Giữa linh và tôi
🪷 Đích thân trải nghiệm sự kì bí của linh hồn
Văn tập số: 019 Xuất bản: 01/09/1975 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu: Linh hồn và tôi
Trong con mắt của rất nhiều người, tôi là một người kì quái, bởi vì tôi có một loại năng lực kì quái, tôi có thể trò chuyện với linh hồn vô hình của hư không giới, thậm chí còn làm bạn với họ, sống cùng họ một cách vô cùng hòa thuận. Nói về việc trò chuyện với linh hồn của hư không giới, tôi tự mình cho rằng đây là chuyện rất bình thường và tầm thường, nhưng người bình thường lại thán phục một cách đầy kinh ngạc, xem như chuyện rất thần kì và không thể nào.
Tôi không phải người có con mắt âm dương bẩm sinh, cũng không phải vừa ra đời đã có thể trò chuyện với linh hồn. Sau khi tôi tốt nghiệp đại học, tôi phục vụ tại đơn vị trắc lượng, sau một lần gặp được duyên phận kì dị thì tôi mới bắt đầu nhận thức về linh giới, khi ấy tôi 25 tuổi. Những trải nghiệm này tôi từng viết thành một cuốn sách, đó chính là cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán”, cuốn sách này vừa xuất bản thì đã gây xôn xao cả nước, trong vòng một tháng, tôi đã nhận được năm trăm bức thư của độc giả, hơn một nghìn người đến trước cửa nhà tôi muốn gặp. Có người phụ trách câu lạc bộ của mấy trường Đại học yêu cầu tôi đến câu lạc bộ của họ diễn giảng, nhà xuất bản Nhật Bản yêu cầu được phát hành tại Nhật. Có thể thấy đâu đâu cũng có những con người tò mò đối với kiến thức về linh hồn, ai ai cũng có hứng thú đối với việc tìm hiểu những bí mật vô hình.
Với tình hình như vậy, tôi không thể nào không viết ra cuốn sách “Giữa Linh và tôi” này. Độc giả tin rằng vấn đề về linh hồn không chỉ có nghìn vạn, cho nên một cuốn sách là không đủ, yêu cầu tôi mô tả tỉ mỉ hơn nữa về toàn bộ cảnh giới của linh hồn, không giấu diếm một chút nào. Sau khi tôi ngẫm nghĩ kĩ càng, tôi vẫn sẽ viết, tôi vì muốn phá bỏ mê tín, phá bỏ vô tri, phá bỏ quan niệm người ta cho rằng nhân quả báo ứng là mê tín mà viết ra cuốn sách này.
Có người cho rằng Lư Thắng Ngạn là đồ thần kinh thất thường, hoặc là kẻ bị bệnh tâm lí, hoặc là kẻ khoác lác, hoặc là kẻ giở trò đùa, tôi nhất loạt đều không phản bác. Tôi viết ra những gì tôi thật biết thật thấy, nếu có người cho rằng tôi nói láo thì mặc kệ cho họ nói. Tất nhiên sự vô tri của họ khiến tôi hết sức bực bội, thế nhưng tôi nghĩ lại về chính mình nếu không có kì duyên thì chẳng phải là tôi cũng giống như người bình thường, sẽ khịt mũi coi thường linh hồn, cho rằng đó là những lời bịa đặt hết sức hoang đường sao? Thế là tôi tha thứ cho họ, cảm thấy trong lòng buồn cho những người này.
Trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” tôi từng nói: “Trình độ học vấn của tôi là tốt nghiệp đại học, đối với tôn giáo, triết học, văn học, nghệ thuật, v.v… tôi có hứng thú sâu đậm, đã viết mười mấy cuốn sách, nhưng điều tôi muốn chứng tỏ là, tôi viết tác phẩm về phương diện linh hồn cực kì nghiêm túc và kĩ lưỡng, không nói dối, đều là những việc thật mà đích thân tôi đã trải qua, biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó là “thật biết”, tôi tin rằng người đọc cuốn sách này có thể hiểu được dụng tâm của tôi. Có lẽ có người muốn hiểu về thân phận của tôi, thời kì đầu tôi là tín đồ Cơ Đốc giáo, tốt nghiệp lớp sư phạm của Hội trưởng lão Cơ Đốc Tân Hưng thuộc Cơ Đốc Giáo Cao Hùng, tôi từng được rửa tội, làm giáo viên của lớp học chủ nhật, làm thầy giáo lớp tra kinh. Sau đó tôi theo Đạo giáo, từng qua công đức, là Đạo sĩ của phân đường Thạch Bích thuộc Từ Huệ Đường hội Đạo giáo Trung Hoa. Hiện tại tôi sùng tín Phật giáo, tôi nhận Bồ Tát giới tại chùa Bích Sơn Nham tại Nam Đầu, trở thành ưu bà tắc, quy y Ấn Thuận đạo sư, ba vị thầy thọ giới là Hiền Đốn, Huệ Tam, Giác Quang. Đối với bất kì điển tích tôn giáo nào tôi cũng đã đều đề cập tới.”
Trong cuốn sách này, tôi sẽ nói đến bản thân có được kì duyên như thế nào, đại khái là viết lại một phần nhỏ của cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán”, bổ sung giải thích một vài quá trình từ khởi linh đến luyện linh, lấy việc thật làm bằng chứng, phác họa ra toàn bộ bức tranh về linh giới, rất nhiều điều là trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” chưa từng nói đến. Tôi tin rằng cuốn sách này càng sâu hơn, càng dễ hiểu hơn, và cũng phổ biến hơn khiến mọi người có được nhận thức chính xác về linh hồn.
Hiện tại, không gian ba chiều đã dần dần phát triển thành không gian bốn chiều, thế giới của không gian bốn chiều đã dần dần có các nhà khoa học và triết học đi nỗ lực nghiên cứu, London, Oxford, Cambridge của nước Anh và các trường Đại học Mĩ cũng có môn nghiên cứu về linh học, nhưng họ là nghiên cứu, còn tôi là người tự thân trải nghiệm, chỉ mong những trải nghiệm của tôi có thể giúp ích được những người đó, khiến những người nghiên cứu này trong lúc dò dẫm thấy hiện lên một lối đi phía trước sáng sủa và tươi đẹp.
Trước khi viết hai cuốn sách này, có một hôm tôi ở trong Phật đường tụng kinh, đột nhiên không trung có âm thanh hỏi tôi: ”Liên Sinh, con người thời nay không tin nhân quả, không tin thiện ác báo ứng, không tin luân hồi, lòng người thói đời đã bại hoại, ma sư tà giáo hoành hành, nếu anh không cầm lên cây bút trong tay mình để biểu dương chính nghĩa thì còn muốn đợi đến khi nào?” ”Nếu muốn người ta tin nhân quả báo ứng, thiện ác luân hồi, thì những truyền kì về tâm linh mà tôi đích thân trải nghiệm qua không đủ để làm chứng, nhưng nếu viết ra, mọi người có tin không? Có khi tôi không viết vẫn tốt hơn, bởi vì những việc liên quan đến linh giới rất thần kì, e rằng sẽ khiến chúng sinh hiểu lầm rằng tôi là kẻ nói khoác, thế thì không hay rồi!” ”Liên Sinh, những chuyện phát sinh trước kia là thật hay là giả?” ”Là thật.” ”Liên Sinh, trong kinh Pháp Cú có câu nói: Nói ra lời thiện, như gõ chuông khánh, thân không nghị luận, độ thế tất an, nếu là sự thật, có gì phải sợ? Ngày xưa ta đã thức tỉnh anh cũng là vì ngày hôm nay. Người nói thật, không giả bố thí, giả trì giới, giả học vấn, giả hiểu biết, chỉ tu nói lời thật thì sẽ có được phúc vô lượng. Anh vẫn còn không viết sao?”
Chính vì nguyên nhân này mà tôi đã viết, bất kể người khác hiểu lầm hay không, hay là họ nghĩ rằng tôi quá thần kì, dứt khoát là không thể nào, nhưng tôi vẫn vì nhân duyên này mà đã viết, viết ra những điều mà trên đời này chưa ai từng viết, chỉ mong trong thế giới tương lai có người chứng minh những gì tôi viết hoàn toàn là sự thật, như thế thì đúng là công đức vô lượng.
(Tháng 10 năm Dân Quốc 64 [1975] tại Đài Trung Từ Huệ Lôi Tạng Tự. Địa chỉ liên lạc: Số 18/2 ngõ 133 đường Tinh Võ.)
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Cuộc gặp gỡ thần kì
6 năm trước, tức là năm Dân Quốc 58 [năm 1969], tôi 25 tuổi, mẹ tôi đi lễ ở một ngôi chùa gần nhà, khi ấy tôi là tín đồ đạo Cơ Đốc, theo lí mà nói, tôi sẽ quyết không đi cùng mẹ tôi. Nhưng sáng sớm ngày hôm đó tôi nằm mơ, một giấc mơ rất kì quái, mơ thấy tôi leo núi, ngọn núi rất cao rất cao, rồi dường như ở trên đỉnh núi có một ngôi chùa rất cổ kính, tôi dù không muốn nhưng vẫn cứ đi vào. Điều kì lạ là tôi không thấy sợ hãi một chút nào, dường như đỉnh núi này quen thuộc giống như đường về nhà, trong chùa có rất nhiều tượng Thần được điêu khắc, có tượng thì mang bộ dạng hiền từ, có tượng thì như kim cang trợn trừng mắt. Tôi nhẹ nhàng nhón chân đi vào đại điện, một lão đạo trưởng nhìn thấy tôi thì đứng dậy.
Lão đạo trưởng chắp tay lại nói với tôi: “Giờ mới đến sao? Ta đợi anh rất lâu rồi.” ”Đạo trưởng với tôi hoàn toàn không quen biết, sao lại có hẹn chứ?” ”Sao mà không quen biết, băng qua tam giáo, ngao du bốn biển, năm trăm năm một lần gặp, cho dù anh đọa vào địa ngục âm phủ, làm ác quỷ, thì tôi cũng nhận ra diện mạo vốn có của anh!” ”Đạo trưởng, sao lại nói như vậy?” ”Không đánh anh thì anh không biết.” - Đạo trưởng cầm lên cây phất trần gõ lên đầu tôi, tôi kêu “oái” một tiếng, sợ đến mức toàn thân đẫm mồ hôi, thế là tỉnh khỏi giấc mơ.
Tôi thường rất ít khi mơ, chỉ có một giấc mơ này là rõ ràng nhất, ngày hôm đó lại đúng là ngày chủ nhật, mẹ tôi muốn đến chùa lễ bái, tôi thân làm tín đồ Cơ Đốc thế mà lại đi cùng mẹ tôi. Đương nhiên, tôi chỉ đi theo chơi, tôi không thắp hương, càng không cúi lạy Bồ Tát hay Thần minh, tôi xem ngôi chùa như một danh thắng để tham quan. Vào lúc ấy, tôi còn cười cợt một số người cúi thấp đầu mà lạy Bồ Tát, đặc biệt là những người đàn ông mặc đồ tây mà quỳ mọp xuống đất với một bộ dạng rất ngoan đạo, tức cười cực kì.
Ngôi chùa ấy không lớn, là ngôi chùa loại nhỏ, tên chùa là Ngọc Hoàng Cung, cái gọi là Ngọc Hoàng Cung chính là chùa miếu của Ngọc Hoàng Đại Đế, trụ trì của chùa là hòa thượng, tên là Thích Huệ Linh. Trong chùa có rất nhiều Bồ Tát, phần lớn tôi đều không biết. Ngày hôm đó cũng không biết là ngày tết gì mà người đến lễ bái cũng khá đông, xô đẩy chen lấn nhau, mùi khói hương rất nặng, tôi trốn vào một góc nhỏ trên hành lang bên ngoài chùa.
Lúc này, tôi chú ý thấy trong số những người đó có một người phụ nữ lớn tuổi mặc áo xanh, tuổi khoảng ngoài 50, bà ấy quỳ trước Thần minh, bộ dạng hình như đang nói chuyện với Thần minh, có rất nhiều người đứng bên cạnh bà ấy, dường như bà đang giúp người ta giải đáp thắc mắc.
Một lúc sau, bà ấy đột nhiên đứng dậy gọi to: “Ai là Lư Thắng Ngạn? Trong số các người có ai là Lư Thắng Ngạn?” Tôi đứng bên ngoài cửa chùa nhưng cũng nghe thấy, mẹ tôi cũng nghe thấy. Mẹ tôi đi nhanh về phía trước hỏi: “Xin hỏi cô tìm Lư Thắng Ngạn có việc gì không?” ”Không phải tôi tìm anh ta, là Bồ Tát Thần minh tìm anh ta, mau gọi anh ta đến đây, Bồ Tát có việc dặn dò.” Người phụ nữ mặc áo xanh đó sốt sắng nói với mẹ tôi.
Thế là tôi đứng trước mặt người phụ nữ lớn tuổi đó. Người phụ nữ ấy trông rất kì quái, một mắt xếch lên, một mắt xệ xuống, cái miệng hơi méo, trông cực kì xấu xí. Người xung quanh nói một mắt bà ấy xếch lên là để nhìn trời (Thần), một mắt xệ xuống là để nhìn đất (quỷ), tôi đứng trước mặt người phụ nữ này mà chẳng hiểu ra làm sao.
“Anh là Lư Thắng Ngạn?” ”Đúng vậy, không biết có chỉ giáo gì?” Bà ấy quỳ trước mặt Bồ Tát, nói thì thầm với Bồ Tát mấy câu, và sau đó quay đầu lại hỏi tôi: ”Anh là tín đồ Cơ Đốc à?” ”Đúng vậy.” ”Anh phục vụ trong đơn vị XX à?” ”Đúng vậy.” ”Anh tốt nghiệp đại học đúng không?” ”Đúng.” ”Giấc mơ chỉ điểm cho anh sáng nay anh có biết không?” Lần này thì tôi đờ người ra, người phụ nữ lớn tuổi đang quỳ trước mặt tôi đây làm sao mà ngay đến giấc mơ buổi sáng sớm nay của tôi bà ấy cũng biết, trong khi tôi chưa hề kể với ai việc tôi nằm mơ, kể cả mẹ tôi. Tôi nhất thời nảy ra ý nghĩ đến chùa để tham quan thôi, đây đúng là một việc không thể nào tưởng tượng nổi. Bà ấy lại hỏi tôi tiếp, tôi không đáp “đúng” thì cũng đáp “phải”, nghĩa là những gì bà ấy nói hoàn toàn ăn khớp, không có một việc nào sai trật.
“Bồ Tát hi vọng anh có thể đứng ra thay Bồ Tát làm thiện hạnh, truyền đạo giải đáp nghi hoặc, phát huy tinh thần Phật gia, giương cao thiện đè bẹp ác. Hiện nay lòng người thói đời đã bại hoại lắm rồi, có một số nhân vật xấu xa cố ý khoác tấm áo Thần Phật để làm những việc không có tính người, xem tướng cho người ta để lừa tiền gạt sắc, uốn lưỡi như hoa sen nhưng yêu ngôn hoặc chúng, chính đạo thì trầm luân mà tà đạo thì hưng khởi. Từ nay về sau anh có trách nhiệm trọng đại, Bồ Tát thấy tâm anh thiện, hành vi ngay thẳng, cho nên muốn anh thay trời hành đạo.” ”Tôi… tôi chẳng biết cái gì cả.” ”Trước mắt anh chẳng biết cái gì cả, nhưng nếu anh quỳ xuống thì sẽ biết mọi thứ, tôi không lừa anh đâu, đến đây, anh quỳ xuống bên cạnh tôi, hai tay chắp lại.”
Tôi học theo bộ dạng của bà ấy, quỳ trước mặt Bồ Tát, hai tay chắp lại, khi ấy có không ít người xung quanh, ngay cả trụ trì Thích Huệ Linh và mẹ tôi cũng đều đứng ở sau lưng tôi. Hai mắt tôi vừa nhắm lại thì kì tích đột nhiên xuất hiện. Bởi vì khi hai mắt nhắm lại, trước mắt đột nhiên xuất hiện một vầng hào quang, trong hào quang xuất hiện ba vị Bồ Tát đang ngồi trên hoa sen, kim thân bảy sắc, tỏa sáng rực rỡ, tôi nói điều này tuyệt đối không phải là mơ, tuyệt đối không phải là mơ, mà là tận mắt tôi ngay tại ban ngày nhìn thấy. Vị Bồ Tát ở giữa mở miệng nói: “Nhất tâm học Phật.” Hai vị Bồ Tát ở hai bên mở miệng nói: “Nhất tâm học pháp.” và “Nhất tâm hướng thiện.” Nói xong thì lập tức biến mất. Tiếp đó, từ không trung giáng xuống một tấm vải đỏ tỏa ánh vàng kim xán lạn, trên tấm vải đỏ đó có viết hai chữ vàng rất lớn, là hai chữ “trung nghĩa”. Tai tôi nghe thấy âm thanh không biết từ đâu truyền đến: “Kim Ngọc Đế đặc biệt ban hạ hai chữ “trung nghĩa” làm nguyên tắc xử thế làm người cả đời của con, phàm việc gì cũng phải hỏi lòng mình trước, có thể làm hay không thể làm, ngửa mặt không thẹn với trời, cúi mặt không hổ với đất, thoải mái tự nhiên, đạo tự sống mãi, thoải mái tự nhiên, tồn tại cùng trời đất.”
Chữ vàng viết trên tấm vải đỏ, tôi tận mắt nhìn thấy, không hề giả dối. ”Anh nhìn thấy chưa?” - Người phụ nữ đó hỏi tôi. ”Nhìn thấy rồi, cũng nghe thấy rồi, nhưng điều này sao có thể chứ?” ”Có rất nhiều việc trong thiên hạ anh có nghĩ cũng chẳng nghĩ nổi đâu, hôm nay, tóm lại là anh đã nhìn thấy và nghe thấy rồi, dần dần, anh cũng sẽ hiểu thế giới kì dị trong cõi vô hình, anh sẽ biến thành một con người khác hẳn với phàm phu bình thường, nhìn thấy cái mà người ta không nhìn thấy, nghe thấy cái mà người ta không nghe thấy, cảm giác thấy cái mà người ta không cảm giác thấy.” - Người phụ nữ mặc áo xanh nói: “Thần minh sẽ từ từ chỉ điểm cho anh.”
Tại ngôi chùa đó, tôi không tin điều tôi gặp phải là sự thật, nhưng sự thật ấy khiến tôi không thể không tin.
(Bài viết này đã được xuất bản trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán”, để giúp cho người chưa đọc cuốn sách trước hiểu được tôi đã bắt đầu tiếp xúc với linh giới như thế nào, tôi đã đặc biệt đăng lại bài viết này.)
02. Cảnh giới bất khả tư nghì
Kể từ cuộc gặp gỡ kì lạ ngày hôm đó, tôi đã bước vào một cảnh giới bất khả tư nghì. Tôi sẽ nói ngắn gọn sơ sơ về cuộc gặp gỡ sau này của tôi để cho độc giả có thể hiểu được một vài trải nghiệm của tôi, những trải nghiệm này trong cuốn sách tâm linh đầu tiên tôi đã nói rất tường tận rồi.
Vào buổi tối cùng ngày, khi tôi ở vào trạng thái nửa tỉnh nửa ngủ thì tôi đã du lịch đến huyễn cảnh của vũ trụ, nhìn thấy vô số Phật Bồ Tát, giống như thế giới Cực Lạc trong kinh A Di Đà vậy, từng vật từng cảnh đều rất rõ ràng, căn bản là không phải nằm mơ. Đồng thời tôi cũng tham quan địa ngục, nhìn thấy các loại khổ hình. Ở thiên giới, tôi nhìn thấy tiền thân của chính mình, tôi đã ghi nhớ họ tên tiền thân của mình. Sau khi tỉnh dậy, tôi đã tìm đến trang 89 trong kinh Phật, đã chứng minh được ở trên đó có họ tên của tôi. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng giữa trời đất quả nhiên có luân hồi quả báo tồn tại, không mảy may sai khác.
Khi tôi du hành vào linh giới, có một tình tiết tôi đặc biệt thuật lại như sau.
Tôi đến một ngọn núi lớn khắp nơi đều mờ mịt, tôi đi vào một thâm viện như động thiên phủ địa, mặt đất của nơi này bằng thủy tinh, tất cả các vật trang trí đều lấp lánh ánh vàng, đều được làm từ vàng bạc lưu li hổ phách, long lanh óng ánh. Ở viện thứ ba có thờ tượng Phật Tam Bảo, phía trước tượng Phật có một lư hương lớn kiểu phong cách cổ xưa, khắp nơi có mùi thơm của gỗ đàn hương, hương thơm thông đến tận trời. Có một tăng nhân xuất gia ngồi quay lưng về phía tôi đang đọc kinh, tiếng nhỏ và thấp, có tụng mà như không tụng.
Tôi hỏi: ”Xin hỏi đại sư, nơi này là đâu?” Ông ấy im lặng không đáp. ”Dám hỏi đại sư, nơi này là đâu?” - Tôi hỏi lại một lần nữa.
“Nước Đông Phương Tịnh Khiết.” - Hòa thượng quay người lại nói, tôi lập tức sửng sốt, thì ra khuôn mặt của ông ấy tôi có nhớ mang máng, thế nhưng càng nhìn tôi lại càng thấy giống chính mình, dường như là chính mình từ một người đã biến thành hai người vậy. Tôi không kìm được bèn nói: ”Ngài là tôi.” ”Tôi là anh.” - Hòa thượng gật đầu nói: “Pháp thân bất động, bất sinh, bất hí, bất phân biệt, là tịch tĩnh.”
Thì ra là như vậy, thì ra là như vậy, trong lòng tôi muốn hét vang lên, dường như tôi đã hoàn toàn hiểu rồi, hơn nữa cũng đã ngộ ra rồi. Trải qua sự việc lần này, từ 9 giờ tối cho đến 7 giờ sáng ngày hôm sau, sau chuyến du hành linh giới, tôi đột nhiên có một cảm giác đại triệt đại ngộ, những gì tôi đã trải qua, người bình thường chưa bao giờ nhìn thấy, nơi tôi đã đến đều là những nơi tôi đã quen thuộc, các vị Phật Bồ Tát cúi đầu chào tôi, đó không phải là nằm mơ, nằm mơ thì không có chuyện từng câu từng lời chân thực như thế đều ghi nhớ hết được! Huống hồ sau khi tỉnh dậy tôi đi xác minh thì quả nhiên là không sai.
Những sự việc tiếp theo sau đó thì càng là điều kì lạ trong kì lạ. Có một vị tự xưng là bậc Thần Tiên thượng thừa Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, phụng ngọc chỉ, mỗi đêm bắt đầu truyền dạy Đạo pháp cho tôi. Những Đạo pháp này đều là các bí pháp trân quý đã thất truyền nghìn năm, vị Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh này đến chẳng có hình bóng, đi không để lại dấu tích, tôi không nhìn thấy ngài, nhưng ngài lại đối với tôi đặc biệt tốt, đặc biệt kiên nhẫn truyền dạy cho tôi ấn chú, phù lục, pháp ngữ (chân ngôn), lí số, thủ ấn, v.v… Tôi gọi ngài là Linh Sư, tôi có thể cảm giác được khi ngài đến, cũng có thể nghe thấy âm thanh rất nhỏ giống như tiếng trong điện thoại của ngài, nhưng từ đầu tới cuối tôi đều không nhìn thấy ngài. Ngài tự xưng là Thần Tiên thượng thừa của Vô sắc giới, vì vô sắc vô hình cho nên tôi không có cách nào nhìn thấy hình ảnh thật của ngài được.
Dưới sự chỉ dẫn của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, tôi đã bái Thanh Chân Đạo Trưởng làm thầy, đó là một người tu Đạo chân chính của núi Thanh Thành. Theo như Linh Sư nói thì người đời không còn ai biết đến Thanh Chân Đạo Trưởng, đó là một Tiên nhân ở nhân gian đã thông linh khiếu. Còn nhớ khi tôi mới gặp thầy, thầy đã từ chối không nhận tôi. Tôi quỳ xuống đất. ”Ta không nhận học trò, ai chỉ dẫn cho anh đến đây?” - Thanh Chân Đạo Trưởng hỏi tôi. ”Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.” - Tôi đáp. Thầy ấy có vẻ kinh ngạc. ”Bát tự của anh?” - Thanh Chân Đạo Trưởng hỏi tôi. ”Năm Ất Dậu, tháng 5 ngày 18, giờ Ngọ.” ”Đừng quỳ nữa! Ta nhận ra anh rồi, anh có cùng giờ cùng ngày cùng tháng sinh với lão tổ sư Trương Thiên Sư, đứng dậy đứng dậy, tôi nhận ra anh rồi.” - Thanh Chân Đạo Trưởng nhận tôi làm đồ đệ là người đầu tiên, thầy ấy chưa bao giờ thu nhận đồ đệ.
Ở chỗ của thầy ấy, tôi đã học thuật Cửu chuyển huyền công và thuật khởi linh vận linh của phái Đan Đỉnh.
03. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là Linh Sư của tôi, tôi rất tôn kính ngài, tôi không biết lai lịch của ngài, chưa từng nhìn thấy hình dáng thật của ngài, ngài là vị ân sư thật sự đã làm được công tác truyền đạo và cởi bỏ mê hoặc, khiến tôi từ một kẻ phàm phu bình thường đã tiến nhập lĩnh ngộ thế giới tâm linh, sự dạy dỗ của ngài vô cùng nghiêm khắc.
Có một lần, ban ngày tôi làm việc quá mệt, đúng vào lúc đang ngủ rất say sưa thì Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đến, khi ấy là 1 giờ sáng. Ngài hét lên bên tai tôi: “Liên Sinh, dậy ngay, Liên Sinh, dậy ngay.” Liên Sinh là pháp hiệu mà Linh Sư đặt cho tôi. Khi ấy vì mệt mỏi rã rời nên tôi kéo chăn trùm kín đầu, mặc kệ lờ đi, tiếp tục giấc ngủ.
Ngài thấy tôi ngủ say không dậy, không biết ngài đã dùng cách gì khiến cho truyền đến rất nhiều tiếng người đang cãi nhau, tiếng cãi nhau vừa the thé vừa xù xì, căn bản là khiến người ta không ngủ được. Tôi bịt chặt tai lại một cách vô thức, xoay người rồi lại tiếp tục ngủ, có lẽ cử chỉ lười biếng ấy đã chọc giận Linh Sư. Lại không biết ngài dùng cách gì mà khiến chân tôi từ từ giơ cao lên, hai chân song song giơ thẳng lên, đầu ở dưới, chân ở trên, trở thành tư thế người dốc ngược, máu chảy ngược khiến toàn thân rất khó chịu, chăn bị đạp ra xa. Thế rồi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh buông tay ra, cả người tôi nhanh chóng rơi xuống giường. Tôi kêu “á” lên một tiếng, tỉnh cả người, còn cái giường thì kêu “bộp” một tiếng lớn khiến người bạn học ở phòng kí túc cạnh bên là Hồ Thìn Hùng còn gọi với sang một câu: “Lão Lư, cậu làm sao đấy?”
Linh Sư đánh thức tôi dậy, dạy cho tôi thuật “tam tài nhất thể hỗn hợp độn linh”, tôi biết là ngài vì muốn tốt cho tôi, kể từ khi tôi được ngài giáo huấn, mỗi lần ngài gọi tôi, tôi không dám lười nhác nữa.
Ông Lâm Vinh Tông, ông chủ của Công ty Cổ phần Hữu hạn Công nghiệp Tam Lộc ở Chương Hóa vào năm Dân Quốc 49 [năm 1960] tốt nghiệp hệ Đại học Quốc lập Thành Công, khi thảo luận về Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, ông ấy cho rằng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là Lãnh Khiêm Tiên Sinh của triều Minh, vì có hai cuốn sách là “Vạn pháp quy tông” và “Địa lí quy hậu lục” có đăng nhân duyên lai lịch của ngài. Lâm Vinh Tông là đại sư địa lí phong thủy, từng làm thầy của ba người, sau khi viếng thăm hai ngôi mộ nổi tiếng của tri huyện Dương tiên sư Quế Sâm ở Chương Hóa trong thời kì Gia Khánh thì ông ấy mới đốn ngộ địa lí huyền cơ. Ông ấy đã nghiên cứu khá sâu về những ý nghĩa tinh hoa của “Hám long kinh” [sách của tổ sư phong thủy Dương Quân Tùng] và “Thanh nang kinh” [sách của Hoàng Thạch Công], “Đô thiên bảo chiếu chiếu thiên ngọc” [tác phẩm kinh điển của tổ sư Dương Quân Tùng].
Còn có ông Giang Hoành Nghĩa quê ở Miêu Lật từng thành lập năm viện hoằng hóa Giáo Thánh Đường, ông ấy cho rằng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh thì Tam Sơn chính là ba vị tôn giả chí cao vô thượng, tức là Hỗn Nguyên Lão Tổ, Hạo Thiên Lão Tổ, Hồng Quân Lão Tổ; thế còn Cửu Hầu chính là chín vị tôn giả, khả năng chính là chín vị lão Tiên sư của đô phủ Cửu Lão Tiên, và Hỗn Nguyên Lão Tổ chính là lão Tiên tổ quản lí luật lệnh tối cao vô thượng chí mật. Ông ấy nói có một cuốn kinh công pháp Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh có thể tu luyện.
Lại có một người quê ở Viên Lâm là ông Hồng Lão đã xây một ngôi miếu Tam Sơn Quốc Vương ở Khê Hồ Chương Hóa, ông ấy nói Tam Sơn chính là tôn thần của Tam Sơn Quốc Vương, Cửu Hầu là tên của chín vị Hộ pháp Thần tướng. Còn theo như một vị cao sĩ tu chân ở miền Nam gửi thư đến nói với tôi: “Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là một khối khí chân linh trong vũ trụ, có công phu thiên biến vạn hóa, trải qua vạn kiếp mà không hoại, áp đảo thiên địa tạo hóa, thành chân vào lúc trời đất sơ khai, đồng vị với Thiên Đế, nhưng Ngọc Đế chưa phong chức Thần. Vì công hành của ngài nửa thiện nửa ác, thiện ác triệt tiêu lẫn nhau, trở thành không thiện không ác, pháp thân ẩn trong Vô sắc giới thiên, ngao du bốn biển, vì không thiện không ác cho nên thoát được luân hồi, trở thành thể kim cang không sinh không diệt. Vì không có tướng, cho nên tôn hiệu Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh được ít người cúng dường, cũng không nhiều người biết đến tên ngài. Luật lệnh Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh được đăng trong “Vạn pháp quy tông để khâm tập” chỉ là chút tài vặt của ngài thôi, chứ còn pháp lực của ngài thì chí đại chí cương, nào phải chỉ là một số phương thuật mà thôi. Ngài là thầy của anh, anh có thể thỉnh hỏi lai lịch của ngài, tuyên bố rõ ràng với thiên hạ để làm sáng tỏ địa vị của ngài.”
Bởi vì tôn hiệu của Linh Sư bị rất nhiều người hiểu sai, cho nên tôi đặc biệt trai giới một tuần để khẩn cầu Linh Sư chỉ thị cho tôi biết lai lịch thật sự của ngài. Tôi niệm thầm: “Tiên thiên vô cực chính pháp”, liên tục bắt ấn niệm chú, đốt hết lá phù này đến lá phù khác. Mặc dù làm kinh động đến các thần Công Tào trực nhật, kinh động đến thần dạ du [thần chuyên đi tuần hành vào ban đêm], kinh động đến các thần vãng lai, tôi hỏi các vị, các vị đều lắc đầu nói: không biết lai lịch.
Sau khi Linh Sư hoàn thành việc truyền dạy Đạo công cho tôi thì ngài rất ít khi giá lâm Phật đường, cho dù ngài có giá lâm thì tôi cũng không nhìn thấy ngài, thật sự cũng không biết là ngài có đến hay không đến, chỉ là trong lòng tôi nhớ đến ngài, không bao giờ dám quên. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi cầu xin sự hiện diện của ngài như vậy, cầu đến ngày thứ ba thì chỉ nhìn thấy phía đông Phật đường có một vầng khí trắng, phía tây có một vầng khí vàng, phía nam có một vầng khí đỏ, phía bắc có một vầng khí xanh, ở giữa là một vùng khí tím, khí càng sủi lên càng lớn, đột nhiên có tiếng nói: “Liên Sinh, con nên biết, Phật Tổ từng nói: từ nay về sau, các đệ tử của ta truyền dạy hành đạo, tức là pháp thân Như Lai vẫn thường tại thế chứ không hề diệt. Như Lai trí thậm thâm, phổ truyền khắp pháp giới, vì đời mà hướng dẫn, cùng pháp thân chư Phật, tùy thuận ý chúng sinh, mà thấy mọi hình sắc, từ thân một vị Phật, hóa thành vô lượng Phật. Nay con cầu ta nói cho con biết lai lịch, biết rồi thì sao? Không biết thì sao? Mặc dù con biết lai lịch tiền thân của con, biết rồi thì sao? Không biết thì sao? Đó chẳng phải là một sự lãng phí tâm tư vô ích sao?”
Tôi im lặng không nói, hổ thẹn và hối hận vì sự vô tri của mình.
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: ”Nay ta dạy Đạo pháp cho con, con chính là ta tái thế rồi, điểm này con phải hiểu rõ ràng, lẽ nào điều Phật nói, con vẫn chưa thể ngộ ra sao?” Tôi nói: ”Con hiểu rồi.” Linh Sư lại đi rồi, nhưng tôi biết, việc ngài đi hay không đi chẳng hề có sự khác biệt nào cả!
04. Làm bạn với ma
Có rất nhiều người thích hỏi tôi đã từng nhìn thấy ma chưa? Thật ra tôi không chỉ từng nhìn thấy, mà tôi còn kết bạn thân với rất nhiều linh hồn nữa. Các bạn bè là hồn ma của tôi rất nhiều, ví dụ có một người là cha Tô ở tu viện Tĩnh Sơn thị trấn Hoa Đàm huyện Chương Hóa, một người là Châu Gia Thần sống ở miền núi Bình Lâm, một người là ông Chung Hữu Nhân sống tại núi Bích ở huyện Nam Đầu, họ đều là bạn tốt của tôi. Cha Tô thì tự sát mà chết, Châu Gia Thần thì bị bệnh tim bộc phát mà chết, Chung Hữu Nhân thì qua đời vì ung thư xương.
Ma có hại người không? Theo lí mà nói, căn bản là không, bởi vì người đi trên dương quan đạo của người, ma đi trên cầu độc mộc của ma, khả năng gặp được ma là quá nhỏ, cho dù ma và người cùng sống thì người cũng không dễ phát giác ra sự tồn tại của ma, cho nên sẽ không bị ma quấy nhiễu. Còn như có một số người thường xuyên bị linh hồn quấy nhiễu, thậm chí nhìn thấy ma, là vì linh thể của bản thân người đó tương đối khác với người bình thường, cũng có thể nói là linh thể có tính âm tương đối mạnh thì khá dễ gặp và nhìn thấy ma. Đại bộ phận con người vào lúc lâm chung sẽ nhìn thấy dị tướng, đó là vì thần trí của người đó lúc ấy dần dần không còn rõ ràng nữa, trong não đã sinh ra huyễn tướng, đồng thời linh hồn của họ cũng dần dần thức dậy lại, vì thế những gì họ nhìn thấy tự nhiên sẽ là thế giới của ma một trăm phần trăm.
Phần lớn ma đều không hung ác, ví dụ cha Tô uống thuốc độc mà chết, ông ấy là một hồn ma rất nho nhã lễ độ, việc ông ấy đến gặp tôi, mặc dù tôi có hơi bất ngờ, nhưng sau khi hiểu rõ chân tướng thì tôi cũng cảm thấy thương cảm sâu sắc cho ông ấy!
Lần đầu tiên cha Tô xuất hiện là sau khi tôi đến Tĩnh Sơn để đo đạc. Tu viện ở lưng chừng núi ở thị trấn Hoa Đàm, bên phải có một khu mộ rộng lớn rất âm u. Buổi tối hôm ấy, tôi đi dạo ở sân trước của ngôi nhà, cha Tô đứng bên dưới một bụi trúc ở phía xa xa, trên người mặc pháp y màu đen, quấn cổ áo màu trắng quanh cổ, trên tay ôm quyển kinh Thánh. Đầu tiên tôi không phân biệt được ông ấy là cha xứ hay là mục sư, cử chỉ của ông ấy rất khoan thai, liên tục đặt tay lên trán làm lễ với tôi. Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ông ấy, đại khái là người uống thuốc độc mà chết thì sẽ rất khó coi, cho nên ông ấy cố ý không hiển hiện quá rõ ràng.
“Chào cha.” - Tôi nói. ”Tôi đi theo anh từ tu viện Tĩnh Sơn đến đây.” - Ông ấy ôn tồn nói: “Thần bảo hộ của Tĩnh Sơn nói anh có thể giúp tôi giải quyết khó khăn.” ”Cha có khó khăn gì?” ”Tôi là cha xứ của Kim Thập Tự đường ở địa phương nọ, tôi yêu thương anh chị em tôi, nhưng mỗi lần gặp mặt họ và trở về, tôi luôn bị chặn bởi thần bảo hộ Morne của Thánh đường, ngài cho rằng thân tôi không sạch sẽ, không thể vào Thánh đường. Hơn nữa thân tôi mang tội lỗi, vì thế ngài từ chối tôi, trừ phi có người mang nước phép đến vẩy lên người tôi thì tôi mới có thể đi vào. Tôi chờ cơ hội đến nay thì cuối cùng mới gặp được một người thông linh.”
Tôi đáp ứng yêu cầu của mục sư Tô, đã đến Kim Thập Tự đường, lấy bình đựng nước Thánh ở cả hai bên ở bên trong Thánh đường. Vào trong Thánh đường, tôi quỳ lễ một mình. Ra khỏi Thánh đường, tôi ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một vị thiên sứ to lớn giang đôi cánh rộng che kín cả mái ngói của giáo đường, vẻ bề ngoài màu trắng khiến người ta cảm thấy lóa mắt. Thiên sứ của Thánh đường hiện ra thì đều có nguyên do. Thiên sứ thấy tôi dùng bình đựng nước Thánh thì có lẽ cảm thấy rất lạ lẫm và kì quái.
Ngài nói: ”Con mắt tiên sinh khác với người thường, chẳng lẽ tiên sinh có thể nhìn thấy tôi?” ”Đúng vậy, tôi nhìn thấy ngài, đôi cánh che phủ cả giáo đường, ngài là thiên sứ bảo hộ Morne đúng không?” ”Đúng vậy, tiên sinh dùng bình đựng nước làm gì?” ”Để tịnh thân cho cha Tô, để cha có thể tự do ra vào Thánh đường.” ”Chà!” - Thiên sứ nói: “Cha Tô là một cha xứ tốt, nhưng cũng lại nghĩ quẩn, ta dựa theo trách nhiệm của mình nên đành phải ngăn chặn không cho ông ấy vào, bởi vì Thánh đường không cho phép những linh hồn ô uế đi vào. Nếu ông ấy tịnh thân rồi thì ta sẽ không chặn ông ấy nữa, chỉ mong linh hồn của ông ấy có thể tu thành siêu phàm nhập Thánh, trở thành một Thánh linh mang tội chuộc thân.”
Mặc dù tôi và cha Tô không cùng giáo phái, nhưng nhờ có sự việc này mà sau đó chúng tôi đã trở thành bạn tốt. Mặc dù ông ấy lớn hơn tôi nhiều tuổi, nhưng chúng tôi đã trở thành bạn vong niên rồi!
Còn về gia quyến của ông Chung Hữu Nhân, vợ ông ấy muốn đặt bài vị ông ấy ở trong nhà nên đã tìm đến tôi. Khi ấy linh cốt của ông Chung được để ở linh cốt tháp trong chùa Bích Sơn Nham ở Nam Đầu, cho nên cần phải dẫn linh. Tôi chuẩn bị vào ngày chủ nhật sẽ đến khu dân cư mới Trung Hưng để an linh vị cho nhà ông Chung, nhưng buổi tối ngày thứ bảy thì ông Chung đã đến gặp tôi. Đó là lúc nửa đêm, ông ấy đứng sừng sững trước giường tôi. Ông ấy rối rít hét lên với tôi: “Nhớ ngày mai, nhớ ngày mai, nhớ ngày mai, nhớ ngày mai…” Tôi nói: “Đừng nóng, tôi nhất định sẽ đi.”
Tôi lại hỏi ông ấy: ”Làm sao mà ông chết?” Ông ấy kéo ống quần tây lên, lộ ra hai cẳng chân, chân không có thịt, xương thì bị đen hết cả. Tôi nói: ”Ung thư xương.” Ông ấy gật gật đầu, sắc mặt u ám muốn khóc, tôi an ủi ông ấy.
Ngày chủ nhật, tôi đến khu dân cư mới Trung Hưng, tất cả y theo nghi quỹ Phật giáo để dẫn linh, tịnh linh, an linh, tụng kinh sám hối. Tôi hỏi bà Chung còn trẻ tuổi: ”Chồng bà chết vì bệnh ung thư xương đúng không?” ”Đúng vậy.” ”Chồng bà tính tình rất nóng nảy đúng không?” ”Đúng vậy, nhưng sao anh biết?” - Bà Chung hỏi đầy kinh ngạc. Tôi cười cười không đáp, tôi nghĩ, nếu tôi nói ra, bà ấy có tin không?
05. Bí mật về thông linh
Một lần trong tờ Reader’s Digest ấn bản Trung Quốc, tôi đọc được một bài viết về “Thần y Brazil Eligo”. Bài viết đã chỉ ra: “Gây mê và khử trùng là điều không thể thiếu trong phẫu thuật hiện đại. Nhưng vào những năm 1950 và 1960, tại một thị trấn hẻo lánh ở Brazil, có một người đàn ông ít học tên là Eligo, ông được cho là đã thực hiện hàng trăm ca phẫu thuật mà không cần đến các loại thuốc và kĩ thuật này. Nhiều người nói rằng bệnh nhân không cảm thấy đau khi ông ấy mổ, dù đó là bệnh đục thủy tinh thể hay căn bệnh ung thư nan y thì ông ấy đều có thể ra tay khiến họ khỏi bệnh. Trong số những người được gọi là thần y thì những ghi chép về sự tích của Eligo là tường tận và chính xác nhất. Có tin đồn ở Philippines rằng có một số thần y không được đào tạo về y tế, nhưng sau đó chúng được tiết lộ là trò lừa bịp. Nhưng Eligo thì khác, chưa từng có ai tìm ra đủ bằng chứng để chứng minh ông lừa đảo, rốt cục làm thế nào ông làm được những điều kì diệu này thì cho đến nay vẫn còn là điều bí ẩn.”
Eligo tuyên bố rằng có một bác sĩ người Đức tên là Fritz qua đời vào năm 1918, và linh hồn của ông ấy đã nhập vào Eligo, khiến ông có đầy đủ những năng lực phi thường.
Đối với việc linh nhập này, có vẻ trên khắp thế giới đều có, không phân biệt quốc tịch. Đương nhiên, vẫn còn rất nhiều người không tin vào chuyện linh nhập, nhưng ai đã từng bị linh nhập, thân rơi vào trong trạng thái ấy, thì tự nhiên sẽ tin vào sự tồn tại của linh hồn, không dễ dàng hoài nghi. Tác giả của bài viết trên tờ Reader’s Digest đó bản thân là một bác sĩ, căn bản là ông ấy không tin vào thần y Eligo nên từng quan sát một thời gian dài, và bác sĩ ấy cũng cho rằng là bất khả tư nghì.
Bởi vì bản thân tôi cũng có năng lực trên phương diện này, những người bị linh nhập mà tôi từng gặp thật sự là quá nhiều, có một số linh là thiện, họ xem việc giúp đỡ người là niềm vui, có một số linh là ác, khi linh nhập vào thì sẽ làm trò hề. Ví dụ truyền kì về thần y Eligo, đó là thiện linh của bác sĩ người Đức nhập vào người của Eligo để giúp chữa bệnh và phẫu thuật cho con người, lợi dụng linh lực đặc thù để chữa trị những căn bệnh đã hết hi vọng.
Tôi cho rằng linh nhập cũng là một dạng thông linh, con người trở thành công cụ của linh, chịu sự khống chế của linh, hiện tượng này giống như kê đồng ở nước ta. Người bị linh nhập là vì nguyên nhân gì mới có thể bị nhập? Thông qua nghiên cứu của tôi, tôi phát hiện ra linh hồn là một khối khí trong không trung, vốn là khí tự do vô hình nhưng tụ tập lại, năng lượng của chúng thì mỗi cái một khác. Và trên thân mỗi con người cũng có một khối khí bẩm sinh, cũng chính là linh hồn của con người, nếu linh khí trên thân người chúng ta và linh khí của ngoại giới có thể cảm ứng lẫn nhau thì con người này không cần phải trải qua một dạng trình tự nào cả mà tự nhiên có thể bị linh nhập.
Sự giao tiếp giữa linh và linh là nhờ vào tần số để cảm nhận lẫn nhau, ví dụ linh hồn trên thân một người nào đó và một linh nào đó của ngoại giới có tần số ngang bằng, như thế rất tự nhiên có thể cảm nhận được thôi! Cái này giống như hội thoại trên radio, nếu tần số bằng nhau thì bạn có thể nghe được. Cho nên mỗi khi xảy ra hiện tượng linh nhập, người bình thường bị linh nhập chắc chắn bộ phận nào đó trên thân thể sẽ dao dộng nhịp nhàng hoặc lắc lư, nhưng không nhất định là lúc nào cũng như thế.
Tác giả có biện pháp khiến cho mỗi người đều có thể bị linh nhập, đương nhiên việc đó cần phải trải qua một loạt thủ tục, nếu bạn chủ động tìm kiếm linh giới, tôi cho rằng mỗi người đều có thể thành công.
Tôi từng được mời đến Trung Lịch gặp một người phụ nữ khổ sở không sao chịu nổi, cô ấy họ Trình, tốt nghiệp đại học Trung Hưng, trông cực kì xinh đẹp. Khi chưa bị linh nhập thì tính tình dịu dàng, hòa nhã thân thiện. Sau khi bị linh nhập, sắc mặt trở nên dữ tợn dị thường, miệng nói lảm nhảm, khỏe như trâu, phá hoại hết đồ đạc trong nhà, giống như đang xả cơn tức giận vậy. Người nhà cô ấy cũng từng tìm đến các bác sĩ khoa thần kinh, ngoài điện liệu ra thì còn uống thuốc an thần, nhưng chẳng có biện pháp nào tốt hơn. Con người cô ấy khi chưa bị linh nhập và lúc bị linh nhập hoàn toàn là hai người khác nhau.
Khi tôi đến nhà cô ấy, ban đầu cô ấy ngoan ngoãn đi từ trên tầng xuống, dáng vẻ trang nhã, phong thái duyên dáng, nhưng đột nhiên cô ấy thay đổi sắc mặt, đầu lắc điên cuồng, xõa tung tóc ra và lắc, bôi đầy nước bọt lên mặt. Khuôn mặt xinh đẹp lúc ban đầu đã biến thành dị hình dị dạng, cô ấy nhảy từ tầng trên xuống tầng dưới, túm lấy cái ghế quăng ra ngoài, tiếng gào thét kinh khủng, chỉ có chồng cô ấy miễn cưỡng giữ cô ấy lại. Tôi im lặng đứng bên cạnh xem động tác của cô ấy, dùng “khởi âm nhãn pháp” để quan sát. Tôi nhìn thấy trên người cô ấy có một linh hồn ướt sũng từ đầu đến chân nhập vào, linh hồn ấy vẫn còn lớn tiếng hét lên: “Tôi không cam tâm, trả lại mạng cho tôi, trả lại mạng đây!”
Tôi đi ra sau lưng người thiếu phụ, dùng bàn tay vỗ ba cái vào lưng cô ấy, tay bắt kiếm quyết rồi vạch lên lưng cô ấy một lúc, linh hồn kia bật ra khỏi người cô ấy rồi bỏ chạy tan biến như một làn khói. Còn người phụ nữ khi tỉnh lại thì nhìn tôi bằng con mắt ủ rũ, cảm thấy ngượng ngùng.
“Khi cô bị nhập thì cô vẫn còn tỉnh táo phải không?” ”Đúng vậy, nhưng thân bất do kỉ, tôi không biết phải làm sao?” - Cô ấy đưa tay chải tóc. ”Trong nhà có ai bị chết đuối không?” - Tôi hỏi. ”Không có.” - Cô ấy và chồng đồng thanh nói: “Không có đâu!” ”Tôi nhìn thấy một linh hồn đàn ông toàn thân ướt sũng nhập vào người cô, hắn đầy căm phẫn.”
Hai người họ im lặng không nói gì. Cuối cùng, họ thành thật kể với tôi, khi cô ấy học đại học Trung Hưng có một cậu bạn học điên cuồng theo đuổi cô ấy, nhưng từ đầu tới cuối đa tình mà chẳng được gì thì thành mối hận suốt đời, cô ấy không hề để ý đến cậu bạn này. Cuối cùng, cậu bạn học yêu sâu sắc và hận cũng sâu sắc, đã nhảy xuống đầm Nhật Nguyệt tự sát, lúc chết còn để lại lời trăng trối là không quên được cô ấy, thề sẽ không để cho cô ấy yên.
“Hai người vẫn nên siêu độ cho anh ta đi, siêu độ đi! Để xoa dịu oán khí của anh ta.” ”Được thôi.” Kết quả sau đó thế nào, họ chưa từng liên lạc lại với tôi nên tôi cũng không biết. Việc linh nhập vào thân như thế này từ xưa đến nay có nhiều lắm, nếu nghiên cứu sâu thì ắt sẽ có thu hoạch.
06. Truyền kì về bùa phép
Sau khi cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán” được xuất bản thì đã có rất nhiều đạo hữu sôi nổi bàn luận, có người tán dương, có người chửi bới, và có một số thuật sĩ giang hồ ai đọc được thì đều kinh hãi. Những người bình thường dựa vào việc lên đồng làm kế sinh nhai thì như đứng trên đống lửa ngồi trên đống than. Những kê đồng chân chính thì không hề gì, những kẻ sợ hãi là những kê đồng giả thần giả quỷ vừa đọc được cuốn sách này thì giống như ảnh hiện hình, yêu pháp khó mà phát huy. Họ đối với tác giả cuốn sách thì chỉ sinh ra tâm lí vừa đố kị vừa ao ước. Hơn nữa, lại có một số phù tử tiên [người chuyên vẽ bùa chú] cao ngạo có những điều bất lương trong lòng, muốn đưa tôi vào chỗ chết không tha. Ôi lòng người! Lòng người! Đúng là càng thay đổi càng thối tha.
Sau khi cuốn sách ấy phát hành được hai tuần, vào một buổi tối khoảng 11 giờ 40 phút, tôi đang nằm trên giường, trong đầu kiểm điểm lại những ưu khuyết điểm trong một ngày của mình. Đúng vào lúc tâm trí tôi đang chạy băng băng, bỗng nhiên tôi thấy bên ngoài cửa sổ bay vào một vệt ánh sáng trắng. Theo kinh nghiệm thông thường của tôi, đó là linh quang co duỗi của phù, xung quanh ánh sáng trắng ôm lấy một khối khí đen, có thể thấy phù này mang đến điều hung, không phải phù thiện, nếu là phù thiện hoặc thư nhắn của Thần minh thì lớp bên ngoài ánh sáng trắng nhất định sẽ là các vòng tròn màu đỏ. Vì thế, trong lòng tôi có sự cảnh giác, tôi ngồi dậy, trong lòng cung kính niệm: “Thân tức biến kim sơn, năng ẩn thiên vạn phù, nhu kim toái thiết đoạn, thương cung nỗ đao phủ, thông thông bất cận thân. Ngô Liên Sinh phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh cấp cấp như luật lệnh.” Tôi liên tục niệm chú, nhưng linh quang của phù vẫn hừng hực, người tung ra phù này công lực đã đạt đến mức thượng thừa, mặc dù phù không thể lập tức xông thẳng tới, nhưng phạm vi cũng dần dần thu nhỏ lại. Trong lòng tôi lo lắng, mồ hôi túa ra, tôi nhìn thấy người đã tung ra phù này là một người già, người này nhất định là phù tử tiên hạng nhất hạng nhì ở cả Đài Loan. Ông ấy để lộ ra nụ cười gằn.
Tôi biết nếu để cho tà pháp này đánh trúng người thì linh khí trên người tôi nhất định sẽ tiêu hao quá nửa, người cũng sẽ trở thành sống thoi thóp, giống như bị mắc bệnh nặng, và những âm linh khác cũng có thể xâm nhập. Đột nhiên tôi nghĩ đến chú thu phù mà trước kia tôi đã học: “Long y, long y, tốc tốc phúc thể, long trảo, long trảo, cấp cấp thu phù.” Tôi giơ năm đầu ngón tay của mình ra, vận động linh công, túm về phía trước, lá phù kia bỗng nhiên rung lên, giãy giụa thoát ra khỏi tay tôi, bay vụt vào không trung, một lát sau thì tiêu biến không thấy nữa. Tôi nghĩ, đây nhất định là đối phương phù tử tiên kia chờ lâu mà chưa thấy công hiệu, hơn nữa tôi lại niệm chú “long y long trảo”, công năng lớn nhất của chú này chính là bảo vệ thân thể và thu về tà phù, vì thế ông ta mới thu phù về để tránh chân khí phá vỡ phù, hiệu quả chưa thấy mà ngược lại còn chịu tổn hại.
Thêm nữa, sau khi sự việc này qua đi không lâu, liên tục ba đêm khi tôi đi ngủ, toàn thân tôi lạnh như băng, răng va vào nhau lập cập, tôi co người lại như một con tôm, đắp tới tận ba cái chăn mà vẫn cảm thấy lạnh, đầu tôi còn hơi nóng, thân tâm thì mệt lử. Tôi nghĩ rằng tôi bị ốm rồi, có lẽ là thân thể bị nhiễm phong hàn, tứ đại không điều hòa, âm hỏa quá thịnh, nên tôi cũng không để ý.
Tôi miễn cưỡng gắng gượng đến Phật đường làm pháp sự tụng kinh thì nghe thấy Kim Trá thần tướng nói với tôi: “Liên Sinh, bệnh của mình vẫn còn chưa trừ được thì làm sao cầu phúc cho người khác chứ?” ”Lời này là có ý gì?” ”Trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” có họ tên, địa chỉ của anh, hơn nữa còn có giờ ngày tháng năm sinh của anh nữa, đây chính là một sai lầm lớn. Hôm nay có một người giỏi làm phù chú tự xưng là Thông Thiên Chân Nhân đọc được sách mà anh viết, trong lòng thèm muốn, nhưng cũng lại ghen ghét, cho rằng đạo hạnh của anh đã cao như vậy rồi, chi bằng kiểm tra anh thử xem, thử thi đấu, thử đọ sức, thế là ông ta dùng rơm tết thành một người rơm, trên đó viết ngày tháng năm sinh của anh, đặt trên ngọn đèn ba hồn bảy vía, lợi dụng giờ Tí hút khí bắt lấy hồn phách của anh, sau đó quăng người rơm vào trong hầm chứa đá lạnh băng băng, để cho anh nếm thử mùi vị của băng lạnh.” - Kim Trá thần tướng nói.
“Thì ra là như vậy.” - Đến đây tôi mới hiểu, thì ra có người lén lút giở trò, tôi hỏi Kim Trá thần tướng: “Vậy tôi phải làm sao mới được đây, việc bắt nhốt hồn phách tôi đã từng đọc trong cuốn sách diễn nghĩa cũ, lẽ nào hôm nay thật sự có người biết pháp này sao?” ”Trong thiên hạ thì chẳng việc gì là không có. Người trong thiên hạ, cao nhân liên tục xuất hiện, pháp này dễ làm, vị Thông Thiên Chân Nhân kia là một thầy xem tướng mệnh, khi xem tướng mệnh cho người ta thì luôn báo trước người đó khi nào sẽ sinh bệnh. Khách đến xem bán tín bán nghi, nhưng đích thực là đến ngày hôm đó thì toàn thân thoắt lạnh thoắt nóng, giống như là mắc bệnh nặng vậy, chuẩn như thế thì lời của thầy tướng mệnh ai dám không tin chứ! Và thầy tướng mệnh kia lại chỉ thị ngày nào giờ nào đó nhất định sẽ khỏi, kết quả là cũng đoán chuẩn cực kì. Đây chính là một trong những cách kiếm tiền của ông ta đó.”
“Pháp này là dùng người rơm đặt vào trong hầm chứa đá lạnh băng băng, sau đó lấy ra, bỏ vào trong dầu sôi, rồi lại lấy ra bỏ vào trong hầm chứa đá, cứ làm tới làm lui như vậy, người bị cúng tế cũng sẽ bị lúc nóng lúc lạnh không chịu nổi!” ”Liên Sinh, anh dùng “chiêu hồn đại pháp” của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh thử xem, để gọi hồn phách quay về, bảo đảm không có chuyện gì.”
Thế là tôi thi triển “chiêu hồn đại pháp”, quả nhiên chính tôi đã mất đi một hồn một phách mà bản thân cũng không biết, thật sự là tôi quá sơ ý bất cẩn rồi!
Tôi viết ra hai sự việc có thật ở trên để giới thiệu thuật phù bay và thuật cúng tế người rơm bắt hồn, tôi tin rằng rất nhiều độc giả nhất định sẽ hiểu đạo lí ở trong đó. Người trong thiên hạ có tà có chính, người chính làm pháp nhất định là chính, người tà làm pháp nhất định là tà, đây chẳng phải là phù chú pháp thuật có phân biệt tà chính, mà là lòng dạ làm pháp của con người có sự khác biệt. Nếu trong lòng con người có thiện niệm thì hành vi chắc chắn không có sai lầm. Thuật pháp phù chú đều là một phương pháp do con người vận dụng linh lực để làm việc, sự khác biệt chính tà không nằm ở bản thân pháp mà là ở lòng người thẳng hay lệch mà thôi.
Tôi viết một cuốn sách đã đủ khiến cho tiểu nhân tà sĩ sợ mất vía, nhưng cũng có một số người không biết lượng sức mình mà làm tà phù!
07. Oan hồn trong giếng
Trong một ngôi nhà nông thôn cổ xưa ở thị trấn Đại Lí thành phố Đài Trung, tôi đã gặp một người phụ nữ cao tuổi quanh năm bị bệnh đau buốt bả vai, tuổi tác khoảng 59, tóc hoa râm, chồng bà ấy tên là Lâm Kim Hùng, làm nghề nông, mắc bệnh phong thấp, họ có hai người con, người con gái đã đi lấy chồng, còn người con trai thì 30 tuổi, cũng thường xuyên bị đau đầu. Chủ nhân nói với tôi: “Ở trong căn nhà này không có được một ngày bình yên, cho nên đặc biệt mời tiên sinh đến nhà tôi xem xét một chút.”
Tôi đi một vòng quanh ngôi nhà, đây là một chái nhà kiểu nông thôn rất phổ thông ở tỉnh này, gian giữa thờ tượng Quan Âm, linh vị của tổ tiên, chái nhà bên phải là phòng ngủ, nơi sinh hoạt và nhà bếp, chái nhà bên trái để dụng cụ làm nông và kho thóc, những điều này không có gì lạ lùng. Theo cách nhìn của địa lí phong thủy thì phía trước có một con suối quang đãng chảy róc rách, cánh đồng lúa xanh tươi trải dài đến vô tận, ở giữa cũng có điểm xuyết một vài ngôi nhà tranh. Sau nhà thì nuôi gà vịt, một rặng trúc, gió thổi trên ngọn trúc phát ra tiếng lao xao lao xao, phong cảnh cũng không tệ, phía trước thoáng đãng, sau lưng có chỗ dựa. Theo lí mà nói thì sống trong căn nhà này phải rất bình yên mới phải.
“Ngôi nhà này rất tốt đó!” - Tôi nói. ”Địa lí ngôi nhà tốt ư? Nhưng vì sao sống ở đây lại không bình an?” ”Thế này đi! Buổi tối tôi lại xem thêm một lần nữa, nói chung thì có một số thuật địa lí phong thủy vào ban ngày và ban đêm có khác nhau, có lẽ ban ngày thì là phong thủy tốt, nhưng ban đêm thì lại biến thành phong thủy xấu đó!”
Khi tôi đi ra bên ngoài ngôi nhà, lão nông dân nói với con trai của ông: ”Người thanh niên này xem địa lí ngôi nhà thật khiến cho người ta chẳng dám tin tưởng, có lẽ nào là kẻ lừa đảo không? Chứ không thì sao mà xem cả nửa ngày cũng chẳng nói câu nào đã bỏ đi rồi.” ”Không phải đâu, muốn mời anh ta đến nhà chúng ta đây một chuyến cũng rất khó đó, việc của anh ta vừa nhiều vừa bận.”
Buổi tối hôm ấy, tôi đạp xe từ Đài Trung đến xã Đại Lí, đi qua một khu mộ, đứng phía trước khu mộ có không ít vong hồn, họ chào hỏi tôi, tôi cũng rất khách khí với họ. Chiếc xe đạp của tôi vút qua, khi đến miếu Thất Tướng Quân, tôi nhìn thấy một con thần khuyển gác cổng ra sức sủa “gâu gâu” về phía tôi, chắc là Thất Tướng Quân không có nhà rồi! Dù sao thì tôi và Thất Tướng Quân cũng có duyên gặp mặt một lần rồi đó! Thất Tướng Quân ở đây là bảy linh hồn chết yểu, được chôn ở phong thủy bảo huyệt có linh khí tương đối nặng, cho nên có được địa linh, coi việc ở âm gian giúp đỡ người ta là niềm vui, thiện hạnh làm cảm động tới trời, vì thế nên được xây miếu xưng thần.
Trên đường phố Đại Lí rẽ vào một con đường nhỏ, hai bên đường người đi đường thưa thớt, trăng mờ sao vắng, có thể nghe thấy rất rõ tiếng nước chảy ở trong những hào nước nhỏ ở ruộng hai bên. Tôi ước chừng đã đi được nửa đường thì bỗng nhìn thấy có hai cái bóng đứng ở bên đường, chúng hét lên với tôi: “Giếng, giếng, giếng.” ”Giếng? Là ý gì?” - Tôi dừng xe lại hỏi. Nhìn lờ mờ thì thấy hai người họ là một nam một nữ, nhưng họ hiện lên không rõ ràng, toàn thân ướt rườn rượt, khuôn mặt thì không thể nhìn ra được là như thế nào.
“30 năm trước, tôi và em gái tôi chết trong giếng, sống nhờ ở giếng, linh khí sẽ thất tán đi, nhưng vì muốn có linh khí sinh tồn, chỉ có thể nhờ vào dương khí mà sống. Hai chúng tôi không dám đi xa, chỉ biết bám gót ông Táo Quân, hai chúng tôi muốn dựa vào khí của người ta mà sống, nhưng ông Táo Quân không đồng ý, ông Táo Quân nói, trong số mạng của cha mẹ tôi sẽ phải mang kiếp bệnh 30 năm, vì thế chỉ có thể dựa vào cha mẹ và người nhà tôi mà sống thôi. Chúng tôi mặc dù bất hiếu nhưng cũng là bất đắc dĩ. Ban ngày, chúng tôi biết là anh sẽ đến, có lẽ có thể cứu được chúng tôi. Chúng tôi chờ đợi chính là ngày này.” Nói xong, họ đột ngột biến mất.
Tôi nhìn thấy ông Táo Quân ở phía trước lảo đảo bước đi, đại khái là ông Táo Quân đó thích uống rượu lâu năm, uống say khướt rồi, tửu khí cao ngút trời.
Tôi vừa đến nhà người nông dân kia thì hỏi luôn: ”Giếng nhà ông ở đâu, dẫn tôi đi xem.” Tôi và họ đi đến bên giếng, hoạt linh đặc biệt của tôi lập tức cảm nhận được những luồng âm khí. Trở về phòng khách, tôi hỏi họ: ”Ông bà có hai người con đã chết trong giếng này đúng không? Ông bà vốn dĩ là có bốn người con, hai người con ở dưới giếng là một nam một nữ, tính đến nay nam 33 tuổi, nữ 32 tuổi, lí do vì sao mà sức khỏe của gia đình ông bà từ đầu tới cuối đều không bình an chính là ở đây.”
Tôi nói cho họ biết đầu đuôi ngọn ngành sự việc mà tôi vừa gặp. ”Là như thế này, con Lệ vào lúc 2 tuổi chơi đùa ở cạnh giếng, rơi xuống giếng, anh trai nó là thằng Vượng vì muốn cứu em gái mình nên cũng rơi xuống giếng, đến khi chúng tôi cứu chúng lên thì hai đứa đã không còn thở nữa rồi, hu hu! Tội nghiệp chúng quá!” - Bà Lâm vừa nói vừa khóc. ”Đúng vậy, đúng là việc của 30 năm trước.” - Ông Lâm bấm ngón tay đếm và nói. ”Bây giờ phải làm thế nào mới được?” - Con trai ông Lâm Kim Hùng hỏi tôi. ”Để tôi tụng kinh độ hóa cho họ vậy!”
Thế là tôi đặc biệt làm một pháp hội siêu độ, cúng cho hai anh em họ, cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát làm chủ, khi hồi hướng tôi niệm: “Tất cả chúng sinh, vô thủy tới nay, đủ mọi điên đảo, tưởng nhầm rằng tứ đại là thân tướng, lục trần duyên ảnh là tâm tướng của mình, giống như bị bệnh mắt thấy trong không khí có hoa và có mặt trăng thứ hai. Không trung thật sự đâu có hoa, người bệnh cố chấp mà người chết cũng thế. Cho nên cứ luân chuyển sinh tử, gọi là vô minh. Nay Liên Sinh cầu khẩn Minh Vương Đại Pháp Chủ, theo tất cả các linh hồn không có hình tướng, ẩn thân trong hư không, sắp xếp họ vào nơi của họ, theo nghiệp mà thọ sinh… “ Niệm xong, hai hồn ma kia từ bên cạnh tôi bay lên không, đi vào trong một bánh xe pháp lớn, chủ nhân của bánh xe pháp này chính là Chuyển Luân Thánh Vương.
Thế là ông lão chủ nhà họ Lâm, bà Lâm và con trai họ bỗng dưng bệnh tình thuyên giảm hẳn. Không bao lâu sau thì bệnh trên người đã hoàn toàn bình phục, họ cảm thán rằng: linh hồn có thật.
08. Chân tướng của âm gian
“Lục độ tập kinh” có câu nói: “Mạng người giống như dắt trâu vào lò mổ, trâu dắt đi một bước thì gần hơn một bước đến chỗ chết; người sống được một ngày giống như một bước đi của trâu, mạng sống cứ thế chảy đi mất!” Sinh tử của con người là có định số, đây là một quan niệm về định mệnh, con người chết rồi thì thần thức (linh hồn) sẽ đi về nơi ấy. Có người nói thiên đường, có người nói địa ngục, nhưng tôi thì nói là âm gian, cái gọi là âm gian cũng chính là thế giới của linh. Trong nhận thức của tôi, thiên đường và địa ngục đều nằm trong phạm vi của âm gian, đây là một dạng thế giới của khí, không gian bốn chiều, không gian vô hình.
Có người hỏi tôi đã đến âm gian chưa? Tôi cười lớn ha ha, không những tôi đã từng đến mà còn vĩnh viễn định cư tại âm gian nữa, vì sao tôi lại nói như vậy? Bởi vì âm gian và dương gian giống như cách nhau một tờ giấy mà thôi, thật ra cũng không thể nói như vậy, tôi nói, âm gian và dương gian là nhất thể lưỡng diện [hai mặt của một vật thể]. Một số thầy địa lí xem phong thủy có cái gọi là dương trạch (nhà cửa mà người sống ở), âm trạch (thành phố của người chết), nhưng tôi lại nói: nơi âm trạch có lẽ không có âm linh tồn tại, ngược lại mỗi một gian dương trạch, quá nửa đều có âm linh cùng sống, cùng nằm, chỉ là con người không thể cảm giác được sự tồn tại của họ mà thôi. Âm linh sống trong dương trạch phần lớn là tổ tiên của chính mình, hoặc là thế hệ cùng lứa hoặc thế hệ sau của mình bị chết yểu.
Âm linh có quấy nhiễu con người không? Tôi cũng cho rằng có thể, sinh hoạt thường ngày của âm linh, cá tính của âm linh thường xuyên có thể ảnh hưởng đến tính tình và tâm trạng của mỗi cá nhân, linh khí của âm linh có lớn có nhỏ, nhỏ thì cũng chẳng thể làm được gì, trái lại còn sợ người nữa. Còn nếu linh khí của âm linh nặng thì sẽ trở nên có thể khống chế con người, khiến con người không tự chủ được mà làm ra rất nhiều động tác kì quái, khí của âm linh có thể khống chế trí tuệ của con người, khiến tư duy của họ khác người bình thường, cho nên các nhà khoa học thông minh sau khi chết trở thành hồn ma thông minh, họ bí mật gợi ý cho các nhà khoa học còn sống, khiến cho các nhà khoa học còn sống gặp được gợi ý đó mà phát minh ra các thứ, thậm chí âm linh của các nhạc sĩ có thể dạy dỗ ra được một nhạc sĩ vĩ đại trong tương lai.
Thế giới của âm linh cũng chính là thế giới của tinh linh, trên trời, dưới đất, dương trạch, âm trạch, sông biển, núi rừng, nơi hoang dã đều có bóng dáng của họ. Một điểm quan trọng nhất là họ sống nhờ vào khí, chỉ cần nơi nào có khí thì họ đều có thể tồn tại một cách vô hình, đến đi tự nhiên, bởi vì bản thân họ cũng chính là một khối linh khí, linh khí còn sống sờ sờ.
Người sống có một số mệnh nhất định, tương tự, người chết cũng có một số mệnh nhất định, ở âm gian cũng có phân biệt thọ mạng, thọ mạng có phân biệt dài ngắn, cũng giống như dương gian. Số mệnh của họ cũng phải chịu sự kiểm soát của sức mạnh tự nhiên vô hình của địa phương, chịu sự kiểm soát của sinh tử luân hồi, cho nên mới có thuyết chuyển thế đầu thai. Con người sau khi chết không nhất định là sẽ lập tức chuyển thế làm người, linh hồn ngồi đần ra ở âm gian tới cả trăm năm nghìn năm cũng có nữa! Đường nối của âm dương, tôi cho rằng là như thế này, dương sinh ắt âm tử (người sống thì linh chết), âm sinh ắt dương tử (linh sống ắt người chết). Thế nhưng cũng có ngoại lệ, đó là thiểu số trong thiểu số thôi, ví dụ lấy chính bản thân tôi để nói đi! Tôi là người sống mà linh cũng sống, bởi vì linh của tôi sống, cho nên tôi có thể nhìn thấy thế giới vô hình, nghe được âm thanh của thế giới vô hình, tiếp xúc được với những thứ mà người bình thường không tiếp xúc được, hiểu được những điều mà người bình thường không thể hiểu được. Những việc này nói ra thì rất thần kì, thật ra cũng có gì kì quái đâu!
Tôi viết cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán” chính là do chủ thần trong Phật đường của tôi là Diêu Trì Kim Mẫu chỉ thị cho tôi viết. Ngài muốn tôi nhất định phải viết ra, đây chính là một trong những mục đích mà ban đầu ngài tìm tôi, để khiến những người ngày nay không tin vào quỷ thần, người không tin vào thiện ác quả báo, người không tin nhân quả, trong lòng sẽ có sự cảnh giác, đừng cho rằng người chết đi rồi thì tất cả đều diệt hết, làm việc xấu cũng chẳng làm sao cả, thật ra chẳng những liên lụy đến con cháu mà đồng thời còn liên lụy đến chính mình nữa! Trong cõi vô hình tự có quỷ thần bí mật chi phối đó.
Tôi lấy một ví dụ để nói: Từng có một lần, tôi đồng ý với một số người làm pháp hội siêu độ, có rất nhiều người báo danh, dự định vào ngày chủ nhật nọ sẽ tiến hành pháp hội, thế nhưng khi gần đến ngày pháp hội thì tôi đột ngột nhận được công văn, là một công văn cực kì khẩn cấp, không đi giải quyết công việc ở nơi xa không được, thế là chỉ còn cách phải hoãn lại thời gian làm pháp hội một tuần, đổi thành tuần tới sẽ tiến hành. Quyết định tới vào phút chót thì tôi cũng thông báo vào phút chót, nên tự nhiên cũng bỏ sót khá nhiều người không thông báo được.
Vào buổi tối ngày chủ nhật dự định làm pháp hội, tôi ở trong một khách sạn ở Đài Bắc, đêm ấy tôi vừa nhắm mắt lại thì có một đám người đứng ở phía trước giường tôi, trong đó có mấy người chỉ vào mũi tôi mắng: “Chẳng phải hôm nay làm pháp hội siêu độ sao? Sao anh lại không làm, chạy đến chỗ này làm cái gì? Anh đã hẹn trước với chúng tôi, chúng tôi đặc biệt tới đây tính sổ với anh đó.” ”Khoan đã! Tôi chắc chắn sẽ làm pháp hội siêu độ, hôm nay tôi có việc phải làm ở dương gian, chủ nhật tuần sau nhất định sẽ làm, mong mọi người thứ lỗi cho tôi.” Tôi phải tốn khá nhiều lời giải thích thì cuối cùng mới dần dần dẹp yên được sự ồn ào vì tức giận bất bình của họ. Ôi! Tôi vốn dĩ sống rất khỏe, bây giờ thì một mặt phải làm công việc ở dương gian, một mặt lại phải chăm lo đến âm gian.
Lúc này tôi nghĩ đến một câu trong kinh Niết Bàn: “Mạng người không dừng, qua núi rồi lại xuống sông, hôm nay mặc dù còn sống, nhưng ngày mai cũng khó đảm bảo. Nói chi buông thả tâm vào những việc ác. Sức khỏe hay sắc đẹp cũng không dừng, ví như ngựa phi, làm sao có thể dựa vào những thứ ấy mà sinh tâm ngạo mạn. Giống như ác quỷ rình mong có người đi qua, tứ đại ác quỷ thường rình mong có ta đi qua, bảo sao lúc nào cũng có thể khởi lên ác ý. Ví như ngôi nhà cũ sắp sụp, mạng ta cũng thế thôi.” Ôi! Con người không hành thiện, còn chờ đến bao giờ?
09. Thực tướng và huyễn tướng
Kinh Giải Thâm Mật có nói: “Phật nói, tính của mọi pháp vốn là tịch tĩnh, tự tính của pháp là niết bàn. Vì là niết bàn, không thể nhận đó là tính của nó, do vậy nói là vô tự tính. Có tính toán và chấp vào pháp nên mới có chúng sinh tướng, chỉ là tên giả chứ thật ra không có. Tiếp nữa, bản tính của mọi pháp là không thể thấy, không thể nghe, không sinh cũng không diệt.”
Từ câu nói này của Phật có thể thấy mọi pháp như huyễn tướng, không có tự tính, không có tha tính, pháp vốn là như thế, nên bây giờ mới không diệt, cho nên trong kinh Bảo Tích có một câu là: “Tự tính của mọi pháp bất khả đắc, giống như giấc mơ, theo đuổi dục vọng rồi cũng đều hư vô.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thông đạt mọi thế gian, giả danh không có thực, chúng sinh và thế giới, như mộng như quang cảnh. Hiểu rõ mọi thế gian, như lửa như quang cảnh, như tiếng vọng như mơ, như mộng như biến hóa.”
Tôi theo kinh Kim Cang mà nhìn cuộc đời, hiểu sâu sắc rằng tất cả đều thật đều huyễn, chúng sinh ngày nay không hiểu đạo lí của thực tướng và huyễn tướng, vì thế trong bài viết ngắn này, tôi đặt biệt đi sâu vào phân tích thấu đáo, hi vọng nhờ có sự giải thích đơn giản dễ hiểu của tôi có thể khiến con người hiểu chỗ giống nhau và khác nhau giữa nhân gian và âm gian, và những cái “tướng” này liệu có phải là cái mà chúng ta gọi là “chân như” không.
Gần như những người còn sống đều cho rằng đời người là thực tướng, có hình có thể, có cao ốc chọc trời, có hỉ nộ ái ố, có cha mẹ anh em, như vậy làm sao mà không thật chứ? Tồn tại là có hình thật tướng thật, tự nhiên có hình tướng thật. Thế nhưng cũng có một số người cho rằng đời người giống như một giấc mộng huyễn bóng ảnh, chẳng qua là giấc mộng này hơi dài một chút mà thôi. Đời người trăm tuổi xưa nay hiếm, đếm được vài mùa hạ đến đông sang, chớp mắt một cái là đã qua đi, từ lúc ấu thơ cho đến lúc già, nhắm mắt vào mở mắt ra cũng đã đến rồi, đến cái lúc mặt trời khuất sau núi tây, thử nghĩ mà xem, đời người chẳng phải là một giấc mộng xuân thu chẳng có được cái gì cả sao? Mắt nhắm lại, hai chân buông thõng, mây núi gió mưa, chôn lâu dưới lớp đất xanh cỏ, sinh mạng của một con người kết thúc như thế, là sao không phải là huyễn tướng chứ! Cho nên tôi nói: “Người mê cho rằng đời người là thực tướng, người ngộ cho rằng đời người là huyễn tướng.”
Có người hỏi tôi: ”Có tồn tại địa ngục không? Hay là cố ý đặt điều nói ra để cảnh giới người đời mà thôi?” Tôi đáp: ”Thật có địa ngục.” Họ hỏi: ”Địa ngục âm gian là thực tướng hay là huyễn tướng?” ”Giống như nhân gian.” - Tôi đáp.
Tại đây, tôi luôn luôn nhấn mạnh, âm gian giống như dương gian, và địa ngục là một bộ phận của âm gian, đó là sự tồn tại thật sự, sự sinh ra của con người chính là cái chết của linh, sự sinh ra của linh chính là cái chết của con người, đó là sự tuần hoàn lẫn nhau, dương gian và âm gian, sống và chết của con người, nhân quả báo ứng tuần hoàn vĩnh viễn không dừng, đây đều là tự tính làm nên sự chuyển động bánh xe pháp nhỏ của chính mình, còn vũ trụ là một bánh xe pháp lớn, dương gian và âm gian này đều thật sự tồn tại, nhưng lại đều là huyễn tướng. Nếu lấy sự tồn tại của một con người để quan sát thì con người tại dương gian khi chết đi, tất cả đều diệt, không có nhân gian, linh ở tại âm gian khi chết đi, tất cả đều diệt, không có âm gian, nói gọn lại cũng đều là huyễn tướng giả tướng, đều do nhân duyên tự tính thúc đẩy sinh tử của họ.
Chúng ta thử đọc kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni: “Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi! Địa ngục do bản thân phân biệt mà sinh ra, là tự nhiên mà sinh ra sao? Văn Thù đáp rằng: Địa ngục là dựa theo cách phân biệt vô căn cứ của phàm phu, súc sinh, ngạ quỷ cũng thế. Trong con mắt của ta thì không có địa ngục, cũng không có khổ.” Do vậy, tôi cho rằng: “Tất cả do tâm tạo, tâm chấp vào địa ngục thì sẽ có thực tướng địa ngục, tâm chấp vào ngạ quỷ thì sẽ có thực tướng ngạ quỷ, tâm chấp vào thiên nhân thì sẽ có thực tướng thiên nhân. Còn người tu đạo thông thường, nếu có thể chiến thắng được tâm niệm của chính mình thì chắc chắn thành Phật, một mình bước đi trong tam giới mà sinh ra Phật tướng chân như thật sự tồn tại.
Một buổi tối cuối tuần, có một sinh viên là Chu Văn Tân học năm thứ ba Đại học Chính trị đến tìm tôi. Vốn dĩ tôi có quy định thời gian tiếp khách, bởi vì người tìm gặp tôi thật sự quá nhiều, hiện tại thì tôi tiếp khách vào các buổi tối thứ hai, tư, sáu, những thời gian khác sẽ là thời gian tôi tĩnh tu, tôi không muốn có người quấy rầy, nhưng cậu sinh viên Đại học Chính trị kia thấy cửa vào nhà tôi không đóng nên cứ thế xông thẳng vào, vào một cái là hỏi ngay.
“Anh nói có âm gian có địa ngục phải không?” ”Thật sự có.” - Tôi trả lời anh ta. ”Vậy thì xin hỏi địa ngục có Diêm Vương không?” ”Thật sự có.” ”Vậy thì tôi hỏi không khách sáo nữa, địa ngục có Diêm Vương là người phương Tây không?” Người bình thường gặp phải câu hỏi quái dị này có lẽ sẽ lập tức cứng họng, ngay cả một tiếng hắng giọng cũng không thể hắng được, nhưng tôi thì khác, bởi vì tôi đã từng đi đến nơi hang sâu tăm tối, có được mật lệnh của Linh Sư Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, đã chứng minh được Tiên thiên vô cực đại pháp, làm sao một vấn đề nan giải nhỏ xíu này có thể khiến tôi “thi trượt” được chứ!
Tôi hỏi ngược lại anh ta: ”Có nhân gian không? Nhân gian có người Tây không?” Anh ta chợt ngây ra: ”Thật sự có.” Tôi lại hỏi: ”Có nhà tù không?” Anh ta đáp: ”Đương nhiên có.” Tôi hỏi: ”Có ông Tây làm thẩm phán và cai ngục không?” Anh ta: ”……..”
Tôi nói thật với anh ta, nhân gian và âm gian vốn không khác biệt, đều là thực tướng, và cũng đều là hư tướng, như Phật đã nói, do nghiệp mà duyên hiện.
10. Hành vi của Thần
“Thần” - chữ này đã mê hoặc bao nhiêu chúng sinh. ”Thần” - chữ này rất mập mờ mà cũng cao quý, từ cổ chí kim, trong nước vào ngoài nước, bao nhiêu người từng thỉnh cầu Thần, bao nhiêu người miệng ngày ngày gọi Thánh danh của Thần. Mặc dù ngày nay đã bước vào thời đại khoa học, nhưng nhân loại vẫn không thể nào giải thích được những sự việc thần kì, quy cho chúng là sự sắp đặt của Thần hoặc Trời. Bộ mặt thật của Thần là như thế nào đây? Thần Thánh trong vũ trụ là một vị Chúa Tể hay là nhiều Chúa Tể? Thần có phân biệt lớn nhỏ không? Và Thần Tiên phân thành mấy cấp? Có Thần Thánh ở bên ngoài tam giới không? Những nghi vấn này, đối với tôi mà nói, đều không phải là vấn đề, bởi vì rất nhiều Thần minh là bạn tốt của tôi mà!
Tôi từng đến miếu Thánh Đế ở bên dưới cây cầu nối ở quận Diêm Trình thành phố Cao Hùng, linh khí ở ngôi miếu Thánh Đế đó rất nặng, mỗi lần tôi đi vào, các Thần minh lớn nhỏ trong miếu đó đều nồng nhiệt chào hỏi tôi. Có một vị Thiên Lôi giọng nói không rõ là Thần Thánh phương nào, mỗi lần nhìn thấy tôi đều gọi: “Liên Sinh, lâu rồi không gặp anh, dạo này phát tài ở đâu rồi à!” Nói ra thì khiến người ta khó tin, Thần minh hễ nhìn thấy tôi thì lại mở mồm ra nói phát tài ở đâu rồi, thật sự chẳng có chút “mùi Thần” gì cả. Điện bên phải của miếu Thánh Đế có một cậu bé chăn ngựa dắt một con ngựa thần, tôi nhìn thấy cậu bé chăn ngựa toét miệng cười với tôi, còn con ngựa kia thì càng kì quái hơn, cái mông nó hếch lên, chân ngựa thì đá mấy cái, rồi nó thở ra một hơi xem như là chào hỏi.
Thần minh đích thực là có phân biệt lớn nhỏ, đại bộ phận Thần có vị trí tối cao thì tương đối trang nghiêm, thần uy hiển hách, có tồn tại sự tôn nghiêm đặc thù. Thần dựa theo chức vị mà phân cấp lớn nhỏ, cũng phân cấp theo xưng hiệu, ví dụ Thổ Địa Công được thờ ở trong miếu lớn thì cao cấp hơn Thổ Địa Công ở các địa phương bình thường một chút, và các Thổ Địa Công bình thường thì vẫn còn vĩ đại hơn các Thổ Địa Công được thờ cúng trong các hộ gia đình. Phần lớn trong các ngôi miếu lấy Chủ Thần làm chủ tôn, các thần phụ giúp khác cũng theo xưng hiệu lớn nhỏ mà lần lượt xếp hàng, không thể bất phân lớn nhỏ sẽ làm loạn kỉ cương của thần.
Thần minh trong miếu bình thường có một số rất thích nói chuyện giỡn chơi với tôi, Na Tra Tam Thái Tử (con người gọi là Trung Đàn Nguyên Soái), từng trốn trong túi áo tôi, cùng tôi đi dạo chợ đêm ở đường Trung Hoa ở Đài Trung, xem trò đánh quyền bán thuốc đến chỗ ngoạn mục thì cũng vỗ tay khen hay. Minh phủ nhị vị tướng quân là Thất Gia và Bát Gia vào lúc canh ba nửa đêm thấy cô quạnh quá cũng từng tìm đến tôi để tán gẫu. Tôi thích thú nhất là Lí Thiết Quải - một vị trong Bát Tiên, tướng mạo rất khôi hài, lại còn thích nhất biểu diễn trò làm xiếc, có khi là trò nhào lộn, có khi thì là trò đứng một chân, có khi thì múa một bài tập tễnh, dạy tôi luyện “thập bát thủ la hán quải”, trong đó có một chiêu gọi là “thiết quải chỉ lộ”. Lí Thiết Quải có khi còn thu nhỏ lại, kéo ra một tấm giấy bạc (giấy nhôm), thu nhỏ thân thể lại bằng nắm tay của người lớn, dùng tiền vàng mã làm chăn, rồi nằm trên bàn thờ thần mà ngủ.
Có một lần, tôi thức dậy vào lúc nửa đêm canh ba, đi vào Phật đường, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy trên bàn thờ Thần có rất đông Thần minh đang ngồi trên sàn nhà, họ có tới hơn 50 vị, mỗi vị Thần minh biến thành nhỏ chỉ bằng bàn tay, ngồi quây thành một vòng tròn lớn, giống như con người khi chơi trò chơi tập thể thì quây thành một vòng lớn vậy. Các vị nhìn thấy tôi nhưng chẳng hề tránh đi, trong đó có một vị Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi: “Liên Sinh, Thần Thánh thập phương đang bàn việc quan trọng, hi vọng anh đừng làm phiền.” Tôi vừa thấy là Thần minh cũng họp mặt bàn bạc việc quan trọng thì chỉ còn biết cúi mình lui đi.
Tôi từng gặp một Thần minh thần kì nhất, vị thần này để lộ ngực, mặc phục trang miền núi, đầu quấn khăn hoa nhiều màu sắc, cài lông chim, nói chuyện tôi nghe không hiểu, ông ấy tự xưng là Sơn Thần, là thần của một ngọn núi nào đó ở rặng núi trung tâm, cuối cùng nhờ có Thần Thánh trong Phật đường của tôi phiên dịch thì tôi mới hiểu là ông ấy cứ khăng khăng muốn tôi cúng dường mấy bình rượu gạo lâu năm thì ông ấy mới chịu đi. Thần minh thích giở trò lưu manh giống như thế này thì thật sự là hiếm thấy.
Theo như tôi biết, tứ Thánh lục phàm thập pháp giới của Phật gia thì tứ Thánh là chỉ Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tứ Thánh này chính là cảnh giới giải thoát, được xếp vào cảnh giới bất động bên ngoài tam giới. Thế còn lục phàm tức là lục đạo trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, lục đạo này vẫn phải chịu luân hồi trong tam giới. Còn thiên đạo là nơi Thần minh cư ngụ, atula đạo chính là thế giới của tinh linh, Atula Vương của thế giới tinh linh chiến tranh với Thiên Đế, muốn tranh giành vương vị, cũng giống như nhân gian thường xuyên có chiến tranh lẫn nhau. Thần có thần cách [quy cách làm thần], Thần minh phạm tội thì cũng giống như con người, có thể đọa thẳng xuống địa ngục. Còn Đạo gia có Tiên phẩm, vị cao nhất là Đại La Kim Tiên cũng dựa vào bồ đề tâm để cứu đời, địa vị ngang với Bồ Tát, cho nên cũng là địa vị bất động. Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ của Đạo giáo có địa vị ngang hàng với trời, tuổi thọ ngang với trời, vận chuyển pháp luân và bản thân cũng không chuyển động, địa vị cao quý ấy cũng có thể gọi là vô thượng rồi!
Tôi từng ở trong Phật đường ngồi im nhắm mắt lại thì nhìn thấy một cụ già lom khom đến, cụ già này mặc áo rách, đầu đội kiểu mũ của thần, sắc mặt có bệnh, cầm gậy ba-toong, đau đớn thở dài và gọi tôi: “Liên Sinh, ôi, ôi, thổ địa nhỏ bé này sức cùng lực kiệt, đặc biệt tới đây tìm anh.” ”Thổ Địa Bồ Tát là Thần Thánh phương nào, tìm tôi có việc gì?” - Tôi chắp tay cung kính hỏi ông ấy. ”Tôi là một tiểu thổ địa công ở phía tây Hạn Khê, vì thân thể khó chịu nên đặc biệt tới đây để xin long phù.” ”Long phù ư! Sao biết tôi biết long phù?” ”Tiểu thổ địa thần thông quảng đại, từ lâu đã biết Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh từng truyền long phù cho anh.”
Cái gọi là “long phù” là phù chuyên chữa trị “ngũ suy tướng hiện” của Thần minh [ngũ suy tướng hiện là sự xuất hiện năm tướng suy hoại của các vị trời, biểu thị phúc trời sắp hết, đó là quần áo dơ bẩn, hoa trên mũ miện khô héo, nách đổ mồ hôi, thân thể có mùi, chán nơi ở của mình], nhưng phải phối hợp với thiện công của Thần minh thì mới có hiệu quả. Pháp này không dễ gì mà người biết Thần biết, cho nên tôi rất kinh ngạc. Tiểu thổ địa cầu tới tôi, tôi vận bút vẽ phù kết ấn rồi đốt phù cho thổ địa công công, vị thổ địa công công ấy vui mừng tung tăng ra về.
11. Thần Thánh có thuật phân linh
Kinh Hoa Nghiêm: “Hỏi rằng, pháp mà Phật đã chứng chỉ có một, vậy vì sao lại hiện lên vô lượng cõi Phật, hóa hiện vô lượng chúng sinh, diễn hóa vô lượng âm thanh, hiện lên vô lượng thân? Đáp rằng, giống như mặt đất chỉ có một, nhưng chúng sinh lại sống ở nơi khác biệt, nhưng đất không có ý nghĩ khác. Rồi tính của lửa là một, có thể đốt các vật, lửa cũng không phân biệt. Rồi biển lớn là một nhưng con sóng cũng hiện lên muôn hình, nhưng cũng không khác biệt với nước. Rồi tính của gió là một, có thể thổi tất cả mọi thứ, gió không có ý niệm là thổi một cách phân biệt. Giống như mặt trời không có mây che, chiếu khắp thập phương, tính quang minh vẫn như thế. Pháp của chư Phật cũng như vậy.”
Và trong kinh Phật Cảnh Giới nói: “Không thể thấy, không thể nghe, không thể ngửi, không thể nếm, không thể sờ, như các ảnh hiện lên trong gương, tùy theo các chúng sinh mà có đủ loại sức tin khác nhau, vì vậy thị hiện đủ loại thân.”
Còn về linh quang của Phật phổ chiếu khắp vũ trụ, lời giải thích trong kinh Phật tương đối mơ hồ, chỉ cho rằng giống như đất, như lửa, như nước, như gió, như ánh mặt trời, tính chất của nó vốn là một, nhưng hóa hiện ra nghìn nghìn vạn vạn hình ảnh để che khắp chúng sinh. Rồi lại nói giống như cái gương, một cái gương hiện lên một ảnh, thị hiện đủ loại pháp thân. Trong quá khứ tôi không hiểu ý nghĩa của linh trong từ phân linh, nên tôi cũng rất kinh ngạc đối với thuật phân linh.
Tôi từng hỏi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh: “Thưa Thầy, vì sao kim thân của Phật Tổ lại có nhiều hình tướng như vậy? Có phải là Phật Tổ của các chùa trong cả nước là một vị Phật Tổ không, rồi làm sao mà Phật phù hộ được cho chúng sinh toàn thế giới? Phật Tổ của chùa Linh Sơn và Phật Tổ của chùa Tường Vân có gì khác nhau không?”
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói với tôi: “Liên Sinh, điều bí ẩn ở đây nếu ta nói ra thì con sẽ hiểu thôi, nếu ta không nói ra, chúng sinh vĩnh viễn không hiểu, chỉ biết tính chất của nó, không biết đạo lí chân thực của nó. Linh quang của Phật Tổ vĩnh viễn trụ ở thế gian, vĩnh viễn trụ thế gian này chính là Phật tử làm việc Thánh của Như Lai, người ấy cũng giống như Phật Đà tái thế. Hôm nay chùa chiền trong cả nước, Phật Tổ có thể nói là một vị Phật Tổ, vì tính của Phật là một, nhưng cũng có thể nói là một linh thân khác, vì mỗi một linh của ngài lại có sự khác biệt.” ”Sao có thể nói như vậy?” - Tôi rất lấy làm lạ.
“Pháp thân Phật Tổ vĩnh viễn trụ ở Phật quốc, còn thần thông của Phật thì bất khả tư nghì, Phật tính của chúng sinh đều từ Phật mà ra. Hôm nay linh quang của Phật Tổ thấy trong chúng sinh có người có duyên thiện căn, tại thế hành bát chính đạo, tu thập thiện, chứng lạc niết bàn, siêu thẳng đến Phật quốc, Phật Tổ đích thân nghênh đón, đích thân dạy dỗ các Phật tử ấy, và sau đó hướng dẫn Phật linh của họ từ không trung giáng xuống phàm gian, sống trong chùa chiền, nhận cúng dường hương hỏa muôn đời của nhân loại. Mỗi một Phật linh đều từ con người mà ra, mỗi một Phật tính cũng giống như thế, nhưng mỗi một Phật linh thì có sự khác biệt, nói như vậy con đã hiểu chưa?” ”Đây đúng là quá bất khả tư nghì, cuối cùng thì con đã hiểu rồi.”
Cho nên hôm nay có người hỏi tôi, Ma Tổ ở Bắc Cảng, Ma Tổ ở Lộc Cảng, Ma Tổ ở Chương Hóa, Ma Tổ ở Đại Giáp, và tất cả các vị Ma Tổ lớn lớn nhỏ nhỏ ở khắp đất nước e là không chỉ có trên mấy nghìn mấy vạn vị, các vị Ma Tổ này có phải đều là một vị Ma Tổ không? Nếu cứ vĩnh viễn không giống nhau như vậy thì chuyện này là như thế nào đây? Còn nữa, hiện tại trên cả nước, các phân đường của Từ Huệ Đường Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn cũng có trên một trăm phân đường, từ tổng đường ở Hoa Liên phân thành phân đường Trung Lịch, phân đường Phong Nguyên, phân đường Trúc Sơn, phân đường Khê Hồ, phân đường Nam Đầu, phân đường Đài Nam, v.v… Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn vốn chỉ có một, làm sao mà các vị lại khác nhau chứ?
Kẻ hèn này giải thích như sau: Ma Tổ Bồ Tát đắc đạo, pháp thân ngụ tại Trung Thiên Giới, luôn luôn lo lắng cho các thiện tín ở nhân gian. Khi ngài gặp được tín chúng là nữ đạo sĩ kiền thành lễ bái Ma Tổ, tâm địa lương thiện, giúp người làm điều thiện, có đại thiện căn, thì lúc nào cũng có linh quang của ngài đi theo bảo vệ, đôi khi sẽ khảo nghiệm tâm địa và cách đối nhân xử thế của người đó, đôi khi cố ý thăm dò để hiểu rõ tâm của người đó. Trải qua trăm kiểu khảo nghiệm, nếu nữ đạo sĩ đó có thể giữ vững tín ngưỡng, vẫn luôn ưa thích làm việc thiện, tuân thủ lễ nghi, tam tòng tứ đức, tương phu giáo tử [giúp chồng thành đạt, khéo dạy con cái], có tấm lòng nhân từ và yêu thương, Ma Tổ sẽ thấy rất hoan hỉ.
Người phụ nữ này sau khi chết, Ma Tổ lập tức hiện bản tướng của mình, dẫn dắt người phụ nữ ấy tiến nhập Trung Thiên Giới, sau đó Ma Tổ ở Trung Thiên Giới dạy dỗ một nhóm nữ đạo sĩ có thiện tâm chính niệm này, dạy cho họ chính pháp chính kiến, đợi đến khi họ tu học xong rồi thì lợi dụng cơ duyên phái họ lần lượt xuống phàm trần, theo các cung miếu quán đường mà nhận cúng dường hương hỏa muôn đời của nhân loại. Những thần linh này đều là do chính bản thân Ma Tổ một tay giáo huấn mà ra, vì thế họ có tâm tính của Ma Tổ từ bi chúng sinh, tính này là một là duy nhất. Còn linh thân (thần thức) của họ tự nhiên mỗi người mỗi khác, họ trụ thế hoàn toàn là vì tu thiện công mà đến, dựa theo nhân duyên chúng sinh, mỗi người sẽ hiển hóa lực thần thông, bảo hộ chúng sinh trong thập phương thế giới, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Bởi vậy trong cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán”, tôi có nói đến việc tôi gặp Ma Tổ ở Lục Giáp, gặp Ma Tổ ở Tiểu Cảng, và Ma Tổ Lục Giáp và Ma Tổ Tiểu Cảng cùng là Ma Tổ nhưng hình tướng không giống nhau, Ma Tổ Lục Giáp thì nét mặt vui cười trong trẻo, còn Ma Tổ Tiểu Cảng thì khá nghiêm túc, còn Ma Tổ mà tôi thờ trong nhà tôi thì là vị có tâm từ bi nhất, gặp chuyện thương tâm ngài đều rơi nước mắt, tâm ngài cũng giống như Bồ Tát.
Sau khi tôi ngộ được thiên cơ, phàm tâm còn chưa thu về, khi gặp chuyện thương tâm, tôi cũng cực kì đau lòng, đưa mắt ngước nhìn lên cũng thấy Ma Tổ Bồ Tát cũng rơi những giọt nước mắt thương tâm, nước mắt của ngài có màu đỏ, tôi sửng sốt hỏi: “Vì sao nước mắt lại màu đỏ?” Ngài đáp: “Máu.”
Phàm phu rơi lệ, Bồ Tát chảy máu, vì thế mới nói Bồ Tát từ bi chịu khổ thay cho chúng sinh. Hôm nay chúng ta nếu như hãy còn không làm thiện hạnh, nếu như còn không tu chính đạo, thân thiết với thiện tri thức, thì chẳng phải là phụ sự kì vọng của rất nhiều Bồ Tát sao?
12. Thế thân pháp chú
Trong quá khứ, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh từng truyền cho tôi một pháp, pháp này gọi là “thế thân pháp chú”, hay còn gọi là “đại la thiên bí chú pháp thuật”. Trước khi nói về thế thân pháp chú này, tôi kể một sự việc làm ví dụ.
Ông Dương Tiên Minh sống ở đường Trung Cảng ở Đài Trung, vào một ngày của năm Dân Quốc 62 [năm 1973], đã bị một chiếc xe tải lớn đâm trúng trên đường quốc lộ giữa Chương Hóa và Ô Nhật, chiếc xe mà ông chạy đâm vào một cái cây lớn bên đường, người bị thương rất nặng, hôn mê bất tỉnh, còn chiếc xe bị hỏng hoàn toàn. Ông được đưa vào bệnh viện Trừng Thanh Đài Trung để cấp cứu. Bác sĩ thấy máu chảy quá nhiều, hơn nữa não bị chấn động mạnh, cho rằng ông ấy đã chín phần chết một phần sống! E rằng đã hết hi vọng cứu sống.
Con trai ông Dương Tiên Minh là Dương Chấn Xuyên ngay trong đêm đã vội vã chạy đến tìm tôi để xin quẻ, hỏi tôi xem liệu có cứu được không. Tôi thắp hương thỉnh Thần chỉ thị, quẻ bốc ra thật sự là đại hung, đây cũng chính là điềm báo không lành. Tôi lắc đầu nói không cứu được, Dương Chấn Xuyên vừa nghe nói là không cứu được thì òa khóc ngay tại chỗ, liên tục khẩn cầu cứu mạng. Thế là tôi chỉ còn biết đem ra một chiêu cuối cùng, thử dùng “đại la thiên bí chú pháp thuật”.
Pháp này vào ngày Ngũ Quý, bện một người rơm, hít vào một hơi chân khí ở phương đông rồi thổi vào người rơm, mắt tai mũi miệng lông mày của người rơm phải vẽ rõ ràng, bỏ sinh thần bát tự của ông Dương Tiên Minh vào bên trong người rơm, ban đêm vào giờ Tí, Ngọ niệm chú thế thân: “Duy thần thường chiếu thiên địa, càn khôn biến hóa vô cùng, chân giả thị lai giả diệc chân, địa thủy hỏa phong giả biến chân, hách hách dương dương, thế thân hồn thần lai giáng, thế thân hồn thần lai giáng, ngô phụng Cửu Thiên Huyền Nữ đại pháp chỉ, cấp cấp như luật lệnh.” Sau đó lấy một tấm chiếu nhỏ đắp lên trên người rơm, rắc gạo lên trên tấm chiếu, phía trên đầu của người rơm thì thắp một cây nến màu trắng, phía dưới chân của người rơm cũng thắp một cây nến màu trắng. Pháp này phải làm trong mật thất, kiêng kị người khác nhìn thấy, kiêng kị người mới sinh đẻ hoặc để tang chạm vào. Sau đó niệm: “Thiên linh địa linh, tả Bắc Đẩu, hữu Thất Tinh, thảo thị hạ giới tị nạn khách, mễ thị đại địa ủng hộ thần, thảo tịch hộ cái đại la thiên, tiền đăng hậu đăng vong linh lộ, đặc giả thử thời dĩ tị thân, thiên linh địa linh thời thời ẩn, quỷ thần mạc kiến, mạc kiến quỷ thần, ngô Liên Sinh phụng Cửu Thiên Đốc Linh Đại Nguyên Soái luật lệnh.”
Việc làm pháp như vậy có ý nghĩa sau: người rơm đại diện cho Dương Tiên Minh, trở thành thế thân cho Dương Tiên Minh. Tôi dùng chiếu cói để phủ lên người rơm, biểu thị rằng Dương Tiên Minh đã chết rồi. Ngọn nến đặt ở hai đầu để chiếu hiện cho vong linh thấy đường đi xuống âm phủ, rắc gạo lên chiếu cói biểu thị ẩn thân trên mặt đất. Khi làm như vậy thì các lính quỷ đi bắt linh hồn xuống âm gian sẽ cho rằng Dương Tiên Minh đã chết, khi muốn bắt hồn thì lại không có hồn phách nào, tưởng nhầm rằng ông ấy đã trở thành âm hồn lang thang trên mặt đất rồi, như thế thì cũng bỏ qua luôn!
Còn Dương Tiên Minh thật thì lại đang ở trong bệnh viện Trừng Thanh, ở trong trạng thái hấp hối, mặc dù toàn thân đã mất máu quá nhiều, hơn nữa não còn bị chấn động, nhưng tạm thời vẫn chưa chết. Bác sĩ tiếp máu cho ông ấy, chữa trị tổn thương não, băng bó toàn thân, trải qua rất nhiều thời gian làm phẫu thuật chữa trị mà không cần phải lo ngại là ông ấy sẽ chết. Thế nhưng kết quả là ông Dương Tiên Minh đã hồi phục rất nhanh, không ngờ sau hai tuần hôn mê, ông ấy đã hoàn toàn hồi tỉnh, sau đó thân thể cũng dần dần hồi phục lại khỏe mạnh. Một người đã đến sát bờ vực gặp Thần Chết rồi mà từ đó đã sống lại!
Sau khi pháp này thành công, tôi thu hết người rơm, chiếu cói và nến đem hóa đốt thì thấy trong không trung có một vị dạ du thần tướng đi xuống. Thần tướng này rất quái dị, đầu đội mũ đen, lông mày dựng thẳng, hai mắt màu xanh lục, chân như chân gà, lưỡi dài và thè ra, vẻ mặt hằm hằm, hét lên với tôi chẳng hề khách khí: “Này! Anh phụng pháp chỉ của ai mà dám làm đại pháp khiến càn khôn điên đảo để mê hoặc chúng sinh hả, như thế thì loạn hết cả cương thường, khiến chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm. Nếu sau này Cửu Thiên Đốc Linh Đại Nguyên Soái có trách cứ thì hỏi tội mỗi anh thôi đấy!”
“Thần tướng tạm khoan tức giận, tôi cũng là bất đắc dĩ thôi, cứu người thì cứu đến cùng. Tôi phụng Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp đại pháp chỉ, nếu sau này có sai sót gì, tôi sẽ gánh vác. Dương Tiên Minh mặc dù trong số mệnh đã định là phải chấm dứt rồi, nhưng thôi để tôi thay ông ấy tụng mười quyển kinh bù đắp cho công đức sống lại của ông ấy. Sau đó sẽ theo nguyên nhân hậu quả mà đốt sớ văn bẩm báo với chủ tể của thập phương pháp giới, cầu xin tha cho Liên Sinh tội đã làm pháp.”
Dạ du thần tướng nghe tôi nói như thế thì sắc mặt hơi dịu đi một chút: “Theo việc anh tự ngông cuồng làm pháp thì vốn dĩ là có tội, nhưng theo động cơ của anh thì lại là chân thiện, anh hãy cứ bẩm báo với sư phụ của anh đi để xin ngài làm chủ thay anh, tôi tin là đại khái sẽ không có chuyện gì đâu. Tiểu thần tôi bạo gan có lời khuyên pháp sư, sau này nếu không có sự đồng ý của thiên thần thì tuyệt đối không được sử dụng “đại la thiên bí chú pháp thuật”, bởi vì thuật này là lừa thần lừa quỷ, sẽ làm tổn hại đạo lí luân hồi tự nhiên của trời đất, sẽ thiệt thòi cho đạo hạnh của chính mình.” ”Cảm tạ thần tướng chỉ điểm, Liên Sinh sẽ ghi nhớ.”
Vị thần tướng này đi đến lưng chừng trời thì bỗng nhiên dưới chân sinh ra hai đám mây cát tường màu trắng sáng rực rỡ, dạ du thần tướng đột nhiên biến thành một vị linh thần khổng lồ, đầu đội thông thiên thần quán, mặc áo bào đại pháp, màu sắc quần áo rất tươi sáng, thần thái rực rỡ, một tay cầm thông thiên như ý, một tay cầm cờ chiêu hồn, thì ra chính là chính bản thân Cửu Thiên Đốc Linh Đại Nguyên Soái. Tôi chắp tay niệm chú cung tiễn, cảm tạ lời dạy bảo của ngài.
Thế thân pháp chú tôi mới chỉ sử dụng một lần, nếu lại có người cầu tôi, tôi cũng không dám dùng bừa nữa, bởi vì pháp thuật này có đôi chút phản lại trời, người tu đạo chính phái chính giáo đều không dám dùng. Thật may linh sư của tôi quá vĩ đại, bằng không một Lư Thắng Ngạn nhỏ bé như tôi có đức gì năng gì mà dám làm pháp đi ngược lại ý trời chứ, chẳng lẽ không sợ trời cho sét đánh sao?
Mặc dù tôi viết ra phương pháp của thuật này, nhưng tôi đã giữ lại cách cúng tế vì e rằng truyền đến đời sau thì không có lợi ích gì mà lại còn có hại cho người.
13. Pháp mượn giả luyện chân
Cái gọi là tu đạo, chỉ cần là con người thì hầu như đều là pháp mượn giả luyện chân. Người tu đạo ở trong cái thân thể tứ đại giả hợp hữu hạn này tu luyện ra được một đạo quả chân như, quá trình này chính là hành trình tu đạo.
Trong thiên hạ việc gì là khó nhất? Tôi cho rằng nghe được đạo là khó nhất. Có người trong cả một đời chưa từng được nghe qua, có người nghe nhưng không tin, cho nên hai chữ “không tin” này cũng không khác gì ngăn trở tâm hướng đạo, vì thế tin cũng là một việc khó. Hơn nữa, tin rồi thì lại càng cần tu hành, hai chữ “tu hành” này tôi cho rằng lại là việc càng khó hơn, sự khổ sở phải trải qua thật sự là muôn kiểu bi thảm, người ngoài không thể nào hiểu được!
Kể ra tôi cũng xem như là một người may mắn nhất trong số nghìn nghìn vạn vạn người, nhưng cái ba lô mà Thượng Thiên trao cho tôi nặng đến nỗi tôi không thở nổi, tôi tự ca thán rằng mình cũng là một người bi thảm nhất. Cái khổ của sự rèn luyện mà tôi đã phải chịu, nếu nói ra thì cũng sẽ khiến người ta rơi nước mắt. Tôi biết rằng Thượng Thiên đã giao cho tôi sứ mệnh, tôi phải đi qua sa mạc dài và hoang vu như một con lạc đà chở nặng, còn người ta thì ném vào tôi những ánh nhìn nghi hoặc và khinh miệt, tôi đều phải âm thầm chịu đựng, âm thầm nhẫn nhịn, không thể vì những đả kích ấy mà nản lòng thối chí.
Hành trình tu đạo của đời người đều là mượn giả luyện chân, từ trong cái thân thể giả này luyện ra một chân ngã. Chân ngã này là Phật tính, vốn là Phật tính mà ai ai cũng có, nhưng bị nghiệp chướng qua bao nhiêu đời mê hoặc nên đã cho rằng cái thân thể giả này là cái ta thật, cho rằng cái thân xác thối tha chỉ có thể sống được trăm tuổi này chính là cái xác thịt vĩnh hằng thành Phật tác Tổ được rồi, thật ra điều này là sai hoàn toàn. Thể xác của con người là tứ đại giả hợp của đất nước lửa gió, đất là xương thịt, nước là máu dịch, lửa là nhiệt độ, gió là hô hấp. Cho nên tôi nói tứ đại vốn do nhân duyên mà sinh ra, là thể bất tịnh. Ngoài tứ đại thì thứ cũng không thể thiếu chính là thần thức, cũng chính là linh hồn vô hình.
“Bồ Tát tin mọi pháp dựa theo nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, tin vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, không có người làm, không có người chịu, tin vô ngã và vô ngã sở [tin vào không có cái ta và không có cái của ta]. Ở thế gian không kinh không sợ, siêng năng tinh tấn, chỉ cầu cái tâm. Tâm là cái gì? Tham dục, sân hận, ngu si chăng, hay là hiện tại, vị lai, quá khứ chăng, tương lai thì chưa đến, quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại cũng không dừng lại. Bởi tâm không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, không sắc, không hình, vì thế không thể thấy, không thể nghe, chỉ dựa theo nhân duyên vọng tưởng điên đảo mà sinh ra mọi sự sai biệt.” (kinh Bảo Vũ)
Đoạn trên trong kinh Bảo Vũ mặc dù nói đến cái tâm, nhưng tôi cho rằng lấy ra để so sánh với linh hồn vô hình cũng cực kì thích hợp. Linh hồn (thần thức) không có sinh tử, chỉ dựa vào nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, vốn dĩ không có tướng, không có nơi cố định, có quá khứ, hiện tại, vị lai, trải qua nghìn vạn kiếp, trụ trong vô sở trụ, không ở trong, không ở ngoài, chỉ dựa theo nhân duyên vọng tưởng điên đảo mà sinh ra mọi sự khác biệt mà thôi.
Người tu đạo tu cái gì? Đương nhiên chính là tu linh hồn vô hình này chứ không phải là tu cái thể xác của tứ đại giả hợp, nhưng vì linh hồn mượn tứ đại giả hợp làm “miếu đường” cho mình, cho nên người tu đạo dựa vào tứ đại giả này mà tu chân linh, đây chính là đạo lí mượn giả luyện chân.
Đạo gia nói tu đạo có ba phẩm, tức là nói về thứ tự của việc tu, pháp tu luyện theo ba cấp độ thượng-trung-hạ. Luyện tinh hóa khí là hạ phẩm, luyện khí hóa thần là trung phẩm, luyện thần hoàn hư là thượng phẩm.
Có bài kệ rằng: ”Ngày ngày bận rộn việc thế gian Tưởng đường đi sai là quê cũ Biết được bản lai chân diện mục Thân này vốn dĩ ổ vi trùng.”
Tu pháp ở đẳng cấp này chú trọng bên trong, gọi là tu luyện mệnh, cũng có cái gọi là huệ mệnh song tu, huệ là ngoại công, còn mệnh là nội công. Tác giả đã miệt mài nghiên cứu rất lâu, phát hiện ra người tu mệnh gặp khó ở chỗ tu cho dừng vọng niệm [những ý nghĩ lung tung tán loạn], ở đây tức là tâm sinh ra thì đủ loại ma cũng sinh ra, tâm diệt thì đủ loại ma cũng diệt, nhất tâm bất động, thường trụ trong tự nhiên, đây tức là bậc giác ngộ vô tu vô chứng đó!
Phật gia nói tu Đạo thích nói phúc huệ song tu, phúc là nói về ngoại công, trong ruộng bát thức trồng xuống hạt giống của Phật, huệ là nói về trí huệ viên mãn và vô lậu, trí huệ nếu vô lậu rồi thì cũng chính là đã ngộ ra đại đạo, trở thành Phật Đà đại giác không còn sinh tử nữa, cho nên trong sáu thần thông thì lậu tận thông là khó chứng nhất, người đã có được năm thần thông kia rồi thường xuyên vẫn khó chứng được lậu tận thông.
Lão tổ sư mà tôi quy y là Ấn Quang pháp sư từng nói: “Ngũ giới thập thiện là để cho không đọa ác đạo, có được thân người thân trời, từng bước trồng thiện căn. Tùy theo thiện căn trồng xuống là lớn hay nhỏ mà tương lai ở trong pháp tam thừa, tùy theo thiện lực sẵn có mà phát triển thành các hành vi hiện tại. Hoặc theo Bồ Tát thừa, tu lục độ vạn hành mà tự mình chứng pháp thân. Hoặc theo Duyên Giác Thanh Văn thừa, giác ngộ pháp thập nhị nhân duyên và tứ đế mà đắc lập đoạn hoặc chứng chân. Các pháp môn này mặc dù lớn nhỏ khác nhau, nhanh chậm khác nhau, nhưng cái nào cũng đều phải tự mình tu tập đến khi công lực sâu, lập đoạn hoặc chứng chân đều có thể vượt ra khỏi luân hồi, chấm dứt khổ sinh tử.”
Trong câu nói này, tôi tán thưởng câu nói “cái nào cũng đều phải tự mình tu tập”, giả người khác không được. ”Lễ Phật là lễ vị Phật giả làm bằng gỗ, đá, đồng, sắt, nhưng giống như có Phật thật ở trước mặt, chúng ta cung kính như đối diện với Phật với Trời, đây chính là mượn giả luyện chân.”
“Đốt vàng mã cho Thần minh, đốt tiền giấy cho người chết ở âm gian, nhưng giống như Thần hay người chết ở đó, chúng ta cúng dường giống như đối diện với Thần Thánh, đây chính là mượn giả luyện chân.”
Có người thẳng thừng nói rằng đốt tiền giấy đều là giả, mọi người không cần đốt, vậy sao thế nhân không nghĩ xem, nếu thế thì lễ Phật bằng gỗ sao lại là thật, Phật bằng gỗ đó cũng không cần lễ nữa sao? Đây đều là mượn giả luyện chân, nếu ngay cả đến điều này cũng không biết thì có thể quên nói đến chuyện tu hành đi.
Người nói tu thân tức là tu tâm, tu thân là giả, tu tâm là thật, chỉ là như vậy mà thôi.
14. Lục đạo luân hồi
Trong quá khứ, tôi không tin một chút nào về thuyết luân hồi. Tôi một mực cho rằng con người sinh ra là tự nhiên, con người chết đi cũng là tự nhiên như thế, và sau khi chết sẽ không còn biết gì nữa, cũng tức là trống không hết, tất cả đều chấm dứt rồi. Con người trong xã hội hiện tại, tôi tin rằng chắc chắn cũng không ít người ôm lấy quan niệm này, rằng một khi con người chết đi, tất cả đều kết thúc, công danh phú quý đều hóa thành số không, họ không tin luân hồi, cho rằng chuyện nhân quả báo ứng là vô căn cứ, không đáng tin.
Tôi tiếp xúc sớm nhất là Cơ Đốc giáo, là tôn giáo không nói về luân hồi, chỉ có thuyết thiên đường địa ngục, thiện ác của con người sẽ được phán xét khi Chúa Jesus Christ trở lại, người thiện sẽ lên thiên đường và trở thành vua, còn kẻ ác sẽ bị ném vào lửa địa ngục vĩnh viễn diệt vong. Tôi đã đọc sách Khải Huyền trong Tân Ước Toàn Thư, và sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri về kiếp cuối cùng, chịu sự phán xét của ngày thế giới tận thế chính là kết thúc cuối cùng của nhân loại. Người chết trong mộ sẽ được sống lại và thăng thiên, kẻ ác chìm trong lửa địa ngục mãi mãi, và người ta nói rằng thế giới sẽ bị hủy diệt bởi lửa thiên đường.
Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo khác với Cơ Đốc giáo. Phật giáo nói về lục đạo luân hồi, pháp thập nhị nhân duyên, nhân quả ba đời, thuyết báo ứng, con người hùa theo số đông tưởng rằng bề ngoài đơn giản, nhưng nội tình lại rất sâu sắc, bất khả tư nghì. Tôi tin rằng Phật pháp vô biên, vì thế nên hiểu thấu triệt, nhưng phàm phu bình thường muốn hiểu sâu nghĩa đế của Phật pháp thì cũng phải tốn công phu cực lớn.
“Vì nhân duyên làm mười nghiệp bất thiện nên đọa vào tam ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì nhân duyên làm mười nghiệp thiện nên sinh vào thiên giới hoặc nhân giới.” (kinh Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn)
“Lăng Già Vương hỏi Phật rằng: Thế Tôn! Chúng sinh chết đi, khi chưa được tái sinh thì thức ở chỗ nào? Phật nói: Vua! Hạt giống nảy mầm thì hạt phải diệt trước sau đó mới sinh ra mầm, hay là sau khi mầm sinh ra thì hạt mới diệt, khi hạt diệt thì mầm mới sinh ra? Lăng Già Vương nói: hạt giống diệt thì mầm mới sinh ra. Phật nói: sinh diệt đồng thời, không có trước sau, tức là khi tiền thức diệt thì hậu thức sinh ra.” (kinh Lăng Già)
Đoạn Lăng Già Vương hỏi Phật này hợp với điều mà kẻ hèn này đề xướng: “Sự sinh ra của linh hồn chính là cái chết của nhục thể, sự sinh ra của nhục thể chính là cái chết của linh hồn.” Đạo lí đơn giản nhất của nhân quả luân hồi chính là: “Muốn biết nhân kiếp trước, là kiếp này đang chịu, muốn biết quả kiếp sau, là kiếp này đang làm.”
Trong cuốn “Mạn đàm về linh cơ thần toán” tôi từng nói đến việc tôi du lịch huyễn cảnh của vũ trụ, hơn nữa còn thấy được kiếp trước của tôi, đồng thời biết được họ tên kiếp trước của tôi. Sau khi tỉnh dậy, tôi kiểm tra trong kinh điển, quả nhiên có tên tôi, khi ấy tôi đứng ngây người ra, buồn vui lẫn lộn, không biết nên thế nào mới tốt. Đời người quả nhiên có kiếp trước, vì đã có kiếp trước đương nhiên lại càng có kiếp sau. Kiếp này nếu tôi không tu hành thì đợi đến khi nào đây? Đương nhiên vào thời khắc ấy, tôi càng tin vào thuyết luân hồi.
Tôi từng hỏi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh: “Vì sao gọi là lục đạo luân hồi?” Linh Sư trả lời rằng: “Lục đạo chính là trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lục đạo này đều theo tâm cảnh của con người mà sinh ra, lòng người như súc sinh thì sẽ chịu quả báo thành súc sinh, lòng người như thiên thần thì sẽ nhận quả báo làm thiên thần, lòng người nếu tham lam thì sẽ chịu quả báo làm ngạ quỷ, lòng người ác độc thì sẽ chịu quả báo địa ngục. Còn cảnh giới của atula là đặc biệt nhất, đó là thế giới của tinh linh, có thiện có ác, thiện ác xen lẫn, tu đạo tâm nhưng lại mắc bệnh sân hận, nên gọi là tinh linh.”
“Linh Sư, thật sự có Diêm La Vương sao?” - Tôi hỏi. ”Kinh Chính Pháp Niệm Xứ có nói: Diêm Ma La không phải chúng sinh; tội nhân nhìn thấy thì là chúng sinh, bảo là tay cầm kìm sắt bốc cháy. Song, khi ác nghiệp của tội nhân đã hết thì không thấy lính canh ngục Diêm Ma La nữa, cũng là vì họ không phải là chúng sinh. Cũng giống như bấc đèn dầu tắt lửa, khi nghiệp của chúng sinh hết thì cũng không còn thấy lính canh ngục Diêm Ma La nữa. Nói như vậy con hiểu chưa?” ”Con đã hiểu.”
Tôi nhìn thấy kiếp trước của mình sống ở một nơi cực kì đẹp đẽ, có nước như suối ngọt, trong như ngọc, có hoa sen to như bánh xe, trăm hoa nghìn hoa đua nở, tôi thấy rất nhiều đồng tử mặc những bộ quần áo sạch sẽ khác nhau, tay cầm hoa thơm lần lượt dâng cúng Phật, có 18 đồng tử, trong số đó có một vị đồng tử mặc y phục màu trắng, toàn thân tỏa ánh sáng xán lạn, tay cầm một bông hoa sen trắng, chân cũng dẫm trên hoa sen trắng, hoa sen hồi chuyển trong hồ sen. Không trung có một vị Hộ pháp Kim Giáp Thần, Hộ pháp tỏa ánh sáng vàng kim, giống như tấm lưới, lưới bao bọc lấy đồng tử áo trắng này, không trung thả xuống hai dòng nước sạch bằng bạc tinh luyện, mặt đất nổi lên con đường cát vàng như vàng thật, cực kì trang nghiêm. 18 vị đồng tử chắp tay hướng về vị đồng tử ở trung tâm, có âm nhạc giống như âm thanh hòa nhã, Phạm âm ngân vang, rất nhiều thiên chúng thần chúng dâng cúng pháp bảo bằng ngọc ngà châu báu như ý. Tôi trông thấy những điều ấy thì vô cùng cảm động, nhưng hiện tại tôi chỉ là một phàm phu yếu kém chẳng có thành tích gì, tôi làm sao có thể trở về chốn ban đầu của tôi chứ!
Cuộc đời có quả báo, tôi biết, cuộc đời là luân hồi, tôi cũng biết, tôi đem những thông tin có thật về lục đạo luân hồi này nói cho nhân loại biết, người có duyên và có thiện căn thì tự nhiên sẽ tin sâu sắc không nghi ngờ gì, người vô duyên và không có huệ căn thì tự nhiên cũng chẳng có cách nào tin lời tôi nói. Tôi vì cái khổ của chúng sinh mà đau lòng, vì người không tin mà đau lòng, chỉ mong tôi có năng lực khiến tất cả mọi người được sống tại cõi trời, không đọa tam ác đạo, mãi mãi tu Phật quả, đạt được không sinh không diệt. Nhưng nếu vẫn còn dè bỉu coi thường thì tôi cũng không có cách nào, cũng bó tay thôi!
15. Cửu chuyển huyền công
Vào một buổi tối mưa dầm dề, đạo hữu Trần Hồng Thiên đã đích thân đến thăm tác giả. Ông ấy là người trụ trì của Thiên Tiên Cung ở miền nam, có hứng thú sâu sắc với Đạo thuật, cũng là một trong số “pháp sư đầu đỏ”. [Phái Đạo sĩ Lư Sơn phân thành pháp sư đầu đỏ và pháp sư đầu đen. Pháp sư đầu đỏ chủ yếu nhận ba vị Nữ Thần làm tổ sư, ví dụ Lâm Thủy Phu Nhân, dùng khăn màu đỏ buộc trên đầu làm dấu hiệu nhận biết.] Từ nhỏ ông ấy đã ở trên núi Gia Nghĩa học Đạo, từng bái một người miền núi làm thầy, biết một số pháp thuật kì cục quái lạ, thậm chí có một số pháp thuật ngay cả tôi cùng chưa từng thấy. Ở trước mặt tôi, ông ấy biểu diễn một số thần thuật, khiến tôi cảm thấy rất kì lạ.
Ông ấy bốc một nắm gạo từ trong thùng gạo rồi vãi trên mặt đất, sau đó lấy một ống tre đựng gạo nhỏ đặt ở giữa những hạt gạo trên mặt đất, vẽ một lá phù kì quái, ông ấy nói phù này là phù linh nhập. Đốt phù này xong thì bỏ vào trong thùng gạo, còn miệng ông ấy thì lầm rầm niệm chú, chú ngữ của ông ấy tôi không hiểu gì cả, có vẻ như là tiếng của miền núi. Sau đó, hiện tượng kì quái đã xuất hiện. Đầu tiên là những hạt gạo rải rác khắp xung quanh hơi rung rung, thế rồi chúng nhảy tưng tưng lên, Trần Hồng Thiên hét lên một câu: “Cấp cấp như luật lệnh, vật quy nguyên chủ.” Nói ra thì rất kì lạ, những hạt gạo đó cực kì ngoan ngoãn, lần lượt nhảy về phía thùng gạo, giống như là tất cả số gạo đều lần lượt nhảy vào trong thùng gạo, nhảy đến không còn sót lại một hạt nào.
Màn biểu diễn này của ông ấy thực sự khiến tôi vô cùng kinh ngạc, nhưng ông ấy nói: “Thần thuật kiểu này chỉ có thể để người có Đạo thấy thôi, để người không có tín ngưỡng thấy thì sẽ làm trái với lời dạy của tổ sư, cũng không thể vì điều này mà khiến người ta khởi lòng tin được.” ”Đúng thế, người đời bây giờ vẫn chưa tu tâm, lại chỉ muốn học thần thông, và ngược lại thần thông lại trở thành một chướng ngại lớn cho việc siêu phàm nhập Thánh, nếu người ta nhìn thấy màn biểu diễn này của ông, trong lòng mặc dù thán phục, nhưng cái mà họ mong cầu không phải là Chân Đạo, mà lại là một vài thần thông nhỏ.”
Trần Hồng Thiên là vì Cửu chuyển huyền công nên mới đến tìm tôi. ”Thắng Ngạn huynh, anh được Vô Cực Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dạy dỗ, tôi tin rằng căn cơ Cửu chuyển huyền công cũng không tồi, hôm nay tôi đặc biệt đến đây xin thỉnh giáo, khẩn thiết xin anh truyền thụ cho tôi một chút về pháp vận động Cửu chuyển huyền công và đạo lí căn bản của nó, để bần đạo được mở mang đầu óc.” - Trần Hồng Thiên nói. ”Hiện tại tôi phụng Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp mật lệnh, lĩnh ý chỉ của Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn để hành đạo, mà Đạo gia phái Diêu Trì vốn là một phái con của phái Đan Đỉnh của Đạo gia, chú trọng thuật luyện thân, trúc cơ [xây dựng nền móng] từ trong ra ngoài. Thuật luyện thân này về cơ bản thì giống với thuật khởi linh, đích thân Diêu Trì Kim Mẫu ban cho tôi kĩ năng luyện thân. Bên ngoài nhìn vào thì giống như nhảy múa, có lúc thì giống như kê đồng bị linh nhập vào, sẽ nhảy múa loạn xạ, người không biết nội tình sẽ hiểu nhầm rằng có thần đến nhập vào người hoặc là bị bệnh thần kinh. Pháp luyện thân kiện thân kiểu này tôi gọi là Trúc cơ.”
“Trúc cơ này có ý nghĩa gì? Trúc cơ như thế nào?” ”Đầu tiên thắp hương tĩnh tọa, cung thỉnh Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn ban cho pháp luyện thân, khẩn cầu trong khoảng thời gian một nén hương, lúc này phải cảm thấy toàn thân chấn động, tay múa may, chân nhảy nhót, dựa theo huyết mạch của đại chu thiên và tiểu chu thiên mà đếm, khởi đầu với rồng lượn, hổ vồ, gấu bước, rùa núp, cá nhảy, hạc bay, sau đó có múa kiếm, phương pháp dịch cân kinh của Tổ sư Đạt Ma, trong vô thức đã học được toàn bộ mọi thứ, đồng thời đả thông hai mạch Nhâm Đốc. Người không biết tu tập Cửu chuyển huyền công thì dùng để chữa bệnh khỏe thân, chữa bệnh khỏe thân chính là Trúc cơ mà tôi nói đến.”
“Hoàn thành xong Trúc cơ thì lại làm gì nữa?” - Trần Hồng Thiên hỏi. ”Cửa này là khó nhất, ông hãy nghe cho kĩ. Khi ngồi thở phải hợp với đạo trời. Nhân sinh cũng chính là thái cực, thái cực động thì sinh ra dương gọi là hỏa, hỏa tức là thần. Tĩnh thì sinh ra âm gọi là thủy, thủy tức là tinh. Thần hỏa tinh thủy, kết hợp khéo léo thì ngưng tụ thành đan, đây chính là Cửu chuyển diệu đan dược, là nền tảng của việc trở thành Thánh. Mà “nhật nhập địa trung, tâm hỏa hạ giáng, nguyệt đáo thiên tâm, thận thủy thượng thăng”, lúc này thủy đi lên và hỏa đi xuống, chính là thời khắc thủy hỏa giao nhau. Lúc này ngồi yên, nối với thiên kiều (tức là lưỡi ép vào hàm trên), răng gõ vào nhau 36 lần, dùng niệm lực làm chuyển động thủy hỏa, dẫn thủy nhập vào lư đỉnh thứ nhất, sau đó dựa theo thời giờ, một hít một thở, thủy lên hỏa xuống, như vậy mà luyện thành đan.”
“Vì sao gọi là Cửu chuyển?” ”Cửu chuyển tức là chín nhu động tràng kết ở trong ruột, một mối kết là một cái đỉnh [vạc], một đỉnh là một mối kết, cứ như thế kết thành thánh đan diệu dược. Con người có Tam Cốc, đều gọi là Cốc Thần, trên gọi là Thiên Cốc, cũng chính là cung Nê hoàn, là cội nguồn của trời, bản cung của thần. Nếu tinh hóa khí, khí bay lên, cửu chuyển thiên cung đầy ắp thì thiên môn cũng theo đó mà mở ra, khi ấy tai sẽ nghe thấy, mắt sẽ nhìn thấy! Thần thông bất khả tư nghì.”
“Sử dụng niệm lực ra sao?” ”Niệm lực có thể thúc động linh lực của chính mình, dùng linh lực tập trung để vận chuyển thủy hỏa đảo nghịch, đây cũng chính là đại đạo chuyển nghịch chuyển. Người chuyển nghịch được thì chính là Đại La Tiên, Đạo công chính là ở chỗ này. Nếu vận hành khéo léo giống như dòng chảy cuồn cuộn của Trường Giang Hoàng Hà, không ngừng không nghỉ, tự nhiên mà huyền diệu, thì từ đây Đạo cảnh lại càng nâng cao một bước, vĩnh viễn không có chướng ngại, chỉ còn đợi thời cơ mọc cánh thành Tiên bay lên trời mà thôi.”
“Khi nào thì đắc đại thần thông?” - Trần Hồng Thiên hỏi. ”Khi tâm sáng thì thần thông sẽ ở ngay trong đó, nếu tâm không sáng thì muốn học thần thông ngược lại chỉ trở thành tà đạo, như thế thì càng gay go.” ”Lĩnh giáo, lĩnh giáo.” - Trần Hồng Thiên bắt chặt tay tôi, ông ấy nói: “Đạo pháp chính thống của Đạo gia của dân tộc Trung Hoa thật sự đã được anh làm rạng danh tên tuổi rồi, nếu chỗ tôi có gì hữu ích với anh, tôi chắc chắn sẽ chạy ngay tới giúp đỡ.”
16. Thế giới hư huyễn
Vùng phụ cận Tân Hóa ở Đài Nam có một ngôi chùa lịch sử lâu đời, trụ trì là một tì kheo ni trẻ tuổi, tì kheo ni thu nhận mấy người đồ đệ, lấy chữ Chiếu đứng đầu làm pháp hiệu, pháp hiệu của các đồ nhi lần lượt là Chiếu Đăng, Chiếu Tường, Chiếu Huệ, Chiếu Châu, Chiếu Thượng, đều là các tì kheo ni cạo đầu xuất gia. Vì bản thân sư phụ còn trẻ tuổi cho nên các đệ tử của bà ấy theo lẽ tự nhiên cũng đều là các tì kheo ni tuổi ngoài đôi mươi.
Thường ngày họ ở sau núi trồng vườn cây ăn quả, cũng trồng một ít rau cải, họ tự lực cánh sinh, hoàn cảnh sống đơn thuần nho nhã nhưng cũng có một cuộc đời tì kheo ni tràn đầy niềm vui vô lo vô nghĩ, một cuộc sống hết sức đơn giản. Đồ nhi thứ ba của sư phụ là Chiếu Huệ sau khi tốt nghiệp trung học, lấy cớ là đi thi đại học nên đã rời xa nhà, lập chí xuất gia, tu học Phật pháp. Cha mẹ ruột cô có gia cảnh sung túc, là thương nhân giàu có ở miền nam, đã từng tìm đến ngôi chùa này, nhưng Chiếu Huệ vẫn cương quyết không chịu hoàn tục. Chiếu Huệ cho rằng phàm trần là ngũ trọc ác thế, chẳng tốt đẹp như Phật môn thanh tịnh. Từ lúc còn nhỏ tuổi, Chiếu Huệ đã kín đáo tu Phật học, tinh tấn khác thường.
Có một lần, Chiếu Huệ đang ngồi tĩnh tọa trong thiền phòng, trong tâm tưởng chỉ nghĩ đến Phật hiệu, rồi cứ thế nhập vào thế giới của tinh thần quán tưởng. Bỗng nhiên trước mắt giống như thắp lên một ngọn đèn, trong chốc lát tất cả sáng rực như ban ngày, không trung có từng đám từng đám mây cát tường, từ trên đám mây cát tường bước xuống một vị Phật Di Lặc tay cầm chuỗi niệm hạt cười ha ha, ngài mặc áo cà sa màu vàng, đầu tròn tai lớn, chính là vị Phật Di Lặc bụng lớn có thể chứa được hết thảy mọi thứ, cười một cái là có thể giải trừ được nỗi sầu thiên cổ. Phật Di Lặc hiển hiện pháp tướng, Chiếu Huệ nhìn rất rõ ràng, đầu óc cũng cực kì tỉnh táo, Phật Di Lặc hướng về cô chắp tay và niệm một câu Phật hiệu rồi biến mất.
Chiếu Huệ thấy Phật thì vui mừng khôn xiết, lập tức chạy đi bẩm báo với sư phụ, sư phụ cũng vui mừng cho cô ấy, các sư tỉ muội đồng môn cũng cho rằng đây là điềm báo tốt, họ lan truyền thông tin đến mức ngay cả khách hành hương cũng biết chuyện này. Kể từ đó về sau, mỗi khi Chiếu Huệ ngồi thiền trong tịnh thất, vừa nhắm mắt lại là trước mắt lập tức hiện lên Phật Di Lặc, ngài cũng vẫn cười ha ha bước từ trên mây xuống, chắp tay và lạy Chiếu Huệ một cái. Về sau thì mỗi lần gặp lại khác, ví dụ Phật Di Lặc bước tới trước sờ đầu thọ kí cho cô, đi đến bên cạnh kéo tay cô. Tình hình diễn biến đến lúc nghiêm trọng nhất là dường như không cần phải ngồi thiền, chỉ cần Chiếu Huệ nhắm mắt lại là lập tức nhìn thấy Phật bước đến, ngày nào cô ấy cũng điên đảo thần hồn, vọng tưởng vọng niệm bộc phát, hoàn toàn không còn khả năng chống đỡ nữa, thân thể dần dần không thể tự chủ được, có lúc liên tục nói luyên thuyên, có lúc thì niệm Phật điên cuồng, thần chí mặc dù vẫn còn tỉnh táo nhưng cử chỉ thì khác người bình thường.
Sư phụ của cô thấy cô có hành tung quái dị thì cũng dần dần cảm thấy bất an, bà ấy hỏi ý kiến của một số lão hòa thượng trong Phật môn, các đại hòa thượng ấy đều cho rằng Phật Di Lặc mà Chiếu Huệ nhìn thấy e rằng không phải là Chân Phật, mà là ma tướng, ma tướng huyễn hóa cũng có thể huyễn hóa ra pháp thân của Phật, điểm này không thể không thận trọng, nếu gặp Chân Phật thì tâm cảnh sẽ sáng, tâm cảnh sáng thì sẽ đạt đến cảnh giới đạo, vẫn giống như phàm phu, không có hiện tượng kì quặc, còn đã có điều quái dị thì không phải là Chân Phật rồi.
Chiếu Huệ lúc này cũng có thể dự đoán, tiên đoán mười câu thì cũng chính xác tám câu không hề sai, đồng thời cử chỉ của cô ấy cũng đã khác người bình thường, cô tự nhận mình đạo hạnh đã cao. Có rất nhiều đại đức cao tăng khuyên cô ấy đừng xem tướng, hãy niệm Phật hiệu nhiều hơn, chuyển dịch việc tu hành vào trong cuộc sống thường ngày, đừng tiếp tục chấp vào những gì thấy và không thấy nữa. Nhưng Chiếu Huệ đã nhập quá sâu vào cảnh giới này rồi, không thể nào xoay chuyển được nữa. Không bao lâu sau, chẳng cần phải mất mấy năm công phu, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp của Chiếu Huệ đã trở nên trắng bệch như tuyết, hai mắt trũng sâu, xung quanh mắt hiện lên những vòng tròn đen, cô mặc pháp y màu đen giống như một bà mo, người trở nên già nua nhanh chóng. Người khác lo lắng cho cô ấy, còn bản thân cô thì thấy chẳng sao cả, cô cho rằng mình sắp đắc đạo rồi.
Sư phụ của Chiếu Huệ được người ta giới thiệu mà chạy tới tìm tôi. Tôi cùng với sư phụ của Chiếu Huệ đi Tân Hóa Đài Nam. Ngôi chùa Phật ấy sạch sẽ khác thường, chư Phật Bồ Tát trong đại hùng bảo điện vị nào cũng trang nghiêm. Tôi lễ chư Phật Bồ Tát, hai mắt vừa nhắm lại, miệng niệm chân ngôn thì lập tức nghe thấy trong không trung có tiếng sét vang rền. Hộ pháp Vi Đà hiện pháp tướng: “Liên Sinh, Chiếu Huệ đã bị linh quỷ Tây Sơn quấy phá, dưới giường trong thiền phòng của cô ấy có bức tượng Phật Di Lặc bằng sứ đã vỡ, linh quỷ sống trong bức tượng ấy, mượn linh khí của Chiếu Huệ mà sống, ngài hãy giúp cô ấy giải trừ đi!”
Bên dưới chiếc giường trong phòng ngủ của Chiếu Huệ quả nhiên tìm thấy những mảnh vỡ của tượng Phật Di Lặc. Tôi dùng lửa để hóa tượng. Còn sự việc này, chúng tôi cũng không nói cho cô ấy biết, và bản thân cô ấy kể từ đó cũng không còn nhìn thấy Phật Di Lặc nữa. Linh quỷ Tây Sơn từng chạy tới tìm tôi vì tôi đã làm hỏng việc tốt của hắn, hắn không đấu lại được tôi nên tìm đến con gái nhỏ Phật Thanh của tôi để hạ thủ. Cuối cùng tôi cũng phải tốn rất nhiều sức lực mới đuổi hắn đi được, đúng là không đơn giản.
Kinh Mật Nghiêm nói: “Trong núi tuyết có một con ác thú, hễ gặp trâu thì hiện hình trâu để giết trâu, gặp ngựa thì hiện hình ngựa để giết ngựa. Ngoại đạo sinh ra trong A-lại-da thức, ta thấy cũng giống như thế, tùy theo mỗi con người mà có sự khác biệt. Ngoại đạo không hiểu đạo lí duy thức, sinh ra ngã kiến, cố chấp phân biệt có hoặc không, một hoặc nhiều. Người tu quán hành, trong nhận thức quét sạch ngã kiến. Hành giả tự tu tập và cũng vì người khác mà khuyên giảng như vậy.”
Còn Chiếu Huệ, từ trong ngã kiến, cô ấy nhận lầm ma là Phật, thật sự khiến người ta kinh sợ, cô ấy nên tiêu trừ cái hữu tướng trong ngã kiến này, phải không khác biệt với phàm phu bình thường, tu Phật học Phật cho đến khi thành Phật.
Cũng có một số đại hòa thượng nói chính tôi cũng chấp vào ma tướng, có pháp thuật thần thông ma quỷ. Thế nhưng cuộc sống đời thường của tôi giống hệt một phàm phu, tôi không bị linh quỷ từ bên ngoài đến quấy nhiễu, linh của tôi có thể tự chủ, tôi đã thông suốt tam giới, tự do xuất nhập, tất cả duy tâm, đây chẳng phải là điều mà người xuất gia bình thường có thể lí giải sao?
17. Tự lực và tha lực
Sau khi kẻ hèn này tự tu tập Đạo công thì phát hiện ra hai loại sức mạnh, một loại sức mạnh chính là sức mạnh bên trong chính mình (tự lực), một loại chính là sức mạnh đến từ hư không giới bên ngoài thân, đây chính là tha lực. Hai loại sức mạnh này nếu vận dụng lẫn nhau một cách thích hợp thì công lực của nó có thể thông thiên nhập địa, chấm dứt không còn chướng ngại, nhưng ngược lại, nếu vận dụng không cân đối thì cũng chính là tẩu hỏa nhập ma mà người ta thường nói. Đã nhập vào ma tướng rồi thì muốn thoát cũng khó lắm!
Tự lực và tha lực ở đây có thể nói là đối lập nhau, cũng có thể nói là bổ trợ lẫn nhau. Nếu phân biệt một cách tỉ mỉ thì tự lực bên trong thân mình lại có hai loại sức mạnh, một loại sức mạnh là niệm lực, một loại sức mạnh là linh lực. Người bình thường rất ít người có thể lĩnh hội được niệm lực và linh lực, còn bản thân tôi cho rằng, cái gọi là niệm lực chính là sức mạnh ý chí, còn cái gọi là linh lực chính là linh cảm (giác quan thứ sáu) đặc biệt. Còn đối với người hoạt linh bình thường mà nói thì đó chính là sức mạnh của linh hồn. Trong các tông phái cũng có sự phân biệt, tôi đặc biệt nói rõ sự phân biệt của Thiền tông và Tịnh độ tông.
Tông phái thiền môn nói về tự lực, tức là chỉ chính mình trực tiếp chứng ngộ thành Phật, không dựa vào pháp khác, không dựa vào sức mạnh khác, kiểu công phu này người bình thường không dễ dàng tu được; nói về minh tâm kiến tính, trực chỉ thành Phật, từ thiền nhập định, từ định thành Phật, nói thì có vẻ đơn giản nhưng thật ra không hề dễ. Vì thế kinh Lăng Nghiêm viết: “Viên mãn bồ đề, quy về vô sở đắc, người tu thiền định và người tham thiền dựa vào duy nhất tự lực, không cầu sự gia trì của Phật. Vì khi công phu đạt đến thời điểm bị chân tướng hay vọng tướng công kích, mỗi người sẽ có các loại cảnh giới, huyễn xuất hiện và huyễn biến mất. Ví như khi mưa dầm sắp tạnh, mây mù tản ra, đột ngột nhìn thấy mặt trời. Trong thoáng chốc đã có những thay đổi biến hóa khó lường, mọi cảnh giới nếu không phải là người đích thực có đạo nhãn thì không thể phân biệt được. Nếu tiếp nhận sai thông tin thì sẽ chấp ma mà phát cuồng, chẳng thể chữa được.”
Người tu tập thiền môn bắt đầu từ tứ thiền bát định, người có chính định thì sẽ dung hòa song song tịch-chiếu [tĩnh lặng và quán chiếu], người có cảm nhận đúng đắn thì sẽ hàng phục được cuồng vọng hiển hiện chân tướng. Tứ thiền chắc chắn không hề là vô sở đắc, đây là kết luận của tác giả khi tu tứ thiền bát định, bởi vì ngũ uẩn đều không mà!
Người tu thiền định luôn luôn vì tự lực mà kiêu ngạo, một khi tâm sơ suất lơ là thì yêu ma quỷ quái sẽ thừa cơ nhập thẳng vào, người tu không phòng ngừa, nhận thức không rõ ràng, nếu tâm điên đảo thì đây là nỗi bi ai lớn nhất.
Tôi cho rằng: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, nhập vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sinh, vì thế khi tâm bạn nhớ đến Phật thì tâm chính là 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, là tâm làm Phật, là tâm là Phật.” Pháp sư Ấn Quang cố gắng bảo vệ pháp môn Tịnh độ niệm Phật nói rằng: “Người niệm Phật lấy sự chân thành làm tín nguyện, trì hồng danh của Vạn Đức, giống như mặt trời sáng rực rỡ trên cao, đi trên con đường của đại đạo, không những quỷ quái diệt sạch mà các ý niệm về đường rẽ thị phi cũng chẳng sinh ra, niệm đến khi công lực cực thuần tịnh thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm và Phật không hai, tâm và Phật là một.” Tôi cho rằng công phu này cũng chính là tâm pháp tối thượng đẳng của Thiền tông rồi.
Công lực tối thượng đẳng của Tịnh độ tông cũng là tự lực, nhưng trong quá trình tu tập có linh quang của Phật Tổ bao bọc, vì thế cũng là có tha lực gia trì, tự lực phối hợp cùng tha lực, như vậy sao có thể không thành công chứ! Cho nên tông sư các đời, rất nhiều các đại Phật học gia, trưởng giả xuất gia cực kì tôn sùng Tịnh độ tông, cho rằng đây là một đường thẳng thành Phật có cả thuận lợi và khó khăn, cho nên một pháp môn niệm Phật vẫn là diệu pháp số một về “bối trần hợp giác, phản bản quy nguyên” [trở về con đường đúng đắn, thoát khỏi mê lầm về với giác ngộ].
Trong vũ trụ biến ảo khôn lường này, có rất rất nhiều linh tồn tại phức tạp đan xen rối rắm, những linh lực ấy cũng có rất nhiều điều bất khả tư nghì, linh lực của một cá nhân nếu có thể phá vỡ cái vỏ xác thịt của thân thể chính mình mà cảm ứng cân bằng với linh lực ở trên trời thì chắc chắn có thể đạt được rất nhiều linh lực kì diệu. Dạng linh lực này giống như đại lực của linh cơ thần toán vậy, có thể thành tựu rất nhiều việc, đương nhiên đây cũng là một dạng kết hợp nhỏ của tự lực và tha lực mà thôi.
Giờ đây, rất nhiều người chạy đến tìm tôi, xin tôi giúp cho họ khởi linh. Tôi luôn nói với họ rằng, trước tiên phải nhờ vào tha lực, ví dụ như người tin Đạo thì cung kính niệm Diêu Trì Kim Mẫu, người tin Phật thì cung kính niệm A Di Đà Phật, người tin Chúa thì cung kính niệm Jesus Christ, người tin Hồi giáo thì cung kính niệm Mohammed, cứ như thế ngồi yên lặng và chờ đợi, chỉ cần tiểu chu thiên [bản thân] sau 49 phút, nếu được thần linh gia trì cho sức mạnh (tha lực) thì nhất định có thể khởi linh. Sau khi khởi linh sẽ rất nhanh chóng có thể phân biệt được hai loại sức mạnh, một loại chính là linh lực của chính mình (tự lực), một loại chính là sức mạnh của linh hồn hiển hiện (linh lực).
Có một người muốn tập khởi linh chạy đến tìm tôi, anh ấy nói: ”Chẳng hề có phản ứng gì.” ”Anh tập khởi linh ở đâu?” ”Trên giường.” ”Trên giường không được, nhất định phải ở chỗ thanh tịnh.” Người đó lại chạy đến nói: ”Chẳng hề có phản ứng gì.” ”Anh mặc quần áo gì?” ”Quần đùi (quần lót).” ”Quần đùi không được, phải thay bộ quần áo sạch sẽ.”
Người đó niệm Phật rất thành kính, thế rồi quả nhiên có cảm ứng. Tôi yêu cầu anh thờ phụng Quan Thế Âm Bồ Tát, anh làm theo như vậy. Tôi yêu cầu anh sớm tối niệm Phật, có thời gian rảnh là niệm Phật, niệm ở miệng, nghe ở tai, in vào tâm, anh ấy cũng làm theo. Anh hỏi tôi: ”Vì sao nhất định niệm Phật phải ở nơi thanh tịnh, phải ăn mặc sạch sẽ chỉnh tề, phải tắm gội sửa mình thì mới có cảm ứng nhỉ?” Tôi nói: ”Niệm Phật như có Phật ở đó, chúng ta có thể để hình dạng bẩn thỉu luộm thuộm đi đối diện với Thánh linh được sao?”
18. Nhờ linh thấy linh
Có người nói việc tôi nhìn thấy quỷ linh thần linh là nói khoác, còn nói mắt của con người làm sao có thể nhìn thấy linh giới được chứ! Họ không hiểu yếu nghĩa mà tôi nói, cho nên hôm nay tôi không thể không nói rõ ràng.
Trong cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán”, tôi nhấn mạnh một câu nói là “nhờ linh thấy linh”, cái này chính là “nhờ linh hồn của chính mình có được khả năng thông linh để nhìn thấy các linh của linh giới, phương pháp này chính là pháp khởi âm nhãn”.
Tình huống này tôi có thể tiết lộ sơ lược, tôi nghĩ điều này cũng không sao cả. Cái gọi là nhìn thấy là như thế nào, nghe thấy là như thế nào? Khi hai mắt vận linh, mắt sẽ sinh ra linh quang, linh quang ấy sẽ nhấp nháy giống như ánh huỳnh quang trên màn hình ti vi vậy, sau đó toàn bộ thế giới sẽ hiện lên một hình ảnh lờ mờ, giống như khi vừa mở ti vi lên, không khác gì tình trạng tạm thời chưa có hình ảnh gì xuất hiện trên màn hình. Sau đó lại tiếp tục trì chú vận linh, hình ảnh hiện lên dần dần ổn định và rõ nét, lúc này giống như bước tới gần ti vi để xem ti vi vậy, đây chính là pháp khởi âm nhãn nhờ linh thấy linh.
Còn nghe thấy thì lại là một việc rất kì diệu, có thể nghe thấy âm thanh của các linh trong hư không thì đó tuyệt đối không phải là giả, âm thanh ấy giống như âm thanh được truyền đi trong điện thoại vô tuyến, âm thanh mảnh và nhỏ, mỗi âm thanh lại khác nhau.
Muốn làm được khởi linh nhãn và khởi linh nhĩ thì phương pháp duy nhất là dùng linh lực của bản thân để phá vỡ lớp vỏ bao vây lấy thể xác của mình, điểm này thật sự rất quan trọng. Con người chúng ta khi sinh ra, linh hồn đã bị một lớp chướng ngại vô hình bao vây, muốn đột phá ra ngoài cũng không được, giống như đã chết vậy. Nếu có một ngày có thể vận linh phá vỡ được vòng chướng ngại này thì tất nhiên sẽ sinh ra hai hiện tượng, một chính là ma hiện lên dẫn dắt, hai là Thần hiện lên dẫn dắt. Nói chung, một người tu đạo sẽ chiêu cảm ma quỷ hay là chiêu cảm thần thánh thì hoàn toàn là do “cảm ứng tâm điện” của chính mình. Đây chính là vấn đề về tần số phóng xạ, nếu một người có tâm đại nhân từ, tâm yêu thương, thì ma quân không dám xâm phạm, vì địa vị của người này cũng như Bồ Tát.
Một số đại cao tăng xuất gia ngày nay không thích con người có được thần thông cũng là có nguyên nhân cả, bởi vì “tâm còn chưa sáng”, nếu mà chứng thần thông trước thì ngược lại sẽ trở thành ma đạo, việc chấm dứt sinh tử tất có chướng ngại. Vì thế họ đều sợ muốn chết. Thật ra, nếu có tâm bồ đề, dùng tâm đại nhân từ, tâm yêu thương, chịu lập ra lời thề lớn, thì các linh trên trời dưới đất chắc chắn sẽ hết sức hoan hỉ. Thành Phật thành Tiên chắc chắn sẽ phải chịu ma nạn, điều này là không thể tránh được, cho dù không có thần thông thì khi sắp minh tâm kiến tính chẳng phải sẽ có các ma trong thiên hạ kéo đến khảo nghiệm, nếu không kháng cự nổi thì cũng chẳng thể thành Phật tác Tổ sao.
Tâm đại nhân từ, tâm yêu thương này dựa vào chữ “nhẫn”, giống như kinh Nhẫn Nhục đã viết: “Nhẫn như ánh sáng, vượt qua tháng ngày. Sức của rồng voi, xem là mạnh mẽ, so với nhẫn nhục, vạn vạn chẳng bằng. Thất bảo sáng chói, báu vật ở đời, tự có phiền lo, đến nỗi gặp họa; nhẫn là báu vật, mãi được an yên, bố thí thập phương, chỉ có đại phúc, phúc chẳng bằng nhẫn; nhẫn nhịn hiền từ, đời đời không oán, giữ sự thản nhiên, chung quy không hại. Đời không nương dựa, duy có nhẫn thôi, nhẫn là nhà yên, không sinh tai quái. Nhẫn là áo giáp, ngăn chặn binh đao. Nhẫn là thuyền lớn, có thể cứu nạn. Nhẫn là thuốc hay, cứu được mạng sống. Chí nguyện người nhẫn, đều sẽ đạt thành.”
Nếu hiểu được bí mật về “nhẫn”, cộng thêm tâm yêu thương đại nhân từ, chứng đắc thần thông thì ma có thử thách cũng không ngã, đây chính là hạt giống của Phật Bồ Tát.
Còn nhớ sau khi tôi mới được ân sư Thanh Chân Đạo Trưởng khởi linh, ân sư bảo tôi: “Liên Sinh, căn cơ kiếp trước của con là tu đại thiện, nên kiếp này con là người có đại căn khí hiếm thấy. Một khi con khởi linh thì con lập tức chứng được thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông.” Lời ân sư nói không hề sai. Ban đêm tôi quan sát thiên tượng, bỗng nhiên nhìn thấy bảo tướng của Ngũ Đế trên Cung Trăng. (Con người thời nay nói các nhà du hành vũ trụ lên mặt trăng chẳng hề nhìn thấy Cung Trăng hay Hằng Nga. Tôi nói, nhà du hành vũ trụ cũng là phàm phu thôi, chỉ nhìn thấy mặt trăng lạnh lẽo thê lương, yên lặng tịch mịch, khắp nơi hoang vắng, chỉ thấy được cái hoang vu hữu hình mà thôi. Nhà du hành vũ trụ làm sao biết được đôi mắt của Lư Thắng Ngạn tôi đích thực nhìn thấy Ngũ Đế ở Cung Trăng - cung điện quý của thế giới vô hình chứ! Trên trái đất có thần minh, nhưng ngay cả thần minh trên trái đất họ còn không nhìn thấy được thì lên mặt trăng họ có thể nhìn thấy được cái gì đây? Con người thời nay suy nghĩ đơn giản, nếu coi đây là chứng cứ cho thuyết vô thần thì chẳng phải là khiến người ta cười rơi răng sao?)
Khi ấy những gì tôi nhìn thấy khác với những gì người bình thường nhìn thấy. Đêm đó, những vì sao trong không trung biến thành những đóa hoa tươi rơi xuống, có những đám mây ngũ sắc mở ra hai bên, có năm vệt ánh sáng xuất hiện xung quanh mặt trăng, trong từng vệt ánh sáng đó có một ông lão đang ngồi, khuôn mặt có năm màu sắc khác nhau, đầu đội mũ thông thiên, thân khoác áo bào đạo sĩ, ngồi trên tòa hoa sen. Ngũ Đế hiển hiện một lúc cho tôi thấy rồi dần dần biến mất.
“Thưa thầy, con đã nhìn thấy thần thánh gì?” ”Đó là Nguyệt Cung Ngũ Đế, khuôn mặt họ có năm màu xanh, đỏ, đen, vàng, trắng đúng không?” ”Đúng vậy.” Thanh Chân Đạo Trưởng cười cười, nói: ”Liên Sinh, họ là bạn tốt của thầy, tối hôm qua thầy đã xuất thần đến Nguyệt Cung, nói chuyện với họ rằng con đã chứng được thiên nhãn thiên nhĩ, họ không tin phàm trần vẫn còn có người như vậy, vì thế hôm nay họ hiện lên để chứng minh. Tối nay thầy lại đến Nguyệt Cung, yêu cầu họ bảo vệ cẩn thận cho con, để tương lai con thành đạo không gặp phải quá nhiều khó khăn.” ”Con xin cảm tạ thầy.” - Tôi nói.
Tôi có hai vị thầy, một vị là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, một vị là Thanh Chân Đạo Trưởng viên tịch quy tiên ở núi Tập Tập. Hai vị ân sư này vĩnh viễn ở trong tim tôi.
19. Xuất gia và tại gia
Một hôm, tôi đang rảnh rỗi ở nhà thì có một tì kheo xuất gia đến tìm tôi. Tôi mời vào trong nhà, ông ấy ngẩng đầu lên nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, Hộ Pháp Vi Đà Bồ Tát, Già Lan Tôn Giả và Chư Phật Bồ Tát khác mà tôi thờ thì không nói gì, chắp tay cúi đầu bái lạy, bái lạy xong thì đứng dậy chắp tay hướng về tôi chào hỏi. Tôi cũng cúi chào ông ấy thì ông ấy lập tức né tránh, tôi đã cúi chào không khí.
“Anh là Liên Sinh à? Tôi đã đọc sách của anh, hôm nay tôi đặc biệt tới đây thăm hỏi.” ”Sư phụ xuất gia ở đâu? Sống ở bảo tự nào? Hôm nay đến đây không biết có việc gì chỉ giáo?” - Tôi gật đầu biểu thị rằng tôi chính là Liên Sinh. Tôi dâng mời trà thơm và hỏi. ”Tôi xuất gia ở miền bắc, nhưng hiện sống tại Xích Sơn Nham ở miền nam. Đọc thấy trong sách của anh viết có chứng cứ rõ ràng, từng câu đều không phải là vô căn cứ, thật sự là có đại thiện căn, tôi đặc biệt tới để phụng thỉnh anh xuất gia nhằm làm rạng rỡ Phật môn, như thế thì sư phụ của anh là pháp sư Ấn Thuận chắc chắn sẽ hoan hỉ lắm.” ”Xuất gia ư?” - Tôi trầm ngâm. ”Đúng thế, biệt danh của tôi là Hòn Đá, người người gọi tôi là sư Hòn Đá, hòn đá cứng đầu ngoan cố chẳng thay đổi mà cũng xuất gia làm sư, huống hồ anh đây là một cư sĩ đại đức, nếu không xuất gia cùng chuyển pháp luân thì có lẽ những gì mà anh chứng đắc được chỉ là một vị Đại Phạm Thiên Thần chúng tâm địa thuần tịnh mà thôi. Nếu anh xuất gia, chứng đạo thành chân, có lẽ tôi cũng có thể nhận anh làm thầy, được nghe Phật pháp Phật ngữ, sớm đăng địa niết bàn.”
“Đại sư phụ xem trọng tôi rồi, thật sự là quá cất nhắc và coi trọng tôi rồi. Tôi có đức gì năng gì đâu, thật sự không phải là tôi không xuất gia, mà là không dám xuất gia. Người xuất gia phải là người có lòng quyết tâm và quả cảm xuất thế nhập thế lớn. Nếu tôi không có nghị lực lớn thì chắc chắn sẽ đọa vào đạo địa ngục ngạ quỷ, đáng sợ như vậy làm sao tôi dám dễ dàng nói hai chữ “xuất gia” chứ!” ”Vậy anh dự định khi nào xuất gia?” ”Khi tôi một lòng thành tâm, khi thấy Phật đắc đại khoái lạc; khi tôi một lòng thành tâm, thấy Đạt Ma đắc đại lợi ích; khi tôi một lòng thành tâm, khi thấy tướng của đại sư xuất gia mà cảm thấy một sự an ổn lớn thì tôi sẽ xuất gia.” - Tôi nói. ”Chỉ mong ngày này sẽ đến sớm. Liên Sinh, kinh Tăng Nhất A Hàm nói rằng: Thành tựu thiện nghiệp thì tất cả đều hòa hợp, không có tà nghiệp; người thành tựu pháp, thành tựu giới, thành tựu tam muội, thành tựu trí huệ, thành tựu giải thoát, thành tựu sinh tử, thành tựu tri kiến cũng chính là tăng bảo. Tăng nhân cũng là ruộng phúc của thế gian. Anh có thể hiểu được điều này không?” - Sư Hòn Đá nói.
“Tôi biết năm việc tại gia là: thấy sa môn thì mở rộng cửa tiếp đãi, nghênh đón và hỏi han, bố trí chỗ ngồi, bảo vệ kinh tạng, bố thí đồ sạch sẽ. Tôi càng biết rằng xuất gia không mặc quần áo bẩn, người mà tâm không nhiễm mắc thì cũng chính là tì kheo chân chính. Dù không trừ bỏ được vai trò của mình nhưng có thể cắt đứt các ràng buộc thì cũng là tì kheo chân chính, dù không chịu giới cấm nhưng tâm lìa mọi ác, mở mang công đức định huệ thì cũng là tì kheo chân chính.”
Sư Hòn Đá kia thấy tôi nói vậy thì liên tục nói là hay, ông ấy nói: ”Liên Sinh, hoan nghênh anh nếu rảnh thì đến Xích Sơn Nham thăm viếng một chút, anh cứ hỏi sư Hòn Đá là ai, mọi người đều biết hết.” Nói xong thì tì kheo này cũng rời đi, tôi cung kính tiễn ra cửa. Ra khỏi cửa thì ông ấy đi cực nhanh, dường như thoắt một cái đã không thấy đâu nữa rồi.
Nói ra cũng rất may, không lâu sau đó tôi đi công tác đến miền nam, tiện đường tôi cũng đến Xích Sơn Nham một chuyến. Đằng trước Xích Sơn Nham có một cây đa to, phía trước chùa cũng có một quầy đoán số mệnh. Ở Đại Hùng Bảo Điện, tôi lễ bái Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ở Trung Điện tôi lễ bái Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật và Quan Âm Thế Chí hai đại Bồ Tát. Đến điện sau cùng tôi lễ bái Địa Tạng Vương Bồ Tát, điện cuối cùng hình như có thờ phụng một vị Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế, hai bên điện Địa Tạng có tượng của mười tám vị La Hán, trong điện Quan Âm thì có kim thân của các Bồ Tát trong chú Đại Bi, các bức tượng ở đây được điêu khắc cực kì trang nghiêm. Trong chùa có tì kheo và tì kheo ni. Tôi tham bái xong thì hỏi một nhà sư: ”Xin hỏi sư Hòn Đá có ở trong chùa không?” ”Sư Hòn Đá à? Làm gì có ai là sư Hòn Đá?” - Hòa thượng đó ngơ ngác hỏi ngược lại tôi. Thế là tôi lại hỏi thuật sĩ mở quầy xem tướng mệnh, thuật sĩ ấy cũng lắc đầu nói: ”Tôi ở đây đoán mệnh đã nhiều năm rồi, chưa từng có ai gọi là sư Hòn Đá.”
Hỏi người không có được thông tin gì, tôi tiến vào trong đại điện, cung kính niệm chú ngữ Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp, lần lượt cung kính phụng thỉnh Phật linh cho đến khi vị Già Lan Tôn Giả không đứng yên được nữa. Tôi hỏi Già Lan: ”Có sư Hòn Đá không?” Già Lan nói: ”Cái ông sư Hòn Đá ngang bướng ấy đã được thầy giáo huấn, có được lợi ích lớn, lẽ ra có thể vào chùa để cùng hưởng hương hỏa, nhưng ông ấy vốn là âm thần hiển hóa mà sinh ra, hiện tại ở tạm bên phải lư vàng của bản chùa, anh đi mà xem!”
Tôi đứng ở trước lư vàng thấy sư Hòn Đá đoan trang, đó là một người xuất gia trấn lò được người thợ khéo léo tiện tay chạm khắc trên cái lư vàng, trên lưng cõng một cái hồ lô được điêu khắc từ đá. Trong các chùa bình thường thì là Tiên Ông Lí Thiết Quải làm người trấn lư vàng, còn ở Xích Sơn Nham này thì lại là sư Hòn Đá. Tôi đứng ở đó nói rất nhiều chuyện với sư Hòn Đá, cũng lại là một mớ đạo lí về xuất gia và tại gia.
Người không biết còn cho rằng một mình tôi nói chuyện với cái lư vàng, không điên thì cũng là đồ ngốc thôi!
20. Có Phật phù hộ
Có một thiếu nữ họ Lương tên Bích Lan sống ở thị trấn Trác Lan huyện Miêu Lật, 25 tuổi, dáng vóc khỏe đẹp, khuôn mặt có ngũ quan thanh tú. Khi cô ấy đến tìm tôi, tôi đang xem số mệnh cho người ta, cô ấy đứng bên cạnh im lặng không nói gì.
Khi tôi xem số mệnh cho người ta, thỉnh thoảng tôi ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, phát hiện ra sau lưng của cô gái họ Lương này có một người đàn ông đang đứng. Nói anh ta là “người” đàn ông thì thật ra không đúng, mà phải là một “ma” đàn ông, linh khí của người thanh niên này đặc biệt nặng, lại chen trong đám người, dường như nhìn tôi đoán mệnh đến mức say mê rồi. Tôi nói với cô gái họ Lương xinh đẹp rung động lòng người kia: ”Cô à, sao không mời bạn trai cô ngồi xuống?”
Cô gái họ Lương chớp đôi mắt to xinh đẹp đầy kinh ngạc. Cô ấy mặc áo trắng, váy dài đen, trông cực kì xinh đẹp rung động lòng người, khiến ánh mắt người ta không thể nào không nhìn cô ấy. Cử chỉ của cô ấy trở nên bất an, cô nói: ”Tôi là người từ Trác Lan đến đây, không hề có bạn trai nào!” Tôi nói: ”Sao lại không có, người này là ai?” Tôi chỉ vào sau lưng cô ấy, ánh mắt mọi người lại đổ dồn về sau lưng cô. Sau lưng cô ngay cả một con mèo nhỏ cũng không có, hoàn toàn trống trơn, chính cô ấy cũng quay đầu lại nhìn sau lưng mình, đột nhiên sắc mặt cô ấy đầy kinh sợ, liên tục chen qua đám đông, cô ấy gật đầu nói với tôi: ”Hôm nay đúng là tôi đến đây để hỏi chuyện này. Chính tôi đã trải qua những việc rất khó hiểu. Tháng tám năm nay tôi sẽ lấy chồng, nhưng tôi rất sợ, tôi sợ hắn trả thù, hắn có thể làm hại tôi không?”
Tôi ngẩng đầu lên nhìn “ma nam” đó, “ma nam” đó còn trợn mắt nhìn tôi, nhếch mép khẽ cười.
Cô Lương nói: ”Ba năm trước, vào một ngày tháng Giêng âm lịch, thời gian khoảng 11 giờ tối, tôi đang chuẩn bị đi ngủ, đột nhiên bên ngoài cửa sổ có vang lên tiếng chó, tiếng kêu rất bi thương, con này kêu xong thì lại đến con khác kêu. Tôi nghe người ta nói đó là tiếng chó kêu khi nhìn thấy vong hồn. Tiếp đó, đàn lợn trong chuồng lợn nhà tôi trở nên cực kì hoảng loạn, nhưng không lâu sau thì tất cả đã yên lặng trở lại. Tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập, dường như đó là một màn mở đầu cho một cơn cuồng phong sắp đến. Bỗng nhiên có một vệt ánh sáng trắng bay vụt qua cửa sổ của tôi, giống như ánh chớp, trong chốc lát cũng tan biến. Đêm ấy khi đi ngủ, trong lòng tôi rất sợ, đến nửa đêm, tôi tỉnh khỏi cơn mê, cảm thấy bên cạnh mình hình như có một người đang nằm ngủ….”
Nói đến đây, những người đang nghe đều sởn cả gai ốc, cô Lương cũng xấu hổ không nói tiếp được nữa. ”Người đó chỉ có một cái bóng lờ mờ, hắn ôm lấy tôi, rất chặt, tôi hét không thành tiếng, cũng không thể nào vùng vẫy được.” ”Cửa phòng cô có khóa không?” - Có một phụ nữ hỏi cô ấy. ”Tôi một mình một phòng, đương nhiên cửa có khóa, không ai vào được.” ”Sau đó thì sao?” - Tôi hỏi. ”Sau đó, cứ cách một khoảng thời gian, hắn ta lại xuất hiện, có khi thì một tháng, có khi thì một tuần. Đầu tiên là buổi tối, bây giờ thì ngay cả buổi trưa ban ngày hắn cũng đến. Bởi vì tháng tám năm nay tôi sẽ lấy chồng, nghe người ta kể những chuyện linh dị của Lư tiên sinh nên tôi chỉ biết bí mật đến cầu cứu. Sự việc này ngay cả người nhà tôi cũng không biết, tôi đã chịu đựng ba năm, bây giờ tôi phải làm sao mới được đây?”
“Anh có bằng lòng rời xa cô ấy không?” - Tôi quay qua hỏi “ma nam” vừa trẻ trung vừa có văn hóa. Mọi người nhìn tôi nói chuyện với ma thì ai cũng xê dịch ra. Cô gái kia thì liên tục hét lên: ”Đáng sợ quá, đáng sợ quá.”
“Không bằng lòng.” ”Sao anh lại tìm đến cô ấy?” ”Có duyên.” ”Âm phủ và dương thế là hai con đường khác nhau, có duyên thì cũng đợi đến kiếp sau, nếu anh hiểu lí lẽ ấy thì hãy chủ động rời xa cô ấy. Tôi biết anh không có cái tâm hại người nên tôi không muốn dùng khóa vàng bát quái để khóa anh lại, nhưng anh hãy nghe tôi hòa giải, mau mau rời xa cô ấy được không?” - Tôi nói chuyện một cách lịch sự với hồn ma không rõ lai lịch này. ”Tôi vốn không muốn rời xa, nhưng tôi sẵn lòng tạm thời rời xa cô ấy.” - Ma nam ấy dường như khá quyến luyến không muốn rời bỏ.
Tôi quay đầu về phía Tiên Phật cầu chỉ thị. Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ thị rằng: “Nhân duyên gặp gỡ tạm thời, thân này cũng như mộng từ vọng kiến mà sinh ra, thân này cũng như ảnh do nghiệp duyên mà hóa hiện. Liên Sinh, cô Lương đây thờ cúng hình tướng của ta, niệm hồng danh của ta, ta chắc chắn sẽ bảo vệ. Hồn ma cũng niệm tên của ta, anh ta vốn là một linh hồn có được linh khí địa lí, nếu niệm tên của ta thì cũng đắc giải thoát.”
Tôi truyền đạt chỉ thị của Bồ Tát, cô Lương vô cùng cảm kích, còn hồn ma kia bất ngờ quỳ xuống, liên tục hướng về kim thân của Quan Âm Đại Sĩ cung kính lễ bái, liên tiếp lạy 21 lạy, sau đó xoay người một cái thế là biến mất.
Lần thứ hai khi cô Lương lại đến tìm tôi, cô ấy nói: ”Kể từ ngày hôm đó, ban đêm ngủ yên lành, hồn ma kia không hiện thân nữa. Thật sự cảm ơn ngài, cũng cảm tạ Quan Thế Âm Bồ Tát.”
(Lời cuối: bản văn này có người thật việc thật, tên Bích Lan là tên giả, còn những chuyện khác đều là thật. Tháng 8 năm Dân Quốc 64 [năm 1975] cô Lương đã lấy chồng, chồng là một thạc sĩ đã hoàn thành việc học ở nước ngoài và trở về nước.)
21. Giữa chính và tà
Kiến thức về linh đúng là cao thâm khó lường, những nghiên cứu về linh cũng giống như một cái hố sâu không đáy, càng nghiên cứu càng thấy sâu, càng sâu thì càng không thể suy đoán. Linh có phân chính tà, giống như con người, người cũng có phân chính tà, thậm chí có một số linh trong chính có tà, một số linh trong tà có chính, có một số linh thì không tà không chính. Cho nên muốn phân biệt đâu là chính, đâu là tà, thật sự rất khó khăn.
Ở trong mơ, thần linh cũng có thể thử thách tính cách của tôi, những thử thách này tôi đã trải qua vô số lần, nói thật là thành tích của tôi chẳng hề tốt. Ví dụ có một lần, tôi ngủ say rồi, tâm thần tôi được đưa đến một nơi mà trước nay tôi chưa từng đến, nơi đó cực kì đẹp, có núi cao, sông hồ đẹp như tranh vẽ, ở trong núi có một con đường nhỏ bằng phẳng, chạy dọc theo con đường có trồng một loại cây không rõ là cây gì, trên cây trổ đầy những quả táo vàng long lanh lóng lánh. Còn tôi đứng ở dưới cây táo vàng, tôi nghĩ, con đường này chỉ có một mình tôi đi, mà dọc đường có những quả táo vàng long lanh như vậy, nếu tôi hái một quả, hoặc là nhiều hơn, chẳng phải sẽ trở thành phú ông sao? Tôi thật sự không thể kìm nén được niềm sung sướng trong lòng, nhưng tôi nghĩ lại, vật nào chắc chắn cũng có chủ, táo không phải là đồ của tôi thì tôi làm sao có thể hái trộm được chứ! Thế nhưng suy nghĩ tham lam đã nổi lên, tim tôi đập thình thịch, tôi đã quên mất sự tu dưỡng thường ngày, quên mất giáo huấn của Phật Đà, đưa tay ra định hái trộm, vừa mới hái vào tay thì tỉnh khỏi giấc mơ, toang rồi!
Lúc này, không trung có tiếng nói: “Liên Sinh, con người thường bị mắt đánh lừa, thường bị miệng đánh lừa, thường bị tai đánh lừa, còn anh bị giấc mơ đánh lừa, bị tham lam đánh lừa, nếu không dừng tham niệm, tâm giống như con thuyền nhỏ giữa sóng lớn, không có lúc nào định lại, như vậy làm sao mà đắc chính đạo được chứ?” Đây đúng là thời khắc mất mặt nhất, không ngờ ở trong mơ ác niệm của tôi đã rời bỏ tâm, còn muốn ăn trộm táo vàng của người khác nữa.
Lại có một lần khác, tôi được đưa đến một biển lớn sóng dâng cuồn cuộn, những con sóng biển cao như núi, những vòng xoáy nước sâu hoắm không thấy đáy, gió thổi vù vù, khi ấy trời đất đã đổi sắc, tiếng sấm rền vang nổ tung trên bầu trời. Còn tôi thì bị ném vào trong biển lớn đó, tôi dựa vào sức lực của mình để bơi, mãi cho đến khi mệt rã rời thì tôi nhìn lên trời đầy tuyệt vọng. Cổng trời mở ra, có mấy vị thiên sứ đi xuống, tôi hô hoán tên của thiên sứ, thế nhưng một hồi sau thì thiên sứ lại đi vào trong cổng trời, họ không có cách nào cứu tôi. Đột nhiên tôi nhìn thấy một kẻ bình thường tôi cho rằng là Ma Tây Thủ La đứng đầu trong vạn ma của Tha Hóa Tự Tại Thiên của ma quỷ, hắn cầm một sợi dây thừng quăng vào trong biển, sợi dây thừng lại biến thành một con thuyền. Tôi trèo lên thuyền, Ma Tây Thủ La nói: “Ta đã cứu anh rồi, anh phải hoan hô ta.” Thế là từ tận đáy lòng mình, tôi giơ tay về phía hắn và hét lớn: “Thần thánh của Tha Hóa Tự Tại Thiên là vua của vạn thánh, là tôn giả chí thánh vĩ đại.” Vừa hét xong thì tôi lại tỉnh dậy.
Trong không trung có tiếng nói: “Vì được cứu mạng sống trong biển duyên sinh tử mà đã không phân chính tà Ma Phật. Liên Sinh, anh phải tự mình quyết đoán, hành vi phải đoan chính, làm mọi việc thiện ích, tu cho bản thân thanh tịnh, gột rửa những cáu bẩn của tâm, lời nói và việc làm phải trung tín, trong ngoài tương ứng, nếu có tâm nịnh bợ thì sẽ trái với đạo đó!”
Quá nhiều lần thử thách tôi mà vẫn liên tục không qua được, có thể thấy tôi là một người phàm phu trong đám phàm phu, huệ căn quá thấp, không có định lực, đối với giới pháp cũng không giữ được. Đây đúng là nỗi bi ai nhiều năm tu đạo của tôi, Tiên Phật thử thách tôi hầu như đều tiến hành vào lúc nửa đêm, tôi đã đánh mất cảnh giác, tự nhiên không có cách nào chiến thắng được những thử thách, lần nào trong lòng tôi cũng rất buồn vì thất bại những khảo nghiệm đó.
Cái gọi là tu đạo cũng chính là tịnh hóa hoàn toàn cái tâm “chính tà bất phân” trở thành “chính tâm”, và đạt đến mục đích của “chính tâm” đó là phải “chế tâm”, và chế tâm cũng chính là “bỏ tà quy chính”. Tâm tính vốn thanh tịnh, trải qua nhiều việc trở nên cáu bẩn, dùng nước trí huệ để tẩy trừ tâm cáu bẩn. Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói: con người rèn sắt loại bỏ chất bẩn mà trở thành công cụ, công cụ chính là tinh luyện. Người ham học đạo, bỏ tâm ô nhiễm cáu bẩn thì hành vi cũng sẽ thanh tịnh.
Sau khi các vị thử thách tôi xong lại hỏi: “Liên Sinh, anh có làm tà pháp không?” ”Không, tôi không làm tà pháp.” ”Liên Sinh, anh có làm việc xấu không?” ”Không, tôi không làm việc xấu.”
Từng có một người đến Phật đường của tôi rồi bí mật gọi tôi qua một bên, thấp giọng nói với tôi: ”Tiên sinh, tôi nghe người ta nói bùa chú của anh đều là số một trong cả nước. Tôi nhờ anh giúp tôi vẽ phù được không?” ”Phù gì?” ”Hành vi của anh trai tôi quá sai trái, anh trai và chị dâu tôi bắt nạt tôi, đồng thời còn muốn chiếm đoạt tài sản mà bố tôi để lại, hiện tại tôi và anh trai vì vấn đề phân chia tài sản mà còn đang kiện tụng nhau. Tôi hi vọng anh sẽ vẽ một lá phù cho tôi, tốt nhất là loại phù có thể khiến cho anh tôi tinh thần phân liệt rối loạn tâm thần, tôi nghe nói Phù Tử Tiên có năng lực này, để cho anh ta trúng phù pháp của tôi mà tinh thần thất thường, để dạy dỗ anh ta một chút đó mà.” ”Xin lỗi, loại tà phù tôi không vẽ.” - Tôi nói. ”Yên tâm, tôi sẽ cho anh một vạn tệ, đồng thời tuyệt đối không nói là do anh vẽ.” Anh ta moi ra một vạn Đài tệ vừa mới lĩnh từ ngân hàng và giơ lên trước mặt tôi. Tôi có cần tiền không? Đương nhiên là cần rồi, nhưng mà tôi từ chối, cho dù là táo vàng tôi cũng không thể nào đồng ý.
Đây cũng là khảo nghiệm. Chiến tranh giữa thiên sứ và ma quỷ, cuộc chiến của tâm, cuộc giao chiến giữa chính và tà.
22. Thuật âm trợ tài thông
Hồi đầu, nhà tôi ở là nhà thuê. Khi tôi thờ phụng vị Quan Thế Âm Bồ Tát đầu tiên, nhà tôi ở số 39 đường Lực Hành thành phố Đài Trung. Khi ấy tổng cộng tôi thờ ba vị là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát. Thế nhưng, kể từ sau khi tín chúng đồn nhau kéo đến thì Bồ Tát linh cảm dị thường, thậm chí còn hiển hiện kim thân trước tín chúng. Kể từ đó một vài tín đồ tự động đem thêm những bức tượng kim thân tới, khiến cho ngôi nhà nhỏ mà tôi thuê trở nên chật ních.
Khi ấy tôi cúng sao giải hạn cho người ta, thậm chí là tụng kinh, làm pháp hội siêu độ, bận rộn ngày này qua ngày khác, tín đồ tự động bỏ tiền bỏ sức làm Phật đường của tôi trở thành Từ Huệ Lôi Tạng Tự, dần dần quy mô hóa lên, tín đồ ào ào kéo đến như gió. Điều này cũng khiến cho thanh danh của Phật đường nhỏ bé lan đi khắp cả nước, người đến từ Hoa Liên, Cao Hùng, Bành Hồ, thậm chí người chủ trì đầu tiên của Từ Huệ Đường ở Nhật Bản là ông Yamada Gitei cũng quá bộ đến nhà tôi, muốn mời tác giả đi xa một chuyến đến Nhật Bản, nhờ vào thuật linh thông của tôi để tuyên truyền sự linh cảm của Diêu Trì Kim Mẫu.
Lần đầu tiên linh quang của Diêu Trì Kim Mẫu giá lâm Phật đường của tôi, khi ấy tôi đang ngồi trong phòng khách, nghe thấy tiếng chuông trong phòng thờ không gõ mà tự kêu. Tôi nhìn thấy một khối ánh sáng trắng chói lóa lao thẳng vào trong Phật đường, chư Phật trong Phật đường lấp lánh ánh vàng. Tất cả những người đang ngồi thiền trong Phật đường đồng loạt xúc động, một lần bảy người cùng reo mừng, tục gọi là sự khởi đầu pháp luyện thân của Diêu Trì Kim Mẫu. Thế nhưng Phật đường quá nhỏ, hễ có nhiều người là không thể nào quay người được, rất bất tiện.
Khi ấy, Kim Mẫu nói với tôi: “Liên Sinh, ta là Đạo gia Thái Thượng Vô Cực Tiên Thiên Ngũ Lão Chí Tôn, xưng hiệu là Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn. Nay anh tôn sùng ta, ta chắc chắn sẽ giúp anh thành tựu đại đạo, xây dựng đạo tràng. Đến năm Dân Quốc 62 [năm 1973] vật giá sẽ leo thang, anh phải mau mau xây dựng đạo tràng, bằng không thì sẽ không kịp đâu, mau mau xây dựng đạo tràng, không thì sẽ muộn mất…” Kim Mẫu hiển hiện ngồi tại không trung, mây sương bao quanh thân, đầu đội mũ phượng, người tỏa ra những tia sáng màu tím, ngồi trên tòa hoa sen, một tay cầm ngọc như ý màu xanh, một tay cầm phất trần, xung quanh có tiên chúng đi theo ủng hộ, sau một lúc thì biến mất.
Lúc này, Na Tra Tam Thái Tử nói với tôi: “Liên Sinh, xây dựng đạo tràng nhất định có thể thành công, đừng lo lắng, giá cả vào năm 62 sẽ tăng lên rất khủng khiếp, anh muốn xây dựng đạo tràng thì trước tiên phải được trao cờ lệnh ngũ sắc, ngũ sắc là năm màu gì? Một là cờ trắng đại diện cho thiên binh thiên tướng, hai là cờ đỏ đại diện cho Lôi Bộ Chính Thần, ba là cờ vàng đại diện cho Thập Đại Nguyên Soái, bốn là cờ xanh đại diện cho hộ pháp thần binh, năm là cờ đen đại diện cho âm binh âm tướng.” ”Có công dụng gì?” ”Ta sẽ đặc biệt dạy cho anh thuật âm trợ tài thông.”
Khi ấy, căn bản là tôi không có tiền để xây dựng đạo tràng. Tiền tiết kiệm của tôi được một trăm nghìn tệ, cộng thêm hai mươi nghìn tệ tiền kim bài thần minh, hai mươi nghìn tệ tiền hương hỏa cúng sao giải hạn. Tôi cúng sao giải hạn cho người ta được khoảng bốn năm, mỗi năm thu nhập được năm nghìn tệ, cho nên tổng cộng được khoảng hai mươi nghìn tệ. Tất cả tôi đều giao hết cho mẹ tôi giữ, tôi không hề động đến một xu. Các em gái trong nhà tôi làm việc ở bên ngoài, mỗi người góp một ít, cộng với số tiền đang có trong nhà, tổng cộng khoảng hai trăm nghìn tệ. Khi ấy muốn xây dựng một ngôi nhà trông khang trang một chút thì tối thiểu cũng cần bốn trăm nghìn tệ, cho nên vẫn còn thiếu hai trăm nghìn tệ nữa. Tác giả nhiều lần hỏi thử khi nào sẽ có tiền. Thần Thánh cười không đáp, chỉ nói một cách thần bí là “đến lúc sẽ có”.
Cái gọi là thuật âm trợ tài thông, tổng cộng tôi sử dụng hai lần, thuật pháp này là mua tiền vàng mã của âm gian về, sắc lệnh một linh phù “giúp tôi tài thông” rồi hóa đốt. Theo tỉ lệ mà nói, chúng ta tiêu một phần tiền âm cho người âm thì họ ở âm gian có thể giúp chúng ta thu về được bốn phần tiền, số tiền này sẽ quy nhập vào công khố ở âm gian, do hai vị người âm là Thái Âm Công và Nữ Âm Hồn quản lí, tự họ sẽ phân phối một cách thỏa đáng, không cần người dương chúng ta phải bận tâm.
Tôi sử dụng cờ lệnh đen để xử lí việc này. Một số người âm đã giúp tôi thành công, từ có biến thành không, rồi lại từ không biến thành có.
Bởi vì: ”Đạo pháp tại thân không tùy tiện Ngẫm đạo lí ấy lòng tái tê Vạn tuế nghìn năm hoa dễ nở Một người nhập đạo khó nhập đời”. Tôi hiểu sâu sắc đạo lí trong đó, quả nhiên, khi có nhiều người đăng kí vay tiền từ một công ty, chúng tôi cũng không dễ dàng gì mà vay được số tiền ấy, chỉ vay được vừa vặn hai trăm nghìn tệ.
Thuật âm trợ tài thông này, xin thứ lỗi cho tác giả không thể công khai, bởi vì đây chính là một trong những phương thuật vay mượn, người dương gian giúp người âm gian, và người âm gian giúp người dương gian, nếu công khai phù chú sẽ khiến cho người người nảy sinh tâm ham muốn tranh giành tài sản, mơ mộng hão huyền rằng không cần phải làm gì mà vẫn có được của cải.
Nhà tôi xây đạo tràng nhìn chung đã thuận lợi và thành công rồi, ngay trước khi giá cả tăng cao, trước tháng 6 năm 62 đã xây xong, thời điểm tháng 6 năm 62 thì vật giá đã bắt đầu biến động rồi. Đạo tràng của tôi ở địa chỉ số 7 ngõ 337 đường Tiến Hóa thành phố Đài Trung. Hiện tại sau khi tính toán, tổng chi phí vật liệu để xây dựng ngôi nhà này là một triệu sáu trăm nghìn tệ, không sai một chút nào, thuật âm trợ tài thông cúng một phần được hoàn trả bốn phần, không có một chút nào là giả.
Đạo tràng thờ phụng Diêu Trì Kim Mẫu, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và Địa Tạng Vương Bồ Tát đã được xây dựng rất nhanh chóng, từ lúc khởi đầu có ba vị Bồ Tát cho đến bây giờ đã có bốn mươi vị đại Bồ Tát, toàn bộ đều được thờ phụng trong Phật đường đó. Tín chúng mỗi ngày một tăng lên, vì thế mà lại có nỗi lo là không đáp ứng đủ chỗ cho mọi người.
Tác giả sâu sắc biết rằng những ngày gặp ma nạn của mình đã đến. Tôi thần toán mà biết được vận số bẩm sinh của tôi cực đẹp, thế nhưng vận số sau này là vào lúc thanh niên, trung niên sẽ phải chịu những thử thách của trời, cuộc sống sẽ vô cùng trắc trở, mang theo mình vận số không thể nhờ cậy được người thân, số trời đã định tôi là người tay trắng làm nên. Vì đạo tràng đã khá thành công nên tôi đành phải chuyển ra ngoài, lại trở về với kiếp sống đi thuê nhà ở tạm, lại một lần nữa phấn đấu trong cuộc sống, cho đến tận khi “sự nghiệp một đời muộn mới thành”, đây mới là số mệnh gian khổ thật sự của tôi. May mà phúc trời còn mãi, thần linh phù hộ, bằng không mạng của tôi đã chấm dứt từ lâu rồi!
Tài lộc của tôi, Thần chỉ thị rằng: Bảy triệu. Đây là một bí mật của tôi.
23. Vũ trụ rộng lớn trong tay áo
Ngày 18 tháng 5 năm Dân Quốc 64 [năm 1975], một sự việc khiến tôi hết sức vui mừng đã đến. Đó là nửa đêm trong lúc tôi ngủ say, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã giá lâm. Nghe thấy tiếng gọi thân thương của ngài khiến tôi sung sướng đến rơi nước mắt. Nói thật, kể từ sau khi ngài dạy tôi một vài bí pháp, ngài đã tự mình bỏ đi, tôi muốn tìm ngài cũng không thể tìm được. Mùi đàn hương trong phòng tôi thơm nồng, tôi cảm giác thấy ngài thân thiết sờ lên đầu và trán tôi.
“Liên Sinh, từ lúc tạm biệt tới nay con vẫn tốt chứ?” ”Linh Sư, đúng là một lời nói sao cho hết, có điều may có điều không may, con không biết bắt đầu nói từ đâu. Con đã viết một cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán”, khiến cho nhiều nhân sĩ trong xã hội coi trọng, và cũng có một số người cho rằng là nói vô căn cứ không đáng tin, nhưng có một số người cho rằng con đã tháo gỡ mối băn khoăn nghi ngờ nhiều năm trong lòng họ, họ khen ngợi con, muốn con càng nỗ lực hơn nữa! Linh Sư, vì sao con người trong thiên hạ vẫn có người không tin những lời nói chân thật của con chứ?” ”Liên Sinh, người có căn cơ thô mỏng, cho dù có nhất thời tin tưởng thì cũng khó tránh khỏi nghi hoặc, cho dù Như Lai hiển hiện pháp thân, họ cũng sẽ tự cho là ảo giác thôi! Lòng người thô lậu, căn khí không đủ, kiến thức quá thấp, căn bản là giống như gỗ mục, con cứ để mọi thứ thuận tự nhiên đi. Giống như người đánh cá quăng lưới bắt cá chắc chắn sẽ bỏ sót, giống như ánh mặt trời chiếu khắp nhưng cũng có chỗ khó chiếu đến. Xuất bản cuốn sách “Linh cơ thần toán”, ta cũng biết cuốn sách này là đại thiện, sau này sẽ lưu truyền rộng rãi, sẽ trở thành một cuốn kì thư vĩnh viễn bất hủ đó! Công này cực lớn, cũng có chỗ cảnh tỉnh nhân tâm thế đạo.”
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh lại nói: “Liên Sinh, Bồ Tát thường năng tu phương tiện thắng trí, dùng sức mạnh chính trí có thể chấm dứt những trắng đen phải trái trong tâm hành của chúng sinh hữu tình, có thể vì chúng sinh mà thuyết pháp tương ứng, như thế tức là chính danh đại Bồ Tát.” ”Đệ tử xin nghe sư phụ dạy bảo.” ”Mục đích ta đến đây hôm nay không có gì khác, con hãy đưa bàn tay ra vận linh, ta sẽ dạy con cách bấm đốt ngón tay thần toán. Hãy để cho linh mệnh trên người di chuyển đến đầu mút của ngón tay, trong miệng cung kính niệm vô cực tiên thiên pháp chú, hỏi việc gì, thỉnh Thần chỉ thị, như thế là biết ngay! Đầu ngón tay con sẽ tự nhiên dao động, bốn ngón tay phân làm thượng phẩm, trung thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm, lại phân thành tiên thiên, trung thiên, hậu thiên, tự nhiên, sau này con chỉ cần bấm ngón tay mà đoán, mọi việc trong thiên hạ đều nằm trong lòng bàn tay con.”
Tôi nghe xong thì hết sức vui mừng, vội hỏi: ”Linh Sư, đây chẳng phải là càn khôn trong ống tay áo của Văn Vương sao?” ”Không sai, chính là bấm ngón tay biết hết thiên hạ, vũ trụ rộng lớn trong tay áo. Sau này con thần toán cho người ta, không cần phải cầu đến sự giao tiếp linh cảm với thần linh nữa, đỡ phải điều động binh lực.”
Trước sự việc này, tôi nghĩ rằng bấm ngón tay thần toán là chuyện thần thoại chỉ có trong tiểu thuyết thần tiên thôi, căn bản là không thể nào, nhưng hôm nay cuối cùng tôi đã hiểu được rằng đây không còn là chuyện thần thoại nữa. Tôi đưa bàn tay ra, trong miệng cung kính niệm tiên thiên vô cực chính pháp chú, vận chuyển linh mệnh đến đầu mút ngón tay. Nói ra thì rất kì quái, tôi nói ra toàn bộ việc nghi vấn, đầu ngón tay ấy thế mà lại tự động cong gập, xương khớp bên trong ngón tay còn phát ra tiếng kêu nữa, đây đúng là kì tích, đây đúng là thần kì, tôi vui sướng muốn phát điên.
“Kể từ khi ta rời đi, ta đã âm thầm quan sát và kiểm tra phẩm hạnh của con, biết rằng con đã xa rời bất tín, xa rời biếng nhác, xa rời ác khẩu, xa rời vô liêm sỉ, xa rời tri thức ác, giống như năm xưa khi ta tại thế, phương pháp bấm ngón tay thần toán không phải do ta truyền cho con, mà chính là phúc trời tự hưởng, công đức của con dần dần cao dày, trung hậu thật thà, tấm lòng khiêm tốn, cư xử với mọi người trung thực, độ chúng sinh vô số, tam quang tỏa hiện, từng bước tăng trưởng, nhưng tâm tính vẫn còn có hỏa khí chưa trừ bỏ được, dễ sinh bực tức, hãy coi chừng ngọn lửa vô minh của chính mình sẽ thiêu rụi rừng công đức.” ”Thế nào là lửa vô minh thiêu rụi rừng công đức?” - Tôi thắc mắc hỏi. ”Người tu đạo cần như nước sạch, có thể chịu được mọi ô nhiễm, chảy trên mặt đất. Ngày nay con người tồn tại trên mặt đất giống như những bọc bẩn thỉu hôi thối, lại còn có cả chó chết, ngựa chết, mèo chết, rắn chết, côn trùng chết, nhưng nước sạch phải lần lượt chảy qua, gột sạch tâm của chúng.” ”Linh Sư, nhẫn nhịn điều mà con người không thể nhẫn nhịn được, chính là nhẫn nhục ba la mật.” ”Đúng vậy.”
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh lại lặng lẽ rời đi, khi đến chẳng có bóng ảnh, khi đi chẳng để lại dấu vết, ẩn thân giữa trời đất, là Thần Tiên thượng thừa cõi Vô sắc giới không đến không đi, tôi thật sự muốn đi cùng với Linh Sư. Đến khi nào tôi mới có thể giống như Linh Sư, hoàn toàn giải thoát tiêu dao đây! Tôi thật sự ghét, ghét cái thân xác thối tha của nhân loại đã trói buộc linh mệnh của tôi, tôi đã bị ngoại cảnh bức bách đến mức độ như thế này rồi, tôi cầu Linh Sư đưa tôi đi, tôi không muốn làm người nữa, thật sự, tôi không muốn làm người nữa!
Tôi bị những kẻ vô tri lừa gạt, cười nhạo. Tôi phải chịu những ánh nhìn khinh miệt của mọi người. Mê tín, mê tín, mê tín, mê tín… Vô số từ ngữ đè nặng lên tâm hồn tôi. “Anh ban ngày gặp ma rồi!” “Lư Thắng Ngạn là một kẻ thần kinh thất thường!” Hỡi ơi! Vận mệnh bi thảm tôi có thể trách ai? Linh Sư, sao thầy không đưa con đi? Thế nhân ngày nay đều sáng lập ra những thuyết vô thần, một mình con theo thuyết có thần mới cô độc làm sao!
Bấm ngón tay thần toán, cuối cùng tôi đã học được, nhưng tôi cũng hiểu rằng nhiệm vụ tương lai của tôi càng lớn hơn.
24. Địa ngục do tâm tạo
Sau khi tôi chứng được thông linh, trong một lần đi đo đạc ở ngọn núi lớn vùng Bắc bộ, tôi từng gặp một quái linh, linh này hai mắt cụp xuống, đầu cúi xuống, lưỡi thè dài, ngồi dưới một cái cây to im lìm bất động. Tôi đi qua hỏi hắn: ”Tiên sinh ngồi đây có việc gì?” ”……………” - Hắn không nói gì, từ đầu tới cuối cứ ngồi im như thế.
Đúng lúc ấy, phía xa xa từ trong màn sương có một vị Thổ Địa Công Công đi tới, tay cầm gậy chống, miệng hát bài ca Quay Đầu của Hồi Đầu Chân Nhân: “Quay đầu là tốt, quay đầu là tốt, việc đời sau này một nét bút gạch bỏ là xong. Mặc người ta bận rộn chuyện thế gian, lòng ta thanh tịnh không phiền não. Cả ngày tham lam đến khi nào dứt, oán hận trong nhà tiền tài thiếu thốn. Rõ ràng ta là con rối bị sợi dây điều khiển, khi sợi dây đứt thì cũng ngã nhào. Vô thường đến chẳng phân biệt lớn bé, vô thường không ham vàng bạc chẳng cần châu báu, bất phân nghèo hèn và vương tộc, mỗi năm bao người bị chôn dưới lớp cỏ hoang. Nhìn xem mặt trời đỏ khuất sau rặng núi tây, đâu hay gà kêu trời lại sáng. Khẩn trương quay đầu, đừng nói còn sớm, trẻ con bé xíu cũng sẽ già. Tài cao cung Bắc Đẩu nghìn rương hòm, nghiệp chướng theo thân vốn tự tạo. Khuyên thế nhân quay đầu là tốt, giữ giới niệm Phật là báu vật mang theo bên mình, rõ ràng danh lợi cũng sẽ tan như bọt xà phòng, chẳng bằng quay đầu niệm Phật là tốt.”
Thế rồi Thổ Địa Công Công đi đến trước mặt quái linh kia, nhấc cây gậy lên, gõ gõ lên đầu quái linh. Kể cũng lạ, quái linh kia vẫn ngồi yên ở đó không hề động đậy, dường như không có cảm giác gì. Thổ Địa Công Công thở dài một hơi, lắc đầu, nhìn tôi một cái rồi quay người định bỏ đi.
“Thổ Địa Công Công, chuyện này là thế nào?” - Tôi vội hỏi. ”Ồ, tiên sinh là cao nhân phương nào, sao lại nhìn thấy pháp thân âm linh của Thổ Địa tôi?” - Thổ Địa Công Công quay người lại đầy sửng sốt. Tôi chắp tay cúi đầu lạy một cái, Công Công vội vàng đáp lễ. ”Tại hạ là một nhân sĩ tu chân đạo, từng theo dị nhân học đạo, hôm nay vào trong núi này đo đạc, nhìn thấy việc này thì cảm thấy hết sức nghi hoặc, Thổ Địa Công Công có thể nói cho biết không?” ”Tiểu thần chính là Thổ Địa trấn núi Chỉ Nam này, vong linh này là cháu trai của tôi, vì khi nó tại thế làm quan, phát đại tài, nên rất lưu luyến nhân gian, sau khi chết được chôn dưới cái cây này. Nó vẫn mê đắm vào tài sản và quan vị của mình không muốn rời bỏ, hồn phách cứ trông giữ chỗ này, lo sợ bị đào lên, cho nên hồn không tản đi được! Rõ thật là con người ngu si truyền đời, đến chết vẫn không tỉnh ngộ. Vì lúc chết nó không có đại ác nên thần quỷ cứ để mặc nó ngồi đây, bây giờ nó đã trở thành ma hám tiền rồi. Tôi thân là ông nội của nó, muốn dùng bài hát Quay Đầu này để thức tỉnh nó, nhưng mà cũng chẳng có được khả năng ấy. Tiên sinh đã là một cao nhân, không biết có diệu pháp gì không?” ”Việc này……………” - Tôi nhất thời không nghĩ ra phương pháp gì, thế rồi tôi nói với Thổ Địa Công Công: “Thổ Địa Bồ Tát, có lẽ hôm nay tôi có thể giúp ngài một tay đấy, nhưng ngài phải nói cho tôi biết một điều chí lí giữa trời đất này.” Thổ Địa Bồ Tát gật đầu đáp một tiếng: “Được.”
Từ trong ba lô, tôi lấy ra ấn Lục Giáp Thần mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã giao xuống, dùng liên hoa thủ để cầm ấn, một tay bắt ấn kiếm quyết. Thổ Địa Công Công nhìn ấn ở trong tay tôi thì quỳ xuống và hét lên: “Thì ra là thân ấn của Đông Hoa Đại Đế Quân đã đến đây, đệ tử thấy ấn như thấy Đại Đế.”
Nói rồi ngài ấy liên tục rập đầu xuống đất. Lúc đó tôi niệm thầm chú ngữ Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp, rồi nói: “Nhất động Thượng đế tới, nhị động long hổ đến bảo hộ, tam động quỷ thần kinh sợ. Đệ tử Liên Sinh phụng Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp, gọi hồn phách của ma hám tài trở về, khiến hắn nghe thấy ấn thần điểm hóa, biết ngũ uẩn đều không, ngay cả thân này cũng không phải vật sở hữu của ta, huống hồ tiền tài quan vị, nay nghe lời Phật, sớm đi đầu thai nơi đất lành đi!”
Tôi niệm chú xong thì dùng ấn Lục Giáp Thần in lên trán của quái linh. Nói ra cũng kì lạ, không ngờ hồn phách ấy dần dần tiêu biến, hóa vào trong vô hình, một hồn phách đã đi tìm nơi đất lành rồi.
Sau khi hoàn thành việc này, Thổ Địa Bồ Tát nói với tôi: “Đại đạo vô vi, thanh tịnh là chân, chúng sinh lục đạo, do vọng mà thành, vọng duyên tạo nghiệp, thiện ác mới phân, nhân quả xác đáng, đôi chút phân minh.” Lại nói: “Địa ngục có thật, địa ngục này chính là do lòng người tạo ra thôi! Thật ra người đời có bao nhiêu hành vi xấu xa thì địa ngục có bấy nhiêu ác thú [ác thú: chốn ác trong các đạo luân hồi], báo ứng sớm muộn chỉ là đợi đến khi duyên chín muồi mà thôi. Đủ mọi ác thú đều tùy theo ác nhân ác hành ác niệm trên đời mà tăng giảm, thiện ác họa phúc nhân quả tuần hoàn, nếu con người không cầu xuất li sinh tử thì đúng là tồi tệ. Trong quá khứ trưởng lão Giác Thế từng nói: Địa ngục quả thật có. Nhân tính mà nghĩ đến điều thiện thì thuộc về dương minh, vì nhập vào thanh nhẹ cho nên có thể lên thiên đường. Nếu nghĩ về điều ác thì thuộc về âm trọc, vì nhập vào u ám khiến quy về địa ngục. Mỗi khi gặp thế nhân mắc bệnh hiểm nghèo là ánh mắt tôi nhìn xuống đất, vì quá kinh sợ ma quỷ, hoặc khi nghe thấy tiếng xiềng xích xiên sắt cũng thế!” ”Đây đúng là địa ngục do tâm tạo rồi.” - Tôi nói. ”Đúng vậy.” - Thổ Địa Bồ Tát nói: “Con người sống trên đời sinh diệt vô định, dần đến dần đi, như trăng khi tròn khi khuyết, như hoa khi nở khi tàn, hôm nay sinh ra chính là vì trước đó đã chết. Nếu không chết thì hôm nay há gì lại sinh ra. Đây chính là họa phúc không có cửa, chỉ có người tự mời, quả báo của thiện ác như bóng theo hình. Ngông cuồng cầu vinh, bôi nhọ danh dự, khắc nghiệt làm giàu, con cháu gặp họa.”
Thổ Địa Bồ Tát trấn núi Chỉ Nam là một lão Thổ Địa Công Công đạo đức cao thâm. Từ cách ăn nói của ngài ấy mà tôi sâu sắc biết được thần lực của ngài ấy không hề tầm thường, công đức cũng không tầm thường, lúc còn tại thế nhất định cũng là một nhà thông thái kiêm nhà từ thiện lớn, bằng không sao có thể hưởng thụ hương hỏa muôn đời của nhân loại chứ! Lời của ngài ấy từng chữ đáng giá nghìn vàng, nếu có người hết lòng tuân thủ thì sẽ có phúc đó.
Ngọn núi lớn mà tôi đo đạc ở phía sau núi Chỉ Nam, tục gọi là núi Xu-chiêng, bởi vì từ xa nhìn lại, ngọn núi cao tới tận mây, hình dáng của nó quả thật nhìn giống chiếc áo ngực. Ở trong núi ấy tôi đã gặp ma hám tiền và Thổ Địa Công Công của núi Chỉ Nam, nếu có người không tin việc này có thể đến miếu Thổ Địa, dùng “Chén Thần” [ý chỉ hình thức bói chén] hỏi thử là biết ngay thật giả thôi!
25. Pháp yếu về phù kê
Các loan đường [nơi hành nghề của những người lên đồng] hiện nay, đại bộ phận đều tôn sùng Quan Thánh Đế Quân. Và còn có thánh chỉ của phù kê [việc lên đồng viết chữ] xuất hiện. Cái gọi là phù kê chính là một trong những thuật pháp kết nối lẫn nhau giữa người và thần, người và linh, kê đàn thường dùng cành đào hoặc cành liễu làm một trong những công cụ để viết chữ, nhờ có thần giáng chữ lên cát trắng mà từ đó hiện lên lời chỉ giáo, hoặc văn vẻ của thánh, hoặc chỉ điểm công việc, hoặc chữa bệnh, hoặc luận phương pháp làm người, ở đây có rất nhiều điều kì diệu không thể suy đoán.
Sư phụ tôi Ấn Quang pháp sư từng nói: “Ngày xưa kê đàn ở Thượng Hải phổ biến rộng rãi, những khai thị từ đó như sửa sai thành thiện, tiểu luân hồi, tiểu nhân quả, đều có lợi ích lớn đối với thói đời lòng người. Còn đối với việc thuyết Trời hay thuyết Phật pháp thì thẳng thắn mà nói đều là nói nhảm. Đệ tử Phật chúng ta không thể bài trừ pháp này, bởi vì nó có cái sai là cản trở người hướng thiện, nhưng cũng không thể phụ họa khen ngợi pháp này, bởi vì những điều Phật thuyết của họ đều được soạn ra một cách chủ quan, e rằng nó sẽ có cái họa là làm loạn Phật pháp, làm hại chúng sinh.” Còn nói: “Phù kê đa phần là hồn ma giả mạo Tiên Phật Thần Thánh, ma có thể mượn trí thông minh của con người mà hiển hóa thần thông lạ.”
Tôi cảm thấy lời pháp sư Ấn Quang nói thật không sai. Theo như tôi biết, ở địa phương kia có một loan đường tiếng tăm vang xa, tôi từng xem thuật phù kê của họ, người đến giáng đàn không phải Thánh không phải Thần, không phải Phật không phải Tiên, trái lại là một số linh hồn của các ông bách tính, ông vạn thiện, ông thủy long, ông đại đạo, ông thiên gia, ông nghĩa dân thượng vàng hạ cám. Vì đất chôn của các linh hồn này có địa khí tương đối nặng, nên họ có được một vài thần thông nhỏ của quỷ linh, vì thế họ mới ra mặt mượn vật sai khí, viết ra một vài loan ngữ khuyến thiện. Những linh hồn này cũng có người có bản tính thiện lương, cũng rất thành thạo giúp người ta chữa bệnh giải quyết khó khăn. Tôi sử dụng khởi linh pháp nhãn của mình nhìn những linh hồn kia điều khiển khí để tác động lên cành liễu cành đào viết chữ, khi giáng bút họ không dám xưng mình là “tinh linh địa lí” mà lại mạo danh của các vị đại Tiên đại Thánh như Ngọc Hoàng Đại Đế, Phu Hựu Đế Quân, Chân Võ Tổ Sư, Quan Âm Cổ Phật, Văn Xương Đế Quân, Nguyệt Hoa Lão Nhân đến giáng đàn, thật sự là có hơi dở dở ương ương.
Kẻ hèn này cho rằng đây chính là điều đáng băn khoăn nhất về loan đường, thỉnh chính thần không được, trái lại thỉnh đến một đám tinh linh. Hiện tại là thời mạt kiếp, đám tinh linh này nếu hay nói lời thiện thì thật cũng không có gì xấu, nhưng nếu ngông cuồng luận bàn Phật pháp thì cũng là một việc rất gay go, bởi vì thật giả bất phân, trân châu và mắt cá làm cho một đám người tu đạo tu luyện một cách đui mù. Chúng ta từng biết rằng, trung ấm chính là cái thức thần, không phải là thức thần hóa thành trung ấm, tục gọi là linh hồn. Còn phù kê chỉ là một dạng kết nối giữa thức thần và linh bên ngoài, trên phương diện phù kê, có hai điểm bắt buộc phải ngăn ngừa.
Thứ nhất, đó là ngăn ngừa linh hồn giáng đàn, mà phải phụng thỉnh chính thần giáng đàn. Trên phương diện này, linh hồn và chính thần cùng là linh, nhưng con mắt phàm tục lại không nhìn thấy, làm sao phân biệt được đây! Tôi cảm thấy sự nghiêm túc của lễ nghi phù kê ở loan đường là rất quan trọng, cộng thêm nguyên linh của kê thủ chính có phải là khí sạch thuần chân không lại càng quan trọng. Cái gọi là tọa quan (tọa cấm) 49 ngày, việc huấn luyện chủ yếu chính là luyện thành linh tịnh thanh và thuần, ở đây nếu có một chút bất tịnh nào, vẫn có tà ý, thì đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chiêu động hồn ma. Cho nên sự huấn luyện của kê thủ chính là sứ mệnh chủ yếu của tất cả loan đường, linh lực của họ phải đạt đến khả năng phân biệt được linh giáng xuống là chính hay là tà. Ngày nay, thiên hạ đầy rẫy linh hồn, những thứ họ nói toàn là thuyết hít khí dưỡng khí, nếu con người dựa theo đó mà tu thì chẳng qua cũng chỉ trở thành linh ma mà thôi, cho nên nhãn quang của người tu đạo phải sắc bén, nếu học tà pháp thì mau mau quay đầu khi còn chưa muộn.
Thứ hai, ngăn chặn thức thần của kê thủ chính tác quái, cái gọi là thức thần tác quái là linh hồn của chính mình đưa ra chủ ý, niệm lực của chính mình khống chế việc viết chữ, ở đây chẳng có Thần Thánh giáng xuống mà chỉ có thức thần tự động làm mà thôi. Những văn tự được viết ra tự nhiên đều là suy nghĩ của bản thân kê thủ, làm như vậy đến sau cùng thì bản thân kê thủ cũng trở nên hồ đồ, không phân biệt được rốt cục có phải là mình đang viết hay không, dù sao bản thân mình muốn viết cái gì thì tay sẽ tự động thuận theo ý nghĩ mà viết ra cái đó. Dạng thức thần tác quái này đều trái với chủ ý ban đầu là “trời người hợp nhất”, “tam tài [thiên, địa, nhân] phù kê”, trở thành ảo giác của “niệm thức hợp nhất”, “nhân tài phù kê”. Kiểu dạng kê thủ như vậy có không? Có, may thay tôi đã gặp được đúng người đó.
Người đó là người Viên Lâm, tuổi khoảng ngoài 50, hiện sống ở Đài Bắc làm kinh doanh, mười mấy tuổi thì bắt đầu làm kê thủ. Kiến giải của người đó về thần và linh hồn thật sự là lệch lạc. Ông ta nói với tôi: ”Làm kê thủ chính là làm thần.” ”Sao lại thế?” ”Tôi muốn mắng người nào thì mắng người đó, tôi cao hứng muốn viết thế nào thì viết như thế. Mỗi lần lên đồng, tôi học thuộc trước vài bài thơ, học thuộc thơ rồi thì viết ra, ai ai cũng cực kì sùng bái tôi.” ”Ông nghĩ có linh hồn không?” ”Có, nhưng sau khi con người chết đi thì cũng tiêu biến thôi.” ”Linh hồn thì tiêu biến thế nào?” ”Cái này, cái này… dù sao tiêu biến là tiêu biến thôi, người chết rồi thì chẳng có thần cũng chẳng có linh hồn.”
Tôi không tranh luận với người đàn ông này, người đàn ông này nhiều năm làm phù kê như vậy hoàn toàn là do thức thần tác quái, nếu không phải là thức thần tác quái thì sẽ không tự nhận là muốn viết cái gì thì viết cái đó. Người lên đồng viết chữ, công hay tội chỉ nằm trong một suy nghĩ, sao có thể khinh suất chứ?
26. Xem khí
Tôi đọc “Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi” bản soạn lại, trong đó có một đoạn nói: “Tâm thể vốn tịnh, do căn trần mà trọc niệm khởi lên. Phật tính thường tồn, do mê lầm nên phàm tình hừng hực. Thế nên các lực tịch chiếu nhận được phản tác dụng trở thành duyên tối tăm loạn động. Ở trong thường trụ, lầm chịu nỗi khổ sinh tử. Chấp vào ngũ uẩn mà không biết rằng chung quy đều là không. Cái tâm bị che chắn thì làm sao hiểu rõ mọi thứ vốn là bất khả đắc, nhiễm sâu vào huyễn cảnh của lục trần thì đọa lạc vào trong đường khổ tam ác đạo. Dù trải qua kiếp số nhiều như vi trần thì cũng chẳng ra khỏi lục đạo luân hồi.” Còn nói: “Cả đời tìm cách tháo gỡ giải trừ, lí sự viên dung, tính - tu đều có đủ, trọc trí trở thành tịnh trí, mong muốn khiến cho phàm tâm trở thành Phật tâm, nhờ kinh Thập Luân mà hiểu rõ sám hối. Gương báu đã được lau rồi thì tự sẽ tỏa sáng.”
Ngày xưa có một tu sĩ tên là Vô Cấu Tử từng nói:
“Nhân, pháp đều quên vạn sự dừng Trăm sông bốn biển về nguồn chung Bỗng nhiên trơ ra vầng trăng lẻ Chiếu khắp càn khôn bốn đại châu.”
Mục đích mà tôi trích ra hai đoạn này không gì khác ngoài việc để cho độc giả hiểu rằng linh trên thân người có liên quan đến sự ô trọc và thanh tịnh, có liên quan đến sự mờ mịt và tươi sáng, giống như gương báu khi đã lau sạch thì ánh sáng tự tỏa ra, chiếu khắp vũ trụ bốn đại châu.
Có người hỏi tôi, một người đi vào chùa, Thần Thánh ngồi trên đài cao, các vị làm thế nào mà nhìn một cái là biết người này là thiện hay ác? Tôi nói cái này chính là “xem khí”, con mắt của Thần giống như điện, cho dù người đến có dáng vẻ phi phàm, áo quần bảnh bao, nhưng con mắt của Thần minh sớm đã nhìn ra ngay chỗ thiên khiếu sáng hay mờ mịt, ha ha! Một kẻ lưu manh làm sao có thể né tránh được Thần Thánh xem khí chứ! Lại nói, nếu một người quân tử nho nhã ăn mặc tầm thường, dáng vẻ giản dị, nhưng ở thiên khiếu có một vùng ánh sáng đỏ, một người thiện như vậy cũng làm sao có thể giấu được Thần linh.
Linh thể của con người vốn là một dạng khí, và trên thân người cũng sẽ tỏa ra khí công hay tội của người này. Con mắt phàm phu không nhìn ra được khí này, nhưng trong con mắt của Thần Thánh thì chúng khác nhau, vô hình trở thành hữu hình, không những hữu hình mà còn hữu sắc nữa. Ở đây không hề giống với những người xem tướng giỏi quan sát khí sắc, cái gọi là khí sắc chính là ánh sáng do bản thể của linh sinh ra.
Trong quá khứ, tôi đi công tác ở miền Bắc từng ở tạm trong chùa Tập Ứng trên đường Tập Ứng ở khu ngoại ô Mộc San. Chùa Tập Ứng không thể coi là chùa nhỏ, chùa thờ phụng Bảo Nghi Tôn Vương và Bảo Nghi Đại Phu, người ta đồn là Trương Tuần và Hứa Viễn, một vị là tướng võ, một vị là văn sĩ của chùa. Sau khi tôi làm lễ bái lạy, tôi trở về chái nhà bên trái để đi ngủ. Đêm ấy, tôi có một giấc mơ rất kì lạ, mơ thấy một đám mây từ từ bay đến chỗ tôi đang ngủ. Ở chỗ mây tản ra hiện lên một vị võ tướng đội mũ vàng mặc áo giáp vàng, ngài ấy đưa tay ra xoa xoa lên đầu tôi, còn trên đầu tôi hiện lên ba vệt ánh sáng, một vệt màu trắng, một vệt màu đỏ, một vệt màu vàng kim. Vị võ tướng đội mũ vàng mặc áo giáp vàng ấy cười cười, rồi lại dùng tay xoa xoa, ba vệt ánh sáng đó liền biến mất, và võ tướng mặc giáp vàng cũng không thấy đâu nữa.
Tôi đi Đài Bắc công tác là để đo đạc kế hoạch phát triển đô thị Đài Bắc, tôi đã leo khắp các ngọn núi ở vùng phụ cận Mộc San, bao gồm thắng cảnh núi đá Tiên Tích, núi Chỉ Nam, núi Cao Tiêm, v.v… Mỗi khi trở về chùa Tập Ứng, trước tiên tôi đi tắm gội. Trước khi ăn cơm, tôi nhất định phải đến trước Bảo Nghi Tôn Vương để tụng kinh, tôi niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, sau đó niệm hồng danh của Chư Phật. Tôi rất thân với người trông nom ngôi chùa này, ở điện thờ phụ ông ấy cũng thờ rất nhiều Bồ Tát, trong số đó có một vị Quan Thế Âm Bồ Tát còn chưa khai quang điểm nhãn. Tôi đặc biệt chỉ ra điều ấy khiến người trông chùa rất hoảng hốt, ông ấy thỉnh tôi khai quang giúp, tôi cũng đồng ý.
Có một lần, người trông chùa hỏi tôi: ”Anh đã thông hiểu thần toán, vậy anh có biết Địa Tạng Vương mà tôi thờ cúng làm sao mà có không?” Tôi thỉnh thị Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương chỉ nói một câu: “Nước.”
Người trông chùa thán phục, bởi vì bức Địa Tạng Vương Bồ Tát này đúng là trong một trận lũ lụt đã trôi trên một dòng suối lớn, được người ta vớt lên rồi nghênh đón về chùa này. Tại chùa Tập Ứng ở Mộc San, tôi đã xem bói hỏi việc cho người ta làm kinh động đến các cụ phụ lão ở địa phương. Tôi từng vẽ một lá phù khiến cho một bà cụ đã đổ bệnh trăm ngày chỉ sau một đêm có thể xuống giường đi lại được. Tôi cũng từng giúp người ta an bài vị Thần, cảnh ngộ ấy thần diệu chẳng thể ngờ!
Hai ngày sau đó, Bảo Nghi Tôn Vương từng hiển hiện, ngài nói với tôi: “Mọi linh đều hiện lên năm khí, thật ra năm khí ấy là hai khí, hai khí là một khí, một khí cũng là một khí vi tế. Hai khí là âm dương thanh trọc, ngũ khí là năm màu trắng đỏ xanh xám đen, giỏi xem khí sắc thì chỉ cần nhìn màu sắc của năm khí là biết ngay thiện ác công tội của con người.”
“Lúc đầu khi anh mới đến ở đây, tôi cảm giác anh khác người bình thường, trong đêm sờ đầu anh thấy hiện ra ba ánh sáng, khi ấy mới biết lai lịch của anh và sự tu luyện kiếp này thật sự không đơn giản. Nếu ba ánh sáng ấy tỏa hiện thì tà ma dù có năng lực cũng khó mà diệt được căn linh của anh, anh sẽ tự thu xếp ổn thỏa được, anh sẽ tự giải quyết được.”
Tôi thỉnh thị Bảo Nghi Tôn Vương: “Tôn Vương cao quý, khí phân làm năm màu trắng, đỏ, xanh, xám, đen, không biết năm màu này khác biệt như thế nào?” Tôn Vương nói: “Có đạo sinh khí trắng, có thiện sinh khí đỏ, công tội ngang nhau sinh khí xanh (nửa trắng nửa đen), có ác sinh khí xám, tà linh sinh khí đen (người cực ác cũng sinh khí đen). Thiên đường hay địa ngục đều là do lòng người tạo tác, khí do tâm sinh, kì thực làm ác hay làm thiện đều chẳng thoát khỏi con mắt của Thần, có trăm cái miệng biện bạch là vô tội, nhưng thiên khiếu sinh ra khí đen thì cho dù có xảo biện cũng làm sao chạy thoát được một người nào!” ”Đa tạ Bảo Nghi Tôn Vương chỉ bảo.”
Từ đó tôi đã biết xem khí không phải là vô căn cứ, mà đích thực là có việc này.
27. Chẳng phải dị đoan
Cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán” vừa xuất bản đã gây nên một cơn chấn động tương đối lớn, đồng thời mọi người cũng sôi nổi truyền tay nhau đọc, có người tin có người không tin. Rất nhiều người chạy đến tìm tôi, thậm chí càng nhiều người viết thư cho tôi hơn, nói rằng cuốn sách khiến họ cảm thấy cuối cùng cũng không lãng phí cuộc đời này, biết được “điều bí ẩn lớn về sinh tử” của cuộc đời. Thế nhưng cũng có người nói phương pháp “nhờ linh thấy linh” của Lư Thắng Ngạn là một dạng bàng môn dị đoan. Có một số pháp sư kê đồng cố ý tìm đến để thăm dò thực hư về tôi, có một số người nói toạc ra tại chỗ. Có một số người tôi không chỉ thẳng ra, nếu mà chỉ thẳng mặt thì sẽ khó coi lắm, tôi tôn trọng các người cũng là người tu đạo, nhưng cớ sao tâm lượng lại hẹp hòi như vậy chứ?
Người vẽ phù gây phiền phức cho tôi, phù đến tôi thu phù, chú đến tôi thu chú, pháp đến tôi thu pháp, tôi biết rằng đạo pháp đều bắt nguồn từ tâm, nếu tâm rộng lớn như một cái hồ lô không đáy thì chẳng có chuyện gây ra cái xấu rồi tôi phải thu cái xấu lại như thế. Tôi chưa bao giờ phản kích, trái lại tôi lần lượt thu về những món quà mà bạn dành cho tôi, điều này khiến tôi càng dễ dàng cảnh giác chính mình rằng lòng người xấu xí, sớm rời bỏ nhân gian là thượng sách.
Có một số người xuất gia cũng đọc được cuốn sách tâm linh này, họ cũng gửi đến cho tôi một vài cuốn sách, ngoài ra còn có biên tập viên của tạp chí Thánh Lí của Vân Cung Hoằng Hóa Đường ở Đài Bắc, và biên tập viên của tạp chí Vân Lâm Minh Đạo gửi thư đến động viên tôi, các đại hòa thượng xuất gia khích lệ tôi, cư sĩ tại gia và bạn đạo tới tấp gửi thư đến, độc giả các nơi trong cả nước gửi thư đến, trong vòng một tháng tôi đã nhận được hơn năm trăm bức thư. Cuốn linh thư đầu tiên trong vòng một tháng đã tái bản, tạo ra một số tiền lệ cho sự thành công mà cơ bản không cần phải quảng cáo.
Có một số ít người xuất gia và bạn đạo cho rằng tôi dị đoan tà thuật, tôi đặc biệt giải thích rõ lí do tôi không phải dị đoan như sau:
Thứ nhất, nói một cách khẳng định về linh hồn — Quan điểm của tôi là khẳng định có linh hồn tồn tại, đồng thời có thể nhìn thấy nghe thấy, hễ là người tín ngưỡng tôn giáo, bất kể là Phật, Đạo, Cơ Đốc, Hồi Giáo hay những tôn giáo khác, thì đều thừa nhận sự tồn tại của linh hồn, có sự tồn tại của linh hồn mới có sự tồn tại của tôn giáo. Nếu không có linh hồn thì tôn giáo tín ngưỡng để làm cái gì? Cho nên mọi người đừng ngạc nhiên, nhìn thấy hoặc nghe thấy, hay là cảm giác thấy sự tồn tại của linh hồn cũng không phải là điều gì ghê gớm cả. Dùng hoạt linh của chính mình giao tiếp với linh hồn của ngoại giới là khả năng mà ai ai cũng có, chẳng qua tôi chỉ dạy mọi người thử xem mà thôi, đây không phải là dị đoan, không phải là làm việc xấu, âm dương chỉ cách nhau một tờ giấy, linh và linh tương thông có rất nhiều lợi ích.
Thứ hai, không phải là giao tiếp với ma quỷ — Cái mà chúng ta gọi là đại thần thông của Phật gia là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, thần túc thông, lậu tận thông, đây là sáu đại thần thông, nếu ai biết hết thì chính là thầy của trời người, là Phật. Thế nhưng độc giả chớ hiểu sai ý, linh thông không phải nằm trong sáu thần thông này, mặc dù nó có thể trở thành một bước khởi đầu cho sáu đại thần thông, nhưng suy cho cùng nó vẫn còn cách rất xa sáu đại thần thông. Tôi viết sách đã nói rõ, tôi không bảo người người học thần thông, mà là người người học khởi linh, sau khi thông linh mệnh rồi thì đi ấn chứng đạo lí của Phật gia, đạo lí của linh hồn, để người trong thiên hạ hiểu rõ có sự tồn tại của quỷ thần, cho nên mọi việc ác đừng làm, hãy làm mọi việc thiện, xây dựng một cõi nước Cực Lạc ở thế giới Ta Bà này mà thôi. Nếu người người không tin có thần có linh thì chẳng ai biết sợ ác nghiệp ác báo, chẳng phải là thiên hạ sẽ đại loạn, người tốt vĩnh viễn chịu thiệt thòi sao. Sau khi có được linh thông, mượn giả luyện chân, nếu chân tính sáng rõ thì có thể minh tâm kiến tính, chứng đắc quả vị của Phật Bồ Tát, như thế thì tự nhiên sẽ có đầy đủ sáu thần thông. (Tác giả hi vọng người người không học thần thông, thần thông là sản phẩm phụ của sự kiến tính, không cần học cũng sẽ có. Thần thông học mà có được thì không phải là pháp lực thật.) Như vậy đã chứng minh, thông linh của tác giả là bằng chứng khẳng định của linh hồn, căn bản không phải là phân nhánh dị đoan.
Thứ ba, phá trừ mê tín vô tri — Tôi dạy mọi người học khởi linh là để phá trừ mê tín của những phần tử trí thức, họ mê tín rằng thế giới không có linh hồn, mê tín rằng thế giới không có thần, lập ra luận vô thần, tôi càng phải phá trừ sự vô tri của những phần tử trí thức ấy. Họ chưa bao giờ đi nghiên cứu, không biết mà cứ nói mạnh là biết, căn bản là họ không có chút kiến thức nào về phương diện này, nhưng mà lại trâng tráo phủ nhận thần và linh hồn mà không hề suy xét. Những phần tử trí thức này đã bị các linh của linh giới lôi ra làm trò hề, đến Khổng Tử còn không dám nói “không có linh hồn”, chỉ nói “không biết sinh, sao biết tử”, thế mà một đám người nghiên cứu lão luyện tự nhận là hiện đại, với cặp mắt phàm phu không nhìn thấy quỷ thần, chỉ có dựa vào cái “không có” mà bít chặt cái vô tri của họ. Do đó, tôi hi vọng họ sẽ học khởi linh, nếu biết khởi linh rồi thì tôi đảm bảo rất nhanh chóng họ sẽ há mồm trợn mắt, trong thoáng chốc biến thành kẻ ngốc nghếch, trở thành trò cười cho thiên hạ, miệng lẩm bẩm nói rằng: “Đúng là có thật! Đúng là có thật!” Bảo đảm họ sẽ nói là kì quái, cũng là để tránh cho họ không còn lúc nào cũng thăm dò tôi nữa, tôi không thể chịu được sự quẫy nhiễu ấy đâu!
Thứ tư, không phải dị đoan — Tôi không sáng lập tôn giáo, bạn tin Cơ Đốc cũng được, bạn tin Phật cũng được, tin Đạo giáo cũng được, tin Hồi Giáo cũng được, tôi hoàn toàn không phản đối. Lư Thắng Ngạn cho rằng một tôn giáo có một cảnh giới của tôn giáo đó, không hề xung đột lẫn nhau. Nếu bàn luận quá trớn, công kích phái khác thì đó mới là dị đoan. Lí thuyết về linh của tôi không gây nên xung đột với bất kì tôn giáo nào, tôi lại không thành lập giáo phái thì sao lại là dị đoan. Tôi chẳng qua chỉ là viết những trải nghiệm trong cuộc đời của mình thành một cuốn sách mà thôi, tin hay không là do bạn, tin cũng được, không tin cũng không cần miễn cưỡng, hãy coi nó như tiểu thuyết cũng được, đọc để giải trí tôi cũng không phản đối. Nhưng tuyệt đối đừng nói tôi là dị đoan tà thuyết, tôi đâu có dạy bạn làm việc xấu. Kẻ chuyên môn làm việc xấu đáng hổ thẹn, truyền bá lí lẽ xấu mới là dị đoan và tà thuyết, tôi hi vọng mọi người hãy nhận thức rõ ràng.
Tôi muốn biện bạch thay cho những linh hồn đã phải chịu oan ức.
28. Khởi động linh nằm ở nhất tâm
Một người bình thường muốn học hoạt linh, sự thật là không hề khó, hoàn toàn dựa vào niệm lực của chính mình để thúc đẩy và tác động không phải là không có khả năng, nhưng quan trọng nhất là nằm ở nhất tâm bất động, một niệm không khởi, thân ở đó giống như thân không ở đó, ý niệm ở đó giống như ý niệm không ở đó. Trong cõi tâm linh vô hình, gặp được cơ may tương trợ, trong sát-na sẽ phá vỡ tất cả cửa ải khó khăn, thế là một con đường lớn sáng sủa sẽ hiện lên trước mắt, đi theo thần thức của mình, một tiếng sét vang rền khiến đất trời kinh động, đột nhiên ngộ được chân tướng giữa trời đất, đây cũng là điều có thể.
Hôm nay nếu có người muốn biết về chân linh của mình, tôi dạy mọi người phương pháp như sau:
Thứ nhất, trước tiên chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, thư phòng cũng được, miễn là một căn phòng không bị người ngoài làm phiền, một chiếc ghế tựa để ngồi thay cho ngồi thiền (ngồi xếp bằng). Người bình thường phải ngồi xếp bằng thì tương đối khó, ngồi bán già hay kiết già đều không ngồi được lâu. Người tin Phật hoặc Đạo có thể thắp một nén hương, ngồi trong thời gian một nén hương, hai tay chắp lại, để trước ngực một cách tự nhiên. Người tin Cơ Đốc hay Thiên Chúa có thể không thắp hương. Người tin Phật có thể niệm bốn chữ “A Di Đà Phật”, người tin Đạo có thể niệm bốn chữ “Diêu Trì Kim Mẫu”, người tin Jesus thì niệm “Jesus Christ”, các tôn giáo khác cứ thế suy ra, nhưng cứ cách 5 phút thì phải niệm thêm “giúp chân linh tôi tái hiện”, “mau giúp chân linh tôi tái hiện”.
Thứ hai, bởi linh tính của mỗi cá nhân khác nhau, thời gian dài ngắn cũng khác nhau, cho nên sự thức tỉnh của linh cũng sẽ dài ngắn khác nhau. Có một số người ngồi một lần đã thành công, nhưng có một số người nếu không ngồi quá ba lần thì không được. Nếu có người tu Đạo tương trợ thì tỉ suất thành công sẽ như làm chơi ăn thật, nhưng không được nản chí, có người phụ nữ hơn 40 tuổi, ngồi liên tục bảy lần, đã chứng được thần thông thiên nhãn, hiệu quả thật sự khó tưởng tượng.
Thứ ba, đạo lí khởi linh và đạo lí ngồi thiền có sự liên thông với nhau, hoàn toàn nói về một chữ tâm, “nhất tâm bất loạn, mọi pháp vô tính, vì vô tính nên đều thành Phật”. Đừng thấy việc ngồi yên như thế là quá đơn giản, ngồi yên lặng như vậy, lặng lẽ phòng thủ thần cung, đèn tâm tỏa sáng, có được mấy người có thể đạt đến cảnh giới này? Đại bộ phận con người đều bận rộn suốt cả cuộc đời, khi nào mới có thể tĩnh tâm lại để ngồi xuống được nửa tiếng đồng hồ? Người có thể hoàn toàn tĩnh tâm ngồi xuống nửa tiếng đồng hồ, người ấy chắc chắn không phải là phàm phu đâu!
Thứ tư, xin người học tập khởi linh tuyệt đối ghi nhớ, khi ánh sáng phổ chiếu cũng tức là khi tâm mình hoàn toàn tịch diệt bất động, ta là ta tự do tự tại, hết thảy mọi thứ đều không khởi lên, ta chính là người tổng nắm giữ tâm tính. Lúc này, từ bên trong có một khối sức mạnh dâng lên, cùng với trợ linh bên ngoài thân thể kết hợp với nhau, và tay của mình đang chắp lại bắt đầu có hiện tượng linh động, hiện tượng linh động có khi nằm ở tay, có khi nằm ở nội tâm, có khi là ở thể xác, có khi là ở đầu, nhìn hướng chuyển động của linh để mà xác định.
Thứ năm, xin người học tập chú ý, phàm tự tâm sáng tỏ, tính hóa nghìn vạn, tay chân tự nhiên sẽ cử động tự do, tay múa may, chân bước đi, tôi không nói rõ ra, để tự mình trải nghiệm cái linh lực trỗi dậy một cách tự nhiên trong thân thể chính mình đi! Dạng linh lực này mặc dù không giống nhau, nhưng có một trình tự nhất định, là do trợ linh mà có sự khác biệt, do thời gian mà có sự khác biệt, do tâm cảnh mà có sự khác biệt. Có lúc bạn không thể khống chế, có lúc thì lại có thể khống chế, kể từ đây bạn phải bắt đầu nhận thức về tự lực và tha lực.
Khởi linh có thành công hay không hoàn toàn nằm ở chính mình, nhưng cũng chẳng ngại gì việc mượn lực bên ngoài trợ giúp. Khởi linh phải có lòng kiên trì, phải có sự thành tâm, không có thì không thể thành công. Khởi linh tương đối dễ, nhưng muốn đạt đến được thành công về luyện linh thì cũng phải đi qua chặng đường 12 năm dài đằng đẵng, đây chính là khởi linh thì dễ nhưng luyện linh thì khó. Tu 12 năm rồi, tu đến thời khắc sau cùng chỉ nghe thấy tiếng sấm nổ vang rền, bản thân ngồi xếp bằng tĩnh tọa, vận linh đến chỗ thiên linh xuất khiếu, sấm nổ và linh lực của chính mình tiếp ứng lẫn nhau, đây chính là tam quang tích hiện, là lúc thoát xác bay lên rồi. Nhục thể mặc dù vẫn ngồi trong ngôi nhà tranh trên mặt đất, nhưng linh thì đã trở về ẩn náu trong biển lớn hư không, điều này mới tráng lệ vĩ đại làm sao, chân lí không sinh không diệt từ đây chứng đắc.
Người khởi linh thành công nhờ bản văn này cho đến nay không ít hơn trăm người, mà mới chỉ vỏn vẹn trong thời gian một tháng. Một người đàn ông ở quận Sĩ Lâm Đài Bắc đã đặc biệt gửi đi trăm tờ bưu thiếp để tôi dùng trong việc hồi đáp thư, bởi vì ông ấy vừa thử một cái đã thành công rồi. Có một người thanh niên họ Liêu ở thị trấn Điền Trung huyện Chương Hóa mười năm nay ban đêm ngủ không ngon, sau khi học khởi linh, chứng bệnh khó ngủ ban đêm của anh ấy không ngờ không thuốc mà khỏi, hơn nữa thần linh từng hiển hiện để cho anh ấy nhìn thấy. Rồi những người khác như Lí Đoạn Tiến ở Cao Hùng, Ngô Đông Hưng ở Đài Trung, v.v… đều có những tiến bộ lớn, sự thần kì và bất khả tư nghì của họ khiến cho người trong thiên hạ đồng thanh tán dương.
(Lời kết: Phần đầu bài viết này tôi từng xuất bản trong cuốn “Mạn đàm về linh cơ thần toán”. Ngày 19 tháng 5 năm Dân Quốc 64 [1975] tôi có sửa chữa bổ sung và lại xuất bản trong cuốn sách này, với mục đích hi vọng người người hiểu rõ và dễ học, từ đó mà luyện thân trúc cơ để tạo nền tảng cho tu hành tu đạo. Còn về phương pháp luyện linh, trong những chương kế tiếp, kẻ hèn này sẽ lần lượt nói đến, nếu độc giả không tin thì thử đọc là biết. Tự mình thể nghiệm là có thể chứng minh lời của tôi không giả dối, Lư Thắng Ngạn tuyệt đối không nói khoác.)
29. Luyện linh thủ quyết
Sau khi khởi linh xong, công phu tiếp theo càng khó khăn càng gian khổ hơn, đó chính là công phu thật sự của việc luyện linh. Tôi từng nói thiên nhãn thông là do linh mệnh vận động đến con mắt tạo ra, thiên nhĩ thông là do linh mệnh vận động đến tai tạo ra, tha tâm thông là do linh mệnh nối liền với suy nghĩ của người khác tạo ra, thần túc thông là do linh mệnh xuất du tạo ra, túc mệnh thông là một dạng kí ức tiền kiếp của linh mệnh, lậu tận thông là khó nhất, đó là chân tính của linh mệnh tái hiện, hoàn toàn chấm dứt hết sinh tử.
Luyện linh có phải vì sáu loại thần thông này không? Nếu độc giả nghĩ như vậy thì là cực sai, đặc biệt sai rồi. Luyện linh là làm cho linh mệnh có thể tự tại, có nghĩa là khiến cho linh hồn có thể tự nhiên, linh hồn tự nhiên tự tại, có thể dựa vào sự thúc đẩy của niệm lực mà có được chính tri chính giác, đến cuối cùng thì thành tựu Phật vô thượng đẳng chính giác. Mục đích sau cùng của công phu này của tôi là thành Phật.
Phương pháp luyện linh như sau:
Thứ nhất: Trúc cơ.
Có thể nói Trúc cơ là bước đầu tiên của luyện linh. Người đã từng khởi linh thì linh của họ là sống, nếu có duyên với Thần Phật thì Thần Phật chắc chắn sẽ đến tương trợ, từ sự vận dụng của tiểu chu thiên mà khởi thế, hai tay chắp lại, tung ra một loạt những đường quyền kì quái, hoặc hai tay làm những động tác di chuyển khác nhau, hít vào thở ra theo một hình thái nhất định. Tập Trúc cơ một ngày một lần là được, mục đích chủ yếu là để rèn luyện xương toàn thân mình, cho cơ thịt được chắc khỏe, hít vào thanh khí, thở ra trọc khí. Tác dụng này có đôi chút giống với vận động vung tay đang thịnh hành hiện nay, nhưng vận động vung tay là thể thao, còn Trúc cơ là do linh lực hỗ trợ sự chuyển động của nhục thể, khiến người tu đạo có bệnh trị bệnh, không bệnh khỏe thân, người tu đạo có được thân thể cường tráng thì mới có thể tu đạo. Nếu thân thể của chính người tu đạo lại già yếu và sinh bệnh thì còn tu đạo gì nữa, có khác gì Bồ Tát đất qua sông, thân mình còn khó bảo toàn.
Thứ hai: Thần khí.
Thời gian tập Trúc cơ cần bao lâu, tôi nói cần ba năm, mỗi ngày đều phải không ngừng chăm chỉ luyện linh, sau ba năm, cơ xương cường tráng, vừa mềm dẻo vừa cứng chắc, sắc mặt hồng hào, thần thái phấn chấn, khi tĩnh thì như trinh nữ, khi động thì như thỏ chạy. Sự xuất hiện của linh khí có thể tùy ý động hay dừng. Linh mệnh mạnh mẽ vận chuyển đến toàn thân, thân như kim cương bất hoại, lúc này, chuyển suy nghĩ một cái là lập tức có thể vận linh. Linh mệnh lúc này có thể nghe theo sự điều khiển của niệm lực, khí lúc này huyền diệu như Thần, có thể xuyên Tam quan, thông Cửu khiếu, trộm tinh hoa của nhật nguyệt, lấy được diệu dụng của ngũ hành, thủy hỏa đi ngược chiều, kim mộc hợp lại, lập tức có thành tựu kim đơn! Đây chính là từ một thể tản ra vạn cái khác biệt, vạn cái khác biệt quy về một thể. Cảnh giới này phải sau ba năm tập Trúc cơ mới có thể phát hiện ra ngọn nguồn của linh ở trong huyệt Thần khí. Đến được bước này rồi vẫn cần chăm tu, nhưng phải nhớ đạo lí chính tà do tâm phân biệt, đến bước này nhất định sẽ có ma đến kiểm tra, tai nạn giáng xuống, đặc biệt phải thực hành bát chính đạo, có lòng nhân từ và yêu thương rộng lớn, không được ỷ mình có năng lực mà ngạo mạn, thậm chí làm tà pháp, làm việc xấu, một khi đánh mất chính niệm thì sẽ đọa vào trong địa ngục vô gián, một khi đánh mất thân người thì vạn kiếp khó lấy lại đó!
Thứ ba: Cửu chuyển huyền công.
Khi biết ngọn nguồn của huyệt thần khí thì phải quay mặt vào tường chín năm, thứ cần phải tu vẫn là pháp Cửu chuyển huyền công, hay còn gọi là đại pháp kim đơn của Đạo gia phái Đan Đỉnh. Trong chương trước, tôi đã nói về pháp luyện Cửu chuyển huyền công, ở đây không cần phải lặp lại nữa. Còn bốn chữ “quay mặt vào tường” tức là muốn tìm đến một cái tự ngã chân chính, lúc này tư duy như biển lớn, huyễn tướng bộc phát, cái nào mới là thật đây? Hoặc đều là thật, hoặc đều là giả, đều dựa vào chính mình phân biệt. Lúc này tối kị lạc đường, cửu chuyển quanh co mà không nhận thức rõ thì kim đơn đại đạo khó thành tựu. Nếu trì một Phật một chú gia trì, có Phật phù hộ Thần bảo vệ, từ đó định lực gia tăng, trí huệ tăng trưởng, Cửu chuyển huyền công một khi đã thành thì ta cũng chính là Thần Tiên tiêu dao tự tại rồi.
Thứ tư: Ngoại công.
Từ công phu của những pháp như Trúc cơ, Thần khí, Cửu chuyển huyền công, quan trọng nhất là phối hợp với ngoại công, ngoại công chính là thiện công, thiện hạnh có thể lên trời, tức là: “Nếu nỗ lực thiện niệm, có cầu tất có ứng, công năng đổi tạo hóa, thần lực chuyển đất trời, bần hàn thành phú quý, hoạn nạn gặp cứu tinh, sống lâu như tùng bách, nuôi con được kì lân, nếu duy trì được mãi, công đức không đơn giản, người thường làm âm đức, thiên thần ắt cảm ứng.”
Nếu chỉ biết chăm chỉ luyện nội công mà không có sự tương trợ của ngoại công, không có Thần Phật tương trợ thì chắc chắn không thể thành công, đây là sự bổ trợ lẫn nhau. Lúc đầu bắt đầu từ việc khởi linh đã phải dựa vào Thần trợ giúp, đến khi luyện Cửu chuyển huyền công thì càng phải có Thần bảo hộ, nếu không thể làm cảm động trời đất thì luyện linh cũng giống như luyện vô ích, hiệu quả không rõ ràng.
Chúng ta làm thiện hạnh, làm thiện công, trên thực tế là làm mà không vì điều gì cả, đó là một sự tuôn chảy tự nhiên của nhân tính Thần tính, không phải là vì muốn có được Thần trợ giúp Thần bảo vệ. Thế nhưng, chúng ta cũng đừng ngại học theo cách thức công-tội của Viên Liễu Phàm tiên sinh trước kia, có công có tội phải ghi lại từng việc, công cần nhiều hơn tội, cứ như thế sau một thời gian dài, tự nhiên những hành vi của chúng ta sẽ trở nên rất tự nhiên. Đây là một dạng yêu cầu từ ngoài vào trong, khá cần thiết.
Sau khi hoàn thành xong Trúc cơ, dần dần linh giác của bạn sẽ vượt qua người thường, và sẽ có hiện tượng linh cảm xuất hiện, đây chỉ đơn thuần là sự nhạy bén của giác quan thứ sáu mà thôi. Nếu thật sự tìm được ngọn nguồn của Thần khí thì chắc chắn có huyễn cảnh thật giả xuất hiện, kì diệu dị thường, nếu không trở nên mê muội thì cảnh tượng cực kì khả quan sẽ lần lượt hiển hiện, nhưng cảnh tượng qua rồi thì thôi, không cần phải lưu luyến để tránh tác động tới tình hình thực tế, nhận giả là thật, như thế thì sẽ phiền phức lớn. Người tu linh đắc đạo chân chính vĩnh viễn không bám chấp, tu mọi pháp cũng thực sự là không có pháp nào có thể tu, căn bản là không có mọi pháp. Đây là cảnh giới tối thượng thừa, đương nhiên là nó nằm bên ngoài tam giới rồi.
30. Thế thân của kê đồng
Tôi từng huấn luyện không ít kê đồng, cũng biết rõ thuật thế thân của kê đồng, ví dụ kê đồng Tô Vương Gia ở cung Cảnh Phúc, kê đồng Thái Tử Nguyên Soái ở Tam Nguyên Đường, kê đồng Cửu Thiên Huyền Nữ ở cung Bảo Thiên, kê đồng Thái Ất Chân Nhân ở cung Thái Ất, kê đồng Thiên Thượng Thánh Mẫu ở cung Trấn Hải, kê đồng Tam Sơn Quốc Vương ở cung Tam Sơn, kê đồng Tế Công Hoạt Phật ở cung Bát Cảnh, kê đồng Quan Thế Âm Bồ Tát ở Thiên Đức Đường, kê đồng Bát Quái Chân Nhân ở Tổ Sư Đường, kê đồng Tổ sư Lã Động Tân ở cung Trấn Nam, v.v… cả một đám kê đồng, cho đến hôm nay tôi thật sự không rõ mình đã huấn luyện bao nhiêu người nữa.
Hiện tại tôi đã dừng việc huấn luyện rồi, bởi vì tôi phát hiện ra rất nhiều kê đồng không hề mượn việc này để cứu người, mà là mượn linh nhập để làm công cụ, dựa vào thần để kiếm cơm, trở thành thần côn [lừa đảo] thật sự. Không phải toàn bộ kê đồng đều là giả, nhưng mà linh nhập giả đã hại linh nhập thật, khiến cho người người về cơ bản là không tin cái trò này, dần dà, cách người ta nhìn và quan niệm về kê đồng không còn tốt đẹp nữa.
Có một lần, tôi ở trước một ngôi chùa ở Bắc Đầu trông thấy một kê đồng tay cầm dao sắt ở trước chùa chém ngang chém dọc, chân bước xiêu vẹo loạn xà ngầu, vừa gào vừa thét. Hắn dùng con dao đó cắt vào người, thịt bên trong hở ra, xung quanh có rất nhiều người bao vây thành một vòng tròn lớn, có hai ông Tây cầm máy ảnh ra sức chụp ảnh, lại còn giơ ngón tay cái ra biểu thị rằng cừ lắm.
Tôi vừa trông thấy kê đồng biểu diễn kĩ xảo này thì sao có thể bỏ lỡ cơ hội thưởng thức, nên cũng vội vàng chen lên phía trước. Kê đồng đó quấn một mớ tóc trắng trên đầu, cởi trần, mặc quần dài màu đen, da dẻ xù xì đen sạm, trên lưng có mấy vết thương hở do bị dao sắt chém ngang chém dọc, nhưng không nhìn thấy có máu chảy ra. Kê đồng đập mặt dao vào ngực, lực khá mạnh, phát ra những tiếng “tét tét”, nhưng kê đồng vẫn không có chút cảm giác nào cả. Đứng sau lưng kê đồng có một vị “trác đầu” [người đứng cạnh hoặc đứng sau kê đồng để giải thích hoặc phiên dịch chỉ thị của thần minh] cầm một cái bát đựng nước phù, đưa thẳng bát lên miệng liên tục phun rượu vào vết dao cắt trên lưng của kê đồng. Trước chùa có một người đánh trống, có một người đánh chiêng, “tùng tùng cheng, tùng tùng cheng”, rất tưng bừng náo nhiệt.
Đột nhiên kê đồng nôn mửa, sau đó mở miệng ra nói: “Ta chính là Đô Úy Lã Phủ Thiên Tuế Gia do Ngọc Hoàng Đại Đế ở thượng giới đặc biệt phái đi tuần tra, nay ta mượn tạm hành cung ở vùng này để khai đường [mở phiên tòa] cứu đời, ai có vấn đề khó khăn gì, ta nhất định sẽ cứu. Với pháp lực thần thông của ta, ta thay trời hành đạo, cứu người cứu đời… Thần ta đây đến phàm trần này là cực kì không dễ dàng gì, Thần ta đi đây.” Lúc này kê đồng toàn thân không ngừng run rẩy, có hai trợ thủ bước lên trước để đỡ hắn để cho hắn khỏi ngã. Nói ra kể cũng lạ, các vết rách do dao cắt trên người kê đồng ban nãy dần dần khép miệng lại, và cũng không đau không chảy máu. Có một thanh niên lập tức dâng khăn mặt, kê đồng tỉnh lại, ngồi trên ghế đẩu ở trước chùa, đám người dần dần tản đi.
Tôi bước lên trước vỗ vỗ lên vai hắn. Hắn ngoảnh đầu nhìn. ”A! Là ngài, là thầy à, mau mời ngồi, mau mời ngồi.” - Thì ra kê đồng ấy là một trong những thuộc hạ của tôi, trước kia hắn sống ở thị trấn Nhân Đức huyện Đài Nam, là kê đồng của Huyền Thiên Thượng Đế. Thế nhưng sao dạo này lại đến Bắc Đầu nhỉ? Tôi ngồi xuống, vị trác đầu kia thì đối với tôi rất khách khí, nhanh nhẹn rót một cốc coca cola cho tôi.
“Sao anh lại đến đây? Thế còn thị trấn Nhân Đức thì sao?” ”Ôi, cũng vì miếng cơm đưa đẩy. Trấn Nhân Đức có một kê đồng mới đến, thủ đoạn khá cao, tôi chỉ còn cách rời đi thôi.” ”Bản lĩnh của anh cũng không tệ mà! Đoạn dao cắt thịt ban nãy, máu không chảy ra, cũng không đau, có thể thấy là công phu cũng rất cừ rồi.” - Tôi ca ngợi hắn. ”Thầy ạ, đây chẳng phải là hiệu quả của thuật thế thân mà thầy đã dạy sao. Không có thuật thế thân này của thầy thì hôm nay làm sao tôi lang thang trong giang hồ được chứ!” ”Anh đừng có mở miệng ra là thầy, ngậm miệng lại cũng thầy, tôi nhỏ tuổi hơn anh, nói thật lòng, lão Cung ạ, ngày xưa tôi dạy kê đồng là hi vọng có thể thu hút một số người ở nông thôn tin Thần bái Phật, từ nông thành sâu, từ việc khởi lòng tin cho đến khi tin tưởng sâu sắc không còn nghi hoặc, khiến cho người ta biết tầm quan trọng của tu thân tu đạo, từ linh cảm của việc linh nhập kê đồng mà thu hút một số tín chúng quy y Phật môn. Thế nhưng mà giờ đây lại biến thành công cụ kiếm cơm của mọi người, đây đúng là việc nằm ngoài mong đợi của tôi.” ”Hổ thẹn, hổ thẹn.” - Kê đồng họ Cung kia liên mồm nói.
Sau khi tạm biệt hắn, tôi ngồi trên xe, nghĩ đến thuật thế thân của kê đồng. Thuật này tức là bản thân kê đồng phải tìm một cái cây to để làm thế thân cho kê đồng, sau khi cắt một ít lông tóc móng tay của kê đồng thì dùng một tờ giấy có vẽ phù để gói lại, trên phù đó viết ngày tháng năm sinh, chọn ngày lành tháng tốt khoét một lỗ nhỏ trên thân cây sát mặt đất rồi bỏ lá phù có lông tóc móng tay vào trong đó, chôn vào trong lỗ trên thân cây. Sau đó kê đồng niệm chú của pháp thế thân: “Ngô ỷ nhĩ thân, nhĩ thân thế ngã, tha nhật công mãn, dữ nhĩ bình phân. Thụ thần, thụ thần, thiên dữ ngã cơ, nhĩ tồn ngã ẩn, miễn thụ khổ ngoại, miễn sử huyết thảng, ngô phụng Thái Thượng Lão Quân cấp cấp luật lệnh cương.” Câu chú này tổng cộng niệm ba biến.
Đầu năm và cuối năm phải cúng tế cây này, bởi vì kê đồng đánh vào thân mình, hoặc ngồi trên giường đinh ghế đinh, dùng dao cắt vào thân mình, bản thân mình không đau không chảy máu đều là nhờ vào công của cây đại thụ kia. Cái này chỉ là phương thuật của pháp thế thân mà thôi, thế nhưng nhờ thần lực thật sự bảo vệ, bản thân kê đồng đương nhiên không sao cả. Nếu bạn không tin, bạn có can đảm thử dùng dao cắt vào thân thể máu thịt của mình không? Điều quan trọng nhất là cây đó không được chảy nhiều nhựa, bằng không khi động dao, trên người kê đồng sẽ chảy máu đó.
31. Phật tính tâm hương
Thế Tôn từ trong tam muội quang minh xuất thiền, khoan thai đứng dậy nói với Xá Lợi Phất: “Trí huệ của chư Phật là thậm thâm vô lượng, cánh cửa trí huệ của Phật khó hiểu và khó thâm nhập, tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vậy thì thế nào? Phật từng gần gũi với trăm nghìn vạn ức vô số chư Phật, thực hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, khắp nơi nghe tiếng, thành tựu rất sâu pháp chưa từng có, tùy nghi thuyết giảng những ý nghĩa khó hiểu. Xá Lợi Phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, đủ loại nhân duyên, đủ loại ví dụ, rộng rãi diễn thuyết bằng lời, với vô số phương tiện để dẫn dắt chúng sinh, khiến họ rời xa những bám chấp. Vậy thì thế nào? Như Lai phương tiện tri kiến ba la mật, đều đã có đủ. Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai quảng đại thâm sâu, vô lượng, vô ngại, không có gì sợ hãi, thiền định tam muội giải thoát, thâm nhập vô biên, thành tựu tất cả pháp chưa từng có. Xá Lợi Phất! Như Lai có thể phân biệt đủ loại, khéo thuyết mọi pháp, lời lẽ mềm dẻo, vui lòng chúng sinh. Xá Lợi Phất! Điều muốn nói là, vô lượng vô biên pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu. Khoan, Xá Lợi Phất! Không cần phải nói lại, vậy thì thế nào? Thành tựu của Phật là pháp đệ nhất hiếm có khó hiểu, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết hết thực tướng của mọi pháp, cho nên cái gọi là các pháp cũng là tướng, là tính, là thể, là lực, là tác, là nhân, là duyên, là quả, là báo, là thành quả từ đầu đến cuối.” (Kinh Pháp Hoa)
Từ đoạn kinh văn này trong kinh Pháp Hoa khiến tôi liên tưởng đến một lá thư của độc giả từ Tân Doanh gửi đến. Từ bức thư này, tôi lại liên tưởng đến cuộc trò chuyện phiếm giữa tôi và một tì kheo xuất gia. Tì kheo này có tiếng tăm tương đối lớn, tôi và đại hòa thượng này ngồi đối diện nhau trong Tạng Kinh Lâu. Vừa hay khi ấy bên ngoài Tạng Kinh Lâu đang có mưa phùn, giống như mandala hoa liên tiếp từ hư không rơi xuống.
“Thắng Ngạn, nghe nói cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán” mà anh viết vừa in xong đã tái bản rồi, gây nên một sự chấn động lớn phải không?” ”Đúng vậy, từ lúc chưa xuất bản, tôi đã biết thế nào nó cũng gây chấn động rồi.” - Tôi điềm đạm trả lời. ”Vì sao? Sao lại như thế?” ”Bởi vì tôi nói điều chưa ai nói, đạo nhân không dám truyền, giới xuất bản chưa từng có, mở ra được tầm nhìn của một người bình thường. Bất kể là người ngu hay người khôn, bất kể là người xuất gia hay tại gia, bất kể là tả đạo hay chính đạo, đều có thể vì cuốn sách này của tôi mà xúc động sâu sắc, từ đó mà khởi lòng tin, thành tựu công đức tín ngưỡng.”
“Thắng Ngạn, nhưng tôi đọc tất cả những kì tích thần thông mà anh kể trong sách, tất cả các pháp mà anh nói đến, đều là các pháp chấp vào hữu tướng, cần biết rằng những cái đó đều là hư vọng. Còn cái người gọi là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh có thể là sự chiêu cảm do trí tưởng tượng của anh mà ra, nếu là như vậy thì thử hỏi phải chăng là dẫn người ta vào hố lửa và chẳng thể nào nhảy ra khỏi tất cả mọi sự trói buộc này? Anh nói xem có đúng không?” - Đại hòa thượng là cao tăng có đạo, giọng nói dịu dàng khiến người khác phải cảm kích trước sự quan tâm của ông ấy.
“Đại sư, Thế Tôn từng nói, cánh của trí huệ khó vào, ngài cũng dùng vô số phương tiện để dẫn dắt chúng sinh, nếu chỉ chấp vào thực tướng và hư tướng, giảng giải về thiền định tam muội giải thoát khó hiểu thì có mấy người có thể hiểu được. Thế Tôn giảng Diệu Pháp Liên Hoa mà vẫn còn có năm trăm La Hán không nghe, Thanh Văn, Bích Chi Phật đều không cảm thấy có được điều gì, huống hồ những con người ngu muội nghiệp chướng vẫn còn nhiều này. Cho nên sách của tôi khuyên con người trước tiên từ cái Có để nhập cái Không, chấp vào linh, chấp vào pháp, thật ra linh tức là tướng Không của cái vô hình, pháp cũng là vô pháp, kết quả là đều là không chấp trước, cái gọi là pháp vô lượng vô biên chưa từng có thì sao có bám chấp cái gì?” - Tôi lại nói: “Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là căn bản của mọi đạo, cũng không chấp vào thứ có hình tướng, đạo tức là vô lượng, vô ngại, không hề gì, tôi khuyên người ta hướng thiện, đương nhiên không chỉ là vì phúc báo trời người mà thôi, bên trong cũng ẩn chứa huyền cơ lớn.”
“Cái này tôi cũng hiểu, anh hiểu Phật là gì?” - Đại sư hỏi tôi. ”Phật là giác ngộ.” - Tôi hỏi ngược lại: “Đạo là gì?” ”Cũng là giác ngộ.” ”Đúng rồi!” - Tôi hân hoan nói: “Phật là giác ngộ, Đạo cũng là giác ngộ, giữa hai thứ này không có sự sai biệt, nhờ Phật đắc Đạo, nhờ Đạo đắc Phật, hai thứ tương thông không có trở ngại. Đáng tiếc là hôm nay có rất nhiều người chấp vào Phật mà phỉ báng Đạo, thật tình họ không biết rằng Phật vốn là Đạo, Đạo vốn là Phật, họ coi những thứ ngoại lai từ Ấn Độ là chí cao vô thượng, mà quên mất Đạo cũng là chí cao vô thượng, lập tức coi Đạo là đạo của những kẻ bàng môn ngoại đạo, cái này mới là sự bám chấp thật sự đó! Các vị cho rằng tôi nói linh pháp chính là ngoại đạo, nói Đạo chính là ngoại đạo, nhưng lại không biết rằng ở đây có thuyết pháp khéo léo, chính đạo cũng đều do ngoại đạo hỗ trợ đó!”
Đại pháp sư xuất gia kia nghe tôi nói như vậy thì gật gật đầu: “Tất cả thực và hư, thật và giả, hi vọng trong cuốn sách tiếp theo anh có thể viết ra toàn bộ, tôi tin rằng với sự một mực tinh tấn của anh, và trí huệ cao siêu của anh, dựa vào Phật tính tâm hương, thượng chứng Phật quả, trở thành bậc vô thượng chính giác của Phật Ta và Phật.” ”Đa tạ lời vàng của đại sư.”
Còn về bức thư của độc giả ở Tân Doanh, căn bản là tôi không cần trả lời, trong bản văn này tôi đã giải thích cực kì rõ ràng rồi, Phật pháp nếu chỉ là gặp ai cũng nói “bám chấp, không bám chấp”, nói tất cả pháp đều không, và không có tướng, tôi tin rằng chẳng có ai tin Phật, bởi vì phàm phu không hiểu những điều này, bởi vì không hiểu những điều này cho nên mới là phàm phu. Phàm phu nếu trở thành Thánh nhân, bạn nói với họ “tất cả thứ có tướng đều là hư vọng”, lúc này họ mới có thể hiểu được. Phật pháp phân thành ba thừa, nghĩa đế của nó nằm ở đây.
32. Bí pháp thần thông
Có rất nhiều rất nhiều độc giả muốn bái tôi làm thầy, tôi đều lần lượt cảm ơn và từ chối. Họ cho rằng nếu bái thầy học đạo, học được một, hai bí pháp thần thông thì tương lai cũng có thể giúp người ta giải quyết vấn đề khó khăn, cứu người cứu đời. Ý định này vốn là thiện, nhưng tôi cho rằng không thỏa đáng.
Điều tôi muốn thanh minh là, khởi linh, luyện linh là việc mà ai ai cũng có thể học, còn cái gọi là thần thông thì lại không phải là thứ mà ai ai cũng đều có thể tu học, và cái gọi là thần thông chân chính thì càng không phải là học rồi là có thể có được, cái đó là thứ không học được.
Năm xưa tôi bái kiến thầy Lí Bỉnh Nam, ông ấy nói: “Lí Bỉnh Nam tôi học Phật đã nhiều năm như vậy mà vẫn không có thần thông gì, thế mà anh là loại người gì mà dám mở mồm ra nói khoác, nói là có thần thông.”
Tôi hiểu ý của thầy Lí Bỉnh Nam, tôi rất tôn kính thầy Lí, thật đó, nếu tôi có một chút suy nghĩ bất kính nào, tôi sẽ không đi nghe ông ấy giảng kinh A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương. Tôi bái kiến ông ấy cũng với ý định thuần thiện, ông ấy đã độ nhiều chúng sinh, đức hạnh viên mãn, rất sáng tỏ Phật pháp, tự thân tu trì, công hành của ông ấy không thể che giấu được.
Giờ đây, bao nhiêu người như vậy muốn bái tôi làm thầy, tội lỗi của tôi rất lớn, nói thật lòng là tôi không có tư cách làm thầy người ta. Đức hạnh của chính mình còn chưa tròn vẹn, công lực còn chưa thành, đối với Phật pháp vẫn còn chưa thể ngộ đạo, làm sao có thể làm thầy của người ta được. Mặc dù cho đến lúc này, tôi tự nhận thấy tầm mức tư duy của mình đã có những tiến bộ lớn, nhưng tôi còn không dám bảo đảm xếp mình vào hạng hạ phẩm hạ sinh của Tây phương Cực Lạc thế giới. Tôi còn lo ngại rằng sau này lời nói của mình có sai sót, thu về vô lượng tội, đọa vào địa ngục vô gián vô biên, như thế thì thê thảm lắm! Phật tôi biết rõ, cho nên Liên Sinh tôi làm một “liên sinh giả”, tức là ví von về người hóa sinh từ hoa sen, tâm địa thiện lương, duy trì một hơi thở quang minh, chỉ như vậy mà thôi, chứ không hề dám vọng tưởng trở trhành bó đuốc rực sáng.
Bí pháp thần thông là thứ không học được, cái học được chỉ là những kĩ năng tiểu thuật rất nhỏ thôi, có hình có tướng, tuyệt đối đừng cho rằng đó chính là đại thần thông. Tuy rằng tiểu thuật có thể lôi kéo người ta phát khởi tín niệm, thu hút người ta quy y cửa Phật, nhưng không thể chấm dứt sinh tử của con người hay khiến con người đắc đại trí huệ. Nếu không cầu minh tâm kiến tính, ngược lại lại cầu sáu thần thông, như thế thì lẫn lộn đầu đuôi, mất đi gốc rễ của thành Phật. Vì thế hôm nay một lần nữa tôi nói rất rõ ràng, thần thông là sản phẩm phụ của minh tâm kiến tính, không phải là thứ có thể mong cầu một cách vô lí mà có được. Điều này chúng ta cũng gọi là “chưa minh tâm, sao có thể có thần thông”.
Kẻ hèn này vì nhân duyên tiền kiếp không tệ, linh tính đem đến kiếp này chưa bị mất đi, kiếp này kéo theo kiếp trước, cho nên có sẵn sức mạnh thần bí của linh thông, cái này chính là nhân duyên kiếp trước, cũng không phải là đời này tôi tu được. Tôi thấy được Thiên cung, thấy được túc mệnh của mình, thấy quỷ thần linh khí, nghe được lời của quỷ thần, học được một vài tiểu thuật hữu hình là để giúp cho cái tâm cứu người độ chúng mà thôi, không hề có mục đích gì khác! Ngày nay thế đạo nhân tâm đã bại hoại đến cực điểm rồi, tôi truyền thụ tiểu thuật cũng rất sợ rằng truyền không đúng người, nếu truyền sai người e rằng sẽ khiến cho tôi cũng phải chịu nhận nghiệp báo ngông cuồng. Vì thế xin các vị độc giả thứ lỗi, nguyên nhân mà tôi thận trọng như vậy là ở đây. Hiện tại tôi có một đồ đệ đang hại người khắp nơi, tâm thuật bất chính, khi xưa anh ta gặp tôi cũng rất khiêm tốn lễ độ, cầu đạo rất thành kính, khiến tôi không nghi ngờ gì anh ta. Nhưng bây giờ anh ta hại người hại mình, đây chẳng phải đã trở thành tội lỗi của tôi rồi sao? Tôi làm sao còn có thể tin tưởng con người được chứ!
Những cảnh giới của bí pháp thần thông đều khác nhau, thế nhưng đa số là có hình tướng, đến được bí pháp ở mức độ cao nhất thì sẽ trở thành vô bí pháp, vô hình vô tướng vô trụ vô niệm.
Trong quá khứ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh từng bảo tôi: “Cầu thần thông, có sáu loại người không được. Thứ nhất, người vì hiếu kì thử cho vui mà cầu thần thông, chắc chắn không được. Thứ hai, người chưa đến lúc mà cầu thần thông, chắc chắn không được. Thứ ba, người tham niệm phóng túng mà cầu thần thông, chắc chắn không được. Thứ tư, người tiếp cận với ác tri thức bái tà sư cầu thần thông, chắc chắn không được. Thứ năm, người thích chơi đùa có tham niệm không ngừng, chắc chắn không được. Thứ sáu, người lười biếng không cầu tinh tấn, chắc chắn không được.” “Đa tạ ân sư dạy bảo.”
Có người cũng đến chỗ tôi xin gặp. ”Tôi muốn thành tâm cầu thần thông.” - Anh ta nói thẳng vào vấn đề. ”Vì sao muốn học?” ”Thử xem có thật hay không. Để thỏa mãn cái tâm hiếu kì của tôi.” - Anh ta đáp. Tôi nói: ”Anh không cần học đâu, anh cũng không cần tin có hay không, thật hay giả, cũng không cần hoài nghi hay hiếu kì, anh đi đi! Anh đến để tìm cách chứng thực thần thông thì làm sao mà học được chứ!”
Vì lời nói của tôi mà sắc mặt anh ta căng đỏ lên, nói: ”Anh nói anh có thần thông, vậy anh có thể đoán trúng được con số trúng giải xổ số Ái Quốc tháng này không?” Tôi cười nói với anh ta: ”Nếu tôi biết thật thì cũng không đi mua xổ số đâu.” Anh ta nhìn tôi khó hiểu.
Ôi! Điều anh ta chưa biết vẫn còn nhiều lắm! Tôi làm sao có thể nói để trong lòng anh ta hiểu được, lòng người tham sân si đến khi nào mới dừng!
33. Hai sự việc trong chùa
Tôi ghi lại hai sự việc kì lạ này một cách chân thực chính xác, người khác thấy là việc kì lạ, nhưng tôi thì thấy là việc hết sức bình thường. Có lẽ cũng lại có người nói rằng căn bản chính là mê tín, bạn cho rằng mê tín cũng được, tin hay không tin tùy bạn.
Khi phân đường Thạch Bích của Từ Huệ Đường ở Hoa Liên xây dựng thêm điện Địa Tạng và điện Mộc Công Thượng Thánh Đông Hoa Đế Quân, họ mời công nhân đến quét sơn rồng điêu khắc trên điện thờ. Ngày hôm ấy công nhân đang sơn thân rồng ở trên xà nhà, còn bên trong chùa các uỷ viên hội đang họp mặt để bàn bạc mọi công việc trong chùa. Lúc này bầu trời không mây, trong xanh vạn dặm, ánh mặt trời chiếu khắp nơi, hoàn toàn không có dấu hiệu nào của trời mưa. Hoa Liên Từ Huệ Đường là Thánh địa nơi Diêu Trì Kim Mẫu hạ giáng, phân đường Thạch Bích cách tổng đường khoảng nửa giờ lái xe, nằm sát cạnh núi, phải đi qua một con sông lớn. Cổng chùa đối diện thẳng với sông, cảnh sắc tuyệt đẹp. Ở Hoa Liên, phân đường của Diêu Trì Kim Mẫu nổi tiếng có phân đường Pháp Hoa Sơn, phân đường Minh Sơn, phân đường Nam Cường, v.v… Trong số đó, điểm đặc sắc của phân đường Thạch Bích là “dắt vong”, dắt vong tức là dẫn dắt vong hồn, dựa vào phương thức linh nhập và người dương gặp mặt. Người khai sáng cho tôi nhập môn - người phụ nữ áo xanh Cơ Nga, chính là tu đạo sĩ của phân đường Thạch Bích, họ Lâm tên Thiên Đại. Giấy chứng nhận đạo sĩ của tác giả cũng trực thuộc phân đường Thạch Bích của Từ Huệ Đường.
Tôi nói chuyện phiếm xong rồi, bây giờ trở về chuyện chính. Đúng vào lúc các ủy viên hội đang họp trong chùa, công nhân đang sơn thân rồng ở trong điện, khi công nhân dùng sơn đỏ để điểm mắt cho rồng, đây gọi là vẽ rồng điểm mắt, có thể nói là đã hoàn thành toàn bộ công việc rồi. Lúc này con rồng ấy đột nhiên sống dậy, hai con mắt tròn xoe chớp chớp hai cái, công nhân nhìn thấy một bóng đen bay vút lên cao. Con rồng khổng lồ ở trong không trung cuộn mình hai vòng rồi bổ nhào xuống, há mồm ra, tạo nên khí thế “cửu long thổ chân thủy”. Lúc này các ủy viên đang họp trong chùa đột nhiên cảm thấy có một cơn gió thổi vào, một tiếng sét vang rền, mặt đất trước chùa đều ướt hết. Chạy ra ngoài xem thì nhìn thấy đuôi rồng rút vào trong một đám sương, lúc này bầu trời cũng vẫn trong xanh vạn dặm không mây. Những người trong ủy viên hội hét lên là kì tích, còn công nhân vẽ rồng thì liên tục kêu lên là kì quái, rồng giả biến thành rồng thật, không phải trời mưa mà là rồng phun nước thật đầy mặt đất. Khi ấy cũng có người nói rồng ở trước chùa múa lượn, múa ra một trận gió xoáy, phun ra một miệng chân thủy, rồi bay trở về trời.
Sự việc này có thể hỏi các ủy viên của phân đường Thạch Bích của Hoa Liên Từ Huệ Đường, ai ai cũng biết. Đây là chuyện thứ nhất.
Lại nói ở gần phân đường Thạch Bích của Từ Huệ Đường có một gia đình kia có một đứa con trai rất đặc biệt, từ nhỏ đã thích đến chùa chơi. Đứa con trai này có linh nhãn, có phải là sinh ra đã có con mắt linh thông hay không thì tôi không rõ, nhưng nó thích quỳ lạy Thần Phật. Nó nói nó nhìn thấy Thần Phật, nhưng không có một ai tin nó.
Thế rồi một hôm, đứa bé trai này cầm trên tay một cây gậy tre đi đến trước con sư tử đá ở trước chùa, nó trèo lên lưng sư tử và chơi cùng với sư tử đá. Đôi khi cao hứng, nó giơ cây gậy tre lên đánh vào mông sư tử, thế rồi sự việc kì lạ bất ngờ xảy ra. Con sử tử đá ấy quay đầu cắn vào thằng bé một cái (chỉ là cắn kiểu vui đùa, nên không cắn sâu). Đứa bé trai bị như thế thì gào khóc thất thanh, người nhà vội chạy tới, người quản chùa cũng chạy tới, còn thằng bé thì cứ luôn miệng nói sư tử đá cắn nó. ”Làm gì có chuyện đó, sư tử đá làm sao mà cắn người được?” - Mẹ nó không tin. ”Thật đấy, cánh tay con có một vết bầm lớn rồi này.” - Đứa bé trai giơ cánh tay ra, quả nhiên có một vết bầm. Đứa bé trai này bị sư tử đá cắn một miếng, trong lòng không cam chịu, nó cầm gậy tre lại đánh vào sư tử một lúc, và con sử tử lại cắn thằng bé một miếng, thằng bé lại khóc oang oang lên. Đứa bé trai này cũng rất tinh nghịch, nó đánh sư tử, sư tử cắn nó, lúc khóc lúc cười, lại còn la hét om sòm, lúc thì trèo lên lưng sư tử ngồi, lúc thì đưa bàn tay nhỏ xíu vào trong miệng sư tử. Rồi không ngờ sư tử lại trở thành bạn thân của nó. Nó vào trong chùa, với Thần Phật thì rập đầu sát đất lạy tạ, có khi còn vang lên tiếng “cộc cộc” nữa, cứ như thể nó bán mạng rập đầu vậy, khiến cho người lớn chỉ biết hồi hộp căng thẳng, nhưng một lúc sau thì nó lại cười hi hi và trèo lên sư tử.
Có người hỏi nó: ”Đầu cháu không đau à?” Nó chỉ vào Thái Tử Nguyên Soái thờ ở trong chùa nói: ”Cậu ấy đỡ đầu cháu, cho nên không đau một chút nào, cậu ấy với cháu là bạn chơi với nhau, là bạn thân.” - Thái Tử Nguyên Soái là một đứa bé xưng Thần, chả trách mà có tính cách của một đứa trẻ con.
Hai sự việc này đều xảy ra ở phân đường Thạch Bích của Từ Huệ Đường, một việc là do chính ủy viên của phân đường đó kể cho tôi nghe, vì thế tôi đặc biệt ghi lại trong cuốn sách này. Tôi tin lời của ủy viên đó và lời của mẹ tôi, tôi tin hai sự việc này, nhất định là có không ít người biết.
Diêu Trì Kim Mẫu hạ giáng linh quang ở Hoa Liên, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đã khiến Hoa Liên trở thành Thánh địa của phái Đạo giáo Diêu Trì, các phân đường của ngài phân bố ở khắp cả nước, hiện tại mỗi địa phương trong cả nước đều có. Sự hiển hiện những hiện tượng linh dị vô cùng ấn tượng thần kì, cho đến hiện tại có khoảng trên năm trăm phân đường, số lượng tăng lên từng ngày. Ngày 18 tháng 2 âm lịch hàng năm chính là ngày kỉ niệm ngài hạ giáng.
Tác giả có được mật lệnh của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, phụng Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp, quy y Phật môn, lại lãnh pháp chỉ của Diêu Trì Kim Mẫu mà đi lại ở nhân gian, không dám quên nguồn gốc, Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn cũng là vị sư phụ đại đức của tác giả.
34. Biến thể của tâm
Trước khi viết vào bản văn này, tôi xin để cho độc giả đọc đoạn kinh Di Giáo: “Phật nói, tì kheo các ông đã có thể trụ trong giới rồi thì nên chế ngự năm căn, chớ buông thả phóng túng mà chạy theo năm dục. Ví như người chăn bò cầm roi canh giữ chẳng để cho nó tự do chạy lung tung, xâm phạm ruộng người. Nếu buông thả năm căn, chẳng những là chúng chạy theo năm dục không có giới hạn, không thể chế ngự được, mà còn như ngựa dữ không dây cương kiềm chế, sẽ lôi người chăn nó xuống hố bẫy. Nếu bị giặc cướp làm hại chỉ khổ một đời này thôi, nhưng bị giặc năm căn gây hại, khổ nạn kéo dài nhiều kiếp, lại rất nặng nề, không thể không thận trọng. Vậy nên người có trí chế ngự mà không để chạy theo, giữ gìn như chống kẻ cướp, không để buông thả. Nếu buông thả tâm ra, chẳng bao lâu sẽ thấy nó dần chết.” Còn nói: “Tâm là chủ của năm căn. Vậy nên các ông phải khéo chế ngự tâm. Tâm rất đáng sợ, hơn cả rắn độc, thú dữ, kẻ trộm cướp, hỏa hoạn.”
Năm căn chính là mắt tai mũi lưỡi thân, cộng thêm ý nữa thì thành sáu căn.
Vì suy ngẫm về đoạn kinh Di Giáo này mà tôi từng vào một đêm mưa đi bộ trong mưa, đó là một đêm mùa đông, mưa trút xuống xối xả, rơi trên người khiến người ta cảm giác lạnh buốt. Tôi đi bộ trên một lối đi nhỏ trong rừng trúc, mắt nhìn thế giới này thấy một màn đen kịt, tai nghe tiếng thở hổn hển của rừng trúc đung đưa trong mưa gió, mũi ngửi thấy sự ẩm ướt trôi bồng bềnh trong không khí, lưỡi vô vị, thỉnh thoảng nước mưa chảy vào miệng, nếm một chút, hơi mặn, không biết là mồ hôi hay nước mưa. Cảm giác trên người lành lạnh, tôi đi đi lại lại trên con đường rừng trúc, tiếng mưa rơi tí ta tí tách. Một cảm xúc xơ xác tiêu điều từ trong lòng chậm rãi dâng lên. Đúng vào lúc này, trên bầu trời lóe lên một tia chớp, tiếp sau đó là tiếng sấm ầm ầm. Khi sét đánh, tôi trông thấy một ngọn đèn nhỏ ở phía xa cuối con đường. Đó là ánh sáng nhỏ hắt ra từ cửa sổ của một ngôi nhà gạch, và sau đó là bóng tối vô tận xung quanh.
“Tâm là chủ của năm căn, tâm làm sao mà là chủ của năm căn chứ?” ”Tâm rất đáng sợ, hơn cả rắn độc, thú dữ, kẻ trộm cướp, hỏa hoạn. Tâm này vì sao lại đáng sợ như vậy?”
Tôi nhìn thế giới này! Khi mạch nước ngầm chảy đến, lòng người đều thành rắn độc, lòng người thành ác thú, lòng người thành đạo tặc. Tất cả thiên tai địa biến như nhà cháy khắp nơi, người người tháo chạy, suốt ngày nơm nớp lo sợ. Lòng người nhơ nhớp, bại hoại như mưa dầm thấm đất, làm sao làm sạch được?
Mạnh Tử nói nhân chi sơ tính bản thiện, cái thiện này là một vòng tròn cân bằng, và cái vòng tròn ánh sáng nhỏ này sẽ dần dần biến dạng. Tôi nghĩ về ngọn đèn nhỏ trong ngôi nhà gạch, ánh sáng ấy sinh trưởng trên thế giới này, giống như lòng người, tâm vốn là thiện, nhưng bị nhân gian này lây nhiễm mà biến dạng.
Khi yêu thương thì tâm rất nhân từ, tâm mặc bộ quần áo màu trắng, thuần khiết, hơi một tí là dễ đau lòng mà rơi nước mắt, cái tâm ấy mong manh và có tình yêu người không gì sánh bằng, lúc nào cũng rơi những giọt nước mắt nhân từ. Cái tâm lúc này ôn hòa bình thản, nước mắt gột sạch mọi điều bất hạnh và sinh ra sự đồng cảm bác ái, cái tâm này là tròn, nhưng vẫn chỉ là một cái tâm nhỏ mà thôi!
Khi tâm chứa đầy sự tàn nhẫn, ác độc và hại người, thì tâm ấy chắc chắn là hung bạo, và những suy nghĩ chủ quan của nó vượt quá lí trí và những suy nghĩ tốt đẹp ban đầu. Ngay khi trong lòng trỗi dậy những suy nghĩ chủ quan, cực đoan thì sẽ hình thành một con dã thú trong lòng, dã thú không có lòng nhân từ mà chỉ có khát khao ăn tươi nuốt sống. Có rất nhiều răng nanh dữ tợn mọc ra từ cái miệng xấu xí, hình thái của tâm không tròn nữa, cũng không phẳng, mà là bao phủ bởi những chiếc gai dị dạng, đương nhiên, người như vậy bề ngoài vẫn là một con người, nhưng bên trong thì không khác gì một con thú.
Tôi nói tâm là một dạng linh quang, ánh sáng của tâm sáng và viên mãn. Nếu tâm thành bồ đề, tâm chính là bồ đề, cố định lòng nhân từ và lòng yêu thương của tâm vào trong tâm, tâm bác ái mở rộng ra toàn thế giới, toàn nhân loại và toàn vũ trụ thì vòng ánh sáng của tâm sẽ sáng như Bồ Tát, các lỗ chân lông trên thân thể con người sẽ phóng ra tám vạn bốn nghìn ánh hào quang. Ánh sáng này chiếu hiện vô hạn một cái tâm Bồ Tát vô lượng vô biên, chiếu hiện một cái tâm Như Lai bao la vô lượng vô biên, tâm Phật này bao phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới, bao phủ vô lượng vô tận pháp giới, bao phủ thập pháp giới, tương đương với vũ trụ.
Còn nếu tâm hẹp hòi thì suy nghĩ đố kị sẽ tuôn trào, từng tia sáng sẽ theo đó dần dần biến mất. Nếu tâm hẹp hòi không chứa được một hạt cát, thật sự nhỏ đến mức không chứa nổi một hạt cát, thì đây chính là quan điểm của tôi về về “sự biến thể của tâm”.
“Nếu tâm niệm nằm im thì như biển lớn bình lặng, như gương.” ”Nếu tâm niệm khởi lên thì như sóng biển cuồn cuộn, sẽ loạn.”
Mưa vẫn rơi. Tôi ngẩng đầu nhìn trời, dường như cổng trời đã mở ra, bầu trời xuất hiện một ngọn đèn, ngọn đèn ấy càng lúc càng sáng, vòng ánh sáng càng ngày càng rộng. Trong ánh đèn xuất hiện vô số Phật, vô số hóa thân Phật, vòng ánh sáng này chiếu vào mưa, mưa tạnh, chiếu vào gió, gió ngừng. Phật trong ánh sáng nói: “Liên Sinh, nếu tâm rộng lớn như vũ trụ, tâm bồ đề bao phủ khắp vũ trụ, thì đó chính là ánh sáng của người nhân từ, như ánh sáng của Phật.”
Thế là, ngọn đèn trong tâm tôi đã sáng rồi, vô số ánh sáng bao vây lấy tôi, trong lòng tôi không còn đau buồn nữa, bởi vì đau buồn chỉ là một hạt kê nhỏ xíu trong lòng tôi mà thôi.
35. Mượn quỷ binh
Phần lớn người tu Đạo, chỉ cần là người cực kì tinh thông thì đều biết Đạo có thuật pháp mượn quỷ binh. Pháp này mặc dù không phải là pháp được người của chính giáo chính phái tán dương, nhưng trong một số trường hợp thì vẫn cần thiết. Người hiểu pháp này nếu có tâm thuật bất chính thì cực dễ làm những việc tàn nhẫn. Theo như tôi biết, có một người chuyên dùng phù tử tiên của pháp này, người này ngoài 60 tuổi, thân thể gầy gò hom hem, nhưng ông ta thường xuyên sử dụng pháp thuật mượn quỷ binh này.
Dục vọng của con người không nằm ngoài sắc dục và tài dục, cái kẻ phù tử tiên già rồi mà không biết tu kia, không biết đã học được thuật mượn quỷ binh ở đâu mà lại lợi dụng phép mượn quỷ binh này để dung túng cho dục vọng cá nhân của hắn. Người này làm pháp nhưng chỉ biết cách làm pháp ra sao mà không biết cách thu về, vì thế đã gây ra không ít việc thất đức.
Đầu tiên, ông ta đến miếu Bách Tính Công ở Vụ Phong [một quận ở Đài Trung], tôi biết là ông ta đã mượn linh quỷ của miếu Bách Tính Công ở gần hội đồng quận Vụ Phong. Ông ta đến miếu Bách Tính Công dọn dẹp sạch sẽ lư hương của Bách Tính Công, sau đó thắp hương cầu chúc: “Thiên hạ Bách Tính Công, âm linh thần thông nhất, giúp tôi phát tài lợi, giúp tôi giải nghi nan, có việc đến trợ giúp, hết việc về âm đàn, trọng binh ủng hộ tôi, mưu sự tự nhiên thành. Cấp cấp hách hách dương dương, phàm ngô phù lệnh chí, tốc tốc trợ đàn tràng, công thành phụng canh quả, chỉ đĩnh gia bội hoàn, đệ tử âm giáo Lí AA, phụng Đốc Linh Đại Nguyên Soái cấp cấp luật lệnh cương.”
Sau khi cầu chúc xong, ông ta đốt một lá phù dưới chân Thần đàn, một lá phù đốt tại lư hương, một lá phù đốt ngoài trời. Phù đốt dưới Thần đàn gọi là phù tụ âm, phù đốt tại lư hương gọi là phù nghe lệnh, phù đốt ngoài trời gọi là phù linh thông. Sau khi đốt ba lá phù này xong, ông già Lí kia hết sức vui mừng, tiện tay gom hết những chân hương trong miếu Bách Tính Công, lấy không còn sót lại que nào. Những chân hương trong miếu Bách Tính Công ở Vụ Phong phải có tới hơn trăm que, tương đương với trăm âm tướng.
Ông già Lí trở về nhà, dùng một tấm biển khắc bằng gỗ đào, trên đó khắc chữ “Linh thông Bách Tính Đại Công Thần vị”, dùng vải đỏ gói tấm biển đó lại rồi đặt lên bàn thờ, đem những chân hương kia đốt thành tro rồi rải lên bát hương trong nhà mình. Bắt đầu từ ngày hôm đó, đầu tiên ông ấy bày năm mâm cỗ cúng tế Bách Tính Đại Công, sau đó khoản đãi khách khứa, không ai biết vì sao ông ta lại đãi khách. Thế nhưng tôi biết, hằng đêm ông ấy đều đốt một ít vàng mã, có khi còn bái lạy nữa. Ông già Lí tuổi đã cao, vốn dĩ là một người đàn ông độc thân, nhưng kể từ đó, tổng cộng ông ta đã thu nhận hai mươi người con gái nuôi, những con gái nuôi này đều là con gái của những nhân vật có máu mặt. Bọn họ tìm đến ông già Lí để làm gì, không ai biết, nhưng hễ đi ra ngoài đường thì một cô khoác tay, một cô ôm eo, một cô đi trước, một cô đi sau. Bản thân ông già Lí lôi thôi từ đầu tới chân, nhưng những cô con gái nuôi này thì xinh đẹp như Tiên trời, trang điểm lộng lẫy, tụ tập cả đám trên đường phố, người đi đường rất lấy làm ngứa mắt. Bản thân ông già Lí thì không làm việc gì, nhưng các cô con gái nuôi thì tự động bỏ tiền cấp dưỡng ông ấy. Ông ta cũng xem tướng mệnh cho người ta, và những cô con gái nuôi này đều là những cô đến xem tướng mệnh mà ra.
Vì sao những cô gái này lại nghe theo mệnh lệnh của ông già Lí, nguyên nhân là sau khi ông già Lí để mắt đến cô gái nào thì dùng tro hương của Bách Tính Công pha vào trà, lấy cớ là tế sát cải vận mà yêu cầu các cô uống. Kể từ đó các cô sẽ bị quỷ ám, sẽ cảm thấy ông già Lí hòa nhã dễ gần bội phần, hễ rảnh là lại nghĩ đến ông già Lí, lời ông già Lí nói, các cô đều nghe lời răm rắp, mê muội tới mức ngay cả bạn trai của mình cũng không cần nữa.
Thuật pháp mượn quỷ binh này không chỉ có thể dùng vào phương diện này, mà đồng thời có thể dùng vào việc lừa tiền của người ta. Kể ra cũng lạ, hễ người này mở miệng ra là đối phương cho dù bình thường là một người rất thận trọng thì cũng giống như bị quỷ ám, ngoan ngoãn lấy tiền ra. Lại có những tên côn đồ làm chuyện xấu, dùng phương pháp này vỗ lên người người ta, thế là quỷ ám vào tâm họ, tự mình lấy dây chuyền vàng, lấy tiền trong ví ra tự động tặng cho người khác. Đến khi tỉnh lại thì khóc váng lên cũng chẳng làm gì được.
Còn về việc của ông già Lí, mặc dù tôi biết, nhưng cũng coi như gió thổi làm lăn tăn nước hồ, việc ông ta làm không liên quan gì đến tôi, tôi sẽ không chủ động đi tìm ông ấy và khuyên ông ta đừng làm việc xấu nữa. Mãi cho đến một ngày, một người bạn của bạn tôi đến tìm tôi.
“Thầy Lư, xin giúp đỡ, bạn gái tôi gần đây không biết làm sao mà hở một tí lại trốn trong nhà ông già Lí, nói là tu luyện công phu gì đó, nói rằng tôi và cô ấy không có duyên. Trước đây về cơ bản là cô ấy không hề như vậy, thật là gay go, cô ấy đã mê muội rồi, nghe nói ông già này có phù tử tiên nổi tiếng, mỗi lần đi chơi đều có hai ba nhóm các cô gái đi cùng. Cầu xin thầy, cầu xin thầy cứu tôi với, cứu tôi với.”
Tôi trầm ngâm một lúc rồi đành phải gật đầu, tôi không dùng phương pháp gì cả. Tôi cũng chạy đến miếu Bách Tính Công ở Vụ Phong để thu phù ở dưới chân Thần đàn, thay mới toàn bộ tro trong lư hương, và cũng thu phù trong lư hương về. Nói ra cũng kì lạ, thuật pháp của ông già Lí hoàn toàn mất linh. Những kẻ trước kia thích ở cùng ông ta, nhũng cô gái phó mặc số phận cho ông ta từ từ rời xa ông ta. Ông ta thỉnh Bách Tính Công cũng không thỉnh được, cho dù mở tiệc rượu lớn cả trăm mâm cũng không thể làm được.
Dù ông ta chỉ gặp tôi có một lần, biết tôi cũng là người có kĩ năng, nhưng ông ta không dám tìm đến cửa nhà tôi, bởi vì thuật mượn quỷ binh này không phải là thuật pháp chính pháp, phàm là người của chính phái thì ai ai cũng có thể phá được pháp này mà không làm tổn hại đến thiên đức.
Không lâu sau, ông già Lí lại tìm đến miếu Bách Tính Công ở khu Tứ Trương Lê [một khu vực truyền thống ở Đài Trung], rồi lại có rất nhiều cô gái mê đắm ông ta, đi ra ngoài lại tiền hô hậu ủng, đúng là sung sướng như trời.
(Chú thích: tôi không công khai thuật pháp này, chỉ muốn độc giả biết về sự thần diệu của dị thuật của linh mà thôi.)
36. Cảnh giới atula
Cái gọi là “tu thiện, không quên sân hận”, cảnh giới này chính là cảnh giới của thiên ma atula. Cảnh giới này là một thế giới tinh linh kì diệu. Thế giới này giống như 33 cõi trời vậy, tại Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có, tại Tha Hóa Tự Tại Thiên có, tại Hóa Lạc Thiên cũng có, thậm chí đến Vô Sắc Giới cũng có, thậm chí trong địa ngục cũng có, tại thế giới Ta Bà lại càng nhiều. Thế giới atula tự tạo thành một đơn nguyên lớn, phân thành rất nhiều đơn nguyên nhỏ, ai có thể đến cảnh giới này thì có thể nhìn thấy rất nhiều điều kì diệu bất khả tư nghì. Trong thế giới này có Atula Vương và các Atula Tiểu Vương chiến tranh lẫn nhau, không chỉ như vậy, thậm chí Atula Vương chiến tranh với Thiên Đế của Thiện Pháp Đường Thiên, muốn chiếm đoạt tôn vị Thiên Đế.
Phiên dịch tiếng Trung của atula chính là “tinh linh”, từ đây có thể thấy atula là đám tinh linh chưa chứng đắc chứng quả, nhưng atula hành thiện mà thu được công lao, tu bàng môn tự đắc quả, ở đây có rất nhiều nhân tố. Linh lực của họ ngang bằng với Thần chúng cõi trời, thậm chí còn hơn cả Thần chúng cõi trời, có một số hơn con người nhưng có một số kém con người. Cảnh giới atula lởm khởm luộm thuộm, có thiện có ác, có tà có chính, linh lực của họ thì lớn nhỏ khác nhau, có thể nói là một cảnh giới kì quái nhất.
Vì sao lại có cảnh giới này xuất hiện? Tôi giải thích một cách đơn giản là mọi người có thể hiểu được. Thứ nhất, nếu có tì kheo tì kheo ni tu thiện niệm Phật, nhưng trong lòng vẫn còn đố kị với người cùng tu, tuy có thiện công nhưng công không bằng tội, cho nên vì tâm lượng hẹp hòi, thường xuất hiện sân hận mà sau khi chết đi không thành được Phật, không lên được cõi Trời, không có nhân duyên ở cõi người, lại không có tội báo ở địa ngục, trong sát-na liền phi thân vào thẳng cảnh giới atula vô lượng vô biên. Vì họ có thiện công cho nên khuôn mặt phía trước hiện lên nét thiện, vì họ niệm Phật nên chắp tay hiện 32 tướng và các điềm lành. Tuy nhiên còn có một khuôn mặt nữa ẩn giấu đằng sau, hai lông mày cùng nhíu lại, nét mặt hằm hằm, miệng có hai lưỡi, thường có ý phỉ báng, chưa loại bỏ được sân niệm. Thứ hai, nếu có người tu đạo chuyên tập thuật pháp hữu tướng của Tiểu thừa, giúp đời cứu người, tương đối có thiện công, nhưng đề xướng tiểu thuật tiểu thiện, không biết vẫn còn có pháp Đại thừa, hành pháp có tà có chính, chính tà cân bằng lẫn nhau, không thiện không ác, người tu đạo kiểu này tuy có linh thông, không chịu quả báo địa ngục, không có nhân duyên ở cõi người, không sinh về trời, cũng không có cách nào thành Phật, khi chết đi cũng phi thân thẳng vào cảnh giới atula vô lượng vô biên, trên người mọc cánh, có thể bay tới chân trời, cũng có cảm nhận sướng khổ, tâm địa tuy thiện nhưng vì đề xướng tiểu thuật, ngăn cản người thành Phật, cho nên hiện thân này.
Lại có loại người thứ ba, cả đời chưa từng nghe Phật pháp, nếu nghe thì cũng không tin, nhưng mà lại theo bàng môn tu tà đạo, tuy tu tà đạo nhưng lại chưa bao giờ làm việc ác, tâm địa thuần thiện, biết rằng làm thiện có thể lên trời nên tạo nhiều loại công đức, làm tám vạn bốn nghìn tà đạo, thành tựu tám vạn bốn nghìn tà công, tạo ra tám vạn bốn nghìn đạo bàng môn, tâm họ chính trực vô tư, nhưng tập khí chưa thay đổi, sau khi chết, con đường thành Phật bị cắt đứt, không thể đắc chứng Thần vị, không có nhân duyên ở cõi người, không nhập địa ngục và tam ác đạo, thế là phi thân nhập thẳng vào cảnh giới atula vô lượng vô biên. Vì cái họ tu mặc dù không phải là chính, nhưng đạo công cũng có thành tựu, nhập thẳng vào Tha Hóa Tự Tại Thiên của 33 cõi trời, trở thành những thiên ma của Tha Hóa Tự Tại Thiên. Hạng thiên ma này cũng không biết có Phật, tự coi mình là rất cao rồi, duy ngã độc tôn, thường gây tranh chấp với các thiên chúng khác. Tuy vậy cũng có một số atula cũng tự biết tìm niềm vui riêng cho mình.
Loại người thứ tư, mặc dù tu thiện, nhưng đố kị, căm phẫn, tập khí cực đoan không thay đổi, sau khi được chôn, không sinh về cõi trời, không vào tam ác đạo, không sinh về cõi người, cho nên một mình thành một con ma thiện, tự làm thành một đơn nguyên, con người cầu việc thiện thì họ bèn làm thiện, trong đó có việc ác nhỏ thì họ cũng làm, con người gọi họ là Vạn Thiện Công hay Ông Vạn Thiện. Có một số thì nhờ khí của địa linh mà có thành tựu, có một số thì nhờ thiện nghiệp mà có thành tựu, những tinh linh này phần lớn vẫn còn có thể tu thiện, nhưng có cũng kẻ làm ác, nếu làm ác vẫn sẽ chịu nghiệp báo, quả báo địa ngục vẫn không thể thoát được. Tóm lại, atula hạng này phần lớn giữ thân ở thế giới Ta Bà (cõi người), có hình dạng quái dị, có thiện có ác, và rất thích loài người thường xuyên cúng dường họ.
Sau khi tôi có được linh nhãn, có một lần tôi ở tại Phật đường tụng kinh, thấy một vật vô cùng quái dị, đầu to như cái đấu, thân mặc quần áo thần màu mè sặc sỡ, miệng méo mắt xếch, hai chân như bàn chân vịt, có màng chân. Sau khi hiện thân, nó hút sạch khí của đồ ăn cúng trên bàn, đồ ăn vẫn ở đó, nhưng khí của chúng thì đã không còn nữa rồi! Tôi thấy vật này vào trong Phật đường thì lấy làm kì lạ vì tại sao chư Phật lại chẳng hề quan tâm tới nó.
“Quái vật phương nào?” - Tôi hỏi. ”Là Thủy Long Công, tôi thích nghe kinh.” ”Mi còn thích cái gì nữa?” ”Xem kịch.” ”Xem kịch gì?” ”Kịch ca tử hoặc múa rối, miếu của tôi thường diễn kịch. Đúng rồi, anh cũng bố thí cho tôi một vở kịch được không? Tôi sẽ phù hộ anh.” ”Thôi đi, thôi đi.” - Tôi cười cười nói: “Tôi làm gì có nhiều tiền như vậy.”
Đây là lần gặp mặt đầu tiên của tôi với Thủy Long Công, nghe nói nó rất linh, miếu của nó thường xuyên diễn kịch.
37. Thử nghiệm linh lực
Mấy ngày này, tôi nhận được thư của một độc giả từ thành phố Cao Hùng, độc giả này họ Thái, sống ở quận Tiền Trấn, đường Tiền Trấn, thư của anh ấy viết như sau:
“Lư tiên sinh, chào anh! Có một buổi tối, tình cờ trong hiệu sách tôi mua được cuốn “Khởi linh học”, vừa xem nội dung thì toàn bộ tâm trí tôi đã bị hút sâu vào nó. Sau khi đọc hết cuốn sách, tôi sâu sắc cảm thấy mình giống như một con thuyền nhỏ trong mưa bão tìm được ngọn hải đăng dẫn đường. Sự an nhiên trong tâm hồn và tinh thần của tôi nhẹ nhàng hiện lên, lòng tôi trở nên bình yên hơn nhiều so với bình thường.
Đã nhiều năm nay, bản thân tôi hoàn toàn không hiểu được sự kì quặc của chính mình, giống như việc khởi linh trong sách của anh, tất cả những việc ấy xảy đến rất lạ, bây giờ tôi viết ra, xin anh hãy lần lượt chỉ thị cho tôi. Thứ nhất, bình thường khi tôi đứng, thả lỏng tâm mình, thân thể tôi tự nhiên sẽ đánh một bài võ thuật truyền thống Trung Quốc, tôi hoàn toàn không biết làm thế nào mà có được bài võ thuật này, mọi động tác đều không đi qua đại não hay niệm lực của tâm, căn bản là tôi chẳng hề có cái suy nghĩ ấy.
Khi tôi ngồi thiền theo lời anh viết, miệng niệm bốn chữ A Di Đà Phật, hai tay sẽ tự nhiên đưa ra làm thành các hình dạng, sau đó tay phải làm bộ dạng lấy vật đó ở tay trái, sau đó tay sẽ đưa vào miệng hoặc đưa lên đỉnh đầu. Có lúc tay phải biến thành kiếm quyết chém lung tung trên đầu.
Thứ hai, trên bàn học, tôi cầm bút lên viết chữ, tay tự động di chuyển lên tờ giấy khác, vẽ ra những kí hiệu kì quái, những kí hiệu ấy tôi đều không hiểu, không biết có hàm nghĩa gì, ý nghĩa đều không hiểu được.
Thứ ba, một, hai năm trước ở Cao Hùng có xảy ra vụ tàu thủy bị lật và chìm, làm chết hơn 20 nữ công nhân của khu chế xuất. Khi ấy tôi sống tại quận Tiền Trấn, cách khu cảng xảy ra tai nạn không xa. Chuyện xảy ra vào lúc 1 giờ sáng. Khi ấy tôi đang ngủ, toàn thân không biết vì lí do gì mà trở nên khó chịu, cả đêm không ngủ ngon được. Đến khoảng 3 giờ sáng thì tôi nhìn thấy một thiếu nữ tóc dài đứng ở đầu giường tôi, mắt cô ấy nhìn thẳng vào tôi, tôi càng nhìn thì càng sợ hãi, khi ấy tôi không hiểu là chuyện gì, chỉ thấy cô thiếu nữ ấy bị ướt sũng từ đầu đến chân. Tôi sống ở Tiền Trấn, từ xưa đến nay buổi đêm đều ngủ rất say, chưa bao giờ tỉnh giấc. Đến khi trời sáng, lúc 8 giờ tôi mới biết tàu thủy ở trong cảng đã chìm nghỉm rồi, và thời gian chìm là lúc 7 giờ sáng. Xin hỏi đây có phải là điềm báo không, vì sao tôi có thể cảm giác được trước sự việc? Tôi cảm thấy Thần Phật mặc dù có thể dự báo được sự việc, hơn nữa còn có chùa có miếu, nhưng vì sao Thần minh không đưa tay ra giúp đỡ chứ? Vì sao không thể ngăn chặn tai nạn xảy ra để mà cứu họ chứ? Bởi vì họ đều là những phụ nữ ngư dân nghèo khổ, vì sinh tồn mà phải làm thêm, vì sinh kế của gia đình mới phải làm công nhân ở khu chế xuất, thế mà lại gặp phải bất hạnh này, chẳng phải là khiến người ta sinh lòng thương xót cảm thông hay sao?
Bình thường tôi dự đoán đều rất chuẩn, khi mọi người ở cùng nhau, tôi nói tất cả cho bạn bè và đồng nghiệp nghe, nhưng không có ai tin. Đúng lúc tôi mua được danh tác của anh, họ cứng họng không thể phủ nhận, về sau quan niệm của họ cũng đã thay đổi rất nhiều. Tôi hi vọng có thể luyện thành công những điều được nói đến trong sách để chứng minh linh lực không phải là giả và Thần là tồn tại thật, để người người từ trong lòng mình phát tâm tin Phật tin Thần và hướng thiện, như vậy thì đúng là công đức lớn. Xin hỏi sau khi khởi linh thì luyện linh như thế nào?
Xin chúc anh vui.
Thái X Thượng.”
Nhận được lá thư này, tôi biết rằng anh Thái này là một người hoạt linh, sự xuất hiện của linh lực khiến bản thân anh ấy không hiểu ra làm sao. Đánh một bài võ thuật, nhưng bản thân không có chút ý thức nào cả. Trên thực tế, việc này hoàn toàn có thể giải thích được, bởi vì linh thức tiền kiếp của anh ấy chưa tiêu tan, kiếp trước có lẽ anh ấy là một đại sư võ thuật, hoặc là một người từng học võ thuật cổ truyền. Tay của anh Thái có thể tự động viết chữ, vẽ phù, hoạt linh này có thể huấn luyện thành phù kê thủ chính thức, dùng tay cầm cành đào cành liễu viết chữ trên cát, cũng có thể nói đây là kê thủ trời sinh.
Có thể dự đoán tương lai, đây là sự xuất hiện linh lực của giác quan thứ sáu, người có linh lực càng lớn thì càng có cảm ứng lớn, khi linh lực còn tương đối nhỏ thì cũng có cảm ứng nhỏ. Người không có linh lực thì căn bản là không có cảm ứng, nếu có thể dự đoán tương lai chính xác một trăm phần trăm thì đó đúng là xuất sắc tuyệt đỉnh rồi. Muốn thử nghiệm linh lực thì có thể dùng phương pháp đổ xúc xắc, từ một đến sáu điểm, có thể lần nào cũng đoán trúng thì mới xem là cao thủ. Tiếp theo có thể dùng bài tây, có thể đoán ra được quân cơ, quân rô, quân bích, quân tép thì đây là bước đầu, sau đó phải đoán ra được là con mấy cơ mới xem là cao thủ về linh lực.
Việc ở nhân gian phần nhiều là những việc bất hạnh, sinh mệnh của con người lại càng như con sâu cái kiến, những tai nạn này có thể xem là thiên tai nhân họa, những tai nạn vô hình thì lại càng không thể biết được là có bao nhiêu! Tôi cho rằng đây chính là vận, là mệnh. Ngoài quy về vận mệnh ra, càng không thể trách chư Phật và chư Thần minh. Thần thông của linh lực có lớn có nhỏ, theo túc mệnh mà nói thì ngoại đạo, đệ tử Phật, đại đệ tử, đệ tử thượng tọa, Bích Chi Phật, Phật đều có thể có những chuyện thần thông kí ức kiếp trước, ngoại đạo có thể nhớ được 40 kiếp, còn Bích Chi Phật có thể nhớ được hai a-tăng-kì lẻ mười vạn kiếp, còn thần thông của Phật thì không thể giới hạn, phải là lực trí huệ của linh mới có thể khéo phân biệt được.
“Linh lực huyền diệu thế nào mà phá bỏ được sự an bài của túc mệnh, có thể biết kiếp trước.” ”Linh lực siêu phàm thế nào mà dự đoán được đời tương lai, khi nào sinh về quốc độ Cực Lạc.”
Hãy niệm Phật đi! Rồi cộng thêm thực hành bát chính đạo, phối hợp tự lực và tha lực, Tây phương Cực Lạc thế giới không xa, Tây phương Cực Lạc thế giới đã ở gần, cái gọi là linh trí của Phật chính là linh lực và trí lực.
38. Quan niệm về sinh tử của tôi
Phật thuyết mười hai nhân duyên: ”Hành từ vô minh mà có Thức từ hành mà có Danh sắc từ thức mà có Lục nhập từ danh sắc mà có Xúc từ lục nhập mà có Thụ từ xúc mà có Ái từ thụ mà có Thủ từ ái mà có Hữu từ thủ mà có Sinh từ hữu mà có Lão tử ưu sầu khổ não tuyệt vọng từ sinh mà có.”
Từ mười hai nhân duyên này suy ra đời người từ vô minh mà có, và từ sinh dẫn đến lão tử, sinh tử vô thường, chư hành vô thường. Vì tôi đã biết sinh tử của con người vốn là một sự tuần hoàn của nhân duyên, chỉ có “sự tái hiện của linh” mới là một “chân ngã” chân chính. Đương nhiên tôi là một người nhìn thấu sinh tử, thậm chí nói tôi là một người vô sinh vô tử. Sống là một quá trình, chết cũng là một quá trình, tất cả ngộ cảnh trong lúc sống đều như mây khói bay qua mắt, thậm chí tôi nhập vào thiền định, thấy tất cả huyễn cảnh như Tây phương Cực Lạc thế giới cũng là huyễn cảnh, Vô Sắc Giới Thiên ở trên Tứ thiền tôi thấy cũng là huyễn cảnh, hai mươi tám thiên, ba mươi ba thiên chúng đều từ huyễn cảnh sinh ra.
Trong thiền định tôi từng nhập vào Vô Sở Hữu Xứ, đã đến Vô Sở Hữu Xứ rồi thì sẽ không còn sinh tử, không sinh tử thì sẽ không có cảm nhận, không có cảm nhận thì sẽ không có xúc giác, và tất cả thiên chúng cũng không thể đến đây. Từ trong thiền định tôi trở về Nhị thiền, thân thể tôi ngồi trên một đóa hoa sen trắng, khói mây trong không trung đã tan biến sạch sẽ, gió đang thổi biến thành âm thanh vi diệu, khắp mặt đất được phủ kín bằng hoa sen, có thiên nữ và Đại Phạm Thiên chúng xuất hiện, từ không trung trời rải xuống mưa hoa thơm nức. Tôi niệm thầm trì tụng kinh Kim Cang một hồi lâu, nhập vào Kim cang tam muội, tất cả huyễn tướng lại biến mất toàn bộ, chỉ còn lại một mình tôi ngồi trong cái không của hư vô, thân người treo lơ lửng, không chạm vào trời, không chạm vào đất, cũng không hề bay lên trên, cũng không rơi xuống dưới, tâm không điên đảo, căn bản là vô tâm, vô tâm rồi nhập vào Diệt định tận, sau đó từ Diệt định tận rời bỏ từng lớp từng lớp, trở về Sơ thiền, rồi lại mở mắt ra nhìn thấy con gái nhỏ của tôi Lư Phật Thanh, nó ngồi trước mặt tôi khóc, nhưng tôi lại chẳng có một cảm giác gì.
Có một lần, một đám thanh niên tìm hiểu về Đạo từ Hoa Liên đến Đài Trung tìm tôi. Họ ngồi thành vòng tròn bao vây lấy tôi, chính trong căn nhà dột nát tôi thuê tạm để ở, họ không cảm thấy nhà tôi dột nát, vẫn rất vui vẻ nhiệt tình hỏi thăm tôi. ”Sinh là cái gì?” ”Sinh là vô minh.” ”Tử là cái gì?” ”Tử cũng là vô minh.” ”Vô minh là cái gì?” ”Chư hành vô thường.” ”Thưa thầy, quán tưởng sinh tử có thể đạt được kết quả gì?” ”Tinh tuyển tĩnh lự, sinh tử quán tưởng, sáng tỏ mọi pháp, thấy rõ nội tình, thì mọi nghi vấn, nhất thời tiêu tan, những sinh tử này, đều là duyên sinh. Tất cả các thế giới có sinh mệnh tất có tử vong, giống như cây nến cháy tất sẽ có lúc cháy hết, giống như ánh nắng xuất hiện đằng đông tất sẽ chìm xuống đằng tây, như hoa quả có nở có tàn, như mộng huyễn, trong tỉnh có ngủ, trong ngủ có tỉnh. Bạn quán tưởng mười hai nhân duyên, mười hai nhân duyên này có thể điên đảo, có thể luân hồi, đau khổ và sung sướng thay thế lẫn nhau, cũng không giữ được lâu. Những người cầu Đạo các bạn có hiểu không?”
Họ lắng nghe rất chăm chú, một người trong đó nói: ”Vậy sinh tử vốn là vô minh, thế thì cuộc đời này của chúng ta đã là vô ích rồi! Vậy còn cầu cái gì?” Tôi cười nói: ”Đây chính là điều mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh thường xuyên nói với tôi, thân người khó có được, quý ở chỗ biết tu, hiểu Đạo rồi thì cần tu hành, hãy bắt đầu từ linh trí, từ linh trí đi vào, lại từ linh trí đi ra, bắt đầu từ hữu tướng của khởi linh mà đạt đến mức độ không còn hữu tướng, trí huệ như gương sáng tự nhiên chiếu hiện nghìn nghìn vạn vạn thế giới, từ đây mà có được chân lí, mới không đi bám chấp vào sinh tử hữu thọ hữu hình của con người. Như vậy mới là ý nghĩa của đời người.”
39. Kì tích trong phòng phẫu thuật
Có một người phụ nữ sống ở cao ốc Hợp Tác ở Đài Trung, tác giả đã quên mất họ tên của người này, cô ấy bị mắc bệnh viêm thận rất lâu rồi, thận không ngừng bị đau, có lúc đau đến mức không thể nào đứng thẳng người để làm việc được. Người phụ nữ này được một người bạn ở Chương Hóa giới thiệu đến nhà tôi. Tôi không phải là bác sĩ, càng không hiểu đơn thuốc, thế nhưng cô ấy vẫn đến nhà tôi cầu tôi: ”Lư tiên sinh, bệnh thận này làm phẫu thuật thì tốt hay là uống thuốc thì tốt? Uống thuốc thì thuốc Đông y hay Tây y?” ”Để tôi thỉnh thị Thần Thánh một chút, nhưng tôi nói để chị biết, tôi không phải là bác sĩ, tôi không biết kê đơn thuốc, càng không phải là kê đồng nên không thể lừa gạt xằng bậy người ta, và quan trọng nhất là có chuyện thì vẫn nên mời bác sĩ kiểm tra là hay nhất.” Tôi nói với cô ấy như vậy, cô ấy gật gật đầu.
Tôi tĩnh tâm lại, chắp tay, niệm chú, thỉnh cầu linh trong không trung chỉ thị. Phương pháp linh chỉ thị là vận chuyển linh mệnh trên người tôi vào trong vũ trụ, hợp nhất với linh trong vũ trụ, sau đó lại tách khỏi nhau, trở về trong tâm của chính mình, thế là tôi sẽ hiểu được ý của Thần linh ở linh giới.
“Chị mắc bệnh viêm thận đã ba năm rồi phải không?” - Tôi hỏi. ”Chính xác là ba năm.” - Cô ấy ngẫm nghĩ kĩ, nói: “Không sai một chút nào.” ”Chị là người chủ gia đình, cả nhà đều dựa vào chị vật lộn kiếm miếng ăn.” Cô ấy cười cười nói: ”Đúng thế, chỉ thị của Thần minh thật là linh quá.” ”Bệnh thận phải phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ, nó không còn khả năng làm chức năng của nó nữa, và nó vẫn tiếp tục trở nên tệ đi, nếu không cắt bỏ sẽ gây nguy hiểm cho các bộ phận khác. Nếu chị làm phẫu thuật thì Thần linh chỉ thị là sẽ đi giúp đỡ chị, nên chị cứ yên tâm, nhất định sẽ bình an vô sự. Khi chị phẫu thuật, xin chị hãy cung kính niệm bốn chữ Diêu Trì Kim Mẫu, Thần Thánh linh cảm, nhất định chị sẽ bình an.”
Thế rồi cô ấy đến bệnh viện đa khoa trên đường Công Viên ở Đài Trung để kiểm tra, bác sĩ nói thận đã không còn sử dụng được nữa, không cắt bỏ không được, giống hệt chỉ thị của Thần. Thế là người phụ nữ ấy đến nhà tôi xin một bùa chú hộ thân để mang theo người giúp cho tâm lí cảm thấy bình an. Vào lúc làm phẫu thuật, tôi cũng ở trong Phật đường giúp cô ấy tụng kinh thỉnh linh.
Sau đó, mọi thủ thuật đều tiến hành rất thuận lợi, cô ấy nhắm mắt nằm trên bàn mổ nhưng nhìn thấy ở ngoài cửa có ba vị Thần linh đi vào, thì ra là Kim Tra Nguyên Soái, Mộc Tra Nguyên Soái, Na Tra Nguyên Soái. Ba vị Thần linh này đi một vòng quanh phòng mổ rồi đi ra, người phụ nữ này nhìn thấy rất rõ ràng, muốn kêu lên nhưng không kêu thành tiếng được. Lúc này trong lòng cô ấy cung kính niệm Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Thế Âm Bồ Tát, bỗng dưng trong cơn hoảng hốt, cô ấy cảm thấy một cơn đau nhói, thế rồi chỗ mổ nóng bỏng giống như bị lửa đốt. Lúc này cô ấy đột nhiên nhìn thấy trong không trung có một vị mặc áo trắng, nét mặt hiền từ, tay nâng tịnh bình, chân dẫm lên hoa sen từ từ giáng xuống. Vị Bồ Tát ấy cười và gật đầu với cô, cô ấy nhìn thấy rất chân thực, thì ra là Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Chỉ thấy vị Bồ Tát ấy đổ nước trong tịnh bình vào trong vết mổ, cảm giác nóng rát nơi vết mổ đều lắng dịu, giống như nước cứu lửa, như lạnh trị nóng, mọi đau đớn đều tan biến. Thế rồi cô chìm vào giấc ngủ mà không còn một chút cảm giác đau đớn gì.
Quá trình phẫu thuật rất thuận lợi, nhưng người mệt lử, mỗi khi nhắm mắt là cô ấy lại nhìn thấy có một vị Thần linh bảo vệ trước giường, các Thần gồm có Quan Âm mười tám tay, Bạch Y Quan Âm, Thiên Thượng Thánh Mẫu, v.v… mỗi vị Bồ Tát Thần minh đều ân cần chăm sóc cô, khiến trong lòng cô cảm kích không sao mô tả được. Đồng thời Bồ Tát cũng kiểm tra vết thương, kề mặt rất sát vào mặt cô, nét mặt hiền từ ấy khiến lòng cô vô cùng cảm động.
Ở trong viện được mấy ngày là cô đã xuất viện rồi, có thể đi lại như bình thường, mặc dù bị cắt bỏ một quả thận nhưng không có chỗ nào cảm thấy khó chịu, có thể nói là cực kì suôn sẻ. Việc đầu tiên là cô ấy chạy đến kể cho tôi về những kì tích này. ”Tôi phải làm sao để cảm tạ các vị Bồ Tát này?” ”Chỉ cần cúng dường hương hoa ngũ quả là được rồi.” ”Anh không cần tiền sao?” ”Tiền là vật ngoài thân, có hay không có cũng như nhau, tôi chưa bao giờ cầu tiền tài, đủ dùng là được rồi.”
Người phụ nữ ấy quỳ xuống, cúi lạy mấy cái rất thành kính, đồng thời cô ấy cũng đi khắp nơi để tuyên dương sự linh cảm của Bồ Tát. Bồ Tát hiển hiện để cô ấy nhìn thấy là lần đầu tiên trong đời, sự hiển hiện lần này thật sự đủ để khiến cô ấy cả đời khó quên rồi.
Bồ Tát của Từ Huệ Lôi Tạng Tự ở Đài Trung hiển hiện không chỉ một lần, mỗi lần pháp hội đều có những sự việc linh dị phát sinh, thật sự là ghi chép lại không xuể. Những việc này là do tác giả tự nói, có thể mọi người sẽ cho rằng là nói xằng bậy, vậy thì các bạn có thể đến bệnh viện đa khoa đó để tra bệnh án của những người bị cắt thận, trong số đó chắc chắn có một người phụ nữ sống ở cao ốc Hợp Tác, tìm cô ấy để hỏi là rõ ràng ngay.
Một người phụ nữ phải làm phẫu thuật mà có nhiều Thần linh như vậy đích thân đến chăm sóc, có thể thấy lòng từ bi của Thần Thánh, có thể thấy từ tâm cứu người của Thần Thánh, nhiều Bồ Tát đã nhọc công như vậy để đi cứu giúp một con người mà con người vẫn còn có thể bất kính với Bồ Tát sao? Coi Bồ Tát là mê tín sao? Con người mới là động vật không từ bi nhất đó!
40. Khoa học và linh học
Tác giả học cấp ba tại trường Trung học Công Nghiệp, tốt nghiệp khoa Đúc của trường Trung học Công Nghiệp Cao Hùng, tôi học kĩ sư chế tạo khuôn đúc. Thời cấp ba tôi là tín đồ Cơ Đốc, được mục sư Tô Thiên Minh của giáo hội Trưởng Lão Tân Hưng ở Cao Hùng rửa tội, tôi đảm nhận làm thầy giáo của lớp học ngày chủ nhật. Sau khi tốt nghiệp cấp ba, tôi từng đi làm ở nhà máy Nhiệt Điện Miền Nam, sau đó thi đỗ vào trường Trắc Lượng, học bốn năm đại học hệ đo đạc mặt đất (hiện tại đã hợp nhất thành Học viện Khoa học Công nghiệp Trung Chính). Thứ tôi học cũng là bộ môn khoa học công nghiệp, sự giáo dục mà tôi nhận được cũng là giáo dục khoa học. Tôi chưa bao giờ mê tín, cũng không tin quỷ thần, tôi rất chán ghét hòa thượng hay đạo sĩ.
Thế nhưng kể từ khi gặp được kì ngộ linh dị, tư tưởng của tôi đã thay đổi hoàn toàn, tôi sâu sắc nhận rõ sai lầm của mình là đã coi thường linh học, nguyên nhân nằm ở chỗ khoa học là hữu hình, còn linh học là vô hình cho nên đã thừa nhận khoa học và phủ nhận linh học. Sau khi càng ngày càng biết nhiều về linh, tôi đã rất kinh ngạc, thì ra thế giới hữu hình là tạm thời, còn thế giới vô hình mới là vĩnh hằng đó!
Khi vừa ra mắt cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán”, trong vòng một tháng, độc giả gửi đến hơn 500 bức thư, trong số đó có một học giả hồi hương sống tại đường Trấn Tú Lãng ở quận Vĩnh Hòa thành phố Đài Bắc. Trong thư người đó viết thế này:
“Thắng Ngạn tiên sinh!
Tối hôm qua tôi đọc một mạch hết cuốn sách tâm linh của anh, một lúc lâu trong lòng tôi vẫn chưa thể tự chủ được. Tôi còn cảm thấy hết sức hối tiếc vì mình đã không sớm đọc được cuốn sách thần kì có thể xem là phi phàm này của anh. Những tự thuật của anh cho dù là hư cấu thì cũng đã đủ để thu hút người ta rồi, huống hồ lại là những trải nghiệm thật của chính anh. Từ trong những câu chữ, tôi chỉ cảm thấy anh viết rất thẳng thắn chân thành, thật thà chất phác. Tôi mạo muội viết lá thư này gửi anh, chủ yếu là vì tôi đã bị “linh” mà anh nói đến thu hút. Lúc còn nhỏ tôi lớn lên ở một xóm làng gần huyện Nam Môn Kiều ở Đài Trung, nên tôi cũng có nghe được một chút chút những chuyện linh dị ở vùng quê hoang dã, tôi cũng có đôi chút hoài nghi về về tính chân thực của chúng, nhưng chưa dám quả quyết chúng là hư cấu. Trông thấy các ông bà thắp hương lạy Phật với vẻ mặt rất kiền thành, tôi cảm thấy việc này có lẽ là mê tín chăng? Những năm tháng sau này, vì sự nghiệp học hành mà tôi cũng đã bôn ba khắp nơi, đi theo con đường khoa học công nghệ, ra nước ngoài du học, cuối cùng tôi đạt được cái mà người ta vẫn nói là “vinh quy bái tổ”, lúc này tôi lại càng không tin vào tôn giáo. Thế nhưng bản thân tôi trước sau vẫn luôn bị câu hỏi về “đời người” làm cho băn khoăn, đối với vận mệnh, đối với sinh tử, đối với quỷ thần thì tôi lại càng tò mò. Tôi thường muốn nghiên cứu về kết cục của những điều này, nhưng lần nào cũng vì những điều này không có dấu tích để mà tìm kiếm cho nên tôi chẳng có được gì. Những lời chứng của những người theo đạo Cơ Đốc thường nằm rải rác trong các ấn phẩm của họ, và những người theo đạo Phật cũng vậy. Tuy nhiên, từ góc độ người phi tôn giáo thì dường như thật mà cũng dường như giả, không dám tin bừa. Nhưng cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán” của anh đã khiến tôi chấn động sâu sắc, những ghi chép của anh chẳng lẽ lại là tiểu thuyết dưới ngòi bút của văn nhân sao? Từ trong câu chữ, tôi thật sự nhìn không ra rằng anh đang sáng tác. Tôi chỉ mơ hồ cảm thấy giống như một người bạn cũ đang rủ rỉ nói chuyện, không có một chút gượng ép nào.
Những thanh niên trí thức thế hệ này, cái khổ của họ là khó tìm được tín ngưỡng cho bản thân. Khoa học đã vạch trần rất nhiều trò bịp bợm, đã làm sụp đổ rất nhiều hình tượng. Thế hệ trẻ hướng tới phong cách hippie [lập dị], có xu hướng phóng túng, nhưng điều quan trọng nhất là thiếu mất tín ngưỡng. Nhưng khoa học lại không thể chứng minh sự tồn tại và không tồn tại của thần minh. Trong vũ trụ có rất nhiều hiện tượng quái dị của siêu tự nhiên thật sự tồn tại, các nhà khoa học vẫn bó tay, chỉ biết nhìn mà thở dài không có kế sách gì.
Đọc xong sách của anh, tôi rất muốn tiếp xúc nhiều hơn với anh, một mặt là để thỉnh giáo anh về những thế giới bên ngoài mà tôi chưa từng biết đến, một mặt là tìm cầu tín ngưỡng cho chính mình. Hiện tại tôi đang dạy ở trường đại học, từ trong cuốn sách của anh, tôi biết anh cũng có không ít bạn bè ở đại học, hi vọng tôi cũng có thể giống như họ có thể trò chuyện cùng anh. Mỗi năm tôi đều về thăm nhà cũ của mình ở Đài Trung vài lần, có lẽ sau này tôi sẽ về nhiều hơn một chút. Cuối cùng, hi vọng lá thư này sẽ không làm phiền anh nhiều.”
Lá thư này được kí tên là ông Lâm.
Từ lá thư này có thể thấy được lòng khao khát đối với linh học của một phần tử trí thức. Tôi cũng giống như ông ấy, trước khi biết về những huyền bí của linh học thì tôi cũng hoài nghi sự tồn tại của “nó”, thế nhưng đối với vận mệnh, tôn giáo, thần minh thì tôi vẫn không ngừng thích thú tìm tòi. Các bạn thân yêu của tôi ơi! Muốn chứng minh có hay không sự tồn tại của linh, các bạn không cần tìm tôi, tìm tôi cũng uổng công thôi, vì sự tồn tại của linh nằm ở trong chính bạn. Nếu bạn y theo pháp khởi linh mà tôi thuật lại ở trong sách để mà tập khởi linh thì sẽ không có chuyện không thành công. Chỉ cần thành tâm thành ý cầu khởi linh thì thiên hạ không có việc gì khó, nhất định có thể thành công. Lư Thắng Ngạn tôi chưa bao giờ lừa gạt người ta. Nếu bạn học được khởi linh rồi, bạn sẽ kinh ngạc, thiên hạ sao lại có chuyện như vậy, thử mà xem, sẽ biết ngay thôi.
Khoa học không thể phủ định linh học, khoa học là hữu hình, linh học là vô hình, linh học là khoa học của “khí”, khoa học của “tần số”, khoa học của “sóng âm”, khoa học của “tâm linh”, khoa học của “niệm lực”, khoa học của “ánh sáng”, khoa học của “sinh lí”, cần phải hiểu được. Linh là một dạng khoa học của thế giới vô hình, nghiên cứu được về nó thì tự nhiên sẽ hiểu rõ về ngọn nguồn sinh tử của con người, bằng không thì chỉ có mỗi kiếp này, đời người còn có ích gì? Đời người còn có nghĩa gì?
Khoa học và linh học không hề xung đột, khoa học không hề toàn năng, linh học thì lại vô cùng vô hạn.
41. Thuyết xuất nhập linh giới
Có một đêm, tôi nhập định quán, tâm thần tôi hoàn toàn neo chắc lại ở giữa mũi. [Định quán là một thuật ngữ Phật giáo, định là tâm định, quán là huệ quán, đây là một quá trình tu luyện kết hợp quan sát suy nghĩ của chính mình và định tĩnh, khi suy nghĩ trong tâm sinh ra thì lập tức loại bỏ, duy trì không nghĩ ngợi, mục đích cuối cùng là đạt đến cảnh giới tâm như nước đứng yên.] Từ ngoài cửa có một cụ già bước vào. Cửa đang khóa trái, vì thế cụ già này vào cửa mà không cần gõ cửa, không cần mở chốt cửa khiến tôi cảm thấy khá kinh ngạc, trong cả nước cũng có cao nhân như vậy sao? Cụ già ấy giống như nhân vật trong tiểu thuyết hay nói, sắc mặt hồng hào, để râu hoa râm, đầu trọc, mặc áo dài, trên đầu không có giới sẹo nên cũng không phải là người xuất gia.
Cụ già vừa đi vào, nhìn tôi một cái rồi ngồi luôn xuống trước mặt tôi, cũng học theo bộ dạng của tôi, chân xếp bằng thành tư thế kiết già, tay vòng vào nhau tạo thành thủ ấn Di Đà, miệng mím lại. Tôi nhìn cụ già nhắm hai mắt, hai mắt vừa nhắm lại thì chỗ lỗ đỉnh đầu từ từ lọt ra một đường ánh sáng trắng, ánh sáng trắng này dần dần ngưng đọng lại và sáng lên, chỗ ánh sáng rơi xuống lại có một cụ già tí hon khác, cụ già tí hon này cũng giống hệt như cụ già đến trước kia. Sau đó, cụ già này ra dấu hiệu cho cụ già kia ngồi xuống thành tư thế kiết già, sau đó thân thể của cụ già tí hon càng lúc càng lớn lên bằng với cụ già đầu tiên. Thế là, một cụ già đã biến thành hai cụ già.
Cũng theo cách thức như vậy, hai cụ già đều có ánh sáng trắng lộ ra, trong ánh sáng trắng lại có hai cụ già bước ra, thế là một thành hai, hai thành bốn, trong căn phòng mà tôi ngồi đã đầy các cụ già vây kín xung quanh tôi.
“Liên Sinh, sư phụ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh của anh truyền Đạo pháp cho anh, anh có thể linh hoạt giống như ta đây không?” - Cụ già đầu tiên hỏi. ”Đại sư, công lực mà cụ vừa hiển hiện cháu chưa được biết đến. Thần thông hóa thân bên ngoài thân này cũng không phải là thứ mà nhục thể phàm phu này của cháu có thể tu học được, trí huệ của cháu hãy còn nông, không biết lai lịch của đại sư, cũng không biết đại sư vì cớ gì mà tìm cháu, mong đại sư chỉ thị một hai điều.” - Mặc dù tôi đang nhập định quán, nhưng hai tay tôi cũng chắp lại trước ngực, cung kính lễ phép với cụ già phi phàm ở trước mặt tôi. ”Hóa thân bên ngoài thân này chính là một trong những phương pháp xuất thần rõ ràng và vi tế nhất, ngày nay trên đời đã không có người nào tu được pháp này, hoặc nếu có thì cũng chỉ là xuất thần được mà thôi, không biết có hóa thân bên ngoài thân, như các Thiên Tiên đông đúc cũng không biết thuật pháp rõ ràng và tinh tế này. Ngày xưa Phật Đà có thể từ trong nhục kế của mình tuôn ra trăm ánh sáng trân quý, trong ánh sáng tuôn ra nghìn cánh sen quý, từng cánh sen lần lượt hóa thành Như Lai Thế Tôn ngồi trong hoa sen quý, lần lượt hóa thành Như Lai Thế Tôn nhiều như cát của mười con sông Hằng, và rồi pháp thân của Như Lai đầy ắp mười pháp giới, công lực này chính là bảo tướng của pháp thân vô lậu tối thượng rõ ràng và tinh tế, từ linh nhập trí, từ trí nhập linh, chỉ là như vậy mà thôi. Anh hãy suy ngẫm kĩ càng, từ từ lĩnh hội.” ”Đa tạ đại sư.”
“Thần thông xuất nhập của linh dựa vào lực trí huệ, anh cần biết rằng trên thân thể con người có Công Đức Thần giữ các tướng thiện ác, trên thân người cũng có Thần Giữ Xác vô tri ngu muội, các Thần Giữ Xác này canh giữ con đường ra vào của linh. Nếu dùng linh lực vô hình để đối kháng thì vô ích, thật sự chỉ làm tăng phiền não, do đó phải dùng trí để đối kháng, không thể dùng lực. Thần quang trí huệ đích thực sẽ chọc thủng ma chướng của việc giữ xác này, khi linh khí xuất ra tất có ngày Thiên Thần nghênh đón, nếu đến được bước này thì cũng xem như là thành công rồi! Tự mình đi trên con đường này, không cần phải nương dựa vào Thần khác, thần thông xuất nhập vốn là như vậy, ba mươi ba thiên giới tùy ý anh ngao du, không cần phải mượn dùng tha lực nữa. Về vấn đề này anh có biết không?” ”Tu tập linh lực vô cùng này đệ tử từng tu rồi, nhưng đáng tiếc là đã thất bại.” - Tôi thẹn thùng nói. ”Linh xuất nhập ba mươi ba thiên giới đã là không dễ, xuất nhập thập pháp giới lại càng khó hơn. Nếu anh nhất tâm, tâm không điên đảo, tâm trong sáng và thông hiểu sự tình thì một ngày nào đó ắt sẽ thành công. Huyễn cảnh vũ trụ này đều nằm trong tầm mắt, xuất nhập thiền định tùy ý niệm mà vô cùng thần tốc, sau này nếu thành công, lại tu tập phương pháp hóa thân bên ngoài thân này thì sẽ dễ như trở bàn tay thôi.”
“Đại sư là Thần Thánh phương nào?” - Tôi kính cẩn hỏi thăm. ”Chín vị hợp một thân, thân hóa nghìn nghìn vạn, khắp hư không rộng lớn, từ xưa vốn vô danh, kiến đạo không có đạo, kiến pháp không có pháp, vốn không có nguyên do, cũng sinh cũng diệt định. Anh không cần hỏi lai lịch của ta, trong tên của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh cũng có ta, trong tên của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh cũng không có ta, anh hãy tỉ mỉ mà lĩnh hội. Ta đi đây.”
Cụ già vừa dứt lời, trong phòng trở nên trống trải, chẳng hề thấy hình bóng của ông cụ nào cả. Tôi vẫn ngồi kiết già, hai mắt nhắm chặt, cũng chẳng hề mở mắt ra.
Từ những giáo huấn lần này, tôi đã biết được thân phận của cụ già, cũng khiến tôi càng thêm cảnh giác!
“Linh ở giữa, khắp xung quanh đều có linh tính. Linh ở giữa, trên có thiên đường, dưới có địa ngục. Linh ở giữa, khi lớn có thể lấp đầy vũ trụ, khi nhỏ có thể ẩn thân trong một hạt cát hạt bụi. Linh ở giữa, có được thì là Phật, không có được thì là phàm phu. Linh ở giữa, chúng sinh đều có linh tính.” Xuất nhập linh giới chỉ dựa vào chính mình.
42. Gặp Sơn Thần
Tôi từng đi đo đạc ở ngọn núi kia cùng với Đỗ Thiệu Trí, Vương Diệu Hoa và mấy đồng nghiệp khác. Ngọn núi ấy tương đối cao, từ chân núi leo lên đến đỉnh núi mất một tiếng đồng hồ. Khi quan trắc nếu gặp phải mây mù dày đặc trên núi thì sẽ không nhìn thấy cờ ở ngọn núi đối diện, và như vậy sẽ uổng công leo núi. Chúng tôi leo lên núi này liên tục hai lần nhưng kết quả đều phí công vô ích. Tại điểm tam giác trên đỉnh núi nhìn xuống, chao ôi! Cả một thế giới màu trắng rộng lớn, ngay cả ngọn núi phía bên kia cũng không biết ở chỗ nào. Mấy sĩ quan nhiều tuổi vác thiết bị đo đạc lên núi rồi lại xuống núi vì bực bội mà trong bụng tức anh ách, mở miệng ra là muốn chửi rồi. Kể cũng lạ, dưới núi rõ ràng là nắng chói chang, nhưng trên núi thì không khí ẩm ướt dày đặc đến mức không thể nhìn thấy gì cả.
Lần thứ ba lên núi, cũng leo lên được nửa ngọn núi thì trời đổ mưa tầm tã, gió thổi mưa bay, mây trên bầu trời càng ngày càng dày đặc, không biết bao nhiêu mây đen từ nơi nào kéo đến tụ tập hết trên đỉnh núi này rồi mưa trút xuống ào ào xối xả, lại còn có cả sấm chớp nữa. Lưng chừng núi có một ngôi nhà, chúng tôi trú nhờ trong ngôi nhà tranh đó, trong lòng nghĩ, lại công toi rồi. Năm, sáu người đi vào trong ngôi nhà tránh mưa, trong nhà có một bà cụ rất già đi ra, bà cụ chiêu đãi chúng tôi rất lịch sự, hơn nữa còn mời chúng tôi buổi trưa ở lại nhà bà ăn cơm. Chúng tôi cảm ơn ý tốt của bà cụ, nhưng vì chúng tôi đều mang theo cơm hộp cho bữa trưa rồi cho nên sao có thể không khách sáo mà nhận lời khi chỉ tình cờ gặp gỡ như vậy chứ!
Bên ngoài trời vẫn mưa xối xả, gió lạnh ra sức thổi vào trong nhà. Ngôi nhà tranh này có một phòng khách, hai phòng ngủ và một nhà bếp, phía sau nhà bếp còn nuôi mấy con gà. Tôi đứng trong phòng khách mà còn cảm nhận được cái lạnh lẽo âm u, trong lòng tôi cảm thấy kì quái. Bình thường gió núi thổi đến không hề cảm thấy lạnh, hôm nay sao lại có chuyện thế này. Lần thứ hai bà cụ từ phòng ngủ đi ra phòng khách, tôi bỗng nhìn thấy sau lưng bà cụ hình như có một người phụ nữ, người phụ nữ này có vẻ giống như là con gái của bà cụ, tuổi khoảng ngoài ba mươi, tay vẫn còn nắm lấy tay bà cụ.
Tôi quay đầu lại nói với mấy người bạn đồng nghiệp của mình: “Này, trong ngôi nhà này có âm khí, con gái của bà cụ mới chết không lâu.” ”Lư Thắng Ngạn, cậu đừng có dọa người ta được không, làm gì có âm khí gì, đây là trời mưa, đương nhiên là trong phòng sẽ lạnh thôi!” - Sĩ quan trưởng Trương Chí Minh nói. ”Để tôi đến hỏi bà cụ, chẳng phải là sẽ rõ ràng sao?” - Một bạn đồng nghiệp tên là Trương Khắc Hỉ nói. Trương Khắc Hỉ hỏi: ”Bà ơi, bà có mấy cô con gái thế?” ”Tôi có cả thảy ba đứa con gái, một đứa đã đi lấy chồng ở Đài Bắc, một đứa làm quản đốc ở một xưởng thủy tinh ở Tân Trúc, còn một đứa sống trong núi này, nhưng đứa con gái này xấu số, năm ngoái đã mắc bệnh và qua đời rồi. Hôm nay đúng là ngày giỗ nó, lát nữa tôi sẽ cúng giỗ, vì thế mới muốn mời các anh ở lại dùng cơm với tôi, các anh ở lại có được không?”
Trương Khắc Hỉ kia nghe xong thì toàn thân nổi da gà, khiến cho mấy người nghe được thì đều đứng ngồi không yên. Thật may trời mưa một lúc đã tạnh rồi, chúng tôi tiếp tục xuống núi. Con đường xuống núi ướt rườn rượt, rất khó đi, tôi nhặt một cành tre để làm gậy chống. Lúc sắp ra khỏi núi thì tôi nhìn thấy một cảnh tượng kì quái, dường như đường núi đã hết rồi, phía trước không có đường đi, phía cuối con đường có một miếu Sơn Thần nhỏ, có một người trẻ tuổi đang ngồi trên tảng đá phía trước miếu, người đó cười nói: “Một chút việc thiện, thuận tiện cho người, một chút việc ác, khuyên người đừng làm, ăn mặc tùy duyên, tự nhiên vui vẻ, nay Sơn Thần tôi, đặc biệt giúp anh, mau mau quay đầu, đo đạc rõ ràng.”
Sơn Thần kia hát xong thì biến mất. Tôi chạy lên phía trước nói với mọi người: “Bây giờ mưa tạnh rồi, nhưng công việc hôm nay vẫn chưa hoàn thành, chúng ta lại lên núi đi! Đo đạc cho xong địa điểm này, sau này không phải leo lên ngọn núi này nữa.”
Lúc này mọi người xì xào bàn tán, có người nói: ”Trên núi vừa mưa xong, leo lên đó lại không nhìn thấy gì thì uổng công leo.” Có người nói: ”Leo lên lại leo xuống, bây giờ lại leo lên, vậy thì lúc đầu đừng đi xuống nữa, bây giờ lại phải đi lên, chẳng phải là cố tình lừa người ta sao?”
Tranh luận một lúc, kết quả là Vương Diệu Hoa đề nghị lại leo lên một chuyến nữa. Anh ấy là người dẫn đầu, không ai có thể phản đối. Có người nói: ”Leo lên mà vẫn không đo được thì tìm Lư Thắng Ngạn tính sổ.” Thế là một hàng người lại leo núi, lại đi qua sông, leo đến lưng chừng núi lại nhìn thấy ngôi nhà tranh, lên cao nữa lại là một hàng cây tương tư, đi đến lúc chẳng còn đường nữa, lên cao nữa thì mới là điểm tam giác trên đỉnh núi. Nói ra cũng kì lạ, vừa mới bày dụng cụ lên giá, mặt trời đã ló ra vài tia nắng, mây mù đã tản ra, đỉnh núi đối diện mặc dù vẫn còn là một vùng trắng mênh mông, nhưng đã nhìn thấy được hình dáng ngọn núi, nhìn qua ống kính đo đạc, chúng tôi đã nhìn thấy lá cờ nhỏ màu đỏ đang bay phấp phới trong gió. Trắc lượng viên ngay lập tức tóm được tia nắng khó có được này để mà đo đạc một vòng, đúng là một lần đo đạc hiếm có, muốn đo một lần nữa để kiểm tra lại, nhưng bầu trời lại bắt đầu lất phất mưa nhỏ. Chúng tôi lại vội vàng thu dọn dụng cụ, khẩn trương xuống núi. Khi xuống đến chân núi thì lại là một trận mưa dữ dội trút xuống. Chúng tôi thở hắt ra một hơi, lần đo đạc này thế là quá đủ rồi.
Tôi nhìn thấy Sơn Thần, việc Sơn Thần bảo chúng tôi mau trở vào núi để đo đạc, tôi vẫn không kể với ai. Nói thật, ngay cả việc Sơn Thần trông như thế nào tôi cũng không nhìn được chính xác. Tôi gặp Thổ Địa Công là chuyện bình thường, nhưng gặp Sơn Thần thì chưa bao giờ, chỉ có duy nhất một lần này. Tôi hi vọng có người sẽ nói cho tôi biết Sơn Thần rốt cục có bộ dạng như thế nào.
Hai sự việc này đều xảy ra trong cùng một ngày.
43. Chúa Jesus là người linh thông
Chúa Jesus là do Thánh Mẫu Maria sinh ra, và Maria chính là trinh nữ hoài thai. Khoa học có thể chứng minh trinh nữ có thể mang thai không? Khoa học không thể, vì thế, đứng trên lập trường của khoa học thì sự ra đời của Jesus chính là một dấu hỏi lớn. Nhưng nếu nhìn từ góc độ linh học thì điều này có thể, bản thân Thượng Đế chính là một khối linh khí siêu tự nhiên vô hình, linh khí ấy đã mượn nhau thai của Maria để mà lớn lên, vì thế mà đã sinh ra Jesus Christ giáo chủ của phương Tây. Đây là giải thích về sự ra đời phi phàm của đấng cứu thế, đấng cứu thế từ khi sinh ra đã có điềm lành, chủ yếu vì một nửa là do linh khí sinh ra.
Chúa Jesus có rất nhiều sự tích thần kì, lần đầu tiên là biến nước thành rượu, có hai con cá và một chiếc bánh mà bao nhiêu người ăn mãi không hết, rồi có thể đi trên mặt biển. Nhưng phép lạ lớn nhất là gọi Lazarus sống lại, sau cùng thì chính mình cũng hồi sinh và thăng thiên, trở về nơi nguồn cội của mình ở trên trời. “Ta đến từ nơi nào thì sẽ trở về nơi ấy.” Về phương diện này, tôi có một nhận thức là, Đạo gia cũng nói như vậy: “Phản bản hoàn nguyên.” Phật giáo cũng nói như vậy: “Chúng sinh đều có Phật tính.”
Nói về phương diện thần kì của Jesus thì các nhà khoa học sẽ cho rằng căn bản là không thể, nước làm sao có thể trong một chốc mà biến thành rượu được! Hai con cá và một chút bánh làm sao có thể khiến cho nhiều người ăn no được chứ! Nhưng những việc này trên phương diện linh học thì có thể giải thích được, hơn nữa còn giải thích được rất rõ ràng nữa. Jesus đi trên mặt biển, vì sao Jesus có thể đi trên mặt biển, vì Jesus là một người linh thông, ngài có số mệnh không phải là phàm phu, mà là linh, linh khí của ngài khiến nhục thể của ngài dừng lại trong không khí mà không bị chìm xuống. Việc đi trên mặt biển này đối với các nhà khoa học mà nói thì đúng là không thể tưởng tượng được.
Trong kinh Thánh ghi lại rằng Jesus gặp ma quỷ ở trên núi thử thách. Tình huống này giống với tình huống Phật Đà thành đạo ở dưới gốc cây bồ đề, hoặc nhiều hoặc ít cũng tương tự nhau. Bình thường Jesus có thể nghe thấy tiếng gọi của Thượng Đế, cũng có thể nghe được cả những lời cám dỗ của ma quỷ, nhìn thấy ma quỷ hiển hiện tài bảo trên toàn thế giới để đem tặng cho ngài, thậm chí ma quỷ còn đưa Jesus phi thân đến bên trên một bảo tháp và nói với Jesus rằng: “Nếu ngài là con trai của Thượng Đế, ngài nhảy xuống chắc chắn sẽ không bị thương, bởi vì Thượng Đế sẽ đỡ lấy hai chân ngài.” Jesus tiếp nhận thử thách của ma quỷ, đã thắng lợi vẻ vang. Tôi cho rằng đây là kỉ niệm thắng lợi chiến thắng tà linh.
Năm xưa Phật Đà cũng gặp tình huống như vậy xuất hiện. Phật Đà quay lưng về phía cây bồ đề, mặt quay về hướng đông, đã phát lời thề nguyện lớn: “Cho dù da thịt xương tủy của tôi đều khô kiệt thì tôi cũng vui lòng. Cho dù máu thịt trong người tôi khô cạn, trừ phi tôi đạt được chính đẳng chính giác chí cao vô thượng, tôi quyết không rời khỏi chỗ ngồi này.” Lúc này, Ma Vương ở trên trời sửng sốt gào lên: “Thái tử Tất Đạt Đa [Siddhartha] muốn thoát khỏi sự kiểm soát của ta, ta tuyệt đối sẽ không cho phép!” Ma Vương thổi bùng lên một cơn gió lớn muốn thổi bay Phật Đà, rồi lại tạo ra một trận mưa lớn, rồi từ không trung giáng xuống nham thạch, giáng xuống tro than nóng bỏng, khiến cả mặt đất tối tăm mù mịt, rồi dùng cả cách thức mê hoặc, nhưng kết quả đều bất thành.
Thế rồi trên mặt Thế Tôn xuất hiện ánh sáng hào quang trang nghiêm, Thần Thánh, rồng, tiên, chim trên trời và các thiên chúng đều dùng hoa thơm, hương liệu gửi đến ngài thay cho lời chào, thiên nhạc vang vọng khắp hư không, một vạn thế giới đều tràn đầy tiếng ca tán thán.
Chúa Jesus và Phật Đà, cả hai đều chiến thắng ma quỷ, kết quả và sự khởi đầu là giống hệt nhau, thắng lợi này là thắng lợi của trí huệ, nhưng cũng là thắng lợi của Thánh linh. Trong tim của Jesus có Thánh linh nhân từ và yêu thương, trong tim của Phật Đà cũng có Thánh linh nhân từ và yêu thương, đây đều là thắng lợi của Thánh linh, không có một chút nghi ngờ nào cả.
Thần thông Jesus Christ gọi Lazarus sống dậy đối với tôi mà nói là một dạng quyền uy vô thượng, người đã chết mấy ngày rồi, Jesus dùng một phần phân thân hoạt linh của mình để tác động đến “tử linh” của Lazarus, kết quả là Lazarus đã sống lại, có thể cử động, điều này còn khó hơn cả việc chính mình sống lại. Những nhà nghiên cứu về linh hồn nên đặc biệt coi trọng điểm này. Hoàn toàn hợp lí khi nói rằng Jesus sống tại nhân gian này là có sứ mệnh, ngài chuẩn bị làm công việc cứu người và cả công việc cứu linh. Cuối cùng, trong khu vườn Gethsemane, ngài đã cầu nguyện Thần linh trên trời (và Đức Chúa Cha của mình) rằng: “Nhiệm vụ sắp hoàn thành. Tất cả đều theo ý của Chúa.”
Việc Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá cho thấy sự ngu dốt và độc ác của con người, và cũng cho thấy rằng trái tim của nhân loại thực sự nên được làm trong sạch. Tôi không ngạc nhiên về việc Chúa Jesus có thể phục sinh, bởi vì ngài là một người linh thông, một người đã chấm dứt sinh tử, và một người đã đắc Đạo. Ngài vốn đến từ thiên đường, và ngài cũng muốn trở lại linh giới vô hình. Vì thế Phật gia cho rằng việc chấm dứt sinh tử của Jesus Christ, sự ngộ đạo của Jesus Christ có thể gọi là kẻ ngoại đạo thắng lợi, cũng là một trong số các vị Bích Chi Phật.
Jesus có thể đối thoại với cõi trời bất kì lúc nào, có thể dự báo trước việc chưa xảy ra, hiểu đạo vận linh, những sự tích thần kì biểu hiện ra cũng rất huyền diệu chẳng thể đoán biết, khiến các nhà khoa học không thể hiểu được, và chẳng có cách nào chứng minh. Những việc này đều là minh chứng của linh lực, Jesus Christ không phải là người linh thông thì còn là cái gì chứ! Sau khi Jesus chứng được thần túc thông cũng có thể tự do tự tại thăng thiên, tôi tin rằng linh của ngài cũng chiếu khắp đại địa, ngài không phải là vĩnh viễn không đến, mà là đã đến từ lâu rồi. Tín đồ Cơ Đốc không biết việc linh thông, đương nhiên không nhìn thấy và cũng không nghe được.
Tôi từng gặp Jesus một lần, ở Phong Nguyên [một quận ở Đài Trung], thật đó.
44. Ấn chứng khởi linh
Độc giả đã đọc cuốn sách này đến tận đây, có lẽ sẽ muốn hỏi tôi một câu, anh cứ chỉ nói người ta khởi linh, rốt cục có người nào thật sự từng thành công không, có nhân chứng không. Tôi nói nhân chứng nhiều như cát sông Hằng, nay tôi đặc biệt lấy vài lá thư để làm chứng.
Thứ nhất: Lư linh sư! Mua được cuốn sách tâm linh này của thầy, thỉnh thoảng tôi lại nghiên cứu tìm tòi vài chương, tôi cảm thấy khá hiếm và lạ, đặc biệt là phần khởi linh trong sách khiến tôi có ấn tượng sâu sắc. Tôi vốn phủ nhận thuyết có linh hồn, nhưng lần này thì không tin không được. Mấy ngày trước kẻ hèn này đã làm theo phương pháp trong sách, thật là lợi hại không ngờ, sau mười lăm phút, tôi không có cách nào tự kiểm soát được tay mình múa may, chân bước đi. Khi ấy tôi đã giật mình sửng sốt, thiên hạ sao lại có chuyện này, nhưng đến lần thứ hai cầu khởi linh thì tôi cũng lập tức có cảm ứng. Hiện tại tôi đã biết khởi linh rồi, nhưng tôi là người học sau nên muốn thỉnh giáo mấy việc.
Thứ nhất, sau khi khởi linh thì luyện linh, vận linh nên làm thế nào, một ngày làm mấy lần là tốt? (Đáp: Hãy luyện linh và vận linh theo cuốn sách “Giữa linh và tôi” này của tác giả, xin hãy lợi dụng sức mạnh siêu nhiên của niệm lực, nên luyện linh mỗi ngày một lần.)
Thứ hai, ngũ tạng trên người tôi có bệnh đặc biệt, liệu có thể luyện linh không, có ảnh hưởng gì không? (Đáp: Người có thể khởi linh thì có thể tự chữa được các loại bệnh trên người mình rất hiệu quả, cái này cũng chính là hiệu quả của Dịch Cân Kinh của Tổ sư Đạt Ma, khiến cho người có bệnh thì trị bệnh, người không bệnh thì khỏe thân, vượt trội so với kĩ thuật vung tay vận động đơn giản hiện nay trăm lần, vung tay là do người làm, còn linh động là do linh làm, sức mạnh ấy lớn không thể coi thường.)
Hai sự việc trên xin thỉnh linh sư chỉ bảo, hi vọng cuốn kì thư hiếm có trên đời này có thể được liệt vào một trong số những cuốn sách thay đổi thế giới của năm 1976, được như vậy thì càng khiến người ta phấn khởi.”
Lá thư này được gửi từ Quy Nhân, Đài Nam. Kí tên là Thái Minh Thanh.
Thứ hai: Lư tiên sinh! Ngày 29 tháng 3 tết Thanh Minh, khoảng hơn 1 giờ chiều, chúng tôi đặc biệt đến Đài Trung để thăm hỏi anh, chắc là anh vẫn nhớ nhỉ!
Sau khi trở về, tôi khích lệ một cô gái trong công ty của tôi tên là Lâm Mai Nam đi thỉnh giáo anh (cô Lâm đã biết khởi linh). Mỗi ngày cô ấy đều hạ công phu, hiện tại sắc mặt đã hiện lên khí sắc sáng sủa (trước kia sắc mặt rất tối), thân thể cũng tương đối khỏe mạnh, tại đây xin cảm ơn anh. Hơn nữa sau lần gặp ấy, chúng tôi cũng hạ công phu, anh Thanh Uyên thiền định, vừa ngồi xuống là lập tức có cảm ứng, còn tôi thì có quá nhiều tạp niệm, tâm không tập trung, vì thế không có cảm ứng gì, nhưng mỗi buổi tối tôi đều học hạ công phu, thậm chí nửa đêm ngồi dậy luyện tập. Rất kì diệu, tối hôm qua tôi ở chỗ anh Thanh Uyên hạ công phu, lúc anh Thanh Uyên khởi linh thì hai mắt mở to, tôi cứ ngồi đó bất động, chắp tay trước bàn thờ Thần Phật. Đột nhiên, sắc mặt anh Thanh Uyên thay đổi, đứng bật dậy, uy nghiêm nói: “Ta chính là linh quang của Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, phụng chỉ Diêu Trì Kim Mẫu, linh quang hạ phàm trần giúp anh Trần Thụy Ngạn khởi linh, vì anh học khởi linh đã lâu rồi mà chưa thể thông khiếu, huyền quan chưa mở, ta thấy anh nhất tâm thành ý, đặc biệt giúp đỡ anh một tay.” Thế rồi kết ấn và đánh một bài 36 Thiên Cang 72 Địa Sát.
Nghe nói nhân quả kiếp trước của tôi không tệ, nhưng cũng phạm vào tội cực ác cho nên nghiệp chướng rất nặng, khai mở linh khiếu không dễ. Đêm ấy tôi trở về nhà thì đã là 1 giờ sáng rồi, không ngủ được, tôi lại xuống phòng khách ở tầng dưới, ngồi xuống và dụng công. Nói cũng kì lạ, hai tay tôi chắp lại không ngờ có thể tự động chuyển động. Tiếp đó, một sức mạnh kì lạ thúc đẩy tôi đứng lên, tôi làm rất nhiều tư thế, từ lúc 1 giờ sáng cho đến 3 giờ sáng, toàn thân toát mồ hôi như tắm, nhưng tinh thần thì vô cùng sung mãn. Buổi trưa hôm sau, chúng tôi đến cung Thành Hoàng ở thành phố để bái tạ Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn cùng hai vị Nam Đẩu Bắc Đẩu Tinh Quân ở hai bên, rồi tôi cũng quỳ lạy Thiên Thượng Thánh Mẫu ở điện phía trước (nghi thức quỳ lạy đều do linh lực tự động thúc đẩy), thật là kì diệu. Tôi có mấy nghi vấn xin tiên sinh hồi đáp, cảm kích muôn phần.
Thứ nhất, trước mắt, linh của chúng tôi đã được khai mở rồi, nếu luyện tập thì một ngày mấy lần? (Câu trả lời như ở trên.)
Thứ hai, phương pháp luyện linh ra sao? (Câu trả lời như ở trên.)
Thứ ba, Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn chỉ thị rằng nhân quả kiếp trước của tôi rất tốt, nhưng vì sao lại phạm vào việc đại ác chứ? (Đáp: Ngay cả đến thiên chúng của 33 cõi trời, Thiên Thần hoặc Thần hoặc rồng, nhân quả tiền kiếp đều chẳng kém, nhưng nếu phạm tội thì cũng đọa thẳng vào trong đạo địa ngục ngạ quỷ, cao quý như Thiên Thần cũng xuống địa ngục, bởi vì tất cả nghiệp báo không có sai biệt. Anh có thể sinh ra làm người cũng xem như là không tệ rồi.)
Thứ tư, tôi có thể thường xuyên đến Thiên Hoàng Cung tham bái không? (Đáp: Có thể.)
Thứ năm, sau khi linh khởi động rồi, liệu có thể có tà ma xâm nhập không? (Đáp: Tâm chính không sợ ma, tâm tà sẽ chiêu cảm ma tới, nếu tâm chính, chính niệm chính tri chính giác thì lấy đâu ra ma chướng? Nếu tâm bất chính thì đừng học khởi linh cho xong, bởi vì sẽ là tự mình gọi ma đến đó.)
Lá thư này gửi từ quận Tiền Kim, Cao Hùng. Người gửi là Trần Thụy Ngạn, Trương Thanh Uyên.
Chỉ lấy đơn cử hai lá thứ này là có thể biết đại khái tình hình của họ. Người khởi linh ở khắp các địa phương thành phố trong cả nước đều có, không phải là nói suông, linh lực của họ có lớn có nhỏ, nhưng tuyệt đối đừng chạm đến những thứ quái hoặc dị, phải biết rằng quái hoặc dị đều có ma tướng xuất hiện, xin đặc biệt thận trọng kĩ càng, không được xem là trò đùa.
45. Người có trí tuệ sẽ tin tôi
Phần đông những bậc trí giả thì tuyệt không tùy tiện phủ nhận sự tồn tại của linh, vì họ biết nhưng không nói, hoặc không biết thì là không biết, không dám tham gia bình luận bừa. Chỉ có một số người căn bản là chẳng có nghiên cứu gì, không biết mà tự cho là biết, hoặc nhắm mắt phụ họa theo người khác nói là mê tín, hạng người này đâu đâu cũng có, vẫn là vì họ không nghe không thấy, tuy thật đáng buồn, nhưng cũng không thể trách họ, họ chỉ là tùy tục mà thôi.
Ở miền Trung có ông Tôn Nhã Ngu là biên tập viên của một tờ báo nọ đã đặc biệt gửi thư cho tác giả, bức thư này có trí huệ lớn, tôi đặc biệt công bố ở đây.
Thắng Ngạn tiên sinh! Chúc anh và gia đình luôn bình an.
Mấy ngày nay tôi có vinh dự đọc được cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán” của anh, nhìn ảnh chụp ở bìa sau, tôi có cảm giác gương mặt anh rất quen, nhưng không nhớ ra đã từng gặp anh ở đâu rồi. Thật vui mừng khi có một ngày cùng anh tâm sự. Đối với nghiên cứu thảo luận về linh, tôi không những tin tưởng mà còn có cùng sở thích giống anh, nhưng tôi muốn phát triển một lĩnh vực mới trên phương diện triết học. Đến nay tôi vẫn chỉ với tay được đến triết lí, còn thì vẫn chưa hạ công phu trên phương diện này được. Hiện tại anh đã có linh cảm rồi, lại còn biểu hiện cả ví dụ thực tế, có thể thấy là anh đã hạ không ít công phu rồi, có thể nói trong nửa cuối thế kỉ 20 này, anh là người đầu tiên của Trung Quốc Tự Do [tên gọi của Đài Loan thời kì Chiến Tranh Lạnh] hạ tâm huyết nghiên cứu về phương diện này. Tôi muốn nói rất nhiều về vấn đề này, nhưng hiện tại tôi khá bận rộn, nên đại khái tôi đưa ra vài điều:
- Tri thức này gần như là kinh điển của thời lập quốc, bởi vì nó bắt nguồn từ trung tâm cuộc sống nguyên thủy của con người sơ khai, không chịu sự tác động của con người nên có cơ sở vững chắc. Có thể nghiên cứu tri thức này thành một môn học thuật có hệ thống.
- Mặc Tử, nhà tôn giáo đầu tiên của nước ta muốn phát huy nghĩa lí của tôn giáo, nhưng đã bị hạn chế bởi lễ giáo nên chỉ dừng lại ở phạm vi đạo đức. Lại vì Mặc gia thiên về khoa học thực chứng, cũng chưa có những nghiên cứu thảo luận cụ thể về mặt triết học, vì thế nước ta vẫn chưa sáng lập được một tôn giáo hoàn chỉnh.
- Hoài Nam Tử là cuốn sách đầu tiên của nước ta đi vào lí thuyết huyền bí của tôn giáo, nhưng nó cũng thiếu một quy mô tôn giáo hoàn chỉnh, và chỉ mở ra cánh cửa cho hóa học và đan đỉnh. Lí thuyết cũng có khá đủ nhưng chưa sẵn sàng, nên cũng rất đáng tiếc.
- Bão Phác Tử thì đi hướng về con đường của đan đỉnh và tu Tiên luyện tính, nhưng chưa khai phá một lối đi mới, mà chỉ nhặt nhạnh một số lí thuyết về thiền của Phật gia. Cho nên Cát Hồng Khấu Khiêm đã mượn các quy định nghi thức trong phái của ông và cuối cùng chỉ kết hợp với phù lục vốn có ban đầu. Vì thế Đạo gia có rất nhiều phái. Những nghĩa lí mang tính bước ngoặt tiên nghiệm đều chưa được phát huy, thay vào đó, chúng chỉ hạn chế trong công phu độ người của các công đức siêu độ thông thường mà bỏ qua sự mở đường của việc tự độ mình và xây dựng hệ thống triết học, điều này thật đáng tiếc.
- Từ trong cuốn sách, tôi thấy được trí huệ sâu dày của anh, tiềm năng linh tính của anh vẫn chưa được khai thác và phát huy hết, nhưng cái gốc rễ vốn có của anh đã rất sâu xa rồi, bây giờ giống như là anh mỗi ngày bỏ ra một, hai tiếng đồng hồ để nghiên cứu linh trí và tĩnh tu tâm linh, để lưu lại cho đất nước chúng ta triết học về linh thông cho muôn đời sau, khiến con người và linh hợp nhất, trời và người hợp nhất, tri thức và thực hành hợp nhất,… Anh đang vì những chúng sinh có tinh thần rỗng tuếch phổ biến trên thế giới ngày, những kẻ không có chân lí rõ ràng và đang tự hủy hoại thể xác trong khi dục vọng ngày càng điên rồ mà xây nên một cây cầu, xây nên một bờ đê, chứ không phải chỉ là giải quyết một cách vụn vặt những nghi vấn mà bao nhiêu người gặp phải nhưng không tháo gỡ được mà thôi - vấn đề của thế hệ trước như thế, thế hệ này cũng như thế, thế hệ sau cũng như thế.
- Tôi và anh là tri kỉ, nhưng một khi đã “nói” là bạn thì sẽ phơi bày lòng mình ra, tôi cho rằng năng lực giác ngộ của anh cao hơn người bình thường, chắc sẽ không hiểu sai lời của tôi mà vui lòng nhận cho. Ý tôi đã hết, sau này nếu tiện thì có thể gặp mặt. Xin hãy tiếp tục viết sách.
Ông Tôn Nhã Ngu là phó biên tập của một tờ báo. Cho đến thời điểm tôi viết bản thảo này, chúng tôi vẫn chưa từng gặp mặt. Vì tôi thường gửi bản thảo đến tờ báo đó, đăng tải một vài bài viết nhỏ, cho nên tôi biết là có ông ấy và ông ấy biết là có tôi. Từ lá thư của ông ấy có thể thấy đương nhiên ông ấy không phải là hạng này nọ, không chỉ như vậy, ông ấy còn là một người có trí tuệ lớn và tài cao. Quan điểm độc đáo của ông ấy vượt quá tầm hiểu biết của tôi, sau khi được ông ấy nhiều lần chỉ ra, có thể nói là ông ấy là một người bạn kiêm người thầy tốt của tôi. Cuộc đời quý ở những bạn bè hiểu biết sâu rộng, hiểu biết sâu rộng thì sẽ có ích với tôi, ông ấy là một trong ba kiểu bạn tốt.
Từ đây có thể thấy, tông phái linh học chính là triết học văn hóa mà nước ta vốn có, cũng xem như là một dạng ấn chứng chí lí của trời người hợp nhất. Vì sao Đạo gia Trung Quốc không thể hoằng dương đi khắp thế gới, không phải là vì Đạo không giỏi mà chính là vì nhân tố con người, một chữ “Đạo” chính là “chân lí”, và một chữ “Phật” là “người tỉnh”, là “người tỉnh ngộ ra chân lí”, hay là “chân lí đến làm người tỉnh giác ngộ”. Thiên hạ này không thể xem thường chí đạo, việc phát dương tông phái linh học đều dựa vào chúng ta xây dựng, thuật trời người hợp nhất vốn có từ xưa sao có thể tùy ý vứt bỏ không thèm đoái hoài chứ! Chỉ mong người có tâm có thể góp sức với tác giả một tay, vì sự nghiệp hoằng dương đạo chính thống của Trung Hoa mà nỗ lực. (Đương nhiên, có người giúp tôi thì càng tốt, không có người giúp tôi, tôi vẫn sẽ tận lực mà làm, với tất cả hơi thở của tôi cho đến ngày tôi chết.)
Người trí sẽ không mất hi vọng ở tôi, người trí sẽ tin tôi, cho dù nhân gian không thèm nhìn tôi, tôi vẫn có Thần linh ở hư không và những linh hồn thiện làm bạn cùng tôi.
46. Dùng thánh lí độ hóa là việc kì công
Trước mắt, đối với tôn giáo, tôi không có sự bám chấp vào tông nào phái nào, tôi khá yêu thích những bài viết với lời thiện khuyên đời của các tông phái. Có một số loan đường dùng Thánh lí để độ chúng sinh, cũng hợp với thiên cơ diệu số, vì đất nước chúng ta nằm ở khu vực Trung Nguyên, đều là mảnh đất của ngũ giáo hội hợp, cái vĩ đại của Trung Quốc chính là ở đây, không bài xích bất kì tôn giáo nào, đồng hóa bất kì tôn giáo nào, đây đều là do văn hóa của chúng ta sâu xa rộng lớn, không giống các quốc gia khác tâm địa hẹp hòi, dung nạp bản thân mà không dung nạp người khác.
Có một vị phục vụ còn trẻ tuổi ở loan đường gửi đến một lá thư nói về huyền cơ của Tam giáo [Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo], khá thấu triệt, cậu ấy hi vọng tôi sẽ không đăng bài viết của cậu ấy, nhưng không đăng bài viết này thật sự là trái với ý Thần, vì thế tôi sẽ giấu đi họ tên của cậu ấy, giấu tên loan đường, để chúng sinh chúng ta biết loan đường làm những công việc thế nào, lí tưởng mà chúng ta tôn sùng rất đáng kính phục đó!
Tôi thật sự không mong nghe thấy các tín đồ Cơ Đốc giáo nhìn thấy con người bái Phật bái Thần thì chế giễu cho là bái tượng gỗ và tin tà Thần. Tôi lại càng không mong nhìn thấy tín đồ Phật giáo nói lời coi thường Thần minh, nói hòa thượng vĩ đại hơn Thần, và đều gọi các giáo phái khác là ngoại đạo. Tôi càng không mong tín đồ Đạo giáo chỉ muốn đến xem kê đồng lên đồng, nghe và tin theo những lí lẽ lệch lạc nói xằng nói bậy, rồi phê bình Cơ Đốc Thiên Chúa. Tôi cũng không mong nghe thấy tín đồ Thiên Chúa giáo phê bình tín đồ Cơ Đốc giáo là những kẻ phản giáo đồ của Thượng Đế. Tôi lấy cái thiện để tôn kính, lấy Phật Đà làm nơi nương dựa quy về, chỉ cần là thiện thì đều có con đường có thể đắc đạo.
Thư của vị đại đức ở loan đường kia như thế này:
Thắng Ngạn đạo trưởng xin có lòng soi xét.
Cơ duyên tình cờ vinh hạnh đọc được cuốn sách tâm linh kì diệu của anh, tôi cảm thấy hết sức tuyệt vời, đúng là một cuốn kì thư hiếm có trên đời! Kẻ vụng về này cũng không hẳn là tò mò, chỉ là thích kết thiện duyên rộng rãi mà thôi! Từ trong cuốn sách, tôi kính cẩn thấy rằng anh là một người không hề bình phàm, hơn nữa còn là một dị nhân tràn đầy linh khí. Càng đáng quý hơn là anh đã dùng diệu pháp linh thông để thay trời tuyên hóa, dẫn mê nhập ngộ, tùy duyên cứu đời độ chúng! Không nhận tiền bạc, dù tuổi đời của anh mới chỉ 30, nhưng lại là con người đường hoàng vĩ đại, diệu bút sinh hoa, văn chương sáng ngời, thật đúng là kiếp trước có tu, kẻ vụng về này biết sứ mệnh mà tiên sinh hạ giáng thế gian này không phải là chuyện vừa!
Kẻ vụng về này cũng còn trẻ, tuổi tác kém anh vài năm, mang tâm Phật mà ôm chí hướng độ hóa cứu đời, trước kia đã có lời thề nguyện, nay phục vụ tại loan đường, tôn chỉ của kẻ hèn này vẫn là dùng lí để độ chúng, dùng chính tín để dẫn dắt người mê, vì mọi người đồng bào mà phục vụ, nhưng chẳng hề trông chờ mục đích nào khác. Thế gian ngày nay, nếp xưa không còn nữa, trời người lo âu bận bịu bôn ba độ hóa, kẻ vụng về này nghĩ chúng ta đều cùng một thế hệ thanh niên, hơn nữa còn biết nỗ lực thực hành tu đạo, trong lòng ôm chí lớn, coi trọng trách của thiên hạ là nhiệm vụ của mình, tóm lại đều là người có duyên được trao trong trách đặc biệt, thiên mệnh là phấn đấu vì nhân dân. Một thế hệ già đã dần dần đi xa rồi, một thế hệ trẻ nếu thiếu đi người cầm gậy tiếp nối thì làm sao tiếp tục kế thừa và làm cho phong tục và truyền thống của Đạo muôn đời xanh tươi được chứ?
Cảm phiền nói về đạo hạnh thì anh ở trên tôi, căn cơ tôn quý, tôi chỉ là một người phấn đấu khổ hạnh không ai biết đến mà thôi! Muốn kết duyên với anh, tôi thật sự cảm thấy mình mạo muội, song sự tương thông tâm linh này vốn là đồng thời hóa hiện, vì độ hóa mà tôi ngu ngốc đánh bạo dám xin kết một đạo duyên với anh. Lệnh sư chính là một linh tự tại, vô câu vô thúc, một đạo khí không trở ngại, cũng không có hình tướng gì. Tiếng tăm của anh từ lâu đã gây chấn động, chỉ mong thỉnh giáo mục đích của anh đây là gì? Hiếu kì ư? Cầu pháp ư? Hóa giải ư? Thử nghiệm tâm linh ư?… Từng có mấy người vì chân lí, vì độ chúng sinh mà kết duyên với anh? Vốn dĩ chúng ta chẳng thể nào có thể tương thông được, có lẽ là do linh lực gom lại chăng? Tôi ngày đêm bận rộn phấn đấu độ hóa, cơ duyên tình cờ thúc đẩy chúng ta thông linh, lành thay! Có lẽ anh không hiểu tâm ý của kẻ vụng về này là gì? Nghìn lời vạn ngữ cũng khó nói cho hết! Lệnh sư Tam Sơn Cửu Hầu nếu linh cảm tự sẽ khai thị cho anh. Nếu chúng ta cùng chung chí hướng, tâm cùng một lẽ, thì duyên sẽ dính líu đến nhau để mà cùng hợp tác độ hóa!
Kẻ vụng về này hiện chỉ có thể làm đến được bước sơ bộ dùng lí để độ hóa thôi, vẫn chưa được như anh đã đạt đến cảnh địa “dùng diệu pháp cứu đời chuyển hóa mê lầm”. Độ người ngày nay phải gãi đúng chỗ ngứa, độ tâm linh của người ta mà thuần dựa vào lí để độ hóa thì vẫn có những chỗ không tròn vẹn, chúng sinh mạt pháp đã rời xa đạo quá lâu rồi! Nếu có thể dùng diệu pháp để khiến họ tin mà không nghi hoặc thì càng dễ để họ chịu cho độ. Lí chính là chính tông, pháp là bổ trợ đạo, hai thứ cùng song song tiến hành, có thể hợp nhất để ứng dụng thì công hoành đạo thâm đó! Mong chúng ta có thể hòa hợp, cùng dẫn dắt mê chúng, đồng bào là một thể, có một người chưa độ thì giống như một thân thể tàn tật không vẹn toàn, dốc hết tâm huyết không vì cái gì, chỉ vì sứ mệnh cùng thành mà thôi.
Kẻ vụng về này tự cảm thấy tâm chính pháp chính, tâm tà pháp tà, sự phân biệt chính tà thật giả chỉ nằm ở một chữ tâm, đạo trưởng có cùng cảm tưởng không? Chúc mừng anh đã có được kì duyên, khiến người ta không ngớt hoan hỉ, vẫn còn rất nhiều người đang chờ để được độ, cùng động viên nhau, chỉ cần trong tâm còn đạo lí thì ngọn đèn tâm linh sẽ không tắt, mong anh thật lòng góp ý. Chúc linh quang phổ chiếu, diệu pháp viên mãn.”
Lá thư này khác với những lá thư khác, thanh niên có lí tưởng như vậy đã không còn thấy nhiều nữa, người trẻ tuổi mà có hoài bão như vậy lại càng hiếm có. Dùng thánh lí để độ hóa chúng sinh tình cờ trùng hợp với cách nghĩ của tôi, tôi tin rằng sớm muộn gì cũng có duyên, gặp được vị tiên sinh này, cùng vì tâm linh của chúng sinh nhân loại mà nỗ lực.
Thánh lí độ hóa là một việc cần có kì công, pháp linh thông trời người hợp nhất nếu mai một thì trên thế giới này chỉ còn một lẽ thôi, cái lẽ này chính là lẽ của Nho giáo.
47. Giải thích nghi hoặc
Một vị giáo sư từng gửi thư đến, đại ý như sau:
Lư tiên sinh, xin thứ lỗi cho tôi đã làm phiền anh, tôi thật sự mạo muội, nhưng tôi không thể nào không cầm bút, bao nhiêu năm nay những câu hỏi vẫn cứ ở mãi trong đầu tôi, cuối cùng cũng có đáp án rồi, tối thiểu có người có thể nói cho tôi biết những chuyện mà tôi không biết. Tôi vẫn luôn tin vào sự tồn tại của linh hồn, nhưng tôi lại là người không hiểu về linh hồn nhất. Mặc dù tôi từng vô số lần được nghe kể các truyền thuyết, nhưng tôi lại không từng có một ứng nghiệm nào trên chính người tôi. Tôi cũng là một người tin thần cực đoan, nhất là Trung Quốc chúng ta dung hợp cả những tôn giáo đặc thù hình thành từ Nho đạo, nhưng điều vẫn luôn dằn vặt tôi chính là không có đủ chứng cứ để người ta tin sự tồn tại của quỷ thần.
Tôi họ Ngô, người Bành Hồ, tốt nghiệp đại học, hiện đang làm việc ở Trung Quốc. Tại buổi gặp gỡ trong tuần thứ hai của học kì này, đề mục mà tôi dự định diễn giảng là “Nói về tín ngưỡng tôn giáo và mê tín”. Tôi khích lệ sinh viên nên có tín ngưỡng, đừng tự cho mình học tập theo thanh niên mới không tin tất cả tôn giáo, nhưng trên thực tế, bản thân tôi hiểu biết quá ít về tôn giáo, vì thế chính tôi cũng không có cách nào biết được lời tôi nói là đúng hay sai. Thế rồi vào buổi tối hôm ấy ở trong hiệu sách, tôi phát hiện ra cuốn sách tâm linh tuyệt tác, thế là tôi giống như tìm thấy một ngọn đèn sáng, tôi đã mua nó, rồi tôi vồn vã đọc nó, bao nhiêu năm qua tôi đã không còn đọc một cuốn sách nào một cách nghiêm túc say sưa như vậy. Ngày hôm sau, tôi đem cuốn sách đến trường học giới thiệu với mọi người, rồi tôi còn đặc biệt mua thêm mấy quyển cho đồng nghiệp. Trong vòng hai ngày, trường tôi đã có mười mấy giáo viên đều đọc cuốn sách quý này, có một người còn khẩn trương tìm đến thăm anh nữa.
Tôi biết rất nhiều người đọc sách xong thì rất lấy làm cảm động và tin tưởng, nhưng cũng có người giễu cợt là chuyện huyễn tưởng hoặc là Phong Thần Bảng hiện đại. Tôi cực kì muốn họ tin, nhưng tôi chẳng thể có được năng lực giống như anh, cho nên chỉ có cầu mong sự giúp đỡ của anh. Tôi nghĩ rằng anh nói rất đúng, không có sự trợ giúp của công phu ngoại đạo mà muốn để cho người bình thường tin tưởng và tin Phật thì rất khó.
Trong lòng tôi vẫn luôn có rất nhiều mối nghi ngờ tồn tại. Có một số điều từ trong sách của anh tôi đã có được câu trả lời, nhưng có một số điều vẫn khiến tôi nghi hoặc không hiểu nổi, hi vọng anh sẽ bảo ban.
Thứ nhất, căn cứ vào thuyết luân hồi của Phật gia, cuộc sống này chính là do cuộc sống trước đây quyết định, vậy con người trên đời hẳn là vĩnh viễn cố định ở một con số tương đương nhau mới đúng, vậy thì sao mà dân số thế giới lại gia tăng theo cấp số nhân, những linh hồn này từ đâu tới? (Đáp: Cái gọi là thuyết linh hồn luân hồi không phải là chỉ mỗi đạo người, mà sự luân hồi của cả lục đạo trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cho nên sẽ không cố định ở một con số. Dân số gia tăng là vận mệnh lớn của nhân loại, nhưng một khi có chiến tranh, năm đạo kia há chẳng phải cũng sẽ gia tăng sao. Đừng coi thường con kiến, kiến cũng nằm trong hàng ngũ của luân hồi đó! Số lượng kiến lớn hơn số lượng con người rất nhiều, số lượng linh hồn của chúng cũng vô lượng vô biên, nhiều như số cát sông Hằng vậy.)
Thứ hai, Thần Phật cầm gương soi con người thiện ác, vì sao thường thấy ác mà không phạt, mà lại để những kẻ làm hại người đó đợi đến kiếp sau mới phạt, nếu trừng phạt sớm chẳng phải có thể cứu được càng nhiều chúng sinh hơn sao? (Đáp: Theo như tôi biết, thần Phật không hề soi xét người thiện ác, mà là con người cần tự mình soi xét chính mình, bởi vì nếu con người sống, hoặc khi chết, duy có nghiệp báo theo thân, tất cả hình phạt đều là do chính mình tự làm tự chịu, nếu kiếp trước làm thiện, kiếp này làm ác, thiện công kiếp trước chưa nhận phúc báo sẽ kéo dài cho đến kiếp này và sẽ nhận được quả của thiện công kiếp trước, còn kiếp này làm ác thì sẽ kéo dài đến quả báo của kiếp sau, đây cũng là nhân quả ba đời luân hồi, chính là quy tắc tự nhiên. Các chúng sinh, cái gọi là cứu và không cứu chúng sinh, hãy đọc kinh Kim Cang của Đại thừa, có thể giải thích được tỉ mỉ hơn, gốc là nghiệp báo, làm sao có thể cứu.)
Thứ ba, Phật nói không sát sinh, nếu gặp ác trùng ác thú, có phải là vẫn nên để cho chúng hại người mà không tiến hành sát hại không? (Đáp: Dù Phật nói không sát sinh, nhưng tự vệ vẫn là bản năng của chúng sinh, chỉ cần trong tâm không có ý muốn sát sinh nhưng vẫn phải giết thì cũng không xem là tội, không có suy nghĩ sát sinh mà giết chính là một hành động không chủ định, sẽ không gieo xuống hạt giống sát sinh trong ruộng tâm thức.)
Thứ tư, con người chết rồi thì sẽ chịu luân hồi mà đi chuyển thế đầu thai, vậy vì sao pháp Quán lạc âm vẫn nhìn thấy được linh hồn của người ta? Và các linh hồn trong vũ trụ nhiều không thể đếm xuể, vì sao bất kể là ở nơi nào, pháp Quán lạc âm gần như đều tìm được người rất dễ dàng, đến đi rất nhanh? (Đáp: Quán lạc âm là một mục trong thuật pháp của Đạo gia, người chết thì không phải là lập tức đi đầu thai, người có thể lập tức chuyển thế gần như là rất ít, mà sẽ tự thành một linh giới (âm giới). Quán lạc âm trong Phật giáo chính là Nhập định quán, nhưng thần thông Nhập định quán lớn hơn nhiều so với Quán lạc âm. Quán lạc âm là một dạng tác dụng cảm ứng của tâm điện, linh hồn cho dù ở rất xa, người quán lạc âm chỉ cần khởi tâm niệm, có cảm tất ứng, nhanh như điện vậy, cho nên đến đi rất thần tốc.)
Thứ năm, theo những lời trong sách, có vẻ như Ma Tổ ở các nơi đều không phải là cùng một vị, nhưng vì sao Ma Tổ được thờ cúng ở các nơi lại lấy cùng một xưng hiệu mặc dù không phải là cùng một vị? Trong miếu nghìn vạn người cùng cầu nguyện thì Thần minh làm sao mà ban chỉ thị cho từng người được? (Đáp: Xin tham khảo cuốn sách này, chương “Thần Thánh có thuật phân linh” là có thể hiểu được rõ ràng rành rọt. Và việc ban chỉ thị cho mỗi người chính là một trong các pháp thần thông, như một mặt trời chiếu hiện vạn vật, mọi thứ lần lượt phân tách ra mà thôi.)
Năm điều nghi vấn này nhất định có rất nhiều người muốn biết, nên tôi đặc biệt đăng ở đây để công khai cho nhiều người cùng biết, đồng thời chắc chắn sẽ liên tục có rất nhiều thắc mắc nữa, nếu có cơ hội viết cuốn sách tâm linh thứ ba thì tôi sẽ lần lượt giải đáp, hi vọng câu trả lời của tôi có thể khiến độc giả hài lòng, có chỗ nào mà tôi diễn đạt ý chưa được tốt, mong lượng thứ!
48. Cảm tưởng đọc sách
Sau khi mua được cuốn sách “Mạn đàm về linh cơ thần toán”, mặc dù tôi không đọc một mạch hết cuốn sách, nhưng hễ có thời gian rảnh là tôi lại vồn vã đọc tiếp, đến mấy trang cuối cùng là tôi đọc trong công viên vào buổi sáng hôm nay. Khi gấp trang sách lại, từ tận đáy lòng tôi nghĩ rồi lại nghĩ, nghĩ đến cuộc gặp gỡ thần kì đó, càng thán phục trong thiên hạ lại có người có huệ căn bẩm sinh như vậy. Tôi nhìn bức ảnh “Lư Sơn chân diện mục” ở phía sau sách, trực giác của tôi khẳng định đây là một cư sĩ đạo đức cao thâm, càng khiến tôi có sự kính phục vô hạn đối với tác giả.
Mặc dù tôi chỉ đọc một cuốn sách này, nhưng cảm nhận trong đáy lòng tôi là nó rất thiện và sâu sắc, nhất là tấm lòng từ bi trong sách đã khai thị cho tôi không ít, là một cuốn sách mà tôi thu được nhiều lợi ích nhất. Tôi sẽ ghi nhớ những lời vàng ngọc đó và sẽ thay đổi những thực hành của mình cho đúng.
Đối với linh hồn, người biết quá ít, nhưng mà thiên hạ rộng lớn như vậy, đúng là không có chuyện kì quái gì mà không có. Người biết thì nói là biết, người không biết thì nói là không biết, cảnh ngộ mà tác giả đã trải qua kì diệu như vậy, nếu không phải là người có một chút huệ căn thì không dễ tin tưởng. Hơn nữa xã hội ngày nay, lòng người không như xưa, đạo đức cũng theo đó mà bại hoại, người bình thường thường lấy những giáo nghĩa mà các bậc cổ Thánh tiên Hiền để lại, học thì có thể học, nhưng không chắc có thể làm được, bởi vì chung quy họ cho rằng đó là những phẩm đức cổ lỗ sĩ, cho nên mọi việc mà cứ y như cũ thì sẽ cản trở mọi sự tiến bộ. Huống chi đeo lên cặp kính có sắc thái tôn giáo thì càng không phải là thứ mà con người có thể dễ dàng tiếp nhận. Cái gọi là định luật nhân quả, lục đạo luân hồi, thần quỷ, bởi vì ít có người từng nhìn thấy hay từng trải nghiệm qua, cho nên người người đều không tin, nhưng mà những người vô tri này không tin thì thôi, lại vẫn cứ gia tăng phỉ báng, thiện nam tín nữ bình thường bị gọi là điển hình của mê tín lạc hậu. Tôi cho rằng tác giả đang than thở, quả thật là mê tín quá, chúng sinh không biết ngộ!
Tôi cho rằng trong thời kì khó khăn này, cuốn sách đã được xuất bản đúng lúc, mặc dù có thể dẫn tới sự quấy rối của rất nhiều người, nhưng cuối cùng thì vẫn là thắng lợi của tác giả, bởi vì xuất phát điểm của tác giả nằm ở hoằng dương chính tín, tôi dự đoán rằng sẽ có không ít người được cuốn sách này cảm hóa và thề nguyện sẽ quy về chính đạo, mặc dù đây là những gì một tín đồ chính giáo nên làm, nhưng công đức ấy quá lớn, vẫn là không thể mê muội.
Cái gọi là kính Thần như kính người, dốc hết tinh thần thì vàng đá cũng mở ra, chắc chắn có được cảm ứng. Tồn tại là tồn tại, tuyệt đối không phải vì người ta có nhìn thấy hay không, có biết hay không mà bàn về sự tồn tại hay không tồn tại của nó một cách ngây thơ. Vả lại, trong vũ trụ vô hình này, không có đại thần thông, đại linh lực, trí huệ và năng lực lĩnh ngộ siêu phàm thì không thể nào cảm nhận được cái gì, đại khái Phật gia gọi những người này là “chúng sinh có duyên mỏng mà nghiệp chướng sâu nặng”. Cho nên việc họ không tin là lẽ đương nhiên, bởi vì không nghe không thấy, trừ phi mượn tha lực thì sẽ được khuyên bảo và dẫn độ.
Do bản thân tôi cá tính ham thích đạo, mua được cuốn sách này, tôi xem như trân bảo, nhưng tôi học đạo chưa lâu, mà cũng không có duyên tiếp cận nhiều với thiện tri thức, đến mức mà một vài phương diện linh trí tôi chỉ có thể tự mình mày mò, thường xuyên là tôi không thật sự hiểu lắm, không tìm được cửa để mà đi vào. Nay đọc được cuốn sách này, đã gặp được lòng từ bi của anh khai thị những mối thắc mắc trong lòng, thật sự là may mắn của tôi.
Tôi cũng khá có hứng thú với thần toán, nhất là pháp làm sao để đánh thức linh hồn của mình, bởi vì hoàn cảnh hiện tại của tôi không thích hợp, hi vọng sau này sẽ có một ngày tôi thức tỉnh được linh mệnh của mình thì càng có thể chứng thực sự kì diệu của linh hồn. Cuốn sách này đã mở ra một cánh cửa phương tiện cho chúng sinh, giúp chúng sinh một tay. Tất cả những người tu đạo, người mộ đạo, người mới luyện đạo đều nên cảm kích mới phải, nhất là đông đảo chúng sinh đọc xong ắt sẽ hiểu thêm. Tôi tin rằng chỉ cần là người có tâm, có được cuốn sách này ắt sẽ chứng đắc con đường tu đạo, có được cuốn sách này ắt sẽ biết những việc chí lí trong thiên hạ.
Giả như có một ngày, kẻ hèn này có thể có cơ hội gặp thầy Lư thì đó đúng là duyên phận to lớn như trời, vậy tôi muốn tiến thêm một bước nữa để thỉnh thị là liệu tôi và anh có duyên phận làm thầy trò không, bởi vì tôi muốn bái tác giả làm thầy, đi theo mãi mãi, nhằm mong cầu một thế giới chân thật của sự đắc đạo vĩnh hằng, như vậy thì cũng không uổng cuộc đời này. Không biết tác giả có sẵn lòng thu nhận học trò kém cỏi “nửa lỗ không thông” như tôi không?
Cuối cùng, tôi muốn giới thiệu cuốn sách này, cũng nói điều mà tôi lĩnh ngộ được khi đọc cuốn sách này: Điều tâm đắc của tôi từ trong Phật đạo mà cuốn sách này nói đến chính là “người có tâm chính thì đạo tà cũng thành chính, người có tâm tà thì đạo chính cũng thành tà”. Bởi vì Phật nói “vạn sự do tâm tạo”, nhất tâm có thể diệt vạn pháp.
Một lần nữa, tôi phải nói thẳng một câu, sự kì diệu của cuốn sách này không thể so sánh với bình thường, điều trân quý nhất là trải nghiệm của chính tác giả không phải là những thứ thêu dệt nên có thể so sánh được.
(Kí tên: Vương Mẫu Đơn viết tại Thảo Hồ.)
(Lời cuối: bản văn này là cảm tưởng của cô Vương Mẫu Đơn ở Thảo Hồ sau khi đọc xong cuốn linh thư. Cô ấy từng đến nhà thăm tôi, hơn nữa còn gửi một bài văn cảm tưởng khi cô ấy đọc sách của tôi, những gì cô ấy viết rất có tầm nhìn. Bản thân cô ấy là người có duyên Phật rất dày, từ nhỏ đã thích lễ Phật, đã đi theo cao tăng rất lâu, học thức phong phú, nên tôi đặc biệt đưa bài văn này làm phụ lục.)
49. Lời kết
Đây là một cuốn sách thần kì, tôi tin rằng khi xuất bản cuốn sách này sẽ lại có cực kì nhiều người lắc đầu không tin. Thế nhưng tin hay không tin không sao cả, tuyệt đối đừng cho rằng Lư Mỗ tôi cố làm ra vẻ huyền bí và giở trò trêu đùa. Có rất nhiều người cho rằng tôi rõ ràng là một tác gia (thằng cha làm trò múa bút kiếm miếng ăn), khó tránh được những ý tưởng kì lạ, cố ý bịa ra những câu chuyện để mà lừa độc giả, có mưu đồ lòe bịp thiên hạ. Bất kể là độc giả đọc xong có cảm giác là không phải thật thì tôi cũng vẫn phải thanh minh một câu với độc giả là, thật sự tôi không trộn lẫn một chút giả dối nào.
Xin các độc giả chú ý, tôi chỉ là một phàm phu rất bình thường, không phải là Thần Tiên, dù sao cũng đừng cười cợt tôi. Tập sách linh thư đầu tiên xuất bản, có độc giả gọi điện thoại cho tôi nói rằng: “Lư Thắng Ngạn, bây giờ anh hãy đoán xem tôi là ai? Gọi điện thoại từ nơi nào? Giả sử anh nói ra được tên tôi thì tôi tin, bằng không thì anh chính là kẻ bốc phét.” Nói thật, nhận được cuộc điện thoại kiểu này khiến tôi cười ra nước mắt, tôi chỉ là một phàm phu, chỉ là có nhiều hơn người bình thường một năng lực, năng lực này chính là thông linh. Thần linh trong không trung không phải là các vị toàn năng, tôi phải thỉnh thị, rồi đưa cho các vị tư liệu thì các vị mới có thể hồi đáp. Nay anh vô căn cứ gọi đến một cuộc điện thoại, tôi không phải Thần Tiên, mà Thần linh lại càng coi thường cái kiểu thăm dò này, bảo tôi phải trả lời anh làm sao?
Càng có rất nhiều độc giả viết thư cho tôi, cho đến nay đã có trên một nghìn lá thư. Có mấy độc giả còn hay hơn, trong thư họ không viết họ tên và địa chỉ, nội dung cũng chỉ viết là: “Giả sử anh có thể trả lời bức thư này của tôi, biết tên và địa chỉ của tôi, thì tôi sẽ bái anh làm thầy, sẽ tin Phật, bằng không tôi không tin.” Thư kiểu này càng khiến tôi chẳng hiểu ra làm sao. Ngày nay là thời đại tự do tôn giáo, bạn tin hay không tin chẳng liên quan đến tôi, hữu duyên hay vô duyên đều là việc của cá nhân bạn, thư của tôi quá nhiều rồi, tôi chỉ lựa chọn trả lời một vài lá thư quan trọng thôi, còn những bức thư vớ vẩn thì tôi chỉ có cách dẹp bỏ để giảm bớt gánh nặng. Hơn nữa tôi cũng chưa có ý định thu nhận đồ đệ, cho đến hiện tại đã có hơn bảy chục người muốn bái tôi làm thầy để học thần toán khởi linh rồi, nhưng tôi đều nhất loạt từ chối. Tôi chỉ hướng dẫn họ làm sao để khởi linh và luyện linh, chưa bao giờ cho rằng mình là thầy giáo, chưa từng nghĩ mình muốn làm sư tôn. Điều quan trọng nhất là, linh ở không trung không phải là bậc toàn năng, tôi lại càng không phải là Thần Tiên, những lá thư không có nguyên do, tôi căn bản không cần phải thỉnh thị, cũng không muốn hồi đáp, thậm chí chẳng cần phải lãng phí tâm tư vào chúng làm gì.
Sự kì diệu của linh hồn là thần bí chẳng thể suy đoán, khoa học gia coi trọng mà nghiên cứu, học giả không dám tùy tiện mà phủ định sự tồn tại của linh, những biểu hiện và hiện tượng kì quái mà linh tạo ra hiện nay là không thể phủ nhận được. Đời người rốt cục là ngắn ngủi, và con người sau khi chết đi, thần thức sẽ hoàn toàn không còn nữa sao? Thần thức vẫn là quy về thế giới tâm linh thôi, bởi vì tôi đã có được những kì duyên như vậy, cho nên cuốn sách này tôi đặc biệt đưa ra một lời giải đáp tường tận, tin rằng có thể khiến độc giả thu được những khái niệm vô cùng sâu sắc mới phải.
Tôi rất cảm kích Cơ Nga, người đầu tiên trực tiếp khai sáng cho tôi. Hiện tại bà ấy đang tu đạo tại phân đường Thạch Bích thuộc Hoa Liên Từ Huệ Đường, bình thường bà ấy ra ngoài giúp người ta dắt vong hồn, bề ngoài kì quái, có thần thông thiên nhãn cực kì bất khả tư nghì. Bà ấy là người Hakka, quê quán là người thôn Phú Lí ở Hoa Liên, bố bà ấy khi còn sống là bác sĩ kiêm kiểm nghiệm viên, Cơ Nga là âm tiếng Nhật, dịch ra tiếng Quốc ngữ là Thiên Đại.
Linh sư của tôi là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, và Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh mới là ân sư chân chính của tôi. Tôi vốn là một con người thô tục, nhờ có Ngài ân cần giáo hóa, tôi mới dần dần hiểu ra những đạo lí lớn của trời đất. Ngài là Thượng Tiên của Vô sắc giới, không có hình tướng, đến không ảnh hình, đi không vết tích. Ngài đã đồng ý với tôi khi tôi niết bàn, Ngài sẽ đến đón tôi, Ngài để lại một bài kệ [cho thời điểm tôi niết bàn] là: ”Thái thượng nhân gian mây nước xa xăm Tiên đồng tiên nữ xếp hàng nghênh đón Mây tía cờ lọng cưỡi mây bay đi Rời xa nhân gian đến chín tầng trời Bốn biển ngợi khen âm thanh chúc tụng Ngũ Nhạc cùng than núi rừng thương xót Từ nay nhân gian mất một kì tài Đi hết Tam giáo trở về chốn xưa.”
Tôi vẫn không biết được lai lịch của Ngài, nhưng tôi tin rằng khi nhập diệt, nhất định tôi sẽ biết.
Vị ân sư thứ hai của tôi là Thanh Chân Đạo Trưởng, một vị Đạo nhân của núi Thanh Thành. Ngài sống ở núi Liên Đầu, có người viết thư cho tôi hỏi rốt cục đó là ở chỗ nào. Bây giờ tôi công khai núi Liên Đầu của Thanh Chân Đạo Trưởng chính là một ngọn núi nhỏ trong dãy núi Tập Tập ở Nam Đầu. Ân sư Thanh Chân Đạo Trưởng đã mọc cánh quy tiên rồi, trở thành Địa Tiên, sau khi ngài hóa cánh thành tiên từng xuất hiện hai lần để giải thích cho tôi về pháp môn Đại thừa, rồi ngài chọn đi tu hành ở Linh Sơn. Ngài để lại cho tôi khẩu quyết pháp Cửu chuyển huyền công, thuật thần toán phù lục, tôi đã nhận không ít giáo huấn của ngài, tôi rất cảm kích.
Sau khi xuất bản cuốn linh thư đầu tiên, tình hình bán chạy nằm ngoài dự liệu của tôi, trong vòng một tháng sách đã được tái bản, rất nhiều nhà xuất bản tranh nhau cuốn sách thứ hai của tôi, bởi vì dạng sách này ở nước ta đã lập nên kỉ lục, chưa có ai biết, chưa có ai viết, hơn nữa lại là tự thân trải nghiệm mới càng đáng quý. Vì thế, tôi đã viết, với mong muốn là khiến con người tin vào sự tồn tại của Thần linh, khuyên con người tu thiện bỏ ác, cảnh giác nhân tâm thế đạo càng ngày càng bại hoại.
Tôi khuyên con người cần giữ bát chính đạo, bát chính đạo này chính là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Bát chính đạo này chính là khổ tập diệt đạo, nếu diệt hết khổ thì siêu thẳng đến Cực Lạc thế giới, vĩnh viễn không sinh tử khổ não nữa. Lúc này tâm chính là tâm Phật, là tâm từ bi hỉ xả, to lớn như vũ trụ tự nhiên, to lớn như nhật nguyệt tinh, to lớn như thiên thượng địa hạ thập phương pháp giới, tự nhiên tỏa hào quang. Thế nào là trở thành tâm của Phật Bồ Tát? Tâm này nếu là tâm Phật tâm Bồ Tát thì người này chính là Phật, chính là Bồ Tát, còn phàm phu, cái gọi là phàm phu, là tâm hẹp hòi mà không dung một vật nào.
Mọi việc ác đừng làm, hãy làm mọi việc thiện, thì nhân gian cũng như cõi Lạc, làm gì có tai kiếp?
(Hết)