📜

Thích Ca Mâu Ni Phật niệm tụng pháp

image

Thích Ca Mâu Ni Phật bổn tôn niệm tụng pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mở đầu:

  • Quán Không.
  • Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì đồng tu.
  • Quán tứ vô lượng tâm.
  • Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.

Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:

Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.

Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh

Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)

Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.

Phần 3: Đại lễ bái

Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)

Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.

Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.

Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng

Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 4: Đại cúng dường

Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.

Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tát cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Đọc bài kệ cúng dường:

Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.

Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.

Phần 5: Tứ quy y

Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.

Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 6: Bia giáp hộ thân

Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.

Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.

Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.

Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)

Phần 8: Niệm chú vãng sinh: (7 biến)

Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.

Phần 9: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư

Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)

Phần 10: Kết ấn và Quán tưởng tam quang bao trùm

image

Kết ấn: Thủ ấn Thích Ca Mâu Ni Phật

  1. Nội tam sơn ấn: hai tay chắp lại, ngón cái, ngón giữa, ngón út dựng thẳng chạm vào nhau, ngón trỏ và ngón áp út cong vào bên trong lòng bàn tay.
  2. Ngoại phộc tam sơn ấn: hai tay đan ngoại phộc, ngón cái, ngón giữa, ngón út dựng thẳng chạm vào nhau.

Quán tưởng:

Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Ho (tiếng Phạn hoặc Tạng) màu vàng kim tỏa sáng mạnh mẽ.

(2) Chữ Ho ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành Thích Ca Mâu Ni Phật. Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật thuần màu vàng kim, tay phải chạm xuống đất, tay trái kết định ấn, ở trên ấn nâng một cái bát đựng đầy cam lộ (hoặc hai tay cùng nâng bát cam lộ), trên thân mặc tam y của người xuất gia, tướng mạo trang nghiêm viên mãn, quang minh trong trẻo lấp lánh, thân thể giống như ngọc lưu li, ngồi trên tòa hoa sen trắng nhập định trong ánh sáng cát tường.

(3) Thiên tâm của Thích Ca Mâu Ni Phật phóng ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Vị trí họng của ngài phóng ra một đường ánh sáng đỏ, chiếu thẳng đến họng của hành giả. Tâm luân của ngài phóng ra một đường ánh sáng xanh lam, chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Ba ánh sáng trắng, đỏ, lam hòa tan vào trong thân tâm của hành giả.

(4) Quán tưởng nước trong bình cam lộ hóa thành một đường ánh sáng trắng, bay lên không trung, đi thành đường cong chiếu xuống chỗ hành giả đang ngồi im, ánh sáng trắng từ đỉnh đầu đi xuống, hành giả tọa định trong vùng ánh sáng trắng.

Phần 11: Trì tâm chú Thích Ca Mâu Ni Phật

Cầm chuỗi hạt quán tưởng:

(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Thích Ca Mâu Ni Phật đến trước mặt mình.

Chú ngữ:

Ôm mô-ni mô-ni ma-ha mô-ni sê-kya-mô-ni sô-ha. (108 biến)

Phần 12: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa

Cửu tiết Phật phong:

(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).

Quán tưởng Nhập ngã:

(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Ho), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.

Quán tưởng Ngã nhập:

Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.

Quán đếm hơi thở:

Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.

(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 13: Xuất định

Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.

Phần 14: Trì thêm những tâm chú khác

Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật)

Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát)

Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát)

Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu)

Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần)

Ôm ah hùm ben-za gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ)

Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lián-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử)

Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)

Phần 15: Niệm Phật

Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Phần 16: Tụng bách tự minh chú:

Ôm ben-za sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya ben-za sa-tô tê-nô-pa ti-cha Chê-chô mê-pa-wa su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-ơ-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-ơ-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-ân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ pan-ga-guân Sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta ben-za ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya sa-to ah hùm pây. (3 biến)

Phần 17: Hồi hướng

Gia trì tu pháp đạt thành tựu Trăm bệnh tiêu trừ phúc huệ tăng Mong cùng Bổn tôn hợp làm một Chúng sinh thế giới được an vui.

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

Đệ tử …….. xin đem công đức này hồi hướng. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!

(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 18: Đại lễ bái

(Giống đại lễ bái ở phần 3.)

Phần 19: Niệm chú viên mãn

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

image

Giới thiệu pháp tướng Thích Ca Mâu Ni Phật

Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật thuần màu vàng kim, tay phải chạm xuống đất, tay trái kết định ấn, ở trên ấn nâng một cái bát đựng đầy cam lộ (hoặc hai tay cùng nâng bát cam lộ), trên thân mặc tam y của người xuất gia, tướng mạo trang nghiêm viên mãn, quang minh trong trẻo lấp lánh, thân thể giống như ngọc lưu li, ngồi trên tòa hoa sen trắng nhập định trong ánh sáng cát tường.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị lai lịch thù thắng của Thích Ca Mâu Ni Phật

Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo chủ Phật giáo, Thích Ca là họ của ngài, chính là tên của một gia tộc - tộc Thích Ca. Hai chữ Mâu Ni chính là “năng nhân”, nghĩa là có thể làm một vị Thánh giả nhân từ trên thế gian thiên thượng nhân gian, ý nghĩa là một Thánh giả sinh ra trong gia tộc Thích Ca.

Bất kể là Hiển giáo hay Mật giáo đều tôn sùng Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Ca Mâu Ni Phật trong hai bộ mandala của Mật giáo, Thai tạng giới lấy Thích Ca Mâu Ni Phật làm chủ tôn, trong Kim cương giới thì đứng cùng với Bất Không Thành Tựu Phật. Theo như kinh Đại Nhật viết: “Thích Ca Mâu Ni toàn thân hiện màu vàng kim, có đầy đủ sự rực rỡ của 32 tướng, khoác áo cà sa màu vàng sậm, ngồi trên hoa sen trắng, ứng thân thuyết pháp.”

Thích Ca Mâu Ni Phật có tên gọi trong nhà là Siddhartha Gautama, đản sinh ngày 8/4 bên dưới câu Vô Ưu tại khu vườn Lumbini. Là châu Diêm Phù Đề, nước Ca Tì La Vệ, gia tộc Thích Ca, phụ thân là vua Tịnh Phạn, mẫu thân là vương hậu Maya, 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo, thuyết pháp khoảng 45 năm, hơn 300 pháp hội giảng kinh, thiên nhân mà ngài đã độ là không thể tính đếm. Khoảng vào năm 543 trước Công Nguyên, ở dưới hai cây sala bên bờ sông Bạt Đề, ngài đã viên tịch nhập diệt, thọ 80 tuổi.

Thích Ca Mâu Ni Phật đầu tiên đã độ hóa năm tì kheo Kiều Trần Như, sau đó độ Tam Ca Diếp và rất nhiều Quốc vương và đệ tử khác. Ngài thường đi đi lại lại giữa các nước Ma Yết Đà, nước Kiêu Tát La, nước Tì Xá Li để thuyết pháp.

Câu chú của Thích Ca Mâu Ni Phật là “Om muni muni mahamuni sakyamuni soha.” Ý nghĩa chính là “Năng nhân, có thể thực hành nhân từ lớn nhất, thánh giả.”

Những giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật vô cùng vĩ đại, đối với Tiểu Thừa, vào lần chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Uyển, ngài đã dạy khổ-tập-diệt-đạo, khổ-tập-diệt-đạo chính là tứ Thánh đế của Tiểu thừa.

Ý nghĩa của khổ-tập-diệt-đạo là sống trên đời có rất nhiều phiền não, rất nhiều đau khổ. Niềm vui cũng có nhưng không nhiều. Trên thế giới này, cuối cùng đều quy về diệt, nghĩa là đều sẽ tiêu tan. Đến khi diệt rồi, trước lúc bạn tiêu tan đi, bạn đã giác ngộ được diệt, vào lúc đó, bạn mới có thể chứng ngộ đạo lí của Phật.

Vì thế trên đời không có niềm vui chân chính. Nói chung, niềm vui đều rất ngắn ngủi, khổ thì tương đối nhiều.

Bạn thu gom toàn bộ khổ lại, cuối cùng là không khổ không lạc, tức là diệt rồi, không còn nữa, khi ấy bạn mới có thể chứng đạo. Đây chính là khổ-tập-diệt-đạo mà đã thuyết pháp cho Tiểu thừa trong lần chuyển pháp luân đầu tiên.

Lần chuyển pháp luân thứ hai, Thích Tôn đã dạy Bát nhã thừa - Ma ha bát nhã ba la mật đa thừa, đây cũng là pháp mà Thích Ca Mâu Ni Phật dạy, chính là lục độ vạn hành. Bạn làm một Bồ Tát, một người phải lợi tha, một người phải hoán đổi mình với người khác, một người phải bình đẳng, phát bồ đề tâm cứu độ chúng sinh, đây chính là Ma ha bát nhã ba la mật đa thừa, chính là Bồ Tát thừa.

Muốn trở thành một Bồ Tát, bạn phải dùng pháp lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, tinh tấn, trí huệ để độ hóa chúng sinh. Đây chính là Bồ Tát thừa mà Thích Ca Mâu Ni Phật giảng. Bồ Tát thừa lấy việc phát bồ đề tâm làm chủ, bồ đề tâm còn được gọi là bình đẳng, chúng sinh đều bình đẳng. Sư Tôn và mọi người đều bình đẳng, bất kì người nào cũng có Phật tính.

Lợi tha, là không nghĩ cho bản thân, mà nghĩ cho chúng sinh, nghĩ cho người khác, tức là lợi tha.

Hoán đổi mình với người khác chính là điều mà Khổng Tử nói: “Điều mình không muốn thì đừng làm với người khác.” Bạn có sẵn lòng bị người ta phỉ báng không? Không sẵn lòng. Vậy thì bạn đừng phỉ báng người khác, làm trái điều này thì không phải là Phật pháp. Thứ mà bản thân không muốn thì đừng cho người khác, đừng thêm vào người khác, khiến người ta đau khổ thêm.

Tôi đã từng nói phải biết tri ân, tri ân của cha mẹ. Bạn làm sao mà lớn lên, không có cha mẹ bạn có thể trưởng thành không? Không thể nào, không thể. Cha mẹ sinh ra ta, cha mẹ giáo dục ta, thậm chí là người nuôi nấng bạn, mặc dù không phải là cha mẹ, nhưng cũng không khác gì cha mẹ. Cho nên phải biết tri ân đó! Phải biết cảm niệm cái ơn này! Đến cuối cùng phải báo ơn, đây chính là đạo lí mà bản thân Đức Phật đã giảng.

Thích Tôn cũng trong thời gian này đã dạy về duyên giác, tất cả chân lí giác ngộ thế gian, có pháp 12 nhân duyên, khi đắc đạo thì được gọi là Duyên Giác. Đây cũng là điều Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy.

Sự vĩ đại của Phật, ba lần ngài chuyển pháp luân, lần chuyển cuối cùng chính là thuộc về Bí mật thừa, ngài dạy bạn thành Phật, dạy bạn minh tâm, dạy bạn kiến tính. Đây đều là do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng, chỗ vĩ đại của ngài chính là ở đây. Có ba trọng điểm, trọng điểm thứ nhất là xuất li tâm, quan trọng nhất. Rõ ràng bạn biết rằng thế giới Ta Bà rất khổ, có theo đuổi cái gì cũng đều không có tác dụng, đều không có được, vô sở đắc, trong Tâm Kinh đã nói rồi, “dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa”. Bởi vì bạn không có được cái gì nên mới trở thành một Bồ Tát.

Thích Ca Mâu Ni Phật giảng như vậy, lẽ nào bạn không biết thế gian này là vô sở đắc sao? Cái gì cũng đều không có được sao? Bởi vì bạn vô sở đắc, nên khi bạn biết là vô sở đắc rồi, bạn mới có thể đốn ngộ, trở thành Bồ Tát lợi tha chân chính.

Vì thế mọi người cũng đừng tranh tới tranh lui, trên thế gian có những chuyện thị phi, đều là vì hai chữ đấu và tranh. Nếu có tâm bình đẳng, tâm lợi tha, hoán đổi mình với người khác, đến cuối cùng, khi bạn đã hiểu tất cả mọi thứ của thế gian, vì vô sở đắc, bạn sẽ hiểu thế gian, bạn sẽ có thể đốn siêu và trở thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng như vậy.

Người xuất gia ngày nay, bởi vì đã vứt bỏ ngôi nhà thế tục, cho nên cũng có nghĩa là đã đi vào ngôi nhà của Pháp Vương, vứt bỏ đi họ tên thế tục, trở thành mang họ Thích Tôn. Điều này do pháp sư Đạo An thời Tấn đề xướng. Kinh A Hàm cũng nói thế này: “Bốn sông đổ vào biển, không còn gọi là sông nữa, bốn họ xuất gia, đều xưng họ là Thích.” Đây chính là nguyên nhân mà đệ tử của Phật Thích Ca đều đổi tên lấy họ Thích.

Có rất nhiều người xuất gia và đệ tử Phật môn biết rất nhiều phương pháp tiêu nghiệp chướng. Nhưng họ không biết chân ngôn của Thích Ca Mâu Ni Phật lại là đại bí mật để tiêu trừ nghiệp tội cực nặng. Đại bộ phận đệ tử chỉ biết Phật pháp mà giáo chủ Phật giáo tại thế đã truyền được kết tập trong Tam Tạng Thập Nhị Bộ, là kho tàng văn hóa quý báu của phương đông, nhưng lại không biét có đại bí mật.

Trong pháp Yết Ma tiếng Pali, cho biết, Thích Ca Mâu Ni Phật vốn là một vị Công đức vương Bạc Già Phạm ứng chính đẳng giác, cũng chính là giáo chủ của thế giới Ta Bà, trong Mật pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật rốt cục lại là Bổn tôn sám hối tội chướng tiêu nghiệp chướng.

Người tu trì pháp Thích Ca Mâu Ni Công Đức Vương chẳng bao lâu sẽ có thể có được túc mệnh thông, tiền kiếp của mình sẽ lần lượt như ở ngay trước mắt, giống như xem phim vậy, trong chốc lát đã hiểu rõ nhân quả đời trước, nhờ có tu pháp này mà nghiệp kiếp trước của chính mình đều sẽ rõ mồn một.

Trọng điểm của pháp này nằm ở hào quang màu trắng của nước cam lộ, tương đương với quán đảnh của Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng ý nghĩa tối thượng của Phật quả, từ đỉnh đầu đi vào trong thân của hành giả, ý nghĩa là có thể khiến cho công đức biến thành đại viên mãn. Đây đương nhiên là mật pháp tiêu nghiệp chướng lớn nhất.

image

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!