởng được, không quán tưởng thành cái gì cả, bạn không đi về Tây phương được. Cho dù bạn có niệm "Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật" rất kiền thành, nhưng nếu hình tướng phật A Di Đà không hiện lên, nếu bạn không làm gì để cho Phật hiện lên được trước mặt bạn thì Tam Thánh cũng chẳng có cách nào tiếp dẫn bạn được, niệm cũng không có tác dụng gì hết! [ Trường hợp đặc biệt: nhất tâm bất loạn ] Phật A Di Đà từ bi, thấy bạn niệm thực sự rất khổ sở, ngài biến hóa bùn đất trong não bạn thành hoa sen, tiếp dẫn bạn bởi vì bạn thực sự rất chí thành, chỉ niệm duy nhất Phật A Di Đà, luôn luôn nghĩ đến Phật A Di Đà. Phật A Di Đà nói: Tốt! Anh niệm danh hiệu của ta, cho dù trong đầu anh toàn nghĩ những thứ bùn đất, ta sẽ biến bùn đất đó thành hoa sen để tiếp nhận anh thành Phật. Tuy nhiên điều này cần anh phải nhất tâm bất loạn. Còn niệm Phật và đồng thời luôn nghĩ đến hình tướng Phật thì cũng chính là quán tưởng kết hợp niệm Phật. Vậy mới tốt. Nếu bình thường bạn luyện tập có chất lượng (nghĩa là biết chính xác mình đang làm gì), thì khi mắt bạn vừa nhắm lại (lúc chết), Phật A Di Đà sẽ hiện lên trước mặt bạn, chào đón bạn vãng sinh, đúng vậy không! Điều đầu tiên đảm bảo bạn có thể vãng sinh Tây phương Cực Lạc Thế Giới Ma Ha Song Liên Trì là có được tam quang bao trùm, chính là ánh sáng trắng, đỏ, lam của Phật A Di Đà bao trùm. Quán đảnh, hoa sen ở trên tay ngài phát ra ánh sáng trắng chiếu trọn lấy bạn, ánh sáng đỏ chiếu trọn lấy bạn, ánh sáng lam chiếu trọn lấy bạn. Phật A Di Đà rất ân cần rất từ bi hiện lên trước mặt bạn, đây chính là quán tưởng, mọi người rõ rồi chứ? Giải thích về quán tưởng thì rất nhiều kiểu quán tưởng, hôm nay tôi mới chỉ nói với mọi người về đĩa mặt trăng, chủng tử tự, bổn tôn.

🌟 Quán tưởng vi tế Có nhiều kiểu quán tưởng, ví dụ như khi bạn quán tưởng Hoàng Tài Thần thì lại khác. Với ngài thì bạn cần quán tưởng ra được Ngũ Phương Phật. Thế rồi ngón chân cái bên bàn chân phải của ngài phải sưng lên, tiếp đó Ngũ Phương Phật niệm chú quán đỉnh, cần phải niệm chú quán đỉnh như sau: "Om, hum, jen-sha-ya" Ánh sáng ngũ sắc xuất hiện quán đỉnh cho Hoàng Tài Thần, cái ngón chân cái bị sưng của Hoàng Tài Thần từ từ tiêu đi, ngài lập tức thị hiện vui mừng. Vào lúc ngài vui mừng thì ngài lắc chuông kim cương, việc lắc chuông chính là vì vui đó! Kì thực tôi vẫn chưa dạy mọi người lắc chuông kim cương, bạn không lắc chuông cũng không sao, quán tưởng ngài rất vui là được rồi. Cái ngón chân cái bị sưng nhờ được quán đỉnh nên mới tiêu biến đi, thế là ngài vui rồi. Vì ngài đã rất vui nên miệng con chuột nhả ra tài bảo cũng sẽ há to, nó cũng rất vui nên sẽ nhổ ra hết tất cả những thứ mà bạn muốn. Những thứ bạn thích nó đều nhổ hết ra cả, tôi nói ví dụ như xe ô tô, nhà tầng, đô-la Mỹ! Quán tưởng tiền đô như thế này: Từng cọc từng cọc tiền giống như ở ngân hàng, vào giờ thu gom tiền buổi tối là từng cọc từng cọc tiền chất cao như núi, hiện lên trước mặt bạn. Bạn biến thành rất nhỏ bé ngồi trước đống tiền cao như núi như thế này. Bạn nghĩ xem có bao nhiêu tiền, thế nên vui là đúng rồi. (mọi người cười) Hoàng Tài Thần vui, bạn cũng vui.

🌟 Quán tưởng Chuẩn Đề Phật Mẫu Quán tưởng này rất nhiều và rất đặc biệt. Bạn cần quán tưởng Chuẩn Đề Phật Mẫu với 18 cánh tay cầm vũ khí. Giả sử nếu bạn có thể quán tưởng tất cả 18 cánh tay cầm vũ khí thì thực sự bạn cũng rất phi phàm. Giả sử bạn quán tưởng được ba mắt mười tám cánh tay, tất cả pháp khí bạn đều có thể quán tưởng ra được, thì nếu tôi là Chuẩn Đề Phật Mẫu, tôi cũng khâm phục bạn. (mọi người cười) Tôi sẽ nói: "Oa! Con quán tưởng ta rõ ràng như vậy sao!" Ngài nhất định sẽ thương bạn nhất. Khi chúng ta quán tưởng, càng vi tế thì càng đi sâu vào sự an tịnh. Càng tiến sâu vào tầng lớp vi tế hơn của tâm trí thì bạn càng có thể tĩnh tâm. Càng có thể điều khiển hơi thở, càng có thể thâm nhập sâu vào ý thức và cảm giác. Còn bạn càng quán tưởng thô thì càng chẳng có gì. Khi bạn quán tưởng mà bạn thực hiện rất thô, mắt nhắm lại một cái, bầu trời có mây bạn cũng mặc kệ, nước biển ô nhiễm bạn cũng mặc kệ (mọi người cười). Bạn cũng mặc kệ cả đĩa mặt trăng luôn, oa, bạn quán tưởng mặt trăng thì thiếu mất một nửa, (mọi người cười), trở thành chỉ có nửa trên hoặc nửa dưới. Nếu bổn tôn xuất hiện, bổn tôn vừa giống Phật lại vừa không giống Phật, giống Bồ Tát lại cũng không giống Bồ Tát, giống Kim Cương Hộ Pháp nhưng cũng lại không giống Kim Cương Hộ Pháp, thực sự là không có đặc tính rõ rệt. (mọi người cười) Thế rồi cũng quán tưởng ngài quán đảnh cho bạn, quán cả nửa ngày bạn cũng chẳng thấy có cảm giác gì. Cho đến khi bạn sắp sửa quán tưởng xong thì liền trì chú luôn. Rất nhiều người đều làm một cách chiếu lệ qua loa như vậy đó. Trong lúc tu pháp, bạn quán tưởng cực kì kĩ thì mới có thể đi vào được nơi vi tế nhất của sự vi diệu. Việc này là dùng ý thức để tu, dùng ý thức sâu nhất để tu quán tưởng, lúc đó thì những gì bạn đạt được sẽ thực sự đáng kinh ngạc.

🌟 Các cấp độ tu hành "Nghi quỹ Mật giáo hoàn chỉnh" này thuộc về tầng lớp Ngoại pháp trong Mật giáo. Ngoài ra còn có Nội pháp, có Mật, và có Mật mật pháp. - Thành tựu được Mật mật pháp ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới gọi là Thường Tịch Quang Thổ. - Thành tựu được Mật pháp thì gọi là Thực Báo Trang Nghiêm Thổ. - Thành tựu được Nội mật, hay còn gọi là thành tựu Nội pháp thì sẽ tới được Phương Tiện Hữu Dư Thổ. - Thành tựu được Ngoại pháp thì đến được Phàm Thánh Đồng Cư Thổ. Đây là sự phân chia bốn vùng đất của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Lúc này tôi mới chỉ giảng Ngoại pháp mà thôi! - Còn ở cấp độ Mật mật thì sao? Sẽ là Phật quốc nào? Là Mật Nghiêm Phật Quốc. - Ở cấp độ Mật thì là Hoa Nghiêm Phật Quốc. - Ở cấp độ Nội pháp thì là Chân Phật Phật Quốc. - Ở cấp độ Ngoại pháp thì là Cực Lạc Phật Quốc. Có sự phân chia bốn loại như vậy. Việc này thực sự tuyệt vời như thế. - Cấp độ Mật mật còn có gì nữa? Chính là Đại Viên Mãn. - Cấp độ Mật thì chính là Đại Thủ Ấn. - Cấp độ Nội là ở mức độ Khí - Mạch - Minh điểm. - Cấp độ Ngoại thì là Thân - Khẩu - Ý. Việc tu hành Mật giáo thực sự là vô cùng tuyệt vời, vô cùng vi diệu! - Mật mật là tu được pháp thân. - Mật là tu được Viên giác. - Nội pháp là tu được Bồ Tát. - Ngoại pháp là tu được thành A La Hán. Tuy nhiên cách phân chia này là do tôi tự phân chia, không nhất định là tuyệt đối chính xác. Tôi chỉ giảng về các cấp độ nên có đôi chút khái quát lại, bởi vì bạn ở trong báo thân, giống như Viên Giác cũng thuộc về báo thân, ở cõi tịnh thổ này cũng thuộc về báo thân, còn ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có tồn tại ứng thân. Về pháp thân thì sao? Tôi không có lời nào để nói, chắc chắn là phải tới cấp độ Mật mật thừa. Thế còn Liên Hoa Đồng Tử thì là thân gì? Liên Hoa Đồng Tử chính là báo thân. Lư Thắng Ngạn là thân gì? Chính là ứng thân. Đại Nhật Như Lai là gì? Chính là pháp thân. Phật Nhãn Phật Mẫu và Liên Hoa Đồng Tử đều thuộc về báo thân. Còn Lư Thắng Ngạn chính là ứng thân. Ba thân cần phân biệt như vậy. Các cấp độ mà chúng ta tu hành, Ngoại - Nội - Mật - Mật mật chính là tu từ Ngoại pháp của Chân Phật Mật Pháp đến Nội pháp của Chân Phật Mật Pháp. Tu từ pháp Khí - Mạch - Minh điểm, đến Mật, đến Đại Thủ Ấn, đến Vô Thượng Mật, đến Mật mật, chính là Đại Viên Mãn. Đây là phân loại dựa theo các cấp độ.

14. Trì chú

Quán tưởng chuỗi hạt Sau khi chúng ta quán tưởng xong rồi thì có thể đi tiếp một bước nữa tới mục trì chú. Bình thường chúng ta nói, được thôi, trì chú chứ gì, thế là liền cầm chuỗi hạt lên. Có người thì đặt trên chân, cứ thế niệm "Om, a-mi-te-wa, seh", "Om, a-mi-te-wa, seh", và cứ thế lần hạt. Có người niệm như vậy đó, điều này thực sự là không đúng. Bạn cần cầm chuỗi hạt trước ngực, hơn nữa cần phải tập trung vào chuỗi hạt này. Trước đây tôi từng dạy rồi, nhưng ngược lại mọi người đếm lần chuỗi hạt thế nào, niệm thế nào lại vẫn cứ tùy ý mà làm! Mọi người đều cứ niệm "Om, mani padme hum", "Om, mani padme hum"… niệm xong là xong và nghĩ: Trì chú thì có gì hay mà nói chứ, trì chú chỉ cần khẩu thanh tịnh thôi mà. Một hành giả chân chính thì trì chú cũng phải cần quán tưởng, không phải là chẳng quán tưởng gì hết. Bây giờ tôi giảng cho mọi người nghe, mọi người sẽ hiểu rất rõ ràng.

Trước hết tay cần thực hiện việc cầm chuỗi như thế này. Quán tưởng tay phải biến thành chày kim cương, tay trái quán tưởng biến thành chuông kim cương, tất cả đều có quán tưởng cả. Tay trái quán tưởng thành chuông kim cương rồi cầm chuỗi hạt lên. Bây giờ tay phải quán tưởng thành chày kim cương, tay trái quán tưởng thành chuông kim cương, được rồi chứ! OK! Thế còn chỗ bốn hạt ở giữa chuỗi này, hạt ở đây chẳng phải có màu đỏ sao? Các hạt màu đỏ gồm có một hạt Mẫu, ngoài ra có ba hạt ở giữa, cần quán tưởng bốn hạt này thành Tứ Đại Thiên Vương. Bạn phải quán tưởng bốn vị Thiên Vương ở trên chuỗi hạt của bạn. Cái tua rua ở trên chuỗi hạt này bạn quán tưởng thế nào? Ý, một số người gọi là cái "râu ria"? (mọi người cười). Có người nói rằng bức tượng kia rất giống Sư Tôn, cái bức tượng ở Bồ Đề Lôi Tạng Tự (ở Vancouver) đó nghe nói là càng giống hơn, còn bức này là bức giống thứ hai. Có đứa bé nói, ý, vẫn không giống, bởi vì thiếu mất cái "râu ria" mọc ra ở chỗ cổ Sư Tôn. (Sư Tôn cười) Tôi vừa nói cái "râu ria" của chuỗi hạt này cần quán tưởng thành cái gì nhỉ? Cần quán tưởng thành Liên hoa thủ, các bạn đã từng nhìn thấy Liên hoa thủ chưa? Liên hoa thủ chính là bàn tay có hình dạng giống bông hoa sen nở. Tôi nhớ hình như là trước đây, ồ, ở trong một cái temple [ ND: chùa ], đúng là ở trong một ngôi chùa tôi đã nhìn thấy có hình liên hoa thủ ở trên lư hương ở đó, bàn tay đó giống như tay Phật. Tay Phật gọi là Liên hoa thủ thì đúng rồi! Bạn quán tưởng cái "râu ria" này thành Liên hoa thủ, bốn hạt này quán tưởng thành Tứ Thiên Vương, tay phải quán tưởng thành chày kim cương, tay trái quán tưởng thành chuông kim cương, sợi dây xỏ các hạt vào cũng cần quán tưởng thành vòng tròn ánh sáng màu trắng của Kim Cương Tát Đỏa, đúng là ánh sáng trắng của Kim Cương Tát Đỏa, đây là bản tính gốc của Kim Cương Tát Đỏa. Sau khi bạn quán tưởng như vậy xong thì bắt đầu trì chú: "Om, a-mi-te-wa, seh" … niệm như vậy. Trong khi bạn niệm chú cũng cần quán tưởng, quán tưởng rằng ở trong mỗi hạt đều có một vị A Di Đà Phật, cứ lần một hạt là phải quán tưởng ngài hiện ra trước mắt bạn. Thật là phiền phức! Oa! Mật pháp này nói tới mức chi tiết như vậy tôi thấy là cũng hiếm đấy. Nhưng thực sự là bản thân tôi đã thực tu như vậy hai mươi mấy năm rồi, tôi đã được dạy rất tỉ mỉ ý thức tối thượng của vũ trụ này. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại sư Tsongkhapa, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, Thanh Chân Đạo Trưởng, mỗi chi tiết các ngài đều chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng. Cách thức trì chú như thế này vô cùng vĩ đại, là vi diệu nhất, vi tế nhất, sẽ có được thành tựu nhất! Trước đây chúng ta tu Mật pháp là cứ cầm chuỗi hạt lên niệm niệm niệm, niệm xong 108 biến là xong rồi, xong rồi là bỏ xuống, hôm nay hết giờ (tu tập) rồi. Kì thực không phải là như vậy. Trì chú, ngoài sự thanh tịnh của khẩu còn cần dùng đến sự quán tưởng của ý. Thân thể thì trong lúc trì chú bạn cũng đã sử dụng rồi, bạn đã kết thủ ấn rồi. Đây chẳng phải là chày kim cương sao! Đây chẳng phải là chuông kim cương sao! Đây chẳng phải là sợi dây của Kim Cương Tát Đỏa sao! Đây chẳng phải là Tứ Thiên Vương sao! Đây chẳng phải là Bổn tôn sao! Đây chẳng phải là Liên hoa thủ sao, vậy là bạn đã kết ấn rồi. Mỗi câu niệm ra đều quán tưởng một vị A Di Đà Phật nằm trong mỗi hạt tròn tròn, chẳng phải bạn đang dùng sự thanh tịnh của ý đó sao? Miệng bạn niệm "Om, a-mi-te-wa, seh" chẳng phải là khẩu thanh tịnh sao? Đây chính là tu hành tam mật hợp nhất, là tu hành vô cùng vi diệu, là Mật pháp vô cùng tuyệt vời. Tôi dạy bạn quán tưởng, dạy bạn trì chú, dạy bạn nhập Tam Ma Địa, dạy bạn kết thủ ấn, như vậy là hoàn chỉnh rồi, là Mật pháp cực kì hoàn chỉnh không thiếu cái gì cả.

🌟 Tu pháp cần lòng tin kiên định Trước đây những gì tôi từng viết trong sách chỉ là sự giới thiệu một cách sơ lược, trước tiên để mọi người có nhận thức về Mật pháp, sau đó là dạy tới ngoại pháp. Thực tế tôi vẫn muốn dạy nội pháp nữa! Khi tôi dạy nội pháp, tôi đã từng nói sẽ bắt đầu từ Linh nhiệt pháp, bắt đầu từ Nội hỏa minh điểm, dạy "giáng - đề - trì - tán" (hạ xuống - nâng lên - giữ lại - giải tán) để giúp bạn thắp lên nội hỏa, giúp bạn thông trung mạch. Nhưng đến khi tôi 50 tuổi, tôi vẫn chưa dạy tới Ngoại pháp mà đã có rất nhiều người thoái lui đạo tâm rồi. Tôi vẫn còn chưa dạy pháp, họ đã bỏ đi rồi. Thế là "phi vụ kinh doanh" này bất thành rồi. (mọi người cười) Tôi vẫn chưa "bán" cho bạn những thứ của tôi có, thế mà bạn đều cho rằng đã học xong hết cả rồi! Tôi nói, kì lạ thật? Có rất nhiều thứ đó! Ý của tôi muốn nói rằng cần phải từ từ, tôi vẫn còn muốn dạy cho mọi người biết nhiều thứ khác. Một số đệ tử thiếu kiên nhẫn, một số người thì tâm lí bắt đầu sinh bệnh, một số người thì thân thể sinh bệnh, một số người thì tâm trí trở nên cổ quái. Ai chà! Bọn họ đều cho rằng đã biết hết mọi thứ rồi, thậm chí có đệ tử nói rằng Lư Sư Tôn này mỗi ngày ở trong mật đàn, mỗi ngày luyện tập y như vậy, toàn thứ cũ rích đó, tùy ý làm vài cái động tác tay, miệng thì niệm lung tung blah blah… (mọi người cười). A! Thế là thành Phật rồi! Làm gì có chuyện đơn giản thế, như vậy đây chắc chắn là pháp giả rồi. Mỗi ngày đều làm như vậy một chút, thế là có thể thành Phật sao? Ai chà! Khi đó họ hỏi tôi như vậy, trong lòng tôi cảm thấy rất buồn. Ý của tôi là như sau: Trong lúc đệ tử thực hành pháp, tôi sẽ quan sát tâm tính và năng lực của tất cả các đệ tử. Nếu bạn thực sự có thể thực tu Chân Phật Mật Pháp thì tôi mới dạy bạn đến cấp độ thứ hai. Cấp độ thứ nhất của Ngoại pháp tôi vẫn còn chưa giảng xong cho bạn, vẫn còn chưa dạy bạn hết, bạn đã thối lui đạo tâm rồi. Như vậy là "thỏa thuận kinh doanh" của chúng ta còn chưa thành, bạn đã bỏ đi rồi, tôi gọi bạn cũng không quay lại, đúng không? Trên thực tế, việc thực hành những pháp này đòi hỏi sự luyện tập chăm chỉ và lặp đi lặp lại vô số lần. Nếu những con người may mắn nhờ có pháp này lại không thể đạt được sự thành tựu thì là không có tín tâm kiên cố rồi! Thực là hời hợt quá! Gió bất chợt thổi một cái thế là bạn lăn đùng ra. Trên thực tế đệ tử của chúng ta nhiều quá, nhưng chính bởi vậy chúng ta cần phải sàng lọc, dùng cái sàng này, sảy sảy sảy, lọc bỏ những tạp chất rơi xuống, cuối cùng còn lại chính là vàng nguyên chất. Chúng ta cứ luyện tập cho tốt rồi sẽ được thành Phật. Thực tế là Phật độ chúng sinh cũng như thế, chắc chắn cần phải làm như vậy. Ngài nói tín tâm của người này không đủ. Dù bạn có nói thế nào thì cũng chẳng có cách nào khác, tín tâm của người này từ đầu tới cuối đều không có. Việc này cũng có liên quan đến duyên nghiệp. Có khả năng là kiếp trước người đó chưa ăn cơm mà tôi cúng rồi! (mọi người cười) Kiếp trước anh ta chưa ăn cơm mà tôi cúng nên anh không cần phải đáp trả lại tôi, có đúng không? Anh ta muốn để cho Sư Tôn được "nhẹ gánh" một chút, thiếu đi vài đệ tử cũng tốt. Tóm lại, nếu bớt đi vài đệ tử thì trong lòng này của tôi cũng bớt đi phiền phức, được thanh tịnh thêm chút! Đôi lúc tôi cảm thấy, những thứ tốt đẹp như thế này tôi thực sự muốn trao cho bạn, nhưng bạn không muốn, do vậy tôi thấy vô cùng buồn bã. Nguyên nhân chính là như vậy. Có những thứ tốt đẹp như thế, bạn lại thực sự không muốn, nói rằng không muốn đâu. Hầy! Tôi tặng miễn phí cho bạn cơ mà! Thực sự bạn không muốn sao? Thực sự không muốn, điều này khiến tôi khóc một cách đầy cay đắng, thực sự đây chính là điều khiến tôi đau lòng, không phải điều gì khác. Bản thân tôi đã rất tự tại rồi, rất viên mãn rồi, rất vui sướng rồi, tất cả mọi ưu phiền thuộc về tiềm thức đều không còn nữa. Bởi vì nếu bạn đã đạt đến mức độ có thể dung nhập vào vũ trụ thì đây là một sự khai ngộ vô cùng phi phàm! Sự khai ngộ này không hề tầm thường, là siêu phàm, trên đời này không còn thứ gì có thể ảnh hưởng đến bạn nữa. Bây giờ vì độ chúng sinh, tôi chỉ có tấm lòng nhiệt thành, chính vì nhiệt thành nên mới cảm thấy buồn bã, mới rơi lệ. Nếu không thì còn gì để mà phiền não đây? Xin hỏi các vị còn gì để bám chấp đây? Hôm nay tôi cùng mọi người nói chuyện, xin hỏi các vị có gì đáng để mà bám chấp? Thử nghĩ xem, là gia đình sao? Vợ chồng sao? Con cái sao? Là tiền bạc sao? Địa vị sao? Nghề nghiệp sao? Sức khỏe sao? Tất cả những thứ này rồi sẽ trở về cát bụi, đều quay về với cát bụi mà thôi. Chỉ có tu hành bạn mới có được đại pháp, chỉ có nỗ lực tu hành mới có được cuộc sống vĩnh hằng, không sinh, không diệt. Bạn cần biết làm sao để loại bỏ phiền não. Nếu bạn thực sự có thể loại bỏ phiền não thì sẽ rất tốt, sẽ liễu sinh thoát tử, minh tâm kiến tính. Sống còn có ý nghĩa gì đây? Sống trên thế giới này có ý nghĩa gì? Bạn tu hành được quả thì sự vui sướng đó là vô giới hạn, đây mới là ý nghĩa lớn nhất của đời người.

🌟 Tùy thuận đối với con cái Hôm qua tôi đã nói rồi đó! Hôm qua vào lúc ăn bữa tối, tôi kể đến việc ngày xưa tôi vẫn giữ quan niệm thế này. Tôi họ Lư, tôi cũng từng luôn muốn sinh được một đứa con trai mang họ Lư! Nó sẽ là thế hệ kế thừa Lư gia của chúng tôi. Có đúng vậy không? Trong đầu những người Trung Quốc đều có kiểu quan niệm tiếp nối dòng họ này. Nhưng khi bạn đưa con sang Mỹ thì, a, mọi hi vọng truyền thống đều chấm dứt. (mọi người cười) Nó chẳng quan tâm bạn là Lư gì, cái họ Lư mà tổ tiên để lại ấy, nó chẳng thèm bận tâm đến mong muốn của bạn về việc tương lai tạo dựng một nền tảng gia tộc ở Mỹ! Nó lấy một cô tóc vàng mắt xanh, sinh ra đứa con cũng tóc vàng mắt xanh, thằng bé họ Lư, nhưng lại viết kiểu tiếng anh là LU, là LU đó! Không hề giống như chữ Hán có một bộ Hô, một bộ Thất, một bộ Điền, một bộ Mãnh, hoàn toàn không phải chữ Lư tiếng Hán. Nó viết thành chữ LU rồi! Còn chữ Lư tiếng Hán [ 廬 ] nó viết không được. Ấy, nó như vậy liệu có thể tiếp nối và giữ gìn truyền thống dòng họ không? Làm gì có, đến đây là xong rồi! Đúng vậy đó! Bạn đem con bạn tới Mỹ. Nó không có cảm giác về sự tôn quý khi là con cháu của nhà họ Lư nữa, tuyệt đối không có việc này. Nó cũng không đặt kì vọng vào thế hệ con cháu tiếp theo phải tiếp nối họ của gia đình nữa. NO! Không còn nữa. Tôi tin chắc rằng một đời sau, hai đời sau đều hoàn toàn không còn, quan niệm này chắc chắn không còn nữa. Tổ tiên các bạn từ đâu tới? Nó cũng chẳng biết. Bởi vậy quan niệm về gìn giữ dòng họ vốn chỉ có trong đầu của những người Trung Quốc thôi, giống như là gia phả vậy. Người nào truyền cho người nào, rồi lại truyền cho mấy người, mấy người nữa, ai thuộc về gia phả là được liệt kê hết ở đó! Bạn đem nó đến nước Mỹ, gia phả đều có thể đem đốt, chẳng còn nữa. Bạn muốn ép buộc nó, ở Mỹ ép buộc không được phép. Nó có thể đến tòa án để tố cáo bạn. (mọi người cười) Bạn nhốt nó lại, bạn đánh nó một cái, nó bèn đi báo cáo với giáo viên, giáo viên báo lên trường học, trường học tổ chức một buổi họp thành viên để tố cáo bạn. (mọi người cười) Việc này được gọi là gì? Cực kì bại hoại! (mọi người cười) Bởi vậy với thế hệ sau, thực sự không nên kì vọng rằng nó cần phải thế này thế nọ, tôi chỉ hy vọng chúng nó có thể sống tốt, đừng đem tới cho bạn lắm phiền phức, thế là tốt rồi. Ví dụ như Phật Thanh con gái tôi. Có lúc tôi cũng từng phiền não vì nó, vì sao vậy? Vì thành tích học tập của nó quá tốt, cũng là một sự phiền não. Nó cũng lại muốn mỗi kì học đều giữ được điểm 4, nó lúc nào cũng được 4 [ND: 4/5 điểm, giáo dục ở Mỹ dùng thang điểm 5 là điểm cao nhất), cho đến nay cũng luôn luôn là 4 điểm, như vậy cũng là một kết quả hoàn hảo rồi. Đều là điểm A, là 4 điểm, không có kém đi một điểm nào, không có 3.9 điểm. Nó nói nó muốn mua xe, nó nói muốn đổi xe cũ, muốn đổi sang xe gì vậy? Ớ, là xe Jeep. (mọi người cười) Tôi nói tôi có một điều kiện. Nếu nó muốn mua xe, khi nào thành tích học tập của nó được 3 điểm mấy thì tôi mới cho nó mua. (mọi người cười) Nó không cần phải duy trì cho tôi điểm 4 đó, tôi nhìn thấy cái điểm 4 là tôi bực mình rồi. (mọi người cười) Nó học hành rất vất vả. Nó học tới cấp ba thì lại tham gia vào các câu lạc bộ, phục vụ trường học, tham gia rất nhiều các hoạt động. Mỗi tối lại còn phải viết văn, ghi chú, làm toán, cái gì cũng phải học hết. Trường học đó học rất nặng, nó bận tới nỗi không thể ngơi nghỉ, nó tham gia hết các lớp học, các câu lạc bộ và các hoạt động của trường. Nó vắt kiệt thời gian của bản thân, nhìn nó rất đáng thương. Tôi nói với nó, không cần giữ điểm 4 nữa! Nó không cần phải học mấy trường đại học tốt như vậy, ví dụ như Stanford, Havard hay Yale gì đó đâu. Yale trong tiếng Trung chúng ta chẳng đọc thành "Ya Lu" đấy thôi! (mọi người cười) [ ND: Ya Lu âm Hán Việt là Á Lỗ - dịch nghĩa ra là Châu Á ngu si ]. Nó chính là muốn đi học mấy trường đại học Yale, Standford, Harvard đó. Tôi bảo không cần phải đi học mấy trường đó, con học trường BCC là tốt rồi. (mọi người cười) BCC là một dạng trường cao đẳng cộng đồng, hình như trường Bellevue của chúng ta cũng là một dạng BCC, trường college (cao đẳng) đó là được rồi, không cần phải học mấy trường tốt đến thế kia. Thế còn Phật Kỳ con trai tôi, tôi nói với nó thế này. (Sư Tôn quay sang Sư Mẫu hỏi) "Nói ra có vấn đề gì không nhỉ?" Tôi nói, con học hết trung học là được rồi. (mọi người cười) Tôi muốn đứa con này bình thường thôi, bản thân có kĩ năng gì có thể kiếm sống là được rồi, không cần phải kì vọng quá cao vào nó! Kì thực từ góc nhìn của bản thân Sư Tôn mà nói, đối với con cái nên để cho chúng phát triển tự nhiên, đừng hạn chế, đừng giới hạn chúng, nhưng hi vọng cuộc sống của chúng được vui vẻ, thời gian đi học cũng nên vừa đủ thôi. Tất cả nên bình thường, nên như vậy. Nói cách khác là tâm tư của cha mẹ nên tương đối bình thản, đừng nên nói rằng kì vọng chúng có thể học tới mức thế này thế kia. Vinh danh tổ tiên, làm rạng danh tổ tiên thời nay không thể nữa rồi! Tôi nói đúng không, thực sự là chuyện không thể, những đứa trẻ lớn lên ở nước Mỹ có tư tưởng riêng của chúng, quan niệm riêng của chúng, tôi không hạn chế chúng.

🌟 Tùy thuận đối với đệ tử Tôi quay lại với chủ đề chúng ta đang nói, tông phái của chúng ta cũng là tự do và dân chủ. Trước nay tôi cũng rất hiếm khi hạn chế đệ tử cần phải như thế nào. Đệ tử muốn làm thế nào thì cứ làm như vậy. Ý của tôi muốn nói với mọi người rằng Mật giáo là một môn học, một mục tiêu, một công cụ tu hành trong cuộc đời bạn, rằng Chân Phật Mật Pháp là một thứ vô cùng vô cùng tốt đẹp. Các bạn đến cầu pháp, Sư Tôn nhất định sẽ dạy, hơn nữa nhất định sẽ cho bạn đại pháp chân chính. Khi trình độ của bạn đủ rồi Sư Tôn nhất định sẽ dạy bạn tiếp, ở đây chỉ là vấn đề thứ tự cấp độ. Ví dụ bạn đã đạt đến được sự tương ứng ở cấp độ thứ nhất rồi, thế thì tôi chắc chắn sẽ dạy bạn cấp độ thứ hai. Khi bạn đạt đến sự tương ứng của cấp độ thứ hai rồi, tôi chắc chắn sẽ dạy bạn cấp độ thứ ba. Đời người lấy việc tu hành làm điều quan trọng nhất, ý nghĩa của đời người cũng nằm ở đây. Mật pháp tốt như vậy, tôi đương nhiên hy vọng mọi người có thể tiếp nhận, có thể tu hành, hơn nữa cần có sự bền chí. Giả sử bạn nói bạn có tư tưởng dân chủ của riêng bạn, cũng có tự do riêng của bạn, tôi cũng chẳng bắt buộc gì các bạn. Tôi thuộc về kiểu người tự do và dân chủ. Thêm nữa tông phái chúng ta là phái tự nhiên, là phái tự nhiên chủ nghĩa. Những người theo phái tự nhiên chủ nghĩa thì tùy thuận. Mọi người có thể tu hành đến như thế nào thì cứ như thế đó. Tuy nhiên, trong pháp mà tôi dạy mọi người, tôi luôn một lòng chân thành. Tôi đối với con cái cũng vậy, cũng một lòng với chúng. Nhưng chúng cũng tự do và dân chủ, thế nên kết luận cuối cùng của tôi là tôi là người theo chủ nghĩa tự nhiên. Các bạn đến nghe pháp là có duyên rồi, còn không nghe pháp thì là không có duyên. Nếu học pháp nghiêm túc thì là có duyên rất tốt, còn học hời hợt chiếu lệ thì cũng là duyên hời hợt qua loa, cũng chẳng có cách nào giúp cả. Nhưng tôi nhấn mạnh, Chân Phật Mật Pháp là chính pháp, là chân pháp, vô cùng tốt đẹp. Ngày mai tôi sẽ lại giảng tỉ mỉ cách nhập Tam Ma Địa thế nào, tôi cũng sẽ giảng về Hậu hành, trong nghi quỹ có Tiền hành, Chính hành, Hậu hành. Tôi cũng sẽ giảng cho mọi người về pháp khí nữa. Nếu có nhiều thời gian, tôi sẽ giảng cho mọi người cách sử dụng pháp khí như thế nào, ta có chuông kim cương, chày kim cương. Rồi còn cả cái trống da người này nữa, dùng thế nào. [ ND: trống Damaru ] Trong Mật giáo pháp khí quan trọng nhất chính là chuông kim cương, chày kim cương, chuỗi hạt, ngoài ra còn có trống da người nữa. Đối với hành giả Mật giáo mà nói thì những pháp khí thế như vậy là đủ rồi. Nhưng hôm nay tôi giảng pháp đến đây thôi. Om mani padme hum.

15. Tức thân thành Phật và tiếp dẫn thành Phật

Các vị Thượng sư, các vị đồng tu, chào mọi người. Hôm nay là buổi thứ tư chúng ta giảng về nghi quỹ tu trì Mật pháp hoàn chỉnh. Trước khi bắt đầu thuyết pháp, tôi sẽ giảng cho mọi người một chút về thế nào là tiếp dẫn thành Phật, thế nào là tức thân thành Phật. Đã từng có một đại pháp sư trong lúc thuyết pháp được rất nhiều người hỏi rằng có chuyện tức thân thành Phật không? Thế là vị đại pháp sư này liền nói: "Căn bản là không có chuyện tức thân thành Phật. Cái chuyện gọi là tức thân thành Phật ấy à, đại bộ phận đều là lừa người ta cả." Ông ý nói ra như vậy đó! Không hề dùng não để mà suy nghĩ một chút. Khi ông ý nói câu này ra cũng tương đương việc chửi Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, bởi vì bản thân Phật Thích Ca Mâu Ni chính là tức thân thành Phật. Mọi người nói xem có đúng không? Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế giới Ta Bà này, ở dưới gốc cây bồ đề, buổi đêm nhìn sao sáng, khai ngộ thành Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni chính là như vậy. Thế mà vị đại pháp sư này nói rằng: "Làm gì có chuyện tức thân thành Phật, tức thân thành Phật là lừa gạt người ta." Như vậy chẳng phải là nói rằng không có chuyện Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật sao, chuyện ngài ở thế giới Ta Bà thành Phật là lừa người ta sao? Lại cũng có người nghĩ như sau, Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên có thể tức thân thành Phật vì Phật Thích Ca Mâu Ni có căn khí rất lớn. Ngài đã tu hành rất nhiều kiếp rồi, nhất định có thể thành Phật được, chỉ có một mình ngài là có thể thôi, còn chúng ta thì không thể. Rất nhiều người nói, Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật thì hiển nhiên, chẳng có vấn đề gì. Điều mà đại pháp sư kia nói chính là tất cả tỉ tỉ chúng sinh đều không thể tức thân thành Phật. Kì thực Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là từ con người mà tu thành Phật. Ngài đã có căn cơ tu hành từ rất nhiều kiếp rồi, thế nên chắc chắn vào một kiếp ở thế giới Ta Bà ngài sẽ tu trì thành được Phật. Đây là điểm khác nhau giữa tức thân thành Phật và tiếp dẫn thành Phật. Tôi giảng cho mọi người một chút nhé. Liệu có người nào khác thành tựu giống như vậy không, nghĩa là trực tiếp từ thế giới Ta Bà, giống như Phật Thích Ca Mâu Ni mà tu trở thành Phật không. Có đó! Ví dụ như Long Thọ Bồ Tát, Mã Minh Bồ Tát, rất rất nhiều Bồ Tát đều là từ thế giới Ta Bà này thành Phật cả. Chưa kể việc tức thân thành Phật không nhất thiết chỉ nói đến việc thành Phật ở thế giới Ta Bà. Ví dụ như Phật A Đạt Nhĩ Mã, chính là Phật Nguyên Thủy, ngài ở cõi trời Vô sắc giới, ở cõi trời Hư không phi tưởng phi phi tưởng mà tu thành Phật, ngài ấy chính là tức thân thành Phật. Ngoài ra, Đại Nhật Như Lai, Phật Tì Lư Giá Na, ngài ở cõi trời Ma Ê Thủ La Thiên của cõi trời Vô sắc mà tức thân thành Phật. Ngoài ra còn những vị giống như Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà tức thân thành Phật, nãy giờ chúng ta kể đến thì cũng đã có vài vị rồi, có vài vị Phật đều là tức thân thành Phật. Mật giáo chúng ta nói về tức thân thành Phật, còn Hiển giáo thông thường nói về tiếp dẫn thành Phật, giữa hai điều này rốt cục sự khác biệt nằm ở đâu? Tiếp dẫn thành Phật của Hiển giáo, khẩu quyết chính là ở bốn chữ: Nhất tâm bất loạn. Trong kinh A Di Đà đã ghi chép, bạn chỉ cần niệm Phật liên tục bảy ngày, nhất tâm bất loạn, Phật A Di Đà hiện lên trước mặt sẽ tiếp dẫn bạn thành Phật. Pháp Bảy ngày thành Phật của Mật giáo cũng thế. Bạn thường xuyên quán tưởng bản thân mình là một chữ Hum (tiếng Phạn), Phật là chữ Ah, liên tục bảy ngày, chữ Ah này hạ xuống, dùng cái móc của chữ Ah móc vào cái khuyên của chữ Hum, móc nó bay lên trời. Đây chính là Bảy ngày thành Phật của Mật giáo. Nhưng bất kể là bạn tập bảy ngày thành Phật của Hiển giáo hay bảy ngày thành Phật của Mật giáo thì cũng đều là tiếp dẫn thành Phật. Hôm qua tôi có kể đến một Phật tử, ông vừa nhắm mắt qua đời là có thể nhìn thấy Phật A Di Đà xuất hiện ở trước mặt. Chỉ cần công phu của bạn đủ, bình thường bạn luyện tập có "chất", luôn niệm mà không quên Di Đà thì cho dù trì chú hay niệm Phật, đúng thời điểm lúc bạn nhắm mắt xuôi tay, Phật A Di Đà sẽ hiển hiện trước mặt bạn, chắc chắn sẽ tiếp dẫn bạn thành Phật. Với việc niệm Phật trong Hiển giáo, nếu tập sâu hơn một chút - có thêm quán tưởng niệm Phật thì chắc chắn có thể thành Phật, có thể được tiếp dẫn đến Tây phương cực lạc thế giới. Hiện nay người tu hành thông thường đều là được tiếp dẫn thành Phật. Đối với tiếp dẫn thành Phật thì cần dựa vào tự lực và tha lực. Tha lực chính là Phật lực. Bản thân Phật A Di Đà đã phát nguyện, chỉ cần bạn niệm Phật liên tục bảy ngày nhất tâm bất loạn, ngài sẽ đến để tiếp dẫn bạn đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Ngài phát ra lời nguyện này, còn bạn lại có tự lực của chính mình. Vậy tự lực là gì? Đó chính là bạn niệm Phật, niệm đến khi bản thân nhất tâm bất loạn. Vào lúc lâm chung, đúng thời khắc đó, nếu bạn một lòng muốn đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, một lòng muốn được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn bạn, bạn trì Phật hiệu không ngừng dứt, lúc này ngài sẽ đến tiếp dẫn bạn. Đây chính là tự lực của bạn, là tâm lực của bạn mong ngóng về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cùng tương ứng với đại nguyện mà Phật A Di Đà đã đưa ra. Đây chính là sự tiếp dẫn thành Phật, cũng chính là tự lực cùng tha lực phối hợp với nhau để thành Phật, bởi vậy gọi là tiếp dẫn thành Phật.

🌟

Vậy vì sao còn có tức thân thành Phật đây? Tức thân thành Phật nghĩa là không dựa vào tha lực mà chỉ hoàn toàn dựa vào bản thân mình để tu hành. Đó là bản thân bạn khi còn tại thế, bạn đã khai ngộ, đã đạt được trí huệ vô thượng của Phật. Bạn đã hoàn thành việc chuyển ý thức của mình thành trí huệ, chuyển nghiệp của mình thành thanh tịnh, chuyển từ tam Nghiệp chuyển thành tam Mật, cũng chính là thân - khẩu - ý đó! Nghiệp của thân - khẩu - ý chuyển thành Mật của thân - khẩu - ý, nói cách khác chính là thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh của Đại Nhật Như Lai. Bạn đã đạt được bí mật của Như Lai rồi, lại có thêm việc bạn chuyển ý thức của mình thành Ngũ đại trí huệ - năm trí tuệ vĩ đại của Phật. Chuyển được như vậy rồi thì là bạn đã tức thân thành Phật. Việc này chính là tức thân thành Phật. Tôi nhắc lại, tam Nghiệp chuyển thành tam Mật, từ ý thức của con người chuyển thành Ngũ đại trí huệ của Phật, chuyển được như vậy xong thì gọi là tức thân thành Phật. Mật giáo khi đạt tới cảnh giới cao nhất, khi bạn hoàn toàn biến mình thành Phật tính thì chính là tức thân thành Phật. Lúc đó không cần Phật A Di Đà đến tiếp dẫn bạn nữa, tự bản thân bạn chính là tự tính Phật. Lúc đó pháp thân Phật, pháp thân - báo thân - ứng thân, tam thân Phật trên "người" bạn đều hiển hiện ra. Do vậy việc tu hành Mật giáo vô cùng vĩ đại. Điểm khác biệt trong bản thân Mật giáo là có thể tức thân thành Phật, có thể tu trì thành tựu. Thế nên tiếp dẫn thành Phật và tức thân thành Phật đều giống nhau ở chỗ là tuy cùng rất vĩ đại, nhưng các cấp độ của chúng lại có những chỗ không giống nhau.

🌟 Cơ sở của việc tiếp dẫn thành Phật Với con người sống trên thế gian, việc tu hành trên con đường thế gian này là trân quý nhất và quan trọng nhất. Thế nên tôi hi vọng mọi người có thể hiểu rõ thế nào là tiếp dẫn thành Phật, thế nào là tức thân thành Phật. Trong số các đệ tử của chúng ta có rất nhiều người nói rằng việc tức thân thành Phật thực sự khó quá, "chúng con chỉ cần tiếp dẫn thành Phật là được rồi". Như vậy cũng có thể được. Nhưng cho dù bạn chỉ cần được tiếp dẫn thành Phật thì bạn vẫn cần tu tập đến khi hoàn thành tốt Ngoại pháp của Chân Phật Mật Pháp và cần tương ứng được với bổn tôn. Lúc đó tôi bảo đảm bạn cũng có thể được tiếp dẫn thành Phật. Bạn có thể chỉ cần tương ứng được với pháp bổn tôn thôi là được rồi. Bạn nói rằng các nội pháp khác như khí - mạch - minh điểm bạn không muốn tu, khó quá, rằng "tôi cũng không muốn tu mật pháp gì hết nữa." Ví dụ như Vô thượng mật, cái này cũng quá khó. Bạn có thể sẽ nghĩ "tôi cũng không muốn tu Đại viên mãn, cũng không muốn tu nội pháp, không cần đả thông nội - ngoại, tôi không muốn tu Đại viên mãn, tất cả viên mãn tôi cũng không muốn, tôi chỉ cần tiếp dẫn thành Phật, nhẹ nhàng là được rồi. Phật đến đưa tôi đi, tôi không cần tự mình đi, thế là được rồi." Tuy nhiên trong Mật giáo, chỉ cần bạn tu pháp bổn tôn có được sự tương ứng, hay tối thiểu là tương ứng được Tứ quy y là đã có cơ sở để được tiếp dẫn thành Phật rồi. Còn riêng trường hợp nếu hoàn thành được Thượng sư tương ứng pháp, giả sử Sư Tôn không đến đưa các bạn đi, thì có nghĩa là Sư Tôn đi vacation [ ND: nghỉ dưỡng ] rồi. (mọi người cười) Sẽ không như vậy đâu, bởi vì Liên Hoa Đồng Tử cũng có pháp thân. Ngài có pháp thân, ngài biết bạn sắp rời bỏ cõi thế. Vì bạn đã tương ứng được với Thượng sư rồi thì pháp thân của ngài nhất định đến tiếp dẫn bạn. Thế nên dù Sư Tôn có đi vacation thì pháp thân của ngài vẫn luôn đến để tiếp dẫn bạn. Chắc chắn sẽ có Liên Hoa Đồng Tử đến đưa bạn đi cùng, dẫn bạn đến Ma Ha Song Liên Trì. Khi bạn đã tương ứng được với Thượng sư tương ứng pháp thì tôi bảo đảm bạn có thể đến được Ma Ha Song Liên Trì. Bạn đã tương ứng được pháp bổn tôn rồi thì có thể bảo đảm bổn tôn sẽ đến tiếp dẫn bạn đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, hoặc đến cõi tịnh độ của bổn tôn đó. Việc này chính là nếu có tương ứng sẽ có bảo đảm, nếu không tương ứng sẽ không có bảo đảm. Bạn tương ứng được rồi, nói cách khác là do bạn thường xuyên trì chú của ngài, một khi bạn nhắm mắt lâm chung, ngài sẽ hiện ra trước mắt bạn. Việc này chắc chắn là nhờ sự tương ứng. Bởi vậy để được tiếp dẫn thành Phật, bạn nhất định phải tu được tương ứng pháp bổn tôn, có thể đến được cõi tịnh độ của bổn tôn. Trường hợp nếu bạn tu được tương ứng Thượng sư tương ứng pháp cũng có thể đến được Ma Ha Song Liên Trì. Ở mức độ cơ bản nhất nếu bạn đã tương ứng được pháp Tứ quy y thôi là bạn đã có cơ sở để được bổn tôn và Phật tiếp dẫn thành Phật. Do vậy trong việc tu hành Chân Phật Mật Pháp của chúng ta, bạn cần tương ứng được pháp Tứ quy y, tương ứng pháp Thượng sư, rồi lại cần tương ứng pháp bổn tôn. Tại mức độ này là bạn có thể bảo đảm trình độ của mình cũng ngang bằng với trình độ tiếp dẫn thành Phật của Hiển giáo, hơn nữa lại còn có được sự bảo đảm chắc chắn! Tuy nhiên tôi còn có thể đảm bảo cho bạn, cấp độ "tương đương" này của bạn thậm chí đã vượt qua cả trình độ của Hiển giáo, bởi vì chúng ta còn có nhập Tam Ma Địa nữa!

🌟 Quy không pháp Hôm nay tôi muốn giảng về nhập Tam Ma Địa. Nhập Tam Ma Địa chính là nhập định (samadhi), là định giới. Nói đến pháp môn tịnh độ, họ đương nhiên cũng có giảng về thiền định, tuy tương đối ít. Họ chủ yếu giảng về niệm Phật để cầu vãng sinh tịnh độ, và chỉ có vài chữ này thôi - nhất tâm bất loạn. Kì thực "nhất tâm bất loạn" chính là định! Nhất tâm bất loạn chính là thiền định. Trong Mật giáo bình thường bạn đã học về công phu thiền định. Một khi công phu thiền định đủ, khi bạn tới được trình độ thiền đủ tốt, sẽ có công lực thiền định sâu. Việc chuyển tam Nghiệp thành tam Mật, chuyển ý thức thành trí huệ, (chính là tức thân thành Phật) cũng chính là bắt nguồn từ năng lực thiền định mà có. Đối với việc tiếp dẫn thành Phật và tức thân thành Phật tôi cần phải giảng như vậy cho mọi người hiểu rõ. Khi bạn tức thân thành Phật, nhận thức lúc này của bạn và nhận thức của con người thế gian sẽ không giống nhau, tuyệt đối khác biệt. Nhận thức một hành giả đã khai ngộ và nhận thức của con người thế gian tuyệt đối không giống nhau. Hành giả khai ngộ chắc chắn là siêu việt hơn rất nhiều. Lúc này bạn đã ở vào cảnh giới vô cùng vô cùng cao, bạn đã bay lên rất rất cao rồi. Khi đó bạn nhìn thế gian này chỉ như một hạt cát bụi mà thôi, một hạt cát, một hạt bụi.

Thế con người khi thành Phật là như thế nào? Có người so sánh như sau: Việc này giống như một hạt cát trở về với một ngọn núi, giống như một giọt nước chảy về biển lớn. Sự so sánh này không hẳn là đúng lắm nhưng cũng là một cách so sánh tương đối dễ hiểu. Một hạt cát trở về nơi một ngọn núi, một giọt nước chảy về biển lớn, thành Phật chỉ là như vậy mà thôi. Trước đây đệ tử của Norras Thượng sư từng yêu cầu sư phụ dạy về một đại pháp có thể thành tựu dễ nhất và nhanh nhất, nói cách khác là pháp này lập tức có thể thành Phật được. Đệ tử đó cầm lên một con dao, chính là muốn đe dọa sư phụ của anh. Anh ta nói: "Thầy không cần phải giảng nhiều như vậy, hôm nay thầy chỉ cần giảng cho con nghe về bộ pháp có thể thành Phật rất nhanh là được rồi." Anh ta muốn Thượng sư Norras nói ra ngay lập tức, Thượng sư Norras bị ép buộc, không còn cách nào khác đành phải nói với đệ tử rằng: "Anh hít một hơi thật sâu, hít một hơi thật là sâu, chính là hít vào một hơi thật dài, sau đó lại thở ra một hơi, tâm của anh cũng theo hơi thở này đi ra luôn, vậy là anh có thể thành Phật." Ô! Thật là đơn giản quá! Ngài nói rằng hít vào một hơi thật sâu, rồi lại thở ra một hơi, đem cả tâm theo hơi khí này thở ra ngoài luôn, thế là bạn có thể thành Phật rồi. Nói thì rất đơn giản, nhưng làm thì rất khó. Phương pháp này chúng ta gọi là Quy không pháp. Quy không, nghĩa là trở về với hư không. Ai có thể đem tâm mình cùng lúc đi ra cùng với hơi thở ra đây? Trên thực tế, nếu có thể đem tâm của bạn cùng với hơi thở này thở ra ngoài được thì bạn thực sự chính là thành Phật rồi đó! Bạn thử nghĩ mà xem, Mật pháp "Trung ấm cứu độ" toàn bộ đều nằm ở sự tập trung đưa tâm thức hay "tâm" đi ra từ đỉnh đầu mà thôi, tâm chính là Phật mà! Vị Phật ở trong bạn rời xa chính bạn. Bản thân vị Phật này từ trong hơi thở đi ra, rồi từ đỉnh đầu đi ra, chẳng phải là bạn thành Phật rồi sao? Điều đáng sợ nhất chính là không đi ra được, không có đường nào để đi ra. Thậm chí có khi e là Phật tính của bạn còn không muốn đi ra, không muốn rời bỏ thế giới Ta Bà, không muốn rời khỏi cơ thể phàm trần này của bạn. Đó mới là cái khổ, đó mới là sự giày vò. Do đó nếu bạn có thể bỏ đi toàn bộ thân thể mình, có thể "đẩy" Phật tính của mình đi ra cùng hơi thở, có thể đem Phật tính gửi tới vũ trụ thì bạn thực sự trở thành Phật được rồi. Thượng sư Norras nói rất có lý, nhưng có thể đưa được chính mình ra ngoài thì thực sự cần phải có công phu. 27/11/1992

16. Nhập Tam ma địa (sadmadhi)

Tốt rồi! Bây giờ chúng ta sẽ giảng chi tiết về pháp nhập Tam ma địa như thế nào. Trong sách và trong các bài thực hành pháp trước đây tôi đã từng nhắc đến rằng muốn nhập Tam ma địa, trước tiên cần thực hiện Cửu tiết Phật phong, cần tập Nội hỏa Minh điểm. Tôi thường nhắc đến Cửu tiết Phật phong và Nội hỏa Minh điểm. Tuy nhiên kì thực bạn chỉ cần tập Cửu tiết Phật phong là cũng được rồi. Nội hỏa Minh điểm cần để tới sau này mới tập, nói cách khác là đến khi bạn tu nội pháp thì mới tập. Trong trường hợp bạn đã có công lực về Nội hỏa Minh điểm rồi thì trong lúc tu trì nghi quỹ này bạn cũng có thể thực hiện luôn. Còn giả sử bạn chưa có Nội hỏa, không những chưa có Nội hỏa mà chỉ có Nội băng, không có hỏa chỉ có băng, lạnh muốn chết, cơ bản là không "thắp lửa" lên được. Thì trong lúc tu pháp đến bài tập Nội hỏa Minh điểm mà bạn vẫn cứ ngồi tập, kết quả sẽ chỉ là toàn thân trở lạnh mà thôi. Như thế thì thực hành này hoàn toàn vô ích. Bởi vậy có thể đợi đến khi thực hành nội pháp mới tu Nội hỏa Minh điểm. Giờ chúng ta cần thực hiện Cửu tiết Phật phong trước.

🌟 Trong Định sinh trí huệ Vậy thì Tam ma địa là gì? Tam ma địa chính là Định, chính là chữ định trong thiền định. Chữ Định này vô cùng vô cùng quan trọng. Trong Phật học có Tam vô lâu học. Tam vô lậu học chính là giới - định - huệ. Lại là chữ Định này! Giới "có mặt" ở đây cũng vì Định. Vì sao bạn cần giữ giới? Giữ giới chính là giúp cho có được Định. Vì sao bạn cần khổ hạnh? Khổ hạnh cũng vì để có được Định. Vì sao bạn cần tu hành đại lạc? Tu hành đại lạc cũng là vì Định. Có rất nhiều phương pháp, cực kì nhiều phương pháp đều là nhằm đạt được một chữ Định này. Theo đó từ Định mới sinh ra trí huệ vô thượng, mới sinh ra Phật trí - trí huệ Phật. Nếu không có Định thì không thể mong cầu có trí huệ. Rất nhiều người nói rằng về cơ bản tôi không cần phải tu Định, chẳng cần phải thiền định, tôi nhất tâm bất loạn! A, nói thế này thì anh ta là "nhất tâm rất loạn" chứ không phải là "nhất tâm bất loạn". Khi bạn còn loạn thì có thể sản sinh ra trí huệ không? Một người vào lúc hỗn loạn hoang mang căng thẳng, có thể nói rằng trí huệ đã phân tán rồi, trí huệ của anh ta đã lung tung rồi. Từ đó làm ra rất nhiều sự việc không hợp lý, không hợp tình, không hợp pháp, nói cách khác là những sự vụ bạn gây ra chính là lúc bạn mất đi trí huệ. Vì sao bạn có thể mất đi trí huệ? Bởi vì bạn vừa căng thẳng vừa hoang mang. Tóm lại, đều là vì bạn lo lắng, chính vào lúc bạn không có nặng lực Định, bạn sẽ chạy lồng lộn lên. Một người có Định thì làm việc gì anh ta cũng đều sản sinh ra trí huệ vô thượng trong Định. Anh ta dựa vào Định để giải quyết mọi vấn đề. Tất cả sẽ không còn là vấn đề gì nữa. Còn không có Định thì chẳng thể sản sinh ra trí huệ. Ngũ đại trí huệ của Phật toàn bộ đều sản sinh ra từ trong Định. Giữ giới cũng chính là vì để có được Định. Do vậy những người xuất gia tu hành khổ hạnh ở vùng núi Himalayas, những người xuất gia tu hành ở Ấn Độ, ở Tây Tạng chọn sống ở những nơi núi cao hẻo lánh sống khổ hạnh hoàn toàn là vì chữ Định này.

🌟 Giữ giới và sự ràng buộc giới Trong Phật pháp mà nói, chỉ cần bạn có được Định thì không bị ràng buộc vào việc giữ giới nữa. Giữ giới là để có được Định, một khi bạn đã biết được Định rồi, bạn thực sự nắm được Định rồi, thì cũng không hẳn nói là có thể được phá giới. Điều tôi muốn nói là không bị ràng buộc vào giới, bạn không bị giới luật hạn chế bạn nữa, điều này ở mức độ rất cao thâm. Đừng vì bây giờ tôi đang nói với các bạn như vậy, thế là các bạn cũng đều không còn giữ giới nữa, lấy lý do là vì Sư Tôn đã nói rồi đó, không bị ràng buộc bởi giới nữa, không bị giới cản trở nữa. Nếu nói sự không bị ràng buộc giới chính là không cần giữ giới thì không phải giữ giới là có thể làm loạn rồi. Nếu như bạn làm loạn, cần phải biết rằng khi loạn thì bạn sẽ không còn Định nữa, bạn sẽ mất đi năng lực Định này. Năng lực Định một khi mất đi, trí huệ sẽ không phát triển, không bộc lộ được huệ nữa. Như vậy nếu bạn không giữ giới nữa là sai rồi, thực sự là sai đó. Điều tôi nói là, nếu bạn là người có được Định, thì không còn bị ràng buộc bởi giới, không còn bị giới luật hạn chế bạn. Nếu như bạn chưa có được Định, bạn cần giữ giới, việc này thực sự rất rõ ràng. Bạn có thể Định được thì không cần bị ràng buộc vào giới, bạn không có Định thì chắc chắn cần giữ giới. Đạo lý này rất sâu sắc. Trước đây tôi có đi hát Karaoke, đi khiêu vũ nhảy tango, uống rượu. Các đệ tử nói uống rượu ấy à, sao có thể làm thế, Sư Tôn làm sao có thể làm như vậy được? Chúng ta nhìn thấy chẳng vừa mắt tí nào! Chúng ta cần phải viết lời nhắn cho Sư Tôn, bảo ngài không thể làm như vậy. Bạn muốn quản tôi đấy à? (mọi người cười) Rất nhiều đệ tử đều muốn quản việc của Sư Tôn. Làm Sư Tôn mà như vậy là không được! (mọi người cười) Có lẽ tôi nên làm đệ tử thôi. Nếu tôi làm đệ tử, giả dụ sư phụ của tôi làm sai, tôi cũng viết lời nhắn gửi cho sư phụ. Còn nếu tôi làm sai, sư phụ lại không quản được tôi. Bạn uống rượu có say xỉn làm loạn lên không? Tôi uống rượu không có say, không làm loạn bao giờ! Rất nhiều người uống rượu đều nói là bản thân mình không say. (mọi người cười) Nhưng tôi thì thực sự là không say đâu! Tôi thực sự không hề bị say rượu! Đây là điểm thứ nhất, tôi không bị say, thực sự là không bị say. Bạn có thể uống rượu, nhưng khi bạn uống rượu xong thì cũng không giữ được giới luôn, bởi vậy bạn không được phép uống rượu. Tôi uống rượu xong tôi vẫn giữ được giới, bởi vậy có thể uống rượu! Trước đây khi tôi còn trẻ tôi đi khiêu vũ ở phòng khiêu vũ Tuyết Lệ nằm dưới nhà hàng Hậu Đô, bên bờ sông Tình Yêu ở thành phố Cao Hùng. Bây giờ nó đã chuyển đi rồi, chuyển tới quận Linh Nhã, khu Linh Tử Liêu. Thời điểm tôi đến phòng khiêu vũ Tuyết Lệ, tôi còn rất trẻ, mới hai mươi mấy tuổi. Lúc đó tôi đi khiêu vũ cảm thấy rất mê đắm, rất cuốn hút. Bởi sự mê đắm đó mà thậm chí hôm qua tôi đi rồi, hôm nay không đi, nhưng tôi lại cứ chờ đợi xem có ai hẹn mình đi không nhỉ. Hầy! Thế rồi trong lúc khiêu vũ, bạn biết mấy cô vũ nữ đó rồi đấy, các cô mặc sườn xám đều bộc lộ các đường cong tuyệt mĩ. Hơn nữa từ trên cơ thể các cô đều tỏa ra hương thơm quyến rũ bởi nước hoa và phấn son, tiếng Đài Loan gọi là "mùi phấn" rất nặng. Sau khi mũi bạn ngửi được những mùi này rồi, mắt bạn nhìn thấy những hình ảnh này rồi, thêm việc bạn có thể chạm vào nữa, có những cái đụng chạm, những cái chạm của tay, của thân thể, lại còn có cả kiểu nhảy "ba dính" nữa! (mọi người cười) [ ND: nhảy ba dính: dính liền ba bộ phận mặt, bụng, chân ]. Thế là sau khi về nhà rồi, bạn có biết sẽ thế nào không? Khiêu vũ ở Đài Loan luôn bắt đầu bằng một điệu nhanh, một điệu disco hoặc điệu gitobuc, nhịp điệu rất nhanh. Ở phần giữa là một điệu tango, điệu thứ ba là điệu chậm rãi ví dụ như blues. Lúc nhảy chậm rãi, người ta sẽ tắt hết đèn (mọi người cười). Lúc đó đèn điện tắt hết rất tối tăm. Có khi bạn chẳng dựa vào cô ta, cô ta cũng cứ dựa vào bạn. (mọi người cười) Đúng vậy không? Cứ một điệu nhanh, một điệu tango, rồi một điệu chậm trong ánh đèn mờ ảo, tối om. Lúc đó đều là dựa vào nhau rồi sờ soạng, dựa vào và sờ soạng, không có cách nào khác! Bởi vì bạn chẳng nhìn thấy gì cả. Bạn không nhìn thấy gì nên chỉ có sờ soạng thôi. Thế rồi đến khi bạn về nhà, tâm bạn chẳng thể nào yên ổn được, sẽ bị mê đắm, sẽ nghĩ ngợi, sẽ nghĩ mãi về nó, lúc này chính là lúc bạn đánh mất giới, bạn đã mất đi sự tỉnh táo rồi. Rất dễ, thực sự rất dễ đánh mất giới đó! Bạn chẳng còn giới luật gì nữa. Do đó Phật pháp dạy bạn không được đi đến những nơi tửu sắc, vũ trường, phòng trà, nguyên nhân chủ yếu chính là vì e sợ rằng bạn sẽ phá giới. Tuy nhiên giả sử bạn có thể đi đến những chỗ đó mà bạn vẫn rất tự tại, vào lúc đó bạn chỉ giống như đang exercise [ ND: vận động ]. Đó chỉ là một kiểu vận động thôi, vận động xong trở về nhà, nằm xuống giường một cái là bạn lập tức ngủ ngon lành an tịnh, chẳng còn gì lưu lại trong tâm trí bạn nữa. Bạn chẳng mê đắm, chẳng yêu thích, vậy là bạn vẫn giữ được giới. Bạn đi nghe nhạc, bạn đi hát karaoke, khi trở về bạn hoàn toàn không còn chút gì mê đắm vào những âm nhạc đó, hoặc là những âm thanh ca từ đó không còn luẩn quẩn trong đầu bạn mãi không rời đi, như vậy cũng có thể nói là bạn vẫn còn giữ được giới. Nói cách khác là bạn không mê đắm vào bài hát, cũng không mê mấy cô gái xinh đẹp đó, bạn ở trong vũ trường không mê đắm vào sắc đẹp, trong phòng trà không mê đắm vào âm nhạc, vậy thì bạn có thể đi. Nếu bạn có thể điều tiết những thứ trong cuộc sống của bạn một cách thích hợp, một cách vừa phải mà không bị mê đắm vào chúng thì đều có thể được. Nhưng cũng có người hỏi tôi: Sư Tôn à, nếu ngài không bị say đắm vào âm nhạc, vào ca hát, không đắm đuối vào những điệu nhảy, nói tóm lại là không bị mê đắm, thế vì sao ngài còn đi? Ý, họ nói cũng có lý, vì sao còn muốn đến những chỗ đó nhỉ? Người hỏi như vậy rất có lý, bởi vậy bây giờ tôi cũng không đi nữa rồi. (mọi người cười) Kì thực, có thể đi, có thể không đi. Tôi nói câu "có thể đi, có thể không đi" có nghĩa là tự do, gặp những dịp như vậy bạn có thể đi, có thể không đi, bạn giữ giới không bị ràng buộc bởi giới bởi vì bạn đã có được Định. Khi còn trẻ thì tôi chẳng thể làm được. Tôi nói rằng khi đó tôi mới chỉ có hai mươi mấy tuổi, tôi từng mê đắm một quãng thời gian, đây là những lời nói rất thật lòng! Nhưng chúng đều là quá khứ rồi, không phải là hiện tại bây giờ, có đúng vậy không? Thế còn bây giờ thì sao? Tôi còn mê đắm không? Làm gì còn nữa. Kể cả những thứ cực kì mê hoặc ở trước mặt tôi, nói thật nhé, cũng chẳng có tác dụng gì hết. Tôi nói thế có thể các bạn chẳng tin đâu. (cười) Thực tế là sao? Khi định lực đã đủ rồi, định lực chân chính đã đủ, bạn sẽ tu được Vô thượng mật. Trong Mật giáo có định lực, khi bạn thực sự đã tu đạt được định lực rồi, bạn có thể tu Vô thượng mật. Còn nếu định lực của bạn không đủ, tôi nói cho bạn biết, bạn sẽ sinh baby [ ND: em bé ] đó. Đó là bởi vì định lực không đủ. [ ND: Sư Tôn đang nói về pháp tu Vô thượng mật - pháp tu đôi cùng phối ngẫu. ] Mật giáo ở mức độ cao nhất có một cảnh giới mà người có đủ Định sẽ tu được tới. Cảnh giới đó nhìn chung mà nói, đối với người vẫn chưa đạt đến được cảnh giới đó trong Mật giáo thì không thể nói được. Không thể nói ra bởi vì nói ra thì thành là phạm giới. Nhưng với hành giả thực sự đến được cảnh giới đó thì anh ta vẫn sẽ giữ giới, đến giai đoạn đó sẽ vẫn còn giữ giới, vẫn còn giữ giới nhưng lại không bị ràng buộc bởi giới. Cảnh giới này hoàn toàn khác với tình huống thông thường, hoàn toàn không tương đồng với những tập tục, hoàn cảnh, pháp luật trên thế gian. Thế mà anh ta vẫn giữ giới đó! Anh ta vẫn giữ giới, đừng cho rằng anh ta không giữ giới, kì thực anh ta vẫn giữ giới. Từ giới mà sản sinh ra Định, bởi vì bạn có Định rồi, bạn sẽ có thể giữ được mọi giới, rất đơn giản. Bạn đã có Định rồi thì cũng tương đương với việc bạn giữ được mọi giới. Công lực này thực sự phi phàm.

🌟 Tam ma địa chính là Định Tam ma địa là gì? Tam ma địa chính là Định. Phật đến từ đâu? Làm sao để thành tựu? Từ trong Định mà thành tựu. Rất nhiều người nói tôi đã có Định rồi, tôi có thể không giữ giới nữa, muốn thử một lần cho biết. Bản thân bạn muốn chạm vào lương tâm mình, thử xem thế nào, muốn thử. Bạn thực sự có Định không? Có thể Định được không? Bạn có thể tạo ra khí chạy khắp toàn thân, ngoài khí có lửa, ngoài lửa có ánh sáng. Bạn có thể đạt được như vậy chưa? Khi bạn có đủ Định thì sẽ sản sinh ra những điều này. Ở trong Định bạn sẽ có được định lực này, sức mạnh này sản sinh ra thì sẽ có thân ngoài hóa thân, rất đơn giản. Do đó bạn không thể dối mình dối người. Bạn có thể lừa rất nhiều người khi nói rằng "Tôi đã đạt đến Tam ma địa rồi, đã đạt đến Định giới rồi." Bạn có thể nói thế, chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng bạn cần đối diện với lương tâm mình, lương tri mình, có thực sự là bạn đã có Định không? Việc này chỉ có chính bạn biết thôi. Bạn có bị rò rỉ hay không bị rò rỉ? Bạn bây giờ có rò rỉ hay không có rò rỉ đây? Rò rỉ có hai dạng là rò rỉ vật chất minh điểm và rò rỉ trí huệ phiền não, bạn có còn phiền não không? Bởi vì bạn đã định rồi thì làm sao còn phiền não đây? Bạn đã định trong Tam ma địa rồi, lúc nào cũng ở trong Tam ma địa, làm sao còn có thể rò rỉ đây? Vẫn còn rò rỉ thì vẫn chưa đạt đến được định giới của Tam ma địa. Thỉnh thoảng có định à! Các bạn nói là "có lúc tôi có định, có lúc tôi không có định!" (cười) Ban ngày bạn có định, ban đêm không có định à, có đúng không? (cười) "Có khi buổi tối tôi cũng có định đó, chỉ là thỉnh thoảng một tháng đến một lần thôi!" Thế là bạn vẫn còn rò rỉ rồi! Đây không được coi là định. Đây chỉ là Tam ma địa ở cấp độ sơ khởi xuất hiện ngẫu nhiên. Tam ma địa có cái gọi là Sơ trụ, có cái gọi là Tế trụ, còn có cái sâu nhất gọi là Tối tế trụ, lại còn có Kiên cố vô quá tam ma địa. Thế nào gọi là Kiên cố vô quá tam ma địa? Đó là trong lúc bạn nhập định thì vô cùng kiên cố, rất vững chắc, không thể bị phá hủy, không thể bị hủy hoại. Vô quá là không có lỗi, nói cách khác chính là không còn bị rò rỉ mất. Phiền não của bạn không rò rỉ, trí huệ của bạn không rò rỉ, vật chất minh điểm của bạn không rò rỉ, tinh thần của bạn không rò rỉ, như vậy được gọi là không lỗi. Bạn có thể đạt được Tam ma địa ở mức độ Kiên cố vô quá thì mới được xem là đại định chân chính.

🌟 Thủ ấn nhập Tam ma địa Tam ma địa chính là Định. Chúng ta tu Tam ma địa ra sao, tôi dựa vào chính kinh nghiệm của mỉnh để giảng với mọi người ngày hôm nay. Trước khi bắt đầu thiền định, chúng ta đã trì chú rồi. Sau khi trì chú thì tiếp theo là nhập Tam ma địa. Chúng ta kết thủ ấn, chính là thủ ấn này đặt ở hai bên đầu gối. (Sư Tôn thị phạm kết thủ ấn.) Có người mở rộng ra như thế này, ngồi kiết già hoặc bán già, hoặc ngồi tùy ý, tay thì vươn ra. Đây là tư thế của vũ trụ, chính là tư thế viên mãn của toàn bộ vũ trụ. Chúng ta cũng có thể kết thủ ấn là tay trái đặt ở trên, tay phải đặt ở dưới, hoặc tay phải ở trên tay trái ở dưới, thực tế cả hai cách đều được. Thủ ấn này tương đương với mối liên quan giữa nước và lửa, tư thế này tượng trưng cho toàn bộ thân tâm thả lỏng dung hợp cùng vũ trụ, toàn bộ vũ trụ hoàn toàn bao trùm bản thân ta. Có người kết thủ ấn như thế này (Sư Tôn thị phạm), nhưng cũng có thủ ấn thế này (Sư Tôn thị phạm). Được, đều được cả. Thế còn lưỡi chạm vào hàm trên, việc lưỡi chạm vào hàm trên cũng có ý nghĩa ở trong đó. Lưỡi chạm vào hàm trên là rất hay, vừa khéo để có thể nhận được thiên thủy. Thế còn đối với ngồi bán già, kiết già hay ngồi tùy ý thì sao? Khi bạn ngồi tùy ý thì trung mạch của bạn bị cong, ngồi bán già và kiết già thì trung mạch thẳng. Sau này khi tôi dạy bạn nội pháp, tôi sẽ nói lại tỉ mỉ hơn về việc ngồi bán già, kiết già và tùy ý có ảnh hưởng thế nào đối với trung mạch. Bởi vì khi ngồi tùy ý, trung mạch này bị cong, thế còn ngồi bán già, kiết già thì đốt sống mới thẳng được, đốt sống thẳng thì trung mạch mới thẳng. Sau này khi giảng về nội pháp, tôi sẽ lại giảng về khẩu quyết của phương diện này.

17. Cửu tiết Phật phong

Phương pháp thở Cửu thiết Phật phong Khi bắt đầu cần thực hành Cửu tiết Phật phong, có cần quán tưởng lại từ đầu không, nghĩa là bầu trời xanh không mây, biển, nguyệt luân, chú tự, bổn tôn xuất hiện, có cần làm lại không? Không cần nữa, bởi vì lúc bắt đầu nghi quỹ bạn đã thực hiện quán tưởng tam quang bao trùm rồi. Bổn tôn đã thông qua thành tựu và chú tự từ trong Phật tính hiển hiện trước mặt bạn, lúc này bạn nhắm mắt lại là có thể quán tưởng được bổn tôn của bạn ở trước mặt rồi. Có một vài cách hít thở mọi người cần chú ý. Trước đây tôi dạy mọi người chẳng phải là hít vào ánh sáng trắng theo mạch phải rồi thở ra từ mạch trái đó sao? Thế rồi lại hít vào ánh sáng trắng, lại từ mạch trái đi vào, rồi đi ra từ mạch phải. Tiếp đến lại là ánh sáng hít vào từ mạch hai bên, đến bên dưới thì dồn về trung mạch, chạy lên đỉnh đầu nhưng không thông tiếp nữa mà đi xuống, rồi lại từ mạch hai bên thở ra. Như vậy là được ba tiết, đúng vậy không? Thế rồi lặp lại vòng tròn này, tôi cũng đã giảng rồi, từ mạch phải ba tiết, từ mạch trái ba tiết, rồi hai mạch ba tiết, như vậy là đủ Cửu tiết Phật phong. Trước đây tôi giảng là ánh sáng trắng đi vào bên trong biến thành ánh sáng đỏ, ánh sáng đỏ xoay chuyển lúc đi ra thì biến thành khí màu đen. Việc này biểu thị Phật là ánh sáng trắng thanh tịnh đi vào trong thân thể bạn, sau khi vận chuyển một vòng thì sẽ đem theo nghiệp đen của bạn đi ra từ lỗ mũi trái. Lỗ mũi trái, lỗ mũi phải, hai bên lỗ mũi đều tương tự làm như vậy tổng cộng ba lần, rồi chúng ta đổi lại lại là ba lần, ba lần cuối cùng là hít vào từ hai lỗ mũi trước, rồi đến lỗ mũi trái, cuối cùng là lỗ mũi phải.

🌟

Lấy vọng tưởng dừng vọng tưởng Trước đây chúng ta tập Cửu tiết Phật phong luôn là như thế. Nếu có quán tưởng thì chính là một trung mạch, một mạch trái, một mạch phải, vị trí ba mạch thông nhau của chúng ở phía dưới là vị trí dưới rốn bốn đốt ngón tay. Thế còn mạch phải thông với lỗ mũi bên phải, mạch trái thông với lỗ mũi bên trái, đường trung mạch này đi thẳng qua luân xa họng rồi mở rộng lên đỉnh đầu, đến đây thì được che kín lại không thông nữa. Điều ảo diệu của Cửu tiết Phật phong nằm ở đâu? Cửu tiết Phật phong giúp bạn làm cho tinh thần thống nhất. Bởi vì khi chúng ta quán tưởng hoặc lúc thiền định, tinh thần thường rất loạn, tinh thần và não bộ đều rất phức tạp, cực kì loạn. Muốn loại bỏ những tạp niệm này, phương pháp của Mật giáo chính là lấy vọng tưởng để dừng vọng tưởng. Lấy vọng tưởng để dừng vọng tưởng nghĩa là sao? Chính là lấy một ý niệm này để chặn lại những ý niệm khác. Như vậy, Cửu tiết Phật phong là một dạng suy tưởng, ta lấy một ý nghĩ này để chặn lại ý nghĩ khác. Pháp của Mật giáo chính là như vậy, đây cũng chính là quán tưởng. Dùng ý nghĩ thanh tịnh để chặn dừng những ý nghĩ bất hảo. Giả dụ nói rằng bạn nhập Tam ma địa công lực đã sâu rồi, thực sự công lực rất sâu, vừa ngồi xuống là nhập định ngay, vậy thì bạn không cần phải thực hiện việc này nữa. Nhưng bạn không chắc được như vậy. Khi bạn vừa bắt đầu ngồi xuống, òa, tôi lập tức đến rồi. (mọi người cười) Cha tôi bị bệnh rồi, con gái tôi lại đòi tiền rồi! Tôi cần phải mua xe gì đây? Tôi còn thiếu nợ ai nhỉ? Ai nợ tôi bao nhiêu tiền còn chưa trả nhỉ? Bạn vừa bắt đầu ngồi thiền là suy nghĩ đã chạy đi tận đâu rồi. Nếu bạn ngồi mà chỉ như vậy, cứ cho là có thể ngồi mười ngày thì cũng chẳng có tác dụng gì cả. Bởi vì bạn toàn nghĩ lung tung đi đâu đó rồi! Nếu vậy thì chi bằng đi ngủ cho xong, đi ngủ còn giúp cho tinh thần tốt hơn một chút. (cười) Nói chung khi nhập Tam ma địa, điều đáng sợ nhất là bạn rơi vào trong những vòng xoáy của vọng niệm, những vọng niệm cuốn xoay không ngừng. Rất nhiều người viết thư cho Sư Tôn kể rằng khi họ nhập Tam ma địa, không có cách nào để dừng lại những tạp niệm. Tôi nói các bạn thực hiện Cửu tiết Phật phong đi! Bạn lập tức có thể lấy niệm dừng niệm! Bạn cần dùng suy nghĩ này để loại bỏ hoàn toàn những tạp niệm khác. Đây là một kĩ thuật giúp tinh thần tập trung thống nhất! Khi bạn thực hiện Cửu tiết Phật phong, nghĩa là bảo bạn tập lỗ mũi trái, lỗ mũi phải, rồi lại hai lỗ mũi, rồi lại lỗ mũi phải, lỗ mũi trái, lại hai lỗ mũi. Bạn đang làm cái gì vậy? Đây chẳng phải là việc rất phiền toái sao, nhưng thực sự là cần phải điều khí như vậy để điều chỉnh tâm bạn, để tinh thần bạn có thể tập trung. Đạo lý này rất đơn giản. Thế nhưng có nhiều bạn không thực hiện được, bạn nói chỉ cần ngồi xuống (nhập Tam ma địa) và cứ hễ ngồi xuống là: Òa! Mẹ bạn đến (mọi người cười), cha bạn đến, con gái bạn cần thứ gì đó! Ai thiếu tiền của tôi, tôi thiếu tiền của ai, hôm nay tôi cãi nhau với ai, cãi nhau với công ty, cứ nghĩ mãi về việc cùng với ai như vậy, nghĩ mất cả nửa ngày trời. Ai dà! Tôi đang tập cơ mà nhỉ? Quên mất tiêu rồi! (mọi người cười) Bạn đang nhập Tam ma địa cơ mà! Bởi vậy lúc đầu tôi dạy bạn tập Cửu tiết Phật phong là rất thực tế. Bạn cũng nên thực sự tập pháp này một cách cẩn thận. Bởi vì chí ít trong lúc tập Cửu tiết Phật phong, bạn cũng sẽ không có suy nghĩ lung tung, do bạn đang phải thực hiện Cửu tiết Phật phong mà! Bạn phải nghĩ khí này hít vào thế nào thở ra thế nào, đi lên đỉnh đầu thế nào, làm sao để đi lên rồi lại đi xuống, rồi lại từ hai bên đi ra như thế nào.

🌟 Tôi và Phật thở cùng một lỗ mũi Phương pháp cao siêu hơn mà trước đây tôi đã dạy mọi người về việc ánh sáng trắng từ đâu tới. Tôi chẳng phải đã từng giảng rồi sao! Từ đàn thành tới, từ pháp giới tới, từ đàn thành của bổn tôn tới. Ví dụ bạn treo một tấm thangka, vậy thì ánh sáng trắng này từ tấm thangka tới. Còn từ pháp giới, ví dụ bạn treo một tấm mandala Kim Cương Giới, mandala Thai Tạng Giới, ánh sáng bổn tôn chính là từ nơi đó tới. Nói kĩ hơn một chút thì ánh sáng chính là từ lỗ mũi của bổn tôn bạn tới. Thiền tông có nói một câu này: "Tôi và Phật thở cùng một lỗ mũi" chính là ý nghĩa này. Tập thêm một bước sâu hơn nữa là từ trong lỗ mũi của Phật A Di Đà bay ra một chú tự, là chú tự gì? Là chữ "Seh" - từ trong lỗ mũi của ngài bay ra, phát ánh sáng đỏ, đi vào trong lỗ mũi bạn, chạy một vòng rồi bay ra đi ngược lại vào trong lỗ mũi của Phật A Di Đà. Tiếp theo, hai chú tự từ trong lỗ mũi trái phải của Phật A Di Đà bay ra, đi vào hai lỗ mũi trái phải của bạn, rồi lại đi một vòng bên trong nhưng không thông ra ngoài mà lại đi xuống. Cuối cùng hai chữ "Seh" này lại từ lỗ mũi bạn đi ra, bay vào trong lỗ mũi của Phật A Di Đà. Đó cũng chính là cách quán tưởng vi diệu hơn. Bạn cần quán tưởng chú tự, còn quán tưởng cả màu sắc của nó, lại còn quán tưởng lỗ mũi của Phật A Di Đà. Tưởng tượng cả mũi của ngài chẳng phải là càng vi diệu hơn sao? Đây vốn là Phật tính bên trong bổn tôn của bạn "chạm tới" được Phật tính bên trong bản thân hành giả, hai thứ là một, Phật tính như nhau. Chính là cách hít thở như thế. Khí của ngài (A Di Đà) - Phật khí đi vào trong thân của hành giả, rồi sau đó chủng tử Phật tính ở trong thân ta lại đi vào trong thân của Phật, hai bên có sự đối lưu. Đây chính là hít thở cùng một lỗ mũi. Do đó mới nói, bên trong Mật giáo tương ứng với Thiền tông, là giống nhau. Tôi và Phật thở cùng một lỗ mũi, ý nghĩa chính là ở đây. Cửu tiết Phật phong rất ảo diệu, và đến khi tập ở mức độ cao nhất thì sẽ thành thế nào nhỉ? Lúc đó chữ "Seh" sẽ không chỉ có một chữ đâu! Lúc đầu bạn quán tưởng chỉ một chữ, tập cho đến khi Phật A Di Đà thở ra cả hơn trăm chữ "Seh" cùng lúc đi vào trong thân thể bạn. Bạn cũng sẽ thở ra cả hơn trăm chữ "Seh", từng chữ từng chữ nối nhau đi vào trong thân thể Phật A Di Đà. Lúc này mới là ảo diệu nhất. Phật tính bên trong Phật A Di Đà chính là Phật tính của bạn, chẳng phải là đã hợp nhất được rồi sao? Điều này gọi là hợp nhất! Bạn cùng ngài hợp nhất. Bạn thực hành xong được pháp này thì tâm trí của bạn sẽ cực kì định, có đúng không? Bạn thực hiện quán tưởng như vậy, quán tưởng ánh sáng trắng, đỏ, rồi lại làm chín lần quán tưởng chữ "Seh". Phật tính giữa bản thân bạn và Phật A Di Đà cùng nhau đối lưu, giao lưu, cùng nhau hít thở như thế.

🌟 Lạy sám hối Pháp của Mật giáo rất vi diệu, nó nhấn mạnh vào Sự pháp (yogic practice). Sự pháp chính là nói về phương pháp mà bạn thực tu. Pháp của Hiển giáo phần lớn đều là nói về lý pháp, lý pháp chính là phương pháp tập trung trên lý luận. Nói một cách đúng đắn thì trong Hiển giáo, thử nói xem bạn có thứ gì trên thực tế để chúng ta tu đây? Pháp sư chỉ bảo: "Đi về niệm Phật đi!" Bạn niệm Phật là được rồi. Vậy tôi phải làm sao để gia tăng tri thức trên phương diện Phật học đây? Thế thì bạn đi đọc kinh đi. Bạn đi đọc kinh là được rồi. Hiển giáo chính là dạy bạn niệm Phật, dạy bạn đọc kinh. Hiển giáo không dạy bạn phương pháp gì, nếu có thì cũng chính là sáng tối làm một khóa, buổi sáng cũng đánh chuông keng keng keng, buổi tối cũng đánh chuông keng keng keng (mọi người cười), không có Sự pháp nào cả. Không phải vậy ư? Nói thẳng chuyện mọi người cùng đến để lạy sám hối đi. Bạn nhìn xem, muốn sám hối Di Đà, sám hối Pháp Hoa, sám hối Dược Sư, sám hối Đại Bi, sám hối Địa Tạng, mọi người cùng đến để lạy sám hối. Lạy sám hối là cái gì? Chính là Đại lễ bái đó! Chính là khấu đầu, khấu đầu là sám hối. Thế rồi niệm kinh một chút, niệm niệm niệm…… nhìn thấy Phật thì khấu khấu khấu…… chính là lạy sám hối (Sư Tôn cười, mọi người cười). Trên thực thế như vậy cũng là sám hối. Tuy nhiên chúng ta không thể nói rằng khấu đầu là không tốt, niệm kinh là không tốt. Chỉ cần lưu ý niệm kinh cần đi sâu vào ý nghĩa của kinh, cần biết bạn sám hối là sám hối cái gì. Bất kể là bạn sám hối cái gì đều cần phải dạy bạn tâm khẩu ý thanh tịnh. Bạn có hiểu không? Bên trong thân bạn có bao nhiêu lỗi lầm? Khẩu có lỗi lầm gì? Ý niệm có lỗi lầm gì? Tất cả bạn đều đem ra sám hối hết, chính là sám hối thân khẩu ý. Thân có bao nhiêu lỗi, khẩu có bao nhiêu lỗi, ý có bao nhiêu lỗi, đều cần bạn nói ra bạn đã làm sai cái gì, đã phạm vào điều gì. Không phải là nói xuông, được rồi! Sám hối, khấu khấu khấu… (mọi người cười) chính là như vậy. Vậy đây là gì, là lạy sám hối. Khi bạn tu pháp, bạn có mong cầu sám hối không? Chúng ta tu Mật pháp kì thực cũng chính là mong cầu sám hối đó! Chẳng phải tôi dạy bạn thân khẩu ý cần thanh tịnh sao? Đúng không? Bạn quán tưởng tốt rồi, chính là ý niệm thanh tịnh rồi. Bạn kết thủ ấn chính là thân không làm những việc tệ hại nữa, chính là thân thanh tịnh rồi. Bạn niệm chú, lúc niệm chú thì không còn chửi mắng người ta nữa, chính là khẩu thanh tịnh rồi, khẩu sẽ không phỉ báng, không vọng ngữ, không nói lời ong bướm, không nói hai lưỡi ác khẩu, chính là có được khẩu thanh tịnh. Lúc tu pháp thực sự là lúc thân khẩu ý thanh tịnh đó! Điều này cũng tương đương với việc bạn sám hối, là bạn đang rất thực tế đó! Tịnh hóa thân khẩu ý thanh tịnh một cách rất thực tế. Lạy sám hối trong Hiển giáo chính là dạy rằng: "Tôi niệm kinh văn để hiểu mình sai ở chỗ nào. Tôi sẽ đảnh lễ Phật Bồ Tát để bộc lộ sự sám hối." Đây là điều tương tự nhau giữa các dòng. Phật pháp cho dù Hiển, Mật đều có sự tương thông như thế. Tập Cửu tiết Phật phong chính là tập luyện cho tinh thần thống nhất. Bạn muốn tinh thần thống nhất, bạn cần phải lấy vọng tưởng để dừng vọng tưởng, dựa vào việc quán tưởng ý niệm thanh tịnh. Ánh sáng trắng đi vào và khí đen đi ra, ánh sáng đỏ ở bên trong bạn. Chú tự Phật tính bay vào thân bạn rồi lại bay ra, bay đến thân Phật, rồi lại bay trở lại thân bạn. Cứ đối lưu như vậy để tịnh hóa thân thể bạn, khiến gia tăng thêm Phật tính, khiến thân thể bạn được thanh tịnh. Thân khẩu ý thanh tịnh chính là Cửu tiết Phật phong. Vì sao lại gọi là Phật phong? Vì sự hít thở của Phật chính là Phật phong. Hơi thở của Phật với hơi thở của bạn đối lưu với nhau, chính là Cửu tiết Phật phong. Tiếp theo sau Cửu tiết Phật phong, khi bạn đã điều chỉnh tịnh hóa thân khẩu ý cho thanh tịnh rồi, bạn sẽ thực hiện tiếp đến Nhập ngã - Ngã nhập.

18. Nhập ngã - Ngã nhập

Quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập này rất quan trọng. Lúc này, Phật A Di Đà đang ở trước mặt bạn, sau đó ngài bay đến trên đỉnh đầu bạn, đứng trên đỉnh đầu. Bùm! Lập tức ngài biến thành hạt ngọc ánh sáng cỡ như hạt gạo, rất nhỏ, nhưng lại là một hạt ngọc cực kì lấp lánh, ở trên đỉnh đầu bạn, ở chính trung mạch của bạn. Hoa sen nơi tâm luân của bạn nở ra, ở giữa hoa sen có một nguyệt luân, ở giữa nguyệt luân có một chữ Seh, cũng là chủng tính của bạn. Thế rồi Phật A Di Đà theo đường trung mạch của bạn cứ thế đi thẳng xuống, hạ xuống tới tâm luân của bạn, đứng ở trung tâm của nguyệt luân nơi tâm luân. Rất nhiều người quán tưởng đến đây thì hỏi tôi: "Sư Tôn, khi Phật A Di Đà hiện lên trước mặt thì là ngài đứng, rồi khi đi vào tâm luân của ta thì cũng là đứng, thế nhưng chúng ta thì lại đang ngồi, chẳng có cách nào hợp nhất được." (mọi người cười) Họ nói rốt cục cần bảo ngài ngồi hay là bảo ngài đứng đây? Có người nghĩ như vậy đó, nghĩ như vậy cũng đúng đó chứ. Tôi thì quán tưởng như thế này. Bức pháp tướng Đức Phật A Di Đà ở nơi cửa ra vào trong nhà tôi là đứng. Và tôi thường quán tưởng hình ảnh đó, bởi vì hình ảnh đó rất dễ quán tưởng, rất dễ tưởng tượng. Mặt mũi của ngài rất viên mãn, thân thể rất viên mãn, thiên y váy xếp cũng rất trang nghiêm, màu sắc cũng tươi sáng. Sau đó ngài đi vào bên trong thân tôi cũng là đứng, bởi vì ngài đứng rồi cứ thế nhập vào bên trong ta mà! Ở trong không trung ngài cũng đứng, khi ngài đến trên đỉnh đầu cũng là đứng, rồi thu nhỏ lại đi vào bên trong ta cũng vẫn là đứng. Sau đó tôi quán tưởng ngài ngồi xuống với hai chân vắt như thế này. Có thể được, bạn có thể quán tưởng như vậy được. Ngài ngồi ở trên bông sen nở ở chính giữa nguyệt luân nơi vị trí tâm luân của bạn. Như vậy chính là Nhập ngã rồi. Tiếp theo lại từ từ quán tưởng toàn thân ngài biến hóa lớn dần lên, lớn đến khi bằng với thân thể bạn. Tai của ngài là tai của bạn, lông mày của ngài là lông mày của bạn, đôi mắt, cái mũi, cái miệng, thân thể hoàn toàn lớn bằng như chính bạn. Tôi chẳng phải đã từng giảng điều này rồi sao? Trong chớp mắt, bạn liền biến thành bổn tôn, bạn chính là Phật A Di Đà, đây gọi là Nhập ngã. Tôi nhắc lại, bổn tôn từ trong hư không bay đến trên đỉnh đầu bạn, trụ ở đỉnh đầu bạn, thu nhỏ lại thành hạt ánh sáng bằng cỡ hạt gạo. Lúc này, tâm luân của bạn nở ra thành một đóa hoa sen, ở giữa hoa sen có một nguyệt luân, ở giữa nguyệt luân có một chú tự Seh. Thế rồi bạn có thể quán tưởng chữ Seh, phóng quang để sáp nhập bổn tôn A Di Đà đi vào trung mạch. Sau khi đi vào rồi, Phật A Di Đà ngồi trên hoa sen ở giữa nguyệt luân. Từ trong nguyệt luân, thân thể ngài từ từ biến hóa thành lớn lên, lớn lên, lớn đến khi toàn thân ngài hoàn toàn bằng với toàn thân bạn, chỉ trong vòng một cái búng tay (nghĩa là nhanh lập tức), bạn liền biến thành bổn tôn, đây chính là quán tưởng Nhập ngã. Thế là bạn đã biến thành bổn tôn A Di Đà Phật rồi. Lúc này bạn không cần quán tưởng lại mặt mũi của chính mình nữa. Bạn đã quán tưởng mặt mũi của bạn chính là giống hệt như Phật A Di Đà rồi. Thân người, dáng người của bạn, tất cả trạng thái của bạn đều giống Phật A Di Đà y như đúc. Đây chính là Nhập ngã. Quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập là một cách thức cực kì vi diệu trong Mật giáo, là một quán tưởng rất vi diệu. Thế còn Ngã nhập là cái gì? Ngã nhập chính là đưa Phật ở trong tâm bạn chuyển ra khỏi trung mạch, đi vào bổn tôn ở trong hư không, chính là Ngã nhập. Chúng ta thực hiện Nhập ngã, sau khi xong Nhập ngã rồi, chúng ta lập tức có thể ngồi xuống rất an tịnh, bởi vị bạn chính là Phật rồi, lúc này bạn chính là bổn tôn rồi, bạn và Phật A Di Đà là không hai không khác, nói cách khác là không có sự khác biệt nào, hoàn toàn là một, không phải là hai. Khi đã đạt đến trạng thái này, bạn đừng để cho đầu óc lại nghĩ đến cha bạn đến đây, mẹ bạn đến đây, con gái bạn cần tiền nữa. Rồi thì bài tập về nhà của con bạn ra sao nhỉ! Ai nợ tiền của bạn hoặc bạn nợ tiền của ai… đừng nghĩ đến những việc này nữa. Lúc này hoàn toàn vô cùng thanh tịnh. Cái gọi là quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập chính là quán tưởng bạn và bổn tôn hoàn toàn là một.

19. Đếm hơi thở

Tiếp theo chúng ta cần làm gì nữa? Tiếp theo chính là cần đếm hơi thở. Tôi cho rằng đếm hơi thở rất có lợi ích. Quán hơi thở là cách tốt nhất dành cho những người có nhiều tạp niệm [ND: suy nghĩ lung tung]. Bạn có nhiều tạp niệm, nghĩa là bạn cứ nghĩ đông nghĩ tây không ngừng dứt. Người hay nổi lên nhiều tạp niệm xoay mòng mòng cần quán hơi thở. Cách thức đếm hơi thở Người mới bắt đầu quán hơi thở thì luyện tập quán tưởng này. Quán hơi thở chính là đếm hơi thở của bạn. Bạn có thể đếm hơi thở một cách rất đơn giản, ví dụ như hít vào là một, thở ra là hai. Bạn cũng có thể làm thế này, hít vào và thở ra một lần thì đếm là một, hít vào thở ra một lần nữa đếm là hai, đều được cả. Quan sát xem thói quen của bản thân như thế nào thì làm như thế. Khi bạn mới bắt đầu đếm hơi thở thì bạn cứ đếm một, hai, ba, bốn… cứ như vậy mà đếm liên tục. Có người nói là đếm hơi thở cho đến khi bằng đủ số tuổi của bạn là được (mọi người cười). Ví dụ bạn bây giờ 48 tuổi thì bạn đếm đủ 48 lần. Thế sau khi đếm đủ hết 48 lần thì sao? Thì sao ấy à? Thì lại đếm lại từ đầu là được rồi. Bởi vì khi bạn đếm được trên 100 lần thì bạn phải đếm số có ba chữ số. Đếm số có ba chữ số thì hơi phiền toái, bạn sẽ cảm thấy "phiền chết mất". Khi đếm số có ba chữ số đến một nghìn thì lại thành số có bốn chữ số rồi (cười), phải đếm nhiều quá mất. Bởi vậy nếu bạn đếm theo số tuổi của bạn, thì có vẻ như nó có một sức mạnh ý chí đặc biệt hoặc một quy luật đặc biệt nào đó. Bạn năm nay bao nhiêu tuổi thì bạn đếm đến số đó, sau đó lại đếm từ đầu. Đếm đến số tuổi của mình rồi lại đếm lại từ đầu, như vậy sẽ tăng thêm tính quy luật và tính tiết chế cho việc đếm số hơi thở của bạn. Đừng bảo là cứ thế đếm đến một nghìn, hai nghìn. Kì thực đếm hơi thở đến số tuổi của bạn rồi quay lại từ đầu, lại đếm đến số tuổi của bạn rồi lại quay lại từ đầu, hoàn toàn giúp cho khả năng Định của bạn. Đây là kĩ thuật áp dụng việc đếm số để đưa tâm trí của bạn quy về "sự nhất tâm".

🌟 Cảnh giới Định Bạn thực sự cứ đếm hơi thở cho tới khi bạn không còn đếm nữa, hơn nữa cũng không còn suy nghĩ, không có tạp niệm gì khác nữa, hoàn toàn không còn suy nghĩ. Lúc này sẽ sản sinh ra cảnh giới Định. Cảnh giới Định sẽ xuất hiện. Oa! Một khi cảnh giới Định đã xuất hiện thì có thể nói là thân tâm bạn đều hóa thành hư không, bạn cũng quên mất bản thân đang ngồi thiền. Lúc này, ranh giới giữa bên trong và bên ngoài thân thể bạn cũng đã bị phá bỏ. Khi ranh giới giữa bên trong và bên ngoài đều bị phá bỏ thì cái tôi này cũng bị phá bỏ. Có người khi đến cảnh giới này thì toàn bộ thân thể có thể trôi bồng bềnh, trôi trong hư không, hoặc giống như ở trong biển lớn, như ở giữa gió trời, như ở trong nước, như trôi trong ánh sáng. Dựa vào những đặc tính của ngũ đại trong thân thể bạn, bạn sẽ sản sinh ra năm loại cảm giác khác nhau. Có người thì cảm giác ở trong lửa, có người thì ở trong nước, có người thì ở trong gió, có người thì biến thành đại địa vững chắc như núi, có người thì ở trong hư không. Đây chính là một sự tan rã hoàn toàn của cái tôi tham lam. Bởi vì thuộc tính của thân thể bạn là đất, nước, lửa, gió, không khí mà! 🌟 Cảnh giới Định cao nhất là sự hòa tan vào tính không. Nếu bạn thuộc về yếu tố đất, bạn sẽ kiên cố như núi. Nếu bạn thuộc về yếu tố nước, bạn sẽ có cảm giác về sự mát mẻ. Nếu bạn thuộc về yếu tố lửa, toàn thân bạn như đang cháy trong lửa. Nếu bạn thuộc về yếu tố gió, bạn sẽ cảm giác giống như bạn đang trôi bồng bềnh trong gió. Năm thuộc tính này sẽ quyết định những hiện tượng sản sinh ra khi bạn thiền định. Có lúc bạn sẽ trở nên rất nhỏ, có lúc bạn lại biến thành rất to, tràn đầy khắp trong hư không. Bởi vậy cái gọi là "phóng to như núi Tu Di, thu nhỏ như hạt cải, ẩn mình trong một hạt cải" chính là một dạng cảnh giới sẽ sản sinh ra. Ở đây chúng ta có thể nói rằng cảnh giới mà ta đạt được trong Tam Ma Địa sẽ bao gồm toàn bộ những ý cảnh vô cùng vô cùng cao sâu. Tôi đã dạy mọi người thực hiện Cửu tiết Phật phong và đếm hơi thở từ trước rồi. Cửu tiết Phật phong, Nhập ngã - Ngã nhập cùng Đếm hơi thở là ba thứ bạn bắt buộc phải thực hiện trước hết rồi bạn mới nhập Tam Ma Địa. Nói cách khác là bạn muốn nhập Tam Ma Địa, trước tiên bạn buộc phải thực hiện Cửu tiết Phật phong, rồi quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập, sau đó là thực hiện cách đếm hơi thở.

🌟 Chỉ quán pháp Nếu bạn đã thực hiện chu toàn ba việc trên thì bạn cứ như vậy mà tiếp tục. Lưu ý rằng khi đếm hơi thở đến thời điểm dừng lại, giả sử lại sinh ra tạp niệm thì phải làm sao? Lúc này bạn lại cần quán tưởng chính bạn là Phật A Di Đà, rồi đếm hơi thở lại từ đầu. Giả sử lại tiếp tục sinh ra tạp niệm thì bạn lại nhanh chóng quán tưởng mình chính là Phật A Di Đà. Tới khi ở trong trạng thái vô niệm thì không cần quán tưởng nữa. Còn hễ bạn sinh ra tạp niệm thì bạn lại quán tưởng mình là Phật A Di Đà. "Nhất Chỉ nhất Quán" này chính là sự phối hợp Chỉ (dừng lại) và Quán (quán tưởng), gọi là Chỉ quán pháp. Nhưng đây mới chỉ là Chỉ quán pháp ở mức độ thô nông, thực tế Chỉ quán pháp còn sâu hơn nhiều nữa. Chỉ là gì? Chỉ là khi bạn không còn một chút ý nghĩ nào nữa thì là chỉ - dừng lại. Quán là gì? Chính là bởi vì bạn không dừng lại, chẳng có cách nào để dừng suy nghĩ lại cả, thì bạn duy có cách là lại quán - quán tưởng. Bạn quán tưởng rõ ràng rồi thì lại có thể đi vào trạng thái Chỉ - dừng lại, khi không dừng lại thì lại nhanh chóng quán tưởng. Việc này gọi là Chỉ-Quán song vận.

🌟 Sự pháp của Mật giáo Khi bạn đặt nhiều nỗ lực vào việc luyện tập và phát triển kĩ năng này qua nhiều năm, qua thời gian rất dài, bạn sẽ thấy rất rất nhiều cảnh giới của Tam Ma Địa. Nếu bạn có thể tu luyện rất cao sâu thì lần nào bạn thiền cũng đều có thể nhập định. Còn nếu tu chưa đủ cao sâu, thậm chí ngay cả với một số hành giả lâu năm hay người xuất gia nhiều năm, thì bạn cứ thử hỏi họ xem Tam Ma Địa là gì? Họ sẽ trả lời, Tam Ma Địa chính là ngủ chảy nước miếng đó. (cười) Bạn cũng có thể thử đi đến các đạo tràng khác, cho dù họ rất chăm chỉ tu khổ hạnh, tu rất cần mẫn thì bạn cứ thử quan sát họ xem. Họ ngồi trước mặt Phật mà đầu thì ngoẹo sang như thế này (mọi người cười), còn nước miếng thì từ đây chảy ra (mọi người cười). A Di Đà Phật! Bạn mà như vậy thì Tam Ma Địa ở đâu? Bạn như vậy thì có mà Tứ Ma Địa, là vùng đất ngủ mất rồi. [ ND: Địa là đất, bởi vậy Sư Tôn mới chơi chữ gọi là Vùng đất ngủ.] Kì thực trong Mật giáo có quy định rất nghiêm ngặt. Khi bạn thực tập pháp được gọi là thiền định nhập Tam Ma Địa thì tư thế của bạn cần phải chỉnh cho đúng. Mọi tư thế đều cần phải đoan trang, không được tựa vào bên này, bên kia. Không được dựa vào tường hoặc nghiêng người, đầu không được nghiêng thế này rồi đánh một giấc ngủ ngon. Các bạn cố gắng nỗ lực ra sao tôi không biết, nhưng sư phụ của các bạn có dạy các bạn Cửu tiết Phật phong không, có dạy các bạn Nhập ngã - Ngã nhập không, có dạy các bạn thực hiện Chỉ-quán không, có dạy các bạn đếm hơi thở không? Có lẽ các bạn cũng có đếm hơi thở, bởi vì phương pháp đếm hơi thở nói chung rất phổ biến, phương pháp này cũng rất dễ để dừng những tạp niệm. Nó là pháp rất quan trọng. Nhưng Nhập ngã - Ngã nhập thì chỉ có Mật giáo có, Cửu tiết Phật phong cũng chỉ Mật giáo có. Hiển giáo thông thường không có cái gì gọi là Cửu tiết Phật phong, cái gì gọi là Nhập ngã - Ngã nhập. Họ không biết làm sao để quán tưởng Phật đến bên ta! Theo họ thì làm như vậy sẽ là phạm giới rồi. Đức Phật thần thánh như vậy, còn tôi thì nhơ bẩn như vậy, làm sao để Phật và tôi hợp nhất được chứ! Như vậy chẳng phải là bất kính với Phật hay sao? Không thể nghĩ như vậy được. Chúng ta cần phải nghĩ mình chính là Phật, rằng bản thân mình vô cùng thanh tịnh, ta chính là Phật. Một khẩu quyết quan trọng nhất trong Mật giáo chính là - "Ta chính là Phật". Ai là Phật? Ta chính là Phật! Đây chính là khẩu quyết lớn nhất trong Mật giáo. Bạn và Phật không hai không khác. Do đó ba sự quán tưởng này - Cửu tiết Phật phong, Nhập ngã - Ngã nhập và Đếm hơi thở chính là phương pháp rất chuẩn xác để nhập Tam Ma Địa. Một sư phụ dạy Thiền tông, dạy ngồi thiền. - "Sư phụ dạy ta ngồi thiền thế nào nhỉ?" - "Anh không biết ngồi thiền thế nào à? Cứ ngồi im là được, anh cứ ngồi ở đó thì là thiền rồi!" Ngồi ở đó rồi chảy nước miếng như thế này (mọi người cười), ngày ngày cứ chỉ ngồi khô người như vậy. Muốn thiền định cũng cần có phương pháp đó! Bởi vậy, việc thực hành thực sự của Mật giáo là phải có phương pháp, thực sự có phương pháp. Ở phần sau tôi sẽ lại giảng thêm một quán tưởng nữa, nếu bạn không muốn thực hiện quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập thì bạn có thể tu Bạch cốt quán.

20. Bạch cốt quán (quán xương trắng)

Hệ niệm pháp Bạn tu cái gì tiếp theo đây? Bạn tập xong Cửu tiết Phật phong rồi, sau đó thiền định, bạn cần quán tưởng sang ngón chân cái của mình. Cần quán tưởng ngón chân cái của bàn chân trái sưng to lên. Mọi người có thể nghĩ rằng trong pháp Bạch cốt quán, việc quán tưởng ngón chân trái của chính mình sưng lên là để không bị giống với Hoàng Tài Thần trong pháp tài bảo. [ ND: Trong pháp quán Hoàng Tài Thần thì sẽ quán ngón chân phải của Hoàng Tài Thần sưng lên. ] (mọi người cười) Kì thực không phải là như vậy đâu! Có thể là lúc ban đầu, lúc Phật Thích Ca Mâu Ni giảng pháp này [ND: Bạch cốt quán là do Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy], khi đó đức Phật ngồi vắt chân với chân trái để bên trên chân phải, nên khi ngài nhìn xuống ngón chân trái của mình thì bèn giảng là quán tưởng ngón chân trái của mình trước tiên. Giả sử ngài ngồi xuống, vắt chân trái trước, rồi sau đó mới vắt chân phải lên, thì hẳn là ngài sẽ giảng là quán tưởng ngón cái chân phải trước tiên. (mọi người cười) Sau khi bạn tập xong Cửu tiết Phật phong rồi thì sao? Thì bạn quán tưởng ngón cái chân trái của mình sưng lên. Thế sưng lên xong rồi thì sao? Thì nó sẽ mềm nhũn ra. Mềm nhũn ra rồi thì sao? Thì phần thịt bên ngoài nó sẽ rơi ra, để chừa lại phần xương màu trắng, phần xương trắng nhỏ nhỏ ở chỗ đó. Bạn chỉ cần quán tưởng phần xương trắng đó là được rồi. Tôi nhắc lại là ngón cái chân trái sưng lên, sưng lên xong rồi thì mềm nhũn ra, mềm nhũn xong rồi thì phần da thịt rơi ra để chừa lại đầu mẩu xương trắng, đầu mẩu xương cực kì trắng ở bên trong. Bây giờ thì bạn quán tưởng cái mẩu xương trắng đó. Pháp này gọi là gì? Gọi là Hệ niệm pháp. Hệ niệm pháp chính là buộc chặt suy nghĩ của bạn lên mẩu xương trắng đó.

🌟 Vô ngã Bạn cần phải tập đến lúc nào thì mới có thể tiếp tục quán tưởng toàn thân là xương trắng đây? Cần luyện tập đến khi xương trắng phát ra ánh sáng trắng. Đây là cả một khoảng cách rất xa đó! Khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng pháp này, ngài nói đây là Hệ niệm pháp. Nghĩa là bạn buộc chặt hoàn toàn suy nghĩ của mình lên cái đầu mẩu xương trắng trên ngón cái chân trái của bạn. Cứ nghĩ suốt như vậy về cái mẩu xương trắng đó, không nghĩ đến gì khác nữa, nhìn tới khi đầu mẩu xương trắng đó phát ra ánh sáng trắng. Công phu này thực sự rất lớn. Sau đó lại quán tưởng toàn thân bạn sưng lên. Tôi "tăng tốc" toàn bộ quá trình này, bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni giảng là cần quán tưởng từng phần từng phần cơ thể một, nhưng quán tưởng thế này thì sẽ khiến đầu ta quay cuồng chóng mặt mất (cười), vì quán tưởng kiểu này rất lâu. Do vậy tôi nói "tăng tốc" chính là ý rằng bạn nhìn mẩu xương trắng cho đến khi nó phát ra ánh sáng trắng, thì lúc này bạn có thể quán tưởng luôn toàn thân bạn sưng lên rồi mềm nhũn ra. Toàn thân đều mềm nhũn tới mức rơi hết ra, thịt da đều rơi rụng hết, bạn biến thành một bộ xương trắng. Hơn nữa cái sọ của bộ xương trắng này phải chúi xuống như thế này. Nói cách khác đây chính là một bộ xương không còn chút sinh khí nào, chỉ còn là một khối xương toàn thân màu trắng đục. Bạn cần quán tưởng đến khi toàn bộ xương của thân thể bạn phát ra ánh sáng trắng thì mới được xem là thành công. Lúc này bạn đã tiến tới trạng thái Vô ngã, bởi vì cái tôi này của bạn đã chết rồi. Thứ còn lại chỉ là một bộ xương trắng thì chẳng phải là Vô ngã sao? Sau đó thì bạn cần phải quán tưởng gì nữa? Cần quán tưởng ở trước mặt bạn là người bạn hận nhất trong đời. Bạn hận hay ghét người nào thì bạn tưởng tượng người đó ngồi trước mặt bạn. Ví dụ như hận người chồng mà bạn đã ly hôn đó (cười), hận người thầy giáo thời tiểu học thường hay đánh tôi đó, hận cái ông chủ không chịu tăng lương cho tôi đó, hoặc là cái người ngày nào cũng tìm tới quấy rầy tôi đó. Bạn ghét những người nào thường chửi bạn, phỉ báng bạn thì bạn hãy tưởng tượng tất cả họ đến trước mặt, xếp thành một hàng ở trước mặt bạn. Sau đó quán tưởng họ bỗng nhiên thân thể cũng sưng lên, đều mềm nhũn hết ra (mọi người cười). Thế rồi da thịt của họ cũng rơi rụng hết sạch, giống hệt bạn, chỉ còn trơ lại bộ xương như vậy. Họ ngồi trước mặt bạn làm thành một đống xương lớn. Lúc trước quán tưởng Vô ngã, bây giờ quán tưởng Vô tha. Tất cả những người khác đều đã biến thành xương trắng, đều chết hết rồi. Bạn cũng chỉ là xương trắng, vô ngã! Họ cũng chết rồi, vô tha. [ ND: Vô ngã: Không còn cái tôi nữa. Vô tha: Không còn người ta nữa] Bạn lại quán tưởng vô số chúng sinh đông đúc ở trước mặt bạn. Họ cũng đều sưng to lên, mềm nhũn ra, biến thành từng bộ từng bộ xương trắng, cái xương sọ chúi thấp xuống, gục xuống. Lúc này thì mọi sự biến thành gì? Vô ngã, vô tha, vô chúng sinh. Lúc này có thể dẫn nội hỏa. Nếu công lực nội hỏa của bạn tốt thì lửa từ đan điền sẽ làm cháy lên những đốm lửa âm ỉ, rồi cứ thế thiêu rụi dần bộ xương trắng. Boom! Cháy lên rồi. Rồi bạn lại dẫn ngọn lửa này đến trước mặt bạn, boom! Cháy bùng lên. Lửa bén đến chỗ đám đông chúng sinh kia rồi đốt cháy hết thảy. Boom! Biến thành một đống tro khổng lồ. Lúc này ở trong Định gọi là làm Hỏa quang tam muội. Định này gọi là Hỏa quang tam muội đại định. Bạn tu được đến mức độ Định này thì bạn thành A La Hán. A La Hán là đã đạt đến vô ngã, vô tha, vô chúng sinh. Trong kinh Kim Cương có một câu này: "Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng". Lúc này, do bạn đã dẫn lửa đốt cháy chính mình, cảnh giới của bạn là không còn cái tôi rồi, cũng không còn người khác, không còn chúng sinh, tất cả đều nằm trong đống tro tàn bị thiêu cháy bởi Hỏa quang tam muội. Bạn đến được cảnh giới này thì bạn chính là A La Hán. 🌟 Thế nhưng rất nhiều người tu Bạch cốt quán, tu đến tận cùng thì đều rất ghê tởm thân thể của chính mình. Lúc đó họ cũng đồng thời sinh ra những quan niệm tăm tối. Nói cách khác là họ nói tôi không còn nữa, người khác không còn nữa, chúng sinh cũng không còn nữa, tôi sống trên thế giới này để làm gì? Tôi còn có gì vui đây? Cuộc đời tôi còn ý nghĩa gì nữa đây? Bạn đã đạt được cảnh giới định này rồi, vậy thì bạn đi hát Karaoke đi (mọi người cuời). Bạn có thể đi khiêu vũ thể thao. Bởi vì bạn tu đến cảnh giới này rồi mà! Bạn có thể sẽ trở nên bi quan, bạn cảm thấy đời người chẳng là cái gì sất! Một giấc mơ! Có gì hay ho, người sống người chết cũng giống nhau cả thôi! Cái nhìn xám xịt này sẽ dẫn bạn đi đến kết luận là cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì cả. Bởi vậy thỉnh thoảng bạn nên đi hát, đi nhảy một chút để điều chỉnh lại cái góc nhìn u ám này của bạn. Thế rồi bạn sẽ cảm thấy cũng hay đấy nhỉ! Rất hay! Cuộc đời này vẫn còn những nơi thật đáng yêu. (mọi người cười)

🌟 Tính không Bạn nên biết rằng tu Bạch cốt quán đến tận cùng thì chính là Tính không. Vậy thì bạn cần tìm chút gì đó vui vẻ để cân bằng lại! Lạc cũng chính là Không mà, Không cũng chính là Lạc. Thế nên khi bạn sản sinh ra Lạc - Không đại định, bạn cần có một chút Lạc để điều chỉnh mình. Nếu như vậy thì bạn sẽ không bị đi về hướng có cảm giác cuộc sống này hoàn toàn chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nếu cuộc sống không có nghĩa thì bạn sống để làm gì? Khiêu vũ cũng là Không, ca hát cũng là Không, yêu cũng là Không, hận cũng là Không, đều là Không, Không, Không. (mọi người cười) Tuy nhiên bên trong điều này có chỗ rất vi diệu. Bởi vì bạn đã ở trong Hỏa quang đại định, bạn cũng có thể tiêu diệt được rất nhiều phiền não. Hỏa quang tam muội định tiêu trừ được rất nhiều phiền não. Các bạn có biết vì sao Lư Thắng Ngạn không còn phiền não? Tôi cũng tu Hỏa quang đại định! Tôi ở trong Hỏa quang tam muội thấy rằng trên thế giới này vô ngã, vô tha, vô chúng sinh, tôi liệu còn phiền não gì đây? Các vị hãy thử nghĩ xem, bởi vì là vô ngã, vô tha, vô chúng sinh, bạn còn phiền não cái gì? Không có gì cả, thế bạn lo lắng cái gì? Bạn buồn phiền người ta chửi bạn à? Những bài viết chửi bạn đăng trên báo à? Phát hành tạp chí đó à! Người ta phỉ báng bạn, người ta nói bạn không tốt, không tốt cũng là Không, tốt cũng là Không, chửi ta cũng là Không, khen ta cũng là Không. Bạn đã đạt được thành tựu rồi. Tóm lại, bạn đã hoàn toàn hòa nhập vào tính Không rồi, bạn cùng với tính Không là một rồi. Bạn quán tưởng trên thế gian này cơ bản là chẳng có người, đã không có người thì còn ai phỉ báng bạn nữa? Phỉ báng chẳng phải là Không sao? Bạn còn phiền não cái gì? Người ta chửi bạn, chẳng phải bạn bịt chặt tai lại, chẳng phải bạn như điếc sao? Hơn nữa bạn quán tưởng sự phỉ báng này cũng là Không. Nghiêm túc đó! Đến cảnh giới này rồi, có giết bạn thì cũng là Không mà! Giả sử người ta có cầm dao giết bạn, bạn cũng cười lớn ha ha: "Ha ha! Rốt cục cũng là Không mà!" (mọi người cười). Bạn giết tôi cũng là Không mà!

"Tôi đã tu tới được Hỏa quang tam muội đại định rồi thì vô ngã, vô tha, vô chúng sinh. Bạn giết tôi thì vẫn là Không! Tôi vốn dĩ là Không mà!" Bạn đến được cảnh giới này rồi, quan niệm của bạn đã vượt trội, tuyệt đối siêu việt. Bởi vậy tôi từng nói câu này, nói rằng giả sử cha mẹ không cần gì tới tôi nữa, Sư Mẫu không cần gì ở tôi nữa, con cái không cần tôi nữa, Phật Thanh, Phật Kì cũng bỏ đi hết, rồi thì các đệ tử của tôi cũng không cần gì ở tôi nữa cả. Các đệ tử của tôi đều nói: "Ai chà! Lư Thắng Ngạn xem ra chẳng thể nhận ra nữa rồi, không giống Phật gì hết, thôi tôi cũng bỏ đi đây!" Các bạn bỏ đi thì có quan hệ gì tới tôi? Tôi vốn dĩ là vô ngã mà! Cũng chẳng hề có người khác. Cơ bản là cũng chẳng hề có chúng sinh. Khi bạn tu tới Hỏa quang tam muội, căn bản là chẳng còn người nào cả! "Trên chẳng còn Phật mà tu, dưới chẳng còn chúng sinh mà độ" - đây chính là cảnh giới của A La Hán. Tôi cũng tu tới cảnh giới này rồi! Do vậy khi bạn tu đến cảnh giới này, bạn có thể nói ra câu nói ở trên. Về cơ bản là tâm bạn cũng không động nữa, giả sử bạn có đánh chết tôi, tâm tôi vẫn bất động. Bạn nói xem, đến cảnh giới này đi khiêu vũ thì có bị vũ nữ mê hoặc nữa không? Uống rượu có bị rượu làm cho say không? Hát một bài hát có bị mê đắm muốn chết không? Có thể nào không? Đến lúc này đã đi vào tính Không, hòa nhập với tính Không rồi, sống trên thế gian, vô sinh vô diệt. Bởi vậy việc thành tựu Bạch cốt quán là cực kì phi thường.

🌟 A La Hán

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế thuyết pháp đã giảng về Tứ đế: Khổ - Tập - Diệt - Đạo, cho đến cuối đời ngài vẫn giảng Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Khổ - Tập - Diệt - Đạo chính là con đường của A La Hán. Trước đây trong hầu hết các kinh điển, Phật Thích Ca Mâu Ni rất hiếm khi giảng về Đại thừa. Ngài thường giảng về Tiểu thừa: Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Do vậy bản thân khi Đức Phật còn tại thế, bạn có thể thấy là mười đại đệ tử của ngài đều là A La Hán, rồi 500 vị La Hán cũng đều là A La Hán đó! Vì sao ngài lại không nói là 500 Bồ Tát? Chính là bởi vì cảnh giới của họ đạt đến A La Hán. Đều là 500 vị đại A La Hán, 18 đại A La Hán, 10 đại đệ tử kì thực đều là 10 vị đại A La Hán. Còn Bồ Tát lại đều đến từ không gian bên ngoài. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, rất nhiều vị Di Lặc Bồ Tát từ đâu đến? Từ không gian bên ngoài. Quan Thế Âm Bồ tát sinh từ đâu, diệt về đâu? Không có, đều là đến từ không gian bên ngoài. Do vậy Phật Thích Ca Mâu Ni khi độ chúng sinh thì thực sự giảng về Tiểu thừa và quả vị A La Hán là nhiều nhất. Mãi đến sau này ở Ấn Độ, khi tư tưởng Đại thừa phát triển, kinh điển Đại thừa mới lần lượt được dịch ra. Còn thời kì ban đầu khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng đều là Tiểu thừa và A La Hán. Nhưng đừng chê bai Tiểu thừa, bởi vì Tiểu thừa chính là cơ sở của Đại thừa. Bạn không có được cảnh giới A La Hán thì bạn làm sao độ được chúng sinh? Có mà bạn bị chúng sinh độ đó! Tuyệt đối không phải là bạn độ chúng sinh đâu. Bởi vì bạn có tinh thần vô ngã, vô tha, vô chúng sinh, bạn đi độ chúng sinh thì mới không bị chúng sinh độ lại. Bạn biết rằng chúng sinh là một cái ổ phiền não khổng lồ. Bạn cần tu đến khi bản thân không còn phiền não nữa. Bạn đã vô ngã, vô tha, vô chúng sinh rồi thì lúc này bạn mới dựa vào cái tâm mát lành để đi độ chúng sinh mà không bị chúng sinh độ ngược lại. Giả sử nếu bạn vẫn chưa có được cơ sở của Tiểu thừa mà đã cứ mở miệng ra nói là muốn độ chúng sinh: "Tôi nhất định muốn độ chúng sinh, tôi chính là muốn độ hết thảy chúng sinh đến Tây phương cực lạc thế giới". Khẩu hiệu này bạn hô hào rất to. Nhưng tối hôm đó mời bạn đến vũ trường một lát, bạn liền bị một cô gái độ đưa đi mất tiêu (mọi người cười) thì đừng có nói là bạn đi để độ chúng sinh! Một cô nữ sinh nhỏ bé đã độ bạn đi mất tiêu rồi. Bạn hô to như vậy, nhưng sau khi bạn đến chỗ vũ trường đó thì lại nói: "Tôi thực sự không biết thế gian này vẫn còn có chuyện hay như vậy." (mọi người cười) Vui quên cả lối về, cái gì cũng chẳng màng nữa rồi! Bảo anh ta quay lại học Phật, "No!" (mọi người cười) Khoái lạc lớn nhất của nhân gian đó! Nhân gian có mấy thứ khoái lạc lớn nhất. Đồ ăn và sắc dục là khoái lạc lớn nhất của nhân gian. Chỉ có A La Hán mới có thể thoát khỏi những cám dỗ của đồ ăn và sắc dục mà thôi. Bạch cốt quán - vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, có thể giúp đạt được đại định trong Hỏa quang tam muội. Người đạt được đại định trong cái lạc của Không mới là A La Hán chân chính, mới là một đại tu hành giả chân chính. Bạn lấy sự thành tựu này làm cơ sở để phát Đại bồ đề tâm của Đại thừa thì mới có thể được. Đó chính là Phật pháp Đại thừa.

🌟 Thanh lương độ Nhưng tôi không hề dạy mọi người sau này không cần độ chúng sinh nữa. Tuyệt đối không phải vậy, các bạn đừng hiểu lầm ý của tôi. Ví dụ bạn nói là, oa, sư phụ bảo là căn cơ A La Hán của tôi vẫn chưa đến, thế nên tôi không thể đi độ chúng sinh được, tuyệt đối không phải như vậy. Bất kể là bạn đi độ người ta hay là bị người ta độ, bạn cần kiên định tín tâm của chính bản thân mình. Khi tín tâm của bạn đủ rồi, tu định có nền tảng ban đầu rồi, trong quá trình tu định có được định tính là cũng có thể độ chúng sinh được rồi. Nếu không bạn có thể tập phát Bồ đề tâm của Đại thừa bồ đề. Nói cách khác là giả định bạn đã đọc rất nhiều kinh điển và bạn đã hiểu đạo lý thì "Mặc dù tôi vẫn chưa thực tu, vẫn chưa đến được cảnh giới định, nhưng tôi sẽ giảng đạo lý này cho các bạn nghe". Có thể làm như vậy được không? Có thể! Ví dụ ngày hôm nay các bạn đã nghe đạo lý mà Sư Tôn giảng sẽ đều biết được. Bạn thử nghĩ xem - "Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là Bạch cốt quán, thế nào là Hỏa quang tam muội, thế nào là Định giới, bây giờ tôi hiểu rồi, thế nên tôi có thể đi giảng cho đồng môn khác nghe, hoặc là giảng cho người nhà tôi nghe chứ?" Bạn có thể làm như vậy được! Việc này cũng chính là độ chúng sinh. Nên nhớ lúc này bạn đã hiểu được lý luận, nhưng bạn vẫn chưa thực tu, vẫn chưa thể thực sự vô ngã, vô tha, vô chúng sinh. Bạn sẽ vẫn cần tu đến khi nào thực sự vô ngã, vô tha, vô chúng sinh, lúc này bạn mới được gọi là đạt được Định. Lúc đó mới thực sự chính xác là bạn đã nhập Tam ma địa, có thế ở trong định phát quang, phát triển trí huệ của bạn, phát lộ ra trí huệ của chính bạn. Khi chưa tu hành đến được Định giới mà bạn đi độ chúng sinh thì chỉ gọi là "dựa trên lý luận phát bồ đề tâm để độ chúng sinh". Sau khi bạn có được Định rồi, bạn đi độ chúng sinh thì sẽ gọi là Thanh lương độ. Nghĩa là độ chúng sinh một cách bất hoại, bất loạn, bất động, nói cách khác là đã được như kim cương bất hoại rồi. Khi bạn đến được cảnh giới này thì xem như đã là Kim cương bất hoại. Ý nghĩa của kim cương bất hoại chính là thân thể của bạn đã không thể bị hủy hoại nữa. Không có thứ gì có thể hủy hoại bạn được. Tâm tính của bạn cũng sẽ không bị loạn nữa, mà đã thực sự rất Định rồi, bất hoại, bất loạn, bất động. Bất động là sao? Ở đây có thể nói là cho bạn đi đến bất kì nơi nào, bạn ở vào bất kì hoàn cảnh nào, tâm của bạn đều không bị thay đổi, bản thân bạn đã cực kì kiên cố. Do vậy người nào đã đạt được Tam ma địa kiên cố vững chắc, ở trong Hỏa quang tam muội tu thành đại A La Hán, đã thành tựu vô cùng vĩ đại siêu việt, lại phát tâm độ chúng sinh thì sẽ trở thành Bồ Tát. Khi giác hành này đều viên mãn hết thì sẽ thành Phật. Pháp nhập Tam ma địa này, mọi người có thể lĩnh hội được không? Hôm nay tôi đã giảng về Cửu tiết Phật phong, Nhập ngã - ngã nhập, pháp Đếm hơi thở và Bạch cốt quán. Đương nhiên, trong Tam ma địa này có rất nhiều rất nhiều cảnh giới. Nếu giảng về những cảnh giới này thì dù chỉ giảng một Tam ma địa thôi cũng sẽ cần phải nói rất dài. Nhưng hôm nay là tôi dạy mọi người thực tu, Cửu tiết Phật phong, Nhập ngã - ngã nhập, Đếm hơi thở, Bạch cốt quán. Tu Bạch cốt quán đến tận cùng thì đạt được Hỏa quang tam muội. Om mani padme hum!

21. Thứ tự sinh khởi và thứ tự viên mãn

Các vị Thượng sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người! Hôm nay là ngày thứ năm tôi giảng chi tiết về nghi quỹ tu trì hoàn chỉnh Mật pháp. Trước khi bắt đầu bài giảng chính thức, hôm nay tôi muốn cùng mọi người nói chuyện về hai dạng thứ tự của Mật giáo, một cái là "Thứ tự sinh khởi", một cái là "Thứ tự viên mãn". Trong Mật giáo, hai dạng thứ tự này vô cùng quan trọng. Nhìn chung đối với căn khí của phần đông chúng ta thì chúng ta đều tu theo Thứ tự sinh khởi. Còn Thứ tự viên mãn là dành cho đại Bồ Tát, cho những người có căn khí lớn tu. Thông thường chúng ta thực tu Mật pháp thì sẽ tu từ cơ bản mà lên, như vậy thì cần phải tu Thứ tự sinh khởi.

🌟 Thứ tự sinh khởi Thứ tự sinh khởi là gì? Nó giống như là trước tiên bạn cần học mẫu giáo, rồi học tiểu học, rồi đến sơ trung, cao trung, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Nhưng đương nhiên cũng có những người từ khi còn rất nhỏ đã là thiên tài rồi, mười mấy tuổi, hai mươi mấy tuổi đã học đến tiến sĩ rồi. Có người mới hai mươi tuổi, hoặc là vẫn còn đang ở trong độ tuổi học cao trung (cấp 3), người đó đã học đến bậc tiến sĩ rồi, đây là người có căn khí lớn. Thế còn đối với những người không tu hành dựa theo thứ tự sinh khởi mà trực tiếp bước vào lớp học tiến sĩ, thì chính là người đó ngay khi vừa bắt đầu là đã tu theo Thứ tự viên mãn rồi, người này là thiên tài. Thế còn "xuẩn tài" như Sư Tôn đây, bộ não này của tôi tuyệt đối chẳng phải là cái máy tính, não của Sư Tôn là "não Trư", bởi thế nên tôi đi rất từ từ. Năm 26 tuổi tôi mới bắt đầu lần mò tu hành, cho đến bây giờ là 48 tuổi. Sau hai mươi mấy năm công phu, từ khởi đầu tu theo Thứ tự sinh khởi, cuối cùng đã có thể đến được Thứ tự viên mãn. [ND: "não Trư" là não của Trư Bát Giới - là não heo.] Để tu hành theo Thứ tự sinh khởi trong Mật giáo, Chân Phật Mật Pháp của chúng ta trước tiên cần tu Tứ gia hành, đây chính là nền móng của mọi Mật pháp. Do vậy đệ tử mới quy y thì cần tu Tứ gia hành trước. Sau khi tu Tứ gia hành được tương ứng rồi thì lại tu đến Thượng sư tương ứng pháp. Tu tương ứng được Thượng sư tương ứng pháp rồi thì lại tu đến Bổn tôn pháp. Bổn tôn pháp tương ứng rồi thì lại tu pháp Kim cang. Pháp Kim cang tương ứng rồi thì cuối cùng mới tu Vô thượng mật, Đại viên mãn. Tu đến trình độ Vô thượng mật rồi thì có thể nói là đến Thứ tự viên mãn. Đây chính là một dạng thứ tự tu hành. Nhưng trong quá trình tu từ pháp Bổn tôn đến pháp Kim cang lại có vài lớp thứ tự bên trong đó. Không hẳn là nói rằng tu tương ứng được Bổn tôn pháp rồi thì lập tức tu lên Kim cang pháp ngay, mà sau đó cần tu nền tảng của pháp Kim cang. Hai mươi mấy năm tu hành của tôi, thứ tự các lớp tu hành của tôi như thế nào tôi sẽ giảng cho mọi người nghe. Trước tiên tôi tu Tứ gia hành, tiếp theo là Thượng sư tương ứng pháp, rồi lại tu đến Bổn tôn pháp. Sau khi tương ứng được với Bổn tôn thì bạn đã có thể thành Phật rồi, nhưng việc thành Phật này chỉ là "tiếp dẫn thành Phật". Vài ngày trước tôi đã nói qua rồi, đó là khi bạn vừa nhắm mắt rời khỏi nhân gian, bạn sẽ lập tức nhìn thấy Bổn tôn. Việc thành Phật này là có bảo đảm, bởi vì đến lúc bạn sắp sửa nhắm mắt lìa đời thì Bổn tôn lập tức hiện lên trước mắt, lập tức sẽ đưa bạn đi, tiếp dẫn bạn thành Phật, tuyệt đối không có vấn đề gì sai khác.

🌟 Bảo bình khí Sau khi bạn tương ứng được pháp Bổn tôn rồi thì tu cái gì đây? Bạn sẽ tu cơ sở của pháp Kim cang. Cơ sở của pháp Kim cang trước tiên cần tu bình khí - Bảo bình khí. Vì sao cần phải tu Bảo bình khí? Bảo bình khí là cơ sở của nội hỏa, khí của bạn cần đủ thì lửa mới dễ sinh ra. Bởi vì khí ở trong thân thể bạn có sự vận chuyển, nếu như bạn có đủ đầy, bạn có thể trở thành một nguồn điện, nói cách khác là giống như nguồn điện của thang máy vậy. Khí của bạn dư thừa thì chính là bạn có được nguồn điện đủ đầy, lúc đó thang máy của bạn mới có thể hoạt động được. Bạn tu được bình khí dư thừa thì bạn mới tu đến nội hỏa, nếu nội hỏa được thắp lên thì sẽ thông trung mạch, trung mạch khi đó mới có thể thông được. Đây chính là tu để thông trung mạch. Trung mạch là cái thứ gì vậy? Chính là một quỹ đạo cho thang máy đi lên, là một đường quỹ đạo ở chính giữa từ Hải để luân (luân xa 1, luân xa đáy biển) một mạch đi thẳng tới Đỉnh luân (luân xa 7, luân xa đỉnh đầu), chính là đường đi của thang máy. Nguồn điện cho thang máy này chính là khí đó! Bạn đã tu đủ Bảo bình khí rồi thì bạn tu nội hỏa. Thế nội hỏa là cái thứ gì vậy? Chính là cái thang máy. Bên trong thang máy vận chuyển cái thứ gì vậy? Chính là vận chuyển minh điểm. Minh điểm là cái thứ gì vậy? Chính là tinh khí trên thân bạn, là kết tinh của thần. Bây giờ tôi giảng cho bạn rõ, kết tinh của Tinh - Khí - Thần chính là được đặt bên trong thang máy, được vận chuyển lên trên, nên đường trung mạch này mà thông thì bạn lập tức nhìn thấy được tịnh quang.

🌟 Mở 5 luân xa Sau khi trung mạch đã thông thì bạn tu gì nữa? Bạn tu 5 luân xa, mở 5 luân xa. Tâm luân (luân xa tim) này mà mở ra thì báo thân Phật sẽ hình thành. Luân xa họng mà mở ra thì ứng thân Phật sẽ hình thành. Luân xa thiên nhãn mà mở ra thì pháp thân Phật sẽ hình thành. Tam Phật - ba thân Pháp - Báo - Ứng thân đều được tạo ra. Còn bên trong 5 luân xa sẽ được phân chia cho Ngũ đại Kim Cang, chính là khi ta tu pháp Kim cang. Khi bạn tu thành tựu pháp Kim cang rồi thì có thể tu Vô thượng mật. Quá trình tu hành của tôi như tôi đã nói với mọi người, từng cấp độ tu hành của tôi chính là Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp, Bảo bình khí, Nội hỏa minh điểm, thông trung mạch, mở 5 luân xa, Vô thượng mật, Đại viên mãn. Đến được Vô thượng mật tối thượng rồi, đến được Đại viên mãn rồi thì chính là Thứ tự viên mãn. Các cấp độ tu hành chính là như vậy.

🌟 Tứ gia hành - Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát (Vajrasattva) Có người hỏi tôi, hy vọng Sư Tôn từ bi khai thị, giảng dạy Tứ gia hành, pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát và pháp Thượng sư tương ứng. Kì thực đối với Tứ gia hành thì chúng ta đã nói xong về Tam gia hành rồi, gồm Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y, chính là Tam gia hành đó. Cái thứ tư chính là pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. Nghi quỹ tu trì pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát tương đối giống như pháp tu Thượng sư tương ứng pháp và pháp Bổn tôn trong nghi quỹ tu trì Mật pháp hoàn chỉnh mà chúng ta hiện đang giải thích ở đây. Chỗ khác biệt nằm ở đâu? Chính là thủ ấn không giống nhau, chú ngữ không giống nhau, quán tưởng cũng không giống nhau. Giả sử bạn đã rất cẩn thận, tới đây nghe Sư Tôn trong mấy ngày này giảng chi tiết về Nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh. Sau đó bạn tìm hiểu rất tỉ mỉ, học một hiểu mười, bạn có thể tu trì cực kì hoàn chỉnh pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. Mọi người hiểu được chỗ khác nhau giữa pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, pháp Thượng Sư Tương ứng và pháp Bổn tôn ở đâu không? Chính là thủ ấn khác nhau, chú ngữ khác nhau, quán tưởng khác nhau. Bạn hãy chú ý xem video. Lần này video tôi giảng chi tiết nghi quỹ tu trì Mật pháp hoàn chỉnh, nếu bạn xem cẩn thận sẽ rút ra được nhiều điều. Kì thực, nghi quỹ mật giáo nhìn trên phương diện ngoại pháp mà nói thì không thể tách rời khỏi pháp Tứ gia hành, không thể thiếu quán tưởng, trì chú, nhập Tam ma địa, sau khi xuất định thì gia trì thêm và hồi hướng. Chờ một lát nữa chúng ta sẽ nói về sau khi xuất định thì cần làm cái gì. Hôm nay tôi cùng mọi người giải thích về việc giảng dạy Mật pháp. Bạn hãy động não suy nghĩ thật kĩ, Tứ gia hành là gì? Bạn tu thêm pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là Tứ gia hành. Khi tu thêm Thượng sư tương ứng pháp và Xả thân pháp thì gọi là Lục gia hành. Đây chính là Lục gia hành của Mật pháp. Thế còn khi bạn tu pháp Bổn tôn, chỉ cần bạn tương ứng được với Bổn tôn, tôi đã giảng rồi, đảm bảo bạn sẽ thành Phật. Nếu không thành Phật, các bạn cứ tới tìm tôi. Không chỉ Thượng sư đến tiếp dẫn bạn mà còn có cả Bổn tôn nữa. Bạn đến Phật quốc nào, đến Phật quốc của Bổn tôn nào thì bạn chắc chắn có thể tới được đó. Giả sử bạn không ngừng tu hành, tu Chân Phật Mật Pháp với mật độ dày, thế mà bạn vẫn không thành tựu, không thể thành Phật, Phật Bồ Tát không đến tiếp dẫn bạn. Tới lúc đó bạn lại phải xuống gặp Diêm Vương, bạn cứ nói với Diêm Vương là tại vì Lư Sư Tôn dạy nên tôi vẫn chưa thành Phật được. Tôi sẽ lập tức xuống địa ngục để tiếp dẫn bạn, bạn chắc chắn có thể thành Phật. (mọi người vỗ tay) Tôi dám nói như vậy đó! Hôm nay nếu bạn dựa theo nghi quỹ Chân Phật Mật Pháp này mà thực tu, nhất định sẽ được tương ứng. Hiển giáo bình thường chỉ giảng về niệm Phật, Phật A Di Đà đã tiếp dẫn bạn đến Tây phương cực lạc thế giới rồi, chỉ có niệm Phật thôi mà đã có thể được tiếp dẫn đến Tây phương cực lạc thế giới rồi đó! Còn chúng ta ở đây có cả thủ ấn, có câu chú, có quán tưởng, lại còn có nhập Tam ma địa - Định, còn cả niệm Phật nữa! Mỗi một pháp này, gần như chắc chắn cứ mỗi một pháp này đã đều có thể bảo đảm bạn thành Phật được. Việc này cực kì vĩ đại, vô cùng chính xác, thực sự có thể tương ứng được và gắn kết chặt chẽ với Phật pháp. Trên thế gian này rất khó có người thầy nào có thể giải thích rõ ràng như thế này. Có rất nhiều các vị Phật sống Tây Tạng thuyết pháp, (đương nhiên cũng có rất nhiều đại Hoạt Phật hiểu biết rất nhiều), nhưng rất nhiều Lama, rất nhiều đại Hoạt Phật dạy đệ tử của họ bảy, tám năm, họ cùng đệ tử bảy, tám năm chỉ học mỗi Tứ gia hành. Mọi người nghĩ thử xem, hôm nay chúng ta đã có thể ở đây nghe giảng Mật pháp cực kì hoàn chỉnh này, từ đầu đến cuối, các bạn đều có thể thâm nhập vào cảnh giới của nó. Đây chính là công phu tâm huyết mà tôi đã mất cả hơn 20 năm, chính là những kinh nghiệm và khẩu quyết của chính bản thân mình mà đem ra dạy cho mọi người. Bởi vậy mọi người nên trân trọng những pháp này. Chỉ cần mọi người tu hành cho tốt, ai nấy sẽ đều có thể gặp được Sư Tôn ở Tây phương cực lạc thế giới. (mọi người vỗ tay) Tứ gia hành này kì thực chính là có thêm pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. Nghi quỹ của Kim Cang Tâm Bồ Tát chính là nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh mà tôi đã giảng kĩ. Ngoài thủ ấn, quán tưởng, trì chú là khác ra thì các mục khác đều giống nhau. Pháp Thượng sư tương ứng cũng vậy, hai pháp này đều vô cùng quan trọng.

🌟 Không thoái đạo tâm Bạn cần biết rằng pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát cũng chính là một đại pháp để sám hối, cũng là một đại pháp về tính Không, lại còn là một đại pháp để bổ khuyết. Còn pháp Thượng sư tương ứng là bằng chứng của việc vãng sinh, thỉnh cầu sức mạnh nương dựa duy nhất. Bạn tương ứng được với Thượng sư rồi, tuyệt đối không được thoái lui đạo tâm. Vì sao lại không được thoái lui đạo tâm? Bởi vì Thượng sư đâu có thoái lui đạo tâm! Tôi không hề thoái lui đạo tâm, nhưng bạn lại thoái lui đạo tâm là bởi vì bạn không còn tương ứng với tôi - với Thượng sư nữa rồi. Đơn giản là như vậy! Đúng không? Hôm nay bạn tu pháp đã được tương ứng với Sư tôn rồi, thế sao bạn còn thoái lui đạo tâm? Sư Tôn đâu có thoái lui! Nói cho mọi người hay, giả sử hôm nay tôi bị người ta chửi cho chết, bị người ta đánh tới chết, tôi cũng sẽ không thoái lui đạo tâm. Còn nếu bạn thoái lui đạo tâm, việc này cho thấy căn bản là bạn chẳng hề tương ứng với Thượng sư. Vì bạn đã tương ứng với thầy rồi thì làm sao còn thoái lui đạo tâm được nữa! Làm sao có thể? Thượng sư ăn một miếng khoai, các bạn cũng ăn một miếng khoai, có đúng vậy không? Thượng sư thành Phật, các bạn nhất định thành Phật! Khi bạn đã tương ứng với Thượng sư rồi, Sư Tôn đã là Hoa Quang Tự Tại Phật, bạn có "Hoa Quang" không? Có! Chính là đôi mắt lấp lánh đó! (mọi người cười) Bạn có Tự Tại không? Bạn đã đạt được đại tự tại chưa? Chưa, chẳng tự tại được chút nào! Bởi vì sao mà chưa tự tại? Bởi vì người ta vừa chửi tôi gì đó là bạn lập tức chẳng còn tự tại được nữa. Buổi tối bạn chẳng thể ngủ được, cơm cũng chẳng muốn ăn! [ ND: Nếu bạn thật sự tương ứng với Thượng sư rồi thì dù ai có chửi Sư Tôn hay chửi bạn, bạn cũng vẫn sẽ Tự tại. Bởi vì Sư Tôn luôn Tự tại. ]

🌟 Miên quang pháp Có người tới tham vấn một đại sư Thiền tông. Anh ta hỏi: “Gần đây ngài có chăm chỉ tu hành không?” “Tôi rất chăm chỉ.” “Ngài chăm chỉ như thế nào?” “Ăn cơm rồi ngủ.” “Í, thế ngài ăn cơm rồi ngủ mà là chăm chỉ, thế chẳng phải người trong thiên hạ đều chăm chỉ hay sao? Người trong thiên hạ đều ăn cơm rồi ngủ mà! Đúng vậy không?” Hầy! Đại sư Thiền tông nói: "Khác nhau. Ta ăn cơm rồi ngủ khác người khác ăn cơm rồi ngủ.” “Khác như thế nào?” Sư phụ Thiền tông này nói rằng: "Khi ta ăn cơm ăn rất tốt, ăn rất ngon miệng, ăn đến mức cả tinh thần đều tràn đầy, nhất tâm vào việc ăn, ta ăn cơm rất trang nghiêm.” Đừng bảo là ăn cơm thì trang nghiêm ở chỗ nào, Sư Tôn ăn cơm có trang nghiêm gì đâu. Có lúc Sư Tôn cầm bát lên rồi húp soàn soạt hết sạch cả bát canh này! Chẳng có gì trang nghiêm cả. Tuy biểu hiện bên ngoài là không trang nghiêm, nhưng nội tâm bên trong thì rất trang nghiêm đó. (mọi người cười) Sư Tôn ăn rất ngon miệng, mỗi bữa ăn đều rất ngon miệng, hơn nữa bảo đảm mỗi bữa đều ăn rất nhiều. Lượng thức ăn mà tôi ăn đều được tiêu hóa rất tốt, ăn rất trang nghiêm, đây chính là công phu tu hành. Ngoài ra, tôi cũng ngủ rất tốt, ngủ rất ngon lành! Việc ngủ của tôi cũng không giống người khác, hễ ngủ là tôi ngủ rất sâu, trước nay chẳng hề mất ngủ, hễ nằm xuống là tôi biến thành chày kim cương, rất kiên cố, đúng vậy không? Tôi tu Miên quang pháp, buổi tối đi ngủ vẫn còn phóng quang đấy! Đi ngủ phóng quang, phóng ra ánh sáng đỏ, giống như một chiếc ô che phủ lấy chính mình, đó là công phu của tôi đó! Tôi hóa thành chày kim cương, rất kiên cố, ma quỷ chẳng dám bén mảng tới, bởi vậy tôi ngủ rất sâu. Buổi sáng hôm sau ngủ dậy tinh thần rất tốt. Trong lúc ngủ tôi vẫn còn tu pháp, trong khi ngủ còn tu Vô lậu. Việc này chẳng hề đơn giản đâu! Sư Tôn còn luyện tập Đồng Tử Công nữa! [ ND: công pháp để trở lại như còn trẻ ]. Các bạn nghĩ Sư Tôn mà luyện Đồng Tử Công ấy à, đương nhiên rồi! Trong quá khứ tôi đã từng kết hôn, rồi sinh ra Phật Thanh, Phật Kỳ. Thế Đồng Tử Công là cái gì? Trước đây đương nhiên tôi chẳng phải là "trinh nam" rồi! Nhưng giờ thì sáu, bảy năm nay tôi đều sống chay tịnh (mọi người cười). Tôi sống chay tịnh để làm gì à? Để trở thành "trinh nam" lại từ đầu đó. Tôi luyện tập hít một hơi khí vào là có thể bế khí, tới mức độ có thể đóng lại bất kì kênh rò rỉ, thoát khí nào. Tu pháp Vô lậu, thân thể phóng quang, không chỉ có ban ngày vô lậu, ban đêm vô lậu, trí huệ vô lậu, phiền não vô lậu, vật chất vô lậu. Buổi tối tôi ngủ chính là đang tu hành, tôi có thể kiểm soát giấc mơ của mình, không bị giấc mơ lôi kéo đi. Hôm nay nếu bạn ngủ mơ nhưng không biết là mơ, không biết là mình đang nằm mơ, đó là vì công phu tu hành không đủ. Buổi tối hễ nằm mơ, thảm rồi, bạn gái xuất hiện. Buổi tối hễ nằm mơ, ai dô, bạn trai xuất hiện. Phải làm sao đây? Chúng ta chỉ có thể "teng teng teng…….". "Teng teng teng……." là sao cơ? Chính là mượn con rối tay này để mà biểu diễn một màn múa rối rằng: "Nói ra thì dài lắm, chỉ bằng dùng âm thanh đều biểu thị thôi, tùng tùng tùng, ba tiếng trống này (mọi người cười), ba tiếng kêu này nghĩa là gì, chính là "thôi xong rồi". Tu hành buổi tối còn quan trọng hơn cả ban ngày. Bởi vì buổi tối hễ bạn nằm mơ là sẽ bị giấc mơ kéo đi, không biết đó là mơ, rất dễ để mất Tinh - Thần - Khí, mà rò rỉ mất rồi thì coi như uổng phí nỗ lực bao lâu nay. Bạn thức dậy, đầu óc quay cuồng, sức tàn lực kiệt thì còn tu cái gì nữa? Tôi thấy thế là thôi rồi đó! Làm một phàm phu dễ hơn, làm thánh nhân rất khó. Ban ngày cho dù tôi là một người xuất gia rất thánh tiết, tôi giảng kinh rất nhiều người nghe tôi, nhưng đến buổi đêm thì tôi lại có những giấc "mộng xuân", như vậy có được không? Không được! Bạn cần tu Miên quang, tu Thụy mộng đại thủ ấn, làm Bia giáp hộ thân, những thứ này Mật giáo mới có, Hiển tông không có. Bạn làm như vậy thì buổi tối sẽ ngủ rất ngon. Tôi ăn ngon, ngủ ngon, chính là tôi đang rất chăm chỉ, có đúng không? Tu hành Mật pháp này ban ngày cũng cần tu, buổi tối cũng cần tu, lúc nào cũng đều trong trạng thái tu hành, trong cuộc sống hàng ngày cũng tu hành. Bạn sẽ đạt được đại tự tại, không bị ma quỷ xâm phạm, Chuyện gì bạn cũng có thể vượt qua, buông bỏ, tự tại. Đó là "I-chi-ban". [ ND: "I-chi-ban" trong tiếng Nhật nghĩa là "Số một". ] Pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, Thượng sư tương ứng bạn đều có thể học ra từ trong nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh mà Sư tôn đã giảng chi tiết. Nhắc lại, pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát, pháp Thượng sư tương ứng đều có thể tìm được trong nghi quỹ. Đây chính là Thứ tự sinh khởi của việc tu hành. Mọi người đã hiểu được Thứ tự sinh khởi rồi, hiện giờ tôi giảng nghi quỹ tu hành bổn tôn A Di Đà Phật. Cần lấy một ví dụ để giảng (về pháp tương ứng Thượng sư, bổn tôn) nên tôi chọn lấy nghi quỹ Mật pháp tu hành bổn tôn A Di Đà Phật để giảng, hy vọng mọi người có thể học một hiểu ba. Thế còn đối với mỗi đệ tử quy y thì sao? Cũng giống vậy, bắt đầu từ Tứ gia hành, trước tiên tu Đại lễ bái, Tứ quy y, Đại cúng dường, Kim Cương Tâm Bồ Tát, Thượng sư tương ứng pháp, rồi tu Bổn tôn pháp. Tương ứng được với bổn tôn rồi thì đảm bảo được thành Phật. Tiếp đó bạn sẽ tu Bảo bình khí, nội hỏa minh điểm, thông trung mạch, Kim cang pháp, Vô thượng mật, rồi đến Đại viên mãn. Như vậy mọi người đã hiểu được chưa?

🌟 Thứ tự viên mãn - Lập đoạn Bây giờ chúng ta nói tiếp đến Thứ tự viên mãn. Cái gì được gọi là Thứ tự viên mãn? Phương pháp tu hành tối thượng thừa thì phải những người ở đẳng cấp tiến sĩ mới tu được. Kì thực học Thiền tông chính là đang tu Thứ tự viên mãn. Khi mới bắt đầu tu Thứ tự viên mãn, người có căn khí lớn thì huệ lực, huệ căn của người đó vô cùng sắc bén, anh ta ngay lập tức có thể "đi tắt", người bình thường chúng ta chẳng có cách nào để đi tắt cả, nhưng anh ta có thể đi tắt. Ví dụ như vị tổ sư của Thiền tông - Tổ sư Đạt Ma (Bodhidharma), ngài lập tức có thể "đi tắt" (lập đoạn). Nhị tổ của Thiền tông - Huệ Khả đến gặp Tổ sư Đạt Ma, Tổ sư Đạt Ma hỏi: "Anh đến đây làm gì?" Huệ Khả đáp: "Tôi đến để cầu được an tâm." Tổ sư Đạt Ma hỏi: "Anh lấy tâm ra đây, tôi sẽ an nó cho anh. Anh yêu cầu được an tâm mà! Thế thì anh lấy tâm ra đây cho tôi, tôi sẽ an nó cho anh." Huệ Khả đáp: "Tôi làm sao để tìm được tâm của tôi đây? Tôi không tìm thấy tâm của tôi." Tổ sư Đạt Ma đáp: "Tốt thôi! Tôi đã an cái tâm của anh rồi đó." Đây là một công án của Thiền tông. Huệ Khả này cũng rất thông minh. Con người có cái gốc thông minh sắc bén như ông chỉ cần nghe Tổ sư Đạt Ma nói với mình rằng, tôi đã an cái tâm của anh rồi, thì chính là cái tâm đã được an rồi. Người thông minh như ông lập tức khai ngộ, ông lập tức đã khai ngộ rồi. Ông đã biết, mà một khi đã biết thì lập tức được Đại viên mãn. Đại viên mãn chính là như vậy - lập tức khai ngộ. Hôm nay tôi kể công án này cho mọi người nghe, mọi người có ai khai ngộ không? Khai ngộ thì thành Phật đó! Bạn chỉ cần nghe một công án này, nếu bạn có thể thâm nhập và hiểu thấu công án này, thì bạn lập tức hiểu rõ Phật pháp là gì. Nhưng chỉ e là bạn chẳng có cách nào lĩnh ngộ được. Nhị tổ Huệ Khả người ta vừa nghe Tổ sư Đạt Ma nói, tôi đã an cái tâm của anh rồi đó, ông lập tức khai ngộ rồi. Tôi lại kể một công án thứ hai. Thiền sư Đức Sơn viết "Kim Cương Kinh Sớ". Trong Kim Cương Kinh Sớ này ngài đã giải thích Kinh Kim Cương vô cùng rõ ràng. Thế là ngài treo Kim cương kinh sớ vào đầu một cây sào để đi triệt phá tà ma ngoại đạo. Ngài cho rằng Kim Cương Kinh Sớ vô cùng phi thường. Ngài đã có thể hiểu được những đại ý của Kinh Kim Cương, đã viết ra một cuốn Kim Cương Kinh Sớ rất dày, rồi treo ở đầu cây gậy đem đi phá tà ma ngoại đạo. Ngài đến một tiệm bán bánh, là một quán ăn nhẹ, gặp một bà lão. Bà lão hỏi ngài: "Này pháp sư, ngài treo cái thứ gì trên sào vậy?" Thiền sư đáp: "Tôi mang kinh Kim Cương, kinh sách, tôi là người đã hiểu được ý nghĩa to lớn của kinh Kim Cương." Bà lão muốn kiểm tra ông bèn nói rằng: "Hôm nay tôi bán điểm tâm, Thiền sư Đức Sơn đây rất giỏi, hôm nay tôi sẽ hỏi một câu, nếu ngài trả lời được, tôi sẽ miễn phí điểm tâm cho ngài ăn. Nếu ngài không trả lời được, ngài phải đi khỏi đây, không được ăn điểm tâm của tôi nữa." A! Thiền sư Đức Sơn bèn mời bà nói, bà lão liền hỏi: "Trong kinh Kim Cương nói, tâm quá khứ không thể đắc, tâm hiện tại không thể đắc, tâm tương lai không thể đắc, xin hỏi ngài muốn gọi món điểm tâm của tôi, là tâm gì?" Thiền sư Đức Sơn trong một chốc không thể trả lời được, ba loại tâm không thể có được, bạn gọi món điểm tâm của bà lão thì là tâm gì? Thiền sư không trả lời được, rất xấu hổ. Tôi nói cho mọi người nhé, pháp Thứ tự viên mãn chính là pháp Đốn, cắt đứt lập tức, chặt bỏ lập tức. Pháp Thứ tự sinh khởi là pháp Tiệm, nghĩ là từ từ, cứ từng cấp từng cấp độ mà tu lên, đi thẳng đến chỗ có thể cắt đứt, đây là Thứ tự sinh khởi. Mật giáo có Thứ tự viên mãn, Thứ tự viên mãn chính là Thiền tông! Sự "cắt đứt" của "Vô tướng Mật tông". Nói để mọi người nào muốn "đi tắt" biết, nếu bạn có thể cắt đứt, bạn liền thành Phật, không thể lập tức cắt đứt, không thành Phật được. Tổ sư Đạt Ma nói với Huệ Khả: "Lấy tâm ra, ta sẽ an cho anh." Huệ Khả đáp: "Tôi không tìm thấy tâm của tôi." Điều này là đúng! Vốn dĩ bạn chẳng thể tìm được tâm của bạn, nên lập tức cắt đứt lìa bỏ tâm này. Về cơ bản tâm là cái thứ gì? Chỉ một câu thôi - Vô tâm. Vô tâm được thì thành Phật, bạn còn có tâm thì không thể thành Phật. Bà lão hỏi thiền sư Đức Sơn, ba loại tâm không thể có, ông gọi món tâm gì? Nếu thiền sư Đức Sơn trả lời bà thì câu trả lời nên là "vô tâm", bởi vì ba loại tâm không thể có được mà! Bạn gọi món điểm tâm gì? Bạn cần trả lời - Vô tâm. Bây giờ mọi người đều biết cách trả lời rồi đó, đều đã thành Phật rồi! (mọi người cười) Câu trả lời "vô tâm" rất đơn giản, bây giờ chúng ta đều đã biết đáp án rồi, nhưng bạn biết đấy, bạn có thực tu đến khi không còn cái tâm không? Thứ tự Viên mãn trong tiếng Tây Tạng gọi là Treckcho, Togal. Treckcho và Togal chính là Lập đoạn, lập tức cắt bỏ hết, sau đó nhậm vận. Nhậm vận là gì? Là thần thông nhậm vận. Thần thông nhậm vận là gì? Là đại tự tại. Thứ tự viên mãn chỉ có bốn chữ "Lập đoạn, Nhậm vận". Treckcho và Togal, Lập đoạn và Nhậm vận, chính là Đại Viên Mãn. Người có đại trí huệ chân chính khi nghe nói đến Lập đoạn, bèn thắc mắc Lập đoạn là cái gì vậy? Tất cả mọi phiền não lập tức chuyển hóa từ địa vị phàm phu biến thành địa vị Thánh hiền, nói cách khác là người đại trí huệ đã từ phàm phu biến thành Thánh hiền. Bạn có thể cắt đứt tất cả thứ của phàm phu, Đoạn - cắt đứt, bạn liền trở thành Thánh hiền. Chỉ e là bạn không thể cắt đứt được, chẳng khác gì "tơ trong cuống sen". [ ND: nghĩa là bên ngoài có thể cắt đứt nhưng bên trong vẫn còn vương vấn.] Có một đệ tử đến nói với Sư Tôn: "Sư Tôn, con đã cắt đứt mọi ràng buộc rồi." Tôi nói: "Rất tốt, oa! Căn khí lớn." "Nhưng mẹ của con vẫn đang ốm." (cười) Anh đã cắt bỏ cái gì đâu! Anh cắt cái gì mà cắt chứ. Được, hôm nay bạn lại đến nói với Sư Tôn: "Sư Tôn, con đã cắt đứt mọi ràng buộc rồi." Tốt lắm, bạn đã buông bỏ được rồi. "Nhưng hôm qua con chửi sếp mấy câu, tối không ngủ được." !!! Việc lập tức buông bỏ này dạy bạn cần phải hoàn toàn trần trụi, cởi bỏ hoàn toàn quần áo không còn vương lại dù gì một sợi tơ, giống như là vũ điệu thoát y vậy, ở Mỹ gọi là topless gì đó, trong tiếng Nhật thì gọi là Sidolibu, ở Mỹ gọi là topless. (mọi người cười) Tôi không bảo các bạn đi xem topless, cũng không phải bảo bạn tự show thân thể bạn, không phải đâu. Tôi chỉ bảo bạn làm trần trụi nội tâm của bạn, để tâm quang minh, không bị ô nhiễm dù chỉ một sợi tơ, bạn hoàn toàn tự do tự tại. Bởi thế trong Mật giáo có giảng về Pháp thân Phật. Oa! Pháp thân Phật được vẽ mô tả hoàn toàn trần trụi. Còn báo thân Phật thì để trần một nửa, để lộ ra vai phải, mặc quần áo một nửa. Đây là báo thân Phật có hình tướng. Còn ứng thân Phật thì giống như Sư Tôn đây, phía trên mặc quần áo, phía dưới cũng vẫn mặc quần áo, mùa đông lại còn quàng khăn, đi tất, nghĩa là toàn thân được gói kĩ lại, đây chính là ứng thân Phật. Pháp thân Phật - không vương dù chỉ một sợi tơ. Ý nghĩa của không vương dù chỉ một sợi tơ là một hình ảnh tượng trưng cho hoàn toàn trần trụi, hoàn toàn vô tâm. Nếu bạn có thể lập tức Lập đoạn, lập tức có thể chứng đắc đại tự tại, hiển hiện trong thần thông, nhậm vận đại tự tại, thì đây chính là Thứ tự viên mãn dành cho người có đại trí huệ, người có căn khí lớn tu. Kì thực, một khi bạn có thể từ Thứ tự sinh khởi tu một mạch đến cảnh giới của Thứ tự viên mãn, bạn cũng lập tức có thể Đoạn, cũng có thể Nhậm vận. Bốn chữ của pháp Đại Viên Mãn mà Liên Hoa Sinh đại sĩ truyền dạy - Lập đoạn, Nhậm vận, chính là bốn chữ này. Đại sư Marpa đến Ấn Độ cùng với đại sư Naropa học Hằng Hà Đại Thủ Ấn, chính là học cái này. Hằng Hà Đại Thủ Ấn, Đại Thủ Ấn của dòng Kagyu được gọi là Thực trụ Đại thủ ấn (Sutra Mahamudra), đây vẫn chính là Thứ tự sinh khởi. Chỉ có Hằng Hà Đại Thủ Ấn, Đại Viên Mãn và Thiền tông là thuộc về phương diện Đốn ngộ, chính là Thứ tự viên mãn. Tôi giảng về Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn như vậy, rằng trong Mật giáo có sự phân chia Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn, mọi người có thể hiểu được chưa? Trong đó, tôi cũng đã nói đến Tứ gia hành, pháp Kim Cương Tâm Bồ Tát, và pháp Thượng sư tương ứng. Tôi giải thích như vậy hẳn là mọi người đều biết thế nào là tu hành theo cấp bậc của Thứ tự sinh khởi, hẳn là đã hiểu cực kì rõ ràng rồi. Trong tương lai tại Biệt thự Cầu Vồng, đợi đến sau khi giảng xong khóa này, tôi sẽ giảng về Nội pháp, chính là tu hành Khí - Mạch - Minh điểm. Sau này tôi sẽ giảng về Nội pháp, nghĩa là phải giảng xong Ngoại pháp trước rồi mới giải thích Nội pháp, pháp tức thân thành Phật như thế nào. Rồi sau khi giảng xong Nội pháp, thì sẽ lại giảng về Mật, nói cách khác là làm sao để tu bốn pháp quán đảnh về Đại Thủ Ấn và Vô Thượng Mật. Đến cấp độ Mật Mật rồi thì sẽ giải thích sâu hơn nữa về Đại Viên Mãn. Bốn cấp bậc của Mật giáo này, sau này tại Biệt thự Cầu Vồng tôi sẽ lần lượt giảng cho mọi người biết. Tuy nhiên trên thực tế, trong cuộc đời của mình, bạn chỉ cần tu pháp bổn tôn, tu được tương ứng xong thì trên cơ sở đó bạn cũng đã tương ứng được với Ngoại pháp, nghĩa là đã có thể thành Phật rồi. So với niệm Phật của Hiển giáo - nghĩa là việc "tiếp dẫn thành Phật", thì lại càng vi diệu hơn, càng có bảo đảm hơn. Lần này sau khi tôi giảng pháp xong rồi thì sẽ thế nào? Mọi người có thể cho rằng đến hôm nay là kết thúc rồi, nhưng kì thực vẫn còn ngày mai nữa. Vì vậy những ai tối nay muốn đi về thì hãy lưu lại một chút để tôi quán đảnh cho các bạn pháp Ngũ lộ tài thần và pháp bổn tôn trước. Những ai mong muốn được quán đảnh thì có thể nhận quán đảnh vào tối nay. Nói chung, tối nay hoặc ngày mai là các bạn có thể ra về rồi. Thế còn ngày mai thì sao! Tôi đã chuẩn bị để cho mọi người đặt câu hỏi, các bạn có thắc mắc gì, các bạn có thể hỏi. Thời gian của buổi ngày mai sẽ để dành cho mọi người hỏi đồng thời tôi sẽ quán đảnh Ngũ lộ tài thần và pháp bổn tôn cho mọi người. Ngoài ra, các bạn còn muốn cầu quán đảnh gì, bạn cứ nói, đến lúc đó tôi sẽ quán đảnh cho các bạn. Hôm nay là này thứ năm tôi giảng pháp cho mọi người nghe, bốn ngày trước giảng pháp đều là nói về Tiền hành và Chính hành. Hôm nay tôi sẽ giảng về Hậu hành. Mật pháp hoàn chỉnh cần có Tiền hành, Chính hành và Hậu hành, ba mục này gộp lại thì mới là một Mật pháp hoàn chỉnh. 29/11/1992

22. Xuất định và trì tụng thêm các tâm chú khác

Xuất định Chúng ta đã nhập Tam ma địa rồi, sau khi nhập Tam ma địa xong thì sẽ xuất định. Khi xuất định, khi bạn đã bắt đầu muốn xuất định, bạn sẽ biến thân thể - bổn tôn của mình thu nhỏ lại, cũng chính là quán tưởng ngược lại quy trình Nhập ngã. Bổn tôn thu nhỏ lại rồi ngồi trên tòa sen ở tâm luân. Thế rồi bổn tôn lại hóa thành điểm sáng từ trung mạch của bạn đi ra khỏi đỉnh đầu, đến đỉnh đầu thì điểm sáng lại hóa thành bổn tôn ở ngay trên đỉnh đầu, tiếp đó bổn tôn di chuyển về phía trước và quay người hiện ra ngay trước mặt bạn. Như vậy chính là Ngã nhập. Lúc đầu bổn tôn ở trong tâm của ta, bây giờ lại đi ra ngoài, nhập vào trong hư không, việc này chính là Ngã nhập. Nhập ngã đã làm rồi, Ngã nhập cũng làm rồi, làm như vậy là đã xuất định.

🌟

Gia trì các tâm chú khác Sau khi xuất định chúng ta cần làm việc gì nữa? Trong nghi quỹ mật pháp của chúng ta chính là gia trì các tâm chú khác. "Om, a-mi-te-wa, seh." "Om, ma-ni, pad-me, hum." "Om, pu-la-mo lin-tho-lin, so-ha." "Om, ha-ha-ha wei-sa-mo-ti, so-ha." "Om, cha-le, chu-le chun-te, so-ha." "Om, jam-ba-la, cha-lan, cha-na-ye, so-ha." "Om ah hum, ben-za, gu-ru pe-ma sid-dhi hum." "Om ah hum gu-ru-bei, a-ha-sa-sa-ma-ha, lian-sheng sid-dhi hum." "Ta-dya-tha, om, be-kan-ze be-kan-ze, ma-ha be-kan-ze, la-za-sa-mo-kia-to-ya, so-ha." Chúng ta niệm chú ngữ của Bát đại bổn tôn này chủ yếu nhất là để thỉnh cầu có thể kết duyên cùng với Bát đại bổn tôn. Kết duyên với Bát đại bổn tôn rồi thì từ Bát đại bổn tôn mà hóa thành tất cả chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát của mười phương ba cõi. Ở đây chúng ta niệm các tâm chú của các bổn tôn khác, là cùng với mọi chư Tôn, với Bát đại bổn bôn trong Chân Phật Mật Pháp cùng kết duyên, không có chút phân biệt nào giữa vị này với vị khác. Chúng ta niệm chú này, mỗi câu chú gia trì niệm một biến, ba biến, bảy biến đều có thể được.

23. Chày và chuông kim cương gia trì

Yết-ma pháp (*) [ ND: Yết-ma là dịch âm chữ Phạn của karma, nghĩa là nghiệp, yết-ma pháp nghĩa là thọ giới, thuyết giới, sám hối tội lỗi và các thứ xử lý của Tăng sự.] Đến thời điểm này bạn đã có thể thực hiện gia trì cho các sự việc của chúng sinh. Ở đây hãy nhớ rõ là cần phải thực hành pháp, cầu thỉnh thêm Bát đại bổn tôn, niệm chú của Bát đại bổn tôn để gia trì thêm. Lúc này thì bạn đang gia trì cho tất cả những người mong muốn được gia trì. Ta sẽ lắc chuông kim cương và chày kim cương một chút, đây chính là để làm pháp, là làm Yết-ma pháp. Lúc này có thể làm Yết-ma pháp (Sư Tôn thị phạm). Đây là cách lắc chuông kim cương và múa chày kim cương cùng nhau để thực hiện pháp. Ở đây có một vài tác dụng. Nếu các bạn có thể luyện tập thành thạo việc lắc chuông và chày như thế này thì sau khi gia trì thêm bằng chú ngữ của Bát đại bổn tôn xong, bạn có thể lắc chuông và chày kim cương. Thực hành này bao hàm một vài ý nghĩa ở trong đó. Chạm cái chày này vào chuông như thế này bốn lần (Sư Tôn thị phạm), cần quán tưởng ánh sáng trắng phóng ra bốn phía đông tây nam bắc. Ánh sáng trắng phóng ra được bao xa thì bạn sẽ kết giới được xa bấy nhiêu, đây là hành động kết giới. Ta nghe tiếng chày gõ vào chuông và quán tưởng ánh sáng trắng phóng ra để làm kết giới giống như tôi đang làm đây (Sư Tôn thị phạm). Nhờ đó toàn bộ phạm vi của Biệt thự cầu vồng này đã được kết giới rồi. Bạn ở tại mật đàn trong nhà bạn thì sau khi bạn kết giới cho căn phòng xong thì chính là bạn đã làm bia giáp hộ thân cho căn phòng. Ma không thể đi vào, đã kết giới xong thì đã thanh tịnh được căn phòng rồi. Khi tại trước đàn thành mà bạn muốn tu pháp để giúp đỡ người khác, bạn hãy đặt tên của những người đó ở trước mặt mình. Nếu bạn muốn gia trì cho việc kinh doanh của người đó được tốt, bạn làm tư thế chuyển động trước sau như thế này (Sư Tôn thị phạm). Làm thế này chính là để gia trì cho việc kinh doanh của người đó. Cần phóng ánh sáng vàng chiếu rọi vào người và cửa hàng, vì thế bạn cần quán tưởng người kia và cửa hàng của họ. Nếu như có ảnh thì càng tốt, bạn sẽ lập tức có thể gia trì bằng Yết-ma pháp. Giả định có một cặp vợ chồng thường cãi vã tới mức muốn li hôn. Bạn có thể dùng chày kim cương và chuông kim cương vẽ thành vòng tròn, (Sư Tôn thị phạm) phóng ra ánh sáng đỏ chiếu vào tấm ảnh mà bạn muốn gia trì. Người nam và nữ chủ nhân của tấm ảnh đó cùng phóng ra ánh sáng đỏ, như vậy là hiểu rồi đó! Thế còn nếu có người mắc bệnh, bạn để họ trước mặt bạn, chỉ cần làm như thế này (Sư Tôn thị phạm), phóng ánh sáng trắng gia trì cho người bệnh, đây là pháp Tiêu tai. Còn Hàng phục thì sao? Bạn kết ấn hàng phục, chuyển lật chuông kim cương, chày kim cương, ánh sáng xanh lam phóng đến người kia thì sẽ hàng phục được. Bốn pháp ở đây (Tăng phúc, Tiêu tai, Kính ái, Hàng phục) bạn đều đã có rồi. Để tôi giảng cho các bạn biết trong trường hợp các bạn không học kịp được giống Sư Tôn vừa lắc chuông lúc nãy. Lắc chuông như vậy là sẽ có kết giới, bia giáp hộ thân, cũng bao gồm cả Tăng ích, Hàng phục, Kính ái, Tiêu tai, đều có thể làm hết, làm hết cả bốn mục đích này. Như Sư Tôn vừa nãy lắc chuông là để làm đồng thời cả bốn pháp luôn. Còn nếu bạn chỉ muốn làm một pháp thì rất đơn giản thôi. Cầm chày kim cương, chuông kim cương lên (Sư Tôn thị phạm), làm thế này chính là Kính ái, phóng ra ánh sáng trắng, Tiêu tai (thị phạm), Tăng ích (thị phạm), Hàng phục (thị phạm), làm như vậy là đủ cả bốn pháp. Múa chày và lắc chuông kim cương có thể làm được tất cả các pháp này. Khi đã niệm Bát đại bổn tôn để gia trì xong, bạn có thể thực hiện bốn pháp trên. Bạn không cần học nhiều thủ ấn, bạn chỉ cần lắc chuông kim cương, chày kim cương giống như tôi vừa mới làm đây. Bạn nhìn gần một chút đi (Sư Tôn thị phạm). Ồ, như thế này này, đến gần một chút đi, rất đơn giản thôi là bạn có thể làm được rồi. Trước đây người Đài Loan chúng ta thường nói một câu: "bạn cần mất ba năm để tìm ra mẹo kinh doanh, nhưng khi tiết lộ ra thì chẳng còn giá trị gì". (Sư Tôn đùa) Pháp chuông và chày kim cương này tôi được chính đức Kim Cương Tát Đỏa đưa lên trên cõi trời truyền dạy, đích thân ngài chỉ dạy cho Sư Tôn. Điều này không thể nói cho các vị Hoạt Phật Tây Tạng nghe. Bạn nghĩ là kể với họ thì họ cũng biết, kì thực họ không biết đâu, họ thực sự không biết. Họ cũng có lắc chuông và chày, nhưng giống như là chơi trò bán kem que vậy (động tác cầm que huơ huơ), thế rồi gõ tinh, tinh, tinh như thế này. Họ nào biết bốn kiểu bí quyết dùng chày kim cương và chuông kim cương! Họ không biết đâu, bởi vì đây là do Kim Cang Tát Đỏa dạy cho tôi mà. Ngài đưa tôi đi lên cõi trời và đích thân giảng giải cho tôi rất tỉ mỉ cách lắc và múa. Các Lama, Tulku Tây Tạng họ cũng có lắc chuông (Sư Tôn thị hiện lắc, mọi người cười), nhưng họ hiểu không nhiều, tôi xem thấy họ không biết được cái bí mật đó. Những gì Kim Cang Tát Đỏa dạy là "i-chi-ban". [ ND: tiếng Nhật, nghĩa là số một. ] Hôm nay những gì các bạn học được cũng giống như Sư Tôn được học từ Kim Cang Tát Đỏa, là Sư Tôn dạy lại cho các bạn. (mọi người vỗ tay)

🌟 Vận dụng pháp khí Trong việc gia trì này chúng ta vận dụng đến pháp khí, bởi vậy tôi nói chuyện thêm với mọi người một chút về các pháp khí này. Đây là chày kim cương, tượng trưng cho sự kiên cố, cũng tượng trưng cho lòng bi mẫn, nhổ cái gốc của đau khổ, tượng trưng cho kim cương bất hoại, bất loạn, bất động. Còn đây là chuông kim cương, tượng trưng cho trí huệ, niềm vui, tiếng cười, sự lan truyền (Sư Tôn lắc chuông thị phạm). Như thế này chính là niềm vui, tiếng cười, sự lan truyền, tượng trưng cho trí huệ. Hai món đồ cùng xoay chuyển (Sư Tôn thị phạm) chính là tượng trưng sự vận động song song của Bi-Trí. Bi trong từ bi, Trí trong trí huệ, Bi-Trí song vận, chính là cứu chúng sinh khỏi đau khổ. Trí huệ, từ bi, kiên cố, hoan hỉ, đây chính là sự kết hợp của chày kim cương và chuông kim cương. Lúc nào bạn sẽ lắc chuông kim cương? Khi chúng ta tu Chân Phật Mật Pháp, cứ làm xong một mục ta lại lắc chuông, việc này sẽ sinh ra tâm hoan hỉ. Khi làm xong mục thứ hai lại lắc chuông, sinh ra tâm hoan hỉ. Rất nhiều pháp sư ngày nay cứ thích lắc là lắc, chẳng vì một lý do đặc biệt nào cả. Cầm chày kim cương lên chính là Định, chuông kim cương chính là Huệ, đó chính là trí huệ. Bây giờ hẳn là bạn đã hiểu cách dùng chày và chuông kim cương rồi. Còn chuỗi hạt chính là được dùng khi trì chú, mọi người đều biết rồi. Đến cái trống da người (trống Damaru) này thì được dùng thế nào? Ba ngón tay này cần đỡ ở phía dưới, hai ngón tay này thì đỡ lấy cái trống, tay phải lắc, bên này cầm chuông, bên này cầm trống (Sư Tôn thị phạm lắc chuông, lắc trống). Ta lắc trống này để làm gì? Lắc trống có tác dụng tán dương. Khi bạn niệm kệ: "Quan Thế Âm Bồ Tát ơi Ngài từ bi làm sao!" (Sư Tôn lắc trống da người) Ồ, đúng rồi, lắc đúng rồi đó. Bởi vì chúng ta muốn ca ngợi, ca ngợi lòng từ bi của Quan Thế Âm Bồ Tát. Có đúng không? "Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trí tuệ thật vĩ đại làm sao!" (Sư Tôn lại lắc trống da người), hát ca ngợi xong rồi lại lắc. "Phổ Hiền Bồ Tát đại hạnh thật lớn lao làm sao!" (Sư Tôn lắc trống). "Địa Tạng Bồ Tát đại nguyện vĩ đại là sao!" (lắc trống). Ồ, bạn cứ lắc một lúc giống như bạn đang bán hàng rong vậy đó (mọi người cười). Thực sự là pháp lắc trống này được các vị Hoạt Phật (Tulku) và Lama Tây Tạng dùng rất nhiều. Pháp lắc trống của họ được dùng khi họ muốn tán dương, ca ngợi, vừa lắc vừa hát, "Bồ Tát thật từ bi, đại nguyện thật lớn, đại hạnh thật lớn, vĩ đại làm sao!" (mọi người cười) Lần sau bạn trông thấy việc tán dương Bồ Tát như thế này, hãy nhớ mua một cái trống về lắc và nhớ đừng để cho trẻ con lấy đi làm đồ chơi (mọi người cười). Chiếc trống da người này chính là để dùng vào việc tán dương. Hễ có dịp tán tụng, ví dụ như tán thán vị Bồ Tát này thật từ bi, thì họ sẽ vừa lắc trống vừa lắc lư thân thể, tự vui với chính mình, rất là tiêu dao! Tiêu dao tự tại chính là cứ thế mà hát hát hát, niệm niệm niệm, đồng thời với lắc trống da người. Việc tán tụng như thế này rất hay, Phật Bồ Tát hễ nghe thấy âm thanh tiếng trống da người, các vị sẽ đều xuống, việc lắc trống này là có ý nghĩa ở trong đó. Vậy là tôi đã nói về tác dụng pháp của pháp khí chuông kim cương, chày kim cương và trống da người. Còn chày một cổ này thì dùng thế nào đây? Tác dụng pháp của chày một cổ thì trước đây tôi cũng có nói với mọi người rồi đó. Bất kể chày của bạn là chày một cổ của Mã Đầu Minh Vương hay là chày Phổ Ba, hay là chày kim cương của bất kì vị Hộ Pháp phẫn nộ nào, thì tác dụng trong pháp của nó đều là dùng để chọc thủng trên tấm hình tam giác này. Trước đây chúng ta đã từng học pháp Bất Động Minh Vương, bình thường cũng cần phải cúng dường. Hàng ngày bản thân các vị Hoạt Phật Tây Tạng cũng cần làm pháp cúng dường. Chày kim cương này là để khi muốn cúng dường thì cần xem bản thân nó chính là Thần Kim Cang. Chiếc chày này chính là dùng để làm pháp. Làm pháp, tán dương, dùng trong Yết-ma pháp, dùng trong khi trì chú. Bây giờ mọi người đã biết cách vận dụng các pháp khí này rồi.

🌟 Phật sống chân chính Trên thực tế, trong số những người Hán chúng ta, người có thể giảng nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh như thế này không có nhiều. Theo như tôi biết, thực sự là không có nhiều người, tất nhiên là có nhưng không phải nhiều. Còn nói về những người Tây Tạng thì giống như khi nãy tôi vừa lắc chuông kim cương, chày kim cương đó, họ cũng không thực sự hiểu rõ. Liệu các vị tái sinh (Tulku) Tây Tạng có hiểu hay không toàn bộ Ngoại pháp của nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh, toàn bộ đầy đủ? Có rất nhiều vị Tulku cao siêu có biết, hoàn toàn biết về những nghi quỹ này, họ cũng hiểu rất rõ ràng cặn kẽ. Trên phương diện Nội pháp, họ cũng có tu, họ cũng tu Vô thượng mật. Thế nhưng rất ít người có thể giảng giải toàn bộ Ngoại pháp chân chính để khiến cho người khác có thể hiểu được rõ ràng cặn kẽ. Theo tôi được biết là rất ít. Họ có thể hoàn toàn thâm nhập vào bên trong những Mật pháp này, có thể hoàn toàn thể hội, có chứ không phải là không có. Tuy vậy rất ít người đạt được như thế. Người có thể giảng giải một mạch từ Thứ tự sinh khởi cho đến Thứ tự viên mãn, giải thích toàn bộ rõ ràng cặn kẽ lại càng ít, lại càng hiếm. Bởi vì người đó cần phải tu được Ngoại pháp, Nội pháp, lại còn cần tu Mật pháp, Mật mật pháp. Người tu được theo trình tự các cấp độ này rất ít. Rất ít người biết khẩu quyết và bí mật của các pháp tu vì chúng rất ít khi được viết trong sách. Sách về Nội pháp thì hẳn là vẫn có, nhưng đến mức độ Vô thượng mật bộ thì không có, Mật mật bộ lại càng khó, khẩu quyết của chúng đều rất khó. Nhưng Sư Tôn hoàn toàn hiểu rõ, bởi thế nên mới có mong muốn giảng toàn bộ nghi quỹ tu hành Mật pháp hoàn chỉnh cho mọi người hiểu rõ ràng, biết rõ cả các cách vận dụng pháp khí. Vì sao Sư Tôn dám nói rằng một số vị Phật sống Tây Tạng cũng không biết, cũng không hiểu rõ? Bởi vì tôi biết các vị Phật sống Tây Tạng cũng được phân ra làm nhiều đẳng thứ. Đừng cho rằng cứ gặp được một vị Phật sống là ồ, thật là phi thường! Ngài ấy đã tu được Đại viên mãn này, Viên mãn thứ đệ này! Có người trông thấy họ là lập tức "rập, rập, rập" cái đầu như thế này. Thế rồi bạn dốc hết túi ví ra, có thứ gì đó, thường là tiền, bạn đều đem cúng cho họ hết, muốn chờ họ giảng cho, nhưng họ chẳng giảng gì đã bỏ đi rồi. Còn bạn thì chẳng có được cái gì cả! Nhiều nhất là họ đạt đến được Tứ gia hành, nhưng Tứ gia hành họ cũng giảng không hết được. Sau khi bạn cúng hết mọi thứ cho họ rồi, họ liền cho rằng, ồ, thật là tốt. Quán đảnh nào họ cũng có thể cho bạn được, quán đảnh Thời Luân Kim Cang, "rập đầu", xong rồi, đi về đi. Bạn biết có Thời Luân Kim Cang, bạn đã có được quán đảnh Thời Luân Kim Cang rồi. Ồ, nhưng mà tu thế nào nhỉ? Bạn không biết! Bạn không hiểu quán tưởng Thời Luân Kim Cang như thế nào, trì chú ra sao. Kì thực việc quán tưởng của Ngài rất phức tạp, cần quán tưởng mười loại màu sắc, mười loại màu sắc tạo nên một câu chú mới là Thời Luân, rất là khó! Việc này rất khó, không phải bất kì một vị Phật sống Tây Tạng nào cũng biết.

🌟 Đẳng cấp của Phật sống (Hoạt Phật) Về Phật sống Tây Tạng mà tôi được biết, thì bây giờ ở Tây Tạng Phật sống có cực nhiều, trong đó vị lớn nhất, vị Hoạt Phật ở đẳng cấp số một là Đạt Lai Lạt ma (Dalai Lama). Ban Thiền Lạt ma (Panchen Lama) cũng là vị đẳng cấp số một. Phật sống ở đẳng cấp thứ hai là Tạng Vương, Vua Tây Tạng, vị này có thể được nhiếp chính là Phật sống ở đẳng cấp thứ hai. Hoạt Phật ở đẳng cấp thứ ba là trụ trì của ba ngôi chùa lớn, là các vị trụ trì của những tự viện to nhất rất nổi tiếng ở Tây Tạng. Tiếp theo là Phật sống thuộc đẳng cấp thứ tư, các vị pháp vương của các ngôi chùa nhỏ hơn ba ngôi đại tự kia là thuộc về đẳng cấp thứ tư. Thế còn ngoài ba ngôi đại tự ra thì sao? Ví dụ như Đại Bảo Pháp Vương, Đại Bảo Pháp Vương của dòng Mũ trắng (Kagyu), giáo chủ của dòng Hoa giáo, của dòng Sakya, dòng Mũ đỏ (Nyingmapa), dòng Mũ vàng (Gelugpa), họ đều thuộc về đẳng cấp thứ tư. Dalai Lama, Panchen Lama - đẳng cấp thứ nhất. Đẳng cấp thứ hai - Tạng Vương. Đẳng cấp thứ ba - trụ trì ba ngôi đại tự. Đẳng cấp thứ tư mới là các vị Pháp vương giáo chủ của các dòng phái. Đẳng cấp thứ năm thì sao? Đó là các vị trụ trì của các tự viện Tạng mật nói chung, là các chùa bình thường, không phải là ba ngôi đại tự hoặc là một trong số các chùa lớn. Trụ trì của các chùa khác sẽ thuộc về đẳng cấp thứ năm. Còn đẳng cấp thứ sáu thì sao? Đó là các thầy giảng dạy giáo pháp, những vị Hoạt Phật giảng dạy giáo pháp mà có thể hiểu được Mật pháp thì thuộc về đẳng cấp thứ sáu. Phổ biến nhất chính là những vị ở dưới trụ trì của các chùa bình thường, những vị du tăng đi lại khắp nơi, đây chính là những vị thuộc đẳng cấp thứ sáu. Thế còn đẳng cấp thứ bảy thì sao? Vẫn còn đẳng cấp thứ bảy nữa. Một người nào đó làm Lama một thời gian dài mà vẫn chưa có được thân phận Hoạt Phật, thế nhưng nhà của họ có một chút ruộng đất, hoặc có một ít dê, hoặc ít trâu. Anh ta đem chúng đổi lấy tiền, rồi đi gặp chính phủ Tây Tạng, nói rằng tôi muốn làm Hoạt Phật, thế rồi trao đổi ít tiền, đây tiền này đưa cho ông. Được rồi, bắt đầu từ hôm nay, anh sẽ là Hoạt Phật. Các Hoạt Phật kiểu này gọi là "Hoạt Phật đóng góp", chính là do đóng góp tiền mà có. Những người bình thường được "xếp loại" Hoạt Phật này được gọi là Hoạt Phật đóng góp, là đẳng cấp thứ bảy. Mỗi đẳng cấp là phân biệt như vậy đó.

🌟

Tôi vừa giảng về bảy đẳng cấp của Phật sống, bởi vậy bạn đừng nên hễ gặp Phật sống là bạn liền ố á! Tuyệt vời làm sao! Thấy Phật sống là lập tức bái lạy, lấy hết tiền ra cúng dường, muốn được cúng dường! Gặp được một vị Hoạt Phật thì ôi thật là phi thường. Xin hỏi có thể truyền cho tôi một ít nhân điện không, có mà làm cho tôi bị điện giật chết thì có (mọi người cười). Cũng như vậy, rất nhiều Phật sống là do quyên góp tiền mà có danh hiệu này. Có rất nhiều người phải tranh chấp rất lâu, tranh chấp danh hiệu Lama, rồi từ từ đi lên, lên, lên, lên, lên đến vị trí trụ trì. Đối với việc này, họ có hai từ này, một là Khenpo, chính là trụ trì, hai là Pháp vương. Mỗi người họ đều là như vậy mà từ từ từ từ được đẩy lên, cứ như vậy mà được thăng cấp lên. Họ có cả hệ thống, dòng Mũ vàng (Gelugpa) còn có hẳn một chế độ. Bản thân dòng Mũ vàng còn có chế độ tương đối có hệ thống. Trước đây từng có người đến hỏi Dalai Lama: "Chúng tôi gặp một vị Hoạt Phật, ông ấy dạy chúng tôi cái gì đó. Nhưng cái mà ông ta dạy, tôi không biết có phải là chuẩn hay không chuẩn, ông ta liệu có phải là Hoạt Phật thật không?" Dalai Lama nói: "Anh đưa tên người đó cho tôi xem." Dalai Lama xem xong rồi bảo: "Tôi không biết người này!" Vị Phật sống này Dalai Lama không biết. Những người ở bên dưới hỏi ngài: "Dalai Lama Ngài vì sau không quen biết vị Hoạt Phật đã truyền pháp cho tôi?" Dalai Lama nói thế nào, ngài ấy nói: "Ai chà, Phật sống nhiều quá mà, giờ đã nhiều đến mức không thể đếm được nữa rồi." Phật sống đã nhiều đến mức không thể đếm được, ngay cả Dalai Lama cũng chẳng có cách nào để nhận ra người nào là Phật sống thật, người nào là Phật sống giả nữa. Ngài không nhận ra được bởi vì mỗi người đều tự gọi mình là Phật sống mà! Rốt cục mỗi người đều chỉ viết một chữ Rinpoche, Rinpoche lại chính là Hoạt Phật. [ ND: Thực tế Tulku là tên gọi chính xác của Hoạt Phật. Rinpoche có nghĩa là Cao quý, vị đã thành tựu thực sự thì sẽ được tôn xưng thành Rinpoche. Ý Sư Tôn nói rằng giờ ai cũng tự xưng Rinpoche cả, trở thành Tulku cả.] Người thực sự hiểu Mật pháp có được bao người? Người có thể thực sự biết dùng những hàm nghĩa thâm sâu để tu tập có được bao người? Mọi người cần chú ý đó. Bởi vậy mới nói, một vị Hoạt Phật chí ít cũng cần phải hiểu được Mật pháp hoàn chỉnh, phải thực sự học qua, thực sự tu qua, hiểu rõ được thì người đó mới có thể được gọi là Phật sống. Còn một hành giả có tu Nội pháp, tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, thì đây là chính Hoạt Phật đích thực. Các Phật sống Tây Tạng ngày nay, có bao nhiêu vị đã tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính? Có, nhưng chắc chắn là không nhiều. Vì thế, đối với những vị Phật sống khác mà bạn biết, hoặc các vị Phật sống mà bạn muốn cầu pháp từ họ, bạn cần lưu ý: Muốn cầu được đại pháp thực sự, bạn cần phải xác nhận được ấn chứng từ họ, phải xác nhận được người đó có thực sự hiểu Mật pháp hay không. Nếu một vị có thể giảng tất cả các pháp, các tầng lớp, Thứ tự sinh khởi, tất cả đều hiểu rõ, Thứ tự viên mãn cũng biết, thì thật là tuyệt vời. (Chí ít thì người này cũng làm được Thượng sư, mặc dù không chắc đã thực tu. Có một số ít vị không hề thực tu, nhưng họ hiểu rõ Thứ tự sinh khởi, Thứ tự viên mãn, họ đều hiểu cả, mọi người hỏi gì họ đều có thể trả lời được.) Thứ tự sinh khởi bạn đã tu đến được trình độ nào rồi, người đó biết. Thứ tự viên mãn người đó cũng hiểu, họ có thể nói cho bạn pháp này tu như thế nào. Đây mới gọi là một Thượng sư chân chính. Bởi vậy nên đối với một vị Phật sống, đối với một vị Lama đến từ Tây Tạng, các bạn cần biết họ có hiểu Mật pháp hay không. Nói cách khác là bạn cần biết rõ họ có hiểu Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn hay không. Nếu họ có thể nắm được hoàn toàn Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn thì mới là một vị Hoạt Phật chân chính.

24. Niệm Phật

Tốt, tôi đã giảng xong về pháp khí rồi, cũng đã gia trì rồi, thế vì sao chúng ta lại cần phải làm thêm phần niệm Phật nữa? Đó là vì tôi hy vọng mỗi đệ tử không còn bài trừ Hiển giáo nữa, đối với Hiển giáo đừng bài trừ nữa. Tôi hy vọng có thể hợp nhất Hiển - Mật. Đạo - Hiển - Mật hợp nhất, Hiển và Mật hợp nhất để mà tu tập. Có một số bạn có vẻ chỉ thích tu Mật, nhưng kì thực trong nghi quỹ Chân Phật Tông cũng vẫn cần niệm, chính là niệm Phật. Khi bạn niệm Phật thì cũng tương đương niệm chú. Niệm Phật và niệm chú là đồng đẳng, là ngang hàng. Nếu có phân biệt thì sẽ phân biệt như thế này. "Niệm Phật là tu sắc thân", nghĩa là thân hình tướng của Phật. "Niệm chú là tu Pháp thân", nghĩa là tương đối thâm nhập sâu vào trong Nội mật rồi. Cách nói thì như vậy, nhưng bản thân tôi cho rằng niệm Phật là rất tốt. Bởi vì trong khi bạn còn chưa thành tựu tương ứng với Mật pháp thì chí ít bạn cũng có thành tựu được việc niệm Phật, có đúng vậy không! Hơn nữa, việc niệm Phật của Mật pháp chúng ta cũng lại không hoàn toàn giống Hiển giáo. "Nam mô 36 vạn tỷ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật." "Nam mô 36 vạn tỷ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật", bạn niệm Phật như vậy thì công đức lớn số một. Phần này cũng là do Sư Tôn "phát minh" ra đó! Bạn thử nhìn mấy bên Hiển giáo xem, "Nam mô A Di Đà Phật", "Nam mô A Di Đà Phật", họ niệm như vậy. "A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật…" cứ niệm như vậy. Họ vừa mới niệm một hơi dài mới chỉ có được 8 lần. Làm sao họ có thể hiểu được đại pháp của Mật giáo chúng ta! Nam mô 36 vạn tỉ cơ mà (mọi người cười)…, mỗi lần tôi niệm thì bằng họ niệm cả một đời, thậm chí cả đời họ cũng không niệm nhiều đến mức như vậy được! Bởi vậy, vẫn là Chân Phật Mật Pháp vĩ đại số một. [Đùa] (mọi người vỗ tay) Mỗi lần chúng ta niệm ba biến, còn họ phải niệm ba đời. Mỗi lần chúng ta tu một đàn pháp, niệm một biến "Nam mô 36 vạn tỷ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật", chỉ mỗi niệm câu này thôi thì tương đương Hiển giáo họ niệm A Di Đà Phật cả ba đời. Ba đời có nghĩ là sau khi chết rồi lại sống lại, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, sống rồi lại chết. Mật pháp hay như vậy mà họ lại không biết. "Khờ quá đi!" (mọi người cười). Thật là ngốc đó mà, nếu họ học chúng ta cách niệm Phật thì lập tức thành Phật rồi. Họ không học cách chúng ta niệm Phật thì chờ ba đời nhé! [Đùa] Sau khi niệm Phật ba biến, chúng ta sẽ làm bước "hồi hướng". Như vậy thì ta rất gần gũi với Phật, rất thân mật là khác. Bạn đã niệm như thế là rất tuyệt vời rồi. Chẳng còn lời nào để nói về Phật và bạn nữa. Đây là "Cặp đôi hoàn hảo" (mọi người cười), rất thân mật, Phật và bạn không phân biệt, bạn chính là Phật đó.

25. Hồi hướng

Bây giờ chúng ta hồi hướng, hồi hướng chính là chắp tay lại niệm bài kệ có ý nghĩa sau: "Nguyện ai đang niệm Phật Cùng sinh Cực Lạc cõi Trên báo bốn ơn sâu Dưới giúp ba đường khổ Gặp Phật thoát sinh tử Độ hết thảy như Ngài." Bài kệ này chính là nói đến việc "Tiếp dẫn thành Phật", không phải là "Tức thân thành Phật". Bởi vì là tiếp dẫn, vì Gặp Phật thoát sinh tử mà. Bạn phải gặp được Phật rồi mới thấu hiểu về sống chết thì có thể thấy là hiện nay bạn vẫn chưa phải là Phật đâu. "Tức thân thành Phật" đích thực không phải chỉ niệm như vậy là được. "Hoa khai kiến Phật" à? Í, hoa vừa nở làm sao mà có thể nhìn thấy Phật đây, hoa nở ra là Phật à? (mọi người cười). Hoa nở thì ta chính là Phật rồi sao? Bởi vậy, "Nguyện ai đang niệm Phật" ở đây là bài kệ của Hiển giáo, "Nguyện ai đang niệm Phật" - ước nguyện cùng những người cùng niệm danh hiệu Phật được vãng sinh đến Cực Lạc Thế Giới, gặp được Phật sẽ thấu hiểu được sinh tử. "Độ hết thảy giống Ngài" có nghĩa là sẽ giống như Phật mà đi độ tất cả chúng sinh. Bài kệ này cực kì hay, tôi rất thích bài kệ này, do vậy tôi đưa nó vào nghi quỹ tu tập Chân Phật Mật Pháp. Thế còn ở đây có quán tưởng không? Có đó! Có quán tưởng đó! Khi bạn niệm lên câu "Nguyện ai đang niệm Phật", bạn quán tưởng bổn tôn của mình hóa thành nghìn nghìn vạn vạn. Mọi người có hiểu 36 vạn tỷ là bao nhiêu không? Là tràn đầy cả hư không đó. Sau đó thì sao? Vãng sinh cõi cực lạc, hoa sen nở khắp nơi, nghìn đóa sen, vạn đóa sen nở khắp mọi nơi như vậy. Trên báo bốn ơn sâu là cần quán tưởng bốn loại ơn nghĩa sâu nặng. Bốn ơn nghĩa sâu nặng cần quán tưởng như thế nào? Bổn tôn ở trên cao nhất, chính là Tam Bảo, bốn ơn sâu chính là ơn Tam Bảo - Phật Pháp Tăng, ơn Tam Bảo ở tầng trên cao nhất. Quán tưởng Tam Bảo màu trắng. Tiếp đó là ơn cha mẹ, người đã nuôi dưỡng dạy dỗ bạn, người chăm sóc cho thân thể và đời sống của bạn, chính là ơn cha mẹ đã nuôi bạn dạy bạn. Ơn cha mẹ thì cần quán tưởng cha mẹ thành màu đỏ, ơn cha mẹ màu đỏ. Tiếp theo là ơn người thầy, ơn người thầy thì cần quán tưởng ai? Chính là quán tưởng sư phụ đã dạy pháp cho bạn. Thượng sư thì cần quán tưởng một tầng màu vàng, một tầng màu vàng như vậy, đó là ơn người thầy. Ơn đất nước là tầng thứ tư, quán tưởng ơn đất nước thành màu xanh lam. Ơn đất nước bao gồm những gì? Bao gồm Vua, thậm chí gồm cả chúng sinh của đất nước đó. Bốn ơn này gọi là Trên báo bốn ơn sâu - Tam Bảo, cha mẹ, người thầy, đất nước! "Dưới giúp ba đường khổ", thế nào là "Dưới giúp ba đường khổ"? Ngay sau khi niệm bài kệ này thì lập tức ba cõi liền xuất hiện - địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Dưới giúp ba đường khổ - địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bạn nói xem, ta chưa từng đến địa ngục, làm sao biết địa ngục hình tướng thế nào? Ngạ quỷ thì ta còn biết, những con quỷ đói bụng rất to, cái cổ thì gầy như khe nứt, đầu to cổ gầy, bụng thì to, ăn chẳng bao giờ no, đó là ngạ quỷ. Nếu như không hiểu rõ, bạn có thể xem trong đồ hình về lục đạo luân hồi sẽ có, sẽ thấy cõi địa ngục như thế nào, cõi ngạ quỷ như thế nào. Súc sinh thì bạn đương nhiên có thể quán tưởng ra được, là trâu, ngựa, dê, lợn, những loại này là súc sinh. Lúc này tâm luân của bạn phóng ra ánh sáng trắng chiếu khắp tam ác đạo. Tam ác đạo đều có thể quán tưởng là màu đen, tất cả đều là màu đen. Tâm luân phóng ra ánh sáng trắng chiếu đến tam ác đạo biểu thị quyết tâm cứu độ tam ác đạo của bạn. "Trên báo bốn ơn sâu, Dưới giúp ba đường khổ" cần quán tưởng như vậy. Còn những cái khác không cần quán tưởng. "Gặp Phật thoát sinh tử, Độ hết thảy như Ngài" thì không cần quán tưởng. Bạn "Trên báo bốn ơn sâu, Dưới giúp ba đường khổ" thì cần quán tưởng, biểu thị bạn không quên lời thề nguyện của mình, không quên lời thề báo đáp bốn ơn sâu, không quên độ hết mọi nỗi khổ của tam ác đạo. Lời nguyện này cần phải quán tưởng hết ra. Việc hồi hướng này có quán tưởng như vậy. [ ND: Hoa khai kiến Phật: đầy đủ là "Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh". Người nào từng tụng kinh, thọ trì, ghi chép mười lời đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền thì có thể thấy mình sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc trong hoa sen. Người sinh về đó đều hóa sinh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật, tức là liền được Phật A Di Đà thọ ký cho đến khi thành Phật. ]

26. Niệm Bách tự minh chú

Hồi hướng xong rồi thì làm gì nữa? Ồ đúng rồi, cần niệm Bách tự minh chú. Niệm Bách tự minh chú là để sửa chữa những thiếu sót mà bạn mắc phải hoặc là khi tâm bạn bị loạn trong quá trình tu pháp. Bởi vì chúng ta chẳng thể nào bảo đảm trong quá trình tu pháp tâm mình đều "rất định". Người mới tu pháp thì ai cũng không thể lập tức "rất định" được. Nói cách khác là từ đầu ta thực hiện Đại lễ bái, Triệu thỉnh, Đọc chú thanh tịnh, tính từ lúc bắt đầu một mạch tu cho đến lúc làm hồi hướng, nếu nói rằng bạn đều có thể bảo đảm không có khiếm khuyết, đầu óc thì lúc nào cũng rất rõ ràng, luôn quang minh vô lượng, thì đó là việc không thể nào có đâu. Chẳng phải là tôi đã nói rồi đó sao! Trong quá trình bạn đang tu pháp, đột nhiên vừa mới quán tưởng một cái thì, ây, mẹ bạn đến rồi, cha bạn đến rồi, ai chà, thật phiền quá, bây giờ cần phải nấu món gì tiếp họ đây! Thế là đầu óc của bạn đã chạy đi rất xa rồi, đã đi rất xa rồi. Sau đó đột nhiên bạn nhớ ra, "Ai chà, không được, bây giờ ta đang tu pháp cơ mà, không thể nghĩ lung tung." Thế là lập tức bạn lôi đầu óc mình trở lại, bắt đầu lại từ đầu, lại quán tưởng từ đầu. Đây chính là khiếm khuyết, đã mắc lỗi rồi. Do vậy bạn cần niệm Bách tự minh chú một biến, ba biến, bảy biến để tiêu trừ những khiếm khuyết này. Bởi vì khi bạn niệm Bách tự minh chú chính là tượng trưng cho tính Không. Tất cả công đức có thể có được đều đi vào trong tính Không. Hơn nữa, tất cả những chỗ nào có lỗi lầm cũng đều ở trong tính Không mà tan biến như vô hình. Bởi vậy lúc này bạn cần niệm Bách tự minh chú. Đó là một chân ngôn đặc biệt.

27. Viên mãn - Niệm chú viên mãn

Bạn niệm xong Bách tự minh chú, Sư Tôn đã từng dạy mọi người rồi. Ngoài ra khi bạn hồi hướng còn cần phải niệm mấy chữ này nữa, chính là: Đệ tử tên là gì đó, tu một đàn pháp này là để làm việc gì đó… "Nguyện ai đang niệm Phật, Cùng sinh chốn Cực Lạc, Trên báo bốn ơn sâu, Dưới giúp ba đường khổ, Gặp Phật thoát sinh tử, Độ tất cả như Ngài. Đệ tử là ABC, hy vọng người tu pháp được thân thể khỏe mạnh, tinh thần vui vẻ, tất cả mọi nghiệp chướng đều được tiêu trừ, tất cả mọi nguyện ước đều được viên mãn." Đây là ngôn ngữ nói, ý nghĩa của ngôn ngữ nói bạn có biết không? Ngôn ngữ nói chính là như vậy. Tiếp đó bạn cần thực hành bước Viên mãn.

🌟 Vẽ vòng tròn Viên mãn và quán tưởng Thực hành bước Viên mãn là bạn vẽ một vòng tròn, trong vòng tròn bốc ra ngọn lửa, một vòng tròn lửa xuất hiện, rất tròn. Sau đó lại niệm một câu chú: "Nguyện cho tất cả mọi điều ước muốn đều được viên mãn, nguyện tất cả tai nạn đều tiêu tan." Sau khi nói xong câu tất cả tai nạn đều tiêu tan, bạn cầm lấy chày kim cương chỉ hướng về hư không, lắc chuông kim cương, hét lên một tiếng "Wun". Ý nghĩa của chữ Wun này như sau: Khi một chữ Wun phát ra, lập tức trong hư không bốc lên ngọn lửa lớn cháy vòng quanh chày kim cương chữ thập, chày kim cương chữ thập ở trên bông hoa sen. Ý nghĩa là như vậy. Chày kim cương chữ thập tượng trưng cho sự kiên cố, còn bản thân hoa sen tượng trưng cho trí huệ. Chày kim cương ở trên hoa sen là tượng trưng cho tác dụng phòng hộ, chính là phá ma. Ngọn lửa chính là sự viên mãn. Cần phải quán tưởng như vậy. Chày kim cương chữ thập, hoa sen, vòng tròn lửa bao xung quanh sẽ đẩy lùi tất cả ma quỷ. Trước đây tôi đã từng mô tả pháp quán tưởng trước mặt có một vùng đất tối đen, trong hư không là vùng đen tối tượng trưng cho ma quỷ. Thế rồi khi chày kim cương giáng xuống một chữ Wun, lắc chuông kim cương sẽ đẩy lùi vùng bóng tối đó. Lúc này lập tức xuất hiện chày kim cương chữ thập và hoa sen, bao xung quanh là một vòng tròn lửa. Đây chính là sự viên mãn lớn lao. Việc này tượng trưng cho việc bạn đã tu pháp vô cùng viên mãn, tất cả những gì bạn mong cầu đều có thể được viên mãn, tất cả tai nạn đều tiêu tan. Wun - chính là tiếng hét lên khi bạn dùng chày và chuông kim cương.

🌟 Chú viên mãn Tiếp đó lại cần niệm chú viên mãn, có phải thế không? Chú viên mãn có mấy cách niệm, giống như Uế Tích Kim Cang cũng vậy, Uế Tích Kim Cang chú vào thời kì nhà Đường có cách niệm khác, ngoài ra còn có vài cách mà các pháp sư tự đưa ra. Do vậy câu chú Uế Tích Kim Cang không giống nhau, có câu thì rất nhiều chữ, có câu thì chỉ vài chữ. Còn hôm nay, câu chú viên mãn này là do Thượng sư Phổ Phương, cũng là thầy của Sư Tôn, truyền cho. "Om, bu-lin. Om, bu-lin. Om, bu-lin." Cũng có người thì truyền câu chú này: "Om, bu-long. Om, bu-long. Om, bu-long." Rồi cũng có người thì truyền câu chú này: "Om, bu-long hum. Om, bu-long hum. Om, bu-long hum." Có ba câu chú khác nhau như vậy. Chúng ta lấy câu "Om, bu-lin" của Thượng sư Phổ Phương truyền cho, ngài cũng là sư phụ mà Sư Tôn quy y. Ngài cũng viên tịch rồi, nhưng chúng ta dùng câu chú viên mãn này chính là câu chú viên mãn mà Thượng sư Phổ Phương truyền lại.

🌟 Giải tán Tiếp theo sau đó, đã xong bước Viên mãn rồi thì cần tới bước Đại lễ bái, đúng không nào! Thế thì thực hiện Đại lễ bái. Tới khi niệm câu "Om, mani padme, hum" là coi như đã kết thúc. Khi kết thúc thì cần nhớ vỗ tay, đặt chéo tay và búng ngón tay. Ý nghĩa của việc bắt chéo tay và búng ngón tay không phải là để đánh thức chư vị, mà là để giải tán. Giải tán đương nhiên là không có phát tiền đâu! [Sư Tôn đùa] Ý nghĩa của giải tán kì thực cũng là một sự tôn kính. Không phải theo kiểu nói là, này, các vị có thể đi được rồi, hoàn toàn không có ghê gớm như vậy. Mà ở đây chính là nói rằng tu pháp đã kết thúc rồi, phụng thỉnh Phật Bồ Tát chư tôn, các vị Phật của mười phương ba cõi, tất cả các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, Kiên Lao Địa Thần, tất cả Kim Cang Hộ Pháp Không Hành có thể trở về vị trí của các vị. Nói cách khác là tất cả đều trở về nơi mà bản thân mình vốn ở đó. Vỗ tay chính là giải tán, bắt chéo tay búng ngón tay xong thì ngồi xuống. Mật pháp hoàn chỉnh này chính là từ ban đầu - từ Tiền hành, tới Chính hành, tới Hậu hành làm một mạch cho đến khi kết thúc.

🌟 Lưu ý về nhập Tam ma địa Tôi đã sử dụng pháp bổn tôn A Di Đà Phật để làm ví dụ giải thích, nhưng mọi người cần phải hiểu được tính chất tương tự, học một thứ mà suy ra các thứ khác. Thực tế là bạn dùng pháp này để tu pháp Kim Cương Tâm Bồ Tát, Thượng sư tương ứng pháp, hay Bát Đại Bổn Tôn, tất cả cũng gần giống nhau, chỉ khác biệt ở sự quán tưởng, trì chú, nhập Tam ma địa và thủ ấn. Nhập Tam ma địa có khác biệt ở chỗ nào? Bởi vì trong khi nhập Tam ma địa, bạn có thể có cách đặc biệt riêng của bạn. Nếu bạn có phương pháp của riêng mình để có thể dễ dàng nhập Tam ma địa, tự bạn nhận thấy "tôi làm như vậy thì dễ nhập định", thì bạn cứ y theo cách của mình mà làm, không có vấn đề gì cả. Còn Sư Tôn đã nói cho mọi người kinh nghiệm của mình rồi. Khi nhập Tam ma địa, trước tiên là làm Cửu tiết Phật phong, rồi làm Nhập ngã - Ngã nhập, rồi đếm hơi thở, thậm chí dùng cả Bạch cốt quán. Đây là kinh nghiệm riêng của tôi. Còn theo kinh nghiệm của các bạn, các bạn muốn dùng phương pháp gì để nhập Tam ma địa thì bạn có thể tự mình "check" [ ND: kiểm tra] xem sao. Nếu các bạn tự nhận thấy là, "ớ, tôi dùng cách khác, có thể nhập Tam ma địa một cách rất "easy" [ ND: dễ dàng ] này" thì đều được cả! Có cực kì nhiều cách để nhập Tam ma địa. Hy vọng mọi người đều có thể nắm bắt được cẩn thận Chân Phật Mật Pháp chân thực, quý giá và cực kì viên mãn nhường này. Mọi người thâm nhập cho thật sâu, dùng ý thức, ý thức rất sâu, ý thức sâu nhất, ý thức cực kì sâu để mà tu, nhất định có thể đạt được thành tựu lớn, được "Tiếp dẫn thành Phật", nhất định có thể được "Tiếp dẫn thành Phật". Ít nhất là bạn chắc chắn được tiếp dẫn thành Phật, cho đến khi công lực thiền định của bạn thực sự sâu! Đôi khi thành tựu sẽ không chỉ là "Tiếp dẫn thành Phật" mà bạn còn có thể đạt được "Tức thân thành Phật" đó.

🌟 Tất cả đều bao gồm trong Chân Phật Mật Pháp Việc tu hành tốt như vậy đó. Ở đây Sư Tôn nói cho mọi người biết, trong rất nhiều pháp Phật hiện nay trên thế giới, có người dùng hình thức khổ hạnh, có người xây chùa, có người niệm Phật, có người tụng kinh, có người quán tưởng niệm Phật, có người làm từ thiện, thế còn chúng ta ở đây là thực tu Chân Phật Mật Pháp. Ai có thể bảo đảm bạn có thể thành Phật, có Phật Bồ Tát đến tiếp dẫn bạn đây? Bản thân tôi cho rằng, bạn càng thực tu Chân Phật Mật Pháp, Phật đến tiếp dẫn bạn, thì sẽ càng tăng thêm sự tiếp cận, càng có được sự đảm bảo về thành tựu. Bởi vậy bạn càng thực tu Chân Phật Mật Pháp, bảo đảm bạn thành Phật, bạn sẽ càng đến gần hơn với đạo. Xây chùa, khổ hạnh, làm từ thiện, niệm Phật, tu tịnh độ, kì thực đã đều bao hàm trong Chân Phật Mật Pháp. Tôi đã giảng từ lúc bắt đầu với Tiền hành, giảng Chính hành, giảng Hậu hành, tôi đã bày hết toàn bộ lên trên bàn rồi, trong đó đã có thiện pháp rồi. Ví dụ bạn tu Tứ vô lượng tâm này chính là thiện, chính là bạn làm từ thiện rồi. Quá trình tu hành của bạn cũng chính là thực hành Khổ hạnh, ở đây chính là trong lúc tu thiền định đó! Trong đó bạn cũng có niệm Phật, có Sức mạnh nương dựa duy nhất, đã có cả sức mạnh nương dựa duy nhất rồi đó! Có tha lực, có sức mạnh phòng hộ để phá ma rồi! Cái gì cũng có hết cả, đều đã bao gồm trong đó rồi. Do đó mọi người cần trân trọng Chân Phật Mật Pháp, bằng mọi giá không không được coi thường, nói cách khác là tuyệt đối không được coi thường. Có chỗ nào chưa hiểu thì bạn hãy hỏi các vị Kim Cương Thượng Sư chân chính. Om Mani Padme Hum!

28. Giải đáp thắc mắc

Hôm nay là ngày thứ sáu tôi giảng giải về nghĩ quỹ Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh. Năm ngày trước tôi đã giảng giải cực kì rõ ràng chi tiết về Tiền hành, Chính hành, Hậu hành rồi. Thế nên buổi chiều ngày thứ sáu này là để cho tất cả các đồng môn đã đến nghe pháp đưa ra câu hỏi. Có câu hỏi gì liên quan đến phương diện tu pháp thì bạn hãy đặt câu hỏi. Mọi người đều đã để hết giấy ở đây rồi, tờ giấy ghi câu hỏi này chờ một lát nữa tôi sẽ đọc một chút, đọc một chút để rồi tổng hợp lại các câu hỏi của mọi người mà trả lời. Trước khi tôi trả lời các câu hỏi, tôi sẽ cùng mọi người nói chuyện một chút về tầm quan trọng của Chân Phật Mật Pháp. Chúng ta đã biết rằng Chân Phật Mật Pháp là pháp Tức thân thành Phật. Bản thân tôi cho rằng bạn chỉ cần hoàn toàn tinh thông Mật pháp này thì có thể đạt được ngũ đại trí huệ của Như Lai. Ngũ đại trí huệ của Như Lai cũng tương đương với vũ trụ, nói cách khác là toàn bộ tri thức của vũ trụ bạn đều có thể có được. Thế nếu như bạn có thể đạt được toàn bộ tri thức này thì chính là Tức thân thành Phật rồi. Tôi tin tưởng mọi người chỉ cần thực tu Chân Phật Mật Pháp thì mỗi người đều có thể thành Phật, đều có thể đạt thành tựu. Buổi trưa hôm nay lúc đang ăn cơm, nói chuyện cùng mấy vị thượng sư, tôi đã giảng giải một chút về nghi quỹ Mật pháp hoàn chỉnh này. Tôi không biết trên thế giới này có nơi nào mà có thể thành tựu Mật pháp trong thời gian ngắn như vậy, tốt như vậy, lại nhanh như vậy không? Tôi thực sự không biết, nhưng Sư Mẫu lại nói là bà ấy biết. Bà ấy nói đại pháp để thành Phật nhanh hơn nữa chính là chuẩn bị một cái cây gậy đánh bóng chày, có ai đến là liền đánh vào đầu cho một cái, một gậy là ngã lăn, thì sẽ rất nhanh chóng thành Phật. Bản thân tôi cảm thấy đây chỉ là chuyện hài thôi! Nhưng tôi cảm thấy Mật pháp của tôi có thể nói là đã đem mười lời nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát – Phổ Hiền Đại Nguyện - tập trung hết tất cả lại. Trong Mật pháp này đã bao gồm lục độ, đã gồm cả Bồ Tát Thừa lục độ. Bởi vì Chân Phật Mật Pháp của chúng ta đã bao gồm mười lời nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, thế thì pháp này đương nhiên không thể tách rời mười lời nguyện Phổ Hiền, không xa rời lục độ, đây chính là Phật pháp chân chính. Nếu như bạn có thể tu cho giỏi, nhất định bạn sẽ thành Phật. Thế nên rốt cục vẫn là phải nhắc lại một câu, đó là hy vọng mọi người nhất định phải trọng pháp, nhất định phải thực tu. Cảm ơn các bạn. (mọi người vỗ tay)

🌟

Hỏi và Đáp Bây giờ tôi sẽ trả lời các câu hỏi về pháp của các đệ tử. 🙏 Hỏi: Làm một lần Bia giáp hộ thân có thể giữ được trong thời gian bao lâu? Kết giới một lần có thể giữ được trong thời gian bao lâu? Nước chú Đại bi thời gian hiệu quả được bao lâu? 💡 Đáp: Ô, ở đây phải dùng thước để đo rồi. (mọi người cười) Trước đây cũng từng có người hỏi câu này. Bia giáp hộ thân nhìn chung mà nói thì đối với một sự việc, bạn làm một lần Bia giáp hộ thân thì vấn đề không phải là ở chỗ lâu hay nhanh, mà là trước khi bạn đến bệnh viện, bạn cứ làm Bia giáp hộ thân. Làm Bia giáp hộ thân xong đi đến bệnh viện, bất kể là bạn ở trong bệnh viện bao lâu đều vẫn có hiệu quả. Giả sử bạn đi vào đó 10 phút rồi đi ra thì sẽ có tác dụng trong 10 phút. Bạn đi vào 15 phút thì sẽ có tác dụng trong 15 phút. Thế nhưng có một lưu ý, bạn cần phải chú ý không quên, "chú ý" nghĩa là bạn phải thường xuyên nghĩ đến rằng Kim Cương Hộ Pháp đang ở cùng bạn, chính là chú ý. Kết giới một lần có thể có tác dụng bao lâu? Mỗi ngày tôi tu pháp đều làm kết giới một lần, tương đương với việc trong lúc tu pháp bạn thỉnh Kiên Lao Địa Thần đến hộ trì. Giả sử mỗi ngày bạn tu pháp đều kết giới, tôi cho rằng như vậy là rất đủ rồi. Nước Đại bi có thời gian hiệu quả trong bao lâu? Chỉ cần bạn niệm xong, niệm chú Đại bi nhập vào trong nước này, nước này vẫn chưa có ai uống thì có thể giữ được trong một năm, mười năm, một trăm năm, thời gian thực sự là dài như vậy đó. Giả sử nước chú Đại bi này bạn vừa niệm xong liền uống hết thì thời gian có hiệu quả của nước chỉ trong năm giây. Bạn đã uống hết rồi thì chẳng còn nước chú Đại bi đâu nữa, đương nhiên là nước không còn hiệu quả gì rồi! [ ND: Hiệu quả đã chuyển vào trong người bạn sau khi uống] Bạn giữ nước chú đại bi 100 năm thì nó sẽ còn giữ được hiệu quả 100 năm. Bạn đã niệm chú Đại bi và phóng quang vào nước, gia trì nước chú Đại bi rồi thì bạn để bao nhiêu lâu sẽ có hiệu quả lâu bấy nhiêu. 🙏 Hỏi: Trong pháp Bạch cốt quán, quán tưởng nội hỏa bùng cháy lên đốt sạch toàn thân còn xương trắng, nội hỏa quang Tam ma đại định. Xin hỏi có phải là phải tu đến khi thực sự có thể thắp lên nội hỏa thì mới có thể được tập quán tưởng đốt cháy thành xương trắng như trên không? 💡 Đáp: Có thể tu đến khi thực sự thắp lên được nội hỏa rồi mới tu quán tưởng đốt cháy thành xương trắng thì là tốt nhất rồi. Nhưng nếu bạn chưa thắp được nội hỏa thì vẫn có thể làm quán tưởng này. 🙏 Hỏi: Khi quán tưởng cúng dường, cúng phẩm biến hóa thành nghìn nghìn vạn vạn. Sau khi cúng phẩm tràn đầy khắp vũ trụ rồi, có cần phải quán tưởng Phật Bồ tát từng vị từng vị đến, hoặc vươn tay ra để tiếp nhận cúng phẩm, hoặc là ăn cúng phẩm không? 💡 Đáp: Câu hỏi này thực sự là có người hỏi rằng có phải quán tưởng các vị đưa tay ra nhận hay không, hoặc dùng miệng để ăn hay không, có cần phải quán tưởng hình tướng của các vị khi ăn không? Quán tưởng các vị đến là được rồi, bởi vì các vị thích ăn cái gì thì các vị sẽ tự mình lấy. Bạn không thể ép các ngài thứ mà các ngài không thích ăn, có đúng không? Nếu mà bạn còn cúng quần áo nữa thì lẽ nào bạn cũng giúp các vị cởi quần áo và mặc quần áo lên? Lẽ nào bạn bạn còn gọi các các vị đi vào trong xe để lái xe đi? Hoặc là bạn đem cả ngôi nhà mà bạn thích nhất cũng cho Phật Bồ Tát ở. Ở đây không chỉ có việc ăn. Bạn biết rằng người Trung Quốc chỉ nghĩ đến chuyện ăn mà thôi, kì thực cúng phẩm không chỉ là những thứ ăn được. Bốn thứ mong muốn sẽ đem lại cho con người niềm vui là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, đi lại, tất cả những thứ nàyđều có thể cúng dường được. Bởi vậy không cần phải quán tưởng các vị đưa tay ra lấy cúng phẩm. Các vị sẽ tự lấy được. 🙏 Hỏi: Rất nhiều người khi tu Thượng sư tương ứng pháp lập tức phát đại nguyện - ví dụ như "Muốn đời đời kiếp kiếp cứu độ chúng sinh", "Địa ngục chưa sạch, thề không thành Phật". Phát đại nguyện như vậy có phù hợp không? Tu đến cảnh giới thế nào mới có thể phát lời thề nguyện to lớn như vậy? 💡 Đáp: Có thể phát lời thề nguyện lớn. Mỗi người đều có thể thề, ví dụ phát những lời thề như "Muốn đời đời kiếp kiếp cứu độ chúng sinh", "Địa ngục chưa sạch, thề không thành Phật" đều được cả. Nhưng bạn cần nhớ khi bạn đã phát ra mong ước về Bồ Đề tâm này mà có thể giữ được nó mãi mãi thì mới là điều trân quý nhất. Bất kì người nào cũng có thể phát nguyện, bất kể là lúc nào, khi nào ở đâu đều có thể được. Chỉ cần bạn phát tâm, chỉ cần bạn thực sự thể hiện ra Bồ Đề Tâm của bạn thì đều có thể phát nguyện. Nhưng muốn giữ được lời thề nguyện thì cũng tương đối khó đấy. Bạn cần giữ vững lời thề này giống như bạn giữ giới khi bạn thọ nhận Bồ tát giới vậy. Tu đến cảnh giới nào thì mới có thể phát lời thề nguyện to lớn như vậy? Thực tế là chẳng cần phải quan tâm là tu đến cảnh giới nào. Chỉ cần bạn phát tâm như vậy là được, thì đã gọi là Bồ Tát phát tâm rồi. Bồ Tát phát tâm chính là phát khởi Bồ Đề tâm. Tâm nguyện phát Bồ Đề Tâm này bất kì người nào cũng có thể làm. Không thể nói là hạn chế phải tu đến cảnh giới nào đó mới được phát ra tâm nguyện này. Không có hạn chế nào. 🙏 Hỏi: Pháp Tứ gia hành có cần phải phân ra làm bốn lần quán đảnh không? Kim Cang Tâm Bồ Tát có cần phải quán đảnh riêng không? 💡 Đáp: Trong tông phái của chúng ta thì Tứ Gia Hành chỉ cần một lần quán đảnh, do vậy không cần phải quán đảnh riêng Kim Cang Tâm Bồ Tát, không cần. 🙏 Hỏi: Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp, Kim Cang pháp, liệu có phải mỗi pháp tu đến khi tương ứng được rồi thì mới xin quán đảnh pháp tiếp theo không? 💡 Đáp: Đúng vậy. 🙏 Hỏi: Tứ gia hành tương ứng là thế nào? Thượng sư tương ứng pháp là tương ứng thế nào? 💡 Đáp: Vấn đề về tương ứng này trong sách tôi đã nhắc đến nhiều rồi. Hơn nữa tôi còn nhắc đến rất nhiều lần, nếu như bây giờ giảng lại từ đầu thì thực tế là sẽ tốn rất nhiều thời gian. Nhưng ở đây tôi cũng nói tóm tắt cho mọi người một chút. Tương ứng nghĩa là ý nói rằng trong lúc bạn tu pháp sẽ sản sinh ra thụy tướng. Thụy tướng nghĩa là, ví dụ như khi bạn tu Tứ gia hành, Phật Bồ Tát sẽ phóng quang chiếu đến bạn, quán đảnh cho bạn, sờ đầu thọ kí. Khi bạn thỉnh cầu mà có được giấc mơ tương ứng thì sẽ có được rất nhiều mộng cảnh cát tường. Ví dụ khi bạn ngồi trên hoa sen, bay vút lên hư không, ở cùng với tất cả Phật Bồ Tát, ở cùng với tất cả thiện tri thức, lên thuyền đến được bến bờ bên kia. Đây đều là những mộng cảnh rất tốt, chính là lên được đỉnh núi rồi! Chúng đều là những mộng cảnh rất đẹp. Lúc đã có được mộng cảnh tương ứng hoặc trực tiếp có được cảm ứng thì bạn cầu xin vị thầy của mình ấn chứng cho. Nếu thầy nói rằng bạn đã tương ứng rồi thì như vậy là có thể được gọi là tương ứng. 🙏 Hỏi: Bây giờ mọi người ở đây phần lớn là đang tu Thượng sư tương ứng pháp, liệu có thể cầu xin quán đảnh cho mọi người Thượng sư tương ứng pháp không? 💡 Đáp: Giả sử hôm nay nói chuyện xong mà còn thời gian thì tôi sẽ quán đảnh cho mọi người. Ngoài ra cũng có người xin quán đảnh pháp chỉ ngũ sắc của Đại Cát Tường Thiên Nữ, đợi lát nữa tôi quán đảnh cho mọi người xong rồi, có ai cầu quán đảnh pháp gì thì tôi sẽ quán đảnh pháp đó. 🙏 Hỏi: Pháp nào có thể xin quán đảnh từ xa? Pháp nào không thể xin quán đảnh từ xa? Liệu Sư Tôn có thể giảng một chút về phạm vi chung chung được không? 💡 Đáp: Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp có thể quán đảnh từ xa. Các pháp khác không thẻ quán đảnh từ xa. 🙏 Hỏi: Tu pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát cần phải niệm Quân Đồ Lợi Minh Vương chân ngôn, xiin hỏi niệm như thế nào? 💡 Đáp: Việc này trong sách tôi có nói rồi, Quân Đồ Lợi Minh Vương chân ngôn không khó lắm, bạn nên niệm nếu có thể. 🙏 Hỏi: Tay cầm chuỗi hạt rồi chuông, chày kim cương nên quán tưởng thế nào? 💡 Đáp: Tôi đã giảng rất rõ ràng rồi. Quán tưởng tay phải là chày kim cương, quán tưởng một lúc thì không cần nghĩ về nó nữa. Lại quán tưởng tay trái là chuông kim cương, quán tưởng một lúc thì cũng không cần phải nghĩ về nó nữa. Vậy là được rồi. 🙏 Hỏi: Chủng tử tự của Kim Cang Tâm Bồ Tát có phải là chữ "Hum" màu trắng không? 💡 Đáp: Chữ "Hum" cũng có thể được. 🙏 Hỏi: Nên cúng dường dã quỷ (ma quỷ lang thang) như thế nào, thủ ấn hóa thực (biến đổi thức ăn) như thế nào? 💡 Đáp: Ồ, các câu hỏi càng ngày càng khó rồi. Thủ ấn hóa thực để cúng dường dã quỷ thế này (Sư Tôn kết thủ ấn). Trong việc làm pháp của tôi, tôi đang nói đến nếu chính bản thân tôi làm pháp thì tôi dùng Tam Sơn ấn, đặt chén cúng dường trên đỉnh của Tam Sơn ấn. Thế còn tay bên này thì dùng kiếm ấn, rồi niệm chân ngôn. Sau khi niệm chân ngôn xong thì thì vẽ một chữ "Hum" vào chính giữa chén nước này. Chữ "Hum" chính là có ý nghĩa biến hóa thành sự thành tựu. Sau đó hắt nước này đổ ra ngoài. 🙏 Hỏi: Thủ ấn và quán tưởng "Zha, Hum, Bam, Ho" như thế nào? 💡 Đáp: Cái này tôi cũng đều giảng rồi. Mọi người có biết thủ ấn này không? Các bạn có thể hỏi các Thượng sư về thủ ấn và quán tưởng "Zha, Hum, Bam, Ho". 🙏 Hỏi: Xin giải thích thêm lần nữa về "Ngã nhập". 💡 Đáp: Ngã nhập có nghĩa là vốn dĩ tôi đã ở trạng thái hợp nhất với Bổn tôn rồi. Trong Mật pháp thì khi nói là đã cùng bổn tôn hợp nhất thì sẽ có nghĩa như sau: Về "Nhập ngã", đầu tiên quán tưởng nguyệt luân, lại quán tưởng tiếp bổn tôn xuất hiện và đi vào trong thân thể bạn, ngồi trên hoa sen ở tâm luân, biến hóa lên thành to lớn bằng như bạn, đây gọi là Nhập ngã. Còn "Ngã nhập" thì là bổn tôn (vốn đã hợp nhất với chính ta) sẽ thu nhỏ lại, trở về tâm luân của ta. Sau khi bổn tôn đã trở về tâm luân rồi, ta lại biến hóa bổn tôn thành nhỏ như viên ngọc, nhỏ như một viên trân châu vậy. Viên trân châu đi theo trung mạch tới đỉnh đầu và từ đó xuất ra ngoài rồi hòa nhập vào trong hư không. Lúc này lại quán tưởng bổn tôn hiện thân trong hư không, đây gọi là Ngã nhập. Nhập ngã và Ngã nhập, Ngã nhập chính là quán tưởng ngược lại của quá trình Nhập ngã. 🙏 Hỏi: Khi bổn tôn hóa thành viên ngọc ánh sáng đi vào từ đỉnh đầu, tâm luân hóa thành hoa sen tám cánh, trên hoa sen có nguyệt luân, trên nguyệt luân có chú - chủng tử tự. Hoa sen tám cánh và chủng tử tự có phải sẽ thay đổi màu sắc tùy theo bổn tôn đúng không? 💡 Đáp: Đúng vậy. Không có gì sai. 🙏 Hỏi: Viên ngọc ánh sáng hạ xuống hoa sen rồi, hóa thành bổn tôn, thế lúc này chú tự và nguyệt luân trên hoa sen tám cánh sẽ thành thế nào? 💡 Đáp: Thì vẫn ở đó thôi. Bổn tôn ngồi trên chú tự rồi thì bạn không nhìn thấy chú tự nữa, nguyệt luân cũng vẫn còn ở đó, không thể nói rằng khi bổn tôn ngồi xuống thì không còn nguyệt luân và chú tự nữa, vẫn còn ở đó thôi. Cũng giống như cái pháp tọa này, nó là do Amchok Rinpoche tặng cho tôi, những thứ trang trí cho nó cũng đều do Rinpoche tặng. Trên mặt ghế có chày Thập tự kim cang, khi Sư Tôn ngồi lên thì chày Thập tự kim cang vẫn ở đó, không phải vì Sư Tôn ngồi lên mà nó lại biến mất. Vấn đề ở đây cũng giống như thế. Nói cách khác là Như Lai ngồi tên hoa sen tám cánh, ngồi lên chú tự và nguyệt luân thì chú tự và nguyệt luân phải làm sao? Vẫn ở đó, chỉ vì mông của các vị che mất rồi thôi. Câu hỏi của mọi người cũng thật là kì quặc. 🙏 Hỏi: Thủ ấn của chú Tứ quy y như thế nào? 💡 Đáp: Chỉ cần chắp tay lại khi đọc chú Tứ quy y là được rồi, không có vấn đề gì cả. 🙏 Hỏi: Khi thực hiện Cửu Tiết Phật Phong, quán tưởng bổn tôn hoặc Thượng sư phóng chữ Hum đến chữ Hum của người đang tu, thì quán tưởng chữ Hum màu trắng đi vào như thế nào? Chữ Hum màu đỏ đi đến đan điền rồi lại biến thành chữ Hum màu đen đi vào lỗ mũi của Bổn tôn sao? 💡 Đáp: Quán tưởng như vậy thì lại càng chi tiết, bạn có thể làm như thế. 🙏 Hỏi: Quán tưởng Bách tự minh chú như thế nào? 💡 Đáp: Đối với Bách tự minh chú thì có thể quán tưởng Kim Cang Tát Đỏa. Nói chung khi niệm chú, chúng ta phân tách ngài ra. Ví dụ chúng ta trì chú, tu pháp trì chú của bổn tôn thì cần có quán tưởng mỗi hạt châu đều biến thành vòng tròn, ở giữa vòng tròn có một vị bổn tôn. Niệm bách tự minh chú có thể quán tưởng Kim Cang Tát Đỏa là được. 🙏 Hỏi: Xin Sư Tôn thị phạm kết thủ ấn Kim Cang Tát Đỏa và niệm một biến Bách tự minh chú. 💡 Đáp: Mọi người đều đã biết niệm Bách tự minh chú rồi! Tôi không cần phải niệm lại nữa. Ngoài ra thủ ấn Kim Cang Tát Đỏa lại có rất nhiều kiểu. Đa phần thủ ấn mà mọi người kết là nắm đấm, một tay là ngón cái bên trong, một tay là ngón cái bên ngoài, một nắm đấm thì hướng vào trong, một nắm đấm hướng ra ngoài. Có lúc thì hai bàn tay như thế này (Sư Tôn thị phạm), có lúc thì một tay đặt vào tâm, một tay đặt vào eo, nắm tay này chính là chày kim cương (ở tâm), còn chuông kim cương là ở vị trí eo. Ngoài ra hai tay chuông chày kim cương này còn đan chéo như thế này, chính là tượng trưng cho "bi trí song vận". (Xem hình) 🙏 Hỏi: Sư Tôn từng viết trong sách rằng khi niệm chú cần quán tưởng chú âm làm chấn động đến tâm luân dể khai mở tâm luân. Trong mấy ngày trước thì lại quán tưởng mỗi hạt trong chuỗi hạt là một bổn tôn, hay cách này kết hợp lại như thế nào? 💡 Đáp: Việc này thì tự bản thân mỗi người tìm cách kết hợp. Bởi vì ý nghĩa của chú âm chính là niệm ra thành tiếng, âm thanh đi vào tai, in dấu vào trong tâm. Chú âm niệm thành tiếng, đi vào tai, in vào tâm, đây gọi là sơ trụ Tam ma địa, là sơ trụ. Kì thực, trạng thái trụ Tam ma địa tinh tế và tinh tế nhất là không còn niệm chú âm thành tiếng nữa. Vì vậy bạn có thể kết hợp ba việc quán tưởng bổn tôn, đếm số hạt, và niệm chú thầm với nhau. Mặc dù âm thanh của câu chú không được niệm ra nhưng bạn đã in nó vào tâm rồi. 🙏 Hỏi: Công đức của việc niệm chú 1 triệu lần khi lái xe so với việc niệm trước đàn thành thì có sự khác biệt nhiều không? 💡 Đáp: Sự khác biệt của việc niệm chú khi lái xe và khi ngồi niệm trước Phật đường hoàn toàn là vấn đề của tâm. Giả sử bạn có thể thực sự chú tâm niệm thì công đức lớn như nhau. Giả sử sự chú tâm của bạn khi trì chú là khác nhau thì sẽ có sự khác biệt. Giả sự bạn cùng có sự chú tâm niệm như nhau thì không có khác biệt nào cả. 🙏 Hỏi: Xin Sư Tôn giới thiệu đơn giản về pháp Xả thân. 💡 Đáp: Tôi đã giảng về pháp Xả thân rồi, pháp này cũng rất đơn giản thôi! Núi và mặt đất rộng lớn chính là từ da và xương thịt trên thân thể bạn hóa thành. Những dòng sông, nước, hồ, biển chính là máu trong thân thể bạn hóa thành. Tất cả cây cối là lông tóc trên thân thể bạn hóa thành. Mặt trời và mặt trăng là hai con mắt của bạn hóa thành. Trăng sao, núi sông đại địa đều là thân thế bạn biến hóa mà nên để bạn đem cúng dường tất thảy mọi chúng sinh. Đây là cách giới thiệu đơn giản về pháp Xả thân. 🙏 Hỏi: Trong cuộc sống thường ngày, nên làm thế nào để giữ được chính niệm thanh tịnh, loại bỏ thói quen của phàm phu? 💡 Đáp: Việc này rất quan trọng. Bởi vì rất nhiều người khi ngồi ở đây nghe pháp thì rất cảm động, khi về nhà rồi thì chẳng còn thấy cảm động nữa. Trở về nhà là lại là phàm phu, đợi cho đến lần sau Sư Tôn thuyết pháp thì lại rất cảm động. Hễ cứ quay về với cuộc sống bình thường thì lại hoàn toàn chẳng có gì khác biệt so với một phàm phu thế tục. Việc này cần làm thế nào để giữ được? Trong Mật giáo có đưa ra một ngày ba thời cần nhớ niệm Thượng sư Tam Bảo. Một ngày ba thời chính là buổi sáng thức dậy, buổi trưa - thời gian giữa ngày, và khi mặt trời lặn, chính là như vậy. Một hành giả Chân Phật chân chính và người xuất gia thì một ngày cần làm bốn đàn, một ngày tu bốn đàn pháp. Không giống như đệ tử tại gia, bản thân họ rất bận, bạn bảo họ một ngày tu một đàn pháp, có người đã không thể nào dành ra được một chút thời gian nào rồi. Nhưng đệ tử xuất gia thì khác, trong một ngày cần tu bốn đàn pháp, nghĩa là sáng ngủ dậy tu một đàn, giữa ngày tu một đàn, ngày tàn tu một đàn, trước khi đi ngủ tu một đàn, như vậy là một ngày tu được bốn đàn pháp. Như vậy mới luôn nhớ về Thượng Sư và Tam Bảo mà không quên. Khi đã có thể luôn nhớ về Thượng sư và Tam Bảo rồi thì sẽ không quên được, họ sẽ luôn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của bạn, bạn sẽ không quên mất chính niệm. Bình thường đối với cư sĩ tại gia thì có thể được thay thế bằng việc hướng suy nghĩ đến Thượng sư và Tam bảo ba lần một ngày, vào lúc mặt trời mọc - khi ngủ dậy, giữa ngày và khi ngày tàn. Bây giờ thì trở thành rất đơn giản rồi đó! Chính là một ngày tu một lần, mỗi ngày bạn chỉ càn tu một đàn pháp thôi. Còn bạn vẫn sống cuộc sống của bạn như vậy, nhưng muốn giữa được thân tâm thanh tịnh thì luôn luôn quán tưởng có Phật Bồ Tát, Hộ Pháp Kim Cang ở trên đỉnh đầu của bạn, hoặc là ở bên cạnh bạn, lúc nào cũng nhớ hướng về chư vị như vậy thì trong cuộc sống hàng ngày bạn sẽ có thể luôn luôn giữ được chính niệm thanh tịnh. 🙏 Hỏi: Chủng tử tự của Kim Cang Tát Đỏa là gì? Có màu sắc gì? Thế khi thực hành Cửu tiết Phật phong với quán tưởng chủng tử tự thì khi đi vào là màu trắng, đi ra là màu đen, hay là từ đầu đến cuối vẫn chỉ là một màu sắc? 💡 Đáp: Chủng tử tự của Kim Cang Tát Đỏa cũng có vài chữ, cũng như tôi từng nói rằng Quan Thế Âm Bồ Tát cũng có vài chủng tử tự. Ví dụ khác như chủng tử tự của Hồng Quan Âm giống với chủng tử tự của A Di Đà Phật, ví dụ như Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm cũng có chủng tử tự giống chủng tử tự của A Di Đà Phật. Nhưng nếu bạn lấy sách tiếng Phạn chủng tử tự ra để tra cứu, bạn sẽ hiểu cách viết của người Tây Tạng và chữ Phạn, bạn sẽ thấy Kim Cang Tát Đỏa cũng có vài chủng tử tự. Theo như tôi biết thì là như vậy. Ngoài ra, màu sắc thì là màu gì thì mọi người hãy nhớ, mỗi một vị bổn tôn có màu sắc riêng, dựa vào màu sắc của ngài để biểu thị. Ví dụ năm căn nhà phía sau của chúng ta ở đây được sơn năm màu sắc, chính là tượng trưng cho Ngũ Phương Phật. Đại Nhật Như Lai là màu trắng, A Di Đà Phật là màu đỏ, Bảo Sinh Phật là màu xanh lục, Bất Không Thành Tựu Phật là màu đen, A Sơ Phật là màu vàng. Trong hầu hết trường hợp thì mỗi màu sắc trong năm màu này đại diện cho một vị bổn tôn. Nhưng tuy vậy thì Văn Thù Sư Lợi là kết hợp màu vàng và trắng, Chuẩn Đề Phật Mẫu cũng là màu vàng và trắng. Thế còn chủng tử tự của Kim Cang Tát Đỏa thì là màu gì? Hẳn là màu trắng rồi, bạn xem bức vẽ toàn thân Kim Cang Tát Đỏa đều là một màu trắng, bởi vì ngài là Ngũ Đại Kim Cang Trì đến từ cung Đại Nhật của Đại Nhật Như Lai, do vậy lấy màu trắng làm biểu tượng. Kim Cang Tổng Trì hóa thành màu lam, tôi thấy Kim Cang Tổng Trì hóa thành màu lam, đây là dựa trên màu sắc vốn có của bản thân mà hóa thành. Vừa nãy tôi đã nói về Cửu Tiết Phật Phong, đi vào là màu trắng, đi ra là màu đen, còn khi ở bên trong thì là màu đỏ.

image
image
image
image

🙏 Hỏi: Phải làm sao để các loại cảm quan, cảm nhận và cảnh giới trong khi tu pháp có thể phù hợp với "Ngũ uẩn đều là hư không" nói đến trong Tâm Kinh và "khi thấy mọi hình tướng đều là phi tướng tức là đã kiến được Như Lai" nói đến trong Kim Cang Tâm? Nói cách khác là ngồi xuống tu bao lâu, hoặc là sau khi trải qua quá trình như thế nào thì cảnh giới sản sinh ra mới là định giới (cảnh giới định) đích thực mà không phải là những huyễn tượng được tạo ra bởi sự kiên cố của ngũ uẩn? [ ND: ngũ uẩn là năm thứ gồm sắc - thọ - tưởng - hành - thức, tích tập ô nhiễm che lấp mất chân tính của con người. ] 💡 Đáp: Câu hỏi này rất hay, hỏi rất sâu xa. Trong Thứ tự sinh khởi đều có các hình tướng, chỉ có trong Thứ tự viên mãn mới không còn hình tướng (vô tướng). Do đó khi tôi giảng Thứ tự viên mãn là tương đương với "vô tâm, vô hình, vô tướng, vô trụ", đều là một chữ "vô". Thế nhưng trong Thứ tự sinh khởi vẫn đều phải dựa vào "chứng lượng, chứng phân" để phân biệt và nhận biết bản thân bạn đã tu hành đến cảnh giới nào rồi, đến lớp thứ tự nào rồi. Nếu như bạn đã từ bỏ được hữu tướng thì tất cả đều không có gì gọi là "chứng lượng, chứng phân" nữa rồi, đều không còn nữa. Do vậy, kì thực trong "vô" đã bao hàm cả "hữu" rồi, thế còn "hữu" đến cuối cùng tổng kết lại cũng là "vô". Giữa "hữu" và "vô" này là trong "vô" có "hữu", trong "hữu" có "vô". Vậy làm sao để khế hợp với "ngũ uẩn đều là hư không" của Tâm Kinh? Bên trong Tâm Kinh là cảnh giới của ba-la-mật (paramita) - sự cứu cánh, nói cách khác là đã thành tựu thành Phật Bồ Tát rồi. Trước khi thành tựu cảnh giới này thì các loại cảm quan, cảm nhận và cảnh giới đều vẫn còn ở trong "hữu". Khi bạn tồn tại trong cảnh giới trên, bạn cần phải nhận thức được rằng: "Những thứ này đều là do Phật Bồ Tát "động viên" mà cho ta thôi, tất cả đều là huyễn, đừng có bám chấp vào chúng." Không thực sự cần thiết phải nghĩ rằng nhất định cần có cảnh giới này xuất hiện thì trong lòng tôi mới hoan hỉ được. Rất nhiều người bám chấp vào cảnh giới này là điều không tốt, phải xem chúng đều là "huyễn". Tuy nhiên có được cảnh giới này cũng là điều tốt, sẽ cho bạn cảm thấy mình được cổ vũ. Hành giả cần rất chú ý đến điểm này để có thể "không cầu không tìm không bám chấp", cứ để tự nhiên mà sinh ra, như vậy là tốt nhất. Còn nếu bạn đi thỉnh cầu, đi tìm kiếm, rồi bám chấp vào chúng thì lại trở thành không tốt. Mọi người cần chú ý đến điểm này. 🙏 Hỏi: Trong nghi quỹ tu trì Thượng sư tương ứng pháp, đến lúc niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, có cần niệm thêm Chân Phật Kinh không? 💡 Đáp: Nếu bạn có thời gian thì rất tốt. Nếu có rất nhiều thời gian thì có thể niệm thêm, rất tốt. Bạn muốn niệm kinh gì thì tùy ý, nhưng nếu bạn niệm kinh Rosary của Thiên Chúa Giáo, niệm Kinh Thánh thì có lẽ không phù hợp lắm. Thực ra tôi cho rằng Kinh Thánh cũng tốt, bản thân Kinh Thánh mà nói thì nội dung của nó cũng có rất nhiều đạo lý, cũng có thể thành tiên, đạo lý về cuộc sống vĩnh hằng này cũng có trong đó. Phật pháp rất bao dung, tuy nhiên nếu bạn gom rất nhiều kinh điển lại để niệm, và kinh gì cũng niệm, không lựa chọn kinh nào tương đối gần với Phật pháp thì bạn sẽ lại đi ra tương đối xa. Ý của tôi muốn nói rằng kì thực niệm kinh gì cũng được, chỉ cần xem xem bạn có thời gian không, bạn có thể thâm nhập để thể hội được hay không. Trước đây trong khi thuyết pháp, tôi đã từng nói về vấn đề trong nghi thức sám hối. Ý nghĩa chủ yếu của việc chúng ta sám hối là hoàn toàn mở tâm của mình ra, hoàn toàn thể hiện ra sự hối hận. Khi bạn đọc kinh cần hiểu rõ cái gì là lỗi lầm về thân thể, cái gì là lỗi lầm về khẩu, cái gì là lỗi lầm về ý niệm, bạn cần hiểu rõ, sau đó bạn thực sự sám hối thì mới đạt được mục đích của việc sám hối. Thế nên không phải là miệng chỉ cứ đọc kinh khơi khơi như vậy. Đương nhiên tôi cũng có thể đọc kinh được rất nhanh. Mà kì thực nếu chỉ thế thì cũng không cần bạn phải đọc đâu, bạn bật băng ghi âm là được rồi. Bây giờ có rất nhiều băng ghi âm đọc kinh, đọc đọc đọc… Oa! Bạn bảo mỗi ngày tôi đọc rất nhiều kinh, có phải bạn đọc thật không? Đó là băng ghi âm đó chứ. Nếu bạn đọc kinh giống như băng ghi âm mà không hiểu ý nghĩa của kinh đó thì cũng chẳng có công đức gì, chẳng có hiệu quả gì. Do vậy chúng ta sám hối và đọc kinh cần nhớ rõ là phải hiểu ý nghĩa của kinh và thực sự thực hành chúng. 🙏 Hỏi: Khi kết ấn thiền định, tay phải đặt ở trên hay tay trái đặt ở trên, có liên quan đến nguyên tố thủy hỏa như thế nào, xin giải thích cho đệ tử rõ? 💡 Đáp: Được thôi, vấn đề thủy hỏa là thế này! Tay phải đại diện cho hỏa, tay trái đại diện cho thủy. Bởi vì tôi biết mọi người đều kết ấn như thế này (Sư Tôn thị phạm tay phải đặt trên tay trái). Thế nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni khi giảng về Bạch cốt quán lại làm như thế này (Sư Tôn thị phạm tay trái đặt trên tay phải). Thực tế thì mọi người đặt thế nào cũng được. Ở đây tôi cũng có thể làm thế này. Bình thường là nước chảy ở phía dưới, nước chảy xuống dưới, hỏa thì bốc lên trên, cách nói thông thường là như vậy. Nước chảy xuống dưới, lửa cháy lên trên. Hai tay này tượng trưng cho thủy hỏa, dựa theo cách thức tự nhiên mà có tư thế đặt tay thế này. Còn nếu đảo ngược lại thì thế nào! Nghĩa là nước chảy lên trên, lửa cháy xuống dưới, vốn cũng có một pháp như vậy. Kì thực nước chảy lên trên chính là nâng lên, lửa cháy xuống dưới chính là hạ xuống, nhưng cách này không thuận tự nhiên mà là đảo ngược lại tự nhiên. Một cái là hướng chính, một cái là hướng nghịch, hướng chính là thuận với tự nhiên, hướng nghịch là hoàn toàn đảo ngược. Vốn cũng có một câu nói rằng: "Đường đạo bao cuộn xoắn, ai xoay chuyển theo kịp, khác gì Đại La Tiên." Do thế thủ ấn thiền định này cũng có cách đặt ngược. Ý nghĩa của cách kết thủ ấn đảo ngược này chính là nước trên lửa dưới. Hoặc nói cách khác chính là đảo ngược lại, ý là như vậy. 🙏 Hỏi: Trong tu hành Chân Phật Mật Pháp cần sử dụng đến ý thức vi tế và ý thức siêu vi tế, xin giải thích cho đệ tử được rõ. 💡 Đáp: Oa! A Di Đà Phật (cười). Ý thức vi tế và ý thức siêu vi tế là Duy thức học, xin mời bạn đọc về Duy thức học nhé. Bạn đã biết rõ về sáu thức của chúng ta rồi, "mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý" chính là sáu thức. Thức thứ bảy là Mạt-na thức, thức thứ tám là A-lại-da thức, thức thứ chín là Am-bổn-la thức. Mật giáo chính là nói đến thức thứ chín này. Hiển giáo chỉ nói đến thức thứ tám. Mắt tai mũi lưỡi thân ý, đến khi sáu giác quan đóng lại mới đến được thức thứ bảy. Việc tu hành này bạn có thể tham khảo cuốn kinh điển "Đại thừa khởi tín luận" và các sách về Duy thức học là có thể hiểu rõ cái gì là ý thức vi tế và ý thức siêu vi tế. 🙏 Hỏi: Có thể dùng chuông, chày kim cang để làm siêu độ không? Dùng pháp Tứ gia hành để siêu độ như thế nào? Xin Sư Tôn dạy thủ ấn bát cúng. Trước khi hít khí vào thì trung mạch có màu sắc gì? 💡 Đáp: Có thể dùng chuông, chày kim cang để siêu độ được. Tôi đã giảng về cách niệm chú Văn Thù vãng sinh và dùng ấn Đại Hải Siêu Độ là có thể làm siêu độ được. Thế còn nếu dùng chuông, chày kim cang để làm siêu độ thì cần quán tưởng và cũng cần quán tưởng mọi biến hóa. Ngoài việc làm bốn loại pháp yết ma ra thì trong lúc lắc chuông, bản thân chính ta cần kết thủ ấn siêu độ, "Thượng phẩm thượng sinh, Trung phẩm trung sinh, Hạ phẩm hạ sinh", kết ấn "dữ nguyện" (ấn ban cho ước nguyện), kết ấn "vô úy" (ấn không còn sợ hãi). Đây là cách dùng chuông chày kim cang để siêu độ cùng pháp Tứ gia hành. Sau khi bạn làm quán tưởng xong ở pháp Tứ gia hành rồi, sau khi làm pháp xong, bản thân bạn cần niệm chú Văn Thù vãng sinh, sau đó kết ấn Đại hải siêu độ, hóa thành một con thuyền pháp đem tất cả chúng sinh trong cõi u minh lên thuyền siêu độ. Bạn chỉ cần quán tưởng như vậy là được. Trước đây tôi mới chỉ dạy mọi người về thủ ấn của ngũ cúng, chưa dạy mọi người thủ ấn của bát cúng. Trong Mật giáo có thủ ấn của bát cúng, nhưng chúng ta không dùng đến, vì sao vậy? Bởi vì khi bạn kết thủ ấn cúng dường thì đã bao gồm cả thủ ấn bát cúng rồi. Chỉ cần kết một thủ ấn cúng dường này là tương đương với tám thủ ấn cúng dường, toàn bộ đã bao gồm trong thủ ấn cúng dường. Còn nếu bạn làm thủ ấn bát cúng thì quá phức tạp và quá nhiều, hơn nữa lại còn cần quán tưởng bát cúng, thời gian tu pháp như vậy sẽ rất dài. Trên thực tế ở Tây Tạng, cúng dường Mandala của họ không giống với cúng dường mà chúng ta đang làm hiện nay. Họ cúng dường mandala, có người dùng một mâm hình vuông, mâm có bốn cạnh to cỡ như cái bàn này, cạnh bên cũng cao lên. Sau khi làm cúng dường xong, họ lại cầm lên một nắm gạo và rắc, vừa rắc vừa niệm chú, vừa rắc vừa niệm chú, rắc xong lại đem đổ hết gạo này ra, dùng vải lau đi những chỗ bị bẩn, lau đến khi rất sạch sẽ rồi thì họ lại lặp lại nghi thức này. Cách làm pháp của họ rất khác. Nhưng chúng ta hiện tại không làm như vậy. Bởi vì nếu làm như vậy thì sẽ rất tốn thời gian. Hơn nữa, gạo này sẽ đem cho chim ăn, chúng ta rắc ra cho chim ăn, chúng ta sẽ lại cảm thấy làm như vậy thì rất lãng phí, do đó hiện nay chúng ta sửa thành kết ấn cúng dường. Đúng là có thủ ấn bát cúng, nếu bạn muốn học có thể học từ các Thượng sư đã biết để biết thế nào là thủ ấn bát cúng. Ví dụ những thứ như Ốc như ý thì lại phải kết ấn Ốc như ý, lại phải kết ấn Nước mộc dục (nước tắm), lại phải kết ấn Đồ hương,… bát cúng là như vậy. Trước khi hít khí vào thì trung mạch có màu sắc gì à? Trung mạch có màu tím hoặc màu lam, hoặc là ngoài màu lam trong màu trắng. 🙏 Hỏi: Trước khi tu pháp, lúc làm quán tưởng Tứ vô lượng tâm, quán tưởng cha ở bên trái hay bên phải? Mẹ ở bên trái hay bên phải? 💡 Đáp: Tôi quán tưởng như thế này, quán tưởng người cha ở bên phải, người mẹ ở bên trái. Đây là dựa theo quán tưởng của chính bản thân tôi, cha ở bên phải, mẹ ở bên trái. 🙏 Hỏi: Khi niệm chú triệu thỉnh "Om Ah Hum", quán tưởng chủng tử tự ở giữa tâm luân có phải là dựa theo chủng tử tự của bổn tôn để quán tưởng không? Chủng tử tự ở tâm luân xoay chuyển như thế nào? Theo mặt phẳng ngang hay theo chiều thẳng đứng? Chú luân ở tâm luân xoay chuyển như thế nào? Chuyển động theo mặt phẳng ngang hay theo chiều thẳng đứng? 💡 Đáp: Khi niệm chú triệu thỉnh, tôi đều quán tưởng chữ "Hum". Ở giữa tâm luân của bạn, chữ "Hum" này nằm trên tâm của nguyệt luân. Do vậy tôi quán tưởng là nó nằm trên mặt phẳng ngang, nằm ngang ngay ở giữa tim của chính mình. Thế còn ở trong hư không, khi có câu chú thì quán tưởng là hiện lên thẳng đứng. Xoay chuyển như thế nào? Tôi đều quán tưởng xoay như thế này (Sư Tôn thị phạm dùng ngón tay vẽ theo thuận chiều kim đồng hồ). Tôi đều quán tưởng xoay như vậy. Thế còn ở trong tâm luân thì sẽ xoay theo mặt phẳng ngang, thế còn ở trong hư không trung thì xoay như tôi vừa vẽ (Sư Tôn thị phạm). 🙏 Hỏi: Khi làm đại lễ bái, quán tưởng thân mình trong hư không cùng với lục đạo chúng sinh cùng nhau lễ lạy hư không như thế nào? Theo Tứ quy y mà nói thì riêng Đại lễ bái cần làm bao nhiêu lần? Khi lạy Phật có nhất định cần phải niệm chú lạy Phật không? 💡 Đáp: Đặt mình vào trạng thái hư không có nghĩa là biểu thị ý niệm của bạn hoàn toàn tập trung, hóa thành cảnh giới hư không. Nói rõ hơn là đặt mình trong trạng thái hư không, suy nghĩ hoàn toàn tập trung, tất cả mọi thứ xung quanh đều không bị phân tán, như vậy mới được gọi là đặt mình trong hư không. Lễ lạy hư không nghĩa là xem đàn thành trước mặt bạn giống như một vũ trụ và bạn đang đảnh lễ trước cả vũ trụ này. Thực hiện Đại lễ bái cần bao nhiêu lần à? Chúng ta nhớ rằng chúng ta niệm chú Tứ quy y cần niệm 1 triệu biến. Làm Đại lễ bái cần bao nhiêu biến? Nếu tính theo số lần thì có rất nhiều người lạy rất nhiều lần, lạy đến khi toàn thân đẫm mồ hôi, đảnh lễ đến mức toàn thân đổ mồ hôi. Tuy nhiên chúng ta không có cách nào để làm Đại lễ bái nhiều như vậy, bạn nên thuận theo tình trạng cơ thể bạn để điều tiết việc đảnh lễ là được rồi. Thế rốt cuộc lại thì cần làm bao nhiêu lần? Kì thực cũng không có quy định văn bản chính thức nào cả. Có người cho rằng làm 250 nghìn lần, có người thì nói rằng vẫn cần phải làm 1 triệu lần, có người thì còn lạy nhiều hơn nữa. Nói tóm lại là bạn có thể đảnh lễ cho đến khi tương ứng là được. Việc lạy Phật này có cần phải niệm chú lạy Phật không? Nếu có thời gian thì bạn có thể làm. Trước đây, đại sư Tsongkhapa - một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đã hướng tới 35 vị Phật mà đảnh lễ. Mỗi một cái lạy Phật là toàn thân nằm xuống, rất kiền thành, ngài lạy tới mức tay đều bị chà sát tới rách cả. Ở Tây Tạng họ làm đại lễ bái là đầu gối không được cong, đầu gối phải thẳng hết ra, "pang" một cái là nằm thẳng dưới đất, rồi hai tay vươn thẳng ra, sau đó vừa chạm đất lại lập tức đứng lên rất nhanh. Do vậy bản thân người Tây Tạng khi làm đại lễ bái không cong đầu gối như vậy. Ngài làm Đại lễ bái trên một phiến đá, là một phiến đá rất lớn, tay chà sát lên đó đều bị rách cả. Việc này khiến 35 vị Phật rất cảm động và tất cả đều hiện thân. 35 vị Phật hiện lên trong hư không để cho ngài Tsongkhapa nhìn thấy. Thế nhưng 35 vị Phật mà đại sư Tsongkhapa nhìn thấy đều không có đầu. Khi 35 vị Phật hiện thân thì đều không có đầu, ngài cảm thấy rất kì lạ, vì sao các vị lại không có đầu nhỉ? Ngài mới hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với ngài: "Mặc dù ngài làm Đại lễ bái, đảnh lễ 35 vị Phật, 35 vị Phật nhìn thấy ngài khó nhọc làm đại lễ bái như vậy, tu khổ hạnh đến mức như vậy, đã rất cảm động, do vậy mới hiện thân. Nhưng vì sao lại không có đầu? Bởi vì ngài không đọc thêm 10 xưng hiệu của Như Lai. Nếu như ngài đọc thêm 10 xưng hiệu của Như Lai, nói cách khác là khi ngài niệm xưng hiệu của Phật nữa mới là đầy đủ chu toàn. Khi ngài làm Đại lễ bái mà niệm thêm tên hiệu thì lại càng thêm viên mãn." Thế là đại sư Tsongkhapa từ sau đó khi đảnh lễ 35 vị Phật lại niệm thêm cả 10 xưng hiệu của Phật, đó là "Như Lai, Chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Chính là ngài đã đọc thêm 10 xưng hiệu này. Sau khi ngài đọc thêm 10 xưng hiệu này thì mới làm Đại lễ bái. Ý! Thế là 35 vị Phật hiện lên, tất cả đều có đầu rồi. Hôm nay có cần phải thêm chú lạy Phật hay không, bạn tự mình nghĩ xem là bạn có thời gian hay không. 🙏 Hỏi: Niệm chú Tứ quy y, quán tưởng Thượng sư, Phật, Pháp, Tăng, hóa thành một đường ánh sáng trắng, quán tưởng tất cả cùng xoay chuyển thành ánh sáng trắng là quán tưởng như thế nào? Quán tưởng nên làm vào lúc trước hay sau khi niệm chú? 💡 Đáp: Rất nhiều việc đều là quán tưởng trước rồi niệm chú sau. Nếu trong Mật pháp giả sử có một trình tự thì sẽ là quán tưởng trước trì chú sau. Mật giáo đều dạy mọi người là quán tưởng trước trì chú sau. Quán tưởng xoay vòng thành ánh sáng trắng như thế nào ư? Ngay cả việc xoay vòng thế nào cũng cần tôi phải dạy à, để tôi bảo Phật Kì xoay vòng vòng cho mọi người xem. Nó có một động tác vận động là ngồi thấp người dưới đất và xoay mấy vòng. Xoay vòng chính là như vậy, đợi một lát nữa khi thấy Phật Kì tôi sẽ kêu nó ra làm một lần cho mọi người xem. 🙏 Hỏi: Kết thủ ấn Bia giáp hộ thân, chạm vào thiên tâm, họng, tim, vai trái, vai phải là có hàm ý gì? 💡 Đáp: Ô (Sư Tôn cười), việc này tượng trưng cho việc gia trì đó mà! Thiên tâm, họng, tâm luân, vai trái, vai phải bao gồm toàn thân của bạn, toàn bộ thân thể của bạn, đây là các bộ phận quan trọng, toàn bộ đều giúp cho việc hộ thân của bạn. Chạm - phải chạm vào! Có đúng vậy không! Đây cũng có ý nghĩa là thân khẩu ý, là ý niệm về toàn thân. 🙏 Hỏi: Niệm Cao Vương Kinh, khi niệm Thất Phật Diệt Tội chân ngôn, có cần phải quán tưởng Phật phóng quang không? Quán tưởng như thế nào? 💡 Đáp: Thất Phật có pháp tướng, nếu muốn quán tưởng thì cần nghĩ cách để tìm ra pháp tướng của Thất Phật. Thường thường trong việc sám hối, khi sám hối bạn thường hướng tới Thất Phật. Bạn cần tìm được hình ảnh pháp tướng của Thất Phật để quán tưởng. Nếu bạn muốn quán tưởng thì bạn có thể làm. Oa! Nếu mà tu một đàn pháp như vậy thì mất cả một ngày trời đó. (mọi người cười) 🙏 Hỏi: Niệm chú vãng sinh A Di Đà Phật có cần quán tưởng không, quán tưởng như thế nào? 💡 Đáp: Chú vãng sinh A Di Đà Phật thì quán tưởng chính A Di Đà Phật là được rồi. Bạn muốn làm siêu độ được thuận lợi thì kết ấn Đại hải siêu độ, quán tưởng thuyền pháp. 🙏 Hỏi: Trì Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, có phải là mỗi khi niệm đến chữ "Hum" đều cần phải quán tưởng chữ "Hum" trong tâm luân phóng quang không, làm như vậy là để giúp cho tâm luân phát quang phải không? 💡 Đáp: Việc này nếu như bạn có thời gian thì bạn làm, tuyệt đối không có vấn đề gì cả. Có thời gian thì bạn cứ làm. 🙏 Hỏi: Làm sao để quán tưởng chi tiết tam quang bao trùm, ví dụ ánh sáng trắng chiếu đến thiên tâm, có phải thiên tâm là ở giữa đầu không? 💡 Đáp: Ồ, lấy thước ra đo thì vị trí chính giữa khoảng cách hai tai ta lấy một điểm, bạn lấy thước ra đo rồi đánh dấu một điểm, chấm một điểm. Nhưng có ai làm như thế không? Thiên tâm ở giữa đầu à, nếu thế thì tâm luân (luân xa tim) này của bạn, bạn muốn chỗ nào là trái tim cơ thể của bạn đây? Chúng ta đều biết rằng tim lệch về một bên, nên tâm luân chắc chắn là phải lệch về một bên, đâu phải ở giữa. Nhưng thực tế chúng ta lại quán tưởng ở giữa, tâm luân chính là ở giữa cơ thể. Luân xa họng thì ở cổ họng. Luân xa con mắt thứ ba của chúng ta ở đây thì khác với bên Nhất Quán Đạo. Trong Nhất Quán Đạo thì điểm ở giữa hai con mắt này là huyền quan (lối vào bí mật), là ở giữa con mắt này và con mắt này, chính ở chỗ thấp này nơi bắt đầu của mũi, theo họ nói thì huyền quan là ở đây. Trước đây vào thời xa xưa thì họ chưa điểm huyệt, bây giờ thì họ sẽ điểm huyệt vào chỗ này của bạn (Sư Tôn thị phạm). Ngày trước họ không điểm huyệt, chỉ có trỏ vào nó một chút thôi, trỏ vào từ một khoảng cách. Còn bây giờ thì họ trực tiếp ấn một cái, gọi là điểm huyền quan. Chúng ta không gọi là huyền quan mà gọi là thiên tâm, nằm ở đây (Sư Tôn thị phạm). [ ND: Nhất Quán Đạo là một tà phái mượn danh nghĩa Phật giáo, được truyền từ Trung Quốc vào Đài Loan từ năm 1954.] 🙏 Hỏi: Khi gia trì chú của bát đại bổn tôn khác thì mỗi lần niệm một câu chú liệu có phải quán tưởng mỗi vị Phật Bồ Tát hiện ra không? 💡 Đáp: Tốt nhất có thời gian thì bạn nên làm. 🙏 Hỏi: Niệm xong gia trì bát đại bổn tôn tâm chú, khi làm gia trì Tức-Tăng-Hoài-Tru [ ND: bốn đại pháp của Mật tông, Tức là Tức tai, Tăng là Tăng ích, Hoài là Kính ái, Tru là Hàng phục ] thì lực gia trì là từ đâu đến? Có phải là từ lực của bát đại bổn tôn không? Vì sao lại xếp ngay sau khi làm xong gia trì tâm chú của bát đại bổn tôn, có phải là có ý nghĩa liên quan với nhau không? 💡 Đáp: Không phải. Khi làm Tức-Tăng-Hoài-Tru là sau khi làm xong phần Tiền hành, Chính hành, có thể nói là lúc này bạn đã tu trì một đàn pháp sắp đến lúc kết thúc rồi. Khi sắp kết thúc, Phật Bồ Tát vẫn còn ở đây, bạn không nên nói với Phật Bồ Tát và bổn tôn là hãy giải tán đi, mà nhân lúc này dùng pháp lực tu pháp của bản thân bạn cùng với pháp lực của tất cả chư tôn và pháp lực của bổn tôn cùng hợp lại để làm Tức-Tăng-Hoài-Tru. Nói như vậy bạn đã hiểu chưa? 🙏 Hỏi: Xin Sư Tôn chỉ dạy, ở những nơi công cộng nếu muốn tu pháp nhập định nhưng không tiện kết thủ ấn hoặc niệm chú phát ra âm thanh, ta có thể dùng cách thức là nhắm mắt quán tưởng thủ ấn và niệm thầm chú ngữ khi thực hiện mọi trình tự tu pháp được không? 💡 Đáp: Có thể được. 🙏 Hỏi: Khi niệm Nam mô 36 vạn tỷ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật có cần quán tưởng không? 💡 Đáp: Có thể (mọi người cười), nhưng bạn quán tưởng chẳng hết nổi đâu. Nếu bạn có thể quán tưởng 36 vạn tỷ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật, mỗi một vị lại cần quán tưởng thật rõ ràng mới là tốt nhất (mọi người cười), thì "đảm bảo vãng sinh"! (mọi người cười) 🙏 Hỏi: Tại Chân Phật Mật Uyển cùng Sư Tôn đồng tu, khi tu đến lúc niệm vãng sinh tịnh độ thần chú, Sư Tôn đều lắc chuông kim cương. Xin Sư Tôn nói rõ ý nghĩa của việc lắc chuông là thế nào? 💡 Đáp: Kì thực việc lắc chuông thì lúc niệm chú cũng có thể lắc chuông được. Bạn niệm bất kì chú gì cũng có thể lắc chuông. Đọc kinh cũng có thể lắc chuông. Có thể lắc chuông khi đọc kinh được, chỉ cần âm thanh của chuông phù hợp với nhịp đọc kinh và đọc chú sao cho hay thì đều có thể lắc. Việc lắc chuông tượng trưng cho sự hoan hỷ và nhịp điệu tiết tấu. Bởi vì bạn đọc kinh hay niệm chú đều là một việc rất hoan hỷ, đều giúp cho tinh thần tập trung chuyên nhất. Lắc chuông có ý nghĩa là một kiểu tập trung và tăng cường thêm sự hoan hỷ. Bạn nên làm. 🙏 Hỏi: Khi niệm chân ngôn Thổ Địa Công nên quán tưởng thế nào? 💡 Đáp: Khi niệm chân ngôn Thổ Địa Công à, về việc này thì khi niệm chú xong đã tương đương với việc bạn mời họ đến rồi. Có sức mạnh của câu chú này là có thể mời được họ đến, nếu bạn muốn thêm quán tưởng nữa thì cũng được. 🙏 Hỏi: Những lúc bình thường, trong khi lái xe hoặc những lúc không thuận tiện thì dùng máy đếm để niệm chú, xin hỏi dùng cách này để niệm chú thì chú lực liệu có bị giảm đi hay không? 💡 Đáp: Điều này hoàn toàn là vấn đề của sự chú tâm, như tôi vừa nói ban nãy rồi. 🙏 Hỏi: Ngày đầu tiên đệ tử nghe Sư Tôn giảng về tu pháp cần điều chỉnh tâm, dùng tâm vui vẻ như một bầu trời xanh ngắt trong vắt vô tận để nhập Tam ma địa. Lúc đầu nội tâm đệ tử yên tĩnh, chỉ cảm giác thân thể bay lên hư không, rồi thân thể cứ thế lớn lên, phóng to lên đến khi có thể nuốt toàn bộ hư không này vào bên trong thân thể mình. Sau đó thì dừng lại, lúc này đệ tử cảm giác có một khối khí dội thẳng từ trên xuống, đi vào trong thân thể, giống như nước xi-măng đổ xuống khiến đệ tử không thể cử động được, rồi đột nhiên cảm thấy thân thể cứ thế to lớn như một ngọn núi, tay trái cũng to lớn như một cây cột bê-tông, tay phải cũng to lớn như một cây cột bê-tông, sau đó thì hai chân và cả cơ thể giống như biến thành một quả núi. Khi đó đệ tử rất sợ hãi nên mau chóng xuất định, nhưng khối khí đó vẫn tiếp tục dội thẳng từ trên xuống, rất lâu sau mới tản đi. Có phải là nghiệp chướng hay là tu pháp có sai sót gì không? 💡 Đáp: Không có sai sót gì của việc tu pháp ở đây cả. Bạn hỏi có phải là nghiệp chướng hay là tu pháp bị sai không, thì tu pháp không có gì sai. Bởi vì yếu tố địa khí của bản thân bạn tương đối nặng, do vậy khi tu pháp có cảm ứng thì sẽ giống như là bị đông cứng lại như núi và bê-tông vậy. 🙏 Hỏi: Sư Tôn nói đến nhập Tam ma địa, lúc đầu quán tưởng hít ánh sáng trắng vào, đi vào tới họng thì biến thành ánh sáng màu đỏ, đi vào tới tâm luân thì biến thành ánh sáng màu lam, đi ra thì là khí đen, thế còn khi khí tới đan điền thì biến thành ánh sáng màu gì? Liệu có phải là biến trở lại thành ánh sáng trắng như mặt trăng không? Khi thở khí ra, từ đan điền tới tâm luân rồi lại đi lên họng, màu sắc của ánh sáng liệu có phải là lại biến thành màu lam màu đỏ không? Rồi lúc ra tới lỗ mũi thì lại biến thành khí màu đen? 💡 Đáp: Tôi đâu có nói nhiều đến mức như bạn diễn tả đâu! Chỉ cần là ánh sáng từ bên ngoài đi vào là màu trắng, khi vào bên trong thân thể là màu đỏ, đi khi ra ngoài thì biến thành màu đen, ngoài ra không cần phải thêm màu sắc gì khác cả (mọi người cười)! Kem ba màu như vậy là đã quá đủ rồi! 🙏 Hỏi: Đệ tử hiểu được đạo lý rằng luyện khí cần luyện cho đến khi giữ hơi thở được lâu và vi tế thì không thành Phật cũng thành tiên. Nhưng ban đầu việc khống chế hơi thở rất khó, cần phải có quyết tâm rất lớn, cần có đạo tâm kiên trì lớn, vậy thì tốc độ quán tưởng phối hợp với tốc độ hít thở như thế nào? Bởi vì nếu phối hợp không đúng, đệ tử cho rằng sẽ có nguy cơ bị tẩu hỏa nhập ma! 💡 Đáp: Việc giữ cho hơi thở dài và vi tế, cách điều chỉnh hơi thở của mỗi người là khác nhau, thời gian dài ngắn cũng khác nhau. Việc này phải do chính bạn quán tưởng và hít thở, ngoài ra còn cần có ý niệm của bạn nữa. Bạn hít thở ngắn hay dài là do bạn tự điều hòa. Tự bản thân bạn điều hòa, nói cách khác đây là vấn đề về ý niệm của bạn muốn điều chỉnh khí xoay chuyển ra sao khi khí ở trong thân thể bạn lúc tập Cửu tiết Phật phong, là do bạn muốn xoay chuyển nhanh chậm thế nào. Ngoài ra, muốn khí dài và tinh tế thì cần luyện từ từ mới có thể thành công, không phải trong thời gian ngắn là có thể luyện được. Việc này cần học cách điều tiết khí và hơi thở. 🙏 Hỏi: Sư Tôn có nói đến việc thanh tịnh ý trước khi tu pháp, điều này tương đối trừu tượng. Đệ tử luôn luôn giữ tâm trạng hoan hỷ để tu luyện, nhất là khi nhập Tam ma địa, thì Phật Bồ Tát cũng cảm nhận được mà hoan hỷ tương ứng. Sư Tôn có nghĩ như vậy không? 💡 Đáp: Việc này tôi không rõ lắm (mọi người cười), nhưng mà luôn luôn làm với cả tấm lòng thì sẽ là đúng. 🙏 Hỏi: "Muốn làm được việc, cần có công cụ tốt". Trước đây thì đệ tử chưa tu pháp. Sư Tôn đã biết điều này, nhưng người khác thì không biết. Đệ tử vốn muốn tu tâm trước, trước tiên là tu Tứ vô lượng tâm, bởi vì đệ tử cho rằng tu tâm quan trọng hơn tu pháp, tâm bất chính thì còn tu pháp cái gì! Xin Sư Tôn lượng thứ cho con về việc này. Ngoài ra, xin Sư Tôn ban phước cho những trẻ em nghèo ở nước cộng hòa Dominica. 💡 Đáp: Việc ban phước này chắc chắn cần phải làm rồi. Tôi không biết là anh không tu pháp, nếu đã biết thì tôi đã không đọc tên anh ra, nãy giờ tôi cũng không đọc tên ai ra cả. Tôi đã từng nói đệ tử Chân Phật Tông mỗi người đều cần tu pháp, mỗi người đều cần tu tâm. Bởi vì tu pháp kèm với tu tâm thì sẽ thành Phật. Chỉ có tu pháp mà không tu tâm thì sẽ thành ma. Do vậy tu tâm vô cùng quan trọng. Quan điểm này là cực kì chính xác. Tu pháp cần kết hợp với tu tâm. Thế còn chỉ có tu tâm mà không tu pháp thì bạn không thể nào hiểu thấu được tâm. Điểm mấu chốt của vấn đề này nằm ở đây, bởi vì trong lúc tu pháp bạn sẽ thể hội được cái tâm này, tâm chính là nằm trong pháp, tâm ở ngay trong pháp. Nhưng nếu bạn chỉ tu pháp mà lơ là cái tâm ý chân chính thì sẽ thành ma. Tu pháp kết hợp với tu tâm thì mới thành Phật, đây là điểm cực kì quan trọng. 🙏 Hỏi: Khi quán tưởng triệu thỉnh bổn tôn thì bát đại bổn tôn có chú ngữ và ánh sáng không giống nhau. Xin Sư Tôn giới thiệu thật rõ ràng từng vị một, bắt đầu từ Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đồng thời trong phần Chính hành, xin hỏi phương pháp quán tưởng chi tiết cho mỗi một vị trong bát đại bổn tôn như thế nào? 💡 Đáp: Thực tế là việc này tôi đã nói trong sách rồi. Phương pháp quán tưởng chi tiết mỗi vị bổn tôn đều có trong sách. Tôi sẽ nói cho mọi người màu sắc gắn với chủng tự của bát đại bổn tôn. Chuẩn Đề Phật Mẫu là chữ "Bu", màu trắng. Hoàng Tài Thần là chữ "Jam" màu vàng. Hoàng Tài Thần đương nhiên là màu vàng rồi. Địa Tạng Vương Bồ Tát là chữ "Ha" màu vàng. Liên Hoa Đồng Tử là chữ "Hum" màu trắng. Quan Thế Âm Bồ Tát là chữ "Seh" màu trắng. Ngài dùng chữ màu đỏ để quán tưởng. Còn Hồng Quan Thế Âm là màu đỏ. Phật Dược Sư là chữ "Hum" màu xanh lam. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là chữ "Seh" màu đỏ. A Di Đà Phật là chữ "Seh" màu đỏ. Vừa nãy tôi nói đến Quan Thế Âm Bồ Tát, Hồng Quan Âm là màu đỏ, Bạch Quan Âm là màu trắng. 🙏 Hỏi: Dùng thủ ấn Kim cang câu, ngoài niệm ba lần "Mam mô Kim Cang Câu Bồ Tát Ma Ha Tát" thì còn có câu chú nào đặc biệt có thể dùng được không? 💡 Đáp: Kì thực khi bạn làm triệu thỉnh thì đã có chú ngữ rồi. Khi niệm chú triệu thỉnh là đã có niệm chú rồi. Do vậy không cần phải niệm thêm chú gì khác nữa. 🙏 Hỏi: Chân lý của sự hình thành và sinh ra của vũ trụ là gì? Vì sao lại có sự hình thành vũ trụ này? Bên ngoài vũ trụ là cái gì? Bên trong vũ trụ ngoài thần lực của Phật Bồ Tát thì còn có bao nhiêu sức mạnh khác tồn tại? Họ là cái gì? Chúng ta mỗi ngày đều phải dựa vào thế giới vật chất thì mới sống qua ngày được, xin Sư Tôn từ bi giảng giải cụ thể làm thế nào để thể hội và cảm nhận được sự tồn tại của tính không? 💡 Đáp: Oa! Đây đúng là một câu hỏi lớn (mọi người cười). Chân lý của sự hình thành và sinh ra của vũ trụ là gì? Có rất nhiều cách giải thích về sự hình thành của vũ trụ lúc ban đầu. Cách giải thích này nằm trong lý luận về vũ trụ. Trong triết học cũng giảng về lý luận vũ trụ, bên Nhất Quán Đạo là giảng nhiều nhất. Ây, mẹ của Thượng sư Thiếu Đông cũng là một vị thầy điểm truyền của Nhất Quán Đạo đó, còn có cả mẹ của Minh Nghi nữa, bên đó họ giảng nhiều nhất. Họ giảng thế này. Vào thời kì hỗn độn, hỗn độn nghĩa là khi trời đất còn chưa phân biệt, trời đất chưa phân biệt thì gọi là hỗn độn, không phải là "hoành thánh" đâu nhé (mọi người cười), hoành thánh thì ăn được, còn ở đây là hỗn độn. [ND: Ở đây Sư Tôn chơi chữ, hỗn độn - "hùn tùn" trong tiếng Trung đồng âm với hoành thánh - "hún tun".] Thời kì đó là trời đất chưa phân chia, khi bắt đầu phân chia thì là thanh khí bay lên trên, trọc khí hạ xuống dưới. Những cái mà "thanh" thì là trời, những cái mà "trọc" thì là đất, trải qua một quá trình thanh lọc rất lâu dài như vậy, cứ thanh lọc như vậy. Những thứ "thanh" thì bay lên làm trời, những thứ "trọc" thì hạ xuống làm đất. Thế nhưng đất cũng vô cùng đẹp đẽ. Thế giới Ta Bà này vào thủa sơ khai thì vô cùng thanh bình, vô cùng tươi đẹp, đất đai rộng lớn. Những đất đai này có thể ăn được, rất là sạch sẽ. Bên Nhất Quán Đạo giảng rằng, Vô Sinh Lão Mẫu chính là người quản lý cả vũ trụ. Khi Vô Sinh Lão Mẫu ở trên trời nhìn thấy địa cầu chẳng có ai quản liền rắc xuống 96 nguyên linh. 96 nguyên linh ở đây nghĩa là 96 tỉ linh hồn nguyên thủy được phái xuống để cai quản trái đất. Xuống tới địa cầu này thì những nguyên linh này hình thành nên lục đạo chúng sinh. Việc 96 nguyên linh được rải xuống này chính là tạo nên sự hình thành vũ trụ theo như quan điểm của Nhất Quán Đạo. Còn Cơ Đốc Giáo thì lại nói rằng ngay từ buổi ban đầu đã có đạo, đạo và Chúa cùng tồn tại, đạo chính là Chúa. Kinh Thánh nói rằng sau thời kì tạo lập, Chúa tạo ra trời đất, con người. Lý luận về sự hình thành vũ trụ của Cơ Đốc Giáo chính là nói rằng do Chúa tạo ra. Phật giáo thì lại nói thế này. Phật giáo có lý luận về con người nguyên thủy. Lý luận này như sau. Sự hình thành của trái đất thì cũng tương đối giống như cách nói của bên Nhất Quán Đạo. Phật giáo phân biệt âm dương trên dưới, những gì lên trên là trời, những gì ở dưới là đất. Thiên nhân thì ở cõi trời Quang Âm, Quang Âm Thiên chính là cõi trời dục giới, phía trên của cõi trời sắc giới. Ở cõi trời sắc giới, thiên nhân của cõi trời Quang Âm nhìn thấy trái đất xinh đẹp như vậy liền bay xuống. Sau khi bay xuống rồi thì sao? Họ lại ăn đất của trái đất, lập tức cảm thấy thân thể rất nặng nề, tương đối nặng, thế là họ không quay về trời được nữa, không thể bay về được, thế là hình thành nên con người trái đất. Đây là cách nói của Phật giáo. Xong! Vậy là tôi đã nói xong về sự hình thành của vũ trụ rồi đó. (Mọi người cười) Chân lý là gì? Chân lý của việc sinh ra là gì? Vừa nãy bạn nói về tính Không rồi đó! Chúng ta lại nói về điểm ban đầu, Ba-la-mật. Phải, gần đây tôi đều giảng về chữ "Đạo", tôi đã giảng suốt mấy ngày nay rồi, nói rất lâu rồi, bây giờ bạn có thể nghe cho kĩ một chút, chân lý là gì? Vì sao lại có sự hình thành vũ trụ này? Vũ trụ này hình thành là vì sao? Đúng rồi, ban nãy tôi nói về sự hình thành vũ trụ còn nói thiếu mất quan điểm của Lão Tử. Đạo giáo của Lão Tử nói rằng vũ trụ này hình thành là do ngài ấy nhổ từ miệng ra. Miệng nhổ ra trời đất. Việc nhổ ra trời đất này có điểm giống với cách nói của Mật tông. Vì sao lại thế? Cách nói của Mật tông là thiên ma Shiva ngậm lục đạo luân hồi trong miệng, việc này cũng giống như việc nhổ ra trời đất. Lão Tử nói rằng miệng nhổ ra trời đất cũng có nghĩa là trời đất hình thành từ âm thanh, từ âm thanh mà có, từ âm thanh của miệng mà hình thành. Thế làm sao mà âm thanh lại có thể làm nên cả trời đất thế này? Thế âm thanh là cái gì? Âm thanh chính là gió. Từ sự vận chuyển của khí mà phân chia thành trời thành đất, tất cả chính là bắt đầu từ "bánh xe gió". Bởi vậy chân lý chính là "Không". Đất nước lửa gió, sự thật chính là "Không". Ở đây được gọi là Ngũ luân. Đất-nước-lửa-gió-không được gọi là Ngũ luân. Ngoài vũ trụ là cái gì? Ngoài vũ trụ vẫn là "Không luân". Dựa trên điều này mà nói thì với đất-nước-lửa-gió-không, bên ngoài nhất của vũ trụ còn có một thứ là "Không luân". Trong vũ trụ, ngoài thần lực của Phật Bồ Tát ra thì còn có bao nhiêu sức mạnh khác tồn tại? Họ là cái gì? Có rất nhiều sức mạnh đó! Giống như chúng ta thôi. Ở tại Biệt Thự Cầu Vồng của chúng ta bây giờ đây bạn nhìn xem có bao nhiêu người, mỗi người đều có một sức mạnh đó! Đấm một cái là cũng đo được mấy cân sức mạnh đấy. Bạn nói xem bạn có sức mạnh không? Có chứ! Bạn có thể nâng xà đơn được mấy cái. Sức mạnh của tôi thì là… thôi không nói về bản thân tôi nữa. Tôi muốn nói về xà kép. Hôm trước khi ở chỗ xà kép tôi nâng được hai lần mỗi lần bảy cái, nhẹ nhàng như chuồn chuồn chạm trên mặt nước vậy, làm hai lần bảy cái, một lần năm cái, hai lần bảy là mười bốn, cộng thêm năm thì là mười chín cái. Mười chín cái, thế nên hôm nay cái vai tôi hơi đau. Tối hôm qua tôi tập xà kép. Nếu bạn thử tập tôi đảm bảo cơ bắp của bạn cũng đau muốn rụng rời luôn. Đây chính là sức mạnh. Vẫn có sự tồn tại những sức mạnh khác, đương nhiên là có! Giống như chúng ta ở trong Biệt Thự Cầu Vồng này, chúng ta đang có rất nhiều sức mạnh tồn tại ở đây. Bất kì nơi nào cũng đều có sức mạnh, có người thì gọi là thần, quang, nhân, điện, những sức mạnh kiểu này đều tồn tại. 🙏 Hỏi: Chúng ta mỗi ngày đều phải dựa vào thế giới vật chất mới có thể sống qua ngày được, xin Sư Tôn từ bi giảng giải cụ thể làm thế nào để thể hội và cảm nhận được sự tồn tại của tính Không? 💡 Đáp: Hãy để cho tâm lượng của bạn rộng lớn như vũ trụ, dùng Tứ vô lượng tâm để thể hội tính Không. 🙏 Hỏi: Ân sư, thực lòng xin lỗi, đệ tử một lòng muốn học về chuông chày kim cương, hôm qua ân sư đã thị phạm, đệ tử chỉ có được một chút ấn tượng, cầu xin Sư Tôn có thể thị phạm lại được không. Xin thứ lỗi cho hành vi vô lễ này, xin ân sư thứ lỗi. (mọi người cười) 💡 Đáp: Lắc một lần, lại lắc một lần nữa. Lần này tôi lắc tương đối chậm một chút để cho mọi người nhìn được kĩ hơn. Được rồi! Nhưng khi bạn lắc chuông, hãy nhớ chuông kim cương và chày kim cương khi chuyển động thì được gọi là chuyển pháp luân, cũng được gọi là Bi Trí song vận. Mỗi lần lắc không nhất định là phải giống nhau, bởi vì bạn biết đấy, khi chúng ta lắc chuông chày kim cương, kì thực chỉ là thực hiện Tức-Tăng-Hoài-Tru, kết giới, gia trì, và thực hiện pháp Đại Bạch Tản Cái. Khi thực hiện những pháp này bạn cần chú ý một chút, chú ý vào chi tiết. Những thứ khác bạn thậm chí có thể biến hóa vi diệu hơn (thị phạm cách lắc). Vốn dĩ là tôi muốn làm thật chậm, kết quả là càng lắc càng nhanh, có vẻ lại rất nhanh rồi. Chủ yếu nhất chỉ có vài việc mà thôi, Tiêu tai - Tăng ích - Kính ái - Hàng phục, kết giới, làm thế này là kết giới. Còn thế này là pháp Đại Bạch Tản Cái. Như thế này là gia trì, gia trì nhanh. Xin cảm ơn mọi người. 30/11/1992.

(Hết)

Mục lục