📑

Năm loại kim cang quyền pháp

Năm loại kim cang quyền pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Trong pháp hội thứ bảy tuần trước, tuy Thánh Tôn đã giải thích thế nào gọi là ba thức kim cang quyền để nâng minh điểm bay qua núi Tu Di, nhưng vẫn có đệ tử phản ứng với Thánh Tôn là không hiểu lắm. Thánh Tôn xét thấy rằng Mật giáo chú trọng tu khí mạch minh điểm của nội tại và mở năm luân xa (mi tâm luân, hầu luân, tâm luân, tề luân, mật luân), tức là trước tiên dùng khí thông trung mạch, sau đó khí đi vào toàn thân, dùng khí khiến cho minh điểm hạ xuống, dùng khí làm cho chuyết hỏa đi lên. Khi hai cái này dừng lại ở tâm luân thì có thể mở tâm luân, nhìn thấy ánh sáng Phật tính màu xanh lam, đây chính là phương pháp tức thân thành Phật của Mật giáo. Nhưng đòi hỏi phối hợp với năm loại kim cang quyền pháp, và khi đến Vô thượng mật thì cũng phải phối hợp với nâng minh điểm bay qua núi Tu Di.

Để các đệ tử có thể hiểu thế nào là nâng, làm sao để mở năm luân xa, Thánh Tôn từ bi đã đích thân thị phạm năm loại kim cang quyền pháp, hà hơi lắc mạnh để mở năm luân xa, và ba thức kim cang quyền để nâng minh điểm bay qua núi Tu Di.

Chú thích 1: Khi làm kim cang quyền pháp ngồi kiết già, mông phải dùng đệm để lót cao lên.

Chú thích 2: Trước khi luyện kim cang quyền pháp, phải làm Cửu tiết Phật phong (ngồi kiết già), khi hít khí và thở khí, dùng hai ngón tay út luân phiên ấn lên hai lỗ mũi trái phải.

  1. Mở mi tâm luân (ngồi kiết già):

Dùng hai tay xoa toàn bộ phần đầu, mặt, cổ và sau gáy, để khí lưu thông đến mặt. Sau đó lần lượt bàn tay trái phải dùng lực để vỗ vào mi tâm luân, lặp lại như vậy nhiều lần.

  1. Mở hầu luân (ngồi kiết già):

Cổ xoay tròn theo chiều kim đồng hồ và ngược chiều kim đồng hồ, để khí ở hầu luân, lặp lại như vậy nhiều lần.

  1. Mở tâm luân (ngồi kiết già):

A. Đầu tiên tay trái duỗi về bên trái (lòng bàn tay hướng về phía trước), bàn tay phải hướng về bên trái, sau khi chạm vào bàn tay trái thì dùng phương thức di động ngang đi qua vai trái, tâm luân, sau đó hướng về bên phải duỗi ra (lòng bàn tay hướng về phía trước). Tiếp đó, tay trái lại hướng về bên phải chạm vào bàn tay phải, dùng phương thức di động ngang đi qua vai phải, tâm luân, cuối cùng tay trái lại duỗi ra về bên trái (lòng bàn tay hướng về phía trước). Như vậy tay phải tay trái đi qua tâm luân thay nhau duỗi ra, lặp lại nhiều lần.

B. Mở tâm luân còn phải làm chống đẩy 30 cái.

  1. Mở tề luân (ngồi kiết già):

A. Khi tay trái chạm vào mặt đất ở phía trước, tay phải đồng thời chạm vào mặt đất ở sau lưng, đầu xoay sang phải, hà khí. Tiếp đó, khi tay phải chạm vào mặt đất ở phía trước, tay trái đồng thời chạm vào mặt đất ở sau lưng, đầu xoay sang trái, hà khí. Tay trái phải cứ thay nhau chuyển động, quay đầu, hà khí như vậy lặp lại nhiều lần.

B. Hai bàn tay đặt ở trước bụng (không chồng lên nhau), xoay tròn bên phải 14 cái, sau đó xoay tròn bên trái 14 cái.

  1. Mở mật luân và mở hải để luân (ngồi kiết già):

Hai tay vỗ lên mặt đất, đồng thời nâng thân thể lên (nhấc lên không), sau đó rơi xuống đệm ngồi, lặp lại như vậy nhiều lần.

  1. Hà hơi lắc mạnh (đứng và nhảy):

Đứng dậy, hai tay hai vai tự do lắc lư về phía trước nhiều lần, hai tay hai vai tự do lắc lư về phía sau nhiều lần. Sau đó hai chân bật nhảy, vừa hà khí, vừa bật nhảy lò cò bằng chân trái chân phải. Lặp lại như vậy nhiều lần, để khí đi đến năm luân xa trên khắp người và các nơi vi tế khác.

  1. Ba thức kim cang quyền nâng minh điểm bay qua núi Tu Di.

A. Tư thế đứng: hai chân mở ra rộng bằng vai, gập bụng, mặt cúi xuống, lòng bàn tay phải úp vào đầu gối trái, lòng bàn tay trái úp vào đầu gối phải. Xoay đầu sang trái nói một tiếng “Hum” dài, sau đó quay đầu sang phải nói một tiếng “Hum” dài. Cuối cùng ngửa đầu lên cúi đầu xuống nói mười lần tiếng “Hum” ngắn, tức là mười tiếng “Hum”ngắn. Tổng cộng bên trái bên phải nói hai tiếng “Hum” dài, ngửa lên cúi xuống nói mười tiếng “Hum” ngắn.

B. Tư thế quỳ: gập bụng, mặt cúi xuống dưới, hai tay vươn ra trước, lòng bàn tay đặt trên mặt đất. Đầu quay sang trái nói một tiếng “Hum” dài, lại quay đầu sang phải nói một tiếng “Hum” dài, cuối cùng ngửa đầu lên trên nói tiếng “Hum” ngắn mười lần, tức là nói mười tiếng “Hum” ngắn. Tổng cộng bên trái bên phải nói hai tiếng “Hum” dài, ngửa lên cúi xuống nói mười tiếng “Hum” ngắn.

C. Tư thế ngồi: gập bụng, mặt cúi xuống, hai tay vươn ra phía trước, lòng bàn tay đặt trên mặt đất. Đầu quay sang trái nói một tiếng “Hum” dài, lại quay đầu sang phải nói một tiếng “Hum” dài, cuối cùng ngẩng đầu lên nói tiếng “Hum” ngắn mười lần, tức là mười tiếng “Hum” ngắn. Tổng cộng bên trái bên phải nói hai tiếng “Hum” dài, ngửa lên cúi xuống nói mười tiếng “Hum” ngắn.

Khi Thánh Tôn đích thân thị phạm và giải thích kim cang quyền pháp, các đệ tử đều chăm chú nhìn, chăm chú quan sát mỗi một động tác và điểm quan trọng của Thánh Tôn, giống như có được báu vật vô giá, không ngớt vui mừng.

Sau khi kết thúc thị phạm kim cang quyền pháp, Thánh Tôn còn nói rõ năm loại kim cang quyền pháp này có thể khiến minh điểm ở mi tâm luân giáng xuống, đến được hầu luân, tâm luân, tề luân, mật luân. Cũng có thể dùng pháp nâng của ba thức kim cang quyền phía sau để nâng minh điểm từ cột sống đi lên, cho đến khi lên đến mi tâm. Làm lâu ngày tựu nhiên sẽ sinh ra cảm nhận tốt, toàn thân sẽ nhẹ nhõm và không gặp phải vấn đề đau nhức. Cho nên người học Mật pháp phải hiểu kim cang quyền, phải dùng cách hà hơi lắc người để khiến thân thể rung lắc về phía trước, về phía sau, thậm chí toàn thân rung lắc mạnh, và phải mở miệng ra liên tục hà khí “hà, hà, hà” mới có thể khiến cho khí chạy khắp toàn thân, để biến hành khí tràn đầy, đây chính là “biến” trong Đạo Quả.

Thánh Tôn còn nói với mọi người, có một số người có vấn đề đau nhức, đó là bởi vì mạch không thông, khí tắc nghẽn nên mới bị đau, chỉ cần khí thông, mạch thông, hỏa cũng thông thì sẽ không bị đau nữa. Cho nên, khi bị đau ở chỗ nào thì dùng ý niệm vận khí đến chỗ đau nhức, khí chạy qua vài lần, để khí chạy khắp toàn thân, chỗ đau nhức sẽ khỏi, thân thể sẽ kiện khang. Quan trọng nhất là phải mở năm luân xa.