📜

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm niệm tụng pháp

image

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm niệm tụng pháp

Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mở đầu:

  • Quán Không.
  • Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì đồng tu.
  • Quán tứ vô lượng tâm.
  • Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.

Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:

Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.

Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh

Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)

Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.

Phần 3: Đại lễ bái

Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)

Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.

Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.

Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)

Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng

Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 4: Đại cúng dường

Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.

Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tát cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.

(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Đọc bài kệ cúng dường:

Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.

Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.

Phần 5: Tứ quy y

Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.

Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.

(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 6: Bia giáp hộ thân

Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.

Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.

Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.

Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)

Phần 8: Niệm thêm chú vãng sinh

Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha. (7 biến)

Phần 9: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư

Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)

Phần 10: Kết ấn và Quán tưởng

image

Kết ấn:

Hai tay chắp lại, ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út đan vào nhau, ngón cái và ngón út tách ra.

Quán tưởng:

Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, một vầng mặt trăng từ dưới biển nhô lên không trung, ở chính giữa vầng mặt trăng có một chủng tự chữ Seh (tiếng Phạn hoặc Tạng) màu trắng phóng ra ánh sáng trắng.

(2) Chữ Seh ở giữa vầng mặt trăng quay tròn hóa thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Quán tưởng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có mười khuôn mặt, ba khuôn mặt ở phía trước là mặt Bồ Tát, ba khuôn mặt bên trái là mặt phẫn nộ, ba khuôn mặt bên phải là vừa mặt Bồ Tát vừa mặt quỷ, mặt phía sau là khuôn mặt cười lớn dữ dội, trên cao nhất là một khuôn mặt Phật. Ở đây đại diện cho ngũ bộ, cao nhất là Phật bộ, phía trước đại diện cho Bảo bộ, Bồ Tát kiêm quỷ đại diện cho Liên Hoa bộ, phẫn nộ đại diện cho Kim cương bộ, cười lớn dữ dội đại diện cho Yết Ma bộ.

(3) Thiên tâm của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát phóng ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Họng ngài phóng ra một đường ánh sáng đỏ, chiếu thẳng đến họng của hành giả. Tâm luân của ngài phóng ra một đường ánh sáng lam, chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Ba đường ánh sáng trắng, đỏ, lam hòa nhập vào thân tâm của hành giả.

(4) Quán tưởng tay của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát cầm những pháp khí sau, tu năm bộ Mật pháp: tức tai, hoặc hàng phục, hoặc tăng ích, hoặc kính ái, hoặc triệu tập:

  1. Như Lai tức tai pháp: hóa Phật, bạch Phật, dương liễu, kích sáo, thí vô úy, v.v…
  2. Kim cương hàng phục pháp: kim luân, bảo điện, bảo kiếm, chày kim cương, bảo bát, v.v…
  3. Bảo bộ tăng ích pháp: ngọc như ý, bảo kinh, hoa sen xanh, bảo cung, hoa sen trắng, v.v…
  4. Liên hoa kính ái pháp: chắp tay liên hoa, bảo ấn, bảo gương, vòng ngọc, hoa sen đỏ, v.v…
  5. Yết ma câu triệu pháp: bảo tiễn, mây ngũ sắc, tràng hạt, móc sắt, pháp loa, v.v…

Bình thường tu 5 pháp tức tai, hàng phục, tăng ích, kính ái, triệu tập chỉ cần quán tưởng tay Bồ Tát cầm các pháp khí như trên. (Bí mật trong bí mật.)

Phần 11: Trì tâm chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát

Cầm chuỗi hạt quán tưởng:

(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát đến trước mặt mình.

Chú ngữ:

Tâm chú: Ôm wa-zư-la đa-mô sê. (108 biến) Chú ngắn: Na-mô sa-man-tô mu-thua-nam wa-zư-la đa-mô sê. (108 biến) Chú dài: Chú Đại Bi.

Phần 12: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa

Cửu tiết Phật phong:

(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).

Quán tưởng Nhập ngã:

(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Seh), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.

Quán tưởng Ngã nhập:

Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Bổn tôn Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.

Quán đếm hơi thở:

Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.

(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 13: Xuất định, Tụng tán

Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.

Tụng tán:

Quan Âm Bồ Tát viên mãn nhất Tâm cực từ bi lệ ròng ròng Nghìn tay mật pháp rất hiệu nghiệm Độ sinh nhiều nhất nghìn vạn năm.

Phần 14: Trì thêm những tâm chú khác

(Mỗi câu chú trì một lần, không cần kết thủ ấn, chắp tay là được.)

Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)

Phần 15: Niệm Phật

Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)

Phần 16: Tụng bách tự minh chú:

Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây. (3 biến)

Phần 17: Hồi hướng

Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.

Đệ tử …….. xin đem công đức này hồi hướng. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!

(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)

Phần 18: Đại lễ bái

(Giống đại lễ bái ở phần 3.)

Phần 19: Niệm chú viên mãn

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

image

Giới thiệu pháp tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát:

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có mười khuôn mặt, ba khuôn mặt ở phía trước là mặt Bồ Tát, ba khuôn mặt bên trái là mặt phẫn nộ, ba khuôn mặt bên phải là vừa mặt Bồ Tát vừa mặt quỷ, mặt phía sau là khuôn mặt cười lớn dữ dội, trên cao nhất là một khuôn mặt Phật. Đó là đại diện cho ngũ bộ, cao nhất là Phật bộ, phía trước đại diện cho Bảo bộ, Bồ Tát kiêm quỷ đại diện cho Liên Hoa bộ, phẫn nộ đại diện cho Kim cương bộ, cười lớn dữ dội đại diện cho Yết Ma bộ.

Liên Sinh Hoạt Phật khai thị về lai lịch Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát và khẩu quyết tu pháp:

Nguồn gốc của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát:

Ngày xưa, Quan Thế Âm Bồ Tát phát lời thề nguyện quảng đại. Có một ngày, Bồ Tát phát hiện ra, mặc dù ngài đã độ vô tận chúng sinh, nhưng chúng sinh không thấy giảm bớt, căn bản là không tăng không giảm. Bồ Tát tinh tấn nỗ lực như vậy mà độ chúng sinh không hết, ngài tức giận và dần dần mất đi đạo tâm, trở nên lơ là. Vì ngài đã phá bỏ lời thề, cho nên đầu bị vỡ thành mười mảnh, thân bị vỡ nát thành những mảnh vụn.

Lúc này, Căn bản Thượng sư của Quan Thế Âm Bồ Tát là A Di Đà Phật dùng pháp lực của Phật để nhập vào Bồ Tát tam muội địa, biến hóa ra Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát.

Đầu của A Di Đà Phật cộng thêm vào 10 mảnh đầu vỡ, trở thành 11 cái đầu, tượng trưng cho đẳng giác của 11 địa, ở cao nhất là A Di Đà Phật. Rồi Phật lại biến những mảnh vỡ của thân thể lần lượt thành nghìn cánh tay, nghìn con mắt, hình thành nên nghìn tay nghìn mắt. Câu chú nổi tiếng nhất của vị Bồ Tát này là chú Đại Bi (ứng nghiệm phi phàm).

“Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni” là chú mà nghìn vị Phật cùng niệm, uy lực vô cùng lớn, có thể thành tựu Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát, là quả của Phật, có thể khiến người niệm tụng đạt được an lạc, trừ bệnh, trường thọ, sung túc, tránh xa tai nạn, tất cả đều không sợ hãi, tu hành thành tựu, v.v…

Tương ứng với Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát rồi còn có thể đắc quang minh, từ bi, có đại pháp lực, Và nghìn cánh tay đại diện cho nghìn loại diệu pháp. Nếu có thể thiền định thì sống lâu vĩnh viễn, đắc được giải thoát, có công đức và thành tựu vô lượng rất lớn. Trong tất cả các vị Bồ Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là Bồ Tát ở địa 11, chính là Diệu giác, chính là Phật, về cơ bản ngài chính là Chính Pháp Minh Như Lai.

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát chính là hợp thể của A Di Đà Phật và Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng là tượng trưng ngài có rất nhiều phương pháp cứu độ chúng sinh, cũng tượng trưng cho ý nghĩa là sức mạnh, pháp lực của bản thân ngài là vô lượng vô biên. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là vị nằm trong số mọi vị Quan Thế Âm Bồ Tát, là vị có sức mạnh nhất, có POWER lớn nhất. Bất kể là vị Quan Thế Âm Bồ Tát nào thì cũng đều là Liên Hoa Đồng Tử.

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát dùng nghìn con mắt quán chiếu, nghìn cánh tay hộ trì, có thể tiêu tai, hàng phục, tăng ích, kính ái, gia tăng trí huệ. Nước chú Đại Bi có thể chữa bệnh, có thể tiếp dẫn chúng sinh vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới, vì thế nói ra thì có lẽ vị Bồ Tát này là Bồ Tát vĩ đại nhất.

Khẩu quyết tu pháp:

Trọng điểm của tu pháp nằm ở chỗ: sau khi hành giả Mật tông và Bổn tôn hợp nhất thì tay cầm pháp khi để làm pháp. Cần quán tưởng việc mà mình muốn giải quyết, nhờ pháp khí của hành giả phóng quang, chạm vào người đó, hoặc là sự việc đó, như vậy mới có thể muốn gì được nấy, khiến tất cả đều như ý viên mãn.

Liên Sinh Hoạt Phật đặc biệt truyền thụ bí mật trong bí mật của tu trì pháp này. Tu 5 pháp: tiêu tai, hàng phục, tăng ích, kính ái, triệu tập. Chỉ cần khi quán tưởng thì quán tưởng tay Bồ Tát cầm những pháp khí như trên. Chỉ cần được quán đảnh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là có thể tu 5 bộ Mật pháp nói trên.

Ví dụ: nhân viên hoằng pháp, nhân vật chính trị, nghệ sĩ có thể dùng pháp đại câu triệu, pháp tiểu câu triệu, là có thể móc nối tâm mình với người khác. Câu triệu cũng có thể tăng ích, triệu tập sự nghiệp viên mãn. Vì thế có pháp đại, trung, tiểu câu triệu, cũng giống với pháp câu triệu của Kurukulle Phật Mẫu.

Tu Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có nhiều lợi ích:

1. Quảng đại viên mãn.

2. Vô ngại đại bi.

3. Cứu khổ cứu nạn.

4. Khỏe mạnh sống lâu.

5. Loại bỏ đam mê xấu.

6. Kéo dài thọ mệnh.

7. Thỏa mãn ước nguyện của chúng sinh.

8. Tùy tâm tự tại.

9. Phá trừ ác nghiệp.

10. Nhanh chóng vượt lên các địa cao hơn.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai thị nguồn gốc của kinh luân quay:

Có một hôm, Quan Thế Âm Bồ Tát xuất hiện nói với Long Thọ Bồ Tát rằng, ở long cung, Long Tôn Vương Phật có một cái kinh luân quay, bất kì chúng sinh nào chỉ cần nghe thấy, nhìn thấy, nghĩ đến, chạm vào, là có thể giải thoát, rời xa tam ác đạo. Nếu như Bồ Tát có được kinh luân quay này thì có thể lợi ích chúng sinh.

Thế là Long Thọ Bồ Tát đến long cung thỉnh cầu Long Tôn Vương Phật, Long Tôn Vương Phật nói kinh luân quay này là do Phật Nhiên Đăng tặng, có uy lực rất lớn có thể bảo vệ được các long cung… Cuối cùng, Long Tôn Vương Phật đã tặng kinh luân quay này cho Long Thọ Bồ Tát, và Long Thọ Bồ Tát lại tặng cho Sư Diện Không Hành Mẫu. Sư Diện Không Hành Mẫu đem kinh luân quay đến Tây Tạng, vì thế chùa miếu khắp nơi ở Tây Tạng đều có kinh luân quay.

Trong kinh Bảo Khiếp cũng có nhắc đến, kinh luân chuyển động có đại thần lực, có thể tiêu nghiệp, hàng phục ma nạn, bệnh tật, thiên tai, tù ngục, đao binh, oan địch… Quay một lần tương dương với niệm chú vô số vạn triệu biến, công đức ấy là bất khả tư nghì, rồng trời hộ pháp bảo vệ, tội chướng tiêu trừ,… Vì thế, lời ích của kinh luân quay là vô cùng lớn.

Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!

Mục lục