Tổ sư Tsongkhapa niệm tụng pháp
Giảng pháp: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Thời gian: N/A Địa điểm: N/A Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!
Mở đầu:
- Quán Không.
- Quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư trụ tại đỉnh đầu phóng quang gia trì. Trì 7 biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, thỉnh cầu tu pháp viên mãn.
- Quán tứ vô lượng tâm:
Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm.
Quán tưởng bên tay phải của hành giả là những người thân phụ hệ, bên tay trái là những người thân mẫu hệ, sau lưng có ân nhân, sư trưởng, bạn bè thân hữu, trước mặt có oan thân trái chủ, xung quanh có lục đạo chúng sinh quây vòng quanh, tất cả cùng tu Mật pháp, cùng thành tựu Phật đạo.
- Làm thủ ấn đánh thức: vỗ tay 2 lần, bắt chéo hai tay, búng ngón tay.
Phần 1: Niệm chú thanh tịnh:
Tịnh khẩu: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha. Tịnh ý: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm. An Thổ Địa chân ngôn: Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha.
Phần 2: Niệm chú triệu thỉnh
Ôm ah hùm sô-ha. (3 biến)
Phụng thỉnh: Nam mô Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Hoa Quang Tự Tại Phật. Nam mô Chân Phật Tông lịch đại truyền thừa tổ sư. Nam mô Tổ sư Tsongkhapa. (Các phân đường ở các địa phương có thể chiếu theo các vị Phật, Bồ Tát, Kim Cương Hộ Pháp được thờ phụng tại đàn thành của mình mà lần lượt phụng thỉnh.) Nam mô đại ân Chân Phật Tông căn bản lịch đại tổ sư, nguyện mọi chúng sinh được an lạc. Nam mô Ngũ Phật Bổn tôn và đàn thành, nguyện mọi chúng sinh thoát mọi khổ. Nam mô thập phương tam thế tất cả chư Phật, nguyện mọi chúng sinh luôn từ bi và vui vẻ. Nam mô Tam Tạng thập nhị bộ chính pháp, nguyện mọi chúng sinh buông bỏ tâm phân biệt. Nam mô thập phương tam thế tất cả Thánh - Hiền - Tăng, nguyện mọi chúng sinh đắc chính giác. Nam mô Chính Giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Tôn giả, nguyện con và lục đạo chúng sinh trong sát-na đốn ngộ chứng vô thượng giác, tiếp tục quy về Liên Sinh Phật địa.
Phần 3: Đại lễ bái
Một: bái Căn bản Truyền thừa Thượng sư và thập phương tam thế tất cả chư Phật - kết thủ ấn Phật Kham (tháp Phật)
Quán tưởng ở phía trên trước mặt mình có Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên, xuất hiện như muôn nghìn vì sao lấp lánh đầy khắp hư không.
Dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm (vị trí giữa hai lông mày), quán tưởng thiên tâm của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng trắng đi vào thiên tâm của chính mình. Dùng thủ ấn chạm vào họng, quán tưởng vị trí họng của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng đỏ đi vào họng của mình. Dùng thủ ấn chạm vào tâm luân, quán tưởng tâm luân của Căn bản Truyền thừa Thượng sư phóng ra một vệt ánh sáng lam đi vào tâm luân của hành giả. Lại dùng thủ ấn chạm vào thiên tâm, giải ấn. Quán tưởng thân thể của mình nằm trên mặt đất để lạy hết Căn bản Truyền thừa Thượng sư và chư Phật mười phương.
Hai: bái chư Bồ Tát - kết thủ ấn Liên Hoa (hoa sen)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ba: bái Hộ Pháp Kim Cương - kết thủ ấn Tam Xoa Xử (chày ba chấu)
Cũng quán tưởng như trên. Cách dùng thủ ấn cũng giống như trên. Lạy hết tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
Bốn: khấu đầu - thủ ấn bình đẳng
Dùng thủ ấn cúi lạy một cái, rồi chạm vào thiên tâm giải ấn.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại lễ bái, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 4: Đại cúng dường
Kết ấn cúng dường: hai ngón áp út giơ thẳng. Hai ngón giữa đan chéo nhau. Hai ngón út đan chéo nhau. Hai ngón trỏ móc và đè hai ngón giữa xuống. Hai ngón cái đè lên hai ngón út. Kết ấn đặt trước ngực. Sau khi quán tưởng xong thì chạm vào thiên tâm giải ấn.
Quán tưởng cúng dường như sau: quán tưởng cúng phẩm ở trước đàn thành biến hóa thành hàng ngang, sau đó lại biến thành một mặt phẳng, nhiều vô lượng vô biên. Sau đó lại biến thành đầy ắp hư không vũ trụ. Thành tâm cúng dường toàn bộ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, lịch đại truyền thừa tổ sư, tám đại Bổn tôn, thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Hộ Pháp Kim Cương, Hộ Pháp Long Thiên.
(Quán tưởng chi tiết có liên quan đến đại cúng dường, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Đọc bài kệ cúng dường:
Tu Di tứ châu cùng nhật nguyệt Hóa mọi trân bảo cúng dường Phật Trân quý kì diệu bao công đức Tiêu nghiệp cấp tốc chứng bồ đề.
Niệm chú cúng dường: Ôm sa-ơ-wa ta-tha-ga-ta i-ta-mu gu-ru na-na mên-ta-la kham ni-ri-yê ta-ya-mi.
Phần 5: Tứ quy y
Quán tưởng quán đảnh: quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tổ sư truyền thừa các đời, tất cả chư Phật, pháp bảo, tăng bảo, kết hợp lại thành ánh sáng trắng lớn quán đảnh cho hành giả.
Niệm chú tứ quy y: (3 biến) Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.
(Khai thị có liên quan đến quy y và sức mạnh nương dựa duy nhất vào dòng truyền thừa, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 6: Bia giáp hộ thân
Kết thủ ấn Tam Xoa Xử, đặt thủ ấn trước trán. Niệm chú: Ôm bua-rưa lan chưa-li. (7 biến) Quán tưởng phòng hộ: quán tưởng Hộ Pháp, Kim Cương thờ phụng tại đàn thành biến hóa thành bốn vị, ở trước mặt, sau lưng, hai bên trái phải để bảo vệ cho hành giả. Dùng thủ ấn chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, sau đó chạm vào thiên tâm giải ấn.
Phần 7: Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Phật. Nam mô Pháp. Nam mô Tăng. Phật quốc hữu duyên. Phật pháp tương nhân. Thường lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật pháp.
Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị đại minh chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô thượng chú. Nam mô Ma ha bát nhã ba la mật. Thị vô đẳng đẳng chú.
Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá khứ - thất Phật. Vị lai hiền kiếp - thiên Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. Định Quang Phật.
Lục phương lục Phật danh hiệu: Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyện Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng phương Vô Số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Súc Phật. Di Đà Phật.
Trung ương nhất thiết chúng sinh. Tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ư địa thượng. Cập tại hư không trung. Từ ưu ư nhất thiết chúng sinh. Các lệnh an ổn hưu tức. Trú dạ tu trì. Tâm thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ. Tiêu trừ chư độc hại.
Nam mô Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ Tát. Phổ Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ Tát.
Niệm niệm tụng thử kinh. Thất Phật Thế Tôn. Tức thuyết chú viết: “Li-pô, li-pô-tê, ki-ô, ki-ô-tê, tô-luô-ni-tê, ni-a-la-tê, pi-li-ni-tê, mua-hưa-cha-tê, chân-linh, chiên-tê, sô-ha”. (7 biến)
Thập phương Quan Thế Âm. Nhất thiết chư Bồ Tát. Thệ nguyện cứu chúng sinh. Xưng danh tất giải thoát. Nhược hữu trí tuệ giả. Ân cần vị giải thuyết. Đãn thị hữu nhân duyên. Độc tụng khẩu bất xuyết. Tụng kinh mãn thiên biến. Niệm niệm tâm bất tuyệt. Hỏa diễm bất năng thương. Đao binh lập tồi chiết. Khuể nộ sinh hoan hỉ. Tử giả biến thành hoạt. Mạc ngôn thử thị hư. Chư Phật bất vọng thuyết. Cao Vương Quan Thế Âm. Năng cứu chư khổ ách. Lâm nguy cấp nan trung. Tử giả biến thành hoạt. Chư Phật ngữ bất hư. Thị cố ưng đính lễ. Trì tụng mãn thiên biến. Trọng tội giai tiêu diệt. Hậu phúc kiên tín giả. Chuyên công thọ trì kinh.
Nguyện dĩ thử công đức. Phổ cập ư nhất thiết. Tụng mãn nhất thiên biến. Trọng tội giai tiêu diệt.
Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh (chung)!
Phần 8: Niệm chú vãng sinh: (7 biến)
(Tay kết ấn Đại hải siêu độ.)
Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê Tô-tây-ya-tha A-mi-ni-tô pô-pi A-mi-ni-tô si-tam pô-pi A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô Ka-mi-ni ka-ka-na Chê-tô ka-ni sô-ha.
Phần 9: Niệm kệ Tứ vô lượng tâm
Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, là từ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là bi vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, là hỉ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng, là xả vô lượng.
Phần 10: Phát bồ đề tâm
Đọc văn phát bồ đề tâm:
Đệ tử Liên Hoa ……. kể từ khi quy y Căn bản Thượng sư, Tam Bảo, hướng thẳng đến bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Mọi điều thiện lớn nhỏ đều hồi hướng cho chúng sinh mau chóng thành Phật đạo.
Niệm phát bồ đề tâm chân ngôn: (3 biến)
Ôm bô-đi-chi-ta ben-za sa-ma-ya ah hùm.
Phần 11: Kim cang tâm
Đọc bài kệ sám hối: (3 biến)
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp Đều vì vô thủy tham sân si Đều sinh ra từ thân ngữ ý Nay con hết thảy xin sám hối.
Niệm chú sám hối: (108 biến)
Ôm ben-za sa-ma-ya su-tô ah.
Phần 12: Niệm tâm chú Căn bản Truyền thừa Thượng sư
Cầm chuỗi hạt quán tưởng:
(Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cương, quán tưởng tay phải thành chày kim cương, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Căn bản Truyền thừa Thượng sư đến trước mặt mình.
Liên Hoa Đồng Tử tâm chú:
Ôm gu-ru lién-shâng sit-đi hùm. (108 biến)
Phần 13: Kết ấn và Quán tưởng
Kết ấn: Ấn chuyển pháp luân
Ngón cái và ngón trỏ tay trái chạm vào nhau tạo thành vòng khuyên, ngón giữa, ngón áp út và ngón út duỗi ra, lòng bàn tay hướng vào trong. Ngón cái và ngón trỏ tay phải chạm vào nhau tạo thành vòng khuyên, ngón giữa, ngón áp út và ngón út duỗi ra, lòng bàn tay hướng ra bên ngoài. Tay trái đặt phía trước, tay phải đặt phía sau, giữ thủ ấn trước ngực.
Quán tưởng:
Đầu tiên quán không, niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)
(1) Quán tưởng trên đầu hành giả có tòa sư tử, trên tòa sư tử có nguyệt luân hoa sen, trong nguyệt luân có một chữ “Ah” (tiếng Phạn hoặc Tạng) màu vàng, chữ Ah xoay tròn hóa thành Tổ sư Tsongkhapa. (2) Tổ sư Tsongkhapa hai tay kết ấn chuyển pháp luân, cầm hoa sen, trên hoa sen có bảo kiếm bát nhã và kinh bát nhã. Y phục màu vàng, đầu đội mũ vàng, ngồi tư thế kiết già trong ánh sáng trí huệ. Trên đầu tổ sư Tsongkhapa có Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc (tam thế Phật). Còn có: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát (tam hỗ chủ). Tổ sư Tsongkhapa có tướng đẹp trang nghiêm, diễn giảng Phật pháp sâu rộng.
(3) Thiên tâm của Tổ sư Tsongkhapa phóng ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến thiên tâm của hành giả. Từ họng của Tổ sư Tsongkhapa phóng ra một đường ánh sáng đỏ, chiếu thẳng đến họng của hành giả. Tâm luân của ngài phóng ra một đường ánh sáng lam, chiếu thẳng đến tâm luân của hành giả. Ba ánh sáng trắng, đỏ, lam tan vào trong thân tâm hành giả. Pháp Vương Tsongkhapa và hành giả dung hợp với nhau, tự thân hành giả hóa thành Tổ sư Tsongkhapa.
Phần 14: Trì tâm chú Tổ sư Tsongkhapa
Chú dài: Ôm ah hùm ben-za sông-kha-pa cưa-lu sô-ha. (108 biến hoặc 1080 biến) Chú ngắn: Ôm ben-za sông-kha-pa cưa-lu sô-ha. (108 biến hoặc 1080 biến)
Phần 15: Làm Cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa
Cửu tiết Phật phong:
(1) Quán tưởng ánh sáng trắng từ lỗ mũi phải đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch phải đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch trái, thoát ra từ lỗ mũi trái, lúc này đã trở thành khí đen. (2) Ánh sáng trắng từ lỗ mũi trái đi vào, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, theo mạch trái đi tới đan điền, sau đó đi ngược lên theo mạch phải, thoát ra từ lỗ mũi phải, lúc này đã trở thành khí đen. (3) Ánh sáng trắng đi vào từ cả hai lỗ mũi, khi đến họng thì biến thành ánh sáng đỏ, đi xuống theo mạch hai bên tới đan điền rồi đi vào trung mạch, khí đi ngược lên đến đỉnh luân sau đó lại đi xuống đan điền, từ đây khí chia ra hai mạch, đi lên đến mũi và thoát ra từ hai lỗ mũi, lúc này đã trở thành khí đen. (4) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2). (5) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (6) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (7) Khí đi vào từ cả hai lỗ mũi (như 3). (8) Khí đi vào từ lỗ mũi phải, đi ra từ lỗ mũi trái (như 1). (9) Khí đi vào từ lỗ mũi trái, đi ra từ lỗ mũi phải (như 2).
Quán tưởng Nhập ngã:
(1) Quán tưởng Bổn tôn trụ tại Phạn huyệt trên đỉnh đầu hành giả. (2) Bên trong thân mình, hoa sen trên tâm luân ở trung mạch nở ra, trên hoa sen có một đĩa mặt trăng, trong đĩa mặt trăng có chủng tử tự của Bổn tôn (chữ Ah), chủng tử tự phóng quang. (3) Quán tưởng Bổn tôn ở đỉnh đầu biến thành một hạt ngọc ánh sáng to cỡ hạt gạo, từ Phạn huyệt đi vào trong trung mạch của mình, thuận theo trung mạch đi thẳng xuống, tới tâm luân thì dừng lại tại hoa sen ở tâm luân. (4) Bổn tôn tại hoa sen ở tâm luân của mình từ từ biến to ra, cho tới khi to bằng chính mình. Quán tưởng chính mình biến thành Bổn tôn giống y hệt. Bản thân chính là Bổn tôn, không hai không khác.
Quán tưởng Ngã nhập:
Quán tưởng chính mình là Bổn tôn, từ trung mạch đi lên và thoát ra, tiến nhập vào trong hư không, dung nhập vào biển ánh sáng của vũ trụ. Quên hết toàn bộ bản thân mình (tọa vong) bằng cách tiến nhập vào trong hư không, tiến nhập vào ý thức vũ trụ, tiến nhập vào biển ánh sáng, bản thân không còn nữa, hoàn toàn hòa tan vào trong hư không và biển ánh sáng của vũ trụ (ngã nhập). Ý thức vũ trụ chính là ý thức của mình. Đàn thành và vũ trụ tỏa ánh sáng rực rỡ. Nếu không thể ngồi tọa vong, lập tức quán tưởng bản thân mình là Tổ sư Tsongkhapa, sau khi quán tưởng rõ ràng thì quên luôn chính mình, lại tiến nhập vào trong hư không. “Nhất chỉ nhất quán” như vậy gọi là “chỉ quán song vận”.
Quán đếm hơi thở:
Dùng ý nghĩ để đếm hơi thở của chính mình, cho đến khi đạt đến trạng thái dừng bặt không còn suy nghĩ, tiến nhập vào cảnh giới định tọa vong.
(Chi tiết có liên quan đến quán tưởng tam quang bao trùm, trì tâm chú căn bản, cửu tiết Phật phong, nhập Tam ma địa, đếm hơi thở, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 16: Xuất định
Trình tự quán tưởng xuất định và Nhập ngã - Ngã nhập ngược nhau. Quán tưởng chính mình từ hư không tiến nhập vào thân thể, Bổn tôn thu nhỏ lại, ngồi trên hoa sen ở tâm luân của mình, rồi lại hóa thành viên ngọc ánh sáng, từ trung mạch đi ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầu. Bản thân đã xuất định.
Niệm chú Văn Thù: Ôm a-ra-pa-cha-na đi. Niệm chú Quan Âm: Ôm ma-ni pê-mi hùm. Niệm chú Kim Cang Thủ: Ôm ben-za bua-ru hùm pây.
Tụng tán:
Trước Thượng sư tổng trì Tam Bảo Con cung kính hết lòng tán thán Chỉ mong trừ hết thảy nghiệp chướng Mau thành tựu công đức trong ngoài.
Phần 17: Trì thêm những tâm chú khác
(Mỗi câu chú trì một lần, không cần kết thủ ấn, chắp tay là được.)
Ôm a-mi-đê-wa sê. (tâm chú A Di Đà Phật) Ôm ma-ni pê-mi hùm. (tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát) Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha. (Địa Tạng Vương Bồ Tát) Ôm chưa-li chu-li chuân-thế sô-ha. (tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu) Ôm chân-pa-la cha-lâng-cha-na-ya sô-ha. (tâm chú Hoàng Tài Thần) Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê. (tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ) Ôm ah hùm gu-ru pây a-ha-sa-sa-ma-ha lién-shâng sit-đi hùm (tâm chú căn bản Liên Hoa Đồng Tử) Tê-ya-tha ôm bê-cát-chư-ya bê-cát-chư-ya ma-ha bê-cát-chư-ya la-cha sa-mu ca-tưa-lê-ya sô-ha. (tâm chú Dược Sư Phật)
Phần 18: Niệm Phật
Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (3 biến)
Phần 19: Tụng bách tự minh chú:
Ôm pê-cha sa-tô sa-ma-ya Ma-nu-pa-la-ya, pê-cha sa-tô tê-nô-pa tê-cha Chư-chô mê-pa-wa Su-tô ka-yô mê-pa-wa Su-pô ka-yô mê-pa-wa A-nu-ra-tô mê-pa-wa Sa-wa sit-đi mê-pô-ra-ya-cha Sa-wa ka-ma su-cha-mê Chi-ta-mu si-ri-rân ku-ru hùm Ha-ha-ha-ha-hơ, pa-ga-uân Sa-wa ta-tha-ga-ta pê-cha ma-mi mân-cha Pê-chư pa-wa ma-ha sa-ma-ya Sa-tô ah hùm pây. (3 biến)
Phần 20: Hồi hướng
Nguyện người cùng niệm Phật Cùng sinh cõi Cực Lạc Trên báo bốn ơn sâu Dưới cứu ba đường khổ Thấy Phật thoát sinh tử Như Phật độ tất cả.
Đệ tử …….. nguyện đem công đức tu pháp này hồi hướng đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cầu nguyện Sư Phật thường trụ thế gian, không nhập niết bàn, mãi chuyển pháp luân, Phật thể an khang. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mong tất cả mọi ước nguyện đều được viên mãn. Mong tất cả tai nạn tiêu tan. Uân!
(Quán tưởng và chi tiết có liên quan đến hồi hướng, xin tham khảo cuốn “Mật giáo đại quang hoa” - giảng thuyết tỉ mỉ về nghi quỹ tu trì Chân Phật Mật Pháp hoàn chỉnh.)
Phần 21: Đại lễ bái
(Giống đại lễ bái ở phần 3.)
Phần 22: Niệm chú viên mãn
Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pê-mi hùm.
Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.
Giới thiệu pháp tướng Tổ sư Tsongkhapa
Tổ sư Tsongkhapa có một đầu hai tay hai chân, thân màu trắng, tướng mạo từ bi viên mãn, trang nghiêm như Phật, nét mặt hơi tươi cười, thân mặc pháp y màu vàng, đầu đội mũ pháp màu vàng, ngồi tư thế kim cang kiết già trên pháp tọa nguyệt luân hoa sen do tám đại sư tử vương nâng đỡ. Trên hoa sen bên tay phải có bảo kiếm bát nhã, trên hoa sen bên tay trái có kinh điển bát nhã.
Quanh thân Tổ sư tỏa ra ánh sáng trí huệ, diễn hóa Phật pháp sâu rộng. Trên đỉnh đầu có tam thế Phật: Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc. Và tam hộ chủ là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát.
Thứ tự quán tưởng các vị như sau: Nam Mô Nhiên Đăng Phật. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Thích Ca Phật. Nam Mô Văn Thù Bồ Tát. Tổ sư Tsongkhapa. Hành giả. Nam Mô Di Lặc Phật. Nam Mô Kim Cang Thủ Bồ Tát.
Khai thị trân quý của Liên Sinh Pháp Vương Lư Thắng Ngạn
Bản thân tôi có sự kết nối về mặt tâm linh với tôn giả Tsongkhapa. Mọi người còn nhớ không, có một vị giáo chủ đời thứ 100 là Ganden Tripa của phái Gelug - Hoàng giáo, đã đến Seattle Lôi Tạng Tự của chúng ta. Ai còn nhớ xin giơ tay! Ngài ấy tặng cho Sư Tôn một chiếc long bào Pháp Vương mà bản thân ngài từng mặc, còn có một cái bình quán đảnh, một cái chuông kim cang, một cái chày kim cang, một cái trống cầm tay, những pháp khí mà người tu hành dùng. Ganden Tripa đại diện cho ai? Đại diện cho Tổ sư Tsongkhapa. Có ba người khi đi ra ngoài đều dùng cái ô màu vàng để mở đường dẫn đường, có người dùng đàn hương để đón và tiễn, trong phái Hoàng giáo Gelug chỉ có ba người, một là Dalai Lama, hai là Panchen Lama, ba là Ganden Tripa. Ganden Tripa đã tặng cho Lư Sư Tôn long bào, bình quán đảnh, chuông kim cang, chày kim cang, chuỗi hạt, còn có trống tay. Thật ra, Ganden Tripa tương đương với giáo chủ của phái Gelug, khi đi ra ngoài, phía trước có người mở đường, che ô màu vàng cam, có đàn hương đón tiễn. Chỉ có ba người, Dalai, Panchen và Ganden Tripa, bởi vì ngài có thân phận là giáo chủ.
Khi Tsongkhapa rời quê hương đến Tây Tạng, ngài đã cúng dường lớn cho chùa Jokhang và chùa Ramoche, kết quả là, Quan Thế Âm Bồ Tát đưa ngài lên trên đỉnh núi cao nhất, ngài ở đó nhìn thấy hoa sen màu xanh, ngài cầm bông hoa sen màu xanh trên tay mình, Quan Thế Âm Bồ Tát nói với ngài rằng: “Ngài chính là Liên Hoa Đồng Tử màu xanh.” Tôi nói với các bạn một bí mật: Atisha tôn giả sáng lập phái Kadam, Tsongkhapa tôn giả sáng lập phái Gelug, Lư Sư Tôn sáng lập True Buddha School Chân Phật Tông, thật ra, Liên Hoa Đồng Tử đều là người sáng lập tôn giáo, đây là một bí mật.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói với Tsongkhapa: “Ngài Là Liên Hoa Đồng Tử màu xanh.” Nếu các bạn chú ý đến lịch sử Tsongkhapa đến nhân thế gian này, có một đoạn như vậy, đây là bí mật đầu tiên.
Bí mật thứ hai, khi Tsongkhapa tại thế, ngài rất ngưỡng mộ Atisa tôn giả, đã học rất nhiều pháp của phái Kadam, bất kể Hiển Mật. Atisa tôn giả có “Bồ đề đạo cự luận”, cự trong từ hỏa cự, tức là bó đuốc, có người gọi là “Bồ đề đạo đăng luận”. “Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận” của Tsongkhapa chính là kế tục “Bồ đề đạo đăng luận” và “Tam sĩ đạo”, ngài viết thành cuốn “Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận” [Luận bàn sâu rộng về thứ tự đạo bồ đề] chính là pháp Hiển giáo, vô cùng vĩ đại. Bởi vì ngài kế tục phái Bkardgam cho nên ngôi chùa đầu tiên mà ngài xây dựng chính là chùa Kadam, bây giờ người ta gọi là tu viện Ganden để tưởng nhớ Atisa tôn giả. Bạn xem, “Bồ đề đạo đăng luận” của Atisa tôn giả truyền cho Tsongkhapa tôn giả, vì thế Tsongkhapa viết thành cuốn “Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận”.
Khi Tsongkhapa tại thế, ngài có 3 vị sư phụ, đây là 3 vị sư phụ chủ yếu mà ngài coi là Căn bản Thượng sư, các sư phụ khác mà ngài đã bái làm thầy có 14 vị, nói nhiều hơn một chút thì ngài có 32 sư phụ, tổng cộng ngài đã kết duyên với 32 vị sư phụ. Ngài học rộng rãi Hiển giáo và Mật giáo. Sư phụ của Sư Tôn, cộng cộng trừ trừ tổng cộng có 27 vị.
Tsongkhapa nương dựa vào 32 sư phụ, học vấn của ngài cực kì uyên bác, chủ yếu nhất là Trung quán. Bạn đừng cho rằng Tsongkhapa chỉ học Trung quán, đó là sai lầm, ngài cũng học “Duy thức ngũ luận”, “Trung quán ngũ luận”, còn học tập luận tác của rất nhiều vị tổ sư, ngài đều học cả. Học vấn của ngài vô cùng cao sâu, hơn nữa còn rất uyên bác. Sư phụ đầu tiên của ngài là Pháp Vương Choje Dondrub Rinchen, từ nhỏ ngài đã thu nhận Tsongkhapa về nuôi dưỡng, dạy Tsongkhapa Mật pháp, quán đảnh cho Tsongkhapa pháp Thời Luân, Đại Uy Đức, Mật Tập, Thắng Lạc, sau đó cũng học pháp Hỉ Kim Cang, mọi pháp Kim Cang đều học. Vị sư phụ đầu tiên Pháp Vương Choje Dondrub Rinchen đã dạy Tsongkhapa Mật giáo, hơn nữa còn nuôi dưỡng ngài cho đến 16, 17 tuổi, sau đó gửi ngài đến Tây Tạng.
Khi Tsongkhapa ở Tây Tạng, ngài đã chu du khắp Tây Tạng, Tiền Tạng, Hậu Tạng, toàn bộ mọi địa phương ngài đều đi hết, hễ gặp được một đại thiện tri thức là ngài bắt đầu học pháp, Hiển Mật đều học. Cho nên ngài đã học Mật giáo, cũng thực tu, sư phụ của ngài lúc này là Rendawa Shyönnu Lodrö. Ban đầu Rendawa Shyönnu Lodrö ở tu viện Sakya, thuộc về phái Sakya. Vị sư phụ thứ hai chủ yếu nhất của Tsongkhapa là Rendawa Shyönnu Lodrö. Rendawa dạy ngài Trung quán và Nhân minh. Sau này, Tsongkhapa vẫn có rất nhiều nghi vấn đối với Trung quán, và cũng có rất nhiều nghi vấn đối với Duy thức. Ngài đã gặp một người, người này là Lama Umapa, người mà có thể giao tiếp tâm linh với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả mọi nghi vấn, ngài đều có thể thỉnh Lama Umapa hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đích thân giải đáp mọi thắc mắc của Tsongkhapa, cuối cùng đã khiến Tsongkhapa thỏa mãn, hình thành nên điều kiện quan trọng thứ ba, chính là trung quán chính kiến. Phái Gelug coi trọng nhất chính là tâm xuất li, thứ hai là tâm bồ đề, thứ ba là trung quán chính kiến. Đây là điều mà Tsongkhapa nói với tôi. Họ coi trọng điều này. Ngoài ra còn coi trọng giới luật nữa.
Buổi tối ngày 6/9/2018, Tsongkhapa xuất hiện trong thư phòng của tôi, tướng mạo của ngài vô cùng viên mãn, thần thái phấn khởi, trên người tỏa ánh sáng nhiều màu sắc, tay cầm hoa sen màu xanh. Tôi hỏi ngài là ai, Tsongkhapa trả lời: “Sư Tử Hống Như Lai.” Ngài lập tức hiện tướng mạo của Như Lai, khi Tsongkhapa thành Phật, Phật hiệu khi ngài thành tựu gọi là Sư Tử Hống Như Lai, đây là bí mật thứ hai. Có ai biết ngài ấy là Sư Tử Hống Như Lai không? Thượng sư nào biết xin mời giơ tay. Không cần khách khí, nếu các bạn biết ngài là Sư Tử Hống Như Lai thì xin mời giơ tay. Vì các bạn không biết, vậy thì ngài chính là Sư Tử Hống Như Lai đó. Đây cũng là bí mật của ngài.
Tôi hỏi ngài: “Ngài từ đâu đến?” Tsongkhapa trả lời: “Tôi ở Nội viện Di Lặc Đâu Suất Thiên.” Thật ra, ngài cười và nói: “Pháp thân vô số.” Ngài nói tôi là hóa thân của ngài, Lư Sư Tôn là hóa thân của Tsongkhapa. Tôi nói: “Dường như tôi biết ngài là Tsongkhapa, tôi đang muốn tìm ngài đây.” Tsongkhapa nói: “Tôi tự đến rồi, ngài không cần tìm.” Tôi nói: “Xin mời tự thuật về lai lịch của chính ngài đi.” Tsongkhapa trả lời: “Tôi vốn là ứng hóa của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.”
Bản thân Tsongkhapa cũng là Liên Hoa Đồng Tử. Ngài nói, những gì ngài làm chính là những gì chư Phật làm, Tsongkhapa nói như vậy. Ngài nói, ở chùa Jokhang, chùa Ramoche, ngài đã được Quan Thế Âm Bồ Tát khai sáng. “Ở trên đỉnh núi, tôi cầm một bông hoa sen màu xanh, cho nên, tôi là Thanh Liên Hoa Đồng Tử.” Tôi trả lời: “Thì ra là cùng một gốc.” Về trải nghiệm tu hành của mình, Tsongkhapa trả lời rằng: “3 tuổi đến 16 tuổi, học tập Mật thừa từ Choje Dondrub Rinchen, đã được quán đảnh và tu pháp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Diệu Âm Thiên Nữ, sau đó học Đại Uy Đức Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Hỉ Kim Cang, Kim Cang Thủ Bồ Tát.” Lúc này, Tsongkhapa tôn giả nói: “Atisa tôn giả đã nhiều lần hiển hiện chỉ đạo, sau này tôi sẽ hoằng dương pháp của phái Bkardgam.” Ngôi chùa đầu tiên mà ngài xây dựng chính là chùa Bkardgam, cũng chính là chùa Ganden hiện nay. Tsongkhapa nói: “Tôi là một tì kheo thanh tịnh, vì hoằng dương Thánh giáo mà học rộng Phật pháp.” Ngài nói ngài học Trung quán của Long Thọ Bồ Tát, Đề Bà và Nguyệt Xứng trước, sau đó là Duy thức, chính là Duy thức của Di Lặc, Vô Trước, Thế Thân. Còn học cả Nhân minh, nương dựa vào rất nhiều sư phụ, học hỏi mọi luận thuyết. Ngài đã học quá nhiều luận thuyết, bây giờ tôi chỉ kể tên có “Hiện quán trang nghiêm luận” là của Di Lặc Bồ Tát, “Câu xá luận”, cũng chính là “Quang minh luận” nói về từ lúc bắt đầu tu hành cho đến khi thành Phật, còn có “Trung quán luận”, “Nhập trung luận” của Nguyệt Xứng Bồ Tát, “Tập lượng luận” của Trần Na Bồ Tát, còn có “Thích lượng luận” và “Giới luận”, “Giới luận” chính là giới luật. Căn bản Thượng sư chủ yếu nhất của Tsongkhapa là: “Rendawa Shyönnu Lodrö là Căn bản Thượng sư mà tôi tôn sùng nhất.”
Tsongkhapa nói: “Tôi học tập Long Thọ và Đề Bà của Hiển giáo, còn có Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Pháp Xứng. Tôi còn học tập pháp Ngũ Đại Kim Cang.” Dựa vào Đại Uy Đức Kim Cang để che chắn những tai họa chết người cho ngài. Tsongkhapa có rất nhiều tai nạn, chủ yếu nhất là những tai nạn liên quan đến tuổi thọ. Mọi người thử nghĩ xem, Hộ pháp của Sư Tôn là Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, cũng giống với Tsongkhapa.
Đại sư Tsongkhapa có nhiều trước tác, có “Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận”, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, hai bộ luận này là chủ yếu nhất, các luận tác khác thì cực kì nhiều, mọi người có nhớ không? Nghe tôi giảng “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, là ai hiển hiện ra để gia trì cho Sư Tôn? Chính là Tsongkhapa hiển hiện ra để gia trì cho Sư Tôn. Tsongkhapa khi học pháp của phái Kadam, Atisa tôn giả cũng hiển hiện để gia trì, khi tôi giảng “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Tsongkhapa cùng hiển hiện để gia trì cho Lư Sư Tôn, điều này là hoàn toàn có thật, là sự thật. Tsongkhapa còn nói: “Tất cả mọi thắc mắc đều có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đích thân đến chỉ dạy và hướng dẫn. Lama Umapa cũng là một trong những vị thầy chủ yếu.” Cho nên, ngài có tổng cộng ba vị thầy, Choje Dondrub Rinchen, Rendawa Shyönnu Lodrö và Lama Umapa. Tsongkhapa nói: “Vì sự tu học Hiển Mật viên mãn và nêu cao giới hạnh, cho nên sáng lập phái Gelug.” Hai chữ Gelug chính là giới luật. Cuối cùng, ngài đã có thể tận mắt nhìn thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và 35 vị Phật, nhìn thấy chư vị, đạt được thành tựu cao nhất.
Ngài coi trọng tâm xuất li, tâm bồ đề, trung quán chính kiến, giới luật. Cuối cùng tôi hỏi Tsongkhapa: “Ngài muốn nói với chúng tôi nhất là điều gì?” Tsongkhapa nói: “Giới luật và tinh tấn.” Tsongkhapa muốn đệ tử Chân Phật Tông chúng ta nhất định phải giữ giới và tinh tấn. Chỉ nói đại khái một chút. Atisa tôn giả, Tsongkhapa tôn giả và Lư Sư Tôn là ba hợp thành một, đều là Liên Hoa Đồng Tử, không có khác biệt, đây chính là một bí mật rất lớn. Tsongkhapa thành tựu Phật rồi chính là Sư Tử hống Như Lai. Ngài không dùng sự nghiệp thủ ấn [karmamudra, còn gọi là nghiệp ấn, hành ấn, là một môn yoga, một kĩ thuật tu hành trong Mật tông, chính là pháp song thân], ngài biết sự nghiệp thủ ấn, nhưng ngài không dùng. Trung ấm của ngài thành Phật, Phật danh chính là Sư Tử Hống Như Lai, vô cùng tôn quý.
Tôi đã viết “Tsongkhapa Tổ sư niệm tụng pháp”, các bạn có thể nhìn thấy pháp tướng của Tổ sư Tsongkhapa ở phía sau, chú ngữ của ngài có chú ngắn là “Om benza tsongkhapa gelug soha”, cũng có thể niệm thành “Om ah hum benza tsongkhapa gelug soha”. Thủ ấn của ngài là ấn chuyển pháp luân, tôi kết cho mọi người xem. (Sư Tôn thị phạm.) Kì thực cũng không cần tôi phải kết ấn, bởi vì nhìn trên pháp tướng thì chính là ấn chuyển pháp luân rồi, tay phải hướng ra ngoài, tay trái hướng vào trong, đây là ý nghĩa của chuyển pháp luân. Atisa tôn giả được quốc vương của vương triều Guge Tây Tạng mời ngài đến Tây Tạng để chuyển pháp luân. Tsongkhapa ở Tây Tạng chuyển pháp luân, Lư Sư Tôn cũng chuyển pháp luân, thủ ấn của Liên Hoa Đồng Tử là một tay là ấn thuyết pháp, một tay là ấn cầm hoa sen (Sư Tôn thị phạm, hai tay đặt trước ngực), đây cũng là ấn chuyển pháp luân, tay phải hướng ra ngoài, tay trái hướng vào trong, đây cũng là chuyển pháp luân. Mọi người cảm thấy Tsongkhapa vô cùng quan trọng không?
Tsongkhapa có học Thời Luân Kim Cang, Mật Tập Kim Cang, Hỉ Kim Cang, Đại Uy Đức Kim Cang, Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, ngoài ra còn có Thắng Lạc Kim Cang, toàn bộ ngài đều học rồi, mọi pháp Vô thượng mật đều học hết. Ngài cũng từng bế quan. Một Phật pháp muốn tồn tại vĩnh viễn đòi hỏi phải có một số đệ tử vĩ đại ủng hộ ngài. Ngài đã giao vị trí Pháp Vương của mình, y phục và mũ của mình cho đệ tử số một của ngài là Gyaltsab Je. Đệ tử tâm phúc của Tsongkhapa là Khedrup Je, Khedrup Je là ai? Chính là truyền thừa Panchen Lama sau này, từ Khedrup Je truyền xuống. Gyaltsab Je thì trở thành giáo chủ Ganden Tripa. Ngoài ra còn có tì kheo giữ giới luật thanh tịnh nhất là Jetsun Dragpa Gyaltsen. Còn có một người là Sakya Yeshi, Tsongkhapa phái ông ấy đi gặp Hoàng đế Vĩnh Lạc ở chùa Minh Thành Tổ, Hoàng đế Vĩnh Lạc ban cho ông ấy một xưng hiệu Pháp Vương là Đại Từ Pháp Vương. Đại Từ Pháp Vương, Đại Thừa Pháp Vương, Đại Bảo Pháp Vương là các danh hiệu Pháp Vương mà Hoàng đế Vĩnh Lạc ban cho, một trong số đó là ban cho Sakya Yeshi. Sakya Yeshi ở Mông Cổ chuyển thế thành Jebtsundamba Khutuktu, dịch ra tiếng Hán là Chương Gia Hoạt Phật, Cam Châu Hoạt Phật. Sư Tôn có truyền thừa của Cam Châu Hoạt Phật, Cam Châu Hoạt Phật chính là chuyển hóa của đệ tử của Tsongkhapa. Panchen cũng là đệ tử Khedrup Je của Tsongkhapa chuyển hóa. Người mà vào 5 năm cuối cùng của Tsongkhapa mới đến quy y chính là Gendun Drubpa, chính là Dalai Lama sau này, đó là đệ tử nhỏ nhất của Tsongkhapa. Thế nhưng đệ tử tâm phúc thật sự chính là Panchen Lama. Dalai Lama, Panchen Lama, Ganden Tripa, Chương Gia Hoạt Phật - Mông Cổ Đại Hoạt Phật Chương Gia Khutuktu, Cam Châu Khutuktu, có người gọi ngài là Khờ Khạo Tồ Tồ. (đùa) Ở đây tôi nói về quá khứ của Tsongkhapa, về sau cần phải có người truyền thừa rất vĩ đại tiếp tục truyền xuống. Khi xưa, lúc Tsongkhapa còn tại thế, đầu tiên ngài xây dựng chùa Kadam - tu viện Ganden. Tiếp theo là xây dựng chùa Drepung, sau này lại xây dựng chùa Sera, đây là ba ngôi chùa lớn của Hoàng giáo Tây Tạng. Còn có chùa Tashi Lhunpo ở biên giới Hậu Tạng, chùa Kumbum ở Thanh Hải [Amdo] nơi Tsongkhapa sinh ra, và chùa Labrang ở Cam Túc, được gọi là sáu ngôi đại tự của Hoàng giáo. Đây chính là điểm vĩ đại nhất trong cuộc đời của Tsongkhapa.
Song vận mà Tsongkhapa truyền lại có hữu-không song vận, sắc-không song vận, “sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”, trong Tâm Kinh nói đến, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng biết, “có” và “không” đều phải coi trọng, không có “có” thì không có “không”, từ đây mà sản sinh ra “trung quán tự tục phái”, bởi vì tự tính cũng là không. Tôi nói để bạn biết, duyên khởi tính không, tự tính cũng là không, đó là thuyết pháp thắng nghĩa. Tsongkhapa cuối cùng đã hiểu sắc-không song vận. Cho nên, ngài nói về duyên khởi lập thành. Hai song vận duyên khởi tính không và duyên khởi lập thành này chính là “trung quán ứng thành phái”.
“Trung quán tự tục phái”, “trung quán ứng thành phái”, Tsongkhapa chủ trương “trung quán ứng thành phái”, ngài cho rằng thế tục đế vô cùng quan trọng, không có thế tục đế thì sẽ không có tính Không, duyên khởi lập thành. Đây là điều mà chính Tsongkhapa và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với tôi như vậy, cần phải là “hữu-không song vận”. Ngoài ra còn có “lạc-không song vận”, “lạc” chính là phương tiện, “không” chính là thắng nghĩa. Một điều quan trọng nhất của Tsongkhapa là khi nhập tam ma địa, ngài có thể lạc-không song vận, có và không song vận.
Tsongkhapa còn dạy chúng ta một điều, thế nào gọi là “chỉ quán”. Tu hành có hai phương pháp, một là tu chỉ niệm [dừng suy nghĩ], hai là tu quán tưởng. Bạn thiên về tu chỉ niệm thì bạn sẽ đi vào không cảnh, không có bất kì suy nghĩ nào, chính là tu chỉ niệm. Khi bạn chưa thành tựu được chỉ niệm, bạn phải cần tu quán tưởng, cho nên, chỉ-quán song vận chính là ở đây. Tsongkhapa nói với tôi về pháp tu tập nhập tam ma địa như vậy, tu tập nhập tam ma địa cũng có hai phương pháp, một là tu hành dừng dứt suy nghĩ (tu chỉ niệm), hai là tu hành quán tưởng. Khi bạn chưa thể nào dừng được mọi suy nghĩ thì dùng cách tu quán tưởng, khi bạn quán tưởng đến cực độ rồi thì bạn dùng cách tu chỉ niệm, đây chính là chỉ-quán song vận, đây là phương pháp nhập tam ma địa tốt nhất. Bạn không thể chỉ tu mỗi chỉ niệm, bởi vì suy nghĩ không dừng lại được, bạn nghĩ về chỉ niệm thì cũng vẫn là có suy nghĩ rồi, bạn nghĩ đến việc muốn dừng hết mọi suy nghĩ lại thì suy nghĩ đó vẫn là suy nghĩ. Cho nên bạn phải quán tưởng đến mức tinh thần thống nhất, cho đến khi suy nghĩ hoàn toàn không có nữa mới là chỉ-quán song vận, cứ thế cho đến khi thành tựu. Đây chính là chủ trương của Tsongkhapa, là điều mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã dạy, chính là trung quán chính kiến.
Chú ý: Chưa nhận quán đảnh, xin đừng tu pháp!