📗

022. Khởi linh học

image

Khởi linh học

Linh tông Tiên gia tu hành mật lục

Văn tập số: 022 Xuất bản năm: 01/03/1976 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Tôi viết cuốn sách này chính là để đáp lại ý chỉ của Thiên thượng Thánh linh, không phải với mục đích so bì tầm thường. Tôi, Lư Thắng Ngạn, chỉ là một con người bình thường chẳng có gì đáng nói, chí hướng bình thường, nhưng biết tu thân dưỡng tính, những cái khác cũng chẳng có mong cầu gì, chỉ mong cuốn sách Khởi Linh Học này có thể hoằng dương đại đạo, phá bỏ được ma tà, hướng thẳng đến Phật tính, từ đó khiến cho chúng sinh ai nấy thành Tiên thành Phật. Đó vẫn là một trong những tâm nguyện lớn của tôi.

Kể từ sau khi xuất bản bốn cuốn sách "Giữa Linh và Tôi", "Siêu giác của linh hồn", "Mạn đàm linh cơ thần toán - 2 tập", tôi thật sự đã tạo nên chấn động lớn, thư từ bay đến tới tấp như tuyết rơi. Người người tới tìm, nên hiện tại tôi bị dồn ép đến mức bản thân không thể không đóng cửa mà từ chối tiếp khách. Mong độc giả thử nghĩ một chút về cảnh ngộ của tôi, từ đó có thể hiểu tôi đã chẳng có cách nào đối phó với áp lực của biển người lớn đến vậy.

Tôi muốn tĩnh tâm lại để viết sách, đây mới là trách nhiệm và nghĩa vụ cấp thiết nhất mà tôi có thể làm được. Tôi muốn trực tiếp viết ra những bí mật ảo diệu của linh hồn, nhằm cứu vãn sự suy đồi của tâm linh nhân loại, để họ không đi vào tà ma ngoại đạo. Trong xã hội khoa học ngày nay, những độc tố của "thuyết vô thần" đang từ từ lan tràn khắp nơi, từ từ ngấm sâu và mài mòn vào những nơi sâu nhất trong trái tim của nhân loại. Trên thực tế, sự mê tín lớn nhất chính là tin vào "vô thần". Chúng sinh vô tri, chỉ vào mũi của Phật mà nói rằng "đồ mê tín", thật ra những người nói mê tín này, họ không hiểu rằng tự mình đã trúng chất độc của những người tà ác theo thuyết vô thần, chính họ đã đánh mất bản thân mình rồi.

Có người hỏi tôi: ông lập riêng một Chân Phật Tông chẳng phải là tự lập môn phái riêng sao? Tôi nói không phải, Phật giáo có phân chia Hiển - Mật, có sự khác biệt Thiền - Tịnh, có phân chia các phái Thiên Thai tông, Lâm Tế tông, Tam Luận tông, Duy Thức tông, Tịnh Thổ tông, Luật tông, Tào Động tông, v.v…, mặc dù cách thuyết pháp khác nhau, nhưng các con đường khác nhau vẫn cùng quy về một chỗ. Hôm nay tôi tự đặt mình vào việc nghiên cứu linh hồn thành Phật, nghiên cứu thảo luận về Tiên đạo, chỉ dựa vào một cái tên Chân Phật Tông, sau này phàm có học giả đệ tử Phật, đại thiện tri thức phát huy và làm rạng rỡ truyền thống, thì đều là những bậc hiền nhân thánh triết tổ sư nhiều đời của dòng phái. Chân Phật Tông phối hợp với hai phái Thiền tông - Tịnh tông để hướng thẳng đến đạt thành ba chữ "ngã, tâm, linh", tự có cảnh giới thần thông vĩ đại bất khả tư nghì. Thành tựu phi phàm của nó sẽ khiến người ta nhìn với con mắt khác xưa, từ đó Phật giáo được phát dương rạng rỡ, xuất thế nhập thế đều lợi ích trời người cực lớn, khiến nhân tâm thế giới đại đồng, rồi sau đó mới có thế giới đại đồng.

Đúng lúc tôi đang viết cuốn sách này, các Thánh linh trong không trung ào ào giáng xuống để trợ giúp, giống như một cuộc họp lớn vậy. Một số Thần linh chúc tôi thành công, lại có một số Thần thánh thì yêu cầu tôi phải cẩn thận đề phòng ma đến thử thách, bởi vì một khi cuốn sách của tôi xuất bản, Thiên Ma sẽ ghen ghét đố kị cực kì, cho rằng tôi muốn người người tu thân dưỡng tính, hành thiện thành Phật, như thế là đi ngược với giới luật của Thiên Ma, khiến cho quyến thuộc của ma sẽ ít đi rất nhiều. Vì thế, Thần thánh muốn tôi chú ý ma kiếp, để tránh cho chúng có chỗ lợi dụng. Tôi cũng biết, phần đông người tu đạo, khi đã vào đạo môn thì đều sẽ phải đi qua cửa ải thử thách đó, Bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, Jesus Christ đều không phải ngoại lệ. Do đó, người nghiên cứu và học tập theo cuốn sách này xin đặc biệt chú ý, không có cuốn sách bình thường nào có thể so sánh với cuốn Khởi Linh Học này, hãy cẩn thận từng li từng tí, một bước đi sai là lập tức nhập ma đó.

Giữa trời đất, những ảo diệu kì bí của linh giới, đích thân tôi đã thể nghiệm được rất nhiều. Những kết quả mà bản thân tôi cẩn thận ấn chứng, linh lực của chúng có thể thông suốt nhật nguyệt. Không chỉ như vậy, biển trí huệ tâm linh của tôi cũng dần dần mở rộng, có thể biết bản thân mình cũng có một vầng mặt trời sáng chói, một vầng mặt trăng sáng ngời, thậm chí lại có càng nhiều càng nhiều hơn những cảnh giới kì diệu. Bản tính của Phật Bồ Tát cũng tức là chính mình. Khi đến được sự giác ngộ này, thân như phi thuyền bay trong bầu khí quyển, lâng lâng tự tại tiêu dao, không phiền lo đau khổ, thân tâm tùy ý, đó mới là thế giới cực lạc của sự ẩn mình trong hư không. Tôi nói với chúng sinh một bí mật, thế giới cực lạc giống như một hạt cải cực nhỏ, muốn chui vào thì rất khó, nhưng nếu giác ngộ thì trời đất đều là thế giới cực lạc, mọi người hãy cẩn thận lĩnh hội đi! Tâm nguyện lớn lao của A Di Đà Phật không thể không khiến người ta kính trọng mà khởi tâm tôn sùng ngưỡng mộ.

Giáo huấn của vị thầy tâm linh Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, sự dạy bảo của Thanh Chân Đạo Trưởng thường xuyên khiến tôi cảm động rơi nước mắt. Sự trợ giúp của Thánh Thần Tiên Phật trong trời đất đến tới tấp cũng khiến cho Lư Thắng Ngạn nhỏ bé là tôi đây trong lòng khó yên, tôi có đức gì năng gì mà đến mức cảm phiền tới các Thần trong trời đất kính trọng như thế, tôi phải làm thế nào để báo đáp mới được đây? Giờ đây chỉ có cúi mình tận tụy, phân thân xả cốt hết những năm tháng cuộc đời này của tôi để đổi lấy một khoảnh khắc lóe sáng. Tôi nhắm thẳng đến cái "Ngã" sâu xa trong những câu cú của Thiền tông, rồi lại nhắm thẳng đến cái "Tâm" sâu xa trong ý của Tịnh Thổ tông, rồi lại đặc biệt chỉ ra cái "Linh" sâu xa trong thân thể, một chữ "Linh" này là tâm pháp tối thượng thừa của Chân Phật Tông tôi. Đạo ra sao, Phật ra sao mà "Linh" có thể dung nạp được hết?

Cuốn sách Khởi Linh Học này, tôi nhấn mạnh vào giải thích các phương diện như khởi linh, luyện linh, xuất quan nhập quan, cửu chuyển, v.v… rồi phối hợp với kinh nghiệm của chính tôi, những chỉ thị tâm linh của Thần Tiên, để bày ra trước mắt độc giả. Đây sẽ là sự công khai những ghi chép cực kì bí mật của môn tâm linh tu Tiên nghìn đời khó gặp.

Có thể thấy cuốn sách này huyền bí kì diệu không thể đo lường, là báu vật nghìn năm không dễ gặp được. Đối với những người nghi hoặc thì càng có thể nhắm thẳng giúp họ đến sự thức tỉnh lập tức. Còn những ai bền chí nếu tin rằng Lư Thắng Ngạn tôi không phải đang lừa người lừa mình thì đừng ngại ngần, hãy chăm chỉ mà tu theo, đến ngày công thành, nguyên thần sáng rực rỡ sẽ bay lên thiên giới, đắc chứng chính quả, chỉ lúc đó mới nhận ra rằng tôi không nói xằng nói bậy.

Cuốn sách này, do trí tuệ của con người khác nhau, nhân duyên bẩm sinh khác nhau, nên không thể không đặc biệt nói rõ thêm vài câu: người thượng phẩm mà tu thì đắc chứng quả vị Tiên Phật, người trung phẩm mà tu thì một bước lên mây, nhập thiên giới là điều có thể kì vọng, người hạ phẩm mà tu thì thân thể khỏe mạnh, tạo nên tuệ căn cho kiếp sau.

Ngoài ra còn có mấy loại người không thể tu học, học cũng vô ích, ngược lại còn tai hại lớn, hãy thận trọng! Hãy cẩn thận! Loại người thứ nhất là thiếu niên nhi đồng. Loại người thứ hai là người nguyên thần bất định. Loại người thứ ba là người hay ngờ vực không kiên định, người chỉ muốn thăm dò. Loại người thứ tư là người không có lòng kiên trì. Loại người thứ năm là người vô tri. Những người này thì niệm Phật tu Tịnh độ là được rồi, bởi vì nếu họ luyện tập, dòng khí sẽ bị lạc đường biến đổi, không thể kiểm soát, tẩu hỏa nhập ma, muốn quay trở lại thì khó lắm thay! Người muốn tu thì phải hạ quyết tâm mới được, nếu chỉ là để thử xem sao thì thôi xin miễn đi.

(Mùa xuân năm Dân Quốc 65 [năm 1976], tại Linh Tiên Tinh Xá.)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Nguyên lí biến linh

Một người bình phàm vô tri không thể hiểu được trong thân thể mỗi con người đều có một "linh tính", cho dù có biết thì cũng bán tín bán nghi. Linh tính ẩn ở trong thân, mặc dù sống thì cũng như chết, là do đã bị giam cầm, không những không thể chạy ra bên ngoài cơ thể, mà thậm chí không thể di động đến các nơi bên trong thân thể nữa. Kiểu cảm giác của phàm phu tục tử này hoàn toàn dựa vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thể xác, cũng tức là những cảm giác của mắt tai mũi lưỡi thân ý làm nên cảm giác. Mức độ cao nhất của loại cảm giác này là ý giác, hay còn gọi là giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu là "trí cảm", hoặc gọi là "tinh thần cảm", cách giác cảm thứ bảy, giác cảm thứ tám vẫn còn xa lắm! Cái gọi là giác cảm thứ bảy tôi gọi là "linh thông" hay giác cảm thứ tám gọi là "thần thông" thì chỉ là sự phân biệt miễn cưỡng thôi, thật ra sự khác biệt rất vi diệu, rất khó để vẽ một đường giới hạn phân chia một cách rạch ròi.

Cái gọi là siêu nhân và siêu cảm giác không phải là giác cảm thứ sáu. Giác cảm của người thông linh vượt qua cả giác cảm thứ sáu, không gian tồn tại của nó là không gian của giác cảm thứ bảy và không gian của giác cảm thứ tám. Có người chỉ ra rằng linh cảm là giác quan, giác cảm thứ sáu, đó là cách nói của thế tục. Trên thị trường cũng có những cuốn sách về giác quan thứ sáu, cái đó thì lại càng là nghe sai đồn bậy. Hai chữ "linh cảm" là hai chữ vô cùng cao quý, không thể chỉ gò bó trong cái "tinh thần cảm" của giác quan thứ sáu.

Người thông linh ở khắp nơi trên thế giới đều nhận thấy rằng năng lực của họ không hoàn toàn tương đồng. Có người có thể dự đoán chuyện tương lai sắp xảy ra, có thể nhớ các kiếp trước sau, một số người khác thì có thể dùng linh lực để làm gãy mũi khoan bằng kim cương, dùng linh lực để chữa bệnh, hoặc khống chế suy nghĩ của người khác, lại cũng có người có thể châm lửa cách không, rồi có người khi phẫu thuật dựa vào linh lực để gây mê thần kinh của người bệnh, hay cũng có người dùng linh lực để giết người, khiến người ta vô duyên vô cớ mà chết. Truyền kì về những người thông linh này nhiều tầng tầng lớp lớp như truyện thần thoại vậy. Sự ra đời của những người thông linh này cũng có đầy tính truyền kì.

Mẹ của những người này khi sinh ra họ, có người thì bị sấm sét đánh trúng, hoặc có một ngôi sao giáng xuống mái nhà. Người thông linh do "nửa chừng tự nhiên có năng lực" cũng có tính chất truyền kì rất lạ lùng, có người thì ngã từ trên cầu thang xuống mà biến thành người thông linh. Họ luôn cần phải trải qua một "nguyên lí biến linh" mới có thể giống như bóng đèn được nối với dòng điện, đột ngột sáng lên.

Nguyên lí biến linh này theo như tôi thấy thì vô cùng đơn giản, nhưng cũng cực kì khó, phải hợp với thời cơ thiên thời địa lí, khi điều kiện trùng hợp ngẫu nhiên thì trong sát-na sẽ thành công ngay. Có người theo đuổi cả đời, kết quả vẫn luôn là số không, có người chẳng cần theo đuổi thì "biến linh" này lại bất ngờ từ trên trời rơi xuống. Ví dụ như tôi, tôi là bỗng dưng có được, một sự chấn động trong một sát-na. Tôi vẫn còn cho rằng tôi là người ngoài hành tinh cơ đấy! Sức mạnh đột ngột sinh ra này khiến tôi cho đến giờ vẫn còn cảm thấy như ở trong mơ, là thật hay là giả, rất mơ mơ màng màng. Nhưng, thực tế đã cho tôi thấy, tất cả đều là thật, linh hồn tự do tự tại bay nhảy, thật sự khiến người ta vừa kinh vừa sợ.

Linh hồn bị giam cầm, vốn là như chết, nếu dựa vào sự xung kích của một lực lượng nào đó thì có thể biến thành sống, giải thoát khỏi sự trói buộc giam cầm, rời khỏi sự ngăn cấm vô hình, như thế linh hồn có thể du hành bên trong thân, cho đến cuối cùng thì đột ngột phá được thiên khiếu [lỗ trên đỉnh đầu], sau cùng linh hồn có thể đi ra ngoài. Nếu linh hồn thoát khỏi sự giam cầm hoặc đi ra ngoài sẽ sinh ra cảnh giới, tôi gọi là linh cảnh. Linh cảnh có thật có giả, người tu Chân Phật Tông không thể không biết.

Sự đột ngột phá bỏ giam cầm của linh hồn này được gọi là khởi linh, hoặc biến linh, đây là điểm mấu chốt duy nhất của thông linh và thần thông. Nếu không có công phu khởi linh và biến linh thì phàm phu vĩnh viễn là phàm phu, người đó vĩnh viễn không biết có chuyện về linh hồn, chỉ có thể nghe những truyền kì về linh hồn mà không thể đích thân trải nghiệm cảnh giới này hay thật sự có được cảm nhận gì lớn.

Có rất nhiều người theo tín ngưỡng tôn giáo thích nói chuyện cảm ứng, ví dụ như chuyện "mộng giác". Mộng giác là Thần linh trong không trung lợi dụng lúc con người ngủ say, đưa linh nhập vào trong vành đai hồi chuyển tư tưởng của con người, khiến cho người trong mơ vì mơ mà có được cảm giác. Kiểu "mộng giác" này rất nhiều, nhưng vẫn còn cách "linh giác" xa vô cùng! Đây chỉ là tác dụng của một phương diện, cảm ứng tương đối không rõ ràng, hơn nữa còn dễ hỗn loạn, thường thường là sau khi sự việc xảy ra xong thì mới có sự tỉnh ngộ hiểu ra, người có hiện tượng này không thể gọi là biến linh hoặc khởi linh.

Muốn khởi linh, chỉ cần có ba loại lực lượng.

Thứ nhất là tha lực đến từ bên ngoài. (Linh của không trung, có thể dùng phương pháp thỉnh cầu, cầu xin lực trợ giúp từ họ, đây là điểm then chốt trọng yếu của biến linh. Phải xem căn cơ của người khởi linh, căn cơ và tiền kiếp có mối liên quan lớn, nếu Thần linh và người khởi linh kiếp trước có quan hệ mật thiết thì do duyên phận ấy mà vị ấy chắc chắn sẽ tự động đến trợ giúp.)

Loại lực lượng thứ hai là tự lực, cái gọi là tự lực nói một cách đơn giản chính là thành tâm thành ý, nếu có đại nguyện và thành tâm mong cầu thì không có chuyện không thành công.

Loại lực lượng thứ ba là thiện công, nghĩa là thanh tịnh nghiệp lực, nói chung người có nghiệp tội sâu nặng, bên ngoài không nhìn thấy, nhưng bên trong giống như là có tảng đá lớn đè lên người. Muốn khởi động linh hồn thì thanh tịnh nghiệp lực trước là có thể được, lúc này tạo nhiều thiện công đức, khiến linh hồn có thể sớm xuất ra được thông suốt, điều này cũng rất quan trọng.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói với tôi: "Đạo Phật nói thiền định, đây là nguyên tắc nghìn năm không đổi, tuy nhiên, do định cũng có thể sản sinh ra động, do vậy mà nghìn năm sau, pháp môn tu hành do Chân Phật Tông sáng tạo là một tĩnh một động phối hợp với nhau. Đây chính là nguyên lí tột cùng của thái cực âm dương động tĩnh, muốn biến linh, chỉ tĩnh thôi mà không động thì cũng không được, chỉ động mà không tĩnh cũng không được. Mặc dù động và tĩnh đi theo hai hướng ngược nhau, nhưng vạn pháp vốn là một, các con đường khác nhau đều đồng quy."

Nếu linh bắt đầu động thì thân thể người tất nhiên sẽ bắt đầu có cảm giác, khí đi lên trên, hóa thành nghìn vạn hình, việc biến linh này mới xem như là thành công bước đầu. Có người xem thường công phu này, kì thực đây chính là chìa khóa của pháp môn này, nếu không dùng chìa khóa này thì dù ngồi khô trăm năm, ngồi đến khi đất lõm xuống thì cũng có thể đắc được cái gì chứ?

Chiếc chìa khóa vàng đầu tiên của tu linh chính là: biến linh.

02. Ba cửa ải Thiên Ma

Đạo giáo có ba vị Thần linh, tên gọi chung là Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế, ở đây tức là Thiên Quan Nghiêu Đế, Địa Quan Thuấn Đế, Thủy Quan Vũ Đế. Thuật yoga Ấn Độ cũng phân chia thân thể người thành thiên luân, địa luân, hải để luân. Hai cách nói này không hẹn mà hợp ý nhau, và thông qua kết quả tu linh của tôi, tôi phát hiện thấy tẩu hỏa nhập ma cũng có ba cửa ải lớn, ở đây tức là ải Thiên Ma, ải Địa Ma, ải Thủy Ma, người tu linh phải thắng được ba cửa ải Thiên Ma thì mới xem là đắc đạo, bằng không tất cả đều là nói suông mà thôi.

Có một số người căn cơ nông cạn, cả đời không có thiện công, nguyên thần bất định, không có chút nguồn gốc nào với Thần Tiên cõi trên, tôi khuyên những loại người này trước tiên hãy niệm Phật học Phật và đừng đi theo pháp môn linh tu cảm ứng, cũng hãy khoan khởi linh. Trừ phi bạn tự nhận mình có lòng tin kiên định, không nghi không hoặc, hơn nữa tự nhận mình thường ngày không làm điều ác, công hạnh cao siêu, loại người này cũng thuộc hạng người như tôi, bằng không thì nhập Đạo môn, học khởi linh sẽ lập tức dính ma. Dính vào ma rồi lại tìm đến tôi để cầu hóa giải, thì tôi lại phải hao tổn rất nhiều sức lực, thật sự là rất rầy rà phiền toái. Thế nhưng nhập đạo mà không có ma nạn thì lại cũng không xem là có tu đạo. Dù ai ai cũng có thể tu đạo, nhưng đạo cao một xích, ma cao một trượng, nếu không vượt qua được ba cửa ải Thiên Ma thì sẽ uổng phí tâm huyết cả đời. Có thể thấy tu đạo vẫn đòi hỏi hạng người số một trong thiên hạ, là việc đại sự hạng nhất.

Bước thứ nhất của pháp môn tu linh cảm ứng, khởi linh chính là chuyết hỏa xuất ra từ hải để luân trong thuật yoga, cũng chính là sự hồi sinh và xuất hiện của linh hồn, đến cảnh giới này sẽ sản sinh ra ba kiểu hiện tượng.

Kiểu hiện tượng thứ nhất là thần linh tiếp dẫn, đây là kiểu đúng chuẩn nhất và cũng là thành công nhất trong việc khởi linh. Sau khi linh hồn ở trong hải để luân phá vỏ thoát ra sẽ sinh ra sáu cơn chấn động lớn của tiểu chu thiên, một đường ánh sáng trắng từ không trung giáng xuống, Tiên linh sẽ bảo vệ cho nguyên thần vừa mới sinh ra này. Lúc này mặc dù có chấn động nhưng trong tâm trí của người tu linh thì lại sáng trong như tấm gương, rất rõ nét, không hỗn loạn, biết rõ cơn đại chấn động toàn thân của bản thân, tự mình hiểu rõ tất cả. Lúc này nên trì thêm Phật hiệu hoặc chú ngữ, hi vọng Thần Tiên bảo vệ, tương trợ, phò trợ. Thiên Thần và linh của ta hợp nhất, Thần Tiên đi theo bên cạnh, một khắc cũng chẳng tách rời. Đến được bước này rồi thì tức là một sự khởi đầu tốt, người như vậy mới xem là tu sĩ của phái Chân Phật Tông, bằng không thì cũng chưa phải là người nhập môn.

Hiện tượng thứ hai nảy sinh là hiện tượng trung lập, hạng người này không có nguồn gốc với các Thần Tiên cõi trên, và cũng không dây mơ rễ má gì với linh của ma quỷ. Sau khi Thần Linh giúp họ khởi linh thì cũng lập tức lui đi, người đó cũng không biết phương pháp tu trì, linh quỷ cũng không chiếm đoạt thân trung ấm của người đó. Đây gọi là hiện tượng "không linh", ví dụ giống như một căn nhà trống, không có chủ nhân, bất kì ai cũng có thể ở, nhưng căn nhà này lại khước từ, không cho những ai có thể là chủ nhân thật sự của nó vào. Điều này nghĩa là cái linh không có cách nào tự chủ, giống như trạng thái trôi nổi. Loại người này phần lớn trở thành kê đồng, người nước ngoài vẫn gọi là nhà ngoại cảm, người để cho linh của thần quỷ nhập vào thân.

Linh của kê đồng một số có thể tự chủ, một số thì không thể tự chủ, việc này cần phải xem cách tu của bản thân kê đồng. Kê đồng và người tu linh có sự khác biệt rất lớn. Khởi linh nếu trở thành kê đồng thì cũng là vì người này nguyên thần bất định, không có duyên với Tiên Phật, linh không thể tự chủ, tâm trí bị linh khác khống chế. Nhưng nếu người đó có thể dần dần phớt lờ thì tâm thần sẽ dần dần hồi phục. Loại người này không có duyên với Tiên, tôi khuyên họ trước tiên hãy tin theo Cơ Đốc giáo, hoặc tin Phật giáo, niệm Phật tu thiện công là được, bằng không sẽ tạo cơ hội cho Thiên Ma lợi dụng thì phiền phức lớn đó! Hiện nay có rất nhiều người làm kê đồng và phù kê bị Thiên Ma quỷ linh mượn xác rất lâu. Thế nhưng họ không hề biết, Thiên Ma quỷ linh mặc dù cũng có thần thông, nhưng lại khác chư Phật và Thiên Tiên xa lắm! Người làm kê đồng hoặc phù kê nếu sớm tu thiện công, có được sự quan tâm của Thiên Thần, nếu linh tự chủ được thì cũng có thể biến thân.

Kiểu hiện tượng thứ ba là nhập ma. Kẻ hèn này nghiên cứu mà biết được, phàm là các pháp môn Thiền tông, thiền định, tĩnh tọa, chỉ quán, v.v… thậm chí luyện thuật yoga, đều sẽ có người sinh ra hiện tượng nhập ma. Thiên Ma lợi hại vô cùng! Linh trí của người tu đạo tu đến Vô sắc giới, nguyên thần dù cách thiên khiếu không xa, nhưng nếu cố chấp vào "Không" thì cũng sẽ nhập vào ma cảnh, chỉ dừng lại ở Vô sắc giới, không nhập được vào cảnh giới La Hán, không đắc được quả vị La Hán. Nhập vào Vô sắc giới thiên, điều đáng tiếc là linh không có chỗ nương náu, thực hư bất phân, mê muội đến phát điên, tự mình biến thành Thiên Ma, thành tựu tất cả pháp Thiên Ma, kết quả của việc này vô cùng đáng sợ.

Nếu có người bình sinh làm nhiều điều ác, kiếp trước cũng không có thiện căn, không có Tiên duyên, bán tín bán nghi, đạo tâm không vững, nếu tu khởi linh, một khi linh đã khởi động, chẳng phải Thiên Thần đến tiếp dẫn mà lại là Thiên Ma đến tiếp dẫn, như thế thì gay go rồi. Thử nghĩ mà xem, Thiên Ma đến tiếp dẫn thì có kết quả tốt đẹp gì chứ, người này bỗng chốc đã trở thành quyến thuộc của Thiên Ma, cử chỉ lời nói và hành động trái ngược với người bình thường, tự xưng là đắc đạo, tu Tiên học đạo nhưng lại làm trái luân thường, không hợp tình lí, đôi mắt hiện lên vẻ lờ mờ mơ hồ, thần trí bất chính, đây chính là hiện tượng nhiễm ma. Nếu là hồn ma nhập vào thì vẫn có thể xử lí được, nếu là Thiên Ma chiếm thân, hoặc do nghiệp chướng kiếp trước thì cái này ngay cả Tiên Phật cũng không có cách nào cứu độ được! Vì thế, pháp môn linh tiên cảm ứng của chúng ta không phải là pháp môn phổ thông, người có đạo cơ không đủ sâu, người có định lực không đủ, thì tuyệt đối không thể tu luyện một cách đui mù, không có minh sư chỉ dẫn thì nếu tẩu hỏa nhập ma, tôi không chịu trách nhiệm.

Cái gọi là ba cửa ải Thiên Ma thì Tam xoa lộ khẩu của khởi linh là cửa thứ nhất, Chính niệm lực của Cửu chuyển huyền công là cửa thứ hai, Xuất thiên khiếu là cửa thứ ba. Đây là cách nói đơn giản của tôi, tức là Thủy Quan, Địa Quan, Thiên Quan, không qua được ba cửa ải này thì không xem là đắc đạo, mà cửa sau sẽ khó hơn cửa trước. Nếu dựa vào tự lực muốn đột phá ba cửa ải này, trên thực tế trong vạn người không có được một người, nhất định phải có minh sư và Thiên Thần trợ giúp mới được, tự lực và tha lực phối hợp cũng có thể được. Kẻ hèn này sẽ giải thích kĩ càng hơn lần lượt từng cửa ải này ở những chương sau, chương này chỉ nói sơ qua vài nét chính thôi.

Tôi xin có lời khuyên với một số người có cách nghĩ đơn thuần, người không có bản lĩnh kiên nhẫn lớn, hãy tin theo đạo Cơ Đốc tương đối đơn thuần, Cơ Đốc là pháp môn tiện lợi, làm nhiều việc thiện, kết một chút thiện duyên cho kiếp sau, nếu có duyên với Thiên Thần thì lại tu pháp môn linh tiên cảm ứng cũng không muộn. Tôi cũng khuyên người người hãy học Phật, niệm Phật vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới, đây cũng là pháp môn phương tiện. Nếu có người không sợ khó thì mới có thể đi cùng tôi, pháp môn kết thúc sinh tử này của tôi vẫn là pháp môn Đại thừa chí cao vô thượng của Chân Phật Tông.

Khi tôi viết chương sách này, Thiên Ma giáng xuống đấu pháp với tôi, đôi bên đều tổn thất.

03. Khởi linh thần công đệ nhất pháp

Trong mấy cuốn sách tâm linh trước, tôi đều nói đến việc làm sao để khởi động chân linh, chương sách này chính là "khởi linh nằm ở nhất tâm, không khởi một niệm". Phương pháp ở đây nhìn thì đơn giản, nhưng thực ra chân tướng tôi sẽ nói rõ sau đây. Tôi không dám đem cái đơn giản mà nói rằng nó khó thế này gian nan thế kia. "Khởi linh thần công đệ nhất pháp" này, nếu là người có chính niệm ngồi xuống thực hành được, đó đích thực là Phật tử xuất thế, là người số một trong gia tộc Thần Tiên.

Tôi vẫn luôn hoài nghi về những cao tăng đại đức qua nhiều thời kì của Phật gia và Đạo gia vì sao họ không công khai phương pháp đơn giản dễ thực hành này, tại sao phải đợi đến khi tôi nói ra? Lẽ nào đây cũng là một định số, nếu không phải là pháp luân được truyền qua nhiều kiếp của một người họ Lư nào đó thì không được? Phải biết rằng đại pháp này ốc loa không thổi được, vì một khi thổi lên sẽ gây ra đại chấn động khắp trên trời dưới đất, đủ mọi hạng người sẽ nhất loạt chú ý, Thiên Ma ngoại đạo Atula sẽ đều đến quy y, năng lực của tôi nếu quá kém thì làm sao chịu đựng được trọng trách lớn lao này. Tiên Sư Tam Sơn Cửu Hầu cũng có phần quá xem trọng tôi rồi, thật sự khiến tôi xấu hổ không còn mặt mũi nào nữa.

Tôi thuật lại "khởi linh thần công đệ nhất pháp" như sau:

Thứ nhất, bất kì người nào muốn khởi động hoạt linh, điều kiện thứ nhất là phải có tín ngưỡng tôn giáo, người không có tín ngưỡng tôn giáo thì xin đừng tùy tiện thử nghiệm. Người có tâm thành thì "linh" sẽ động, vàng đá sẽ nở hoa, không có chuyện không thành công. Nếu trẻ con muốn khởi linh, tôi khuyên chúng hãy từ bỏ đi, bởi vì không có tín ngưỡng tôn giáo kiên định, không làm chủ được tinh thần thì rất dễ nhập ma. Nếu chỉ là thử nghiệm cho vui thì rồi sẽ phải hối hận, tôi khuyên những người này cũng đừng thử nghiệm, bởi vì một chữ "chân thành" vẫn là nền móng của trời đất, là sự khởi đầu của vạn pháp, tất cả đều bắt đầu từ chữ "chân thành" này, như thế đã là thành công một nửa rồi. Nếu còn nghi hoặc thì vẫn là người không có đủ nhân duyên.

Thứ hai, khởi linh lấy hơi thở và ý niệm làm trọng, bất kì niệm tưởng nào cũng phải dừng lại, chỉ giữ lại niệm tưởng khởi linh, vạn pháp quy nhất, vạn niệm quy nhất, một niệm không khởi lên thì đây cũng tức là cái chân cơ huyền diệu. Sự xung kích của hoạt linh, sự xuất hiện của Phật tính đều nằm trong một niệm còn lại này, mà một niệm tức là vô niệm, vô niệm thì là chuyên nhất. Một tiếng sấm rền, thần quang như linh xà chạy nhảy dữ dội, hễ được tiếp dẫn thì một cảm giác đến từ toàn thân, cứ như thế nguyên thần hoạt bát ở trên thân lưu động như mạch máu chảy, đều có thể cảm nhận được vô cùng rõ rệt, sự chuyển động của linh hồn này giống như con rắn bò đi khắp toàn thân.

Thứ ba, người muốn khởi linh, trước tiên phải chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, cũng giống như phòng thiền của Phật gia, có thể dùng thư phòng cũng được. Khởi linh không được ngồi trên giường, cần ngồi trên một chiếc ghế sạch sẽ đặt trong phòng, không cần phải chú trọng đến cách ngồi ra sao, không cần phải ngồi khoanh một chân, khoanh hai chân hoặc ngồi kiểu hoa sen mà có thể ngồi tùy ý, chú trọng đến sự tự nhiên thoải mái, làm sao để có thể ngồi được rất lâu là được. Trước đó cần tắm gội trai giới, cầm hương bẩm báo với thiên địa thần linh, thái độ trang nghiêm, không được làm một cách tùy ý qua loa, trai giới được ba ngày thì tốt, càng lâu càng tốt. Về mặt tinh thần thì phải thành tâm, tuyệt đối không được đắc tội với thần linh cõi trời, nếu đắc tội thì các vị không thể trợ lực, mà thế thì cũng vô dụng!

Thứ tư, trong tịnh phòng châm hương, một nén hương hoặc ba, năm nén hương đều được. Tín đồ Phật giáo thì trong tâm có thể niệm thầm A Di Đà Phật, tín đồ Đạo giáo thì trong tâm có thể niệm thầm Diêu Trì Kim Mẫu, tín đồ Cơ Đốc giáo thì trong tâm có thể niệm thầm Jesus Christ, tôn giáo khác thì cũng như vậy mà suy ra. Phải nhớ hai tay cần chắp lại, chắp lại đặt trước ngực, hai mắt nhắm lại, hai chân chạm đất, nhất tâm hoàn toàn tập trung vào niệm thầm bốn chữ Thánh hiệu. Lúc này, bàn thờ thanh tịnh, tâm thông với trời, nếu cảm động khiến Thiên Thần hạ giáng thì Thiên Thần sẽ nhanh chóng tương trợ, và linh của bản thân ở hải để luân sẽ động đậy. Giống như con gà nhỏ đang nứt vỏ, linh hồn trong sát-na sẽ bật tung ra, thần trí lúc này rất sáng sủa, và không cần phải sợ hãi, cứ để cho linh ấy tự chuyển động. Lúc này, lập tức tay múa may, chân giẫm đạp, đầu lắc tay vẫy, thân cũng chuyển động, cái này gọi là sáu cơn đại chấn động của tiểu chu thiên. Thần sắc không đổi, linh đài thanh tịnh [tâm thanh tịnh], không nhiễm ác duyên, không chấp dị tướng, đây mới là chính đạo.

Thứ năm, khởi linh phải cần thời gian bao lâu, phần lớn thì mỗi lần khoảng năm mươi phút, cái này cũng thay đổi tùy theo mỗi người. Mỗi người mỗi khác, có người vừa ngồi xuống, dựa theo pháp nhân duyên, chưa đến một phút là đã có được cảm ứng rồi. Cũng có người phải ngồi đến lúc thời giờ đến mới có cảm ứng, có người liên tục tĩnh tọa mười lần mới có được cảm ứng. Theo tôi nghiên cứu, người bình thường khi ngồi tĩnh tọa thì thường không thể tĩnh lại được, các suy nghĩ trong đầu cứ tuôn trào như sóng, mà đã như thế thì muốn cảm động thiên thần hạ giáng là vô cùng khó, ngược lại còn dễ vấp phải ma đạo. Nếu ở trước Phật Bồ Tát mà khởi linh, có minh sư bảo vệ thì hầu như sẽ không xảy ra sai lầm gì. Có một số người không dựa theo chính pháp, không thành tâm, Thiên long Hộ pháp chưa đến, ngược lại còn bị âm thần quấy nhiễu, như thế thì rất phiền phức. Hôm nay tôi giải thích rõ như vậy, nhấn mạnh thêm một lần nữa, rằng không được xem thường đây là trò chơi, như thế thì cực kì không tốt.

Thứ sáu, các tông sư Phật môn nhiều đời ngày xưa, công án thiền nhiều, Thiền tông cũng nói về tĩnh tọa, Thiền tông nói về nhất tâm bất động, pháp chân không cũng là không, không chấp vào một niệm. Nhưng mà ngày nay, Chân Phật Tông của Lư Thắng Ngạn tôi và Thiền tông vừa khéo lại tương phản với nhau, mặc dù tương phản, nhưng mục đích là giống nhau, hoàn toàn là vì để người người có thể thành Phật tác Tổ. Thiền là nói về định, nói về tĩnh, còn tôi nói về linh, nói về động, cái này giống như một biển lớn, những con sóng trên mặt biển chuyển động ghê gớm như vậy, nhưng mà đáy biển thì vẫn bình lặng như nước đứng yên. Những linh tính cuồn cuộn cũng như thế. Nếu hiểu được câu nói này của tôi thì cũng chính là tri âm của tôi.

Nếu khởi linh thành công thì chính là người trong đạo của Chân Phật Tông tôi, linh hồn đã sống rồi thì mới có khả năng tu linh, như thế mới có thể thoát li khỏi nhà cháy của tam giới, thành Phật tác Tổ, Thần Tiên và ta lúc đó là quyến thuộc rồi. Theo tôi được biết, khi khởi linh thành công, người người đều có cảnh giới khác nhau, có người lập tức đắc thiên nhãn thông, có người lập tức đắc tha tâm thông, có người lập tức đắc túc mệnh thông, có người lại chẳng hề có cảm giác gì, chỉ là chân tay sẽ rung động theo tần số mà thôi, có thể biết việc đến đi của thần linh, những cái khác thì đều không biết, nhưng, người lập tức có được thần thông suy cho cùng cũng là thiểu số, cái này cũng vẫn liên quan đến túc mệnh căn duyên.

Còn nhớ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh từng chỉ thị cho tôi rằng: "Phật ta độ người, vốn có vô lượng pháp môn, thiền pháp mặc dù to nhỏ vi diệu, nhưng cũng có thể nói rằng với phàm phu thế tục thì ngồi khô ba đời cũng chẳng đi đến đâu, còn thượng nhân thì rốt cục lại quá ít. Nay pháp môn Chân Phật mới bắt đầu, thời cơ phổ độ Phật pháp đã đến, Liên Sinh, đừng quên "khởi linh thần công đệ nhất pháp" mà ta đã giao phó cho con, để chúng sinh ban đầu có được cảm ứng, phụng trì cả đời, sớm chứng bồ đề."

04. Người số một trong gia tộc Thần Tiên

Kẻ hèn này tu tĩnh tọa, từng nhập vào Thánh giới của thứ tự viên mãn, đến được Thánh giới này thì khi ấy mới biết "thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân", người tu linh không thể không biết.

Tôi đi trên mặt đất đầy sương khói, khắp nơi là kì hoa dị thảo, cũng có những cây cầu nhỏ và đình gác, nơi này bốn mùa đều như mùa xuân, gió và hương, thơm như mật. Phía trước động thiên phủ địa đều là tiên hoa tiên thảo, cảnh trí tao nhã lôi cuốn con người. Vào trong động phủ không nghe thấy âm thanh ồn ào, mà thấy các Tiên đều đang ngủ mơ bất tỉnh, ngủ say sưa một cách ngon lành. Tôi đã đi đến không ít các nơi, những gì tôi nhìn thấy đều khiến tôi thấy vô cùng kì lạ. Đột nhiên tôi nhìn thấy trước mặt tôi có một lão tiên ông lom khom đi đến, tôi tiến lên trước cúi đầu chào.

"Tiểu tử kia từ nơi nào đến đây?" "Kẻ hèn này là Liên Sinh ở Nam Chiêm Bộ Châu, vì tu thiền định mà đến đây." "Mau đi mau đi, nơi này gọi là Trung Thiên Phóng Tùng Quốc Độ, các thần tiên ở đây đều vô công rồi nghề, nhập vào cảnh giới này tức là nhập vào nơi trống rỗng không người, nơi chẳng có gì hết, nơi trống rỗng vô ích, lão tăng nhập định, nhập xuyên vào cảnh giới này thấy chẳng có ý nghĩa gì. Những thần tiên đến Thánh giới này và thế là tự mãn không muốn tiến đến cảnh giới khác nữa, vì thế mà đều nhàn rỗi ngủ liên miên như thế này đây, nếu ngươi trở về, nhất thiết phải khuyên người ta tu hành, phải tu thành người số một trong gia tộc Thần Tiên, nếu làm hạng người số hai thì người số hai này chỉ gia nhập vào được Trung Thiên Phóng Tùng Quốc Độ này thôi." - Lão tiên ông nói. "Xin hỏi tiên ông là ai?" - Tôi hỏi. "Vô danh lão nhân chính là ta." - Lão tiên ông nói xong rồi biến mất.

Linh thể của tôi rời khỏi Thánh giới, mãi đến khi tỉnh lại, tôi phát giác ra mình đang nằm co ro. Tôi từ ngồi tĩnh tọa cuối cùng lại biến thành nằm cong người ngủ mất, thật là đáng buồn cười! Trung Thiên Phóng Tùng Quốc là giấc mơ của tôi, hay là thật sự có đất nước ấy, tôi cũng không chắc, thế nhưng theo như tôi biết, người tỉnh như mơ, người mơ lại càng huyễn, nhân gian rất khó mà tìm được một người thật sự thức tỉnh.

Bây giờ tôi đã cảm nhận được, Thiền tông bất lập văn tự [không thể nói ra bằng lời mà mô tả được], ẩn mà không hiện, các vị tổ sư nhiều đời thiên về tự thấu triệt huyền cơ tinh túy, cho dù có thấy được cái kiến thanh tịnh, cũng không được mô tả nó. Bởi vì bất lập văn tự, không có con đường từng bước rõ ràng, nhưng lại không được phép nghi ngờ, không được dùng thiền định, không được phép dùng hiểu biết lí giải.

Những công án đưa ra là muốn khiến người ta lập địa thành Phật ngay, phong cách bao giờ cũng là ẩn và không thấy con đường rõ ràng, khiến người bình thường lại càng không lần ra được biên giới. Còn con người ngày nay lại dựa vào cái thực để mà đo lường, khi hoàn toàn bị đặt giữa cái hư ảo thì không thể ứng dụng thực tế, cho nên người đắc đạo [từ pháp Thiền tông thế này] cực hiếm, thì con đường của Tiên Phật trở nên xa xôi rất khó có hi vọng gì!

Hôm nay, tôi bảo người ta tu Linh tông, hi vọng người người từ chính bản thân mình mà tu nên, không phải ngồi khô trăm kiếp mà chẳng thu được gì, bắt đầu tu từ chỉ một chữ "linh" đơn lẻ, để lập tức có được cảm ứng. Trong thời đại khoa học này, một khi ấn chứng được sự tồn tại của linh thì sẽ không còn là lí luận suông nữa, vì có nói suông thì cũng chẳng có chút ý nghĩa nào. Thiền tông ngồi khô trăm kiếp, mặc dù có người đắc chứng, nhưng nếu nhập vào Trung Thiên Phóng Tùng Quốc, bám chấp vào hai khái niệm sai là nhân - ngã, thì chẳng phải là giống như Thần Tiên ngủ một giấc dài sao? Như thế thì làm Thần Tiên cũng có ý nghĩa gì chứ?

Người khởi linh nếu biết nguyên lí tu đạo, theo đuổi lần lượt từng cấp độ, có thể trở thành người số một trong gia tộc Thần Tiên, đạt được chính quả vô thượng, đây chính là quả vị đại viên mãn, thành tựu tất cả pháp đế, không giống như hạng nhàn nhã. Muốn có cảm ứng thần thông, dựa vào "khởi linh thần công đệ nhất pháp", có thể đắc cảm ứng vi diệu, rồi thâm nhập thêm một chút nữa thì chính là tha tâm thông mà con người thông thường biết đến.

Kẻ hèn này nói sơ lược về công pháp tha tâm thông như sau:

Sau khi có được cảm ứng vi diệu nhờ khởi linh, nên thường xuyên nhất tâm trì một pháp một chú. Một pháp tức là pháp tĩnh, giữ tại linh khiếu của chính mình, khiến cho "nó" ẩn mình mà không tự do thoải mái, để tránh cho "nó" không chạy lung tung rồi không thể cứu vãn. Trì một chú gia trì, ở đây vẫn là khẩu mật và thân ý đại mật của Mật tông, và là pháp bảo phòng ma. Trì mật chú thì sẽ tự có Phật linh của linh giới che chở, trí huệ vô hình của mình sẽ tăng trưởng, do nghiệp chướng tiêu trừ mà sáng dần, như một tấm gương báu sáng chói luôn luôn hiện lên trong tâm. Lúc này, khi quan sát ngược lại tự tâm, có thể thấy rõ một tấm gương tròn sáng lớn hoàn toàn trong vắt (Đạo gia gọi cái này là gương ngọc của tự thân). Nếu dùng gương ngọc này để hợp với gương ngọc của thiên thượng thì chính là "đắc đạo". Nếu thấy gương ngọc của mình phát tỏa ánh sáng, dùng niệm lực thỉnh cầu một việc, nguyên nhân hậu quả của việc đó liền hiển hiện trong gương ngọc. Sự hiển hiện này chỉ trong một sát-na, từ tâm ấn đến não bộ, từ não bộ đến mắt, thế là toàn bộ những suy nghĩ trong tâm của người khác lần lượt đều có thể biết rõ. Đây chính là tha tâm thông - một trong sáu đại thần thông.

Với những người sau khi khởi linh, nếu các kiếp trước không có duyên phận với Thần Tiên (đại đa số là như vậy), thì từ ngày đó có thể bắt đầu thờ phụng tượng của một vị Thần Phật để sớm tối lễ bái. Lấy bức tượng này làm phương hướng trong lòng mình, sớm tối cung kính lễ lạy, cũng là để tăng trưởng tâm sùng kính trang nghiêm. Mỗi lần tĩnh tọa có thể thắp một nén hương, tâm nghĩ đến Bồ Tát ở trước mặt, thu lại tất cả vọng tưởng, mũi ngửi hương thơm, tâm gửi vào thiên thượng. Tượng Thần Phật không cần phải hạn chế là Thần nào Phật nào, tự tâm mình cảm thấy vui thích là được, tượng này vốn từ tâm sinh ra, tâm có cảm nhận, tâm có hoan hỉ thì đó mới là thành ý lớn nhất của việc thờ phụng Bồ Tát. Bởi vì không có duyên phận Thần Tiên của kiếp trước, kiếp này sớm sớm tu trì thì cảm ứng chỉ dừng lại ở sự linh động của khởi linh mà thôi. Nhưng dù sao cũng đừng sốt ruột, sốt ruột cũng vô ích, chỉ cần nỗ lực chịu khó, không cần hỏi đến chuyện thu hoạch. Phải biết rằng chuyện cảm ứng đạo giao không phải cứ cầu là có thể có được, mà cần phải phối hợp với nhân quả kiếp trước nữa. Kiếp này tu tuy chưa đắc được gì, nhưng nếu không mắc sai lầm, thì kiếp sau càng có thể tiếp tục tu, hoặc vì một lòng thành thật nghĩ đến Phật quốc, niệm niệm thành thục, vãng sinh Phật quốc cũng rất có khả năng, việc tu hành này chỉ có lợi ích chứ không hề có hại, đời này không tu thì còn đợi đến đời nào?

Khởi linh thần công đệ nhất pháp, điều quan trọng nhất nằm ở niệm lực. Niệm lực là tất cả căn bản của khởi linh, nếu tinh thần gửi gắm vào không trung, nếu linh có thể khởi lên, có thể rất nhanh chóng được tiếp ứng bởi linh của không trung. Như sấm chớp vang rền, trong sát-na, con người chỉ cần dựa vào không khí mà có thể thăng lên nhập vào trong thiên giới, bước chân của "nhà du hành vũ trụ" đạp lên không khí mà cũng có thể đi lại trong linh giới. Dùng niệm lực để thúc đẩy linh lực, nhập vào tất cả Thánh giới, từng Thánh giới chắc chắn sẽ phải kêu người tu linh là xem thế đủ rồi đó.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Hết thảy tông pháp đều là pháp giải thoát, từng pháp hiển thị trước mắt chúng sinh. Chư Phật Bồ Tát lập ra tất cả nguyên tắc, thật ra là chẳng có nguyên tắc, đừng quên sự tự giác ngộ mới là cái căn bản quan trọng nhất, chư Phật không thể giác ngộ thay được. Là người số một trong gia tộc Thần Tiên, thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn, Chân Phật nhất tông, chẳng phải thuyết giảng điều gì bí mật, cũng không thuyết giảng cành lá vụn vặt, mà chỉ thuyết pháp căn bản cơ yếu.”

05. Pháp môn Tam Đại Chứng Không

Hôm nay, Liên Sinh khởi xướng Linh Tiên Chân Phật Tông, vẫn là để đáp ứng sự thuận lợi cho con người thời nay, hợp với trào lưu thế giới, đặc biệt là vào cái thời cần có bằng chứng này, nếu không thể lập tức khiến người ta có được cảm ứng thì rất khó tìm được người có duyên phận. Hơn nữa vào cái thời mà thuyết vô thần thịnh hành, nhân loại có cái tôi cao ngạo, ma kiếp ập xuống đầu cũng không tự nhận biết, thì chỉ còn cách để tôi đưa cánh tay nhỏ bé ra cứu vãn tình thế rối rắm này, khiến người người biết có quỷ thần, có nhân quả báo ứng, khiến thế nhân mau hướng thiện và tránh xa cái ác, xây dựng thế giới đại đồng tại tịnh thổ nhân gian.

Thầy tôi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh chính là Thiên Tiên ở thượng giới, nhờ đạo pháp mà chứng đạo, ngài đã chỉ ra pháp môn Tam Đại Chứng Không, chính là Thiền tông, Mật tông và Linh tông. Cho đến nay hai tông là Thiền và Mật đã phát huy rồi, còn Linh tông thì vừa mới xuất thế. Tông sư các đời đòi hỏi có người tài giỏi xuất thế, còn Linh tông lại do một người họ Lư nhỏ bé mở đường làm người tiên phong. Tôi chẳng phải là người tài giỏi gì, tôi chỉ thay thế cho cao nhân của Linh tông trong tương lai sẽ xuất thế, làm công việc lót đường mà thôi. Trong tương lai, nghìn vị Phật ứng thiên hợp vận xuất thế, khi ấy mới là lúc Linh tông phát dương. Tu Linh tông không thể đi ngược với Phật giáo nguyên thủy, nó vốn là Phật giáo, chỉ là tu hành bắt đầu từ cảm ứng khởi linh, đây là điểm duy nhất khác biệt với các tông phái khác. Linh tông không thể đi ngược với trung hiếu nhân ái tín nghĩa hòa bình, không thể làm trái lễ nghĩa liêm sỉ, mà luôn hợp với Thiên đạo, hợp với đạo trung thành, giúp cho đất nước dân tộc mình hưng thịnh, cũng là đạt đến mục tiêu cuối cùng là người người hành thiện thành Phật.

Theo tôi được biết, hai tông Thiền - Mật rất gần nhau, hơn nữa còn có những chỗ không thể phân biệt, tổ sư Thiền tông cũng học Mật, tổ sư Mật tông cũng học Thiền, đến bây giờ còn có cảm giác Thiền - Mật bất phân nữa! Lão hòa thượng Thái Hư từng phân loại Thiền tông thành: (1) Minh tâm Như Lai thiền (2) Siêu Phật tổ sư thiền (3) Siêu tổ ngũ gia thiền (4) Tống Nguyên Minh Thanh thiền

Còn nếu dựa theo tác phong để phân chia thì Thiền tông thực tế có: (1) Thánh giáo Như Lai thiền (2) Trực chỉ tổ sư thiền (3) Cơ dụng nhi tôn thiền (4) Khẩu đầu hà sa thiền

Tất cả pháp do các tổ sư Thiền tông nhiều đời truyền khẩu và tâm ấn để truyền thụ, công án nhiều vô kể, có thể so sánh giống như hoa trời vãi xuống, đắc chứng hay không đắc chứng đều nằm ở giữa cái tướng, trong cái Không có cái tính, lấy vật để chứng lý, lấy lý để chứng đạo, khá là lôi thôi luộm thuộm, năng lực lĩnh ngộ của con người bình thường cực kì hữu hạn. Có người chỉ ra rằng, Khẩu đầu hà sa thiền đã hình thành nên nhiều hủ tục đa dạng, trở thành đối tượng khiến người người châm biếm. Mặc dù có công án, nhưng lại không có chỗ đứng thật sự, để tâm ấn tự nhiên, tu mà không biết bắt đầu tu từ đâu.

Hơn nữa Mật tông cũng như thế, Mật tông có phân chia Đông mật và Tạng mật. Mật cũng tức là bí mật, đại khái là chỉ thân mật, ngữ mật, ý mật, giảng đại pháp để cắt đứt thân khẩu ý, sự sâu xa của nguyên lý trong đó, sự sâu xa của nghĩa đế lại càng không phải là thứ mà người bình thường có thể tu học. Có người giảng Đại viên mãn, có người giảng Đại thủ ấn, lại có người giảng pháp Kim cang liên hoa song vận, Mật tông là thứ mà người theo Hiển tông không thể hiểu được. Tôi cho rằng, pháp môn Chứng Không cũng lấy Mật tông làm đầu, còn sự khác biệt giữa hai phái Thiền - Mật không lớn, nếu người tu hành không phải là bậc thượng nhân đại trí thì rất khó hiểu được chân đế trong đó.

Kẻ hèn này đã bước vào Phật môn, đã nghiên cứu khắp kinh thư, vì mong thể hội được tính Không, từng tu Thiền Mật, tôi cho rằng đây là pháp môn vô thượng. Bởi vì tôi đã đi vào môn công phu thiền định, từng đến Dục giới, nhưng rồi rời khỏi đó để vào Sắc giới, rồi mong cầu vô niệm nên lại nhập vào Vô sắc giới, thế giới hư không này giống như phía trên của tầng khí quyển, thuộc về thế giới của không còn hơi thở, là xứ Không vô biên. Đến được xứ Thức vô biên thì tất cả đều hoàn toàn mênh mông mù mịt, tất cả đều chẳng có gì. Tôi nhận thức sâu sắc rằng, đây vẫn chưa phải là xuất thế gian, ở xứ này vẫn dễ khởi lên tâm thiên lệch, hơn nữa hoàn toàn không có sự trả lời nào, nên tâm sinh ra hoảng sợ, đến cuối cùng chỉ có thể rút khỏi cảnh giới kì diệu ở đẳng cấp này, trở về trong Sắc giới. Tôi phát hiện thấy, tất cả mọi thứ của Sắc giới thiên chính là sự tương phản với Vô sắc giới, Vô sắc giới mới là một trận ma khảo lớn của tu hành giả chân chính. Nay tôi tu Thiền tu Mật, phát hiện ra điều mấu chốt thâm sâu ảo diệu nhất trong đó, chính là cái cửa của Vô sắc giới mới khó phá bỏ, ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên mới xem như là xuất thế gian, cái chỗ khó cũng nằm ở đây, người thượng phẩm đại trí mới có thể chứng được.

Do đã tu chứng hai tông Thiền Mật, tôi có thể nói rằng người trung phẩm và người hạ phẩm đều không có cách nào đắc được [các pháp trong Thiền Mật], trong lòng tôi buồn vô cùng. Thế là tôi lấy điểm mạnh của việc ngồi thiền của Thiền tông, pháp môn Đại thủ ấn của Mật tông phối hợp với pháp Chuyết hỏa đi lên của Linh tông, dựa vào sự hợp nhất ba thứ này khiến cho cảm ứng đến nhanh chóng, không chỉ là không, mà còn là cảm nhận thực tế, khiến cho người tu tập sớm chứng pháp thần thông, không vì Thiền Mật toàn là nói suông, mà khiến cho người ngoại giới chưa nhập môn cũng có được một chút hiểu biết. Tu linh thật sự nên công khai. Đây cũng chẳng phải là bí mật gì, tôi muốn người người đều hiểu được, Phật môn quảng đại, có thể độ trời người, không chỉ là độ người thượng phẩm mà ngay cả người trung hạ phẩm cũng là những người hữu duyên. Những bà lão không biết chữ không thể tu Thiền Mật nhưng nếu tu trì Phật hiệu thì linh lực vô hình cũng tràn đầy trong thân, tăng cường niềm tin và lòng ngưỡng mộ kiên định, xá lợi trên thân cũng ào ào sinh ra, đại đạo thần thông cũng có thể tự nhiên có được mà không có gì phải hoài nghi.

"Tu Thiền giải thoát vốn vô tu Tu Mật chỉ quán chứng Không tính Thiền Mật cả hai đều vô trước Giờ đây tam đại chứng Không môn."

Đây là bài kệ mà tôi viết vào năm Dân Quốc 65 tại Từ Huệ Lôi Tạng Tự. Khi viết bài kệ này, từ không trung xuất hiện một đám mây mù lớn, trong mây mù xuất hiện một thần voi khổng lồ, trên lưng voi có một vị Đại Bồ Tát ngồi vững chắc, Bồ Tát này chính là Đại Hạnh Phổ Hiền Tôn Giả. Tôi thấy ngài phục sức trang nghiêm lộng lẫy, chư Thiên Hộ Pháp đi theo, Thiên Thần tay cầm hoa sen các màu sắc hiện lên, Phổ Hiền mỉm cười, hé miệng nói: "Liên Sinh, đại hành vốn vô hành, nên tất cả thị hiện, quán Không vốn chẳng Không, nên tất cả là Không." Tôi ngước nhìn Bồ Tát, hai tay chắp lại kính lễ, thấy trên thân Phổ Hiền Bồ Tát tỏa ánh hào quang rực rỡ, xuất hiện ánh sáng ngũ sắc, ánh sáng ngũ sắc này có thể hút vào thả ra, giống như hình chiếc võng, mỗi chiếc lại xuất hiện một Phổ Hiền Bồ Tát nhỏ xíu, nhiều không đếm xuể. Không bao lâu thì tan biến mất.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Người tu linh không thể tự cao ngạo mạn, người người đều từ cái gốc mà tu lên, một lòng học pháp thì sẽ đắc mọi pháp, dùng pháp này cứu người cứu thế, hợp với đạo chính thống, không thể đi ngược với thiên đạo mà các vị tổ đã giáo huấn, trung thành với đất nước với nhân dân, nhân nghĩa lễ tín, đặc biệt không thể không tuân theo."

06. Thông linh kiện thân và trúc cơ

Nguyên lý thông linh cũng có rất nhiều cái ngẫu nhiên. Sau khi thông linh có thể kiện thân, đến cuối cùng sẽ diễn biến thành "trúc cơ". Trúc cơ là từ của Đạo gia, nghĩa là bước thứ nhất của công phu vững chắc trong phương pháp tu mệnh. Còn về thông linh kiện thân, cô Tăng ở phố Tửu Tuyền, Đài Bắc có một ghi chép thật như sau:

"Thầy Lư: tôi và thầy cùng năm sinh. Tôi có một sự việc muốn thỉnh giáo. Thắp hương là công việc hàng ngày của tôi, từ khi đọc xong cuốn sách đặc sắc "Linh Thư" và "Giữa Linh và Tôi", tại Phật đường trong nhà mình (thờ phụng Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Thế Âm Bồ Tát, Võ Thánh Quan Công), vào buổi sáng sớm sau khi thắp hương, tôi quỳ xuống niệm Phật hiệu mười phút, niệm A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Một hôm sau khi tôi quỳ xuống niệm Phật mười phút, không biết thế nào mà đột nhiên muốn ngồi trên ghế, hai tay chắp lại niệm thầm A Di Đà Phật, một lúc sau, trước mắt hiện lên ánh sáng trắng lấp lánh, giống như ánh chớp, trong lòng sôi sục, hai tay tê rần. Đột nhiên có một khối sức mạnh kì quái tách hai tay tôi ra, tôi tăng tốc niệm Phật hiệu, ánh sáng trắng càng lấp lánh không ngừng, giống như ánh sáng tướng bạch hào của Phật Tổ vậy. Động tác hai tay từ tốn biến hóa, giống như đang đánh Thái cực quyền vậy, cuối cùng hai tay luân phiên nhau xoay tròn trên đỉnh đầu, vẽ ra một vòng tròn lớn, hai tay chắp lại lạy Phật ba lạy, tự động kết thúc. Sự việc này diễn ra trong mười phút.

Ngày thứ hai, tôi vẫn quỳ niệm Phật hiệu mười phút, sau đó ngồi trên ghế một phút thì hai tay tự động tách ra, động tác tay lạ lùng chưa từng thấy, nhưng tôi không thật sự kiểm soát được, sau đó hai tay chỉ lên trời như kiểu hợp nhất, bàn tay vẫn tách ra, trong sát-na, ánh sáng trắng đột ngột lấp lánh, trong tâm có một sức mạnh cuồn cuộn dâng trào, tiếp theo là một sự tĩnh lặng trống rỗng, linh hồn có một cảm giác muốn được thoát ra trong giây lát, lập tức hai tay tách ra, làm động tác thủ thế, các chuyển động rất lạ lùng, tổng cộng mười lăm phút.

Ngày thứ ba, trong mười phút niệm Phật hiệu, hai tay đã tách ra, tất cả như bình thường, không có ánh sáng trắng, tim đập bình thường, tay cũng không tê, thời gian mười lăm phút.

Ngày thứ tư, tôi quỳ niệm Phật hiệu chừng một phút thì lập tức tự nhiên đứng dậy, chú trọng vào một tư thế quỳ lạy chính xác, chỉnh sửa cho hoàn hảo hơn, phân hành động quỳ lạy thành ba đoạn, tư thế quỳ lạy này tổng cộng được chỉ dạy trong hai mươi phút, cuối cùng tôi quỳ niệm Phật, kết thúc khóa lễ buổi sáng.

Ngày thứ năm, chú trọng vào việc mát-xa mặt và các bộ phận trên thân thể, ngón tay tự động nhảy múa, mát-xa rất chuẩn khiến thân tâm khoan khoái.

Ngày thứ sáu, hôm nay là chủ nhật tôi không phải đi làm, buổi hôm nay tập trung vào mát-xa vùng dạ dày (đêm hôm trước dạ dày tôi không thoải mái), động tác rất mượt mà và nhanh, bảy mươi phần trăm thời gian là mát-xa bộ phận này và mát-xa mặt và cánh tay, thời gian khoảng một tiếng.

Ngày hôm nay tôi đặc biệt mở mắt ra trong khi làm khóa lễ buổi sáng, những gì mà tôi nhìn thấy cũng đẹp như những động tác mà tôi đã tưởng tượng trong khi nhắm mắt mấy hôm trước, có góc độ, có quy luật, thế tay (ngón tay) cũng kì lạ, thời gian hai mươi phút, đây là tình hình của ngày thứ bảy.

Ngày thứ tám, mát-xa vùng bụng, tôi chưa từng nghĩ đến việc dùng phương pháp này để mát-xa vùng bụng, ngay cả nằm mơ cũng chưa từng có, mát-xa mặt thì tay chuyển động cách mặt vài phân, và hai tay thì tựa như nắm vào một vật trong không gian, sau đó di chuyển hướng về phía da. Bắt đầu chú trọng vào hít thở vùng bụng, hít vào và thở ra theo sự chỉ đạo của thế tay, chậm rãi, khi hít vào, hít, dừng, hít, dừng, khi thở ra cũng giống như thế, tổng cộng ba mươi phút.

Ngày thứ chín, bắt đầu hướng dẫn cho vùng bụng vận động hít thở sâu, theo thế tay mà khởi lên đủ loại biến hóa, đứng dậy để hít thở sâu, hai chân cũng xoay tròn để hỗ trợ cho việc hít thở sâu, tổng cộng bốn mươi phút.

Ngày thứ mười, cũng giống như hôm qua, trừ ngày thứ nhất và thứ hai tôi quỳ xuống để làm khóa lễ buổi sáng, những động tác của quãng thứ hai gần như hoàn toàn là phương thức ngang bằng, nhưng quãng thứ ba thì lại giống như là tiến hành theo phương thức hình cung, điều này mới kì diệu làm sao. Đến nay tôi rất muốn biết linh lực này từ đâu đến? Tôi nghĩ thầy nhất định biết rõ, xin thầy hãy thắp cho tôi một ngọn đèn sáng chỉ bảo cho tôi."

Đây là ghi chép thật về biến linh của cô Tăng ở Đài Bắc. Việc khởi linh của cô Tăng này là không hề chủ định mà đột nhiên thành có, hơn nữa tất cả các thư thế thông linh làm khỏe mạnh thân thể của cô đều phù hợp với mọi hiện tượng sau khi khởi linh. Mặc dù hiện tượng của mỗi người mỗi khác, nhưng có nhiều điểm giống nhau hơn là khác nhau. Trong vô thức, cô Tăng đã bị linh lực chi phối, đã làm ra rất nhiều tư thế mát-xa mà ngay bản thân cô có nghĩ cũng không nghĩ ra được. Nếu nghiên cứu, tôi nghĩ những tư thế này phù hợp với động tác của mát-xa tám huyệt, pháp chỉ thủ ấn, nội gia thổ nạp, yoga kiện thân. Sau khi khởi linh, không cần sợ hãi, nếu có sự phát triển bình thường thì đây tuyệt đối không phải là hiện tượng nhập ma, hơn nữa cũng không phải là nhảy múa loạn xạ theo kiểu kê đồng. Sự hướng dẫn của linh ở mỗi người mỗi khác, nhưng thật sự đều rất tự nhiên. Sau khi thông linh, thần linh trong không trung hoặc thần linh trong nhà mình sẽ bảo vệ cho người thông linh có căn cơ thâm hậu, một cách vô hình huyền bí sẽ hướng dẫn cho người đó phương pháp tu hành, rèn luyện thân thể của người tu hành vô cùng cường tráng, quá trình rèn luyện này có thể gọi là "thuật trúc cơ". Trên thực tế, "trúc cơ" là một trong những công phu của Đạo gia, tất cả nền tảng của Đạo công, một người có thân thể ốm yếu muốn tu Đạo thì nhất định phải bắt đầu từ trúc cơ. Trúc cơ cao siêu nhất là phạt lông rửa tủy, thổ nạp chân khí của Đạo gia, huyền môn linh động, có thể khiến cho tóc trắng biến thành đen, da dẻ hồng hào, cơ xương chắc khỏe, hai mắt có thần, trường sinh bất lão.

Biến linh kiện thân có thể loại trừ bách bệnh của cơ thể, tác giả từng dùng nguyên lý này để thị phạm, hướng dẫn cho rất nhiều người mắc bệnh mãn tính, tự mình chữa trị bệnh tật của mình, hiệu quả của nó khiến người ta kinh ngạc cực kì. Nếu siêng năng luyện tập, công hiệu của nó thật sự là như thần. Trong chương sau, tôi sẽ lần lượt giới thiệu về thuật trúc cơ, trúc cơ không đơn giản, phải lấy sự siêng năng làm chủ, một khi siêng năng thì trăm bệnh tiêu trừ, thân nhẹ như chim én.

Công phu nhập vào thân người khác của linh, bí mật của yoga, tu trì Mật tông, nguyên lý biến linh, có ý thức và vô ý thức, sự vĩ đại của niệm lực, sự khai phá lĩnh vực tinh thần nhân loại, những điều này thần kì biết bao, dùng hai chữ "mê tín" để mà phỉ báng thì thật là vô tri biết bao.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Đạo vốn vô Đạo, tức có công đức thiên biến vạn hóa, kiện thân chính là mục tiêu cơ bản của người thông linh, cũng là sự tổng hợp kiến thức bị thất truyền từ nghìn đời."

07. Sự thần bí của ý thức

Thế giới của việc khởi linh là bất khả tư nghì, tựa như nó là một vườn hoa không biên giới, một vườn đầy loài hoa không bao giờ nở [loài hoa không bao giờ nở là tên gọi của một loài hoa thuộc họ dâm bụt, hoa có màu đỏ hoặc hồng, cánh hoa luôn khép lại và bông hoa luôn rủ xuống, nên còn có tên gọi là loài hoa ngủ, tên khác là Thùy hoa huyền linh]. Một ngày bước được vào trong đó rồi, bạn sẽ phải kinh ngạc tán thán, đây thật là một thế giới huyền diệu! Điểm mấu chốt thật sự của khởi linh chính là nằm ở ý thức, cần biết cái vô thức của ý thức chính là khởi linh, đó cũng tức là thức của ý thức sâu hơn, điểm này vô cùng quan trọng, mối quan hệ đó trong siêu thoát tự ngã của Phật giáo Mật tông được giải thích rất tường tận.

Trong bộ não của con người có ẩn tàng một vùng tinh thần, và ý thức là chủ nhân thật sự của bộ phận đó, trình độ nhạy bén của vị chủ nhân này có một số là do trời sinh, nhưng lại cũng có thể dựa vào sự huấn luyện về sau. Phương pháp khai phá vùng tinh thần, dựa vào sức mạnh của ý thức để nghiên cứu sự thần bí của bộ não, chính là sức mạnh lớn lao của niệm lực. Thiền tông ngày nay hoàn toàn dùng công phu nói đến ở trên, sự vĩ đại của Thiền và Mật cũng chính là siêu thoát tự ngã, sự ấn chứng tự ngã kết thúc sinh tử của bản thân, dựa vào sức mạnh tinh thần của bản thân trực tiếp vượt ra bên ngoài quy luật luân hồi của nhân thế gian.

Người tu linh dùng niệm lực để thúc đẩy sự hồi sinh của linh hồn, đây là phương pháp dùng vạn niệm quy về một, cũng chính là sự tập trung ý chí tinh thần mà người ta thường nói, không chỉ không thể phân tâm mà còn không chịu bất kì sự quấy nhiễu nào. Việc khởi linh này, tôi cảm thấy so sánh với việc gà mẹ ấp gà con là vô cùng thích hợp, khi gà con ra khỏi vỏ tức là linh hồn đã thoát khỏi hải để luân, chỉ cần công phu sâu thì chẳng sợ không thành công. Vì vậy tôi nói, đây là công việc ấp trứng kiên trì, một khi nhiệt độ đủ thì linh hồn sẽ sống lại, phá bỏ lớp ràng buộc đó, cũng tức là tự do tự tại rồi.

Ý thức là một dạng chủ nhân vô hình phức tạp, não bộ là một cái máy, sự phức tạp của cái máy này có khi không có cách nào dùng ý thức để điều khiển được, bởi vì như vậy, tôi phân tích một cách đơn giản ba kiểu quan hệ của chúng như sau:

  1. Ý thức và máy móc phối hợp đều đặn --- tức là một con người bình thường.
  2. Ý thức vượt qua máy móc, phát huy toàn bộ công năng của máy móc --- tức là con người siêu cảm giác, người có hiện tượng linh dị, người khởi linh đều có thể tu đến được cảnh giới này.
  3. Ý thức không có cách nào khống chế được máy móc, năng lực ý thức giảm sút --- đây chính là người có tinh thần suy nhược, và người có tâm thần thất thường, ý thức và bộ não không thể phối hợp, sinh ra hiện tượng tâm thần phân liệt.

Tuy vậy, khu vực tinh thần của con người không hẳn là đơn thuần như thế. Trong não của con người, do chủ nhân của ý thức có thể phát ra sóng của niệm lực, sự phát ra sóng này có tần số đặc thù, nếu phối hợp với hoạt động của linh hồn, có thể sản sinh công hiệu cụ thể, lực cảm ứng ấy là của siêu nhân. Một số người có thể biết những trải nghiệm tiền kiếp của mình, điều này không phải là giả, mà là linh hồn và chủ nhân của ý thức thâm nhập vào trong vành đai tư tưởng của kí ức tiền kiếp, cho nên con người siêu năng lực này đem đến cho nhân loại sự thán phục tột đỉnh. Thật ra đạo lý rất đơn giản, nếu ý thức đi khắp nơi hoặc tiến vào "vành đai kí ức tiền kiếp" thì tự có thể rút ra thông tin trải nghiệm được tiền kiếp của chính mình.

Có một Hoa kiều sống tại Toronto Canada, nguyên quán ở Đông Thế, ông ấy đi Hongkong, tiện đường đến Đài Loan tìm tôi. Ông ấy kể cho tôi một sự việc có thật: "Người cha sống tại Đông Thế của tôi đã đọc cuốn sách "Mạn đàm linh cơ thần toán" cùng "Giữa Linh và Tôi", cho rằng rất có giá trị, thế là ông liền gửi cho người con trai đang làm kinh doanh tại Canada là tôi. Tôi đọc xong thì cảm thấy cực kì kinh ngạc, thế là tôi liền tĩnh tọa tu trì pháp khởi linh theo như trong sách. Tôi thắp hương, thành tâm thành ý khẩn cầu, chỉ cảm thấy tay hơi hơi rung động nhẹ, những cái khác thì không cảm thấy gì, tuy nhiên tôi rất kiên trì tiếp tục tĩnh tọa, mỗi ngày một lần, chưa hề gián đoạn."

"Tôi rất ít khi nằm mơ, cho đến một ngày, tôi mơ thấy người bạn thân là Giản Quân mắc bệnh. Sau đó không lâu, tôi nhận được một bức thư, trong thư cũng nói anh ấy đã mắc một căn bệnh nặng, sự trùng hợp này khiến tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Thế là trước khi tĩnh tọa, tôi cầu nguyện với trời, đêm nay tôi muốn gặp người nào đó, nói ra kể cũng kì lạ, người đó liền xuất hiện trong giấc mơ của tôi, sự xuất hiện ấy bao gồm cả tình hình cuộc sống, sức khỏe, vận khí hiện tại của người ấy, đang làm công việc gì. Sau khi tôi ấn chứng bằng thư thì không có một chút sai lệch nào! Đây thật sự là một kì tích khiến tôi rất hưng phấn. Thế là cuối cùng tôi đã hiểu rằng không thể coi thường sức mạnh tinh thần."

"Có một khoảng thời gian, ngành bưu chính Canada có một cuộc bãi công lớn, tôi không nhận được thư của nhà gửi tới. Một lần tôi cầu được thấy mẹ tôi, thế là tôi liền trông thấy mẹ tôi nằm trên giường, xung quanh xuất hiện một đám đông người đang kéo tay kéo chân mẹ tôi. Tôi giật thót mình, lập tức tiến lên trước cật lực đánh đuổi những người đó. Sau khi tỉnh lại, trong lòng tôi biết mẹ tôi đang gặp nguy hiểm, liền vội vã đáp máy bay về Đài Loan. Vừa về đến nhà, mẹ tôi không ở nhà mà đã vào bệnh viện Hiệp Hòa rồi, đã hôn mê mấy lần, nhưng cuối cùng cũng đã cứu được mẹ tôi. Người nhà hỏi tôi làm sao biết mẹ tôi bệnh nặng? Tôi chỉ cười thôi."

Do có sự thật này, tôi phát hiện ra ý thức của con người rất kì diệu và bất khả tư nghì. Sự thần bí của ý thức có thể do "mộng giác" truyền sóng, nhờ sự phóng xạ của "linh giác" mà thăm dò tri thức ở tầng sâu hơn. Do vậy, lãnh vực tinh thần của tôn giáo có thể được mở rộng, hơn nữa còn đạt được công hiệu với các lực lượng thần bí. Theo tôi được biết, linh giác là một loại cảm giác tối cao vô thượng, linh giác không chỉ có thể biết những gì đã trải qua trong kiếp trước, mà còn có thể biết trước thế giới tương lai. Nguyên tắc biến thân chuyển thế của tương lai đều có những quỹ tích có thể tìm thấy. Do đạo lý này, chúng ta có thể hiểu được nhân quả luân hồi trên thế giới này vẫn là những dấu vết không thể xóa mờ. Sự thần bí của ý thức cũng không thể suy đoán, huống hồ là cái linh giác còn chưa xuất thế đó!

Chúng ta có thể dùng lực ý thức để xung kích hải để luân, phá bỏ cái tầng vỏ trói buộc linh hồn, nếu linh hồn có được sự yêu thích của chủ nhân ý thức thật sự, tự nhiên sẽ khai hoa kết quả. Tôi nói sự vô ý thức của ý thức chính xác là thiền, sức mạnh của thiền định và sức mạnh của linh động cùng có sức mạnh bát nhã, không nên tách biệt chúng thì tự nhiên sẽ đắc chứng chư Thiên diệu hạnh.

Kẻ hèn này bắt đầu từ khởi linh, ngày thứ hai, tôi đã du lịch đến vành đai kí ức tiền kiếp, ấn chứng là thật rồi thì từ đó mới tin sự tồn tại của nó. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Ý thức là chủ nhân của con người, vô thức chính là thiền, ý thức thật là linh, ý thức giả là ma, do ma sinh giả tướng, nên chấp mê điên đảo, nhập Phật nhập Ma nằm ở sự thanh tịnh của linh."

08. Hư không tạng của chú lực

Sự tu trì của Chân Phật Tông có quan hệ rất lớn với mật chú, bởi vì chú tức là pháp, pháp tức là chú, chú ở đây chính là cái sâu xa huyền bí của ngôn từ trong tam huyền cửu yếu thần công, [tam huyền cửu yếu: ba điều huyền bí chín điều trọng yếu] do chư Phật Bồ Tát từ bi chúng sinh, thương xót chúng sinh không có môn tu hành, do vậy mà truyền xuống tâm đắc tu hành, hóa thành chân ngôn, dựa vào chân ngôn này mà thu hút chúng sinh. Chú cũng có thể nói là bí mật, bởi vì chú ngữ là sự chắt lọc cô đúc của pháp lực, là tập trung tinh hoa, người tu linh nhất định phải trì chú. Trì chú tức là phương pháp mượn sức mạnh của chư Phật Bồ Tát để nhập vào tâm mình, mượn tha lực để khiến bản thân thăng hoa nhập vào không linh. Những điều này nói ra thì đơn giản, nhưng nếu không thâm nhập thì thật sự không thể nói, cũng không thể hiểu rõ.

Trong Phật gia thì chú ngữ không được giải thích, bởi vì nội hàm của chú ngữ rất lớn, công hạnh của chư Phật Bồ Tát là bất khả tư nghì. Nếu giải thích thì đó chẳng phải là châu chấu đá xe sao? Cái này cũng giống như lấy trời xuống để giải thích vậy, trời tức là trời, vô biên vô hạn, làm sao mà giải thích nổi. Gần đây nghe nói có một số ít người xuất gia giải thích chú Đại Bi, ấn hành những cuốn sách như Chú thích Chú Đại Bi. Trên thực tế, đó là những con mắt phàm soi xét chú ngữ, không biết sự vô biên vô hạn của chú ngữ, cái này cũng giống như ném đá vào không khí vậy, sẽ chẳng nghe thấy âm thanh nào. Những cuốn sách này đọc cũng được, nhưng không thể cho rằng đó là ý nghĩa gốc của chú, nếu cho rằng là nghĩa gốc của chú thì sẽ là sai lầm đó! Nói thật sự, vạn pháp đều là chú, chú tức là vạn pháp, trì chú như ngồi thuyền pháp, từ bờ này mà lên được bờ kia, đó là một dạng sức mạnh vô hình ở trình độ cực cao, không thể xem thường.

Người tu Linh Tiên, trì chú thì có thể trì chú Lăng Nghiêm, cũng có thể tu chú Đại Bi, chú Chuẩn Đề Phật Mẫu, Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn… Ngoài ra, chú ngữ của Đạo gia có thể trì Tịnh pháp giới chân ngôn, Thông thiên như ý pháp chú, Hỗn nguyên chú, Kim quang chú, v.v… Cũng có thể chuyên trì một danh hiệu Phật, ví dụ có người trì một câu A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật cũng có nghĩa là tổng quy y thập phương vạn pháp, một câu A Di Đà Phật nghĩa là sự quy về vạn hành, tâm dựa theo Phật xoay chuyển, và niệm lực sẽ thúc làm chuyển động (xoay tròn) bánh xe pháp. Khi tâm thông với Phật, tất cả cảm ứng lập tức có thể xuất hiện! Niệm Phật và niệm chú là như nhau, muốn đắc được cảm ứng thì nhất định phải quét sạch tất cả chướng ngại, nếu quét sạch được chướng ngại rồi thì tâm thông với Phật, tự nhiên sẽ có cảm ứng, đây là một việc tự nhiên sẽ đến, không có một chút nào miễn cưỡng.

Ở Đài Trung có một bà cụ không biết chữ, chưa từng đọc sách, cả đời phụng trì chân ngôn bốn chữ A Di Đà Phật, tâm không để ý gì khác, trì Phật hiệu lâu ngày, tự nói rằng sau khi chết có thể vãng sinh Tây phương, không có gì phải nghi ngờ. Sau khi bà cụ ấy qua đời, người nhà hỏa thiêu, có được xá lợi ngũ sắc bảy sắc nhiều không thể đếm hết, đều là những hạt xá lợi tròn xoe, kì lạ phi phàm. Công lực trì chú của một bà cụ già đã như vậy, thật là đáng hổ thẹn cho một số trưởng lão xuất gia.

Theo nghiên cứu của tôi, được linh sư trong cõi vô hình chỉ thị, chú là duy tâm, chú cũng là duy thức, tâm và thức vốn là một. Chú tức là cái gốc rễ của pháp, nếu dốc lòng trì chú có thể ấn tâm, trở thành như như bất động, nếu phóng chú ra thì có thể lan tràn khắp thiên hạ, trở thành hư không tạng. Vì thế chân lý có thể cô đọng lại thành một điểm, mà cũng có thể đúng mọi nơi mọi lúc, không thiên lệch, phá bỏ mọi chấp trước để trở thành chấp vào một thứ, thành tựu chấp vào một thứ và cái chấp này chính là chấp vào chú. Thế nhân không biết công lực này của chú, nếu coi thường và hoài nghi thì trong thiên hạ chẳng có pháp nào có thể đắc được.

Từ sau khi tôi có được khởi linh, tôi đã từng học thuộc rất nhiều kinh chú, tôi đặc biệt yêu thích chú ngữ, sự yêu thích này cũng không mô tả được sao lại thế, miệng chăm trì tụng, tai nghe rõ ràng, từng chữ từng chữ, không cầu tốc độ nhanh nhưng cầu ghi vào tâm. Tôi niệm chú rất lâu ngày, từ đầu đến cuối chẳng có được bất kì cảm ứng gì.

Còn nhớ có một lần, tôi đến một ngôi chùa nọ để bái Phật Tổ, ngày hôm đó cũng là ngày kỉ niệm A Di Đà Phật thành Phật. Bái Phật xong, tôi một mình đi vào trong Điện Địa Tạng, trong điện có đặt những hũ tro cốt của người chết, từng hũ từng hũ được sắp đặt rất chỉnh tề. Sau khi tôi lễ bái Địa Tạng Vương Tôn Giả, trong lòng nghĩ chi bằng nhiễu quanh phòng linh cốt này và niệm một vài câu chú vãng sinh, cũng xem như là kết một ít thiện duyên. Thế rồi tôi nói làm là làm, tôi chắp tay nhiễu quanh bên trong căn phòng, vừa đi vừa niệm chú vãng sinh. Nói ra kể cũng lạ, vừa niệm chú này thì tôi lập tức cảm thấy da đầu ngứa ran, mí mắt nháy nháy, thỉnh thoảng tôi nhìn chăm chú vào từng hũ tro cốt nhỏ, đột nhiên nhìn thấy trên mỗi một hũ tro cốt đều chìa ra hai bàn tay, hai bàn tay chắp lại. Tôi nhìn thấy thế thì trong lòng hơi hốt hoảng, nhưng không sợ hãi, tôi phát hiện ra vừa đi qua thì bàn tay cũng biến mất, tôi niệm đến nơi nào thì bàn tay liền xuất hiện. Cuối cùng, bên tai tôi nghe thấy nhiều người niệm chú vãng sinh, âm thanh lúc này không phải là của một mình tôi, mà là âm thanh của cả một đám người vừa già vừa trẻ. A! Tôi cảm thấy thần diệu quá, những vong linh ấy không ngờ lại cùng niệm chú ngữ với tôi chứ!

Từ sau lần niệm chú có được cảm ứng ấy, tôi bắt đầu liên tiếp có được cảm ứng. Có một lần quả thật là cảm ứng quá rõ ràng. Sáng sớm tôi niệm chú Lăng Nghiêm, vốn là tôi ngồi niệm. Đột nhiên tôi cảm thấy thân thể bay bổng, cái đệm ngồi không ngờ lại biến thành một đóa hoa sen màu đỏ, từ từ bay lên đến một vị trí nhất định. Tôi lại nhìn trước mắt, trước mắt cũng có một đóa hoa sen màu trắng, hoa sen trắng như tuyết, bên trong hoa sen có người ngồi vững, hai tay giữ tư thế trí huệ thủ. Tôi nhìn kĩ hơn, người ngồi trên hoa sen trắng đó thì ra lại là chính mình! Lúc này tôi niệm một câu, đối phương cũng niệm tiếp một câu, thế rồi hai bên niệm đối nhau, niệm xong, tôi ở phía bên kia cũng biến mất.

Năm xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni cầm hoa khẽ cười, truyền đi tâm ấn, đó là sự khai ngộ của Sơ Tổ Thiền tông. Tôi phát hiện ra tâm ấn này không thể dùng ngôn ngữ mà giải thích được, giờ đây tôi cho rằng tâm ấn tức là chú, chú tức là tâm ấn, chú tức là đạo, chứng chú có thể xem như là chứng đạo rồi. Bởi linh chú tương hợp với ấn, có thể xoay pháp luân tam giới, nhất tâm xoay làm thiên hạ xoay, sức mạnh của chú không hề tầm thường. Trì chú là một trong những đại pháp của Chân Phật Tông, tương lai nếu có pháp hội, có thể dựa vào sự tương hợp chú lực của mọi người mà thỉnh Tiên Phật giáng xuống, dựa vào chú để định tam giới, dựa vào chú để phá bỏ tam giới, dựa vào chú để xuất khỏi luân hồi. Mỗi một người muốn tu hành, chí ít phải trì một câu chú, người người trì chú, người người tu chú, thân và chú hợp nhất, chú cũng tức là đạo.

Có thể trì chú trước khi khởi linh, sau khi khởi linh thì lại càng không thể không trì chú, thấy Phật chú như thấy cõi Phật. Trì chú phải chắp hai tay lại, trang nghiêm cung kính, khi niệm không chậm không gấp, âm điệu trung hòa, chú âm nói ra khỏi miệng, đi vào tai, ấn vào tâm, sau đó hóa vào vô hình. Nếu trì chú có mục đích, thì nhớ phải hồi hướng, dùng công đức này để hồi hướng cho tất cả chúng sinh hữu tình, khiến họ đắc chứng Phật đạo, sớm có ngày thoát khỏi luân hồi.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Chú lực là vô hình, hư không ẩn được thân, là lời thệ nguyện của chư Phật, không thể tùy tiện xem thường, nghe thấy phải trân quý, ẩn mà hóa tự thân, nhân tâm và Phật tâm, vốn dĩ chính là một."

09. Đỉnh cao nhất của linh khí

Người sau khi khởi linh, linh toàn thân giống như điện, từ tâm sinh ra tần số, chân tay thân thể trăm hình hài cũng là thể kết tinh của linh. Người đã từng khởi linh, hễ niệm lực động thì có thể sinh ra linh động, niệm lực mà dừng thì linh động cũng lập tức dừng lại, chân tay và toàn thân có thể tự do khống chế. Nhưng nếu không biết trình tự luyện linh, có thể nhờ linh bên ngoài đến để trợ giúp chúng ta, chỉ đạo chúng ta, đây là linh chỉ đạo, nghĩa là linh canh giữ chỉ đạo, còn gọi là hộ thần chỉ đạo. Phần lớn con người biết khởi linh trước, ngoại trừ tay rung động, toàn thân rung động, hoặc nhìn thấy nhiều màu sắc ra thì những cái khác không có cảm giác gì cả, tuy nhiên cũng có người khởi linh xong thì nhập vào địa vị "siêu giác", nhưng rốt cục thì cũng là hiếm có, trong trăm nghìn người cũng khó kiếm được một, hai người! Vì thế, luyện linh là rất quan trọng.

Mục đích luyện linh chính là thành Phật, không chỉ có thể có cảm ứng thần thông mà còn có thể xuất thần nhập hóa, chứng sáu đại thần thông, nhục thân thành Phật, trực tiếp nhập vào trong thế giới của những người siêu giác, chấm dứt tất cả sinh tử luân hồi, lập địa vị bất động, đây là đỉnh cao nhất của linh, tự thân không còn tồn tại, trời tức là ta, ta tức là trời.

Nơi luyện linh phải là một căn phòng yên tĩnh mới được, không nghe thấy những tiếng ồn ào xung quanh, không nghe thấy tiếng xe, trong phòng bày tượng Phật hoặc tượng các vị Tiên, thắp hương hoa, mở đèn không nên sáng quá, chủ yếu cần trang trọng và kính cẩn. Một căn phòng rộng khoảng mười lăm mét vuông là được, không nên quá rộng hoặc quá nhỏ. Bày một chỗ ngồi trước tượng Phật, đó cũng là chỗ bản thân sẽ tĩnh tọa để luyện linh. Luyện linh và khởi linh khác nhau, người nào ngồi được thế song bàn thì ngồi song bàn, người nào ngồi được thế đơn bàn thì ngồi đơn bàn, nếu cả hai kiểu đều không ngồi được thì có thể ngồi tùy ý và ngồi tự nhiên (tư thế tùy ý). Trước khi luyện linh phải chú ý tắm gội tịnh thân, mặc quần áo rộng rãi thoải mái, tâm tình duy trì trạng thái yên bình, gạt bỏ tất cả phiền não. Trước tiên lễ bái chư Phật Bồ Tát Tiên chúng thập phương, lạy theo kiểu chuẩn mực ngũ thể đầu địa, rồi lại lạy các vị Tổ sư nhiều đời của Chân Phật Tông, tiếp theo bái lạy trời đất vua cha thầy cùng tất cả Thánh chúng, lạy xong thì ngồi xuống.

Ngồi xuống hồi thứ nhất, trước tiên dừng dứt tất cả tạp niệm, sau đó bắt đầu quán tưởng. Quán tưởng bản thân mình vốn là một vị Bồ Tát, ngồi tại hư không cực kì rộng lớn vô biên, chỗ ngồi là một đóa hoa sen nghìn cánh, các cánh hoa đều nâng đỡ thân mình, còn thân mình nhẹ như sợi bông, giống như không có gì cả. Sau đó lại quán tưởng đầu mình đội mũ vàng Ngũ Phật, ngũ quan trang nghiêm, mặt mày hiền hậu, bát bảo trang nghiêm tô điểm cho bản thân, trên người tỏa ra ánh sáng ngũ sắc, hơn nữa bản thân cũng trong suốt tỏa ánh sáng, lấp lánh như pha lê hổ phách, tự mình tỏa hào quang vô tận. Lại quán tưởng phía sau có một vị Kim Cang Thần, tay cầm chày hàng ma đứng phía sau bảo vệ thân Phật, hàng phục tứ ma, khiến ma không thể xâm phạm chính pháp, không thể xâm phạm tôn giả tu trì mật hành. Tiếp theo lại quán tưởng cửa trời mở ra, thiên thần thiên chúng xuất hiện, từ không trung tung xuống hoa thơm, tán dương nghìn vị Phật xuất thế, vinh quang khắp thế giới, thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn. Sự quán tưởng lúc này chính là tư dung trang nghiêm của bản thân tôn giả, đây không phải trò đùa. (Pháp tĩnh tọa thông thường chỉ bảo người ta nghĩ về hơi thở, thật ra nghĩ về hơi thở rất khó, suy nghĩ không có cách nào tập trung vào một điểm, do vậy tác giả muốn người người quán tưởng bản thân mình trang nghiêm, quán tưởng như thế lâu này thì ánh sáng sẽ hiển hiện, mọi hành động cử chỉ suy nghĩ đều trang nghiêm, thấy sai tức là sai, thấy đúng tức là đúng, bước đi khoan thai, tự bản thân sẽ không lộn xộn một chút nào.)

Ngồi xuống hồi thứ hai, hai tay chắp lại, niệm chú tịnh khẩu ba biến, thế tay lúc này lại làm thành ấn nhập trí huệ, sau đó niệm chú thân bí mật của chính mình 108 biến (cái gọi là chú thân bí mật của mình tức là một chú ngữ mà bình thường bản thân tu trì nhiều nhất, chú ngữ này đã đọc thuộc từ lâu, chú ngữ khác thì không nhất định phải thuộc, nhưng người tu linh, mỗi người cần học một chú thân bí mật của mình, trì lâu một câu chú, không tham nhiều, sẽ đạt thành tựu đột phá, rất kì diệu. Cách niệm chú không được giống với khi hát là từ trong tâm trôi tuột ra, mà đòi hỏi là phải từng câu từng từ đi vào trong tâm.)

Ngồi xuống hồi thứ ba, tay bắt thủ ấn Kim cang luân pháp ấn, miệng tụng Thánh hiệu của Tây phương tịnh thổ A Di Đà Phật, sau đó tụng Thánh hiệu của Quan Thế Âm Bồ Tát, rồi tụng Thánh hiệu của Đại Thế Chí Bồ Tát, ở đây tức là dựa vào pháp tu trì của Tịnh độ tông. Tiếp đó có thể chuyển động thế tay, xuất hiện ấn kim cang, ấn lên trán, ấn lên tâm, ấn lên hai vai, rồi lại ấn lên họng, đây chính là năm loại Thánh ấn kim cang, có thể hàng phục tứ ma không sinh ra, cũng là không nhập vào chỗ nguy hiểm của ma đạo. (Phương pháp này rất ít người biết, nếu biết thì luyện linh sẽ không bị Thiên Ma quấy nhiễu, linh luật của ma sẽ không nhập vào trong thân mình, điểm này vô cùng quan trọng.)

Ngồi xuống hồi thứ tư, lúc này dùng niệm lực thúc giục linh thể của mình, khiến linh hồn của mình (chân nhân) từ hải để luân đi lên, từ hải để luân tiến vào vòng thổ luân, rồi lại từ vòng thổ luân nhập vào vòng khí luân, lại từ vòng khí luân nhập vào vòng thiên luân, lại từ vòng thiên luân nhập vào vòng không luân, từ vòng không luân ra khỏi tam giới hỏa trạch (xuất thần), cho đến khi đắc đạo chứng đạo, thành Phật, làm thầy của trời người.

Khi người bình thường vận linh sẽ sinh ra hiện tượng là hai tay rung động, hoặc toàn thân lắc lư bất định, hoặc không thì tay kết Thánh ấn chuyển động khắp mọi chỗ không dừng. Công phu luyện linh tại thổ luân có thời gian vận hành lâu nhất, muốn đột phá thổ luân, nhìn chung mà nói thì phải mất đến ba năm. Khi ở thổ luân, linh chỉ đạo sẽ xuất hiện tự động hướng dẫn người tu linh làm sao để phá bỏ cái vỏ của thổ luân, nhưng vì thời gian ba năm cũng không phải là ngắn, hành giả bình thường không có tâm kiên trì thì nửa đường có khả năng sẽ từ bỏ. Xây dựng nền móng luyện linh trong ba năm có thể phụng thỉnh cao chân của cõi trên giáng xuống để chỉ dẫn, nếu không có biện pháp thì cũng có thể nhờ thần hộ pháp của chính mình chỉ đạo. Liệu có thể có Thánh linh của bậc cao chân giáng xuống chỉ dẫn hay không hoàn toàn nằm ở Tiên duyên của cá nhân đó, cái này thì không có cách nào miễn cưỡng được, thế nhưng có một chữ "thành" thì kim thạch cũng sẽ mở ra, thành tâm thành ý là vô cùng quan trọng.

Ngồi xuống hồi thứ năm, thời gian luyện linh do linh chỉ đạo tự quyết định, sau khi luyện linh xong xuôi, có người sẽ đổ mồ hôi, nhưng cũng có người không như vậy, có người lay động rất mạnh mẽ, nhưng cũng có người không như thế, chỉ hơi rung rung một chút thôi. Phương pháp luyện linh không nhất thiết là ai ai cũng giống nhau, nhưng sau khi hoàn tất việc luyện linh thì tự động lễ lạy thập phương chư Phật Bồ Tát, Tổ sư các đời của Chân Phật Tông, trời đất vua cha thầy tất cả Thánh chúng. Sau khi lễ bái xong thì có thể rời khỏi chỗ ngồi.

Đỉnh cao nhất của linh khí chính là xuất khỏi tam giới hỏa trạch, thành Phật tác Tổ, người vĩ đại có thể dựa vào việc tu hành pháp này bền bỉ không lười nhác, người có hứng thú thông thường thì chỉ đầu voi đuôi chuột, chỉ học khởi linh, nhưng không luyện linh thì khả năng sẽ chùn bước không tiến lên nữa, nếu vậy thì thật là một đám người đáng thương! Tu hành là việc số một của con người số một trong thiên hạ, thân người khó có được, pháp môn tu hành đã được truyền xuống, nếu như vẫn không biết thì thật là đáng hổ thẹn.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Chân pháp đã truyền xuống, đều dựa vào sự chân thành, dựa vào giới nguyện kim cang, tứ ma đều kinh hãi, từ vô thủy đến nay, vạn pháp đều quy tâm, tâm này nếu không diệt, sao trở về nguyên chân."

10. Thần diệu không thể tưởng tượng

Trong Kinh Bảo Tích có một đoạn nói rằng: "Phật nói với Địa Thiên Đại Vương, tất cả mọi pháp đều là Phật pháp. Đại Vương hỏi Phật rằng, nếu tất cả pháp đều là Phật pháp, thì tất cả chúng sinh cũng là Phật pháp ư? Phật đáp rằng, nếu không có cái tưởng điên đảo méo mó, thì tất cả chúng sinh đều là Phật pháp. Đại Vương! Nếu có được cái kiến thấy chúng sinh là đúng như thật chính nó, thì tất cả sẽ là bình đẳng chân như. Các hiện hữu này cũng là pháp giới. Pháp giới vốn không thể hiển thị, mà phải nhờ tới các hiện hữu giả danh này để hiển lộ. Mọi sự hiển lộ thế gian là vậy, cho nên mới có nói giảng." Đoạn này là Phật Đà nói với Địa Thiên Đại Vương, hôm nay tôi đặc biệt đưa ra để nói với mọi người.

Sự thần diệu của linh thật sự là bất khả tư nghì, nếu dựa theo lời Phật Đà nói, sự biến hóa của linh tức là sự biến hóa của tất cả Phật linh, tất cả linh đều là Phật linh, vốn dĩ không có sự khác biệt, chúng sinh, cầm, thú, tất cả những gì có linh đều là Phật linh, bởi vì mọi sinh vật đều có Phật tính.

Trong vũ trụ bao la này, trong không gian mênh mông mù mịt này, nếu khởi lên cái nhìn phân biệt thì tâm sẽ sinh ra sự khác biệt, tất cả những gì nhìn thấy cũng sẽ khác nhau. Nhưng nếu phân chia mọi thứ nhỏ hơn nữa thì sẽ thành thế giới của nguyên tử, điện tử, hạt nhân, neutron, cuối cùng lại tách biệt nguyên tử, điện tử, hạt nhân, neutron ra thì sẽ có lượng tử, lượng tử mà lại phân ra tiếp thì không còn nữa, phân chia đến cuối cùng thì sẽ trở thành một chữ "vô". Và tôi phát hiện ra, tất cả mọi thứ này đều quy về một chữ "vô". Những nguyên tố khác nhau này thật sự là không thể phân chia được!

Nhưng mà thế nhân ngu muội vẫn đem các dạng vật chất ra mà phân chia. Ví dụ, tôn giáo thì phân linh hồn thành rất nhiều cấp độ, những cấp độ này vốn dĩ là chẳng có cấp độ gì, nhưng lại miễn cưỡng tách biệt nên linh hồn trở thành có cấp độ. Phương pháp phân cấp độ này chính là luận về cấp độ của linh. Mặc dù Lư mỗ này không tán thành luận cấp độ, nhưng hành giả tu hành của Chân Phật Tông không thể không biết có một môn gọi là "luận cấp độ". Cái này chính là thế tục, do vậy mới có nói giảng. Cấp độ của linh hồn, tôi phân biệt như sau, mong các đại đức thiện nhân suy nghĩ kĩ càng.

Thứ nhất là Phật linh Nói chung, Phật linh là những bậc giác giả trí huệ chí cao vô thượng, đối chiếu theo đạo lý mà nói thì chỉ có một môn là "pháp cứu cánh", nhờ phương tiện thiện xảo mà đưa ra vô số pháp môn tiện lợi, nhập pháp môn tiện lợi rồi lại tiếp tục nhập pháp môn cứu cánh, như thế có thể đạt đến cảnh giới Phật linh. Tự cổ chí kim, người chứng cứu cánh thành Phật thật sự cũng không thể tự tuyên bố, đây là bí mật số một trong thiên hạ. Tôi phát hiện ra chỉ có ba pháp môn là có thể tốc hành, mà thật ra ba pháp môn này lại chỉ là một, ở đây tức là môn phái Mật tông, môn phái Thiền tông, môn phái Linh tông, mà Linh tông chính là Chân Phật Tông do kẻ hèn này sáng lập. Chân Phật Tông và Mật tông, Thiền tông có thể hợp làm một, mối liên quan đạo lý trong đó là vô cùng rộng, chữ "Linh" này căn bản vẫn là không thể tưởng tượng nổi.

Thứ hai là Tiên linh Tôi nói một câu rất thẳng thắn thế này, chữ "Tiên" này không phải là ngoại đạo, những người nhạy cảm chớ hiểu lầm. Do có quá nhiều sự phân biệt Tiên nên dễ bị con người hiểu lầm, thật ra Tiên linh cũng là một cảnh giới chí cao vô thượng, điểm cao nhất của cảnh giới này cũng bình đẳng như một với Phật linh, Tiên linh cũng tu một trong những pháp xuất thế, cũng có nghĩa là xuất khỏi tam giới, chấm dứt sinh tử, ví dụ như Đại Hùng Kim Tiên có địa vị vô cùng cao quý, linh trí của vị ấy là chân như bất động. Hai chữ Phật và Tiên thật sự là như nhau, không hề có sự khác biệt. Có lẽ có người sẽ nói rằng tôi nói thế là quá to gan, nhưng chỉ khi bạn trèo lên được Kim Tiên giới, bạn mới có thể phát hiện ra chư Phật Bồ Tát vốn dĩ chính là Đại La Kim Tiên, đến lúc này thì không tránh khỏi cười lớn ha ha. Trừ địa vị Đại La Kim Tiên là ngang bằng với Phật Bồ Tát ra thì Thiên Tiên là ngang bằng với Duyên Giác, Địa Tiên là ngang bằng với La Hán, còn như Tán Tiên và Quỷ Tiên thì ngang bằng với địa vị của Thanh Văn. Những Tiên chúng này phần lớn đều có thể tự mình sinh tử, nhưng cảnh giới thì không nhất định là giống nhau, nếu đã đặt bước chắc chắn vào cảnh giới Phật linh rồi, nhập vào cánh cửa cứu cánh cuối cùng rồi thì mới được coi là Đại La Kim Tiên.

Thứ ba là Thần linh Chữ Thần này được dùng rộng rãi nhất, cũng thông tục nhất, có người nói chữ Thần này là chí cao vô thượng, là tên gọi chung cho tất cả. Lại cũng có người nói chữ Thần này chỉ tương đương với ma cao cấp, cách nói này cũng không có gì sai, bởi vì mỗi người có cách nhìn nhận riêng. Ranh giới của thần linh quá rộng lớn, linh hồn chư thiên ở trong tam giới có thể gọi chung là Thần, do đó thượng đế Jehovah là thần, Ngọc Hoàng Đại Đế cũng là thần, Thiên Đế của 33 cõi trời cũng là thần, thiên chúng của 28 cõi trời cũng đều là thần, trong đó cũng bao gồm cả Thiên Ma. Thiên Ma cũng nằm trong hàng ngũ của thần, các thần của Thiên giới cũng là thần, mà các Sơn Thần, Thủy Thần, Thổ Thần, Miêu Giá Thần, Ti Lễ Thần, Thụ Thần cai quản mặt đất cũng là thần. Thần có phân ra thượng thiên giới, trung thiên giới, hạ thiên giới, nhìn chung thượng thiên giới là tổ khí nguyên thủy xưng thần, trung thiên giới là thiên thần nhóm một, hạ thiên giới là phàm thần, tức là thần chúng sinh ra tại nhân gian thế giới Ta Bà. Thần của hạ giới thiên có nhân duyên sâu nhất với nhân gian, con người nếu dựa theo thiện công nghiệp báo thì cũng có thể xưng thần, ví dụ như Thổ Địa Phúc Thần chính là dạng này.

Thứ tư là Thánh linh Chữ Thánh này chỉ là dựa vào trình độ cực cao của việc tu hành các pháp nhập thế. Theo như tôi biết, người tu hành theo pháp này gọi là người thánh giới, trở thành Thánh linh, cũng có tồn tại nhân duyên lớn với nhân gian. Thánh linh rất dễ ở tại nhân gian hướng dẫn cho con người tu pháp thế gian, phương pháp này cũng là một trong những pháp độ giải thoát tiện lợi. Thánh linh ở hạng này thì có khắp trong thập phương pháp giới, trở thành một đại tông phái thịnh hành nhất, tất cả lấy lý làm đầu, lấy việc làm người là cơ bản số một, linh trí của Thánh linh cũng có phân biệt cao thấp, do vậy cách diễn pháp của họ cũng khác nhau.

Thứ năm là Quỷ linh Người chết trở thành quỷ linh, nếu là linh trong lục đạo luân hồi thì đều là quỷ linh. Quỷ linh cũng phân làm sáu đạo dựa theo hoạt động thần thức của tâm.

Thành Tiên thành Phật là do chữ Linh này tác động, thành Thần thành Thánh cũng là do chữ Linh này tác động, lục đạo luân hồi cũng là do một chữ Linh này tác động. Trên trời dưới đất, bất kể là ở tầng không gian thứ nhất hay tầng không gian thứ tám thì đều là thế giới của Linh. Phàm linh cũng có thần thông, đây chính là linh thông, phàm linh đều có Phật tính, tính này vốn là một, vốn là không, vốn là Phật, nếu phân ra kĩ hơn thì có thể phân chia như vậy, mà nếu hợp lại thì sẽ là một chữ Phật.

Kẻ hèn này phân chia một cách đại khái về linh hồn như vậy, thật ra cũng không phải là hoàn toàn đầy đủ, nhưng cũng có thể thấy được nét chính. Mỗi một linh đều có thể tu thành Phật linh, do vậy không được coi thường lẫn nhau, khinh thị lẫn nhau. Chính đạo và chính pháp cố nhiên là đáng phát huy, nhưng cũng không thể đối xử tùy tiện với "ngoại đạo". Nếu không có phương tiện thiện xảo của "ngoại đạo" thì cánh cửa cứu cánh không ai có thể vào được.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Phật tức linh, tự gia tính, bái Chư Phật, lễ Kim Tiên, tu Linh Tông, tối căn bản."

11. Sự xuất nhập của siêu tự ngã

Trước khi viết chương sách này, tôi xin tiết lộ một bức thư.

"Xin thầy Lư soi xét. Trước hết, tại đây tôi xin được gửi đến thầy lòng biết ơn sâu sắc nhất. Bố tôi vào ngày 19 tháng này đã mắc chứng bệnh lạ, khiến ông hôn mê bất tỉnh nhân sự, huyết áp lúc cao lúc thấp, đau đầu nôn mửa, được gửi đến bệnh viện Trung Sơn mới mở để điều trị, tình hình nguy cấp. Ngày 20 bạn bè vội vã về quê tôi để giúp đỡ, gặp được thầy từ bi phá lệ mà chỉ dẫn, dùng tâm bồ đề để mà chỉ điểm bày cách cho tôi, lại còn tự tay viết chú ngữ chỉ thị rằng cần đặt dưới gối của bố tôi, người chăm sóc phải thường xuyên niệm Phật hiệu của Vô Lượng Thọ Phật và Dược Sư Như Lai Phật, lại còn dặn rằng sau bốn ngày sẽ qua cơn nguy hiểm, rồi sau đó dần dần sẽ khỏe lại. Chúng tôi đều tuân theo đúng lời chỉ thị. Bây giờ quả thật đã ứng nghiệm rồi, đúng sau bốn ngày (ngày 25), bố tôi quả nhiên đã dần dần tỉnh táo. Lúc ông ấy nửa tỉnh nửa mê đã nói với mẹ tôi đang chăm sóc ở bên cạnh rằng: "Bà xem, nguyên thần của Lư Thắng Ngạn bay trong không trung đấu pháp cùng một tên ác ma kìa." Nhưng mẹ tôi nhìn rất lâu mà chẳng thấy gì cả, còn bố tôi thì cứ chỉ về phía trên phòng bệnh nói rằng ông ấy nhìn thấy. Sau đó không lâu, bố tôi đã niệm được chú Đại Bi bằng tiếng Phạn rất rõ ràng. Bình thường bố tôi ở nhà thường xuyên niệm Phật, còn lập ra cả một hội gọi là "Hội niệm Phật Tịnh Liên". Đến khi ông ấy tỉnh, ông ấy kể trong lúc hôn mê đều thần du, đi đến các chùa chiền ở khắp các khu vực miền trung. Nguyên thần của ông ấy được các Thần Thánh đưa đi cùng, thật là quá bất khả tư nghì. Thật sự vô cùng cảm ơn thầy, bố tôi tên là Lâm Đồng Cứ, sống tại thôn Lâm Nội, tôi là Lâm Chấn Thành."

Bức thư này là do con trai của ông Lâm sống tại thôn Lâm Nội gửi đến. Đó là sau một tuần lễ tôi giúp ông ấy niệm tụng Kinh Kim Cang Ba La Mật, ban đầu tôi không thể tùy tiện bằng lòng giúp đỡ, bởi vì thế giới tâm linh vốn là một thế giới thiên kì bách quái, nếu xử lý không thỏa đáng sẽ dẫn đến những phiền toái thật sự không thể nào chịu đựng được. Nhưng đúng vào lúc tôi định khước từ thì nhìn thấy một hình tướng rất kì lạ, hình như là ông Lâm Đồng Cứ đó tự mình đến để thỉnh cầu, hơn nữa trên mặt của người đàn ông này còn lộ ra ánh sáng cát tường công đức, khiến tôi không thể không nhận lời.

Tôi thích niệm kinh thay cho những người đang chịu đau khổ, cầu cho linh của Thần Phật đầy ắp trong tâm của những người ốm bệnh. Khi tụng kinh hằng đêm, tôi không thích bị người khác làm phiền, nếu có người làm phiền thì tâm thần không có cách nào yên ổn được, sức mạnh trì tụng kinh chú sẽ bị giảm bớt, cho nên tôi phải dừng hết việc xem bói cho người ta, bằng không mỗi khi tôi tụng kinh, sự viếng thăm của những vị khách không mời mà đến luôn luôn khiến tôi chịu không nổi sự quấy rầy ấy.

Đến ngày thứ ba, tôi im lặng tụng kinh, niệm chú Kim Cang Đà-la-ni, niệm đến chỗ cực kì diệu, đến chỗ tinh mịn nhất, tôi nhập vào trong pháp vị của Kim Cang tam muội, đột nhiên thân có một đợt chấn động lớn nằm ngoài sự kiểm soát của tôi, tim dường như muốn nhảy ra khỏi khoang miệng, một cơn mê man ập đến, đầu tôi gục xuống cuốn kinh điển ở trên bàn, thân người cũng mê man thiếp đi, lúc này chỉ còn lại thần thức sống động mà thôi. Tôi cảm thấy linh hồn của mình cực kì khéo léo chui ra khỏi cái cửa duy nhất là lỗ ở đỉnh đầu, thế rồi linh hồn bay vút vào trong thế giới hư không.

Tôi trì chú Kim Cang Tâm đà-la-ni, đó là sự xuất khiếu kì diệu duy nhất của linh hồn, tôi không tự làm chủ được mình, không có sự thúc giục tác động nào của niệm lực, không có sự dẫn dắt của thần linh, không có sự chỉ dẫn của Bồ Tát, thật là kì quái hết sức! Linh hồn cứ bay đi với một tốc độ rất nhanh di chuyển về hướng tây, đây là sự xuất nhập của siêu tự ngã. Tôi hiểu rằng đó là vì có một sự dẫn động của nhiệm vụ khác, nếu không có mục đích, linh hồn sẽ không vô duyên vô cớ mà xuất du. Nếu xuất du mà không có mục đích, cái lỗ thủng tâm linh không thường xuyên được bảo vệ, thì rất dễ bị Thiên Ma chiếm mất, và thế là sẽ xuất hiện bản ngã cao ngạo, điều này không được Tiên Sư của tôi cho phép. Thế nhưng lần này xuất khiếu, sự việc xảy ra rất đột ngột, nhanh như điện như chớp, căn bản là không có một dấu hiệu báo trước nào, linh ấy giống như con rồng duỗi thẳng, nuốt vào và nhả ra như ngọn lửa, vừa nhập vào hư không giới là tự nhiên phi hành thần tốc.

Linh hồn tôi bay liệng ở nơi mát mẻ một hồi, sau đó nó giáng xuống giống như một cơn gió thổi ào đến, chỉ nhìn thấy Lâm Đồng Cứ nằm dài trên giường, bất tỉnh nhân sự, trên đỉnh đầu có đặt một bức tượng Kim Giáp Thần nhỏ, Kim Giáp Thần tỏa hào quang màu vàng kim. Có một tên Thiên Ma tay cầm cây rìu lớn áp sát muốn bắt lấy nguyên thần của ông Lâm, còn nguyên thần của ông Lâm thì đang trốn ở các lỗ cửa, thập thà thập thò, thụt ra thụt vào, tình thế vô cùng nguy hiểm, nhưng lại chỉ có ánh hào quang của một vị Kim Giáp Thần nhỏ bé để hộ thân mà thôi. Tôi vừa tiến lên trước thì Thiên Ma kia tay cầm rìu lớn chém xuống, tôi chỉ còn cách chắp tay lại niệm thần chú Kim Cang Bất Hoại, rồi tay lập tức làm thành kiếm quyết niệm: "Lâm binh đấu giả giai trận liệt tại tiền", gia trì kim cang hỏa mật ngôn, chỉ về hướng Thiên Ma, chỉ thấy kim cang hỏa cháy ầm ầm thành một bức tường lửa để chặn lại những nhát rìu. Tôi lại tiếp tục bồi thêm thần chú, lại trỏ về kim cang hỏa, thế là thế lửa hừng hực liên tục thiêu đốt. Thiên Ma bay vọt lên, cả hai truy đuổi nhau trên không trung, cầm cự được một hồi, tôi niệm chú Thiên Ma, tay vẽ hình một cái hồ lô trong không khí, viết chữ "lôi" (sét) bằng tiếng Trung, chỉ thấy một tia chớp lớn rất mạnh, một tiếng sét lớn làm rung chuyển núi sông. Thiên Ma kia thấy thế trận như vậy bèn chạy mất tăm mất tích! Linh hồn của tôi cúi đầu làm lễ trước tượng Kim Giáp Thần, sau đó linh thân xoay vài lần rồi lại nhập vào trong cái thể xác của Lư Thắng Ngạn! Tôi từ trong mơ tỉnh dậy, nhìn vào đồng hồ đeo tay thì đã nửa đêm một giờ sáng rồi. Tôi đã ngủ mê man tổng cộng là hai tiếng mười phút.

Lâm Đồng Cứ hồi tỉnh chính là vì như thế, linh hồn của tôi xuất khiếu chính là như vậy.

Sự xuất nhập của siêu tự ngã là một dạng nguyên lí biến thân thần bí nhất của linh hồn. Sự biến thân thần bí này là bí mật cao nhất của hoạt động tâm thần. Trong những bí mật về Mật giáo thông quan từng đề cập đến điều này, người tu đạo không thể không biết, người tu hành thật sự có thể đến được bước này, không chỉ như vậy mà còn có thể "nhập tha thân", tiến nhập vào trong tâm của người khác để làm các hoạt động tâm thần, thần bí vô cùng. Tôi từng tụng kinh cho người bị bệnh tâm thần thất thường, dùng pháp chỉ để vẽ phù chú.

"Liên Sinh, thầy làm pháp không công bằng." - Có ma quỷ hiện thân nói. "Sao lại nói thế?" "Liên Sinh pháp sư, người mắc bệnh tâm thần hiện nay là người mắc nợ tôi từ kiếp trước chưa trả, kiếp này tôi mới quấy nhiễu kẻ đó, là đến để đòi nợ chứ không vì lí do gì khác, tôi chỉ muốn trút ra cái sự phẫn nộ trong lòng tôi thôi, thế mà bây giờ ngài lại giúp người này, chẳng phải là bất công, không công bằng đối với tôi sao? Như thế ngài có được xem là một người chính nghĩa không?" - Lời này của ma quỷ cũng có lí, nên tôi chẳng biết nói gì.

Chuyện của thế giới tâm linh nghìn đầu vạn mối, phức tạp vô cùng, đây chỉ là một trong số đó thôi.

12. Bí mật của ngón tay

Tôi cho rằng mười đầu ngón tay, hai bàn tay, là hình tượng của tâm. Khi khởi linh hai tay chắp lại, đặt trước ngực, như thế cũng là đạo của âm dương ngũ hành, cái nền cơ bản của trời đất, đó là ấn thần của trời đất thuần tịnh, chắp tay là quang minh trùng hiện của núi Tu Di, là Phật tử xuất thế, là điều quan trọng nhất của việc đắc đạo. Độc giả đừng coi thường hành động chắp hai tay lại, người bình thường không hiểu đạo lí chắp hai tay, cũng không hiểu ý nghĩa của việc chắp tay, trong suốt cuộc đời họ, cơ hội chắp tay chỉ đếm được một vài lần. Đây là những gì thường thấy ở phàm phu, kết thúc một đời, vẫn không biết được chắp hai tay có diệu quyết thần công chẻ rời trời đất.

Mười ngón tay, dài ngắn khác nhau, một mặt chính một mặt lưng, một âm một dương, chẳng phải là hợp với thiên cơ kì số sao? Nhất là khi chụm mười đầu ngón tay lại, trở thành hình dạng giống như ngọn núi, đây chính là đạo sơn đã xuất hiện rồi. Lúc khởi linh, hai tay chắp lại, giống như duỗi ra vươn đến bầu trời, trong mây sương huyền diệu, núi Tu Di xuất hiện rồi. Cảm ứng của linh, với người bình thường thì bắt đầu từ hai bàn tay, đầu tiên có cảm giác hơi tê tê, giống như có dòng điện chạy qua, cảm giác giống như bị điện giật, thế nên đầu ngón tay sẽ hơi rung rung nhẹ, có thể cảm nhận được điều này. Dần dần, sự rung động sẽ càng mạnh hơn, giống như núi lở đất nứt vậy. Sự khởi động của linh đầu tiên là từ những ngón tay chắp lại, rồi lan tới khắp toàn thân, thế rồi toàn thân tràn đầy những dòng chảy của linh, và rồi bắt đầu chấn động mạnh mẽ. Hiện tượng rung lắc thì mỗi người mỗi khác. Cũng có người là do được truyền "chỉ pháp" [chuyển động của tay], linh ở trên trời giáng xuống truyền cho chỉ pháp, những chỉ pháp này chính là thủ ấn, thủ ấn chính là ấn bí mật, tương đương với một trong những thân bí mật trong Mật giáo. Nhìn chung, bí mật đầu tiên của bí mật là chỉ ý thức bề ngoài (chú ngữ), bí mật là chỉ ý thức tiềm ẩn (thủ ấn), thâm mật là chỉ ý thức sâu nhất (linh thông, thần thông), đây chính là pháp môn Tam Mật của Mật tông.

Khi khởi linh, nếu gặp được thiên thần giáng xuống, chỉ dạy cho "chỉ ấn", thì đây là hiện tượng của người có căn cơ lớn, có thể được thiên thần hạ giáng để dạy chỉ pháp đã là một điều rất không đơn giản rồi. Thiên thần dùng linh lực để làm chuyển động hai tay của người khởi linh, uốn cong các ngón tay để làm thành các thế tay (thủ ấn) đủ kiểu đủ dạng. Người học tập có thể mở to hai mắt để xem bàn tay của mình biến hóa, phần lớn sự chỉ dạy về thủ ấn đều vô cùng đẹp đẽ kì diệu, chỉ pháp thiên biến vạn hóa, những thủ ấn do mười ngón tay tạo ra có thể khiến người khởi linh đập bàn khen tuyệt. Lúc này có thể dùng ý nghĩ để ghi nhớ học thuộc thế tay, những thủ ấn này thuộc về các loại thủ quyết của nhà Phật, cũng có thủ ấn là không truyền, chỉ cần có được một thủ ấn thì đúng là nghìn vàng cũng khó mua được. Phần lớn người xuất gia, khi cúng đàn chẩn tế Diêm Khẩu thí thực, các thủ ấn đều là được thầy truyền cho trò, không thể bằng được như thủ ấn của Chân Phật Tông, bởi vì thủ ấn của Chân Phật Tông không khác gì được chân truyền từ cõi trời, không phải là người truyền cho người, mà chính là cơ mật thật sự của Thánh linh Phật linh như vậy đó.

Hồi đầu, sau khi tác giả có được kì duyên tại Ngọc Hoàng Cung, trở về kí túc xá (trước đây đã từng kể trong cuốn "Mạn đàm linh cơ thần toán"), đêm đó Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã lập tức bắt đầu chỉ dạy thủ ấn thông qua linh, Ngài tách hai tay đang chắp lại ra, uốn cong ngón tay, ngay cả những chỉ pháp phức tạp cũng có thể tự tay chuyển động múa may được, những chỉ pháp ấy tôi chưa từng được nhìn thấy, nhưng không ngờ lại có thể tự thông thần tủy, cuối cùng đã có được thủ quyết và bộ pháp Tham tinh bái đẩu. Sự truyền dạy bộ pháp là Tiên Sư ở không trung sẽ kêu người học tự đứng dậy, sau đó linh thông nhập vào chân, chân tự di động, bước thành một bộ các bước chân với hình thế kì lạ, tôi còn nhớ mình ghi nhớ những thủ ấn và bước chân đó, trong đó có cả Bộ cang đạp khôi. Phương pháp truyền thụ này là do linh sư vô hình truyền thụ, trừ phi tự mình đích thân trải qua, bằng không thì chẳng có ai dám tin đây là sự thật. Nay Lư Thắng Ngạn tôi nói ra toàn bộ không giấu diếm về sự chỉ đạo tâm linh chân thực này, nếu có người còn hoài nghi không tin thì thật là oan uổng! Thật là oan uổng!

Linh sư vô hình Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền thụ Cửu tinh chỉ, Quang minh ấn, Định ấn, Lôi ấn, Kim quang ấn, Đại phiên thiên ấn, Mâu Ni ấn, Samaya ấn, Kiếm ấn, Tâm ấn, Nhập thần ấn, Trí huệ ấn, Cửu phẩm sinh ấn, Bát quái kim tỏa ấn, Quan Âm ấn, Liên hoa ấn, Thông thiên như ý ấn, Âm ấn, Dương ấn... Những ấn quyết mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh đã truyền bao gồm các chỉ pháp của Phật gia và Đạo gia, và Chân Phật Tông dùng các ấn phối hợp với nhau, phát huy thần lực vô hình, sức mạnh của nó không thể xem nhẹ. Rèn luyện chỉ pháp cũng là kết quả của khởi linh, đòi hỏi sự tập trung tinh thần, thành tâm cầu nguyện tiên linh chỉ điểm, tin tưởng vào đạo lí những thiên nhân từ bi không từ bỏ hay mặc kệ mình. Sự ảo diệu thần bí của ngón tay tức là bí mật của thân, thân như núi Tu Di, tự nhiên phóng tỏa hào quang, lập nên nền móng đạo của trời đất, hóa nên Phật quả muôn đời. Một tay chỉ trời, trời tức là thân ta hóa nên, một tay chỉ đất, đất tức là thân ta biến hóa ra, vả lại, một chữ "đạo" vẫn là "thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn".

Tâm trong tâm ấn pháp, tôi đặc biệt chỉ rõ đó là "chú", ấn trong tâm ấn pháp, tôi đặc biệt chỉ rõ đó là "maya", maya có ba loại, tức là samaya Phật bộ, samaya Liên hoa bộ, samaya Kim cương bộ, những chỉ pháp này, trong sách cổ thông thường của Phật gia có pháp tu, ở đây tác giả không nói nhiều, nhớ rằng phối hợp tâm với ấn, tâm ấn nếu phối hợp với nhau thì cánh cửa đi vào bí mật sâu nhất đã được mở ra rồi. Điều khó nhất là, người tu không bền lòng, tính tình nôn nóng, muốn trong một thời gian ngắn ngủi mà đạt được thành tựu lớn, họ thật không biết nhân duyên chưa sinh thì thiện quả chưa kết, trèo cây bắt cá, làm sao được chứ! Làm sao được chứ!

Luyện thủ ấn cũng được xem như một trong những phương pháp luyện linh, nếu thủ ấn có được thành tựu thì có thể ở trong chùa Phật của Linh Tiên Chân Phật Tông đảm nhận vị trí trụ trì, ấn chú gia trì, thiện công bố thí, nhất khí thượng thiên đình, thiên đình hóa tam thanh, Đạo khí có được thành tựu thì linh giống như con rồng duỗi thẳng, tự mình hiểu được thân thần biến, nếu giác ngộ chân đạo thì thành Phật tác Tổ, tự nhiên được như mong đợi.

Linh Tiên Chân Phật Tông tu pháp theo thứ tự: Khẩu - chú - ý thức - cái ngã [ta]. Thân - ấn - tiềm thức - tâm. Ý - thần thông - ý thức sâu nhất - linh.

Căn cứ theo việc tu trì tam thân "ngã - tâm - linh" cùng phối hợp với nhau theo Linh Tiên Chân Phật Tông của tôi, "ngã" tức là khẩu, trực chỉ chú; tâm tức là thân, trực chỉ ấn; linh tức là ý, trực chỉ thần thông. Thần thông tức là sáu đại thần thông, là sự biến hóa của Phật Tiên có vậy thôi!

13. Ý niệm về Như Lai

Ý niệm về Như Lai là một dạng giác ngộ "đại biến linh", vị giác ngộ bất sinh bất tử, có thể sinh có thể tử, trong mười pháp giới tự do xuất nhập tùy ý muốn, bởi vì ý niệm về Như Lai là bí mật thâm sâu của đại biến linh, phàm phu bình thường không dễ mà hiểu được, thậm chí người có trí huệ siêu giác, vì nhất thời sơ ý, cũng không dễ biết được hệ ý niệm bí mật thâm sâu hiếm có này. Như Lai, "cũng chẳng có đến, cũng chẳng có đi", vì thế mới gọi là Như Lai.

Có lão cư sĩ học Phật nhiều năm, tôi từng hỏi ông ấy rằng: "Tiên sinh có hiểu các bậc Như Lai làm sao để đắc chứng Như Lai không?" "Tu theo Phật thừa là có thể đắc được Như Lai thừa." - Lão cư sĩ trả lời. "Ý niệm về Như Lai là gì?"

"Ồ… ý niệm về Như Lai…" - Lão cư sĩ suy nghĩ rất lâu, nhưng không thể trả lời được điểm chính yếu, không thể đoán, cũng không thể giải thích. Nếu như các độc giả đọc lại bài viết "Xuất nhập thập pháp giới" thì sẽ hiểu được một cách sâu sắc, Như Lai là đại giải thoát hoàn toàn tự do, có thể nói là không bị trói buộc tại trời đất, là tâm pháp tối thượng thừa của triết học vô chướng ngại, và cái gọi là tâm pháp vô thượng thừa tức là "linh", tổ sư các đời không nói ra, chỉ có mỗi tôi nói ra thôi.

Tôi từng vì tìm tòi ý niệm về Như Lai mà đi vào trong núi sâu. Trong núi có một cái hang, tôi đi vào trong hang tối om om, lấy một ít lá khô bên ngoài hang để làm thành đệm ngồi. Một ngày của tháng 12, trời âm u lạnh lẽo, gió thổi heo hút từng cơn, ở giữa rặng núi này dường như chỉ có một mình tôi. Đứng ở cửa hang, tôi nhìn ra xa bốn hướng, không nhìn thấy đường chân trời, những tầng mây quá thấp, chỉ trông thấy mặt đất mờ mịt, khắp nơi đều như có khói mỏng. Tôi trở vào bên trong hang động, tọa công một lúc, toàn thân bắt đầu sinh ra nhiệt năng để chống lại cái khí lạnh lẽo trong hang. Hang núi ban đầu âm u thì nay dần dần sáng lên. Bản thân dường như vừa uống rượu say, có một chút cảm giác say mê và nhẹ lâng lâng, khi ngồi yên thêm một lúc thì hiện tượng say này hoàn toàn biến mất.

Lúc này, từ chỗ huyền quan của chính mình, lóe lên một đốm lửa lấp lánh, đốm lửa nhỏ chiếu ra một đóa hoa sen đỏ vô cùng rực rỡ. Hai mắt tôi nhìn chăm chú vào đóa hoa sen đỏ, rồi cứ thế nhập vào trong thế giới của đóa hoa sen đó. Đây là một dạng sức mạnh của tư duy suy tưởng, ý niệm về Như Lai chính là ở trong bông hoa sen đỏ vô cùng xinh đẹp này, thân bí mật Như Lai bất khả tư nghì sẽ hiển hiện ra.

Ở chính giữa hoa sen có một vòng ánh sáng, vòng ánh sáng quay tròn không ngừng, ánh sáng của vòng ánh sáng giống như ánh sáng của tia chớp tuyệt đẹp, trắng sáng, sự tròn trịa của cái vòng ánh sáng đó không có một chút khiếm khuyết nào. Trong vòng ánh sáng hiện lên từng chữ từng chữ một, rồi từng chữ từng chữ một lại biến mất, chính là chữ "Như Lai quang luân, hàng tận thiên ma". Tôi nhìn được tám chữ này thì lĩnh ngộ được vô hạn chân ngôn quyết ngữ: "Sự vô hạn của ánh sáng giống như tâm cảnh của Như Lai, sự vô tận của Thần hóa là cũng là chỗ quy y của nghìn Ma, Như Lai hiển tính thì Ma tất sẽ lui về ẩn náu, Như Lai nhập mật thì Ma sẽ xuất hiện, tất cả mọi đạo đều nằm trong biến hóa thân của Như Lai và Ma."

Lúc này, vòng ánh sáng biến mất, trên đóa hoa sen đỏ xuất hiện Đa Bảo Phật tháp, tỏa ra ánh sáng thần thánh rực rỡ trang nghiêm, hàng nghìn con chim ngậm hoa ở mỏ, hót lên âm thanh hòa nhã, ca ngợi Đa Bảo Phật tháp. Tôi tỉ mỉ quan sát bảo tháp này, quả nhiên là bảo tháp được hóa ra từ đóa hoa sen nghìn cánh. Ngoài những thứ trang sức trang nghiêm ra thì ở xung quanh bảo tháp còn hóa ra vô số Phật và Bồ Tát đang ủng hộ. Tôi không hiểu được ý của đạo lí này. Không lâu sau, Đa Bảo Phật tháp lại biến mất. Lúc này, hoa sen nghìn cánh cũng biến mất theo, hang núi lại trở lại tối đen như ban đầu. Tôi thu lại ngọn lửa tỏa ra từ huyền môn, tất cả cảnh vật lại chìm trong sự âm u.

"Liên Sinh! Cái gì là thân bí mật của Như Lai?" - Trong không khí có âm thanh hỏi. "Pháp thân Như Lai, không đến, không đi, vì thực tính của mọi pháp là bất động. Cũng là chân như Như Lai, pháp giới Như Lai, pháp tính Như Lai, không có tính hư vọng cũng là Như Lai, không có tính biến dị cũng là Như Lai, tính bình đẳng là Như Lai, tính li sinh là Như Lai, thực tính là Như Lai, trụ tính là Như Lai, thật tế là Như Lai, hư không giới là Như Lai, bất tư nghì giới là Như Lai, tính vô sinh là Như Lai, tính vô diệt là Như Lai, tính như thực là Như Lai, tính viễn li là Như Lai, tính tịch định là Như Lai, tính không là Như Lai, tức là không đến không đi. Đây là ý nghĩa trọng yếu trong Kinh Đại Niết Bàn.

"Mỗi Liên Sinh biết, nhưng chúng sinh không biết, vậy ngài làm sao?" "Rốt cục là bất khả thuyết." - Tôi trả lời. "Đa Bảo Phật tháp thị hiện, ngài có hiểu không?" "Không hiểu, mong thần linh chỉ bảo." - Tôi cung kính trả lời.

"Khi một vị Phật, một vị Như Lai xuất thế, Đa Bảo Phật tháp chắc chắn sẽ từ trong đất trồi lên, cứ thế sẽ xuất hiện tám vạn bốn nghìn pháp môn trên thế gian, rồng và trời sẽ cùng ủng hộ, trong đại thiên thế giới này, ánh sáng sẽ chiếu khắp pháp giới, từ vô thủy đến nay chưa từng thấy có. Liên Sinh, thân bí mật của Như Lai, tiết lộ ra cũng không có hại gì, ánh sáng chói lọi sẽ bắt đầu từ trong mọi bí mật này mà hiển lộ, và tất cả sẽ được thành tựu." "Liên Sinh! Cái gì là thân bí mật của Như Lai?" - Linh trong không trung lại hỏi.

"Pháp thân Như Lai, tất cả pháp, tính tướng bình đẳng, cùng một thể đồng nhất, phàm - Thánh, mê - ngộ, ô nhiễm - thanh tịnh, nhân - quả, đến - đi, tiến - lùi, đều giống nhau. Thế nhưng đấng Như Lai là viên ngọc mani đã được mài giũa, tự nhiên sẽ tỏa sáng rực rỡ, chúng sinh đều có Phật tính, cho nên ngài là bậc giác ngộ đại biến linh, nói như vậy có đúng không?" "Rất đúng!" Linh ở trong không trung này chính là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.

14. Sơ chuyển pháp luân tại tứ thiền

Nếu học được "Khởi linh thần công đệ nhất pháp" thì cũng tương đương đã nhập môn Chân Phật Tông, công phu luyện linh là ba pháp môn Thiền tông, Mật tông, Yoga kết hợp làm một. Tu hành của Chân Phật Tông không khác với các đại môn phái Phật giáo khác, ngược lại, vì đã ấn chứng được Phật pháp nên khiến cho Phật pháp vô hình nhờ có hành vi tu hành cụ thể mà càng phát huy rộng rãi. Nay tôi đặc biệt nhấn mạnh bốn chữ "pháp luân thường chuyển", vì "pháp luân thường chuyển" không phải là lời nói sáo rỗng, cũng không phải là lí luận. Điều quan trọng nhất là vận chuyển "khí" chân chính ở trong thân của mình, vận chuyển "linh" chân chính ở bên trong thân thể của mình. Phật pháp vốn không theo đuổi thứ ở bên ngoài, ý nghĩa chân chính của nó chính là ở đây. Thế nhân không hiểu, cứ đòi hỏi cảnh giới thần thông mà không hề biết rằng, nếu sơ chuyển được pháp luân thì đã là cảnh giới tứ thiền định rồi, điều này thần kì lắm thay, không thể lường được!

Trong kinh Câu Xá Luận có nói: "Nhập định tu hành mặc dù có nhiều kiểu, nhưng thật sự nhập môn chỉ có hai, một là bất tịnh quán, hai là trì tức niệm. Tu bất tịnh quán, chính là để trừ tham. Đối trị cái tham có hai kiểu quán pháp: một là quán thi thể của mình, hai là quán thi thể của người khác. Người có căn cơ sắc bén, trên thi thể của mình từ chân tới đỉnh đầu, quan sát xung quanh, lệnh cho tâm chán ghét. Nếu người có căn cơ ngu độn, phiền não mãnh liệt, thì khó mà thúc đẩy được chính mình hàng phục, phải dựa vào lực của ngoại duyên thì mới trị được. Người quán thân của người khác, đầu tiên phải khởi tâm từ bi, đi đến nơi có thi thể, dựa vào tướng của người ta để thấy được tướng của chính mình, tướng kia như thế, tướng của mình rồi cũng sẽ như thế."

"Tiếp theo, nhờ thi thể của người khác mà làm tám loại quán tưởng, để hàng phục và đối trị với bốn cái tham, trị được người mê đắm vào nhan sắc, quán tướng xanh ngoét và tướng đỏ thẫm. Để đối trị với sự mê đắm vào tướng mạo con người, quán bị cầm thú ăn thịt và năm bộ phận bị cắn rời. Để trị kẻ mê đắm vào cơ bắp xương cốt, quán tướng bị hư hoại và tướng trơ xương cốt. Để trị kẻ mê vào đồ ăn ngon, quán tướng phì nộn và tướng thối rữa. Cuối cùng, vì toàn thân chỉ còn là bộ xương, từ đó tu bất tịnh."

Trong Câu Xá Luận nói đến bất tịnh quán, là nói đến sự bất tịnh của tứ đại. Con người sau khi chết đi, ai nấy đều sợ hãi, bởi vì nhan sắc người chết xấu xí, có những cái chết thê thảm, đột tử thì càng đáng sợ hơn. Rồi lại quán ngược lại bản thân mình cũng thế, rồi tự nhiên nảy ra suy nghĩ muốn "tu hành", lúc này cái tâm trục danh cầu lợi mới xem như có thể lắng xuống, từ định sẽ sản sinh ra trí huệ. Nếu sinh ra trí huệ thì mới xem là sơ chuyển pháp luân, phần lớn phải có trí huệ rồi mới có thể nhập thiền. Bất tịnh quán này cũng xem như là cơ sở của tứ thiền định.

Trong Câu Xá Luận còn viết: "Người trì tức niệm, là tập trung về hơi thở ra vào, chính là để đối trị suy nghĩ tán loạn. Chỉ tu theo cách tập trung hơi thở này có sáu loại: Sổ tức, Tùy ý, Chỉ tức, Quán tức, Chuyển tức và Tịnh tức. Sổ tức là đếm số lần thở ra hít vào, để ngăn không cho tâm phân tán vào cái khác. Phàm là đếm hơi thở thì trước tiên phải bắt đầu từ đếm hơi thở hít vào, con người mới sinh ra thì hít vào trước, lúc chết thì thở ra một hơi thở cuối cùng, chỉ thở ra và không hít vào nữa thì là chết. Dùng cách này để quán sát về sinh tử, về vô thường, dần dần có thể đắc được việc tu tập. Tùy ý là dựa theo việc hít vào thở ra mà xác định trong tâm đó là hơi thở ngắn hay hơi thở dài. Chỉ tức, nghĩa là sau khi hít hơi thở vào thì dừng lại, ý niệm sẽ ngưng lại ở ngay đó. Khi Chỉ tức, tâm dừng lại ở đầu mũi, hoặc ở giữa hai lông mày, hoặc ngón chân, dừng lại ở chỗ nào tùy ý. Pháp Quán tức, là quan sát hơi thở trên thân, ví như sợi chỉ ở giữa viên ngọc. Chuyển tức còn gọi là là đại chủng tạo sắc (đất nước lửa gió) và tâm, quán cùng với tâm. Tịnh tức [làm an tịnh hơi thở] thì là đệ nhất pháp xuất thế, có thể giúp tiến vào bát kiến đạo, tận trí đẳng, đạt tới cảnh giới cùng tận của trí huệ, nên gọi là Tịnh tức. Tu theo hai cách quán [bất tịnh và trì tức] này thì tâm sẽ định."

Trong Câu Xá Luận nói về cách hít thở, không hẹn mà trùng hợp với tịnh tọa của Đạo gia. Thật ra không có gì là kì lạ ở đây, Đông phương Thánh triết và Tây phương Thánh triết của Lục Tượng Sơn là đồng tâm đồng lí, Phật pháp và Đạo pháp phần nhiều là giống nhau, khác biệt thì ít. Pháp luân thường chuyển của Đạo gia đích thực chính là pháp hít thở, cũng tức là dừng suy nghĩ mà đếm hơi thở, bởi vì linh nằm ở hải để luân, cho nên muốn phá được hải để luân để cứu linh hồn, có thể dùng niệm lực và cách hít thở để phá, nhìn chung việc hít thở của người tu Đạo rốt cuộc rất khác với phàm phu. Phương diện này có hai nguyên tắc: nguyên tắc thứ nhất là hít vào liên tục cho đến đan điền, nguyên tắc thứ hai là hít vào nhiều thở ra ít. Người tu đạo chúng ta phải hiểu, nếu khí vào đan điền thì tức là "quy nguyên" [trở về nguồn], sau khi quy nguyên thì mới thở ra, đây chính là để kéo dài sinh mệnh, nếu luyện tập cách hít thở lâu ngày thành quen thì rất nhanh chóng có thể đạt đến cảnh giới tứ thiền, bằng không thì ngồi khô cả đời cũng chỉ uổng công. Cách hít thở nếu có thể liên tục đi vào đan điền, đan điền tất nhiên sẽ phát nhiệt, vì sự lưu chuyển của khí vẫn là một trong những phương pháp làm vững chắc cái gốc. Nếu gạt sạch được khí âm u lạnh lẽo thì đan điền sẽ sản sinh ra khí ôn hòa, đây là hiện tượng tốt, cho thấy cách hít thở đã đạt được ấn chứng sơ bộ rồi.

Nhìn chung, tĩnh tọa phải tập trung tinh thần trước, đặt tâm niệm ở giữa hai mắt, hoặc hơi thở dưới mũi, tư thế ngồi tùy ý, trang nghiêm tự nhiên, một hít một thở, rõ ràng đến mức có thể nghe thấy, cuối cùng hơi thở mới hóa thành vô hình. Hít khí vào nhất định phải xuống đến đan điền, cứ tuần hoàn như vậy mới xem là cách hít thở chính thống. Phương pháp nội đan điền này chính là pháp luân thường chuyển ở bên trong thân. Trước khi vào pháp tọa, cần làm động tác chuẩn bị là hai chân duỗi thẳng song song, dùng niệm lực để hít vào một hơi chân khí, dồn ép khí này xuống hai chân, rồi lại đẩy khí này ra đầu ngón chân, đây cũng là phương pháp để loại bỏ khí bẩn đục trước khi tĩnh tọa, và cũng có tác dụng tập trung tinh thần. Khi tọa công, cần hết sức chăm chú vào việc hít thở, tay có thể để cho một nửa linh lực chi phối để hiển hóa thủ ấn một cách tự nhiên, nếu không thể hiển hóa thủ ấn thì có thể để hai tay nắm chặt là được. Vì ý niệm chỉ tập trung vào hơi thở, cho nên niệm lực có thể quy về một điểm, thường xuyên chuyển động pháp luân như vậy thì trí huệ sẽ sinh ra thiền định, có thể song tu Phật - Đạo được. Trong dạ dày giống như có một quả cầu lửa đang cháy, như say như mê, nhập vào tứ thiền, thấy được cảnh tượng tuyệt vời, thu được Tiên duyên, lửa trong lò cháy rực, đây vẫn là chứng nghiệm ban đầu.

Kết cấu của thân thể con người thần kì không thể suy đoán, ngũ hành tự nhiên, có thể ấn chứng ngũ hành nhân thân, nhập tứ thiền và chuyển pháp luân cũng đòi hỏi phải là công phu như một bánh xe đất. Bài viết ngắn này cũng chỉ là một trong những cách xây dựng trúc cơ, xây dựng cốt thép ở trong nền đất, để đạo hạnh sau này gây dựng nên nền móng. Người được vào tứ thiền định không nhiều, qua được cửa này rất khó, người tu linh không thể không biết.

15. Đạo lí của đại ôn dưỡng

Công phu đại ôn dưỡng là một trong những công phu của thuật trúc cơ, là cơ sở của tất cả đạo công, tác dụng của nó chính là hồi chuyển linh lực, cũng có nghĩa là sự luân hồi của linh lực. Bởi vì sự luân hồi này sản sinh ra nhiệt độ, rồi lại vì nhiệt độ tăng lên tích lũy mà hình thành một khối cương khí vô hình, khối chân khí này chính là công phu đan điền của Đạo gia, là đại ôn dưỡng của thuật đan đỉnh. Người tu luyện linh thông thường thì đến phần bụng là có khí ấm, khí âm u lạnh lẽo ở nửa thân dưới đã được loại bỏ, đây là dấu hiệu rất tốt. Trên phương diện này, kẻ hèn này có thể cung cấp pháp ôn dưỡng sơ bộ nhất, pháp này người người có thể học và có thể thành công, lợi ích rất lớn, thân thể và khí lực cường tráng, đó cũng là cơ sở để thành Phật thành Tiên.

Hồi thứ nhất, ngồi xuống nên chọn song bàn, đơn bàn hoặc tùy ý, miễn là để cho phần thân dưới vững chắc bất động là hay nhất, hai tay đặt vào hông. Người luyện tập pháp này cũng phải có tâm bền bỉ, không cần phải gò bó vào bất kì giáo phái nào, không phải thỉnh thần, nhưng phải đập hai hàm răng vào nhau 36 lần để cho tinh thần tập trung thống nhất, hai mắt khép hờ nửa nhắm nửa mở. Pháp này không cần quán tưởng, toàn bộ là ngoại công phu. Đầu tiên phải đặt lưỡi chạm hàm trên, để cho thiên tân ngọc lộ (tục gọi là nước cam lộ) tiết ra, thực ra chính là nước bọt của chính mình, đợi đến khi ngọc lộ đầy trong miệng rồi thì hít sâu vào một hơi khí, khí hít vào không đi qua phổi mà là đi vào thực quản vào dạ dày rồi vào đan điền.

Hồi thứ hai, sau khi hít khí vào, không được vội vàng thở khí ra, trước tiên phải giữ không để thở ra, thế rồi thân thể sẽ dao động sang hai bên trái phải. Cần nhớ là không phải dao động theo hướng trước sau, cái gọi là thân thể dao động là phần thân trên dao động, đung đưa qua trái qua phải từ chỗ hai tay đặt ở giữa hông cho đến nửa thân trên. Tốc độ dao động không nên quá nhanh, điều quan trọng nhất là nửa thân dưới phải vững như bàn thạch không mảy may cử động, chỉ có nửa thân trên dao động mà thôi. Trong thời gian tiến hành không được lấy hơi, lúc này sẽ mặt đỏ tía tai, nhiệt độ tăng cao, cho đến khi nhịn thở không nổi nữa thì chầm chậm thở khí ra, đây là một tiến trình.

Hồi thứ ba, công phu này có thể nói là quá đơn giản rồi, nhưng vì đơn giản, mọi người cũng sẽ không chú ý đến thành tựu vĩ đại của nó. Làm xong hồi thứ nhất và hồi thứ hai, hồi thứ ba lại quay lại động tác ban đầu. Đung đưa nửa thân trên trong kĩ thuật yoga là áp dụng pháp thận thủy, cũng là một trong những phương pháp làm vững chắc cái gốc. Công phu lâu ngày thì công lực càng sâu, vùng đan điền nóng lên giống như lửa trong lò lửa vậy! Mặc dù đây là một kĩ thuật nhỏ đơn giản nhất trong thiên hạ, nhưng cũng là bí mật huyền diệu mà vạn người không biết. Tôi công khai kĩ thuật này cũng là để vạch trần cái sai lầm của thế tục. Bảo vệ cái gốc vững chắc chỉ có một cách, chính là "bão nguyên thủ nhất" [một kĩ thuật của Đạo gia, mục đích chính là để bảo vệ tinh khí thần của con người không bị hao tổn, thất thoát ra bên ngoài, có tác dụng kéo dài tuổi thọ, trường sinh bất diệt], nâng khí đi lên.

Đạo lí về cái gốc vững chắc này giống như nguyên lí của máy bơm quay tay vậy (máy bơm nước), lợi dụng sự nén của không khí khiến cho nước ngầm theo ống dẫn mà dâng lên, còn thân thể của chúng ta giống như máy bơm nước, huyết dịch và thận thủy là nước ngầm, sự hô hấp là khí áp, thân thể dao động cũng giống như quay tay để bơm nước vậy, và thế là thận thủy dâng lên, nửa thân dưới vốn dĩ lạnh và lỏng, vì hết lần này tới lần khác trải qua sự nâng lên mà phát sinh độ nóng, đây chính là chân lí của pháp đại ôn dưỡng. Tam bảo của Đạo gia - tinh khí thần có thể giữ chắc, và đại ôn dưỡng chính là sự phòng thủ kiên cố của tinh huyết.

Nói chung chúng sinh có thể tu được đến mức giữ được tinh huyết thì cũng tức là thần tiên bất lão ở nhân gian, có thể chứng đắc trường sinh bất lão, đương nhiên rồi! Với hành giả của Chân Phật Tông thì trường sinh bất lão không phải là mục đích, mà đây chỉ là một sản phẩm phụ của quá trình tu thành Phật mà thôi. Đại ôn dưỡng là sự vững chắc của tinh huyết, cũng chính là sự hình thành ban đầu của khí, pháp tu hành của phái đan đỉnh Đạo gia lấy pháp đại ôn dưỡng này làm pháp trọng yếu ban đầu, điều này không phải là không có nguyên nhân đâu! Đây cũng là một trong những công phu trúc cơ.

Theo đạo lí mà nói, công phu này của Đạo gia cũng là một trong những phương pháp phá âm ma của Phật giáo Thiền tông. Tôi tin tưởng rằng niệm thức của Phật môn nếu phối hợp với Đạo công thì càng có thể phát huy rộng lớn, tiếc là, Phật gia quá chấp thiên về Không, không thể nội ngoại kiêm tu, giữ huệ nhưng lại đánh mất mệnh, người giữ mệnh thì lại đánh mất huệ, không thể cùng song tu huệ mệnh, đây là một việc vô cùng đáng tiếc. Ngày nay mặc dù xuất hiện rất nhiều bậc đại đức trí giả, nhưng họ lại bài trừ đường lối này, và người cố chấp thì luôn cho rằng bản thân mình mới là chính tông, không thể tu những công pháp đơn giản dễ hiểu bên ngoài được. Đến cuối cùng họ cũng chẳng làm nên trò trống gì, chẳng phải là uổng phí nhiều năm khổ tâm hay sao. Nếu người xuất gia cũng giống như tôi tu pháp đại ôn dưỡng giản dị này, tu trì lâu ngày thì tất nhiên tinh thần sẽ sung mãn, sẽ không để thất thoát nguyên tinh, thì tinh hoa tiềm tàng, lễ Phật tụng kinh, tu tĩnh thiền công tất nhiên chỉ cần làm ít mà công phu tăng gấp bội phần, như vậy làm sao có thể ảnh hưởng Phật tâm như như bất động được chứ!

Pháp hít thở đại ôn dưỡng trước tiên là hít thở sâu, nhưng về sau thì không phải là hít thở sâu nữa, mà là hít thở tự nhiên, từ hữu hình đến vô hình, cho đến khi có thể ngồi chặn được huyết hà, đóng được con đường sinh tử thì mới xem như nền tảng đã vững chắc, linh khí lúc này chỉ có tăng lên chứ không bao giờ giảm bớt. Từng ngày từng ngày lấy khí của chân linh để tiếp lửa, tự có thể kết đan, đan này chính là tiên thiên xá lợi tử, khi thần khí kết tinh chặn đứt được huyết hà.

Người khởi linh tu pháp đại ôn dưỡng sẽ dễ dàng hơn, mặc dù ngồi trên bồ đoàn có động tác giống nhau, nhưng sự dao động của thân thể có thể do linh đến mà gây ra, đặc biệt là linh lực vận động từ dưới hướng lên trên, toàn thân sẽ khởi lên sự rung lắc tự nhiên mà vi diệu, điều này càng có lợi cho sự xung kích khí huyết. Vả lại, thân thể hoạt động tự nhiên, tay cũng có thể phụ trợ với thân, trở thành tư thế một que hương ngước nghìn trời.

Hiện tại giới Phật giáo có một vị pháp sư già đến nhà tôi để xin pháp này, trở về chùa Phật ngày ngày chăm chỉ luyện công, đã thu được bí quyết rất sâu. Ông ấy nói, ngày trước toàn bộ xương khớp đều nhức do bệnh tuổi già, không những nay đã hoàn toàn tiêu trừ, mà sắc mặt không còn tối tăm nữa, hiện tượng lạnh ở nửa thân dưới cũng hoàn toàn không còn, khí huyết thông suốt, đi đường cũng có thể bước nhanh như bay. Ông ấy cảm thấy phương pháp đơn giản như vậy vì sao người người không biết, người người không tu?

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Một chút mẹo Đạo pháp, thần bí vốn không nhiều, tách bạch đường sinh tử, chỉ cần chút thần công." Đây là một lời nói chân thực, nếu nhận thức được điều này thì cũng đáng gật đầu ngợi khen.

16. Đại định kim cương bất hoại

Ngày xưa, Tu Bồ Đề đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni có một lần bị bệnh rất nặng, ngài ấy ẩn dưới một cái cây lớn, ngồi trên mặt đất, thân tâm đều kiệt quệ. Ngài nhắm hai mắt lại, nhập vào kim cương tam muội đại định, trong một sát-na, thân tâm đều không còn tồn tại, cái thần của tư duy liên tục đi lên, nhập vào Thức vô biên xứ. Lúc này, Tu Bồ Đề muốn dùng chân hỏa tam muội để đốt cháy nhục thân của mình. Đúng vào lúc này, nguyên thần của Tu Bồ Đề chạy đến chỗ thần khiếu, lập tức thấy thiên môn mở ra, Thiên Đế và thiên nữ ở cõi trời, các vị rồng thần đứng ở chân trời, hát lời ca ngợi sự vĩ đại siêu nhiên của Tu Bồ Đề khi nhập tam muội kim cương đại định. Tiên nữ đứng trên những đám mây cát tường, từ không trung rắc xuống những tiên hoa duyên dáng, bỗng nhiên bầu trời rực rỡ bảy sắc màu, những tiên hoa rơi chồng chất lên nhau thành đống cho đến khi cao bằng thân thể đang ngồi của Tu Bồ Đề.

Tu Bồ Đề dựa vào kim cương đại định mà nhập vào tam muội, đã làm cảm động khiến thượng thiên ca ngợi, trong sát-na, những đau đớn của nhục thân hoàn toàn được tiêu trừ. Sau khi xuất định ngài cảm thấy thân thể nhẹ nhõm, khí mạch sảng khoái, tinh thần ổn định, tâm tư sáng rõ, không còn chút cảm giác khó chịu nào.

Bài viết này mở đầu bằng việc nhắc đến công phu đại định của Tu Bồ Đề, chủ yếu là để người người hiểu rằng, thân thể của con người là yếu ớt nhất, khi ma bệnh tấn công và xâm nhập, ngay cả đến Tu Bồ Đề là bậc liễu giải Không nghĩa đệ nhất cũng không thể tránh khỏi, và để loại trừ ma bệnh thì chỉ có dựa vào thần công của tam muội kim cương đại định. Kẻ hèn này đưa mắt nhìn ra thế gian, có được mấy người có thể nhập vào kim cương tam muội đại định đây? Có được mấy người?

Xưa kia, Phật đã từng vì những người bệnh sắp chết mà nói bài kệ:

Niệm Phật tam muội ắt thấy Phật Mệnh chung chư Phật sẽ hiện tiền Ngày tàn sắp chết nên nghĩ thiện Chiêm ngưỡng chư Phật thị hiện hình Lại khuyên niệm Phật quy y Phật Chắc chắn sẽ thấy Phật quang minh.

Từ điều này có thể thấy rằng, Thế Tôn tại thế gian, đối với những người bệnh sắp chết, ngài không hề dùng Phật lực để cứu vãn một cách không cần thiết, mà là tận lực tăng cường lòng tin của người ấy, với hi vọng đạt được sự bất tử của linh hồn. Con người đều phải chết, Thế Tôn cũng thế, ta cũng thế, cái chết vẫn là sự phân rã của tứ đại giả hợp, căn bản chẳng phải là một việc gì to tát, mà chỉ là mạng sống hữu hình này dừng hoạt động mà thôi. Điều quan trọng nhất là làm sao để linh hồn được nâng cao, tiến nhập vào trong thiên luân, đợi đến ngày gặp đại hạn thì nhập thẳng vào chân trời, sau đó vượt ra ngoài tam giới, phá bỏ giới hạn của tam giới để thành Tiên thành Phật.

Kẻ hèn này cũng từng bị ốm rất nặng, nặng đến nỗi phải nằm trên giường thở dốc liên miên, thân tâm kiệt quệ, toàn thân không còn một chút sức lực nào. Lúc này tôi hoa mắt chóng mặt, mồm miệng khô khốc, ngay cả sức để mở to hai mắt cũng không còn, tai chỉ nghe thấy những tiếng ù ù. Lúc này tôi cũng nghĩ đến cái chết, bởi vì sự đau đớn và giày vò khốn cùng của bệnh tật có thể khiến cho người bệnh không muốn sống nữa. Vào lúc này, linh hồn của bản thân cũng từng đi lên chỗ thiên khiếu huyền môn, chỉ cần một sự đột phá là có thể xuất thần mà ra đi. Thế nhưng trong lúc mê man, tôi vẫn thấy được linh quang của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dùng thần lực để truy hồi nguyên thần của tôi lại, nhập vào trong huyễn cảnh của kí ức tiền kiếp.

Tôi lúc này đột nhiên cảm thấy linh hồn trở nên nhẹ nhõm linh hoạt hẳn lên. Linh hồn tiến nhập vào trong một vòng ánh sáng, cửa của vòng ánh sáng vốn dĩ đóng chặt, lúc này lập tức tỏa sáng mạnh mẽ, rồi tôi bay vào trong, giống như chim bay lượn vậy. Tôi bay lượn rất lâu rất lâu, đến chỗ mây mù tan hết, nơi tận cùng con đường, thì ra nơi này là Hoài Nam Thần Tiên Giới. Tôi mở to mắt ra, chà! Những cung điện trùng trùng điệp điệp, tiên cảnh tự nhiên đẹp như mơ như huyễn, và những âm thanh hòa nhã như bài ca tiếng Phạn vang lên ở khắp nơi, sắc vàng bạc lấp lánh khiến người ta không ngừng đưa mắt nhìn ngắm. Những dòng suối trong veo như ngọc, tiếng róc rách vang lên như một bản nhạc trong trẻo như ngọc thạch. Những cơn gió mềm mại mang theo mùi hương thượng phẩm, ngửi thấy khiến người ta thoải mái sảng khoái. Tôi chầm chậm dạo bước trên con đường đạo sáng như ánh chớp, thất bảo trang nghiêm, thiên cung nguy nga cứ trùng điệp hiện lên trước mắt. Trên người Thần Tiên ai nấy đều tỏa thần quang, Kim Giáp Thần cũng bay lượn tới lui tấp nập, các Thần Tiên đều có hình tướng rất tôn quý, toàn thân tỏa hương thơm trang nghiêm. Tôi bước đến một cái ao trời, nước trong ao trời này có màu bạc, đáy nước được phủ kín bằng kim sa, mặt nước óng ánh như những viên châu ngọc.

Lúc này trên Thiên Trì [Thiên Trì nghĩa là Ao Trời] có một lão Thần Tiên đứng trên ngọn sóng bay đến. Vị Thần Tiên này một tay cầm ngọc như ý, một tay cầm hoa sen, trên đỉnh đầu tỏa ánh hào quang màu bạc, đôi mắt rất uy nghiêm, toàn thân lộ ra ánh sáng cát tường, đi chân trần, nước ở ao trời nhẹ nhàng chảy qua chân, ý tựa mây bay nước chảy, trong trẻo dị thường. Vị ấy tiến đến trước mặt tôi hỏi: "Liên Sinh, vì sao đến nơi này?"

"Xin hỏi tôn tính đại danh của Thần Tiên?" - Tôi đã quên mất nguồn gốc kiếp trước của mình. "Thiên Trì Lão Nhân là tôi, Liên Sinh, trong vài kiếp quá khứ, chúng ta còn là bạn tốt, nay thấy ngài sa sút như vậy, sao không đến Thiên Trì của tôi? Chao ôi, thông minh không địch nổi nghiệp lực, Thần Tiên khó tránh gặp luân hồi." - Thiên Trì Lão Nhân đi phía trước, tôi theo sau, tôi đi vào trong thiên trì, lại là một cảnh sắc đẹp đẽ "thiên ngoại hữu thiên, trì trung hữu trì, thần tiên cảnh giới, Hoài Nam động thiên". Tôi ở trong "Thiên Trì động thiên tu chân xứ" ngao du một lượt, Thiên Trì Lão Nhân nói với tôi: "Liên Sinh, nay tôi thấy ngài sa sút đến nông nỗi này, trong lòng cũng cảm thấy muộn phiền. Nhưng ngài hãy theo nguyện lực của mình mà làm, không đến Phật cảnh thề không dừng lại. Ngài hãy đi vào ao trời, nước trong ao trời sẽ giải trừ những đau đớn bệnh tật của ngài, sau đó ngài có thể trở về, tự thu xếp ổn thỏa đi!"

Tôi rời khỏi Thiên Trì, rồi lại ra khỏi vòng ánh sáng. Nói ra kể cũng lạ, tình trạng bệnh của tôi bỗng nhiên thuyên giảm, rồi dần dần cải thiện, thế rồi cũng hồi phục lại sự khỏe mạnh ban đầu. Đây cũng là một lần tôi trải qua trận ốm nặng, tôi cho rằng trận ốm này chắc là đi đời rồi! Hôm nay tôi tu Linh tông, phát hiện ra rằng bệnh tật đều là do nghiệp lực tạo nên. Người tu Chân Phật Tông cần chú ý đến sức khỏe thân tâm của mình, không thể vì tu linh mà mất đi hình thái cuộc sống bình thường, không được lơ là khoa học vệ sinh, có bệnh thì phải mời bác sĩ khám chữa bệnh, tiếp theo là khẩn cầu trời xanh bảo hộ, vì những bệnh tật của nhục thể có thể gây khó khăn cho sự thịnh suy của linh khí.

Muốn tu được thân đại định kim cương bất hoại thực sự không phải là một việc dễ dàng. Người tu đạo không đi ngược tự nhiên thì tu đạo ấy mới là chân đạo. Người tu linh thông thường muốn tiến nhập kim cương tam muội đại định thì mức tối thiểu nhất phải có công phu thiền định bốn năm, đương nhiên có thể đạt được thân kim cương bất hoại thì càng tốt, nếu không đạt được thì cũng không cần phải căng thẳng. Con người leo cầu thang, một bước lại một bước, bước từng bước vững chắc thì tự nhiên có thể đạt được thành công.

Đời người vĩnh viễn không thể tránh khỏi bệnh tật, chỉ có những người đã chứng được chân đế thì mới có thể vĩnh viễn tránh được, bởi người chứng được chân đế thì không còn dục vọng thế tục nữa, chỉ vậy mà thôi.

17. Chân ngôn thành tựu pháp phù

Pháp thuật của phái Nhất Đạo [giáo phái Thái Nhất Đạo, hoặc Thái Nhất Giáo, là phái Đạo giáo chuyên về phù lục] của nước ta [Trung Quốc] có lịch sử lâu dài, kiến thức ở trong đó uốn lượn quanh co chín khúc. Cổ pháp lưu truyền đến ngày nay cũng có biến chất, cũng có thất truyền, Đạo thuật thật sự còn đang được lưu truyền cũng đã rất hiếm rồi. Không những thế còn khiếm khuyết không hoàn chỉnh, rời rạc vụn vặt, vô cùng đáng tiếc. Kẻ hèn này tham chiếu những pháp cổ, lựa chọn những cái tốt cái thiện, vốn nghĩ rằng muốn thay những người xưa nay làm công việc chỉnh lí và biên soạn. Nhưng có một số người cho rằng không thể, bởi vì pháp thuật Nhất Đạo nói về tâm linh và hiệu quả của tâm linh, nếu có người dùng mà không linh thì chẳng phải là sẽ quở trách xằng bậy là mê tín sao. Hơn nữa, pháp thuật Nhất Đạo không phải ai ai tu học cũng đều đắc đạo, nhất định phải chọn đúng người mà truyền thụ, nếu truyền sai người thì chẳng phải là có lỗi với thiên cơ mật quyết sao!

Chính vì như vậy, cho nên mặc dù tôi biết muôn nghìn pháp thuật, tôi cũng không dám truyền bừa. Đạo nhân tu Chân Phật Tông nếu tâm địa từ thiện, có thể tu pháp phù. Phù chỉ là một trong số những pháp thuật mà thôi. Theo lí mà nói, môn phù không hề đáng sợ, phù có thể dùng làm "bồ câu đưa thư", có thể dùng làm hoán dụ cho pháp lực. Người vẽ phù quan trọng nhất là "ngưng thần", ngưng thần có nghĩa là sự tập trung sức mạnh tinh thần. Môn phù trong pháp thuật tồn tại đã lâu, sức mạnh của phù là do cách viết phù, do cá nhân, do Thần Tiên được phụng thỉnh đến mà sẽ có sự khác biệt về sức mạnh. Cũng có những phù không hề có chút công hiệu nào, loại phù này đương nhiên là do người không biết về bí quyết thật sự của linh phù vẽ ra.

Chân ngôn thành tựu pháp phù như sau:

Bí quyết thứ nhất: phù được tạo nên bởi giấy, bút và nước, trong đó nước là đặc biệt quan trọng. Nước vẽ phù phải lấy nước không rễ là tốt nhất, kế đó có thể lấy nước trời (nước tự nhiên). Kế đến là lấy nước âm dương, đầu tiên phải niệm chú Sắc thủy, chú rằng: "Ngô dĩ thủy giả Côn Luân tú, Hà Hán lưu phương liên hoa hương. Dương liễu chi đầu đãng thiên ba, cam lộ tam sái bồng đảo thu. Tào Khê nhất phái trường lưu thủy, ngọc tụ thiên giang phiên nam phong. Ngân đôi tứ bảo thắng vũ môn, xuân noãn ngư thấu thiên tằng không. Thất bảo trì trung phiêu pháp khí, cửu long khẩu trung dục Kim Tiên. Ngọc Đế duyên huyền tiêu cấu uế, địch đãng vạn kiếp chi tội nghiệp. Vĩnh hộ nhất trần thanh thư tịnh, Hằng Hà sa tiên vận hanh thông. Đệ tử mỗ phụng phong hỏa lôi cấp luật lệnh." Chú này dùng để ra sắc lệnh cho nước, còn để ra sắc lệnh cho bút và giấy thì trong những sách về phù thông thường đã có ghi chép, nên cuốn sách này sẽ lược bỏ.

Bí quyết thứ hai: tôi cho rằng trong các pháp khí thì dùng gương để làm thành ánh sáng của nhật nguyệt, dùng kiếm để đuổi tà trói ma, dùng chuỗi hạt để làm công đức diệu thánh pháp, dùng thước để làm chính ấn quyết của thiên hạ, dùng cân hoặc bàn tính để làm mẹo tiêu tai. Nhìn chung khi vẽ phù, quan trọng nằm ở một chữ "sắc" [chữ sắc trong từ sắc lệnh], ra sắc lệnh thành công thì sẽ linh, ra sắc lệnh không thành công thì sẽ mất hiệu lực. Nực cười nhất là người vẽ phù thông thường không hiểu "sắc" có ý nghĩa gì, chỉ có vẽ suông, như vậy làm sao có thể thành được chứ! Ngay từ đầu tôi đã nói về điều này, không biết về bí quyết của chữ "sắc" này thì học phù cũng không có ích lợi gì, không bằng học thư pháp vẽ núi sông cho tâm hồn thanh thản thư thái, đỡ bị mất thể diện.

Bí quyết thứ ba: mẹo thứ ba là mẹo về động tác. Nếu như hoàn thành xong mẹo thứ nhất, người vẽ phù phải tịnh thủ thành tâm cầu nguyện thầm. Tay phải cầm bút vẽ một hơi là xong, cái gọi là vẽ một hơi là xong nghĩa là không dừng lại [trong một hơi thở], quan trọng là vẽ trơn tru rõ ràng tinh tươm, nếu bị hết mực thì có thể chấm thêm, nhưng động tác phải nhất trí, không được tách ra làm các đoạn rời rạc. Khi vẽ phù, mắt phải dùng lực, thần phải dùng lực, tay cũng phải dùng lực, phải giữ im lặng. Khi vẽ xong, hà một hơi khí vào đuôi bút, chấm một điểm vào đầu phù và chỗ "cương" của phù, ý nghĩa của hành động này là áp ấn. Phù tử tiên thông thường đến đây có thể nói là hoàn thành rồi.

Bí quyết thứ tư: vì phần trên của phù có tên của Tiên Phật, có người sợ thỉnh Thần Tiên không đến, cho nên ở chỗ tên của Thần Tiên họ lại áp lên một ấn thần nữa, giống như việc kí tên điểm chương của con người ngày nay. Như vậy cũng có công hiệu, vì thế việc dùng các ấn thần thỉnh từ các chùa cũng có tác dụng bổ trợ cho uy lực, đây cũng là một trong những phương pháp hay.

Bí quyết thứ năm: đây là điểm khác biệt duy nhất giữa sắc lệnh vẽ phù của Chân Phật Tông và các phái phù tử tiên khác, người tu Linh Tiên có lợi là ở chỗ này. Khi vẽ phù xong, có thể dùng kiếm chỉ chỉ vào phù, vận động linh lực của bản thân, tập trung tư tưởng vào tay, rồi từ tay xuyên vào trong giấy, giấy này sẽ nhận được sắc lệnh hóa ra từ linh lực của bản thân, sự thành tựu của phù này nhất định sẽ có hiệu nghiệm, đây chính là một trong những lợi ích của khởi linh. Tác dụng này chính là "sắc", người không hiểu về sắc lệnh thì vẽ phù làm sao có hiệu quả được.

Bí quyết thứ sáu: vẽ phù cần có bí quyết "tồn tưởng", ví dụ vẽ phù Quang Minh thì nhất định phải sáng chói lọi, vẽ "phi thư" thì nhất định phải giống như chim bay, vẽ phù Ngũ Lôi phải có âm thanh ầm ầm, vẽ phù Trấn Tà thì người vẽ phù phải tràn đầy chính khí, giống như Nộ Mục Kim Cang, vẽ phù Thỉnh Tiên thì nhất định phải tông tưởng khuôn mặt của Trời Phật. Hơn nữa, năm loại pháp khí gồm gương, kiếm, chuỗi hạt, thước, cân trong bí quyết thứ hai, từng cái phải dựa vào đặc tính của phù đó để mà lựa chọn sử dụng để sắc phù, nhằm tăng thành tựu của đại pháp này.

Trong bản văn ngắn này, kẻ hèn tôi chỉ nói về pháp phù, nhưng từ một cái có thể suy ra những cái khác, thành tựu pháp thuật không nằm ngoài sự tập trung sức mạnh tinh thần. Công dụng của phù rất lớn, có thể giúp người, có thể thỉnh Tiên, chữa bệnh dùng đan phù. Khí theo phù mà đi, thần cũng có thể theo phù mà đi, sự trợ duyên cho tu linh chính là Tiên thư của phù triện. Mọi người không thể không chú ý đến điểm này, chớ coi thường hiệu lực của nó. Chân ngôn thành tựu đại pháp cũng chính là chân quyết thành tựu đại pháp, một hạt đậu nành bé nhỏ cũng có thể biến thành kim đan, một tờ giấy vẽ có thể chữa được bệnh lạ trong thiên hạ. Điều này không phải là giả dối, điều này không phải là giả dối.

Pháp nhĩ báo thông thường có thể dùng phù triện để thúc giục hành động, có nghĩa là: "Cửu phụng chân linh phù, kiến hỏa đằng ngọc thanh, kiến thủy nhập thủy phủ, nhập thể chuyển pháp luân, nhật nguyệt tinh quang minh."

Sự dịch chuyển của phù là cực kì vi tế, giống như tốc độ của sấm sét vậy, kẻ hèn này từng thấy phù bay đi trong không trung, nhanh đáng kinh ngạc giống như sao băng rơi vụt qua vậy, nếu chậm thì cũng giống như đom đóm ban đêm, lập lòe lập lòe, sáng rồi lại tắt.

Pháp phù của tôi không đề cập đến những lá phù mà người ta vẫn thường nói đến. Sau khi tôi được thiên thượng Tiên linh mở mang đầu óc, một tay tôi cầm bút, linh ở không trung mượn tay tôi làm dao động bút son, viết xuống nghìn lá phù lục đã thất truyền, sau đó tôi lựa chọn những phù quan trọng, chăm chỉ tu học, cho đến nay mới xem là có thể vận dụng thuần thục. Phù vốn là thứ thiên biến vạn hóa, không có một bố cục nhất định, nói chung người có được linh cơ đều biết và hiểu, người không biết thì chớ cho rằng là ma vẽ phù. Tuy vậy, thật ra ma vẽ phù cũng có năng lực của ma, thiên hạ vạn vật có nguyên do, không thể tùy ý nói xấu phỉ báng.

(Phù lục được đăng trong ba cuốn văn tập của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, là cuốn số 42 "Linh Tiên Phi Hồng Pháp", cuốn số 77 "Tiên Thiên Phù Bút" và cuốn 247 “Liên Sinh Phù”)

18. Pháp Linh tu thụy thiền chính tu

Đời người có một phần ba thời gian là nằm trên giường, người tu hành nếu không quý trọng một phần ba thời gian này thì việc tu hành cũng chẳng khác nào tu như không. Bởi vì khi ngủ âm khí đại thịnh, những công hành làm được vào ban ngày, đến đêm liền bị tan rã toàn bộ, cho nên thật sự không thể không thận trọng. Người tu hành theo Chân Phật Tông khi ngủ cũng phải giữ vững được chân khí, để tránh khí âm xâm nhập, mặc dù ban ngày tinh tấn nhưng đêm thì bị âm ma cướp mất, đến cuối cùng chẳng làm nên được trò trống gì, thế thì thảm lắm.

"Linh tu thụy thiền [ngủ thiền] chính tu" là một pháp chí lí giữa trời đất, phương pháp đơn giản, lâu ngày tự có công hành, cách tu pháp như sau:

Thứ nhất, tư thế ngủ thiền chỉ có một kiểu, đó chính là thế nằm cát tường, nằm cát tường chính là nằm nghiêng một bên, phải nhớ hướng nằm là tim phải ở trên, không được nằm nghiêng nhầm bên mà đè lên tim, đây là tư thế hợp với vệ sinh sinh lí. Thế nằm cát tường giống như sư tử mà cũng giống như con cóc, có thể nói là nằm co tròn lại, là tư thế bão nguyên thủ nhất. Một tay đặt ở sau đầu hoặc trước đầu đều được, một tay thì buông xuống phía dưới một cách tự nhiên thuận theo thế nằm. Nhớ rằng thân cần phải nằm cong như con cóc, đây chính là pháp thụy thiền cát tường chuẩn mực nhất. Nếu nằm ngửa mà ngủ thì đây là tử thiền, nếu nằm sấp mặt xuống mà ngủ thì gọi là âm thiền, rất dễ mắc bệnh.

Thứ hai, nhìn chung người tu hành không được ham ngủ, ham ngủ rất dễ mắc tướng ngu muội, con người hiện đại coi trọng việc ngủ đủ, nhưng cũng không được vượt quá tám tiếng một ngày. Người ngủ thiền duy trì sự cảnh giác, không được ngủ mê mệt quá sâu, cũng không được ngủ nông. Ngủ mê mệt quá sâu thì mất sự cảnh giác, tâm cảnh giác mà mất thì ma sẽ nhập vào thân thể cướp mất bảo vật đó! Nếu ngủ nông thì cũng không tốt, ngủ nông quá thì giống như bị mất ngủ, mất ngủ thì hỏa vượng, hại mắt và hại não. Công phu này cần rèn luyện lâu ngày, không phải là trong một chốc một lát là có thể thành công. Người tu hành ngủ say như chết thì tuyệt đối không phải là hiện tượng tốt, nếu thân tâm đều tan rã hết thì sinh tử luân hồi cũng sẽ do người khác điều khiển mà thôi.

Thứ ba, giữ vững chân khí, nhớ trước khi đi ngủ phải làm lễ chư Phật Bồ Tát, lên giường hai mắt nhắm lại, đầu lưỡi chạm vào hàm trên để cho thiên môn và địa hộ thông nhau, trong tâm cung kính niệm thầm A Di Đà Phật. Phải nhớ miệng đừng há ra, nếu há miệng sẽ làm tổn hại khí quản khiến thất thoát chân khí. Niệm thầm Phật hiệu, nuốt nước bọt xuống, đặt ý niệm tại không trung tự nhiên là được. Duy trì hơi thở, hơi hít vào thì dài, hơi thở ra thì ngắn, đầu hơi rụt về, giống như con hạc cúi đầu lúc nghỉ ngơi. Công phu điều hòa hơi thở và niệm Phật này không cần quá gò bó vào hình thức, lâu ngày tự nhiên sẽ được, tự có thể giữ được chân khí mà không bị thất thoát. Bằng không nếu lúc ngủ không hề có công hành, đến nửa đêm về sáng, sau hai giờ sáng, dương khí đều rút hết, âm khí đại thịnh, toàn bộ những dục vọng lúc bình thường sẽ xuất hiện, tự nhiên sẽ không giữ vững được chân khí nữa.

Thứ tư, người tu hành theo Chân Phật Tông nên giữ ngũ giới thập thiện, cố gắng hết sức loại bỏ những dục vọng. Chỉ cần đi đứng nằm ngồi thoải mái là được, không được theo đuổi sự hưởng thụ cuộc sống quá mức, không được mê đắm sắc dục. Phải thấm được Sắc tức là Không, bình thường tu quán thanh tịnh, niệm Phật để đắc nhất tâm bất loạn, ban đêm tự nhiên sẽ không có những giấc mơ xuân. Nhìn chung người tu hành không thể có giấc mơ, mơ vẫn là sự phản chiếu của dục tâm vọng tâm, sự biến hóa của ý thức chạy băng băng không ngừng nghỉ, cho nên khi ngủ chỉ có "cầu chân thủy hạ giáng", "bão nguyên thủ nhất", "niệm Phật thủ thần", như vậy hễ ngủ là tỉnh, dường như không ngủ, nhưng tinh thần thì hoàn toàn hồi phục, Phật nói: "Ngủ là thức ăn cho mắt." Lời này thật không sai.

Thứ năm, khi vừa ngủ thiền, quan trọng nhất là giữ khí, giữ được vững thì chính là Phật, giữ không được thì đó là tà. Ngủ thiền vẫn là một trạm gác lớn cực kì quan trọng của người tu hành, nếu thế nhân xem nhẹ thì làm sao thành Phật đây? Những sách Đạo và sách Phật thông thường đều dạy người ta tinh tấn dụng công, nhưng lại không ngờ rằng hễ đến ban đêm, do âm khí đại thịnh, những công hành tu được vào ban ngày đến đêm đều chảy theo dòng nước, cuối cùng vẫn là một phàm phu không hơn không kém. Miệng thì hô to đạo thành Phật nhưng hễ đến đêm thì cũng vẫn là một phàm phu, điều này thật đáng tiếc biết bao! Cho nên, hễ là người tu hành thì không tu ngủ thiền không được. Khi ngủ, nếu mộng huyễn mãnh liệt, phải nhớ là hết sức giảm bớt những dục vọng của bản thân, về phương diện ăn uống có thể ăn chay là tốt nhất. Không được ham ăn, không được ham tiền, không được ham sắc, nếu có thể thật sự bỏ được một chữ "tham" thì tự nhiên cũng sẽ không mơ [đầy dục vọng] nữa.

Công phu ngủ thiền nếu là phàm phu bình thường tu luyện có thể đắc trường sinh bất lão, nếu người khởi linh tu luyện thì chính là huyền cơ đóng địa hộ, mở thiên môn. Một phần ba thời gian đời người chỉ nằm trên giường một cách vô ích chẳng phải là quá lãng phí sao, người người tập ngủ thiền, vừa sống lâu vừa khỏe mạnh, công phu nửa giờ đồng hồ này cớ sao mà không làm chứ? Người khởi linh nếu luyện ngủ thiền, có thể dùng phương pháp "đại ôn dưỡng", khi nằm thì ngưng thở, thân thể có thể nằm cong lại như cái cung, phương pháp như nhau, hoặc nhờ linh khí thượng thiên đến chỉ đạo, tự nhiên hiệu lực càng lớn.

Trong kinh Cựu Tạp Thí Dụ có một đoạn viết rằng: "Xưa có con rùa, gặp lúc hạn hán, ao hồ cạn khô, không thể tự mình đến ao có thức ăn. Khi ấy có con hạc lớn đến bên cạnh nó, rùa mới van nài, xin được giúp đỡ, con hạc cắp con rùa trên miệng rồi bay đi. Đi qua thành phố, con rùa cất tiếng hỏi rằng: Đây là đâu? Vì sao không dừng lại? Con hạc vì muốn trả lời nên mở miệng ra, thế là con rùa rơi xuống đất, bị con người giết làm thức ăn. Những bà vợ ngu muội, không cẩn thận miệng lưỡi, cũng giống như thế." Tôi lấy đoạn văn này ra để so sánh một chút với người tu hành, lúc không được mở miệng thì tuyệt đối không thể mở miệng, bởi vì mở miệng ra, khí tất sẽ chạy đi mất, cho nên khi ngủ thiền nên ngậm miệng lại. Khí thở ra ngắn, khí hít vào dài, đây là điều căn bản của thiền! Miệng lưỡi phải thận trọng, ngậm miệng và lưỡi đặt lên hàm trên ở đây chính là đại thiên cơ.

Muốn linh có thể tự chủ, trước hết phải giữ được nguyên dương, nếu giữ chắc được nguyên dương thì khí và linh chắc chắn sẽ hợp làm một. Linh đi theo khí, khí đi theo linh, tất cả như một, đến cuối cùng linh hóa thành thần, thần hóa thành Phật Bồ Tát, nguyên lí học khởi linh tiên đều bao hàm ở trong đó. Hôm nay, phương pháp căn bản nhất này do Lư Mỗ tôi chỉ thẳng ra, xem ra đúng là công khai đại bí mật, đời người trăm năm, cho dù có đọc hết mọi sách thì ở đâu có thể tìm kiếm được pháp môn ngủ thiền chứ?

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Người trí hiểu giấc mơ thì kinh hãi, biết vàng bạc chẳng đổi được chở che, nhìn thế tục vô tri mà thương xót, hầu như thất niệm trong mơ suốt cả đời.”

19. Luyện xá lợi trong lò đan đỉnh

Người ngồi thiền nếu có thể nhập vào tam muội đại định thì chắc chắn sẽ tạo ra xá lợi vô hình, mà xá lợi này còn là thuốc, đó cũng là sự kết tinh của tinh-khí-thần. Tinh-khí-thần này chính là tam gia của Đạo giáo, cũng tức là tam hoa, sự kết hợp tam hoa chính là xá lợi, xá lợi chính là quả, khai hoa kết quả, đây là điều mà mỗi người tu đạo đều tha thiết mơ ước. Đan đỉnh tức là Cửu chuyển tràng kết trên thân, Cửu chuyển tràng kết cũng là nơi để luyện đan.

Cửu chuyển tràng kết, vận chuyển bảo vật của đan đỉnh, đều dựa vào một chân niệm, ý niệm này có thể từ pháp hít thở, pháp đại ôn dưỡng, pháp linh động mà dần dần lĩnh hội được, thế là tự nhiên có thể thường chuyển pháp luân. Nhìn chung, nhập định sơ thiền, khí sẽ theo linh mà chuyển động, làm tan biến dục thành thủy rồi nâng lên lò thứ nhất, sau đó dùng pháp hít thở và một chút chân niệm để sản sinh ra công phu luyện hỏa. Kĩ thuật luyện đan này phải là người tu luyện lâu ngày mới có thể lĩnh hội sâu sắc được, có vật hay không có vật tự mình biết được. Xá lợi chân đan ở trong lò thứ nhất, tự mình phải cảm nhận được lửa nóng trong bụng mình, có một vật đang chuyển động chạy. Cần nhớ phải hàng phục được ý mã tâm vượn, tâm thần lơ là một cái là toàn bộ công phu sẽ vứt đi hết, toàn thân chuyển lạnh, toàn thân không còn sức giống như trạng thái hư thoát vậy.

Phương pháp luyện đan này thật ra có hai loại, một cái gọi là xá lợi hữu hình - tinh khí thần tam bảo, một cái gọi là xá lợi vô hình - Phật pháp tăng tam bảo. Hữu hình và vô hình, về lí cần phối hợp với nhau, cũng có nghĩa là âm đức hợp với dương động, âm dương kết hợp mới có thể thu được đại dược. Tăng nhân bình thường chỉ biết hành thiện, niệm Phật, tụng kinh tu xá lợi vô hình, không biết rằng trong mệnh cũng có tam bảo quý báu, tam bảo này là tinh-khí-thần, tôi nói: "Tinh chính là nguyên khí của con người, giữ không để rò rỉ. Pháp dùng niệm lực để nâng hậu môn có thể khiến tinh nhập vào đan đỉnh. Dùng cách tinh luyện thủy thượng hỏa hạ có thể đắc được chân khí. Phối hợp chân khí này với linh gốc, xuất ra từ Vĩ lư quan, Giáp tích quan, Ngọc chẩm quan trên xương cột sống trên thân người, khi tới Huyền quan, chân khí này có thể gọi là thần, ra khỏi tam giới - vốn như nhà cháy, cũng tức là thành Phật Bồ Tát rồi. Pháp rèn luyện này đều nhờ vào niệm lực cùng linh lực chạy trong người, người tu linh tu đến khi chân dương xuất hiện, Vĩ lư quan sẽ tự động đóng mở, chuyển động khớp với nhau, nếu so với người bình thường chỉ nhờ vào niệm lực thúc đẩy [mà không có linh lực] thì càng dễ thành công hơn rất nhiều!

"Luyện thần hoàn hư" là công phu tối thượng thừa của Đạo gia [là công phu cao nhất, sau khi luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần của Đạo gia], cũng có nghĩa là thâm nhập được thực tướng kì diệu của chân không. Còn [với những người mà] đại đạo điên đảo đảo điên, cái thật của cái giả không thấm, cái giả của cái thật không hiểu, thì đạo lí có nói ra thật sự là rất khó thâm nhập nổi. Tóm lại, phải đòi hỏi sự thành tâm thành ý, ngồi yên tâm trí hợp nhất, đưa thủy vào trong lò, dùng công phu đại ôn dưỡng ngày ngày tu trì, sớm tối sẽ kết được chân xá lợi.

Khi xá lợi chuyển lò, người tu linh có thể âm thầm vận lực dựa vào Thần cung, khiến cho toàn bộ lò luyện đan rung động, vận dụng sức mạnh rung động này để dồn chân khí vào trong lò thứ hai. Lúc này toàn thân cũng mềm như tơ, khi ngồi nếu có gió mát nhè nhẹ thổi tới, đột nhiên cảm thấy tất cả đều không, thân thể nhẹ lâng lâng, ý nhập hư vô, toàn thân như không có gì, tựa như xa xăm mờ mịt, toàn thân khoan khoái dễ chịu. Chính tại lúc đó, nếu không giữ được một chút chân tâm sẽ rất dễ thèm muốn cảnh giới này, nếu ham mê cảnh giới đó thì toàn bộ công phu sẽ vứt đi hết!

Trong quá khứ kẻ hèn này tọa công cũng từng đến được cảnh giới thân tâm nhập vào cõi hư không này. Tại cảnh giới đó người nhập ma rất nhiều, xin đừng cố chấp vào tướng giả ấy, đừng tham luyến, đừng bám chấp, đừng sợ hãi, và cũng đừng khiếp sợ là được. Cái này chính là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng đó. Mới nhập vào cảnh giới đó, tôi từng nhìn thấy bồng lai tiên cảnh, tiên ông và trẻ nhỏ vui đùa, tiên hoa tiên thảo. Tôi nhập vào cảnh giới này không muốn quay trở lại, may có Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh lớn tiếng quát, nên tôi mới như người vừa tỉnh mộng. Tôi từng nhìn thấy hổ nhe nanh múa vuốt muốn nuốt chửng tôi, hàm răng sắc nhọn thật sự khiến người ta khiếp sợ, từng nhìn thấy rắn lớn quấn chặt lấy người tôi, cái lưỡi đỏ vừa thè ra đã khiến tôi kinh hãi đến mức quả tim xém chút nữa là nhảy vọt ra ngoài, toàn thân toát mồ hôi đầm đìa, nhập định nhìn thấy núi vàng núi bạc thì khởi lên đủ mọi ý nghĩ tham lam, thấy con gái xinh đẹp lộng lẫy thì thấy tâm động không thể kiểm soát, thấy Ngọc Hoàng Đại Đế phái kiệu thần đến đón, Thái Bạch Kim Tinh tuyên đọc ngọc chiếu thì tôi sung sướng như điên, thấy quái vật chín đầu, thấy vị Kim Cang cầm kiếm trừng mắt, những cảnh vật này lần lượt biến hóa huyền ảo, làm tâm tính tôi mê đi, nhưng thật mừng là vị linh sư cõi thượng thiên của tôi lúc nào cũng thét tiếng gầm sư tử để đánh thức người đang ở trong cơn mê mộng. Những tướng giả này xuất hiện rất dễ làm mê muội chân tính của bản thân, nếu không cảnh giác, nhập vào mê cảnh rồi thì muốn quay đầu cũng khó lắm thay! Tác giả đã biết rằng: "Chưa đến địa đầu, tất cả tướng đều là giả; đã đến địa đầu, tự tính quang minh mới là tướng hoàn toàn chân thực." Nghiên cứu kĩ câu nói này có thể phân biệt được thật giả.

Tôi chủ trương người tu Chân Phật Tông không thể kiêu căng ngạo mạn, phàm là người muốn tu đắc xá lợi tử, khai hoa kết quả, nhất thiết phải có ba năm công phu trúc cơ mới có thể tiến hành hái thuốc luyện đan. Các tu đạo sĩ từ xưa đến nay vẫn thường xuyên không biết rằng xây dựng nền tảng phải cần ba năm, hễ có chút tin tức là bắt đầu hái thuốc, trong khi rõ ràng là nền móng chưa ổn định vững chắc. Cho nên người thành công ít, người thất bại nhiều, trúc cơ ba năm có thể vận dụng phương pháp "thông linh kiện thân và trúc cơ" đã được nói đến trong một bài viết khác của tôi, phải thỉnh cầu được thần tiên đến hướng dẫn. Có thần tiên dạy bảo rồi thì lại sử dụng linh khí làm đầy ắp các bộ phận của cơ thể, có thể tu được hiệu quả "làm chơi ăn thật". Còn trong kì hạn ba năm luyện trúc cơ, chưa thể hái thuốc, mà lại nói là đã nhìn thấy thiên thần hạ giáng, nhìn thấy thiên nữ nhảy múa, hay có thể hô thần hoán quỷ, thì đại đa số đều đã nhập vào ma nạn rồi. Có thể duy trì được thân tâm không bị mê hoặc vẫn là thượng sách.

Nguyên thần và thức thần là hai cái khác nhau, nhưng thật sự cũng là hai mặt của một thứ, người học Phật phải biết luyện dương thần để khống chế âm thần, luyện nguyên thần để khống chế thức thần, đạo lí ở đây chính là đạo thành Phật hay thành ma, sự biến hóa của nó lại muôn vàn kì lạ. Bộ Kinh Kim Cang đã thật sự là trực chỉ nguyên thần, trực chỉ thức thần, trực chỉ chân tướng của Phật, trực chỉ chân tướng của ma, trực chỉ chân tướng của tính Không, trực chỉ giả tướng của tính Không, công đức của kinh này rất lớn, cái gọi là một bậc Kim Cang là tâm, là linh hồn, là chân khí, và những cái tên "giả tướng" của nó rất nhiều.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Ba năm nền tảng là Tam Sơn, chín năm công phu là Cửu Hầu, trên trời dưới đất theo số ấy, xá lợi hoa sen cùng hiện ra. Tí Ngọ Mão Dậu bốn dương khí, ngồi lâu tự nhiên đắc thần công."

20. Thuật cảm ứng thông linh

Linh hồn phục hồi là sự khởi đầu của tất cả thuật cảm ứng thông linh. Trong tích tắc khi linh hồn hồi phục thì cảm ứng của mỗi người đều khác nhau, nhưng nguyên lí đúng đắn của thuật cảm ứng trên thực tế vẫn là sự thông giao giữa linh hồn và linh hồn với nhau, cũng chính là "dùng linh thấy linh" mà tôi thường xuyên nhắc đến. Đại bộ phận con người đều không làm được cái việc dùng linh thấy linh, nhưng dùng linh hồn để cảm nhận linh hồn là thuật cảm ứng ban sơ nhất.

Một người có linh hồn đã hồi phục, mặc dù người này chưa từng tu Đạo, nhưng nếu có linh khác đi qua cọ sát bên cạnh thì người đó chắc chắn có thể cảm thấy được, bởi vì cảm giác về các nhân tử của linh cũng giống như điện vậy, tay người bị điện giật, cái cảm giác ấy không nói ra được, nhưng thật sự là có điện. Một người thông linh cũng có cảm giác này, khi có linh hồn đi qua, tự nhiên cảm thấy toàn thân tê tê, giống như bị điện giật, những cảm giác này chính là cảm ứng, là vô hình, người bình thường sau khi có được cảm giác ban đầu (sơ giác), dần dà lâu ngày, luyện tập tiếp xúc sau một thời gian dài, có thể hiểu được linh ở không trung muốn nói với chúng ta điều gì. Mặc dù người thông linh là người mù không nhìn thấy linh, nhưng mức độ nhạy cảm của cảm giác tăng trưởng, có thể lợi dụng lực cảm giác lớn nhỏ để mà đoán những việc chưa tới hoặc sắp phát sinh.

Người thông linh khi chưa có được sáu đại thần thông nhưng vẫn luôn có cảm ứng sơ giác, sức mạnh cảm ứng này là do nhân duyên kiếp trước quyết định. Phật gia thường nói, nghiệp chướng kiếp trước ít thì gương chỉ cần lau một chút là sáng, gương đã sáng rồi thì rất nhanh chóng có thể đạt được minh tâm kiến tính, tự nhiên có sức mạnh thần thông xuất hiện. Ngoài ra, nghiệp chướng kiếp trước sâu nặng thì cảm ứng trì trệ, thậm chí cảm ứng hỗn loạn giống như một vùng tăm tối, sẽ có hiện tượng ảo giác phát sinh. Những người kiểu như vậy thì hãy khoan học cảm ứng, nên tu công đức trước, phải lau gương trước, xóa sạch những nghiệp chướng tiền kiếp, nếu nghiệp lực kiếp trước dần dần bị loại bỏ, lau sạch những bụi trần ở trên bề mặt, thì lúc này không cầu cảm ứng cũng sẽ tự nhiên xuất hiện cảm ứng. Phật gia hay nói rằng thần thông không cần học cũng tu đắc được, nguyên nhân của nó chính là ở đây.

Hiệu lực của cảm ứng sơ giác có lớn có nhỏ. Phần đông con người tự cho rằng mình đã có được thần thông, thật ra sức mạnh này rất yếu ớt, linh hồn của bản thân vẫn là một đứa trẻ con chưa trở thành người lớn (linh) đâu! Nếu linh ở không trung thành tâm dạy dỗ cho đứa bé mới sinh này, thì rất nhanh chóng, thuật cảm ứng của linh sẽ càng ngày càng mãnh liệt, như độ lớn của điện áp, giống với nguyên lí mạnh yếu của điện lực, năng lực làm việc cũng khác nhau. Linh sơ sinh biến thành linh lực to lớn thật sự cần nhờ vào sự chỉ đạo của linh ở không trung, kết hợp với bản thân thành tâm luyện linh, hơn nữa cần có tâm địa thuần thiện, không cho phép có tà niệm.

Người thông linh và linh chỉ đạo cố định nếu có thể thường xuyên giao tiếp với nhau, năng lực của linh chỉ đạo vô cùng cao siêu, thì nhân tài mà linh ấy bồi dưỡng ra cũng sẽ vô cùng cao siêu. Ngược lại, một người tâm thuật bất chính học thông linh, mặc dù linh phục hồi nhưng sẽ không có linh chỉ đạo nào quá bộ đến để hướng dẫn. Nếu nghiệp chướng của người này lại sâu nặng, không biết thành tâm sám hối quá khứ, tu công tạo đức, chỉ có vọng tưởng đạt được sức mạnh thông linh lớn, thử nghĩ xem, người ngu si như vậy có thể có được chỉ thị thật sự của tiên ở cõi thượng giới không? Vả lại, nếu vọng tưởng được tiên thật sự xuống chỉ đạo, bản thân thì học những tà thuật, thì đến cuối cùng sẽ đi vào ma đạo, từ đây thì chẳng có cách nào tự thoát ra được, sẽ thật đáng tiếc thay! Cho nên con người ngày nay tu tập thông linh, nhập pháp môn Chân Phật Tông, không nằm ở thông minh lanh lợi, cũng không nằm ở xảo ngôn giả tạo, lại càng không nằm ở học hành uyên bác, mà là cần thành tâm thành ý. Người có tâm địa thuần thiện mới có phần, nếu tự biết bản thân mình không được thì phải hết sức hạ quyết tâm sám hối quá khứ, người thật sự sám hối cũng là người có phúc phần.

Linh hồn mới phục hồi phóng ra các nhân tử của linh, không phải là hỗn loạn, mà là có quy luật tự nhiên. Linh hồn của bản thân sẽ phát ra một kiểu tiết tấu có tần số, cùng với linh trong không trung sẽ hô ứng lẫn nhau. Linh trong không trung rất nhiều, khi tần số của duyên và tần số của linh trong không trung là ngang bằng, thì sẽ tự nhiên sản sinh ra hiện tượng cảm thông. Theo những gì tác giả được biết, trong không trung có rất nhiều tần số, tần số của linh hồn là một dạng sóng tâm điện cực ngắn siêu vi tế, các dụng cụ khoa học hiện nay chưa chắc đã có thể đo được. Hơn nữa tần số của linh hồn có thể có hiện tượng biến tần, không phải là cố định, mà người người khác nhau, cho nên sự biến hóa của giao tiếp cảm giác thực sự phức tạp hơn và bất khả tư nghì so với chu kì tần số của radio và ti vi. Kẻ hèn này nhận thức được sâu sắc rằng đây là môn khoa học bất khả tư nghì nhất, không thể dùng logic thông thường để để phán đoán bộ máy phức tạp nhất - con người.

Người thông linh muốn giao tiếp với linh của không trung, phương pháp quan trọng nhất là nhắm mắt (đóng lại sáu cảm giác chính trên thân, mắt tai mũi lưỡi thân ý, chỉ để cho linh giác tự do), ngồi trên bồ đoàn (công phu định thân), hai tay chắp lại hoặc hai tay duỗi bằng (chắp tay lại chính là để cầu khẩn, duỗi lòng bàn tay chính là thế giống như giá ăng-ten, giống như ăng-ten của ti vi vậy), trong tâm chỉ giữ lại một ý niệm (phát huy cao độ niệm lực này, hoặc kiểm soát suy nghĩ của bản thân), thỉnh cầu một vị thần linh nào đó trong không trung giáng xuống giao tiếp).

Người đã thông linh thì nhất thiết phải vận chuyển linh đến thiên khiếu đỉnh đầu, đến khi thật sự biết rằng linh trong không trung và linh của mình đã tương thông được với nhau rồi, có thể mở miệng nói ra vấn đề của mình, cầu thánh linh ở không trung giải đáp. Người sơ giác, dựa vào lực rung động của linh lực mạnh hay yếu mà từ đó có thể có được câu trả lời cho sự việc, hoặc dựa vào lực mà thần linh giáng xuống trong não mạnh yếu khác nhau mà từ đó hiểu được ý của thần linh, công phu này gọi là "cảm ứng sơ giác", nhìn chung mà nói thì cảm ứng sơ giác đòi hỏi phải qua một giai đoạn rèn luyện.

Linh hồn, có thể nói là niệm lực, cũng có thể nói là khí, cũng có thể nói là "thức", cũng có thể nói là "chân nhân", là "nguyên thần", là "thần". Cách nói của con người khác nhau, thật ra đều là sự biến hóa của cùng một thứ, vì nó vô hình, khi mạnh được gọi là linh hồn, là một dạng sóng siêu tâm điện ở tầng sâu rất vi tế, chỉ có dùng tâm bất động để cảm nhận mới có thể cảm thấy được sự tồn tại của nó, cảm giác này gọi là cảm ứng thông linh.

Vì sao con người bình thường phủ nhận sự tồn tại của linh hồn? Bởi vì họ là những người chỉ biết hoạt động nhục thể, đối với linh hồn thì hoàn toàn không hiểu biết gì hết.

21. Thông linh Tiên đạo

Tôi nhấn mạnh rằng, bất kì ai cũng đều không thể phủ nhận sự tồn tại của linh, bởi vì linh hồn là mục tiêu giải thoát của tôn giáo. Cơ Đốc giáo không thể phủ nhận, Thiên Chúa giáo cũng không thể, Đạo giáo không thể, Phật giáo càng không thể, bởi vì chỉ cần là tôn giáo, chắc chắn phải thừa nhận sự tồn tại của linh hồn, nếu không thừa nhận linh hồn thì tín ngưỡng tôn giáo ấy căn bản là không có chỗ đứng. Trung Quốc nói về ý nghĩa của trời-người hợp nhất, trời-người hợp nhất này không phải là hợp nhất về mặt vật chất, mà là linh hồn và linh gốc của đại ngã hợp lại làm một.

Người thông linh thường xuyên giao tiếp với thần linh ở không trung, trong cuộc sống của họ, nhất định sẽ phát sinh rất nhiều chuyện trùng hợp, những chuyện trùng hợp này là những dự cảm và những điều thấy trước vô cùng vi diệu, có thể biết được chuyện quá khứ, cũng có thể dự đoán được chuyện tương lai. Cái gọi là lời tiên tri có thể tiên đoán thế giới mấy nghìn năm sau không phải là cái mà họ đích thân có thể nhìn thấy thật, mà là một dạng dự cảm đặc thù, khiến họ thật sự ghi chép lại. Những tiền bối xưa của Trung Quốc, dự ngôn Tạng Bồi Thi và Thôi Bối Đồ, dự ngôn Thiêu Bính Ca của Lưu Bá Ôn chính là những lời dự đoán hay nhất, những dự đoán của các bậc thánh hiền xưa kia cũng không ít, đều ăn khớp với thực trạng hiện tại, chẳng phải là kì lạ sao! Thật ra không phải họ thấy trước, mà là dự báo, điều huyền bí của thông linh chính là ở đây, cái này chính là số mệnh của trời, duy có người hiểu thiên mệnh mới có thể biết được.

Nhờ có sự hiểu biết thiên mệnh của người thông linh nên họ thể nghiệm được nhiều hơn người khác, sẽ không bị thanh sắc khuyển mã trước mắt mê hoặc, và họ vui với việc tu thân dưỡng tính, tìm cầu chân lí giữa trời đất, tâm hồn tiêu dao tự tại, không chịu lục đạo khổ luân. Cho nên thông linh và tu Đạo có mối liên quan rất lớn, chúng ta không thể phân tách thông linh và tu Đạo thành hai sự việc để mà nói, giống như chúng ta không thể tách riêng Phật và thần thông ra để mà nói. Thành Phật chắc chắn sẽ có thần thông, thần thông phụ thuộc vào việc thành Phật mà có, cấp độ tu hành càng cao thì sức mạnh thần thông càng lớn, hai thứ sinh ra và phụ trợ lẫn nhau. Hơn nữa, rất nhiều người tu hành cả một đời, nhưng kết quả là chẳng đạt được gì cả, không những không đạt được một điều gì, thậm chí tu đến mức đầu tro mặt xám, đến già cũng vẫn không biết tu những cái này để làm cái trò gì. Nhưng khởi linh thì khác, người khởi linh đột nhiên có được linh giác, xúc giác tu hành thâm nhập linh giới, không còn mò mẫm tìm kiếm một cách hoàn toàn mù mờ nữa, ít nhất bạn có thể biết được thật sự có linh hồn, điều này hoàn toàn xác thực.

Người thông linh, vì linh khí rất nhạy bén, tinh thần chắc chắn rất tốt, nếu phát hiện thấy tu linh đến mức ánh mắt sao nhãng, tinh thần không có cách nào tập trung được, cử chỉ quái dị, nếu mắt có ánh lên những tia nhìn dị thường, xuất hiện tà nhãn thì rất gay go, cần phải nhanh chóng kích động họ bằng tiếng gầm sư tử để gọi chân khí ban đầu của họ trở về, đừng để đi vào trong ngõ cụt, khi ấy muốn lôi ra cũng không đủ sức.

Giai đoạn quan trọng nhất của người thông linh là: làm sao để kết lời thề với Tiên linh ở cõi trời. Có nghĩa là Thiên Tiên đến giúp ta và bảo vệ ta, phương pháp này vẫn là một kiểu kết hợp giữa lực kiếp trước và niệm lực, lực kiếp trước là nhân quả, niệm lực tức là cảm lực tinh thần. Phần đông những người nói về Tiên duyên và Tiên căn cũng là cách nói về lực kiếp trước, nói niệm lực tức là lực chiêu cảm (cảm hóa) tinh thần. Tác giả đã làm một thử nghiệm, chỉ cần một người có thể thật sự dừng lại tất cả mọi suy nghĩ, tĩnh lặng nhập định vào bầu trời xa xăm rỗng rang, lúc này chỉ cần một phút là sẽ có "thực thể khác" từ không trung giáng xuống, cảm giác này mỗi lần một mãnh liệt hơn. Người có thể nhập vào bầu trời xa xăm rỗng rang chỉ cần tập trung sức mạnh tinh thần, nghĩ đến Phật, Phật chắc chắn hạ giáng, nghĩ đến Thiên Tiên, Thiên Tiên chắc chắn hạ giáng, nghĩ đến tổ tiên đã qua đời, tổ tiên chắc chắn xuất hiện. Linh giới mặc dù rộng lớn, nhưng sức mạnh của bầu trời xa xăm rỗng rang là vô tận vô biên, chỉ cần pháp luân chuyển động thì hà tất phải lo lắng Tiên Phật không vội đến để kết lời thề với ta chứ!

Người khởi linh, nếu thân có bệnh cũ hoặc bệnh mãn tính, sẽ nhờ kết quả của việc thường xuyên luyện linh mà khỏi bệnh, bởi vì linh lực ở trong thân thể sẽ quan hệ xung kích hoặc dùng phương pháp nội công yoga vô hình, dựa vào vận động nội tuần ngoại hoàn của huyết dịch chân khí mà vô hình trung từng bước giải trừ khổ ách của bệnh tật. Đặc biệt là những căn bệnh kì dị lạ lùng, luôn luôn nhờ luyện linh trên thân mà đột nhiên khỏi bệnh. Người có kinh nghiệm này hiện tại đã có rất nhiều, điều này hợp với khoa học hiện đại, sự vận động của linh lực phối hợp với sự vận động của nhục thể, vận động chính là phương pháp tốt nhất để tiêu trừ bệnh tật. Người luyện khí công, toàn thân giống như sắt thép, và người luyện linh cũng có thể làm được như vậy. Nếu linh chuyển động khắp toàn thân, cũng tức là khí lấp đầy khắp thân, trở thành thế lực bành trướng, điều này giống như săm lốp của xe ô tô, khi săm lốp đầy khí thì có thể chở được vạn cân, người có thể vận linh thì cũng có thể tiêu hủy vạn tà, giống như kim cương bất hoại.

Thân thể con người dựa vào ba bảo vật chính là tinh, khí, thần. Tinh là chỗ ẩn nấp của các nhân tử linh, khí là sự biến hóa của nhân tử linh, thần là thân thể thực sự của nhân tử linh, và làm cho thần hóa thành hư không tức là thành Phật rồi. Phật cũng là sự tồn tại của nhân tử linh mà thôi, thành Tiên thành Phật đều nằm ở nhân tử linh. Nếu tu hành ngược với điều này thì gọi là đui tu mù luyện, không biết đầu đuôi và ngọn nguồn.

Ý chính của bản văn này chủ yếu là làm thế nào để kết lời thề với Thần Tiên, khi thề nguyện có thể nói suông như thế này: "Thái Thượng Tiên Chân giám sát, đệ tử Liên Sinh trải qua vạn kiếp luân hồi, khổ luân ác thú đã nếm trải đủ hết rồi, nay gặp được Tiên Sư khởi linh, biết trên trời dưới đất. Đệ tử ngu muội mới vừa tỉnh ngộ, con đường phía trước còn gian nan, mong Tiên Chân từ bi nhìn xuống, thương xót tâm nguyện tu chân của kẻ thật lòng sám hối này, không vì coi thường sinh mệnh nhỏ bé này mà bỏ mặc. Nay xin lập đại nguyện, hành thiện tế thế, tu thành chính quả, lại kinh qua hồng trần thế tục, đời đời kiếp kiếp nghĩ vì chúng sinh, lời nguyện này chưa đạt thành thề không thành Phật. Tiên Chân chính là cao sĩ đắc đạo, con là người thế tục chưa đắc đạo, một ngày nào đó đắc đạo, tất báo đáp bốn đại ân, nguyện vọng mãi mãi không có ngày ngơi nghỉ, trịnh trọng đưa ra lời thề nguyện này, vĩnh viễn chứng chính quả."

Nếu được Tiên Chân ngày ngày giá lâm, như người một nhà, thì đây thật sự là một tin rất tốt lành, hãy biết nắm bắt cho thật tốt.

22. “Luyện công tọa tức” không gián đoạn

Khi mới có được kì duyên, trong lòng tôi có cảm giác sợ hãi, đặc biệt là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đột nhiên xuất hiện, những pháp thuật mà tôi được chỉ đạo là những thứ tôi chưa từng thấy biết. Lúc ấy, bởi vì tâm sinh ra cảnh giác, tôi đi khắp nơi hỏi những cao nhân và người tu đạo, họ không khuyên tôi dừng luyện công thì cũng bảo tôi tẩu hỏa nhập ma, một số vị xuất gia thậm chí còn cho rằng tôi bị rối loạn tâm thần, tâm thần có vấn đề. Nhưng sau một thời gian dài cùng sống với Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, tôi phát hiện ra ngài rất điềm đạm hiền lành, là một vị Tiên Chân thượng thừa đã đắc đạo. Ngài thường xuyên chỉ đạo cho tôi, bất kể là ban ngày hay ban đêm, khi ấy tôi thường xuyên phải ra ngoài làm công việc đo đạc, tôi đi đến nơi nào thì Ngài sẽ đi theo tôi đến nơi đó, những việc mà Ngài đã chỉ điểm từng việc đều ứng nghiệm, nhưng tuyệt không ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của tôi.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dạy bảo tôi rất nghiêm khắc, nhất cử nhất động của tôi đều nằm dưới sự giám sát của Ngài, Ngài không lơ là một chút nào. Ngài chỉ thị cho tôi rằng luyện công tập thở là kế hoạch lâu dài cả trăm năm, không phải là dăm ba ngày là thành công. Không những không được gián đoạn, mà còn không thể lười biếng, người tu đạo sợ nhất là buông lỏng tinh thần, cũng không được làm một nghỉ mười, tu đạo không phải là việc có thể thành công sau một đêm! Thời gian ấy, hàng ngày vào 11 giờ tối, giờ Tí, tôi buộc phải học luyện công tập thở 50 phút, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh ở bên cạnh chỉ đạo kĩ lưỡng, tất cả pháp thuật của tôi phần lớn đều do Ngài ấy truyền dạy. Nhờ có sự dạy dỗ của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc, chỉ có dạy bảo chính đạo chính pháp, đến cuối cùng tôi mới tin tưởng chắc chắn không còn hoài nghi, thầy của tôi là Chân Tiên chính giáo, không phải là tà thuật ma phái.

Còn nhớ có một buổi tối, tôi đang ngồi tọa công luyện hơi thở, Ngài cũng ngồi trước mặt hướng dẫn cho tôi, tôi chắp tay lại, Ngài ấy dùng linh khí chỉ đạo thủ ấn của tôi biến hóa, thủ ấn chính là công phu huyền bí của cơ thể, tư thế biến hóa của nó đẹp tuyệt vời, hơn nữa tư thế còn rất đa dạng, khiến tôi cảm thấy thâm sâu không thể đo lường được. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh chỉ thị rằng tôi phải ghi nhớ lần lượt từng thủ ấn này. Tôi nói với vị linh sư của mình rằng: "Tiên Sinh truyền thụ thủ ấn cho con, con vô cùng cảm kích, nhưng phải ghi nhớ thủ ấn là một việc rất phiền phức, chi bằng lúc cần dùng thủ ấn, Tiên Sinh đúng lúc ấy mau đến chỉ đạo không phải là cũng được sao? Hà tất phải ghi chép lại, thật vất vả quá." Tôi nói xong những lời này, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh liền biến mất, vào lúc ấy, tôi vẫn không biết vì sao vị linh sư của mình lại tức giận bỏ đi. Khoảng mười ngày sau, linh sư lại đến, Ngài nói: "Liên Sinh, luyện công tọa tức không thể ỷ lại vào người khác, lần trước ta nghe thấy những lời nói lười biếng của con, thật không vui chút nào, vốn nghĩ là để mặc con tự sinh tự diệt, nhưng quả thực là lấy làm tiếc cho căn cơ tư chất của con, sau này không được có những lời nói bông đùa như vậy, nếu không phải vì nhân duyên thiên giới cùng con, ta mới là người lười chẳng buồn lặn lội trong hồng trần nữa đó!"

Tôi nghe xong lời này thì vô cùng hổ thẹn, kể từ đó không dám có tâm lười biếng nữa. Hôm nay, có rất nhiều người khởi linh, mặc dù linh đã hoạt động, nhưng họ chỉ hiếu kì lúc ban đầu mà thôi, lâu ngày, tâm sẽ sinh ra sự lười nhác, quên luôn cả động cơ ban đầu khi học khởi linh. Nhất là người khởi linh, khi linh mới hoạt động, cần phải vận động ba năm mới xem như là xây dựng nền tảng thành công, người không bền chí thì sẽ dần dần buông bỏ công việc vận linh này, sau khi dừng lại thì Tiên căn cũng đứt, muốn quay lại cũng khó lắm thay! Rất nhiều người chỉ biết khởi linh và vận linh, không biết rằng phải cầu lời thề với Tiên Chân, linh chỉ đạo giáng xuống để hướng dẫn, cho nên cầu lời thề với Tiên Chân cũng là một việc rất quan trọng. Lời thề với Tiên Chân này là đại bí mật xưa nay rất khó biết được, có Tiên Chân hạ giáng chỉ đạo, tu đạo mới không tẩu hỏa nhập ma, mới không có chuyện không đạt được gì cả, mới không đui tu mù luyện.

Khẩn cầu lời thề với Tiên Chân không phải ai ai cũng có thể có được, tôi từng nói điều này có quan hệ với căn duyên tiền kiếp, nhưng nếu thành tâm thành ý sám hối, thiết lập lời thề, đốt sớ dâng lên thiên đình, lập đàn tế Thất Tinh, cũng có thể làm cảm động Tiên Chân ở thượng giới giáng xuống. Nếu như thỉnh cầu nghìn vạn lần rồi mà vẫn không được Tiên Chân trợ giúp thì cũng không cần chán nản, chỉ cần giữ vững tấm lòng của mình, không giao thiệp với tà đạo, nỗ lực tinh tấn tu đạo, thì sẽ có một ngày thành công, có công mài sắt có ngày nên kim. Người không hề có Tiên duyên may ra có thể dựa vào một chút thành tâm, sẽ làm cảm động sâu sắc đến trời xanh.

Phương pháp lập đàn Thất Tinh như sau: trước tiên bày một bàn thờ Thần, quay về hướng bắc, trên bàn thờ đặt bảy chiếc đèn dầu, trước mỗi chiếc đèn dầu đặt một bát hương, bảy đế cắm nến, kiếm thất tinh, bảy chén trà tiên, bảy loại quả. Về tụng kinh thì chủ yếu dùng kinh Bắc Đẩu. Thỉnh thần trước tiên có thể phụng thỉnh Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, tiếp đó phụng thỉnh Ngũ phương Thánh hiền Tiên Phật, cuối cùng phụng thỉnh Nam Đẩu Bắc Đẩu Tinh Quân. Sớ văn có thể nhờ người trong nghề viết hộ, sớ văn thề nguyện có thể dựa theo cách viết trong chương sách trước (chương Thông linh tiên đạo), hơi thay đổi một chút cũng được. Quan trọng nhất là sắp đặt đàn Thất Tinh nhất định phải trai giới ba ngày, đèn dầu dùng cho đàn Thất Tinh cũng phải thắp suốt ba ngày, sau ba ngày thu đàn tĩnh tọa, chờ đợi chỉ thị của trời xanh. Luyện công tọa tức nên có minh sư chỉ dẫn, nếu minh sư là Tiên Chân ở thượng giới thì tốt nhất, nếu không phải là Tiên Chân ở thượng giới thì cũng phải cầu các bậc tiên hiền tiền bối làm thầy. Không được tự động dùng bừa tà phù để triệu thỉnh chư vị, nếu tự mình khởi việc ra lệnh triệu thần kéo quỷ, thật ra chỉ mời được những thần nhỏ kiểu như thần nước, thần sông, thần mạ, thần giếng mà thôi. Những loài ma đến chẳng qua chỉ là sơn tinh thủy quái có được chút địa linh. Tiên Chân thượng giới vốn chẳng phải hạng bừa bãi xằng bậy ngông cuồng phù phiếm để một phù sư phẩm tính thấp hèn [có thể dùng phù] mời tới mà được!

Người khởi linh, luyện công tọa tức hàng ngày mỗi lần đều vừa phải, thời gian không được quá dài, nhưng không được gián đoạn, tuyệt đối không được hời hợt, nếu phương pháp chính xác, giữ chính kiến, chính tri tất sẽ đạt được chính pháp, tà ma ngoại đạo không dám quấy rầy. Như vậy tự có thể thấy rằng tu đạo chỉ dựa vào một chữ "thành" [thành trong ý nghĩa thành tâm, thành thật], rồi cộng thêm sự bền lòng, Ngu Công dời núi núi cũng phải dịch chuyển, không cần lo không đắc được đạo.

23. Thủy hỏa cùng biến thần thông

Mông Tạng ủy viên hội Triệu Khoa Trường viết một vài về linh khí gửi đến cho tôi, cả bài viết luận về tinh-khí-thần như sau: "Chí thành thông thiên địa, thiên địa ở đây tức là chỉ vũ trụ. Vũ trụ rộng lớn bao quát tất cả, vạn vật sinh ra nhưng không diệt, chi phối vạn vật này đều là do hoạt động của linh khí. Linh khí này lấp đầy vũ trụ, hóa sinh khắp nơi, do vậy vạn vật có được sự tồn tại vĩnh viễn. Song linh có sự phân chia không? Cái này đương nhiên là có, người có linh tính cao thượng thì là Phật là Thần, người có linh khí thấp kém thì là muỗi là ruồi, mặc dù đều là linh, nhưng tướng thì khác nhau như thế. Tuy rằng linh có sự phân biệt như vậy, nhưng chất của nó thì là một, cần phải có căn cơ bẩm sinh có sẵn như thế nào đó thì mới quyết định sự cao thấp của linh này."

"Con người sinh ra là nhờ tinh khí thần chi phối tất cả. Tinh là gì? Tức là tinh linh mà cũng tức là tinh thần, có linh tức có thần, thần mà tản mát thì linh cũng đi mất, vì thế mới có cái gọi là linh khí, nhưng khí là cái gì? Khí này tức là cái căn bản của hoạt động thân thể mà con người vốn có, cái căn bản này như thế nào? Tức là khí của việc hít thở. Thần là cái gì? Tức là tinh thần mà cơ thể người có sẵn, cũng tức là thần khí, có thần thì tinh thần phấn chấn, không có thần thì buồn rầu ủ rũ. Tinh-khí-thần mặc dù tưởng như là ba loại, nhưng rốt cục thật ra là một nghĩa. Do đó, tinh khí thần là ba điều kiện cốt lõi cho sự sinh tồn của con người, ba điều kiện cốt lõi này có thể làm tất cả mọi việc một cách cực kì thành công. Tinh khí thần này cũng được gọi là "tam nguyên", cũng tức là nguyên khí, với cách nhìn này thì có thể thấy tầm quan trọng của linh, vì thế chúng ta tu tâm dưỡng tính cũng tức là bồi dưỡng cái linh khí này. Tôi mô tả ngắn ngọn ý nghĩa của linh khí để mọi người tham khảo."

Triệu Khoa Trường tinh thông pháp phù của phái Nhất Đạo, luận về tinh-khí-thần không hề thiên lệch, tương đối nói trúng trọng tâm. Tác giả cũng nghiên cứu kĩ về tam muội trong đó, phát hiện ra một chữ "tinh" cũng chính là chữ "tính" trong nhân tính, phân tách cái "tính" này thì phân thành âm dương, mà dương chính là lửa, âm chính là nước, những thứ này đều thật sự tồn tại trên thân thể mỗi con người. Vì thế tôi cho rằng hai thứ nước - lửa chính là thứ quan trọng căn bản để thành công thông linh chứng Tiên đạo. Nếu không có thủy hỏa thì không có âm dương, không có âm dương thì không có tính, vô tính thì sẽ vô tinh, tam bảo đều không có, tất cả đều hư vô.

Phái Đan Đỉnh Đạo gia nói về phương pháp đan đỉnh thành Thánh đan cũng không tách rời hai chữ thủy hỏa. Phần đông phàm phu bình thường, thủy sẽ chảy xuống, chảy hết thì cũng chết, hỏa thì đi lên, lên đến hết thì cũng chết. Nhưng người tu Đạo là hàng long phục hổ, luyện chì luyện thủy ngân, ép hỏa khí xuống dưới, nâng thủy lên hết mức, nước lên và lửa xuống, trở thành cục diện nổi lửa luyện đan đỉnh. Thủy lúc này vốn là thể lỏng, sau khi được hỏa luyện, nguội đi sẽ thành thể rắn, thể rắn trong vật hữu hình cũng được gọi là hạt xá lợi, lại luyện tiếp hạt xá lợi thì sẽ hóa thành khí thành thần, nhập vào trong hư không, đây chính là công phu "luyện thần phản hư" của phái Đan Đỉnh Đạo gia. Nếu thành tựu công phu này mới xem như là đắc đạo! Vì vậy tôi biết, xá lợi chính là quá trình của tu đạo, cũng chưa phải hoàn toàn, thế nhưng xá lợi hữu hình cũng có thể chứng minh về mặt bề ngoài là đạo công có thành tựu, là một ấn chứng thật cho việc tu đạo.

Thủy hỏa cùng biến thần thông chính là thần công đảo lộn thủy hỏa, thủy hỏa này cũng có thể đảo lộn, đều là dựa vào tác dụng của linh khí. Nước ở trong thân đi lên trên, nhập vào trong đan đỉnh, lửa ở không trung ép xuống dưới, đi vào dưới đan đỉnh, đây chính là thần công "thủy hỏa kí tế" của Đạo gia. Đạo lí này là đại pháp chấm dứt sinh tử, cũng tức là một minh chứng lớn của pháp lậu tận thông của Phật gia. Theo lí mà nói, nếu điều hòa thủy hỏa tốt, cả đời sẽ không có bệnh tật khổ ách, bồi dưỡng thành công kim đan xá lợi thì sẽ có hi vọng lớn với việc thành Phật thành Tiên. Người luyện Chân Phật Tông dựa vào linh lực tự thân, áp dụng điểm mạnh của thuật yoga, dùng phương thức lay động lắc lư thân thể, lâu ngày luyện được hỏa tính trung hòa đi xuống, thế nước cuồn cuồn dâng lên, kiêm tu nội công ngoại công, vô hình trung điều hòa thủy hỏa, âm thầm kết nên xá lợi tử, tinh khí thần sung mãn, cứ như thế thì sao phải lo không chấm dứt được sinh tử, không đắc được quả vị Thần Tiên chứ!

Có người hỏi tôi: "Linh hồn có tính gì?" "Nói là thủy hỏa, nói hỏa tính, nói thủy tính, nói trung tính đều được." "Vì sao như vậy?" "Người người khác nhau, tuy nhiên nếu tu đến trung tính, tức là khi kết được xá lợi, long hổ đều hàng phục thì không còn phân biệt âm dương nữa. Phật Bồ Tát cũng không phân biệt âm dương, có thần thông thiên biến vạn hóa, đạo lí ấy nằm ở đây."

Nếu có người có thể tập trung lửa ấm của toàn thân trên một điểm cố định, rồi sau đó thở ra từ đầu ngón tay hoặc trong miệng thì có thể châm lửa cho những vật bằng gỗ hoặc vật dễ cháy. Công phu thần kì này chính là vận dụng chú của tâm niệm, tập trung niệm lực của ý thức ở tầng sâu, xoay tròn tâm luân, toàn thân như bánh xe lửa bùng cháy, vào lúc sức mạnh tinh thần phát huy mạnh nhất, ý thức dựa vào tay cách không tập trung vào một điểm, liên tục phát ra hỏa tính trong thân nhờ sự phát huy sức mạnh tinh thần vô cùng vô tận khiến cho vật chất đạt đến điểm bùng cháy mà bắt lửa. Thần công "hỏa" của Tân Mật tông này chính là một trong những thần công thủy hỏa biến đổi lẫn nhau, bí mật của nó nằm ở sự phát huy hỏa võng thần công, hỏa tường thần công, kim cương tam muội chân hỏa thần công của mật chú tâm luân. Có một số người xuất gia tự biết thời điểm chết của mình nên họ đã chuẩn bị trước hậu sự, tắm gội trai giới, sau đó nhắm mắt lại ngồi thiền rồi viên tịch. Công phu tri thiên mệnh này cần phối hợp với tam muội chân hỏa trong thân mình, dẫn động tam muội chân hỏa thì hỏa sẽ xung lên trên, lửa này không phải là lửa thông thường mà chính là chân khí vô hình, lợi dụng chân khí này để thiêu đốt chính thân mình, và thế là viên tịch một cách rất tự nhiên, đây cũng chính là bí mật về sự viên tịch của các đại hòa thượng.

Chương sách này mặc dù chỉ đề cập đến thần thông thủy hỏa cùng biến đổi lẫn nhau, thật ra trong đó đã có cả đạo lí lớn về kết thúc sinh tử, không phải là người tu linh mà muốn đắc đạo thì lợi bất cập hại. Người tu Linh Tiên Chân Phật Tông thì lại làm chơi ăn thật, "điều hòa thủy hỏa đến mức vô hình, kim đan xá lợi tự nhiên đầy đủ và tràn trề".

24. Tín hiệu của thần minh

Thần minh luôn luôn dùng tín hiệu đặc biệt để gợi ý cho con người, mỗi một người hoạt linh đều phải học cách nhận thức được phương diện tín hiệu này. Nếu người nào có thể tu tập mà hiểu được thì không những biết trước được lành dữ họa phúc mà còn có thể tự cứu mình và cứu người nữa! Bản văn này sẽ thuật lại một câu chuyện có thật, nhân vật chính trong câu chuyện này họ Giang, người này từng khởi linh, công phu võ thuật rất giỏi, là huấn luyện viên Taekwondo, trong nhà mở xưởng sản xuất cao su. Nhà anh ta thờ phụng tượng Quan Âm từ bi màu trắng, tượng do tôi giúp khai quang.

Có một buổi tối, người này đến tìm tôi, anh nói: "Thầy Lư, buổi đêm tôi nằm mơ, một giấc mơ rất kì quái, bình thường tôi mơ thì luôn luôn không nhớ lắm, nhưng giấc mơ đêm qua thì lại nhớ rõ mồn một. Tôi mơ thấy trong bể nước nóng ở nhà mình xuất hiện một chiếc quan tài, quan tài không lớn, quan tài này từ trong bể dần dần nổi lên, bên trong quan tài có một người nằm, hai mắt nhắm, giấc mơ này khiến người ta khiếp sợ, xin hỏi đây là điềm báo gì?"

Thế là tôi xem một quẻ bói cho anh Giang, quẻ này đích thực là đại hung, tôi nói với anh Giang rằng: "Phân tích theo quẻ này thì vận của anh rất tệ, những ngày này phải coi chừng." Lúc này tôi nghe thấy linh trong không trung nói: "Đây chính là mệnh đó! Vận đó! Là điềm dương khí đã rút, âm khí đại thịnh, người chủ có hung sát, khó giải quyết." Tôi truyền đạt lại ý này, đặc biệt dặn dò phải cẩn thận hết sức, phải hết sức chú ý. Anh Giang trên còn có cha mẹ, lấy vợ sinh con được hai trai hai gái, trong đó một đứa bé trai mới sinh được hai tháng, cả nhà chăm chỉ tằn tiện, cuộc sống cũng tương đối mĩ mãn.

Buổi tối cùng ngày xảy ra sự việc, anh Giang đi lên tầng trên để tu tập trúc cơ luyện linh. Trong quá khứ, sức mạnh linh động của anh rất yếu, có khi tay giơ lên được một nửa thì lập tức rũ xuống, muốn khích động bản thân nhưng không có sức, thế nhưng buổi tối hôm đó, sức mạnh linh động rung động mạnh đến mức chính bản thân anh cũng thấy kinh ngạc. Đêm đó, anh ngồi như phương pháp bình thường vẫn làm, nhưng linh lực lại dùng sức rất mạnh từ tay trái tóm chặt lấy ngón giữa tay phải, bẻ mạnh một cách thô bạo, cứ như thể không bẻ gãy ngón tay giữa thì không được, không có cách nào kháng cự lại sức mạnh ấy, khí thế hung hãn. Dường như linh ở không trung và linh của bản thân đang làm nổi lên một cơn gió lốc, cơn gió lốc ấy ra sức bẻ gãy ngón tay giữa của anh. Sau khi anh Giang luyện linh 50 phút, anh quay vào phòng ngủ để đi ngủ, anh nói với vợ: "Tối nay luyện linh thật sự quá kì lạ, lực rất mạnh, chưa từng có, hơn nữa còn ra sức bẻ gãy ngón tay, cứ như thể không bẻ gãy ngón tay thì không được. Đây là hiện tượng kì lạ chưa từng có kể từ khi khởi linh luyện linh cho đến nay."

Nửa đêm, cơ thể của anh Giang đè cứng cánh tay, đau tới mức khiến anh tỉnh giấc, rồi anh cứ ngủ lại tỉnh, trời sắp sáng thì anh thấy vợ anh ôm mặt khóc, anh thận trọng kiểm tra, đứa bé trai mới sinh được hai tháng tên Giang Minh Triết sắc mặt xanh lét, đã không còn thở nữa. Anh bế đứa con lên, đánh thức bố mẹ, lập tức lái xe đi tìm bác sĩ, liên tục chạy tới ba nơi, bác sĩ đều lắc đầu nói: "Không cứu được nữa!" Nguyên nhân là đứa bé không hiểu vì sao mà lật úp mình ngủ, mũi đè xuống gối, nên ngừng hô hấp, cứ thế nghẹt thở mà chết. Cảnh sát cử người đến, kiểm sát trưởng và pháp y cũng đến, đều nói: "Đem chôn thôi." Anh Giang cúi đầu đau xót nhìn chăm chú vào đứa con, mặt đứa bé bèn bẹt, giống hệt như anh đã nhìn thấy trong giấc mơ, cuối cùng anh mới nhớ đến chiếc quan tài nhỏ, nhớ đến khuôn mặt nhỏ bèn bẹt xanh xao đó.

Sau khi lo liệu xong mọi việc, anh lái xe đến chỗ tôi, kể với tôi về sự việc đã qua, tôi nói: "Đối với sự việc này, thần minh có cho anh tín hiệu, tín hiệu thứ nhất là bể nước trong nhà có chiếc quan tài, đó là tín hiệu về cái chết, đại hung, dương khí rút hết, âm khí đại thịnh, bản thân phải lưu tâm đến mọi thứ. Tín hiệu thứ hai càng rõ ràng hơn, sự rung lắc khác thường, tay trái tóm chặt lấy ngón giữa tay phải ra sức bẻ gãy, ý nghĩa chính là "chiết tử", liên tục gợi ý cho anh về "chiết tử" đó! Chiết tử đó! Nhất là trong tên đứa con trai của anh lại có chữ Triết. Ba hiện tượng này đều ăn khớp với nhau, chẳng phải là thần minh đã chỉ điểm rõ rành rành cho anh đó sao? Có điều chúng ta không thể hiểu được mà thôi, luôn luôn là đến khi sự việc xảy ra rồi mới có thể xác nhận, như thế thì đã quá muộn rồi."

Anh Giang nghe tôi nói xong thì đột ngột bừng tỉnh, liên tục nói: "Ôi! Khi ấy sao lại không nghĩ ra chứ! Thật đúng là, lần ấy tôi cứ bẻ ngón tay giữa một cách bất thường, tôi từng nghĩ là hôm sau nhất định sẽ đến chỗ thầy để xin thầy giải thích, nhưng không ngờ tất cả đã muộn rồi."

Vì câu chuyện này mà tôi hi vọng những người hoạt linh trong lúc tĩnh tọa thiền định, hãy nhận thức rõ ràng cẩn thận những kí hiệu của thần minh, thật sự thần minh đang làm rất nhiều kí hiệu trên thân người, những kí hiệu này sẽ khác nhau tùy theo mỗi người. Thần minh trên mặt đất, trên bầu trời đều làm rất nhiều kí hiệu, người có thể hiểu được những dấu hiệu này là người có phúc rồi, bởi vì người ấy có thể biết được tương lai của vũ trụ, huống hồ là vận mệnh của một con người nhỏ bé. Người khởi linh phải đặc biệt chú ý đến gợi ý của linh động, bởi vì mỗi dạng linh động đều có hàm ý, không phải vô duyên vô cớ đâu.

Có người hỏi tôi: "Sao là kí hiệu của trời phải không?" "Đúng thế." "Núi sông đại địa là kí hiệu của đất phải không?" "Đúng thế." "Ngũ quan, vân tay, khung xương của con người là kí hiệu của con người phải không?" "Đúng thế."

Chúng ta cũng xem cả kí hiệu của linh nữa! Thần công thiên biến vạn hóa của linh tự nhiên cũng có kí hiệu thiên biến vạn hóa, sự giao tiếp giữa thần minh và con người không chỉ là sáu đại thần thông, gợi ý của các vị là vô cùng vô tận, có thể hiểu được toàn bộ tín hiệu của thần minh thì người nào không phải là Thần Tiên chứ? Thần Tiên cũng là con người tu đắc đạo mà nên.

25. Giải thích nguyện lực Địa Tạng

Kinh Hoa Nghiêm có đoạn nói: "Mẹ công đức của đạo là tín, bồi dưỡng tăng trưởng mọi thiện pháp, đoạn trừ nghi hoặc, sinh yêu thích, khai thị niết bàn vô thượng đạo. Niềm tin thanh tịnh tâm thanh tịnh, diệt trừ ngạo mạn, thêm cung kính, cũng là pháp tạng quý giá nhất, là tay thanh tịnh nhận hạnh lành. Niềm tin bố thí tâm rộng rãi, tin tưởng yêu thích nhập Phật môn. Tín mang công đức tăng trưởng trí, niềm tin đưa đến cõi Như Lai. Thanh tịnh căn rễ là nhờ tín, niềm tin vững chắc chẳng hoại suy. Lòng tin diệt tận gốc phiền não. Tin rồi hướng về công đức Phật. Tin vào cảnh giới không bám chấp, xa rời khổ nạn tránh khó khăn. Tín giúp thoát khỏi đường ma tà, thị hiện giải thoát đạo vô thượng. Công đức bất hoại chính là tín. Tín làm tăng trưởng bồ đề tâm. Niềm tin tăng trưởng tối thắng trí. Chư Phật thị hiện nhờ lòng tin."

Đoạn này trong kinh Hoa Nghiêm đã giải thích một cách rất dễ hiểu về sức mạnh của lòng tin, nói ra cũng đúng, thời đại ngày nay, muốn khiến người ta tin tưởng có nhân quả, có luân hồi rất khó, muốn khiến người ta tin có linh hồn, có quỷ thần lại càng khó hơn. Thế nhưng muốn thức tỉnh linh tính của những con người sống chỉ vì sinh tồn mà không dùng những bằng chứng có sức mạnh thì không được. Tác giả dùng chân tri chính kiến của bản thân để dấn thân vào nhiệm vụ vô cùng gian nan này, nhưng cái giá đổi lại lại là những lời châm chọc khiêu khích. Đương nhiên cũng có rất nhiều người dốc sức ủng hộ, nhưng nếu còn có một người chưa gột tâm hối cải, nỗi buồn trong lòng tôi đau như bị dao cắt vậy. Cho nên, khởi nguồn của tất cả sức mạnh bắt đầu từ lòng tin, từ nguyện lực mà hành trì, tu hành là việc đại sự, là việc sinh tử hệ trọng đó!

Có lòng tin rồi thì sẽ có lời nguyện. Lời nguyện sinh ra từ lòng tin, nguyện vọng này giống như thệ lực và chú lực của bản thân, là một dạng sức mạnh vô hình, vượt ra khỏi phạm vi tưởng tượng của con người bình thường. Chúng ta hãy đọc Luận Ta Bà: "Con người, có kẻ bố thí một nắm đồ ăn cũng có thể trồng được phần thiện căn giải thoát; có kẻ năm năm một lần làm đại hội bố thí lớn cũng không thể trồng được phần thiện căn giải thoát; hoặc có kẻ chỉ một ngày giữ trai giới có thể trồng được phần thiện căn giải thoát; có kẻ cả đời giữ trai giới nhưng cũng không trồng được phần thiện căn giải thoát. Hoặc có kẻ tụng một bài kệ đã có thể trồng được phần thiện căn giải thoát, có kẻ giỏi tụng Tam Tạng văn nghĩa nhưng cũng không thể trồng được phần thiện căn giải thoát. Nguyên nhân ra sao, nếu vì hiểu điều này mà mạnh mẽ hồi hướng giải thoát niết bàn thì vĩnh viễn rời xa sinh tử, nếu không hồi hướng như vậy thì cả đời trì giới tu học cũng không thể giải thoát được."

Những lời trong Luận Ta Bà hàm chứa rất nhiều nhân duyên. Có người hành đại thiện nhưng chẳng có cách nào thành tựu, có người hành thiện chỉ một ngày mà lập tức có thể thăng thiên, chẳng phải kì lạ lắm sao! Thật ra chuyện này không có gì kì lạ cả, đây hoàn toàn là vấn đề của nguyện lực, người hành thiện một ngày đã đem toàn bộ thân tâm hướng về nguyện lực, nguyện lực khiến họ vượt lên trên mọi trời người, có người cả đời hành thiện, nhưng lại chỉ biết mỗi hành thiện, không biết hồi hướng phát nguyện để mà biến thành phúc phần của kiếp sau, như thế càng không thể đắc được đạo quả của niết bàn giải thoát. Hồi hướng chính là nguyện lực, nguyện lực chính là lập ra lời thề, điều này không thể không biết.

Địa Tạng Vương Bồ Tát vì đưa ra lời nguyện sâu nặng trong nhiều kiếp, vì nguyện lực ấy vô cùng vô tận, địa ngục chưa trống thề không thành Phật, và Địa Tạng Vương Bồ Tát vì nguyện lực ấy mà thành tựu Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh, Thế Tôn tại cung trời Đao Lợi đã thuyết pháp cho phu nhân Maya, hết sức ca ngợi nguyện lực của Địa Tạng Vương Bồ Tát là bất khả tư nghì, công đức cũng bất khả tư nghì, hơn nữa còn gửi gắm trời người cho Địa Tạng Vương Bồ Tát, sự gửi gắm này mới nặng nề làm sao, đáng tôn sùng làm sao! Tác giả hi vọng, phàm là người học Chân Phật Tông, không thể không lĩnh hội kĩ lưỡng từng câu từng từ trong Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh, để có thể biết được nguyện lực quan trọng đến mức nào, hồi hướng quan trọng đến mức nào.

Có rất nhiều người đến trước mặt tôi phát đại nguyện, thế nhưng tôi chỉ cười nhạt, bởi vì tôi thấy nguyện lực mà họ đưa ra đã hóa thành một đóa hoa quỳnh dễ nở dễ tàn, mặc dù hoa đẹp, nhưng thọ mệnh không dài, nói rồi quên ngay. Đóa hoa quỳnh ấy từ từ nở ra, nhưng khi ánh mặt trời chiếu sáng thì cũng héo tàn, hoặc một cơn gió nhẹ thổi qua cũng héo tàn, gặp nước là tan, gặp lửa là diệt, lời nguyện như thế thì chẳng khởi lên được tác dụng gì, cho dù có thề nhiều lần thì cũng không có một chút nguyện lực nào, bởi vì lời thề ấy không vĩnh hằng. Trong số đó có một người thanh niên đã đến nhà tôi mấy lần, nhưng đều không thể vào trong nhà. Có một lần nhìn thấy tôi, anh ấy nói: "Thầy Lư, tôi phát nguyện luôn nghĩ đến Phật hiệu, đời này không gián đoạn." "Như thế thì anh có thể thành tựu tất cả Phật pháp." - Tôi nói. Bởi vì người thanh niên này toàn bộ thân người đều sáng, rõ ràng là một dạng nguyện lực toàn tâm toàn ý, đã thành tựu tất cả đại viên mãn chỉ quán, chỉ trong một sát-na không cần phải mượn bất kì loại pháp lực nào có thể đốn ngộ Phật pháp, không còn dính líu gì đến hai chữ sinh tử, đến cuối cùng sẽ tự nhiên giải thoát.

Trước đây từ rất sớm, tôi từng phát nguyện, thứ nhất, đi theo Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, thành tựu tất cả pháp thuật, đến khi không còn pháp thuật nào có thể làm, pháp thuật viên mãn thì mới dừng. Thứ hai, siêng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, đời đời kiếp kiếp gắn bó với Phật, có duyên với Phật, cùng xây dựng Phật quốc Cực Lạc vô cùng tận, chưa đạt được điều này thì chưa dừng lại. Thứ ba, nếu linh tự do, nguyện vào địa ngục, giống như Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng phát đại nguyện lực như vậy, đi theo Địa Tạng Vương Tôn giả, dùng pháp để độ hết địa ngục, chưa đạt được điều này thì chưa ngơi nghỉ. Đây chính là ba lời thề tôi đã đưa ra lúc tôi có được linh thân như ý. Tôi không mong cầu hưởng thụ cá nhân, hưởng thụ ham muốn vật chất đối với tôi mà nói thật sự không quan trọng.

Người tu linh phải có lời thề, bởi vì nguyện lực chính là sự nối tiếp của Tiên căn. Phật gia coi trọng hồi hướng, hai chữ "hồi hướng" này hết sức quan trọng. Chân Phật Tông coi trọng nguyện lực, có nguyện lực để mà "cưỡi" giống như ngồi trên thuyền, giống như lái xe vậy, tự nhiên sẽ đến được bỉ ngạn.

"Chí hướng như bánh lái, nguyện lực như con thuyền, như hổ mọc thêm cánh, uy lực khó sánh bằng, Tiên duyên Tiên căn đều từ đây mà ra." - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói như vậy.

26. Đại Thủ Ấn Kim Cương thừa

Mật tông Kim Cương thừa có hai pháp tu trì, một là Đại Thủ Ấn, một là Đại Viên Mãn, bài viết này sẽ chỉ trình bày và phân tích về phương pháp Đại Thủ Ấn. Phương pháp Đại Thủ Ấn là dùng phương pháp tam quán đảnh của lực Chư Phật để khiến tự thân mình hóa thành cầu vồng, cũng có người hấp thu tinh hoa nhật nguyệt, rồi sau đó hóa nhật nguyệt quang hoa thành cầu vồng, biến hóa chân tướng sáng rực, pháp kiểu này chính là phương pháp Đại Thủ Ấn. Nói chung, người tu Mật tông đến được cảnh giới Đại Thủ Ấn Đại Viên Mãn thật sự không gặp nhiều.

Còn nhớ hai năm trước, tại một ngôi chùa trên núi nọ, tôi đến bái kiến một vị tăng, tăng nói: "Liên Sinh, anh có biết pháp du già vô thượng tu quả vị Không không?" "Tôi không biết." - Tôi thành thật nói. "Đó là kho tàng của Mật tông Hồng giáo, có pháp gọi là thân trung ấm cũng có thể thành Phật, từ thân trung ấm mà hiển hiện Ngũ Phương Phật, tôi cảm thấy pháp này đáng tin, bởi vì Phật đã từ bi những gì có linh tính, lẽ nào lại bỏ rơi thân trung ấm sao? Liên Sinh, anh nói xem đúng hay không?" - Tăng nói. "Tôi nghĩ là đúng, phương pháp khởi linh luyện linh của kẻ hèn này không những có thể tu chỉ quán, mà còn có thể nhờ sức mạnh của linh để khiến tâm và khí có chỗ dùng lực. Thế còn tu trì Mật tông là hai thứ tâm-khí đi lên, hóa thành cầu vồng, đây chẳng phải là sự thành tựu Phật pháp của thân trung ấm sao?" - Tôi nói.

"Đại Thủ Ấn là phải tu khí, cũng chính là công phu khởi động chân linh của anh, có thêm định lực của Đại Thủ Ấn, mở trung mạch, tẩu linh khí, dung hợp ngũ khí, hóa thành cầu vồng, sự xuất hiện của Ngũ Phương Phật thật sự không phải là điều mà Hiển giáo và Bát Nhã thừa có thể tưởng tượng được. Hiển giáo chỉ nói người ta tay không lạy Phật, miệng không niệm Phật, nói ngoài tâm không có Phật, nhưng không có thành quả thực tế, thật ra tôi cho rằng không bằng tu công luyện khí, tu linh luyện tĩnh, dùng linh quang của tự thân kết hợp với linh quang của Phật Tổ để tìm kiếm một phương pháp đắc chứng quả vị." -Tăng nói. "Dám mong cao tăng khai thị." - Tôi nói.

"Thứ nhất, Đại Thủ Ấn phải dựa vào tu Không để làm cơ sở, dùng chú lực gia trì, trì chú do cao tăng quán đảnh, quán đảnh này có được sự khai đỉnh trước, Liên Sinh, anh có thể dùng thủ ấn Ngũ Lôi Như Ý để khai đỉnh cho người ta, sau đó dùng linh lực nhập vào trong biển trí của người đó. Từ đây mà tu, có thể nhìn thấy minh thể tự thân, sự tiến vào cảnh giới như vậy hiển nhiên những tông phái khác không thể nào đạt tới, đặc biệt quán đảnh chân ngôn là một trong những pháp ẩn dụ của Đạo gia, cái này chính là đại thần công thiên địa biến huyễn vô thượng. Cần nhớ lúc khai đỉnh không được chểnh mảng nghi thức thỉnh linh, anh có thể dạy cho đại chúng."

"Pháp thứ hai của Kim Cương thừa Đại Thủ Ấn nhấn mạnh xuất li triệt để, phải bế quan, và còn cửu đoạn tu Không, mọi việc thế tục đều phải buông bỏ hết, cắt đứt tất cả những nhân duyên nhàn nhã, bởi vì tu cửu đoạn nhân duyên, nhân không còn duyên thì thành Không, nhân Không thì sẽ đắc đạo nhanh chóng. Điểm này so với tục tăng bình thường thì lại càng khác biệt, người xuất gia bình thường muốn tâm quy nhất rất khó, bởi vì còn có nhân duyên tục thế, còn Đại Thủ Ấn thì hoàn toàn đoạn diệt, trong khi bế quan tâm không có việc gì khác, lâu dần sẽ trở nên tự nhiên, cho nên kết quả và đạo công của người ấy tự nhiên trở nên bất phàm."

"Thứ ba, Đại Thủ Ấn chỉ quán song vận là một kiểu tình thế tuần hoàn, đương nhiên phải dùng trí lực huyễn hóa ra một vòng ánh sáng hình tròn, có quán pháp hoặc chỉ pháp, vận dụng sức mạnh của linh để quan sát, cho đến khi thấy được minh thể của bản thân thì thôi. Minh thể là tự mình nhìn thấy được, và đó không phải là thân thể máu và thịt, nó hư vô như gương như ánh sáng, cũng giống như thân thể huyễn. Tăng xuất gia bình thường tu giới sinh định, từ định sinh huệ, rồi từ huệ sinh quang, đây là phương pháp của Hiển giáo, còn Mật tông thì khi thực thi pháp du già chuyên nhất là có thể sinh quang!"

"Thứ tư, tu trì Đại Thủ Ấn không được ngắt quãng, tức là linh quang hóa thành trí quang minh, động tác tay là pháp tu trì du già chuyên nhất chỉ quán, vận dụng liên tục, khiến quang minh dần dần gia tăng, đây thật sự là Phật quả pháp-sắc vô nhị, cũng tức là sắc thân và pháp thân bất phân, tức thân có thể thành Phật đó! Liên Sinh, cái mà anh gọi là khởi linh và trúc cơ vốn là công phu Đạo gia, cũng là pháp luyện khí đó! Vô hình trung đó cũng là pháp tu trì du già chuyên nhất chỉ quán, vì thế, ánh sáng tự thân có thể thành tựu pháp hư huyễn hưu tức của vô cấu quang, cái này đáng quý biết bao."

"Thứ năm, sự tu trì của pháp Đại Thủ Ấn chính là chân kiến của pháp thân, ở đây minh thể, bảo trì, kiên cố, vận dụng, thuần hóa, cái này mới là thân kim cương bất hoại, sự thuần hóa của minh thể cũng chính là Phật quả." "Đa tạ đại sư khai thị." - Tôi cung kính chắp tay.

Lúc này, hoàng hôn đã buông xuống đỉnh núi, kẻ hèn này và vị cao tăng từ đại điện đi đến bên vách núi, chỉ thấy hàng vạn tia ánh sáng cát tường chiếu hắt lên trời mà thôi, mây và sương núi đầy ắp và sáng sủa, trong đám mây mù cuồn cuộn phảng phất in lên đầy tượng Phật, muôn vàn biến hóa, gió từ bốn hướng thổi đến như Phạn âm ở khắp xung quanh, chỗ xa chỗ gần cả một vùng cảnh sắc đẹp diệu kì. Lúc này bầu trời bỗng dưng có một đám mây tía từ từ bay đến, trên đám mây tía ấy thì ra là một vị Hộ Pháp Kim Giáp Linh Quan Thần, tôi thấy cao tăng và Hộ Pháp cúi đầu chào nhau.

"Tại sao?" - Tôi hỏi. "Diễn giảng Đại Thủ Ấn, đây chính là pháp Mật tông từ lâu đã khó nghe thấy, do vậy có Hộ Pháp Thần đến." "Thì ra là vậy." Linh Tiên cũng có tam quán đảnh, đây cũng là sự gia trì của linh lực, từ đây mà ấn chứng, Đại Thủ Ấn tu khí tức tu linh.

27. Thân bí mật của thủ thông

Sự giao tiếp cảm giác của linh là thiên kì bách quái, những phương thức này đều là một dạng bí mật của tự thân, ở nước ta, "thần trung thần toán" thời cổ đại thuộc về một trong những pháp thủ [tay] thông. Thần toán bằng cách gập đầu ngón tay rất thần kì này từ xưa tới nay dù có người biết, nhưng đại bộ phận đều không biết làm sao cong gập ngón tay mà có thể đoán việc được, đạo lí nằm ở đâu? Hôm nay bài viết này sẽ công khai đại bí mật của pháp cong gập ngón tay thần toán của các bậc Tiên gia các thế hệ, đây cũng xem như là bản văn bí mật xưa nay chưa từng có.

Tôi nói cong gập ngón tay thần toán chính là thủ thông, thủ thông tức là dùng mười đầu ngón tay dựa vào sự sắp xếp định vị của Càn-Khôn-Cấn-Tốn-Li-Khảm-Đoài-Chấn, khởi điểm từ bí quyết "Phiên quái chưởng" [lật quẻ bàn tay] của Hoàng Thạch Công: "Quẻ sao phối hợp thành một nhà, tám tám biến đổi chẳng sai sót, cách thức bàn tay biến can số, ngón út này trên Đoài dưới Chấn, áp út sắp đặt Khôn và Khảm, Tốn trên Cấn dưới về ngón giữa, trên Li dưới Can tại ngón trỏ, một quẻ đã định ta mở xem." Đây tức là: "Càn đối Đoài, Đoài đối Càn, Li đối Chấn, Chấn đối Li, Khảm đối Tốn, Tốn đối Khảm, Cấn đối Khôn, Khôn đối Cấn." Còn có bí quyết Lạc Thư Tử Bạch Chưởng: "Nhất bạch Khảm, nhị hắc Khôn, tam bích Chấn, tứ lục Tốn, ngũ trung hoàng, lục bạch Càn, thất xích Đoài, bát bạch Cấn, cửu tử Li." Do trên bàn tay đã định ra bát quái, Thần Tiên cõi trời đã lợi dụng linh để trao đổi một chút chân quyết, vận linh tại bàn tay, và ngón cái của bàn tay tự động chấm lên các đầu ngón tay của các ngón tay khác để điểm ra quẻ hạ và quẻ thượng, quẻ thượng và hạ tương hợp cũng trở thành hình thức của tám tám sáu mươi tư quẻ. Chúng ta biết rằng sáu mươi tư quẻ âm dương quyết có tính quyết định đến lành dữ họa phúc, và dựa theo quẻ lí có thể suy ra ba giai đoạn quá khứ, hiện tại, tương lai. Do vậy Thần Tiên cổ xưa cong gập ngón tay có thể đoán được đại bí mật chính là nhờ thuật vận linh và bí quyết bát quái trên bàn tay mà thôi.

Học tập thủ thông trước tiên hãy học bí quyết lật bàn tay của Hoàng Thạch Công, sau đó mới học đến quẻ lí của tám tám sáu mươi tư quẻ, và hãy học thành thạo cái cốt lõi trọng tâm, sau đó mới học các biến pháp của quẻ Càn: "Cũng tức là quẻ Thiên Phụ Chính Thần, ví dụ như Càn tam liên, tam tòng thượng hào biến thành Đoài thượng khuyết, tam lại biến hào trung của Đoài thành Chấn ngưỡng vu, tam lại biến hào hạ của Chấn thành Khôn lục đoạn, tam tứ biến hào trung của Khôn thành Khảm trung mãn, tam ngũ biến hào thượng của Khảm thành Tốn hạ đoạn, tam lục biến hào trung của Tốn thành Cấn phúc oản, tam thất biến hào hạ của Cấn thành Li trung hư, tam bát biến hào trung của Li thành Càn tam liên. Ba lần khôi phục thì quay trở về quẻ gốc, bảy quẻ còn lại đều biến hóa như vậy.

Như Càn tức Đoài khởi là Tham Chấn là Cự Khôn, là Lộc Khảm, là Văn Tốn, là Liêm Cấn, là Vũ Li, là Phá Càn, là Phụ. Như Khôn long nhập thủ tức Cấn khởi, là Tham Tốn, là Cự Càn, là Lộc Li, là Văn Chấn, là Liêm Đoài, là Vũ Khảm, là Phá Thần là Phụ. Đây chính là pháp "Long thượng thủ tam cát lục tú" vậy.

Kẻ hèn này cho rằng, với cách suy như vậy, tự nhiên có thể suy đoán được lành dữ họa phúc rồi!

Bí mật của thân dựa vào tay là linh hoạt nhất, cũng dựa vào mười đầu ngón tay để tượng trưng cho pháp ấn. Người tu linh quan trọng nhất là trước hết từ cảm ứng thủ thông mà tu lên, đến khi tâm và thủ hợp nhất thì trở thành hiện tượng tâm điện cảm thông. Tâm điện cảm thông này hoàn toàn là một hiện tượng của linh, lấy thủ ấn tâm, tâm biến thì thủ biến, tâm là chủ của tất cả, phóng ra tay, nắm chắc thiên cơ của vũ trụ trời đất. Tu trì pháp này nói khó thì cũng không phải khó, nói dễ thì cũng không phải dễ, tóm lại, pháp bí mật của thân luôn nằm tại một chữ "quyết", nếu hiểu được bí quyết thì tất cả đều ứng tâm.

Bí quyết thứ nhất, đầu tiên nhắm mắt điều hòa hơi thở, niệm ba biến Tịnh thiên địa thần chú, tiếp theo niệm chú thỉnh Thần, sau đó lật bàn tay hướng lên trời, miệng có thể cung kính đọc tên vị Thần mà mình thỉnh, đợi đến khi bàn tay có hơi ấm thì dừng. (Khi thực hiện bí quyết này không được nghĩ đến điều gì khác, thỉnh cầu phải tập trung tinh thần, phát huy sức mạnh ý chí đến cực điểm, thỉnh Thần không được quên thắp hương, nếu gặp trường hợp khác thì nên nghiêm tâm cung thỉnh hoặc chắp tay cung thỉnh. Lúc này tối kị có người nhe răng cười, hoặc có tiếng người nói ồn ào, đến khi bàn tay có hơi ấm rồi thì máu lưu thông với tốc độ nhanh hơn, điều đó tức là thông tin đã đến.)

Bí quyết thứ hai, niệm rằng: "Thần Tiên để lại bí quyết tay, thần toán không cần bốn trụ lực, chỉ cần linh khí tuần hoàn chuyển, thiên cơ chảy quanh không dừng lại." Lúc này dùng linh để áp lên các đầu ngón tay của bàn tay, đầu ngón tay tự nhiên nhảy nhót, việc ngón tay nhảy nhót này không phải do tâm trí điều khiển hoạt động, mà là tự động nhảy nhót, nếu có người không tin đầu ngón tay này của tôi có thể tự động nhảy nhót, thế thì người đó hoàn toàn không biết gì về diệu dụng của linh. Vào lúc này, chuyển toàn bộ những thắc mắc đến thần linh cõi trời, thần linh lập tức có thể chỉ điểm điều mình không biết, ngón tay cái sẽ tự động điểm ra quẻ thượng và quẻ hạ, thế là tự nhiên có thể phá giải được những lầm lạc của mình.

Bí quyết thứ ba, sau khi xin được quẻ thượng hạ rồi, thuận theo đó có thể thỉnh cầu tiếp những việc khác, cũng có thể thỉnh cầu tiếp tục giải đáp chỉ điểm, nhưng thời gian không thể quá lâu, lâu quá sẽ loạn, mỗi lần cong gập ngón tay thần toán khoảng chừng hai mươi phút là được, cứ mỗi hai mươi phút thì lại nghỉ ngơi năm phút, như vậy tỉ suất chuẩn xác của việc thần toán sẽ rất cao. (Người bình thường không biết pháp Bát quái chưởng, cũng có thể lợi dụng sự mạnh yếu của sức mạnh linh động để dự đoán ngọn nguồn của sự việc, thành công hay thất bại, tỉ lệ chuẩn xác là tám mươi phần trăm. Nếu có thể dựa vào thời gian, địa điểm đến để xem bói, thậm chí hai mươi phần trăm đoán sai cũng có thể được bù đắp. Hai mươi phần trăm đoán sai cũng có thể do phương diện linh lực có vấn đề, hoặc phương diện trao đổi về sự việc có vấn đề. Nếu có thể tìm ra, dần dần cải thiện, có thể đạt đến sự chính xác một trăm phần trăm.)

Cảm ứng linh thông, nếu như thủ thông có thể không còn sai lầm thì cũng giống như Thần Tiên lục địa, kẻ hèn này đã nghiên cứu nhiều năm, phát hiện ra các cao nhân tự cổ chí kim, người có thể đến được trình độ cong gập ngón tay thần toán cũng không thấy có nhiều, nói gì đến hiểu được thiên cơ lí số, thoát khỏi đại kiếp sinh tử. Thần Tiên cổ đại phần đông là tu khí, khí có thể dưỡng thần, thần có linh quang thì tự có thể đạt đến mức độ cong gập ngón tay thần toán. Hôm nay tôi đã hé lộ toàn bộ đại thiên cơ không giấu giếm điều gì, xem ra đây cũng là một kì văn, xưa nay chưa từng thấy.

Chỉ mong Chân Phật Tông làm rạng rỡ truyền thống, độ thế đạo nhân tâm, như thế mới không phụ lòng mong mỏi của tôi và cũng là ý nguyện của những bậc tiên sư.

28. Pháp bia giáp hộ thân

Mỗi một người tu đạo đều phải học và biết pháp hộ thân, bởi vì trong thế giới tâm linh còn có những loài khác, có quỷ thần, có la sát, có tà thần ác sát rất nhiều, không phải là Lư mỗ tôi nói những lời sáo rỗng để dọa dẫm đâu, thật sự là có những thứ này. Những vật kì lạ thường xuyên đánh cắp nguyên khí của con người vào lúc họ không hay không biết, và khiến thân thể con người trở nên vô cùng yếu ớt, những vật kì lạ này hoành hành đã lâu rồi! Đây chính là kiếp số tự nhiên sinh ra giữa trời đất.

Tu lâu một phần công lực thì sẽ gia tăng một phần ma kiếp, đây là một định luật, bất kì người nào cũng đều không tránh khỏi.

Trong bài viết này, tác giả sẽ chỉ ra mỗi một người tu linh đều phải tu pháp bia giáp hộ thân, pháp bia giáp hộ thân phân thành hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là niệm Tâm Kinh, quán tướng Không. Bộ phận thứ hai là quán nghiêm thân của Kim Cang Hộ Pháp. Tôi đặc biệt thuật lại tỉ mỉ như sau:

Bộ phận thứ nhất, trai giới tĩnh tọa, niệm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: "Quán Tự Tại Bồ Tát. Hành thâm bát nhã ba la mật đa thời. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không. Không bất dị sắc. Sắc tức thị không. Không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức. Diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt. Bất cấu bất tịnh. Bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc. Vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp. Vô nhãn giới. Nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh. Diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô lão tử. Diệc vô lão tử tận. Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ Đề Tát Đỏa. Y bát nhã ba la mật đa cố. Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố. Vô hữu khủng bố. Viễn lyiđiên đảo mộng tưởng. Cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật. Y bát nhã ba la mật đa cố. Đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật đa. Thị đại thần chú. Thị đại minh chú. Thị vô thượng chú. Thị vô đẳng đẳng chú. Năng trừ nhất thiết khổ. Chân thật bất hư. Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: "Gate, Gate, Pāragate, Pārasaṃgate, Bodhi Svāhā." Tâm Kinh này mỗi một người tu hành đều phải học thuộc lòng. Tôi cho rằng, trong câu chú Bát nhã ba la mật đa đã xuất hiện bốn vị Thần Yết Đế. Cần biết rằng bốn vị Thần Yết Đế này thần lực rất mạnh, thắng cả Kim Giáp Thần, thắng cả Linh Quan, thắng cả Hộ Pháp Long Thiên, bốn vị Thần Yết Đế đại lực thần thông là bất khả tư nghì. Nếu thường niệm tâm chú, phụng thỉnh bốn vị Thần Yết Đế, mỗi lần trì chú từ ba biến trở lên, đem hương hoa hoặc dầu mè cúng dường bốn vị Thần Yết Đế, thì cách làm này cũng giống như làm bia giáp hộ thân cho chính mình vậy! (Chú thích: mỗi người đều phải ghi nhớ Tâm Kinh, học thuộc trong tâm, cẩn thận cất giữ như kỉ vật của mình vậy, người muốn chuyển pháp luân cũng là Tâm Kinh này, chứng quả cũng là Tâm Kinh này.)

Bộ phận thứ hai, quán nghiêm thân Kim Cang Hộ Pháp, sau khi niệm xong ba biến Tâm Kinh, khép hờ mắt suy tưởng, hai tay kết ấn hộ thân, suy tưởng thần chúng Kim Cang bộ từ bốn phương xuất hiện, lúc này, chỉ có mắt mình nhìn xuống mũi, mũi nhìn tâm, thấy thân mình đang ngồi trên hoa sen nghìn cánh, thân mình phóng tỏa hào quang, dần dần bay vào trong hư không, Kim Cang Thần chúng bốn phương đứng trên mây cát tường hộ vệ, bản thân ngồi ở chính giữa Thần chúng Kim Cang bộ. Lúc này xuất hiện vòng ánh sáng trên đỉnh đầu, phóng ra mây ánh sáng, niệm tam tự chân ngôn "Om Ah Hum" ba lần, tay xuất kiếm quyết, hướng về không trung vẽ ra các vòng tròn, trong sát-na xuất hiện hỏa võng kim cang, lưới võng không có khe hở, giống một bức tường lửa liên tục khuếch tán ra xung quanh, tương tự như hòn sỏi rơi xuống nước với các gợn sóng hiện lên khắp nơi. Cảnh tượng lúc này chính là Thiên Ma ở bên ngoài hỏa võng đang bán mạng xông vào trong, nhưng kim cang hỏa võng đã chặn đứng Thiên Ma, những Kim Cang Thần chúng khác thì bảo vệ pháp thân tự tại. Nếu bức tường lửa kim cang bị Thiên Ma xâm nhập thì có thể lại niệm Kim Cang Tâm đà-la-ni: "Om usnisa svaha", chỉ vào không trung, không trung lại giáng xuống một vệt hào quang màu vàng kim, hào quang trở nên tròn vành vạnh, hào quang tựa như lớp màn lụa vây xung quanh bản thân mình, Thần chúng Kim Cang bộ ở bốn xung quanh, trong hào quang xuất hiện hóa Phật và hóa Bồ Tát. Lúc này chỉ yêu cầu tâm không thay đổi, thân tâm tự tại chuyển động, Thiên Ma có mạnh hơn nữa cũng hóa khí hung bạo của nó thành khí cát tường hiền hòa.

Nói xong về pháp bia giáp hộ thân, tôi lại nhắc đến một pháp hộ thân nữa, pháp hộ thân này chính là pháp Phật Mẫu, chú rằng: "Om Hrim". Chân ngôn quy y là: "Rập đầu quy y Susiddhi, cúi lạy đảnh lễ Thất Câu Chi (Phật Mẫu), nay con xưng tụng Đại Chuẩn Đề, mong ngài từ bi ban gia hộ, namo saptanam samyaksambuddha koninam tadyatha om cale cule cundhe svaha." Cuối cùng, niệm lục tự chân ngôn "Om mani padme hum" tổng cộng 108 biến. Kẻ hèn này nhận thức sâu sắc rằng trong chân ngôn quy y, một câu tức là một quang minh tồn tưởng, từ đầu đến chân đều là ánh sáng, rồi sáu chữ "om mani padme hum" có thể xưng là đại minh chú, cũng tức là ánh sáng khắp toàn thân.

Dùng pháp Phật Mẫu để tu bia giáp hộ thân cũng có công hiệu cực kì lớn, đương nhiên cũng phải phân làm hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là trai giới tĩnh tọa, niệm chân ngôn quy y, niệm thần chú hộ thân, niệm lục tự chân ngôn. Bộ phận thứ hai cũng là pháp quán nghiêm thân, toàn thân mình duy trì suy nghĩ ánh sáng lần lượt xuất hiện, sau đó phóng đại quang minh, bản thân mình tựa như Phật Đà đang thuyết pháp, thực tướng trang nghiêm, lúc này không cho phép xuất hiện một chút tư tưởng tà uế nào, như thế thì ánh sáng càng có thể duy trì lâu dài và không gián đoạn, tu đến cuối cùng thì tự nhiên có thể phóng quang. Đến được trình độ tự nhiên phóng quang thì chính là lúc hoàn thành xong công hành đầu tiên của bia giáp hộ thân. (Kẻ hèn này cho rằng người tu linh muốn từ hiện tượng linh động sản sinh ra linh quang, sau đó đạt đến mức độ linh minh thì buộc phải tu pháp bia giáp hộ thân, bởi vì pháp này gắn liền với ánh sáng, thành tựu kim cang quang minh tế võng, kim cang quang minh hỏa, kim cang thông minh thể.)

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Như mắt thấy sắc, tức sinh sắc tướng, như mắt thấy quang, tức sinh quang tướng, quang tướng vốn không, quang tướng cũng sáng, hiểu được pháp này, quang minh không ngừng, bia giáp hộ thân, chư Phật cũng thế."

29. Cầu nguyện Thần linh thị hiện

Người học Phật thông thường, khi nhìn thấy tượng Phật, bất kể là nhìn tượng hay tranh vẽ, đều nên chỉnh đốn lại quần áo và lễ bái, khi lạy đương nhiên nên niệm thầm: "Trên trời dưới đất không gì được như Phật, mười phương thế giới cũng không gì sánh bằng, mọi điều trên thế gian ta đều biết hết, tất cả không ai bằng được như Phật." Cũng có thể niệm thầm rằng: "Nếu gặp được Phật, thỏa nguyện chúng sinh, đắc vô ngại nhãn, thấy tất cả Phật." Hoặc có thể niệm thầm: "Pháp Vương vô thượng tôn, tam giới không gì sánh, tôn sư của trời người, từ phụ của tứ sinh, nay con được quy y, diệt được ba nghiệp tội, ngợi ca và tán thán, tỉ kiếp cũng chẳng hết." Hễ có đi kinh hành tại điện đường, phải nhiễu theo chiều bên phải, không được nhiễu theo chiều bên trái, tất cả phải hợp với lễ nghĩa. Ngoài ra, người tu linh cũng không được coi thường Thần Tiên Đạo gia, lại càng không được coi thường Chúa Jesus, thấy tất cả tượng thần ngoại đạo cũng phải chắp tay cung kính hành lễ, bởi vì Phật Bồ Tát cũng có thể ứng hóa thành Thần, Tiên để mà độ muôn dân trong thiên hạ. Nhất là chúng ta đối nhân đều phải cung kính, huống chi là các Thần siêu sinh thiên giới, chúng ta có thể tu hành còn các Thần ở trên trời thì không thể tu hành sao?

Phải thấy tất cả con người đều là Phật Bồ Tát trong tương lai, nên cung kính họ, thấy tất cả Thần đều là Phật Bồ Tát trong tương lai, càng nên cung kính họ. Tôi dạy con người quan điểm bình đẳng không phân biệt, chúng ta không thể coi thường bất kì cá nhân nào. Kẻ hèn này cũng cho rằng, cầu nguyện là vô cùng quan trọng, cầu nguyện cũng có công hiệu rất lớn, cầu nguyện nếu thật sự phát tâm thì có thể làm cảm động đến Tiên Phật, cho nên chân thành cầu nguyện thật sự có thể gặp được Thần Tiên giáng xuống linh thị. Vì thế cầu nguyện là một môn học vấn, thật sự có nói rõ những điều cần thiết, trước tiên kẻ hèn này xin dẫn một việc mà bản thân đã trải qua để chứng minh.

Có một lần, tôi bị ốm rất nặng, lâu nay tôi vẫn rất hiếm khi bị ốm, trận ốm này cũng rất kì lạ. Buổi sáng thì không hề có triệu chứng gì, nhưng hễ qua giờ Ngọ là dần dần lên cơn sốt, nhiệt độ cao trên 38,8 độ C, đầu càng lúc càng nặng, toàn thân lạnh run, mặc rất nhiều quần áo vẫn cảm thấy âm khí nặng nề, buổi đêm ngủ thì mơ nhiều, cứ thế thân tâm kiệt quệ, dường như mệt đến mức không thể nào gượng dậy nổi, hốc mắt trũng sâu, mặt nhợt nhạt, bước đi cũng vô cùng khó khăn. Buổi tối tôi sử dụng thiền công, sáng sớm liền khỏe lại một cách rất kì lạ, nhưng cứ đến buổi trưa, bệnh lại lặp lại từ đầu, tình hình nghiêm trọng hệt như hôm trước, buổi sáng và buổi chiều cứ như hai con người khác nhau vậy.

Tôi nhận thấy tình hình bất thường, bèn vội vàng cầu Thần Tiên chỉ thị, Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn chỉ thị bằng bốn chữ "trúng phải bùa ngải". Quả đúng như dự liệu, tôi lại bị người ta bỏ bùa, tôi muốn khóc mà chẳng thể rơi nước mắt, vì sao lại gặp nhiều rắc rối bị phù tử tiên tìm đến tôi như vậy chứ! Tôi thử tự mình hóa giải, tôi uống phù "Lôi lệnh phá tà linh" do mình tự vẽ, nhưng phát hiện ra là vô hiệu. Tôi lại niệm "Chân ngôn giải trừ trói buộc", nhưng cũng vẫn vô hiệu. Nửa đêm tôi tỉnh dậy, dùng thất tinh pháp tọa để giải ách, nhưng cũng vẫn vô hiệu. Tôi phát hiện ra sức mạnh của tà phù kia rất uy lực, giống như bị ma nhập lên người vậy, hoàn toàn không phải là thứ mà pháp lực của tôi có thể loại trừ được. Cứ thế suốt bảy ngày, tình trạng của tôi rất thê thảm, tôi đã rơi vào tình thế nguy kịch, hơi thở mong manh như sợi tơ. Thế là tôi gắng gượng thắp một nén hương, cầu nguyện Diêu Trì Kim Mẫu dang tay cứu giúp, lời cầu nguyện của tôi rất chân thành, tôi nói: "Kim Mẫu Thiên Tôn ở trên cao, đệ tử Liên Sinh, kính cẩn cầm hương cung kính cầu nguyện từ xa, nay con trúng tà thuật, tự mình không giải thoát được, đến nay đã thất vọng lắm rồi, ngoài cầu nguyện Kim Mẫu ra thì con chẳng còn cách nào khác, có lẽ trong lời nói và việc làm của con đã phạm sai lầm lớn, chỉ mong có thể lần lượt hết lòng sám hối những lỗi lầm của mình, thỉnh cầu các Thánh linh ở thiên thượng nhìn xuống soi xét, xin hồi phục sức khỏe cho con, đệ tử Liên Sinh nhất tâm khẩn cầu lạy ba lạy." Tôi cầu nguyện rất đơn giản, nhưng với tâm thành kính không gì sánh bằng. Tôi cứ liên tục lạy và cầu nguyện như vậy ba ngày. Đến buổi tối ngày thứ ba, trong lúc mơ màng, tôi nhìn thấy Kim Mẫu đứng sừng sững bên cạnh giường, ngài đưa tay ra kéo lấy tay tôi, dùng ngón trỏ của tôi nhẹ nhàng xoa vào huyền quan (ở chỗ giữa hai mắt hai lông mày và thiên khiếu), liên tục cho đến khi nóng đỏ sắp chảy máu thì dừng lại. Diêu Trì Kim Mẫu đột nhiên biến mất, lúc này một vệt khí đen từ chỗ huyền quan vọt ra thét lên một tiếng như sét đánh, tôi cũng giật mình tỉnh dậy, đưa tay sờ lên trán, chỗ huyền quan đã biến thành một vệt máu đỏ rồi. Nói ra cũng kì lạ, ngày hôm sau, sau buổi trưa, mọi bệnh tật của tôi đã hoàn toàn biến mất tăm mất tích, thân thể nhẹ tựa chim én.

Và bệnh của tôi cứ thế khỏi không hề vì lí do nào cả, bình phục khỏe mạnh, đây chính là công hiệu của việc cầu nguyện đó! Tôi thừa nhận.

Chúng ta biết rõ rằng, cuộc đời con người không thể tránh khỏi sinh lão bệnh tử, đặc biệt việc lớn trên đời hẳn là hai chữ sinh tử, khi không còn một hơi thở nữa thì đã quy về thế giới khác rồi, có một sai lầm trong suy nghĩ là đọa vào trong luân hồi. Con người đến khi gặp bệnh tình hiểm nghèo, nhất là khi tâm thức tán loạn, lúc này dễ bị mê hoặc nhất, quên mất việc thành tâm cầu nguyện, đánh mất chính niệm, nhập vào biển khổ trầm luân. Cho nên chúng ta khi cầu nguyện nhất định phải tĩnh tâm và tập trung, niệm rằng: "Mong tịnh quang từ cõi trời chiếu đến con, thiên linh với cánh tay từ bi hãy thu nhận con, nay con chính niệm, xưng Thánh danh Như Lai, vì đạo bồ đề, cầu sinh về thiên thượng tịnh thổ, đắc chính đẳng giác, nhập vào trong biển thề vĩ đại của Như Lai, được nhờ sức mạnh từ bi của Phật mà trọng tội đều được tiêu diệt, tăng trưởng nhân thanh tịnh, thân không đau khổ, không tham luyến hồng trần, tâm không điên đảo, như nhập thiền định, kim liên Thánh chúng hiển hiện, hoa nở thấy Phật."

Cầu nguyện thật sự là rất quan trọng, tôi viết một bài kệ: "Nước trong tĩnh lặng hiện trăng tròn Hết thảy cảnh vật đều trong veo Nhất tâm cầu nguyện cũng như thế Tâm khai tự nhiên là hoa khai."

30. Công phu thoát thai thần hóa

Công phu thoát thai thần hóa tính ra cũng là một trong những thiên cơ, là mục tiêu cuối cùng của người tu đạo. Cái gọi là thoát thai nghĩa là thoát khỏi phàm thai, cái gọi là thần hóa cũng có ý nghĩa là nhập hư phản hư, đến được cảnh giới này có thể xem là biểu trưng cho sự thành Tiên hoặc đắc đạo. Đây chính là xá lợi thành đan, đan chín mà sinh thần, viên mãn hoàn thành trọng trách, nhiệm vụ lớn của tu đạo. Khi thoát thai, nguyên thần phần lớn thoát ra từ thiên khiếu [lỗ đỉnh đầu] không thể thoát ra từ miệng, mũi, mắt, tai, rốn. Cảnh trí khi nguyên thần đi ra từ thiên khiếu tùy người mà rất khác nhau, tôi xin thay mặt cho các bậc lão sư phụ đức cao thuật lại huyền cơ của những gì tôi được thấy khi hộ linh cho các vị như sau:

Thứ nhất, có một lão sư phụ có thể dự đoán quá khứ tương lai, ngài thần toán mà biết được ngày đó giờ đó là ngày ngài sẽ trở về. Đến thời điểm đó, ngài trai giới tắm gội, thay quần áo và chuẩn bị ổn thỏa, tĩnh tọa tại thiền phòng ở mật thất. Lúc này, cung nê hoàn của ngài ấy đột nhiên nhô lên, mây đen kéo đến đầy trời, giông tố nổi lên, thiền sư hai chân chạm đất, đem chân hỏa tam muội mà mình đã chuẩn bị từ lâu xung về cung nê hoàn, nguyên thần của ngài giống như cái thóp ở trên đỉnh đầu của trẻ sơ sinh, vẫn liên tục phập phồng. Thời giờ đã đến, tiếng sấm rền vang, khi lỗ thủng ở thiên đường mở cửa, một khối khí màu trắng bay vào hư không (chân hỏa tam muội của lão thiền sư giấu tại chỗ cong ở chân, có nghĩa là ở giữa bắp đùi và cẳng chân, bởi vì khi chưa xuất thai thần, trong cơ thể có âm khí, phải dùng sức mạnh của linh, hai chân duỗi thẳng, yêu cầu có cam lộ hạ xuống đan điền, sau đó đẩy âm khí về chỗ cong giữa hai chân, lưu trữ hóa thành chân hỏa tam muội. Người bình thường không biết chân hỏa tam muội giấu ở chỗ nào, tôi đặc biệt chỉ ra, chính là ở chỗ cong của chân.)

Thứ hai, có một vị trưởng tiền bối lão tiên Đạo gia bí mật tu hành rất lâu, khi sắp hóa thành Tiên đã gửi một bức "phi thư" đến mời tôi hộ linh cho ngài ấy. Khuya hôm đó ngài ngồi trong một ngôi chùa, trước lúc sắp hóa Tiên, ngài cũng đã chuẩn bị ổn thỏa, đã phụng thỉnh các Thần lớn nhỏ ở chùa đó đến. Lúc tôi tới, chỉ thấy trên trời có Công Tào, dưới đất có Thổ Địa, ngũ phương Thần Tướng, các Thần bận bịu vây quanh, tôi chỉ thấy một đứa bé (nguyên thần), thân thể của nó là ánh sáng trắng, ngồi trong một vòng ánh sáng, vòng ánh sáng cũng tỏa ánh sáng màu trắng, từ từ bay lên. Vòng ánh sáng đó giống như mặt trăng, đẹp vô cùng. Sự xuất linh của lão Tiên trưởng và người khác không giống nhau, ngài ấy là cầu Thần đến để mở nắp ở đỉnh đầu của ngài ra. Tôi nhìn thấy Thiên Thượng Thánh Mẫu thong dong tiến đến, đến trước mặt Tiên trưởng, dùng tay vuốt mở ra "hoa cái" của ngài ấy, ngay sau đó đứa bé màu trắng từ đỉnh đầu bò ra, ánh sáng chậm rãi đi lên, sau đó bay lên thiên giới. Sự hóa thành Tiên của lão Tiên trưởng trên đời này không ai biết được. Tại thế, ngài ấy là một ông già nhỏ bé hiền lành lương thiện làm nghề nhặt giấy vụn, hiếm người nào biết được chân diện mục của ngài ấy. Ngài ấy bí mật tu hành, nguyên thần của ngài xuất quan chính là được giấu tại viên xá lợi ở trong đan điền.

Thứ ba, có một vị đại thiện tri thức, vài ngày trước khi lâm chung, cũng tự biết mình sắp rời khỏi nhân gian, tự mình lo liệu hậu sự. Ông ấy rất thân với tôi, cũng khẩn trương thông báo cho tôi. Khi tôi chạy đến thì đúng lúc ông ấy đang ở trạng thái hấp hối. Tôi nhìn thấy cửa trên đỉnh đầu của ông xuất hiện quang khí màu đỏ, từ trên trời một vị thiên quan hạ xuống, phía trước thiên quan có một đứa bé dẫn linh cầm cờ phướn, hai người đứng trên mây cát tường bay đến. Ánh sáng đỏ trên đỉnh đầu của đại thiện tri thức tụ lại một chỗ, chỉ thấy trong ánh sáng đỏ đó có một hình người đang đứng, tôi chợt nhận ra hình người đó cũng chính là vị đại thiện tri thức khác, hai người giống hệt nhau. Thiên quan ở phía trước, đứa bé dẫn linh đi chót, người ở trong ánh sáng đỏ đó ở giữa, cứ như thế mà thăng thiên. (Theo tôi được biết, đại thiện tri thức vẫn là thân phận cư sĩ tại gia, bình thường ưa thích làm việc thiện, hay bố thí, say mê nghiên cứu kinh Phật không biết mệt mỏi, tĩnh tọa thường niệm Phật, sau cùng ông theo Mật tông, trì chú, ánh sáng mà tôi nhìn thấy chính là do thiện quang hóa nên, linh thể của ông ấy vẫn là thân phận người âm, chưa đạt đến trình độ minh thể. Ánh sáng đỏ xuất thần của ông ấy chính là sự hóa thân của nguyên giác thần công, cũng tức là thức, Phật gia gọi là thức thứ tám - A-lại-da. Từ đó có thể chứng minh thân trung ấm cũng có thể đắc đạo.)

Từ ba ví dụ trên, kẻ hèn này chỉ ra bí quyết có liên quan đến thoát thai thần hóa nằm ở đâu, để người người thấy được rằng cần biết thủ giữ nguyên, khí, linh, hơn nữa cần tu công tạo đức, rồi một ngày kia cũng có thể lững thững mà đăng thiên, không cần tiêu tốn công phu quá lớn, thậm chí đến mức có người đem thuyền đến đón, đem kiệu đến rước. Nhưng chúng ta cũng không biết thuyền này đi về nơi nào. Mênh mông mù mịt kiểu gì cũng không thể ngăn cản. Dùng kiệu đến rước, cũng không biết sẽ được đưa đến nơi nào. Nếu kiệu bị đưa đến địa ngục, chẳng phải là đã bị lợi dụng sao, cho nên cẩn thận vẫn là quan trọng. Nếu xuất hiện linh của tổ tiên đến đón, cũng không phải là hiện tượng tốt, vì đây cũng tức là vào âm giới. Tây phương Tam Thánh hiển hiện đến đón, nếu ban cho tòa sen, hoa nở thấy Phật, hiện tượng này cũng có thật giả, vô cùng khó phân biệt, nhưng chỉ cần nhất tâm niệm Phật, quan trọng là không điên không đảo. Tốt nhất là nhắm mắt một cái rồi mở mắt ra thì đã thấy mình ngồi trên hoa sen trong hồ sen ở Tây phương rồi, các đại Bồ Tát là quyến thuộc, diệu quả thù thắng ở trước mắt, điều này là chân thực nhất. Nếu còn hỗn độn vẩn đục không rõ ràng, mơ màng mù mịt thì tình hình ấy không hay rồi.

Người thoát thai thần hóa, nếu linh khí dồi dào, linh có thể tự chủ, trước tiên sai khiến linh đi xung quanh thân mình, phương pháp sai bảo linh được dùng ở đây vẫn là phương pháp đại ôn dưỡng, giống như nước bốc hơi lên thành khí, rồi lại ngưng đọng khí thành băng, rồi lại hóa băng thành hư vô, cái này cũng tức là phương thức lần lượt tuần hoàn, xét về đạo lí mà nói thì rất đơn giản, nhưng phải có cảm giác thực tế mới được. Giống như người sai khiến linh, linh lập tức có thể thoát ra, tự do xuất nhập, giống như con người vận linh, linh ở bên trong cơ thể tự thành tường đồng vách sắt kiên cố, những cái này đều là cảm giác chân thực. Khi vận linh, chân khí dồi dào, giống như ruột lốp xe được bơm đầy khí vậy, cái gọi là "thoát thai thần hóa" tất nhiên phải có đầy đủ khí thì mới có thể thoát thai, đây là đạo lí chắc chắn.

Người luyện linh nếu cảm giác khí đã đầy đủ, đã kết xá lợi thật, sau đó thần hóa thì có thể chuẩn bị thoát thai rồi!

31. Phá huyễn đạt thực, nhận ra "minh thức”

Người từng khởi linh, muốn rèn luyện để trở thành "cây bút dữ dội", dùng phương pháp múa loan để độ thế, đạt đến mục đích cứu người cứu đời, thì cần hết sức dung dị. Sau khi khởi linh, thân thể có linh tính, vì linh ở không trung mượn linh khiếu của bản thân để múa loan, đây cũng là điều hợp tình hợp lí. Theo đạo lí mà nói, phương pháp này chính là "thần thông mượn vật", hiện tại "thần thông mượn vật" này thường gặp nhất là ở các loan đường sùng bái Quan Thánh Ân Chủ, trong các bài báo đã xuất bản ở nhiều vùng trên khắp cả nước cũng xuất hiện không ít, có nhiều bài viết có tính giá trị cao, nhưng cũng có những loan văn trình độ tương đối thấp, tuy vậy đó lại là một câu chuyện khác.

Mỗi một người khởi linh, nếu muốn hiến thân mình để làm một người trung gian cho "thần thông mượn vật", nhờ tay cầm cành đào cành liễu viết chữ trên cát trắng, lúc ban đầu họ cũng bế quan bí mật tu. Bế quan chính là một sự thử thách, khiến bạn tạm thời tách khỏi mọi người, bình định tâm chí, chuyên tâm nhất trí bước vào cửa của Thánh hiền. Khi bế quan phải nhịn ăn, thời gian nhịn ăn không cố định, có người là bốn ngày, có người là bảy ngày, chỉ uống nước, không ăn những thức ăn khác. Hiện tại ở Nhật Bản cũng xuất hiện những đạo tràng nhịn ăn, các đạo tràng nhịn ăn ở Nhật Bản cho rằng: con người mắc bệnh chính là do thức ăn gây nên, nếu không ăn trong vài ngày, các chất bẩn trong thân thể sẽ được loại bỏ sạch sẽ, sau đó ăn đồ ăn thanh tịnh có thể khiến bách bệnh tiêu trừ. Còn ý nghĩa của luyện làm người trung gian thì lớn lao hơn việc trừ bệnh tật, nếu nhịn ăn, trong thân thể không còn những thứ bẩn, biểu thị rằng nhân cách đã thanh tịnh, có thể giao tiếp được với Thần rồi. Tôi cảm thấy thời gian bế quan nhịn ăn có thể dựa theo thể lực của người bế quan mà quyết định, không cần phải cưỡng ép bản thân.

Trong khi nhịn ăn, công khóa cần làm chính là niệm chú, niệm thần chú thanh tịnh thân khẩu ý, niệm chú kim quang, niệm thần chú tịnh thiên địa, ngoài những cái này ra thì có đọc kinh và luyện tập ngồi thiền, thời gian bế quan đa số là bảy bảy bốn mươi chín ngày, sau khi nhịn ăn thì cũng bắt đầu ăn lại, nhưng lượng thức ăn cũng rất ít, tất cả đều là đồ chay, không được dùng đồ mặn, việc nhịn ăn cũng tức là để loại trừ trọc khí, nếu dùng đồ ăn mặn thì toàn bộ công lao là vứt đi hết.

Bế quan bảy ngày đầu tiên có thể đốt một bài sớ văn để bẩm lên thiên đình: "Phục mình trước Thánh đức nguy nga, Phật ân cao quý, hôm nay con là… sống tại Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc, nguyện chí thành tu linh khởi kê, vì tự biết từ vô thủy đến nay cứ mãi lưu luyến vấn vương trong lục đạo, mê muội trong tam đồ, phạm vào đủ mọi ác nghiệp, trải qua bao kiếp lỗi lầm khó mà đếm hết. Nay trước Phật con xin hết sức sám hối, bế quan bảy ngày, nhịn ăn kiêng tắm, để báo đáp bốn Thánh ân sâu nặng của trời đất, tự nguyện nhập đạo, tiến vào làm thân kê đồng, dùng đào liễu loan bút để mở mang đại đạo. Khấu lạy Diêu Trì Ngọc Kinh Chư Tiên, Tam Thiên Chư Phật Bồ Tát, ở trước tòa sen của các vị Tiên sư các thời kì, thỉnh cầu Thánh linh nhìn xuống thấy được lời cầu nguyện luyện thành lửa cháy của con, ban cho đại đạo sớm sáng tỏ, xua đi sương sớm, thấu hiểu được thập phương. Nếu con có làm trái Thánh thị, làm trái giới luật, làm trái Phật quy, thì Hộ Pháp Vi Đà, Vương Thiên Quân, Triệu Thiên Quân làm chứng lời thề, con vĩnh viễn đọa địa ngục, chịu khổ hình cực khổ."

Sau khi đốt sớ văn, tự nhiên sẽ có Thánh linh ở cõi trời xuống chỉ đạo, người luyện làm kê đồng, tay cầm bút lông, thành tâm thỉnh cầu linh thị, lúc này tay tự nhiên sẽ chuyển động trên giấy trắng, thư pháp lúc này đều là "loạn thư", giống như học sinh tiểu học tập cầm bút lông viết chữ vậy, phải luyện đến khi bước đi tự nhiên và đến khi chữ có hình dạng nhất định thì mới thôi. Cũng có thể cầm cành đào cành liễu, yên lặng đợi chỉ thị của Thánh linh ở không trung, viết phù viết chữ phải phân biệt và hiểu kĩ càng. Chữ hoặc chỉ thị lúc này đều có hàm ý, sau bảy ngày cũng sẽ có thử thách, đây chính là phá huyễn đạt thực, nhận ra "minh thức". Thế nào là minh thức? Minh thức chính là ý thật sự của Thần minh, không phải là thần thức của mình tạo ra. Phá huyễn đạt thực, nếu chưa phá được cái huyễn thì không phải là thật, dễ bị tâm ma lợi dụng.

"Thần thông mượn vật" là sự liên lạc giữa linh và linh, so với kê đồng thì đây là một sự giao tiếp cảm giác cao siêu và cao thượng hơn. Trong lúc bế quan chính là vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức, không được nghĩ đến việc thế tục, sẽ làm loạn đạo tâm của mình, không được cầu danh lợi mà đánh mất chủ ý chân chính. Lúc này sớm tối tĩnh tọa luyện tập sự giao tiếp cảm giác nhờ mượn vật, mong sớm biến tục tâm thành đạo công, vạn duyên không nhiễm, không còn tướng nhân ngã chúng sinh thọ giả, thấy rõ hiểu thấu không tịch, thế là tự đắc trạng thái chân không rồi! Lúc này nếu thấy mĩ nữ ở trước mặt thì cũng không bị sắc tướng ấy mê hoặc, gặp rắn độc hổ dữ cũng giữ quyết tâm dù phải chết, không dịch chuyển và kinh sợ, có người đem tiền và vàng bạc châu báu đến cũng hoàn toàn không để tâm. Trong cõi xa xăm sẽ sinh ra những huyễn tướng kì quái, nếu chấp vào một huyễn tướng thì sẽ rơi vào trong sự mê hoặc đó, như thế sẽ giống như thiêu thân lao vào lửa, côn trùng sa vào mạng nhện vậy. Nếu bạn tin vào huyễn tướng của âm ma thì toàn bộ công lao là vứt đi hết, mê muội điên cuồng, trở thành kẻ tẩu hỏa nhập ma bế quan nhập đạo, khi định lực không đủ thì thật sự là quá nguy hiểm đó!

Trước kia lúc ban đầu, tôi tu tĩnh tọa cũng sinh ra ma tướng, nhưng tôi đều dùng Phật hiệu để quát lớn, đây là phương pháp của tôi, hễ quát lên thì ma tướng biến mất. Phá huyễn đạt thực, nhận ra "minh thức", nếu nhìn thấy mĩ sắc ở trước mặt không nỡ quát lên, cũng không nỡ để cho cảnh đẹp ấy biến mất, tự tâm đã dao động, tham luyến không tạm dẹp bỏ, người như vậy không cần tu đạo, cũng đừng bế quan, để tránh tạo thành chuyện hài cho đạo tràng thanh tịnh. Người không quên được tửu sắc tài khí, danh lợi tình ái thì căn bản là không nhận thức được chân đế của Đạo.

Nếu đạt được công phu "minh thức", có thể luyện thành công "thần thông mượn vật", phá huyễn, đạt thực, thì tay cầm cành đào cành liễu có thể độ hết con người khắp mười phương rồi. Kì thực, nếu luyện thành công minh thức, pháp nhĩ báo cũng xấp xỉ thành công, có thể khẳng định lành dữ họa phúc, thì cũng giống như Thần Tiên, công phu tri thiên mệnh đã không còn xa nữa.

32. Thuật luyện linh viên quang

Có rất nhiều phương pháp cảm ứng linh thông, trong đó thuật viên quang tương đối thần kì, thuật viên quang nói đúng ra trong ngoài nước đều có, ở nước ngoài họ gọi là phương pháp xem quả cầu thủy tinh, cũng tức là một trong những thuật viên quang. Con mắt của người bình thường không có cách nào nhìn ra được trong quả cầu thủy tinh có bất kì điều bí ẩn nào, thật ra linh Tiên cao minh có thể nhìn ra sự biến hóa của nhiều ánh sáng màu trên quả cầu thủy tinh, người cao siêu hơn thì có thể nhìn ra hình ảnh hiện lên, cái bóng, hoặc xuất hiện cung điện lầu gác, hoa rơi trên võ đài, họa phúc của một cá nhân đều xuất hiện trên quả cầu thủy tinh. Bản thân quả cầu thủy tinh là một dạng hoán dụ, chủ yếu nhất là nhãn thần của người quan sát.

Thuật viên quang ở nước ta thì phần lớn là dùng một miếng vải trắng, treo lên không trung ở chỗ sáng sủa, và người quan sát sẽ làm tối bốn xung quanh, đốt hương thỉnh thần, hai mắt nhìn chăm chú vào tấm vải trắng, miệng đọc lớn chú. Lúc này trên tấm vải trắng sẽ từ từ xuất hiện nét chữ, nét chữ viết theo luật thơ bảy chữ, hoặc ngũ ngôn tuyệt cú, nhanh chóng xuất hiện, cũng nhanh chóng biến mất. Sự việc này giống như chiếu phim lên màn chiếu vậy, giả sử có nhiều người, trong số đó có người nhìn thấy, cũng có người không nhìn thấy, mỗi người sẽ lần lượt viết lên giấy đoạn thơ văn mà họ nhìn thấy, cuối cùng kiểm chứng lẫn nhau, kết quả là giống nhau.

Thuật luyện linh viên quang là chính hay là tà, kẻ hèn này cho rằng cũng khó nói. Tác giả biết ở Đài Bắc có một bạn đạo nữ, tuổi khoảng ba mươi, chưa kết hôn, từng nhập Phật môn tu Mật tông, sau đó theo một pháp sư luyện linh nhãn, chính thức học tập thuật viên quang. Tôi từng gặp người phụ nữ đó đúng một lần, là vì có người nhà của cô đưa cô ấy đến, khi ấy thần trí cô ấy đã không còn rõ ràng, nói xằng nói xiên, cô ấy bị trúng tà quá nặng, ngay cả tôi cũng bó tay rồi!

Người nhà của cô ấy kể với tôi, cô ấy cũng treo một tấm vải trắng ở trong mật thất, cả ngày thắp hương tĩnh tọa, niệm chú cũng chủ yếu là chân ngôn lục tự đại minh, cứ như vậy sau 49 ngày, cuối cùng cô ấy đã có thể nhìn thấy những hình chữ hiện lên trên tấm vải trắng, chỉ thị rằng: "Em trai có nạn, cấm túc một ngày." Còn chỉ rõ là ngày nào, nhưng em trai cô không tin, kết quả là đúng thật vào ngày hôm đó em trai chạy xe máy đâm vào người ta, một chân đã bị tàn phế. Kể từ đó, cô gái tu thuật viên quang đó đã tin vào những lời của nét chữ trên tấm vải trắng, không còn nghe lời của bất kì ai nữa, kể cả bố mẹ cô. Linh của thuật viên quang chỉ thị cho cô ấy không được lấy chồng, cô ấy đồng ý không chút do dự, linh của thuật viên quang chỉ thị cho cô ấy cả đời chỉ mặc đồ đen, cô ấy cũng đồng ý, linh của thuật viên quang chỉ thị phần lớn có thể ứng nghiệm, vì thế cô ấy tin mê khủng khiếp. Có một hôm, trên tấm vải trắng xuất hiện một người thanh niên mặc áo dài trắng, người thanh niên rất điển trai, chỉ thị cho cô bí quyết tu đạo của anh ta, sau đó không ngờ đã trở thành bạn thân, mỗi lần cô thắp hương tĩnh tọa, người thanh niên ấy lại từ tấm vải trắng bước xuống. Cuối cùng bố mẹ cô biết được chuyện này, họ rất đỗi kinh ngạc, cực lực cấm chỉ cô ấy không được luyện thuật viên quang nữa. Sau cùng cô ấy nói, Thần Tiên mặc áo dài trắng kia muốn đưa cô ấy đi, nói xong lời này thì cô ấy liền phát điên.

Tôi cũng không có cách nào phá giải tà thuật mà cô ấy đã trúng, tôi nhìn thấy cô ấy đã có tà nhãn, nhưng không có cách nào dùng chính pháp để phá được. Trong lòng tôi thật sự rất buồn, tôi dùng người giấy viết lên đó ngày giờ tháng năm sinh thần của cô gái đó, cắm vào trong một cái bát đựng gạo trắng, dùng mật pháp của tôi tụng kinh niệm chú để giải thoát tà linh cho cô ấy. Đúng lúc tôi đang tập trung tinh thần thì nhìn thấy một cái bóng màu trắng trôi lững lờ trước mặt tôi, cái bóng màu trắng đó rất rõ nét, không ngờ nó cũng có thể mở miệng nói pháp nữa.

"Liên Sinh, nếu anh cầu an cho chuyện này, vậy thì quá bất công rồi đó." - Người con trai mặc áo dài trắng kia nói. "Anh phá hoại đạo pháp của người ta, dùng tà thuật để thắng họ, cũng giống như làm thân Phật chảy máu, lẽ nào tôi không nên quản chuyện này ư? Lẽ nào là không công bằng sao?" "Không đâu, Liên Sinh, thiên hạ thiện ác nhân duyên, quan hệ đến nhân quả ba đời, cô gái này tuy tu đạo, nhưng kiếp trước chính là tên đại ác ôn đã lăng nhục tôi đến chết, tôi phải chịu nỗi oan tình mà chết, cô ta nợ tôi món nợ mười ba năm, tôi sẽ đày đọa cho cô ta không còn ra hình người nữa, nhân quả báo ứng ba đời này mà anh cầu an cho cô ta, chẳng phải là phá hoại vòng tuần hoàn báo ứng sao, thế thì không công bằng rồi!"

"Oan oan tương báo đến khi nào dứt, anh hãy tha cho cô ấy đi!" - Tôi cầu xin người con trai mặc áo dài trắng. "Tuyệt đối không thể tha. Thật không dễ gì tôi mới tìm được cô ấy đó!" - Anh ta nghiến răng nghiến lợi nói.

Vì điều này mà nội tâm tôi càng thêm nặng trĩu, ngay đến tôi cũng không có cách nào cứu, chỉ có nhìn cô ấy tiếp tục đau khổ thôi.

Luyện thuật viên quang, quỷ linh cũng có thể hiển hiện thơ văn, cho nên người tu phải đặc biệt chú ý, phải nhớ rằng ở trước tấm vải trắng cần treo một tấm bảo gương, trong gương phải yêu cầu thợ thủ công vẽ một con rồng xanh với cái đuôi uốn vòng, trong gương rồng xanh lại vẽ thêm một con thỏ trắng nhỏ xinh, rồng và thỏ đặt cùng nhau, đây chính là tạo hình của gương chiếu yêu. Đặt bảo gương này ở trước tấm vải trắng, ma quỷ bình thường không dám tiến vào. Thuật viên quang hiển hiện thơ văn, có chính có tà, nếu treo bảo gương, tôi tin tưởng rằng linh thuật này có thể phát huy rộng rãi.

Khi luyện linh nhãn, hai mắt nhắm lại, tròng mắt đưa sang trái năm lần, đưa sang phải năm lần, sau đó hơi hé mắt ra, sau đó nhìn ánh sáng ngoại biên, sau đó quăng ánh sáng ngoại biên đó lên trên tấm vải, sẽ sản sinh ra âm ảnh và ánh sáng màu sắc, lâu ngày, tâm thành tắc linh, có thể nhìn ra được những nét chữ lúc ẩn lúc hiện ở trên tấm vải, đây chính là thuật viên quang. Thuật viên quang nói chú như sau: "Thiên Hoàng sắc nhật diễn pháp chân, cửu thiên ngũ sắc tường vân giáng, kim quang giảo khiết càn khôn chiếu, vạn thần phụng triệu phó long hoa, giáng đàn toàn y thiết khẩu đoạn, bất đắc ẩn hình thuyết hư ngôn, Thiên Hoàng Tiên Thần tam thất tự, viên mãn trình quang địa hạ thư. Ngô tấu Hạo Thiên Thượng Đế nguyên thần giáng quang cấp cấp luật lệnh."

Thuật luyện linh viên quang tương đối ít thấy ở Đài Loan, người biết thuật này có thể biết quá khứ vị lai, vận linh đến hai mắt, đưa mắt qua trái năm lần, qua phải năm lần, thế mới là công phu chính xác.

33. Pháp sóng linh trói tâm

Tĩnh tọa luyện linh khó nhất vẫn là trói tâm, trói tâm cũng tức là kiểm soát tâm. Kinh Tăng Nhất A Hàm có viết: "Nếu người chuyên nghĩ tách rời sáu căn tai mắt tai mũi lưỡi thân ý và sáu cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp, cuối cùng sẽ không đọa ác đạo. Mắt vốn thấy sắc mà phân biệt xấu đẹp, thấy đẹp thì thích, thấy xấu thì chê; tai nghe âm thanh mà phân biệt hay dở, thấy hay thì thích, thấy dở thì chê; mũi lưỡi thân ý cũng như thế. Cũng giống như sáu loài thú, tính cách hành vi khác nhau, vì thế chúng khác nhau, nếu có người lấy dây quấn buộc chúng, ví dụ như chó, cáo, khỉ, cá, rắn, chim đều trói buộc lại hết, cùng trói lại một chỗ, rồi đem thả ra, thì lúc ấy sáu loài thú, mỗi con một tính cách hành vi: chó thích đi vào trong làng, cáo thích đi đến nghĩa địa, cá thì thích vào trong nước, khỉ thì muốn chạy vào rừng, rắn độc thì muốn chui vào hang, chim thì muốn bay trên bầu trời, khi ấy, sáu loài thú với tính cách hành vi khác nhau, đều hành động không giống nhau. Giả thiết lại cũng có người, đem sáu con thú này, buộc vào một chỗ, không thể nào chạy lung tung, sáu con thú lúc này dù có chuyển động lặp đi lặp lại cũng không rời xa khỏi chỗ cũ. Lục tình của con người cũng lặp lại như vậy, mỗi cái đều tự chủ, việc của chúng khác nhau, biểu hiện khác biệt, có đẹp có xấu. Vì thế tì kheo, cần buộc lục tình này vào một chỗ. Vì thế các tì kheo, khi tập trung suy nghĩ, ý không rối loạn. Bấy giờ, Ma Ba Tuần xấu xa sẽ gặp bất tiện, mọi thiện công đức đều sẽ thành tựu."

Đoạn kinh văn trên đây chính là Phật Thích Ca Mâu Ni lấy sáu loại động vật để so sánh với xu hướng của tâm. Tự kiểm soát tâm con người đích thực vô cùng khó khăn, đừng thấy những tăng lữ bên ngoài tụng kinh trước Phật đường, nhưng tâm thần của họ có thể giống như bức bích họa ở Tì Lô Thiền Tự tại Hậu Lí, từ lâu đã cưỡi trên lưng ngựa phi nước đại, nhảy vọt lao vào không trung. Muốn đắc "chân quán thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán" quả thực là không hề dễ dàng! Có thể chế tâm thì có thể chế linh, không thể chế tâm thì cũng không thể chế linh. Tâm linh nếu không thể khống chế, người bệnh nhẹ thì cả đời không có định hướng, không có mục tiêu, rất dễ trở thành kẻ vô tích sự. Người bệnh nặng thì giống như kẻ mắc bệnh thần kinh điên cuồng, không thể tự kiềm chế tâm linh của họ, hoàn toàn giống như chuỗi hạt bị đứt tung, không có cách nào thu nhặt sửa chữa được nữa.

Sóng linh sau khi khởi linh phải được giữ gìn ổn thỏa tốt đẹp để nó không bị thất tán, cũng không bị chạy loạn khắp nơi, e sẽ bị quỷ thần trộm mất, khiến cho sóng linh mà bản thân đã vất vả bồi dưỡng bị thất tán, chân khí hao tổn, kết quả là chính mình khởi linh, đến cuối cùng lại bị linh đánh lừa, nhập ma, đi vào con đường sai lầm, tất cả đều vì không thể khống chế được tâm. Nếu có thể chế tâm thì mới có thể tu linh, bằng không chỉ hô to tu đạo, hô rất to rất vang thì cũng có tác dụng gì? Đến lúc đó lại muốn tôi đoán xem tài vận ra sao, quan vị thế nào. Ha ha! Thật nực cười thế nhân không quên danh lợi, khoác lác tu đạo, chẳng phải là xấu hổ cả Phật Bồ Tát ở trên bàn thờ sao!

Pháp sóng linh trói tâm ở mức độ thấp nhất có hai mục. Thứ nhất, chính là lạy Phật. Lạy Phật có thể chế tâm, cũng có thể chữa bệnh, có lẽ có người nói lạy Phật chế tâm thì còn có khả năng, nhưng chữa bệnh thì không thể nào! Tôi nói, lạy Phật có thể khiến người bị khô mắt dễ chịu trở lại, đầu óc sáng láng, người bị lạnh người thì có được khí ấm, và chuyên trị những bệnh mãn tính của dạ dày và bụng. Vì lạy Phật buộc tâm lại, nên khiến cho người mất ngủ có thể ngủ ngon, củng cố gân cốt. Lạy Phật tốt nhất là lạy theo kiểu đầu và mặt chạm vào chân hoặc lạy ngũ thể đầu địa [nằm trên mặt đất, hai chân hai tay và đầu chạm đất] là hữu hiệu nhất.

Tác giả đặc biệt nói kĩ về phương pháp lạy Phật như sau: "Khi lạy Phật, đứng quay mặt về hướng tây, hoặc đối diện với tượng Phật cũng được, nhắm mắt tập trung tinh thần, đứng thẳng người vươn thẳng không cong người, chắp tay đặt trước ngực, hai chân đặt cách nhau khoảng hai mươi phân, đứng nghiêm như bộ đội. Hai khuỷu tay làm thành một đường thẳng, mười đầu ngón tay hướng lên trên, nhắm mắt tập trung tinh thần, ý dừng lại và khí tràn đầy, như không khí trống rỗng vậy. Miệng khép lại, trong tâm nghĩ: nhất tâm đảnh lễ nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, và quán tưởng nét mặt Phật trang nghiêm thần thánh, từ đầu chí cuối chỉ có một suy nghĩ (đây chính là tác dụng trói tâm). Thế rồi chắp tay từ từ đưa lên trên, đến mi tâm [ấn đường, điểm giữa hai đầu lông mày] rồi lên đến đỉnh đầu, rồi lại từ từ hạ xuống ngực, rồi xuống eo, chân, đầu gối, thân cũng từ từ cong xuống, tay phải chạm xuống chiếu quỳ trước, tiếp theo là tay trái chạm xuống chiếu quỳ, sau đó cùng lật ngửa hai bàn tay lên (biểu thị hai tay đón lấy hai chân Phật, cũng biểu thị rằng thân ta cũng như tay ta đều trống trơn sạch sẽ không có thứ dơ bẩn). Lúc này đầu đặt ở giữa hai tay, sau đó lại từ từ nhỏm dậy, hai tay lật lại, tay trái trước tay phải sau, chắp tay đứng thẳng. Cứ như thế lặp lại động tác lạy Phật, cao nhất là đầu, thấp nhất là khí hại, bộ phận dạ dày và ruột đều đã vận động, sự vận động này không những có thể trói tâm mà còn có thể chữa bệnh. Khi lạy Phật, nếu tâm thần còn chạy lung tung thì không thuốc gì có thể cứu, luyện tập như vậy lâu ngày tự có thể chế tâm.

Thứ hai, pháp nhìn chăm chú lễ Phật, hai mắt chúng ta nhìn đôi mắt từ bi của Phật, hai tay đưa lên, tay trái trước tay phải sau, cùng di chuyển tuần hoàn (di chuyển theo hình tròn), chạm năm đầu ngón tay của hai bàn tay vào nhau. Bàn tay di chuyển ngay trước mắt, nhưng mắt phải không bị ảnh hưởng bởi sự di chuyển của tay, và có thể giữ cho mắt không chớp, không di chuyển, không ngừng nhìn chăm chú, không nhìn đi chỗ khác, đây cũng là một động thái có tác dụng trói tâm, nếu có thể rèn luyện lâu ngày, tự nhiên có thể ngồi xuống là tĩnh, không nghĩ lung tung, công phu này hoàn toàn phụ thuộc vào việc luyện tập thường xuyên. Có rất nhiều người nói với tôi rằng họ có quá nhiều suy nghĩ lung tung, tâm không thể tĩnh được, muốn tĩnh tọa ngay cả năm phút cũng không được chứ nói gì đến năm mươi phút, hai tiếng. Sức nhẫn nại của những người này quá kém, người mà ngay cả năm phút cũng không ngồi được thì phải bắt đầu từ việc lạy Phật, mỗi lần lạy 108 lần, rèn luyện tâm nhẫn nại.

Khởi linh phải chế tâm, luyện linh lại càng phải chế tâm, bất luận là Thiền hay Mật đều phải chế tâm, bất luận Hiển hay Mật đến cuối cùng đều phải đi đến con đường chế tâm này. Theo đạo lí mà nói, công phu tu hành, chế tâm là cực kì quan trọng, chế tâm không phải là lời nói trống rỗng, mà thật sự là một dạng công phu. Những linh thị của kẻ hèn này, nếu không có công phu chế tâm thì linh sẽ giống như con khỉ, không thể tự kiềm chế, sẽ triệu gọi lửa và nước trong gió, sẽ gây ra nhiều rắc rối lớn hơn, nhất là cảm ứng giữa linh và linh hoàn toàn dựa vào hoạt động trói linh. Nếu để linh phân tán thì không khác gì linh hồn người chết, như thế thì còn có tác dụng gì nữa chứ? Linh trong thiên hạ đều quy về hoạt động tâm của bản thân, cảm ứng như vậy chẳng phải là bậc chí tôn thiên hạ sao?

Pháp sóng linh trói tâm lâu ngày tự sẽ làm nên công lao lớn, đừng thấy dễ mà coi thường, nó đặt nền móng cho việc thành đạo đó.

34. Thân bí mật của đầu

Đạo pháp vốn không nhiều, hoàn toàn dựa vào tự lực mà tu. Bài viết "thân bí mật của đầu" này, cùng với bài "thân bí mật của thủ thông" là phương pháp khác nhau dẫn đến kết quả tuyệt diệu như nhau. Khi viết bản văn này, trước tiên tôi lấy một ví dụ thật để chứng minh. Còn nhớ trong cuốn "Mạn đàm linh cơ thần toán", tôi có nhắc đến Ngọc Hoàng Cung, đó là ngôi chùa Ngọc Hoàng Đại Đế, trụ trì là sư Thích Huệ Linh. Sư Thích Huệ Linh đã viên tịch từ lâu rồi, tro cốt của ngài ấy được thờ cúng tại Đại Giác Viện trên đường Bình Đẳng ở thành phố Đài Trung, nằm ngay đối diện với bệnh viện Trừng Thanh. Thích Huệ Linh từ nhỏ đã xuất gia, là con người rất lương thiện, nhờ tu thiền, từ sớm đã chứng thân bí mật của đầu. Ngài ấy thấy tăng lữ trong chùa phức tạp nên tự mình trụ trì một ngôi chùa Đạo gia nhỏ, phớt lờ những nhạo báng của con người. Khi tôi mới có được kì duyên, sư Thích Huệ Linh cũng có mặt tại đó, từng lấy hoa thơm của cây đàn hương để thanh tịnh thân thể của tôi. Vì chúng tôi thường xuyên gặp mặt, cho nên ông ấy kể cho tôi biết về "thân bí mật của đầu".

Sư Thích Huệ Linh nói: "Đó là ba năm sau khi tôi cạo đầu xuất gia, có một buổi tối, tôi đang tĩnh tọa trong phòng thiền, hai mắt khép hờ, đột ngột cảm thấy trong phòng tỏa ánh sáng rực rỡ. Trong phòng tôi có bày một tượng Phật nhỏ, cũng thắp hương cả ngày, không có gió mà hương tự lay động, làn khói bay lên không ngờ ngưng lại thành hình đầu của con người, có thể nhìn rõ chỗ nào là mắt tai mũi miệng, rõ ràng một cách dị thường. Trong lòng tôi rất đỗi kinh sợ, bởi vì xuất gia ba năm, hằng đêm tĩnh tọa, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cảnh tượng kì quái như vậy. Đầu người ấy lượn lờ ở trên không, đột nhiên lắc lắc đầu, rồi lại gật gật đầu."

Sư Thích Huệ Linh nói: "Đúng vào lúc này, tôi đột nhiên cảm giác toàn thân từ chân đến đầu có một sự chấn động khe khẽ, cơn chấn động này ban đầu rất nhỏ, sau đó càng ngày càng dữ dội, đến cuối cùng thì giống như trời long đất lở, cả cái giường đệm cũng rung lắc, dường như cả căn phòng cũng đang nhảy nhót vậy, cứ như vậy sau năm phút mới yên lặng trở lại. Tiếp đó, tôi cảm giác thấy đầu mình có thể lắc đầu và gật đầu một cách tự do, từ đó về sau, tôi có được một bí mật, bí mật này rất đơn giản, ví dụ như tôi hướng về Phật Tổ để cầu chỉ thị cho một vấn đề, ý của Phật Tổ đáp là phải, thế rồi đầu tôi tự nhiên gật gật đầu, ý của Phật Tổ đáp là không phải, thế là đầu của tôi tự nhiên lắc lắc, đây chính là thân bí mật của đầu của tôi."

Đến bây giờ, tự nhiên tôi hiểu ra sư Thích Huệ Linh là một người thông linh, thế nhưng sự thông linh của ngài ấy chỉ có thể hỏi được một vài vấn đề đơn giản, không thể hỏi được những vấn đề phức tạp. Giờ đây sư Thích Huệ Linh đã rời khỏi nhân gian rồi, và linh hồn của ngài ấy tôi có thể triệu thỉnh đến, lúc còn sống ngài ấy rất thân với tôi, sau khi chết cũng vẫn rất thân với tôi. Tôi từng dùng hương để gọi ngài ấy đến nói chuyện, ngài ấy nói: "Nhân quả báo ứng thật chẳng sai, tu đạo tĩnh tọa thực cũng khó, làm người chớ làm điều hổ thẹn, lẽ trời sáng tỏ chẳng lọt ai. Liên Sinh ơi Liên Sinh, nay nghĩ lại quá khứ thật xấu hổ, linh giới thật sự giống nhân gian, chỉ khác là sống ở một nhà khác, bây giờ cũng phải chịu sự gò bó như thế."

Người tu linh muốn đạt được thân bí mật của đầu, theo lí mà nói thì còn đơn giản hơn so với thân bí mật của thủ thông. Chỉ cần vận linh đến đỉnh đầu, nghe linh chỉ thị là được, thân bí mật của đầu nếu so sánh với sáu đại thần thông thì thì còn kém rất xa, đây là một trong những pháp hữu vi, thế nhưng so sánh với một số người xem bói bốc quẻ, bốc quẻ hỏi Thần, bói quẻ mai rùa thì linh nghiệm hơn. Nói chung người có được thân bí mật này không thể nói ra, bởi vì linh chỉ đạo ở không trung có nguồn gốc hoàn toàn khác nhau, nếu nói ra e rằng sẽ làm hại đến cơ hội của hai bên. Nếu linh chỉ đạo mà mất thì sẽ sinh ra hiện tượng hỗn loạn, hiện tượng hỗn loạn một khi xuất hiện thì gật đầu lắc đầu sau đó sẽ hoàn toàn không chuẩn nữa.

Tu linh đạt được bí mật của đầu đừng tự mãn vui mừng, bởi vì rốt cục nó vẫn còn cách xa thần thông cảm giác cả quãng đường mười vạn tám nghìn dặm. Lúc này cần tu "tâm an trụ không bụi trần", cái gọi là an trụ tức là tự nhiên khoan khoái, khoan khoái không phải là hưởng thụ, mà là phàm chuyện gì cũng không miễn cưỡng, bình thản đạt đến trình độ "không bụi trần". Tôi cảm thấy cảnh giới "không bụi trần" là một việc vô cùng khó, đạt đến cảnh giới ấy chính là: "Vô sự an trụ ở tự nhiên, tự nhiên hiển hiện Đại Lạc Vương, tâm vốn chẳng buộc cũng chẳng cởi, Bổn tôn quan sát khắp thế gian." Đây là cảnh giới cao nhất của Thiền Mật, không còn bụi trần tự sẽ có được tất cả quang minh, còn có bụi trần thì cho dù có được thân bí mật của đầu cũng không làm nên được việc gì đáng kể, vẫn chỉ ở trong sự hỗn loạn không ngơi nghỉ.

Khi ngồi thiền tĩnh tọa, đầu nhập vào tâm mật, nếu tam quan mở ra, có thể dùng linh khí dẫn mở ra Vĩ lư quan, đi qua Đốc mạch, trên cùng thông mạch Âm duy, tiếp đó đi một mạch thẳng không nghiêng lệch qua Giáp tích quan. Lúc này khi đi qua Cửu phong sơn, phải nhớ vận dụng công phu "không bụi trần" để đạt đến Côn luân đỉnh, gõ thẳng vào Vô cực kim đỉnh. Nếu đạt đến cảnh giới này, tu luyện lâu ngày, có thể biết được mọi điều trên trời dưới đất, có thể gọi là tri thiên mệnh, đến lúc này tự biết được tuổi thọ của cuộc đời, không hề có chỗ sai sót, giữa trời đất âm thầm bí mật ẩn giấu những chân lí vô cùng tận, chỉ cần hơi bóc ra một lớp biểu hiện bên ngoài là có thể đạt đến diệu quả vô cùng, diệu quả ấy chỉ có người tu linh mới có thể có được thôi.

Tôi viết một bài kệ: "Quạ vàng thỏ ngọc tự nhiên thế, An trụ nhân gian chẳng bàng hoàng, Thẳng hướng tu linh tiến vào mây, Gõ mở kim đỉnh cửa vô cực."

Thân bí mật của đầu là thần thông cảm giác, nếu khéo vận dụng có thể biết những lẽ phải của trời, nhưng nếu công phu "không bụi trần" thì chỉ có thể xem bói giúp người ta mà thôi, đạo xem bói không phải là chính đạo, chỉ là bàng môn thôi.

35. Trăng trong nước như ảnh trong gương

Ở chương trước tôi có nhắc đến ba cửa ải Thiên Ma, nói đến tất cả nhập ma tẩu tà, đó là để cảnh cáo tất cả những người tu linh đừng đi vào con đường sai lầm, nếu nhập ma cảnh phải mau tìm minh sư để giải thoát, hoặc chỉ dựa vào pháp vô vi mà tu thì tương đối sẽ không bị Thiên Ma quấy nhiễu. Kẻ hèn này nhận thức rõ rằng ma do tâm sinh ra, cảnh cũng do tâm sinh, ma và Phật đều là tự mình hóa hiện ra, hãy cẩn thận và cẩn thận, ma và Phật không dễ phân biệt!

Trước kia tôi có quen biết một người tu đạo, huệ mệnh của người tu đạo này sáng vô cùng, thế nhưng khi anh đang tu pháp vô tướng, đến tầng cao nhất của Sắc giới thiên, rồi lại nhập vào Vô sắc giới thiên, khi nhập Vô sắc giới, anh phát hiện ra thế giới này trống rỗng chẳng có gì cả, cũng gần tương tự như cảnh giới trong mơ, hầu như đều là cảm giác tồn tại trong tích tắc mà thôi, không có thân thể, cố nhiên trọng lượng cũng có thể vạn sự tùy tâm muốn, nhưng rốt cục đều là cảnh được hóa ra. Anh quan sát bản thân, cảm thấy thân thể chính mình cũng không có gì, anh ấy không có chỗ để đặt chân, đi đến chỗ nào cũng không thể tự biết, mù mịt không biết đi đâu về đâu, tư duy đều trống rỗng, có sương mù trong không trung, màu trắng và vô vị, anh cảm giác thế giới này dường như chẳng có gì hứng thú cả, anh không biết tu hành đến đây thì có lợi ích gì chứ? Đây là cảnh tượng của thế giới không luân tầng thứ ba đó! Anh ấy tả xung hữu đột, nhưng cũng không đi ra ngoài phạm vi này được, ngày ngày như ở trong mơ, không phân biệt ban ngày ban đêm, mọi thứ đều là huyễn, cuối cùng anh không thể kiên trì được nữa, đã nhập vào ma cảnh rồi. (Kẻ hèn này cho rằng đây là cửa cao nhất trong ba cửa ải Thiên Ma, vì không hiểu đạo lí chân không diệu hữu, thực hư chân như, cho nên tẩu hỏa nhập ma, nếu hiểu rõ chân không diệu hữu, có thể nhập vào giới La Hán "tùy thuận", thành tựu quả A La Hán, cho nên một bước đi sai là sẽ nhập ma.)

Khi viết đến đây, trong không trung có lời bảo tôi: "Là diệu hữu sợi lông chẳng có, là chân không nhân quả rõ ràng." Đệ tử tu linh xin hãy hiểu rõ câu nói này, nếu hiểu được dụng ý thật sự thì cách giới A La Hán không còn xa nữa, linh hồn chạy đông chạy tây, hoặc ra nơi khoáng dã, hoặc chạy đến cam tuyền, hãy cẩn thận đừng đi sai đường.

Hơn nữa có người tu đạo thường hay có huyễn cảnh xuất hiện, nếu xuất hiện huyễn cảnh thật ra cũng không cần kinh hoảng sợ hãi. Có người nhìn thấy một con quỷ khổng lồ, trên đầu mọc sừng, mắt như sắt như đồng, mặt xanh nanh vàng, đạo nhân mỗi lần nhập định, quỷ tà ác ắt sẽ quan sát người đó, người đó có thể nhìn thấy trong con mắt ác quỷ đầy những vằn máu đỏ, cũng có khi nhìn thấy hai người nam nữ mặc quần áo cổ trang, mặt cũng xanh, áo choàng dài bay bay, nhìn trừng trừng giận dữ, có khi duỗi ra những ngón tay dài muốn điểm lên người tu đạo, người tu đạo kinh hoàng thất sắc, tỉnh khỏi định, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. Tôi xin có lời khuyên những người như vậy thường xuyên tu pháp sám hối, dùng pháp cam lộ thủy thường xuyên thí cúng dường, hồi hướng oan nghiệp ba đời. Ở đây là trong kiếp trước có mối oan kết chưa trừ bỏ, tu đạo sẽ xuất hiện chướng ngại, người tu khi tu đạo mà oan kết kiếp trước chưa giải cho nên ma quỷ mới đến để đòi nợ. Cũng có người khi nhập định nhìn thấy mĩ nữ xuất hiện, những mĩ nữ này giống như tiên trời, từ không trung nhẹ nhàng bay xuống, mang theo cỏ ngọc nước tiên, có khi cũng tạo ra đủ loại sắc tướng, liên tục đưa tay ra nắm lấy vạt áo trước của người tu đạo, hoặc làm ra vẻ nũng nịu, rất có sở trường mê hoặc, lúc thì ngả sát vào người, lúc thì ngồi trên những cỗ xe lộng lẫy đến. Nếu người tu đạo thấy sắc mà tự mê, theo vào trong xe, đi theo vào trong rừng, đi vào trong ngôi nhà hoa lệ, lúc này thì đã đánh mất bản tâm mà mê muội vào ma quỷ rồi, đây cũng chính là tẩu hỏa nhập ma, ở ranh giới của thần hồn điên đảo, vẫn còn tự cho mình là người trung gian của Thần Tiên. (Nếu thấy sắc tướng, có thể dùng Đạo công để xua đuổi, nếu xua đuổi mà ma vẫn không đi, có thể coi đó là vũ điệu của đầu lâu xương sọ, nếu tâm bất động thì tự sẽ tránh được, không vì sắc tướng đó mà bị mê hoặc. Thấy ác quỷ hoặc thấy mĩ nữ, dù những gì nhìn thấy khác nhau, nhưng thật ra đều là chướng ngại, nếu thấy mà như chưa thấy, vẫn không hề nao núng, bão nguyên thủ nhất, thì có thể phá được cửa này. Nếu tâm động thì sẽ nhập ma, miệng sẽ nói mê, thần trí rối loạn, không thể kiểm soát.)

Người khởi linh khi mới bắt đầu động linh thể, cũng phải đặc biệt đề phòng gặp ma, nhất là người trẻ tuổi tâm tính bất định, chưa biết gì về linh giới, không có thề nguyện lực đối với tu đạo, không có sức bền bỉ, chỉ là có chút hứng thú hiếu kì mà thôi. Cần phải biết rằng hiếu kì và hứng thú chỉ là nhất thời, nếu linh thật sự khởi động mà không có tâm bền bỉ thì phiền toái rất lớn, linh hồn con người không có cách nào tự chủ sẽ dễ bị những âm linh khác nhập vào người, thế thì khả năng nhập ma rất lớn. Tôi có quen một người tu đạo, sau khi anh ta tu được linh thể thì lập tức từ bỏ, không nghiêm chỉnh tu thân mình, kết quả là lọt vào mắt một hồn ma nữ, hồn ma nữ liền nhập vào người anh ta. Hồn ma nữ này tự xưng là Đào Hoa Tiên Tử, có duyên với người tu đạo này, đưa người tu đạo đi du lịch khắp nơi, kết quả là người tu đạo đã bị mê hoặc dưới tay của Đào Hoa Tiên Tử, tinh thần ngẩn ngơ. Người khác không nhìn thấy, nhưng người tu đạo có thể nhìn thấy, bề ngoài như kẻ thần kinh thất thường, miệng cũng liên tục lẩm bẩm những lời nói mê, tự xưng là lên núi để đi tu đạo, thật ra là tu đạo gì chứ? Nhập ma cũng không tự biết nữa! (Có một số hồn ma cướp tinh khí của con người, thích tự xưng là Thần Tiên của núi nào đó phủ nào đó hạ phàm, thật ra chỉ là ma quỷ có được linh khí mà thôi, những hồn ma này thành yêu tinh có thể mê hoặc tâm tính con người, có thể vào loan đường mượn kê bút để đưa ra thơ phú, nhập vào thân kê đồng để nói xằng nói xiên, khi khởi linh nếu không phải là chính tâm thành ý thì rất dễ bị ma dẫn dắt. Cho nên tôi có lời khuyên con người, học khởi linh nhất thiết phải chính tâm thành ý, phụng thỉnh Tiên thật đến để khởi động, sau khi khởi động linh, vẫn còn phải thường xuyên nghe những lời giáo huấn của Thượng Tiên, nếu những lời của Thượng Tiên thật sự hợp lý thì đó mới chắc chắn là Tiên thật. Còn nếu ngược lại với kinh với đạo, hành vi dị thường quái đản, thì e rằng chỉ là ma giả Tiên, nhất thiết phải cẩn thận! Cẩn thận!)

Tôi đọc Kinh Xuất Diệu thấy rất cảm động, sự phân biệt thật giả Ma - Phật nằm ở đây.

“Người ngu phụng sự kẻ minh trí trọn đời, mà tự mình chẳng biết được đạo pháp chân chính, tựa như ăn uống cả ngày mà chẳng biết mặn nhạt.

Kẻ trí phụng sự bậc Thánh hiền trong giây lát thì liền nhận rõ được đạo pháp chân chính, giống như đầu lưỡi chỉ cần chạm tới đồ ăn là biết tới cay ngọt.

Người khôn, nghiền ngẫm một câu nói rồi diễn giải ra trăm ý nghĩa; kẻ ngu đọc tụng nghìn câu, không hiểu được một nghĩa. Người ngu biết bản thân mình ngu sẽ gặp đưuọc việc lành, người ngu tự xưng là có trí tuệ thì đúng là người ngu trong số những người ngu.”

36. Nhập minh xuất khổ tiêu nghiệp chướng

Khởi linh tu công phu tĩnh lặng, tại sao lại tẩu hỏa nhập ma? Đó là vì có dính líu đến nhân quả ba đời, nguyên nhân thật sự của nó nằm ở bản thân linh hồn có đầy đủ ba đời, vì sự biến hóa của nó bị nghiệp chướng kiếp trước trói buộc, cho nên người khởi linh phải tiêu nghiệp chướng, tiêu nghiệp chướng phải nhổ hết tất cả oan nghiệp, vì thế, tu luyện nhập minh xuất khổ là điều cần thiết. Muốn biết kiếp trước có nghiệp chướng gì ư? Trước tiên, có thể vào lúc 11 giờ tối hàng ngày, quay mặt về hướng nam, cầm hương cung kính niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát một trăm lần, sau đó thỉnh Bồ Tát chỉ thị cho biết oan kết tiền kiếp, làm như vậy liên tục trong bảy đêm, đến đêm ngày thứ bảy, Địa Tạng Vương Bồ Tát chắc chắn sẽ ở trong mơ nói rõ cho biết oan kết tiền kiếp.

Trước đây tôi niệm kinh Địa Tạng, niệm đến khi rơi vào trạng thái nửa hôn trầm, thỉnh thoảng nhìn chăm chú vào giữa những hàng chữ, mỗi một chữ đều hóa thành một bông hoa sen trắng đẹp đẽ, sự lộng lẫy của hoa sen ấy là xuất sắc, trên đời hiếm thấy. Thỉnh thoảng vì sức tập trung mà tôi cũng có thể nhìn thấy các tướng thê thảm đáng sợ ở âm phủ, ví dụ như quỷ tóc đỏ dữ tợn hiện hình moi tim lột da, v.v… Khi ấy, sinh tử của con người đều là sự tụ hợp và phân tán của linh hồn mà thôi, đầu tiên tụ hợp để chịu bị giết mổ, sau đó lại sống lại để lại chịu hình phạt, hợp rồi lại tan, tan rồi lại hợp, chết rồi lại sống, sống rồi lại chết nghìn vạn lần, tất cả đều diễn ra trước mắt lặp đi lặp lại, thật sự khiến tôi cảm thấy tam nghiệp khó tiêu. Muốn tiêu tam nghiệp, đầu tiên phải học được tam nghiệp thiện pháp, tôi dạy người ta tam nghiệp thiện pháp như sau:

Thứ nhất, niệm Phật. Niệm Phật là công phu khẩu thiện. Khi niệm Phật miệng đọc Phật hiệu, Phật chính là hồng danh đại đức thiện căn bản, bậc thiên hạ đệ nhất trí, niệm Phật cần niệm Nam mô A Di Đà Phật. (Niệm trăm lần, nghìn lần cho đến vạn lần, ban đầu có thể niệm ít, sau đó có thể dần dần tăng lên, nhưng phải kiên trì bền bỉ, không được lúc làm lúc nghỉ, lúc nhiều lúc ít. Cách để ghi nhớ số lượng là dùng chuỗi hạt, hoặc dùng que hương, khi niệm Phật âm thanh không cao không thấp, niệng từng chữ cho tai mình nghe, in vào trong tâm, khi niệm thầm dù tai không nghe thấy, nhưng tâm đã biết rồi.) Niệm xong Nam mô A Di Đà Phật thì lại niệm Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần, rồi niệm Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát ba lần, rồi niệm Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ba lần. Sau đó phát nguyện hồi hướng: "Nay con xưng niệm A Di Đà, công đức chân thật danh hiệu Phật, mong Phật từ bi mà thu nạp, chứng con sám hối và nguyện cầu, con xưa đã tạo bao ác nghiệp, đều vì vô thủy tham sân si, đều sinh ra từ thân ngữ ý, nay con hết thảy xin sám hối, mong khi con lâm chung mệnh tận, trừ diệt hết thảy mọi nghiệp chướng, khi ấy gặp được Phật Di Đà, lập tức vãng sinh an lạc địa. Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật tịnh độ, trên báo bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ, nếu có kẻ thấy nghe, đều phát tâm bồ đề, hết một báo thân này, cùng sinh cõi Cực Lạc, thập phương tam thế nhất thiết Phật, chư tôn Bồ Tát Ma Ha Tát, ma ha bát nhã ba la mật." (Linh tông của chúng ta mặc dù tu linh, nhưng cũng cần niệm Phật, bởi vì niệm Phật là thiện công đức, niệm Phật thì trong miệng không còn ác thanh, có thể tiêu nghiệp chướng, tăng phúc huệ. Khi luyện linh cũng có thể tụng thầm Phật hiệu, khi gặp huyễn cảnh hãy dùng Phật hiệu làm tiếng gầm sư tử, hét lên âm thanh lớn để hàng phục tất cả ma.)

Thứ hai, niệm chú. Nếu phát hiện có oan kết tiền kiếp, phải niệm chú Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản vãng sinh tịnh thổ đà-la-ni: "Namo Amitābhāya Tathāgatāya Tadyathā Amṛtod Bhave Amṛta Siddhaṁ Bhave Amṛta Vikrānte Amṛta Vikrānta Gāmini Gagana Kīrti Kare Svāhā." Chú này còn gọi là chú Vãng sinh, người tụng chú này, A Di Đà Phật sẽ thường trụ đỉnh đầu, không để cho kẻ thù làm hại, đời này được yên ổn, khi chết tùy ý vãng sinh, nếu niệm đủ hai trăm nghìn biến thì khởi linh không sợ bị ma đến dẫn dắt, không sợ nhập ma, khi luyện linh thường trì chú này, thân cũng không nhập tà, đây cũng chính là quán thanh tịnh về thân. Niệm chú được ba trăm nghìn biến thì tất cả kẻ thù đều hóa thành vô hình vô ảnh, lúc này tĩnh tọa tâm cũng bất động, không sợ bất kì điều gì. Chân Phật Tông trì chú là báu vật của pháp tạng thân bí mật, người người đều phải trì chú, chú lực nhập thân, thân có thể hóa quang, chú lực nhập linh, linh có thể treo lơ lưng ở hư không, chú lực nhập ý thì đắc đại thần thông, môn công phu trì chú, nếu không thọ trì thì không phải là người của Chân Phật Tông.

Đạo gia Thần Tiên phái coi trọng nhất là chú Kim quang, chú Kim quang như sau: "Thiên địa huyền tông, vạn khí chi căn, sắc thu vạn kiếp, chứng ngô thần thông, tam giới nội ngoại, vi ngô độc tôn, thể hữu kim quang, phúc hộ ngô thân, thị chi vật kiến, thính chi vật văn, bao la thiên địa, dưỡng dục quần sinh, trì tụng nhất biến, thân hữu quang minh, tam giới thị vệ, ngũ đế ti nghênh, vạn thần triều lễ, dịch sứ lôi đình, quỷ yêu tang đảm, tinh quái vong hình, nội hữu phích lịch, lôi thần ẩn danh, động cấp biến triệt, ngũ khí huy triệt, kim quang tốc hiện, phúc hộ chân nhân." Chú này có thể phối hợp với đại pháp Bí đinh giáp trong Kinh Dịch tu thông minh thể.

Thứ ba, bái sám. Bái sám thông thường của Phật giáo cũng dùng để tiêu nghiệp chướng, bái sám có thể dùng thủy sám, Lương Hoàng sám, nhập minh xuất khổ tiêu nghiệp chướng. Bái sám nên tự mình bái thì có hiệu quả nhất, có thể lập nên ba bài vị bằng giấy hoặc gỗ, bài vị một viết "tiền thế lũy kiếp nghiệp chướng oan quỷ bái sám hóa viên linh vị", bài vị hai viết "kim thế thân khẩu ý tam nghiệp tịnh hóa viên linh vị", bài vị ba viết "nhất thiết hữu tình phổ hóa công đức viên linh vị". Ba bài vị này dùng ba bộ thủy sám pháp để hóa, phổ thí tất cả hữu tình, tiêu trừ nhân ác quả ác của bản thân. Bái sám tối kị mời ni cô hòa thượng bình thường, những người này trong miệng nỉ non một hồi, vừa hát vừa niệm, tâm và khẩu không thống nhất, giống như diễn kịch vậy, cho nên tôi khởi xướng là tự mình niệm, chữ nào không hiểu, phát âm không đúng thì không cần căng thẳng, bởi vì một chữ "thành tâm" là quan trọng nhất, có tâm mà vô âm thì cũng không cần căng thẳng, huống hồ nếu là sám hối thật sự, Thần cõi trời sẽ sớm biết thôi!

Ba phương pháp tiêu nghiệp chướng này mặc dù đơn giản, nhưng phải duy trì được bền lâu cũng là rất khó. Hai phái Hiển Mật đều phải tu trì, không thể thiên vị, phương pháp này không phải là phương pháp của Tịnh độ tông, cũng không phải là phương pháp của Mật tông, mà là bất kì tông phái nào đều phải làm như vậy. Cần biết rằng Đạo gia Phật gia dù phân thành rất nhiều tông phái, nhưng kết quả vẫn là trăm sông đổ về một biển, một pháp môn, rất nhiều con đường đi đến, tâm vô ngại đà-la-ni pháp là bí pháp chí cao vô thượng của Lư Thắng Ngạn tôi.

37. Siêu năng lực thiên nhãn thông

Thiên nhãn thông có thể nhìn sự vật trên trời dưới đất. Người có thiên nhãn, trên có thể nhìn thấy thiên cung, dưới có thể thị sát địa phủ, con mắt này không phải là mắt phàm, mà là một dạng linh nhãn. Linh nhãn này chính là một trong những thần thông bí mật, vượt quá năng lực bình thường, con người phàm phu không biết chuyện này, cho rằng là vô căn cứ, thật ra siêu năng lực này là một dạng sức mạnh xuất vi nhập mật thần kì nhất. Ánh sáng của thiên nhãn đến từ linh quang vượt lên trên ánh sáng bình thường, trở thành một dạng xạ tuyến, não của con người giống như điện đài, phản xạ lên mắt, tự nhiên tạo nên siêu năng lực đặc biệt - thiên nhãn thông.

Nhìn chung mà nói, thiên nhãn thông có thể nhìn khí, nhìn khí chính là pháp huyền không, một trong những pháp quyết của Cửu Thiên Huyền Nữ. Sự quan sát của pháp huyền không chỉ cần phóng mắt vào biển mây, vận dụng bí quyết huyền không, có thể quan sát thiên văn địa lí, lành dữ họa phúc của con người cũng có thể liếc qua một cái là biết hết. Tuy nhiên, pháp huyền không suy cho cùng cũng chỉ là công phu bước đầu của thiên nhãn thông mà thôi, người có thiên nhãn thông có thể thấy Thần thấy quỷ, có thể nhìn được 36 cung thiên cang, có thể nhìn thấy 72 tầng địa sát, muốn xem một thiên cung nào đó, tự nhiên các thiên cung khác sẽ biến mất, thành tựu cao nhất là có thể tận mắt thấy Phật quốc và các Bồ Tát, Thiên Tiên Kim tiên, Đại La Thiên Cung Thần Tiên có thể trở thành quyến thuộc bạn bè thân thích. Tu được thiên nhãn thông cũng có thể nói là ngày chứng đạo không còn xa nữa, có thể kì vọng thành Phật thành Tiên, thần thông này không thể coi thường.

Thiên nhãn thông không phải là con mắt âm dương, mắt âm dương phần lớn là do trời sinh, thành tựu mắt âm dương có thể nhìn thấy Âm Thần, nhìn thấy ma quỷ, nhìn thấy Địa Tiên. Mắt âm dương được hình thành một cách tự nhiên do may mắn bẩm sinh, đó là lí do mà tần số linh tính của nó tương đối gần với không gian bốn chiều của linh khí. Nếu tần số phù hợp thì hoàn toàn rõ ràng vô cùng, nếu có sai lệch tần số thì sẽ mờ nhạt. Trình độ của mắt âm dương có nông sâu khác nhau, người có con mắt âm dương ở nước ta tôi có quen hai người. Nhìn chung mà nói không hề có sai sót, người này có thể phân biệt được chất liệu của quần áo mà các âm linh mặc, có thể thấy đó là mắt âm dương ở trình độ cao, có một số con mắt âm dương chỉ có thể nhìn thấy một hình thái, nếu nghiêm túc tu linh có thể đạt đến trình độ nhìn được rõ rệt hoàn toàn, nhưng đến lúc ấy cũng đừng sợ hãi, nhìn quá rõ ràng thật sự cũng khiến con người thấy sợ.

Thiên nhãn thông thật sự có khác mắt âm dương, bởi vì mắt âm dương không nhìn được thiên cung, không có cách nào nhìn thấu và không có cách nào thâm nhập những bí mật thâm sâu. Để có được thiên nhãn thông là rất khó, sự xuất hiện linh quang của nó cũng có sự phân biệt lớn nhỏ, lớn thì toàn thân tỏa sáng bao trùm cả bốn phương trên dưới trời đất vũ trụ, nhỏ thì nhìn thấy thân thể tồn tại ở đâu, nếu đầu phát sáng có thể nhìn thấy thiên đường, nếu thủy luân hiện ánh sáng thì chỉ có thể nhìn được âm giới tối tăm, nếu không luân tỏa sáng thì có thể tùy ý tự quan sát khắp mọi nơi. Thiên nhãn thông được tạo ra bởi linh vận chuyển đến mắt, linh vận đến mắt cần có thể hóa quang, nếu hóa quang thì sẽ nhìn được quỷ thần, bởi vì quỷ thần chính là một dạng quang khí, nhanh như điện, duy có sự vận động của linh hồn mới có thể dựa vào công lực này để mà đạt được thành tựu siêu năng lực.

Trình tự tu luyện thiên nhãn thông như sau:

Thứ nhất, ma kính pháp. Chúng ta biết rằng con người sống tại thế gian, nghiệp chướng vô cùng nặng, muốn hiện ánh sáng thì nhất thiết phải lau gương, lau gương là để khiến cho tâm gương sáng lên, như mặt nước hồ tĩnh lặng không có sóng, lọc qua lọc lại hết bụi trần, vùi sâu dưới đáy hồ. Nếu mặt hồ bình lặng thì cũng giống như tâm gương, tự nhiên có thể tỏa sáng, ánh sáng phát ra, tự có thể hiển hiện vạn vật. Pháp này nói ra thì dễ, nhưng làm thì cũng khó khăn trùng trùng. Công phu lau gương hoàn toàn dựa vào tĩnh tọa để lọc bụi, hơn nữa còn phải tu công đức, tăng phúc huệ để cầu ánh sáng cát tường, ánh sáng cát tường chính là nhật nguyệt tinh quang. Công phu tĩnh tọa lớn thì ánh sáng nhật nguyệt sâu, nội ngoại đều có, thành tựu rất nhanh. Nếu lau gương tới khi ánh sáng xuất hiện thì Phật tính sẽ xuất hiện, một hạt bụi cũng không nhiễm, có thể đạt được thiên nhãn thông.

Thứ hai, kim luân hiện quang pháp. Nhìn chung, linh hồn xuất hiện từ hải để luân, nếu nhân duyên rất tốt thì một lúc là xông đến kim luân, có thể vẽ nên một vòng ánh sáng màu vàng kim, vòng ánh sáng vàng kim vẽ trên giấy trắng, ở trên viết bốn chữ "ma phạt đặc đậu", viết "ma phạt đặc đậu" từ trái qua phải, treo tờ giấy trắng lơ lửng ở không trung hoặc dán lên tường, hai mắt nhìn chăm chú vào vòng ánh sáng, sau đó chuyển động nhãn cầu, niệm nhanh bốn chữ "ma phạt đặc đậu", lúc này đưa linh từ hải để luân lên đến kim luân, nếu phá được thổ luân nhập thẳng vào trong kim luân thì chắc chắn có thể nhìn thấy vòng vàng phóng quang, có Hàng Phục Tứ Ma Đại Lực Kim Cang Hỏa Luân Bồ Tát xuất hiện. Nếu rèn luyện như vậy lâu ngày, có thể từ trong vòng ánh sáng của kim luân nhìn thấy người việc sự vật mà mình muốn thấy, có thể nhìn thấy bản đồ thiên cung, nhìn thấy đường lối tu đạo, nhìn thấy âm phủ người âm, nhanh chóng có thể vận dụng siêu giác của linh hồn mà có được thiên nhãn thông.

Thứ ba, Phật tính hiện quang pháp. Con người bình thường có quan niệm rằng thiên nhãn thông siêu năng lực có thể gặp mà không thể cầu, đặt biệt là trong Phật môn, cho rằng thiên nhãn thông chính là sự xuất hiện của Phật tính, tự nhiên mà đắc, cầu cũng vô ích. Trên thực tế, cách nói này cũng đúng, điều này là tự nhiên mà có, không phải cầu mà có, nếu Phật tính phóng quang thì rốt cục sẽ có được thần thông thôi! Phật tính phải thế nào mới hiện ánh sáng, tôi vẫn cho rằng phương pháp Mật tông Đại Thủ Ấn và Đại Viên Mãn là một con đường tắt, Mật tông Đại Thủ Ấn và Đại Viên Mãn cộng thêm tam quán đảnh, phối hợp với sự vận động của linh, đây đúng là như hổ thêm cánh, ngựa thần lướt gió tung mây, Phật quả sớm chứng, thiên nhãn sớm thông. Phương pháp thần bí của Linh Tông này, sự vận chuyển của linh nhãn không phải là điều mà Hiển giáo có thể lĩnh hội được, càng không phải là điều mà các tín đồ Cơ Đốc hay Thiên Chúa, các thiên đường giáo phái khác có thể tin truyền.

Sau khi khởi linh, dựa vào niệm lực siêu nhiên của sức mạnh tinh thần, có thể khiến linh hồn của bản thân hóa quang, thành thể ánh sáng, ánh sáng này nếu đầy khắp toàn thân, có bản lĩnh thông thiên nhập địa, dùng linh lực của mắt để nhìn thiên thượng, thiên thượng có ánh sáng xuất hiện, nhìn đất, dưới đất ánh sáng xung lên, thiên cung địa phủ đều không lọt khỏi thiên nhãn thông của chính mình, thành Phật thành Tiên, hoàn toàn tự do, tự nhiên có thể kì vọng quả vị. Tác giả cho rằng nếu đắc được thiên nhãn thông, các pháp thần thông khác chẳng qua cũng chỉ là tài vặt như sâu bọ mà thôi.

38. Siêu năng lực thiên nhĩ thông

Còn nhớ lần đầu tiên tôi nghe được âm thanh của linh, tôi từng lúng túng không biết phải làm sao, âm thanh ấy dường như rất xa, cũng dường như rất gần, lại dường như đến từ nội tâm của chính mình. Âm thanh ấy giống như từ trong không trung truyền xuống, âm thanh rất nhỏ và cao, giống như âm thanh của điện thoại đường dài trong ống nghe điện thoại vậy. Đối mặt với cảm giác đột ngột ban đầu ấy, tôi thực sự không có cách nào miêu tả được tâm trạng của mình khi ấy, vừa sợ vừa mừng, vừa kì quái vừa kinh hoảng. Nhĩ thông của tôi đến vô cùng đột ngột, giống như tai bị nứt ra vậy, sau đó sinh ra tiếng điện thoại u u, cảm giác của tôi chính là như thế, xin thứ lỗi vì tôi không thể nói dối, thật sự chính là rất bình thường như vậy thôi.

Cái gọi là thiên nhĩ thông chính là có thể nghe thấy lời của quỷ thần, có thể nghe thấy những âm thanh của Thần Tiên từ hư không truyền xuống, những âm thanh này thiên kì bách quái, truyền đến một dạng ngôn ngữ mà người có thiên nhĩ thông có thể nghe hiểu được. Thiên nhĩ thông không những có thể nghe được ngôn ngữ của Thần mà còn có thể nghe được ngôn ngữ của Phật, âm thanh của bốn phương trên dưới khi suy nghĩ thật kĩ lưỡng tỉ mỉ đều có thể nghe hiểu được. Có người nói đây là thiên lí nhĩ, đúng vậy, nó chính là thiên lí nhĩ. So với thiên nhãn thông thì thiên nhĩ thông tương đối dễ tu thành công hơn, thiên nhĩ thông cũng có thể xem như là sự truyền đi của tần số rung động của lực ý thức. Cái mà nó truyền đi không phải là ánh sáng, cũng không phải là nhiệt, mà là năng lượng âm thanh, năng lượng siêu âm.

Thiên nhĩ thông chân chính không phải là pháp nhĩ báo, thiên nhĩ thông gần như là thần thông thù thắng của pháp vô vi thượng thừa, còn pháp nhĩ báo là một trong những pháp thuật hữu vi hạ thừa mà thôi. Nhìn chung, pháp nhĩ báo có pháp linh đồng nhĩ báo, pháp quỷ ngữ nhĩ báo, pháp lục đinh nhĩ báo, pháp thiên lí nhĩ báo, pháp Cửu Thiên Huyền Nữ nhĩ báo, pháp tam đài nhĩ báo, pháp Thần tướng nhĩ báo, v.v… Tu luyện pháp nhĩ báo tương đối đơn giản, đại bộ phận đều dùng cách truy thần, minh nhĩ, khai hầu, đính minh - thuộc về pháp nhĩ báo Thần tướng, rồi còn phương pháp truy hồn, hiện hình, thu hồn, khai hầu - là pháp nhĩ báo quỷ ngữ và pháp nhĩ báo linh đồng, ngoài ra còn dùng phương pháp súc địa, niệm thức, kết duyên, khai họng - là phương pháp của pháp nhĩ báo thiên lí. Những pháp này nhìn chung mà nói thì đại thể là giống nhau, chúng có trợ giúp cho việc tu đạo, nhưng không phải là thiên nhĩ thông căn bản. Thiên nhĩ thông siêu năng lực là một trong những đại thần thông bí truyền của Phật gia, hoàn toàn là niệm lực nhập vào hư không, là đại công phu trói mọi ý niệm thành một. Pháp nhĩ báo thông thường với ngôn ngữ của quỷ thần không thể so sánh được. Ngôn ngữ của nhĩ báo quỷ thần không thể thông khắp đến pháp giới, chỉ có thể tương thông với một vài linh quỷ mà thôi, năng lực của nó dù cao hơn so với người bình thường nhưng nếu so sánh với Phật Bồ Tát nhất tâm bất động thì còn kém rất xa. Pháp nhĩ báo không phải là thiên nhĩ thông, tôi nhận định như vậy.

Còn nhớ vị giáo chủ đầu tiên của phái Côn Luân Đạo gia là tiên sinh Lưu Bồi Trung sau khi mọc cánh thành Tiên, môn đồ của Lưu Bồi Trung ở miền trung đến tìm tôi, họ chưa từng nói ra lai lịch, thế nhưng Lưu Bồi Trung chân nhân đã từ không trung truyền ngôn ngữ xuống rằng: "Côn Tiên đến đi không tung tích, Côn tức đạo sơn chín ngọn cao, Mão Kim đạo trưởng ai chẳng biết, hóa thành gió Tiên Tử Kim Tiên." Cả đời tôi chưa từng gặp Lưu Bồi Trung, nhưng cặp ria mép của Lưu Bồi Trung thì tôi nhìn thấy rất rõ ràng, tôi hỏi: "Đạo nhân là ai?" Từ không trung, ngài ấy cưỡi một đám mây trắng từ từ hạ xuống nói: "Mão Kim đạo trưởng, bồi dưỡng công minh." Lời này truyền thông qua tôi, các môn đồ của Lưu Bồi Trung hết sức sửng sốt, người nào người nấy chắp tay nghênh đón sư phụ đã hạ cố đến chơi, Lưu Bồi Trung nói: "Trong thân người có một viên ngọc, trên trời cũng có một viên ngọc, dưới đất cũng có một viên ngọc, viên ngọc này cũng chính là tâm cảnh vô hình, đem viên ngọc của nhân tâm hợp với ngọc của thiên tâm thì gọi là trời người hợp nhất. Đem nhân ngọc, địa ngọc, thiên ngọc ba thứ hợp lại chính là tam nguyên, tiểu tam nguyên là Nhân đạo, đại tam nguyên là Thiên đạo, chứng thông tam nguyên tức là đắc đạo, chính là Thần Tiên. Thế còn viên ngọc trên mặt đất giấu ở chỗ nào? Nếu tìm được cũng xem như là Thần Tiên ở lục địa, có thể nghìn vạn năm làm Chuyển Luân Pháp Vương Thiên Tôn, sống thọ cùng trời đất. Còn như Lư Thắng Ngạn, khởi linh mà ông ấy tu có nhân duyên lớn với môn đạo công của ta, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là chân khí của cao nhân tiền bối thuở sơ khai hỗn độn, các môn sinh không được coi thường. Ta trở về núi đạo Côn Luân, các con hãy tự thu xếp ổn thỏa." Lưu Bồi Trung đạo trưởng cưỡi mây trắng rời đi, các học trò của ngài ấy nghe tôi truyền ngôn ngữ đến, nghe đến ngây cả người, có một người trong số đó là Lại Minh Cát rất thành kính tín đạo, đạo căn thâm hậu, cũng được Lưu Bồi Trung khích lệ. Sự việc này xảy ra vào khoảng năm Dân Quốc 64 (1975), tôi đặc biệt ghi lại.

Do vậy có thể chứng minh rằng, thiên nhĩ thông không phải là pháp nhĩ báo, muốn tu thiên nhĩ thông, tôi thuật lại tỉ mỉ như sau:

Thứ nhất, trước tiên phải đóng cửa, không nghe thấy những âm thanh hỗn tạp ở bên ngoài, trì một câu chú: "Nhị hầu giao thái, thần tư triệt thanh, thiên địa hợp ngã, như ý thần thông." Sau dó lại trì: "Ngọc âm nhiếp tử khí, càn la hằng na cang, kim đồng chuyển ngữ lai, nhất tâm thái cực tại, linh thông bát phương thần." Thuật pháp thiên nhĩ thông có nhân duyên bẩm sinh rất sâu, cưỡng cầu thường không thể có được, thường xuyên tu luyện pháp này, nhất định có thể đạt đến trình độ thiên nhĩ thông ngôn ngữ tương thông, nếu trong một đời tu chưa đắc, cũng có thể kiếp sau lại có nhân duyên với thiên nhĩ thông. Nhìn chung mà nói thì Phật tính tâm hương, pháp nhĩ thông then chốt huyền bí này đều là một trong những đại pháp thần thông bí mật của Chư Phật Như Lai. Có người tu thiên nhĩ thông, thiên nhĩ thông không thành nhưng lại đắc pháp nhĩ báo, trường hợp này cũng có, còn như đào liễu quỷ thần thông cũng là một trong những pháp nhĩ báo. Thiên nhĩ thông không dễ mà có được, nếu có người muốn tu pháp nhĩ báo, xin đọc cuốn sách "Siêu giác của linh hồn".

Thứ hai, vận linh xuất khỏi hải để luân, tập trung suy nghĩ linh từ trong lỗ tai ra vào, lúc này tai phải chuyển động vo ve giống như âm thanh của con ong vậy, trói tâm lại để lĩnh hội được âm thanh này, dùng pháp tĩnh tọa để khiến linh của bản thân đi phụng thỉnh linh ở ngoài thân, dùng tác dụng thấm hút để nhập vào trong tai, cần niệm chú ngữ là: "Kim vi tịnh nhất thiết, pháp nhập mật bát phương, kim luân xuất hải luân, phong luân nhĩ thần thông." Chú ngữ này không thể tìm thấy trong bất kì sách cổ nào, cũng không thể tìm thấy trong bất kì văn bản chú ngữ nào. Trong chú Đại Bi có hai câu là ý gốc của câu này, độc giả hãy suy nghĩ kĩ càng, suy nghĩ tỉ mỉ, công phu này phải cần công hành tĩnh tu nghìn ngày, không được bỏ dở một ngày nào.

Thần thông thiên nhĩ, bí mật Như Lai, pháp môn hợp âm, nhờ chăm suy ngẫm. Mấy câu này chính là cách tu pháp.

39. Siêu năng lực tha tâm thông

Tôi nói tha tâm thông là một dạng chức năng của tâm thần, cái này chính là linh hồn vận chuyển đến tâm luân, khuếch trương tâm luân đến người khác, sản sinh ra một kiểu hiện tượng cảm thông. Tôi cho rằng linh hồn của con người là một dạng vật chất bất tử siêu năng lực, là nhân tử của linh. Bên trong nhục thể nếu linh hồn tĩnh tại đứng im thì sẽ có hiện tượng xuất du. Linh hồn rong chơi ở bên ngoài, có thể chọn người sắp chết để mượn xác hoàn hồn, cũng có thể nhập vào trong bụng của phụ nữ mang thai, biến thành một sinh mệnh mới. Nhìn chung thì đây là ý nghĩa đầu thai tái sinh. Linh tính của thần minh bình thường có thể mượn người có linh thể tương đối nặng để chiếm thân, nhập khiếu để mở miệng nói chuyện, và thế là sản sinh ra những kê đồng và người trung gian. Chức năng của linh hồn, trong bí mật của tâm luân, chính là ý nghĩa nhập vào thân người khác, vì vậy có thể biết được tâm tư của người khác, không cần người đó mở miệng ra nói.

Tha tâm thông là một trong những pháp nhập vào thân người khác của thuật yoga, sự vận chuyển của nó dựa vào "niệm trí thần thông lực", khi phát huy niệm lực của bản thân đến mức cực điểm thì lúc đó chỉ nghĩ về một người, sức mạnh ý chí tập trung lên thân người đó, vận chuyển linh hồn đến biển ý nghĩ của ý chí, ra khỏi thần khiếu, chiếu ảnh lên trên tâm luân của người kia, sau khi dừng lại một khoảng thời gian thì lại thu linh hồn về, lúc này trong tư duy của mình giống như kiểu chiếu ảnh khiến xuất hiện tư duy của người khác, từ đây có thể hiểu rõ tâm tư của người này đang nghĩ đến chuyện gì. Các hoạt động này nói ra thì dài dòng, kì thực chúng chỉ diễn ra trong một sát-na mà thôi. Tôi cảm thấy tha tâm thông đôi khi không cần phải nghĩ về một người nào đó, mà người này sẽ âm thầm hiện lên ở trong tâm luân, chúng ta có thể biết một cách rất rõ ràng người đó đang nghĩ gì, bây giờ người này đang muốn làm cái gì.

Đại Thừa Khởi Tín Luận có nói: "Cái gọi là tâm sinh diệt, là do dựa vào Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt, cái gọi là không sinh không diệt và sinh diệt hòa hợp, không phải là một nhưng cũng không khác biệt, được gọi là A-lại-da-thức. Thức này có hai nghĩa, có thể hấp thu mọi pháp và sinh mọi pháp, nên mới gọi là hai, một cái là giác nghĩa, một cái là bất giác nghĩa. Cái gọi là giác nghĩa nói rằng tâm thể lìa niệm, người lìa niệm tướng thì ngang với hư không giới, có ở khắp mọi nơi, pháp giới nhất tướng cũng tức là pháp thân Như Lai bình đẳng." Kẻ hèn này cho rằng, cái gọi là "giác nghĩa" chính là Phật tính như như bất động, lấy chính mình làm trung tâm thành một tâm luân phóng quang, dựa vào tâm luân bất động phóng quang để mà quan sát tất cả hữu tình, thì gọi là giác nghĩa. Giác nghĩa cũng chính là công năng của tâm thức, từ đây trong tâm người khác nghĩ gì cũng có thể nhận ra, đây chính là hàm nghĩa thực tại của tha tâm thông.

Trong kinh Mật Nghiêm nói: "Như nước biển bị gió thổi, sóng không thể chấm dứt. Nơi có gió thổi đến thì sóng ý thức mới sinh ra. Như nước biển trong gió, như đất chẳng khác biệt. Ngăn che vật sai biệt, tàng thức là như thế. Nội tâm hiện cảnh vẫn là do tự mình." Đoạn kinh văn này nói đến vấn đề tâm cảnh, sự sản sinh tha tâm thông chính là như thế, cũng là chức năng của tâm thức. Nhưng mà năng lực của tha tâm thông là chức năng tâm luân phóng quang chiếu rọi người khác, theo lí mà nói thì chắc chắn cần phối hợp với sự phóng xạ và thu hồi của nhân tử linh, cái này cũng gần tương tự như đạo lí truyền hình chiếu phim. Tâm thần của tha tâm thông quan trọng nhất là như như bất động, bởi vì như như như bất động mới có thể phóng quang, nếu có suy nghĩ hỗn tạp khác, lực tinh thần không đủ tập trung, tư duy hiện lên sẽ có tướng hỗn tạp, như thế cũng không thể thuần và rõ ràng được. Sức mạnh truyền bá của tâm linh có thể sản sinh ra một dạng lực cảm ứng của siêu sóng điện. Có một số người trong lúc nguy cấp sẽ phóng ra một dạng siêu sóng điện, khiến cho người thân ở phương xa đột ngột có cảm nhận, dạng năng lực này ẩn rất sâu, nếu người tu linh tu đạo có thể dựa theo pháp mà tu luyện khả năng phóng quang và khuếch trương của tâm luân của mình thì chắc chắn đắc pháp lực tha tâm thông là điều không phải nghi ngờ. Tu luyện tha tâm thông tối kị thức thần quấy phá, thức thần chính là thần của âm ma (trung ấm).

Có một đại hòa thượng xuất gia ở chùa Hải Tạng từ phương xa tìm đến hàn xá của tôi, hỏi tôi về pháp tu tha tâm thông, nay tôi trích lục những gì chúng tôi đã nói chuyện như sau:

"Thắng Ngạn tiên sinh: thần lực của tha tâm thông đến cảnh giới nào thì có thể đắc được?" "Cảnh giới của tha tâm thông cực kì ảo điệu, đó là sự phóng quang của Phật tính chân như, đến cảnh giới tha tâm thông thì chính là ngũ uẩn đều Không rồi, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc, nếu sắc thân của nghiệp báo đã loại bỏ được thì tha tâm thông tự nhiên sẽ hiển hiện, cảnh giới này như A La Hán, vì ở khắp hư không nên đắc được tha tâm thông." - Tôi trả lời. "Tha tâm thông có phải là sự phát huy của nhất tâm tam quán không?" - Hòa thượng hỏi. "Hỏi như vậy đúng lắm. Tha tâm thông có thể nói là quán tâm hành, từ trong tam trí nhất tâm mà đắc chứng, cũng tức là thần thông trí lực, nếu có thể quán chiếu, tự tính tự ở trong đó, cho nên tu pháp quán chiếu rất quan trọng, quán chiếu này là bát nhã - trí tuệ rất sâu, cũng tức là lực trí huệ thậm thâm, có thể nhập vào trong pháp luân viên minh, không có vọng tưởng đảo điên, là thực trí bồ đề. Cho nên, tâm chú của Tâm Kinh là: "Gate, Gate, Pāragate, Pārasaṃgate, Bodhi Svāhā." Quán chiếu cố định tại hư không rất quan trọng."

"Tu pháp tha tâm thông như thế nào?" "Tu duy tâm thức quán, niệm niệm bất sinh, tâm tâm vô sở [không sinh ra, không khởi lên bất kì một suy nghĩ nào], lục căn xa xăm tĩnh lặng, tiêu trừ mọi thức, đắc chân như thực quán. Tiếp đó, dùng mật tu Kim Cương Thừa Đại Thủ Ấn, trước tiên khiến tâm luân phóng quang, tâm luân phóng quang là một trong những bí mật của thân, đây cũng chính là chỗ khác với Hiển giáo. Nếu tu duy tâm thức quán, lại cộng thêm tâm luân phóng quang, thì rất dễ đắc tha tâm thông."

"Thắng Ngạn tiên sinh, ngài cho rằng giác quan thứ sáu, cảm ứng tâm điện, suy tưởng xa xăm siêu giác và tha tâm thông có giống nhau không?" "Trên thực tế, giác quan thứ sáu và cảm ứng tâm điện hay suy tưởng xa xăm siêu giác đều là một dạng dự cảm, người bình thường đều có linh tính, nhưng không nhất định là chuẩn xác, đây là vấn đề của tâm trí. Ngoài ra, dự cảm có tính bộc phát, đây là sự tiếp nhận đột ngột một cảm ứng khác của thần kinh cảm giác, những hiện tượng này rất giống với linh cảm bất chợt, nhưng không phải là tha tâm thông. Tha tâm thông là linh tính phóng quang tại tâm luân, vẫn là thần thông thượng thừa mà người tu đạo mới có, khác với linh quang có tính bộc phát."

40. Siêu năng lực túc mệnh thông

Hai tông phái Thiền - Mật nói nhập thiền và nhập mật, tức hoàn toàn không có một vật nào có thể chạm vào, phần lớn thứ mà người tu đạo tìm thấy là trống rỗng, là hư vô, là nơi không dùng lực. Kì thực thật sự là không có chỗ dùng lực sao? Không phải, không có ai nói ra, hôm nay một mình tôi nói ra, Lư Thắng Ngạn từ xưa đến nay chỉ thẳng ra một chữ "linh". Nếu không có linh, hai phái Thiền - Mật sao có thể chân không diệu hữu chứ! Một chữ "hữu" này chính là chỉ "linh tính", Phật giáo chỉ nói về Phật tính, thật ra Phật tính chính là linh tính, căn bản không có sự phân biệt nào. Linh hồn là sắc thân, bởi vì linh tử của linh hồn có thể phóng quang nên mới có thể thành tựu sắc thân pháp thân hợp nhất của Mật tông Đại Thủ Ấn Đại Viên Mãn, rồi trực tiếp siêu vượt Phật cảnh. Bởi vì nhân tử của linh hồn có thể phóng quang thành thể huyễn và sáng (minh thể) nên Thiền tông mới có từng lớp giải thoát, cho nên nếu nói không có siêu giác của linh hồn thì Mật tông và Thiền tông đều hoàn toàn đánh mất chỗ dựa để tiếp tục duy trì rồi. Bởi vậy, Lư Thắng Ngạn trực chỉ Linh tông, chính là thế chân vạc, Thiền - Mật biết có linh, nhưng lại không thể nói ra, thế thì để một mình tôi nói ra vậy.

Túc mệnh thông là một trong sáu đại thần thông, cách nói đơn giản là kí ức của kiếp trước kiếp sau tái hiện, có thể biết được số mệnh nhiều kiếp, ví dụ như những câu chuyện thọ sinh luẩn quẩn trong trăm nghìn vạn kiếp. Thành tựu túc mệnh thông có thể nói là quả cực đỉnh của Tiểu thừa, diệt tận phiền não không sót lại gì, chân tính phát lộ tự nhiên. Và trong sự hồi phục của linh tính, tôi cho rằng đó là linh hồn xuất khỏi hải để luân, tiến nhập vào thổ luân, sau đó nhập vào khí luân, nhờ khí luân giải thoát lần lượt từng lớp, trong cấp độ phản tỉnh đã phát hiện ra vành đai kí ức tiền kiếp, vành đai kí ức tiền kiếp này giấu trong tầng ý thức sâu nhất trong não của chúng ta. Nhìn chung, sự xuất hiện túc mệnh có nông sâu khác nhau, quỹ đạo luân hồi giống như vòng tuổi của cây, là hết lớp này đến lớp khác, sức mạnh thần thông cũng có sự nông sâu, khác nhau như thế. Cho nên, người tu đạo biết túc mệnh kiếp trước của mình cũng có sự khác nhau tương tự, có người chỉ biết một đời trước và sau, có người biết ba đời, có người biết trăm đời, nghìn đời, vạn đời, không giống nhau. Đương nhiên đạt đến cảnh giới cao nhất thì chính là không có gì là không biết, túc mệnh thông đến mức không có gì là không biết thì đó chính là quán vô ngại của Phật rồi.

Kẻ hèn này cho rằng Phần chứng tức Phật mà pháp sư Thích Ấn Quang đàm luận có liên quan đến thần thông túc mệnh. Pháp sư Ấn Quang nói: "Sau khi có được thập tín, phá bỏ một phần vô minh, chứng một phần công đức, tức nhập sơ trụ và chứng pháp thân. Vì làm pháp thân đại sĩ, từ sơ trụ đến đẳng giác, tổng cộng có 41 vị, từng cái đều phá một phần vô minh, chứng một phần công đức. Vì thế gọi là Phần chứng tức Phật. Lấy vô minh phân thành 42 phẩm, sơ trụ phá một phần, cho đến thập trụ thì phá mười phần kinh qua thập hành, thập hồi hướng, thập địa, cho đến đẳng giác, tức là phá được 41 phần rồi! Sơ trụ, tức có thể ở tại thế giới vô Phật, hiện thân làm Phật, rồi lại tùy loài mà hiện thân để độ thoát chúng sinh, đạo lực thần thông ấy bất khả tư nghì. Đây chính là: mở rộng tâm khai ngộ, tất cả đều thông suốt, căn nguyên còn chưa tận, thường thấy ánh trăng mờ." Tác giả biết pháp thân đại sĩ từ sơ trụ đến đẳng giác là hiện tượng giải thoát theo trình tự lớp lang, cũng chính là túc mệnh thông, phá một phần vô minh, thấy được túc mệnh của một lớp khác cũng thế, người mới đắc túc mệnh thông, mặc dù thi thoảng tâm có thể khai ngộ, ngay tức thời có hiện tượng cảm thông, nhưng ánh trăng còn mờ mịt, niệm đầu hãy còn chưa tới!

Hiển giáo nói từ định sinh huệ, từ huệ phá vô minh, thật ra ý nghĩa thật sự nằm ở chỗ từ linh sinh trí, nhờ ánh sáng trí huệ mà phá vô minh, ở đây là sau khi linh hồn sinh ra ánh sáng trí huệ, dùng linh quang bảo kính của mình chiếu đến tầng kí ức tiền kiếp vĩnh viễn tối tăm, sự chiếu xạ ánh sáng này giống như ánh chớp đột ngột lóe lên từ không trung, từ không trung hoa rơi rụng xuống, giống như pháo hoa vậy. Nói chung đến được cảnh giới này rồi thì có thể nói là tri thiên mệnh rồi, tác giả biết rõ rằng trong số các Thiên Thần có một vị là Trí Quang Thiên Thần, chính là nhờ thần thông túc mệnh mà tự làm thành một thiên giới, có thể nhập vào trong túc mệnh của mình để nhớ lại tiền kiếp của mình, ôn lại tiền kiếp của mình, năng lực này cũng chỉ có Trí Quang Thiên Thần mới có thể làm được. Hôm nay tôi chỉ dẫn cho những người khởi linh phải coi trọng linh tính trân quý của mình, đừng muốn linh tính sống lại xong rồi lại buông bỏ công phu này, cần biết linh hồn nhơ bẩn này sau khi được thanh lọc mọi ô uế ắt có thể phóng quang, nếu xuất hiện quang minh, những thứ nhơ bẩn sẽ được loại bỏ. Phương pháp để tiêu trừ những thứ nhơ bẩn của linh hồn đã được nói đến trong chương trước của cuốn sách này, xin thứ lỗi vì tôi không nói nhiều nữa. Cần dẫn điểm ánh sáng giống như ngọn nến này vào trong tầng của khí luân, tất sẽ biết được ngọn nguồn gốc gác của bản thân, như thế là có thể đắc chứng được túc mệnh thông rồi.

Từ vấn đề túc mệnh khiến tôi liên tưởng đến kiếp này của mình, nói thật lòng, sự xuất hiện của tôi tại kiếp này chính là nhân đã trồng từ kiếp trước, có nhân tất có quả, nó gần giống như quỹ đạo của kiếp trước đã được mở sẵn. Tôi xuyên suốt ba giáo lí, thân vào đạo địa ngục, đến nay đã nhiều kiếp luân hồi, những ác nghiệp mà tôi mang theo rất nhiều, nếu muốn đứng độc lập theo cách riêng biệt, buộc bản thân phải khổ tu nhiều năm mới có thể đạt được điều gì đó. Bởi vì nhân quả kiếp trước của bản thân sẽ tác động đến kiếp này, trên thực tế, hiện tại những hành vi việc làm của tôi đều đã được sắp xếp hết rồi chỉ đợi tôi đến mà làm thôi, ý của thượng thiên muốn tôi đi về đông thì tôi sẽ đi về đông, muốn tôi đi về tây thì tôi sẽ đi về tây, chẳng ngờ tôi vật lộn nửa đời người, kết quả là lại quay về con đường cũ, đây đúng là số mệnh mà! Số mệnh, bởi vì nguyện lực của tôi khiến tôi đời này kiếp này phải làm lụng vất vả đến mức choáng váng đầu óc, đương nhiên, tôi hiểu rằng thiên mệnh là như thế rồi, bằng không, tôi cho rằng một người có thể thanh tịnh tu hành thì tốt hơn bất kì điều gì, ví dụ như Thanh Chân Đạo Trưởng, một vị ẩn cư tại núi Liên Đầu, cho đến tận khi ngài viên tịch mọc cánh thành Tiên nhưng con người trên đời vẫn không hề biết có một người như vậy!

Tại đây, tôi nói một câu rất nghiêm túc, tôi hi vọng người tu hành đừng cho rằng tu hành là chuyện một năm hai năm, cũng không phải là chuyện mười năm hai mươi năm, mà là việc của cả một đời. Đương nhiên chúng ta không vứt bỏ năng lực kiếm sống của mình, vào những thời gian rảnh rỗi thì hãy tinh tấn tu trì, điều này thật sự rất quan trọng đó, cách làm nhập thế tục lại vừa thoát tục thì nên như vậy. Có rất nhiều người đến chỗ tôi, mở miệng ra là nói muốn tu thần thông, tốt nhất là một ngày có thể học được sáu đại thần thông, lấy đâu ra khả năng đó chứ? Chư Thiên Như Lai còn công hành trăm nghìn vạn kiếp, người thế tục mà một ngày có thể thành thì chẳng phải là khiến các Tiên, Thần ở thiên giới chê cười sao? Con người phàm trần, nghiệp chướng sâu nặng, thần thông tự hiển, có thể gặp, không thể cầu.

41. Siêu năng lực thần túc thông

Ý nghĩa của thần túc thông là năng lực bay đến khắp các cõi trời, tức là thập phương pháp giới đều có thể đến đi tự do. Theo như tôi biết, đến đi tự do khắp thập phương pháp giới có hai năng lực lớn, thứ nhất là xuất thần, thứ hai là nhục thân thành Phật (phi thăng). Xuất thần chính là linh hồn xuất khiếu, linh hồn xuất khiếu có hai dạng, dạng thứ nhất là xuất dương thần, dạng thứ hai là xuất âm thân. Tự cổ chí kim, rất nhiều người đã ngộ đạo thành chân, người có thể xuất dương thần cũng không ít, cái gọi là xuất dương thần tức là nhân tử của linh hoàn toàn được tịnh hóa, dương thần thoát ra khỏi huyền quan, đi trên chính đạo quang minh lỗi lạc, tỏa ra khí màu tím sáng rực rỡ.

Có một số người tu thân dưỡng tính, chưa đạt đến trình độ luyện thanh tịnh linh hồn nhưng cũng có hiện tượng xuất thần, kiểu xuất thần này gọi là xuất âm thần, lối ra vào của âm thần không phải là từ huyền quan, mà là từ con mắt, âm thần hay dương thần chỉ do sự khác biệt giữa linh hồn đã được tịnh hóa hay chưa được tịnh hóa mà thôi. Nếu âm thần đi ra, cũng vẫn có thể đi trên mặt nước, có thể bay lượn trên các ngọn núi, đặt chân được đến thiên giới, cũng thấy được rất nhiều cảnh giới kì quan. Người ngồi ở trong nhà nhưng vẫn có thể biết rất nhiều chuyện kì lạ hiếm có trên trời dưới đất, ví dụ người xuất âm thần đôi khi có thể vào thế giới của loài rắn, có khi có thể vào thế giới của loài kiến, tham quan cảnh sắc của những khu vườn treo, có thể nói chuyện với Thủy Thần, cũng có thể nói chuyện với Sơn Thần, có thể nói chuyện cùng Thiên Sứ. Nhưng người xuất âm thần cũng sợ gặp phải âm ma cướp mất thần, nếu đụng phải âm ma, nếu nguyên thần không có cách nào tự mình khống chế thì dễ bị âm ma hãm chân, cũng biến thành quyến thuộc của ma.

Khi xuất dương thần, huyền quan sẽ chuyển động ăn khớp với nhau, sẽ có một dòng chảy ấm áp kì lạ vận chuyển đi khắp toàn thân, giống như uống rượu mạnh gây nên cảm giác ngà ngà say vậy, toàn bộ tâm linh sôi sục, lúc này giống như say như mê, thân dường như hư thoát, chỉ có ý thức là còn tỉnh táo minh mẫn, vẫn hiểu rõ mọi thứ, thì khi nguyên thần từ huyền quan xuất khiếu, linh hồn ấy vô cùng tự tại, giống như con thỏ vụt chạy băng băng vậy. Nếu quan sát ngược lại bản thân, có thể nhìn thấy nhục thân của mình đang ngồi trơ ra trên mặt đất, mặc dù toàn thân có khí ấm, nhưng nhưng hơi thở rất trầm, giống như động vật ngủ đông vậy. Xuất dương thần có thể đi nam về bắc, muốn gặp một người bạn nào đó tự nhiên có thể nhìn thấy người bạn đó, người đó không nhìn thấy bạn, nhưng bạn thì lại có thể nhìn thấy người đó, có thể vượt núi băng sông, vào nhà vào phòng, đến thẳng nơi biên cương không người. Bởi vì ánh sáng của dương thần là màu tím, các Thủy Thần Sơn Thần, Thổ Địa Phúc Thần bình thường nhìn thấy tất nhiên sẽ rất tôn kính, nếu gặp phân linh của các Thần Thánh cõi trời thì cũng không sợ hãi, dương thần có thể bay thẳng lên thiên quốc, cũng có thể xuống thẳng địa phủ thủy phủ, cảnh giới cao nhất là có thể đến được Phật quốc, tìm hộ cho chính mình trong tương lai một nơi để đến ở, điều này vô cùng quan trọng. Người có thể xuất thần phần lớn đã có tư tưởng "xuất thế", sẽ không còn say đắm vào nơi phồn hoa trần thế nữa. Nếu có lưu lại trong thế giới này thì đó chắc chắn là bậc chân nhân đại đức thừa nguyện lại đến vì mong muốn độ chúng sinh trong thiên hạ.

Tôi nhớ có một quãng thời gian, tôi coi việc xuất thần là công khóa mà tôi làm mỗi ngày, linh hồn tôi mượn một khối chân khí cường tráng giống như con rồng để bay lượn, những cảnh giới mà tôi nhìn thấy đều như mộng như huyễn. Tôi cũng từng quan sát ngược lại chính mình, phát hiện mình chỉ còn lại một cái thân bao bọc bởi khí trắng. Trong mấy cuốn sách trước tôi từng nhắc đến chuyện ở một Phật quốc, vị Phật ấy trong mắt tôi cao lớn như núi Tu Di, còn tôi thì bé tí như một con kiến, so sánh như vậy để thấy sự tu luyện của bản thân tôi thật nhỏ bé chẳng đáng kể gì. Có một lần, nguyên thần đang đi về hướng một ngọn núi lớn màu đỏ, tôi thấy rất quen thuộc, nhưng không nhìn ra chân ảnh chân tướng của nó. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Liên Sinh, việc chính thì không làm, chỉ biết xuất thần đi rong chơi, như vậy tất sẽ xao nhãng học hành, sau này nếu không có việc nghiêm túc thì không được xuất thần đi chơi nữa." Từ đó về sau, tôi không dám tùy tiện xuất thần nữa.

Còn đối với chuyện cả thân thể xương thịt này bay lên, thần túc du lịch khắp thập phương pháp giới, thì kiểu thần thông này cũng có, nhưng rất ít thấy, bởi vì nhục thể vốn thuộc về vật chất máu thịt ô uế của phàm trần, cho dù có thể tịnh hóa hoàn toàn thì mang theo cái vỏ cơ thể này bay lên cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn lắm, cho nên từ xưa đến nay thật sự rất ít có người tu đạo đến mức nhục thể bay lên, phần lớn là tự mình biết được ngày giờ lìa thế gian của mình mà tĩnh tọa rồi biến hóa đi. Tôi nói thần túc thông là xuất thần thông, có lẽ có người sẽ bảo là không đúng, nhưng sự thật là như vậy, thân ở đó cũng giống như thân không ở đó, ý ở đó cũng như ý không ở đó, dạng năng lực này là siêu nhiên, nếu có được thần túc thông có thể xuất thần đến thập phương pháp giới, khi ấy có thể chứng minh lĩnh vực vô hình là vô cùng vô tận. Con người ở trong sự mê muội không tự biết, ai đến được bước này chắc chắn sẽ hiểu những gì mà Lư Thắng Ngạn tôi nói không có một câu nào là giả.

Người tu đạo muốn tu thần túc thông, nhất định phải bắt đầu từ tu linh, tôi không tán thành người tu đạo xuất âm thần, bởi vì nếu xuất âm thần, mặc dù có thể chứng minh được nhiều thứ của vũ trụ, nhưng dễ nhập ma đạo. Kẻ hèn này cho rằng người xuất âm thần, thân tất nhiên sẽ âm lạnh, thần khó giữ được cái "nhà" của mình. Hiện nay ở nước ngoài có loại thuốc xuất thần, nếu uống thuốc này, nguyên thần có thể giãy giụa để thoát ra khỏi nhục thể, nhìn được kì quan của một thế giới khác. Loại thuốc xuất thần này khả năng là một dạng thuốc gây ảo giác, nhưng sự xuất thần ấy chắc chắn là xuất âm thần, xuất âm thần thì dễ gặp ma, thật sự là nguy hiểm muôn dạng, tôi hi vọng người tu thần túc thông, người còn chưa đến được cảnh giới xuất thần thì đừng vội vàng muốn xuất thần để ngao du, vì xuất thần để ngao du thật sự có nguy hiểm. Từ đầu đến cuối tôi đều cho rằng, mặc dù tôi tu được một dương thần nhỏ bé, xuất nhập cũng khá tự do, không hề tệ, nhưng so với thần thông của các linh hồn địa lí cao minh thì thậm chí tôi cũng chạm không tới. Tôi phát hiện ra năng lực của bản thân có hạn, tôi còn phải bí mật tu nhiều năm nữa. Kẻ hèn này từng bị linh hồn địa lí lừa gạt, lời nói của họ điên điên đảo đảo, lúc thì thật, lúc thì giả, thật sự đầy rẫy xảo quyệt.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Người có thần túc, đã có ngũ thông, xuất u nhập minh, tâm thức biến hóa, đại đạo là đường không một chướng ngại, linh có nhiều loại, luyện âm hoàn dương, thuần dương chính khí, tự có thần túc."

Tôi nói: "Thần túc là sản phẩm phụ của luyện thần phản hư, có thể quay trở lại hư không (phản hư), tất sẽ có thần túc thông."

42. Siêu năng lực lậu tận thông

Trong "Long thư tịnh thổ văn", cư sĩ Vương Nhật Hưu viết, ngũ uẩn đều không, là nói rằng: "Bát Nhã Tâm Kinh nói: Quán Tự Tại Bồ Tát. Chiếu kiến ngũ uẩn giai Không. Độ nhất thiết khổ ách. Ngũ uẩn. Cũng gọi là sắc thọ tưởng hành thức. Sắc là sắc thân. Thọ là thọ dụng. Tưởng là tư tưởng. Hành là sở hành. Thức là biện thức. Năm thứ này liên kết chặt chẽ với nhau. Để che lấp chân tính. Do vậy gọi là uẩn. Còn gọi là ngũ uẩn. Cũng gọi là chân tính tối tăm. Sắc thân cuối cùng cũng hư hoại. Hưởng thụ có thể qua đi bất kì lúc nào. Sắc chẳng phải rồi cũng thành Không hay sao. Giả như nghĩ về một thứ, khi có được rồi thì cũng chẳng nghĩ nữa. Tư tưởng chẳng phải là Không hay sao. Những việc ta làm, quay đầu nhìn lại vẫn giống như mộng huyễn. Hành chẳng phải là Không hay sao. Nhận thức biết cả nghìn sự vật, tái sinh lại thì cũng chẳng thể nào nhận thức được gì [từ kiếp trước]. Thức chẳng phải là Không hay sao. Tất cả khổ ách đều từ năm thứ này sinh ra. Nếu có thể chiếu kiến sắc thân là Không, thì sẽ không chấp vào sắc thân mà sợ cái chết. Sẽ sống qua được khổ ách này. Chiếu kiến thọ dụng là Không, thì sẽ không chấp vào việc hưởng thụ mà ham được phụng dưỡng. Sẽ sống qua được khổ ách này. Chiếu kiến tư tưởng là Không, thì sẽ không chấp vào những suy nghĩ. Và suy nghĩ thì vẫn không bám víu vào được, nên lại sống qua được khổ ách này. Chiếu kiến mọi hành là Không, thì sẽ không chấp vào những điều ta làm, và có thể dừng làm, nên lại sống qua được khổ ách này. Chiếu kiến biện thức là Không, thì sẽ không chấp vào biện thức, từ đó có thể tọa vong. Thế là lại sống qua được khổ ách này. Vì chiếu kiến ngũ uẩn đều Không, nên vượt qua được tất cả khổ ách. Năm thứ này đều không phải là chân thực. Chính là những vọng duyên hiện lên trong chân tính. Như lục căn lục trần lục thức thập nhị nhân duyên tứ đế đều là như vậy."

Từ đoạn văn trên, tôi hi vọng độc giả tỉ mỉ nghiền ngẫm, đừng tùy tiện đọc xong là thôi, mà phải suy ngẫm từng chữ từng chữ một. Bởi vì tôi biết, tâm trí vô lậu chính là nằm trong ngũ uẩn đều Không này, cái gọi là "tâm trí vô lậu" chính là cơ sở của lậu tận thần thông. Quan Thế Âm Bồ Tát là bậc Tôn giả đắc vô thượng đại giác trong số các vị Bồ Tát, pháp môn ngũ uẩn đều Không này đường đường một chân đạp vỡ toàn bộ lục căn lục trần lục thức tứ đế thập nhị nhân duyên, và quán ngược lại thân tự tại của mình, thành tựu một vòng ánh sáng vô tận, đây là cái gì? Đây chính là tâm trí vô lậu, người có thể đắc tâm trí vô lậu thì có thể đắc lậu tận thông, có thể đắc lậu tận thông thì sẽ cắt đứt con đường sinh tử, năm loại thần thông kia đều có thể đắc chứng, đạt đến Thánh cảnh Như Lai.

Vào lúc linh hồn đi lại khắp toàn thân, đây chính là hoạt động bẩm sinh, Đạo gia tu lậu tận thông, thật ra là ý nghĩa của sự chảy thoát rò rỉ tinh huyết để lại trở về thái hư (vũ trụ), pháp này có thể tham chiếu pháp vận động Cửu chuyển huyền công đã được nói đến ở phần đầu sách, có thể duy trì lâu dài việc ngồi ấy, tất sẽ có ngày thành công. Đạo gia cho rằng tinh huyết chính là báu vật của thân người sau này, rò rỉ hết thì sẽ chết, nếu không rò rỉ thì có thể trường sinh bất lão, sau khi không lậu nữa thì lại hóa tinh thành khí, hóa khí thành thần, luyện thần phản hư, tức hậu thiên biến tiên thiên, linh hồn được tịnh hóa thành dương thần, khí của dương thần không đi vào cửa địa phủ, thế nên cửa tử đóng lại, huyền quan tự nhiên bẩm sinh mở ra, tu thành chân nhân, tiên thiên hậu thiên hợp nhất, thần thông này chính là lậu tận thông. Đạo gia tu pháp môn này, phần lớn đều dựa vào Cửu chuyển huyền công, nhưng Cửu chuyển huyền công có phải chỉ dựa vào sự phối hợp động tĩnh của niệm lực không? Thật ra công phu ban sơ nhất của Cửu chuyển huyền công đều nhờ vào khả năng linh hồn đi lại khắp toàn thân, linh lực sẽ chi phối sự vận chuyển của thân thể. Hôm nay trong cuốn sách này, tôi đặc biệt chỉ ra sức mạnh của linh hồn, tất cả những điều nói đến ở đây đều là sức mạnh của linh hồn, thành Tiên thành Phật là niệm lực sao? Không phải, thành Tiên thành Phật là quả vị của linh hồn. Trong thế giới ngày nay các quốc gia đều có nghiên cứu về linh hồn học, đây là một môn khoa học siêu khoa học, từ rất nhiều thực nghiệm mà phát hiện ra kẻ thống trị của thân người là linh hồn, phương đông phương tây đều giống nhau, cùng một chân lí. Lậu tận thông tuyệt đối có khả năng, Cửu chuyển huyền công mặc dù là công phu của Đạo gia, nhưng cùng có điều kì diệu giống như thuật yoga, đây chính là chỗ thông nhau giữa công phu Đạo gia của Trung Quốc với công phu yoga của Ấn Độ. Việc này ít có người phát hiện thấy, hôm nay tôi đặc biệt nói ra, hi vọng có người sẽ nghiên cứu sâu thêm, công khai những tâm đắc về nghiên cứu này với toàn thế giới, có thể gây chấn động xưa nay, giành được sự ca ngợi của nhân loại trên toàn thế giới.

"Khi nào mới được coi là chứng đắc năng lực lậu tận thông?" - Có người hỏi. "Khi tâm đắc niết bàn kì diệu." "Ngũ uẩn đều Không, lấy cái gì làm thật?" "Viên giác tối thượng, thân thể mình cũng là Không, quán tự tại." "Lậu tận thần thông trong sự tu chứng của hai phái Đạo - Phật có phải là nhất định cần phải xuất thế không?" - Có người hỏi. "Xuất thế mới có thể nhập vào cỗ xe cực lớn, nhập thế là nhân duyên trần thế, nếu nhập thế tu pháp thì phải tâm không nhiễm bụi trần mới được."

43. Linh dạy thủ ấn

Liên quan đến việc linh dạy thủ ấn, người chủ trì của văn phòng Trung Hoa Thổ Địa Đại Thư là anh Trần Tấn đã học được điều này. Anh Trần Tấn sống tại Đài Bắc, trên đường Khang Định quận Vạn Hoa, anh gửi đến một lá thư, tôi công bố nguyên nội dung thư như sau:

"Thưa Thầy Lư, Tôi nhớ sau khi tạm biệt thầy ở tinh xá, (không ngờ hai lần mơ thấy thầy giá lâm đến nhà tôi, không biết có phải là sự giao cảm tâm linh không), tôi vốn dự tính sau kì thi tư pháp sẽ gửi đến thầy một lá thư để hỏi việc, tin tức truyền đến là năm nay không thi, có bạn bè cho hay, thầy Thắng Ngạn không còn xem việc cho người ta nữa, sau này có lẽ sẽ tương đối có thời gian để trả lời thư, vì thế tôi xin được thưa với thầy về tình hình tu linh như sau.

Tôi được bái kiến Tiên nhan, mới gặp lần đầu đã cảm giác quen thân, một lời khó nói cho hết. Thầy ôn hòa nho nhã khiêm tốn, học rộng tài cao, thật đúng là điểm mạnh của thầy, kính xin chúc mừng chư Phật Bồ Tát đã ủy thác giao phó đúng người, gặp thầy tôi vô cùng cảm kích và xúc động như thể đã biết nhau rất lâu rồi. Sau khi trở về nhà, tuân theo lời dặn của thầy, tôi liên tục tĩnh tọa hai lần (tổng cộng khoảng một tiếng đồng hồ), kết quả là chân linh mạnh mẽ hiện lên, quả nhiên là Phật duyên của tôi không tệ. Sau khi khởi linh, ngày hôm sau khi tôi ngồi thiền, trong mũi truyền đến một mùi đàn hương, rất đậm và rất thơm, đây là lần đầu tiên trong đời tôi ngửi thấy mùi thơm này. Sau đó, cứ cách quãng lại chỉ dạy cho tôi các kiểu thế tay (Quan Âm thủ, thể thao thức - giới hạn ở phần trên cơ thể, Mâu Ni châu ấn, lôi ấn thức, liên hoa ấn, khuyên tâm ấn, Như Lai thủ,… Tôi mong sau này gặp để trình cho thầy ấn chứng), thật sự là bất khả tư nghì. Bồ Tát từ bi đến mức ấy, nếu không tu hành thì thật sự có lỗi, hôm nay tôi quyết định thờ phụng tượng của ba vị Phật, một bức là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hai bức Quan Thế Âm Bồ Tát, sau này có chỗ tôi lại thờ phụng thêm Địa Tạng Vương Bồ Tát, v.v…

Niệm tụng kinh chú đã trở thành bài học sớm tối của tôi, mặc dù trước mắt linh lực hãy còn yếu (thiếu kinh nghiệm luyện linh, chưa thể đoán biết được việc gì), cũng không có thông linh gì cả, nhưng mong Chư Thiên Bồ Tát không bỏ mặc, tôi tự biết rằng khi mình còn đang trôi nổi bất định, thân thể yếu ớt dễ mắc bệnh, thì ở trong cảnh bôn ba khổ nhọc để rèn luyện tâm tính cũng được. Biết bao tâm tư tình cảm không thể nói hết, ở đây tôi đặc biệt kính chúc thầy bình an. Trần Tấn cung kính khấu đầu."

Bức thư này làm bằng chứng cho việc linh dạy thủ ấn, anh Trần Tấn là một người trẻ tuổi, có viết cuốn sách "Lương Khởi Siêu và Hồ Thích", là người tài hoa giỏi giang. Trong cuốn "Lương Khởi Siêu và Hồ Thích" anh có viết rằng: "Trần Tấn không phải là người trung gian chỉ có cầm bút, mà còn chẳng có nhà lầu chạm trổ non sông gấm vóc. Chỉ có một phòng làm việc ồn ào, do vậy chỉ có thể vào lúc canh thâu tĩnh lặng để mà gom góp nhào nặn suy nghĩ, sau đó bò từng bước chậm chạp như ốc sên - giữa những trang bản thảo màu xanh lục. Tôi giống như chú chim đêm cô độc. Đôi khi bò mệt rồi, tôi nằm úp xuống bàn để chìm vào cơn mơ. Trong mơ: không hoa, không dao, cũng không có chim ri. Mỗi khi tỉnh giấc mơ, ngoài cửa sổ chỉ có tiếng côn trùng kêu, cũng chẳng có những con ong khát nước nhìn lén khay mực nước đặt trên bàn, cũng không có những con bướm điên chui vào trong màn. Đặt mình trong cảnh ấy, không biết mùi vị thế nào. Bởi vì tôi luôn không thể nào chỉ dựa vào mỗi lọ hồ dán, một cây kéo! Tuy rằng ngòi bút của tôi không chắc có thể "đục phá hỗn độn, quét sạch sương mù", cũng không chắc có thể trở về con đường chân chính, về chân diện mục của "nhân tượng", vẫn không dám tự xưng là mình đã "đào được báu vật" đối với "tinh thần và cốt tủy" của Lương - Hồ, trong cánh đồng lúa mạch bao la rộng lớn của họ, tôi chỉ là một hạt thóc nhỏ bé đến mức không thể nhỏ hơn. Thế nhưng, ngược lại, tôi lại bằng lòng tin tưởng vào tác phẩm kém cỏi của mình là cây bút cứng đã thấm qua không khí chạm được đến dưới đáy lòng."

Trần Tấn có một bài thơ, ngắn gọn nhưng có lực: "Lịch sử, nhân tượng; nhân tượng, lịch sử. Phải dũng cảm làm nên lịch sử, hoặc viết sử! Phải quyết tâm đúc Phật, đúc tượng gỗ! Vì tiền nhân, cũng vì bản thân. Cho nên, siêu nhảy vọt, tiến lên trước. Con người vĩnh hằng bất diệt; lịch sử thường tái diễn."

Cái câu "con người vĩnh hằng bất diệt" cũng tức là linh hồn bất diệt, cho nên người mong cầu đường đạo chính giác vô thượng phải bắt đầu từ hai chữ "linh hồn", linh hồn chính là tâm, chính là Phật tính, chính là tự tính, chính là ngọn nguồn, chính là Như Lai. Việc ấn chứng linh dạy thủ ấn của Trần Tấn cũng được anh hô hào trong cuốn sách của mình, rằng linh lực bất khả tư nghì, đích thực là có tồn tại, chính xác chân thực, người nói rằng đây là mê tín chính là những người căn bản vẫn chưa nhận thức được, cũng là người không hiểu gì.

Tôi viết năm cuốn sách tâm linh, chúng là những trải nghiệm của chính bản thân tôi, tôi làm vì các bậc tiền nhân, không phải vì bản thân tôi, và cũng để trải đường cho nhân loại đời sau, vì các đệ tử của Chân Phật Tông.

44. Chấp vào niệm lực siêu tự nhiên

Pháp môn tĩnh tọa có rất nhiều loại, tịnh tọa của Linh Tiên cũng là một trong số đó. Con đường tu hành có nhiều phương pháp, đương nhiên cũng có nhiều kiểu nhập ma khác nhau. Điều mà bản văn này nói đến chính là nhập ma kiểu chấp vào niệm lực siêu tự nhiên, gọi ngắn gọn là niệm lực nhập ma. Thật ra, ở đây chính là niệm lực không chịu sự kiểm soát của mình, bởi vì không thể kiểm soát cho nên càng bám chấp, điểm này dễ khiến người ta chẳng thể đề phòng, nhất thiết phải cẩn thận là quan trọng. Tín đồ Cơ Đốc giáo chấp vào cầu nguyện, cuối cùng vì những cầu nguyện ấy mà nhập ma chướng. Tịnh Độ tông vì chấp vào niệm Phật, cuối cùng vì niệm Phật mà nhập ma chướng, Thiền tông vì chấp vào thiền, vì thiền mà nhập ma chướng, Mật tông chấp vào niệm lực, vì niệm lực mà nhập ma chướng. Nay Linh tông của tôi xuất hiện, tất nhiên cũng có người chẳng thể nào kiềm chế được linh hồn mà nhập ma chướng.

Con người ơi con người! Cái khó của tu hành cũng là ở đây, muốn đổi sinh mạng tạm thời ngắn ngủi như một sát-na lấy sự vĩnh hằng, cái giá phải trả chính là phải chiến thắng được cánh cửa cuối cùng - “chấp vào ma niệm”. Phật Thích Ca Mâu Ni chiến thắng ma, Jesus Christ cũng phải đánh thắng ma, và tôi cũng phải đánh thắng ma, mỗi người tu Chân Phật Tông đều phải đeo thanh kiếm trí huệ để chặt đứt sự bám chấp niệm lực.

Trong số các độc giả, có người nhập vào ma bám chấp niệm lực, họ tu luyện pháp "nhân thị tử tĩnh tọa" mà bị như vậy. Nay tôi công bố toàn bộ bức thư như sau, xin mọi người đề cao cảnh giác.

"Thắng Ngạn tiên sinh, Tôi thật sự may mắn khi đọc được bốn cuốn sách tâm linh mà thầy viết, đủ những chuyện mà thầy từ bi cứu nạn được nói đến trong sách, đối với người thường xuyên cảm thấy đau khổ vô vọng như tôi đây mà nói thì không khác gì trong bóng đêm nhìn thấy một tia ánh sáng. Tôi từng tìm đến bác sĩ tâm lí để thôi miên trị liệu cho tôi tổng cộng ba lần, đều không có hiệu quả. Nguyên nhân là vì tôi không có cách nào nhập vào trạng thái bị thôi miên được. Tôi nghĩ nỗi đau khổ của tôi không phải người bình thường có thể giải quyết được, chỉ có thỉnh cầu thầy nương nhờ Phật lực, Phật pháp vô biên, mong có thể tiêu trừ đau khổ của tôi.

Nỗi đau khổ của tôi mang tính chất tinh thần, bác sĩ tâm thần gọi là chứng loạn thần kinh, nguồn gốc của sự đau đớn ấy là vì tôi luyện tập pháp "nhân thị tử tĩnh tọa" mà ra, cũng không hề có ai dạy, tôi chỉ dựa theo pháp tĩnh tọa mà tu luyện một cách đui mù thôi, vì sơ suất mà có một lần khí nhập vào đường nhánh, càng luyện thì tinh thần càng đi xuống, nhưng tôi vẫn luôn cho rằng thuật này có lợi ích cho thân tâm, mặc dù có cảm giác khó chịu, nhưng tôi vẫn luôn không cam chịu buông xuôi việc này, cuối cùng đã đến nông nỗi không thể cứu vãn được nữa. Trong nỗi phiền muộn cực độ, tôi đã bùng nổ dữ dội một dạng loạn thần kinh ám ảnh, cái gọi là loạn thần kinh ám ảnh nghĩa là trong lòng luôn nghĩ đến một chuyện, nếu muốn loại bỏ suy nghĩ này thì liền cảm thấy không thể nào thoát ra được, vì thế gây nên sự đau đớn về tâm lí. Đối tượng của sự đau đớn của tôi là việc hít thở, cả ngày tôi chú ý đến hơi thở lên xuống mà không có cách nào thoát ra được. Tình huống này lúc mới phát sinh là ghê gớm nhất, cả ngày tôi đứng ngồi không yên, tâm tình u sầu buồn bực, đau khổ đến mức gần như tinh thần sụp đổ, thỉnh thoảng có suy nghĩ bi quan chán đời, về sau tinh thần mới xem là dần dần ổn định, mọi bệnh trạng cũng tương đối dịu đi, nhưng trải nghiệm này thì vĩnh viễn tồn tại. Chỉ cần tôi hễ chú ý đến hơi thở là sẽ cảm thấy âu sầu ủ rũ, lập tức cơn đau khổ lại ngoi lên. Trong khoảng thời gian này, tôi mấy lần đến gặp thầy thôi miên, muốn mượn ám thị của việc thôi miên để quên đi trải nghiệm đau khổ này, nay tôi chỉ ra và phân tích kinh nghiệm của tôi, mong thầy cho lời giải đáp rõ ràng, không biết tôi có thể cứu được không?"

Bức thư này gửi đi từ trấn Thụ Lâm, Đài Bắc, người này họ Hoàng.

Đầu tiên, tôi giải thích trước, tôi từng đọc về pháp "nhân thị tử tĩnh tọa", cuốn sách này nói về tĩnh tọa có thể mở mang trí tuệ, cũng có thể giúp thân thể khỏe mạnh, những điều này đều không có gì sai, thế nhưng rốt cục cái sai nằm ở đâu? Tôi nói cái sai nằm ở người học tĩnh tọa, mọi người đều biết rằng pháp môn tĩnh tọa là trực tiếp nhất có thể thành Phật, nhưng nói thật lòng, đây cũng là cách dễ nhất để bị ma thử thách. Người có nguyên thần bất định, niệm lực chưa chín thì vẫn đừng nên tùy tiện đi thử nghiệm, đó chính là nhập ma. Bệnh trạng này không chỉ là người luyện pháp tĩnh tọa mới bị, bao gồm cả người bình thường quá mê đắm vào một sự vật gì đó cũng sẽ bị, ví dụ như quá mê đắm vào bạn gái dẫn đến chứng các chức năng giác quan của tâm thần bị ám ảnh, hoặc là mê đắm vào tiền bạc dẫn đến chứng tiền ám ảnh vào các chức năng giác quan, nếu tiền bỗng chốc không có thì lập tức trở nên thất thường mà phát điên.

Phương pháp chữa trị chứng bệnh này thông thường là dùng pháp chuyển dịch, chuyển rời mục tiêu đến một sự vật mình có hứng thú khác, hoặc lên núi tĩnh tu một thời gian, cách xa mọi việc thường ngày, để cho tinh thần hoàn toàn thay đổi. Nói chung, hễ làm pháp chuyển dịch thì bệnh trạng có thể từ từ giảm nhẹ. Đi leo núi, ra ngoại ô chơi, hoặc đến những nơi tưng bừng náo nhiệt, đều có lợi ích cho thân tâm của chính mình, khiến suy nghĩ của bản thân không dừng hoạt động, và cũng không cố định, không ngừng nghỉ thì sẽ không bám chấp nữa, không bám chấp thì có thể quán tự tại.

Tôi cảm thấy tất cả những người nhập ma, bao gồm người mê đắm vào tiền bạc và nữ sắc, đều là người bị "dắt mũi", đây cũng hoàn toàn là sự bám chấp. Có người tham cái phúc của cuộc đời, không muốn chết, sợ chết, thật ra sao họ không thử nghĩ, sợ thì có tác dụng gì, bám chấp vào sinh mạng, đến chết cũng không tỉnh ngộ, từ đầu đến cuối vẫn luân hồi trong lục đạo, không thể cắt đứt con đường sinh tử. Không nhập ma, không tham sân si, chính là tự tại, Quán Tự Tại Bồ Tát.

45. Giải đáp nghi hoặc

Có một độc giả ở Cơ Long đặt câu hỏi thắc mắc, tôi giải thích như sau.

"Thầy Thắng Ngạn, Cuộc đời chóng vánh, thời gian nói cười bấm ngón tay cũng là lúc cuộc đời lặng lẽ trôi qua. Người mưu cầu danh lợi hối hả kiếm tìm, mãi lần theo dấu vết danh lợi không ngừng nghỉ, đến khi tâm thần khô kiệt, cuối cùng vẫn ra đi với hai bàn tay không. Vũ trụ mênh mông, Phật pháp vô biên, người có thể đến được bỉ ngạn tìm kiếm khắp xưa nay chỉ lơ thơ không quá vài người. Chúng sinh đông đúc, đến nay vẫn lênh đênh bất định. Cái gì khiến chúng sinh nổi trôi không nơi chốn, trải qua nghìn vạn kiếp, chẳng còn gì cái mùi vị chân như vốn có nữa. Mỗi khi đêm đến lại ngẫm nghĩ, kinh hoảng mồ hôi chảy thành dòng, cảm thấy bản thân nghiệp tội nặng nề, mà vẫn còn trầm luân không tỉnh ngộ, vẫn dấn thân vào trong thanh sắc khuyển mã, không có lúc nào mảy may tỉnh ngộ, thế mới đáng buồn làm sao!

Tôi có duyên đọc được mấy cuốn sách đại tác phẩm của thầy, đã tháo gỡ rất nhiều điều nghi hoặc của tôi, tôi cũng sâu sắc ngưỡng mộ kì ngộ của thầy, thầy có đầy đủ đại huệ căn chứng đắc được đại thần thông lực, dùng tâm từ bi vô ngã mà chấp thuận kiếp nhập thế, truyền đi những câu chuyện với mong muốn đánh thức thiên hạ đang mê lầm, và sử dụng sức mạnh tâm linh vô hạn để giải quyết những bất hạnh khốn đốn của chúng sinh, thực tế thầy chính là thân hành lục độ vạn hành, chính là đang làm một vị Bồ Tát với tâm bồ đề bao la. Với tất cả lòng thành kính, tôi mong quý thầy đại đức tinh tấn không ngơi nghỉ, thẳng tiến đến niết bàn Phật quốc tịch tĩnh.

Nay tôi có mấy điểm nghi vấn, muốn trình bày với thầy, hi vọng quý thầy đại đức với Phật tâm vô lượng ban cho lời chỉ dạy hữu ích, tấm lòng biết ơn của tôi chất chứa trong ngũ tạng, nguyện sẵn sàng kiên trì loại bỏ nghi hoặc chứng được chân lí, và mang theo điều này để nêu cao tông phong của Phật giáo Đại thừa.

Sau khi Phật Đà nhìn thấy sao sáng mà ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề, phổ biến rộng rãi tám vạn bốn nghìn pháp môn, mọi pháp vô ngã, vô lượng vô biên, rốt cục phải bắt đầu từ đâu? Hơn nữa các tông phái Phật giáo quá nhiều, làm thế nào mới có thể tìm được chân ý, ý chỉ gốc của Phật mệnh?"

(Đáp: Mặc dù Đức Phật mở ra tám vạn bốn nghìn pháp môn, nhưng đó cũng tức là một pháp môn, đạo lí mà Phật Đà đã lĩnh ngộ, tôi gọi là vô ngại tâm chính đẳng giác. Còn như học Phật tu đạo bắt đầu từ đâu, đừng ngại dốc toàn bộ tâm sức tu pháp yoga Thiền - Mật này. Còn như pháp môn chứng kiến hóa cầu vồng của linh giác, sự tổng hợp các pháp tu luyện Phật pháp của tôi là phương pháp hay nhất để đắc Phật quả đại viên mãn. Nếu không dám liều lĩnh mà tu trì theo như vậy thì tu pháp môn niệm Phật cũng được, bởi vì khởi linh cũng phải dựa vào cơ sở niệm Phật để tiêu trừ nghiệp chướng, bằng không sẽ ảnh hưởng đến công phu nhập môn của khởi linh, trở thành ma lực gây chướng ngại. Ý nghĩa thực sự về mục đích gốc của Phật mệnh chính là chính kiến chính đẳng giác, nhằm tiêu trừ lục đạo luân hồi của nhân gian, chấm dứt sinh tử đắc đại giác ngộ, thành thầy của trời người không phiền não, nếu ai ai cũng như vậy thì Phật quốc vĩnh lạc, chính xác là mục đích gốc của Phật mệnh.)

"Trong kinh Phật có nói, tam giới duy thức, vạn pháp duy tâm, theo như tôi thấy, thức và tâm đương nhiên là tương đồng là một vật, và phải lấy tâm thức làm cánh cửa đi vào Phật địa, chỉ không biết như thế nào mới có thể nắm chắc được cốt tủy của nó? Về mặt lí trí, tôi luôn cho rằng trong ngoài như một, người và ta là một khối, nhưng về mặt ý chí sinh mệnh thì rất khó để đạt được, có lẽ túc nghiệp của tôi sâu nặng, chưa thể thoát khỏi cảnh giới này, tôi muốn thỉnh cầu tiêu nghiệp chướng, loại bỏ ham muốn của con người và luyện tập pháp thiền, không biết thầy có bằng lòng dạy tôi thiền định không?"

(Đáp: duy thức duy tâm đều là một cách nói chung chung, đạo lí ở bên trong vô cùng sâu, một chương sách không thể nào nói hết, cốt tủy thật sự của nó tôi cho rằng Tâm Kinh có thể nói là cốt tủy, tâm thức vốn không, chân không diệu hữu, đầu tiên là hợp nhất, sau đó lại bỏ luôn cái nhất này, đó chính là chân lí. Nội ngoại như nhất, nhân ngã nhất thể, nói ra thì dễ, nhưng thật ra rất khó, bởi vì trong ngoài như một, người và ta là một thể chính là trời người hợp nhất của Đạo gia, có thể cùng với vạn vật cùng bất diệt, Trang Tử tiên sinh, Lão Tử tiên sinh đều đã đạt đến cảnh giới này, đây chính là nhìn thấu nhân ngã, nhìn thấu nội ngoại, chính là một sự giác ngộ vĩ đại. Tập thiền định có thể làm theo các phương pháp được dạy trong cuốn sách này, cẩn thận gia tăng tu luyện, phương pháp trong cuốn sách này rất nhiều, nhưng phải dựa vào cơ duyên của từng người, muốn tiêu nghiệp chướng, loại bỏ dục vọng của con người, thì trước tiên phải học chế tâm.)

"Thường nghe Phật dạy không có quan niệm về số mệnh, nhưng mà vận mệnh ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của con người, cho dù kiếp này có duyên có thể nhập Phật đạo thì cũng là trải qua tu hành từ kiếp trước, pháp luân nhân quả có thể đưa con người đạt đến cảnh giới Thần Phật, cũng có thể đưa con người xuống thẳng địa ngục, tôi luôn cảm thấy Phật Bồ Tát siêu thoát nhân quả sinh tử cũng không hẳn là hoàn toàn không có liên quan đến nhân quả, nếu như không có liên quan, vậy thì làm sao Phật Bồ Tát chấp nhận kiếp nhập thế, cứu độ chúng sinh, phổ biến rộng rãi pháp môn sẽ có thể nhập thế được chứ? Ở đây chắc chắn có tồn tại chân lí cực ảo diệu, không biết linh thông của thầy đã ngộ ra cái lí này chưa? Mong được giải đáp nghi vấn này."

(Đáp: số mệnh đích thực là có, Phật Thích Ca Mâu Ni năm trăm kiếp tu hành, chẳng phải là số mệnh thành Phật đó sao? Địa Tạng Vương Bồ Tát thành tựu Bồ Tát cũng đã tu rất nhiều kiếp, có thể đọc Địa Tạng Vương Bồ Tát Bản Nguyện Kinh là có thể thấy được nét chính, số phận chính là số mệnh của kiếp trước. Phật giáo nói nhân quả, không nói số mệnh, chính là có ý muốn người người tích cực. Số mệnh là tiêu cực, cho nên bất luận quá khứ thế nào, từ bây giờ hạ quyết tâm học Phật, sẽ không có chuyện không thành Phật. Nhân quả nghiệp báo và thành Phật Bồ Tát có liên quan rất lớn, có nhân quả nhiều kiếp tu Phật, tự có thể đạt đến cảnh giới Phật, nếu nhiều kiếp tạo ác nghiệp thì sẽ xuống địa ngục. Bồ Tát thừa nguyện lại đến là vì nguyện lực của Bồ Tát, nguyện lực cũng là một trong những luật nhân quả, cho nên không thể tùy tiện nói lời nguyện. Đây chính là sự lăn chuyển của pháp luân, từng thứ kiềm chế lẫn nhau, sự ảo diệu trong đó là một dạng tuần hoàn, là luật trời vô cùng bất khả tư nghì.)

46. Tiếng lòng của tín đồ Thiên Chúa

"Thưa thầy Lư, Chào thầy! Cầm bút hồi lâu mà vẫn chưa thành văn, biết bao suy nghĩ đan xen không biết bắt đầu từ đâu. Tôi có vinh dự được đọc mấy cuốn (sách tâm linh), tối nay tôi đọc xong cuốn "Giữa linh và tôi", nhìn lên chiếc đồng hồ báo thức đặt trên bàn thì đã là mười hai giờ rưỡi rồi, hai đứa con tôi cũng đã ngủ say sưa, một dũng khí không thể mô tả kéo tôi ra khỏi giường, ngồi trước bàn viết muốn trò chuyện cùng thầy, đây đúng là cái duyên đó! Tôi thật may mắn khi lớn lên trong thời đại này và sống tại miền trung Đài Loan của Trung Quốc tự do. Có thể ở cùng miền trung với thầy thật sự khiến tôi cảm thấy phấn khởi và tự hào. Nay tôi viết tâm thư này gửi đến thầy, hi vọng có thể truyền đạt được suy nghĩ của tôi, thế nhưng văn vẻ của tôi nông cạn, thật lấy làm hổ thẹn, xin thông cảm bỏ quá cho tôi.

Thưa thầy Lư, mặc dù tôi là một kẻ ngốc bình phàm, nhưng cái tâm tìm cầu chân lí thì chưa bao giờ nguội lạnh, ngày ngày tôi tìm kiếm chân lí trong thiên hạ, ngày ngày muốn tìm kiếm một vị thầy chân chính, cho đến tận hôm nay, có thể xem như thời cơ đã đến rồi, tôi có thể được đọc (sách tâm linh), lĩnh hội được những câu trả lời chân lí, thật đúng là phúc phận mà tôi đã tu từ kiếp trước. Cảm xúc phấn khởi này không có bút mực nào có thể mô tả được, cũng có thể nói là khiến tôi tột cùng vui sướng đến nỗi nhảy nhót. Kẻ hèn này mới học nên còn nông cạn, không thể và cũng không có lẽ nào dùng những ngôn ngữ đẹp đẽ nhất để ca ngợi thầy và mô tả về thầy. Nghĩ thử, năm 17 tuổi tôi đã dẫn theo em trai tôi, tối tối đi bộ chầm chậm trên con đường đêm đến nghe đạo lí ở nhà thờ Thiên Chúa, một thời gian sau thì mới nhận lễ rửa tội tại nhà thờ Đông Thế và tin theo Thiên Chúa giáo. Hai chị em tôi rất được Cha sủng ái, Cha của nhà thờ đó là người Mĩ, tên tiếng Trung thì là họ La, sau cùng tôi được bầu chọn làm đại biểu giáo hữu của khu vực, thường tham dự các buổi hội nghị, và người trẻ tuổi nhất trong số các đại biểu chính là tôi. Sau cùng, tôi dự định làm nữ tu, bởi vì tôi một lòng hướng về Thiên Chúa, Cha cũng giúp đỡ tôi, tôi đã từng đi tham quan viện nữ tu Thánh Tâm ở thị trấn Điền Trung huyện Chương Hóa, sau khi trở về, vì rất nhiều hạn chế, đến nửa đường thì tôi đã từ bỏ rồi. Đến bây giờ nghĩ lại thật là hối hận, khi ấy vì sao ý chí của tôi lại không kiên định như vậy chứ! Ôi chao… nói tóm lại, có lẽ là tôi không được Thánh gọi rồi! Mẹ tôi là một tín đồ Phật giáo, bà ấy cũng giống như thầy, chưa bao giờ bà ngăn cản tự do tín ngưỡng của chúng tôi. Tôi biết rõ mẹ tôi không phải là một người phụ nữ bình thường, những gì mà bà đã làm không phải người bình thường nào cũng có thể làm được. Những lời vàng ngọc và những biểu hiện tương phu giáo tử [giúp chồng thành tựu đức hạnh, khéo dạy bảo con cái] của mẹ tôi thật sự là điển hình của sự thuần phác và chân thiện.

Hiện tại, vì trong quá khứ tôi đã chịu ảnh hưởng của mẹ tôi, nên mặc dù bản thân tôi tín phụng Jesus Christ, nhưng cái tâm tìm kiếm thiên đạo chân lí thì chưa bao giờ mất đi. Nay tôi có vinh dự được đọc đại tác phẩm của thầy, muôn nghìn nỗi thắc mắc trong lòng tôi cuối cùng đã được tháo gỡ rồi, và tôi cũng đã lĩnh ngộ được chân ý của nhiều phái tôn giáo. Đúng vậy, nghìn vạn pháp môn đều nằm ở một gốc là tâm, tu hành, tu tâm, tu thiện nói thì dễ mà làm thì khó làm sao! Chỉ có nỗ lực hơn, nỗ lực học tập và tinh tấn nhiều gấp bội, bất kì việc gì, tôi cảm thấy lấy chữ nhẫn làm đầu, làm người bình tâm tĩnh khí, nay tôi chỉ mong cầu như vậy mà thôi, các thần chúng hoặc Jesus Christ trên trời chắc chắn có thể giúp tôi đạt được sự an tâm thanh thản chân chính.

Kể từ khi đọc sách tâm linh của thầy, hễ gặp ai là tôi lại giới thiệu. Bữa nay tôi đưa con đi khám bệnh ở chỗ bác sĩ đông y, nghe bác sĩ đông y kể chuyện của chính ông ấy, ông ấy nói vì công việc kinh doanh của mình hưng thịnh nên những người cùng nghề không ưa, thế là cuối cùng họ đã tự dưng dựng chuyện, bí mật tố cáo bác sĩ là thầy thuốc hành nghề bất hợp pháp, vì thế mà dẫn đến rất nhiều phiền phức. Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến chuyện "phù tử tiên" giáng bùa làm hại thầy, nên tôi đã đề cập với bác sĩ, đồng thời giới thiệu sách của thầy. Nói thật lòng, chỉ cần tôi có thời giờ rảnh rỗi, tôi cam tâm tình nguyện tuyên truyền những lời tốt về thầy, để cho tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy sự hiện rõ của chân lí, có thể tu dưỡng bản thân, làm nhiều việc thiện. Phù tử tiên giáng bùa kia và kẻ bí mật tố cáo bác sĩ đông y chính là những người có tâm đố kị nặng, đố kị là con ma lớn nhất của nhân loại, đố kị đúng là không thể chấp nhận được! Nhưng mà chúng ta cần khoan dung bỏ qua cho họ, bởi vì ma quỷ ở trong tâm họ nhảy múa, tôi tin rằng bản tính của họ là lương thiện. Lòng người thật đáng sợ, nhưng vàng thật không sợ lửa luyện, chỉ cần là chân lí thì cái gì cũng không sợ. Chính xác như lời thầy nói, người xấu ở khắp nơi, trái lại chính nhân quân tử lại bị hại, hi vọng trong tương lai không xa, thế giới tương lai sẽ nhờ cậy vào thầy truyền bá chính khí đến mọi ngõ ngách, khiến cho tà ác không còn chỗ đứng, thế giới một chiều của chủ nghĩa duy vật sẽ bị thầy một chân đạp đổ, từ đó đại lục tối tăm có hi vọng tươi sáng rồi!

Kẻ hèn này càng viết càng nhiều, càng nói càng hứng thú, thật đúng là rượu ngon mà gặp tri kỉ thì nghìn chén cũng vẫn ít, cuộc nói chuyện bất đồng thì nửa câu cũng là nhiều. Mặc dù chưa được biết đến diện mạo thật của thầy, nhưng khi tôi viết những tâm sự này cảm giác cũng giống như được nói chuyện trực tiếp với thầy vậy. Tôi là một người cực kì ngay thẳng, có một nói một, có hai nói hai, bức thư này từ đầu đến cuối không có một lời nào là giả, nói tiếng lòng chính là tiếng lòng, là tiếng lòng của một tín đồ Thiên Chúa giáo đọc sách tâm linh. Từ sách của thầy, tôi biết đến một người anh em là Mã Thủy Kim cũng quen biết thầy, anh ấy là người ở địa phương chúng tôi, sau này xin thầy quan tâm nhiều đến anh ấy. Lan - độc giả trung thành, kính thư!"

Lá thư này đến từ tay của một tín đồ Thiên Chúa Giáo, sau khi đọc xong, mặc dù tôi thấy câu văn bình thường, nhưng tình cảm chân thành tha thiết rất cảm động lòng người, cả bức thư dạt dào tình cảm tuy hai mà một. Nhất là cô ấy nhắc đến một chữ "nhẫn", nhẫn nhịn, nhẫn nhục ba la mật thật không đơn giản làm sao. Tôi từng tức giận, nhưng khi cơn tức giận qua đi, chỉ còn lại sự hổ thẹn, tôi cũng có những lúc không nhẫn nhịn được, nhưng tôi nghĩ, thiên hạ rộng lớn như vậy, tôi giống như một hạt cải thôi, thế là có thể không tức giận nữa, nhờ đó mà tâm an lòng thanh thản, bình tĩnh ôn hòa được rồi.

47. Tâm đắc từ đọc sách

Ông Đường Hiến ở Đài Bắc có trí huệ lớn, ông ấy gửi đến những tâm đắc có được từ đọc sách như sau:

"Người đọc thuyết tương đối là tôi đây, có cảm nghĩ rằng trên một phương diện nào đó, thuyết tương đối thật sự không phải là thứ khoa học có thể giải thích được. Nó đã thoát li khỏi khoa học và tiến nhập vào lĩnh vực triết học, giống như Kinh Dịch bao la vạn tượng. Và tôi tin rằng trình độ cao nhất mà khoa học và triết học nghiên cứu tìm tòi rồi cũng sẽ tiến vào lĩnh vực huyền học.

Chân lí tức là đạo, nó tương đương với trí huệ được nói đến trong các bản văn của người Hebrew, hay chính là bát nhã của Phật giáo. Trí huệ khác với thông minh, ánh sáng mà trí huệ tỏa ra giống như kiến giải của Einstein về ánh sáng, nó hoạt động trong tất cả mọi thứ, lan tỏa và tiếp cận mọi nơi, chứ không phải cái mà Newton gọi là ánh sáng, luôn luôn ở trên một đường thẳng. Quan điểm của Newton về ánh sáng có thể ví với thông minh, nó có thể chiếu sáng một mặt của đối tượng, nhưng không thể chiếu sáng mặt sau của đối tượng.

Khi con người lột bỏ lớp ngụy trang tự nhiên, từ trong hỗn loạn thấy được trật tự, khi từ trong sự khác biệt sản sinh ra sự nhất trí thì sẽ phát hiện ra cảnh tượng hiện lên, so với ban đầu thì càng khó nhận ra và tách biệt hơn. Chân lí luôn luôn đòi hỏi vượt qua tất cả cảm nhận, hi sinh tất cả mọi nội dung để đổi lấy, chân lí phải thoát li khỏi cảm giác và kinh nghiệm chủ quan để mà đứng độc lập. Thế giới mà nhân loại thật sự biết đến chỉ là thế giới được tạo thành từ những cảm quan yếu ớt của họ. Khi con người loại bỏ sự tiếp thu cảm giác và những ấn tượng được lưu trữ trong trí nhớ thì nội dung cũng hoàn toàn không còn nữa. Mọi người có xu hướng có thành kiến và cảm nhận bẩm sinh về một số ít người xung quanh họ, những thành kiến và cảm nhận như vậy không chỉ mỗi người mỗi khác mà còn khác với những người khác. Tôi tin rằng mọi người đều sống trong thế giới khác nhau của riêng họ, nhưng lại không có cách nào nói ra chỗ khác nhau đó, đối với bất kì người hoặc vật nào nếu công khai xuất hiện giữa họ, thì cảnh tượng hiện lên sẽ giống như tiến vào thế giới của kính vạn hoa, họ biến những sự việc đơn giản thành phức tạp không thể tưởng tượng được, người này trong con mắt của họ trở thành kẻ địch, bạn bè, ma quỷ, thiên sứ, trí giả, kẻ ngu… muôn vàn hóa thân, và họ luôn luôn không để ý đến sự thật đơn thuần nhất: người đó chỉ là một con người, một người bình thường như bất kì ai trong số họ.

Cùng một lượng thuốc mê, nhưng mức độ mê của mỗi người khác nhau, cùng một vật, mức độ nguy hại sâu hay nông, có lợi hay bất lợi, được hay mất tùy theo mỗi người mỗi khác. Dường như vạn sự vạn vật trong thiên hạ đều do mối quan hệ tương đối lẫn nhau mà cấu thành nên sự tồn tại hư vô về đối phương, khi sớm có được chỗ đứng tuyệt đối thì quan sát ngược lại, vạn vật đều trống rỗng. Chỗ đứng tuyệt đối đại diện cho chân lí, nó vĩnh viễn nửa ẩn nửa hiện giấu bên dưới mái vòm nhựa mờ, mái vòm mờ mờ ảo ảo trên bề mặt này mang đến cho chân lí một lí luận luôn luôn thay đổi, làm đến mức bóng mà nó hiển thị không chỉ bị sai kiểu còn bị biến dạng, con người từ cái mái vòm như vậy mà nhìn ra, có thể nhìn thấy thấp thoáng thế giới khách quan ấy có bao nhiêu mối quan hệ ổn định hiển nhiên và các sự kiện tuần hoàn, đó chính là con đường mà nhân loại nên dốc sức tìm kiếm.

Con người phải chịu những thành kiến mà thế giới trải nghiệm thường ngày tồn trữ, và rất nhiều hạn chế bẩm sinh, mà vẫn không có cách nào đột phá tiến vào một thế giới khác, nhưng chức năng cảm giác vẫn truyền đi một trật tự tuyệt vời, như thể thực tế khách quan của tri giác thực sự có khả năng tồn tại, mặc dù không có ai dám nói màu đỏ hay âm điệu mà người đó cảm giác liệu có giống với cảm giác của người khác không. Khi những ảo giác cảm quan này được siêu thoát, các nhà triết học và khoa học đưa ra kết luận đáng ngạc nhiên, mọi vật thể khách quan chỉ là sự tổng hợp các thuộc tính khác nhau của nó, và những tính chất này chỉ còn là cái bóng trong cảm quan. Cho nên, toàn bộ vũ trụ khách quan do nguyên tử và các hành tinh hợp thành trên thực tế không hề tồn tại.

Sự hiểu biết về chân lí thường đòi hỏi phải vượt quá giới tuyến của cuộc sống vật chất thực tế và tâm linh siêu hình, để tìm một điểm tĩnh duy nhất trong sự thay đổi thiên biến vạn hóa, mặc dù vẫn không dám khẳng định điểm tĩnh này liệu có khả năng tồn tại hay không, nhưng điểm tĩnh này vẫn có thể tồn tại khách quan trong tâm, để nó dẫn dắt chúng ta qua vô số đêm dài tăm tối, một dạng cảm quan và trí lực, đêm đen có tính hai tầng. Và bằng cách tiến từ cảnh giới này nhập vào cảnh giới khác, liên tục tìm kiếm như vậy, chỉ cần điểm tĩnh ở trong tâm, như vậy thì sự điềm tĩnh và thỏa mãn của tinh thần sẽ dễ dàng có được, và khiến cho những sai lầm do thành kiến chủ quan của bản thân sinh ra được giảm thiểu đến mức thấp nhất."

Kẻ hèn này đọc bài viết trên, trong lòng rất cảm động, đặc biệt viết ra tâm đắc của mình như sau:

Thứ nhất, lĩnh vực huyền học thực tế bao hàm khoa học và triết học, linh quang của linh hồn hóa cầu vồng là trình độ cao nhất mà khoa học tìm kiếm, liên quan đến chân lí cuộc đời, trí huệ và bát nhã có tên gọi khác nhau nhưng thật ra là giống nhau. Con người và con người cũng như vậy, cùng là con người, có sự phân biệt người thông minh và người ngu dốt, trí huệ có sự phân biệt cao thấp, cho nên thế giới của mỗi người không bao giờ tương đồng, lời này rất sâu sắc.

Thứ hai, chân lí chính là đạo, đạo và Phật bình đẳng không hai không khác, cũng là tên gọi khác nhau nhưng thật ra là giống nhau, đạo là khả đạo, phi thường đạo, Phật là bất khả thuyết, chân lí cũng thế, chân lí Đạo - Phật không một vật một việc một người nào có thể hình dung được, vì thế không thể nói, nói ra thì lại là sai mất rồi! Cho nên, nó vĩnh viễn nửa ẩn nửa hiện được giấu bên dưới mái vòm nhựa mờ, lời này rất vi diệu.

Thứ ba, đeo đuổi cuộc sống là một kiểu tuần hoàn, phải không ngừng vượt lên, rồi lại vượt lên, đi tìm cầu chính kiến và chính giác, có chính kiến tức là có chính giác, nay linh hồn tôi siêu việt, chẳng phải là sự đột phá lớn của giới tuyến tinh vi hay sao?

48. Thư của người ủng hộ và nỗi khổ tâm của tôi

"Thầy Lư xin rộng lòng soi xét: Từ rất lâu trước đây, kẻ hèn này đã đọc những tác phẩm lớn mà thầy viết, đối với những siêu năng lực mà thầy kể đến trong sách, tôi hoàn toàn tin tưởng và nghe theo, vì bình thường tôi vốn là người trung tín, cũng không có khả năng nói khoác, huống chi đệ tử Phật tu cửa Phật, là quyến thuộc thân thích của Như Lai, sao có thể có chuyện nói khoác, đây cũng là một trong những đạo lí.

Thứ hai, kể từ khi đi học đại học, tôi đã yêu thích triết học, nghiên cứu cùng tận chân lí, đến năm thứ hai đại học, trong một dịp tình cờ tôi đã được biết đến Phật học, tôi cho rằng triết lí của nó thật sự giống với triết học, tôn giáo khác không bì kịp, dần dần khơi dậy trong tôi niềm hứng thú nghiên cứu, đặc biệt là thiền học, lời ít ý nhiều, đơn giản và súc tích, nó thực sự lôi cuốn, nhưng sức lực tôi không đủ, biết đến pháp môn giác ngộ vĩnh hằng này, nếu không phải là bậc đại trí huệ thì thật rất khó thành tựu, huống chi phàm phu ngu phụ, cho nên chỉ còn nhờ cậy pháp môn Tịnh độ, có đầy đủ tín nguyện hạnh, niệm Tự Tính Quan Âm, thu về lục căn, tịnh niệm liên tục, như vậy sẽ không khó để thuần thục nhất niệm. Vì đối với Phật học tôi mới chỉ đạt được hiểu biết một chút bề ngoài, cho nên khi đọc đại tác phẩm của thầy, tôi lập tức tin tưởng sâu sắc không nghi ngờ gì, tôi đã có được một mức độ hiểu biết sâu hơn về tình hình của thế giới tâm linh, lợi ích có được không hề nông cạn, tôi thật sự lấy làm vinh hạnh khi được đọc sách của thầy!

Tôi vốn nghĩ sẽ là một độc giả âm thầm, nhưng mỗi lần đọc sách của thầy thấy nói đến có người cho rằng những gì thầy nói đều là bịa đặt, đều là ba hoa khoác lác, tôi thật sự bực mình, nên tôi không thể im lặng được nữa, rốt cục "đức bất cô tất hữu lân" [lời của Khổng Tử, nghĩa là người có đạo đức thì không cô độc, nhất định sẽ có người cùng chí hướng đến đến làm bạn cùng mình], tiếng bước chân thình thịch trong hang trống vẫn sẽ có người cộng hưởng đồng cảm, hà tất phải canh cánh trong lòng, nhất là đại đức có đầy đủ huệ căn, vào cái thời ham muốn vật chất tràn lan, đạo đức sa sút ngày nay, Trời Người kì vọng vào tiếng gầm sư tử của đại đức mới thiết tha làm sao. Mong đại đức luôn cố công học hỏi để bản thân được thập toàn.

Hoàng Bách Thành kính thư!"

Nhận được bức thư của người ủng hộ này, trong lòng tôi tràn đầy xúc động và cảm kích, thư gửi đến tôi rất nhiều, trên mấy chục nghìn lá thư và vẫn còn liên tục tới tấp bay đến. Điều mà tôi cảm thấy vô cùng có lỗi là tôi không có thời gian để trả lời những thư ấy, bởi vì mỗi ngày trung bình tôi nhận được hơn một trăm lá thư, thư nhiều như tuyết rơi, như nước thủy triều, có người còn kèm theo cả phong bì hồi đáp có dán tem. Tôi đã nghĩ hết mọi cách để trả lời họ một tiếng, nhưng thời gian có thể sẽ rất lâu mọi người mới nhận được, có lẽ phải vài năm sau mới nhận được thư trả lời, bởi vì hiện tại thư độc giả gửi đến đã chật ních mười hai cái hòm lớn rồi. Mỗi ngày tôi trả lời mười bức thư, khả năng phải hơn mười năm mới trả lời hết, tôi rất xin lỗi, vô cùng xin lỗi. Nói thật lòng, tấm thịnh tình của mọi người khó mà khước từ, nhưng mong các vị đại đức suy nghĩ cho lập trường của tôi, mọi người có lẽ sẽ hiểu được cảnh ngộ của tôi. Hàng ngày tôi nhìn đống thư mà thở dài, món nợ thư này tôi không có cách nào trả hết, nếu có chỗ nào thiếu sót, mong hết sức thứ lỗi, không phải là tôi không từ bi, mà là tôi không thể nào đủ lực, có xuất hiện mười Lư Thắng Ngạn cũng không đọc hết được, đây chính là nỗi khổ tâm trong lòng tôi.

Ngoài ra, tôi cũng đặc biệt tuyên bố, tôi đã dừng việc thần toán cho người ta, xin đừng đến tìm tôi nữa, không lại mất công tìm đến mà không được việc gì, vừa phí tiền vừa lãng phí tinh thần, kết quả là đến nhà tôi thì tôi lại chẳng thể thần toán. Lí do là như thế này, ban đầu tôi viết sách, tôi không ngờ lại gây nên sự chấn động lớn đến vậy, không chỉ những người tin theo từ mọi hướng đổ về, mà còn có rất đông người từ khắp nơi kéo đến tận nhà, số lượng người đến ngoài sức tưởng tượng của tôi, từ quan chức cao cấp đến những người dân bình thường, đủ mọi hạng người đều có. Có người mộ đạo đến cầu đạo, có người cố ý đến thăm dò, có người đau đớn hoạn nạn, có người gặp chuyện khó khăn không cách giải quyết, dòng xe dòng người kéo đến như nước chảy rồng cuốn. Tình huống này nằm ngoài dự liệu của tôi, ban đầu tôi dùng hết tinh thần không ngủ không nghỉ để đáp ứng biển người ùn ùn kéo đến này, nhưng rốt cục tôi đã nghĩ sai rồi, dòng người này vĩnh viễn sẽ không có ngày dừng lại, còn thể lực của tôi đã không thể nào chống chịu được nữa. Tôi không có cách nào tĩnh tâm lại để ngồi thiền luyện công, không có cách nào đọc sách viết sách, linh lực có hiện tượng hao mòn, tôi đã hoàn toàn không còn thời gian để tĩnh tu nữa rồi, ông trời ơi! Tôi phải làm sao? Tôi phải làm sao? Tôi thật sự muốn hét lớn, hãy tha cho tôi đi! Cầu xin mọi người, tôi gần như muốn quỳ xuống để cầu xin những người khách kéo đến, bởi vì tôi đã không còn một phút nào có thể nghỉ ngơi.

Cho nên, tôi dán lên trước cổng nhà mình một tấm giấy màu đỏ viết "Dừng thần toán, miễn tiếp khách". Vừa dán lên thì lập tức bị những người khách xé bỏ, tôi dán, họ xé, tôi dán, họ xé, giống như chơi trò chơi vậy. Tôi giải thích và xin lỗi những người khách, chẳng có ai hiểu cho, tôi biết họ từ rất xa đến đây, nếu không được giải đáp thì sẽ rất thất vọng, nhưng nếu tôi cứ tiếp tục như thế này thì cũng là đi vào đường chết (không có cách nào tu hành linh tu được), vì vậy mà tôi từ chối hết. Có rất nhiều người tính tình nóng nảy, dùng gạch đập vỡ chuông cửa nhà tôi, có người thậm chí còn trèo tường vào trong, cứ ngồi ở trong sân không chịu đi, có người tức giận dùng chân đạp vỡ cái cửa gỗ nhà tôi. Nói thật, tôi hiểu rằng những người này đều không có gì sai, có người dùng dao chém vỡ tấm biển hiệu bằng gỗ của chúng tôi, vì họ hận rằng họ từ xa xôi tìm đến nhà tôi, kết quả là tôi lại đóng cửa không tiếp khách. Tôi hoàn toàn không có ý trách họ, tôi có trách thì chỉ có thể trách chính mình, là bản thân tôi không tốt, bởi vì trong ba cuốn sách tâm linh trước tôi đã không nói rõ!

Nửa đêm một giờ sáng, hai giờ sáng, ba giờ sáng đều có người đến gõ cửa, buổi đêm tôi không có cách nào ngủ được. Không chỉ như vậy, hàng xóm xung quanh cũng bị người ta hỏi thăm rất phiền phức, hàng xóm láng giềng của tôi dù có kiềm chế rất tốt cũng không thể chịu đựng mãi sự phiền nhiễu này. Tôi thì đã đến mức độ ăn cơm cũng không thể ăn, đi ngủ cũng không thể ngủ, căn bản là đừng nói đến chuyện yên lặng ngồi thiền luyện công, hễ ngồi xuống là ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ cửa "binh binh binh". Những ngày tháng này của tôi thật sự sống chẳng như một con người. Đương nhiên, những lá thư khích lệ từ khắp nơi gửi đến rất nhiều, rất nhiều người tu đạo cũng vồn vã hỏi thăm và chỉ giáo, những điều này thật sự khiến người ta cảm động, nhưng tôi làm sao có thể tự xử lí được? Những phiền não này là do tôi tự chuốc lấy, tôi phải làm sao?

49. Lời kết

Khi tôi mới có được kì duyên, tôi thường cảm thấy, Đài Loan đảo ngọc là mảnh đất trong lành do trời để lại, đồng bào cả nước ta đối với mảnh đất quý trên biển này, tấm lòng cảm kích thật khó nói thành lời. Sự phát triển của Chân Phật Tông đòi hỏi lòng bác ái và nhân từ, cũng là sự xuất hiện của một nhân duyên lớn, với những khát vọng lớn lao. Sự phát triển của văn hóa phương Đông, sứ mệnh khôi phục văn hóa Trung Quốc đặt trên vai chúng ta, như vậy chúng ta mới xứng đáng với các Thánh Hiền tổ tiên các thời đại, với các đại đức tôn giả các thời đại, với các vị tổ sư các thời đại.

Theo cá nhân tôi biết, việc tu hành thật sự không thể miễn cưỡng, tôi viết năm cuốn sách tâm linh này, từ nông tới sâu, dùng tư tưởng dễ hiểu để giải thích những câu chữ tinh hoa trong kinh Phật thâm sâu ảo diệu phức tạp. Tôi tin rằng có thể khiến mọi người có được ấn tượng sâu sắc, nhiệm vụ truyền bá rộng rãi Phật pháp cũng có thể có nhiều đất dụng võ. Nếu như thế rồi mà vẫn không thể lôi cuốn con người đi vào con đường thù thắng thì thật sự tôi cũng không còn cách nào nữa. Nếu có người sau khi đọc xong năm cuốn sách tâm linh này mà vẫn không tin, thì người đó thật sự là hòn đá ngu dốt nhất trên đời, nhân duyên như vậy không dám miễn cưỡng, xin người không tin thứ lỗi, tôi chỉ còn biết lắc đầu mà nước mắt đầm đìa, bởi vì tôi cũng bó tay rồi! Thật hổ thẹn!

Năm cuốn sách tâm linh của tác giả là một sáng kiến chưa từng có, chú trọng vào các ví dụ thực tế, cũng chỉ ra các nguyên tắc và phương hướng của Phật giáo, không phải là lí luận suông trống rỗng. Tôi viết năm cuốn sách này, nếu không có linh lực gia trì thì không thể viết được. Sự gia trì và chỉ thị của Phật lực khiến tôi khi viết sách cũng thường xuyên có thể nghe thấy Phạn âm từ không trung truyền xuống, rõ ràng và trang nghiêm không gì sánh bằng. Rất nhiều Thần Tiên và Phật Tổ đều ca ngợi rằng: "Đúng là chưa từng có, đúng là chưa từng có, Liên Sinh là sinh ra từ hoa sen, hoa sen có thể hóa sinh." Do kiến thức và hiểu biết của tôi còn hạn chế, rất nhiều đại đức tôn giả, tì kheo xuất gia cũng thường gửi thư đến để chỉ giáo cho tôi, thật sự rất cảm kích, rất cảm động. Tôi thật sự hi vọng người theo pháp này mà tu, đạt được trí huệ thậm thâm, đều có thể lĩnh ngộ, và có đại thành tựu đại viên mãn. Trên thực tế Phật pháp giống như đại dương bao la, tôi từng bế quan ẩn tu, phát hiện ra vào lúc suy nghĩ mênh mông trong vắt, có sự kết tinh thành trí huệ không gì sánh bằng, vượt lên trên rất xa so với trí huệ khác, giống như nghìn mỏm đá tranh nhau nổi bật, vạn khe nước tranh nhau dòng chảy, có thể dung hợp và thông suốt, trở thành chân lí hàng vạn hàng tỉ năm không thay đổi. Nay Chân Phật Tông của tôi có được có duyên này, tôi đắc đạo công, tôi cũng thề rằng: "Cùng tắc độc thiên hạ kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ." [Câu nói của Mạnh tử, nghĩa là bần cùng thì giữ được mình, thành đạt thì tạo phúc cho thiên hạ.]

Thừa nhận sự tồn tại của linh hồn là phá bỏ mê tín, chúng ta cần xây dựng chân lí công bằng về thiện ác nhân quả báo ứng, phải xây dựng lòng tự tin, tự tin mới có thể tự cứu mình, tự cứu mình mới có thể cứu người khác, phát triển rộng khắp bồ đề tâm. Chúng ta còn có sức mạnh của niềm tin và ý chí, phải ngẫm lại, con người ta làm sao cứ mãi lao tâm khổ tứ, cứ tầm thường xoàng xĩnh mà đi hết cuộc đời này chứ?

Hoàn thành cuốn sách Khởi Linh Học cũng là hoàn thành một tâm nguyện lớn của tôi, cũng có thể nói là tôi viết sách tâm linh, cuối cùng cũng xem như có một đoạn kết. Tôi hi vọng mọi người đừng đến tìm tôi nữa, cũng đừng viết thư cho tôi, bởi vì tôi vẫn đang trong quá trình tự tu học, không thể chịu quá nhiều sự quấy rầy. Bởi vì hiện tại người tìm đến tôi quá nhiều, mỗi ngày nhận thư cũng trên trăm bức, thử nghĩ mà xem một đống thư như vậy sẽ chiếm hết toàn bộ thời gian của tôi. Ai ai cũng đến tìm tôi khiến tôi không có chút thời gian nào tĩnh tâm xuống mà tu luyện, nguyên nhân mà tôi đóng cửa từ chối tiếp khách là ở đây. Tôi viết sách chỉ là để ấn chứng đường lối tu hành, không phải là để xem bói cho người ta, mọi người không nên hiểu sai mới phải. Chỉ mong mọi người đặt mình vào hoàn cảnh của tôi để mà nghĩ cho tôi một chút, đừng ích kỉ mà làm hại đến công hạnh của tôi. Sau này nếu có ngày tôi thành tựu, tự nhiên tôi sẽ hiên ngang bước ra, còn bây giờ thì tôi vẫn còn non lắm! Xin thứ lỗi, thứ lỗi!

Tin hay không tin, tôi đều cho rằng là duyên phận, kinh Hoa Nghiêm có nói: "Như Lai thuyết pháp cũng như thế, thành tựu vô biên pháp giới trí luân, thường tỏa ánh sáng trí huệ vô ngại, trước hết là chiếu đến các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, Chư Thiên, Sơn Vương, tiếp đó là chiếu đến các vị Duyên Giác, tiếp nữa là chiếu đến Thanh Văn, rồi chiếu đến những chúng sinh có thiện căn, tùy theo tâm khí mà thị hiện trí huệ quảng đại. Sau đó phổ chiếu tất cả chúng sinh ngay cả xấu tà cũng đều chiếu tới. Tuy nhiên, nhật quang đại trí của Như Lai không làm nên ý niệm, trước tiên ta chiếu tới Bồ Tát đại hạnh, sau đó chiếu tới ngay cả chúng sinh xấu tà. Chỉ tỏa ánh sáng, bình đẳng chiếu khắp, vô ngại vô chướng, không có sự phân biệt nào. Vì trí tuệ chúng sinh có cao có thấp, do vậy mà chiếu sáng có sự khác biệt trước sau." Cho nên, tin hay không tin vẫn là vì trí tuệ cao thấp không bao giờ tương đồng, người tò mò, người muốn thăm dò, người muốn cười chê thì còn thuộc hạng kém hơn thế nữa, vậy thì thật sự giống như ánh sáng mặt trời treo trên không trung, nhưng mà có người bị mù, người mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời cho nên không thừa nhận rằng có ánh mặt trời tồn tại!

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là bậc Chân Tiên chí cao vô thượng, tôi vốn là một con người thô tục, sự giáo hóa của Ngài khiến tôi cả đời cả kiếp này cảm kích. Ngài đã truyền thụ cho tôi những chân lí giữa trời đất, tôi từ một kẻ vô tri tiến nhập vào lĩnh vực của các bậc Thánh. Thế giới tâm linh đa dạng này, nếu không có sự giới thiệu của Ngài thì tôi chẳng thể viết ra được. "Thái thượng nhân gian mây nước xa xăm Tiên Đồng Tiên Nữ xếp hàng nghênh đón Cờ bảy sắc, lọng lông chim, cưỡi xe mây có cánh Rời chốn nhân gian nhập chín tầng mây Bốn biển vang dội tiếng ngợi ca Ngũ nhạc thở than rừng xót xa Từ nay nhân gian mất người tài Trải qua tam giáo lại hoàn nguyên." Đây là bài kệ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh để lại cho tôi, ngoài báo đáp Ngài ra, thật sự tôi không biết nói lời cảm tạ nào khác.

(Hết)

Mục lục