📗

026. Sức mạnh huyền bí

image

Sức mạnh huyền bí

🪷 Phát huy cao độ sức mạnh tinh thần

Văn tập: 026 Xuất bản: 01/1977 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Trong vũ trụ mờ mịt này, có rất nhiều "năng lượng" tồn tại, trong đó tự nhiên có những năng lượng thuộc chiều không gian từ chiều thứ tư trở lên. Các nhà khoa học, khi chưa chứng minh được, đã thực sự cảm thấy kinh ngạc và khó hiểu trước những hiện tượng đặc biệt trong vũ trụ. Vì vậy, tôi cũng cho rằng việc nghiên cứu sâu về những năng lực huyền bí của vũ trụ là điều cần thiết, để mọi sự thật có thể được phơi bày trong khoa học.

Văn minh của nhân loại càng phát triển thì những điều bí ẩn cũng càng nhiều, không phải vì văn minh thịnh vượng mà những điều bí ẩn giảm đi. Tôi có thể nói rằng, trong quá trình con người nỗ lực tìm hiểu về những sức mạnh huyền bí của vũ trụ, niềm nhiệt thành của họ đối với sự chi phối mầu nhiệm của tôn giáo vẫn không hề suy giảm. Chủ yếu là do thời gian đã quá lâu, rất nhiều phép thuật kỳ diệu đã bị con người lãng quên trong ký ức. Vậy những phép thuật này có thực sự linh nghiệm không? Tại sao chúng vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay? Liệu chúng có thực sự có sức mạnh không? Sức mạnh đó đến từ đâu và có giá trị gì không?

Khi cầm bút viết cuốn sách này, tôi đã cân nhắc rất nhiều, viết hay không viết, điều này cứ trăn trở mãi trong lòng. Bởi vì nếu viết ra, phần lớn những điều này đều là pháp thuật hữu hình, khác xa với pháp tướng vô hình của Đại thừa, không tránh khỏi việc một số cao tăng đại đức sẽ cho rằng tôi đang cổ xúy tiểu thuật, đi ngược lại với việc hoằng dương đại pháp. Ngoài ra chắc chắn sẽ có người cho rằng tôi lại đang bàn chuyện huyền hoặc, làm gì có chuyện như vậy. Sau khi suy đi tính lại, tôi nghĩ là mình vẫn nên viết! Bởi vì đây dù sao cũng là những điều thầy đã truyền cho tôi, giờ tôi công bố ra để tránh thất truyền, hơn nữa những pháp thuật đơn giản này dường như có thể trở thành điểm tựa cho việc nghiên cứu về "năng lượng" của con người, ít nhiều cũng có ích lợi cho mọi người.

Thần lực của quỷ thần thuộc về không gian chiều thứ tư trở lên, tôi là người tin vào sự tồn tại của quỷ thần. Trong những cuốn sách trước đây của tôi, tôi thường nhấn mạnh ba điểm: Thứ nhất, công nhận sự tồn tại của quỷ thần để phá bỏ thuyết vô thần của cộng sản. Thứ hai, khuyên mọi người nên có tín ngưỡng tôn giáo để tăng cường và thăng hoa sức mạnh tinh thần. Thứ ba, hy vọng mọi người làm điều thiện, tin vào sự thật của nhân quả báo ứng, để tâm hồn nhân thế không rơi vào vực thẳm tội lỗi. Có như vậy mới có thể cứu vãn sự lệch lạc tinh thần của con người hiện đại, không bị lạc lối trong những thụ hưởng vật chất. Đây là ba ý nghĩa lớn khi tôi viết sách tâm linh, tin rằng thần minh trời đất am hiểu tâm ý của tôi sẽ thấu tỏ điều này.

Tôi nhớ khi Tiến sĩ Văn học Tạng Quảng Ân từ Nhật Bản trở về, đến nhà tôi học Đạo pháp, ông đã nhiều lần đề xuất: "Thầy Lư à, trong cuộc đời này thầy nên hệ thống hóa một cách tốt đẹp các pháp thuật của Đạo gia Trung Quốc và các pháp thuật hữu hình vô hình của Phật gia. Công việc này vô cùng quan trọng, hơn nữa trong những quyển sách này có thể chỉ dẫn cho mọi người về tầm quan trọng của tu hành và tu thiện. Công việc như thế từ xưa đến nay chưa từng có, nay trời giao trọng trách này cho thầy, không thể phụ ý trời được, công việc biên soạn lớn lao này, chỉ có thầy mới làm được."

Khi đó tôi đã trả lời ông ấy rằng: "Đời người quả thật rất ngắn ngủi, tôi rất vui lòng làm việc này, nhưng chỉ e năng lực không đủ, đành phải từng bước từng bước mà tiến, tôi không dám nói những gì mình viết ra sẽ tốt đến mức nào. Nhưng, cứ hết sức mà làm vậy, mong chư Phật từ bi, trợ giúp tôi một tay, khiến tôi an lạc, thế là mãn nguyện rồi!"

Gần đây nhiều bậc trưởng bối, bạn bè, hễ gặp tôi là đều nói thế này: "Lư Thắng Ngạn này, anh đã nổi danh rồi, phải cẩn thận kẻo cây cao đón gió, bị tiếng tăm làm hại đấy." "Lư Thắng Ngạn này, có người đang ghen tị với anh, muốn đẩy anh vào chỗ chết mới thôi đấy! Đắc tội với quân tử còn được, chứ tuyệt đối không thể đắc tội với tiểu nhân!" "Anh như cái đinh nhô ra, thế nào cũng bị người ta đập cho bẹt thôi."

Khi mới nghe những lời này, tôi thừa nhận mình đã khóc, khóc đến đau lòng tuyệt vọng, trong tâm hồn mình, tôi chẳng khác nào một con chim bị thợ săn bắn trọng thương. Tuy nhiên, sau khi khóc xong, tôi lại đứng dậy mạnh mẽ, tôi phải phớt lờ những lời phỉ báng và bôi nhọ đầy ác ý của những kẻ đố kỵ. Chư Phật Bồ Tát dạy tôi rằng: "Đời người chỉ có một lần sinh và một lần tử, giữa sinh tử ấy chỉ là hai chữ 'tâm an', mọi việc chỉ cần cầu tâm an mà thôi, tâm nếu an được thì mọi phiền não sẽ hoàn toàn tiêu tan. Và tất cả những người thành đạo, không ai là không phải đội vương miện hào quang sau những thử thách gian khổ." Đúng vậy, trong một đất nước có chính quyền sáng suốt và pháp trị, tôi không sợ bị phỉ báng, không sợ bị bôi nhọ ác ý.

Xin lưu ý độc giả khi đọc cuốn sách này, nội dung trong sách này, tin hay không là tùy bạn, đây là sự phát huy cao độ của sức mạnh tinh thần, là một phương pháp mượn vật để thay thế. Học những điều này hoàn toàn dựa vào sự thống nhất của sức mạnh tinh thần, dựa vào việc phát huy sức mạnh tinh thần mà biết được có hiệu quả hay không. Vì vậy, những phép thuật này hoàn toàn phụ thuộc vào tinh thần của người thực hiện, sức mạnh tinh thần càng lớn thì năng lực càng mạnh, sức mạnh tinh thần càng nhỏ thì năng lực càng yếu, đây là quy luật tương đối. Ngoài ra còn có một số pháp bí mật về tu hành độ vong cũng sẽ được công bố trong sách này.

Vì tôi đang rất bận rộn với việc viết sách, đồng thời phải tu luyện ẩn tu, lại còn phải làm việc bên ngoài, nên tôi mong độc giả đừng tìm đến gặp tôi. Dù quý vị có đến cũng chẳng sao, nhưng tốn tiền tốn công, thật không đáng. Tôi thường xuyên vắng nhà. Ngoài ra, xin độc giả đừng gửi thư cho tôi, hiện thư chất cao như núi, thực sự không thể trả lời hết được. Mỗi ngày nhiều nhất là 500 lá thư, ít nhất cũng có 100 lá, mong quý vị thông cảm! Thông cảm!

(Ghi chú: Cuốn sách này được hoàn thành vào tháng 10 năm 1976, khi đó tác giả Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đang sống tại Đài Trung, Đài Loan; hiện nay đã di cư đến Seattle, Hoa Kỳ. Thông tin liên lạc được đính kèm dưới đây.)

Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn:

Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 U. S. A.

01. Kỳ tích về một dòng nước giữa sông

Vào tháng 6 năm 65 [1976], vào giờ trưa, khi tôi đang ở nhà hàng chay Hoành Lâm ở Đài Bắc, có một cụ già đi nhầm phòng, sau khi ra ngoài lại quay đầu hỏi tôi: "Xin hỏi anh có phải là Lư Thắng Ngạn ở Đài Trung không?" "Vâng, đúng vậy." - Tôi gật đầu. Tôi thắc mắc không biết vị này là ai và sao ông ấy nhận ra tôi. "Tôi đã từng nghe anh diễn thuyết tại Viện Lập Pháp, tôi ở làng Bích Hồ, Nội Hồ, tên tôi là Chu Bang Đạo, tôi là bạn thân với đại biểu Lý Quán Nhất." "Ồ! Thì ra là Chu Bang Đạo, thưa ông Chu, mời ông ngồi."

Chúng tôi chắp tay chào nhau. Ông Chu Bang Đạo là giáo sư tại Học viện Văn hóa Trung Quốc kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học thuộc Học viện Học thuật Trung Hoa, hiệu là Khánh Quang, người Thụy Kim, Giang Tây, là một cư sĩ cao tuổi. Lần đầu gặp ông Chu Bang Đạo, tại sao tôi lại biết về ông ấy? Nguyên do là phu nhân của ông, bà Chu Dương Huệ Khanh có một cuốn sách truyền kỳ lưu truyền, đó là cuốn "Ký sự Chu Dương Huệ Khanh gặp Địa Tạng Bồ Tát", hơn nữa tôi biết nước chú Đại Bi của bà Chu Dương Huệ Khanh nổi danh thiên hạ, đã từng cứu sống rất nhiều người, hiệu nghiệm phi thường.

Thế là, tôi nói chuyện với ông Chu về việc nước chú Đại Bi, ông kể: "Nước chú Đại Bi của Huệ Khanh được truyền từ một vị sư già, và dường như có một lực lượng huyền bí nào đó hướng dẫn bà ấy lấy một dòng nước giữa sông. Thế nào là một dòng nước giữa sông? Không ai biết cả. Một lần đi thuyền, kỳ diệu thay, bà nhìn thấy giữa dòng sông có hai chiếc bè tre song song với nhau, giữa hai chiếc bè đó là một dòng nước. Bà liền nảy ra ý tưởng, lập tức lấy đồ đựng nước để múc nước. Sau khi mang nước về nhà, bà đặt trước tượng Quan Thế Âm Đại Sĩ, hàng ngày tụng chú Đại Bi. Thật kỳ lạ thay, 'dòng nước giữa sông' này kết hợp với chú Đại Bi đã phát ra hào quang, sáng long lanh. Huệ Khanh không biết nước chú Đại Bi này linh nghiệm ra sao, nên đã thử cho một con chó hàng xóm uống một chút. Con chó này rất hung dữ, hay cắn người, bà bèn cho một ít nước vào thức ăn của nó và thầm niệm: 'Này chó ơi, đây là nước chú Đại Bi của Đức Quan Thế Âm Đại Sĩ, nước này ban phúc cho tất cả chúng sinh, nếu có linh ứng, xin hãy dập tắt ngọn lửa sân hận trong lòng ngươi, từ nay không còn hung dữ, không cắn người nữa.' Sau khi uống nước chú Đại Bi, con chó dữ trở nên ngoan ngoãn hơn cả mèo con, từ đó không bao giờ cắn người nữa. Vì thế, nước chú Đại Bi của Huệ Khanh đã trở thành bảo vật cứu người độ thế, nước đến bệnh trừ, đây quả thực là một kỳ tích."

Đúng vậy, đối với phàm phu bình thường mà nói, đây quả thực là một phép màu. Tuy nhiên, tôi lại không nghĩ như vậy. Trước hết, việc lấy được một dòng nước giữa sông đã không dễ dàng, hoàn toàn dựa vào cơ duyên và sự nhanh trí. Đặc biệt sau khi lấy được nước về, lòng kiên trì tụng chú còn quan trọng hơn - bảy lần, bốn mươi chín lần, một trăm linh tám lần, thậm chí siêng năng tụng sớm tối mỗi ngày, để rồi kỳ diệu thay, những giọt nước ấy tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Đây là biểu hiện cao nhất của sự kết hợp giữa thần lực của chư Phật Bồ Tát và sức mạnh cảm thông tâm linh, quả thật không đơn giản chút nào.

Do không còn nhiều thời gian, chúng tôi trò chuyện thêm một lúc rồi chia tay.

Trong pháp thuật của Đạo gia có một loại nước gọi là địa tương thủy, loại nước này có thể giải trăm độc. Nếu được trì chú Đại Bi thì càng linh nghiệm hơn. Để lấy nước này, đào sâu bốn thước trên mặt đất sạch, đổ đầy nước giếng vào, dùng gậy gỗ khuấy đều, sau đó để lắng dần. Đợi cho cát bùn lắng xuống hoàn toàn rồi mới lấy nước, trì tụng chú Đại Bi, đây chính là nước Đại Bi địa tương, chuyên dùng để giải độc, có công hiệu rất lớn.

Nước chú Đại Bi hiện nay được sử dụng rất phổ biến trong Phật giáo. Tuy nhiên, người thường chỉ biết cách trì chú Đại Bi mà không biết phương pháp lấy nước. Khi lấy nước phải thành tâm, đồng thời phải quán tưởng, như thể Quan Thế Âm Bồ Tát đứng trên không trung, nhẹ nhàng rảy cành dương liễu, từng giọt nước trong tịnh bình bay lên không trung, trăm bệnh tiêu trừ, cứu khổ cứu nạn, đây chính là diệu pháp cứu độ của Bồ Tát vậy.

"Dòng nước giữa sông" là điều ông Chu Bang Đạo đã kể cho tôi, tôi vốn không dám giữ riêng cho mình, nay xin chia sẻ với quý độc giả, nước chú Đại Bi của Bồ Tát Chu Dương Huệ Khanh có sức mạnh linh nghiệm, ngoài công lực trì tụng Phật chú ra, phải chăng phương pháp lấy nước của bà ấy là từ linh cơ của trời cao? Mong mọi người hãy nghĩ kĩ! Nghĩ kĩ!

Sau cuộc trò chuyện với Chu Bang Đạo, có một bài kệ lưu niệm:

Bàn chuyện huyền bí vốn là tiên, Người đời châm biếm cho là điên; Chẳng kết ác duyên kết thiện duyên, Trong lời Đại Bi quên thiếu niên.

02. Cờ lục tự đại minh của Mật tông

Mấy năm qua, tác giả đã vân du khắp các nơi, những chùa miếu mà tôi đã đến thăm vô cùng nhiều, nhưng rất ít các ngôi chùa Phật bình thường có cắm cờ ở trên mái. Trái lại, các miếu Đạo giáo thì tôi nhìn thấy có cắm cờ lệnh đen là nhiều nhất, tiếp theo là cờ vàng, tiếp nữa là cờ trắng, còn cờ màu sắc khác thì căn bản là cực kì hiếm thấy. Trong cuốn sách "Mạn đàm linh cơ thần toán", tôi từng nói đến bí mật của cờ lệnh đen, vì thế, cờ lệnh đen cũng không còn là ký hiệu gì quá thần bí nữa.

Tu trì Phật giáo luôn có sự khác biệt giữa Hiển và Mật. Hiển giáo lấy Phật lý là chính, còn Mật giáo thì lấy mật hành là chính, và mật hành có ý nghĩa là tự mình thể nghiệm, coi trọng nỗ lực tinh tấn, dũng cảm ngoan cường. Còn nhớ có một lần, tôi đi dạo trên con đường vòng xung quanh một cái hồ nọ, trên tấm biển chỉ dẫn bên đường chỉ ra là trên núi có một ngôi chùa. Tôi một mình đi lên đó thì gặp một ngôi chùa nhỏ là một gian nhà lá, bên trong có thờ một bức tượng Quan Âm Đại Sĩ. Vị Quan Âm Đại Sĩ đó không giống với các vị Đại Sĩ thông thường, trên đầu có đội Di Đà Phật, có bốn cánh tay, hai tay chắp lại, hai tay kia thì một tay cầm hoa sen, một tay cầm viên ngọc, vô cùng trang nghiêm. Hai bên trái phải có hai bức phướn, viết rằng: "Thanh tịnh đại bi diệu sắc thân, Di Đà trụ đỉnh trợ hoằng nguyện. Nghìn mắt chiếu kiến chúng sinh khổ, chúng con chí tâm quy mệnh lễ." Tôi nhìn thì biết ngay đây là bức tướng Quan Âm Đại Sĩ của Mật tông, tôi chắp tay làm lễ.

Bên trong chùa có một lão cư sĩ, chúng tôi nói chuyện thì mới hay lại là sư huynh đệ, vị sư huynh này hy vọng tôi không công bố họ tên ông ấy với đời, vì trước kia ông ấy là một nhân vật quan trọng trong giới chính trị, bây giờ thì ông ấy tu Mật tông. Tôi thấy trên bàn thờ của ông ấy có đặt một cuốn "Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh". Ông đưa tôi đi xem ngôi nhà, thì ra xung quanh ngôi nhà của ông ấy có cắm năm lá cờ. Ông ấy hỏi tôi: "Anh có biết đây là cờ gì không?" "Sư huynh, đây chính là cờ lục tự đại minh của Mật tông có phải không?" "Chính xác." - Ông ấy hết sức vui mừng nói: "Bảo sao Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh muốn truyền thụ Đạo pháp cho anh. Năm lá cờ này phân thành năm hướng đông tây nam bắc và ở giữa, trên mỗi lá cờ có viết lục tự đại minh chân ngôn. Cờ hình vuông mỗi cạnh dài bảy tấc: ở phía Đông là cờ màu trắng, chính là Trì Quốc Thiên Vương hộ trấn; ở phía Nam là cờ màu vàng, là Tăng Trưởng Thiên Vương hộ trấn; ở phía Tây là cờ màu đỏ, chính là Quảng Mục Thiên Vương hộ trấn; ở phía Bắc là cờ màu lục, là Đa Văn Thiên Vương hộ trấn; ở giữa là cờ màu lam, là 28 chòm sao và các tinh tú thiên thần hộ trấn. Năm lá cờ này là cờ lục tự đại minh của Mật tông, có tác dụng cứu nạn, cầu phúc, hộ đàn, trảm ma, tồn tại sức mạnh bất khả tư nghì."

"Lục tự đại minh chân ngôn chính là ‘Om mani padme hum’, đây là chân ngôn tiếng Tạng, chú này thần diệu thù thắng. Dụng ý chính của Mật tông nằm ở tam mật tương ứng, cũng tức là thân thể thanh tịnh - là thân mật, chân ngôn thanh tịnh - là ngữ mật, quán tưởng thanh tịnh - là ý mật. Nói vậy anh có hiểu không?" - Sư huynh lại nói. "Tôi hiểu rồi." - Tôi nói.

Lúc này, hai mắt tôi tập trung tinh thần, không ngờ nhìn thấy trên năm lá cờ đó, mỗi lá cờ đều phát ra ánh sáng cát tường năm màu sắc, và không ngờ là trên ánh sáng cát tường đó có một vị thần tướng đang đứng, vị nào cũng có thần thái phấn chấn, trên tay cầm cung, cầm tên, cầm đao thép, cầm rìu, cầm chày hàng ma. Tôi quay sang nói với sư huynh, hơn nữa tôi còn lần lượt chỉ rõ, sư huynh rất đỗi vui mừng, luôn miệng nói: "Thần kỳ quá, thần kỳ quá!"

Kẻ hèn này từng biết cờ lục tự đại minh có năng lực bất khả tư nghì. Có người sống trong nhà bất an, có thể cắm năm lá cờ nhỏ này ở chỗ cao nhất, mỗi ngày cần niệm 108 biến chú, trong cõi vô hình tự nhiên sẽ có sức mạnh tiêu tai cầu phúc phát ra. Đặc biệt là gió thổi vào cờ, dưới ánh sáng mặt trời chiếu rọi lâu ngày, chú lực sẽ liên tục không ngừng xuất hiện ánh sáng rực rỡ. Mặc dù đây là sự bố trí cờ hữu hình nhưng lại sản sinh ra sức mạnh vô hình. Tôi đã từng đi qua rất nhiều chùa miếu, chưa từng thấy có nơi nào làm như vậy, chỉ thấy có Cung Thắng An ở Hoa Liên là có cắm cờ lệnh đen ở bên trên, cờ lệnh đen này cũng có tác dụng trấn đàn xua tà. Nhưng nhà dân bình thường lại không dùng, nếu có người tu Mật tông, trì lục tự đại minh chân ngôn, dùng cờ lục tự đại minh để an trạch, thì đó là thủ pháp cao minh nhất.

Tại Trúc Sơn có một ngôi nhà, chủ nhân đã treo cổ tự sát ở tiền sảnh, về sau người sống trong ngôi nhà đó đều không được bình an, thậm chí nhìn thấy có người loanh quanh ở cửa trước, xuất hiện ở trong gương, trẻ con buổi tối đi ngủ khóc đêm rất khủng khiếp, cánh quạt điện quay đều đều cũng phát ra âm thanh kì quái. Thế là tôi dạy họ cắm cờ lục tự đại minh, niệm chú vãng sinh cho vong linh, kết quả là hung trạch không còn hung nữa, kể từ đó bình yên vô sự. Chủ nhân mới còn quét sơn lại toàn bộ ngôi nhà, giờ đây hung trạch đã biến thành cát trạch. Cờ lục tự đại minh của Mật tông thật sự hữu dụng.

Dùng cờ lục tự đại minh của Mật tông cần chú ý những việc sau: (1) Trên mỗi lá cờ đều viết sáu chữ "Om Ma Ni Pad Me Hum". Viết chữ Om thì quán tưởng màu trắng, viết chữ Ma thì quán tưởng màu đỏ, viết chữ Ni thì quán tưởng màu vàng, viết chữ Pad thì quán tưởng màu lục, viết chữ Me thì quán tưởng màu lam, viết chữ Hum thì quán tưởng màu đen. Mỗi chữ đều phóng ra ánh sáng vô lượng vô biên.

(2) Viết chữ trên mỗi lá cờ xong, xin dùng thủ ấn hà một hơi khí, ấn lên mỗi lá cờ, nếu không biết dùng thủ ấn thì phải ở trước Bồ Tát xin nước chú Đại Bi, sau đó trì thêm chân ngôn lục tự đại minh vài nghìn biến, sau đó đem nước này, dùng cành dương liễu vẩy nước lên lá cờ. Làm những việc này phải chay tịnh mới được làm, tuyệt đối không được thất lễ.

(3) Kể từ ngày bắt đầu sử dụng, công khóa hàng ngày phải niệm lục tự đại minh chân ngôn ít nhất là 108 biến, niệm cho đến khi chính mình nhìn thấy ánh sáng của toàn thân mình mới thôi. Điều này cực kì quan trọng.

Gặp sư huynh ở bên hồ nhỏ, tôi có một bài kệ lưu niệm:

Ẩn cư trong núi nghe chim hót, Mật hành chân ngôn bất tư nghì, Lục tự đại minh pháp hộ trấn Nghìn năm tam mật được cờ thần.

image

03. Cột rồng vạn năm hướng điện trời

Nhớ vào một mùa hè nọ, khi vải thiều trên núi chín rộ, đó là hai năm trước khi thầy tôi viên tịch, tôi lên núi thăm thầy, dọc theo đường núi đầy những trái vải, những trái vải chín buông thấp, đỏ au và tròn trịa. Khi đến gần căn lều tranh của thầy, tôi thấy cửa lều hé mở, bóng lưng thầy quay về phía tôi, thầy đang vẽ những đường trên đất, tay cầm vài đồng tiền xu, xếp đi xếp lại, không biết đang làm gì?

"Liên Sinh, con đến rồi à? Ngồi xuống đây, hãy học cái này cho kĩ, sau này sẽ rất có ích." Thầy không cần quay đầu lại mà vẫn biết tôi đến, dù rằng bước chân tôi rất nhẹ, như mèo rón rén, sợ làm phiền đến sự trầm tư của thầy. Thầy lại nói: "Mỗi lần con vào núi, chỉ cần đến chân núi là ta đã biết con đến rồi, bởi vì ở chân núi ta đã bố trí linh đồng tuần núi, lấy đá rối làm dấu, vì thế ta biết con đến."

"Thưa thầy, nếu như con cúng dường linh đồng tuần núi trước, xin ngài đừng báo lại cho thầy, liệu linh đồng tuần núi có nghe lệnh con không?" "Liên Sinh, điều đó là không thể được, bởi vì ta và linh đồng tuần núi đã có lời thề từ trước, nếu vi phạm sẽ phạm đến Thề Thần và Chú Thần, sau này dù tu đạo có thành cũng không thể lên thiên giới, sau khi chết sẽ đọa địa ngục, không được siêu sinh trong năm trăm năm. Chúng ta là người tu luyện, biết rằng luật trời nghiêm minh, không thể sai một bước. Vì thế linh đồng tuần núi và ta hợp làm một thể, ngài sẽ không nghe lệnh bất kì ai, sau này khi ta siêu sinh thiên giới, tự nhiên ngài cũng sẽ cùng siêu thăng."

Tôi ngồi bên cạnh sư phụ Thanh Chân Đạo Trưởng, đầu luôn thấp hơn người nửa cái đầu, bởi vì thầy người cao lớn, tay dài quá gối, sinh ra đã có tướng lạ, đó chính là tướng của bậc đại đức. Thầy truyền cho tôi một pháp, đó là "Cột rồng vạn năm hướng điện trời", pháp này một khi tôi công khai, thì những kẻ làm tà thuật trên đời sẽ "bay màu". Theo tôi được biết, người biết pháp này trên đời chỉ có hai người, một là thầy Thanh Chân Đạo Trưởng đã hóa tiên về trời, người còn lại chính là tôi, Lư Thắng Ngạn, người được ân sư đích thân truyền pháp.

Vậy "Cột rồng vạn năm hướng điện trời" là gì? Tôi xin đặc biệt nói rõ như sau:

Trên thế giới này có rất nhiều loại người, có những người có tâm địa thiện lương chính trực. Tuy nhiên, cũng có những kẻ tâm địa xấu xa đê tiện. Khi người tốt gặp phải kẻ xấu nhiều mưu mô quỷ kế, thường là người tốt sẽ chịu thiệt thòi lớn, bởi vì người thiện luôn nhìn mọi người với thiện ý, dễ dàng mắc bẫy do kẻ xấu giăng ra. Vì vậy tôi khuyên những người có tâm thiện trên đời rằng không thể không đề phòng người khác. Ví như chó dữ cắn người, nó không phân biệt thiện ác, kẻ ác cũng như chó dữ vậy, tự nhiên cũng chẳng phân biệt thiện ác, bởi vì bản tính của nó là cắn người!

Có những kẻ xấu dùng tà thuật với nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ, khi biết bạn xây nhà, để khiến bạn ở không yên ổn, chúng sẽ lén lút đặt những vật dơ bẩn vào chỗ đổ bê tông, kẹp trong tường xi măng, dưới móng nhà, trong nhà bếp hay nhà vệ sinh, hoặc bể nước. Những vật dơ bẩn này có thể là đồ bẩn của phụ nữ, khiến người ở trong nhà nổi ghẻ, thần linh không trú ngụ, ngũ quỷ xâm nhập. Hoặc chúng đặt xương người chết, khiến âm hồn quấy phá, người trong nhà liên tục đau ốm. Hoặc treo xác chó mèo lên xà nhà, rồi phát lời nguyền độc: "Năm năm người người như chó mèo." Kỳ lạ thay, cứ thế mà người ở trong nhà, mỗi năm chết một người, không sai chút nào. Có kẻ còn đặt hai chữ cắt giấy "Cấp hợp" trong nhà vệ sinh mới xây, lạ thay, mỗi sáng sớm, người trong nhà đều cùng lúc mắc đi vệ sinh gấp, xếp hàng chen chúc trước cửa nhà vệ sinh, ngày nào cũng vậy, quả là cảnh tượng hiếm thấy trên đời!

Những kẻ dùng tà thuật này không sợ trời đánh thánh đánh, chỉ vì lòng thù hận và muốn thỏa mãn nhất thời, không đếm xỉa đến đạo đức nhân nghĩa, mượn tà thuật của thiên ma để hại người hại mình. Cuối cùng chắc chắn sẽ không có kết cục tốt đẹp gì, đó là quy luật tuần hoàn của trời đất, trong cõi vô hình đã có định số, kẻ hung ác hại người, tự khắc sẽ có người hung ác hơn đến trừng trị, nếu không thì các vị Hộ pháp cũng sẽ không tha thứ.

"Cột rồng vạn năm hướng điện trời" là phép dùng tiền xưa làm nền móng cột trụ. Những đồng tiền cổ này một mặt có hình rồng, mặt kia có tên hoàng đế. Nhà dân thường không được chạm khắc rồng, nên chỉ có thể dùng tiền cổ. Theo như thầy Thanh Chân dạy tôi, tiền cổ đã qua tay hàng triệu người nên đã hấp thụ khí của vạn người. Hơn nữa, có hình rồng và tên tôn quý của hoàng đế, đó chính là khí cát tường vạn năm từ trời. Tiền cổ còn chứa đựng vô tận địa khí bên trong, vì được đúc từ tinh hoa của đất, không phải đất đá tầm thường. Vì vậy khi xây nhà đổ cột, tốt nhất nên đặt tiền rồng dưới móng cột, sau đó chọn ngày lành tháng tốt đổ bê tông, mặt rồng úp xuống đất, tên hoàng đế hướng lên trên, đặt dưới mỗi cột trụ, như vậy sẽ không sợ tà ma và uế khí. Cần biết rằng những cột này chính là cột rồng, trong cõi vô hình sẽ xuất hiện thần hộ mệnh, bảo vệ sinh mạng an toàn cho chủ nhà, tạo nền tảng vạn năm, trường thọ bình an, phú quý miên man vô tận.

"Cột rồng vạn năm hướng điện trời" cần chú ý những điểm sau đây: 1. Tiền rồng cần được rửa sạch, gói trong giấy (màu đỏ), mang đến trước tượng Phật Bồ Tát tịnh hóa mới được sử dụng. 2. Nếu không có tiền rồng, có thể dùng tiền đồng thông thường, nhưng hiệu lực sẽ giảm một nửa. 3. Ngày giờ được chọn nên xem theo Tam Nguyên Nhật Khóa, phải chọn giờ thật chính xác mới có hiệu quả, nếu chọn sai giờ rất dễ mất linh nghiệm. 4. Nếu xây chùa miếu nên dùng bảy đồng tiền rồng, bảy đồng là số có sức mạnh lớn nhất, không được vượt quá bảy đồng vì sẽ mất hiệu lực. Tôi xin giữ lại một bí quyết, nếu ai hiểu về Kỳ Môn Độn Giáp có thể dựa vào số lượng tiền rồng này, căn cứ vào địa số, thiên số mà tăng giảm số lượng tiền rồng, như vậy sẽ hợp với thiên cơ, Thiên Cang Địa Sát Ngũ Hành Cửu Cung, hòa hợp với vận người, không cần sợ kẻ xấu hãm hại nữa.

04. Ý nghĩa hơ qua lửa và những thứ khác

Chắc hẳn nhiều người đã từng thấy nghi thức hơ qua lửa ở các đền chùa. Hơ qua lửa là việc đi qua đống lửa, kiệu thần, tượng thần, cờ linh thiêng, nam nữ già trẻ, người khiêng, người đi, chân trần bước qua ngọn lửa. Hơ qua lửa là một cảnh tượng náo nhiệt, phần lớn các nghi lễ đặt móng chùa miếu hay thần minh nhập hỏa trấn tọa đều có nghi thức hơ qua lửa. Ngọn lửa bùng cháy rực rỡ, chiếu rọi lên gương mặt phấn khích của mọi người, ai nấy đều hân hoan vui vẻ.

Khi còn nhỏ, tôi từng học tại Trường Trung học Số 3 Thành phố Cao Hùng, trường nằm ở Sư Giáp, hiệu trưởng là Trần Định Các. Lúc đó thành tích của tôi rất tốt, học kỳ nào cũng đứng nhất lớp. Một lần tan học, trên đường về nhà ở khu Tân Hưng, giữa đường bị các bạn học kéo đi xem hơ qua lửa. Đó là một khoảng đất trống trước một ngôi miếu lớn, trên mặt đất được lót gỗ lớn và mùn cưa, ngọn lửa bùng cháy đỏ rực sáng rỡ. Có một vị pháp sư nhảy lò cò một chân, xoay quanh đống lửa, thỉnh thoảng cầm sừng trâu thổi lên những tiếng vù vù, miệng lẩm bẩm đọc thần chú, vừa rải muối và gạo vào trong lửa. Lúc này người xem càng lúc càng đông, không khí thật là náo nhiệt.

"Bạn Lư này, dám bước qua lửa không?" - Bạn Trương Quốc Hưng đập vào hông tôi. "Không dám." - Trong lòng tôi thực sự sợ hãi. "Tôi dám đấy. Ông nội tôi nói người có chính khí đi qua thì lửa sẽ không đốt, chỉ có kẻ xấu trong lòng không tốt thì lửa mới đốt thôi." "Lửa thật sự không nóng sao?" "Thật." - Trương Quốc Hưng nói: "Tôi đã đi qua một lần, cảm giác thật sảng khoái."

Lúc đó tôi thật sự ngưỡng mộ, Trương Quốc Hưng trong lòng tôi giống như một vị anh hùng vậy. Nghi thức hơ qua lửa bắt đầu, tiếng trống chiêng vang dội trời, từng kiệu thần một, tám người khiêng, như cơn lốc xoáy, lao vào đống lửa rồi lại xông ra, sau khi các kiệu thần đi qua hết thì đến lượt người đi. Tôi kinh ngạc nhìn những người đó, tay bưng tượng thần, hoặc cầm cờ linh thiêng, chân trần bước trên những khúc gỗ đỏ rực, vậy mà không hề bị bỏng, thật là kỳ lạ. Nói thật, lúc đó tôi cũng muốn thử, nhưng trong lòng lại không dám, thật sợ nếu bị cháy thì cả đời này coi như xong. Vì cảnh hơ qua lửa quá kích thích, tôi xem đến rất muộn mới về nhà, trong ấn tượng hình như đã bị bố mẹ "chiêu đãi" món "cành trúc xào thịt". [Ý nói bị bố mẹ cho ăn một trận đòn.]

Nghe nói hơ qua lửa vẫn rất nguy hiểm, vì báo chí đã từng đưa tin có người bị bỏng khi hơ qua lửa.

Có một thầy giáo đã nói với chúng tôi trong giờ học: "Việc rải muối vào đống lửa khi hơ qua lửa là để làm nguội nhiệt, muối có tác dụng làm mát, đây là trò ảo thuật của những người giang hồ, khi lửa không nóng nữa thì đi chân trần qua tự nhiên sẽ không bị thương."

Về việc hơ qua lửa này, tôi đã từng thỉnh giáo sư phụ Thanh Chân Đạo Trưởng, thầy nói: "Hơ qua lửa là một trong những nghi thức của Đạo giáo, nguồn gốc của nó không thể khảo chứng được. Ý nghĩa của việc hơ qua lửa là sự thanh tịnh, nghĩa là trong đống lửa, tất cả mọi thứ, bao gồm cả người và tượng thần đều được tịnh hóa, khiến tà ma không thể nhập thân. Tượng thần qua lửa tượng trưng cho việc tà thần không thể bám vào, người qua lửa biểu thị cho việc cầu phúc tiêu tai. Chữ 'hỏa' có ý nghĩa 'không huyễn' bên trong, có nghĩa là tất cả đều được đốt sạch, tất cả đều được tịnh hóa. Thần chú như sau: 'Hỏa thần, hỏa thần, tam muội chân hỏa tốc giáng lâm. Hỏa la, hỏa linh, phong tống hóa an ninh. Trần thổ toàn tịnh hóa, kim mộc thủy thành không, ôn dịch chư tà khí, hàn nhiệt tốc ly thân, vạn bệnh tùng thử tán, nam nữ tảo an ninh, cấp cấp như Na Tra Lợi luật lệnh.' Liên Sinh ơi, pháp thuật của Đạo môn, tuy là pháp hữu hình, nhưng có nhiều điều không thể không biết, thực tế rất nhiều loại pháp thuật ngay từ đầu đều phải dựa vào lửa để tịnh hóa."

Tác giả đã thực hiện nghi thức khai quang cho vô số tượng thần, từ tượng Phật trong các điện thờ cho đến các tượng thần được thờ trong các gia đình nhỏ, nhiều đến nỗi bản thân cũng không đếm xuể. Khi làm lễ khai quang, việc đầu tiên tôi luôn làm là đốt lửa thiêu vàng mã, sau đó đưa tượng thần qua lại trên đống lửa ba lần, tượng trưng cho ý nghĩa thanh tịnh. Nếu là khai quang cho Phật Bồ Tát trong điện thờ, tôi dùng giấy vàng đốt và đi vòng quanh tượng Phật một vòng, cũng mang ý nghĩa tương tự. Trước tiên dùng lửa, sau đó dùng bút chấm chu sa điểm nhãn và các bộ phận khác, cuối cùng mới dùng thủ ấn.

Tôi nghĩ rằng tất cả các pháp khí thông thường hoặc các kê bút dùng để truyền đạt thần linh đều phải qua lửa. Việc qua lửa không nhất thiết phải là nghi thức lớn, từ việc đốt một mảnh giấy nhỏ cho đến đốt một đống củi lớn, ý nghĩa đều như nhau. Tại sao có người làm pháp không linh? Tại sao cầu thần mà không thỉnh được? Đó là vì họ không chú trọng đến việc hơ qua lửa, bởi khi pháp khí được tịnh hóa thì không có vị thần nào lại không hài lòng.

Kẻ hèn này cho rằng việc hơ qua lửa có một số điểm rất quan trọng:

1. Khi hơ qua lửa, điều tối kỵ là gặp phải người đang có tang hoặc phụ nữ đang trong kỳ kinh nguyệt, bởi vì lửa thuộc dương cương, còn những người này mang khí âm tà. Khi dương cương gặp âm tà sẽ trung hòa, khiến việc hơ qua lửa mất hiệu nghiệm, đồng thời những người này cũng sẽ bị khí dương cương xung khắc, dẫn đến hậu quả không tốt. Vì vậy, khi hơ qua lửa đặc biệt phải tránh gặp những người này.

2. Khi hơ qua lửa, việc niệm chú và rải muối gạo phải do người có chính pháp thực hiện. Về phần truyền lửa và trấn áp tà ma thì cần phải có pháp sư cao minh mới có thể làm được, không thể làm tùy tiện, nếu không sẽ dễ xảy ra tai nạn. Trong thời xưa, nghi thức hơ qua lửa là một trong những phương pháp chữa bệnh về tâm linh cho người ta. Tuy nhiên, tôi cho rằng trong thời đại hiện nay, thực sự không cần thiết nữa, trừ phi đó là một căn bệnh thực sự thuộc về tà ma ám ảnh, còn không thì bệnh nhân nên đi tìm bác sĩ để chữa trị tận gốc mới đúng.

3. Về nghi thức hơ qua lửa trong tôn giáo, quy mô không nên quá lớn, nhưng cũng không nên quá nhỏ. Khi thực hiện không cần phải giết lợn mổ dê, chỉ cần hương hoa trái cây và lòng thành là đủ, không cần phải tổ chức tiệc tùng linh đình. Làm như vậy mới thể hiện được đức hiếu sinh của trời đất, và càng dễ được thần thánh chấp nhận. Như thế cả người lẫn thần đều được an lòng, tránh được cảnh vì giết sinh mạng mà gây nên ô uế, ngược lại còn mất đi sự bình an.

Tóm lại, pháp thuật hơ qua lửa chỉ có ý nghĩa tịnh hóa, không phải để thể hiện thần uy, cũng không phải là phép thần thông kỳ lạ gì, càng không phải là trò ảo thuật để lừa người.

05. Chân tướng của giáng linh

Những bí ẩn của thế giới chiều thứ tư trở lên, mặc dù khoa học vẫn chưa thể chứng minh hoàn toàn, nhưng sự tồn tại của năng lượng tâm linh đã trở thành một thực tế không thể phủ nhận. Thông qua nhiều thí nghiệm về giáng linh, đã có rất nhiều bằng chứng xác thực sự tồn tại của năng lượng tâm linh. Do đó, những lực lượng trong thế giới vô hình rất có thể còn mạnh mẽ hơn cả thế giới vật chất. Việc nghiên cứu về những hiện tượng siêu tâm lý này là điều thực sự cần thiết. Chúng ta hãy lấy một ví dụ nhỏ, hiện tượng điện và từ trường là điều không ai có thể phủ nhận, tuy điện và từ trường cũng chỉ là một dạng "năng lượng vô hình", nhưng ngày nay đã mang lại những lợi ích to lớn cho thế giới, đem đến ánh sáng và hy vọng vô tận.

Nếu linh lực được chứng thực, có thể giúp làm sáng tỏ nguồn gốc của loài người và đích đến của sự sống, điều này thực sự mang lại lợi ích to lớn cho bước đột phá mang tính lịch sử của nhân loại. Khi đó, sự sống và cái chết sẽ không còn mơ hồ nữa, thế giới của người sống và người chết có thể giao tiếp với nhau, người chết có thể tái sinh. Về phương diện năng lực tâm linh, người sống có thể giúp đỡ người đã khuất, người đã khuất cũng có thể giúp đỡ người sống, cùng nhau thúc đẩy thế giới này trở nên an vui thịnh vượng.

Do thế giới chiều thứ tư có thêm một chiều so với thế giới ba chiều, nên nó càng phức tạp hơn thế giới ba chiều. Linh lực có phân biệt lớn nhỏ, có phân biệt thật giả, có phân biệt chính tà. Điều này liên quan đến một thế giới của những quy luật tâm linh, tạo ra nhiều hiện tượng biến đổi. Do những biến đổi này thiếu tính nguyên tắc, khiến cho phần lớn những người tìm hiểu về tâm linh học gặp phải những khó khăn không thể giải thích, sinh ra quá nhiều nghi vấn và trở ngại, không thể giải được câu đố này.

Ví dụ như ở nước ngoài, có lưu hành một loại "bàn cầu cơ". "Bàn cầu cơ" này giống như một con bướm, được làm bằng nhựa hóa học. Người sử dụng chỉ cần dùng một tay đặt nhẹ lên phần đuôi của "bàn cầu cơ", và chiếc bàn sẽ xoay tròn di chuyển, có thể trả lời được nhiều câu hỏi. Tuy nhiên có một hiện tượng kỳ lạ là có người vừa đặt tay là bàn chuyển động ngay, có người lại không làm bàn động đậy được. Về những câu hỏi được đặt ra, có câu trả lời rất chính xác, có câu lại mơ hồ chung chung. Tôi từng nghe kể có người dùng "bàn cầu cơ" để thỉnh về linh hồn của nạn nhân bị sát hại, và nhờ sự chỉ dẫn của vong linh mà phá được một vụ án mạng phức tạp.

Ở Nhật Bản, có người thực hành bói đũa. Bói đũa là việc buộc ba chiếc đũa lại với nhau, người cầu cơ sẽ dùng tay đặt lên đầu đũa (đũa được dựng đứng) để cho nó đứng trên mặt bàn. Trên mặt bàn sẽ đặt các chữ cái tiếng Nhật, khi thần linh giáng xuống, chân đũa sẽ tự di chuyển, chỉ vào các chữ tiếng Nhật, và dựa vào những chữ này mà biết được điều lành dữ họa phúc.

Tôi còn nhớ hồi nhỏ, ở vùng quê trên hòn đảo ngọc, việc "xem thần ếch" rất thịnh hành. Đây là những trải nghiệm tôi từng tận mắt chứng kiến. Cứ vào đêm rằm tháng Tám, tức là ngày trăng tròn (âm lịch), lạ thay năng lượng tâm linh đặc biệt mạnh mẽ. Một nhóm trẻ cầm hương, trong đó một đứa nằm sấp xuống đất, tạo dáng như con ếch, nhắm mắt lại. Những đứa trẻ đứng xung quanh cầm hương và miệng đọc: "Thần ếch ơi, thần ếch ơi, linh thiêng linh thiêng linh thiêng, xin mời ngài giáng xuống đêm rằm tháng Tám". Cứ đọc đi đọc lại như vậy không ngừng, rồi đứa trẻ nằm sấp bỗng nhiên phát ra tiếng "ộp ộp" như ếch kêu, sau đó bắt đầu nhảy lên nhảy xuống. Nhảy một lúc, đứa trẻ tự tỉnh lại, khi hỏi nó vừa làm gì thì nó hoàn toàn không biết, như thể vừa bị thôi miên vậy.

Nói thêm về thần đĩa, thần chổi, thần quýt, thần trúc bay, tôi đều đã thử nghiệm qua. Chúng ta không nên mê đắm những thứ này, mà nên xem đó như một thí nghiệm về năng lượng tâm linh. Những năng lượng này rất chính xác khi hỏi về quá khứ, nhưng không chắc chắn về tương lai. Có một số thần bài khi giáng xuống có thể làm thơ, những bài thơ rất hay và có chiều sâu. Tôi hỏi thần đã tốt nghiệp trường nào, thần trả lời là khoa Văn học Đại học Đài Loan. Còn về thần chổi, thần quýt và thần trúc bay, tuy cũng thú vị, nhưng những linh hồn giáng xuống đều không mạnh, chỉ là những vong linh nhỏ mà thôi, hiểu biết của họ rất hạn chế.

Nói về việc cầu cơ bút hoặc sử dụng ghế thần bút để viết chữ, đó cũng là một hình thức giáng linh. Hiện nay ở Đài Loan, có rất nhiều nơi thực hành cầu cơ bút, và có nhiều ấn phẩm xuất bản thơ văn cơ bút. Phần lớn là các vị thần thánh mượn bút cơ để viết những bài thơ văn khuyến thiện độ nhân. Khi các vị thần linh cao cấp giáng bút, văn chương rất đẹp, bàn về đạo lý đều là chân lý, có khi nói về luân hồi nhân quả. Nhiều người thường hỏi tôi những điều này có thật không? Tôi chỉ mỉm cười, không dám trả lời, bởi vì tôi biết cầu cơ có thật có giả, linh lực có lớn có nhỏ, bàn việc có đúng có lệch. Thế giới tâm linh là một thế giới kỳ diệu và phức tạp, và liệu ý thức của con người có làm ô nhiễm tiên linh chân chính không? Đó là lý do tại sao tôi không dám nói.

Theo nghiên cứu của tôi: bất kì sự vật nào trên đời đều có thể giáng linh. Đồng thời tôi cũng biết thế giới tâm linh rất quan tâm đến thế giới con người. Thế giới tâm linh luôn nắm bắt thời cơ, tạo ra những hiện tượng ngoại cảm để khiến con người tin vào năng lực siêu nhiên, và đang sử dụng đủ mọi phương cách để thắt chặt mối liên hệ giữa thế giới người và thế giới tâm linh. Từ đó giúp tâm người hợp với thiên tâm, tiến vào cảnh giới cao hơn - nơi không còn phiền não mà chỉ có cõi thiên đường và cực lạc bất động, để con người không còn hoang mang sợ hãi về thế giới sau khi chết.

Thanh Chân Đạo Trưởng nói với tôi: "Pháp thuật giáng linh thực ra rất đơn giản, nói chung có ba nguyên tắc. Thứ nhất là tịnh hóa, khi linh muốn giáng vào vật gì, vật đó phải được tịnh hóa qua lửa vàng. Khi giáng linh vào thân người, người đó phải tịnh hóa thân khẩu ý, tức là tam mật tịnh hóa của Mật tông Phật giáo. Nếu làm được, linh quang từ không trung sẽ hợp nhất với linh quang của hành giả, tỏa ánh sáng rực rỡ, thiên nhân hợp nhất. Nguyên tắc thứ hai là phải thành tâm, khai mở tâm trí, nếu có thể đạt đến trạng thái tĩnh lặng không suy nghĩ, chỉ cần một phút không suy nghĩ, thì chắc chắn linh sẽ giáng xuống. Nguyên tắc thứ ba là tập hợp sức mạnh của mọi người cầu nguyện cho linh giáng xuống, bởi vì ý niệm tinh thần của đám đông tự nó là một nguồn sức mạnh, dù vô hình nhưng có thể tạo ra kỳ tích."

Trong việc nghiên cứu tâm linh, có nhiều điều đáng buồn. Tôi thấy việc một số người lợi dụng các phép thuật để lừa tiền và sắc dục là hoàn toàn không nên. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật và là phương pháp khai sáng cao quý, thậm chí trong tương lai có thể mang lại lợi ích cho muôn dân thiên hạ, giúp con người hiểu được bí ẩn về sự sống và cái chết - đó mới chính là mục tiêu cuối cùng của việc nghiên cứu tâm linh.

06. Sự kỳ diệu của thu kinh

Thu kinh là một phép thuật nhỏ rất phổ biến, chúng ta thường nhìn thấy trên cột điện có dán giấy đỏ, trên đó viết hai chữ "thu kinh". Ở miền Trung có nữ sĩ Thu Kinh Phụng Tử rất nổi tiếng về thu kinh, bà ấy giúp người ta thu kinh, những ghi chép cho thấy người đến tìm bà ấy để nhờ thu kinh nhiều như cá diếc qua sông. Tuy không cần treo bảng hiệu nhưng dòng người xếp hàng cũng phải chờ đợi một lúc, mỗi ngày đều xếp hàng dài như con rồng. Nghe nói Thu Kinh Phụng Tử cũng vì thu kinh nổi tiếng mà trở nên giàu có, bà ấy thường xuyên làm việc thiện, nhờ có thiện công phụ trợ cho nên pháp lực thu kinh cũng càng cao cường hơn.

Tôi nghiên cứu tiểu thuật của Đạo giáo, thích đến thăm những người hiền có đạo, tôi từng đứng bên cạnh Thu Kinh Phụng Tử để xem bà ấy thu kinh cho người ta, trong miệng bà ấy niệm: "Nhất thử, nhị ngưu, tam hổ, tứ thố, ngũ long, lục xà, thất mã, bát dương, cửu hầu, thập kê, thập nhất cẩu, thập nhị trư…" Thế là tôi hiểu ra Thu Kinh Phụng Tử dùng pháp mười hai con giáp để thu kinh cho người ta. Pháp thu kinh này là pháp trung cấp, pháp lực không tệ, nhưng còn có pháp thu kinh thượng thừa cao siêu hơn.

Vì sao phải thu kinh? Thu kinh có căn cứ khoa học không? Thu kinh có linh nghiệm không? Đây là nghi vấn của người bình thường. Còn nhớ lúc trước có một đứa trẻ con hàng xóm, ban ngày rất hoạt bát nhanh nhẹn, ngây thơ đáng yêu, nhưng hễ buổi tối đi ngủ thì thường xuyên giật mình tỉnh giấc, sau đó là gào khóc một chặp, ồn ào tới mức người lớn không thể ngủ được. Hiện tượng ấy rất kỳ lạ, đứa bé không sốt, lộ rõ vẻ buồn ngủ nhưng lại không thể nào ngủ yên. Về sau thì đêm nào cũng như thế, và hầu hết đều có tính thời gian, lúc khóc thì giống như nhìn thấy gì đó rất đáng sợ.

Có người khuyên hàng xóm đi tìm Thu Kinh Phụng Tử, họ là tín đồ Cơ Đốc, không tin cái trò thu kinh này, nhưng cuối cùng bị đứa bé làm huyên náo đến mức không nghĩ được cách gì nữa, tìm bác sĩ cũng vô ích, họ mới thỉnh Thu Kinh Phụng Tử làm thu kinh. Buổi tối hôm đó là lần đầu tiên đứa bé ngủ ngon lành nhất kể từ khi ra đời. Về sau, đứa bé cũng không làm ồn nữa, từ đó họ cũng không dám coi thường thu kinh, hễ đứa bé có hiện tượng kỳ lạ là lập tức lên xe taxi đi tìm Thu Kinh Phụng Tử để thu kinh.

Theo tôi được biết, thu kinh không chỉ là thu về nỗi sợ hãi của trẻ con, cũng có thể thu về nỗi kinh hãi của người lớn. Nếu người lớn buổi đêm thường xuyên ngủ không ngon, bị bóng đè, tâm trạng bất an, cũng có thể mời người biết thu kinh đến để thu kinh. Thu kinh có căn cứ khoa học không? Tôi nói thu kinh là một cách trị liệu tâm lý, cũng là một phương pháp điều trị tâm thần, là thuật thôi miên đơn giản. Nếu như thuật thôi miên có căn cứ khoa học thì thu kinh tự nhiên cũng có vị trí của nó.

Thu kinh phần lớn là cực kì linh nghiệm. Theo kinh nghiệm quá khứ của tác giả, tôi từng giúp nhiều người thu kinh, ngoài những người bị bệnh cực kì nghiêm trọng ra thì người gặp ác mộng thông thường, hoặc người xung sát, thu kinh xong là sẽ khỏi. Thu kinh có thể khiến tinh thần con người ổn định, không sợ hãi, tâm tình bình tĩnh, bởi vì đa phần tinh thần có liên quan tới sinh lý, vì thế bệnh về sinh lý cũng vì tinh thần vui vẻ mà được chữa khỏi.

Pháp thu kinh thông thường là dùng gạo, để lên quần áo của người bệnh, thắp ba nén hương thỉnh thần, trong miệng niệm chú ngữ thu kinh: "Bổn sư an tinh thần, tổ sư an tinh thần, ngọc nữ an tinh thần, an nhữ tinh thần hộ nhữ hình, dữ thiên địa hợp đức, dữ nhật nguyệt hợp minh, cấp cấp như Tam Muội Lão Nhân Thu Kinh Tiên Ông luật lệnh." Lấy quần áo bọc gạo lại, ấn mấy cái lên đầu của người được thu kinh, sau đó bỏ gạo ra, đưa quần áo cho người được thu kinh mặc vào, như thế là xong. Thế còn pháp thu kinh của Thu Kinh Phụng Tử lại niệm chú ngữ mười hai con giáp, lợi dụng sự tương sinh tương khắc của mười hai con giáp để phá trừ tất cả tinh thần xung sát bất an, cách thu kinh này khác cách thu kinh thông thường.

Trong quá khứ tác giả làm thu kinh áp sát giúp cho người ta thì có mấy cách, đặc biệt công bố như sau:

Cách thứ nhất, pháp thu kinh bằng gạo và quần áo — dùng một cái đĩa đựng gạo, đem quần áo gấp gọn gàng đặt lên trên gạo, thắp ba nén hương, hướng lên trời thỉnh thần cầu thần, sau đó cắm ba nén hương này vào giữa quần áo và gạo. Lúc này miệng niệm Thất Phật diệt tội chân ngôn hoặc niệm chú Đại Bi, thỉnh Phật từ bi nhìn xuống nỗi khổ của chúng sinh, dùng Phật pháp để thu kinh áp sát. Hương cháy hết thì thu gạo và quần áo lại, gạo có thể nấu ăn, còn quần áo thì để cho người được thu kinh mặc.

Cách thứ hai, pháp thu kinh bằng ngọc ấn — cái gọi là ngọc ấn tức là con dấu của thần minh, tương tự thắp ba nén hương, để ấn và hương cùng một chỗ, niệm chú dụng ấn. Lúc này người bị làm phép thuật ngồi trên ghế, hương và ấn di chuyển trước mặt họ, từ trong hư không truyền đến một sức mạnh khiến cho người bị làm phép thuật tâm trạng bình tĩnh. Cách thu kinh này, người dùng ấn (người làm thuật thu kinh) có thể từ từ nhận thức được mức độ kinh sợ của đối phương, có thể cảm thấy chính mình lần này làm thu kinh có hiệu quả hay không. Nếu người nào nghiêm trọng một chút thì có thể dùng ấn thần ấn lên trán của người được thu kinh, qua một đêm mới rửa đi.

Cách thứ ba, pháp thu kinh bằng đèn thần [chén đèn tượng trưng cho nguyên thần] — nói chung, dùng hai cách kể trên mà thất bại thì mức độ bị kinh sợ đã là thâm căn cố đế rồi, chỉ có dùng đèn nguyên thần chiếu ánh sáng màu sắc để thu kinh. Phương pháp này là một trong các pháp dùng đèn của Đạo gia thông thường, tương đối không đơn giản, đồng thời cách này cũng rất khác, người cao minh một chút thì phải bố trí năm pháp khí, kiếm, con dấu (ấn), kéo, cái cân, bàn tính, v.v… Còn phải mời cao tăng đại đức đến bái sám, pháp thu kinh bằng đèn thần thì thần minh phụng thỉnh đến cũng khác, có thể phụng thỉnh Bắc Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quang Minh Chân Quân, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Khôi Tinh, Đẩu Mẫu Chân Quân, v.v… Còn kẻ hèn này thích phụng thỉnh Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hoặc Vô Lượng Quang Phật.

Con gái nhỏ của tôi là Lư Phật Thanh từ nhỏ đã theo tôi lên núi xem địa lý cho người ta, một đứa trẻ bé xíu từ nhỏ đã bò tới bò lui trên những ngôi mộ. Mỗi lần ra khỏi nhà, tôi giơ ba ngón tay ra, thổi ba hơi khí, niệm ba câu "Nam mô Vô Lượng Thọ Phật", ấn vào trán của con gái. Bất kể con gái Phật Thanh của tôi có đi tới đâu thì cũng không bị kinh sợ chút nào. Đôi khi kể cả khóc lóc lúc đêm khuya thì tôi cứ thu kinh là dừng, công hiệu của thu kinh cũng không tệ. Tôi phát hiện ra mặt đất là nuôi dưỡng chúng sinh, nếu chúng ta dùng khí của mặt đất để nuôi dưỡng linh khí của chúng ta, thành tựu chân linh vô thượng chí cao, và người thu kinh có thể thu về hay phóng ra chân linh này, mượn chân linh này, thì cũng có thể thật sự thu kinh cho người ta.

Thu kinh có hiệu nghiệm hay không, thử là biết liền.

07. Pháp tế năm quỷ

Tên của năm quỷ là Đậu Nhân, Lý Khải, Trương Ngũ, Thập Thái, Chử Miễn. Thần chú Ngũ quỷ hỗn thiên như sau: "Tinh linh, tinh linh, bất tri tính danh, thụ pháp ngũ quỷ, đáo ngô đàn đình, thuận ngô giả cát, nghịch ngô giả hung, phụ ngô liễu đạo, khuông ngô thành chân, lệnh di ban vận, tức tốc tựu hành, nghịch ngô lệnh giả, thốn trảm hôi trần, ngô phụng, Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh. Nam mô vị phù án cát lợi án cát lợi(wây-fu an-chi-li an-chi-li )cang."

Pháp tế năm quỷ là một trong những pháp thuật phổ biến của Đạo gia, nếu một ngôi chùa muốn hưng thịnh, dùng pháp tế năm quỷ thì ắt sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên năm quỷ không phải là chính thần, nếu cúng tế không đúng cách thì cũng sẽ gây ra phản tác dụng. Tác giả đã từng nói trong sách linh về năm quỷ và năm phá, năm quỷ thì rất dễ cúng nhưng rất khó phá trừ. Mọi việc trên đời đều có hai mặt chính phản. Nếu chùa chiền muốn dùng pháp tế năm quỷ thì bắt đầu từ ngày Quý giờ Ngọ, trải qua bảy lần bảy tức bốn mươi chín ngày. Đến ngày thứ bốn mươi chín, dùng bốn cây sào tre xanh, viết tên năm quỷ lên trên (có thể khắc trên sào tre), hoặc viết lên tiền giấy rồi buộc vào. Chọn giờ tốt, dùng sào tre làm lễ trước lư hương năm quỷ. Sau đó nhanh chóng lên bốn chiếc xe máy đã chuẩn bị sẵn, xe máy chạy nhanh về bốn hướng Đông Nam Tây Bắc, xe càng nhanh càng tốt. Lúc này phải theo dõi đồng hồ thật kĩ, hết một giờ thì lập tức cắm sào tre bên đường.

Phương pháp này là một bí mật lớn trong Đạo pháp. Sào tre năm quỷ lấy chùa làm trung tâm, cắm sào theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Ý nghĩa của phương pháp này là: "Trong phạm vi bốn sào tre Đông Nam Tây Bắc này, bất kì việc lớn nhỏ nào xảy ra, năm quỷ trong chùa đều có thể cảm ứng biết được. Ví dụ như khi có thần quỷ nào đi vào phạm vi chùa này, các vị thần thánh trong chùa nhờ vào pháp lực của sào tre năm quỷ mà biết trước được. Ngoài ra trong phạm vi chùa, bất cứ chuyện gì xảy ra, năm quỷ đều có khả năng tiên tri. Hơn nữa sự hưng thịnh của ngôi chùa này còn vượt xa cảm ứng linh thiêng của các chùa khác, các chùa miếu khác không thể nào sánh được."

Tinh linh của năm quỷ là do khí âm tà của thiên hạ sinh ra, tồn tại giữa ranh giới chính tà. Người tu đạo dùng pháp năm quỷ, muốn chính thì chính, muốn tà thì tà, cho nên pháp theo tâm mà chuyển, không phải lỗi của năm quỷ. Tà ma thực sự không nằm ở năm quỷ, mà tội lỗi là ở nơi con người. Có những người tu đạo tâm địa không thiện, thích làm việc âm độc hại người, bản tính làm điều xấu ác, nếu dùng pháp năm quỷ hại người, thường khiến nhà người ta tan cửa nát nhà! Nếu làm pháp năm quỷ ở nhà có tang, hiện tượng là khiến nhà đó liên tiếp gặp chuyện hung, một năm chết một người, thậm chí một năm chết mấy người, chết liên tục, phần nhiều là do ảnh hưởng của tà khí năm quỷ, nếu không mau mau thỉnh năm quỷ ra khỏi thì nhà tan người mất là điều chắc chắn.

Ở Đào Viên có một gia đình, vì một số việc mà đắc tội với một vị pháp sư nào đó, người anh trong nhà gặp tai nạn xe và qua đời, vị pháp sư đã cố tình đốt một lá bùa ngũ quỷ trước quan tài. Trong lúc đưa tang, người em trai lo hộ linh cữu, nửa đường thì đột nhiên bị chóng mặt, về đến nhà thì chết vì đau tim. Một tháng sau, mẹ của họ bệnh nặng rồi cũng qua đời (bà vốn có bệnh, nhưng không phải bệnh nặng đến mức phải chết, thường ngày chỉ bị đau lưng mỏi gối mà thôi). Hai tháng sau nữa, đứa con hai tuổi của người em trai (đã mất) cũng bị sốt biến chứng thành viêm phổi rồi mất. Trong vòng một năm mà chết liền bốn người, có thể thấy gia đình này bất an đến mức nào, ai nấy đều lo sợ cho bản thân, mọi người đều hoang mang suốt ngày không biết phải làm sao, tang sự này chưa xong đã đến tang sự khác, làm gì còn tâm trạng nào mà buôn bán kiếm tiền nữa!

Họ mời tôi đến Đào Viên để xem phong thủy nhà cửa. Vừa bước vào cửa, tôi đã nhìn thấy năm thứ xấu xí kia, tôi nói: "Các vị đã phạm phải năm quỷ rồi, không cần xem gì thêm nữa, các vị đã đắc tội với kẻ tiểu nhân." "Vậy phải làm sao đây?" - Chủ nhà hỏi. "Lúc vị pháp sư đó đốt bùa, tôi đã thấy rồi, ông ta còn cố tình giả vờ đến cúng bái nữa." - Vợ của người em trai nói.

Thế là tôi dạy họ một phương pháp, đó là pháp đưa tiễn năm quỷ, phương pháp đơn giản, không tốn kém nhiều, có thể đưa được những con quỷ hung tợn này đi, thì nhà cửa mới được bình an, phúc thọ khang thái.

Thứ nhất, cũng vào ngày Lục Quý, dùng kéo cắt năm hình người bằng giấy trắng, ở phần đầu vẽ lông mày, mắt, mũi, miệng, tai. Trên thân mỗi hình người viết một tên của năm quỷ, dùng bát đựng gạo sống, đặt hình người đứng trên gạo. Hình thức là trong bát có gạo, hình người giấy đứng trên gạo, như vậy tổng cộng có năm bát, năm hình người giấy, vào ngày Lục Quý, đặt dưới bàn thờ, nhà không thờ cúng thì đặt ở nhà bếp. Đồng thời chuẩn bị một lư hương, đặt trước năm quỷ.

Thứ hai, khi bắt đầu, thắp hương và lễ bái một cách rất cung kính, mỗi lần năm nén hương, sáng tối lễ bái một lần, đồ cúng dùng rất đơn giản, một miếng thịt lợn nhỏ, một miếng cá nhỏ, một miếng thịt gà nhỏ, dùng một đĩa đựng là được, nhớ khi thắp hương lễ bái, phải đọc tên năm quỷ năm lần, không cần đọc chú Ngũ quỷ hỗn thiên, cứ như vậy bảy ngày, không được gián đoạn. (Do cúng ở dưới đất nên khi lễ bái, chỉ cần ngồi xổm cầm hương là được.)

Thứ ba, đến ngày thứ bảy, là thời khắc quan trọng nhất, mua một ít tiền vàng mã vuông, tiền bạc và tiền kho, không cần tính số lượng, đợi đến tối sau khi cúng xong, khi nhang cháy còn một nửa, nhanh chóng ra khoảng đất trống trước cửa nhà, đốt tiền vàng mã vuông, tiền bạc và tiền kho, lập tức lấy năm cây hương cháy một nửa, cùng với năm hình người giấy, cầm tất cả lên, ném vào đám giấy đang cháy, miệng đọc rằng: "Mau đi, mau đi, có phúc, có lợi." Cứ thế đọc liên tục không ngừng, khi lửa tắt, dọn dẹp đồ cúng sạch sẽ là hoàn thành.

Tác giả công bố pháp đưa tiễn năm quỷ này, phương pháp rất đơn giản, chi phí cũng không nhiều, những gia đình đang bất an có thể thử làm, đây là một phương pháp cứu người, vốn là một trong những bí pháp của trời, nay tôi công khai không giữ riêng, tin hay không là tùy mỗi người. Năm xưa Thanh Chân Đạo Trưởng truyền pháp, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền pháp, ý chỉ đều là cứu người cứu đời.

Nếu tôi giấu giếm riêng tư, chẳng phải là có lỗi với đạo đức sao?

08. Pháp Bát Quái phá địa sát

Các vị Thánh Vương hiền triết thời cổ đại đã truyền lại Bát Quái, gồm tám quẻ Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Chấn, Ly, Khảm, Đoài. Tám hình thái này tượng trưng cho Thiên, Địa, Lôi, Phong, Trạch, Thủy, Hỏa, Sơn, dùng để biểu thị những diễn biến giữa trời đất. Ý nghĩa việc các vị tiên nhân truyền lại Bát Quái là để chân lý được lưu truyền từ đời này sang đời khác, giúp con người hiểu được số của trời, số của đất, số của người. Sau khi hiểu được chân lý về sự vận hành của Bát Quái, tự nhiên có thể đắc được đại đạo giữa trời đất, vô vi mà làm, tự nhiên vượt qua được kiến giải của phàm phu thế tục, trở thành bậc đại giác chân nhân với trí huệ vô lậu.

Tôi từng biết rằng, với bậc thượng căn thì giảng về "tính lý", với bậc trung căn thì giảng về "luân hồi". Ngược lại, khi bậc đại đức tôn giả truyền pháp, với bậc thượng căn thì giảng "vô vi pháp", với bậc trung căn thì giảng "hữu vi pháp". Còn cuốn "Sức mạnh huyền bí" này của tôi, bắt đầu từ "hữu vi pháp" rồi chỉ thẳng đến "vô vi pháp". Tôi nói, thiên hạ vốn không có pháp, các pháp thuật hữu hình đều do tâm tạo ra. Tuy nhiên, từ vô pháp mà sinh ra hữu pháp, từ hữu pháp rồi trở về vô pháp, đó mới chính là chân pháp. Trước khi đắc đạo, nơi nào cũng dùng pháp, nơi nào cũng là pháp. Sau khi đắc đạo, buông bỏ hết thảy pháp, nơi nào cũng vô pháp mà nơi nào cũng là pháp.

Có lẽ đoạn văn trước của tôi, nhiều người sẽ không hiểu được, tuy nhiên không hiểu cũng không sao, chỉ cần đạt đến cảnh giới đó, tự nhiên sẽ hiểu thôi. Tôi nghĩ, những bậc cao nhân chân chính khi đọc những gì tôi viết, chắc chắn sẽ đồng ý. Phật Thích Ca Mâu Ni khi truyền pháp, với tám vạn bốn ngàn pháp môn, cũng đều từ "hữu vi pháp" đến "vô vi pháp", cánh cửa tột cùng chỉ có một, nhưng cánh cửa phương tiện thì vô số.

Tôi đã xem phong thủy nhà cửa cho rất nhiều người, số lượng không đếm xuể. Tôi thấy nhiều trường hợp điều kiện nhà không hợp, cũng như những ngôi nhà có địa sát rất nặng. Nếu điều kiện nhà không hợp và địa sát nặng nề, nó sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của cả gia đình. Nếu nhà ở không được bình an, tôi sẽ dạy mọi người một phương phápBát Quái phá địa sát". Nếu áp dụng phương pháp này đúng cách, nhà cửa sẽ được bình an, không có họa lớn họa nhỏ. Tôi nhớ có một nhà máy giấy, công nhân liên tục tử vong, tôi dùng phương pháp này để phá giải, kết quả rất tốt (không còn xảy ra nữa). Ở một hồ bơi miền Nam, cứ ba tháng lại có một du khách bị chết đuối, tôi dùng phương pháp này để phá giải (không còn xảy ra nữa). Phương pháp này như sau:

Thứ nhất: Chọn vị trí trung tâm của khu đất, thông thường với nhà ở thì là phòng khách, tốt nhất là đối diện cửa chính, dùng một thùng đựng gạo, đặt ở trung tâm khu đất. Ngày làm pháp nên chọn ngày "Thần Đất cai quản", giờ thì xem theo Tam Nguyên Nhật Khóa chọn giờ tốt, cắm bảy nén hương thơm nghi ngút trên thùng gạo, lúc này chắp tay thỉnh Thần Đất làm chủ, cầu xin tiêu tai giải nạn, trấn trạch bình an.

Thứ hai: Mua tám bó tiền vàng mã, tám bó này đặt riêng biệt trên mặt đất, xếp theo tám hướng Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Chấn, Ly, Khảm, Đoài. Khi đặt xuống, nhớ dùng lửa đốt trước một góc nhỏ của tiền vàng mã, tạo thành hình dạng năm góc, chỗ đốt phải cháy đen, cả tám bó tiền vàng mã đều phải đốt một góc như vậy. Điểm này vô cùng quan trọng, xin hãy ghi nhớ! Ghi nhớ!

Thứ ba: Khi đã sắp đặt xong, chắp tay đọc rằng: "Thái Thượng hữu cấp lệnh, Mao Sơn diễn pháp chân, Địa Thần phụng ngọc chỉ, áo sát hộ chủ nhân. Bát Quái diễn thiên số, mau giáng cát tường quang, chiếu phá nhất thiết uế, nhân súc giai an khang. Cấp cấp như Thái Thượng Lão Quân luật lệnh."

Lúc này nên bước chân theo hình chữ Cang Khôi, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, ngón tay kết kiếm quyết, sau khi kết kiếm quyết xong, lại chắp tay lui xuống.

Thứ tư: Khi bảy nén hương đã cháy gần hết, lúc này cần đặc biệt chú ý, ngay khoảnh khắc bảy nén hương đều cháy hết, nhanh chóng bước lên phía trước, đưa tay phải vào thùng gạo, vốc một nắm gạo, lúc này nam trái nữ phải, dùng chân dậm mạnh xuống đất một cái, quát lên: "Hách hách dương dương, phổ dương bất tường, sát xuất, sát xuất." Nhanh chóng rải nắm gạo trong tay ra ngoài nhà, lực rải gạo và lực dậm chân phải phối hợp thành một động tác, động tác phải mạnh mẽ và mãnh liệt, mắt mở to tròn, như đang xua đuổi hung thần ác sát vậy.

Thứ năm: Đem tám bó tiền vàng mã cùng với bảy nén hương đã cháy hết ra ngoài nhà đốt thành tro. Như vậy là hoàn thành.

Có người hỏi tôi: "Thưa ngài Thắng Ngạn, phương pháp Bát Quái phá địa sát này, nguyên lý của nó là gì?"

"Phương pháp Bát Quái phá địa sát là một trong những pháp chính dương của tiên thiên quái pháp. Nguyên lý của nó là dùng phong thủy để dẫn động địa linh. Vào thời điểm Thần Đất cai quản, thu nạp địa sát vào gạo. Nếu ngôi nhà hoặc khu đất thực sự có sát khí, chắc chắn sát khí sẽ đi vào gạo. Về việc đốt một góc tiền vàng mã, đó là ý nghĩa dẫn động khẩn cấp, trong đó có một chút thiên cơ nhỏ, không tiện nói rõ hết. Còn về phần thần chú, vì đây là một trong những pháp căn bản nhất của Đạo pháp phái Mao Sơn, nên mới dùng chú này, rải gạo ra, dậm chân, niệm 'sát xuất', chính là đuổi địa sát ra ngoài. Khi địa sát đã bị đuổi đi, tự nhiên chuyển nguy thành an vậy."

"Thưa ngài Thắng Ngạn, khi thực hành pháp này có điều cấm kỵ gì không? Ngài đã tiết lộ hết Đạo pháp như vậy, chẳng lẽ không sợ tiết lộ thiên cơ sao?"

"Pháp này không có nhiều điều cấm kỵ, nhưng khi thực hiện bất kì pháp thuật nào, nguyên tắc là không được xem thường, không được coi như trò đùa, phải làm từng bước một theo đúng trình tự. Việc tôi tiết lộ hết Đạo pháp là vì nhiều Đạo pháp trên thế gian này đã thất truyền! Hơn nữa người đời nay không tin vào thần linh, các pháp thuật tâm linh sắp bị mai một, ai ai cũng sùng bái phương Tây, xem nhẹ sức mạnh tinh thần. Tôi đề xướng Đạo pháp thiên cơ là muốn vãn hồi đời sống tinh thần đã mất của nhân loại, vì vậy, không tiếc công tiết lộ toàn bộ Đạo pháp bí mật."

"Thưa ngài, Đạo pháp và khoa học có thể kết hợp với nhau không?"

"Nếu dùng phương pháp khoa học để phân tích Đạo pháp, chắc chắn sẽ phát hiện ra một số năng lực trong đó, không phải hoàn toàn hư ảo và khó nắm bắt. Sự phát triển của khoa học hướng đến việc tìm kiếm hạnh phúc cho nhân loại trên toàn thế giới, và mục đích của Đạo pháp cũng giống như vậy. Trong tương lai, sức mạnh tinh thần của Đạo pháp chắc chắn sẽ được phát hiện trong lĩnh vực khoa học giống như từ trường vậy, khiến người ta tin tưởng mà không còn hoang mang. Vì vậy, triết lý khoa học của phương Đông và phương Tây có thể hòa quyện làm một, không còn phân biệt."

09. Cứu độ âm linh tái hiện

Sau khi con người chết đi, sức mạnh ý niệm của họ không nhất thiết biến mất ngay lập tức. Vào thời điểm này, dù mắt đã nhắm, tim ngừng đập, máu ngừng tuần hoàn, nhưng sức mạnh ý niệm vẫn còn tồn tại. Thời gian linh hồn rời khỏi thể xác khoảng từ 8 đến 48 giờ. Sau 48 giờ, khi sức mạnh ý niệm hoàn toàn dừng lại, đó mới thực sự là cái chết. Tôi thường nói, từ xưa đến nay ai rồi cũng phải chết, sinh tử là một chu kỳ lớn của thành, trụ, hoại, không. Con người sống ngay bên bờ cái chết! Có thể nói là láng giềng với cái chết vậy.

Cái chết và sự sống của con người đều nằm trong hàng ngũ khổ đau, bởi cái chết là sự giải thoát vô thức, còn sự sống là việc vô thức đi vào thế gian. Giữa hai điều đó là một quá trình giãy giụa, sáu nẻo luân hồi thực như biển khổ, niềm vui rốt cuộc quá ít ỏi. Hiện nay, để cắt đứt nỗi khổ của lục đạo luân hồi, chỉ có cách cầu đến sự cứu độ của Phật pháp. Khi âm linh tái hiện, với nhất tâm nhất lực, được vãng sinh về cõi Phật tịnh thổ, như vậy mới không uổng kiếp này.

Tôi đọc khắp kinh Phật, biết Mật tông có cái gọi là "trung ấm cứu độ", biết Hiển giáo có cái gọi là "trợ niệm cứu độ", những điều này đều rất quan trọng. Yếu chỉ của nó là trong vòng 48 giờ sau khi người vừa mới mất, do các vị pháp sư cao minh thực hiện pháp Trung ấm cứu độ hoặc pháp Trợ niệm cứu độ. Phương pháp này hiệu quả hơn việc các nhà sư tụng kinh hay đạo sĩ làm pháp sự, đồng thời giúp người thân, tiền bối nhờ nhận được lực hộ trì của đại chỉ Phật pháp, do niệm niệm vãng sinh mà được vãng sinh. Sức mạnh huyền bí này thật không thể nghĩ bàn.

Khi con người chết đi, điều đầu tiên xuất hiện chính là "không huyễn". Có người nhìn thấy người âm (người thân đã mất) hoặc thần quỷ khổng lồ, có vị thần vui vẻ hoặc quỷ dữ phẫn nộ. Khi thấy những cảnh tượng kỳ lạ này, đừng kinh ngạc sợ hãi (người tu thiền định khi vào cảnh giới "không huyễn" cũng thường gặp hiện tượng này). Lúc này không vui không giận, phải giữ tâm bất động, cần biết rằng những cảnh tượng này đều là sự biến hóa của tâm, là nghiệp lực ba đời cùng hiện ra. Nếu bị mê hoặc đắm chìm trong những cảnh huyễn này do nghiệp lực, chắc chắn sẽ rơi vào vòng khổ của lục đạo.

Nếu thấy một nam nhân đẹp đẽ mà đắm say, kiếp sau sẽ đầu thai làm thân nữ. Nếu thấy một nữ nhân đẹp đẽ mà mê hoặc, kiếp sau sẽ đầu thai làm thân nam.

Nếu lúc này thấy một ác quỷ khổng lồ ép bức, linh thức muốn trốn chạy nhưng không có lối thoát, mà thấy có một hang động khuất nẻo liền chui vào, thì chắc chắn sẽ rơi vào vòng khổ của lục đạo, khi bừng tỉnh ra thì đã đầu thai làm súc sinh mất rồi!

Khi người thân hoặc bạn bè mất trong vòng 48 tiếng đồng hồ, nếu biết được pháp cứu độ âm linh tái hiện, cần phải làm những việc sau đây, khiến người chết trong khoảnh khắc ấy giống như người chết đuối không có gỗ để bám, nhờ việc thực hiện pháp cứu độ mà giúp họ nắm được miếng gỗ cứu sinh, được chư Phật Bồ Tát từ bi tiếp dẫn, đạt được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Khi người chết, đừng khóc lóc thảm thiết, dù điều này rất khó làm được. Tuy nhiên, hãy cố gắng kiềm chế, muốn khóc thì đợi sau 48 tiếng đồng hồ hãy khóc cũng không sao, bởi tâm thức người chết vẫn còn, khi nghe tiếng khóc than của người thân bạn bè, tâm thức sẽ rối loạn, việc niệm Phật thường ngày không thể tiếp nối liên tục. Nếu tâm đau buồn, không thể tự chủ, thần thức không thể tập trung nhất tâm, tự nhiên sẽ bị nghiệp lực chi phối, lại phải luân hồi trong lục đạo, khó sinh về cõi Phật.

Lúc này, bậc đại đức thiện nhân hãy nhanh chóng đến bên tai người mất và nói với họ: "Thưa ông/bà, xin hãy ghi nhớ, mau chóng thu tâm, chỉ cầu hào quang của Phật và hoa sen nhanh chóng hiện tiền. Con nay quy y Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc, mong Đức Phật từ bi chiếu cố, dựa theo bổn nguyện xưa của chư Phật, niệm Phật được vãng sinh, hoa sen mau khai nở, niệm Phật được vãng sinh." Lúc này bậc đại đức thiện nhân ân cần niệm Phật bên tai người mất: "Nam mô A Di Đà Phật", khiến người mất không sinh lòng sợ hãi, nhất tâm nhất niệm, một lòng mong được thấy hào quang của Phật A Di Đà. Vào lúc này, chư Phật Bồ Tát theo bổn nguyện năm xưa, nhất định sẽ hiện thân tiếp dẫn.

Nói chung, khi người vừa mất, điều duy nhất còn tỉnh táo chính là hoạt động của tinh thần và niệm lực. Nếu là người thường ngày có công phu tu tập, chỉ cần không bị mê hoặc bởi những cảnh huyễn ảo, một lòng niệm Phật, không sợ không lo, chỉ quán tưởng một đóa sen, hoa sen phủ khắp thân mình. Khi được ân quang gia trì, vừa mở mắt đã thấy mình ngồi trên một đóa sen đang nở, và Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân phóng vô lượng hào quang cát tường. Lúc này chính là đã chứng được vãng sinh! Tôi nghĩ rằng được vãng sinh hay không, thời khắc âm linh tái hiện là quan trọng nhất, hãy buông bỏ tất cả cảnh huyễn loạn, buông bỏ thân tâm, buông bỏ phiền não, chỉ cầu Liên Hoa Hóa Thân Phật mau hiện, chỉ cầu Liên Hoa Hóa Thân Phật mau hiện.

Trong phòng của người sắp mất, cần thỉnh tượng Phật, thắp đàn hương, các huynh đệ tỷ muội trong chùa cùng nhau trợ niệm cho họ, giúp thần thức và niệm lực không bị phân tán mà quy về một mối. Do niệm lực được tập trung, dựa theo bổn nguyện của Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng sinh!

Có người hỏi: "Pháp bí mật cứu độ trung ấm của Mật tông và pháp cứu độ khi âm linh tái hiện có gì khác nhau không?"

"Pháp bí mật cứu độ trung ấm của Mật tông và pháp cứu độ khi âm linh tái hiện có sự khác biệt. Nói chung, pháp cứu độ của Mật giáo phải do pháp sư thực hiện, trong vòng bảy tuần thất (49 ngày), theo từng bước của pháp cứu độ, chỉ có pháp sư mới có thể thực hiện được. Còn pháp cứu độ khi âm linh tái hiện chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ, cần thực hiện ngay lập tức, ai cũng có thể làm được, không cần pháp sư. Đồng thời, pháp bí mật cứu độ trung ấm của Mật tông có học lý sâu xa hơn, còn pháp cứu độ khi âm linh tái hiện là pháp phương tiện, chỉ lấy việc vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc làm mục đích, những điều khác sẽ từ từ nói sau. Pháp này tuy đơn giản nhưng có lợi ích lớn, không thể xem thường."

10. Thuật truy tâm bí truyền

Thuật truy tâm là một pháp thuật được truyền từ Thanh Chân Đạo Trưởng. Khi đó ngài đã nói: "Liên Sinh, thuật truy tâm là pháp bí truyền, người thiện dùng sẽ tạo điều đại thiện, kẻ ác dùng sẽ gây điều đại ác. Vì vậy, truyền pháp này phải chọn người mà truyền, không thể công bố hoàn toàn. Chỉ cần giữ lại mật chú chân ngôn, dù có phương pháp cũng không thể thực hiện được. Thuật này chia thành thượng phẩm pháp do Thiên Khu Chân Nhân truyền lại, và hạ phẩm pháp do Mao Sơn Điền Chân Nhân truyền xuống. Sau này khi con xuất bản sách, có thể viết ra hạ phẩm pháp, ẩn đi thần chú, để cho người đời hiểu được thuật này là được."

Do lời dặn của thầy, nên bài viết này chỉ nói về sự tồn tại của thuật truy tâm mà thôi, không thể công bố thần chú. Công dụng của thuật truy tâm rất lớn, chủ yếu là để thay đổi lòng người. Ví dụ như có người bỏ nhà ra đi, không biết tung tích, dùng thuật truy tâm có thể khiến người bỏ đi nhớ nhà, cuối cùng tự họ sẽ quay về. Hoặc nếu có người mắc thói xấu, chuyên làm điều ác, cũng có thể dùng thuật truy tâm khiến người xấu hối cải, sửa đổi làm điều thiện. Thuật truy tâm này cũng có tác dụng ngược lại, nếu dùng phương pháp ngược, tự nhiên cũng có thể khiến người thiện trở nên xấu, gia đình tan vỡ.

Phương pháp thuật truy tâm như sau:

Thứ nhất, dùng một chum nước lớn làm bằng sành, đổ nước vào khoảng nửa chum, đặt một cây trúc xanh ngang qua miệng chum, treo một sợi dây, một đầu dây buộc vào cây trúc, đầu kia buộc vào một chiếc giày da hoặc giày vải của người được làm phép, càng cũ càng tốt, điều quan trọng là (nam trái, nữ phải), mặt giày vừa chạm mặt nước, miệng chum ngoài cây trúc ra còn cần một nắp gỗ, nắp không cần đậy khít cũng được.

Thứ hai, thực hiện thuật này vào lúc 11 giờ đêm, ý nghĩa là lúc này người được làm phép đã lên giường nghỉ ngơi. Lúc này thắp ba nén hương, không đậy nắp chum nước, người làm phép đối diện với chiếc giày trong chum, gọi tên người được làm phép 49 lần, sau đó tụng "thần chú truy tâm" bảy lần, rồi cầu nguyện về mục đích làm phép. Sau khi hoàn tất tất cả, đậy nắp gỗ lên miệng chum, cắm ba nén hương đang cầm vào nắp gỗ.

Thứ ba, thuật truy tâm thực hiện dựa vào lực của thần hoặc lực của quỷ linh, nên không thể xem thường hay đùa giỡn. Khi làm phép phải hết sức cung kính, không được sơ suất về lễ nghi. Trong thần chú cần thỉnh một vị thần làm chủ, cũng có người đốt "Tứ phương kim" để thỉnh thần tướng bốn phương trợ giúp. Nếu dùng thêm pháp tế lễ cầu nguyện, còn phải dâng hoa quả tươi để cung kính đón các vị thần thánh giáng lâm tương trợ.

Chum nước lớn dùng trong thuật truy tâm thực chất là hình tròn tượng trưng cho thế giới, và việc đổ nước vào một nửa chum có hai ý nghĩa: nước tượng trưng cho tinh thần con người, đồng thời cũng có thể giải thích rằng cơ thể con người được cấu tạo từ 70% nước. Chiếc giày cũ là vật dụng của người được làm phép, càng mang lâu, tinh - khí - thần của chủ nhân càng thấm vào giày! Giày đại diện cho người được làm phép, mặt giày chạm mặt nước tượng trưng cho sự tương thông giữa tinh - khí - thần. Do đó, dưới tác động của tinh thần và niệm lực, cùng với sự thúc đẩy của người thứ ba, người được làm phép sẽ bị ảnh hưởng về tâm lý, dần dần thay đổi suy nghĩ và đạt được mong muốn trong tâm của người làm phép.

Pháp thượng phẩm của thuật truy tâm cao quý hơn pháp hạ phẩm, và về mặt học lý cũng vượt trội hơn pháp hạ phẩm, hiệu quả linh nghiệm của thuật truy tâm thượng phẩm cũng mạnh mẽ hơn hạ phẩm! Thiên Khu Chân Nhân chỉ dạy rằng: Trong sinh thần của con người ẩn chứa kết cấu Thiên - Địa - Nhân tam tài, nếu có thể hiểu được sinh thần của một người, vận dụng biến hóa sẽ đạt được công năng của Kỳ Môn Độn Giáp. Khi Kỳ Môn Độn Giáp kết hợp với Tham Tinh Pháp Bái Thần, thuật truy tâm sẽ trở thành pháp tối thượng thừa. Cổ nhân có câu, một vì sao trên trời tượng trưng cho một con người dưới đất, câu nói này thoạt nghe tưởng như vô lý, nhưng nếu dựa vào cách suy đoán vận mệnh theo tinh tú, vận dụng đạo lý dịch chuyển Cửu Cung, sẽ hiểu được việc điều khiển vận mệnh một người là điều rất đơn giản. Đến cảnh giới này, tự nhiên sẽ không còn chê cười câu nói "một ngôi sao trên trời, một con người dưới đất" là chuyện đùa nữa.

Từ khi tôi học được một số pháp thuật, tôi nhận ra rằng mặc dù những pháp thuật này là sự phát huy của năng lực tinh thần, nhưng chúng không phải là giả. Sức mạnh linh nghiệm của chúng quả thực có những công năng kỳ diệu không thể nghĩ bàn. Vì vậy, trong cõi vô hình mờ mịt, dường như có một luồng "linh lực" đang không ngừng tuôn trào. Điều này thật là huyền diệu, những bí mật của vũ trụ dường như đang muốn được hé lộ.

Theo tôi biết, có rất nhiều người học được pháp thuật, nhưng đáng tiếc những người giữ được chính đạo không thay đổi thì không nhiều. Sau khi học được pháp thuật, nếu cậy vào pháp thuật để lừa gạt người khác, ngấm ngầm sai khiến quỷ thần quấy phá, tâm địa không thiện, những người này tuy ban đầu nhờ "thuật" mà đắc thế, nhưng kết quả đều không tốt đẹp gì. Bởi vì những kẻ sai khiến quỷ thần làm điều xấu ác, tương lai ắt sẽ nếm mùi đau khổ, vì một số pháp thuật ma quỷ là những thứ vô tình, chắc chắn sẽ có ngày phản chủ. Đến lúc chết, tự tâm hóa ma, kết quả không được chết lành, sau khi chết sẽ đọa địa ngục.

Hôm nay, khi viết cuốn sách này, tôi muốn nói rõ rằng Đạo pháp có thể tạm thời cứu giúp người khác hoặc tránh được một số kiếp nạn nhỏ, đây là một trong những phương pháp tự vệ của người tu Đạo, ít nhiều cũng có ích cho việc tu hành. Tôi mong rằng những người bạn có chí hướng về điều này, học được điều lợi mà không gây hại, tuy nhiên "đạo" thật sự không phải là những pháp thuật này, nhất định không được hiểu lầm. Đạo là chân lý của cuộc sống, không phải thần thông, không phải pháp thuật, mà là dùng trí huệ viên mãn để giác ngộ chân lý của cuộc đời, kết quả là không sinh không tử, vĩnh viễn chứng quả Phật, đạt được quả vị vô thượng.

Viết về thuật truy tâm bí truyền, có một bài kệ để lưu niệm:

Truyền pháp kỳ thuật chưa từng nghỉ, Cứu người vượt qua núi đao cao; Phỉ báng đến thân không đáng kể, Trung thành báo quốc rồi sẽ tỏ.

11. Thế thân

Thế thân là một trong những pháp thuật cổ xưa, với phạm vi ứng dụng rộng lớn đến mức khiến người ta phải kinh ngạc, và cũng là loại pháp thuật có nhiều biến thể, phức tạp và đa dạng nhất. Tác giả xin đưa ra một ví dụ nhỏ để minh họa. Thông thường, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ nếu có thói quen khóc đêm, cứ đến tối là khóc không ngừng. Ban ngày vẫn bình thường, không có bệnh tật gì, nhưng trời vừa tối là khóc, khóc đến khi môi khô miệng đắng mới thôi. Lúc này, nếu có người biết thuật thế thân, có thể dùng một tờ giấy đỏ, viết rằng:

Nhà tôi có đứa hay khóc đêm, Họ tên cân nặng đủ trong này; Người hiền quân tử đem tụng niệm, Một lượt thế thân giải nghiệp ngay.

Lại viết rằng:

Người hiền quân tử đức hạnh cao, Thay con tôi cầu được bình an; Khóc đêm dứt hẳn mệnh vận tốt, Trăm năm sống thọ mãi an lành.

Phương pháp này đã được sử dụng từ rất lâu đời, đây là một loại phép thế thân để ngăn trẻ nhỏ khóc đêm. Cách thực hiện là viết tên của đứa trẻ hay khóc đêm lên giấy đỏ, kèm theo hai bài kệ trên, rồi dán ở bảng thông báo hoặc bảng tin nơi dễ thấy. Nếu có người đi ngang qua nhìn thấy và đọc lên, kỳ diệu sẽ xuất hiện, từ đó về sau đứa trẻ sẽ không còn khóc đêm nữa. Bạn thấy lạ không? Hơn nữa, hai bài kệ này càng nhiều người đọc càng hiệu nghiệm, càng nhiều người đọc thì linh lực càng mạnh.

Ngoài ra, tác giả biết một bí pháp, đây cũng là pháp bí truyền, người học phải thắp hương lập lời thề, chỉ được sử dụng khi khẩn cấp hoặc thực sự cần thiết. Pháp này cũng là một loại pháp thế thân, bây giờ tôi đặc biệt giải thích pháp này. Tuy nhiên, tôi sẽ giữ lại mật chú, bởi vì nếu mọi người đều học và làm theo pháp này, sẽ đi ngược lại thiện pháp của trời đất và quy luật tuần hoàn tự nhiên. Sau đây xin nêu một ví dụ nhỏ: Nếu có một người bị mất trí, nói năng lộn xộn, nhưng người này có vai trò quan trọng, nếu tỉnh táo trở lại sẽ có ích cho chúng sinh, hoặc có thể làm chứng cho một việc nào đó, giúp nhiều người được lợi. Lúc này, theo pháp như sau:

Thứ nhất - tìm một chiếc tách cà phê làm bằng sứ, hoặc một món đồ sứ ngọc tinh xảo đẹp đẽ, thứ mà ai nhìn cũng thích. Ở miệng tách, đắp một miếng vải màu vàng, dùng chỉ đỏ buộc chặt. Trước khi đắp vải vàng, bên trong tách phải giấu tóc và móng tay của bệnh nhân, gói tóc và móng tay bỏ trong tách.

Thứ hai - dùng pháp tế sát để cúng tế chiếc tách, mỗi sáng sớm, cầm tách đặt gần miệng mũi của bệnh nhân, nếu bệnh nhân vẫn có thể thở, yêu cầu bệnh nhân đối miệng với miệng tách thở một hơi, nếu không thể, đưa miệng tách gần mũi, hít thở bảy lần rồi dừng, sau đó mang tách về, đặt lên bàn thờ, thắp ba nén hương để cúng, nếu không có bàn thờ, đặt xuống đất cũng được, nhưng phải đặt lư hương trước tách, mỗi lần thắp ba nén hương, cúng tế và tụng chú, không được bỏ một ngày nào. (Tôi giữ lại câu chú, không được truyền bừa bãi.)

Thứ ba - sau 49 ngày, lấy chiếc tách đẹp đẽ tinh xảo này, gói trong vải đỏ, đem vứt bên đường cách nhà mình bảy cây số, khi vứt cũng phải đọc thần chú. Đến đây mới coi như hoàn thành.

Cần biết rằng việc thực hiện pháp này có điều trái với đức thiện của trời đất, trái với quy luật tuần hoàn tự nhiên, bởi vì nếu có người vô tình nhặt được gói vải này, thấy là chiếc tách đẹp đẽ tinh xảo như vậy, sinh lòng tham, đem về nhà dùng để uống trà, thì tác dụng thay thế sẽ dần dần phát triển trong vô hình, người nhặt tách sẽ dần dần bị xung sát, cuối cùng sẽ thần trí không minh mẫn, tinh thần rối loạn. Còn bệnh nhân ban đầu, vì bệnh đã có người thay thế, có người làm thế thân, nên được khỏi bệnh, đây chính là phương pháp chuyển di thế thân.

Theo tôi biết, mặc dù việc chuyển di nghiệp bệnh có sự sắp đặt mầu nhiệm của quỷ thần trong cõi vô hình, nhưng người thực hiện pháp thuật vì tư lợi mà không màng đến sự sống chết của người khác sẽ tổn hại đức hạnh của mình rất lớn. Vì vậy, tôi không làm pháp này và cũng không truyền cho ai. Bây giờ tôi chỉ nói ra để độc giả biết rằng trên đời có pháp này, và khi nhặt được đồ vật trên đường, hãy nhanh chóng mang đến đồn cảnh sát để tìm chủ nhân, tránh sinh lòng tham một lúc mà phải chịu tai họa vô hình, như vậy thật không đáng!

Pháp thế thân cũng được các đạo sĩ sử dụng phổ biến, ví dụ như để thay thế cho người phạm sát, họ dùng hình nhân bằng cỏ hoặc giấy để làm phép. Các cửa hàng bán vàng mã thường cũng bán "người thế thân", đây là cách phổ biến nhất. Khi dùng pháp thế thân để giải trừ vận xui cho người khác, bản thân đạo sĩ phải có đạo đức cao thượng mới được. Nếu đạo đức không cao, phép thuật không tinh thông, không những không giúp được người mà còn làm hại đến chính mình. Lời tôi nói không hề sai, giữa trời đất vốn có thần giám sát, nếu bản thân không có đức hạnh mà muốn làm phép cho người khác, phép chưa làm thì đã gặp họa trước.

Như tôi đã từng nói, nhiều căn bệnh không thể tự khỏi, nguyên nhân chữa lành là nhờ người khác thay thế và giảm nhẹ. Ví dụ như có người bệnh rất nặng, chúng ta dùng sức mạnh của cả trăm người để thay thế, mỗi người chỉ phải gánh chịu một phần đau đớn có hạn, còn bệnh nhân nhờ được thay thế mà khỏi bệnh. Đây chẳng phải là một bí mật vô cùng thần kỳ và không thể nghĩ bàn sao?

Pháp thế thân vô hình này có thể nói là một phương thuật không thể thiếu trong các pháp thuật.

12. Xin hỏi tìm địa linh ở đâu

Phong thủy địa lý là một môn học rất sâu sắc, nhưng không ngoài năm yếu tố: long, huyệt, sa, thủy, hướng. Trong cuốn sách "Địa Linh Huyền Bí" của tôi đã trình bày rất rõ ràng. Chúng ta biết rằng, trong cuộc đời mù mịt này đều có định số, việc gặp được phong thủy tốt hay xấu cũng đã được định sẵn, tuy nhiên muốn tìm được địa thế tốt vẫn cần có bậc thầy phong thủy cao minh chỉ điểm.

Theo quan sát của tôi về thiên số địa số trong Kinh Dịch, nếu phân chia theo trời đất, thì trời là dương còn đất là âm, cho nên đất chính là mẹ, trời chính là cha, đất mẹ nuôi dưỡng vạn vật, sinh thành muôn loài, điều này có nguyên do của nó. Xét về mặt di truyền khí thiêng của đất, con người có mối liên hệ huyết thống với tổ tiên, và sự tốt xấu của địa linh tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của thế hệ sau, đây chính là sự vận hành của địa chi, quả thật không thể xem thường.

Nói về hòn đảo ngọc của chúng ta, trong số tất cả các dãy núi lớn trên toàn đất nước, không có ngọn núi nào tôi chưa leo qua. Từ Nam chí Bắc, từ Tây sang Đông, tôi nhận thấy địa khí của hòn đảo ngọc dày đặc đến mức các thầy phong thủy thông thường không thể tưởng tượng được. Đảo ngọc có thể gọi là đảo tiên Bồng Lai giữa nhân gian, đây không phải lời nói suông mà là danh xứng với thực. Tôi đã phát hiện được 36 huyệt thiên long bảo địa, có thể nói là "thất tinh giáng thế", "bảo địa sinh liên", "quang hoa rực rỡ". Vì vậy, dựa vào những yếu tố địa lý này, tôi có thể biết rằng đảo ngọc là vùng đất thánh, xét về giá trị lịch sử, càng thêm siêu việt và vĩ đại. Bản thân tôi ngước nhìn thiên tượng, phát hiện bảy con rồng uốn khúc, giáng xuống đảo ngọc, đây quả là điềm báo đại cát đại lợi, đại phú đại quý!

Các thầy phong thủy thông thường không hiểu phương pháp mượn đất vận khí, chỉ biết dựa vào khí tự nhiên của đất. Còn các bậc thầy cao minh có thể mượn đất vận khí, mượn khí thiêng của đất để giúp người đang gặp vận xấu chuyển sang con đường quang minh. Phương pháp này gọi là pháp mượn đất vận khí cải vận, có người còn gọi là pháp "tá tử". Ý nghĩa chính của pháp tá tử là quan sát sự nhiều ít của dương khí và âm khí, vận dụng nguyên lý Kinh Dịch để chuyển đổi họa phúc, nghèo giàu trong cuộc đời. Pháp tá tử cũng chính là một môn học về âm dương.

Phương pháp mượn đất vận khí cải vận như sau:

Thứ nhất - Thỉnh mời một vị thầy phong thủy cao minh, căn cứ theo cách bài trí của tinh tú giáng hạ để tìm một long huyệt chân chính. Về việc đánh giá long huyệt tốt xấu, xin tham khảo tác phẩm "Địa Linh Huyền Bí" của tôi. Trình độ cao thấp của thầy phong thủy có liên quan rất lớn đến pháp mượn đất vận khí cải vận, bởi vì nếu tìm long huyệt mà có sai lệch thì ngay từ đầu đã phạm sai lầm, như vậy là không thể thực hiện được. Pháp mượn đất vận khí nhất định phải dùng long huyệt quý chân chính, nếu không tìm được long huyệt thì không được sử dụng, bởi vì đây là phép "hiện thực lập tức".

Thứ hai - Chuẩn bị một bộ đầy đủ gồm tóc, móng tay, quần áo, giày tất, mũ nón thường mặc của đương sự, cùng với bát tự ngày sinh của họ, giao cho thầy địa lý cao minh sử dụng. Lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào công lực của vị thầy phong thủy cao minh đó. Dựa vào bát tự ngày sinh của người đó để tính toán, có thể biết được sự thịnh suy của ngũ hành cửu cung, rồi dựa theo sự dẫn động của địa khí, đưa vào cung suy của đương sự, giúp họ chuyển họa thành phúc, chuyển hung thành cát, chuyển suy thành thịnh.

Thứ ba - Thầy địa lý tính toán ngày sinh của người đó, áp dụng phương pháp như mai táng người chết, cũng cần xác định ngày động thổ, ngày dựng bia, ngày tiến kim [sau khi người chết trải qua quá trình hỏa táng, hoặc sau khi cải táng từ mộ truyền thống (còn gọi là nhặt cốt), di cốt được đặt vào hũ hoặc bình đựng tro cốt, cuối cùng người thân đưa đến nơi an táng (tháp mộ) để lưu giữ, quá trình này trong nghi lễ tang ma được gọi là nhập tháp, hay còn gọi là vào tháp hoặc tiến kim], ngày tròn mâm [sau khi đã chôn cất tổ tiên một số năm, đào mộ lên để thu gom hài cốt bỏ vào hũ tro cốt, rồi đem chôn hũ tro cốt vào ngôi mộ mới xây]. Cần nhớ xác định rõ đó là long huyệt nào, căn cứ theo ngày sinh của đương sự để quyết định độ sâu đào đất, điều này đặc biệt quan trọng. Khi tất cả những việc này hoàn thành, tự nhiên sẽ phát sinh hiệu quả rất lớn.

Pháp mượn đất vận khí cải vận này không nhiều người biết, người biết sử dụng còn ít hơn, đây cũng là một trong những pháp bí truyền. Mục đích của nó là mượn khí thiêng siêu việt và vĩ đại của đất để giúp người sống tiêu tai giải nạn, thúc đẩy cát tường tránh hung họa. Ví dụ như có người sinh gặp vận xấu, có thể dùng pháp này dẫn động địa linh trợ vận, vượt qua năm cửa ải của vận mệnh.

Tôi thấu hiểu sâu sắc rằng trên đời có rất nhiều thuật kỳ lạ, và tôi - Lư Thắng Ngạn nhỏ bé này, may mắn có được cơ duyên kỳ ngộ, hiểu được những số lớn trong thiên hạ. Tuy nhiên, tôi đã giấu kín không lộ ra suốt bảy năm dài, người đời nhìn tôi ngờ nghệch, nhìn tôi vụng về, nhìn tôi ngớ ngẩn. Phải chăng tôi thật sự ngu dốt? Hay giả vờ ngu dốt? Hay là kẻ ngu trong số những người thông minh? Ha ha! Tôi thà làm một người thực sự ngu dốt, giữ kín mọi thuật kỳ lạ trong lòng, mang theo xuống mồ. Thế nhưng, làm sao tôi có thể báo đáp ân nghĩa của các vị tiên sư trên trời dưới đất đã dành cho tôi?

Xin viết một bài kệ để chứng minh:

Chân lý trời đất bền vững mãi, Người biết học đạo thắng được trời; Ôm ấp kỳ thuật dũng mãnh tiến, Trung trinh báo quốc mãi không dời.

13. Tử vi đẩu số

Khi Thanh Chân Đạo Trưởng còn sống, ngài rất tinh thông về Hoàng cực số và Tử vi đẩu số, đặc biệt là giỏi về thuật bói toán "Nhất Trượng Thanh". Ngài từng tính mệnh cho tôi, ân sư thở dài nói: "Liên Sinh, kiếp này con khổ rồi, tuy mệnh cách của con thanh liêm hiếm thấy, nhưng ma kiếp trùng trùng, con chỉ có thể nhiều lần cầu nguyện trời cao, dùng Thiên cách quý tinh để dẫn động Nhân cách quý tinh, như vậy mới có thể tránh được tai ương. Than ôi! Mong con có thể nhẫn nhịn, nhẫn rồi lại nhẫn, luôn tha thứ cho những người đối địch với con, bởi vì những người này tự thân họ không làm chủ được bản thân, họ là ma tinh chuyển kiếp! Họ đến để thử thách con đấy."

Thanh Chân Đạo Trưởng truyền cho tôi thuật bói toán "Nhất Trượng Thanh". "Nhất Trượng Thanh" là một biến thể sâu sắc hơn của Tử vi đẩu số. Tôi đã từng tính số cho chính mình, thật đúng là như vậy, tính ra khiến một người thật thà như tôi phải kinh hồn bạt vía, kiếp nạn của tôi nặng nề đến thế, than ôi! Thượng thiên ơi! Xin thương xót cho Lư Thắng Ngạn tôi một đời trong sạch, tâm địa lương thiện, xin cho tôi vượt qua kiếp số này, cầu xin thượng thiên, xin hãy nhìn xuống tôi, đừng quên tôi. Sư phụ ơi, trong cơn nguy khốn Liên Sinh mong được cứu vớt, sư phụ Tam Sơn Cửu Hầu ơi...

Do Thanh Chân Đạo Trưởng đã từng tính mệnh cho tôi, bản thân tôi cũng tự tính, ngoài ra còn có một vị lão tiên sư tên Vương Minh Thụ ở số 1 đường Quang Phục, thị trấn Thanh Thủy cũng tính "Tử vi mệnh tạo" cho tôi. Tôi không quen biết Vương Minh Thụ, nhưng thuật số mệnh lý của ông quả thật phi phàm, ông tính toán về vợ con tài lộc của tôi rất chính xác! Ông ấy gửi thư cho tôi và ông tính cho tôi như sau:

Thưa tiên sinh Thắng Ngạn: Tôi viết thư này không khác gì múa rìu qua mắt thợ, nghĩ rằng tiên sinh là bậc hiền đạt, chắc sẽ không chê cười. Xem bát tự của tiên sinh, tôi biết ngài là một người quân tử chính trực, nên mới dám mạo muội. Tôi thấy tiên sinh không nên công khai bát tự ngày sinh của mình trong sách, điều này sẽ mang đến nhiều phiền phức cho tiên sinh, phải biết rằng cây cao thì gió lớn, người đời có kẻ tốt người xấu, e rằng có tiểu nhân đố kỵ, âm thầm quấy phá. Dù Đạo pháp của tiên sinh cao thâm, nhưng cũng phải tốn nhiều công sức, đặc biệt khi vận hành trong ba vận Mão Tuất Dần, tuy có nhiều người ủng hộ, nhưng cũng lắm kẻ ma đạo tiểu nhân, tiên sinh cần phải đề phòng mới tốt. Nghĩ rằng với Đạo pháp tinh thâm của tiên sinh, ắt có thể hóa nguy thành an, chuyển nguy thành yên, đó là dụng ý của tôi khi viết thư này.

Tôi và tiên sinh vốn là đồng hương, người Gia Nghĩa, mười năm trước chuyển đến Thanh Thủy, đến nay tôi vẫn là kẻ nghèo hèn. Từ nhỏ đã thích học ngũ thuật, về thuật núi, mệnh lý, bói toán, tướng số đều có chút tâm đắc, thỉnh thoảng cũng từng phục vụ người khác. Tuy có tâm hướng đạo, nhưng nghiệp chướng chưa trừ, vẫn chưa phải lúc, chỉ biết kính thần lễ Phật, dè dặt cẩn trọng, không dám trái với thiên đạo lương tâm mà thôi. Sau này nếu có cơ duyên, sẽ đến tận cửa cầu giáo.

Kính chúc bình an. Vương Minh Thụ kính bút.

🌟

"Tiên sinh là người có ba sao quý, sao Ất Dậu quý nhân thiên tài, sao Nhâm Ngọ tỷ kiên lộc thần, sao Đinh Mão thiên ấn, sao Bính Ngọ tỷ hựu lộc thần. Mệnh cách cao quý của tiên sinh - Đinh hỏa sinh vào mùa hè nóng bức, giờ Ngọ lộc, hỏa khí vượng thịnh 『Đinh Nhâm hợp Mộc, năm chi Dậu Kim nghịch Mộc khí, tuy có Ngọ Hỏa khắc Kim, nhưng trong giờ Ngọ Kỷ Thổ vượng tự sinh Kim, nên Đinh Nhâm tuy hợp nhưng không hóa.』 Vì vậy nên lấy Nhâm Thủy ở tháng để điều hòa làm dụng, lấy Kim ở năm chi Dậu làm cát, trời phối ba sao quý Ất Bính Đinh nên là bậc kỳ tài."

"Chi đới Thiên Nhất quý nhân, các cung Dậu Mão Ngọ, khí quán suốt ba cung Chấn, Ly, Đoài, Mộc hỏa thông minh. Do đó tiên sinh có tính tình ngay thẳng, trung chính không xu nịnh, văn chương tinh thông, đa tài đa năng (theo như nhật chủ và dụng thần tương hợp, ắt là bậc trung chính vĩ đại trong thiên hạ). Điều đáng ngại là Mão Dậu xung nhau, chủ về không hợp, phần nhiều là lập nghiệp từ tay trắng, tính cách cứng rắn, không có duyên với gia đình, hoặc ly biệt hoặc xung khắc, đây là mệnh bỏ tổ rời nhà tự lập thân vậy."

"Tý, Sửu, Mão, Dậu - dù bát tự không có con cái, nhưng hai ngôi Ngọ ngầm xung, hư thần làm dụng thần, các cung Chấn, Đoài, Khảm, Ly như bốn cực của trời đất, khí tượng vô cùng hùng vĩ. Từ đó có thể thấy rằng tiên sinh có tấm lòng rộng lớn, chí nguyện cao xa, phẩm cách thanh liêm, quả thật là bậc quân tử chân chính vậy."

"Vận Kỷ, lửa ẩn sinh Kim, Thực Thần tiết lộ tú khí, danh tiếng vang xa, bốn biển chấn động, quả thật có nguyên do." "Vận Mão xung Dậu, trợ Hỏa khắc Kim, có tổn thương đến cát dụng, xin tiên sinh đề phòng tiểu nhân đố kỵ, ngầm hãm hại, đồng thời phòng phu nhân thân thể bất an." "Vận Tuất không tốt, từ quan, thôi việc, lại phòng tai ương cho con cái, ma kiếp trùng trùng." "Vận Dần danh tiếng càng cao, nhưng ngày tháng vất vả." "Vận Sửu cát tinh chiếu rọi, tài lộc dồi dào." "Vận Tý, Tý Ngọ Mão Dậu hội tụ, khai tông lập phái, thiên hạ kính ngưỡng, phổ độ chúng sinh, công đức vô lượng." "Vận Hợi thể dụng hữu tình, bốn biển quy phục." "Niết bàn chứng đạo, sẽ đến vào vận Tuất."

🌟

Thuật Tử Vi Đẩu Số của cụ Vương Minh Thụ quả thật tinh thâm, những gì cụ tính toán hoàn toàn trùng khớp với những gì tôi đã suy đoán bằng phương pháp "Nhất Trượng Thanh". Mọi việc đã xảy ra đều đúng, còn những điều chưa xảy ra tôi cũng có thể biết trước. Điều này cho thấy số mệnh trong đời người quả thật là có thật! Theo như tôi được biết, trong Tam Nguyên Vận Số thì thiên vận đã định, địa vận đã định, chỉ có nhân vận là còn có thể tự tay thay đổi. Mong sao trong suốt cuộc đời phấn đấu này, Liên Sinh có thể chuyển nguy thành an, gặp dữ hóa lành, dùng tâm từ bi để cảm hóa nhân tâm trong thiên hạ.

14. Ngũ quả và chỉ ngũ sắc

Nhiều người thờ cúng thần Phật thường hỏi tôi: "Thưa thầy, khi thỉnh thần có cần chọn ngày giờ không? Nên dùng vật phẩm gì để thỉnh thần là tốt nhất, linh nghiệm nhất?"

"Đó chỉ là một nghi thức trong pháp hữu tướng, hoàn toàn chỉ cầu một chữ an tâm mà thôi. Tôi thấy thỉnh thần không cần phải làm khác người, dùng ngũ quả và chỉ ngũ sắc để thỉnh thần là được. Nếu không thỉnh thần, tôi cũng không phản đối, thần Phật không khai quang, tôi càng không phản đối. Nếu một người tâm thần đã siêu thoát khỏi hữu tướng, thì ngay cả Phật Bồ Tát cũng không cần phải thờ cúng. Còn về ngày giờ, cũng chỉ là hai chữ an tâm, quan trọng hay không quan trọng, đó là tùy người mà định." - Tôi nói.

Có người nghe tôi nói xong, suy nghĩ một chút là hiểu. Có người nghe tôi nói, suy nghĩ rất lâu vẫn không hiểu, nguyên nhân là vì tư tưởng của họ bị giới hạn trong khuôn khổ vật chất hữu hình hữu tướng. Vì vậy, dù tôi có giải thích thế nào, họ vẫn không hiểu được.

Tác giả đã từng viếng thăm vô số đền chùa lớn nhỏ, chứng kiến rất nhiều nghi thức nhập thần và khai quang. Nay xin đặc biệt giải thích về các vật phẩm dùng trong nhập thần như sau, để mở rộng kiến thức cho độc giả. Có cả chính pháp lẫn tà pháp, có pháp tâm linh và có cả pháp bàng môn.

1. Nhập thần bằng ruồi - Dùng ruồi màu vàng kim nhập vào tượng thần, đây là phương pháp cổ xưa nhất. Loại ruồi này không phải ruồi thường, ruồi phải được nuôi từ nhỏ đến lớn, không cho bò lung tung, nên đây là loại ruồi rất đặc biệt. Tại sao lại dùng ruồi để nhập thần? Nói ra thì rất thú vị, hai chữ "nhập thần" trong tiếng Đài Loan đọc giống như "nhập ruồi", đây quả thật là một phương pháp không có căn cứ gì.

2. Nhập thần bằng ong - Ngày nay, rất nhiều tượng thần được nhập thần bằng ong, phần lớn là dùng ong bắp cày và ong đen, hoặc dùng ong chúa. Ong thợ bình thường (ong làm việc) ít được sử dụng. Việc dùng ong để nhập thần có hai lý do. Thứ nhất, ong bắp cày và ong đen có tính khí mạnh mẽ, hung dữ, rất phù hợp với tính cách của các vị thần võ. Tương truyền sau khi nhập thần, thần tính sẽ căm ghét cái ác, có thần uy như sấm sét, có thể trừ tà ếm quỷ, khiến tà ma không dám xâm phạm. Thứ hai, dùng ong chúa nhập thần thể hiện linh tính cao siêu, có ý nghĩa lãnh đạo quần sinh. Nói chung, những tượng thần Phật được nhập thần bằng ong phần lớn là các vị thần võ như Vương Gia, Huyền Thiên Thượng Đế, Quan Thánh Đế Quân, Vi Đà Hộ Pháp, Dương Nhị Lang Thần, v.v… Thần văn ít khi dùng ong để nhập thần. Còn về lý do tại sao dùng ong để nhập thần, là vì chữ "phong" (ong) lấy ý từ chữ "phong" (gió), còn mang ý nghĩa "oai phong" vậy.

3. Nhập thần bằng hạt bồ đề - Nói chung tượng Phật ít khi được nhập thần, tuy nhiên cũng có trường hợp dùng hạt bồ đề để nhập thần. Tác giả từng chủ trì nghi thức nhập thần cho người khác, vị trụ trì cũng dùng hạt bồ đề để nhập thần. Điều này bắt nguồn từ việc năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội bồ đề, đêm nhìn sao sáng và đắc đạo. Do đó, bồ đề là biểu tượng của quả vị giác ngộ. Việc dùng hạt bồ đề để nhập thần thể hiện Phật có quả vị, quả vị chính là Phật. Theo như tôi được biết, cũng có người dùng kinh Phật làm vật nhập thần, việc dùng kinh Phật nhập thần thể hiện sự truyền thừa Phật pháp, chuyển bánh xe pháp lớn.

4. Nhập thần bằng thuốc Đông y - Có thể nhiều độc giả chưa từng nghe về việc nhập thần bằng thuốc Đông y. Có người dùng Tứ Vật (Thần), Bát Trân, Thập Toàn, có người dùng đến ba mươi sáu vị thuốc để nhập thần. Các vị thần được nhập theo cách này thường là Thần Nông Đại Đế, Hoa Đà Thiền Sư, Dược Vương Bồ Tát, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, v.v... Ý nghĩa của việc này rất rõ ràng.

5. Nhập thần bằng gương sáng - Cũng có người dùng gương sáng để nhập thần, gương sáng tượng trưng cho ánh sáng của mặt trời và mặt trăng.

6. Nhập thần bằng ngũ quả và chỉ ngũ sắc - Ngũ quả tượng trưng cho quả vị, cho kết quả tốt đẹp. Chỉ ngũ sắc được tạo thành từ năm sợi chỉ màu đỏ, vàng, trắng, xanh, đen, thể hiện ánh hào quang năm màu rực rỡ của thần linh. Nhìn chung, việc nhập thần bằng ngũ quả và chỉ ngũ sắc là phổ biến nhất, tôi cũng tán thành việc dùng ngũ quả và chỉ ngũ sắc để nhập thần, không cần phải làm khác người hay dùng tà pháp.

7. Nhập thần bằng rùa và hạc trắng - Tôi rất không tán thành cách nhập thần này. Mặc dù có người cho rằng rùa là linh thú và hạc trắng là linh điểu, nhưng vì linh khí của thần linh mà phải sát sinh hại mạng thì làm sao thần linh có thể linh thiêng được? Đây thực sự là cách làm không nên. Hơn nữa, khi nhập thần bằng rùa và hạc trắng, xác chúng sẽ phải thối rữa, mà đã thối rữa ắt sẽ có mùi hôi, liệu thần linh có giáng xuống không?

8. Nhập thần bằng rắn độc - Hiện nay tôi biết có người dùng rắn độc để nhập thần, lấy sự nhanh nhẹn và nọc độc của rắn để sử dụng, đây thực sự là cách làm không nên theo.

Còn rất nhiều vật dụng khác để nhập thần, ví dụ như đinh đồng, tiền cổ, bảo vật trấn yểm, như ý, linh chi v.v... Mỗi thứ đều có ý nghĩa và cách thức riêng, nhưng theo tôi, con đường tu pháp quan trọng nhất là tâm thành thì linh. Nhập thần chỉ là bước đầu tiên trong việc thờ phụng thần Phật, chỉ cần tâm ý thuần khiết, đem tâm thần nhập vào thần tâm, như vậy trời người hợp nhất, đó chính là linh ứng nhất.

Nhập thần là một trong những phương pháp hữu hình, tôi cho rằng việc nhập thần hay không nhập thần, đối với thần Phật và người tu hành đều không quan trọng. Tuy nhiên, vì có rất nhiều người cứ muốn hỏi tôi về điều này, nên tôi đành phải viết bài này để bàn luận về vấn đề nhập thần.

Tôi xin làm bài kệ:

Nhập thần được mất đừng để tâm, Tín ngưỡng chân thành mới cần vững, Trời người hợp nhất làm việc lớn, Tâm hướng nơi nào chẳng ngả nghiêng.

15. Phép xem hung cát của nhà cửa theo học thuyết Âm Dương

Thanh Chân Đạo Trưởng từng nói: "Âm Dương học là một học thuyết cổ xưa, ngày nay phần lớn đã thất truyền. Âm Dương học có mối quan hệ vô cùng mật thiết với đạo Nho chính thống, bắt đầu từ nhất khí đến lưỡng nghi, từ lưỡng nghi đến tam nguyên, từ tam nguyên đến tứ tượng, từ tứ tượng đến ngũ hành, từ ngũ hành đến lục hợp, từ lục hợp đến thất kỳ, từ thất kỳ đến bát quái, từ bát quái đến cửu cung, từ cửu cung đến thập luận. Trong đó, lưỡng nghi chính là âm dương, âm dương sinh vạn vật, âm dương hóa vạn vật, âm dương nuôi dưỡng vạn vật."

Tiên sinh Tam Sơn Cửu Hầu nói: "Liên Sinh, vô cực chính là vô hình, là gốc rễ của đạo, còn thái cực chính là nhất khí, lưỡng nghi chính là âm dương. Một người tu đạo, nếu có thể phân biệt âm dương, tự nhiên có thể phán đoán mọi việc lớn nhỏ trong thiên hạ, không điều gì có thể thoát khỏi huệ nhãn của họ. Nếu dùng hai chữ âm dương để phân định thiên hạ, thì hung cát họa phúc đều nằm trong tầm kiểm soát. Vì vậy, Âm Dương học này có thể biết được mọi việc trong thiên hạ, từ việc lớn đến việc nhỏ như lành dữ của con người, không thiếu sót điều gì."

Kẻ hèn này khi viết cuốn "Sức mạnh huyền bí", đương nhiên phải bàn luận về Âm Dương học. Theo nghiên cứu của tôi, nhà đại triết học phương Tây Einstein với nguyên lý Thuyết tương đối của ông có thể nói là sự phát triển thêm của Âm Dương học cổ xưa của Trung Quốc. Rất đáng tiếc là trong khi Thuyết tương đối của Einstein nổi danh lẫy lừng trong lịch sử, thì Âm Dương học của chúng ta lại bị mai một hoàn toàn. Tôi cho rằng, nếu áp dụng Âm Dương học vào thời hiện đại, phát huy những nguyên lý đích thực của nó, trong tương lai, những học thuyết cổ xưa này có thể sẽ nổi danh thiên hạ và còn được khoa học chứng minh. Hôm nay, bài viết ngắn này có tựa đề "Phép xem hung cát của nhà cửa theo Âm Dương học", tôi sẽ dạy mọi người một phương pháp đoán định cát hung của nhà cửa. Phương pháp này rất đơn giản, nhưng quý như vàng, rất thực tế, không phải chỉ là lý thuyết suông.

Khi chúng ta muốn mua một căn nhà, trước tiên phải xem xét cát hung của căn nhà đó. Phương pháp xem xét này chính là "Phép đoán định cát hung của nhà cửa theo Âm Dương học". Cần biết rằng, mặc dù cấu trúc, vị trí đất và diện tích của ngôi nhà đều quan trọng, nhưng có những yếu tố nhỏ có thể ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời của người sống trong đó, những yếu tố này chính là do hai chữ âm dương quyết định. Dưới đây tôi sẽ phân tích một số điểm chính:

1. Nhà cửa cát tường theo nguyên lý trung hòa - Trung hòa nghĩa là âm dương cân bằng, loại nhà này khi mua về ở sẽ rất bình an. Cách đoán định như sau: phòng khách thuộc dương, bếp thuộc dương, phòng ăn thuộc dương, phòng đọc sách thuộc dương. Có lẽ có người thắc mắc tại sao bếp lại thuộc dương? Vì bếp là nơi lửa thịnh nên thuộc dương; phòng ngủ thuộc âm, phòng kho thuộc âm, phòng tắm và nhà vệ sinh thuộc âm, nếu có phòng thờ riêng cũng thuộc âm, phòng trống cũng thuộc âm. Bây giờ lấy tổng diện tích các phòng thuộc dương và tổng diện tích các phòng thuộc âm cộng lại so sánh với nhau, nếu diện tích dương và diện tích âm không chênh lệch nhiều, đó chính là nhà trung hòa, ở sẽ được bảo đảm bình an.

2. Nếu ở lâu trong nhà có số âm lớn, người sống trong đó sẽ không được khỏe mạnh, bệnh tật quấn thân, ý chí suy sụp, thậm chí dễ trở nên thần kinh và thu hút tà khí âm, con cái sinh ra cũng không thể quang minh lỗi lạc, dễ mắc bệnh ngoài da, thậm chí sa đọa vào thói hư tật xấu.

Tuy nhiên, nếu người mang số âm lớn gặp người có tính chất dương cương đến ở trong nhà, hung sẽ chuyển thành cát, đây là do người và nhà tương tác "đạt đến trung hòa". Vì vậy, ở nhà thì nên chọn nhà trung hòa là an toàn nhất, nhưng cũng cần xem xét số âm dương của người ở để phán đoán.

3. Nếu ở lâu trong nhà có số dương lớn, người sống trong đó dễ bị cao huyết áp, tài lộc thịnh vượng, tính tình dễ nóng giận, cố chấp trong việc chọn điều thiện, có nguy cơ bất hòa trong gia đình, tính khí cương liệt, dễ mắc bệnh tim và gan, con cái tuy có địa vị cao quý nhưng tính tình cứng rắn, khó nhận được sự giúp đỡ của quý nhân, dù có tài thế nhưng ắt sẽ suy sụp giữa chừng. Nếu người mang số âm nặng đến ở loại nhà này, vừa hay tạo thành hiện tượng trung hòa giữa số âm và số dương, như vậy cũng là đại cát.

4. Phép điều hòa thay đổi đồ vật - Mỗi khi tôi đến xem nhà ở của người khác, dựa vào môi trường, cách ngăn phòng (bố cục nhà) và cách bày trí đồ đạc, trước tiên sẽ phán đoán có bao nhiêu số dương, bao nhiêu số âm, sau đó cải tạo bố cục nhà và sắp xếp lại đồ đạc để số dương và số âm tương tác "đạt đến trung hòa". Như vậy, người ở trong nhà nhờ sự điều hòa của việc thay đổi đồ vật mà thay đổi được vận mệnh hiện tại. Người học Âm Dương phải biết quan sát số dương và số âm trước, sau đó mới bàn đến việc "đạt trung hòa", như vậy có thể biến nhà hung thành nhà cát.

6. Phân tích và đoán định số âm dương - Vận mệnh thường thay đổi do việc di chuyển đồ vật, ví dụ như giường thuộc âm, khi di chuyển đến dưới cửa sổ có nhiều ánh nắng thì sẽ tạo thành trung hòa. Máy điều hòa thuộc âm, máy sưởi thuộc dương, ghế sofa nhung thuộc dương, ghế sofa da thuộc âm, hướng nắng thuộc dương, khuất nắng thuộc âm, sáng thuộc dương, tối thuộc âm, vật động thuộc dương, vật tĩnh thuộc âm, tính lửa thuộc dương, tính nước thuộc âm, cao thuộc dương, thấp thuộc âm... Trong đó có rất nhiều phân tích, nếu đoán định càng tinh tế thì việc dự đoán cát hung họa phúc càng chính xác, không sai một chút nào.

Việc phán đoán cát hung của nhà cửa không chỉ dựa vào số âm dương để nghiên cứu, mà còn phải xem xét các yếu tố như dòng nước, kích thước cửa ra vào, độ sáng tối của căn nhà, địa thế cao thấp, hình dáng bên ngoài của ngôi nhà. Tuy nhiên, việc nghiên cứu số âm dương là yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn nhất đến vận mệnh của cả gia đình. Người mua nhà để ở không thể không biết những kiến thức cơ bản này.

Hôm nay, Liên Sinh tiết lộ thiên cơ và bí pháp này, quả thật là công khai một bí thuật lớn.

16. Dùng tâm nhân ái để thực hiện phép thuật nhân ái

Giữa trời đất thật sự ẩn tàng huyền cơ lớn, con người đứng ở giữa trời đất và tự xưng là linh thiêng nhất trong muôn loài quả không sai, tuy nhiên, vẫn có những người mê muội không khai ngộ. Theo tôi nghĩ, người hiểu được huyền cơ lớn của trời đất chắc chắn là bậc trí tuệ và đức độ cao minh, còn những người không hiểu được huyền cơ, mê muội không tỉnh ngộ thực sự là một trở ngại lớn trong lịch sử nhân loại. Lấy ví dụ về học thuyết "tri hành hợp nhất" và "định tĩnh an lự đắc" của tiên sinh Vương Dương Minh, vào thời đó, ông bị cho là cách tân dị thường, đề xướng tà thuyết. Vương Dương Minh không những bị biếm truất mà còn đau buồn qua đời trên đường đi. Việc học thuyết của Vương Dương Minh được công nhận mãi đến sau khi ông mất, trải qua nhiều đời hoàng đế mới xảy ra. Từ đó có thể thấy, khi chân lý xuất hiện, không nhất định được xã hội bảo thủ đương thời chấp nhận.

Những đạo lý này không cần nói nhiều cũng có thể hiểu được. Muhammad phải chạy trốn từ Mecca đến Medina để thoát khỏi sự truy sát của kẻ thù, Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, Socrates bị oan chết trong ngục, những thành tựu của các bậc thánh nhân vĩ đại này thường không được đám người mê muội đương thời chấp nhận. Theo tôi, những bậc tiên tri tiên giác thượng trí thực sự quá ít, trong khi những kẻ hậu tri hậu giác lại chiếm đa số, vì thế mà sinh mệnh của người tài thường bị bọn tầm thường bóp chết. Chính vì vậy, khi Quốc phụ mới bắt đầu cách mạng, tự nhiên bị một đám người hậu tri hậu giác gọi là Bốn tên giặc. (Quốc phụ Tôn Trung Sơn sinh vào năm Đồng Trị thứ 5 nhà Thanh, quyết tâm theo đuổi sự nghiệp cách mạng từ sau khi nhà Thanh thất bại trong cuộc chiến với Pháp. Lúc đó mọi người đều cho ông là quái vật, kẻ điên, kẻ cướp, chỉ có Trần Thiếu Bạch, Du Thiếu Uyển, Dương Hạc Linh ba người ủng hộ ông, vì thế mọi người gọi bốn người họ là Bốn tên giặc.)

Trong Phật giáo, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn từng nói với Lục Tổ Huệ Năng: "Ta thấy kiến giải của ngươi có thể dùng được, nhưng sợ kẻ xấu hại ngươi, nên không nói với ngươi, ngươi có biết không?"

Sau khi truyền tâm ấn, Ngài lại nói: "Ngươi hãy mau đi đi, ta e người ta không phục, mọi người sẽ hại ngươi."

Lục Tổ Huệ Năng thật đáng thương quá, đã đắc "chân tính" nhưng phải chạy trốn khắp nơi như cá vượt lưới, như chó chết chủ. Người có trí tuệ lớn thường bị người đời ganh ghét, bị người ta đuổi đánh! Lục Tổ tuy đã đắc "chân tính" nhưng vẫn bị một đám người tầm thường đuổi đánh, đây thật là nỗi buồn của bậc thiên tài, sự ngu xuẩn của kẻ tầm thường.

Khi viết cuốn sách "Sức mạnh huyền bí" này, tôi tự nhận là một cuốn sách bình thường, nhưng đây lại là điều chưa từng có trong các tác phẩm trước đây. Những phép thuật nhỏ này phần lớn đã thất truyền. Tôi cảm thấy cần phải nhấn mạnh ở đây rằng, đây là phương pháp cổ xưa, chỉ đơn giản là sự phát huy sức mạnh tinh thần, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Trong cuộc đời mình, tôi chưa từng thực hiện một phép thuật tà nào. Tôi cho rằng tất cả chúng sinh trong thiên hạ đều là Phật tương lai, tôi chỉ có thể hết sức cung kính với họ, không thể sinh ra một chút bất kính nào. Những người hiểu được phép thuật như chúng ta phải dùng tâm nhân ái để thực hiện phép thuật nhân ái!

Hôm nay, nếu tôi moi trái tim mình ra, tôi tin rằng nó vẫn trong sáng như gương soi trời đất, thanh bạch, quang minh chính đại. Lư Thắng Ngạn không phải là người có tà tâm ác ý, điều tôi đề xướng chính là tâm nhân ái và thuật nhân ái! Tâm nhân ái là tấm lòng thương yêu muôn loài giữa trời đất, tâm nhân ái chính là tình thương bao la, tâm nhân ái chính là lòng từ bi của Phật Đà. Tôi chỉ là một người bình thường, một người không màng danh lợi, một người thật thà chân thành, lẽ nào không thể chứng minh được khí chính trực mà trời đất đã ban cho con người sao? Nói ra cũng lạ, trên gương mặt tôi, trong tâm hồn tôi, tôi luôn khiêm tốn thành tâm cầu học từ mọi người, nhưng điều nhận được lại không phải là sự cảm thông và chỉ dạy, mà là những lời chửi mắng. Thật có tội quá! Cơn giận dữ của những người này khởi lên vì tôi, chẳng phải tôi đã khiến họ rơi vào đường atula sao? Lòng từ bi của họ đã bị các vị thần phẫn nộ thay thế, đây là tội lỗi của tôi, tôi xin thề rằng: "Nguyện trong đời này, độ hết những người ghét tôi, mắng tôi, hại tôi, cho đến khi họ thành Phật."

Tôi sẽ dùng tâm nhân ái để thực hiện thuật nhân ái, tha thứ cho những kẻ địch của mình, bởi vì họ không biết việc họ làm. Tôi sẽ dùng tâm nhân ái để đánh thức lòng từ bi và tình thương trong họ, không để sự phẫn nộ che lấp lương tri và thiện tâm của họ. Bản chất của họ vốn là thiện, là tốt, nhưng họ không biết, không biết Lư Thắng Ngạn thực sự là người như thế nào, nên họ đã xem một người có tâm địa trong sáng thành kẻ tội lỗi sâu nặng. Họ không thấy được trái tim tôi đang rướm máu, tôi ngày đêm rơi lệ, ngày đêm đau thương và rơi lệ vì nhân loại đau khổ. Tôi tự an ủi mình, tự xét lại mình, tự nhủ rằng: "Mình phải luôn giữ tâm bình an, không vì người khác hiểu lầm mà sinh lòng oán hận, mình phải thương yêu tất cả mọi người, yêu thương chân thành, hy sinh trọn vẹn, và luôn vui vẻ. Nếu mình viết với thiện ý mà có người phê phán công kích, đó là phải trái của họ, tuy nhiên, trách nhiệm vẫn thuộc về mình, mình phải càng thương yêu họ hơn, càng cứu độ họ nhiều hơn, và hóa độ họ."

Đề xướng linh học không phải là tà thuyết gì cả. Người phương Tây đã nghiên cứu nhiều đến mức không muốn nghiên cứu thêm nữa. Sách vở về thế giới bốn chiều xuất bản ở nước ngoài nhiều như núi, sao chúng ta không mở rộng tầm mắt để nhìn nhận thế giới này? Việc nghiên cứu linh học có thể chứng minh nhân quả luân hồi là có thật, chứng minh con người bất sinh bất diệt và trường tồn, chứng minh sự thông suốt giữa triết học Đông Tây, chứng minh khoa học về ánh sáng, nhiệt và các năng lượng khác, điều này thật là quan trọng biết bao!

17. Thiên Cang Địa Sát Khoa Tiếu pháp

Người học qua Đạo pháp đều biết, Thiên Cang 36, Địa Sát 72, Thiên Cang 36 này trong các vì sao có thể lần lượt tỉ mỉ quan sát thấy, nói chung, trong một năm tôi quan sát Thiên Cang 36, có thể hiểu rõ số trời. Còn Địa Sát 72 cũng là 72 ngôi sao, nếu hiểu được sự biến hóa của chúng có thể biết thiên tai địa biến, không hề sai một li nào. Cổ nhân cúng tế trời đất thường lấy số Thiên Cang Địa Sát làm chuẩn, diễn biến cho đến nay chính là Khoa Tiếu tông.

Khoa Tiếu tông chính là pháp cúng tế trời đất, có tác dụng cầu phúc an tai, đại bộ phận là vì mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Tuy nhiên, cách làm pháp của Khoa Tiếu tông ngày nay thật sự đã có sai lệch, bởi vì thượng thiên có đức hiếu sinh, cúng trời thì được nhưng tuyệt đối không được sát sinh, ví dụ như một lần lập đàn làm pháp giết mấy nghìn con dê, giết cả vạn con lợn, những súc sinh khác thì cũng giết vô số, những oan hồn này sao có thể không kêu thảm thiết chứ! Đức của thượng thiên chính là thương xót mạng sống của vạn vật trong thiên hạ chứ làm gì có đạo lý thương cái chết của vạn vật trong thiên hạ, loài thật sự đến hưởng thụ không ngoài hạng ma quỷ, dùng người cầu ma, ma còn không thể tự cứu ma thì sao có thể bảo hộ con người chứ! Cho nên Khoa Tiếu tông ngay tại đây và ngay lúc này thật sự đang đi vào con đường cúng tế loài ma quỷ.

Năm xưa thầy tôi ở núi Tập Tập đã nói với tôi: "Liên Sinh, Thiên Cang 36, Địa Sát 72, hợp lại là 108 số, đây chính là tinh hoa suy số của Thánh nhân, có thể hiểu được số, tự mình có thể vận chuyển linh số của trời đất, chính mình thoát thân từ trong kiếp người. Ngày nay pháp Khoa Tiếu đại bộ phận đều lộn xộn, giết lợn mổ dê chỉ tăng thêm tội lỗi của chính mình, bây giờ dùng hoa tươi quả chay để cúng là được rồi."

Khi ấy tôi khấu đầu hỏi thầy: "Sư Tôn, xin chỉ thị một phương pháp tiện lợi có thể thực hành được đơn giản nhất, hơn nữa còn là phương pháp có thể làm trời xanh cảm động mà ban phúc, có được không? Để Liên Sinh đem pháp Khoa Tiếu này công khai với đời, nhằm cải thiện phong tục, hợp ý trời đất." Thanh Chân Đạo Trưởng nói: "Được."

Pháp Khoa Tiếu mới nhất này, tôi công khai như sau:

Trước tiên nói đến diễn số, Thiên Cang 36 chia cho 4 được 9, Địa Sát 72 chia cho 4 được 18, hợp số Thiên Địa 108 chia cho 4 được 27, mà 9 chia 3 được 3, 18 chia 3 được 6, 27 chia 3 được 9. Đây là con số 369 thần kỳ của trời đất. Thế rồi lấy 4 cộng 3 được 7, 7 chính là con số viên mãn. Cho nên pháp Khoa Tiếu mới nhất, để bày tỏ tôn thiên lễ thần viên mãn, chỉ cần bảy đĩa đồ cúng là được, bảy đĩa cúng phẩm này chính là Ngũ Hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ và sơn hào hải vị.

Đĩa thứ nhất — Kim, dùng hoa kim châm làm đại diện. Đĩa thứ hai — Mộc, dùng mộc nhĩ làm đại diện. Đĩa thứ ba — Thủy, dùng miến làm đại diện. Đĩa thứ tư — Hỏa, dùng đậu phụ làm đại diện. Đĩa thứ năm — Thổ, dùng nấm hương làm đại diện. Đĩa thứ sáu — sơn hào, dùng gừng làm đại diện. Đĩa thứ bảy — hải vị, dùng muối làm đại diện.

Có lẽ độc giả đọc đến chỗ này sẽ rất kinh ngạc, sao lại đơn giản như vậy, trên thực tế chính là đơn giản như thế thôi. Hôm nay tôi chọn dùng phương pháp lễ trời đất các Thánh Thần Tiên Phật chính là dùng bảy đĩa rau này, đây đều là đồ chay, cũng không đắt mà có đầy đủ cả Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ sơn hào hải vị rồi, quan trọng nhất là cộng thêm trái tim thành kính nhất của tôi. Pháp Khoa Tiếu mới nhất này là Sư Tôn của tôi sáng tạo ra, có thể nói là xưa nay chưa từng có, và người sau này chính là tôi, còn người khác không ai biết. Nay tôi công bố phương pháp Khoa Tiếu đơn giản nhất này, công bố phương pháp khiến Thần Phật hài lòng nhất này, có lẽ là một sự cải thiện lớn của Khoa Tiếu tông, một cải cách lớn cho phong tục cúng bái.

Cần nhớ khi lễ bái có thể niệm: "Đệ tử xin vì tất cả chúng sinh khắp hư không giới, thắp hương kính lễ tất cả chư Phật khắp hư không giới, tất cả chính pháp, tất cả các Đại Bồ Tát Duyên Giác Thanh Văn Thánh chúng. Trên từ Thiên Đế thiên nhân của các thiên, nhật nguyệt tinh thần, Nam Đẩu Bắc Đẩu, Ty Trung Ty Mệnh, thần gió thần mưa, tất cả linh thần làm chủ tạo hóa, kính lễ tất cả. Dưới từ thần đất, núi cao biển sâu, núi non sông ngòi, tất cả linh thần làm chủ tạo hóa. Ở giữa đến nhân gian, tất cả linh thần cai quản họa phúc, kính lễ tất cả, xin thành tựu tất cả thiện nguyện….." Tâm địa của con người là quan trọng nhất.

Khoa Tiếu cầu phúc hiển nhiên nằm ở lòng người. Ngày nay, chỉ mong người người sử dụng pháp Khoa Tiếu mới nhất, thượng thiên có đức hiếu sinh, Liên Sinh cũng có thiện tâm cứu đại kiếp nạn.

Viết một bài kệ: Ân sư truyền pháp làm chủ thời cuộc mới Khoa Tiếu lễ thần quyết định kế hoạch xa Đàn cầm đàn sắt thiên âm chấn động thiên hạ Mưa thuận gió hòa tâm mềm mại nhu mì.

18. Chân đế của Không, Có

Hai chữ "Không" và "Có" trong mắt tôi không phải là đối lập nhau mà có mối liên hệ qua lại với nhau. Có nhiều người bàn luận về hai chữ này nhưng chỉ hiểu được một phần, càng nói càng xa rời bản chất. Cũng có nhiều người tìm đến hỏi tôi về chân đế của hai chữ "Không" "Có", tôi nói: "Không tức là có, có cũng tức là không, không không có có, có có không không. Ha ha!"

Một buổi chiều nọ, tôi nắm tay con gái nhỏ, dạo bước trên con đường nhỏ ở Hợp Tác Thôn Mới, Đài Trung. Màn đêm dần buông, đèn đường vừa sáng, gió mát nhè nhẹ thổi, những lời nói ngây thơ vô tư của con gái nhỏ khiến lòng tôi rộn ràng vui vẻ. Ngay lúc đó, một người đàn ông trung niên bước vội vã đến bên cạnh tôi và hỏi: "Xin hỏi có phải là thầy Lư Thắng Ngạn không?" "Đúng vậy." - Tôi đáp: "Sao ông biết tôi?" "Có lần thầy nói chuyện với một vị công tố viên, luật sư Hoàng và một cảnh sát hình sự họ Lý, tôi cũng có mặt ở đó, thầy không nhớ rồi."

"Xin lỗi vì trí nhớ tồi của tôi, xin hỏi ông có việc gì không?" "Gần đây tôi đọc sách của thầy, rất thích và có chút lĩnh ngộ. Về vấn đề 'Không' và 'Có', tôi muốn xin thầy chỉ dạy. Chúng ta có thể vừa đi dạo vừa trò chuyện được không? Trước tiên tôi xin hỏi làm thế nào để phân biệt 'Không Có'?" "Là như thế này, nói về chữ 'Có', đó chính là ý nghĩa của sự tồn tại, tức là bàn về chân đế của 'vật'. Còn chữ 'Không', đó chính là ý nghĩa của linh tính, tức là bàn về chân đế của 'tính'. Cho nên bàn về 'Có' tức là bàn về 'vật', bàn về 'Không' tức là bàn về 'tính', nếu chúng ta nhìn nhận như vậy thì sẽ không nhầm lẫn giữa hai khái niệm này."

"Vấn đề về Có và Không quả thực là một câu hỏi lớn mà các triết gia nghìn đời qua đã bàn luận. Sau khi được thầy chỉ ra như vậy, tôi gần như đã hoát nhiên đại ngộ." "Cái gọi là Có chính là sự tồn tại của vật chất. Ví dụ như khi ta nhìn thấy một chiếc xe hơi, nó chắc chắn đang tồn tại. Ví dụ như khi ta nhìn thấy một người, người đó cũng chắc chắn đang tồn tại. Con người đã tồn tại, thì đó chính là 'Có', đó là chân đế của 'Có'. Trời tồn tại, đất tồn tại, người tồn tại, vạn vật đều tồn tại. Nguyên lý trong cái vạn hữu này chính là chân lý về sự tồn tại của vật chất trong 'Có'."

Tôi nói tiếp: "Vậy thế nào là 'Không'? Khi bàn về mặt tâm linh, bàn về mặt tinh thần, đó chính là 'Không', bởi vì đó là những điều không thể sờ mó được, tự nhiên chỉ có thể dùng lý thuyết về Không để giải thích, ví dụ như cảnh giới trống không trong tư tưởng. Chúng ta có thể nói bầu trời là không, bầu trời là khoảng không vô hạn, đất cũng là không, ai bảo sự biến đổi từ biển xanh thành ruộng dâu không phải là không, con người cũng là không, bởi vì sau khi chết đi, sự tồn tại trở nên trống rỗng, trở thành con số không, trở thành tướng 'Không'."

"Thưa thầy Thắng Ngạn, nếu lấy con người để bàn về Không và Có, thì là không hay là có?" "Vừa là không vừa là có." Tôi nói: "Nếu bàn về việc con người ăn uống, ngủ nghỉ, tắm rửa, đại tiện. Tất cả đều là biểu hiện của 'Có', tồn tại vì sự tồn tại, nhưng nếu quan sát kỹ, con người do tứ đại đất nước gió lửa giả hợp mà thành, một ngày nào đó, tứ đại phân tán, đất về đất, nước về nước, lửa về lửa, gió về gió, con người không còn tồn tại nữa, chẳng phải đã trở thành một thế giới trống không. Cho nên hợp lại thì là có, phân ra thì là không. Nếu lấy tinh thần của Không để bàn về linh tính, linh tính vốn không, nhưng nếu được biểu hiện thành vật chất thì lại trở thành có."

Tôi nói: "Chân tính của linh hồn vốn là không, cũng là vô, nhưng khi chân tính của linh hồn biến thành một dạng 'năng lực', tức là 'linh năng' được biểu hiện, đó chính là từ không biến thành có, cho nên linh hồn là 'không', còn linh năng là 'có', khi linh hồn đi vào thực thể và có biểu hiện thực sự, loại biểu hiện này chính là 'có'. Tôi cho rằng chìa khóa để chứng minh sự có-không của linh hồn nằm ở đây, chỉ cần 'năng lực linh hồn' có thể được chứng minh, thì có thể chứng minh linh hồn là có, có người cho rằng linh hồn là không có, đó là vì họ đứng ở góc độ của không để nhìn, có người cho rằng linh hồn chắc chắn tồn tại, đó là vì họ đứng ở góc độ của 'linh năng' để nhìn."

"Ồ! Tôi đã hiểu rồi, giá trị của đời người chính là ở khả năng thể hiện của con người, nếu có một người sống cả đời không thể hiện gì cả, cứ mơ hồ mờ mịt qua ngày, đó là cuộc đời 'không', còn nếu thể hiện được năng lực, tức là có thể chứng minh họ đã từng tồn tại, thể hiện được dấu tích chân thực của cái 'có'." Ông ấy nói: "Thưa thầy Thắng Ngạn, hôm nay rất cảm ơn thầy đã chỉ dạy." "Không có gì, không có gì, đừng khách sáo." - Tôi nắm tay con gái nhỏ Phật Thanh, nhìn con, thấy con thật đáng yêu. Còn vị khách kia đã đi xa.

Tôi chợt nhớ ra, khi viết "Sức mạnh huyền bí", tôi có đề cập đến một số pháp thuật nhỏ để giúp người, nhưng thực ra trên đời vốn không có pháp thuật nào tồn tại, cũng chẳng có phương pháp tu hành, bản chất thật của thế giới này chỉ là một sự trống không. Tuy nhiên, khi dùng phương tiện giả để độ thân giả, quay lại quán chiếu thực tướng của đời mình, lại có thể sinh ra một loại năng lực của pháp, đó chính là sự hiện hữu của pháp lực, sự hiện hữu của phương pháp tu hành. Quan điểm giữa có và không được xây dựng trên nền tảng vĩ đại này của đời người, không thể chỉ bàn về có, cũng không thể chỉ bàn về không, mà là sự liên quan lẫn nhau, như vậy mới thật sự là chân không bất không. Bàn về vật thì phải nói Có. Bàn về tính tự nhiên là Không. Phân biệt như vậy, có Có cũng có Không.

19. Thiện niệm không ngừng có thể cải vận

"Trong cuốn 'Ngọc Lịch Bảo Sao - Văn Khuyến Thế', ông Thiệu Tử Kiến ở Chiết Giang đã viết lời tựa rằng: "Tục ngữ có câu, trong phòng tối làm điều xấu xa, mắt thần sáng như điện, lời nói thầm của người trần, trời nghe như sấm, điều này cho thấy đạo trời khó lừa dối, và thần quỷ ở khắp mọi nơi. Hơn nữa, chỉ một niệm chân thành có thể âm thầm nhận được ân điển của thần linh, chỉ một niệm tà ác có thể lập tức chuốc lấy sự trừng phạt của trời. Thường không cần đợi thấy sự việc xảy ra mà họa phúc đã định, không gì khác ngoài việc cầu ở tâm mà thôi. Cái gọi là ruộng phúc chính là ruộng tâm, gieo nhân nào gặt quả nấy. Đạo trời sáng tỏ, không sai chút nào, vốn không cần bàn về đạo báo ứng, nhưng báo ứng vẫn hiện hữu trong đó. Sao các nhà Nho thường cho rằng thuyết nhân quả báo ứng, thiên đường địa ngục là lời nói dối của nhà Phật để lừa gạt phụ nữ và trẻ con? Ngay cả những tác phẩm như 'Thái Thượng Cảm Ứng Thiên', 'Văn Xương Đan Quế Tịch', 'Quan Thánh Giác Thế Kinh' và các bảo huấn của chư tiên chân nhân, họ cũng cho rằng đó chỉ là thần đạo lập giáo. Họ nào biết rằng thần đạo là để bổ sung cho chỗ thiếu sót của thánh hiền, bởi vương đạo vốn dựa trên tình người, thần đạo cũng không ngoài vương đạo. Nếu làm theo điều tâm an, ngẩng lên cúi xuống không hổ thẹn, thì dù đêm khuya thanh vắng tự mình làm, thánh hiền cũng chấp nhận, tiên Phật cũng chấp nhận, và Thượng Đế sáng suốt trên cao càng không có gì không chấp nhận. Vậy nên linh đài trong tâm chính là cung điện vàng bạc, thế giới lưu ly, phú quý phúc lộc, muốn gì được nấy, nơi thân này ở chính là thiên đường, có ma quỷ dạ xoa nào dám lừa dối, và núi đao rừng kiếm nào đáng sợ? Bởi vậy thánh hiền hổ thẹn với vách nhà dột, người quân tử kính cẩn trước 'bốn biết' [trời biết, đất biết, anh biết, tôi biết], cũng là vì sâu sắc lo sợ thiện tâm không vững, có khiếm khuyết trong chốn tối tăm, mắc tội với trời, không còn gì để cầu nguyện. Vậy nên trong thế giới đen tối đầy xảo trá gian manh ngày nay, muốn khiến lòng người lộ ra một tia sáng, hơi vãn hồi phong tục suy đồi, và độ thoát tất cả khổ ách, thì chỉ có cách khiến họ đọc 'Ngọc Lịch Bảo Sao - Văn Khuyến Thế'."

"Ngọc Lịch Bảo Sao - Văn Khuyến Thế", tôi đã đọc cách đây ba năm, sau khi đọc xong tôi cảm thấy sâu sắc rằng đây là một cuốn sách rất tốt, vô cùng hữu ích cho đạo đức xã hội và lòng người. Khi đọc cuốn sách này, tôi thấm thía được quyết tâm cứu độ chúng sinh của chư thần tiên, vì vậy tôi đã tự bỏ tiền in ấn để tặng người khác, đồng thời vận động một số các bậc thiện tâm giúp đỡ việc in tặng, trực tiếp mua kinh sách từ nhà sách Thụy Thành ở Đài Trung để tặng mọi người. Số sách tôi đã tặng đi có lẽ lên đến hàng nghìn cuốn. Sau khi đọc cuốn sách này, tôi có một số cảm nhận như sau:

Thứ nhất, đây là một cuốn sách quý công nhận sự tồn tại thực sự của địa ngục. Trước cuốn sách này, chưa có ai mô tả tình trạng địa ngục một cách chi tiết như vậy, có thể nói cuốn sách này đã tiết lộ thiên cơ. Hình trạng của địa ngục vốn là điều không thể nói, bởi địa ngục trong chân đế của "Có - Không", có thể nói là có, cũng có thể nói là không, nó là điều biến ảo, thực tướng của địa ngục hoàn toàn tùy theo sự biến ảo của lòng người. Tôi là người theo thuyết có địa ngục, tại sao tôi công nhận có địa ngục, vì khi đang sống, tôi cũng có thể thấy được nỗi khổ của địa ngục nhân gian, nhân gian đã có địa ngục thì tự nhiên âm giới linh giới cũng có địa ngục.

Thứ hai, các học giả lớn, các nhà khoa học lớn, và những người tự cho mình là thiên tài, có nhiều người không tin vào thiên đường địa ngục, cho rằng đó chỉ là chuyện hoang đường của tôn giáo, là lừa gạt phụ nữ và trẻ con, là thần đạo lập giáo, là chuyện hư vô mờ mịt. Nhưng họ có từng nghĩ, khi người ta làm điều thiện, tâm sẽ cảm thấy bình an, còn khi làm điều ác, trong lòng sẽ bất an lo sợ. Trạng thái an tâm chính là thiên đường, còn trạng thái bất an chính là địa ngục. Trong cõi u minh đã có quỷ thần, mà quỷ thần thực chất chính là sự diễn hóa và cảm nhận của tự tâm.

Thứ ba, mặc dù nhà Phật không bàn về định mệnh, nhưng vẫn có quy luật nhân quả hiện hữu. Số mệnh mỗi người đều khác nhau như gương mặt của họ vậy, thậm chí ngay từ khi sinh ra đã có sự khác biệt. Trong mắt tôi, quỹ đạo của số mệnh dường như đã được trời định một nửa. Đặc biệt khi đã đi đến được ngày hôm nay, tôi càng tin vào sự tồn tại của số mệnh, bởi tôi thực sự có cảm giác số mệnh của mình như một điều gì đó quen thuộc. Có nhiều người tìm đến tôi muốn thay đổi vận mệnh, tôi luôn nói với họ rằng: "Việc thay đổi vận mệnh hoàn toàn nằm trong tay mình, đừng mong cầu thay đổi vận mệnh một cách viển vông. Trong cuộc đời làm người, chỉ cần không hổ thẹn với lương tâm, giữ được tâm an là đủ. Thiện niệm không ngừng có thể cải vận. Muốn hiểu những đạo lý này, hãy đọc 'Ngọc Lịch Bảo Sao - Văn Khuyến Thế'! Hoặc đọc cuốn 'Liễu Phàm Tứ Huấn'. Vận mệnh vốn do chính mình tạo ra, tất nhiên chỉ có mình mới có thể thay đổi được. Hiện giờ tôi chỉ có thể dạy mọi người rằng thiện niệm không ngừng có thể cải vận, vận mình phải do mình thay đổi. Việc các bạn mong cầu người khác thay đổi vận mệnh cho mình, chẳng phải là trèo cây tìm cá hay sao?"

Thứ tư, sau khi đọc lời tựa của tiên sinh Thiệu Tử Kiến, tôi cảm thấy luật nhân quả vẫn luôn báo ứng chính xác, còn thiên đường địa ngục, thiện ác đều do một niệm biến hóa trong tâm. Tôi đã khản giọng khuyên người làm thiện, hết sức kêu gọi mọi người làm nhiều việc thiện, vậy mà bản thân lại bị chế giễu, tôi cười chua chát, lòng người trong thế gian đã gần như sa đọa rồi, sa đọa rồi.

Tôi viết: "Đại thiện có thể cảm động trời, vì trời có mắt, nên vận mệnh có thể thay đổi. Nếu vận mệnh không thể thay đổi, thì cần gì đến vận mệnh?" "Mọi việc trong thiên hạ đều do tâm thức, vận mệnh con người chỉ theo thiện và chính." "Nếu thiện niệm không ngừng, ắt có thể cảm động trời giúp." "Vận mệnh nhất thời chỉ như bọt nước giữa sấm sét, như sương mai cũng như ánh chớp, muốn vượt thoát khỏi vận mệnh, chỉ cần vượt lên trên nó, đừng để vận mệnh trói buộc." "Tất cả pháp thuật đều phải lấy thiện làm điểm xuất phát, nhờ thiện niệm mà cầu xin trời linh phù hộ. Ngược lại, nếu lấy ác làm điểm xuất phát, thì pháp thuật sẽ thành tà, người làm pháp ắt bị trời giáng họa." "Địa ngục là có thật, hãy đọc 'Ngọc Lịch Bảo Sao - Văn Khuyến Thế', hãy đọc sách tâm linh."

Tôi viết kệ rằng:

Công đức thánh hiền truyền thiên thu, Thần minh quang hoa tâm thu về; Chân lý vận mệnh không mê hoặc, Đức hạnh thiện lành chẳng phải lo.

20. Giới thiệu tượng trưng của sức mạnh tinh thần

Sức mạnh tinh thần vốn là một năng lượng siêu việt vô hình, tràn ngập giữa trời đất, và sức mạnh tinh thần còn có thể gọi là sức mạnh tâm linh. Nó có thể bộc phát một cách sảng khoái tự nhiên, khiến con người tràn đầy sinh khí và năng động. Nhưng cũng có thể khiến một người hoàn toàn mất đi ý chí chiến đấu, như quả bóng xì hơi, như con gà trống đã thua trận, chỉ còn thoi thóp một hơi thở cuối. Vì vậy, khi sức mạnh tinh thần được phát huy, đó chính là "một tấm lòng thuần thành, dùng khí phách để hành sự". Cho đến khi "lấy khí làm chủ, lấy chí làm thầy" thì mới có thể đạt đến trạng thái "uy vũ không khuất phục được, bần tiện không lay chuyển nổi".

Do sức mạnh tinh thần là vô hình nên nó thể hiện qua con người, như Quan Vũ thời Tam Quốc, Nhạc Phi thời nhà Tống, Sử Khả Pháp thời nhà Minh, v.v. Tại sao những bậc tiền liệt này lại coi trọng khí tiết, sẵn sàng hy sinh để giữ gìn phẩm cách của dân tộc Trung Hoa? Nguyên nhân chính là ở sức mạnh tinh thần, sức mạnh tinh thần này là sự dũng cảm tiến về phía trước không chút sợ hãi. Trong di huấn của cố Tổng thống Tưởng Công có viết: "Hồn nước Nhật được gọi là 'Đại Hòa Hồn', tinh thần mà Đại Hòa Hồn thể hiện - tức tinh thần của quân nhân Nhật Bản, được gọi là 'võ sĩ đạo', đây cũng chính là hồn quân nhân Nhật Bản. Nhân cách của quân nhân Nhật Bản lấy võ sĩ đạo làm nền tảng, và quốc gia Nhật Bản cũng lấy võ sĩ đạo làm tinh thần lập quốc." Hiện nay, tôi nói rằng "võ sĩ đạo" chính là sức mạnh tinh thần, và khi sức mạnh tinh thần võ sĩ đạo này được phát huy đến cao độ, sống chết đều không còn đặt nặng nữa.

Đối với quốc gia chúng ta, tinh thần cơ bản của Tam Dân Chủ Nghĩa do Thủ tướng đề xướng chính là kết tinh của văn hóa lịch sử truyền thống Trung Quốc và sự di truyền của những đức tính tốt đẹp của dân tộc, cũng chính là tinh thần dân tộc và linh hồn của đất nước. Đây chính là sức mạnh tinh thần của quốc gia chúng ta.

Đối với cá nhân, sức mạnh tinh thần của một người được bồi dưỡng từ nhỏ, điều này liên quan đến kế hoạch giáo dục trăm năm của chúng ta. Những nguyên lý đạo đức cơ bản được truyền từ các bậc tiền nhân như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử chính là cốt lõi của truyền thống đạo đức Trung Quốc suốt hàng nghìn năm qua. Gần đây, tôi đọc cuốn "Tinh thần trị liệu giải thuyết" do Lý Thọ Dong đề tựa, trong đó viết: "Quan sát sự vận hành âm dương tạo hóa của trời đất, sự thịnh suy tiêu trưởng, bốn mùa vận hành, vạn vật sinh sôi. Con người cùng với trời đất tham gia vào lẫn nhau, nhận được khí tinh túy của ngũ hành, âm dương hòa hợp tạo thành hình hài, thọ chính khí để thành tính, có đủ ngũ tạng tương ứng với ngũ hành để vận hành bốn mùa, âm dương luân chuyển. Do đó, mộc thuộc can, thịnh vào mùa xuân; hỏa thuộc tâm, thịnh vào mùa hạ; thổ thuộc tỳ, thịnh trong bốn mùa; kim là phế, thịnh vào mùa thu; thận là thủy, thịnh vào mùa đông. Vì thế, thân thể con người là một tiểu thiên địa vậy." Đọc văn này, tôi hiểu rằng sức mạnh tinh thần của Trung Quốc đã được hội tụ thành hai mươi chữ, hai mươi chữ này chính là nguồn gốc sức mạnh tinh thần của Thiên Đức Thánh Giáo, đó là: "Trung thứ liêm minh đức, chính nghĩa tín nhẫn công, bác hiếu nhân từ giác, tiết kiệm chân lễ hòa." Tôi cảm thấy hai mươi chữ này phù hợp với đạo trời, có thể đi cùng trời đất, như người quân tử hướng tới quyền lực cao hơn, hóa thành sức mạnh tinh thần hữu hình.

Sư phụ Thanh Chân Đạo Trưởng nói: "Sức mạnh tinh thần vốn vô hình không có vật tượng trưng, nhưng con đường pháp thuật chính là biến không thành có. Sức mạnh tinh thần mờ mịt linh thiêng, tuy vô hình nhưng lại hữu hình, hữu và vô phối hợp với nhau, mới khiến cho mọi người có được phương hướng và mục tiêu về mặt tinh thần. Liên Sinh, về sức mạnh tinh thần hữu hình hữu tướng, ta sẽ chỉ rõ như sau, tất cả pháp thuật đều phải dựa vào sức mạnh này để thực hiện."

1. Tóc - biểu tượng của sức mạnh tinh thần trên thân thể con người, sinh ra và không mất đi, có khí thì tất sẽ phát triển, không có khí thì ngừng phát triển.

2. Móng tay - biểu tượng của sức mạnh tinh thần từ địa linh, sinh ra và không mất đi, có khí thì tất sẽ phát triển, không có khí thì ngừng phát triển.

3. Gạo - kết tinh tinh thần của khí đất, con người ăn ngũ cốc tạp lương, mượn khí của nó để sống, nên gạo được xem là căn bản của khí người, ý chỉ thực phẩm.

4. Áo quần - Con người sống trên đời ắt phải mặc áo, và áo quần đại diện cho sức mạnh tinh thần của một người, sức mạnh tinh thần đó cũng hướng về y phục.

5. Ngói đất - Đây chỉ về chỗ ở, tức là trên có ngói dưới có đất, đại diện cho nơi gửi gắm sức mạnh tinh thần của một người.

6. Giày dép - Giày dép đại diện cho đi lại, chỉ ra nơi chứa đựng sức mạnh tinh thần trong hành vi của con người.

Vì vậy, sư phụ dạy tôi rằng, để thực hiện pháp thuật truyền sức mạnh tinh thần cho người khác, cần phải có những biểu tượng hữu hình của sức mạnh tinh thần. Những biểu tượng hữu hình này chính là tóc, móng tay, gạo, áo quần, ngói đất và giày dép. Gạo tượng trưng cho bệnh tật, áo quần tượng trưng cho tài lộc, ngói đất tượng trưng cho nhân lực trong gia đình, giày dép tượng trưng cho thói quen hành vi. Sử dụng những biểu tượng hữu hình của sức mạnh tinh thần này, qua một quá trình thực hiện cẩn thận, sẽ chuyển hóa thành sức ảnh hưởng tinh thần vô hình. Thanh Chân Đạo Trưởng nói: "Đây chính là pháp thuật, đạo lý của pháp thuật nằm ở đây vậy."

Pháp thuật luôn linh nghiệm, hoàn toàn dựa vào hai loại sức mạnh: Thứ nhất: Sức mạnh biểu tượng tinh thần hữu hình do con người tạo ra. Thứ hai: Sự phát huy sức mạnh tinh thần vô hình siêu việt.

Hai loại sức mạnh này phải kết hợp với nhau một cách hoàn hảo thì mới có thể tạo nên sự linh nghiệm. Nếu chỉ có "sức mạnh biểu tượng tinh thần hữu hình" thì vẫn chưa đủ, mà còn phải cầu được sự trợ giúp của sức mạnh tinh thần siêu việt (sức mạnh siêu nhiên không thể nghĩ bàn của thần linh vô hình). Như vậy ắt sẽ tạo ra phép màu, và sự xuất hiện của phép màu chính là sức mạnh vĩ đại của sự kết hợp giữa lực hữu hình và lực vô hình.

Chúng ta biết rằng thân thể con người được tạo thành từ ngũ hành, và bị chi phối bởi hai khí âm dương, do đó không nằm ngoài sự nuôi dưỡng của ngũ hành. Con đường tương sinh tương dưỡng của chân khí linh diệu chính là đạo trời, dùng đạo trời để điều hòa thất tình lục dục của đạo người, như vậy mới được xem là tu đạo. Dùng chính khí để đẩy lùi tà khí, đó mới chính là chính khí chính pháp chính đạo. Một người giữ được chính pháp như vậy thì tâm tự an, khí tự hòa, thần tự thích ứng, và niềm vui sẽ tồn tại mãi mãi.

21. Tu pháp linh nhãn

Hiện nay tôi nhận được nhiều thư từ độc giả hỏi về linh nhãn, tôi nói: "Thông thường để có được linh nhãn, nhất định phải có hai loại nhân duyên, một là tu tập trong thiền định, đạt đến trạng thái thiền sâu để khai mở tâm nhãn mà đắc được, hai là do tích lũy công đức tu hành từ kiếp trước, đến kiếp này bỗng nhiên đạt được. Vì vậy, có người đạt được trong thiền định, cũng có người chưa từng tu thiền định, bỗng nhiên gặp được cơ duyên mà đạt được. Ví như bản thân tôi, cả đời chưa từng tu thiền định, nhưng khi đến Ngọc Hoàng Cung chỉ cần nhắm mắt lại là thấy được. Thầy tôi bảo rằng, đó là nhờ công đức tu hành từ kiếp trước mà có được đấy!"

Khi đọc cuốn "Mật Pháp Cứu Độ Trung Ấm", tôi thấy có một đoạn văn rất hợp với tâm ý của mình, đoạn văn viết rằng: "Này thiện tín, như việc ông bỗng nhiên có được năng lực thần thông không thể nghĩ bàn, đây không phải là thần thông có được từ chính định Tam ma địa, thần thông của ông chỉ là thần thông của thân trung ấm, thuộc về tính chất của nghiệp lực. Điều này có nghĩa là hiện giờ ông có thể trong một sát-na du hành khắp tứ đại bộ châu, đi vòng quanh núi Tu Di, hoặc chỉ trong khoảng co duỗi cánh tay đã có thể đến bất kì nơi nào ông muốn, thậm chí còn có thể biến hiện. Tuy nhiên, đây vẫn thuộc về huyễn pháp thông linh, chớ nên chấp trước công phu. Lúc này, nếu ông khởi một vọng niệm, tình cờ chấp trước vào bất kì một pháp nào, pháp ấy sẽ lập tức sinh khởi theo ý nghĩ. Vì vậy tuyệt đối không được khởi những ý niệm vọng động, mà chỉ nên chính xác thấu hiểu thánh giáo, kiền thành cầu nguyện với Thượng sư Bổn tôn của ông, hoặc đấng hỗ chủ đại bi, đây là điều cực kì thiết yếu."

Đây là đoạn văn nói về khi một người vừa qua đời, linh hồn họ bỗng nhiên có được thần thông không thể nghĩ bàn, ví như có thể cưỡi gió bay lượn, du hành khắp tứ đại bộ châu, bay vòng quanh địa cầu nhiều vòng, đứng giữa không gian, cảm nhận tâm thức mở rộng vô hạn, muốn thấy gì là thấy ngay điều đó. Cảnh giới này gọi là phép thông linh huyễn ảo. Tôi biết rằng, thông thường có nhiều người tu đạo tọa thiền, khi cảm nhận được sự mở rộng tâm linh, toàn thân như "bay bổng" lên. Những người này nếu chấp trước vào ý niệm "không có gì cả", khi chết thường đạt được phép thông linh huyễn ảo. Phép thông linh huyễn ảo không phải là thần thông chứng đắc từ chính định Tam ma địa, mà là thần thông do chấp trước của thân trung ấm. Tuy có thể làm được mọi điều theo ý muốn, nhưng đây không phải là cảnh giới của chính pháp. Nói chung, cảnh giới này rất dễ làm lầm lạc bản thân và người khác, bởi vì tất cả đều là giả, không phải thế giới chân thật. Trong cảnh giới thông linh huyễn ảo có ma Tự Tại Thiên, toàn là những thiên ma cố chấp cho rằng không là không.

Tôi cảm thấy rằng khi hành giả đạt đến cảnh giới thông linh huyễn ảo, điều quan trọng nhất vẫn là phải giữ vững tâm thần của mình, rồi nhất tâm trì tụng thánh hiệu của Bổn tôn Như Lai cho đến khi đạt được nhất tâm bất loạn. Lúc này, những gì mắt thấy đều là thánh cảnh, chư Phật Bồ Tát là quyến thuộc, bản thân hóa thành hoa sen, không còn là cảnh giới huyễn ảo kỳ quái nữa. Điểm này vô cùng quan trọng, vô cùng quan trọng. Tôi khuyên tất cả những người tu hành hãy nhất tâm trì tụng thánh hiệu của Bổn tôn Như Lai, đừng cầu linh nhãn thần thông, bởi người đắc được linh nhãn thần thông rất dễ rơi vào cảnh giới thông linh huyễn ảo, cuối cùng không giữ được tâm mình, hành vi điên đảo, trở thành kẻ nhập ma thất thường, như vậy thì phiền phức lắm.

Đại sự tu hành, có kệ làm bằng chứng:

Kẻ ngu cứ mãi đắn đo lần lữa, Chẳng biết cái chết sắp tới gần, Chỉ lo việc thế gian vô ích, Lãng phí cả một đời.

Đánh mất cơ duyên tốt đẹp, Là hạng người không trí tuệ, Như đã đến núi báu rồi, Mà trở về tay trắng thật ngu si.

Pháp giải thoát vô lậu cao siêu, Là điều mọi người đều cần có, Đối với giáo pháp tối thượng này, Sao có thể không tu tập?

Tôi cũng khuyên người đời, đừng vào cảnh giới thông linh huyễn pháp, xin có bài kệ làm chứng:

Khi được sắc thân huyễn tương tự Giống như thân trung ấm trước sau Các giác quan đều có đầy đủ Tự tại du hành không ngăn ngại

Lại nương vào lực của nghiệp cảm Đầy đủ thông linh không nghĩ bàn Cùng thuộc nghiệp cảm tương đồng Dùng mắt thanh tịnh thấy nhau.

Cảnh giới thông linh huyễn pháp, nếu ưa thích cõi trời thì sẽ sinh về cõi trời, nếu ưa thích cõi người thì sẽ lại nhập thai sinh làm người, nếu chấp không thì sẽ phiêu bạt khắp nơi, không có chỗ nhất định, giống như loài atula vậy. Hôm nay, Liên Sinh viết bài này để khuyên mọi người chế ngự tâm vào một chỗ, không khởi vọng tưởng, cho đến khi Phật độ quang minh của chân tính căn bản hiện tiền, mới được coi là đắc đạo, nếu không sẽ phải làm lại từ đầu, thật đáng tiếc biết bao.

Tôi khuyên người học Phật, chỉ cần chế ngự tâm vào một chỗ, việc chứng đắc linh nhãn hoàn toàn dựa vào thiền định, tự nhiên sẽ đạt được, không được cưỡng cầu. Có người vừa ngồi thiền đã đắc được thiên nhãn, đó là do căn cơ từ nhiều đời trước, có người ngồi thiền cả đời mà vẫn không có được, không có là không có, cưỡng cầu cũng vô ích. Nếu linh nhãn được tịnh hóa thành tịnh nhãn, thì sẽ đắc trí huệ vô lậu, "kiên trì an trụ trong Tam ma địa, không sợ tâm lực mê mờ, tinh tấn quán chiếu như lý, chân đế tự nhiên sáng tỏ". Sau khi thân người viên tịch, sẽ thành Phật tác Tổ.

Nhìn chung, người có được linh nhãn sẽ chắc chắn gặp những cảnh giới kỳ lạ hoặc những cảnh giới đáng sợ xuất hiện. Chúng ta phải hiểu rằng cả hai cảnh giới này đều là giả, không được để chúng mê hoặc, không sinh tâm yêu ghét. Người có được linh nhãn cần phải chế ngự tâm vào một chỗ, một khi đã chế ngự được tâm vào một chỗ và nhất tâm niệm danh hiệu từ bi của Thượng sư Bổn tôn, tự nhiên sẽ thoát khỏi cảnh giới thông linh huyễn pháp.

Đây là điều tôi luôn nhắc nhở, mong mọi người ghi nhớ.

22. Truyền kỳ của ba vị đồng tử

Một ngày nọ, ông Chung Tấn Thiêm (Mặc Văn) đến thăm, ông đi thẳng vào vấn đề: "Huynh Thắng Ngạn, vì huynh đóng cửa không tiếp khách, nên có một quý bà ở Đài Bắc đã đích thân đến tìm huynh ba lần liền mà không gặp được. Cuối cùng bà ấy tìm đến tôi, kể cho tôi nghe một chuyện kỳ lạ. Chuyện này hiện giờ chỉ có huynh mới có cách giải quyết, bà ấy đã tìm đến rất nhiều pháp sư nhưng ai cũng lắc đầu."

"Chuyện gì vậy?" - Tôi tò mò hỏi. "Là như thế này, có người tặng bà ấy ba tượng đồng tử, cả ba tượng đều không cao quá sáu tấc, tay cầm búa sắt. Theo lời người tặng kể lại, ba vị đồng tử này trước đây biết nói chuyện và có khả năng tiên tri, chủ nhân trước kia chưa từng khoe khoang điều này. Ví dụ ngày mai trời mưa, đồng tử sẽ mở miệng nói: 'Ngày mai mưa đấy! Ra ngoài nhớ mang ô.' Hoặc ngày mai có khách phương xa đến, đồng tử cũng sẽ nói: 'Ngày mai cậu đến, chuẩn bị đồ ăn ngon nhé.' Thậm chí khi chủ nhân đi làm ăn, kiếm được bao nhiêu tiền cũng đoán trúng phóc." "Thế thì hay quá!" - Tôi nói.

"Tuy nhiên, ba năm trước, ba vị đồng tử này không còn mở miệng nói chuyện nữa. Chủ nhân đã tìm rất nhiều pháp sư nhưng không ai có cách nào làm cho các vị mở miệng lại được. Các vị đồng tử đã báo mộng cho chủ nhân, nói rằng cả ba vị đã bị một pháp sư đố kỵ niêm phong miệng lại, giờ không thể mở miệng được, vô cùng đau khổ. Vì ba vị đồng tử không thể nói chuyện nữa, chủ nhân nghĩ giữ lại cũng vô ích nên đã tặng cho vị quý bà ở Đài Bắc kia. Còn vị quý bà này có một người con gái, lại mơ thấy ba vị đồng tử đến bảo rằng..."

"Mơ thấy điều gì?" "Các đồng tử nói: 'Các người hãy đến Đài Trung, tìm một cánh cửa sơn son, có một người trẻ tuổi, tên là Lư Thắng Ngạn, anh ấy có cách giúp chúng tôi mở miệng nói chuyện được, mau đi, mau đi.' Tuy nhiên vì huynh đã không tiếp khách bên ngoài từ lâu, không thể gặp được, nên bà ấy đã tìm đến tôi, nhờ tôi xin huynh, với chuyện kỳ diệu như thế này, có thể gặp họ được không, phá lệ một lần." "Ôi! Đúng là chuyện rất kỳ diệu, nhưng nhiều pháp sư còn chẳng có cách, làm sao tôi lại có cách được! Thế này vậy, tôi sẽ hẹn gặp họ ở một nơi nào đó, bà ấy mang ba vị đồng tử đến cho tôi xem, tôi hy vọng mình có cách." "Lúc đó, tôi cũng muốn xem ba vị đồng tử này, mở rộng tầm mắt." - Chung Tấn Thiêm hào hứng nói.

Đến ngày hẹn, hai mẹ con đã đến, phu nhân của ông Chung Tấn Thiêm cũng đến, ngoài ra còn có một vị pháp sư ở khu Nam Thôn, Đài Trung. Hôm đó trời âm u, mưa phùn bay bay. Tôi quan sát hai mẹ con, người mẹ khoảng 50 tuổi, còn cô con gái ngoài 20 tuổi, vóc dáng cao lớn với đôi mắt to và sáng. Bà ấy lấy ba tượng đồng tử ra đặt lên bàn, mỗi tượng cao khoảng năm tấc, quả nhiên mỗi tượng đều cầm búa sắt trên tay. Ba vị đồng tử có gương mặt rất giống nhau, như ba anh em sinh đôi vậy. Tượng được chạm khắc mạ vàng nhưng đã bị phai màu, tôi đoán chắc đã hơn 30 năm tuổi. Tôi hỏi hai mẹ con có phải đã hơn 30 năm không, họ gật đầu.

Cô gái nói: "Thưa ông Lư, ba vị này nhất định chỉ muốn đến gặp ông, xin lỗi đã làm phiền ông tịnh tu." "Không có gì phải khách sáo."

Vì vậy, tôi đã thực hiện ba phương pháp cho ba vị đồng tử.

Thứ nhất, tôi dùng phép khai hầu của Cửu Thiên Huyền Nữ, đọc thần chú khai hầu: "Thần Tinh Nguyên Quân, Thái Ất Tầm Thanh, năng cứu tật khổ, thuyết đạo tiền trình, nhữ nhược bất thuyết, vĩnh đọa trầm luân, ngô kim giáo nhữ, tốc thông tính danh, cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ Nguyên Quân luật lệnh nhiếp." Tôi đọc như vậy ba lần, rồi phát hiện ra ba vị đồng tử không những không thể mở miệng mà còn đau đớn khó chịu khắp người! Quan sát kỹ hơn, tôi thấy rõ trên thân ba vị đồng tử bị ba sợi dây thừng màu hồng trói buộc, thật kỳ lạ, thế là tôi bắt ấn kéo vàng để cắt đứt dây thừng.

Thứ hai, tôi dùng phép độ khí, lấy một hơi thở của mình thổi vào miệng các bức tượng gỗ. Hơi thở này không phải thổi ra hoàn toàn mà là cách thở của Đạo gia, có tiết tấu nhịp nhàng, để cho âm linh nhận được một hơi dương khí, giúp phục hồi nguyên khí cho cả ba vị. Sau đó tôi lại dùng phép khai hầu, vì đã ba năm không thể mở miệng, tôi lắng nghe thật kĩ mới nghe được một vị đồng tử nói nhỏ nhẹ: "Cảm ơn ngài."

Thứ ba, tôi bảo họ khi về nhà, đặt ba vị đồng tử ở một nơi kín đáo, thắp hương không ngừng ngày đêm, sáng tối dâng lễ vật, sáng sớm đem ra ngoài phòng cho tượng thấm sương mai, khi mặt trời mọc thì rước vào nhà, làm như vậy liên tục bảy ngày, chắc chắn sẽ mở miệng nói chuyện được. Tôi còn dạy họ một số chi tiết, trong bảy ngày này, tuyệt đối không được sơ suất.

Hai mẹ con liền liên tục cảm tạ, phu nhân Chung Tấn Thiêm tấm tắc khen ngợi, vị pháp sư kia nhìn đến ngẩn người, ông ta xin tôi truyền dạy cho một phương pháp phong thủy "mượn khí để sai khiến vạn vật". Hai mẹ con gói ba vị đồng tử lại, rồi lái xe rời đi trong cơn mưa phùn, tôi ngước nhìn bầu trời u ám, nghĩ rằng cuộc đời thật là kỳ diệu!

Mười ngày sau, tôi nhận được thư cảm ơn của cô gái, ba vị đồng tử đã thực sự mở miệng nói chuyện sau năm ngày.

23. Có thể vứt bỏ bùa hộ mệnh không?

Nếu chúng ta để ý kĩ sẽ nhận thấy trên các xe taxi, xe tải, xe container... trong cả nước đều treo các vật tượng trưng cho bùa hộ mệnh, kể cả xe của Sở Giao thông và xe buýt thành phố. Mặc dù họ có thể không tin, nhưng việc treo những vật tượng trưng cho bùa hộ mệnh là để mong được chuyển nguy thành an, vạn sự cát tường. Liệu bạn có thể nói rằng cách làm của những người tài xế này là sai không?

Một số tài xế dán bùa bình an từ đền chùa lên phía trước xe, hoặc xin túi hương từ đền chùa để treo trực tiếp trên xe. Hoặc họ xin tranh ảnh thần thánh từ đền chùa để dán lên xe. Ở Diêm Thủy, tôi từng thấy một tài xế taxi thờ một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nhỏ trong xe, sáng tối đều thắp hương lễ bái. Cũng có những tài xế đặt cây vạn niên thanh trên xe, vạn niên thanh tượng trưng cho ý nghĩa mãi mãi xanh tươi, tâm lý này thể hiện mong muốn bình an trong lòng con người.

Tâm lý về bùa hộ mệnh không chỉ thể hiện trên xe cộ, mà nhiều người còn luôn mang theo bên mình bùa hộ mệnh (túi hương), các loại dây chuyền, đặc biệt là dây chuyền có tượng Phật Quan Âm rất được ưa chuộng. Nhiều người thậm chí còn mang theo một quyển kinh Phật nhỏ bên mình, họ tin rằng có danh hiệu của chư Phật Bồ Tát bên mình thì những điều xấu sẽ không xảy ra!

🌟

Theo như tôi được biết, bùa hộ mệnh không chỉ có ở nước ta, mà bất kì quốc gia nào trên thế giới đều có hiện tượng này. Thậm chí họ còn tôn một vị thần nào đó làm thần hộ mệnh cho quốc gia mình. Các nhà nghiên cứu tâm linh còn cho rằng mỗi người đều có thần hộ mệnh riêng, nếu biết thờ cúng vị thần hộ mệnh của mình thì cuộc đời sẽ ít gặp tai ương.

Bùa hộ mệnh là một hành động xuất phát từ tâm lý cầu mong bình an, và thực ra không thể gọi hành động này là mê tín, bởi trong tâm lý ai mà chẳng cầu mong bình an! Những người không cầu mong bình an, tâm lý của họ mới là bất thường. Tác dụng của những bùa hộ mệnh này thật không thể xem thường, bởi chúng giúp bảo vệ sự bình an trong tâm hồn, mang lại cảm giác an toàn cho con người.

Một người Hoa kiều Malaysia đã kể cho tôi câu chuyện thật sau đây:

Khi anh ta còn trẻ, anh đã bỏ trốn khỏi quê nhà. Người bà già rất thương yêu đứa cháu đích tôn này, bà lấy ra một sợi dây chuyền có gắn một pho tượng Phật bằng đồng cổ và nói với anh: "Pho tượng này là Trấn Tà Thiên Vương, là bảo vật gia truyền của nhà ta. Lần này con bỏ đi, ngài sẽ phù hộ cho con được bình an suốt đường đi. Nhớ phải đeo nó trên cổ, ghi nhớ lời bà, ngài đã từng hiển linh cứu giúp cha con rồi. Con à, hãy giữ gìn ngài cho tốt, ngài sẽ bảo vệ con."

Vị Hoa kiều này đã gặp hai chuyện kỳ lạ khi đeo tượng Trấn Tà Thiên Vương bằng đồng cổ. Lần thứ nhất, anh trốn đến một ngôi miếu cổ hoang vắng và ngủ trên bàn thờ. Đến nửa đêm, giữa tiếng gió hoang vu thê lương, anh chợt giật mình tỉnh giấc và thấy một bóng đen đứng bên cạnh bàn thờ. Anh hết sức kinh hãi nhưng không thể kêu lên hay cử động. Cái bóng đen đưa tay ra định bóp cổ anh, ngay lúc đó anh cảm thấy pho tượng Phật bằng đồng trên ngực nhảy lên mấy cái, rồi bỗng phát ra ánh sáng xanh lục kỳ ảo. Bàn tay của bóng đen như bị ánh sáng xanh lục ấy chặn lại, và rồi bóng đen từ từ biến mất. Khi tỉnh lại, anh càng thêm trân trọng pho tượng Phật bằng đồng mà bà nội đã tặng.

Sự việc thứ hai còn kỳ lạ hơn. Khi anh trốn đến bên một quả núi, phía sau có cảnh sát tuần tra đuổi theo. Không còn đường chạy, trong số những người đi cùng, có người bị bắt lại, có người bị bắn chết. Anh là người mang trọng trách đặc biệt nên liều mạng nhảy xuống vực, không biết sâu bao nhiêu. Chạm đất xong, anh vừa lăn vừa bò. May mắn là những người đuổi theo phía sau không truy đuổi gắt gao, nên anh lại thoát nạn. Anh ước tính độ cao nơi mình nhảy xuống chắc phải hơn 60 mét, dưới chân núi đá tảng chất đống, kỳ lạ là anh không hề bị thương. Đến tối kiểm tra pho tượng Phật đồng cổ, một điều kỳ diệu đã xảy ra - chân của Trấn Tà Thiên Vương đã bị gãy. Anh cho rằng đây là do Trấn Tà Thiên Vương đã cứu giúp mình - chân tượng Phật bị gãy nhưng thân thể anh lại không hề hấn gì, đây chẳng phải là một phép màu sao?

Khi tôi nhìn pho tượng Phật bằng đồng cổ ấy, quả thật nó rất hiếm có. Trên đầu đội vương miện ngũ Phật, đôi mắt lồi ra, hai chiếc nanh to lớn nhô ra ngoài, khuôn mặt trông rất dữ tợn. Một tay cầm chuông đồng pháp khí, tay kia không rõ nắm vật gì, một chân xếp bằng, còn chân kia đã bị gãy mất. Tôi đoán đây có thể là vị Hộ Pháp Trấn Tà Thiên Vương của Phật giáo Tây Tạng, bởi tôi chưa từng thấy loại tượng thần này bao giờ.

Tôi đã học được nhiều bùa hộ mệnh từ Thanh Chân Đạo Trưởng, ví dụ như bùa hộ thân Đinh Giáp, bùa hộ thân Long Hổ, bùa hộ thân Thiên Nhân, bùa hộ thân Thiên Vương... Những bùa này không gì khác ngoài việc phù hộ cho người ta gặp dữ hóa lành, ra đường được bình an. Bùa hộ mệnh có thể mang lại cảm giác an toàn cho người ta, nếu tôi ngồi trên một chiếc xe hoàn toàn không có bùa hộ mệnh nào, tôi ngược lại sẽ cảm thấy rất kỳ lạ!

Viết bài này, xin ghi một bài kệ:

Tâm lý chí thành là trân quý, Bùa hộ do tâm, thiện ngăn ngừa; Tín ngưỡng thần thật tự sẽ thấy, Khúc đường quanh núi có phép lạ.

24. Khi con người sắp chết

Từ xưa đến nay, chỉ cần là người thì đều phải chết, khi cái chết đến gần, con người ắt sợ hãi. Tuy nhiên, chỉ có một loại người không sợ chết, đó là những người hiểu rõ đạo lý sinh tử, những người có mục tiêu khi chết, những người này mới thực sự vượt thoát khỏi giới hạn sinh tử, không bị bóng ma của cái chết ràng buộc. Tại sao lại sợ chết? Bởi vì không hiểu được khi con đường sống đã dứt, con đường chết sẽ đi về đâu, cũng không hiểu được cảnh giới của cái chết cuối cùng sẽ như thế nào.

Tôi từng nói rằng, con người có linh hồn, trong Phật giáo linh hồn được gọi là thân trung ấm. Khi còn sống, tâm thần hoạt động, nhưng thân trung ấm bị giam cầm. Khi con người chết đi, tứ đại của thể xác tan rã, thân trung ấm hiển hiện, linh hồn lại hoạt động trở lại. Và khi con người sắp chết, ý thức linh hồn hồi sinh, có thể nhìn thấy thế giới âm linh, thế giới này kỳ quái, muôn hình vạn trạng, khiến nhiều người không thể hiểu nổi.

Tôi nhớ khi tôi ra đời, ông nội Lư Xương đã qua đời từ lâu, còn bà nội Lư Du Đoan Hương sống chung với gia đình chúng tôi. Bà nội mất vì bệnh thận (tiểu đường), toàn thân phù nề, cuối cùng nằm liệt giường, rên rỉ than thở, không những không thể cử động mà ngay cả việc lật người cũng khó khăn. Do không thể trở mình nên da dẻ cũng bị lở loét, khiến mùi thuốc sát trùng tràn ngập cả căn phòng. Lúc đó tôi đang học tại Trường Công nghiệp Cao Hùng, chưa theo đạo Phật, chỉ đi nhà thờ. Mỗi lần đi ngang qua phòng bà nội, tôi đều muốn nôn. Lúc ấy tôi nghĩ: "Bệnh tật thật là khổ quá, con người không bệnh tật thì tốt biết mấy!" Cho đến tận bây giờ nghĩ lại, đó vẫn là một ký ức rất đau buồn.

Trong tâm trí tôi không còn ấn tượng gì về ông nội, nhưng bố tôi kể rằng ông nội Lư Xương là một nhân vật nổi tiếng ở đảo Tây Tự, Bành Hồ, và cũng là một trong những người giàu có nhất vùng Gia Nghĩa thời bấy giờ. Khi còn sống, ông mở trường học, làm việc thiện, cứu giúp người nghèo khó, thực hiện nhiều việc từ thiện. Ngày ông mất, thầy và trò trường quốc dân học xá ở đảo Tây Tự nghỉ học một ngày, toàn thể đều đưa tang. Từ đó về sau, gia đạo suy tàn, lại vì chiến tranh, nhà cửa bị bom đạn phá hủy hoàn toàn. Đến khi bà nội mất thì đã không còn được thịnh vượng như xưa. (Bà nội Du Đoan Hương là vợ thứ ba trong số ba người vợ của ông nội.)

Khi bà nội qua đời, có một chuyện rất kỳ lạ xảy ra. Chuyện này hoàn toàn có thật: một tuần trước đó, cái búa trong nhà tôi vô cớ biến mất, nhưng cứ đến nửa đêm, trong phòng bà nội lại vang lên những tiếng keng keng loảng xoảng.

Sáng hôm sau, mẹ tìm không thấy cái búa, hỏi mọi người nhưng ai cũng nói không biết. Cuối cùng, khi bà nội nghe mẹ đang tìm cái búa, bà mới rên rỉ trả lời: "Ở đây này! Là tôi bảo Nghê Anh lấy đưa cho tôi đấy." (Nghê Anh là em gái thứ tư của tôi.)

"Mẹ lấy cái búa để làm gì?" - Mẹ tôi hỏi. "Không có gì." - Bà nội giấu kín điều bí mật, không chịu nói. Mẹ tuy thấy lạ nhưng không hỏi thêm nữa.

Đêm hôm sau, lại vang lên những tiếng keng keng loảng xoảng, tôi giật mình tỉnh giấc nửa đêm, lén nhìn theo tiếng động, thấy bà nội cầm cái búa, đôi mắt xanh lét, nhìn chằm chằm vào khoảng không mà đập, có lúc lại đập qua đập lại, gây ra những tiếng động ầm ĩ, thật kỳ quái. Nhìn một lúc, tôi quay về phòng đi ngủ, không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra.

Đến ngày thứ sáu, mẹ lại tìm cái búa để đóng đồ, vẫn không thấy đâu, hỏi mãi mới biết bà nội lại lấy đi rồi. Mẹ lại hỏi bà: "Mẹ lấy cái búa để làm gì?" "Không có gì." - Bà nội vẫn không chịu nói. "Không có gì sao cái búa lại cứ ở bên cạnh mẹ vậy!" - Mẹ cũng tò mò. "Thì tôi... tôi... tôi nói cho các người biết vậy, vì bọn họ đều đến đòi đưa tôi đi, tôi không chịu đi với họ, họ cứ kéo tôi, nên tôi phải dùng búa đập họ." "Họ là ai vậy?" "Họ là... đó đó." Những cái tên đó tôi không biết ai cả, nhưng mẹ biết, đó là những người thuộc thế hệ trước đã qua đời, tức là toàn ma cả.

Bà nội nói: "Sau này tôi không cần phải dùng búa đập họ nữa, họ muốn đưa tôi đi, tôi sẽ đi với họ."

Đêm ngày thứ sáu, bên cạnh bà nội không còn cái búa, không còn nghe thấy tiếng đập nữa, và bà thực sự đã ra đi vào đêm đó. Sáng sớm, khi tôi giúp bố mẹ di chuyển thi thể bà nội ra phòng khách, phát hiện thi thể bà vẫn còn chút hơi ấm!

Đây là một sự thật, lúc đó tôi không thể hiểu nổi, nhưng giờ đây tôi đã hoàn toàn hiểu ra, đây là sự hiển hiện của thân trung ấm (linh hồn), một người bệnh yếu, trong trạng thái hấp hối, phần lớn đều có thể nhìn thấy những điều kỳ lạ vào lúc này, những hiện tượng này rất có thể là ảo ảnh, cũng chính là sự hiển hiện của nghiệp lực, thật thật giả giả, giả giả thật thật.

Khi con người sắp chết, cõi u minh hiển hiện, báo ứng luân hồi sinh tử lại bước vào một hành trình mới. Lúc này, nên ghi nhớ pháp cứu độ âm linh mà tôi đã viết, với sự cứu độ như vậy, chắc chắn có thể khiến người chết an tâm, niệm lực hội tụ thành một, vãng sinh về Tây phương Cực Lạc. Mấy năm trước, tôi đã từng tụng kinh siêu độ cho ông bà nội, nguyện cho họ sớm về cõi Phật, không sinh không tử.

25. Tĩnh tọa và đạt đến lương tri

Tiên sinh Vương Dương Minh nói: "Trước đây khi tôi ở huyện Trừ, thấy các học giả chỉ tranh luận bằng miệng về những điều giống và khác, không ích lợi gì cho việc tu dưỡng, nên tôi dạy họ ngồi thiền. Ban đầu các học giả dường như có sự tỉnh ngộ, nhưng lâu dần họ sinh ra thích tĩnh ghét động, rơi vào căn bệnh khô khan cứng nhắc. Vì vậy gần đây tôi chỉ hướng dẫn công phu về việc đạt đến lương tri. Khi học giả thực sự thấy được bản thể của lương tri, sáng suốt thông đạt, phân biệt được phải trái, không gì không phải là thiên lý, dù có việc hay không việc, đều tinh tế quan sát và khắc phục, cùng về một đường, đó mới là công phu thực sự của việc trau dồi tri thức, không rơi vào một bên, nên thấy không có gì vượt qua được việc đạt đến lương tri mà không có bệnh."

Tiên sinh Vương Dương Minh còn nói: "Ngoài lương tri không có tri thức nào khác, ngoài việc đạt đến lương tri không có học vấn nào khác." Ông còn nói: "Không thiện không ác là thể của tâm, có thiện có ác là ý thức khởi động. Biết thiện biết ác là lương tri, làm thiện bỏ ác là tìm về nguồn gốc. Đây là lời thấu suốt từ trên xuống dưới, từ người mới học đến bậc thánh nhân, chỉ có công phu này, nghiên cứu không cùng tận, công phu tinh nhất của vua Nghiêu Thuấn cũng chỉ như vậy."

Học thuyết của Vương Dương Minh, tôi vô cùng kính phục. Trong đoạn trước, tiên sinh Dương Minh bàn về tĩnh tọa, tuy tĩnh tọa có lợi, nhưng cũng có một căn bệnh, nguyên nhân là do thích tĩnh ghét động, kết quả là rơi vào căn bệnh khô khan cứng nhắc. Tuy nhiên, việc Vương Dương Minh lúc bấy giờ có thể đề xuất phương pháp tĩnh tọa, thực sự không thể không khiến người ta khâm phục sâu sắc, bởi vì khi tâm tĩnh lặng ngồi xuống, vạn niệm đều dứt, chân tính tất nhiên sẽ hiển lộ, đây chính là nguồn gốc của hai chữ "huyền bí". Tiên sinh Vương Dương Minh hiểu rằng tĩnh tọa dễ rơi vào tình trạng khô khan, nên đành phải bàn về công phu đạt đến lương tri. Và ngày nay, phương pháp khởi linh linh động của tôi vừa hay bù đắp cho căn bệnh khô khan đó, khiến cho phương pháp tĩnh tọa của Vương Dương Minh càng thêm hoàn thiện và sáng tỏ.

Tĩnh tọa thuộc âm, linh động thuộc dương, khi kết hợp như vậy sẽ đạt đến lương tri! Trong cuốn sách "Khởi Linh Học", tôi đã nói rằng linh động cũng là một công phu có được từ tĩnh tọa, khi vạn niệm đều dứt, chỉ còn một linh tồn tại, linh này bay khắp trời đất, thâm nhập vào mắt tai mũi lưỡi thân ý, phát sinh hoạt động dương khí, hoạt động này bù đắp cho sự khô khan của tĩnh tọa, từ đó đạt được cảnh giới cao nhất. Điểm linh động này có thể tự do điều khiển, điều mà tiên sinh Vương Dương Minh chưa từng nghĩ đến.

Đoạn thứ hai, tiên sinh Dương Minh bàn về lương tri, lý thuyết và quan điểm này hoàn toàn không có sai sót. Cần biết rằng "bản tính con người vốn không thiện không ác, có thiện có ác đều do ý thức tác động", lý thuyết này phản đối quan điểm của Mạnh Tử và Tuân Tử. Nghiên cứu đến cùng để biết nguồn gốc của sự vật, đây chính là tư tưởng vĩ đại của tiên sinh Dương Minh, thông qua tĩnh tọa, dứt bỏ tục niệm của trời đất, vượt thoát ánh sáng để đạt đến cảnh giới tâm lương tri, đây là lĩnh vực của bậc thánh nhân, không hề đơn giản. Tôi cũng cho rằng, lý do tiên sinh Dương Minh trở thành một bậc Nho thánh vĩ đại là vì ông là người tiên phong mở đường cho học giả, khai phá cảnh giới mới. Học thuyết này rất phù hợp với Phật pháp, Phật pháp là vô pháp, không ở thiện, không ở ác, đây mới chính là bản tính như như của Phật.

Tại sao tĩnh tọa lại có thể sinh ra sức mạnh huyền bí? Bởi vì tĩnh tọa là công phu của tâm, cũng chính là công phu của linh, khi nghiên cứu sâu về tâm linh vô tận, tự nhiên sẽ sinh ra sức mạnh huyền bí. Hơn nữa, tác giả đã có phương pháp khởi linh, những ai muốn tìm hiểu về thế giới tâm linh huyền bí có thể mạo hiểm bước vào con đường này. Khi đã có được công phu tinh nhất, trí tuệ thông suốt trời đất tự nhiên sẽ đạt được, đây chính là chữ "đắc" trong "định, tĩnh, an, lự, đắc". Đạt đến lương tri, ngoài lương tri là vô tri, những điều huyền bí trong đó quả thật người ngoài không thể biết được.

Một hôm, tôi ngồi nhắm mắt trong tĩnh lặng, tâm thần như đang ngồi trong thang máy, cứ thế rơi xuống trong khoảng không vô tận. Tôi cứ để mặc nó chìm nổi mà không kiểm soát. Bỗng trước mắt hiện lên một luồng hào quang, một vị thần tướng khổng lồ hiện ra trước mặt tôi. Vị thần tướng ấy đầu bốc lửa, mặt đầy phẫn nộ, một tay cầm thanh bảo kiếm khổng lồ, đôi mắt lồi như chuông đồng, chân cũng bốc lửa. Ngài trừng mắt nhìn tôi, rồi dùng kiếm đâm vào tim tôi. Tim tôi chảy máu và trống rỗng, muốn nôn nhưng không có gì để nôn. Chợt tôi nhớ ra rằng không thiện không ác, không vui không buồn là thể của tâm, còn có thiện có ác, có vui có giận là do ý thức khởi động. Nếu tôi kiểm soát được ý niệm, thì sẽ không còn cảm giác gì nữa. Và tôi đã chứng minh được điều đó. Khi tôi tỉnh ngộ, cảm giác buồn nôn biến mất, vị thần tướng phẫn nộ khổng lồ không còn, lửa không còn, bảo kiếm cũng không còn, tâm thần tôi trong lúc tĩnh tọa không lên không xuống, không còn trống rỗng nữa.

Trong thiền định của Lư Thắng Ngạn, những cảnh giới huyền ảo xuất hiện nhiều vô kể, nếu ghi chép lại từng cảnh một có thể biên soạn thành một cuốn sách lớn. Tuy nhiên, phần lớn đều là những cảnh giới do ý thức sinh ra, không có gì là thật cả, nhưng trong đó cũng có những điều khai sáng, không hẳn là hoàn toàn vô nghĩa. Bởi vì thần tiên đã đi vào trong tâm thức của tôi, kể cho tôi biết tất cả về quá khứ và tương lai của mình. Và tất cả những điều chưa từng xảy ra ấy đều lần lượt được thực hiện trong trải nghiệm thiền định, đây không phải là một điều kỳ diệu sao?

Khi tĩnh tọa, hãy đặt tâm thần nơi hơi thở, quán chiếu lại bản thân nhiều lần để lương tri xuất hiện và ác niệm tiêu trừ. Khi tĩnh tọa, không cần nghĩ ngợi điều gì, hãy buông bỏ tâm ý, không phân biệt sớm tối, đây chính là sự nghỉ ngơi lớn nhất. Khi tĩnh tọa, nếu thấy thiên thần, hãy xem đó như sự khích lệ. Đừng chấp trước vào việc thấy thiên thần. Khi tĩnh tọa, nếu thấy phẫn nộ thần, hãy tự chế ngự tâm, tự nhiên sẽ không lo lắng, không sợ hãi, an nhiên tự tại.

Tĩnh tọa là sự mở rộng của tâm linh, linh động là hoạt động của dương thần. Khi tâm linh sáng suốt, hoa trí tuệ tự nhiên nở rộ, từ đó sẽ thông suốt tất cả, không gì không biết. Tâm vốn vô cùng tận, sức mạnh của nó cũng vô cùng tận. Khi trí tuệ không còn rò rỉ, sáu đại thần thông cũng chẳng còn gì bí ẩn nữa.

26. Sức mạnh thần bí của cầu nguyện

Nhà văn Phùng Phùng đã từng tiết lộ trong tiểu thuyết dài của mình rằng, mỗi khi gặp khó khăn, ông thường leo lên ban công, đối diện với bầu trời xanh, thành kính chắp tay, quỳ gối xuống, ngước đầu nhìn trời và trút hết nỗi đau trong lòng lên thiên đường. Những lần cầu nguyện như vậy đôi khi kéo dài đặc biệt lâu. Ông kể rằng dường như cảm nhận được thượng đế đang lắng nghe mình nói chuyện, khiến cơ thể ông khẽ run lên. Ông cảm thấy linh khí của trời đã ban cho mình, thượng đế đã tiếp nhận và hứa sẽ giúp đỡ. Nhờ vậy, Phùng Phùng đã đạt được sự bình an, và mọi việc đều thành công ngoài mong đợi.

Ngoài ra, tôi đã từng chứng kiến một buổi đại hội truyền giảng của Cơ Đốc giáo tại sân bóng chày Cao Hùng. Một vị mục sư người Mỹ đứng trên bục giảng, dùng sức mạnh huyền bí của lời cầu nguyện để chữa bệnh cho mọi người. Lúc đó tôi mới học cấp hai, chen chúc giữa đám đông tín đồ. Số người đến nghe giảng rất đông, nhưng điều thu hút nhất chính là phần cầu nguyện sau buổi giảng. Ngài cầu nguyện cho người bệnh và hiệu quả xuất hiện ngay lập tức. Chính sức mạnh tức thì này đã thu hút hàng nghìn hàng vạn tín đồ. Sau buổi giảng, vị mục sư giơ cao hai tay, bắt đầu cầu nguyện, người phiên dịch dịch từng câu, và đám đông bên dưới cùng đọc theo: "Cảm tạ Chúa, Hallelujah."

Mục sư nói: "Nguyện ánh sáng thiêng liêng của Chúa Jesus giáng xuống, lắng nghe tiếng kêu đau khổ của muôn người, bàn tay Người lau khô nước mắt của họ, xoa dịu vết thương của họ. Khi chúng con nhân danh Người, tâm hồn chúng con sẽ được tràn đầy vĩnh hằng, như rượu rót vào thánh chén, tràn ra ngoài, ân sủng vô cùng vô tận. Lời cầu nguyện thành kính của chúng con, Chúa ắt sẽ lắng nghe và tìm thấy tiếng nói của chúng con, hiển linh sức mạnh của Người, tạo nên phép màu vĩ đại. Hallelujah, tạ ơn Chúa, mọi lời cầu nguyện của chúng con đều nhân danh Chúa Jesus, Amen!"

Khi mục sư đọc một câu, chúng tôi ở dưới đọc theo một câu, đồng thời phải nói "Tạ ơn Chúa". Sau khi cầu nguyện xong, có người trong đám đông lên sân khấu làm chứng vì bệnh của họ đã khỏi. Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là một người câm, sống ở khu Kỳ Tân, được hàng xóm dẫn đến, đứng trên bục giảng, khóc lóc và hét lên: "Con vui quá, con vui quá."

Người hàng xóm nói: "Người câm này là hàng xóm của tôi, đột nhiên bị câm cách đây năm năm, tôi có thể làm chứng, và hôm nay nhờ cầu nguyện mà đã khỏi, đây là phép màu, đúng là một phép màu."

Ngoài ra còn có một bệnh nhân bại liệt từ nhỏ, bỗng nhiên nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện mà được chữa lành, đi lại tốt trên sân khấu.

Trong buổi lễ kỳ diệu đó, tôi đã chứng kiến nhiều người lần lượt lên sân khấu làm chứng. Kể từ lần đó, tôi đã được chứng kiến thêm vài lần phép màu chữa bệnh bằng cầu nguyện, ví dụ như tại nhà thờ của chúng tôi Hội Thánh Tân Hưng Cao Hùng, đã từng mời một mục sư người Nhật là ông Sato đến thăm. Ông ấy cũng dùng cầu nguyện để chữa bệnh cho mọi người. Lúc đó tôi đang làm giáo viên trường Chủ nhật, hiệu trưởng là ông Ngô Tân Đức, mục sư là ông Tô Thiên Minh. Năng lực của mục sư Sato cũng rất cao, đã có rất nhiều bệnh nhân lên sân khấu làm chứng ngay tại chỗ.

Cho đến nay, Mục sư Tống Năng Nhĩ khi giảng đạo, sau buổi giảng bà cũng cầu nguyện cho người bệnh. Tôi chưa từng chính thức chứng kiến lời cầu nguyện của Mục sư Tống Năng Nhĩ, nhưng nghe nói sức mạnh cầu nguyện của bà cũng rất vĩ đại và có sức lay động lớn. Thượng đế cũng lắng nghe lời cầu nguyện của bà, bà có năng lực đặc biệt về mặt này. Tống Năng Nhĩ là một nhà truyền giáo nổi tiếng đang sinh sống tại Mỹ, gần đây đã về nước giảng đạo.

Hôm nay, tôi xin thành thật nói với độc giả rằng, đối với những người thật lòng thành tâm cầu nguyện, thượng đế sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Thật ra, tôi cũng là một người rất thích cầu nguyện. Tôi thường ở trong sân nhỏ của mình, thắp một nén hương dài, khiêm nhường quỳ gối, ngước mặt lên trời và cầu nguyện: "Chư thiên thánh thần, xin từ bi chiếu giám, xem xét tâm con, tâm con thanh bạch, không vướng bợn nhơ. Nếu có lỗi lầm, xin thương xót tội vô minh của Liên Sinh, và đồng cảm với tấm lòng chân thành của đứa con thơ. Nguyện cho Liên Sinh kiếp này mãi giữ vững đạo tâm, thân thể khỏe mạnh, độ mình độ người, cứu quốc cứu đời, hợp với đại đạo trời người, vượt thẳng cảnh Phật, vĩnh viễn không thối chuyển." Lời cầu nguyện của tôi là trút hết mọi tâm sự không sót điều gì lên thượng đế. Điều kỳ lạ là thường có rất nhiều khó khăn nhờ vào sức mạnh của lời cầu nguyện mà được giải quyết dễ dàng. Đây quả là một sức mạnh không thể nghĩ bàn! Sức mạnh này đến từ trời, cũng đến từ chính mình, hai nguồn hợp nhất, tất cả đều thăng hoa.

Điều quan trọng nhất trong cầu nguyện là chữ "chân thật" và chữ "thành tâm". Nếu không chân thật, không thành tâm thì lời cầu nguyện đó sẽ không có chút sức mạnh nào. Hãy mở rộng tâm hồn, để mọi việc hiển bày trước chư thiên thánh thần! Lúc này, cảm động và bình an mà bạn nhận được sẽ vô lượng vô biên, và bạn sẽ đạt được sự mãn nguyện chưa từng có.

Thật lòng mà nói, khi tôi khóc đến đau đớn tột cùng, tôi đã từng thấy một vị thần từ trời cao bước xuống theo thang mây, cổng trời mở ra, Người lau khô nước mắt cho tôi.

Viết đến đây, lòng xúc động mạnh, làm một bài kệ:

Làm một tên hề giữa nhân gian Đau lòng thương hoa gặp châm biếm Lời lẽ không sạch tựa như ếch Vẫn phải nhẫn nhịn trước lời đồn Cầu nguyện lên trời trời thấu tỏ Chẳng cần đáp trả những thị phi.

27. Bí ẩn của thuật phong thủy

Trước khi viết bài này, tôi xin tiết lộ một bức thư.

Kính gửi ông Lư,

Tuần trước khi về Đài Bắc, trên xe tôi có đọc tác phẩm "Địa Linh Huyền Bí" của ông. Nhờ đó mà những kiến thức phong thủy sơ sài mà tôi học được từ thầy trong những lần dạo chơi xuân từ thuở nhỏ đã được hiểu sâu sắc hơn. Đồng thời, nó cũng gợi nhớ cho tôi về một bài viết trong Tạp Chí Không Quân cách đây vài năm. Bài viết kể về ông Hạ Công Quyền, một nhà ngoại giao xuất thân từ Không quân, khi đưa một số bạn Không quân du học Mỹ đi thăm lăng Washington. Tại đó, ông Hạ đã hết lời khen ngợi rằng ngôi mộ này chính là địa thế phong thủy tuyệt vời nhất theo thuật phong thủy của nước ta. Ông Hạ nói: "Phía sau có tựa, hai bên ôm vào, phía trước có mặt phản chiếu, giữa có nước bao quanh." Do bận việc nên tôi chưa đọc hết tác phẩm "Địa Linh Huyền Bí", nhưng thấy trong phần tôi đã đọc chưa đề cập đến cách nói này, nên xin đặc biệt nêu ra để ông tham khảo.

Tăng Quảng Hòa kính thư.

🌟

Tại đây, tôi xin giải thích bốn câu nói của Hạ Công Quyền.

1. Phía sau có tựa - Điều này chỉ ra rằng ngọn núi phía sau ngôi mộ rất hùng vĩ. Nói chung, khi dựa vào một ngọn núi hùng vĩ, phú quý sẽ tự nhiên kéo dài, giống như quan chức ngồi trên ghế, tướng quân ngồi trên ngai, có chỗ dựa này thì không còn lo ngại phía sau.

2. Hai bên ôm vào - Điều này tượng trưng cho Long Hổ song sa trong thuật phong thủy của nước ta. Long Hổ song sa ôm lấy huyệt, đây chính là tướng có nhiều quý nhân phù trợ, tự nhiên vận may gặp quý nhân, thịnh vượng không ngừng.

3. Phía trước có phản chiếu - Đây chính là phía trước mộ có một ao nhỏ (minh đường), ao có nước, ánh nước lấp lánh phản chiếu những tia sáng đẹp đẽ về phía mộ, ánh sáng này liên tục, đó chính là phía trước có phản chiếu, tượng trưng cho sự quang minh vậy.

4. Giữa có nước bao quanh - Ý nghĩa của nước bao quanh ở giữa này thật sâu xa, chính là ở giữa ao nhỏ nổi lên một gò đất, giống như đảo Quang Hoa ở hồ Nhật Nguyệt vậy, nói chung, giữa có nước bao quanh tức là có hàm ý thành tựu lớn vậy.

Gác lại mọi chuyện khác không bàn, nước Mỹ lập quốc mới chỉ hai trăm năm, và tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, Washington là quốc phụ của nước Mỹ, ngôi mộ của ông vô tình được chôn cất ở long huyệt đại phú đại quý, và nước Mỹ sau hai trăm năm đến nay đã trở thành một trong những cường quốc đặc biệt trên thế giới, đây cũng có thể coi là một sự trùng hợp ngẫu nhiên!

Nước Mỹ dựa vào địa lý, khai thác tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tận dụng nhân tài từ khắp nơi trên thế giới để phát triển khoa học, xã hội dân chủ và cởi mở tỏa sáng muôn màu, và đã trở thành một nhà lãnh đạo thu hút sự chú ý của cả thế giới. Đây chính là kết quả của bốn yếu tố địa lý: phía sau có tựa, hai bên ôm vào, phía trước có phản chiếu, giữa có nước bao quanh!

Gần đây, có rất nhiều người mời tôi đi xem địa lý khắp nơi, nhưng một người khó có thể phân thân, tôi ngược xuôi không ngừng nghỉ giữa phong cảnh non nước của hòn đảo ngọc, nhận ra rằng Đài Loan thực sự là một hòn đảo vàng giữa biển khơi, là hòn đảo tiên độc nhất vô nhị trên thế giới, có thể nói là mảnh đất thanh khiết duy nhất mà thượng đế để lại. Từ những ngọn núi rồng, tôi quan sát khí đất, chỉ thấy ánh vàng tỏa sáng bốn phương, dằng dặc vô tận, vì vậy tôi cho rằng chúng ta vẫn phải tận dụng địa lý, Đài Loan đảo ngọc chính là con rồng từ trời, mang dáng dấp của vị chủ nhân chân chính.

Tôi cho rằng thuật phong thủy không chỉ mang lại phúc họa cho từng cá nhân và tạo phúc phần cho các thế hệ, mà còn tạo phúc lớn cho quốc gia. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến nhỏ, đều có những yếu tố liên quan, như một mắt xích nối tiếp mắt xích khác. Mọi sự việc đều có nguồn gốc, tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến thái bình thịnh trị. Vì vậy, thuật phong thủy có thể dùng để xem xét vận mệnh quốc gia và con người, không phải là môn học tầm thường, sức mạnh huyền bí của nó không thể xem nhẹ.

Tôi nhớ trong sự nghiệp chống Thanh phục Minh của Trịnh Thành Công, có một vị tham mưu quân sự tên là Trần Vĩnh Hoa, tự Phục Phủ, người Đồng An, Phúc Kiến. Trịnh Thành Công từng khen ngợi ông là: "Phục Phủ chính là Ngọa Long của thời nay!" Trần Vĩnh Hoa này vốn là một bậc kì cựu trong thuật phong thủy, có tài "biết đất". Vào năm Vĩnh Lịch thứ 18, ông đã tự mình leo núi lội suối, đi khắp nơi khảo sát địa hình, địa chất. Sau khi trở về nghiên cứu kĩ lưỡng, ông ban hành chính sách đồn điền, kết hợp quân sự với nông nghiệp, phân chia những vùng hoang vu chưa khai phá cho quân đội đóng đồn khai khẩn.

Khi Trịnh Thành Công khai phá Đài Loan, chính quyền mới thành lập, trăm việc cần làm, cần rất nhiều lương thực. Trịnh Kinh kế vị, liên tiếp nhiều năm chinh chiến ở Kim Môn, Hạ Môn, Phúc Kiến, Quảng Đông, trong suốt thời gian đó nhu cầu về lương thực và vũ khí trong hai mươi năm không hề thiếu thốn, tất cả đều nhờ vào công lao của Trần Vĩnh Hoa, người am hiểu thiên văn địa lý và biết cách tận dụng địa lý.

Địa lý có ích không? Tất nhiên là có ích. Khí đất và địa chất có quan trọng không? Tất nhiên là quan trọng. Sinh tử của con người có liên quan đến địa lý không? Như máu thịt gắn bó, huyết mạch tương quan, tự nhiên bị chi phối một cách vô hình. Xem người, xem trời, xem đất, cuối cùng mới có thể xem quốc gia và thế giới. Thế giới vũ trụ trên dưới mười phương, không đâu là không có chân lý tồn tại, không thể bỏ qua điều gì!

28. Viên thuốc mười vị chảy về Tây

Nếu tôi không nói ra phương pháp này, e rằng rất ít người biết được. "Viên thuốc mười vị chảy về Tây" là một phép thuật vô hình. Khi sử dụng phương pháp này, chư Phật và thần linh vô hình có thể ban phúc cho sức khỏe con người, bảo hộ tín đồ, không bị dịch bệnh, không bị bệnh tật quấn thân, được hưởng mười hương vị pháp. Có một người bạn trẻ kể: "Tại một ngôi chùa lớn nọ, chúng tôi dùng nước sôi cúng Phật, sau đó uống bát nước đó, lạ thay, bát nước trong vắt ấy lại có vị thuốc, người bệnh uống vào đều được chữa lành, thật là một phép màu."

Dùng nước sôi cúng Phật, uống vào có vị thuốc, và mỗi người khi uống đều cảm nhận vị khác nhau, có cả vị chua, ngọt, đắng, cay. Vậy bát nước sôi này có bí mật gì? Đó chính là phép "Viên thuốc mười vị chảy về Tây". Nước chú Đại Bi là phương pháp dùng nước chú của nhà Phật, dùng để từ bi với chúng sinh. Nước niệm hai mươi chữ là phương pháp của Thiên Đức Thánh Giáo, dùng hai mươi chữ "trung, thứ, liêm, minh, đức, chính, nghĩa, tín, nhẫn, công, bác, hiếu, nhân, từ, giác, tiết, kiệm, chân, lễ, hòa" để niệm chú vào nước, dùng để từ bi với chúng sinh. Đạo gia luyện nước thuốc, dùng nước giếng, đun sôi lên, cắm hương ở miệng ấm, khoảng một nén hương thì có thể uống được, đây là phương pháp nước thuốc của Đạo gia. Quả thật là kỳ diệu, một chén nước sôi chữa được các chứng bệnh lạ trong thiên hạ, nhiều triệu chứng đều có thể khỏi, bạn nói có kỳ lạ không.

Về "Viên thuốc mười vị chảy về Tây", đây là phương pháp cổ truyền từ Thần Nông Đại Đế. Thứ nhất, nó có thể trợ giúp sự hưng thịnh linh cảm của thần Phật. Thứ hai, bảo hộ địa phương không bị dịch bệnh. Thứ ba, với những chúng sinh cầu khỏi bệnh, có thể đạt được bình an về tâm linh và thể chất. Tác giả xin công bố phương pháp như sau.

1. Chọn mười loại dược liệu thượng hạng, đặt vào trong một cái hũ sành. Hũ sành này không nên quá lớn, dược liệu không cần nhiều, chỉ vừa đủ đầy hũ sành là được. Dược liệu không câu nệ loại nào, tuy nhiên, càng là thuốc quý, càng là thuốc có mùi thơm càng tốt. Nhớ rằng người đựng thuốc phải là vị trụ trì chùa, và các loại thuốc được dùng cũng không được tiết lộ.

2. Khi thực hiện phép này, nếu ở chùa thì làm ở giữa chính điện; nếu ở nhà thì làm ở giữa phòng khách. Việc thực hiện ở chùa là để có được sự linh ứng của chư Phật thần thánh trong tương lai, còn thực hiện ở nhà là để cầu cho gia đình bình an. Trước tiên phải tìm một người nam chưa lập gia đình, nhớ phải trai giới ba ngày, và thực hiện phép này vào lúc 11 giờ đêm trước ngày sinh của Thần Nông Đại Đế.

3. Đúng 11 giờ đêm trước ngày sinh của Thần Nông Đại Đế, đặt hũ sành lên ghế ở giữa chính điện, lúc này thắp hương trước bàn thờ thần Phật và cầu nguyện, có thể đọc lời cầu nguyện như sau:

Viên thuốc mười vị chảy về Tây, Thần Nông cứu nạn chẳng lo thay; Tính trời Thánh nhân đầy từ ái, Hóa thành kim đan giọt giọt bay.

Lại đọc rằng:

Khí chính sơn hà khắp đại thiên, Thuốc thang ban phát bệnh tiêu nghiêng, Thần Phật hóa thân xuống thăm viếng, Quán Âm tìm khổ tọa hoa liên.

Lại đọc rằng:

Ngày lành giờ tốt thần giáng xuống, Pháp thí pháp ban vị ngọt ngào; Nước dương liễu trong có hương vị, Từ nay vạn cầu vạn nghiệm linh.

Sau khi cầu nguyện xong, người thanh niên mặc áo trắng, tay cầm gậy trúc xanh (phải chắc chắn), nhanh chóng bước lên, không do dự một gậy đánh vỡ hũ sành, đập cho đồ sành vỡ tan tành, đây chính là biểu tượng của việc xua đuổi bệnh tà, không còn cần dùng thuốc nữa. Sau đó, người thanh niên dùng vải trắng gói các mảnh vỡ hũ sành và dược liệu lại, nhớ không được ngoái đầu lại, nhanh chóng ra khỏi cổng chính điện, chạy đến nơi có sông lớn kênh rạch, nên chọn chỗ nước chảy xiết, ném gói vải xuống nước, như vậy là hoàn thành.

  1. Khi thực hiện phép này, có một số điểm cần chú ý:

Thứ nhất - Phải đánh vỡ hũ sành chỉ bằng một gậy, nếu không vỡ thì phải đợi năm sau làm lại. Chỉ khi đánh vỡ bằng một gậy mới có hiệu nghiệm, nếu phải đánh hai gậy, bệnh của người bệnh sẽ trở nên phức tạp! Vì vậy nhất định phải đánh vỡ bằng một gậy, nếu không vỡ thì đợi năm sau làm lại.

Thứ hai - Khi chạy ra khỏi cổng chùa không được ngoái đầu lại, nếu ngoái đầu lại, điều đó thể hiện sự lưu luyến, như vậy người cầu khỏi bệnh, tuy bệnh có thể tạm thời thuyên giảm, nhưng vẫn sẽ tái phát, chứng tỏ không thể khỏi hoàn toàn.

Thứ ba - Tránh để người đang có tang hoặc phụ nữ sinh nở trông thấy, trong quá trình thực hiện phép nên tránh những điều này.

29. Luận về điều tốt đẹp của pháp thuật Tiểu đạo

Tôi hiểu sâu sắc rằng, Đạo vốn không thể nói ra được, đó là diệu nghĩa của vô cực, vì không có văn tự nào có thể giải thích được, nên người đạt đến được rất ít. Tuy nhiên, khi diễn biến đến gốc rễ tiên thiên của thái cực, có âm dương hai chữ xuất hiện, Đạo từ vô hình hóa thành hữu hình. Người đời thường cho rằng tất cả pháp môn hữu hình đều là giả, nhưng người tu đạo không biết rằng, đây chính là công phu bước đầu mượn cái giả để luyện cái thật. Pháp hữu hình đều là giả, câu nói này không sai, nhưng dùng pháp giả để nuôi thân giả, dùng pháp giả để tu thân giả, không có pháp giả thì pháp thật cũng không tồn tại được!

Phải biết rằng trong và ngoài tam giới, có hằng hà sa số thần tiên, các vị bay lượn trong không trung, đi trong sương mù, tâm thanh thản, sáng du ngoạn biển khơi, chiều nghỉ nơi cầu vồng cuối trời. Không phải mỗi vị thần tiên đều đã thấu hiểu được diệu nghĩa của vô cực, mà chỉ cần dùng thân giả tu đến mức ẩn thân không tung tích là được. Đạo chân chính rốt cuộc không thể nói ra được, bởi vì nói ra thì sẽ có thiên lệch, cho nên nói rằng: "Vô thừa, vô cực, vô thượng."

Thần tiên tu giả để đạt chân, nếu đắc được Tiểu đạo thì có thể mở cửa trời đất, tránh được kiếp sống chết, tùy ý biến hóa, ra vào cửa trời, du ngoạn mặt trời mặt trăng, gọi gió gọi mưa, sai khiến thiên binh thiên tướng, địa binh địa tướng, lục giáp lục đinh, lực sĩ hoàng kim. Hơn nữa còn có thể xuyên núi xuyên đá, phi hành ẩn thân, ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ đều có thể vận hành không trở ngại, thần tiên có nhiều thân biến hóa, có thể hóa thành hổ báo tê tượng, hóa thành thiên cầm địa thú, có thể ẩn nghìn quân vạn mã, lại có thể biến cứng thành mềm, biến mềm thành cứng, đao búa không thể làm thương tổn. Không chỉ bản thân có thể biến hóa, mà vạn vật cũng có thể biến, đây chính là đại pháp mượn vật thông thần, như biến đất thành nước, vào nước như đi trên đất bằng, vào lửa mà lửa không thể đốt cháy, lại có thể bay lên trên lửa.

Ngày nay, tôi thấy người đời đều thích bàn về "Đạo của Đại thừa lý tính", bàn về "thiền", bàn về "Mật pháp vô thượng", rồi sau đó đều nói rằng không thể nói, không thể bàn, chỉ học pháp thượng thừa. Thực ra, đây đều là những kẻ thích nói lời phô trương, không phải bậc thượng trí, lại muốn học việc của bậc vô thượng trí, ngay cả việc tu tập trong cuộc sống thường ngày cũng không làm được, mơ tưởng đạt được vô thừa, cuối cùng chỉ trở thành trò cười, không những không học được pháp thượng thừa, mà ngay cả pháp trung hạ thừa không thèm học cũng chẳng có, chỉ biết hô hào cứu người cứu đời, nhưng không cứu được người, không cứu được đời, khi thực sự gặp vấn đề, chỉ biết bó tay đứng nhìn mà thôi.

Viết đến đây, xin để lại một bài kệ:

Buồn cười thế nhân thích bàn tiên, Không lo thực tế lạc phàm điên, Đại đạo không thang leo chẳng được, Chỉ còn miệng lưỡi khiến người phiền.

Tại sao tôi bàn về Tiểu đạo? Bởi vì tôi cho rằng pháp thuật Tiểu đạo cũng quan trọng như Đại đạo vậy. Tôn sùng pháp thuật Tiểu đạo không có nghĩa là từ bỏ căn bản Đại đạo, mà là hai bên hỗ trợ lẫn nhau. Bàn về "không" cũng bàn về "có", không thiên lệch về bên nào, tránh được việc được cái này mất cái kia. Nếu muốn học Đại thừa mà không có nơi bám víu, sẽ rơi thẳng xuống địa ngục, hoặc đạo chưa tu thành đã bị tiểu nhân hãm hại, đây chính là kết quả của việc không lo thực tế. Những điều tốt đẹp của pháp thuật Tiểu đạo nhiều kể không hết, hãy để tôi kể từng phần.

Thứ nhất, hỗ trợ hoằng dương Đạo pháp - Thông thường những đạo lý cao siêu phàm phu không thể hiểu được, thậm chí khi bàn về tính lý, bàn về có không, bàn về cơ dụng thiền, người đời có mấy ai thật sự hiểu được. Vì vậy, chỉ có thể dùng Tiểu đạo mới thông được, khiến mọi người tin vào thần linh, không dám làm điều sai trái, gieo căn huệ cho đời sau. Do đó, công hiệu của pháp thuật Tiểu đạo trong việc hỗ trợ hoằng dương Đạo pháp là to lớn nhất, khiến người ta dễ tin tưởng, không cần dùng đạo lý cao siêu để dọa người.

Thứ hai, cứu giúp người hoạn nạn - Pháp thuật Tiểu đạo chuyên cứu người giúp đời, và có hiệu nghiệm nhanh chóng, luôn hướng dẫn mọi người cách giữ thân tâm an lạc, từ bất an chuyển sang bình an, từ đó có thể cảm nhận được sức mạnh thần thông vô biên, khiến người ta dễ dàng phát khởi niềm tin. Vì vậy, sự hiệu nghiệm của pháp thuật Tiểu đạo khiến người ta dễ sinh lòng tin, trong khi đạo lý của Đại thừa khiến người ta khó phát khởi niềm tin, công dụng của nó là ở chỗ phổ biến cho những người có căn cơ thiện lành, không chỉ dành riêng cho một hai bậc thiện tri thức.

Thứ ba, gặp dữ hóa lành - Pháp thuật Tiểu đạo cũng là một phương pháp phòng thân, như xem bói, giao tiếp với thần linh, linh cảm, đều nhằm mục đích gặp dữ hóa lành. Người tu đạo biết tiểu thuật, mục đích không phải dựa vào đó để đắc đạo, mà là để phòng thân. Trước khi đắc đạo, nếu không có pháp thuật phòng thân, e rằng tiểu nhân sẽ dùng tà pháp hại mình, đạo chưa thành mà thân đã mất, như vậy thật không đáng. Vì thế, cần phải tu tập song song các pháp như giữ gìn sức khỏe, phòng thân, xem tướng đoán số cát hung, chuyển hung thành cát, ẩn thân trong hang động, và khi chưa đắc đạo, hãy dùng pháp thuật Tiểu đạo để cứu người, tu công tích đức, điều này đều có ích cho công hạnh tu tập của mình.

Thứ tư, phương tiện thiện xảo - Pháp thuật Tiểu đạo là phương tiện thiện xảo tạm thời để cứu độ thế gian. Nếu có người chỉ biết Phật lý Đại thừa mà không biết phương tiện thiện xảo, cũng là kẻ cố chấp không thông. Bởi vì môn đệ cầu cứu mà họ không biết cách giúp đỡ, như vậy không thể thu phục được mọi người. Nếu thông hiểu lý tột cùng của Đại thừa, lại thông thạo phương tiện thiện xảo, thông suốt mọi đạo lý trên trời dưới đất, đó mới thực sự là bậc đại trí. Đức Thế Tôn khi còn tại thế cũng giảng về phương tiện thiện xảo, và phương tiện thiện xảo có thể độ chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới phát khởi niềm tin, từ niềm tin đó bước vào cửa Đại thừa, cửa tột cùng.

Xin viết một bài kệ:

Pháp thuật Tiểu đạo trong đời sống Hòa hợp tự nhiên lo thực tế Phương tiện thiện xảo độ chúng sinh Ánh sáng thiện lành chiếu cửa ngộ.

30. Bí pháp mượn âm tướng

Ân sư Thanh Chân Đạo Trưởng, người thông thạo vạn nghìn phép thuật kỳ diệu, thường dạy tôi rằng: "Liên Sinh, trong thiên hạ tuy có vạn pháp, nhưng thực ra chỉ có một pháp, pháp ấy gọi là chính pháp tâm pháp. Vì vậy, vạn pháp chỉ cần phối hợp với tâm pháp, khi thời cơ đến, một pháp sẽ biến thành vạn pháp. Do đó mới có câu vạn pháp quy tông. Học tập pháp thuật, chỉ cần dùng trí tuệ thâm nhập vào ý nghĩa chân thật, tự nhiên vạn pháp sẽ quy về tâm ta, trở thành khí thế nuốt trọn sông núi, không ai địch nổi."

Tôi nhớ khi mới nhận được linh cơ, Diêu Trì Kim Mẫu đã hiện ra trên không và nói: "Liên Sinh, trong thế gian này, khí chính tà đan xen phức tạp. Tương lai khi con hoằng đạo, ắt sẽ gặp thử thách từ thiên ma - có kẻ ganh ghét, có người oán hận, lại còn có những ngọn lửa vô danh bừng cháy về phía con. Những kẻ muốn gặp con mà không được sẽ biến tình thương thành hận thù. Vì vậy, con phải đi cho ngay thẳng, ngồi cho đoan chính, lấy một điều chân chính để chống lại vạn điều tà vạy. Tâm không được nổi giận, phải cam tâm tình nguyện chấp nhận mọi sự sỉ nhục, đồng thời phải hết sức thận trọng, học một số phương pháp để tự bảo vệ mình, tránh bị kẻ xấu hãm hại."

Đạo trưởng Thanh Chân nói: "Đừng xem phương pháp mượn âm tướng là tà pháp. Thực ra, trong thiên hạ vốn không có tà pháp, cái gọi là tà pháp đều do tâm người xấu ác mà biến thành. Pháp mượn âm tướng có ích cho người tu đạo để tự bảo vệ, có ích cho người tu đạo để hiểu được cơ duyên linh nghiệm, có thể giúp người tu đạo tránh được nhiều phiền phức rắc rối. Giống như bậc thánh nhân trị việc, cũng cần đệ tử cùng hoàn thành thánh sự vậy. Nếu chỉ dùng sức một người để trị vạn sự trong thiên hạ thì làm sao thành công được!" Vì vậy, ân sư truyền pháp cũng đã truyền xuống phương pháp kỳ môn mượn âm tướng. (Do pháp này, người ngay thẳng dùng thì thành chính, kẻ gian tà dùng thì thành tà, nên phải giữ lại thần chú và phù lục, xin thứ lỗi không thể công khai hoàn toàn. Nếu muốn học pháp, trước phải tu tâm, tâm nếu ngay thẳng thì pháp mới có thể truyền.)

Đặc biệt công bố phương pháp mượn âm tướng như sau, ngoại trừ phần thần chú. Ý của tôi là để mọi người hiểu rằng trong thiên hạ thật sự có bí pháp này, không phải lời nói suông không có căn cứ.

Thứ nhất, khi hành giả tu luyện đến lúc linh quan bảy tấc chuyển động, hiện tượng thông linh sẽ xuất hiện. Vào lúc này, nếu không có chư Phật chư Thần có nhân duyên từ trời cao giáng xuống dẫn dắt tu hành, rất dễ xảy ra hiện tượng nguy hiểm. Đây chính là lúc cần tìm minh sư chỉ dẫn. Tu hành có minh sư thì tốn ít công nhiều hiệu quả, ngược lại sẽ tốn nhiều công sức mà hiệu quả không cao. Lúc này, nếu không có minh sư, cần cầu hộ pháp âm tướng để tránh ma xâm nhập. Phương pháp cầu hộ pháp âm tướng là trước hết phải tìm đá lưu ly ngũ sắc, có thể tìm thấy ở bờ biển hoặc ven sông lớn. Đá này chia thành năm màu, hiện lên đường vân, quấn quanh như mạng lưới. Cần biết rằng đá lưu ly ngũ sắc, nếu một viên có đủ năm màu là tốt nhất, nếu không thì mỗi viên một màu, tổng cộng năm viên cũng được.

Thứ hai, rửa sạch đá lưu ly ngũ sắc rồi dùng vải đỏ bọc lại. Nếu chỉ có một viên thì không cần phân biệt kích thước lớn nhỏ, nếu có năm viên thì kích thước phải đồng đều. Tìm một ngôi chùa lớn hoặc đền thờ nghĩa dân cũng được, nhưng không được dùng miếu thờ thần dân gian. Lúc này, đặt đá lưu ly ngũ sắc lên bàn thờ, dưới mỗi viên đá đặt một lá bùa đã vẽ sẵn, rồi thắp hương khấn nguyện như sau: "Đệ tử tên... nguyện tu tập Đạo pháp, hành đại đạo thiên hạ, phát huy điều thiện lớn lao, cứu quốc độ đời, thực hành nhân từ thiện lành, cứu độ vạn dân thiên hạ. Nay dùng tâm người hợp với tâm trời, chỉ e ngại tà ma xâm nhập, nên đặc biệt đến đây cầu xin các vị hộ pháp cao chân, cùng nhau kết thệ ước, tương trợ lẫn nhau, ngày sau công thành, cùng được liệt vào hàng chân tiên." Sau khi khấn nguyện như vậy thì niệm thần chú, người biết sử dụng pháp chỉ và bước khôi đạp đẩu thì tiếp tục bước chính dương cương và chính âm cương, rồi ban xuống pháp chỉ.

Thứ ba, sau khi khấn nguyện xong và ban xuống pháp chỉ, hãy yên lặng cầu xin linh ứng. Nếu được ý chỉ từ thượng thiên cho phép thì thật đáng mừng, nếu không thì phải tìm một ngôi chùa lớn khác để làm lại theo đúng phép. Khi đã nhận được ý chỉ từ thượng thiên cho phép, hãy cầm đá lưu ly ngũ sắc, cùng với tiền giấy cầu thọ đem hóa đốt, nhớ thiêu luôn cả lá bùa. Sau khi hóa đốt xong, đợi đá lưu ly ngũ sắc nguội rồi gói lại trong vải đỏ.

Thứ tư, thông thường đá lưu ly ngũ sắc sau khi hóa đốt sẽ xuất hiện những hình tượng kỳ lạ, có khi hiện ra khuôn mặt của Kim Cang nộ mục, có khi hiện ra hình đại thần cầm binh khí, cũng có khi hiện ra những linh thú kỳ quái như hổ báo sư tử. Tôi từng thấy viên đá lưu ly ngũ sắc của một vị trưởng lão tu Đạo, trên đá hiện rõ hình một con rồng vàng, và trên một viên đá khác lại có hình ảnh đồng tử đang lễ bái Quan Âm. Việc xuất hiện những hình tượng này cho thấy điều cầu xin đã được như nguyện, nếu không thì sẽ chẳng có gì hiện ra.

Thứ năm, nói chung người tu đạo thường mang đá lưu ly ngũ sắc bên mình để cầu mong hóa hung thành cát, mọi sự bình an. Đối với người có năm viên đá lưu ly, có thể chôn bốn viên còn lại theo bốn hướng Đông Nam Tây Bắc quanh nhà để ngăn ngừa tà khí xâm nhập, còn một viên đem theo bên mình để tự bảo vệ. Ngoài ra, nếu muốn thúc đẩy thành công một việc gì đó, cũng có thể dùng phương pháp này, nhẹ nhàng ném đá lưu ly ngũ sắc vào nhà người khác, thì việc đó sẽ có hy vọng thành công! Cũng có người thờ cúng đá lưu ly ngũ sắc, sớm tối thắp hương khấn nguyện.

Thứ sáu, đá lưu ly ngũ sắc chính là hiện thân của âm tướng, gặp việc gì cầu khấn đều linh ứng. Bất kì việc gì sắp xảy ra và diễn biến sau đó ra sao đều có thể biết trước thông qua sự báo tin của âm tướng, vô hình trung có thêm được nhiều trợ thủ đắc lực. Đồng thời âm tướng cũng có tác dụng cảnh báo, hễ có việc hung ác sắp xảy ra, đều có tin tức báo trước, người tu đạo thông linh đều có thể biết được. Hơn nữa, âm tướng còn có tác dụng hộ trì chính pháp, khi có tà linh xâm nhập, có thể chống đỡ được một phen.

Tuyên bố của Lư Thắng Ngạn: Phương pháp mượn âm tướng này thoạt nhìn có vẻ đơn giản, nhưng thực ra không nhiều người biết cách sử dụng. Phần lớn các thầy bói chỉ biết mượn quỷ binh, mượn linh đồng, mà không biết đến việc mượn âm tướng. Mượn âm tướng là chính pháp chân truyền, nếu dùng đại pháp để cầu thì ắt sẽ thành công. Điều quan trọng nhất là người mượn âm tướng phải là người thông linh, nếu không phải người thông linh thì không thể nhận được chỉ dẫn của âm tướng, và nếu không hiểu được chỉ dẫn của âm tướng thì dù học được phép này cũng vô ích.

Nếu lợi dụng âm tướng để làm điều xấu ác, trời tất khiển trách, năm sét đánh đỉnh đầu, vĩnh viễn đọa địa ngục, không được luân hồi, tội này rất nặng vậy.

31. Linh cảm trước khi chết

Khoa Triết Đại học Đài Loan, một cô gái ký tên là "Huệ" gửi đến một lá thư, cô ấy đầu tiên nhắc đến thầy Dương Chính Hà, người thường giới thiệu sách tâm linh của tôi. Sau đó cô ấy kể về bạn trai Giang Trọng Sơn, sinh viên thực tập năm thứ bảy khoa Y Đại học Đài Loan. Bạn trai cô ấy đã mất, trước khi chết, cả cô và cha của người đã khuất đều có linh cảm.

Cô ấy viết: "Bạn tôi Giang Trọng Sơn, sinh vào giờ Dần ngày 28 tháng 2 năm 1952, hiện là sinh viên thực tập năm thứ bảy khoa Y Đại học Đài Loan. Năm nay, vào ngày 29 tháng 6 âm lịch, anh ấy rủ tôi đi câu cá. Tôi không thích câu cá vì đó là sát sinh, nhưng anh ấy hứa sẽ thả hết số cá câu được. Sáng sớm hôm đó, tôi nằm mơ thấy một điềm xấu, trong mơ tôi đứng bên bờ sông, đối diện là một ngọn núi, trên núi có một con đường dẫn thẳng lên đỉnh, lúc đó, tôi thấy trên đỉnh núi có một tảng đá lớn, trên đó khắc ba chữ "Tam Vong Nhân", trong mơ dường như có người cứ nói với tôi rằng sẽ có ba người chết, sẽ có ba người chết, nhưng tôi cứ lắc đầu không tin."

"Cha của Giang Trọng Sơn sáng sớm hôm đó cũng nằm mơ thấy nước lũ tràn ngập, có một người đang gào thét cầu cứu trong dòng nước. Tỉnh dậy, ông linh cảm điều chẳng lành nên vội gọi điện đường dài từ Tân Trúc đến Đài Bắc. Cuộc gọi đầu tiên đang nói chuyện thì bị ngắt, lần thứ hai gọi được thì tôi và Giang Trọng Sơn đã ra khỏi nhà. Chúng tôi đi cùng em họ và bạn học của Giang. Đến Tiểu Thô Khanh ở Tân Điếm, bắt đầu câu cá, đến khoảng 10 giờ, trời nóng, em họ của Giang Trọng Sơn cởi áo xuống nước bơi, bơi sang bờ bên kia, sau đó Giang Trọng Sơn cũng cởi áo xuống nước. Tôi định ngăn cản, nhưng họ đều biết bơi và đã từng bơi qua lại nhiều lần. Giang Trọng Sơn bơi đến giữa sông, bỗng nhiên tôi thấy anh ấy không thể bơi nổi, tôi hét gọi em họ ở bờ bên kia, em họ lập tức nhảy xuống nước cứu, nhưng khi bơi đến nơi thì anh ấy đã chìm. Một tiếng rưỡi sau, nhân viên cứu hộ từ Tân Điếm đến vớt anh ấy lên thì đã tử vong. Có một điều rất trùng hợp là hôm đó trời nóng, sông Tân Điếm có tổng cộng ba người chết đuối."

Cô ấy lại viết với tâm trạng đau buồn: "Khi còn sống, anh ấy không tỏ thái độ gì về việc tôi tin Phật, khi tôi nói về nhân quả luân hồi, anh ấy cũng không phản đối hay tán thành, chỉ nói là quá bận, còn trẻ. Ai ngờ được sinh tử là việc lớn, đâu thể chờ đợi, vô thường ngày mai, ai có thể biết trước? ... Ngày tang lễ, tôi mua kinh 'Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Trọng Nan Báo' để tặng mọi người, mong bù đắp những lỗi lầm trong đời. Nhưng khi nghĩ rằng sinh tử mỗi người tự chịu, không ai có thể thay thế, lòng tôi lại đau đớn không nguôi, ngày đêm suy nghĩ, không biết giờ linh hồn anh ấy về đâu? Bây giờ anh ấy ra sao? Tôi rất muốn biết."

Khi nhận được lá thư này, đúng lúc tôi đang viết cuốn "Sức mạnh huyền bí", tôi đã hồi âm và hy vọng cô ấy có thể trực tiếp tìm gặp sư phụ khai ngộ của tôi, bà Lâm Thiên Đại ở điện Từ Huệ Đường Thạch Bích, Hoa Liên. Còn về phần mình, do có việc cần phải tịnh tu ba năm, từ lâu đã không thể phụng sự và giúp đỡ người khác được nữa, vì vậy trong thư hồi âm tôi cũng đã xin lỗi tất cả những người đã gửi thư đến.

Phần lớn mọi người đều có linh cảm trước khi chết. Một ngày trước khi Giang Trọng Sơn qua đời, bạn gái anh đã mơ thấy ba người chết trên núi ở đường quốc lộ Bắc Tân, và giấc mơ của cha anh Giang Trọng Sơn có thể nói là một linh cảm qua giấc mơ. Tuy nhiên, đó chỉ là những linh cảm trong mơ mà thôi. Ở Đức có một giáo viên trẻ, một hôm đang ngồi viết trong phòng làm việc, bỗng cảm thấy buồn ngủ, nên anh tựa đầu vào ghế nghỉ ngơi. Lúc này, anh thấy then cửa xoay động, cửa nhẹ nhàng mở ra, một cụ già ăn mặc như nông dân bước vào nhà. Cụ già đó không ai khác chính là cha anh đang sống ở nông thôn cách đó cả trăm dặm. Cha anh bước vào phòng làm việc, gật đầu mỉm cười với anh, rồi lật sách, ngồi xuống chiếc ghế trước mặt anh. Lúc này người giáo viên trẻ muốn cử động nhưng không thể nhúc nhích được, chỉ thấy cha mình mặc bộ quần áo làm đồng, trong túi áo trái có cắm một cây bút chì. Cha anh ngồi một lúc rồi đứng dậy, lại gật đầu với anh một lần nữa, kéo cửa và quay người bước đi.

Khoảng một phút sau khi cha anh bước ra khỏi cửa, cơ thể anh mới có thể cử động được. Anh đi đến kiểm tra cửa thì thấy cửa vẫn còn khóa từ bên trong, người ngoài không thể nào vào được. Hơn nữa cửa vẫn còn khóa, vậy chuyện vừa xảy ra có phải là ảo giác không? Tại sao bỗng nhiên anh lại buồn ngủ, rồi đột nhiên không thể cử động được, chỉ còn cảm giác mà không thể động đậy? Anh nhìn đồng hồ, mới chỉ là 10 giờ sáng, theo lý thì không thể buồn ngủ được!

Chiều hôm đó, một bức điện tín đến báo tin cha anh đang ở ngoài đồng thì bị đột quỵ qua đời. Anh vội vã về nhà và hỏi rõ thời điểm cha mất, đúng là vào khoảng 10 giờ sáng, và cha đang mặc bộ quần áo làm đồng. Khi tìm thấy bộ quần áo làm đồng của cha, trong túi áo trái quả nhiên có một cây bút chì.

Câu chuyện ngắn này là có thật, đó là một linh cảm về cái chết.

Theo tôi được biết, do sự ràng buộc của nhân quả, nên có thế giới luân hồi và linh hồn. Trước khi chết, con người thường phát ra một tín hiệu gấp gáp, tín hiệu này truyền đến người thân mà họ quan tâm. Người thân khi nhận được tín hiệu đặc biệt này sẽ có linh cảm hoặc dự cảm thông qua những giấc mơ huyễn. Còn về việc trong quá trình sống, vận mệnh con người bỗng xuất hiện điềm hung, những linh cảm như thế cũng có. Tuy huyền bí và khó hiểu, nhưng điều này thực sự tồn tại trong thế giới của chúng ta.

Tôi nói, tôi là một người có khả năng linh cảm. Tôi cho rằng đó là vì hoạt động tâm linh của tôi vượt trội hơn người thường. So với người bình thường, tôi gần gũi hơn với thế giới tâm linh, có thể giao tiếp với họ nhưng không bị họ kiểm soát. Tôi trở thành con người hiện tại là nhờ một cơ duyên và quá khứ kỳ diệu, những điều này đã thúc đẩy tôi viết sách về tâm linh.

Trước khi chết có linh cảm không? Nếu nghiên cứu kĩ, phần lớn đều có.

32. Âm dương học và khoa học

Khi chìm đắm trong nghiên cứu về khoa học tâm linh, tôi phát hiện ra rằng trong thời Trung Quốc cổ đại có một nhóm người được gọi là âm dương gia, và kiến thức họ nắm giữ chính là âm dương học. Môn học này bao trùm từ thiên văn trên trời đến địa lý dưới đất, thậm chí cả khoa học nhân văn, không thiếu một lĩnh vực nào. Trong lần đầu nghiên cứu về âm dương học, tôi nhận ra rằng hai chữ âm dương thực sự là thuyết tương đối cổ xưa nhất của Trung Quốc, khám phá này khiến tôi vô cùng kinh ngạc và cảm thán. Tôi nghĩ: "Trí tuệ của người Trung Quốc vượt xa người nước ngoài, từ thời cổ đại nước ta đã có thuyết tương đối, chỉ là chưa được truyền bá và phát huy rộng rãi mà thôi. Tinh thần sáng tạo của người Trung Quốc là hàng đầu, nhưng tinh thần thực tiễn thì còn kém một chút, nếu không thì khoa học kỹ thuật của chúng ta đã không tụt hậu so với người khác. La bàn, thuốc súng, kỹ thuật in ấn đều là những phát minh cổ xưa nhất của nước ta! Phải nhanh chóng đuổi kịp người ta thôi, phải nhanh chóng đuổi kịp người ta thôi."

Theo tôi hiểu, âm dương học là một quan niệm vô cùng vĩ đại, không phải là một loại huyền học, mà là một khái niệm rất khoa học, khái niệm khoa học này chính là phép nhị phân, một trong những quy luật của thuyết tương đối. Tuy nhiên, trong âm dương học còn có ý nghĩa sâu sắc hơn của phép nhị phân, ý nghĩa này bao hàm mọi khái niệm khoa học, và tinh thần biến hóa vô cùng của nó nằm trong đó.

Hai chữ "âm dương" là sự thống nhất của vũ trụ, là tinh thần Thái cực của Đạo gia Trung Quốc. Nói đến âm dương tức là nói đến vũ trụ, ẩn dụ lớn về không gian và thời gian vô tận, thậm chí vượt khỏi không-thời gian, vượt khỏi hiện đại, đó cũng là một môn học về tương lai! Vì hai chữ "âm dương" bao hàm cả vũ trụ, nên về mặt nhận thức, mỗi khi chúng ta thấy một vật, đều có thể dựa vào tinh thần khoa học để phân định âm dương của nó.

Lấy ví dụ: Trời là dương, đất là âm; mặt trời là dương, mặt trăng là âm; ban ngày là dương, ban đêm là âm; nam là dương, nữ là âm; núi cao là dương, thung lũng thấp là âm; động là dương, tĩnh là âm... vân vân. Vạn sự vạn vật trên đời đều có thể được phân chia theo phép nhị phân âm dương học. Dưới đây là phân tích chi tiết về phương pháp này:

Thứ nhất, phương pháp phân chia sáng tối -- Nói chung, khi gặp ánh sáng, ta gọi là dương, khi gặp bóng tối, ta gọi là âm. Vì vậy ban ngày được gọi là dương, ban đêm được gọi là âm; mặt trời là dương, mặt trăng là âm; do đó nơi ánh nắng chiếu vào trong nhà được gọi là dương đài [ban công], nơi ánh nắng không chiếu tới được gọi là âm địa. Nói chung, nhà ở nên cân bằng âm dương, sống trong nhà cân bằng sẽ bình an hơn, nếu chênh lệch quá nhiều thì hoặc là quá mãnh liệt, hoặc là âm khí nặng nề. Vì vậy, phép phân chia ánh sáng và bóng tối cũng là một phần của "học thuyết màu sắc".

Thứ hai, phương pháp phân chia động tĩnh -- Nói chung, trạng thái động là dương, trạng thái tĩnh là âm. Vì vậy không gian hoạt động của người sống là dương gian, không gian tĩnh lặng của ma là âm gian. Nước chảy là dương thủy, nước đứng là âm thủy. Núi tĩnh lặng nên thuộc âm. Từ sự phân chia động tĩnh này mà có điện dương và điện âm, và còn nhiều sự phân biệt khác nữa. Nếu lấy một gia đình làm ví dụ, bếp có lửa, là động, thuộc dương; phòng khách người thường đi lại thuộc dương; còn phòng ngủ người thường nằm nghỉ tĩnh lặng nên thuộc âm. Còn về phòng kho, những nơi không có sự chuyển động, đều thuộc âm. Vì vậy khi phân tích sự cân bằng động tĩnh, nhà ở sẽ được bình an, nếu chênh lệch quá nhiều cũng là điềm báo bất an. Do đó "động tĩnh học" có thể được ứng dụng thành "cơ khí luận".

Thứ ba, phương pháp phân chia to nhỏ cao thấp -- Chúng ta thường xem cái to là dương, cái cao là dương, còn cái nhỏ là âm, cái thấp là âm. Vì vậy núi cao trở thành dương, dòng nước trở thành âm, mặt trời là dương, trái đất là âm. Phương pháp phân chia này cần có hai sự vật cùng so sánh mới có căn cứ. Tương tự, trong một ngôi nhà, cách bài trí cũng phải hài hòa giữa to nhỏ cao thấp. Ví dụ khi chụp ảnh chân dung, nếu bức ảnh quá to mà người trong ảnh lại quá nhỏ thì sẽ mất cân đối. Do đó, sự hài hòa giữa to nhỏ cao thấp chính là "mỹ học" và "quan điểm nghệ thuật" trong học thuyết âm dương của vũ trụ.

Thứ tư, phương pháp phân tích tổng hợp -- Thực ra, trong phép nhị phân của âm dương học còn có những cách phân chia chi tiết hơn. Ví dụ, nam là dương, nữ là âm, nhưng rất hiếm khi có người nam thuần dương hay người nữ thuần âm. Vì vậy đàn ông cũng có biểu hiện tính âm, và phụ nữ cũng có biểu hiện tính dương. Cơ thể con người có 70% là nước, mà nước có tính axit (dương tính) và tính kiềm (âm tính). Từ đó có thể thấy "trong âm có dương" và "trong dương có âm" là một sự thật không thể phủ nhận. Cơ thể người có nhiệt độ (dương tính), có thành phần nước (âm tính), hai yếu tố này cân bằng với nhau để duy trì thân nhiệt ổn định. Nếu mất cân bằng tức là bệnh tật, bệnh tật chính là sự mất cân bằng, rõ ràng là do âm dương trong cơ thể mất cân bằng mà ra. Vì vậy, âm dương học cũng chính là y học hiện đại.

Thứ năm, phương pháp phân chia theo thuộc tính -- Tôi cho rằng nếu có được khái niệm âm dương học, sẽ rất có lợi cho khoa học, tuy nhiên không nên cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Ví dụ như khi xét núi sông theo độ cao thấp thì núi là dương, nước là âm; còn khi xét theo động tĩnh thì núi là âm, nước là dương. Chúng ta cần xem xét dựa trên điểm xuất phát nào, như vậy mới không sai. Thậm chí với nguyên tử nhỏ bé nhất, ta cũng có thể xem hạt nhân nguyên tử là dương, điện tử là âm. Như vậy, âm dương học chẳng phải chính là khoa học vũ trụ hay sao?

Cuối cùng, tôi cho rằng khoa học hữu hình thuộc dương, trong khi khoa học tâm linh vô hình thuộc âm. Nền tảng của học thuyết âm dương được xây dựng trên sự hài hòa lẫn nhau, vì vậy khoa học và tâm linh học cần phối hợp một cách hoàn hảo, đó mới thực sự là cảnh giới "tâm-vật hợp nhất". Nếu không có sự hài hòa này, chiến tranh trên thế giới sẽ khó tránh khỏi. Con người hiện đại tôn sùng khoa học, coi nhẹ tâm linh học, kết quả là đánh mất tâm hồn con người, chỉ còn hưởng thụ vật chất mà đánh mất đi ánh sáng trí tuệ tinh thần của nhân loại.

33. Con mèo nhỏ ở Đại Thành

Vào một ngày hè, tôi nhận lời mời đến huyện Chương Hóa, xã Đại Thành để xem phong thủy hai ngôi mộ cho một người bạn họ Thái. Anh ấy tự lái chiếc Mercedes 280, còn bốn học trò của tôi là Liêu, Trịnh, Trương và Tăng thì đi xe du lịch theo sau. Hai chiếc xe đi qua Chương Hóa đến Khê Hồ, rồi từ Khê Hồ đến Nhị Lâm, từ Nhị Lâm đến Đại Thành. Đi theo con đường bên trái trường tiểu học Đại Thành xuống là đến một nơi gọi là Thất Tinh Pha, đây chính là khu nghĩa trang của người dân địa phương. Theo lời đồn của người dân Đại Thành, Thất Tinh Pha vốn là một vùng đất bằng phẳng, nhưng vào một đêm nọ cách đây vài năm, đất bỗng nổi gió xoáy, một lượng lớn cát bay từ nơi khác đến, chỉ sau một đêm đã biến thành một ngọn đồi lớn. Qua quan sát kỹ lưỡng của tôi, chất đất ở đồi này quả thật có nhiều cát.

Từ bên cạnh một ao nước lớn, đi đến phần mộ của cha họ Thái không xa lắm. Tôi bảo học trò đặt la bàn xuống rồi quan sát ngôi mộ và nói: "Ngôi mộ này nên dời đi, bởi vì Càn, Ly, Khảm, Khôn là bốn quẻ dương, còn Cấn, Tốn, Chấn, Đoài là bốn quẻ âm. Hướng âm cần bốn đường nước âm mới tốt, nếu gặp bốn đường nước dương sẽ xấu. Hướng dương cần bốn đường nước dương mới tốt, nếu gặp bốn đường nước âm sẽ xấu. Hiện tại quẻ đang đứng hướng dương, nhưng lại dùng nước âm, như vậy ở bên phải ắt sẽ xảy ra việc tổn hại nhân đinh (người chết), vẫn nên dời đi thì tốt hơn."

Ông Thái nghe tôi nói xong, gật đầu: "Đúng vậy, cách đây hai năm, một đứa con đang học đại học, về nhà tắm rửa, bị ngạt khí gas trong phòng tắm mà chết, đó là một việc vô cùng bi thảm, cho đến nay, mọi người vẫn còn nhớ mãi. Nó học hành giỏi giang, người phong nhã tuấn tú, giao thiệp rộng rãi, khi an táng, các bạn học của nó đều đích thân khiêng quan tài! Việc đã xảy ra rồi, hối hận cũng không kịp, chỉ mong các con khác không còn chuyện gì nữa."

Tôi tiếp tục quan sát phần mộ của bà nội họ Thái. Ngôi mộ được xây dựng bên cạnh ao nước, có thế cục "cua lông xuống nước", phía trước mộ có một nửa được xây trên ao nước, phương hướng và cửa nước của thế cục này đều không có gì sai sót. Sau khi xem xong cách cục này, chúng tôi đi dạo quanh đó. Người bạn họ Thái muốn nhờ tôi chọn một mảnh đất cho cha anh ấy. Khi đi ngang qua một căn chòi tranh nhỏ, chúng tôi nghe thấy tiếng mèo kêu "meo meo" vọng ra từ bên cạnh chòi. Tất cả chúng tôi đều chú ý đến con mèo nhỏ đó, nó gầy gò và bé xíu, trông rất đáng thương. Nhưng khi vừa thấy ông Thái, nó lại tỏ ra đặc biệt thân thiết, lập tức chạy đến bên chân ông Thái, cọ qua cọ lại vào chân ông ấy, như thể rất quyến luyến không nỡ rời xa.

Sự xuất hiện của một con mèo nhỏ vốn chẳng có gì đặc biệt, nhưng con mèo cứ bám theo chúng tôi không rời, ông Thái đi đến đâu, nó theo đến đó, kêu meo meo. Khi chúng tôi quay lại ao nước lớn, con mèo cũng theo ông Thái đến bên bờ ao, quãng đường này dài hơn một cây số. Bên bờ ao có vài cây to, trời hè nóng nực, chúng tôi nghỉ chân dưới bóng cây. Trong ao có bốn con trâu đang tắm, kêu "ụm ụm", lúc này con mèo cũng kêu lên, giọng buồn thảm. Tôi chú ý đến con mèo, đôi mắt nó chăm chú nhìn thẳng vào tôi, tôi nhận ra đôi mắt màu xanh trong vắt của nó, như thể có một ý thức muốn nói gì đó đang dâng lên.

Bất chợt, một cách vô thức, từ sự xúc động trong lòng, một ý nghĩ khiến tôi kinh hãi chợt dâng lên - liệu con mèo nhỏ này có lai lịch gì chăng? Thế là, tôi nhắm mắt cầu nguyện, và thấy được con mèo đáng thương ấy hóa thành một chàng trai trẻ, người thanh niên đã ngã xuống trong cơn giãy giụa đau đớn, linh hồn vẫn vương vấn quê nhà, đầu thai vào kiếp mèo, trải qua kiếp nạn nhỏ này rồi sẽ đầu thai sang cõi khác. Ý nghĩ này hiện ra trong lúc cầu nguyện như một sự thật hiển nhiên, làm sao tôi không kinh hãi cho được! Sau khi cầu nguyện xong, tôi khẽ thì thầm với con mèo: "Duyên hết thì tan, sao còn lưu luyến..."

Tất cả chúng tôi đều nhận thấy rõ ràng con mèo muốn đi theo ông Thái về nhà. Ông Thái nói: "Nhặt được con mèo bên đường, có thể đem về nhà không?" Không ai trả lời câu hỏi của ông ấy.

Tôi vốn định buột miệng nói: "Đem về đi!", nhưng nói được nửa chừng thì dừng lại, bởi vì tôi hiểu đây là duyên phận, duyên phận không thể miễn cưỡng, hãy để mọi việc tùy duyên! Con mèo rồi sẽ có duyên kỳ ngộ của riêng nó, dù ông Thái muốn đem nó về, nhưng sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, trong tâm trạng lưu luyến không nỡ, ông đành đặt nó xuống đất.

Con mèo cứ quấn quýt bên chân ông Thái, và ông Thái cũng bế nó lên đến ba lần, bế lên rồi lại đặt xuống, bế lên rồi lại đặt xuống, đây quả thật là vấn đề của duyên phận, vì sao những người khác trong chúng tôi không hề có ý muốn bế nó!

Liệu ý thức trong tâm tôi có đúng không? Tôi đã từng nhắm mắt cầu nguyện, dùng âm nhãn pháp để nhìn thấy quá khứ rõ ràng như tranh vẽ, tôi hy vọng điều này không phải sự thật, trời đất sao mà chật hẹp đến thế! Vì sao trong sự sắp đặt có chủ ý về thời gian, địa điểm, con người, một duyên phận tan vỡ lại nối tiếp một duyên phận tan vỡ khác. Bài viết này, sau khi trở về, tôi vẫn không muốn viết, nhưng tiềm thức cứ thôi thúc tôi phải viết ra, tôi vẫn mãi nhìn thấy đôi mắt của con mèo ấy, nghĩ đến thân hình gầy yếu của nó, từng bước từng bước đi từ bên căn chòi tranh đến bên cạnh ông Thái, và ông Thái không chút đắn đo bế nó lên, đó chính là duyên phận. Tôi muốn nói ra, nhưng lại không thể nói, và hôm nay, không biết con mèo ở Đại Thành ấy còn không?

Viết một bài kệ về việc này:

Nhân duyên hôm nay hoa đang nở, Tất cả thực ra một tay gieo; Gặp gỡ chẳng hay ao nước trong, Ai nỡ cam tâm rơi bụi trần.

34. Giấc mộng lớn ai giác ngộ trước

Khi viết đến đây trong cuốn "Sức mạnh huyền bí", bỗng nhiên tôi được một linh cảm, Thắng Ngạn mừng rỡ rạng ngời, bước ra khỏi phòng đọc sách, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, thốt lên: "Ta đã tỉnh giấc mộng lớn, ta đã tỉnh giấc mộng lớn, ha ha! Cuộc đời chẳng qua chỉ thế, cuộc đời chẳng qua chỉ thế." Sự tỉnh ngộ bất chợt này khiến tôi thoát khỏi khí trọc trần gian, sinh ra một luồng khí thanh, như thể đang độc bước giữa mây trắng, nhìn xuống chúng sinh thiên hạ, và cảm thấy phiêu diêu thoát tục.

Đúng vậy, đời người trăm năm thoáng qua như chớp mắt, và việc tôi thay trời truyền chính pháp là điều biết không thể làm mà vẫn làm, tuy phải chịu muôn vàn tai ương nhưng có ai làm tổn hại được tôi một sợi tóc? Phiền não vốn do mình tự tìm, chi bằng học theo Đào Uyên Minh, thảnh thơi ngắm núi Nam, nghĩ đến đây, lòng rộng mở, mọi oán hận hóa thành vô hình, danh lợi như phân đất, ân oán tựa cơn gió thoảng, đời người chẳng qua chỉ thế, dù có thêm trăm lần tai họa giáng xuống tôi cũng chẳng lay động, ha ha! Tôi đã vượt thoát khỏi cảnh khốn khó, tôi đã hiểu chân lý của vũ trụ càn khôn, tôi cuối cùng đã được tự tại vô ngại, đây mới là niềm vui chân thật, niềm vui vô tận, giấc mộng lớn ai giác ngộ trước, giấc mộng lớn ai giác ngộ trước đây!

Lúc này tôi tự hỏi:

"Lư Thắng Ngạn là ai? Một nhân vật nhỏ bé trong lịch sử, một bộ xương khô nơi hoang dã, một linh hồn cô độc trong cõi vô hình, một người chăn cừu đã dành trọn đời nỗ lực, một người theo thuyết hữu thần, hay cái tên Lư Thắng Ngạn này chẳng có chút ý nghĩa nào? Có lẽ vài chục năm sau, người ta sẽ thấy một bia mộ hết sức bình thường, khắc dòng chữ 'Mộ phần cụ cố Lư công Thắng Ngạn', cỏ xanh mọc um tùm che khuất hai chữ Thắng Ngạn, người qua kẻ lại chẳng để tâm, đầu óc trống rỗng, khi ấy, trời xanh vẫn là trời xanh, đất vẫn là đất. Ha ha! Vậy Lư Thắng Ngạn là ai?"

Lúc này tôi tự hỏi:

"Phải chăng Lư Thắng Ngạn là kiếp sau của Lư Sinh trong giấc mộng kê vàng? Lư Sinh ấy sau khi tỉnh mộng đã vào núi biệt tích. Còn Lư Thắng Ngạn này đã ngộ được cuộc đời ở tuổi ba mươi hai, không cần phải ngồi bên sông Vị học theo Khương Tử Nha câu cá nữa, cứ thuận theo tự nhiên, hân hoan thu xếp đồ câu vào núi sâu. Cũng không cần bắt chước Gia Cát Lượng, biết không thể làm mà vẫn cố làm, lúc lâm chung còn phải cầu sao, chí lớn chưa thành, khom mình đến chết. Ha ha! Khương Tử Nha đâu rồi? Gia Cát Lượng đâu rồi? Lư Sinh đâu rồi? Và Lư Thắng Ngạn này rồi sẽ về đâu?"

Tôi viết kệ rằng:

Một giấc mộng lớn tựa nước trôi, Tranh danh đoạt lợi vẫn chưa thôi Nhìn thấu thế tình thông nhân quả Ngoảnh đầu bật cười tóc bạc rồi.

Viết xong bài kệ này, khi nghĩ đến cuốn "Sức mạnh huyền bí" này vẫn còn nhiều bí pháp chưa được trình bày hết, thật ra không nên dừng lại ở đây. Tuy nhiên, trong các bí pháp có những điều thực sự không thể truyền bừa bãi. Nếu truyền bừa bãi sẽ để lại hậu họa không nhỏ cho đời sau, bởi lòng người cuối cùng chưa thể hoàn toàn thiện. Việc công bố tất cả đại pháp, đối với tôi, là tiết lộ hết thiên cơ, không giữ lại điều gì và hoàn toàn công khai, nhưng những kẻ xấu xa có chủ ý ắt sẽ lợi dụng điều này để lừa gạt người khác. Vì vậy tôi vẫn nên giữ lại một số điều thì tốt hơn, tránh việc xúc phạm khiến trời phẫn nộ. Dù tôi không sợ hãi điều gì, nhưng các vị tiên sư và đạo trưởng cũng có đôi chút e ngại. Cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên vậy! Cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên vậy! Ha ha! Giờ đây tôi đã nhìn thấy mọi việc xa hơn, thông thoáng hơn, và vô cùng hạnh phúc.

Tôi luôn cho rằng, một con người sống giữa trời đất, chịu sự chi phối của ba yếu tố: thứ nhất là thiên cách, thứ hai là địa cách, thứ ba là nhân cách. Nói một cách đơn giản, thiên cách chính là nhân quả, địa cách chính là môi trường, và nhân cách chính là nỗ lực của con người. Ngày nay, muốn sống được phải dựa vào sự nỗ lực không ngừng của bản thân, đó chính là nỗ lực của con người. Còn việc phá vỡ nhân quả và vượt qua môi trường, tuy khó khăn, nhưng người có chí ắt làm được. Thắng Ngạn truyền pháp có thể phá vỡ nhân quả, vượt qua môi trường, đạt đến cảnh giới giấc mộng lớn ai giác ngộ trước. Đến được cảnh giới này, vạn sự buông bỏ, mọi thứ quay đầu thành không, mây trắng chó xanh, trời đất như hạt cải, đến đây, đạo của Lão Tử Trang Tử ẩn trong ngói đất phân đá, cũng có thể lĩnh hội được ý nghĩa chân thật.

"Sức mạnh huyền bí" là tác phẩm thứ 26 của tôi, đã bước được 26 bước trên con đường này rồi. Có người mang đến 200.000 đồng muốn cải thiện cuộc sống cho tôi, tôi mỉm cười từ chối ngay. Có người muốn xây cho tôi một ngôi chùa và mời tôi làm trụ trì, tôi cũng từ chối ngay. Ở Ngũ Cổ, Đài Bắc, có người nhường cả một ngôi chùa cho tôi làm trụ trì, tôi cũng từ chối, bởi niềm vui đích thực của cuộc sống không nằm ở nhiều hay ít tiền bạc, và ngôi chùa của tôi ở ngay trong tâm, không lo không có chùa, chỉ lo không có đạo. Một mình tôi tự tại tiêu dao, chùa ở trong tâm, đi đâu cũng mang theo, sao phải dùng ngôi chùa hữu hình để trói buộc chính mình chứ!

Hiện giờ tôi sống trong một căn nhà nhỏ hai phòng ngủ một phòng khách, ăn rau xanh đậu phụ, mặc đồng phục công vụ, ra đường đi xe đạp cũ, mỗi bước đạp xe là một câu niệm Phật, thật là vô lo vô nghĩ, hạnh phúc biết bao! Tôi không muốn ở nhà cao tầng, không muốn mặc gấm vóc lụa là, không ngồi xe sang trọng, không ăn sơn hào hải vị, chỉ mong có một chiếc chiếu cói, nằm dài trong sân nhỏ, ngắm nhìn tinh tú trên trời, đếm từng ngôi sao lấp lánh.

Giấc mộng lớn ai giác ngộ trước? Vạn pháp vốn không pháp. Lư Thắng Ngạn, ngươi là ai?

35. Sự tái hiện của tiềm thức

(Bức thư quý giá và kỳ lạ này được gửi từ đoạn phía Tây đường Tự Do, thành phố Bình Đông, người gửi ký tên Dục Trí, có căn duyên lớn.)

Kính gửi tiên sinh Thắng Ngạn soi xét. Sau khi đọc tác phẩm về linh học của thầy, tôi không khỏi hoan hỷ và ngưỡng mộ trước thành tựu của thầy. Tôi biết hiện nay thầy đang đóng cửa không tiếp khách, vì người đến thăm đông đảo, thư từ như bông tuyết, dù thầy có tâm Bồ Tát, nguyện lực Địa Tạng, lòng độ lượng như Di Lặc, chắc hẳn cũng không chịu nổi sự quấy rầy, nhất là những khó khăn từ người tò mò và sự quấy phá của kẻ xấu, tôi thực sự thông cảm hoàn cảnh của thầy. Ban đầu tôi thật không muốn chen chân vào đống thư từ để làm phiền việc tu tập của thầy, nhưng tôi có một vấn đề về tiềm thức kỳ lạ đã khiến tôi phiền não từ lâu, mãi không thể giải quyết, vô cùng khổ sở. Dù trên đời có nhiều bậc cao nhân, nhưng chỉ có thầy mới có căn huệ lớn như vậy.

Tâm thức của tôi là như thế này: Tôi có thể nhìn thấy rõ ràng những kiếp quá khứ của mình, biết rõ nhân duyên nào đã đưa mình tái sinh làm người, và làm thế nào để tái sinh - tất cả đều rõ ràng trong tâm trí. Đó là thực hay hư, là trò đùa hay không, thật khó mà khẳng định. Kể ra nghe như chuyện thần thoại, mơ hồ như giấc mộng. Nhưng nếu bảo là hư ảo, thì nó lại rõ ràng như "uống nước lạnh giữa trời đông, từng giọt thấm vào tận tim". Tôi vốn sinh ra đã có tư tưởng xuất thế, cả đời chưa từng gần gũi với người khác phái, về tiền bạc thì càng nhìn thông thoáng, sống chết không vướng bận, tư tưởng hoàn toàn tách biệt với việc mưu cầu danh lợi của người đời nay. Người khéo tôi vụng, người gian tôi thẳng, người xảo trá tôi chân thành, người tranh giành tôi nhường nhịn. Tôi đã chịu không ít thiệt thòi, cũng nhận không ít khinh miệt và sỉ nhục, nhưng tôi luôn thuận theo tự nhiên, giữ lòng thành kính, không để tâm, không so đo, không quan tâm. Bởi trong cõi mờ mịt, dường như có một thông điệp không ngừng nhắc nhở tôi rằng "rời khỏi một bước này, sẽ không có chỗ chết". Trong xã hội cá lớn nuốt cá bé, mạnh được yếu thua này, thật lòng mà nói, thái độ như vậy rất khó để cạnh tranh và tồn tại. Tôi có thể an nhiên tự tại, nhưng người khác thì không. Tiên sinh đã từng bị kẻ xấu hãm hại, nên tôi chỉ có thể chia sẻ kinh nghiệm này, mong rằng chúng ta cùng nhau khích lệ.

Điều tôi biết về nhân duyên kiếp sau như thế này: Kiếp trước tôi định cư tại một nơi (không biết là cảnh giới nào), không có hoa tươi cỏ đẹp, không có xe ngựa cung điện, không có các loại hương thơm vi diệu, không có cờ xí phướn lọng, không có thọ tưởng hành (không dám vọng đoán có hay không có thức), thân tâm tịch diệt, thế giới hiện tiền trước mắt, nội tâm tròn sáng như gương, mầu nhiệm quán sát thế giới, trùm khắp hư không, cảnh giới này không có sự phân biệt người và ta, nhưng mỗi cái đều tùy duyên tác dụng không ngăn ngại nhau, đã không có người và ta, tự nhiên không cần giao tiếp, rõ ràng trong tâm, thông suốt vô ngại. Không có văn tự, không áo không ăn không đi không đến, núi sông đất trời, mặt trời mặt trăng tinh tú, không gì không nằm trong bụng, gió mát mưa rơi, tùy tay vận dụng, tâm vi diệu tác dụng vi diệu, thanh tịnh vô vi, giải thoát tự tại. Đoạn văn này thường xuất hiện trong ý thức của tôi, phải chăng đó là thế giới mà bản thân từng trải qua? Không biết đó là cảnh giới gì?

Có người bảo với tôi (không biết là ai) rằng: "Cảnh giới của ngươi rất tốt, chỉ là chưa rốt ráo. Người kia đã thuận theo nguyện mà xuống rồi! Sao ngươi không xuống, một là để giúp thêm sức cho người ấy, hai là để giúp ngươi thành tựu." Tôi im lặng rồi gật đầu. Đoạn đối thoại này thực ra không phải là đối thoại, vì phải miễn cưỡng dùng văn tự nên tạm viết như vậy.

Thế là tôi để cho ái dục bùng cháy trở lại, khuấy động phiền não, cố ý phá hoại bản thể thanh tịnh, và dần dần mê muội. Đã mê muội thì dần dần hiện ra si mê, tuy vẫn còn có thể dùng trí tuệ để trò chuyện với người khác. Nhớ rằng bỗng có người nói với tôi: "Ngươi đã muốn đầu thai, nhưng chưa biết ngươi muốn làm người giàu có hanh thông hay người nghèo khổ khốn đốn." Tôi đáp: "Làm người bình thường hơi khổ một chút là được!" Thế là tôi đi đầu thai!

Đúng lúc sắp thụ thai, tôi mở con mắt trí tuệ quan sát và biết được rằng kiếp này sẽ nghèo khổ cơ cực, vất vả triền miên không có ngày ra, không hợp với ý nguyện của tôi, nên tôi lấy lại chánh niệm và rút lui. Lúc đó có người nói với tôi: "Người phụ nữ này đã đến kỳ thai nghén, nếu ngươi không hợp ý, chi bằng để nó trôi qua và đợi lần sau?" Tôi đáp: "Được." Rồi tôi thấy một nhóm quỷ nhỏ đứng bên cạnh người phụ nữ, chờ cơ hội xô ngã bà ấy, thai nhi chảy máu và chết, tôi biết đó là một bé trai. Đây là nhân duyên lần đầu tiên tôi không đầu thai thành công.

Tôi luôn ở trong chính định khi trò chuyện với người khác, vì biết rằng việc đầu thai không ảnh hưởng đến trạng thái tĩnh lặng và bất động của mình. Chẳng bao lâu sau, có người nói với tôi: "Người phụ nữ này đã được định sẵn là mẹ của ngươi, nay lại mang thai, ngươi nghĩ sao?" Có người bên cạnh đáp: "Thai này đã có người đầu thai rồi!" Người trước nói: "Không sao, bảo họ rời đi là được!" Rồi quay sang nói với tôi: "Thai này ngũ quan đoan chính, chỉ có điều thời trẻ sẽ vất vả khổ cực, thật chẳng có gì thành tựu, như chiếc thuyền con giữa sóng to gió lớn, không có ngày yên ổn, qua tuổi trẻ mới thuận lợi được." Tôi quan sát thấy đúng như vậy, bèn đáp: "Được thôi!" Người ấy nghe tôi trả lời như thế, không kìm được thốt lên: "Lành thay! Ngươi cứ đi không sao, dù sóng gió có cao, nhưng từ đây gặp hung hóa cát, chúng ta sẽ luôn bảo hộ không để ngươi lạc mất!" Tôi liên tục vái tạ. Trong không trung chợt ẩn chợt hiện, tôi thấy một đứa trẻ (không rõ trang phục) vui vẻ leo xuống thang, có người bên cạnh nói với tôi: "Đứa trẻ này là anh của ngươi." Tôi lại vái tạ lần nữa. Xoay mình đi xuống, trong lòng tràn đầy từ bi, hiền hòa, cung kính, trang nghiêm, mẹ tôi không hay biết tôi đã đến. Sự kết hợp của lục căn lục thức, cho đến khi ra khỏi thai mẹ, mở mắt nhìn thế giới bên ngoài, tai bắt đầu nghe được âm thanh, tất cả đều không quên, rõ ràng trong tâm.

Kính thưa tiên sinh Thắng Ngạn, đây là nhân duyên trước và sau khi tôi đầu thai, có thể làm chứng trước chư thần. Nếu không phải sự thật, thì chắc chắn tôi đã bị rối loạn thần kinh rồi. Tuy nhiên, tôi có thể nhớ rõ ràng nhân duyên ra đời của mình, tâm trí sáng suốt, biết được từ nhỏ, chỉ là cứ thắc mắc trong lòng và cho đó là ảo giác. May mắn có được cuốn sách tâm linh của thầy chỉ đường sáng tỏ, giúp tôi giải tỏa được những nghi hoặc về nhân duyên đầu thai, nếu không thì chắc tôi sẽ thắc mắc cả đời. Trong tâm tôi luôn sáng suốt minh mẫn, không hề tự ti, bình an thanh thản. Thầy đức hạnh cao thâm, chắc chắn có đại năng phá giải những khó khăn của tôi, giải tỏa nỗi thắc mắc khổ sở của tôi. Mong Thầy đừng bỏ mặc tôi, tôi vô cùng biết ơn.

Dục Trí kính thư.

🌟

Câu trả lời của tôi cho bức thư này rất đơn giản, chỉ có mấy câu như sau: Một, cảnh giới này ở cõi trung giới. Hai, nhân duyên của anh không tệ, có thiện căn lớn. Ba, đây không phải ảo giác, mà là sự hiển hiện ký ức tiền kiếp, hãy tự mình thận trọng hành động, cứu nước giúp người, lập chí hướng, để trở về cảnh giới thần linh cao hơn. Bốn, ba năm sau, có duyên tự khắc gặp nhau.

36. Linh động chân thực

(Bức thư này được gửi từ đường Văn Xương, thành phố Tân Trúc, người ký tên là Di Đình. Việc ngồi thiền tạo ra linh động là một minh chứng cho trị liệu bằng tâm linh. Nếu tiếp tục tu đạo, ắt sẽ thành tựu lớn.)

Kính gửi Thầy Liên Sinh. Tôi từ lâu ngưỡng mộ đức độ của Thầy nhưng chưa được nghe lời chỉ dạy, lòng luôn thao thức. May mắn thay, vào tháng Ba âm lịch, tôi được đọc cuốn sách quý hiếm nghìn năm có một "Khởi Linh Học" và các sách tâm linh khác. Từ đó tôi học ngồi thiền không ngừng nghỉ. Vào ngày 27 tháng 3 âm lịch, tôi đặc biệt ngồi thiền khai mở linh cơ, quả nhiên đã xuất hiện hiện tượng linh động. Khi ngồi thiền đúng pháp, đầu lắc trước sau khoảng năm phút, hai tay chắp trước ngực với đầu ngón tay chuyển động lên xuống, ngày nào cũng như vậy. Tiếp đến ngày 11 tháng 4 âm lịch, tôi bắt đầu bước đầu tiên của luyện linh là "trúc cơ". May mắn được ơn trên linh ứng, Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn từ bi ban cho phép luyện thân, thật như mẹ hiền dạy con thơ, từ nông đến sâu: bụng không tốt thì luyện bụng, tay chân yếu thì luyện chạy bộ, khi đã thuần thục rồi thì chuyển sang bài mới.

Hiện nay, tôi đã dễ dàng và hoàn toàn từ bỏ được (sau nhiều lần thất bại) thói quen xấu hơn 30 năm uống rượu. Trước đây, tôi phải uống hai ly rượu mới ngủ được, lâu dần sinh nghiện. Sau khi bỏ rượu, tuy cơ thể tạm thời suy yếu khoảng một tuần, nhưng sau đó ăn uống dần dần tốt hơn, ngủ ngon hơn, sức khỏe hoàn toàn bình phục, mặt mày hồng hào. Nhân lúc có cảm xúc, tôi quyết định cạo đầu để thể hiện quyết tâm một lòng hướng về đạo, tu tập Phật pháp.

Vào ngày mùng 5 tháng 5, thiết nghĩ nhân dịp ngày khai thiên lập địa và lễ Đoan Ngọ một năm chỉ có một lần, dù biết năng lực mình còn non kém, tôi vẫn quyết tâm tu tập pháp môn cảm ứng. Từ ngày Đoan Ngọ trở đi, mỗi sáng 6 giờ, tôi ngồi thiền đúng pháp trong khoảng 45 phút đến 1 tiếng. Ban đầu luyện tập, ánh sáng vàng kim chợt hiện chợt ẩn, sau một tháng, ánh sáng vàng kim trước mắt đã ổn định. Tuy chưa thấy được mây trắng từ xa đến, tôi vẫn giữ tâm kiên định lâu dài, tinh tấn chuyên cần luyện tập, không dám cầu mong quá nhiều, chỉ thuận theo mệnh trời.

Tu tập pháp luyện thân là động, còn tu pháp cảm ứng là tĩnh. Mỗi sáng một tĩnh một động khiến thân tâm sảng khoái suốt ngày, còn hơn cả uống thuốc bổ. Nếu có thể tu tập suốt đời, dù không đủ phước duyên thành đạo, cũng chắc chắn đạt được sức khỏe dồi dào, trường thọ. Ngày sau nếu có thành tựu, đều là nhờ ân đức của Thầy ban cho. Tôi biết rõ sư phụ không thích nhận đệ tử, để tránh quấy nhiễu tâm thanh tịnh vô vi, nhưng những gì tôi đang tu tập đều từ những điều Thầy truyền dạy, làm sao có thể không bái dưới cửa Thầy để tôn sư trọng đạo. Nếu không sẽ trở thành kẻ bội nghĩa vong ân, đáng bị đọa địa ngục, làm sao dám mong cầu giải thoát sinh tử. Tôi năm nay 54 tuổi, xin viết tâm nguyện như sau:

1. Hướng về đạo - Vào tháng 3 năm 1972, tôi bái nhập môn phái Côn Lôn Tiên Tông (tại Đạo Viện Côn Lôn, Kiếm Đàm, Bắc Thị), theo học với sư phụ Thượng Diệu Hạ Chân (tên thế tục là cụ Lưu Bồi Trung, năm ngoái tháng 3 đã viên tịch ở tuổi 93). Khi mới vào cửa học đạo, tôi được học về lục thần thống nhất, thông tam tiêu (cửu chuyển, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần), công phu luyện khí cùng phương pháp dưỡng sinh trong sách của Sư Tôn đều có những điểm tương đồng kỳ diệu, rồi đến công phu tĩnh tam tài hợp nhất, chuyển hà xa (tu luyện ngoại tuyến tam sắc - đỏ, trắng, tím), v.v. Tất cả đều nhờ vào sự tự lực luyện tập chăm chỉ, tuy chỉ học được phần da lông nhưng thân tâm đã được lợi ích rất nhiều.

2. Tự giác - Bản tính thích yên tĩnh, nghiên cứu sâu sắc sự việc, thích vận động thể chất, chịu khó nhẫn nại, một đời bình dị cần kiệm tự túc, làm lợi cho mình và người. Tuy không có công đức lớn để tự an ủi, nhưng cũng không có lỗi lầm hại người lợi mình trái với thiên lý và lương tâm. Từ khi học đạo, thấu triệt rằng danh lợi và dục vọng đều như khói mây, thân tạm bợ khi đói lạnh được no ấm là đủ. Tham dục là đầu mối của vạn điều ác. Đi đúng đạo như nồi niêu điều hòa ngũ vị thành món ngon, con cháu đời sau vạn đời an lành. Trái đạo thì như nước dập lửa, thân bại danh liệt. Người tu đạo lấy tinh-khí-thần làm tam bảo, xem việc mất tinh thần như mất mạng. Về sinh lý đã học được đại pháp vững chắc như thành đồng vách sắt, về tâm lý một khi thấy nữ sắc, đã không phải vì cầu con thì từ tận đáy lòng tránh xa ba dặm! Nay không cầu danh, không tham lợi, không mê sắc, không duyên cờ bạc, không say rượu, thật như Võ thánh vượt năm ải, chém sáu tướng, thông suốt đại đạo.

3. Phát nguyện - Mùa đông năm ngoái, tôi đã mua từ Nhật Bản một máy chiếu tia tổng hợp đỏ, trắng, tím. Người bệnh không cần tiêm thuốc, uống thuốc hay phẫu thuật (ở Nhật, các bác sĩ Tây y ngại thiết bị này cướp mất việc làm nên đã có tuyên truyền ngược). Chi phí năng lượng mỗi ngày chỉ từ 30 đến 80 đồng, có thể chữa trị trăm bệnh và bảo vệ sức khỏe. Nguyên lý điều trị là các tia sáng này chiếu vào cơ thể người, tăng cường "khả năng kháng bệnh" trong cơ thể. Nếu khả năng kháng bệnh trong cơ thể mạnh mẽ thì trăm bệnh tự khỏi. Qua 40-50 năm thử nghiệm tại Nhật Bản, thiết bị này đã chữa khỏi tận gốc nhiều căn bệnh mà Tây y hiện đại cho là nan y như các loại ung thư, suy thận, chấn động não. Thậm chí còn có thể tái tạo xương ếch, tái sinh tinh hoàn gà thiến, cấp cứu các vết thương nặng trong ngoài, phục hồi các chức năng nội tạng suy yếu. Ngoài ra còn có tác dụng giảm đau, ngứa và các triệu chứng khác, thực sự có công hiệu cải tử hoàn sinh.

Từ xưa có câu "Cứu một mạng người, còn hơn xây tháp Phật bảy tầng", công đức thật lớn lao. Nay có thiết bị này trong tay, nếu được các lương y khéo léo vận dụng, muốn tích lũy công đức bên ngoài thì cơ hội cứu người luôn có. Tuy nhiên, lòng người không còn như xưa, cần phải có sự sáng suốt nhận biết trước, những trường hợp có thể cứu, có thể chữa và chữa được tốt thì mới nên ra tay giúp đỡ. Nếu không, gặp phải những người không thể cứu, không thể chữa, hoặc chữa không khỏi do nghiệp chướng, họ sẽ quay lại cắn một miếng, đó chính là tự chuốc họa vào thân. Như hiện nay tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra, thấy người chết mà không dám cứu, chính là vì sợ bị quay lại cắn một miếng vậy.

Than ôi! Nghĩ đến vô số nạn nhân cần được cứu giúp, bệnh nhân đang rên xiết đau đớn chờ được cứu chữa trên thế gian này, nếu có được pháp cảm ứng trợ giúp thì có thể yên tâm thực hiện, việc làm sẽ đạt hiệu quả gấp bội.

Nguyện xin trời thương ban cho pháp cảm ứng cùng với sức mạnh của máy chiếu tia. Tôi nguyện suốt đời thuận theo thiên lý, thành tâm tuân theo đức của trời đất, không tiếc sức lực, đi khắp nơi tìm kiếm người gặp khó khăn cần được cứu chữa để hành đạo, tuyệt đối không vì danh, không vì lợi, chỉ cầu được giải thoát sinh tử, tiến thêm một bước đến quả lành. Nếu có nửa lời dối trá, xin chịu năm sét đánh vào đỉnh đầu.

Tại đây xin thề. Đệ tử Di Đình kính thư.

🌟

Nhận được thư này, viết hai bài kệ cảm thán rằng:

Bài thứ nhất:

Khởi linh quan trọng ở chúng sinh Quả đạo tự nhiên chớ tranh giành Thiên ma giáng thế ưa đấu đá Thành tâm nhẫn nại tụ tinh anh.

Bài thứ hai:

Hy sinh tiểu ngã lui về Bắc Khai tông lập đức giữ quốc gia Thiên lý rạng ngời thần cảm ứng Thu phong thu vũ nở cúc hoa.

37. Yoga thất trùng luân

(Thư này gửi từ đường Nhân Ái, thị trấn Trúc Đông, huyện Tân Trúc, người gửi ký tên Vân Tán, trong thư đề cập đến yoga bảy luân xa, đây quả là một bậc có đạo.)

Xin Đại sư Thắng Ngạn minh giám. Tôi đã mua toàn bộ các cuốn sách tâm linh của Đại sư, đọc đi đọc lại nhiều lần, thật sự là những tác phẩm tâm huyết vĩ đại, giải thích rất chi tiết về mối quan hệ âm dương mà người thường không thể hiểu được, đặc biệt là lộ trình từ khởi linh đến chứng đạo cũng được giải thích rất tường tận, chỉ là người đời có duyên pháp và kiên tâm để tham ngộ hay không mà thôi. Trong cuốn "Khởi Linh Học" của Đại sư, trang 44 có viết "Từ Hải để luân đi lên, từ Hải để luân tiến vào vòng Thổ luân, rồi từ vòng Thổ luân vào vòng Khí luân, rồi từ vòng Khí luân vào vòng Thiên luân, rồi từ vòng Thiên luân vào vòng Không luân, từ vòng Không luân thoát khỏi tam giới hỏa trạch (xuất thần)." Những tên gọi này chắc hẳn là những vị trí nào đó trong cơ thể người, tôi không có tài, chưa hiểu rõ vị trí của những tên gọi mà Đại sư đề cập, vì vậy không dám tùy tiện vận khí và vận linh.

Kính mong Đại sư vẽ một sơ đồ (cơ thể người) và chỉ rõ vị trí cùng tên gọi. Thêm nữa, thế giới Cực Lạc của Đại sư chỉ ẩn trong một hạt thóc, đệ tử chỉ biết mỉm cười, quả thật không hổ danh là bậc tôn sư linh tiên.

Sách "Khởi Linh Học" trang 159 có đề cập đến sư phụ Lưu Bồi Trung - đời thứ 13 phái Côn Lôn, chính là sư phụ của đệ. Đệ đã bái sư nhiều năm, chỉ tiếc là nghiệp chướng sâu nặng, bận rộn với công việc, không thể thường xuyên đến học hỏi. Nay thầy đã quy tiên, trở về cõi tiên, thật đau xót vô cùng. May mắn sư phụ đã truyền lại hai cuốn "Tiên Tông Bí Lục" và một cuốn "Lục Thần Lục Thông", thực sự là con đường sáng để tu đạo chứng quả. Nội dung có hình vẽ và giải thích chi tiết về các huyệt đạo, chỉ là tên gọi các huyệt đạo không hoàn toàn giống với của Đại sư, như ba đường phong thủy hỏa gồm có linh đài, nguyên thần, khí hải, âm kiều, vĩ lư, tiên cốt, giáp cốt, canh niên, ngọc chẩm, huyền quan và ý dẫn đường (thận). Đệ rất trân quý sách "Khởi Linh Học" của Đại sư, nhất định sẽ nỗ lực tu trì, nên mạo muội làm phiền xin Đại sư vẽ rõ sơ đồ cơ thể người và ghi chú tên các huyệt đạo, chỉ vì sợ tu trì sai lệch, nên đánh bạo viết thư quấy rầy, kính mong đừng trách tội.

Trong lúc rảnh rỗi, đệ thích vẽ thủy mặc. Nay may mắn được tham gia cuộc thi tuyển chọn tác phẩm toàn tỉnh tại Trung tâm Giáo dục Xã hội Chương Hóa, có hai bức tranh được chọn (Tùng Diên và Sơn Thủy), sẽ trưng bày công khai từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 8 năm 65. Khi Đại sư có dịp đến Chương Hóa, kính mong ghé thăm và chỉ giáo. Kính chúc pháp hỷ.

Vân Tán kính bái.

🌟

Tôi nhận được bức thư này và xin nói rõ một vài điểm như sau:

Thứ nhất, nói về mối quan hệ giữa trời và người, những gì kết hợp đều giống nhau - trời thì vô cùng vô tận và con người cũng vô cùng vô tận, đây là nói về "tâm", tức là "thiên nhân hợp nhất". Tuy nhiên, nếu con người bị gò bó trong một thân xác nhỏ bé, thì con người sẽ trở nên vô cùng nhỏ bé. Trong vũ trụ có các không luân, khí luân, thủy luân, hỏa luân, thổ luân... còn trong cơ thể con người có xương cốt, nhiệt độ, nước, hơi thở, tâm linh. Điều thú vị hơn nữa là nước chiếm 71% trên Trái đất, và nước trong cơ thể người cũng chiếm 71% tổng trọng lượng, vì vậy thân thể con người chính là một vũ trụ thu nhỏ. Nguyên lý của yoga thất trùng luân vẫn nằm trong sự "thiên nhân hợp nhất" này.

Thứ hai, về yoga bảy luân xa, trên thị trường có một cuốn sách giải thích rất chi tiết mà tôi đã từng đọc, đó là "Kundalini Yoga". Do đã có loại sách này trên thị trường nên tôi không tiện giải thích thêm nhiều. Ngoài ra, trong Đạo gia tu đạo cũng chỉ ra nhiều huyệt đạo trên cơ thể người, điều này có liên quan mật thiết với yoga bảy luân xa. Tuy nhiên, có thể hai bên dùng tên gọi khác nhau nhưng thực chất đều là một, không cần phân biệt quá rõ. (Bảy luân xa là: Hải để luân, Tề luân, Tâm luân, Hầu luân, Mi tâm luân, Đỉnh luân, Phạn huyệt luân.)

Thứ ba, có người nói Đạo chính là sự tĩnh lặng, cũng có người nói Đạo là sự vận động của khí cơ, một bên chủ tĩnh, một bên chủ động. Nhưng thực ra Đạo phải ở giữa động và tĩnh, chính là từ tĩnh tọa mà cầu được bát nhã (trí huệ), và trong sự linh động phát xuất từ trí huệ mà xuất thần (xuất thần ở đây chỉ xuất dương thần, không phải xuất âm thần). Về việc thần tiên chứng đạo, tôi không muốn nói cảnh giới này cao đến mức nào, tôi chỉ nói rằng, khi đạt đến xuất dương thần, được xem là chứng đắc Đạo thứ nhất.

Thứ tư, khi học yoga, có người cho rằng đó là pháp tu Tiểu thừa, không thể xem là Phật giáo Đại thừa. Thực ra, sau khi suy nghĩ lâu, tôi vẫn thấy rằng con đường tu hành phải bắt đầu từ việc tu chính mình, giống như ngọn nến, phải tự thắp sáng mình trước rồi mới có thể chiếu sáng cho người khác! Yoga và công phu Đạo gia Trung Hoa có mối liên hệ rất lớn với nhau, tại sao chúng ta không bắt đầu từ việc dưỡng sinh và rèn luyện thân thể, rồi sau đó mới độ khắp chúng sinh.

38. Người có bàn tay phát quang

(Bức thư này được gửi từ Vancouver, Canada, từ ông Tiêu Đôn. Có một hiện tượng kỳ lạ xảy ra với ông ấy - các nhà nghiên cứu từ phòng nghiên cứu về linh hồn của một trường đại học Mỹ đã chụp được hình ảnh đôi tay của ông, và đôi tay này có thể phát ra ánh sáng.)

Thưa Lư tiên sinh! Xin thứ lỗi cho sự mạo muội khi tôi viết thư này. Bởi vì chúng ta quá xa lạ, và ngài có rất nhiều người ngưỡng mộ, tôi chỉ như một hạt cát giữa biển khơi, chắc chắn khó có thể nhận được sự chú ý của ngài. Tuy nhiên, kể từ khi Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Thế giới Vancouver, ông Lữ Lạc Cửu, và ông Phùng Công Hạ - thành viên ban quản trị, từ Đài Loan trở về đây, mang theo một số tác phẩm của ngài và kể về nhiều hiện tượng kỳ diệu mà họ đã chứng kiến, sau khi được nghe, tôi không thể kìm nén cảm xúc, nên phải cầm bút viết thư để bày tỏ tâm tình. Về việc bức thư này có thể làm tốn thời gian và tâm trí của ngài, kính mong ngài thứ lỗi vạn phần.

Tôi họ Tiêu tên Đôn, là người gốc Hoa sinh ra tại Canada, từ nhỏ đã buôn bán kiếm sống và biết chút ít tiếng Trung. Cha mẹ tôi đều là những Phật tử thuần thành. Tám năm trước, một ngày nọ, khi tôi đang ngồi trong phòng ăn chờ bữa cơm, bỗng nhiên trong tâm thức hiện lên một khoảng trống xa lạ, mọi vật xung quanh dần trở nên xa xăm, trên không trung xuất hiện một tòa cung điện tuyệt đẹp, tôi thấy Quan Thế Âm Bồ Tát quen thuộc, khoác áo cà sa trắng như tuyết, trang nghiêm thiêng liêng đứng trên mây, Ngài đón gió hướng về phía tôi, dùng cành dương liễu phất ba lần lên không trung. Từ đó, sau khi tỉnh lại (như vừa mơ giữa ban ngày), dường như linh khiếu của tôi đột nhiên được khai mở.

Một lần khác trong giấc mơ, tôi thấy một vị đạo nhân mặc áo xanh từ từ hạ thân xuống từ vách núi đá, sau khi tỉnh dậy, tôi đã hỏi ông Ngô Bội Lâm từ Hội nghiên cứu Phật Đạo Chính Thiện. Ông ấy cùng tôi nhập định quan sát và trả lời rằng: "Vị đạo nhân áo xanh chính là linh quang của Tổ sư Lữ Động Tân, linh quang của Ngài sẽ chỉ dẫn cho ông, giúp ông làm công đức cho nhà Phật." Sau hai lần kỳ lạ này, từ đó về sau, tôi càng ngày càng có nhiều tâm đắc về những việc thuộc cõi linh, và phát triển được giác quan thứ sáu. Một số việc trong tương lai hay chưa từng xảy ra, tôi đều có thể thấy trước hoặc dự đoán được, và những điều này đều linh nghiệm một cách khác thường.

Đối với một số bệnh nan y - ví dụ như chứng rối loạn thần kinh giai đoạn đầu, hoặc một số trẻ em bị chứng loãng xương bẩm sinh khiến bác sĩ cũng không thể giúp các em đi lại được, nhưng sau khi tôi chữa trị qua ảnh hoặc từ xa, mỗi ngày sáng tối tôi đều thầm tụng kinh chú trước ảnh của họ, khoảng ba tháng sau, phép màu đã xảy ra, họ đều khỏi bệnh. Đây thực sự là điều kỳ diệu, và những ví dụ như thế này nhiều không kể xiết.

Vì thế, sau khi Hội Phật giáo Thế giới Vancouver được thành lập dưới sự tài trợ và nỗ lực của ông Lữ Lạc Cửu, ông Phùng Công Hạ và những người khác, tôi cũng hân hạnh được làm một trong những thành viên ban quản trị. Mỗi Chủ nhật, ngoài việc mời các cư sĩ thuyết pháp, tôi còn tự nguyện tụng chú Đại Bi gia trì nước và dùng tay chữa bệnh cho các hội viên tại hội Phật giáo. Phòng nghiên cứu về tâm linh của một trường đại học Mỹ đã cử người đến chụp ảnh đôi tay của tôi trong lúc chữa bệnh, và họ phát hiện ra rằng đôi tay tôi tỏa ra ánh sáng mạnh mẽ.

Sau khi đọc nhiều cuốn sách tâm linh của tiên sinh, tôi đã hiểu sâu sắc rằng việc khai mở linh khiếu của người đang sống trên đời này thật không dễ dàng. Như tiên sinh đã nói, nếu không phải là nhân duyên từ kiếp trước còn đó, làm sao có thể được trời ưu đãi? Nếu không có tấm lòng đại từ đại bi, làm sao Phật tổ và chư thần thánh có thể ban cho ta những cơ duyên và cơ hội hiếm có như vậy! Tiên sinh từng nói, tất cả tôn giáo - Đạo giáo, Cơ Đốc giáo, Phật giáo, v.v... đều lấy việc cứu độ nhân sinh làm mục đích. Và người theo đạo Phật, khi làm việc thiện, không cầu danh, không cầu lợi, chỉ mong có thể độ khắp chúng sinh. Sự chân thành ngay thẳng và hành động từ bi của tiên sinh chính là phong thái của bậc quân tử đức độ. Tôi không dám nói là tình cờ mà tôi cũng có cùng tâm đắc với tiên sinh, chỉ có thể nói là có chút tương thông về mặt tâm linh mà thôi. Vì vậy, tôi mạo muội viết thư này, kính mong tiên sinh khi rảnh rỗi có thể chỉ dạy đôi điều. Ngày sau nếu có duyên, nhất định tôi sẽ đến Đài Loan để được nghe lời chỉ giáo.

Kính chúc Phật an. Tiêu Đôn kính bái.

🌟

Khi nhận được bức thư này, tôi chợt nhớ đến ông Lữ Lạc Cửu. Ông ấy đã từ Đài Bắc đến Đài Trung ba lần liên tiếp nhưng vẫn không tìm được tôi, bởi vì lúc đó tôi đã đóng cửa từ chối tiếp khách. Còn về lý do tại sao tôi từ chối tiếp khách, có rất nhiều nguyên nhân, không bàn đến thì hơn. Cuối cùng, tôi được mời đến diễn thuyết tại Viện Lập Pháp, không biết ông Lữ Lạc Cửu nghe tin từ đâu mà đích thân đến nghe. Sau đó, ông ấy đã mời tôi đến Vancouver, Canada để thuyết giảng về tâm linh học tại Hội Phật giáo Thế giới do ông làm chủ tịch. Khi tôi từ Đài Bắc định bắt xe về Đài Trung, có rất nhiều người đến ga tiễn, ông Lữ Lạc Cửu cũng vội vã chạy đến, chúng tôi trò chuyện một lúc, rồi cứ thế chia tay.

Bức ảnh của ông Tiêu Đôn rất chân thực, đó là ảnh chụp ánh sáng phát ra từ lòng bàn tay, ánh sáng không đều, rất sáng và có tính co giãn. Đây là một tấm ảnh về bàn tay có khả năng phát sáng. Hiện nay tại Mỹ, loại máy ảnh này đã được bán ra thị trường, có thể chụp được cường độ ánh sáng trên cơ thể người, có người phát ra ánh sáng mạnh, có người yếu hơn. Đây là bằng chứng về cường độ ánh sáng tâm linh. Có thể thấy trong tương lai, việc con người có khả năng phát sáng từ bàn tay sẽ không còn là điều gì kỳ lạ nữa, và những điều huyền bí này sẽ dần dần được giải mã.

Tôi luôn cảm thấy rằng mọi thứ trong cuộc đời đều phụ thuộc vào duyên phận, sự kết hợp của nhân duyên là điều rất quan trọng. Việc nghiên cứu về tâm linh học của tôi xuất phát từ tấm lòng chân thành. Nếu có người không tin, cứ để họ không tin! Sức mạnh của tôi chỉ đến được như vậy thôi, người tin thì tin, người không tin thì thôi, tin hay không là tùy ở bạn.

Tôi viết một bài kệ, tặng tiên sinh Tiêu Đôn:

Văn hóa đại quốc năm nghìn năm, Trời người tương truyền nhờ thánh hiền; Trong ngoài bốn biển phục quốc vận, Viết sách tâm linh cứu thế gian.

39. Sách tâm linh khiến kẻ ác hối cải

(Bức thư này được gửi từ Đài Trung. Rất xin lỗi, tôi phải giấu tên thật của người viết và giữ bí mật suốt đời cho họ. Loại thư sám hối như thế này, tôi đã nhận được hơn vài trăm bức. Mong trời tha thứ tội lỗi cho những người này, và hy vọng sự hối cải của họ sẽ mang lại ánh sáng thiện lành cho nhân loại.)

Kính xin đại pháp sư Liên Sinh minh giám.

Sau khi đọc tác phẩm vĩ đại của Ngài - những tác phẩm thay trời hành đạo, dù có bao nhiêu người từng ngưỡng mộ Ngài, tôi tuyệt đối không phải là kẻ theo đuôi người khác mà hô hào một cách mù quáng! Lòng ngưỡng mộ của tôi dành cho Ngài xuất phát từ sự tôn kính chân thành trong tâm. Trong cõi mênh mông này, nếu không nhờ sự chỉ dẫn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cùng chư Phật chư Thánh, dẫn dắt tôi quay về với Phật pháp, hướng thiện, tôi đã chẳng bao giờ đụng đến sách của Ngài, càng không thể tĩnh tâm đọc nó. Thế nhưng trong một khoảnh khắc tình cờ, tôi đã bị thu hút, mong muốn đọc một mạch cho hết, rồi còn ra ngoài mua thêm nhiều cuốn khác để đọc. Trước đây, tôi cho rằng kinh Phật hay sách thiện đều chẳng liên quan gì đến mình, chi bằng đọc nhiều sách dạy kiếm tiền còn hơn.

Thật kỳ lạ là, không biết nhờ sức mạnh linh thiêng nào mà sau khi đọc sách tâm linh, nội tâm tôi đã có sự thay đổi rất lớn. Nhìn lại những việc đã làm trong quá khứ, tôi cảm thấy tội lỗi sâu nặng. Tôi đã từng làm ba việc xấu liên tiếp. (Tôi chưa từng nói với ai, và cũng chưa bị pháp luật xét xử. Trước đây, tôi còn tự mãn vì không ai phát hiện ra). Tuy nhiên, khi đọc sách tâm linh, tôi chợt tỉnh ngộ, tự trách mình, nỗi dày vò trong tâm không thể nào diễn tả được. Ở nhà thờ Thiên Chúa giáo hay Công giáo có phòng xưng tội dành riêng cho người ăn năn, để họ có thể thổ lộ tâm tình và được người có trách nhiệm hướng dẫn. Tôi hy vọng một ngày nào đó có thể trực tiếp sám hối với Ngài và được chỉ dạy. Mục đích viết sách của Ngài là để dẫn dắt người khác làm điều thiện, và giờ đây tôi đã quyết tâm sửa đổi, một lòng hướng Phật, làm nhiều việc thiện. Mong rằng lời thỉnh cầu chân thành của tôi sẽ không bị Ngài từ chối!

Trước đây không phải tôi không tin Phật và luật nhân quả báo ứng, mà chỉ vì tôi đang mê muội không tỉnh ngộ. Tôi đã từng trải qua hai phép màu nhiệm của thần linh:

Thứ nhất, tôi từng sống ở ○○ (xin giấu tên địa điểm), cách đây vài năm có một trận lũ lụt ngày 12 tháng 6, đê điều bị vỡ, nước tràn vào, trời mưa không ngớt, mực nước càng lúc càng dâng cao, cả khu vực có nguy cơ bị nhấn chìm. Lúc đó vợ tôi đang sinh, mẹ vợ tôi đến giúp đỡ, bà lập tức tụng chú Đại Bi, khoảng hai mươi phút sau, tôi thấy những đám mây vốn dày đặc bỗng nhiên tan đi, cơn mưa lớn ngừng ngay lập tức, và mực nước cũng rút xuống.

Thứ hai, tôi từng làm việc tại một cơ quan (xin giấu tên), khi đó có một vị trí quản lý bị khuyết, nhưng đã có người được nội bộ chọn sẵn. Trong lòng tôi vẫn luôn mong muốn được nhận vị trí đó, dù thực tế đã quá muộn. Tuy nhiên, tôi đã thành tâm thành ý cầu xin thần linh phù hộ, và thần linh đã đáp lời. Kết quả là người đã được nội bộ chọn sẵn bỗng nhiên bị thay thế không rõ lý do, và cấp trên đã chủ động mời tôi đảm nhận vị trí quản lý đó. Một việc tưởng chừng không thể đã trở thành có thể.

Tôi thừa nhận mình cũng giống như đa số tín đồ, là người theo đạo Phật sùng tín, mắc phải những tật xấu giống nhau, chỉ biết ôm chân Phật khi gặp khó khăn mà thôi. Bình thường thì làm những điều xấu xa đằng sau lưng thần Phật, đến khi có chuyện xảy ra thì vội vã chạy đến chùa, thắp ba nén hương vái lạy cầu xin thần linh phù hộ phát tài, trừ bệnh, gia đình bình an... Rồi hứa sẽ dâng ba loại thịt hoặc năm loại thịt cùng rượu để tạ ơn... Chúng tôi, những kẻ ngu muội này đều nghĩ rằng chỉ cần dâng ba loại rượu thịt là có thể được thần linh phù hộ, thật ra nghĩ lại bây giờ mới thấy đó là việc làm ngây thơ và đáng buồn biết bao!

Sau khi được khai sáng từ tác phẩm vĩ đại của Ngài, kẻ hèn này sẽ không làm điều ác nữa, mà sẽ làm nhiều việc thiện để bù đắp tội lỗi đã phạm trong quá khứ, nghiêm túc nghiên cứu kinh Phật và thành tâm hướng thiện. Mẹ vợ tôi đã từng tự tay chép Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, Bạch Y Thần Chú, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Chú, Đại Sám Hối Văn, Quan Âm Bồ Tát Cứu Khổ Kinh, Quan Âm Linh Cảm Chân Ngôn, Vãng Sinh Tịnh Độ Thần Chú... Bà bảo tôi phải thành tâm tụng đọc, nhưng trước đây tôi đã từng dùng lời lẽ lạnh nhạt chế giễu và vứt sang một bên. Hôm qua, khi tôi nói với mẹ vợ rằng tôi sẽ bắt đầu thành tâm thành ý niệm Phật và nghiên cứu kinh, bà cụ vô cùng phấn khởi, và bản thân tôi cũng cảm thấy vô cùng an ủi.

Ngài từng dạy người ta thành tâm tin Phật và phát nguyện lớn. Từ nay về sau, kẻ hèn này sẽ làm theo lời Ngài chỉ dạy. Ngoài việc không làm điều xấu và tích góp nhiều phước lành, tôi xin phát nguyện rằng: Nếu sự nghiệp chưa thành, tôi sẽ làm những việc thiện nhỏ, ngày ngày không ngừng, tích thiện nhỏ thành thiện lớn. Nếu mai sau sự nghiệp có thành tựu, tôi sẽ giúp Ngài phát dương ánh sáng rực rỡ của đạo Phật vốn có ở Trung Hoa. Tôi cảm nhận rằng Phật giáo trước hết là để độ trời người, nhưng người thực sự hiểu Phật pháp lại quá ít (chỉ biết thắp hương cầu Phật phù hộ), và tác phẩm của Ngài chỉ giới hạn ở những người biết chữ, chưa được phổ cập rộng rãi, nên hiệu quả hoằng dương còn hạn chế. Sau này khi tôi có đủ khả năng kinh tế, nhất định sẽ thực hiện tâm nguyện của Ngài, để Ngài có thể truyền đạo, giúp ngày càng nhiều người tỉnh ngộ, thực sự lĩnh hội chân lý, ai ai cũng hướng thiện, nhà nhà đều có Phật, khiến nhiều người được cứu độ thành Phật, để đạt được mục đích tối thượng của trời là yêu điều thiện và đức hạnh. Tuy lúc này tôi như kẻ ăn mày phát nguyện lớn, nhưng với lòng thành và sự nghiêm túc của tôi, tương lai nhất định sẽ hoàn thành đại nguyện, tôi có niềm tin này.

Kính chúc Phật đạo phát huy rạng rỡ, phổ độ chúng sinh hướng thiện.

○○ thành tâm sám hối kính bạch.

Tái bút: "Tôi từng đến thăm vào tối ngày mồng sáu tháng tám, giữa cơn mưa phùn lất phất, nhưng chỉ thấy trên cửa dán thông báo rằng 'Thầy Lư đã chuyển nhà đi rồi, xin đừng làm phiền người thuê nhà, và cũng xin đừng làm phiền sự yên ổn của hàng xóm.' Tôi hiểu rằng trách nhiệm của Thầy rất lớn, cần chuyên tâm viết sách và tu trì, lại còn có kẻ xấu làm hại, nên tôi đã thấu hiểu đại nghĩa mà quay về!"

🌟

Tôi viết kệ rằng:

Đối diện trời đất thẹn dung nhan Thắng Ngạn mong xây thiện đạo tràng Mong đệ tử cùng đắc chân kiến Tấm lòng thành thật chẳng dối gian.

Trong những bức thư tôi nhận được, có những kẻ lưu manh hối cải, có cả những kẻ lưu manh đang bị quản thúc, có thư gửi từ nhà tù Đài Đông, cũng có cả những kẻ sát nhân, phần lớn họ đều vô cùng thành kính. Những bức thư sám hối này, tôi đều đọc xong rồi đốt đi, xem đó như một sự khích lệ và thước đo cho nỗ lực của bản thân. Còn những người trong thế gian, vẫn còn nhiều người không hiểu được sự tĩnh lặng và dụng ý trong tâm tôi, đây chính là ma chướng của tôi, nhưng hãy cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên.

Viết đến đây, ngẩng mặt lên trời thở dài, tôi lập lời thề nguyện: Nguyện dốc hết sức lực cả đời, đọc khắp kinh thư, đạt được trí tuệ vô thượng, nếu không, thề không thành Phật. Nguyện hiến trọn mình để cứu người, cứu đời, cứu nước, phát tâm từ bi rộng lớn, nếu không, thề không thành Phật. Nguyện độ hết thảy những kẻ ác đã chửi mắng, hủy hoại và đẩy tôi vào chỗ chết, nếu không, thề không thành Phật. Nguyện này đời đời kiếp kiếp, luân hồi bất tận, chư Phật Bồ Tát chứng giám.

40. Linh hồn theo lời kể của nhân sĩ giới y học

Đây là một trải nghiệm mà nhiều bác sĩ phòng cấp cứu đã quá quen thuộc. Một bệnh nhân sau khi được tuyên bố đã chết nhưng bất ngờ tỉnh lại, có thể mô tả những gì xảy ra trong khoảnh khắc cơ thể họ không còn dấu hiệu sự sống - đôi khi kéo dài đến vài giờ đồng hồ. Theo một ghi chép thường được đề cập, bệnh nhân cảm thấy mình lao qua một đường hầm dài và tối, trong khi tai nghe thấy những âm thanh ồn ào. Đột nhiên, họ thấy mình tách khỏi thể xác và kinh ngạc nhìn xuống đội ngũ y tế đang cố gắng cứu sống mình từ trên cao. Họ nghe được những gì mọi người nói, cũng nhận biết được mọi việc đang diễn ra, nhưng không thể giao tiếp với bất kì ai. Chẳng bao lâu sau, sự chú ý của họ bị thu hút bởi những hiện diện khác trong phòng - những hồn ma của người thân bạn bè đã khuất, và họ giao tiếp với nhau bằng cách khác ngoài lời nói. Dần dần, họ bị thu hút bởi một "người ánh sáng" mờ ảo. Người này mời họ đánh giá lại cuộc đời mình và cho họ xem toàn cảnh những khoảnh khắc đáng nhớ trong quá khứ. Bệnh nhân muốn ở lại với "người ánh sáng" này, nhưng họ bị kéo trở về thể xác một cách miễn cưỡng và hồi phục.

◎ Các chuyên gia tiến hành nghiên cứu

Những trải nghiệm "cận tử" này từng bị cho là ảo tưởng và bị bỏ qua, nhưng hiện nay đang được một số bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học nghiêm túc nghiên cứu, nhằm tìm ra manh mối về những hiện tượng xảy ra vào thời điểm cận tử. Tiến sĩ Elisabeth Kübler-Ross, một nhà nghiên cứu tâm thần học về cái chết, đã tuyên bố rằng dựa trên hàng trăm câu chuyện như vậy, bà đã có được bằng chứng về sự sống sau cái chết. Mặc dù các nhà tâm lý học khác cho rằng Kübler-Ross đã quá dựa vào lời kể của những người hấp hối, nhưng quan điểm thẳng thắn của bà gần đây đã làm tăng sự quan tâm của giới học giả đối với các hiện tượng xảy ra ở ranh giới của cái chết.

Trong tám năm qua, trong số các trường hợp mà Kübler-Ross đã thu thập, điều gây ấn tượng sâu sắc nhất với bà là những bằng chứng về ý thức tách rời khỏi thể xác - nghĩa là những người không còn hơi thở, tim ngừng đập hoặc sóng não đã ngừng hoạt động vẫn có thể mô tả những gì đang diễn ra xung quanh họ. Hiện tại, bà đang đối chiếu từng trường hợp với hồ sơ y tế để chuẩn bị xuất bản một cuốn sách vào năm tới. Bà lập luận: "Nếu một phụ nữ đã được tuyên bố tử vong tại bệnh viện mà có thể kể chính xác có bao nhiêu người bước vào phòng và họ đã cứu chữa bà ấy như thế nào, thì đây không thể là ảo tưởng." Mặc dù có một số chi tiết khác nhau trong các ghi chép về trải nghiệm cận tử, nhưng Kübler-Ross cho biết, tất cả bệnh nhân của bà đều mô tả một số trải nghiệm chung: một cảm giác bình an sâu sắc, một cảm giác toàn vẹn về bản thân - ngay cả những người bị đứt chân tay trong tai nạn chết người cũng cảm thấy như vậy, và trải nghiệm được chào đón bởi những người thân yêu đã khuất. Bà nói, do những trải nghiệm này, "nhiều người trong số họ ghét cay ghét đắng nỗ lực tuyệt vọng của chúng tôi để hồi sinh họ. Cái chết là một cảm giác bình an và hy vọng, không ai trong số họ sợ phải chết thêm một lần nữa."

◎ Trải nghiệm đau đớn khi cận tử

Một bác sĩ khác phát hiện rằng trong số 50 người chết do tai nạn, bệnh tật và đột tử vì ngừng tim, họ có những trải nghiệm cận tử rất giống nhau. Theo nghiên cứu của bác sĩ Moody - người có bằng Tiến sĩ Triết học và Y khoa, nhiều bệnh nhân có trải nghiệm về sự nâng cao trí tuệ, và sau khi tỉnh lại, họ có hiểu biết bất thường về quy trình cấp cứu đã được thực hiện để cứu sống họ, khiến các bác sĩ vô cùng kinh ngạc.

Khác với Kübler-Ross, Moody không tuyên bố rằng đã có bằng chứng khoa học về kiếp sau. Tuy nhiên, ông thực sự tin rằng phần lớn những trải nghiệm cận tử không thể được giải thích một cách sơ sài là do ảo giác gây ra bởi các loại thuốc gây đau đớn. Ông nói rằng những câu chuyện này quá rõ ràng và quá giống nhau. Trong cuốn sách phổ biến của ông "Kiếp Sau", ông khẳng định: "Bức tranh về những sự kiện xảy ra vào lúc chết được thể hiện qua các ghi chép này rõ ràng phù hợp với những mô tả trong các tác phẩm cổ xưa và huyền bí mà bệnh nhân của tôi hoàn toàn không biết đến." Đặc biệt, Moody phát hiện ra rằng những trải nghiệm về sự tách rời khỏi thể xác, gặp gỡ với các linh hồn và tiếp xúc với "người ánh sáng" có sự tương đồng rất lớn với những mô tả trong "Tử Thư Tây Tạng".

Một nỗ lực khác nhằm tìm kiếm manh mối về kiếp sau được thực hiện bởi nhà tâm lý học Karlis Osis tại Viện Nghiên cứu Thể chất Xã hội Hoa Kỳ ở New York. Ông đã sắp xếp phỏng vấn qua máy tính với 877 bác sĩ, những người từng báo cáo về việc bệnh nhân của họ kể lại cảnh tượng khi cận tử. Phần lớn các bác sĩ này báo cáo rằng bệnh nhân sắp chết nhìn thấy những hồn ma thân thiện đến đón linh hồn họ. Ít nhất để thỏa mãn chính mình, Osis đã kết luận rằng những bệnh nhân bị tổn thương não do sốt cao hoặc bệnh tật báo cáo ít ảo giác hơn so với những người hoàn toàn tỉnh táo khi chết. Ngoài ra, ông còn cho rằng các loại thuốc giảm đau mạnh như morphine thực tế làm giảm tính nhất quán của những ảo giác này. Osis kết luận: "Giả thuyết về bệnh lý não bộ không thể giải thích được những ảo ảnh này, và cho đến nay, mô thức trải nghiệm sau khi hồi sinh dường như khá nhất quán."

◎ Chờ đợi khoa học chứng minh

Cho dù Kübler-Ross chưa chứng minh được quan điểm của mình, bà đã để lại những hiện tượng mà khoa học hiện đại vẫn chưa thể giải thích đầy đủ. Tiến sĩ Charles Garfield thuộc Viện Nghiên cứu Ung thư Đại học California nói: "Tôi hoàn toàn không đồng ý với quan điểm của Elisabeth. Bà ấy nói rằng những trải nghiệm của bà và tôi trong việc điều trị bệnh nhân hấp hối đã chứng minh đầy đủ về sự tồn tại của sự sống sau cái chết." Garfield còn nói thêm: "Tôi cũng không theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa thực chứng khoa học cực đoan cho rằng những trải nghiệm này chỉ là những lời nói nhảm của bệnh nhân tâm thần, bởi vì tôi thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra, nên tôi thà chấp nhận sự không rõ ràng này."

41. Đạo ắt thắng ma

Đại đức Lư Thắng Ngạn lại xuất bản thêm hai cuốn "Lời tự bạch của linh", sách của ngài thực sự có đóng góp không thể phai mờ trong việc thức tỉnh và giải mê cho đời, khiến cho nhiều người không tin vào quỷ thần và nhân quả báo ứng đều có thể tin rằng trên đời này thực sự có quỷ thần, và cũng có nhân quả báo ứng; đặc biệt là giúp những người không có tín ngưỡng tôn giáo cũng có thể chọn lựa một tín ngưỡng tôn giáo chân chính.

Như trước đây, nhiều đồng nghiệp trong tạp chí rất chú ý và quan tâm đến sách của ngài, bởi vì ngài cũng là người hành đạo, chúng tôi mong muốn thấy ngài thành công, không muốn thấy ngài thất bại, bởi vì chúng tôi vốn không có quan niệm phân biệt tông phái, giống như chúng tôi quan tâm và chúc phúc cho sự thành công của các tôn giáo chân chính khác vậy.

Sự quan tâm của các đồng nghiệp trong tạp chí đối với đại đức Lư Thắng Ngạn là có lý do.

Vào năm ngoái (1975), thầy Lư đã xuất bản cuốn sách tâm linh đầu tiên của mình - "Mạn đàm về linh cơ thần toán". Thầy thẳng thắn thừa nhận rằng trong xã hội này có không ít người có khả năng thông linh, nhưng họ thấy hay nghe được điều gì đều không nói ra, còn thầy ấy thì ngây thơ, viết ra tất cả không giữ lại điều gì. Chính vì sự ngây thơ này mà đáng được tôn kính. Phật từng dạy: "Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục". Vì vậy, thầy Quách và thầy Lý thấu hiểu sâu sắc rằng có đạo ắt có ma, và đạo với ma là đối lập nhau, nên đã chủ động gửi tặng "Tạp chí Minh Đức" cho thầy Lư để làm tài liệu tham khảo cho việc "minh đạo".

Sau đó, thầy Lư lại xuất bản thêm một số cuốn sách, và trong sách của thầy không khó để nhận ra nguyên nhân thu hút ma quỷ.

Người tu đạo ai cũng biết rằng sắc tướng đều là ma, nên nhà Phật rất chú trọng phá trừ sắc tướng. Thầy Lư đã có tướng ngã mạn, tướng phân biệt đúng sai, và còn vướng vào tướng "hữu vi pháp" cùng tướng "lập tông phái", làm sao tránh khỏi ma nạn và thử thách?

Đã có sắc tướng ắt có ma chướng, làm sao tránh khỏi ma khốn? Thầy Lý trong lúc quan tâm, đã nghĩ rằng nếu có thể khuyến khích thầy Lư quy y cửa đức, có lẽ sẽ có lợi cho việc giải trừ ma chướng này, bởi vì "minh đạo" cần phải tự ngộ tự sáng, mới có thể vượt qua ma chướng.

Mùa thu năm ngoái, thầy Lý và tôi đi chơi Đài Trung, khi đi ngang qua khu Thái Bình, tôi chợt nhớ đến chuyện này, bèn đề nghị ghé thăm thầy Lư. Thầy Lý vui vẻ đồng ý, và chúng tôi đã lấy việc thỉnh giáo Đạo pháp làm cớ để làm quen với thầy Lư.

Kể từ đó, thầy Quách và thầy Lý thường nói chuyện với chúng tôi, rằng thầy Lư chắc chắn sẽ quy y đạo đức, và chỉ ra rằng mọi việc đều có nhân quả. Giữa "nhân" và "quả" có một sức mạnh của "duyên" đang kéo dài, như việc thầy Lư xuất bản sách tâm linh là nhân, tạp chí chúng tôi chủ động gửi tặng tạp chí cho thầy ấy là quả; việc thầy Lư gặp ma chướng là nhân, thầy Lý quan tâm đến thăm thầy là quả; việc tạp chí của chúng tôi giúp thầy Lư "minh đạo" là nhân, thúc đẩy sự hiểu biết của thầy về Thiên Đức Thánh Giáo là quả; việc thầy Lư được mời đến phòng họp thứ hai của Viện Lập Pháp diễn thuyết và quen biết với cụ Vương Đức Phổ là nhân, dẫn đến việc thầy quy y Thiên Đức Thánh Giáo là quả; tất nhiên giữa "nhân" và "quả" này có sức mạnh của "duyên" đang dẫn dắt, khi sức mạnh này được dùng vào việc tốt thì là thiện duyên, dùng vào việc xấu thì là ác duyên.

Qua một số cuốn sách tâm linh của thầy Lư, không khó để nhận ra tâm trạng của thầy, đây đều là những lời tự bạch đau khổ của một hành giả đang chịu ma khảo.

Gần đây, trong thư gửi cho tôi, thầy Lư viết: "Thắng Ngạn đã không còn sợ hãi trước ma khảo nữa." Điều này khiến nhiều đồng nghiệp trong tạp chí rất vui mừng. Chúng tôi xin kính cẩn nói thêm rằng, cao ngạo, đúng sai đều không phải là chân thật, tất cả pháp hữu vi đều là hư vọng, nay xin kính cẩn trích dẫn lời dạy của tôn sư Cổ Phật vô hình đã chỉ dạy thầy Lư như sau: "Vì vậy, hãy giữ tâm hư vô, từ bỏ mọi tướng hữu vi, tận tâm làm tròn đạo làm người, thực hành đức trời, đây là con đường chính thống để đắc đạo, ngoài ra không còn gì để cầu cạnh." "Sắc tướng đều là ma đạo, pháp hữu vi không phải là chính pháp." "Khởi linh không bằng khởi tâm, tu linh không bằng tu tâm." "Bên ngoài dùng hai mươi chữ để giữ thân, bên trong dùng sự phản tỉnh để khởi tâm."

Tôi tin sâu sắc rằng thầy Lư là một người có trí tuệ cao và đạo tâm kiên định. Với chính kiến và lòng dũng cảm, thầy đã phá bỏ được những rào cản giữa các tông phái tôn giáo. Do đó, chỉ cần thầy có thể "minh đạo", tôi tin rằng thầy nhất định sẽ chiến thắng được ma chướng. Chúng tôi xin chúc phúc cho thầy.

(Hết.)

Mục lục