Thông linh bí pháp thư
🪷 Đại công khai Đạo pháp
Văn tập: 040 Xuất bản: 12/1982 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Mười tám đóa hoa sen ở Ma Ha Song Liên Trì Đời người thật sự giống như mộng huyễn sao? Luân hồi như mây mù, luôn luôn hư huyễn và che chắn chân diện mục của nhân gian. Chỉ có bậc giác ngộ với khả năng thông linh mới có thể dùng huệ nhãn để nhìn thấu cái ban sơ của trời đất, thâm nhập hiểu rõ cái gọi là "nhân quả kiếp trước" và những diễn biến tâm linh của tương lai. Người tin thì vẫn tin, người không tin thì vẫn không tin, thế nhưng, bất kể có tin hay không thì bạn vẫn nằm trong số lí của trời đất, thứ quyết định vận mệnh của bạn.
Trong thiền định, tôi thấy được kiếp trước của mình, đương nhiên, kiếp trước của tôi không chỉ là một kiếp, mà tôi đã luân hồi hàng trăm kiếp rồi, còn kiếp sớm nhất thì cũng chẳng phải là cảnh giới cao quý gì cả, chỉ là một cảnh giới "tiểu tiên" mà thôi. Cảnh giới này chính là Ma Ha Song Liên Trì, cảnh giới này nằm quanh Tây phương Cực Lạc thế giới, nhưng vẫn chưa đến Tây phương Cực Lạc thế giới.
Ma Ha nghĩa là lớn, Song Liên Trì nghĩa là hai hồ hoa sen. Đương nhiên, đó là một nơi vô cùng vô cùng đẹp, các tiên trời ở đó mặc thần y màu cầu vồng, không vương chút bụi trần. Trong hồ sen cũng có hương thơm thoang thoảng kì diệu, có ánh sáng rực rỡ của ngọc lưu ly bao quanh nơi này. Tâm trạng vui vẻ là cảm giác chung ở đây, giống như là những cơn sóng tuôn trào ra từ tâm hồn của mỗi vị tiên trời. Hiện tượng này cũng giống như ở Tây phương Cực Lạc thế giới.
Ở Ma Ha Song Liên Trì có mười tám đóa hoa sen, mười đám đóa hoa sen phân thành chín và chín, trên mỗi đóa hoa sen có một vị đồng tử đứng ngay ngắn, đồng tử trượng trưng cho sự thuần khiết, có chín vị đồng tử hiện thân nam, chín vị đồng tử hiện thân nữ. Thật ra, cảnh giới này tồn tại đã lâu, thuộc về cảnh giới bất thối chuyển, hiện thân nam hay hiện thân nữ là tượng trưng cho số lý chứ không quan trọng nam nữ âm dương.
Trong thiền định, tôi trông thấy Liên Hoa Đồng Tử màu trắng tay cầm hoa sen trắng, Liên Hoa Đồng Tử màu vàng kim tay cầm hoa sen vàng kim, Liên Hoa Đồng Tử màu đỏ tay cầm hoa sen đỏ, Liên Hoa Đồng Tử màu đen tay cầm hoa sen đen, thậm chí là hoa sen phóng quang, ánh sáng rực rỡ lấp lánh, khiến cho thế giới ở nơi đây tự nó đã trở thành vương quốc hoa sen. Ngoài Tây phương Cực Lạc thế giới ra, Ma Ha Song Liên Trì này cũng là cảnh giới hạnh phúc có linh quang Phật Bồ Tát chiếu khắp. Thậm chí, cảnh giới này vốn là linh quang của Phật hóa hiện ra, là Phật Tổ Vô Tà Nhãn chuyển hóa.
Vì sao là cảnh giới bất thối chuyển mà vẫn chuyển thế làm người? Mười tám Liên Hoa Đồng Tử thuần khiết vì du lịch khắp thập phương Phật quốc, đã đến Quang Âm Thiên Giới, nên đã theo thiên nhân của Quang Âm Thiên Giới và thiên nhân của Tứ Thiên Vương Thiên cùng đến chuyển thế tại nhân gian giống như sao đổi ngôi vậy. Đó chính là bài thơ của Đỗ Công Bộ: [ ND: Đỗ Công Bộ, tức Đỗ Phủ, dưới đây là trích đoạn trong bài thơ "Tiễn Khổng Sào Phủ hết bệnh về chơi Giang Đông, cùng đi với Lý Bạch". ]
Vốn dĩ thân anh mang tiên cốt Thế nhân nào biết được nguyên do Tiếc anh một mực mong níu giữ Phú quý mong manh như cỏ sương.
Mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử này chính là vị có duyên với tôi kiếp trước, tìm tìm kiếm kiếm trong chốn nhân sinh, hợp tan dường như là định số, hữu duyên thì tự nhiên sẽ gặp nhau, vô duyên hay không có duyên thì cũng giống như phù dung sớm nở tối tàn. Giờ đây, sau khi tôi có được linh giác, tôi tĩnh lặng quan sát vạn vật đều tự thấy, người biết về định mệnh so với người bình thường thì thông suốt hơn. Cố nhiên, thiên tính vui vẻ hay âu sầu thì dường như đều tạo nên một nửa cuộc đời, nhưng, người có cái nhìn thông suốt điềm đạm thì cũng có thể coi là dòng suối mát của tâm hồn, gột rửa những muộn phiền của thế tục.
Giờ đây, tôi mới chỉ tìm được hai người mà thôi. Một người là Lâm Mặc Nhân tay cầm hoa sen màu vàng kim. Một người là Trần Tước Viên tay cầm hoa sen màu đen. Đây không chỉ là gặp người quen nơi đất khách, mà còn là cố nhân nơi tiên cảnh đã đến rồi. Niềm vui ấy là quá đỗi rõ ràng.
Trong cuốn sách này, tôi sẽ công bố một vài pháp môn tu hành. Một vài phương pháp tu hành trong cuốn sách này vốn là mật truyền, người có đức, người nhân từ, người trung hiếu thì học sẽ có được lợi ích lớn. Nếu là hàng gian trá tà đạo thì đừng học thì hơn, quỷ thần cấm chỉ, hơn nữa, sẽ còn xuất hiện những sự trừng trị nghiêm khắc vô hình nữa. Hãy nhớ kĩ, nhớ kĩ.
Seattle, Hoa Kì.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Quan sát nguyên thần của mình
Trong quá trình tôi tu dưỡng chân tính, tôi đã từng chịu ma nạn muôn kiếp. Những cạm bẫy chết người lúc nào cũng bày ra dưới chân tôi. Thế nhưng, cuối cùng tôi đã đi qua những hang sâu tăm tối, vượt qua trùng dương trong cuồng phong bão táp, vào những lúc sợ hãi nguy cấp tôi đã có nơi nương náu, có được lòng nhân ái của trẻ thơ, cuối cùng đã không phụ ân huệ của cõi trời, cũng không phụ sự kì vọng của ân sư Tam Sơn Cửu Hầu.
Thường xuyên có những người tu đạo vì cái tên của tôi mà cảm thấy rất khó chịu. Họ cho rằng Lư Thắng Ngạn là tên tiểu bối nơi nào, chẳng biết bí mật của thiên tiên kim đan, cũng chẳng có kế nghiệp thầy, tự sáng lập ra Linh Tiên Chân Phật Tông, lẽ nào không khiến người ta cười đến chết. Họ vặn vẹo tôi thì tôi sẽ hỏi vặn lại họ.
"Anh có biết phương pháp quán nghiệm nguyên thần không?" - Tôi hỏi. "Chưa từng nghe thấy."
"Con người chỉ biết nghi thức Nhương tinh lễ đẩu mà không biết quan sát nguyên thần của bản thân. [ ND: Nhương tinh lễ đẩu là lễ cúng dâng sao giải hạn. ] Giả dụ anh chưa luyện thành kim đan mà đại hạn đã đến trước thì anh làm sao? Cần biết rằng, mỗi một người đều tương ứng với một sao, nếu sao mờ tối thì nguyên thần của người này cũng sắp sửa rời khỏi thế gian rồi. Ý nghĩa của tu đạo nằm ở sự ngang bằng giữa thọ và thiên, chứng đạo thăng thiên, nhập trụ Phật quốc, không chịu luân hồi. Còn nếu như nguyên thần chưa có được cái khí tài hoa thanh tú, chỉ là tăm tối bẩn thỉu thì làm sao mà đắc được." - Tôi nói.
"Cho dù biết nguyên thần của mình tăm tối bẩn thỉu thì làm sao để giải trừ?" "Đó chính là pháp quan sát quán thần Nhương tị." [ ND: pháp Nhương tị là pháp tránh tai cầu an. ]
Rất nhiều người tu đạo thường hay bị tôi hỏi câu này, họ không trả lời được phương pháp quan sát nguyên thần của bản thân. Tu nguyên thần của chính mình như thế nào còn quan sát không nổi thì chẳng phải là đáng buồn đáng thương sao? Còn có rất nhiều người xuất gia, bản thân niệm Phật cả đời cả kiếp, tịnh tọa thiền công, cả đời mong vãng sinh Phật quốc, nhưng nghiệp duyên liên lụy, tạp niệm chưa trừ, một tâm hóa thành mười tâm trăm tâm, tâm trở nên điên đảo, chưa vào Phật quốc mà ngược lại còn đọa âm phủ, việc này cũng có đó. Do vậy, quan sát nguyên thần của chính mình, hiểu được pháp Nhương tị là vô cùng quan trọng.
Bây giờ tôi tường thuật lại phương pháp quan sát nguyên thần như sau: Vào thượng tuần hàng tháng, nhất định phải chọn ngày lẻ, chọn một ngày bầu trời không mây, mặt trời lên cao rất sáng đẹp, gió không mạnh, trước đó bản thân cần ăn chay 49 ngày, vào ngày hôm đó tắm gội, thời gian thì chọn đầu giờ Tị, Mùi, Ngọ. Phải nhớ đứng quay lưng về mặt trời, trước đó cần vẽ một tấm phù Quán thần đặt tại cái bóng ở trên mặt đất trước mặt mình. Sau đó, chính tâm thành ý niệm bảy biến chú Quán nguyên thần, hai mắt nhìn chăm chú vào phù Quán thần, khi niệm chú Quán thần, tay trái kết đẩu quyết, tay phải kết kiếm quyết, đọc bài vè rằng: "Thiên thanh địa thanh, nhật nguyệt giao minh, nguyên thần nhất hiện, bách sự phân minh, ngô phụng Thái Thượng Lão Quân luật lệnh sắc." Niệm xong bảy biến, nhìn chăm chú hồi lâu vào phù Quán thần, rồi ngẩng đầu nhìn trời.
Lúc này, trên bầu trời xuất hiện một vị thần, cao lớn từ đất đến trời, có đầu và tứ chi, đó chính là nguyên thần của mình đó. Hình thần này nếu hiện ra màu đỏ tía, đây là màu sắc của cát tường, thì học đạo chắc chắn thành tiên, làm trai chắc chắn hiển đạt, nhà cửa buôn bán chắc chắn kếch sù. Nếu hình thần hiện lên màu trắng thì luôn khỏe mạnh, không có bất kì tai họa ngoài ý muốn nào. Nếu hiện màu đen thì buộc phải chú ý, bởi vì màu đen nghĩa là có họa. Màu đen hiện ở nửa trên thì cha mẹ có họa, ở nửa dưới thì vợ con có họa, ở hai tay thì anh chị em có họa, nếu toàn thân đều là màu đen thì tai nạn của chính mình sắp đến rồi. Quan sát như vậy, hiệu nghiệm như thần.
Tôi viết một bài kệ:
Quan sát nguyên thần rất phân minh Tâm linh tu đạo mới an yên Có hóa thân bên ngoài thân thật Thiên đạo tự hợp thiên cơ tình.
Trong bản văn này có hai điểm cần chú ý: Thứ nhất, chọn địa điểm cũng rất quan trọng, phải là nơi rộng rãi không có người. Yên tĩnh và an ninh. Thứ hai, phù Quán thần phải đích thân được trao hoặc dạy, bởi vì có tác dụng phụ. Nếu phù Quán thần có sai sót thì dễ nhập ma cảnh.
02. Phương pháp tránh tai họa chết chóc
Viết quan sát nguyên thần xong, tự nhiên tôi nhớ đến Khổng Minh tiên sinh, năm xưa Khổng Minh giúp đỡ Hán Chiêu Liệt Đế (Lưu Bị) của nước Thục khôi phục lại Hán Thất. Tại Tà Cốc Khẩu, ngài ấy đã dùng pháp quan sát nguyên thần bí mật, bất ngờ phát hiện ra nguyên thần của mình không có đầu, giật thót mình kinh ngạc. Thế là, ở vùng Ngũ Trượng Nguyên, ngài ấy đã chọn đất lập đàn tế, dùng pháp "Lễ đẩu bản mệnh" để cầu an tránh tai. Đến ngày thứ sáu, vì cấp dưới Ngụy Diên bước vào báo cáo tình hình quân sự, vô tình đã đá phải đèn bản mệnh tinh làm đèn tắt, đến buổi tối hôm đó, Tướng Tinh liền đọa địa, biến thành sao băng hóa đá, Khổng Minh tiên sinh đã một mệnh quy tiên. Thế là, chưa chiến thắng được quân Tào, Thục Hán đã mất đi Khổng Minh, giống như tướng không đầu, tự nhiên chẳng có cách nào phục hưng.
Theo tôi được biết, có rất nhiều phương pháp tránh tai họa chết người, nhưng người truyền pháp này chính là Nguyên Thủy Thiên Tôn. Nguyên Thủy Thiên Tôn truyền pháp cho Đông Hoa Đế Quân, Đông Hoa Đế Quân truyền cho Hà Thượng Ông, Hà Thượng Ông truyền cho Khổng Minh.
Còn vì sao tác giả biết được pháp này, nguồn gốc là vì tôi thu nạp hai học trò, một người là Tạ Vinh Huy, pháp danh là Liên Đôn, một người là Kim Vĩnh Lệ, pháp danh là Liên Nhiên, hai người họ là vợ chồng. Một hôm họ có được ba cuốn sách Đạo chép tay nên đến thỉnh giáo tôi. Ba cuốn sách Đạo này là tổ truyền nhiều đời, vô cùng trân quý. Tôi vừa xem thì giật mình sửng sốt, thì ra là cuốn "Long môn độn giáp thiên thư của Nguyên Thủy Thiên Tôn". Tôi không có cuốn sách này, nhưng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã sớm truyền pháp này cho tôi rồi, lại còn lần lượt ấn chứng từng cái một, nhãn tiền đại hiện quang minh. Đây là báu vật có nhiều tác dụng tuyệt vời, tác động lẫn nhau, nói tóm lại là biến hóa tinh vi, xuất thần nhập hóa. Tại đây, tôi đặc biệt tuyên bố như sau: truyền cho người tài đức có nhân duyên ba đời thì hợp với đạo trời, còn truyền cho kẻ vô lại thì coi như để lộ thiên cơ. Giờ đây tôi viết cuốn sách này để thế nhân biết có pháp Phật pháp Đạo, tôi có giấu đi một vài lời để chờ người có duyên có đức cùng ấn chứng, người vô duyên vô đức thì đừng học thì hơn.
Phương pháp tránh tai họa chết chóc như sau: Nếu biết nguyên thần có màu đen thì lập tức chay tịnh thân tâm, ban đêm yên tĩnh đốt hương, lễ bái Bắc Đẩu Tinh Quân, nhanh chóng cầu sám hối. Sau khi lễ bái như vậy bảy ngày lại đi quan sát nguyên thần, nếu nguyên thần đổi thành màu trắng thì tự nhiên sẽ chuyển hung thành cát, có thể yên tâm. Nếu khí đen của nguyên thần vẫn chưa được loại bỏ, lại nhìn thấy trên đỉnh không có đầu, thì đây là điềm báo sắp có đại hạn. Nếu ngày quan sát nguyên thần là tháng dương năm dương, thì thời điểm chết là vào năm sau, tháng âm năm âm cũng vậy. Nếu là quan sát nguyên thần vào tháng âm năm dương hoặc tháng dương năm âm thì trong năm đó sẽ có tang.
Như vậy, mau chóng chuẩn bị lễ vật cho nghi thức cầu an. Ở nơi yên tĩnh trong nhà, xây dựng một căn buồng yên tĩnh hình vuông cao và rộng chín xích [ ND: 1 xích = 1/3 mét ]. Chọn một thẻ tre pháp hộ thân, một bức man thiên hoa cái, một thanh bảo kiếm hàng ma, một tấm gương chiếu toàn thân, bắt đầu tiến hành vào ngày mồng một, trai giới tắm gội, trên đầu quấn vải trắng, mặc quần áo đạo sĩ màu trắng, eo quấn thắt lưng màu vàng, chân đi giày trắng (giày vải), lấy đất ở năm phương mỗi phương một nhÔm, dùng phù Ẩn gói lại, đội trên đỉnh đầu, chân thành đi vào trong căn buồng.
Treo man thiên hoa cái lên trên trần của căn buồng, trong buồng bày một cái bàn, thắp lên một bát hương, đốt lên bảy chén đèn sao bản mệnh, thẻ tre pháp hộ thân, bảo kiếm hàng ma đặt trên bàn, kính chiếu thân treo trên cửa. Dùng 12 tờ giấy vàng, vẽ phù Ẩn dán thẳng bên ngoài cửa đi và cửa sổ, mỗi bên ba tấm phù. Rồi lại dùng 12 tờ giấy màu vàng vẽ phù Tị, dán thẳng bên trong cửa đi và cửa sổ, mỗi bên ba tấm. Phù Ẩn thì niệm chú Ẩn, phù Tị thì niệm chú Tị, cứ dán một tờ thì niệm một biến. Trong buồng ở góc phía tây nam đục một lỗ nhỏ, đồ ăn uống được đưa qua lỗ này.
Trong vòng một tháng khi tai họa sắp đến này, bạn bè không được đến thăm, để cho tâm tưởng của bản thân hoàn toàn tĩnh lại. Điều này có nghĩa là không khởi lên một suy nghĩ gì thì quỷ thần không biết. Mỗi ngày vào sáng trưa tối, mỗi buổi vận 81 hơi chân khí, niệm thầm chú Ẩn - Tị 49 biến, mỗi ngày chỉ được ăn chay hai bữa, khi khát thì uống nước lã, có thể uống phù Ẩn - Tị do mình tự vẽ. Ngồi tĩnh tọa như vậy, niệm hai câu chú Ẩn - Tị dũng mãnh và tinh tấn, đến khi đủ một tháng thì tay cầm thẻ pháp, lại quan sát nguyên thần, chắc chắn có thể thấy đầu của nguyên thần lại xuất hiện, nếu khí đen quanh thân vẫn chưa trừ bỏ được thì lại ngồi thêm bảy ngày, đến khi nào khí đen được loại bỏ thì mới dừng lại.
Sau đó, đem thẻ pháp, man thiên hoa cái, gương, kiếm, quần áo, giày… dùng một khúc gỗ nhỏ làm thành quan tài để đựng chúng. Trên một mảnh đất sạch ở hướng tây nam, đào một cái hố rồi chôn xuống, như thế là đã làm xong việc lớn.
Trên nguyên tắc mà nói, đoạn ở trên chính là pháp Ẩn - Tị [ ND: Ẩn là ẩn giấu, Tị là trốn tránh ]. Còn đoạn sau dùng quan tài gỗ nhỏ chính là pháp thế thân. Trước tiên dùng pháp Ẩn - Tị để khiến cho quỷ thần không tìm thấy bạn, sau đó dùng pháp thể thân để biểu thị rằng bạn đã yên nghỉ trong lòng đất rồi, như vậy Nam Cung sẽ ghi chú tên sinh, Bắc Đẩu sẽ loại bỏ tử tịch. Thế nhưng pháp này có thể vĩnh viễn bất tử được không? Nhục thể vĩnh viễn bất hoại được không? Không được, có thể giấu được quỷ thần một lúc chứ không thể giấu được vĩnh viễn. Nhưng chỉ cần là người tu đạo, tích lũy công hạnh, tế vật lợi người, thì có thể kéo dài tuổi thọ, được lên thiên đình, xếp vào hàng tiên.
Điểm quan trọng cần chú ý:
- Thời gian làm pháp tránh tai họa chết chóc: cần chọn ngày tháng vào tháng đối cung với bản thân.
- Phương pháp này cũng có thể dùng cho việc bế quan tĩnh tọa, mặc dù không có liên quan đến việc trốn tránh cái chết, nhưng có lợi ích lớn với việc kéo dài tuổi thọ, người tu đạo hoặc các đại sư xuất gia có thể ứng dụng.
- Chú Ẩn: "Tiên thiên nhất khí, tiết chế vạn linh, viên quang nhất tráo, quỷ diệt thần linh." Chú Tị: "Thiên Cương Tử Tinh, giáng bố chân khí, hộ ngã hựu ngã, nguyên thần an ninh."
- Hai phù Ẩn - Tị là mật truyền. Người tu Phật có thể dùng chú Lục tự đại minh để thay thế.
03. Nuốt nhả cương khí quang minh hiển hiện
Vài năm gần đây, những người học Đạo gia tăng gấp bội, người tu Phật cũng tăng lên nhiều. Pháp của hai môn Phật - Đạo thật ra có rất nhiều chỗ tương thông nhau. Mặc dù Phật giáo là do Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập, nhưng Phật giáo cũng lấy tài liệu từ sự tồn tại dài lâu của đạo Bà La Môn, tổng hợp môn học Thần Tiên, rồi lại nghiên cứu pháp Bát nhã vô thượng cứu cánh tối thượng thượng nữa. Vì thế mới xưng Phật là Vô thượng chính đẳng chính giác. Còn như Đạo giáo, Đạo vốn là pháp môn vô thượng, nhưng có rất nhiều môn phái, mặc dù có cảnh giới quang minh không gì sánh bằng, nhưng người đến được cảnh giới này rất ít, trái lại còn bị hiểu lầm là phương thuật kiểu giang hồ mê tín. Kì thực, Đạo gia luyện khí là đạo công tịnh tọa của huyền môn chính tông, thần quang gom vào trong, diệu tướng trang nghiêm, sau khi nhập định, khiếu giác tự thông [ ND: lưu ý, "khiếu" ở đây là các lỗ. ], cũng hoàn toàn có thể bất tử bất hoại, tứ chi bách hài, đạo sung ở giữa, quang minh vô hạn.
Thời gian qua, Phật môn nói Đạo gia là bàng môn tà đạo, là tu hành ngoại đạo, thật ra nói một cách nghiêm túc là họ không hiểu "đạo" này, cần biết "đạo" này vốn là "đào chi yêu yêu, chước chước kì hoa". [ ND: hai câu thơ trong bài "Đào tơ" của Khổng Tử, nghĩa là đào tơ mơn mởn, chùm chùm nở rộ. ], vốn là mênh mông dào dạt vô cùng vô tận. Cái gọi là "đại chu thiên" là chỉ trời rộng lớn vô hạn, người tu đạo trình độ còn nông thì không thể đại điện cho "đạo" được. Đại chu thiên cũng không có một vật nào có thể biểu thị được, vô cực cũng có nghĩa là bất thối chuyển. Thiền tông thì lấy việc tịnh tọa làm pháp, Mật tông thì lấy niệm ấn làm pháp, Hiển tông thì lấy tịnh thổ làm nơi quy về, lấy niệm Phật bất loạn làm pháp. Các pháp tu Phật môn khác biệt nhau, nhưng cũng giống như trăm sông đổ về một biển, còn pháp Đạo gia thì hướng đến tự nhiên, nếu là chính đạo thì pháp môn đó thật sự là sâu không thể đo lường.
Có lẽ có người sẽ cho rằng, tên tiểu tử Lư Thắng Ngạn này "sùng Đạo chê Phật", thật ra không phải vậy, bởi vì thầy của tôi, ngoại trừ Thanh Chân Đạo Trưởng của Đạo gia và Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh ra thì các vị thầy khác đều là các tông sư của Phật môn. Các vị thầy quy y của tôi là Ấn Thuận đạo sư, Đạo An pháp sư, Lạc Quả pháp sư. Giới sư của tôi là Giác Quang pháp sư, Hiền Đốn pháp sư, Huệ Tam pháp sư. Từ đầu tới cuối tôi cảm thấy rằng, văn hóa Trung Hoa sâu rộng, hai môn Phật - Đạo rộng lớn như biển hồ. Dựa vào trí lực hữu hạn của tinh lực cả một đời người của nhân loại để mà nghiên cứu thảo luận hai chữ Phật - Đạo này, ngoại trừ khen ngợi ra, người có thể đạt đến công phu của cảnh giới cao sâu kì diệu thật sự là vô cùng ít ỏi, càng chẳng có cách nào biết loại suy để mà hòa nhập Phật và Đạo trong cùng một lò.
Có người thường hỏi tôi: "Chỗ tương thông của Phật và Đạo nằm ở đâu?" Tôi đáp: "Hướng về định, hướng về tịnh. Đây là phương pháp tương thông." "Định là định như thế nào, tịnh là tịnh như thế nào?" "Ngồi yên tự nhiên, tâm an bình tịnh, không khởi một niệm, là thành việc lớn." "Không khởi một niệm khó tới mức nào?" "Vì có khó nên mới có dễ." - Tôi đáp.
Khi chúng ta tịnh tọa, cần thoải mái tự nhiên, ngồi một cách nhẹ nhàng ung dung, tạp niệm lung tung cũng không lưu tâm, dần dà, tạp niệm sẽ ít đi, tự nhiên cũng xem như một trong những bước tiến đến cảnh giới phía trước.
Đầu lưỡi đặt lên hàm trên, tự nhiên nước bọt sẽ trào ra trong miệng, quán tưởng bản thân mình chính là Bổn tôn Phật Bồ Tát với diệu tướng trang nghiêm, lỗ chân lông toàn thân đều tỏa ra kim quang lấp lánh, toàn thân được bao phủ trong ánh sáng vàng kim. Lúc này, dùng mũi hít đầy một hơi khí kim quang, nuốt vào trong bụng. Tiếp đó vận chuyển khí này đi qua vĩ lư [ ND: huyệt vĩ lư nằm ở khoảng giữa xương cùng và hậu môn. ], thẳng lên đến vùng nê hoàn [ ND: nê hoàn là vùng não ở ngay phía trên trán. ], đi xuống đến bảo bình. Sau đó lại hít vào một hơi cương khí, nuốt nước bọt trong miệng xuống, khí và nước bọt hòa lẫn với nhau tại cung hoàng đình. Lúc này trong tâm niệm thầm một biến Kim quang chú: "Thiên địa huyền tông, vạn khí bản căn. Nghiễm tu vạn kiếp, chứng ngô thần thông. Tam giới nội ngoại, duy đạo độc tôn. Thân hữu kim quang, tráo hộ ngô thân. Thị chi bất kiến, thính chi bất văn. Bao la thiên địa, dưỡng dục quần sinh. Thụ trì nhất biến, thân hữu quang minh. Tam giới thị vệ, ngũ đế ti nghênh. Vạn thần triêu lễ, dịch sử lôi đình. Quỷ yêu tang đảm, tinh quái vong hình. Nội hữu phích lịch, lôi thần ẩn minh. Thông tuệ giao triệt, ngũ khí đằng đằng. Kim quang tốc hiện, phúc hộ chân nhân."
Phật gia tịnh tọa thì trong tâm niệm thầm pháp hiệu Bổn tôn Phật Bồ Tát hoặc trì chú ngữ của Bổn tôn, tay kết ấn giống với ấn mà Bổn tôn kết, quán tưởng và niệm lực cũng tập trung vào việc quán tưởng Bổn tôn. Đây chính là chú, ấn, niệm, ba thứ hợp nhất, cũng chính là tịnh tọa hợp nhất ba thứ thân, khẩu ý. Phật gia tịnh tọa, nếu dựa theo pháp Bổn tôn mà tu hành, tinh thần tập trung vào một niệm, thường xuyên vì được Phật Bồ Tát từ bi tiếp nhận nên đạt được đạo hạnh "ngã nhập", và như thế tiến nhập vào thế giới của Bổn tôn Phật, nương dựa và duy trì pháp này thì sẽ đạt đến cảnh địa bất thối chuyển.
Pháp nuốt nhả cương khí của Đạo gia, dần dần tăng thêm quang thể, quang thể càng biến càng to, đây chính là quang minh hiển hiện. Khi niệm Kim quang chú, nên kết thủ ấn, ấn này gọi là ấn hào quang. Ấn này dùng ngón tay giữa và ngón áp út của hai tay cong vào trong lòng bàn tay, ngón cái đè lên trên ngón giữa và ngón áp út, rồi ngón trỏ và ngón út của hai tay duỗi thẳng tựa lưng vào nhau.
Bất kể là tịnh tọa kiểu Phật gia cũng tốt, tịnh tọa kiểu Đạo gia cũng tốt, thật ra đều là tu luyện dưới "định" và "tịnh", chỉ là Đạo pháp thì liên thông với môn học về kinh mạch, dùng sự tuần hoàn của kinh mạch để bổ trợ mà thôi. Phật thì dựa vào Phật Bồ Tát làm nơi quy y, Đạo thì dựa vào Đại La Thiên làm nơi quy y, Đại La Thiên giả cũng chính là cảnh giới vô hạn thiên, cũng là bất thối chuyển, không khác gì Phật. Vì thế, Đạo cũng tức là Phật.
04. Người học Đạo phải tu hành tích đức
Kể từ khi mấy cuốn sách tâm linh của tôi xuất bản được vài năm, nhà tôi lúc nào cũng có khách không hẹn mà tới, thậm chí xa xôi tận châu Âu, châu Úc cũng đến. Trong số đó có không ít người muốn tu đạo, tôi vẫn luôn nhìn người mà biết được rằng, mặc dù người muốn tu đạo có nhiều, nhưng người có huệ căn khí lại rất ít, không chỉ người có huệ căn khí ít mà thậm chí người có nghiệp chướng sâu nặng, bị cái xấu xa ô uế đeo bám càng nhiều hơn. Tôi vừa gặp những người này thì thấy có một số người là yêu tinh ma quỷ chuyển thế, có một số người căn bản chính là quỷ quái, có một số người thì không từ một việc xấu xa nào mà không làm, và cũng có một số người ngây thơ đáng thương. Mặc dù họ đều muốn quy y học tập Đạo pháp, một bước lên trời, nhưng họ vọng tưởng và bám chấp, làm sao có thể học thành được?
Đôi khi, tôi đứng trên đỉnh núi, nhìn lên bầu trời tròn vành vạnh, trong xanh vạn dặm, đường chân trời ở phía xa xa bị che phủ bởi màn sương mỏng bàng bạc, núi xanh biếc đứng sừng sững, dòng nước xanh ngọc bích như sợi dây dài quanh co rất tự nhiên. Khi ấy, cảm xúc trong lòng tôi rất sâu, rất sâu, tôi giống như một cái chấm nhỏ đứng cô độc bỏ quên cuộc đời. Bầu trời ở trên đầu tôi, mặt đất ở dưới chân tôi, vì sao tôi không giữ cho riêng mình, cứ thế cưỡi gió bay đi, ngộ cảnh trong lòng tôi rộng lớn mênh mông, hà tất phải ở lại trần thế làm cản trở bước chân mình? Nhưng đôi khi tôi lại muốn trở về, mặc dù tôi đã ngộ được đạo chí cao giữa trời đất, nhưng hưởng thụ một mình, ôm giữ tâm linh mình đến khô cạn ư? Tôi vốn là người chí tình chí tính đầy nhiệt huyết, Đạo pháp vô cùng tinh túy vô cùng vi diệu này chẳng phải sẽ bị chôn vùi hay sao?
Nhưng những kẻ hạ sĩ phàm trần nhiều như thế, tôi cũng tự mình biết mình, tôi sẽ chịu đựng những cơn bão táp phỉ báng từ bốn phương tám hướng, chịu đựng những kẻ đố kị ác khẩu làm hại, chịu đựng sự quấy nhiễu của con người trần tục. Cái tâm thanh tịnh vô vi vốn có của tôi sẽ biến thành vui vẻ, đau đớn, hoài niệm, buồn đau, tôi đã biến thành một người có tình cảm, đây chẳng phải là đánh mất đi cái căn bản vốn có sao. Khi người ta lui tới chỗ tôi nhiều hơn, tự nhiên sẽ sản sinh ra rất nhiều sự chán ghét xấu bẩn, cho nên tôi phải chọn địa điểm an ninh và bình lặng, ngồi trong tịnh thất mà viết sách Đạo. Đây chính là nguyên nhân mà tôi chuyển tới sống tại Seattle, ở tại Linh Tiên Các viết sách.
Nơi tôi ở hiện tại nằm ở phía tây bắc của Seattle nước Mỹ, trên đỉnh của một dải núi, nhà có tầng hầm, bốn xung quanh là vườn hoa, đám đất này rộng khoảng một nghìn mét vuông, sống ở đây rất dễ chịu. Linh Tiên Các là một thư phòng ở trên tầng ba, cũng là chóp của căn nhà này, mở cửa sổ ra có thể nhìn thấy ngọn núi tuyết Mount Rainier, phong cảnh mê đắm lòng người. Điều hay nhất là, nhà ở tại Mỹ đều là các căn nhà đứng độc lập, phong cảnh không chỉ đẹp không sao tả xiết mà còn vô cùng yên tĩnh nữa. Ngoại trừ tiếng chim ra thì gần như đó là một thế giới không có bóng người. Mùa đông tới thì khá lạnh, nhưng mùa hè thì mát mẻ, có thể gọi đây là cảnh giới thanh lương. Tôi ở đây viết sách cũng có thể xem như đã tìm được nơi thích hợp rồi.
Còn nhớ năm xưa, ân sư bảo tôi rằng: "Phàm là người học Đạo, nên lấy sự thanh tịnh làm chủ đạo, thanh tịnh hành vi, thanh tịnh tâm, nếu tâm đoan chính thì lâu ngày, nhờ tâm mà có thể giao tiếp với thần, tự nhiên có thể thông thiên triệt địa, nhờ thế học Đạo có thể thành, Đạo có thể trở thành có ích cho ta. Bất kì sự việc gì đều có thể nhờ Đạo mà thành công. Còn người hiểu đạo và học đạo nhất định phải có đức hạnh, có thể truyền thụ thì phải là người có tâm yêu người yêu vật, tâm họ thanh tịnh thì mới có lòng nhân từ trung hiếu. Nếu tâm không thanh tịnh thì làm gì có diệu thuật diệu pháp. Đây là đạo lý rất phổ thông, nghĩ là có thể hiểu được."
Theo như tôi biết, người có tâm thuật bất chính hoặc người có tâm thù hận, hai loại người này không có tư cách học tập Đạo pháp. Người có tâm thuật bất chính thì luôn nói một đằng làm một nẻo, thiện ác bất phân, tâm luôn thiên lệch, nếu học Đạo pháp thì chắc chắn sẽ vì tâm niệm đó mà chiêu cảm và giao tiếp với ma, vì thế quỷ thần mới cấm chỉ loại người này học tập Đạo pháp. Ngoài ra, người có tâm thù hận cũng không thể học tập Đạo pháp, có tâm thù hận rồi thì sẽ đánh mất nhân tâm, người đã mất nhân tâm rồi thì ngay cả tư cách làm người cũng chẳng có, người ấy nếu có tu pháp thì sẽ bị tác dụng ngược, lớn thì thành ma, nhỏ thì biến thành ác quỷ, Đạo pháp chưa thành, ngược lại đã trở thành nghiệt chướng.
Cá nhân tôi không hề chủ trương lập ra "quy phạm đạo đức tu Đạo" hoặc "hành vi tu Đạo tiêu chuẩn" gì cả, mỗi địa phương có phong tục tập quán của địa phương đó, hợp với hành vi xã hội ở nơi đó. Hơn nữa những tiêu chuẩn và hành vi đạo đức này cũng sẽ thay đổi theo thời đại và thời gian. Nhưng vẫn có một chút là không thể thay đổi được, đó chính là tâm ái và tâm hận, đó chính là chí tính vốn có của nhân loại. Yêu là thiện, hận là ác, thiên tính này còn quan trọng hơn cả quy phạm đạo đức xã hội. Tôi trước sau luôn cảm thấy tình thân giữa cha mẹ con cái anh chị em, tình cảm bạn bè hồn nhiên, thậm chí tình yêu nam nữ đều là thiên tính vốn là thế, tình yêu sẽ trở thành tinh thần trọng nghĩa, nhân ái lương thiện, vui vẻ giúp đỡ người khác, mong cầu hạnh phúc và niềm vui lớn hơn cho toàn thể nhân loại, dâng hiến bản thân cho nhân loại, đó đều là những biểu hiện của tình yêu.
Người học Đạo cần tu hành tích đức, nghĩa là người học Đạo, ngay từ khi bắt đầu đã phải có được hành vi đoan chính, tích đức tu hành, tiêu trừ những nghiệp chướng đem theo từ kiếp trước, luôn giữ cái tâm yêu thương, khiến cho ma không thể nào lợi dụng. Nếu con người có tâm tính chí thành, cho dù có gặp phải biến động nào, cùng kiệt hay thông suốt, thành công hay thất bại thì cũng sẽ không thay đổi Đạo tâm.
Tôi viết một bài kệ: "Tu đạo vốn là tu tâm địa Nhân ái tự nhiên Phật ngợi ca Hận thù vốn là nơi rắn độc Tu thành mới xem thỏa ước mong."
05. Đạo cư thanh tịnh vân thủy thiên
Đạo gia tu Tiên thành đạo có Tam Thanh Tiên Cảnh, Tam Thanh ở đây chính là Thái Thanh Tiên Cảnh, Ngọc Thanh Tiên Cảnh, Thượng Thanh Tiên Cảnh. Tam Thanh Tiên Cảnh này đúng là Thánh vực thanh tịnh vô vi, thân chẳng có thân ấy, tâm chẳng có tâm ấy, thức chẳng có thức ấy, cứu cánh viên mãn, huệ trí vô lậu, hình thành nên thế giới cực lạc chí thiện. Để đạt đến cảnh giới này, tự nhiên cần quên đi mọi lo âu, cắt đứt với thế gian, chuyên tâm tu trì, tinh luyện thành thạo, thanh tịnh vô vi.
Người tu Đạo sống ở thành thị mà tu hành không hẳn là không thể, nhưng ở thành thị thì người thế tục vãng lai rất nhiều, chướng khí mù mịt, rồi ca múa nơi trần thế khiến tâm không thể nào tĩnh được, e rằng sẽ làm náo loạn tâm của Đạo nhân. Vì thế, người tu Đạo thông thường nên hoặc sống ở trên núi cao, hoặc sống trong rừng sâu yên tĩnh, hoặc sống ở chùa, hoặc sống ở miếu, nguyên nhân là để không bị các việc thế tục quấy rầy, không có sắc tướng quấy rầy tấm lòng của Đạo nhân, vì vô tướng nên vô nhiễm, vì vô nhiễm nên sẽ sớm đạt được sự thanh tịnh.
Có người học Đạo đến già, càng học thần sắc càng suy yếu, tâm tính nóng nảy, muốn thanh tịnh trái lại lại bị phiền não, muốn vui vẻ nhưng trái lại lại bị vọng tưởng, muốn không tranh đấu nhưng ngược lại lại bị hãm hại, càng học Đạo càng xa, không ngờ còn chẳng bằng phàm phu. Khi họ đến thỉnh giáo chỗ tôi, tôi đến nơi họ tu Đạo để xem thì lập tức hiểu ra, thì ra họ không biết tầm quan trọng về nơi ở của người tu Đạo. Đằng sau nhà ở của họ là khe núi, trước mặt có nước chảy đến thế hung hiểm, núi ở xung quanh lại không hề đẹp đẽ, đất đá lộn xộn lại có đỉnh nhọn. Người tu Đạo không biết kiến thức địa linh, làm nhiều gấp bội nhưng công thu được thì chỉ một nửa, làm sao có thể thành công!
Tôi bảo với họ: "Kiến thức về địa linh có bốn câu, sau lưng có điểm tựa, hai bên được bao bọc, trước mặt có sông hồ, trong hồ có gò nổi. Vì thế, chọn lựa đất tu Đạo là vô cùng quan trọng, phải chọn đất có núi bao quanh, có hồ nước đẹp, đất này còn phải tàng phong tụ khí, trên khoảnh đất này, xây chùa hoặc miếu, hoặc tịnh xá tịnh thất đều được, và phải nhớ là không được nuôi động vật, ngựa hoặc gia súc, gà chó lợn đều không được đến, động vật đều là loài tanh bẩn, sẽ làm hỏng khí của địa linh. Chùa để tu Đạo thật sự thì không giống với chùa để tham quan, người làm tạp vụ không được tự ý đi vào, như vậy tu Đạo mới có thể thành công."
Sau lưng có điểm tựa, nghĩa là đằng sau chỗ ở có khí của rồng bay tới, hai bên được bao bọc nghĩa là hai bên chỗ ở có núi bao quanh, giống như núi bọc lấy chỗ ở, trước mặt có mặt gương, có dòng nước uốn lượn như đai ngọc, hoặc có cảnh sắc hồ nước thiên nhiên. Trên mặt nước có gò nổi nghĩa là trên mặt hồ nước lại phải nổi lên một đụn cát hoặc đảo nhỏ, hoặc có hoặc có núi nhỏ làm thành bức chắn. Địa lý như vậy chắc chắn là tàng phong tụ khí, cái gọi là tàng phong tụ khí nghĩa là linh khí của đất này toàn bộ đều tập trung tại đây, địa linh nhân kiệt, đạo khí dày đặc. Người học Đạo có được mảnh đất đẹp kì diệu này cũng xem như là "đạo cư thanh tịnh vân thủy thiên" rồi.
Theo như tôi biết, giữa trời đất tràn đầy linh khí, các thầy xem phong thủy (thầy địa lý) còn gọi linh khí này là linh tử hoặc tá tử. Linh khí tồn tại ở một số nơi thì nhiều, một số nơi thì ít, giống như là nơi mà có núi bao quanh hồ nước đẹp thì linh khí nhiều, còn nơi có núi non sông nước bị phá hoại linh khí sẽ ít, nơi thanh tịnh nhiều linh khí, còn nơi hỗn tạp ít linh khí. Môn học về địa linh thật ra cũng chính là kiến thức về sự phân bố linh khí, tu hành ở nơi có linh khí quy tụ nhiều thì sẽ giúp ích nhiều cho việc đắc Đạo, tu hành ở nơi có linh khí ít thì tự nhiên sẽ không dễ mà có được thành tựu, đây cũng là đạo lý tự nhiên.
Tác giả đã sống ở nhiều nơi trên thế giới, được biết đến các chủng tộc, phong tục tập quán, phẩm đức, ngôn ngữ, tính cách của nhân loại, mặc dù có ảnh hưởng bởi hoàn cảnh của tình hình trong nước, nhưng con người xuất phát từ sự thai nghén của địa linh cũng không ít. Người sống ở Bắc Bán Cầu thì thuộc về thủy, da trắng, văn minh tương đối cao, cá tính tương đối ôn hòa. Người sống ở Nam Bán Cầu thì thuộc về hỏa, da đen, văn minh khá thấp, cá tính mãnh liệt. Còn người sống ở giữa thì da vàng, đứng ở giữa hai nhóm người kia. Đây là cách phân biệt một cách đại khái, đương nhiên trong đó cũng có ngoại lệ, nhưng những ngoại lệ đó cũng là do nhân tố địa lý.
Hoa Kì, Liên Xô, Canada, Bắc Âu là các nước đại diện cho Bắc Bán Cầu. Nam Mĩ, Châu Phi, Đông Nam Á là các nước đại diện cho Nam Bán Cầu. Ở giữa thì đại biểu là Trung Hoa Dân Quốc, Ấn Độ.
Chúng ta chia địa cầu ra làm hai nửa, có thể phát hiện thấy rất nhiều điểm tương hợp khéo léo. Ngũ hành luận pháp của Đạo gia là: phương bắc thuộc thủy, phương nam thuộc hỏa, phương đông thuộc mộc, phương tây thuộc kim, ở giữa thuộc thổ là cũng có tồn tại đạo lý của nó. Cá nhân tôi đã đến Nhật Bản để nghiên cứu địa lý Nhật Bản, cũng đã đến Châu Úc để nghiên cứu địa lý Châu Úc. Tôi phát hiện thấy người Nhật Bản sở dĩ có tinh thần hợp tác đặc thù của họ đều là nhờ tác động của địa lý. Châu Úc sở dĩ trở thành chốn bồng lai tiên cảnh cũng là vì địa lý tạo nên như vậy. Không thể coi thường môn học về địa linh được.
"Đạo cư thanh tịnh vân thủy thiên" nghĩa là đòi hỏi bạn tìm một tịnh phòng thật sự có trợ giúp đối với việc tu Đạo của bạn. Cho dù là ở trung tâm trần thế ồn ào cũng cần tìm ra được một nơi chốn yên tĩnh tương đối có nhiều linh khí, điều này vô cùng quan trọng. Linh Tiên Tịnh Xá mà hiện tại tôi đang mong muốn xây dựng cũng nằm ở phía đông Seattle nước Mỹ, một nơi gọi là quận Redmond, phía sau lưng có hướng long mạch đến, hai bên có bãi cát ôm vào, tàng phong tụ khí, trước mặt có một cái hồ lớn, bên hồ lại có núi, đất này lại thanh tịnh. Sự duyên dáng của phong cảnh nơi đây xung quanh chẳng có chỗ nào sánh bằng, cái đẹp về địa lý lại càng thuộc hạng thượng phẩm. Đất này thật sự là tiên cảnh chốn nhân gian, chính là "khóa hạc xưng thần phẩm, linh tiên đệ nhất gia".
Thật ra không chỉ là xây chùa, xây miếu, xây tịnh xá, xây tịnh phòng mới cần chọn đất tốt, mà thật ra xây dựng nhà ở bình thường cũng cần chọn đất tốt. Nhà ở chọn được đất tốt rồi thì con cái được thai nghén sau này cũng xuất sắc hơn người. Đạo lý giữa trời đất rất đơn giản rất bình phàm, nhưng mà càng bình phàm thì trái lại, nhân loại lại càng chẳng hiểu thấu được.
06. Diệu pháp Cửu phụng phá uế tịnh thủy
Phật môn có ba câu chân ngôn thanh tịnh như sau: Chân ngôn tịnh khẩu nghiệp: Om suri suri maha suri susuri soha. Chân ngôn tịnh thân nghiệp: Om sudori sudori sumoli sumoli soha. Chân ngôn tịnh ý nghiệp: Om vajra dam haha ho.
Đạo môn cũng có ba câu chân ngôn thanh tịnh: Chân ngôn tịnh khẩu nghiệp: "Ôm. Ngọc trì diên tịnh, la thiên khí ngưng, hổ bôn dị hương. Nhiếp." Chân ngôn tịnh thân nghiệp: "Ôm. Tam hoa xung cốc, ngũ khí hỗn ngưng, nội ngoại chân bạch. Nhiếp." Chân ngôn tịnh ý nghiệp: "Ôm. Đài quang doanh khiết, thần di linh đài, ứng biến thiên chân. Nhiếp."
Thông thường trước khi đọc tụng kinh điển hoặc làm pháp, để làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, đều phải đọc ba câu chân ngôn này. Chân ngôn của Đạo môn có nhiều loại, nhưng ba câu mà tác giả đã viết ra là "lời ngắn ý sâu", tương đối thích hợp để ứng dụng. Chân ngôn của Phật môn là cách phát âm theo tiếng Phạn, ý nghĩa cũng tương đồng với Đạo môn.
Trong bản văn này, tôi đặc biệt chỉ ra một diệu pháp, diệu pháp này có thể thanh tịnh đàn thành, có thể thanh tịnh phòng ở, có thể thanh tịnh con người. Tu hành theo pháp này, tự nhiên thăng lên thiên giới, nếu vì nghiệp chướng sâu nặng thì cho dù chuyển thế làm người cũng sẽ được làm người phú quý song toàn, tướng mạo phi phàm. Cao quý thì làm vương hầu, nhà cao cửa rộng, trang nghiêm xinh đẹp, trí tuệ vô song.
Phương pháp tu trì như sau: Đầu tiên dùng một chén nước lọc, hơ qua phía trên lư hương, sau đó đặt ở phía trước thần án, chắp tay cung kính niệm thần chú Cửu phụng phá uế: "Cẩn thỉnh cửu phụng phá uế, tinh tà diệt vong, thiên tướng thần sứ, kính hạ vân cương, tinh di đẩu chuyển, liễm diễm tam quang, thượng ứng cửu thiên, hạ ứng cửu địa, lôi công phích lịch, điện mẫu diêu chung, phong vân tế hội, bố mãn thiên không, càn khôn định vị, quỷ khốc thần công, vạn thần dực vệ, pháp tắc thành công. Cấp cấp như luật lệnh."
Sau đó tay phải mô phỏng kiếm quyết, tại hư không phía trên chén nước lọc, viết chữ:
Sau đó, miệng bí mật niệm chú: "Ôm. Nhược nhật la quân trá lợi sa ha. Cẩn thỉnh nhật cung thái dương úc nghi đế quân. Hàng bố chân khí nhập thần thủy."
Tiếp theo, lại dùng tay phải kết kiếm quyết, tại hư không phía trên chén nước lọc viết chữ:
Sau đó, miệng bí mật niệm chú: "Thiên sát, địa sát, niên sát, nguyệt sát, nhật sát, thời sát, dương sát, âm sát, nhất thiết yêu tà quỷ túy, phùng sát tự sát."
Sau đó chắp tay hát rằng: "Cửu phụng bay lượn, phá uế thập phương, thiên nhân chỉ dẫn, xuất nhập phòng hoa, thượng triều cung điện, thân kiến ngọc hoàng, tất cả ô uế, mau tránh thật xa."
Tác dụng của chén nước pháp này không thể coi thường. Ví dụ như các chùa miếu quán đường thông thường bị tà ma ác linh bình thường chiếm giữ, chỉ cần dùng nước pháp búng ngón tay vẩy lên, niệm bốn câu kệ: "Tịnh thiên thiên tịnh, tịnh địa địa linh, tịnh nhân trường sinh, tịnh quỷ diệt vong." Chùa miếu quán đường này ban đầu là mảnh đất ô uế, lập tức sẽ trở thành nơi thanh tịnh để tu cho đúng. Chùa miếu quán đường thường bị các pháp sư tà ác đố kị, các pháp sư tà ác này sẽ xua ma quỷ đến tác quái, còn "cửu phụng phá uế tịnh thủy" chính là khắc tinh của tà ma ác linh, nước pháp này vô cùng hiệu nghiệm, không thể coi thường.
Hơn nữa, có một số nơi ở không bình an, ví dụ có một số ngôi nhà trong quá khứ từng có người chết thảm, oan hồn sống lâu trong ngôi nhà đó không chịu rời đi, ngôi nhà có hướng không hợp với người sống trong nhà, nhà rách nát tan hoang, v.v… Thậm chí có những người thiết kế kiến trúc tâm thuật quá xấu xa, cố ý làm tà thuật. Dùng "cửu phụng phá uế tịnh thủy", búng ngón tay vẩy nước trong nhà, ác linh tự nhiên sẽ rời đi, quang minh lại hiển hiện, có bị người ta làm tà thuật cũng không hiệu nghiệm, hướng nhà không hợp cũng tự nhiên được bình an. Pháp này là đại pháp, nghìn vàng cũng khó mà có được, vạn vàng cũng khó mà mua được, nguyên nhân chủ yếu là vì có Thái Dương Tinh Quân, Thái Âm Tinh Quân, Tử Vi Tinh Quân tam quang giáng xuống bao bọc.
Ngoài ra, người bình thường tu trì pháp "cửu phụng phá uế tịnh thủy", tu xong pháp này, uống luôn nước đó thì thân khẩu ý đều trở nên thanh tịnh, có thể tiêu trừ nghiệp chướng kiếp trước của bản thân, tiêu trừ vọng tưởng tham sân si, gia tốc sự tiến lên phía trước của bản thân, sẽ có hi vọng tu Tiên thành Phật. Người bình thường có bệnh, dùng cách uống "cửu phụng phá uế tịnh thủy" thì người bệnh nhẹ sẽ lập tức khỏi bệnh, người bệnh nặng thì cũng chuyển thành nhẹ. Ngoài những người có nghiệp chướng rất sâu nặng ra thì tất cả đều có thể biến hung thành cát, giống như nước chú Đại Bi của Phật môn vậy, sự hiệu nghiệm của nước thần giống như hình bóng luôn theo sát ta, thật sự là kì tích.
Tôi cảm thấy rất nhiều người học Phật hoặc người tu Đạo đều muốn tu trì diệu pháp tối thắng tối cao, pháp đã học mặc dù nhiều, nhưng đến cuối cùng không biết tu pháp nào mới là tốt nhất, thì cũng lại trở thành không biết làm thế nào. Thật ra, học pháp, điều quan trọng nhất là bền lòng, chỉ cần tu một pháp, bền bỉ duy trì, thì sẽ chẳng có chuyện không thành công. Cho dù có học nghìn kinh vạn điển, nhưng lại không thể sử dụng cho bản thân mình thì nghìn kinh vạn điển cũng chỉ như mây khói thoảng qua trước mắt, cuối cùng chỉ là một đống rác rưởi mà thôi. Giả dụ có người tu trì theo pháp "cửu phụng phá uế tịnh thủy", ngày ngày đều tu, tháng tháng đều tu, năm này qua năm khác, và không gián đoạn, người này chắc chắn sẽ thăng lên thiên giới. Nếu có ý nguyện tái thế làm người thì người này kiếp sau cũng tự nhiên cũng là quý nhân cực phẩm.
07. Một biểu văn với tới chín tầng trời
Người và thần giao thiệp với nhau có bí pháp thông linh, chương sau của cuốn sách này sẽ đề cập đến. Nhưng trình biểu sớ văn, dùng văn tự để trình bày lên thiên thượng chính là một nghi thức, nghi thức phải trang nghiêm. Còn việc viết sớ văn thì cũng không có quy cách nhất định. Tác giả đặc biệt lựa chọn một cách thức tương đối chu toàn để cho người học Đạo cùng xem và tham khảo, dụng ý chính của sớ văn mọi người có thể tự xem chi tiết trong phần bổ sung.
Sớ văn như sau: "Đạo do tâm học, tâm giả hương truyền, hương đốt trong lò, tâm ở trước trời, chân linh đợi mong, cờ tiên cao lớn, nay con bẩm báo, đến tận cửu thiên. Kính cẩn đốt đạo hương đức hương, vô vi hương, vô vi thanh tịnh tự nhiên hương, linh đài huệ hương, tam giới hương, tam cảnh hương. Rộng khắp cùng cúng dường thập phương nhất thiết Phật, thập phương nhất thiết Đại La Kim Tiên. Phục văn. Hoàng hoàng thượng đế, cánh cửa mở rộng lợi ích cứu tế, nghiêm sư hiển hách, tiếp dẫn con đường tu chính xác rõ ràng, người ngu kiền tâm, đại tạo chiêu hồi. Đồ nhi (tên)… là môn đệ của Linh Tiên Chân Phật Tông, hết sức lo sợ, rập đầu khấu đầu trăm lạy, thành kính kiền thành tấu thỉnh:
Tiên Thiên Đạo Tổ Nguyên Dương Thượng Đế. Vô Vi Diệu Tướng Nguyên Thủy Thượng Đế. Tam Thanh Thượng Thánh Thập Cực Cao Chân. Phổ Thiên Tinh Đẩu Vạn Vạn Quần Chân. Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế. Bắc Cực Tứ Thánh Chân Quân. Linh Bảo Ngũ Sư Diễn Giáo Chân Quân. Thái Huyền Thượng Tướng Hiển Hựu Chân Quân. Huyền Đô Đại Pháp Sư Chân Quân. Tam Thiên Đại Thánh Sư Chân Quân. Linh Tiên Chân Phật Tông Phái Lịch Đại Tổ Sư.
Cổ kim truyền đạo truyền pháp hết thảy uy linh. Tam giới vạn linh thập phương thống trị. Kinh sư, Đạo Tàng Chân Nhân. Đạo sư, Thanh Chân Chân Nhân. Độ sư, Liên Sinh Chân Nhân. Tất cả chân hương, phổ đồng cúng dường.
Đồ nhi biết thiên thượng từ bi phù hộ, đạo sư diễn giáo, quảng dương linh tiên, phổ tế quần sinh, phàm thân thành tâm cầu thỉnh tất sẽ được thánh tâm rủ lòng che chở, con xin kính cẩn bẩm rằng: Nam Chiêm Bộ Châu, Trung Hoa Dân Quốc, Đài Loan Đài Trung …. (tên) tịnh sở thanh tu, phụng Phật đạo tu trì, kế thừa pháp dưới môn phái Linh Tiên Chân Phật Tông nghiêm chính. Phục vi tự thân bản mệnh, sinh vào … giờ, ngày… tháng… năm… tuổi... Bởi vì chiêu luyện tiên thiên nguyên thần của bản thân, cẩn thận lựa chọn ngày… tháng… năm…, thanh tịnh trai giới, lập đàn pháp sự, kính cẩn dâng hương hoa trà quả, xin trình bày lên cõi thượng thiên, xin nương theo pháp chỉ của Liên Sinh Chân Nhân, sai phái thiên linh thần tướng hạ giáng phàm trần, giúp đồ nhi hành pháp, trên giúp huyền giáo, dưới giúp chúng sinh.
Cầu xin: Chính khí của Thái Thượng ban bố khắp tam thiên, thả kim quang vạn đạo, giáng xuống tưới đẫm tam điền của đệ tử, nhiếp luyện hình thần, khai sáng phủ tạng, lệnh cho âm dương hòa hợp, long hổ khảm ly mà thành chân, diệu trung hợp diệu, thân ngoại hóa thân, triệu tướng lập tức tướng đến, triệu thần lập tức thần đến.
Kính mong tổ sư dìu dắt kẻ học sau, chỉ bảo tông phong. Bách bái cẩn ngôn."
Bản sớ văn này có thể xem như là sớ văn quy y của Linh Tiên Chân Phật Tông, cũng có thể xem như là sớ văn truyền pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông. Bởi vì người học Đạo, khi bắt đầu phải có một nghi thức dâng tấu chương đơn giản, thể hiện rằng bạn thật sự thành tâm đối với việc học, và cũng xem như là chính thức nhập môn làm đệ tử. Còn học Đạo là việc cả đời cả kiếp, là một việc vô cùng quan trọng. Cá nhân nửa đường tâm chán ý nản, nửa đường bỏ ngang, thậm chí không muốn tu Đạo, đó là việc của cá nhân đó. Ông tu ông được, bà tu bà được, sư phụ hướng dẫn nhập môn, còn việc tu hành nằm ở từng cá nhân, thành tựu ra sao chỉ có thể trách bản thân, không thể trách người khác.
Có người trong quá khứ muốn học tu Đạo, đã tìm đến tôi, vừa mở miệng ra đã hỏi: "Có thể một ngày đã học được thông linh không, có thể một ngày đã tu thành Đạo, đạt đến chân lý không? Tôi không có nhiều thời gian, tôi bận lắm." Tôi bảo với anh ta: "Thông linh chỉ là một phương pháp tu Đạo, tu Đạo là việc cả một đời, Đạo nằm ở trong cuộc sống thường ngày, ăn mặc ở đi đứng nghệ thuật âm nhạc đều có Đạo, Đạo phải giữ được sự bền bỉ, không có Đạo nào thành chỉ sau một đêm cả." Người đàn ông đó phủi phủi mũi rồi bỏ đi. Loại người kiểu như vậy rất nhiều, loại người chỉ nóng được năm phút càng nhiều.
Khi đốt sớ văn sẽ hình thành một đường ánh sáng trắng trôi trong không khí, và sau đó có một vị Công Tào Thần mặc y phục màu đỏ rất diễm lệ vươn tay ra để nắm lấy đường ánh sáng trắng này, sau đó lần lượt đi lên từng tầng trời. Nếu là đốt chân hương, dùng sớ văn chân thành, nhất định sẽ có Công Tào Thần tiếp chỉ chuyển trình. Nếu tâm thần qua quýt, thái độ uể oải, nghi thức không chu đáo, thì sớ văn cũng như trò đùa, giấy đốt xong biến thành một đống tro đen mà thôi. Nếu tâm không cung kính kiền thành, không có chân tâm chân ý, thì đừng lãng phí tinh thần, cũng không cần phải quy y, càng không cần học Đạo, tránh khỏi sau này Đạo pháp chưa thành, ngược lại còn dẫn đến bị trời khiển trách.
Người học Đạo học Phật thông thường không chỉ quy y mới cần đốt sớ văn, học pháp thọ giới đều phải đốt sớ văn, hành pháp tác pháp đều phải đốt sớ văn, pháp hội cũng phải đốt sớ, người tu Đạo gặp chuyện khó giải quyết cũng có thể tấu lên thiên thượng, dùng pháp thông linh, pháp đốt sớ đều được, có thể sẽ có được gợi ý từ thượng thiên. Vì thế, lợi ích của việc dùng biểu văn đốt sớ là rất nhiều, nhưng những việc nhỏ như hạt vừng hạt đậu thì không cần thiết. Thiên thượng giới lo việc của thiên thượng giới, những việc thế tục của địa thượng giới thì đừng quấy rầy tới thần cõi trời phải xử lý, đó cũng là một trong những lễ tiết.
Cần nhớ rõ sớ văn phải viết ngày tháng năm, hơn nữa tốt nhất là áp ấn, dùng ấn của chùa miếu quán đường, nếu không thì dùng ấn của cá nhân, trước khi đốt thì đọc tụng trước Phật, hơ qua khói của lư hương. Cần nhớ kĩ, nhớ kĩ!
08. Chày kim cang bảo kiếm hàng ma
Người học Phật nhiều, người học Đạo cũng nhiều, nhưng người nghiên cứu "ma pháp" thì ít thấy. Tôi từng hỏi một đại sư Phật giáo: "Ma là gì?" Ông ấy ậm à ậm ừ, hỏi một đằng trả lời một nẻo. Tôi hỏi một tu hành giả Đạo gia: "Ma do đâu sinh ra?" Ông ta cũng không nắm được.
Tôi từng đăng tải một bài viết trên phụ bản Nhật Báo Đài Loan: "Từ tĩnh tọa thiền định nói chuyện tẩu hỏa nhập ma". Thật ra rất nhiều người đều hiểu bốn chữ "tẩu hỏa nhập ma", nhưng lại không biết tẩu hỏa nhập ma là như thế nào, là trạng thái tâm lý thế nào. Kì thực, ma có ngọn nguồn của ma, có thể biết được ngọn nguồn ấy thì mới có thể tìm được nguyên nhân thật sự của việc tẩu hỏa nhập ma, như thế mới có thể cứu chữa được. Còn các đại sư Phật giáo, Đạo giáo bình thường, hễ gặp tẩu hỏa nhập ma thì chỉ biết nói: "Thôi rồi, thôi rồi!" Biểu thị rằng tu hành thế là xong rồi, không có thuốc nào cứu được, họ không giải thích được ma là cái gì. Chỉ biết những chi tiết vụn vặn bề ngoài, nguyên nhân chủ yếu của nó thì không động chạm đến, vì thế vô pháp cứu chữa.
Theo tôi nghiên cứu và biết được thì "đạo cao một xích, ma cao một trượng", câu nói này thật sự không sai. Tôi bổ sung thêm một câu là "đạo tâm vừa khởi, ma tướng liền sinh", cái khó của tu Đạo chính là ở đây. Nhìn chung những thần ma bay trên trời, tinh linh, quái tà, yêu quái thật sự không phải là phàm phu bình thường có thể biến hóa ra được, mà chúng là biến hóa thân của một số người tu hành Phật - Đạo. Người tu Đạo mặc dù tu Đạo, mặc dù dựa theo chính pháp mà làm, cũng làm công đức, nhưng tâm họ chưa phục, ví dụ tâm đố kỵ chưa trừ bỏ được, tâm kiêu căng chưa trừ bỏ được, tâm tranh giành chưa trừ bỏ được, tâm ngạo nghễ chưa trừ bỏ được, tâm cuồng si chưa trừ bỏ được. Mà như thế thì, dù có tu hành cũng chưa thể nhập vào cảnh giới chính pháp, nơi họ đọa lạc chính xác là "ma giới", ngưu tầm ngưu mã tầm mã, cứ theo xu hướng ấy của tâm mà quy về ma cảnh. Đó chính là nguyên nhân sản sinh ra thiên ma. Giải thích đúng đắn về thiên ma chính là: "Người tu hành theo Phật - Đạo, nhưng có tâm thiên lệch bám chấp."
Nguyên nhân gây nên tẩu hỏa nhập ma mặc dù rất nhiều và phức tạp, nhưng theo tôi nghiên cứu, đại thể là có hai loại: Thứ nhất, nghiệp chướng kiếp trước sâu nặng, người có nghiệp chướng nặng thì đại bộ phận đều có oan hồn kiếp trước theo thân để đợi cơ hội ra tay, người tu hành tu công phu thanh tịnh thì vào giây phút quan trọng nhất, những oan hồn này sẽ lần lượt hiện thân, thừa cơ xâm nhập vào trong thân của người tu hành, đây chính là "đoạt xá". Vì thế, người có nghiệp chướng nặng thì đừng có bắt đầu tu từ khởi linh và thiền định, nhất định phải tu tiêu nghiệp chướng trước, hoặc tu pháp Chày kim cang bảo kiếm hàng ma mà tác giả viết trong bản văn này.
Thứ hai, người tu Đạo nhất thiết phải trừ bỏ những mê hoặc danh lợi ở bên ngoài, những thứ cám dỗ và tập tính chưa bỏ được thì một khi gặp phải cám dỗ, tâm tự nhiên sẽ điên đảo, tập tính không có cách nào tự kiểm soát được, thế là biến thành những thói mê thích cực đoan, sự đố kỵ và thèm khát đều không thể được. Bởi chưa điều phục được tâm linh thì khi tĩnh tọa tu công, tâm một khi điên đảo thì thiên ma sẽ theo cái mà tâm bạn hướng đến, thừa cơ "đoạt xá". Sau khi chiếm được thân bạn rồi, thiên ma sẽ bám vào tâm bạn, các huyễn tướng sẽ liên tiếp xuất hiện, khiến bạn tự cảm thấy là mình đã đắc đạo rồi, tự cho rằng mình là thiên hạ đệ nhất, một mực mê muội vào trong đó, mê tới mức không biết đường trở về, cho dù cái chết cận kề thì cũng không tự ngộ ra được.
Người bị tẩu hỏa nhập ma, nghiêm trọng thì giống như hiện tượng tinh thần thất thường, không ăn không ngủ, có một số người thì trong miệng luôn lẩm bẩm tự nói, hành vi và lời nói việc làm mất đi trạng thái bình thường, đi đâu cũng tự xưng là người đắc đạo. Thêm nữa, vì ngạo tâm chưa trừ, tự cho mình "còn cao hơn Phật", cao siêu hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, thật ra trạng thái tâm thần gần như là vô tri, khiến người ta thấy tình cảnh đó mà sinh lòng thương hại.
Người bị tẩu hỏa nhập ma nếu tình hình nhẹ thì sẽ sinh ra hành vi và lời nói ưa thích cái gì đó thái quá, ví dụ như đặc biệt thích sạch sẽ, ám ảnh về việc sạch sẽ hơn người bình thường, cho rằng trên đời này không có cái gì là không bẩn. Hoặc có người thì ưa thích cô độc, hoặc có người thì ưa thích tức giận, hoặc có người thì thích ngoan cố, hoặc có người thích kiêu ngạo, hoặc có xu hướng thay đổi rất nhanh, v.v… Thiên ma đoạt xá là dựa vào tâm thái của người đó mà bám vào cái tâm ý đó, thần hồn điên đảo, đáng thương lắm thay!
Vì thế, người tu Đạo cần học pháp Chày kim cang bảo kiếm hàng ma, đạo lý nằm ở đây. Trước khi tĩnh tọa tu công cần làm pháp như sau:
Dùng hai tay kết hai thủ ấn Lôi đình [lôi đình là sấm sét]. Tay phải kết ấn Đình, ngón cái cong gập lại đè vào vết hằn ở giữa ngón út và áp út (giữa Tý và Hợi), rồi ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út đều cong lại đè lên trên ngón cái. Nắm đấm làm thành thức hàng ma. Tay trái kết ấn Lôi, ngón cái tay trái cong gập lại, đè vào vết hằn ở chân ngón áp út (Tý), rồi ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út cong lại đè lên trên ngón cái, nắm đấm làm thành thức hàng ma.
Đầu tiên chắp tay lại bắt đầu từ giữa hai lông mày tách ra, chạm vào hai tai, rồi hai vai, hai mạng sườn, đến tim, chạm vào hai eo, hai thận, hai hông, hai đầu gối. Sau đó, tay trái kết ấn Lôi, từ hổ khẩu [hổ khẩu là khoảng giữa ngón cái và ngón trỏ], lướt lên đến vai, rồi tay phải kết ấn Đình, từ vai trái lướt xuống đến hai eo. Nam trái nữ phải, chân dậm, niệm chú rằng: "Kim cang bảo kiếm hàng ma xử, lôi đình vạn quân thế như thiên, thiên ma tinh tà giai độn khứ, tâm hữu quang minh bất đảo điên. Cấp cấp phụng hộ pháp long thiên luật lệnh sắc."
Theo như tác giả hiểu, học Phật tu Đạo tất sẽ có nạn ma, Phật Tổ ở dưới gốc cây bồ đề bị ba cô gái của Ma Vương mê hoặc mà không động tâm, chúa Jesus ở nơi đồng hoang 49 ngày bị Ma Vương dụ dỗ mà không động tâm. Đại đạo sắp thành thì ma tướng tất hiện, điều này là tự nhiên thôi. Hơn nữa, người tu Đạo quan trọng nhất là phải kiểm soát được tâm mình trước, tâm mình bất động thì đạo sẽ thành, tâm còn chạy lung tung thì là phàm phu. Thì ra chẳng phải thiên ma tìm đến bạn, mà là do tâm động thì cảm nhiễm thôi, nếu vô tâm thì cũng vô ma, còn có tâm thì sẽ nhiễm ma, đạo lý ấy nằm ở đây, không thể không biết.
Pháp Chày kim cang bảo kiếm hàng ma là pháp song tu Phật - Đạo, Bồ Tát Vi Đà, Kim Cang Nộ Mục, thiên ma khiếp sợ, chày hàng ma hộ trì tại thân thì không lo không sợ. Nhưng chớ để tâm gọi ma tới, cái này không phải trò đùa.
09. Khởi linh thần công đệ nhất pháp
Trong cuốn văn tập số 22 mà tác giả đã viết có một bài là "Khởi linh thần công đệ nhất pháp", và trong cuốn "Thông linh bí pháp thư" này cũng lại viết "Khởi linh thần công đệ nhất pháp", hai bài này chẳng phải là trùng lặp sao? Nhưng tôi nghĩ đến cuốn số 22 "Khởi linh học" xuất bản vào năm Dân Quốc 65, tác phẩm của sáu năm trước, người có "khởi linh học" cố nhiên là rất đông, nhưng người chưa đọc về pháp này cũng không ít. Bài viết này là trọng điểm tu hành khởi linh của Linh Tiên Chân Phật Tông, không thể không biết, vì thế trong cuốn sách này tôi đặc biệt nói rõ lại những điểm quan trọng.
Thế nào gọi là khởi linh? Khởi linh nghĩa là biến phàm phu thành người có linh giác, cũng có nghĩa là biến linh hồn thành có tri giác, quá trình này gọi là khởi linh. Pháp môn vận dụng tri giác của nguyên thần để tu hành chính là pháp môn tu hành của Linh Tiên Chân Phật Tông. Phương pháp này là phương pháp cảm ứng thù thắng, ai ai cũng có thể biết được thực sự có cảm ứng, thực sự có quỷ thần, nói theo cách rất gây sự chú ý của người ta thì là "xuất sắc vô song".
Khởi linh thần công đệ nhất pháp, trọng điểm như sau: Thứ nhất, bất kì người nào muốn khởi động hoạt linh, điều kiện thứ nhất là phải có tín ngưỡng tôn giáo, người không có tín ngưỡng tôn giáo thì xin đừng tùy tiện thử nghiệm, người thành tâm linh động, kiên định thì không có chuyện không thành công. Nếu trẻ con muốn khởi linh, tôi khuyên họ hãy bỏ đi, bởi vì không có tín ngưỡng tôn giáo kiên định, không làm chủ được tinh thần thì rất dễ nhập ma. Nếu chỉ là thử nghiệm cho vui thì rồi sẽ rất hối hận, tôi khuyên họ cũng đừng như thế, bởi vì một chữ "chân thành" vẫn là nền móng của trời đất, là sự khởi đầu của vạn pháp, tất cả đều bắt đầu từ chữ "chân thành" này, như thế đã là thành công một nửa rồi. Nếu còn nghi hoặc thì vẫn là người không có đủ nhân duyên.
Thứ hai, khởi linh lấy hơi thở và ý niệm làm trọng, bất kì suy nghĩ nào cũng phải dừng lại, chỉ giữ lại suy nghĩ khởi linh, vạn pháp quy nhất, vạn niệm quy nhất, một niệm không khởi lên thì cái này cũng tức là cái chân cơ huyền diệu, sự xung kích của hoạt linh, sự xuất hiện của Phật tính đều nằm trong một niệm còn lại này, mà một niệm tức là vô niệm, vô niệm thì là chuyên nhất, một tiếng sấm rền, thần quang như linh xà chạy nhảy dữ dội, hễ được tiếp dẫn thì một cảm giác đến từ toàn thân, cứ như thế nguyên thần hoạt bát ở trên thân lưu động như mạch máu chảy, đều có thể cảm nhận được vô cùng rõ rệt, sự chuyển động của linh hồn này giống như con rắn bò đi khắp toàn thân.
Thứ ba, người muốn khởi linh, trước tiên phải chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, cũng giống như phòng thiền của Phật gia, có thể dùng thư phòng cũng được. Khởi linh không được ngồi trên giường, mà phải ngồi trên một chiếc ghế sạch sẽ đặt trong phòng, không cần phải chú trọng đến cách ngồi ra sao, không cần phải ngồi khoanh một chân, khoanh hai chân hoặc ngồi kiểu hoa sen mà có thể ngồi tùy ý, chú trọng đến sự tự nhiên thoải mái, làm sao để có thể ngồi được rất lâu là ổn. Trước đó cần tắm gội trai giới, cầm hương bẩm báo với thiên địa thần linh, thái độ trang nghiêm, không được làm một cách tùy ý qua loa, trai giới được ba ngày thì tốt, càng lâu càng tốt, về mặt tinh thần thì phải thành tâm, tuyệt đối không được đắc tội với thần linh cõi trời, nếu đắc tội thì các vị không thể trợ lực, mà thế thì cũng vô dụng!
Thứ tư, trong tịnh phòng châm hương, một nén hương hoặc ba, năm nén hương đều được. Tín đồ Phật giáo thì trong tâm có thể niệm thầm A Di Đà Phật, tín đồ Đạo giáo thì trong tâm có thể niệm thầm Diêu Trì Kim Mẫu, tín đồ Cơ Đốc giáo thì trong tâm có thể niệm thầm Jesus Christ, tôn giáo khác thì cũng như vậy mà suy ra. Phải nhớ hai tay cần chắp lại, chắp lại đặt trước ngực, hai mắt nhắm lại, hai chân chạm đất, nhất tâm hoàn toàn tập trung vào niệm thầm bốn chữ Thánh hiệu. Lúc này, bàn thờ thanh tịnh, tâm thông với trời, nếu cảm động khiến thiên thần hạ giáng thì thiên thần sẽ nhanh chóng tương trợ, và linh của bản thân ở hải để luân sẽ động đậy, giống như con gà nhỏ đang nứt vỏ, linh hồn trong sát-na sẽ bật tung ra, thần trí lúc này rất sáng sủa, và không cần phải sợ hãi, cứ để cho linh ấy tự chuyển động. Lúc này, lập tức tay múa may, chân giẫm đạp, đầu lắc tay vẫy, thân cũng chuyển động, cái này gọi là sáu cơn đại chấn động của tiểu chu thiên. Thần sắc không đổi, bàn thờ thanh tịnh, không nhiễm ác duyên, không chấp dị tướng, đây mới là chính đạo.
Thứ năm, khởi linh phải cần thời gian bao lâu, phần lớn thì mỗi lần khoảng năm mươi phút, cái này cũng thay đổi tùy theo mỗi người, mỗi người mỗi khác, có người vừa ngồi xuống, dựa theo pháp nhân duyên, chưa đến một phút là đã có được cảm ứng rồi. Cũng có người phải ngồi đến lúc thời giờ đến mới có cảm ứng, có người liên tục tĩnh tọa mười lần mới có được cảm ứng. Theo tôi nghiên cứu, người bình thường khi ngồi tĩnh tọa thì thường không thể tĩnh lại được, các suy nghĩ trong đầu cứ tuôn trào như sóng, mà đã như thế thì muốn cảm động thiên thần hạ giáng là vô cùng khó, ngược lại còn dễ vấp phải ma đạo. Nếu ở trước Phật Bồ Tát mà khởi linh, có minh sư bảo vệ thì tương đối sẽ không xảy ra sai lầm gì. Có một số người không dựa theo chính pháp, không thành tâm, Thiên long Hộ pháp chưa đến, ngược lại còn bị âm thần quấy nhiễu, như thế thì rất phiền phức. Hôm nay tôi giải thích rõ như vậy, nhấn mạnh thêm một lần nữa, rằng không được xem thường đây là trò chơi, như thế thì cực kì không tốt.
Thứ sáu, các tông sư Phật môn nhiều đời ngày xưa, công án thiền nhiều, Thiền tông cũng nói về tĩnh tọa, Thiền tông nói về nhất tâm bất động, pháp chân không cũng là không, không chấp vào một niệm. Nhưng mà ngày nay, Linh Tiên Chân Phật Tông của Lư Thắng Ngạn tôi và Thiền tông vừa khéo lại tương phản với nhau, mặc dù tương phản, nhưng mục đích là giống nhau, hoàn toàn là vì để người người có thể thành Phật tác tổ. Thiền là nói về định, nói về tĩnh, còn tôi nói về linh, nói về động, cái này giống như một biển lớn, những con sóng trên mặt biển chuyển động ghê gớm như vậy, nhưng mà đáy biển thì vẫn bình lặng như nước đứng yên. Những linh tính cuồn cuộn cũng như thế. Nếu hiểu được câu nói này của tôi thì chính là đồng đạo đồng môn.
Còn nhớ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh từng chỉ thị cho tôi rằng: "Phật ta độ người, vốn có vô lượng pháp môn, thiền pháp mặc dù to nhỏ vi diệu, nhưng cũng có thể nói là phàm phu thế tục ngồi khô ba đời cũng chẳng đi đến đâu, thượng nhân rốt cục quá ít. Nay pháp môn Linh Tiên Chân Phật mới bắt đầu, thời cơ phổ độ Phật pháp đã đến, Liên Sinh, đừng quên "khởi linh thần công đệ nhất pháp" mà ta đã giao phó cho con, để chúng sinh ban đầu có được cảm ứng, phụng trì cả đời, sớm chứng bồ đề."
Có người hỏi tôi: "Khởi linh ngoài cách làm như vậy ra, còn có câu chú gia trì nào nữa không?" "Có chứ." Chú rằng: "Linh Bảo Thiên Tôn, hộ thân nguyên thần, kích khai thiên linh, biến hồn hóa thần, cấp cấp luật lệnh nhiếp."
Cũng có người học khởi linh xong liền buông lơi, trên thực tế những người kiểu đó cũng rất nhiều, bởi vì khởi linh thì dễ, muốn tu "trúc cơ" thì cần ba năm, sau ba năm lại tu "thổ nạp tĩnh công" ba năm nữa, sau khi thành rồi thì lại tu pháp "nhập ngã ngã nhập biến thân" ba năm nữa, như thế là cần chín năm mới xem như là có được cái nền cơ bản. Nếu thành công "nhập ngã ngã nhập" thì tôi dám bảo đảm Diêm Vương tiểu quỷ đều không bằng, thiên quan thiên sứ cũng không dám coi thường nữa. Nguyên thần của chúng ta từ lâu đã thành tựu tượng của tổ sư huyền tổ rồi, thành cái thể của Phật Tổ kim quang rồi. Nếu chỉ khởi linh mà không biết tu "đan nguyên tĩnh công" thì cũng vô dụng thôi.
10. Pháp thông linh thỉnh thần
Xưa nay quỷ thần trong thiên hạ Tâm niệm đức triệu tự thần thông, Thiên nhãn thấy được hư không giới Thủ ấn kiệt xuất tự đắc xuân.
Bài kệ này là do thầy của tôi Thanh Chân Đạo Trưởng nói. Thầy tôi nói rằng: "Con người có thể thông linh thỉnh thần chủ yếu là do tu thành linh thể, linh thể và thần linh có cùng một nhân tử, vì thế có thể đạt được cảm ứng. Muốn thỉnh thần phải dựa vào đức hạnh và thần cách tương đương thì mới có thể cảm động tới thần linh ở thượng giới xuống để tương trợ." Ý trong lời dạy của thầy tôi thường xuyên động viên tôi, phẩm cách người tu đạo phải thanh cao, cá tính phải ôn hòa, đức hạnh phải tuân thủ, như vậy mới có thể triệu thỉnh được "cao linh". Ngược lại, phẩm cách thấp hèn, tâm địa hẹp hòi, vô công vô đức, cho dù có học được cách thông linh thỉnh thần thì cũng chỉ thỉnh được những loài quỷ linh tiểu tinh kém cỏi hổ thẹn mà thôi.
Ông Lý Hồng Hổ cảnh sát hình sự ở thành phố Đài Trung kể với tôi một câu chuyện rất thú vị. Ông ấy nói ở Lộc Cảng [ ND: một thị trấn ở huyện Chương Hóa, Đài Loan ] có một người tự xưng là Thái tiểu thư thông linh, dáng người phốp pháp, trên mặt đầy tàn nhang, tuổi tác cũng không còn nhỏ, nghe nói là không gả được cho ai. Có một lần, cô ta thông linh thỉnh thần, bất ngờ hét lớn: "Huyền Thiên Thượng Đế, ông lại đây cho tôi! Trì Phủ Thiên Tuế, ông cút đi cho tôi!" Lý Hồng Hổ thở dài nói với tôi: "Tôi chỉ nhìn một lần, lắc lắc đầu, lần sau mời tôi đi tôi đều không đi." Cảnh sát Lý cho rằng những thần mà để cho một bà cô xấu xí béo mập như vậy quát tới quát lui thì còn chẳng bằng người hầu, trên đời làm gì có chuyện như vậy, đây không phải bị bệnh thần kinh thì cũng là lừa đảo, những người bị cô ta hù dọa có trình độ hiểu biết quá thấp kém, thật sự tin rằng cô ta là Quan Thế Âm Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát thì cũng không thể sai khiến những vị thần khác như nô tài như vậy được. Cảnh sát Lý còn nói: "Người tu Đạo tu muốn chết mới xưng thần nhập tiên được, kết quả là để cho một bà cô bị bệnh thần kinh sai khiến, có mà tu cái rắm."
Tôi cảm thấy, chúng ta không nên trách cảnh sát Lý đã nói những lời ác khẩu phê bình Thái tiểu thư, nhưng Thái tiểu thư đã để cho rất nhiều người tu Đạo có ấn tượng không tốt, nghe nói bụng dạ cô ta rất hẹp hòi, hơi một tí là nói cô ta kiếp trước là con gái của một đại đế nào đó, thỉnh linh triệu thần như gọi nô tài, trong thiên hạ này cô ta là to nhất, kiêu căng ngang ngược. Còn đối với việc có linh hay không thì càng bị người ta giễu cợt. Tác giả chưa từng gặp mặt Thái tiểu thư, chỉ nghe lời đồn, có lẽ cũng có sai sót. Nhưng cảnh sát Lý là một trong số những nhân chứng cho thấy Thái tiểu thư không biết nghi quỹ Đạo pháp, chỉ làm qua loa tùy tiện, tương lai chắc chắn sẽ phạm tội với trời. Tại hạ kém cỏi nay sống tại Seattle nước Mỹ, vốn dĩ bà cô này làm cái gì chẳng có dính dáng gì đến tôi, nhưng người tu Đạo vốn có lòng từ bi, khi đã biết rồi thì không có cái đạo lý không cứu.
Tôi đặc biệt nói rõ cách thông linh triệu thần chính xác như sau:
Thứ nhất, triệu thần từ cõi trời có nghi quỹ phức tạp, trong pháp môn Chính Nhất của Đạo gia [ ND: phái Chính Nhất ] có ghi chép đầy đủ. Trong Phật môn, khi cúng dường lên trên, kính mời chư Phật thọ cúng, vẫn phải chí thành làm theo nghi thức, đồng thời người làm tạp vụ không được đi vào tịnh đàn, vì sợ rằng sẽ có ô uế. Bởi vì nghi quỹ rất nhiều, nhưng đại để là giống nhau, không ngoài trai giới tắm gội, hết sức cung kính, bẩm báo lên bề trên, viết phù niệm chú để thỉnh linh cung nghênh cung tiễn, hành lễ đúng theo lễ nghi, đây là những cảnh tượng thường thấy Phật gia, Đạo gia hay dùng.
Thứ hai, giả dụ sự tình rất khẩn cấp, địa điểm cũng không phải ở trước đàn miếu chùa chiền, người thông linh cũng phải rửa tay súc miệng trước, thành kính hướng mặt lên không trung, dùng tay phải kết kiếm ấn viết lên hư không ba chữ "vân quỷ phi". Tay trái bấm vào chi giờ của ngày hôm đó, nếu ngày hôm đó là ngày Giáp thì bấm vào vị trí vết hằn của giờ Tí. Sau đó bật hơi thành tiếng: "Lôi đình hiệu lệnh, cấp như tinh hỏa, thập phương tam giới, khuynh khắc diêu văn, linh quan truyền tấu, luân niên trực nguyệt, bản nhật bản thời, thọ sự Công Tào, thông linh thổ địa, vấn ngô luật lệnh, hỏa tốc đáo lâm, hữu sự tương bẩm, cấp cấp luật lệnh." Sau đó lại dùng kiếm chỉ viết lên hư không ba chữ "Ôm hum hum", rồi lại niệm: "Công Tào cấp chí sô ha." Đợi Công Tào Linh Quan Thần đến rồi thì lần lượt thưa bẩm sự tình, như vậy là thành.
Thứ ba, nếu phụng thỉnh các vị cao nhân chân nhân ở Tiên Thiên Vô Cực thì chú ngữ để tuyên triệu như sau: "Tiên Thiên Vô Cực, Tổ Sư Pháp Ấn, Linh Quan Thiên Quân, Vô Tư Phạt Ác Vương Thiên Quân, Oanh Thiên Phích Lịch Trần Nguyên Sư, Kim Tiên Khảo Quỷ Khâu Nguyên Sư, Chung Thượng Tự Khởi Nhị Lôi Thần, Tiên Thiên Ngũ Lôi, Hậu Thiên Ngũ Tướng. Ôm hum tra li." Chí thành cầu nguyện như vậy, Thiên Quân chắc chắn đến, sau đó lại dùng miệng để thưa bẩm trình bày việc quan trọng, làm như vậy chắc chắn với tới cõi trời.
Theo thầy tôi nói: "Cảnh giới Thần Tiên chí cao vô thượng, phàm phu bình thường không thể trực tiếp tuyên chú mà gọi được, đại bộ phận đều phải do Công Tào, Linh Quan, Thiên Quân chuyển hộ lời trình. Có sự chuyển hộ lời trình thì mới là thông linh triệu thần chính xác. Các thần của địa thượng giới gọi là phân linh, có nơi thì gọi là phúc tôn, họ cũng có năng lực truyền bẩm lên cõi trời, cũng có thể tuyên triệu. Còn như các loài yêu ma quỷ mị thì thường giả danh thần thánh giáng kê giáng bút, xưng tiên tác tổ, những chỉ thị do các phi linh này truyền tới không chắc đã là cao chân lâm đàn thật sự, việc này phải phân biệt cẩn thận mới được. Cái khó của tu Đạo chính là khó phân biệt đó."
Nghe nói, hiện nay tương đối nhiều người tự xưng là thông linh, ở Nam Đầu [ND: một thành phố ở Đài Loan ] có một vị là Minh Sư tiên sinh, nói rằng thần nhìn thấy ông ta thì cũng phải quỳ xuống, còn vĩ đại hơn cả hoàng đế chuyên chế. Thái tiểu thư ở Lộc Cảng coi thần như nô tài. Lão tiên sinh ở Gia Nghĩa [ ND: một thành phố ở Đài Loan ] chỉ tay vào máy bay thì máy bay sẽ rơi xuống. Hồng đạo trưởng từ Hậu Lý chuyển đến Long Tỉnh thì nói rằng ông ta là con của Thông Thiên. Bọn họ tự đánh trống tự thổi kèn, đều nói mình rất vĩ đại. Ngoài ra, lão tiên sinh Lý Ngọc Giai của Thiên Đế giáo nói rằng ông ta là Giám Sát Thiên Quân đời cuối cùng ở thiên thượng chuyển kiếp, là người duy nhất tồn tại ở nhân gian, người khác đều là giả, chỉ có ông ta là thật. Lão tiên sinh Lý Ngọc Giai từng gặp tác giả một lần, khi đó ông ấy vẫn chưa lập ra Thiên Đế giáo, tại nhà của ông Hoàng Hựu Thanh, ông ấy đã thỉnh giáo tôi những chuyện về Thánh giáo Thiên Đức. Buổi tối, trên tầng cao nhất của khách sạn Lục Phúc, ông ta còn đặt tiệc chiêu đãi tôi và học sinh của tôi, người đến dự tiệc hôm đó có Trần Tước Hằng, Lâm Thông Nhân.
Tốt rồi! Tôi chúc phúc các vị, thượng thể thiên tâm, thiện chí vận linh, đừng tranh dài ngắn, thế là tôi vui rồi.
11. Thân ngoại hóa thân hiển thần thông
Truyền thuyết kể rằng có một vị cao tăng Phật môn, lúc bình thường biểu hiện rất xoành xĩnh dung tục, cũng chẳng cảm thấy có đạo hạnh gì cả. Người khác hỏi ông ta có thần thông gì, ông ta nhếch mép cười ngu ngơ một hồi, rồi chỉ nói rằng: "Thần thông, thần thông, chó rắm chẳng thông."
Đệ tử của ông ta kể với ông mỗi khi các tăng nhân khác có cảnh giới kì lạ của họ, ông ấy luôn nói một câu: "Không hẳn là có chuyện đó thật đâu." Các đồ đệ thấy thầy mình biểu hiện bình thường, tướng mạo thì mặt ngựa mắt chuột, hỏi ông ta Phật pháp thì ông ta luôn nói nghìn bài như một rằng: "Phật pháp phi pháp." Do vậy, các đồ đệ người thì bỏ đi, người thì tản mát, đến cuối cùng chỉ còn lại mười mấy đồ nhi nuôi dưỡng ông ta, còn ông ta thì vẫn chẳng bận tâm chuyện đó.
Mãi cho đến buổi tối trước khi ông ta sắp viên tịch, vào cùng thời gian đó nhưng ở các địa điểm khác nhau, vị trưởng lão đó đã hiện các thân khác nhau truyền "vô thượng thượng căn bản chân quyết" cho mười mấy đệ tử. Nói cách khác là, vào lúc trưởng lão sắp chia tay các đệ tử thì ông ấy mới biểu lộ thần thông lớn nhất, phân thành mười mấy thân, đồng thời thuyết pháp cho mười mấy đệ tử. Mãi đến khi các đệ tử vội vã trở về để làm hậu sự cho trưởng lão, mọi người cùng kể chuyện thì mới biết ai nấy đều gặp cảnh ngộ giống nhau, khi ấy mới biết trưởng lão là cao tăng có đạo, biểu hiện thô tục bên ngoài chẳng qua chỉ là che đậy diện mục vốn có mà thôi. Sau khi hỏa táng cho trưởng lão thì tự nhiên cũng có xá lợi toàn thân, khiến người ta không ngớt cảm thán.
Phương pháp thân ngoại hóa thân cũng gọi là thuật phân thân. Thuật phân thân so với nguyên thần xuất ra khỏi lỗ đỉnh đầu thì khó hơn, cảnh giới cao hơn. Nguyên thần của Hư Vân hòa thượng đến nội viện tại thiên cung nghe Di Lặc Bồ Tát giảng kinh, đó chỉ là nguyên thần xuất ra từ lỗ đỉnh đầu mà thôi, còn hóa thân bên ngoài thân là một thân thể biến thành hai thân thể, hoặc là vô số vô số thân thể. Pháp này là đồng thời luyện thân người và nguyên thần, cảnh giới này cao, người bình thường không có cách nào hiểu được. Ở đây cũng giống như Tôn Hầu Tử Tề Thiên Đại Thánh trong thần thoại Tây Du Kí, dùng tay bứt ra mấy sợi lông, hô một tiếng "biến", thế là biến thành hàng trăm hàng nghìn Tôn Hầu Tử, hô một tiếng "thu" là hàng trăm hàng nghìn Tôn Hầu Tử lại biến thành lông khỉ. Có điều, thủ thuật che mắt người khác và hóa thân bên ngoài thân thật sự thì lại khác nhau, thân ngoại hóa thân của cao tăng mới coi là chính tông.
Thầy tôi nói: "Nguyên thần là linh hồn, cũng là linh tử, có thể nói là chẳng vội mà vẫn nhanh, chẳng đi mà vẫn đến, thượng thiên nhập địa, biến hóa vô cùng. Nếu luyện nguyên thần đến mức thân thể và nguyên thần hòa lẫn với nhau mà thành một thành hai hoặc thành nghìn, thì cũng giống như tiếng vọng trong khe núi vậy."
Phương pháp luyện nguyên thần như sau: Mỗi ngày, trước tiên phải chuẩn bị vẽ một tấm "phù luyện thần" để sẵn đến giờ Hợi hàng đêm thì dùng. Phàm mỗi khi vẽ phù thì nhất thiết phải tắm gội trai giới, khi vẽ phù phải yên tĩnh, đừng để người khác trông thấy. Đến buổi tối thì tắm gội, thay quần áo mới, sắp đặt hương án, đầu tiên niệm chú tịnh khẩu thân ý, sau đó khởi sư biến thần. Phù luyện thần là dạng thức nào, tôi nói một cách bí truyền như sau: "Kim quang chiếu định thần quang, tùy bút quy chuyển phù vị, hư lập vô cực, xuất tiên thiên khí, lập tức đặt bút trên giấy, vẽ liền một mạch một hơi xuống, trái phải thuận nghịch, thực vận một vòng Thái cực."
Đốt một lá phù luyện thần nuốt vào trong miệng, niệm rằng: "Tiên thiên vô cực nội, hậu thiên thái cực trung, ngã thụ thiên hoàng khí, biến hóa nhất chân không." Sau đó, người luyện nguyên thần bắt đầu tịnh tọa tập trung quán tưởng toàn thân mình từ từ bay lên, tiến nhập vào trong một vòng tròn thái cực, sau đó tất cả biến mất thành vô hình, tất cả không còn tồn tại nữa, ý thức cũng không còn tồn tại, cứ như thế sau một khoảng thời gian, khoảng thời gian này dài ngắn không cố định. (Tiến nhập vào trong vòng tròn thái cực rồi thì người sẽ biến thành trạng thái chân không.)
Đợi đến lúc bản thân hơi tỉnh lại, tập trung quán tưởng bản thân biến thành giống như tổ sư, trên đỉnh đầu có mũ vàng Ngũ Phật, đỉnh đầu phát ra hào quang, mặt mày hiền hậu, thân mình khoác tấm áo pháp y to rộng, tay kết ấn Như Lai Kim Quang, toàn thân trong suốt sáng rực, có các thần Hộ pháp ở không trung bảo vệ, đợi đến khi tập trung nhất tâm rất rõ rệt rồi thì lập tức niệm: "Chư thiên hộ pháp, thiên long hộ thần, kích khai thiên cổ, biến thần hóa thân nhiếp."
Chú luyện thần của Đạo gia và Phật môn hơi có sự khác biệt, của Đạo gia thì như sau: "Lãnh lãnh thanh thanh, xuất ngã nguyên thần, tam đài hộ ngã, ngã bẩm đài tinh, càn khôn nam bắc, nhật nguyệt tinh sinh, bắc đẩu chi hạ, cang thần khôi tinh, nguyên thần bản mệnh, hồn phách nhật thanh, thanh long thủ can, bạch hổ tỏa phế, chu tước chính vị, huyền võ thượng thăng, nguyên thần nguyên hiện, tốc xuất thiên môn, ngô phụng Linh Tiên Liên Sinh pháp chỉ sắc lệnh nhiếp."
Thầy tôi nói: "Nếu ở động phủ ngoại ô, mỗi đêm vào giờ Hợi, tắm gội thay quần áo mới, đứng ngoài trời ở dưới trăng sao, ở chỗ yên tĩnh không có người, sắp đặt một hương án hướng về phía tây, đầu tiên khởi sư biến thần, và đọc các chú thanh tịnh, sau đó niệm thầm bảy biến chú luyện thần, đốt một lá phù luyện thần, hòa vào nước sạch rồi uống, rồi quay về phía đông hít lấy một hơi khí và nuốt xuống, sau đó tĩnh tọa tập trung tư tưởng. Mỗi đêm uống một lá phù luyện thần, luyện 49 ngày là hoàn tất."
Theo như tôi biết, nguyên thần của con người nếu tiến nhập vào vòng tròn thái cực, toàn thân sẽ nhẹ nhàng bay bổng như chẳng có vật gì, và cũng giống như thân thể tứ chi đều phân tán ra, ý thức giống như rơi vào vực sâu vạn trượng, không có một thứ gì để có thể bám vào. Người bình thường khi đến được cảnh giới này, có người thì kinh hoảng chấn động, cho rằng chắc chắn là tẩu hỏa nhập ma rồi, có người thì la hét ầm ĩ, không chịu được sự vắng lặng bất thình lình, có người thì vừa nhập vào lập tức rút lại, giống như là vừa mới vào đã chết rồi. Thật ra chỉ cần bản thân mình chính tâm thành ý nhập vào vòng thái cực thì cũng giống như con thuyền đi trong đại dương mênh mông, giống như máy bay bay trên mây, càng đi càng thấy rộng, càng đi càng thấy sáng, không có gì đáng sợ cả. Tác giả thường ra ra vào vào vòng thái cực, đó là lỗ cửa để nguyên thần ra vào, người mới học không biết là như thế, cho rằng mình rơi vào trong vực sâu vạn trượng, chẳng giữ nổi một nhịp tim nữa, lo sợ rằng mình sắp chết đến nơi rồi. Thật ra nguyên thần thoát ra khỏi lỗ đỉnh đầu cũng không khác cái chết là mấy, nhưng "nguyên thần xuất khiếu" là chết giả, còn cái chết là chết thật, chỉ là như vậy mà thôi.
Phương pháp luyện nguyên thần, có người luyện xong 49 ngày, lập tức có thể ra vào vòng thái cực, mặc dù còn cách cảnh giới thân ngoại hóa thân rất xa, nhưng luyện nguyên thần là nền tảng, có được nền tảng rồi thì còn sợ không thành công sao? Phương pháp này cũng có người luyện không thành công, ví dụ như do thành ý của bản thân chưa đủ (tuyệt đối không được xem đây là trò chơi), hoặc là nghiệp chướng sâu nặng, không có cách nào dùng chú lực để khiến Tam Đài Tinh Quân bảo vệ được, những người như vậy, tôi khuyên họ tu nhiều pháp môn niệm Phật hơn, nhờ phương pháp niệm Nam Mô A Di Đà Phật mà tiêu trừ nghiệp chướng, tăng phúc huệ, Phật lực che chở mà đạt đến bỉ ngạn Tây phương tịnh thổ. Niệm Phật tu tịnh độ có cơ sở rồi thì lại tu pháp luyện thần xuất nhập vòng thái cực, biết đâu nguyên thần vừa xuất khiếu thì bất ngờ đến được Phật quốc để nghe Như Lai thuyết pháp. Còn nhớ trước kia có người lườm nguýt tác giả, nói Lư Thắng Ngạn tinh thần cuồn loạn rồi, đến Phật quốc nghe pháp sao mà dễ thế. Trên thực tế, chỉ cần tu luyện pháp luyện thần chính xác, xuất nhập vòng thái cực, linh hồn xuất khiếu, đến tây phương Cực Lạc thế giới nghe A Đi Đà Phật giảng kinh thì có gì là khó đâu!
12. Xem quá khứ vị lai cần có linh trí
Bấm ngón tay tính đếm một lúc, tôi tổng cộng đã chuyển nhà bảy lần. Ngôi nhà đầu tiên của tôi ở hợp tác thôn mới trên đường Lực Hành ở Đài Trung. Ngôi nhà thứ hai ở hẻm 337 đường Tiến Hóa. Ngôi nhà thứ ba ở đường Tinh Võ, ngôi nhà thứ tư ở đường Nghi Hân 2 ở phường Nghi Hân, ngôi nhà thứ năm ở cao ốc Lạc Quần trên đường Tiến Hóa, ngôi nhà thứ sáu ở biệt thự Tinh Võ trên đường Chấn Hưng. Lần thứ bảy thì chuyển nhà xa nhất, đó là đến Seattle nước Mỹ xa vạn dặm. Những ngôi nhà của sáu lần trước đều ở thành phố Đài Trung Đài Loan, chỉ có lần thứ bảy là chuyển đi xa nhất. Nhưng tôi vẫn muốn chuyển nhà nữa, mặc dù môi trường sống của ngôi nhà ở Seattle nước Mỹ rất tốt, vừa an ninh vừa xinh đẹp, thế nhưng trong lòng tôi, thành phố Hakodate ở Hokkaido Nhật Bản mới là chốn bồng lai tiên cảnh, tỏa ra khí chất thoát tục thanh cao.
Có người hỏi tôi vì sao lại chuyển nhà, thật ra chuyển nhà không phải là sở thích của tôi. Tôi bị dồn ép đến mức không chuyển nhà không được, bởi vì khi tôi sống ở một nơi nào đó lâu, người ta biết tôi là Lư Thắng Ngạn viết sách tâm linh liền lũ lượt kéo đến yêu cầu tôi xem bói, cứ thế lan truyền, mỗi ngày từ sáu giờ sáng trước cửa nhà tôi đã có khách đến rồi. Buổi sáng vừa mở cửa ra, khách muốn tôi xem bói đã ùn ùn như thủy triều kéo vào trong phòng khách. Phòng khách nhà tôi luôn rất rộng, nhưng vẫn không thể chứa được hết mấy trăm người. Vì tôi xem chuyện tâm linh rất linh nghiệm nên người ta càng đến càng đông, không có một ngày nào là giảm bớt, đây chính là lý do mà tôi không thể không chuyển nhà.
Phương pháp xem tâm linh của tôi là như thế này. Tôi đọc họ tên và địa chỉ của người hỏi một lần. Linh trong không trung liền triển khai công tác điều tra, rồi nhanh chóng thông báo cho tôi biết đáp án, quá khứ và tương lai của người này đều hoàn toàn được biết hết, người này vận mệnh ra sao, tình cảnh hiện tại khó khăn thế nào, thậm chí làm sao để giải quyết khó khăn. Nhờ có sự chỉ đạo của linh cảm trong không trung mà mọi thứ được giải quyết dễ dàng. Thật ra, linh giới chiếm đa số các chiều không gian, lớn thì đến mức độ vận mệnh của tinh cầu thập phương trong vũ trụ, vừa thì đến mức độ vận mệnh quốc gia, nhỏ thì là vận mệnh cá nhân, không có cái nào không nằm trong lòng bàn tay. Có thể biết năm trăm kiếp trước, năm trăm kiếp sau, có khó khăn gì thì chỉ cần nhìn xem linh của bạn có tốt hay không mà thôi.
Còn nhớ lúc tôi ở Đài Loan, có người đăng quảng cáo lớn trên báo, gọi "Đài Trung Lư Thắng Ngạn, Dân Hùng Liễu Tử Tiên, Thuận Thiên Phú Quý Thư Sinh" là thiên hạ tam đại thần toán, mà người đăng quảng cáo lại chính là Thuận Thiên Phú Quý Thư Sinh. Người này đăng quảng cáo như vậy có thể thấy dụng ý rất rõ ràng, biết rằng tiếng tăm của hai người trước rất lớn, muốn được "thơm lây", xem xem có thể nương nhờ tiếng thơm được không. Thật ra Thuận Thiên Phú Quý Thư Sinh là ai? Anh ta có một cái tên giả khác là Lục Thắng Linh, cái tên Lục Thắng Linh này đương nhiên lại là muốn gợi ra ấn tượng sai cho người khác mà thôi, thực tế người này là một thuật sĩ giang hồ chính cống, là cái hạng người vô vị cùng cực!
Trong nghề xem tử vi ở Đài Loan, xem tay, xem mặt, xem bát tự, sờ nắn xương, họ tên, ấn chương, bàn tính, nhật lịch, bốc quẻ, bói chữ, cân lạng… những người học chuyên thật sự không phải là không có, nhưng phần lớn là thể loại giang hồ dốt nát kém cỏi. Những mánh lới của những thuật sĩ giang hồ tôi đã thấy nhiều rồi, chỉ cảm thấy nực cười mà thôi. Hoàn toàn là những thủ pháp ma thuật lừa người ta là nhiều, những thứ đó không đáng tin tưởng. Theo như tôi biết, muốn thần tướng chuẩn xác thì phải là bách linh bách nghiệm mới được, chứ không phải là phó mặc cho vận khí, xem xác suất. Vì thế, để thật sự có thể biết quá khứ tương lai không phải là toán học phổ thông, mà là trí huệ linh cảm, mà trí huệ linh cảm này hoàn toàn phụ thuộc vào thánh linh của bốn chiều không gian trở lên, trí huệ của họ mới có thể biết được quá khứ tương lai. Còn xem tay, xem mặt, bát tự, v.v… là học về các dấu hiệu của vận mệnh quá khứ tương lai, học các dấu hiệu là hữu hình, học về linh cảm là vô hình, vô hình bao gồm cả hữu hình, đương nhiên vô hình là to lớn hơn, tất cả hữu hình là do vô hình diễn hóa mà ra.
Người khá nổi tiếng ở Formosa Đài Loan, ngoài tôi ra, còn có Liễu Tử Tiên ở Dân Hùng là một người mù đoán mệnh, và còn có một người mù đoán mệnh qua sờ nắn xương ở Quan Tây nữa. Liễu Tử Tiên là người dùng pháp "linh đồng nhĩ bão" chính cống, có nghĩa là phương pháp nhờ âm linh giúp đỡ thông báo. Còn người sờ nắn xương ở Quan Tây thì thật ra việc sờ nắn xương chỉ là mượn cớ ấn ấn bàn tay, chứ thật ra người đàn ông này cũng dùng pháp linh đồng nhĩ báo, một hình thức hoàn toàn giống như y như đúc với Liễu Tử Tiên, một nam một bắc, đúng là không phải là độc nhất vô song. Hai người họ đều là người mù, đều có cảnh ngộ không bình thường. Còn pháp linh đồng nhĩ báo chính là một trong những pháp linh trí. Người có thể vận dụng pháp linh đồng nhĩ báo, trong giới xem tử vi, thì nhất định phải kể ra đầu tiên, đây là điều mà không ai có thể phủ nhận được.
Ngoài ra, có người hỏi tôi có quen Lâm Vân tiên sinh không, tôi nói tôi không quen, nhưng tôi từng đọc bài báo có người viết về ông ta, nói rằng ông ta là truyền nhân của Mật tông Hắc giáo. Tôi đã thỉnh giáo một cao nhân Mật tông, người đó nói với tôi rằng: "Mật tông Hắc giáo là tông phái hại người, thuộc về thuật trù yểm, vì hành vi phẩm cách thấp hèn nên từ lâu ở Tây Tạng đã không còn tồn tại rồi. Mật giáo hiện tại có Hồng giáo, Hoàng giáo, Bạch giáo, Hoa giáo. Lâm Vân tiên sinh tự xưng là Mật tông Hắc giáo, thật ra ông ta không có kế thừa, Mật tông coi trọng nhất là sự kế thừa, không có kế thừa mà học Mật tông thì chính là kẻ trộm pháp đại nghịch bất đạo. Điều này ở chỗ chúng ta mà nói thì chúng ta không thừa nhận Mật tông Hắc giáo của Lâm Vân tiên sinh. Ngoài tự xưng là Hắc giáo, lại còn so sánh với Đại thủ ấn, Đại thủ ấn là thủ ấn số một của pháp Đại Viên Mãn. Hắc giáo thấp hèn, Đại thủ ấn thì vô cùng cao quý, ông ta đúng là làm xằng bậy. Tướng mạo của Lâm Vân là mắt lồi, nhiều nét hung tợn, không phải tướng thiện."
Tôi lại hỏi: "Bài báo nói ông ta rất linh, người tìm đến ông ta nhiều lắm?" "Ông ta là người thông minh." - Cao nhân Mật tông nói: "Ông ta kết giao với người quyền quý, kết giao với ngôi sao điện ảnh ca nhạc, báo chí quảng cáo miễn phí, còn chuyện linh nghiệm hay không linh nghiệm thì theo xác xuất mà nói đương nhiên cũng có linh nghiệm, vả lại ông ta cũng đọc một ít sách, cũng đủ để hù dọa người ta đến ngơ cả mắt rồi. Ông ta có thể tự vấn tâm mình xem tình hình của ông ta hiện tại là do tự ông ta tạo nên hay là do quảng cáo thay ông ta tạo nên. Còn đạo hạnh của bản thân ra sao, việc này không cần phải tự mình lừa mình nữa."
"Ngài không thừa nhận ông ta ư?" - Tôi sửng sốt. Trong lòng nghĩ: "Chẳng lẽ đại sư ghen tị ư?" "Cái này còn phải nói sao? Hắc giáo Tây Tạng từ lâu đã tan như sương khói rồi. Ông ta lật sách ra xem, tự xưng là Hắc giáo chỉ có một người, không có kế thừa, như thế chính là trộm pháp."
Tôi phỏng vấn cao nhân Mật tông, một vị thầy của nghìn vạn người, vào đúng lúc ngài ấy ở New York trong một pháp hội làm nghi thức quán đảnh minh pháp cho các đồ đệ. Tôi và Lâm Vân tiên sinh hoàn toàn là người xa lạ, hiển nhiên chưa thể nào nghe lời nói từ một phía mà đoán định được thị phi của ông ta.
Đối với linh trí thần toán thì tôi xác nhận, học phương pháp này có pháp "lộ thủy ngẫu tượng", "lộ hình khai tượng", "thúc thần cận hình", "khai hầu thổ ngôn", v,v… Luyện thành thục rồi thì lập tức gọi là lập tức đến, thông thấu quá khứ vị lai. Trong cuốn sách này, tác giả đã suy xét rất lâu, không tiện viết ra phương pháp, vì nếu người xấu lợi dụng thì tội lớn không thể xá được.
13. Đôi điều về thuật trù yểm
Nhắc đến Mật tông Hắc giáo của Lâm Vân tiên sinh, tự nhiên tôi nhớ đến thuật trù yểm. Trong cách làm phép của người Tây Tạng, họ lấy những vật thường dùng trên người của quân địch hoặc kẻ thù, đặt trên bàn thờ thực thi phép thuật, rồi dùng pháp khí niệm chú ngữ, thế rồi quân địch hoặc kẻ thù trong một thời gian rất ngắn hoặc sinh bệnh, hoặc hoảng loạn thành điên, hoặc chết bất ngờ, thuật trù yểm như thế là thành công rồi. Mật tông Hắc giáo chính là những pháp sư lợi dụng thuật trù yểm để kiếm tiền.
Tác giả cũng biết một chút về thuật trù yểm, nhưng cả đời chưa từng hại người. Năm xưa, khi thầy tôi truyền pháp, để mở rộng sự hiểu biết cho tôi nên đã đặc biệt truyền thụ, muốn tác giả sau này nếu có đụng phải những loại thuật sĩ đó thì cũng có cách để phá trừ. Ví dụ, có người dùng mảnh gỗ để khắc thành hình người, hình người đó có mắt tai mũi miệng, trên người gỗ khắc họ tên và sinh thần bát tự. Người gỗ này đã được nhiệm chú trù yểm, sau đó chôn vào nơi bất kì ở trong nhà ở, lấy nồi cơm mà người đó nấu cơm hoặc cái nồi xào rau, hoặc miễn là cái nồi mà họ đã từng dùng, úp lên trên người gỗ rồi cùng chôn, cái nồi phải che đậy lên thân người gỗ. Hàm nghĩa ở đây là con người như con kiến bị nung trong nồi nóng, chết là chết chắc, muốn trốn cũng không trốn được. Một khi đã làm pháp này thì đối phương toàn thân phát sốt không thuyên giảm, xanh xao vàng vọt đến mức chết, nếu không thì cũng bất ngờ chết vì bệnh tim, ban đầu khi phát bệnh thì vô duyên vô cớ ngất xỉu, nếu mời bác sĩ kiểm tra toàn thân thì cũng không tìm ra bệnh, nếu lại kiểm tra kĩ càng hơn thì chỉ kết luận là não thiếu oxy mà chết thôi.
Có một cách để khiến phụ nữ yêu tha thiết vĩnh viễn mà người học thuật trù yểm nhất định sẽ biết, đó là pháp sư lấy một quả trứng gà lộn, đục một cái lỗ ở đầu nhọn của quả trứng rồi hút lòng trắng và lòng đỏ ra. Sau đó pháp sư dùng một chút máu từ ngón áp út tay trái của mình trộn lẫn với một ít gạo, bỏ chỗ gạo trộn với máu này vào trong vỏ trứng, đặt vỏ quả trứng gà này lên bàn cúng, niệm mật chú bảy lần, mỗi lần niệm một câu chú thì cầm quả trứng gà hơ qua đèn nhang một lần, hành động này biểu thị yêu cuồng nhiệt như lửa. Cuối cùng, đem quả trứng gà đi chôn ở nơi mà người con gái đó đi qua. Khi người con gái đó bước qua quả trứng gà này thì sẽ nảy sinh tình cảm, hơn nữa còn yêu điên cuồng, trở thành tình nhân vĩnh viễn.
Thầy phù thủy ở Malaysia có một loại pháp thuật rất kinh người. Thầy tôi nói, thầy phù thủy ở Malaysia chỉ cần lấy một ít nước mà một người nào đó đã tắm qua là đã có thể tùy ý muốn người này sống hay muốn người này chết, nói cách khác là toàn quyền sinh tử nằm trong lòng bàn tay của thầy phù thủy đó. Thầy tôi nói với tôi, nước tắm tượng trưng khí lực toàn thân của một người. Rồi thầy phù thủy kia dùng một cái chậu pháp khí trong đó chứa nước tắm, đun trên lửa, trong miệng thầy phù thủy niệm chú ngữ bí mật bảy lần, thì nếu người đó không kịp thời phá phép thuật, khi nước bị lửa bốc hơi hết, người đó chắc chắn sẽ kêu lớn một tiếng rồi vô duyên vô cớ mà quy về cõi âm.
Mọi người có còn nhớ Lý Tiểu Long, nhân vật chính của bộ phim kungfu Trung Quốc gây tiếng vang năm xưa không? Có một lần tôi đang ở Philippines, có một người nói với tôi, cái chết của Lý Tiểu Long chẳng phải không tìm ra nguyên nhân sao? Dùng doping chăng? Chết tại nhà của Đinh Bội à? Đinh Bội đã trở thành hung thủ sao? Thân thể của Lý Tiểu Long còn cường tráng hơn cả trâu, tất cả những điều này đều không phải là nguyên nhân. Lý Tiểu Long tiếng tăm lừng lẫy vang dội, đắc tội với "phù thủy Mã Lai", thầy phù thủy cao siêu này đã giáng bùa lên Lý Tiểu Long, khiến Lý Tiểu Long bỗng chốc hét lên một tiếng, rồi từ đó chết quay đơ. Thật sự có phải là như thế không, việc đã qua thì mọi thứ cũng đổi, muốn điều tra cũng chẳng biết phải điều tra từ đâu, nhưng cái chết của Lý Tiểu Long là một vụ án không có manh mối, nếu hỏi Đinh Bội e rằng ngay cả Đinh Bội cũng lắc đầu không biết.
Giả sử bạn sống ở Đài Trung, cũng đã từng đọc những bài tin tức của Liên Hợp Báo năm xưa, rằng ở hợp tác Thôn Mới có một pháp sư họ Lư, cùng họ với tác giả, tác giả cũng từng sống tại hợp tác Thôn Mới, nhưng tuyệt đối đó không phải là tác giả. Bởi vì người kia đã sáu, bảy chục tuổi rồi, đã nhai trầu rồi, vừa đen vừa gầy, ăn mặc luộm thuộm. Có một việc khiến người ta vô cùng lườm nguýt đó là, người này khi đi ra ngoài thì tiền hô hậu ủng đều là những cô gái trẻ trung xinh đẹp, tay cầm tay kéo, quàng vai bá cổ. Pháp thuật của ông ta rất mạnh, người phụ nữ mà ông ta muốn thì không ai thoát ra khỏi tay ông ta được. Lão già đó đi ra ngoài tản bộ thì đều có một bầy đàn hộ tống. Phóng viên của Liên Hợp Báo viết về chuyện này, không ngờ bị ông ta làm pháp, khiến vợ của phóng viên đó giống như bị bỏ bùa, làm gia đình anh ta tan nát. Lão pháp sư họ Lư kia tôi từng gặp một lần, phụ nữ trúng tà thuật của ông ta cũng từng tìm đến tôi để cầu giải cứu, tôi đã giải cứu được một cô tiểu thư ngân hàng họ Giang, một cô chủ cửa hàng thực phẩm họ Lý, một cô sinh viên đại học Đông Hải họ Hứa, ngoài ra còn có không ít những cô gái bị trúng tà thuật, thật sự là đáng sợ vô cùng.
Theo như điều sư phụ nói với tôi, giữa trời đất này không có gì kì lạ mà không thể xảy ra, quỷ thần vốn dĩ tồn tại ở trong không gian bốn chiều, nếu như bạn không tìm hiểu thì vĩnh viễn không biết đến sự tồn tại của họ. Nhưng nếu đã nhận thức được hoặc hiểu biết rồi, dùng pháp để triệu gọi, triệu thần sẽ có được trợ giúp, triệu quỷ thì sẽ có được ma thuật. Chú ngữ được sử dụng trong thuật trù yểm vốn là chú ngữ gọi quỷ gọi ma, tâm và ý tương thông, chú chính là ý nghĩ, nếu bạn nghĩ đến thì những con ma quỷ đó cũng tự nhiên sẽ đến. Thật ra, thuật trù yểm cũng là phương thuật "quỷ mê" thần bí, Tiên đạo Phật môn chính phái đối với kiểu tà ma ngoại đạo này đương nhiên không chỉ loại bỏ mà còn cực kì căm ghét. Nhưng người học tập chính pháp tự nhiên cũng cần hiểu ngóc ngách ngọn nguồn của tà ma ngoại đạo, gặp ma phải biết cách phá, nếu bản thân đôi khi sơ xuất mà nhập vào mê muội, chỉ một sai lầm trong suy nghĩ là nhập ma, thì lại càng phải biết cách phân biệt.
Có một câu chú rất linh ứng đối với việc phá ma, tôi đặc biệt viết ra như sau:
"Thiên địa chi vận Nhật nguyệt chi tinh Cương trấn tứ hải Năng trảm ma tinh Khu phân giải uế Phóng đại quang minh."
Sau khi niệm chú ngữ này lại niệm ba tiếng Thường Thanh Tịnh Bồ Tát. Chú ngữ này là phiên dịch từ tiếng Phạn của các Lama ở Phật môn Mật tông Tây Tạng. Bất kể là thuật trù yểm lợi hại ra sao, tôi cảm thấy tà không thể thắng chính. Bất kể chúng ta học Phật hay học Đạo đều nên tu chính pháp, tuyệt đối đừng hiếu kì, một suy nghĩ sai là nhập vào ma pháp đó.
14. Thúc thần hợp nhất
Chúng ta đã học được pháp Quán thần rồi, nhưng vị thần này cực to lớn, đầu chạm trời, chân chạm đất, lớn rộng khắp từ trái sang phải, và rồi cũng sẽ dần dần tan biến đi. Để tu hành hình - thần hòa hợp, chúng ta phải luyện cách "thúc thần hợp nhất", nghĩa là phải luyện cho thần thu nhỏ lại cỡ bằng bản thân mình, sau đó hợp thành một, như vậy sẽ thành công pháp phân thân. Phương pháp tu hành thúc thần hợp nhất phải uống "phù thúc thần" bảy ngày, niệm "chú thúc thần" mỗi ngày bảy biến.
Hình thức của phù thúc thần là, phù này dùng giấy, giấy không cần phải giống nhau mà có màu sắc khác nhau, tùy theo: • Người sinh vào giờ Hợi, Tí, Sửu, thuộc về thủy ở phương bắc Nhâm Quý, chức danh là Huyền Vũ, là một thần của Hắc Đế, thì dùng giấy màu đen vẽ phù. • Nếu là mộc thuộc phương đông Giáp Ất thì là thần của Thanh Đế, dùng giấy màu lam để vẽ phù. • Nếu người sinh vào giờ Dần, Mão, Thìn thì chức danh là Thanh Long, thần của Thanh Đế, dùng giấy màu xanh lá để vẽ phù. • Nếu thiên can là Bính, Đinh thuộc về hỏa ở phương nam, là thần của Xích Đế, dùng giấy màu đỏ son chu sa để vẽ phù. • Nếu sinh vào giờ Tị, Ngọ, Mùi thì chức danh là Chu Tước, là thần của Xích Đế, dùng giấy màu đỏ hồng để vẽ phù. • Nếu thiên can là Mậu Kỉ thì thuộc về vị thần ở trung ương của Hoàng Đế, dùng giấy màu thạch hoàng để vẽ phù. • Nếu người sinh vào thiên can Canh Tân, giờ Thân Dậu Tuất, chức danh là thần của Bạch Hổ ở phương tây, thì dùng giấy trắng vẽ phù.
Màu giấy của phù thúc thần là khác nhau tùy theo từng người, mỗi người theo màu sắc đó mà mặc quần áo, đừng nhầm lẫn. Trước tiên phải chuẩn bị xong phù, khi gọi nguyên thần đến, niệm một biến chú thúc thần, đốt một lá phù thúc thần, hòa vào trong nước táo tàu rồi uống, luyện như vậy bảy ngày, nguyên thần và bản thân sẽ có kích cỡ bằng nhau, tự nhiên sẽ có thể hình thần hợp nhất được.
Tắm gội sạch sẽ rồi đăng đàn, khởi sư biến thần, sắc lệnh viết trên giấy đỏ, triệu thần lâm đàn. Sau đó tùy bút di chuyển mà tạo nên phù vị, giả lập vô cực, hà một hơi khí tiên thiên vào đầu bút, rồi lập tức hạ bút viết trên giấy, trái phải thuận nghịch, vận chuyển một vòng thái cực tại cung trung tâm. Sau đó, thêm vào vận chuyển tứ tượng, hợp thành ngũ hành. Đây chính là "Thiên địa sinh nhất khí, phân thái cực âm dương, âm dương sinh tứ tượng, Xích Đế dưỡng khí, Hắc Đế thông huyết, Thanh Đế hộ hồn, Bạch Đế thị phách, Hoàng Đế trung chủ, vạn thần vô việt, cấp cấp phụng Trường Sinh Bảo Mệnh Thiên Tôn luật lệnh. Nhiếp."
Sau đó trong vòng thái cực lại thêm vào 24 vòng xoay, mỗi vòng xoay lại niệm 24 tiết khí rằng: "Lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn." Tiếp theo thêm tiên thiên vô cực ở trong, hậu thiên thái cực ở giữa, phảng phất hiện lên chân hình, xa xăm nghe chân tông."
Khi niệm chú thúc thần, tay trái kết đẩu quyết đặt trước ngực, tay phải kết kiếm quyết đặt ở hông, đứng thế đinh bộ, niệm chú bảy biến, đốt một lá phù hòa vào canh táo Tàu đỏ, hướng về phía đông hít vào một hơi sinh khí, nuốt vào trong bụng để lập tức đưa nước phù xuống đan điền. Niệm chú rằng: "Ngưỡng khởi tự kỉ nguyên thần tượng, đỉnh thiên lập địa kiến thần thông, đầu đái thiên quán thân trước tố, thủ trì quyết ấn túc vân trung, vận chuyển thiên hà triều thiên khuyết, biến hóa địa sát phó địa gian, năng dữ kỉ thể tương hỗn hình, hình thần giao luyện hóa tiên thiên. Thiên chi thanh, địa chi linh, thần hô khí, khí hô thần, ngã kim thọ trì hỗn nguyên pháp, pháp triệu tiên thiên nguyên thủy thần, tốc chí ngô tiền vi ngô dụng, như vi thệ ngôn thiên lôi phách. Cấp cấp như Hỗn Nguyên Lão Quân biến thần luật lệnh nhiếp."
Trên nguyên tắc mà nói, tu Đạo có thể tu đến thúc thần hợp nhất, nguyên thần và nhục thể của bản thân hợp thành một, thì mới xem là tu Đạo có thành tựu bước đầu. Nguyên thần này là vị chủ nhân thật sự sau này, nhục thân chôn xuống đất, nguyên thần sẽ thăng lên nhập vào trong đại khí rồi luyện thành Phật thành Tiên.
Người tu Đạo chúng ta, buổi đêm khi đi ngủ, đôi khi lỗ ở trên đỉnh đầu có một đường ánh sáng phát ra, sau khi phát ra thì trở thành hình tượng của bản thân, ánh sáng óng ánh, như một vật thể trong suốt, đó chính là nguyên thần. Bên cạnh đó, có một số thuật sĩ giang hồ, những hạng người xem quẻ đoán tướng mệnh, tự xưng là người tu Đạo, thật ra phần lớn là họ tu "tục đạo", chẳng hề khác với người thế tục bình thường, họ không biết đến pháp Quán thần, không biết pháp nuốt nhả cương khí, không biết đến khởi linh, không biết đến thân ngoại hóa thân, không biết đến xuất nhập thái cực, không biết đến thúc thần hợp nhất. Người tu Đạo như vậy thì nhục thể là nhục thể, nguyên thần là nguyên thần, hai thứ vẫn là hai, hoàn toàn nguyên vẹn là một tục thể phàm phu, thật sự làm người ta nực cười chết mất.
Hơn nữa còn có một số kê đồng chỉ là hạng phương tiện tâm linh trung gian, cũng tự xưng là tu Đạo, thật ra đó là cho quỷ thần nhập thân, chứ không hề là thúc thần hợp nhất. Thúc thần hợp nhất là nguyên thần và nhục thể của bản thân hợp làm một. Còn kê đồng mà cho quỷ thần nhập thân chỉ là quỷ thần mượn thân thể họ làm công cụ. Theo như tôi biết, kê đồng chỉ là công cụ của quỷ thần mà thôi, về cơ bản không có cách nào tự chủ được, bản thân kê đồng là người âm dương nửa người nửa quỷ, không có can hệ gì với tu hành tu Đạo cả. Nếu nói quỷ thần nhập thân là thúc thần hợp nhất thì khác nhau như trời với đất, về điểm này không thể không biết. Ngoài ra, lời của kê đồng vì sao không thể tin tưởng được? Thứ nhất, những linh gần với thế tục thì đại đa số là linh quỷ cấp thấp, lấy danh nghĩa là một vị Phật nào đó, vị Tiên nào đó, vị Thần nào đó giáng xuống, khuyên người ta điều tốt hoặc nói nhân quả, nếu không phải là đại ác thì cũng xem như là khuyên đời cứu thế, nhưng dù vậy, ta không được mê tín thái quá. Thứ hai, bản thân kê đồng cũng có ý thức tự ngã của họ tồn tại, nếu họ mở miệng nói ra, hoặc hạ bút viết chữ, không thể không hoài nghi là lừa tiền gạt sắc, chúng ta phải biết phân biệt thực hư, đừng cho rằng là Thần Tiên hạ giáng là có thể yêu ngôn hoặc chúng, làm xằng làm bậy.
Tu luyện pháp thúc thần hợp nhất, từ quán thần đến khi nguyên thần và bản thân kích cỡ bằng nhau, và nguyên thần ngày ngày hòa nhập làm một với thân thể của bản thân, cảm giác lúc này giống như bị điện giật vậy, rồi sau đó dần dần sẽ mất đi cảm giác này. Còn vận dụng nguyên thần ra sao đều hoàn toàn dựa vào tư tưởng, chúng ta có thể sử dụng nguyên thần lên trời xuống đất, thập phương pháp giới tự do đến đi, thậm chí có thể đến được vô thượng thượng thiên, phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, thậm chí vượt ra ngoài tam giới, trở thành Phật Bồ Tát, Đại La Kim Tiên. Những chuyện này đều không phải là việc rất khó đâu. Vô số kiếp về trước, tác giả đến từ Ma Ha Song Liên Trì ở gần Tây phương Cực Lạc thế giới, tương lai tự nhiên muốn trở về nơi cũ, trừ phi vì nghiệp duyên kiếp trước mà cần đi lại ở nhân gian vài lần nữa, còn không thì tôi đã nhìn thấu sự đời rồi, tôi tự thấy mình đã thờ ơ không màng đến công danh lợi lộc nữa, mỹ sắc mỹ cảnh ở nhân gian từ lâu đã hoàn toàn nhìn thấu rồi, nên Ma Ha Song Liên Trì tự nhiên chính là quê nhà của tôi.
Thập phương pháp giới, tự do đến đi, ý niệm khởi lên, thế như sấm nổ, một thân hai dụng, thân ngoại hóa thân, lên trời xuống đất, ngay trong tâm ta. Thúc thần như nhất, có chút thần thông, tục thế chẳng biết, đạo chưa từng thông, có ta có thần, chứng ngộ chân không, hoằng pháp khắp chốn, nhân duyên đại công." Nhân duyên vĩ đại như thế, xem như là thập phương trên dưới đại phóng quang minh.
15. Khai tượng chân quyết (Cách thứ nhất)
Trước kia, tác giả giúp người ta làm khai quang điểm nhãn cho tượng thần, tôi đã dùng Tiên thiên vô cực chính pháp, "lấy kim quang chiếu định thần quang, tùy bút quy chuyển phù vị, giả lập vô cực, dùng tay trái bấm Tử Vi quyết, dùng thiên mục đối quyết viết Tử Vi húy vào hư không, Vũ Tiệm Nhĩ, lập tức quán đến Tử Vi thần tượng ở trong, mũi hít vào một hơi, nuốt xuống trung cung, vận khí hỗn nguyên, xuất một hơi khí tiên thiên, dưới ngòi bút, lập tức hạ bút điểm xuống, điểm ở giữa khiếu." [ ND: Tử Vi thần tượng được nói đến ở đây là Tử Vi Đại Đế, là con trưởng của Chu Văn Vương - Bá Di Khảo, sau khi chết được phong làm Tử Vi Đại Đế. Tên húy của ông là Vũ Tiệm Nhĩ. ]
Chú ngữ khai quang như sau: "Thiên chi thần quang, địa chi thần quang, nhật nguyệt thần quang, khai nhãn quang quán thị thế giới, khai khẩu quang khai khẩu độ chúng, khai nhĩ quang văn thanh cứu khổ, khai tâm quang từ bi cứu thế, khai thủ chi nhiếp thụ hàng ma, khai thần túc phi hành vạn lí, khai kim thân hào hào phóng quang, đệ tử phụng Tiên thiên vô cực chính pháp, Tử Vi Đại Đế luật lệnh nhiếp, phụng thỉnh Thượng Thần giáng lai lâm." Tượng thần bằng gỗ, dùng Tiên thiên vô cực chính pháp thỉnh thần, rồi dùng chú khai quang lần lượt khai quang điểm nhãn, làm như thế thần minh nhất định sẽ giáng xuống, tượng gỗ cũng trở thành có linh tính, hộ quốc trấn trạch, mưa thuận gió hòa, hợp cảnh bình an.
Khai quang cho tượng thần, thông thường chỉ dùng gương khai quang và bút là được, nghi thức trang nghiêm long trọng, cúng phẩm là hương, hoa, đèn, trà, quả, đốt đàn hương. Quan trọng nhất là người khai quang phải tâm vô tà niệm, thành tâm thành ý, cái này tức là tâm thành tắc linh. Những tượng thần mà tác giả từng khai quang không biết số lượng là bao nhiêu nữa, chỉ biết rằng tinh thần thống nhất, thần nhất định giá lâm, ngoài điều này ra, không còn bí quyết nào khác nữa. Đôi khi, tượng thần không cần khai quang mà từ lâu đã giáng lâm vào bức tượng đó rồi, bởi vì người thờ cúng tâm địa kiền thành, cung kính hợp nghi thức, sớm tối dâng hương, dâng cúng trà quả, ngày ngày liên tiếp, thần thành không thỉnh cũng tự đến, ở đây không cần khai quang cũng tự có thần linh đến rồi. Đây là sự khắc họa rõ nhất về tâm thành tắc linh.
Ngược lại, có người thờ phụng thần thánh, trong nhà lại chẳng hề bình an, những tai vạ ngoài ý muốn liên tiếp xảy đến, chẳng thấy lành chỉ thấy dữ, vận hạn liên miên, nguyên nhân là đã thỉnh tà sư tà thần đến. Đạo lý này vô cùng đơn giản, chính sư chắc chắn thỉnh chính thần đến, tà sư chắc chắn thỉnh tà thần đến, cái này là niệm niệm cảm thông, là đạo lý ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Lúc khai quang, tinh thần của pháp sư không thống nhất, tà ý tà niệm hoành hành, như thế thì, cho dù cúng phẩm có nhiều, nghi thức long trọng, mời pháp sư nổi danh thiên hạ đến thì cũng chẳng có tác dụng gì, chẳng bằng tự mình thắp ba nén hương, kiền thành niệm thánh danh, thì thần thánh lại đến.
Có một lần, tác giả đến nhà của một người bạn, nhà người bạn này gần đây mới thờ phụng một vị là Lữ Tổ Tiên Công, chính là Thuần Dương Tổ Sư Lữ Động Tân trong Bát Tiên. Tác giả mở nhãn xem, phát hiện ra vị thần này không phải là thần, mà là một con "ma rượu". "Khi khai quang Lữ Tổ, anh đã mời vị pháp sư nào vậy, pháp sư đó có uống rượu không?" "Ngày hôm đó không uống rượu." Bạn tôi lại nói: "Thế nhưng, ai cũng biết rằng pháp sư Trí Thông ở chùa Phổ Quang cái gì cũng bỏ, chỉ có rượu là không bỏ. Ông ấy có tửu lượng cao, cũng là một vị hòa thượng hiện đại, thí chủ mời ông ấy uống rượu thì ông ấy chẳng từ chối một ai." Thì ra là như vậy, tôi thầm nghĩ. Tôi hỏi: "Gần đây anh uống rượu có phải tửu lượng cũng tăng lên phải không, hơn nữa dần dần lại thích rượu nữa?" Bạn tôi trầm tư một lúc rồi nói: "Nếu anh không hỏi thì tôi cũng không cảm thấy gì đâu, nhưng điều anh hỏi thì đúng thật là như vậy. Gần đây trong các buổi giao tiếp xã giao, nâng rượu là phải cạn ly, hơn nữa, tôi cũng thấy tửu lượng tăng lên so với trước, trước kia ba chén xuống bụng là chóng mặt muốn say rồi, bây giờ uống liên tục mười chén, tám chén, gấp ba lần so với trước, mà chẳng cảm thấy say gì. Chà! Thật kì quái." - Mắt bạn tôi hấp háy, ánh lên một vẻ không bình thường. "Vị… vị… vị… Lữ Động Tân Tổ Sư này khai quang có vấn đề sao?" - Nét mặt bạn tôi có phần hoảng hốt. "Đúng vậy, vị này không phải Lữ Động Tân, mà là một con ma rượu chính cống."
Trụ trì của chùa Phổ Quang và tác giả là bạn tri kỉ, còn pháp sư Trí Thông thì tôi thật sự không quen biết. Sau vài lần hỏi thăm, thì ra khi Trí Thông chưa xuất gia đã làm phục vụ ở một quán rượu. Pháp sư Tâm Học trụ trì chùa Phổ Quang nói với tôi, Trí Thông không chịu quản thúc rèn luyện, vẫn luôn làm xằng làm bậy, làm bại hoại nề nếp của chùa. Người xuất gia mà một ngày từ sáng đến tối uống rượu cùng thí chủ thế tục. Trụ trì nói với một giọng điệu áy náy: "Chúng tôi chẳng có cách nào, chỉ hy vọng Phật Tổ từ bi."
Kết quả là, tôi phát hiện ra một chuyện rất kì lạ. Pháp sư Trí Thông biết tụng kinh, cũng làm khai quang điểm nhãn cho người ta. Việc tụng kinh của ông ta hoàn toàn là để siêu độ cho các vong linh, vì thế, dĩ niệm cảm niệm, xung quanh ông ta toàn là những con ma nát rượu. Tuy người bình thường không thể thấy, nhưng người thông linh sao có thể không biết chứ. Tiếp theo đó ông ta khai quang điểm nhãn cho tượng thần, điểm xong một vị thì một con ma rượu lại bám lên thân của tượng thần đó, điểm hai vị thì hai con ma bám lên thân của tượng thần đó. Làm cả buổi, những thần mà ông ta khai quang điểm nhãn lại thành ra chẳng có vị thần nào cả, toàn là một đám ma rượu.
Thế là, tôi lại phải dốc hết sức bình sinh ra lần lượt khai quang điểm nhãn lại từ đầu, lần lượt thỉnh chính thần giáng lâm, lần lượt mời lũ ma quỷ ra ngoài đường, tôi niệm rằng: "Thiên địa phong lôi thủy hỏa sơn trạch. Thập phương thích chương, toàn hữu quy chương, thiên cương thiên cương, tốc lợi thượng phương, ngũ phương tà ma, lập tức tiêu vong, phi thiên nhất hấp, vạn sự cát xương. Cẩn thỉnh thiên cương Tử Vi tinh, tốc giáng bản phương chân khí trương, quán nhập Phật tượng bố pháp lực, lệnh gia lệnh quốc quân an ninh."
Nói thật lòng, giả sử không phải là Lư Thắng Ngạn tôi có cái sự nhiệt tình ngu ngốc này để mà tạo phúc cho mọi người, khiến chính thần có thể giáng bố chân khí, thì tôi hà tất phải quản chuyện đây là chính thần hay là ma rượu chứ. Tôi ngày ngày tiêu dao, đầu đội khăn, thân khoác áo đạo sĩ trắng, tay cầm quạt lông, thân cưỡi hạc trắng, trong thiền định cưỡi mây lướt gió, thập phương pháp giới tôi đều ung dung mà đi bất kì đâu.
Bí quyết thật sự của khai quang tượng thần chẳng có gì khác, tâm thành tắc linh mà thôi!
16. Khai tượng chân quyết (Cách thứ hai)
Có một vị Thần Trời, thân cao vạn trượng, ba đầu sáu tay, đầu xanh râu đỏ, mặt đỏ, tóc đỏ, răng nanh trắng, ba mắt, con ngươi màu vàng kim, tay trái cầm chuông, tay phải cầm chày, tay trái nâng sơn hà, tay phải nâng xã tắc, tay trái mặt trời, tay phải mặt trăng, chân dẫm lên bánh xe lửa. Vị thần trời này là Thiên Cang Thần.
"Tí vận vĩ lư, phụ khí doanh. Sửu quá thận đường, lâm khí bình. Dần cư huyền xu, thái khí lộ. Mão xuyên giáp tích, đại tráng thanh. Thìn hợp đào đạo, quái khí hòa. Tị thượng ngọc chẩm, can khí long. Ngọ giao nê hoàn, cấu khí thái. Mùi hàng minh đường, độn khí thông. Thân tụ thiên trung, phủ khí thuận. Dậu tồn trung hoán, quan khí xương. Tuất đáo thần khuyết, bác khí cố. Hợi quy khí hải, khôn đạo dong. Thiên lệnh tiết vinh. Ngũ khí tương sinh. Thái nguyên chân ất, thủ hộ hoàng đình. Ngũ tạng lục phủ, nội ngoại trừng thanh."
Đoạn văn trên đây nói rõ về hình tượng của Thiên Cang Thần. Còn Khai tượng chân quyết cách thứ hai này viết về hình tượng của Thiên Cang Thần trước tiên chủ yếu để nói rằng, sau khi nguyên thần của bản thân dùng khai tượng chân quyết, thì cũng có thể biến hóa thành Thiên Cang Thần. Đoạn văn tiếp sau đây viết về pháp luyện công của bốn nhân tố thân người, thời giờ, bát quái, khí cơ. Cái này là một bản văn đại thiên cơ, trước nay chưa từng có người nào dám tiết lộ như vậy, bởi vì chỉ cần lĩnh ngộ được sâu sắc đoạn văn này, hiểu được sự vận hành của chu thiên trong đoạn văn này thì chính là một vị Đại La Kim Tiên tự do tự tại rồi. Đoạn văn này thực sự không thể coi thường.
Thần chú khai tượng như sau, tay trái kết đẩu quyết đặt trước ngực, tay phải kết kiếm quyết đặt tại hông, đứng nghiêm theo thế "đinh bộ", niệm chú 49 biến, sau đó uống phù Khai tượng nguyên thần. Chú rằng: "Thiên chi tinh, địa chi linh, thần linh tướng, tướng thân linh, ngô kim triệu, tốc hiện hình, điểm khiếu môn, biến thần linh. Cấp cấp phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh luật lệnh nhiếp." Khai quang điểm nhãn cho nguyên thần của bản thân cần tổng cộng bảy ngày, bảy ngày này luyện xong, uống xong bảy lá phù, lập tức thấy một vị thần giống hệt với vị thần mà mình nghĩ đến. Nếu muốn vị thần này biến thành thần khác cũng được, hoàn toàn tùy vào suy nghĩ của bản thân, muốn biến thành ba đầu sáu tay thì biến thành ba đầu sáu tay, muốn biến ra Huyền Vũ Thượng Đế thì lập tức biến ra Huyền Vũ Thượng Đế, thậm chí muốn biến hóa thành Quan Thế Âm Bồ Tát thì sẽ thành Quan Thế Âm Bồ Tát, muốn biến hóa thành A Di Đà Phật thì sẽ là A Di Đà Phật.
Người bình thường đọc sách của tôi, thấy tác giả viết đến đây, có người chắc chắn sẽ không hiểu thấu được. A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát là Tây phương Tam Thánh, địa vị cao quý biết bao, làm sao mà một Đạo pháp nhỏ bé lại có thể biến thành các vị được. Nhưng những điều tôi kể ra ở đoạn trên, thật ra cũng là cái chỗ giải thích chính xác về thiên cơ, duy có cao tăng đại đức đã đến được cảnh giới này mới có thể biết được sâu sắc những gì tôi nói là không phải hư vọng giả dối.
Thần phù của ngày đầu tiên là phù Tụ hình, thần phù của ngày thứ hai là phù Xa hình, thần phù của ngày thứ ba là phù Thiên Đế, thần phù của ngày thứ tư là phù Thiên Cang, thần phù của ngày thứ năm là phù Đại Phương Minh, thần phù của ngày thứ sáu là phù Biến hóa, thần phù của ngày thứ bảy là phù Dụng linh.
Tôi cảm thấy trong các phương pháp tu hành Mật tông, có pháp Bổn tôn, pháp Bổn tôn này thật sự rất quan trọng, ví dụ như nguồn gốc của chúng ta là đến từ Phật bộ, chúng ta sẽ tu Phật bộ đó làm Bổn tôn. Nếu nguồn gốc của chúng ta là Bồ Tát bộ thì chúng ta sẽ dựa vào Bồ Tát làm Bổn tôn. Nếu nguồn gốc của chúng ta là Kim Cang bộ thì chúng ta sẽ dựa vào Kim Cang bộ làm Bổn tôn. Nếu nguồn gốc của chúng ta là Thiên Vương bộ thì chúng ta sẽ dựa vào Thiên Vương làm Bổn tôn. Sau đó, lại từ trong các bộ này mà tìm một vị hợp ý với mình nhất để mà tu trì. Phương pháp như thế chính là pháp tu trì Bổn tôn.
Tu trì Mật giáo, đôi khi bản thân không có cách nào xác nhận mà biết được. Trong quá khứ từng có người ném hoa tươi để chọn Phật, họ tập hợp lại những bức tượng của các vị Phật, Bồ Tát, Thiên Vương, Lực Sĩ mà trong mắt họ, họ cảm thấy hợp ý, sau đó cầm một bó hoa tươi, nhắm mắt lại cầu nguyện, thành tâm khẩn cầu chư Phật cao nhân chân chân chỉ dẫn, sau đó tung hoa tươi lên không trung. Khi hoa tươi này rơi xuống đất, rơi trúng vị nào thì vị đó chính là Bổn tôn. Hoặc khi hoa tươi rơi xuống đất, khoảng cách đến vị nào gần nhất thì sẽ lấy vị đó làm Bổn tôn. Khi tu hành sẽ dùng chú ngữ của Bổn tôn làm chú ngữ chủ yếu nhất, dùng thủ ấn của Bổn tôn làm thủ ấn chủ yếu nhất, lấy ý chỉ của Bổn tôn làm ý niệm chủ yếu nhất của người tu hành. Như thế, tu hành tam mật thân - khẩu - ý thanh tịnh, tương lai tự nhiên sẽ tu thành Bổn tôn, không hai không khác với Bổn tôn. Đây chính là tu hành pháp Bổn tôn.
Khai tượng chân quyết cách thứ hai, quán tưởng chủ yếu nhất vẫn là dùng pháp Bổn tôn trước tiên, khi khai quang điểm nhãn cho nguyên thần của bản thân, bạn phải luôn luôn không được quên Bổn tôn của mình. Ví dụ, Bổn tôn mà bạn hợp ý nhất là Địa Tạng Vương Bồ Tát, bạn phải nghĩ nguyên thần của mình là Địa Tạng Vương Bồ Tát, đầu đội mũ vàng Ngũ Phật, tướng mạo trang nghiêm từ bi, một tay cầm tích trượng, một tay cầm ngọc quang minh, ngồi trên tòa hoa sen, toàn thân tỏa ra hào quang mây bảy sắc, trên đỉnh đầu có vòng tròn ánh sáng. Lại ví dụ Bổn tôn của bạn là Quan Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát có tướng mạo hiền từ viên mãn, trên đỉnh đầu có mây bảy sắc, tay cầm tịnh bình, khẽ vẩy cành liễu, chân dẫm lên mây cát tường, nếu mặc xiêm y màu trắng thì là Bạch Y Quan Âm, nếu cầm giỏ cá thì là Ngư Lam Quan Âm, nếu có nghìn tay nghìn mắt thì là Thiên Thủ Quan Âm, nếu ôm đứa trẻ con thì là Tống Tử Quan Âm, v.v… Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân nữ, nên tất nhiên sẽ trang điểm như diệu hạnh ngọc nữ, dung mạo duyên dáng đoan trang.
Nếu hiểu được khai tượng chân quyết cách thứ hai, đã biết thiên địa tạo hóa không khác biệt, đối với những đạo lý cao nhất của trời đất cũng xem như đã hiểu thấu rồi, thì tất cả pháp hữu hình hữu tướng cũng có thể vứt bỏ đi không cần dùng nữa, pháp tận cùng thiên hạ cũng là vô pháp, nguyên thần tùy theo ý thức mà biến hóa, muốn biến thành thần ba đầu sáu tay thì thoắt một cái đã biến thành thần ba đầu sáu tay rồi, lên trời xuống đất, thập phương pháp giới, tùy ý đến đi, tiêu dao tự tại làm sao.
Đến đây, tôi viết một bài kệ:
Ba đầu sáu tay là thần thông Biến hóa muôn vàn mới biết - Không, Pháp vốn vô pháp - kim cương đạo Hóa thành mưa hoa tự trong tâm.
Đi thẳng con đường lớn, tầng tầng lớp lớp khác nhau, đạo vô thượng bắt đầu có thiên cơ.
17. Kính ma và nhốt ma
Trời đất rộng lớn không có chuyện kì lạ gì mà không có. Trong quan niệm của bạn có lẽ không hề có quỷ thần, cũng chưa bao giờ tin quỷ thần. Lấy ví dụ là tôi đây, tôi được nhận sự giáo dục đại học, học về khoa học công nghệ, thời đại khoa học, thế kỉ hạt nhân, chiến tranh vũ trụ, mà lại nói chuyện quỷ thần, chẳng phải là khiến thế nhân cười rơi răng ra không. Nhưng trong bóng tối âm thầm, thế giới vô hình không nhìn thấy được, dường như đã có định số, đã sắp xếp vận mệnh, đó là thế giới tâm linh, nói cách khác là thế giới của quỷ thần.
Nước Mỹ là một quốc gia có khoa học hưng thịnh, nhưng quan niệm về quỷ thần cũng đã bắt rễ sâu trong tâm trí con người, hơn thế nữa, ma quỷ ở đây quả thật là có phần ngang ngạnh khó bảo khó xử lý. Trong trường hợp của tôi, khi mới đến Seattle, chúng tôi đã mua một căn nhà cũ nhưng rộng rãi, chiếm diện tích khoảng bốn trăm bình [ ND: đơn vị diện tích thường dùng ở Đài Loan, 1 bình khoảng 3,3 mét vuông. ], đất xây dựng là hai trăm bình, tính cả tầng hầm thì tổng cộng có ba tầng, có ba cửa ra vào nhà, trước mặt có một cửa và đằng sau là hai cửa. Phía sau nhà ở có một cây hoa anh đào rất to, bên phải nhà ở là garage để xe, có thể chứa được bốn chiếc xe, xung quanh là cỏ cây hoa lá, khung cảnh vô cùng xinh đẹp. Nhà được lót thảm toàn bộ, có máy sưởi, đã được tu sửa lại toàn bộ giống như nhà mới vậy. Phòng làm việc và phòng ngủ của tôi ở tầng ba, nhà tôi ở phòng ngủ phía trước ở tầng hai, hai đứa trẻ thì ở phòng ngủ phía sau ở tầng hai.
Ngày đầu tiên khi dọn vào nhà mới, tôi đã an vị A Di Đà Phật và Địa Tạng Vương Bồ Tát mà tôi đã thỉnh từ Đài Loan đến đây. Ban đầu, tuần lễ đầu tiên tương đối không có chuyện gì, sau tuần lễ đầu tiên, đứa con trai nhỏ Lư Phật Kì vô duyên vô cớ lại đi tiểu ra máu, đưa đi khám bác sĩ thì là xuất huyết thận. Mấy ngày sau, đứa con gái nhỏ là Lư Phật Thanh cũng bị xuất huyết thận, bác sĩ chẩn đoán phải uống thuốc và tiêm, nhưng gần như đều vô hiệu. Càng tệ hại hơn là ngay cả nhà tôi Lư Lệ Hương cũng bị lây nhiễm bệnh xuất huyết thận. Theo cách nói của y học thì đó là do virus có tính lọc thâm nhập vào thận gây nên, hơn nữa liên tiếp ba người mắc bệnh. Tổng cộng chúng tôi đã tìm đến năm bác sĩ để chữa bệnh, một người là bác sĩ Thang Tuấn Kiệt, một người là bác sĩ La Hữu Thanh, bác sĩ Mật Đặc Sĩ ở bệnh viện nhi đồng Hoa Kì, bác sĩ Hàn Sinh chuyên khoa thận Thụy Sĩ, còn có bác sĩ Đặng đến từ Đài Loan. Kết quả là tình hình điều trị không được cải thiện, điều này thực sự khiến người ta không hiểu ra làm sao cả.
Cuối cùng tôi mới chú ý đến vấn đề của căn nhà, lẽ nào là vấn đề ma quỷ. Cá nhân tôi mặc dù tin quỷ thần, nhưng không bao giờ mê tín, thân thể có bệnh thì nhất định trước tiên phải mời bác sĩ khám, bác sĩ khám không được thì tôi mới ra tay trên phương diện tâm linh. Thật ra, vào ngày đầu tiên dọn vào ngôi nhà này, tôi đã biết trong nhà có hai con ma người Mỹ. Ngôi nhà này đã thay đổi bốn người chủ, hai người họ là chủ nhân thứ hai của ngôi nhà này, họ đã chết ở trong phòng vì tuổi già. Tôi dù biết rõ nhưng không hề nói thẳng ra, bởi vì trong ngôi nhà của tôi ở Đài Loan có rất nhiều ma, chúng tôi sống hòa thuận với nhau, và còn kính trọng giúp đỡ lẫn nhau nữa.
Hai con ma già người Mỹ này thường xuyên vào lúc chạng vạng tối hoặc lúc buổi trưa mới từ bên ngoài trở về nhà, Khi họ trở về, từ bên ngoài ngôi nhà cho đến cửa chính sẽ phát ra tiếng bước chân, nhà tôi thường xuyên nghĩ rằng bên ngoài có người đến, nhưng mở cửa ra thì chẳng có ai cả, trống huơ trống hoác. Đôi khi họ cũng tùy ý di chuyển đồ đạc, ví dụ rõ ràng bạn đã treo khăn mặt lên rồi, họ sẽ đem bỏ vào trong bồn rửa mặt, thỉnh thoảng họ cũng khua loạn đồ đạc lên. Địa Tạng Vương Bồ Tát mà tôi thờ cúng trong nhà thì thỉnh thoảng bức tượng sẽ chuyển động theo hồn ma, rõ ràng là khuôn mặt nhìn thẳng về phía trước thì thoắt cái quay sang phải, thoắt cái quay sang trái. Những việc này đều không hề gì cả, nhưng đáng ghét nhất là hai hồn ma già người Mỹ này không ngờ lại thích ăn máu tanh, nửa đời họ ăn thịt bò bít-tết, nên họ rất thích mùi máu tanh.
Theo tôi được biết, ác quỷ sẽ thích máu tanh, hai con ma già người Mỹ này chẳng phải là hạng ác quỷ sao. Còn hai đứa con nhỏ và nhà tôi chẳng phải đã bị hai con ma xấu xa này làm hại sao, xuất huyết thận, hai con ma xấu xa đã ra sức hút máu tanh, dùng lưỡi để liếm máu. Tác giả vẫn luôn có tính cách yêu thích hòa bình, nên trước tiên là tôn trọng họ, dùng những lời tốt đẹp để khuyên họ, nào ngờ hai con ma này lại cho rằng người ngoại quốc chúng tôi đến để chiếm nhà của họ, thậm chí khi tác giả đi tắm, họ còn kêu la gào thét với tác giả, giống như điên khùng, không thể nói lý được. Mãi sau này, khi các bác sĩ đã bó tay, tôi thì có lý nhưng mà nói họ không được, thế là, kính quỷ bất thành, chỉ có dùng cách nhốt họ lại.
Hai con ma già người Mỹ kia cho rằng người Trung Quốc dễ bắt nạt, thật ra họ không biết rằng Lư Thắng Ngạn không những không sợ ma mà thậm chí còn chuyên môn trị ma nữa, là lão tông chủ của ma. Ban đầu tôi khách khí là vì kính trọng các người là ma Mỹ, rượu mời thì không uống, thế thì chỉ có cách uống rượu phạt thôi. Đầu tiên, tôi dùng chày kim cang vận linh lực để đuổi hai bọn họ đi, hai bọn họ bị đuổi tới mức kêu la oai oái, hoảng hốt tháo chạy. Sau đó, tôi dùng "Cửu phụng phá uế tịnh thủy" vẩy khắp tầng hầm, tầng hai, tầng ba. Tiếp nữa, trên ba cửa ra vào, hai tay tôi kết "tỉnh ấn" (hai ngón trỏ chạm vào nhau, hai ngón út chạm vào nhau, ngón giữa và ngón áp út cong gập vào lòng bàn tay, hai ngón cái đè xuống), rồi tôi niệm chú rằng: "Nhất họa thành giang, nhị họa thành hải, tam họa Hoàng hà thủy nghịch lưu, tứ họa khu quỷ xuất môn, Thiên Ngục Lôi Thần, Địa Ngục Lôi Thần, Ngũ Lôi tề lâm, tỏa quỷ quan tinh, tù cấm quỷ thần." (Một nét thành sông, hai nét thành biển, ba nét thành nước sông Hoàng Hà chảy ngược dòng, bốn nét đuổi ma ra khỏi cửa, Thiên Ngục Lôi Thần, Địa Ngục Lôi Thần, Ngũ Lôi cùng đến, nhốt quỷ khóa ma, giam cầm quỷ thần.) Sau đó tác giả quát lớn một tiếng, phả "tỉnh quyết" về phía cửa ra vào, thế là, đối với linh giới mà nói thì cửa này đã biến thành sông lớn vạn dặm xa xôi rồi, hai con ma già người Mỹ kia đến cạnh sông khóc lóc thảm thiết, từ đó không có cách nào vào cửa được nữa.
Giả dụ không đuổi hai người họ đi, mà dùng cách thu bắt họ lại, thì phải niệm rằng:"Cẩn thỉnh Hỏa Tê Lôi Phủ Chu Thiên Quân, Địa Kì Thái Bảo Ôn Nguyên Soái, hỏa tốc vị ngô thu nhiếp lục thiên cang phong hạo khí, cửu sửu ngoại đạo yêu ma, dĩ cập nhất thiết hung thần ác sát, tận giai nhiếp nhập minh ngục trung, vĩnh viễn tù cấm bất hứa xuất nhiếp, ngô phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh luật lệnh. Nhiếp!" (Kính cẩn thỉnh cầu Hỏa Tê Lôi Phủ Chu Thiên Quân, Địa Kì Thái Bảo Ôn Nguyên Soái, khẩn cấp giúp tôi thu nhiếp lục thiên cang phong hạo khí, cửu sửu ngoại đạo yêu ma, cùng tất cả hung thần ác sát, hút toàn bộ vào trong âm ngục, vĩnh viễn giam cầm không cho phép thả ra, tôi phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh luật lệnh. Nhiếp!)
Đương nhiên, loài ma quỷ nếu không hại người, chúng ta có thể không cần dùng pháp nhốt ma. Như hai con ma già người Mỹ này thích ăn máu tanh, và cho rằng người Trung Quốc dễ bắt nạt nên hết lần này tới lần khác sỉ nhục chúng tôi, tác giả đã rất nhẫn nhịn, không thể không đuổi thẳng ra khỏi nhà. Từ đó họ lang thang ở bên ngoài, không làm được ác quỷ mà đã trở thành cô hồn dã quỷ rồi. Loài ma phần đông là không hại người, thậm chí có rất nhiều con ma ưa thích giúp người, nếu như có thể khéo dùng loài ma, biết được pháp "ngũ quỷ vận tài" thì có thể phát đại tài một cách rất đơn giản, làm ăn kinh doanh sẽ thịnh vượng gấp trăm lần. Trước kia tác giả sống tại Đài Loan, khi giúp người ta xem chuyện tâm linh, vẫn luôn luôn nhờ loài ma giúp đỡ một chân một tay, đó là sự vận dụng pháp "ngũ quỷ nhĩ báo".
Sau khi tôi đã dùng pháp nhốt ma thì bệnh xuất huyết thận của ba người nhà tôi tự nhiên khỏi, lại khỏe mạnh như thường.
18. Hút ma và chặn ma
Một vị thuyền trưởng của một thuyền buôn viễn dương từng có kì ngộ về tâm linh như sau:
Con thuyền buôn giữa đại đương đang vững vàng tiến về phía trước. Màn đêm buông xuống, ngoài âm thanh của tiếng tua-bin ra thì tất cả đều vô cùng yên tĩnh. Thuyền trưởng viết xong nhật kí, đọc sách một lúc, sau đó tắt đèn, chuẩn bị lên giường nghỉ ngơi. Bỗng nhiên, ông phát hiện ra trong một góc tối hình như có một đốm lân quang, lân quang đó từ từ rõ rệt hơn, không ngờ đó là một người trung niên mặt mũi rất rõ ràng. Người trung niên ấy nhìn trừng trừng vào thuyền trưởng dường như rất mệt mỏi. Thuyền trưởng rất kinh hãi, vội vàng bật đèn bàn lên cho sáng. Đèn vừa bật lên thì lân quang kia bị ánh sáng chiếu tản mất, người kia cũng biến mất. Nhưng khi thuyền trưởng lại tắt đèn thì người trung niên mệt mỏi kia lại xuất hiện. Thuyền trưởng nhìn kĩ càng cẩn thận người này, trong đầu không nghĩ ra người này là ai, hoàn toàn quá xa lạ. Thuyền trưởng chú ý đến tai phải của người này vẫn còn đeo một chiếc hoa tai nhỏ, nhưng người trung niên này vẫn là một người đàn ông, đàn ông đeo hoa tai thường rất ít gặp.
Thuyền trưởng lại bật đèn sáng lên, người đàn ông lại biến mất, đèn vừa tắt thì lân quang lại xuất hiện, cứ như thế hết lần này đến lần khác, hai bên nhìn lom lom vào nhau. Thuyền trưởng biết là mình đã gặp ma rồi, mặc dù cũng khá hoảng hốt, nhưng trong ánh mắt của đối phương dường như có một điều khẩn cầu, không thật sự là có ác ý. Thuyền trưởng thu hết can đảm hỏi hồn ma này rằng anh muốn tôi làm cái gì. Hồn ma đó im lặng không nói gì, chỉ đưa ngón tay chỉ về phía nam. Hồn ma đó đưa ngón tay hết sức chỉ về phía nam, lộ vẻ vô cùng khẩn cấp. Thế là thuyền trưởng lại hỏi, anh muốn tôi lái thuyền về phía nam à, lần này hồn ma bèn gật gật đầu, sau đó từ từ biến mất.
Con thuyền vốn dĩ đang chạy về hướng đông, thế nên khi thuyền trưởng ra lệnh cho thuyền đổi hướng, chạy về hướng nam, tua-bin và người cầm bánh lái đều không hiểu ra làm sao, phía nam là một cảng biển rất xa, căn bản là con thuyền này không có liên quan gì cả, cũng không phải là đích đến. Con thuyền tiến về phía nam khoảng nửa giờ, kì diệu thay, nó đã gặp một chiếc thuyền cứu nạn nhỏ, là một chiếc thuyền gặp nạn. Những gì còn lại chỉ là mấy người ở trên chiếc thuyền đã lênh đênh trên biển mấy ngày rồi, không có thức ăn cũng không có nước, trên thuyền chỉ có ba người một nam hai nữ, ba người này đều mệt mỏi rã rời, đã đến gần rìa cái chết rồi. Thuyền trưởng ra lệnh cứu người. Khi ba người này được cứu, một người phụ nữ trong số đó liền khóc lóc thảm thiết, nói rằng trên thuyền cứu sinh vẫn còn một người nữa, nhưng người đàn ông này đã chết rồi, người đàn ông ấy chính là chồng của bà ấy.
Khi thuyền buôn khiêng người đàn ông duy nhất bị chết lên thuyền, thuyền trưởng nhìn thấy mặt ông ta thì lập tức tim đập thình thịch, bởi vì cái khuôn mặt kiệt sức ấy chính là khuôn mặt đã hiện lên mấy lần trong phòng thuyền trưởng, và tai phải của anh ta đúng là có đeo một chiếc hoa tai vàng. Đây là nhật kí đường biển của vị thuyền trưởng, tên của thuyền trưởng đó là thuyền trưởng D.M.
Ngoài ta, ông Vu Định Ngọc lãnh sự tại Seattle Hoa Kì có một hôm vào lúc chạng vạng đến tệ xá của tôi làm khách. Ông ấy kể cho tôi một chuyện có thật: Có một người phụ nữ Hoa Kiều xinh đẹp, ngoài bốn mươi tuổi, làm thuê cho một công xưởng may mặc, đã bị giết trong một vụ cướp vài ngày trước. Theo nguyên lý về linh học mà nói thì hồn ma chết do bạo lực sẽ ngưng tụ mà không tan mất. Còn người phụ nữ Hoa Kiều này bình thường chăm chỉ đi làm, chưa bao giờ đi muộn về sớm, là một người phụ nữ rất chất phác. Nghe nói sau khi chết, cái máy khâu của bà vô duyên vô cớ lại bất ngờ khởi động một hai lần.
Còn lạ hơn là, cuối tháng khi phát lương, thủ quỹ người Mỹ lần lượt đi đến từng bàn máy khâu để phát lương, đến trước bàn máy khâu của người phụ nữ bị giết đó, thủ quỹ người Mỹ nhất thời quên mất rằng bà ấy đã chết rồi, còn người phụ nữ bị giết kia thì ngồi sau chiếc máy khâu cười rạng rỡ, đưa tay ra, thủ quỹ người Mỹ thuận tay liền đặt tiền lương lên tay của bà ấy. Đến khi người thủ quỹ nhớ ra nhân viên kia mấy ngày trước đã bị giết chết rồi, quay đầu lại thì người phụ nữ đó đã biến mất, phong bì tiền lương thì đặt ngay ngắn ở trên bàn máy khâu. Kết luận cuối cùng là, cái bàn máy khâu đó cho đến bây giờ vẫn không có người nào dám ngồi vào.
Những chuyện về ma quỷ thì nhiều vô cùng, nhưng tính chân thực của chúng e rằng cần phải "chiết khấu" bớt. Có lẽ người đọc sẽ cảm thấy kì lạ, bản thân tác giả là một nhà linh học, thế thì vì sao ngược lại lại không tin chuyện ma quỷ. Còn tôi, lời giải thích của tôi là như thế này. Thế giới của ma quỷ là thế giới vô hình, không gian tồn tại của họ và không gian tồn tại của con người không hề nhất định là xung đột với nhau, cũng không mâu thuẫn với nhau. Vì thế, chuyện cảm ứng tâm linh thật sự không phải là không có, nhưng cũng không phải là thấy rất nhiều, ngược lại, cảm ứng linh giới thật sự đã bị những sắc thái không có thật được thêm thắt gán ghép vào để che đậy.
Vì thế, những chuyện ma quỷ cần phải được lần lượt khảo chứng mới có thể nhận định thật giả. Còn đối với phương pháp trị ma quỷ của Đạo gia thì cũng có pháp hút ma và bịt ma, nên dùng với tà ma ác quỷ, còn ma thiện có ích với con người thì có thể miễn.
Người thông linh, chỉ dùng kiếm chỉ hướng lên không trung viết chữ "nhiếp", sau đó hướng về hồn ma vẽ một vòng tròn, niệm chú rằng: "Thiên nhiếp địa nhiếp, địa nhiếp thiên nhiếp, Chu Ngạn Chu Ngạn, tốc giáng tốc nhiếp, hủy tà diệt tinh, thu trảm quỷ thần, cảm hữu cự nghịch, phong hỏa diệt hình nhiếp!" Cũng có thể viết lên không trung một chữ "sát", sau đó hướng về hồn ma vẽ một vòng tròn, niệm chú rằng: "Thiên sát, địa sát, niên sát, nguyệt sát, nhật sát, thời sát, dương sát, âm sát, tai sát, kiếp sát, nhất thiết sát, nhất thiết hung thần, tà ma quỷ quái, phùng chú tự diệt, tự sát nhiếp!"
Thủ ấn của pháp hút ma có "gia ấn" [ ND: ấn gông, cùm ], có "tỏa ấn" [ ND: ấn khóa ], có "nữu ấn" [ ND: ấn cài nút ].
Thủ ấn dùng cho pháp chặn ma thì có "tắc ấn" [ ND: ấn bịt kín ], dùng hai ngón trỏ bắt chéo nhau, ngón cái tay phải đè lên ngón giữa, ngón áp út và ngón út, lòng bàn tay hướng ra ngoài, ngón cái tay trái đè lên ngón giữa, ngón áp út, ngón út, lòng bàn tay hướng vào ngực. Niệm chú rằng: "Đông Nhạc u âm, tường sắt vạn dặm, cẩn thỉnh Đại Đế, bịt kín cửa ngục."
Pháp hút ma và chặn ma có thể xem là phương pháp trị ma rất hữu hiệu, bình thường thì đa phần là không cần dùng đến, nhưng người tu Đạo thì nhất định cần biết, vì có Đạo tất có ma chướng, người tu Đạo nhất định cần dùng tới.
19. Đuổi ma không siêu thoát
Đạo gia trị ma dùng ấn Tứ tung ngũ hoành, tức là tay trái đặt ngang, tay phải dựng thẳng, lòng bàn tay trái hướng vào ngực, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, các ngón tay đặt chéo vuông góc với nhau, đó là ấn quyết Tứ tung ngũ hành. Ngoài ra, hướng lên không trung, dùng kiếm chỉ, viết một chữ "vũ" để bổ trợ, niệm chú rằng: "Đệ lục phụ tinh, Kim Mi Lão Quân, biến hóa vạn thiên, trảm quỷ vô sinh." Khi kết ấn Tứ tung ngũ hoành thì niệm chú: "Tứ tung ngũ hoành, lục giáp lục đinh, Vũ Vương trị thủy, Xi Vưu thí binh, tả huyền Nam Đẩu, hữu bối Thất Tinh, ngô kim đoạn hậu, bất hứa hồi sinh, đương ấn giả tử, nghịch ấn tắc vong, thiên phiên địa phúc, cửu đạo toàn thất, thiên đạo đoạn, địa đạo đoạn, nhân đạo đoạn, quỷ đạo đoạn." Rồi niệm rằng: "Ngân nha mãnh sứ Tân Hán Thần, hốt hỏa luật lệnh Đặng Bá Ôn, phi tiệp báo ứng Trương Nguyên Bá, đốc lôi chủ hỏa Tống Kí Kị, lôi công Giang Hách Xung, lôi mẫu Quý Văn Anh, phong bá Phương Đạo Chương, vũ sư Trần Hoa Thiên, vân lại Quách Sĩ Tú."
Dùng kiếm chỉ viết lên hư không một chữ "lôi" và niệm rằng: "Đô thiên Đại Lôi Công, phích lịch chấn hư không, lãnh lai thiên binh tướng, nghiêm kháng chư quỷ túy, cảm hữu ngoan cường giả, yêu ma hóa thanh phong, cấp cấp phụng Cửu Thiên Lôi Tổ Đại Đế luật lệnh."
Đạo gia trị ma cũng dùng ấn "song Thái Sơn", niệm chú rằng: "Nhiếp khởi Thái Sơn cao vạn trượng, phóng hạ bàn đà thạch vạn cân, Thái Sơn Đế Quân thiên quân lực, đả tận tà quỷ bất siêu thăng, cấp cấp như Thái Ất Chân Quân luật lệnh." Ấn "song Thái Sơn" thuộc về ấn Mật truyền, không phải do tự mình truyền là được, không thể tùy tiện kết ấn, về điểm này phải xin độc giả thứ lỗi. Chú "Phi kiếm trảm ma" như sau: "Thái Ất li cung trợ trảm tà, La Hầu Kế Đô trợ diệt tà, thiên tà vạn tà thượng thiết gia, phi kiếm trảm thủ yểm ni sa." Tay làm thành kiếm quyết chỉ lên không, niệm tiếp: "Ôm mễ thiên. Mễ địa. Trá lợi trá. Kim trá thăng. Nhiếp."
Từng có một lần, ban đêm vào giờ Tý, tác giả sau khi tắm gội trai giới, yên lặng ngồi xuống, chuyển hơi thở vào không trung, mắt nửa mở nửa nhắm, nhìn chăm chú vào chóp mũi, như vậy chính xác là mắt nhìn vào mũi, mũi nhìn xuống tim, nguyên thần ngưng tụ tại huyền quan khiếu, chính là lúc "nhất hạc xung thiên". Bỗng nhiên từ phương xa có hai con ma nhiếp không mà đến, nếu ma có thể nhiếp không mà đến thì hạng ma này cũng có một số đạo hạnh bất phàm.
Một con ma nói: "Ấy, đất này có một đạo nhân, đã ngưng khí cản trở lộ trình của chúng ta rồi." "Vậy chúng ta đi đường vòng đi!" - Con ma kia nói. "Không được, khí mà ông ta ngưng lại như một ngọn núi lớn, chúng ta đi vòng quanh núi thì thời gian không kịp mất." "Vậy phải làm sao?" "Hầy! Có gì không thể chứ, năm xưa một tay tôi từng khiến cho núi Hoa Sơn sụp mất một góc, mặt đất liên tiếp chấn động ba ngày. Cái người tu đạo bé nhỏ này có đức có năng gì chứ, xem xem có thể chặn được tôi một mình chẻ ngọn núi Hoa Sơn này không." Hai con ma đó nhiếp không bay đi, trong nháy mắt đã đến trước mắt tôi.
"Hầy! Tôi cứ tưởng là ai, thì ra chính là Lư Thắng Ngạn viết sách tâm linh." "Lư Thắng Ngạn truyền nhân duy nhất của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, hiện nay cũng xem như là có thân phận của một tiểu giáo chủ, chúng ta bỏ qua đi! Đi đường vòng vậy!" - Con ma kia một mực khuyên người bạn đường của nó đừng hành động theo cảm tính. "Đã là tiểu giáo chủ thì hôm nay không đọ sức một trận bất phân thắng bại không được, tôi là "phi thiên thần ma", rất nhiều thần cõi trời đều sợ tôi ba phần, huống chi là một tên phàm phu nhỏ bé, hôm nay lão phu nhất định bất tín tà, không tiêu diệt Lư Thắng Ngạn không được."
Ác ma đó hình dáng trông rất dữ tợn, hai mắt đỏ ngầu, lỗ đỉnh đầu mọc lên một cái sừng dài, răng nanh chĩa ra ngoài, hai tai nhọn hoắt, bàn tay có móng vuốt, trên lưng mọc ra đôi cánh, quả nhiên hắn có thể bay trên trời, hắn đưa tay đánh xuống đầu tôi. Tôi vội vàng tập trung tinh thần vào hai mắt, ngẩng đầu lên nhìn nắm đấm của nó, trong miệng niệm rằng: "Thần tiên dương dương vạn lý, kim quang hà thần bất phục, hà quỷ cảm đang chính khí, đáng chi tà quỷ diệt vong, cấp phụng Trung Thiên Tinh Chủ, Tử Vi Đại Đế luật lệnh sắc." Tôi niệm xong câu chú này, ánh mắt nhìn ra bên ngoài, nắm đấm kia dừng lại ở không trung, muốn rơi xuống nhưng không rơi xuống được. Hắn liên tiếp ba lần giơ nắm đấm để bổ xuống, nhưng cứ đến giữa lưng chừng thì bị một sức mạnh vô hình chặn lại, nắm đấm từ đầu tới cuối đều không giáng xuống được. Con ma bên cạnh liên tiếp nói đạo lý: "Đi thôi, bỏ qua đi, mau đi, mau đi." "Phi thiên thần ma" đó giọng tức giận nói liên hồi: "Bố mày hôm nay có việc, nếu không thì làm gì có chuyện dễ dàng thế, lần sau lại tìm đến mày để tính sổ." Nói xong, hai con ma bay lên không cùng đi mất.
Sau chuyện đó, tôi từng hỏi ân sư Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, ân sư nói: "Lai lịch của phi thiên thần ma thật sự cũng không tầm thường, hắn là một vị cao tăng đời Tống, thường ngày trì tụng Kinh Pháp Hoa, cả đời không có hành vi xấu xa, nhưng tính tình độc đoán, luôn tự cho mình là đúng, cho nên mọc ra một cái sừng dài, tai nhọn là vì thích nghe những lời nịnh hót, sau lưng mọc ra hai cánh là do hắn tu pháp, một mình chẻ núi Hoa Sơn nghĩa là "Hoa", những hình tượng biến hóa này đều do cảm ứng từ tâm tính khi hắn tu hành. Con không đếm xỉa gì đến hắn, như thế là đúng rồi, bởi vì cái hạng thần quỷ này đều là loại linh ngu dốt, không cảm hóa được, kiêu căng ngạo mạn, vĩnh viễn không chấm dứt. Nếu con đắc tội với hắn, hắn sẽ không so thắng thua thì không chịu được, hai mắt hắn đều đỏ ngầu cũng là vì do tâm đố kị cao độ. Sau này hễ gặp nhân vật kiểu này thì bản thân hãy phớt lờ mới là đúng." "Nếu con dùng pháp diệt thần thì sao?" - Tôi hỏi. "Thế là rước thêm nghiệp chướng vào thân, oán thù đến khi nào hết." - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh thở dài một hơi.
Bây giờ, cuối cùng tôi đã hiểu rồi, muốn tu hành pháp môn vô thượng là gian khó biết bao! Cao tăng triều Tống, cái tâm độc đoán chưa trừ bỏ, cái tâm thích nghe lời nịn hót chưa trừ bỏ, cái tâm đố kị chưa trừ bỏ, thì chính là "phi thiên thần ma", thật sự khiến người ta sợ hãi.
20. Bầy ma tiễn Liên Sinh
Một buổi chiều mùa hè ngày 15 tháng 6 năm 1982, đó là buổi hoàng hôn cuối cùng ở Đài Loan trước khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà ở Đài Trung, Đài Loan. Ngày hôm đó sắc trời âm u, mưa bụi trút xuống mù mịt, lòng người cũng giống như sắc trời vậy, có một cảm giác hiu quạnh rất khó mô tả dâng lên trong lòng. Sáng sớm ngày hôm sau chúng tôi sẽ phải đến sân bay quốc tế Đào Viên để lên chuyến bay lúc hơn 9 giờ của hãng hàng không Tây Bắc (Northwest Airlines), bay đến thủ đô Seoul Hàn Quốc rồi chuyển chuyến bay đến Seattle.
Các học trò ở Đài Loan của tôi rất đông, tín chúng cũng rất đông, độc giả lại càng đông. Bởi vì sách của tôi bán rất chạy ở trong và ngoài nước, nên những người đến tìm tôi nhờ giúp đỡ mỗi ngày có tới vài trăm người, những người muốn học Đạo pháp cũng nhiều vô số kể. Thế nhưng, ngoài những người chí thân ra, tôi không thông báo cho bất kì ai, rất nhiều tri kỉ và học trò thân thiết đều không biết, xin đừng trách tôi, bởi vì tôi không muốn mọi người đi tiễn tôi. Tôi còn không rõ về cảm giác đau buồn trong lòng tôi, cũng không muốn tạo nên sự náo động phô trương thanh thế ở sân bay. Vì thế, tôi âm thầm rời đi, rất xin lỗi mọi người, cảnh ly biệt rất đau lòng, nhưng ly biệt vẫn là để tương lai có ngày hội ngộ lần nữa.
Ở Seattle nước Mỹ, tôi sắp hoàn thành xong cuốn sách thứ 40 "Thông linh bí pháp thư", sau đó an tịnh tu luyện Đạo công ở mức độ cao hơn, đó là hai việc đại sự quan trọng nhất. Bởi vì ở Đài Loan, tôi không còn thừa một chút thời gian nào để tĩnh lặng ngồi viết sách, hoặc để định tâm xuống mà ngồi thiền. Các bạn có biết không? Mỗi ngày, ngôi nhà của tôi ở Đài Loan có hơn sáu chục cuộc điện thoại, cứ mười phút lại có người ấn chuông cửa đến tìm tôi, ngay cả lúc đêm hôm khuya khoắt cũng có người đến gõ cửa. Nghĩ mà xem, nếu tôi cứ tiếp tục bận rộn suốt ngày đêm như thế thì làm sao có thể tu chân ngộ đạo, làm sao có thể tiêu trừ nghiệp chướng cho rộng rãi chúng sinh!
Vào buổi chiều mưa bụi ngày 15 tháng 6, tôi tắm gội, ngồi tĩnh lặng cúng Phật xong, tôi cầm tịnh bình đi ra sau vườn, tôi dùng ấn quyết "tam sơn", niệm rằng: "Đại bàng Kim Sí Điểu, khoáng dã quỷ thần chúng, la sát quỷ tử mẫu, cam lộ tất sung mãn, om mutisaha om mutisaha om mutisaha." Cũng giống như trước đây, tôi dùng nước pháp cam lộ để bố thí cho tất cả âm hồn, tôi vẫn luôn làm như thế chưa từng gián đoạn.
Đúng lúc tôi đang vẩy nước pháp, đột nhiên, mặt đất nổi lên một trận gió lớn, cơn cuồng phong đó ào ào ập đến, khiến cho nước pháp mà tôi vẩy ra đều bị thổi bay ngược lại, khiến đầu và mặt tôi ướt đẫm nước pháp. Mặc dù hôm đó trời đổ mưa nhưng không hề có gió, trận cuồng phong này thật sự không hiểu là thế nào. Lúc cúng dường nước cam lộ, tôi đã nói trước: "Chư Thiên thánh linh, tôi là pháp sư Lư, ngày mai sẽ đi Mỹ, cảm tạ chư Thiên thánh linh những năm qua đã chiếu cố che chở tôi, đây là lần cúng dường nước pháp cuối cùng tại đây, xin bảo hộ cho tôi lên đường bình an, thuận lợi hoàn thành đại nguyện nhân từ tế thế." Tôi cúng dường nước pháp đã nhiều năm, các linh và tôi rất thân thiết, nhưng chưa bao giờ thấy mặt đất nổi gió lớn khiến cho nước pháp mà tôi vẩy ra lại làm tôi ướt hết cả đầu cả mặt như thế.
Bỗng dưng tôi nhìn về phía cánh đồng hoang vu phía sau vườn, bất ngờ phát hiện thấy khắp nơi đầy rẫy âm hồn, cái thanh thế ấy thật sự khiến người ta sửng sốt. Nhưng nói ra kể cũng kì lạ, mặc dù vạn linh tề tụ ở một chỗ nhưng lại yên tĩnh đến nỗi một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy âm thanh. Một con ma trong số đó cung kính nói với tôi: "Nước pháp bay ngược, một trận gió âm, mong pháp sư Lư đừng thấy kì lạ. Đó là nghi thức cáo từ của chúng tôi, chúng tôi hy vọng ngài mang theo nước pháp cúng dường chúng tôi, vĩnh viễn không quên bầy u linh chúng tôi đây. Nước pháp này cũng tự có thể bảo vệ cho ngài, một đời một kiếp, vĩnh viễn mãi mãi."
Lần này đến lượt tôi ngây người ra, tôi cố kìm nước mắt, nhất thời tôi không nói nên lời. Loài ma vẫn luôn có khả năng tiên tri tiên giác, ma có ngũ thông, họ nhìn trước được sự việc. Như lúc này đây, họ tụ tập mấy nghìn mấy vạn âm hồn cùng đến tiễn biệt tôi, tôi ấp úng nói hiền như Bụt: "Cảm ơn, vô cùng cảm ơn, tôi không biết phải nói gì cả, vô cùng cảm ơn."
Buổi chiều ngày 15 tháng 6 năm 1982, bầy ma đã biết trước được sự việc tôi sắp đi Mỹ, không ngờ đã tề tụ đến tiễn tôi, điều này thật sự khiến tôi quá đỗi cảm động, cảm động đến mức không còn biết nói gì hơn nữa.
Khi đến Mỹ rồi, giống như trước kia khi tôi còn ở Đài Loan, tôi đã sắp xếp một chỗ để cúng dường bố thí cho các linh hồn. Vào mỗi buổi chiều hàng ngày, tôi vẫn cúng dường, bố thí tịnh bình pháp thủy, tôi niệm: "Đại bàng Kim Sí Điểu, khoáng dã quỷ thần chúng, la sát quỷ tử mẫu, cam lộ tất sung mãn, om mutisaha om mutisaha om mutisaha." Mới đầu không có cảm ứng gì, sau đó tôi dùng niệm lực nên dần dần mới có hồn ma đến, một đồn mười, mười đồn trăm. Thì ra, phương pháp bố thí cho các linh hồn này có thể tiến hành ở nước ngoài, khiến cho quỷ thần trong thiên hạ đều tràn đầy pháp hỉ, đều có được lợi ích, đây đúng là điều thật sự bất khả tư nghì.
Phương pháp bố thí rộng khắp cho các linh hồn này vốn dĩ rất đơn giản, nhưng người bố thí nhất định phải có tâm địa thiện lương, nhất định phải kiền thành cung kính. Ví như bạn đem đồ đi giúp đỡ người khác nhưng thái độ không lễ độ, người bố thí kiêu căng tự mãn, thì người nhận bố thí cũng chưa chắc đã tiếp nhận, thế thì hiệu quả sẽ hoàn toàn ngược lại. Hơn nữa, việc bố thí cho linh hồn ngoài thiện tâm và cung kính ra, còn phải biết thủ ấn hóa thực và chú ngữ, có nghĩa là phải có sẵn năng lực "biến hóa thức ăn", nghĩa là năng lực biến nước bình thường thành nước cam lộ, bằng không, nước này vẫn không phải là nước pháp, thì dù có bố thí phổ hóa nhiều năm cũng không có lợi ích gì.
Loài ma không nhất định toàn là xấu xa, ngược lại, loài ma có một số rất đáng yêu và thân thiện, ma có lòng dạ ngay thẳng, bạn có ơn với họ, họ sẽ báo ơn bạn, bạn có thù với họ, họ sẽ báo thù bạn. Ngoài ra, ma cũng có ma thiện, cũng có ma hộ trì cho đạo tràng Phật giáo, người thông linh thân thiết với loài ma thì việc quá khứ tương lai, mặc dù không thể biết hết toàn bộ, nhưng những việc vụn vặt của nhân gian đại khái cũng có thể xem là nắm trong lòng bàn tay. Cho nên đạo đối xử với ma không nên hễ gặp là dùng pháp chế, ngược lại cần giúp đỡ họ, phổ độ họ, đó mới là diệu pháp tế độ tốt nhất.
Cả đời tôi thân thiết với loài ma, tôi phát hiện ra làm bạn với ma tốt hơn nhiều so với làm bạn với người, bởi vì nhân loại quá gian xảo, hễ không cẩn thận là bị trúng gian kế. Cả đời tôi đối đãi với người ta chân thành, nhưng cái mà người khác dành cho tôi ngược lại lại là giăng bẫy hãm hại tôi, tôi thật sự sợ lắm rồi. Cho nên, trước sau tôi đều cảm thấy rằng, làm bạn với người chẳng bằng làm bạn với ma. Sự chính trực của ma có thể làm thầy nhân loại.
21. Khác biệt giữa Lưu Bồi Trung và Thái Tao Kì
Có một người, ông Quan Xuân Hoa là một học giả sống tại Mỹ đến thăm hàn xá của tôi, ông ấy là học trò của thầy Lưu Bồi Trung. Thầy Lưu Bồi Trung là người sáng lập Côn Luân Tiên Tông, nay đã quy tiên. Tác giả lúc sinh thời vẫn chưa từng gặp mặt thầy Lưu Bồi Trung, nhưng trong một lần tĩnh tọa đã gặp ông ấy hiện lên ở giữa không trung. Học trò của thầy Lưu Bồi Trung rất đông, hơn nữa có rất nhiều học trò của thầy Lưu Bồi Trung đã quy y dưới pháp môn của tôi, chính thức học tập tâm pháp khởi linh.
Tôi đã nghe rất nhiều những lời đồn về thầy Lưu Bồi Trung, nói rằng ông ấy là Khâm Thiên Giám của triều Thanh, đã cải trang để cứu Quốc Phụ Tôn Trung Sơn. Khi cố tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế, ông ấy cũng qua đời theo. Cũng có người đồn rằng trong quan tài của ông trống rỗng, ông ấy đã mượn đất để biến mất về núi Côn Luân rồi. Khi còn tại thế, những chuyện thần bí của ông rất nhiều, người ta nói rằng ngón tay ông có điện, giống như công phu điểm huyệt vậy, cách không nhất chỉ, người nào không tin ông ấy sẽ bị điện giật, toàn thân không thể cử động. Sau khi Lưu Bồi Trung tạ thế, rất nhiều học sinh vì tôn kính ông ấy, đã tạc tượng ông bằng gốm sứ, hàng ngày sớm tối dâng hương, lễ kính giống như Tiên Phật vậy.
Không còn gì nghi ngờ, từ bao lâu nay, đối với xã hội, những cống hiến thấu tình đạt lý của Lưu Bồi Trung có một mặt không thể gạt bỏ. Nói ví dụ như, ông ấy đã liên kết Đạo công và hành vi xã hội với nhau, học sinh của ông ấy bao gồm từ phần tử trí thức cho đến lưu manh du côn, đã trở thành một thể chế đạo đức vô hình mà hữu hiệu, những tài hoa dựa vào tổ chức này đã bảo hộ cho rất nhiều vụ kiện xã hội không thể tránh khỏi, hình thành nên một dòng thác ấm áp. Trên phương diện này, cá nhân tôi rất khâm phục thầy Lưu Bồi Trung, đặc biệt là một cách rất tự nhiên ông đã nghĩ đến tâm lý học của nhân loại hiện đại và phương diện thái độ tín ngưỡng, từ đó ông đã kết hợp lòng tôn sùng tín ngưỡng của cá nhân và tổ chức hoặc cơ cấu hệ thống tín ngưỡng của họ lại với nhau, kết quả nghiên cứu của các học giả tâm lý chính trị đã chứng tỏ phương diện này thật sự thành công.
Theo như tôi biết, phương thức tư tưởng của Đạo gia thông thường luôn tương đối độc đoán hoặc khó tiếp cận. Các nhà tôn giáo vẫn còn có cách nhìn thành kiến đối với sinh mệnh, đối với việc chấp nhận tông phái của người khác, cách họ bình luận đánh giá và phản ứng đều cho thấy họ cực kì thành kiến và hẹp hòi. Họ vốn có Đạo pháp cổ xưa và quan điểm đạo đức mà họ tự cho là đúng, tin chắc cái của mình mới là đúng, học thuyết và lý luận là số một, tiếp nhận và tôn trọng vô điều kiện thần tượng quyền uy trong con mắt của họ, không bao giờ khoan dung với các phần tử "dị kỉ" của các tôn giáo và tông phái khác. Đây chính là sự bám chấp mà Phật gia thường khuyên con người không được chấp vào.
Cho nên, trên phương diện hành vi của thầy Lưu Bồi Trung thì có thể nói là rất rộng lượng, nhãn quang của ông ấy nhìn xa trông rộng hơn nhiều so với hạng người thế tục. Mặc dù con người ông đã già, nhưng trên phương diện phân tích lý lẽ thì lại sắc bén và bình tĩnh như vậy, với đức độ, tài năng và học vấn sẵn có, đó là một cách làm có chiều sâu, bảo sao ông có thể thông hiểu đạo lý, chỉnh hợp thành hệ thống tín ngưỡng của chính mình. Với tấm lòng cởi mở, tự nhiên có phong thái như thế, vậy thì tất cả những học sinh của ông cũng sẽ tự nhiên tiếp thu những chỉ đạo của ông.
Ngoài ra, ông Quan Xuân Hoa cũng nhắc đến một người khác, người này chính là ông Thái Tao Kì. Ngược lại, với con người này thì tôi lại có quen biết, từng ngồi cùng bàn ăn cơm một lần. Tại buổi hội nghị lần thứ chín của Viện Lập Pháp, tôi đã diễn giảng "Cái nhìn đa chiều về vấn đề linh học", nên đã gặp mặt ông ta một lần. Người này vóc dáng rất gầy, tướng mạo kì dị, ngón tay dài và gầy, nói một câu không khách khí thì ba phần giống người, bảy phần giống ma, ông tự xưng là đại đệ tử của Phật Đà, là Đại Ca Diếp chuyển thế. Ông ấy cũng viết sách, nhưng trong sách dùng quá nhiều tiếng Ấn Độ, rất nhiều người sau khi đọc xong có phát biểu cảm tưởng bằng bốn chữ: "Chẳng hiểu gì cả."
Ông Thái Tao Kì tự mình lập nên một tổ chức gọi là hội nghiên cứu khoa học gì đó, đặt một cái tên gọi rất hay, nhưng việc mà họ làm là những trò giang hồ đoán mệnh giải vận. Nhưng mà ông ta cũng nhận học trò, tự xưng là có nhân duyên tiền kiếp với nhau, nói tiếng Ấn Độ mà ngay cả người Ấn Độ nghe cũng không hiểu. Càng "kì diệu" hơn là ông ta coi Shinji Takahashi là thầy, Shinji Takahashi tự xưng là Phật Đà chuyển thế. Học trò của tôi là tiến sĩ Tang Quảng Ân, giáo sư trường Đại Học Công Nghiệp Tokyo từng đến thăm người này, phát hiện ra Shinji Takahashi lòng dạ mưu mô, căn bản là một tên giang hộ bịp bợm người Nhật. Câu hỏi của tiến sĩ Tang, Shinji Takahashi không trả lời được. Ở Nhật Bản, danh dự của Shinji Takahashi rất tồi, bàn về đạo của ông ta thì cũng chẳng khác gì kê đồng. Còn Thái Tao Kì bản thân gắng gượng đưa đầu ra nhận giặc làm cha, lại còn tự nhận mình là đại đệ tử của ông ta, tự mình nhận là Đại Ca Diếp. Thế rồi Shinji Takahashi bỗng dưng ốm chết, ông ta tự cho mình là trung tâm, lòng dạ cũng mưu mô không khác gì.
Thái Tao Kì rốt cục có thành tựu gì? Ông ta nổi lên từ dân gian, là nhánh nhỏ của một tông phái, ở dân gian không có sự ủng hộ nào về mặt tinh thần và đạo đức, các mối liên hệ của ông ta nhỏ, đương nhiên thực lực cũng nhỏ. Mặc dù Thái Tao Kì tiếp thu những nghệ thuật thần bí của tôn giáo, cũng giữ gìn cẩn mật một vài tư tưởng và nguyên tắc hành động nào đó của bản thân, nhưng con người ông ta thích lời lẽ khoa trương, điều này phá hoại tính thần bí của chính ông ta. Những người thân tín ở tầng trên cao nhất cũng lần lượt sinh ra sự bất tín nhiệm, đặc biệt là ông ta không có một bộ phương pháp tu hành nào cả, khiến cho phương pháp tuyên truyền mông lung mịt mờ của Thái Tao Kì nhanh chóng bị tan rã, tự ông ta làm một kẻ sùng bái cá nhân, giống như học sinh trường mầm non vậy, hoàn toàn là làm việc theo cảm tính như kiểu tìm người gây sự.
Nói một cách thẳng thắn, ngày nay cho dù muốn giảng đạo thì cũng cần phải có sẵn tri thức đủ tầm cao và óc tư duy rõ ràng, thậm chí còn cần có năng lực tổ chức hiện đại, trong khi đó Thái Tao Kì lại dùng một phương pháp thành kiến một cách đầy bế tắc thì căn bản là sai lầm rồi. Cũng giống hệt như Shinji Takahashi tự cho rằng mẹ ông ta là Chuẩn Đề Bồ Tát chuyển thế, em gái ông ta là Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển thế, bản thân ông ta là Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển thế, hoàn toàn là một bầy quạ kêu, lu loa phụ họa. Nay Shinji Takahashi đã ngoài bốn mươi tuổi bỗng dưng vênh váo, làm sao để tự bào chữa cho bản thân đây?
Tâm linh của Thái Tao Kì thì bế tắc, có tính cuồng vọng ích kỉ, ngoan cố hùa theo một cách mù quáng, tùy tiện bài trừ kẻ đối lập, rất độc đoán, sắc bén một cách cực đoan, đánh mất tính tương tác với dân chúng, mất đi tính căn bản gốc gác, do vậy hội nghiên cứu ý thức khoa học của ông ta dần dần phát sinh lệch lạc, hành vi sa vào hẹp hòi, từ đó sinh ra những dấu hiệu nguy hiểm, cuối cùng sẽ đánh mất chính bản thân mình. Đây là khác biệt giữa Lưu Bồi Trung và Thái Tao Kì. Còn Linh Tiên Chân Phật Tông ngày sau chắc chắn sẽ phát huy rực rỡ, như mặt trời mặt trăng phổ chiếu khắp thập phương.
22. Linh Tiên Chân Phật Tông tôn sùng Cao Vương Kinh
Tác giả xin có lời khuyên người tu đạo nên trì một kinh một chú, một đời một kiếp mỗi ngày đều trì tụng không gián đoạn, bền bỉ trì tụng tất có linh ứng. Có người hỏi tôi, kinh nào tốt nhất, chú nào có công đức nhất, câu trả lời của tôi là: "Chỉ cần có duyên thì đó chính là thượng phẩm, kinh chú không phân biệt hơn kém, có thể niệm đến khi chuyển pháp luân thì đó là thành công." Do vậy, tôi cho rằng kinh điển Đại thừa và kinh điển Tiểu thừa đều có công đức, chú lớn và chú nhỏ đều có pháp lực, chỉ cần bạn "có công mài sắt" thì tất sẽ "có ngày nên kim". Công đức niệm kinh chú là bất khả tư nghì, chư Phật Bồ Tát dựa vào kinh chú để giúp cho chúng sinh trong thiên hạ, còn phàm phu thì dựa vào kinh chú để có sự chở che của Phật Bồ Tát.
Tôi biết, phàm là tụng kinh chú thuần thục đến khi tâm khẩu ý hợp nhất thì ngữ âm của kinh chú này sẽ hóa thành bạch quang xoay tròn, bạch quang từ trong miệng tỏa ra, từ đỉnh đầu tỏa ra, từ các lỗ chân lông trên khắp người tỏa ra, tạo thành một đường ánh sáng chói lọi, ánh sáng này cùng kết hợp với Phật quang của kinh chú thì Phật Bồ Tát sẽ có thể cảm thông đến kinh chú của người tu đạo. Bạch quang xoay tròn cũng chính là làm chuyển động pháp luân, người bình thường niệm đến khi pháp luân xoay chuyển thì có thể nói rằng người đó đã thoát khỏi cái vỏ phàm phu rồi, tương lai sẽ đến Tây phương cực lạc thế giới, liên hoa hóa sinh, vĩnh viễn không phải chịu khổ báo của luân hồi nữa, thành Phật thành Thánh, đạt được cuộc sống vĩnh hằng.
Việc niệm kinh niệm chú, chỉ cần chú ý rằng đó là kinh thật chú thật, không phải là kinh giả chú giả. Chỉ cần là kinh chú do Phật Tổ truyền lại, hoặc Tiên Phật thực sự dạy cho, thì đều có thể xem là kinh thật chú thật. Còn như kinh chú do phàm phu thế tục ngụy tạo ra thì không được niệm. Nếu đúng là do Tiên Phật truyền dạy thì có thể phụng hành tôn kính, nếu là do thế tục ngụy tạo thì có niệm cũng vô ích. Điểm này vô cùng quan trọng, tuyệt đối đừng để lãng phí thời gian quý giá, lãng phí tinh thần vào việc tụng kinh tụng chú giả.
Riêng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" mà Linh Tiên Chân Phật Tông tôn sùng không phải do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy, mà đây là một bản "mộng thọ kinh", là một bản kinh điển được viết ra sau khi được một vị cao tăng đắc đạo đã chỉ điểm trong mơ. Bản kinh này thông qua trải nghiệm tâm linh của tôi thì thực sự là có sức mạnh siêu nhiên, hơn nữa còn là những chân ngôn ngộ đạo của một bậc cao tăng đắc đạo. Do vậy, tôi thấy nếu người người niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" thì rất nhanh chóng sẽ có được linh cảm, hơn nữa còn có ích lợi lớn đối với việc ngộ đạo chân tu, tương lai cũng có thể đắc được vĩnh sinh đại đạo, thực sự là không hề thua kém kinh điển Đại thừa. Do vậy tôi muốn những người tu tập Chân Phật Tông người người đều trì tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh".
Các tu sĩ Phật môn ngày nay đều phê bình các loại kinh điển ngoại đạo và xếp là ngụy kinh, luôn chỉ tôn sùng những kinh điển do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho đệ tử đã được kết tập. Còn đối với những kinh được truyền trong mộng, kinh "phi loan", kinh tự soạn, thì đại bộ phận đều không tin. Tuy nhiên, các tu sĩ Phật môn duy nhất đối với "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" được truyền trong mộng này thì không có bình luận bài trừ, hơn nữa họ còn cảm thấy kinh ngạc đối với bản kinh có nhiều Phật hiệu và nhiều hiện tượng linh dị như vậy. Tác giả có cảm hứng đối với kinh này, hơn nữa cảm thấy có nhiều niềm yêu thích hân hoan, cho rằng không thể thờ ơ với đại công đức như vậy, do vậy tôi đã đặc biệt cung kính cho in lại mấy vạn cuốn, không những để cho các đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông trì tụng, mà thậm chí để phàm phu thế tục cũng có một cuốn trong tay, tương lai có thể chuyển hóa thế giới này thành cực lạc, thành tựu quang minh đại tịnh thổ.
Với mục đích lưu truyền rộng khắp, tôi đặc biệt ghi lại nguồn gốc và nguyên văn bản kinh này.
Nguồn gốc "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh":
Ngày xưa vào thời Ngũ Đại [ ND: 5 triều đại xuất hiện vào khoảng giữa giai đoạn lịch sử khi nhà Đường suy tàn (năm 907) và sự thành lập nhà Tống (năm 960). ], có một vị quốc vương là Cao Hoan, làm tướng châu quận chủ, thích giết người. Có một vị quan thích bảo tạng tên là Tôn Kính Đức đã bị vu là phạm vào trọng pháp (kết quả khảo chứng sau này là do em trai của ông phạm pháp, nhưng Tôn Kính Đức phải chịu liên lụy), bị giam trong nhà lao đợi đến ngày chết. Trong thời gian này ông liên tục trì "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm", ngày đêm không ngơi nghỉ, rồi bất ngờ mơ thấy một tăng nhân nói rằng, ông trì kinh này không thể thoát chết, tôi khuyên ông trì "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" một nghìn biến, thì sẽ thoát được tội danh này. Kính Đức nói, nay trong giam cầm, làm sao có được kinh điển. Tăng nói, tôi sẽ đọc để dạy cho ông, ông viết lại trong khi ngủ thì sẽ không quên được. Thế rồi ông kiên tâm tụng niệm được 900 biến. Sau khi có văn bản án lệnh, sự việc cần trình lên để đóng dấu, vua lệnh đem ông ra chợ chém đầu. Kính Đức sợ hãi hỏi cai ngục xem chợ còn bao xa. Cai ngục nói hỏi làm gì. Kính Đức nói, buổi đêm mơ thấy một vị tăng bảo rằng tụng "Quan Thế Âm Kinh" một nghìn biến thì sẽ được miễn tội chết, nhưng tôi vẫn còn thiếu 100 biến nữa, xin đi chậm một chút, trên đường đi tôi sẽ niệm nhanh cho đủ số. Đến chợ, khi cai ngục tuyên chém, nhưng thân và đầu không bị tổn hại, đao thì gãy làm ba khúc. Trình báo sự việc lên vua, vua kinh ngạc hỏi ông đã dùng huyễn thuật gì mà có thể làm ra chuyện như vậy. Kính Đức nói, thực sự không có huyễn thuật nào cả, bởi vì trong ngục sợ chết nên đã trì tụng "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm", không ngờ mơ thấy một vị tăng đến dạy cho tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh" một nghìn biến mà có được phúc như vậy. Vua nói với Kính Đức rằng ông đã thắng vua rồi, ông có khác gì Phật. Vua gọi người cai ngục đến viết lại kinh này, lệnh cho mọi tội nhân và người bị xử tử mỗi người đều phải trì tụng một nghìn biến, rồi đem ra chém đầu để kiểm nghiệm, tất cả đều linh ứng. Do vậy vua đã hạ lệnh cho toàn dân khắp nơi trì tụng để có được quả phúc, truyền lại đến các đời sau được gọi là "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh".
Nhờ có sự thật cảm ứng như vậy suốt từ xưa đến nay, do vậy tôi cẩn thận thuật lại khởi nguồn của kinh này, hơn nữa còn ghi chép lại những ứng nghiệm của kinh, để cho những người có trai tâm hướng thiện sẽ phần nào nghe theo lời khuyên này mà tụng niệm.
🌟
Muốn niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", trước tiên tắm rửa sạch sẽ, phần nguồn gốc bản kinh không cần đọc, chỉ cần đọc toàn bộ phần nguyên văn. Nơi niệm kinh thông thường đương nhiên là ở Phật đường là tốt nhất, không có Phật đường thì đọc ở trong phòng đọc sách, nếu không có phòng đọc sách thì ở trong một góc của phòng ngủ, dọn lấy một chỗ giản tiện sạch sẽ (đừng đọc kinh ở nơi bất tịnh, sẽ mất đi tâm cung kính). Thắp lên một que hương, hoặc đốt đàn hương, nếu tất cả đều không tiện thì chắp tay cung kính niệm cũng có hiệu quả tương đương. Đứng chắp tay niệm, ngồi chắp tay niệm, quỳ chắp tay niệm, dùng pháp khí hoặc không dùng pháp khí, tùy theo ý muốn mà niệm, hoàn toàn không có quy định cứng nhắc.
Điều quan trọng nhất là tâm phải kiền thành, niệm thành tiếng cũng được, không niệm thành tiếng cũng được, không được suy nghĩ lung tung. Trì tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", người có nguyện lực lớn thì mỗi ngày niệm 10 biến, sáng tối mỗi khóa niệm 5 biến, thậm chí càng nhiều càng tốt. Người có nguyện lực nhỏ thì mỗi ngày niệm 2 biến, sáng tối mỗi khóa niệm 1 biến. Khi gặp chuyện gấp thì cần thỉnh đại lực của Bồ Tát hỗ trợ, mỗi ngày tụng 100 biến, 10 ngày sẽ được 1000 biến, kiên trì thường niệm như vậy, tôi tin tưởng rằng cảm ứng sẽ luôn như hình với bóng, có cầu có ứng. Người càng có tín tâm kiên định thì càng có thể thành công, đây là đạo lý chắc chắn.
Năm xưa, tác giả tại một ngôi chùa nhỏ ở Đài Trung, Đài Loan lần đầu tiên nhìn thấy Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, đó là một cuốn kinh bìa cứng, tôi đã nói với vị trụ trì là muốn thỉnh cuốn kinh này, trụ trì là sư Thích Huệ Linh, là vị tăng xuất gia, có quan hệ thân tình đối với cha mẹ tôi. Sau khi tôi cầm cuốn kinh này về nhà thì lập tức có được giấc mơ, mơ thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa hoa sen thuyết pháp, pháp tướng ngài trang nghiêm khiến người ta sinh tâm cung kính. Sau đó tôi cẩn thận đọc "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", đột nhiên có một mùi hương đưa đến, thơm như hoa. Khi đó tôi vẫn chưa biết tu đạo và khởi linh, sau sự việc này mới bắt đầu biết rằng ai có căn duyên tiền kiếp thì tất sẽ có hiện tượng như vậy.
Khi còn trẻ, tác giả học ngành trắc lượng, thường ra vào vùng núi sâu, ở nhờ tại nhà dân hoặc chùa miếu. Trước mỗi chuyến ra ngoài đi đo đạc, và sau khi trở về nhà, tôi thường cung kính đọc tụng một biến "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh". Kể từ đó đến nay đã hơn 10 năm rồi, tôi không bỏ qua một ngày nào là không đọc. Về sau tôi ra nước ngoài du lịch, ở tại một khách sạn lớn, buổi sáng tôi hướng mặt về phía cửa sổ, hướng ra bên ngoài niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh". Đây là một trong những công khóa hàng ngày của tôi khi tôi đi du lịch. Tôi cho rằng làm như vậy sẽ tác động sâu đến tâm của tôi, tôi cũng cho rằng Quan Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ bảo vệ tôi, bởi vì tôi tin tưởng sâu sắc rằng chư Phật không vọng ngữ.
23. Quan Âm cứu tôi thoát nạn chết người
Vào buổi chạng vạng một ngày mùa xuân năm 1976, khi ấy tôi đang ở tại nhà mình ở phường Nghi Hân ở Đài Trung. Buổi chiều tối hôm đó vô cùng yên tĩnh, có hai học trò đến tìm tôi, một người là ông Phan Bách Lâm, một người là ông Tăng Mậu Tùng, hai người học trò này thần sắc hốt hoảng, tôi nghĩ rằng hai học trò này có khó khăn gì đó cần giúp đỡ, không ngờ khó khăn lần này không phải là họ, mà là chính tôi. Họ đến để thông báo cho tôi biết là tôi gặp phiền phức rồi.
Sự việc là như thế này. Mấy ngày trước, ông Phan đến bệnh viện thành phố Đài Trung để thăm bạn bị bệnh, tại lối đi trong bệnh viện đã gặp lại một thủ lĩnh xã hội đen hai năm nay chưa gặp, vị thủ lĩnh xã hội đen này cũng đến để thăm bệnh nhân. Hai năm trước, ông Phan vì quan hệ làm ăn nên đã thân thiết với đại ca xã hội đen này, nhưng họ cũng đã hai năm không gặp mặt nhau rồi. Trong lúc hai người tán dóc với nhau, ông Phan hỏi vì sao anh ta không kết hôn, đại ca thủ lĩnh cười đáp, chỉ là người khách quen trên hòn đảo này, cả đời lang thang phiêu bạt, không biết khi nào sinh mạng kết thúc, hà tất phải vì chuyện vụn vặt thế tục này mà liên lụy đến một người phụ nữ.
"Tôi đưa anh đi gặp thầy của tôi, để thầy chỉ điểm cho anh một chút nhé." - Ông Phan nhắc đến tôi, nhiệt tình nói. "Thầy của anh là ai?" - Đại ca thủ lĩnh xã hội đen tò mò hỏi. "Thầy tôi là Lư Thắng Ngạn, anh có quen biết không?" "Là Lư Thắng Ngạn… Đại ca thủ lĩnh này trầm ngâm một lúc: "Không giấu gì ông, mấy ngày trước lẽ ra chúng tôi phải trừ khử con người này rồi, nhưng có hai người anh em bị tai nạn giao thông, nên thời gian đã đổi sang ngày mai, hôm nay tôi đến bệnh viện Đài Trung là để thăm hai người anh em này, ngày mai chúng tôi sẽ hạ thủ bên đường lúc ông ta tan làm." "Tuyệt đối không được đâu." - Ông Phan cuống quýt. "Vì sao mấy người phải giết ông ấy? Vì sao thế? Vì sao thế?" "Có người bỏ tiền ra mua cái mạng của ông ta, còn chúng tôi chỉ làm việc mà thôi." - Đại ca thủ lĩnh còn nói: "Người bỏ tiền kia nói, Lư Thắng Ngạn là một tên bịp bợm tội ác tày trời, lừa gạt tiền bạc của người ta, gian dâm với phụ nữ, trộm cướp lừa đảo, không từ một trò ác nào không làm, đối với loại người này, chết còn chưa hết tội, giết được ông ta rồi cũng xem như thay trời hành đạo, vì thế, chúng tôi vẫn tiếp tục vụ mua bán này, đồng thời người bỏ tiền cũng chi rất hào phóng."
Lúc này, Phan Bách Lâm hốt hoảng đến mức đầu tóc ướt rượt mồ hôi, ông ấy cố hết sức để can ngăn đại ca thủ lĩnh từ từ hẵng động thủ, đồng thời cố hết sức thay tôi làm sáng tỏ tin nhảm, thay tôi vỗ ngực quả quyết cam đoan, đồng thời mong đại ca thủ lĩnh nể tình nghĩa, hiểu cho đạo nghĩa bạn bè. Cuối cùng, đại ca thủ lĩnh mới nói: "Được thôi! Nể mặt ông bạn cũ nhiều năm nay, ngày mai tạm thời chưa giết, đồng thời hãy hẹn một thời gian cụ thể, tôi thử gặp người thầy Lư Thắng Ngạn này của ông xem sao, tôi muốn nói chuyện với ông ta." Đại ca thủ lĩnh này làm việc cũng không mập mờ, lập tức gọi mấy cú điện thoại, ngay tại chỗ đã dặn dò những người cấp dưới thu đao gươm về, việc ngày mai tạm ngưng.
Theo ông Phan Bách Lâm nói, người xuất tiền đã mời người động thủ ăn một bữa cơm tại Hồng Địa Chiên, khi ấy là Nam Viên Tửu Gia (hiện đang kinh doanh phòng khách, nằm ở giao lộ giữa đường Dân Tộc và đường Kế Quang ở Đài Trung). Ngoài ra cũng có một lần họ ăn cơm tại nhà hàng bên bờ biển Tây, đã nói rõ ràng rằng, móc mắt thì bao nhiêu vạn, chặt đứt cánh tay viết sách thì bao nhiêu vạn, chặt chân là bao nhiêu vạn, giết chết bằng đao võ sĩ thì sẽ trả tiền gấp bội. Mỗi người động thủ đều có một tấm ảnh của tôi để tránh ngộ sát. Tấm ảnh đó họ có được từ đằng sau bìa sách mà tác giả xuất bản. Tất cả đã được chuẩn bị ổn thỏa, chỉ đợi đến lúc động thủ mà thôi.
Tôi thừa nhận, khi tôi nghe được những tin tức này, trong lòng tôi vô cùng kích động, toàn thân tôi run lên, hết sức sợ hãi. Tôi nghĩ, cả đời tôi chưa bao giờ kết oán với người ta, cả đời ngay cả một lần đánh lộn cũng chưa từng có, sống làm người hiền lành, không dám đắc tội với ai. Tôi thừa nhận, tôi là một kẻ nhát gan mềm yếu, một người viết văn chương, một người thích tu đạo, cố nhiên tiếng tăm rất lớn, nhưng chưa từng lợi dụng điều này để bắt nạt người khác! Thật ra tiếng tăm lớn thì cũng chỉ là tiếng tăm lớn, không hề có thế lực gì, thì làm gì có chuyện không có việc ác gì là không làm chứ! Có thể thấy rõ được nỗi đau xót lớn lao trong lòng tôi.
"Người bỏ tiền muốn giết tôi là ai?" "Là người lang thang hoang tàng Thái Kiến Vĩ, còn gọi là Thái Thìn Vệ." "Là hắn ta!" - Tôi đã sớm đoán là hắn, nhưng rồi lại nghĩ không phải là hắn, bởi vì tôi không đắc tội với hắn ta, chỉ là khéo léo cự tuyệt việc sách nhiễu người khác của hắn mà thôi.
Một người thành công lớn nhất định sẽ có kẻ thù lớn, một người thành công nhỏ nhất định sẽ có kẻ thù nhỏ. Còn người không thành công thì nhất định không có kẻ thù. Tôi đã quên mất câu châm ngôn này là của vị danh nhân nào. Trước kia, tôi viết cuốn sách "Mạn đàm linh cơ thần toán", sách vừa xuất bản đã lập tức làm xôn xao cả Đài Loan, đạt kỉ lục tái bản hơn ba mươi lần, có khi một ngày đạt kỉ lục nhận được hơn năm trăm bức thư của độc giả. Thử nghĩ xem, danh tiếng lẫy lừng ấy, trong giới xuất bản mà nói, có thể xem như là người đầu tiên và cũng là người cuối cùng. Chỉ cần là người mua sách, người đọc sách, thậm chí rất nhiều người trước nay chưa từng có thói quen đọc sách, nghe người khác nói, cũng vội vàng đến hiệu sách để mua sách của tôi. Bởi vì một ngày có tới năm trăm bức thư của độc giả gửi đến, kì tích trong giới xuất bản, nên nhà xuất bản cũng nôn nóng muốn có sách mới. Thế là những cuốn sách tôi viết như "Giữa linh và tôi", "Mạn đàm về linh cơ thần toán", "Siêu giác của linh hồn", "Khởi linh học", những cuốn sách này được viết theo yêu cầu của độc giả, vì thế tiếng tăm tôi lẫy lừng như mặt trời, liệu có mấy người đạt đến được mức độ mà không ai là không biết.
Thái Kiến Vĩ kia, đọc xong thì tâm đố kị đã nổi lên, khi đó hình như hắn ta bày một sạp bán sách, thế là hắn ta xé tan tành sách của tôi, bồi thêm một đống lời lẽ thô tục điên cuồng chửi người ta, rồi hắn ta tổng hợp lại thành hai cuốn sách, một cuốn là "Thần thoại ma quỷ", một cuốn là "Yêu ma quỷ quái", trên bìa sách còn in dòng chữ cỡ lớn là "Lư Thắng Ngạn yêu ngôn hoặc chúng". Còn ghê gớm hơn nữa là khi hắn ta còn chưa ra sách, hắn đã đem bản thảo giấy đến hàn xá của tôi, tống tiền tôi 280.000 Đài tệ cho một cuốn sách đó. Đối với văn hóa du côn điên cuồng vì tiền như vậy, tôi đã đuổi hắn ra khỏi nhà, tôi một mực không thèm để ý đến loại người đó. Thế là, hắn ta đăng một bài quảng cáo tuyên truyền lớn trên báo, chẳng qua cũng là cái kiểu "Lư Thắng Ngạn yêu ngôn hoặc chúng", kiêm tuyên truyền sách của hắn. Nghe nói chính vì trên bìa sách có in ba chữ "Lư Thắng Ngạn", cho nên người khác đã mua sách của tôi tự nhiên về mặt tâm lý cũng muốn đọc cuốn sách bắt bẻ cái người họ Lư kia. Với cách hiểu như thế, bìa hai cuốn sách của hắn ta có ba chữ Lư Thắng Ngạn thật sự đã khiến hắn thu được bộn tiền sách.
Khi ấy, tôi đăng bài cho chuyên mục "Thế giới tâm linh" trên trang Nhật Báo Đài Loan, hắn ta đã viết thư đe dọa người biên tập rằng đừng có cho đăng những bài viết của Lư Thắng Ngạn nữa, nếu không sẽ giết người biên tập, người biên tập liên tiếp nhận được thư khủng bố. Tôi cũng thường xuyên nhận được thư khủng bố của hắn. Hai cuốn sách mà hắn viết, bản thân tôi cũng chưa đọc, nhưng những độc giả kể lại cho tôi nghe cũng đã đủ nhiều rồi, hoàn toàn là những lời chửi bới chua ngoa như mụ hàng tôm hàng cá, hắn ta có thể làm ra một trò hề ăn không nói có, chụp cái mũ "yêu ngôn hoặc chúng", "cách mạng tôn giáo", "tập hợp tà giáo" hết lên đầu tôi. Đương nhiên, công phu kích hỏa của hắn ta cũng không tồi. Cuộc sống của tôi và công việc phục vụ của tôi đều phải chịu rất nhiều phiền nhiễu. Thế nhưng, tôi vẫn không quan tâm đến hắn ta, độc giả thử nghĩ xem, tôi có thể đáp ứng sự bắt chẹt của hắn không?
Thái Kiến Vĩ là người thế nào? Dáng người thấp bé, hơi béo, ngoài bốn mươi tuổi, chưa kết hôn, từ nhỏ lang thang bên ngoài, có tính cách hơi lưu manh, đã vào tù mấy lần, là kẻ hoang tưởng tự đại. Nhật Báo Trung Ương đăng nhiều kì "Tiếng lòng của một tiểu thị dân", họ Thái kia đã viết một cuốn sách là "Dân thành phố khiêu chiến dân tỉnh lẻ", cuốn sách này đã bị Cục Thông Tin cho vào hồ sơ cấm (sau này, hai cuốn "Thần thoại ma quỷ" và "Yêu ngôn hoặc chúng" cũng bị cấm.) Có một lần hắn ta phải vào tù là vì bị nghi có dính líu đến tổ chức "Nhóm chào đón chúc mừng Tổng thống nhậm chức ở phương Bắc", lợi dụng cơ hội này để tống tiền các cửa hàng. Thậm chí, hắn ta còn sách nhiễu thị trưởng thành phố Đài Trung Tăng Văn Ba trước kia nhưng không thành, vì thế hắn ta bèn làm cuộc vận động bãi chức thị trưởng. Người từng bị hắn sách nhiễu, theo như tôi biết, ngoài thị trưởng thành phố Đài Trung Tăng Văn Ba ra, còn có tiền thị trưởng Trần Đoan Đường, thị trưởng đương nhiệm Lâm Bách Dong, tổng giám đốc đại khách sạn Kính Hoa Trần Kính Đường (người bị ông ta chỉ trích là đại vương trốn thuế). Ngoài ra còn có chủ nhiệm Trung Tâm Văn Hóa Đài Trung - ông Trần Vũ Hùng, Thái Kiến Vĩ đã uy hiếp ông Trần Vũ Hùng phải mời hắn làm cố vấn cho Trung Tâm Văn Hóa, mỗi tháng trả lương hai mươi nghìn tệ, bằng không hắn ta sẽ thủ tiêu Trần Vũ Hùng. Đây chỉ là những việc tôi biết, việc tôi không biết thì nhiều vô số. Trần Vũ Hùng (thi nhân Hoàn Phu) kể với tôi: "Con người này điên rồi, giống như một con chó dại, thấy người khác tử tế là hắn ta liền cắn. Đừng để ý tới hắn làm gì."
Đối với phần tử cặn bã của xã hội này, tôi vẫn luôn lựa chọn cách thức "lấy tĩnh chế động", về cơ bản là không quan tâm. Thế là hắn ta lại càng giả mạo con người Lư Thắng Ngạn tôi đây, ở thành phố Đài Trung, đoạn giao giữa đường Trung Hoa và đường Hồ Bắc bày ra một góc "xem tướng mệnh", thấy người đi qua là chèo kéo, tự xưng là Lư Thắng Ngạn ở đây, thậm chí kiêm luôn bán "xuân dược xuân tửu", hại tôi giải thích không xuể. Đối với phong cách vô lại này của hắn ta, đến cuối cùng tôi vẫn không mảy may để bụng, tôi cũng chẳng buồn nghe nữa.
"Hắn ta thật sự muốn giết tôi sao?" - Tôi đã tạo nên sự uy hiếp gì với hắn sao? "Thật đó, nhưng thầy đã tránh được một lần tai nạn rồi, thầy đi gặp đại ca thủ lĩnh đi, người này muốn gặp thầy." - Phan Bách Lâm nói. Tại nhà của ông Phan Bách Lâm, tôi đã gặp đầu đảng xã hội đen. Khi còn chịu quản huấn ở Lục Đảo [ ND: một thị trấn ở huyện Đài Đông ], vị thủ lĩnh này từng là lớp trưởng của phi tặc Cao Kim Chung. Chúng tôi gặp mặt nói chuyện, anh ta cho rằng tướng mạo tôi thiện lành, căn bản không phải là loại người không có việc ác nào mà không làm. Trong lúc nói chuyện, tôi muốn thủ lĩnh xã hội đen chú ý thấy rằng "trộm cướp cũng có đạo", trong xã hội đen cũng có thể giúp người hướng thiện, anh ta nghe rất cảm động. Thật ra, vị thủ lĩnh xã hội đen này tướng mạo cũng không phải là người bệ vệ mình đồng da sắt, để tóc húi cua, vóc dáng trung bình, những ngón tay có thể viết chữ rất đẹp, là cao thủ số một về đánh cờ tướng, suy nghĩ nhanh nhẹn, là một người thủ lĩnh tốt ngoài dự liệu. Buổi gặp mặt hôm đó, đi cùng anh ta đến không ngờ lại là một giáo viên nữ có tướng mạo xinh đẹp. Nghe nói phụ nữ theo đuổi anh ta rất đông, không thiếu gì những phần tử tri thức, giống như người giáo viên nữ kia, tốt nghiệp đại học sư phạm, có nghề nghiệp chính đáng, gia đình giàu có, nhưng mà nếu không phải người thủ lĩnh này thì nhất định không lấy chồng.
Đương nhiên, sau khi tôi gặp mặt thủ lĩnh xã hội đen một lần, đại ca thủ lĩnh đó cũng đến hàn xá của tôi mấy lần, giữa chúng tôi mặc dù đạo khác nhau đường khác nhau, nhưng anh ta cho rằng con người tôi đây đáng làm bạn, cũng thường xuyên đến thỉnh giáo tôi những vấn đề. Thế còn Thái Kiến Vĩ thì sao? Thái Kiến Vĩ chỉ là một người bạn bình thường của thuộc hạ của thủ lĩnh này mà thôi, vào những dịp lễ tết, Thái Kiến Vĩ vẫn phải tặng rượu tây thuốc tây cho thủ lĩnh. Thủ lĩnh nói một câu "không được" thì Thái Kiến Vĩ này ngay cả rắm cũng không dám đánh một cái.
Trong sự việc này, tôi phải cảm tạ đại ca thủ lĩnh xã hội đen, chính nhờ một câu nói của anh ta mà cái mạng nhỏ bé này của tôi mới có thể giữ được, tới hôm nay có thể tiếp tục viết văn gặp gỡ cùng độc giả cũng là nhờ một câu nói của anh ta. (Danh tính của đại ca thủ lĩnh này tôi chưa từng tiết lộ, bởi vì nếu viết ra, e rằng không tiện, kính mong độc giả thứ lỗi.)
Trong cõi vô hình, tôi còn phải cảm tạ Quan Thế Âm Bồ Tát, rất nhiều sự sắp đặt khéo léo của Ngài đã giúp tôi thoát chết, ví dụ như: Thứ nhất, tôi thu nhận ông Phan Bách Lâm làm học trò, không thu nhận ông ấy thì tôi đã chết rồi. Thứ hai, hai người anh em gặp tai nạn giao thông, nên thời gian giết tôi đã bị kéo dài, nếu không xảy ra vụ tai nạn thì tôi đã chết rồi. Thứ ba, Phan Bách Lâm và thủ lĩnh kia hai năm không gặp mặt, thế mà lại đụng đầu ở bệnh viện, nếu họ không chạm mặt nhau thì tôi đã chết rồi. Thứ tư, trong lúc nói chuyện Phan Bách Lâm nhắc đến tôi, nếu không nhắc đến tôi thì bây giờ tôi chết chắc rồi. Người phải chết thì không chết, trong cõi vô hình tự có định số, đó chẳng phải là Quan Thế Âm Bồ Tất đã cứu tôi thoát khỏi nạn chết người sao?
24. Tịnh thổ pháp yếu
Trong thiền định, tác giả đã thần du đến Tây phương Cực Lạc thế giới, gặp mặt Nam Mô A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, sâu sắc biết được nguyện lực hùng vĩ của Tây phương Cực Lạc thế giới, và mức độ thâm sâu uyên bác của pháp môn tịnh độ. Vì thế, thế giới này tự có thể hình thành nên một tôn giáo với cả thuận lợi khó khăn, cội nguồn của tông phái tịnh độ có thể chảy dài cũng là có nguyên nhân của nó.
Tôi biết diện tích của Tây phương Cực Lạc thế giới là rộng lớn vô hạn, đó là vô số những con sóng xanh làm chấn động tâm linh. Nơi mà tôi thần du qua có Tam Sơn, Điểu Y, Tây Động, Phúc Quang, Bảo Thăng, Liên Trì, Loa Nham, Thiện Quyển, Linh Cốc, v.v… thật sự là vàng son lộng lẫy, sóng biếc mênh mông. Những địa danh này, trong Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni đều chưa từng nhắc đến, đây là những nơi mà sau khi tôi thần du đến, tôi đã ghi lại tên địa danh. Phật Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhãn để quan sát mà biết được khoảng cách, mà biết được phạm vi, mà biết được sự khởi nguồn và khai phá của A Di Đà Phật, mà biết về cảnh quan và vãng sinh, mà biết cảnh sắc cực kì tráng lệ, mà biết A Di Đà Phật che chở chúng sinh.
Còn tôi, tôi biết Tây phương Cực Lạc thế giới có bốn mươi tám động thiên, có bảy mươi hai địa thiên, vẻ đẹp của cảnh trí ấy ở nhân gian không có gì sánh bằng, thậm chí cảnh sắc thiên đường ở Sắc Giới thiên cũng có chỗ không bì kịp, là một Phật quốc nhưng lại có sắc thái của thiên đường, cũng chẳng trách mà danh tiếng khắp thiên hạ. Vẻ đẹp của phong cảnh, những hang động kì diệu của linh cốc, thiên hoa ở hồ sen, không chỉ tĩnh mịch theo phong cách cổ xưa mà còn có những cây cầu hồ nước, càng có thiền vị tao nhã, cảnh sắc sông nước, phơ phất đàn hương.
Khi tôi thần du Tây phương Cực Lạc thế giới, tôi phải được một vòng ánh sáng xanh biếc chiếu vào, đó là gương trừ uế chiếu vào thân, giống như tắm gội vậy, chiếu từ đầu đến chân, như thế, nguyên thần cũng được thanh tịnh tinh khiết, dường như đã trở thành một con người khác, không phải con người, mà là Thượng Tiên. Bởi vì nhân loại thích ăn máu tanh, dục vọng đều thô tục, dùng gương trừ uế chiếu vào, loại bỏ nghiệp chướng của nguyên thần, có được cái thể thanh tịnh để vào cõi thanh tịnh.
Tôi biết, tâm linh vui vẻ mới là cực lạc chân chính, vì thế, thế giới Cực Lạc là niềm vui vẻ thuần tịnh của tâm linh, như tâm niệm chí thiện, như cảnh trí đẹp không sao tả xiết, như âm nhạc với âm thanh hòa nhã, như Phật âm nhất tâm bất động, như quang và linh vi tế. Tâm linh của thế giới này nối liền với nhau, những con sóng tâm linh duy trì một mức độ vui vẻ, giống như khi có một tin tức nhanh chóng sinh ra thì sẽ được lan truyền đến tâm của mỗi người một cách chắc chắc, tỉ mỉ và chặt chẽ. Tôi phát hiện ra những hàng cây thất bảo ở thế giới này là những cây cao lớn quý báu, có hoa màu hồng, đẹp đẽ lấp lánh đặc biệt. Những hàng cây thất bảo ở Tam Sơn, Loa Nham là nhiều nhất, bát công đức thủy ở hồ sen, hoa sen trong hồ sen hiện lên bảy màu sắc, mỗi đóa hoa sen đại biểu cho một Phật tử. Hoa quả phân thành chín màu sắc, chính là Cửu Phẩm Liên Hoa Sinh, rất đẹp đẽ. Vì thế, Phật tử tu trì thành quả có thể dùng độ sáng màu sắc của hoa sen mà phân biệt. Gốc của hoa sen tiếp với đất, hoa nở thấy Phật, tự tại tiêu dao.
Phật môn Tịnh độ tông, hiện nay các chùa ở Đài Loan phần lớn là Tịnh độ tông, bởi vì tu trì tịnh độ phổ cập đến tất cả chúng sinh, bất kể bạn là người có đại huệ căn hay là hạng người ngu si, chỉ cần bạn tin tưởng rằng có một thế giới gọi là Cực Lạc, thế giới này có vị Phật hiệu là A Di Đà Phật đã phát bốn mươi tám đại nguyện độ hết muôn dân trong thiên hạ. Bạn tin vào sự tồn tại của thế giới này, niệm tên Phật, hồi hướng nguyện vãng sinh, nếu tâm linh của Phật và bạn tương thông thì tự nhiên bạn sẽ vãng sinh về thế giới này.
Có người cho rằng, chỉ cần niệm Phật là có thể vãng sinh, như thế chẳng phải là quá đơn giản sao, điểm này tôi không tin. Thật ra niệm Phật không hẳn là dễ như vậy, càng là thứ dễ thì lại càng khó. Trong kinh Phật có nói, chúng sinh phương nam cá tính ương ngạnh, bướng bỉnh khó độ hóa. Đúng vậy, bảo họ tin tưởng có thế giới Cực Lạc thì thật là khó lắm. Con người theo đuổi sự thỏa mãn dục vọng và danh lợi của thế tục, đối với tâm linh và tương lai, thế giới sau khi con người chết đi, thì họ thờ ơ. Bạn giáo hóa khuyên bảo họ rằng có thế giới Cực Lạc, họ có thể cười chúng ta là đồ điên, việc giáo hóa họ chưa thành mà rốt cục chỉ nhận về sự phỉ báng. Người có thể bền lòng tin Phật thì ít lắm.
Vả lại, trí huệ càng tăng trưởng, khoa học nhân loại càng phát triển, thì người ham thú chơi bời càng nhiều, chỉ mưu cầu hiện tại, hưởng lạc đời người, không còn ai chịu buông bỏ danh lợi, tu hành dưỡng khí, muốn họ niệm một tiếng Phật, họ đều coi thường hết cả. Vì thế, Tây phương Cực Lạc thế giới dù xinh đẹp, pháp môn tịnh độ dù tuyệt vời, những người không có duyên tiếp cận thì nhiều như cá diếc bơi trên sông, điều này chẳng phải quá đáng tiếc sao? Thật khiến người ta phải thở than.
Tác giả dựa theo Linh Tiên Chân Phật Tông để luyện linh, ra vào vòng thái cực, đích thân thần du Tây phương Cực Lạc thế giới, sẵn lòng vì A Di Đà Phật làm một nhân chứng rằng thực sự có cảnh giới này tồn tại. Không chỉ đệ tử Phật có thể tu pháp môn tịnh độ, người tu pháp môn khác hay tông phái khác cũng có thể tu pháp môn tịnh độ, thậm chí phàm phu thế tục cũng có thể tu pháp môn tịnh độ. Người người tu pháp môn tịnh độ, tương lai người người đều thăng lên Tây phương Cực Lạc thế giới, có hi vọng thành Phật.
Tu pháp môn tịnh độ có những điểm quan trọng như sau: Niệm Phật nhất định phải duy trì sự bền bỉ, người kiên trì nhất định sẽ thành công, người có căn cơ tương đối sâu thì có thể trì thêm kinh A Di Đà và chú Vãng sinh. Còn người bình thường chỉ cần vào sáng sớm hoặc chiều tối, trước Phật thắp hương cúng nước sạch hoặc quả xanh, an định tinh thần lại, niệm từng tiếng Nam Mô A Di Đà Phật, có thể chắp tay, có thể đếm chuỗi hạt, mười lần, trăm lần, nghìn lần đều được, tùy thời gian của bạn mà quyết định, cái này đều tùy ý thôi. Niệm xong thì đọc thêm kệ hồi hướng: "Nguyện người cùng niệm Phật, cùng sinh cõi Cực Lạc, trên báo bốn ơn sâu, dưới cứu khổ tam đồ, thấy Phật thoát sinh tử, như Phật độ tất cả."
Ngoài việc kiên trì niệm Phật ra, tôi khuyên mọi người mỗi người mỗi nghề, cũng có thể thuận tiện mà niệm. Ví dụ thợ rèn mỗi lần đánh xuống một búa thì niệm một câu Phật, tài xế lái xe mỗi lần đi qua ngã tư thì niệm một câu Phật, bác sĩ khám cho một bệnh nhân thì niệm một câu Phật, người buôn bán bán được một món hàng hóa thì niệm một câu Phật, công nhân đóng xuống một cái đinh thì niệm một câu Phật, chạy xe cũng có thể niệm Phật, ngồi trên ô tô cũng có thể niệm Phật, đi bộ chạy bộ vào buổi sáng cũng có thể niệm Phật, lúc rỗi rãi có thể niệm Phật, lúc làm việc có thể niệm Phật, đi đứng ngồi nằm đều có thể niệm Phật. Như thế, người người niệm Phật, chẳng phải là vạn nhà thăng Phật, nhà nhà niệm Phật, nhà nhà cát tường sao.
Niệm Phật chỉ cần tập trung tinh thần về một chỗ, đó là cách thanh tịnh tâm linh đơn giản nhất. Tâm linh thanh tịnh cũng chính là tinh thần thống nhất và tập trung, như thế, cái duyên với Tây phương Cực Lạc thế giới đã được trồng xuống, chỉ đợi ngày khai hoa kết quả nữa thôi. Đợi đến khi niệm niệm thuần thục rồi, một câu Phật hiệu của bạn trực tiếp liên hệ được với Phật tâm của A Di Đà Phật, gắn bó chặt chẽ với nhau, cho đến ngày công thành viên mãn, cũng chính là ngày hoa nở thấy Phật.
Niệm Nam Mô A Di Đà Phật mười tiếng, trăm tiếng, nghìn tiếng xong, thỉnh thoảng có thể niệm thêm ba tiếng Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát và ba tiếng Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát, vì Quan Âm Thế Chí và A Di Đà Phật gọi chung là Tây phương Tam Thánh, người tu pháp môn tịnh độ cần sùng kính, vì thế cần cung kính niệm tụng. Công đức niệm Phật thật sự bất khả tư nghì, chỉ cần bền chí, tự có cảm ứng.
25. Kĩ thuật tập trung tinh thần
Tập trung tinh thần, thật ra chính là "thiền định". Tác giả đã đọc rất nhiều cuốn sách thiền, quá nhiều, quá đủ kĩ thuật, kiểu cần gì có đó, không tránh khỏi việc khiến cho người ta có cảm giác loạn đến hoa cả mắt. Có một số cuốn sách còn cố ý làm cho có một chút huyễn hoặc. Các sách vì thế không nhất quán với nhau. Thật ra trong những cuốn sách thiền này, có một số rất đáng để bị nghi ngờ và coi thường, bởi vì thiền định là hiện tượng bình thường, không có gì kì quái, hoàn toàn không có bí quyết bí mật nào để mà nói. Chỉ cần phải luyện tập lâu, còn giả dụ có người chỉ muốn lúc rỗi rãi thử một tí, thì đối với người này mà nói, thiền định không dành cho họ.
Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế, Ngài đã cực lực khen ngợi và thúc đẩy thiền định. Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng thiền định có thể sinh ra trí huệ (đại bát nhã), có thể đạt đến ngộ cảnh, có thể đạt được quả vị vô thượng, hoàn toàn là thành tựu rõ ràng. Đối với người tu hành rất sâu khi ấy là Tu Bồ Đề thì Ngài càng tán dương. Tu Bồ Đề từng trong một lần thiền định lúc bị ốm, thiên môn mở ra, rất nhiều thiên nữ xinh đẹp từ không trung rắc hoa xuống, từng đóa hoa nhẹ nhàng bay bay rơi trên người Tu Bồ Đề, thiên quang từ thiên môn chiếu rọi lên người ông, tiên nữ ở cõi trời cưỡi mây cát tường hát những khúc hát êm tai để tán dương Tu Bồ Đề thiền định.
Tác giả từng có một lần thiền định, tiến nhập vào trong lửa địa ngục của thế giới âm phủ, Địa Tạng Vương Bồ Tát ngồi định trên tòa hoa sen, xung quanh có Diêm La và Tứ Ngục Đại Đế, cũng có cư sĩ xuất gia và tại gia, quỷ vương và các hạng quỷ. Tôi nhập vào trong lửa địa ngục, đầu tiên tôi cảm thấy nóng bỏng không thể chịu nổi, tiếp đó cảm thấy bứt rứt dị thường, choáng váng nặng nề như ngồi trên một con thuyền giữa mưa to gió dữ, cảm nhận toàn thân dần dần mất đi. Sau đó tôi từ từ niệm thầm Phật hiệu, dùng việc quán hơi thở để từ từ định thần lại, như vậy mới cảm thấy lửa địa ngục này biến thành cơn gió nhẹ mát mẻ, ngọn lửa lớn đáng sợ khi lướt qua mặt lại dễ chịu và mát mẻ không gì sánh bằng. Cuối cùng, lửa địa ngục dần dần hình thành nên một tòa hoa sen lớn màu đỏ xinh đẹp và mĩ lệ, còn tôi thì ngồi vững chắc ở trung tâm hoa sen. Tôi kính lễ Địa Tạng Vương Bồ Tát, kính lễ các vị ngục đại đế và tì kheo, cư sĩ tại gia, kính lễ các quỷ vương và các hạng quỷ. Tôi sâu sắc lĩnh hội được rằng nếu thiền định thành công thì lửa địa ngục sẽ hóa thành hoa sen đỏ, trong thiên hạ không có vật gì có thể làm hại được bạn, công phu thiền định là bất khả tư nghì.
Tập trung tinh thần là có thể tu tập đến một chữ "định", tâm tình sẽ không lên lên xuống xuống, không chạy tới chạy lui. Từ định sẽ sinh ra tĩnh, tĩnh tại thì sẽ sinh ra an, an thì sẽ đạt được trí huệ, mà trí huệ nghĩa là đắc, tất cả tương lai có thể dự báo được sẽ trình hiện ra trước mắt bạn, càng ngày càng đi sâu hơn vào mở mang tiềm lực, và thành tựu càng ngày càng cao, trở thành bậc tiên tri tiên giác đại trí huệ.
Làm sao để tập trung tinh thần, cần phải hoàn toàn tự nhiên, phải giữ sự tiến bộ liên tục, đừng có lúc thì tập cái này, lúc thì học cái nọ, lên lên xuống xuống. Một người sau khi tắm gội xong, tinh thần hoạt bát, hãy bình thản tĩnh lặng ngồi xuống, đừng nghĩ về thời gian, đừng nghĩ về những chuyện vụn vặt khác, bạn chỉ nhắm mắt lại để đếm hơi thở của bạn thôi, đây chính là quán hơi thở, tinh thần tập trung vào việc hít thở và số lần hít thở. Thành tựu lúc mới bắt đầu tương đối nhỏ, nhưng chỉ cần nhẫn nại đủ, chí tiến thủ mạnh mẽ, một ngày ngồi một lần, đếm hơi thở mỗi lần sau lại nhiều hơn lần trước, cứ từ từ như thế cũng có thể đi đến được bước thứ nhất của định.
Nói chung, công phu ngắn hạn thì không tu được việc quán hơi thở, chỉ riêng việc quán hơi thở thôi cũng có một số người không có cách nào định tâm được, không có sự nhẫn nại và chí tiến thủ đều là một trong những nguyên nhân thất bại. Một số người vừa đếm hơi thở thì những suy nghĩ hỗn tạp đã ùa đến, không có sự phát triển tiến bộ nào, không những không có lợi ích gì mà ngược lại, ngồi cũng không có cách nào ngồi tiếp được, kiểu người như vậy rất nhiều. Nhưng, nếu bạn có tín tâm rằng có thể định, tôi khuyên bạn tiếp tục duy trì tiếp. Tôi có lời thành thật khuyên bạn rằng, người có thể tu quán hơi thở mới có thể "trong loạn như định", là nhân tài chỉ huy, là lãnh tụ vĩ nhân, núi Thái Sơn có sụp trước mặt nhưng thần sắc vẫn không biến đổi chính là nói về những kiểu nhân vật này.
Tu tập trung tinh thần cũng có pháp nhìn hương, đó là trong phòng tối thắp lên một que hương, hai mắt nhìn chăm chú vào điểm đỏ ở trên đầu que hương, đừng nghĩ về điều gì khác, cứ như thế ngồi cho hết một que hương, đây cũng là một phương pháp tốt. Hương có mùi thơm của hương, có thể khiến cho con người ngửi hấy mùi hương mà sinh tâm cung kính. Một que hương trong phòng tối, thời gian cũng tương đối, làm đến đâu chắc đến đấy, đừng tham cầu cảnh giới, ngồi đến khi công phu đã đủ thì cũng có thể tập trung tinh thần.
Thành tựu nho nhỏ của pháp quán hơi thở và pháp nhìn hương chính là một điểm ở giữa hai mắt bắt đầu có cảm giác ngưng kết lại, cả người dường như dần dần đông đặc lại, biến thành một dạng sức mạnh, sức mạnh này giống như là có thể khiến cho bản thân hơi chóng mặt, khiến bản thân tạm thời mất đi tri giác, hoặc là thân thể đột nhiên nhẹ bẫng như không có vật gì, tiến nhập vào một đường hầm mà thời gian hoàn toàn dừng lại, dường như tất cả đều bất động, tất cả đều trống rỗng như không có vật gì, thế giới đều không tồn tại. Đôi khi cũng cảm giác rằng như rơi vào một cái hang không đáy, xoay tròn rồi lại xoay tròn, gặp hiện tượng này thì cũng đừng sợ hãi, đây không phải là bình tĩnh trong khủng hoảng, mà đây là tượng trưng cho việc có một chút thành tựu nhỏ. Chỉ cần qua được khoảng thời gian này là trước mặt liền xuất hiện thế giới xinh đẹp tỏa sáng rực rỡ. Cần có tâm kiên trì, bất kể hiện tượng có bành trướng hơn hay thu nhỏ lại đều không bận tâm, dù thế nào bạn vẫn cứ vững vàng mà tự nhiên ngồi tiếp, sẽ không chết đâu, nên hãy cứ yên tâm thoải mái, đừng lo đừng sợ.
Qua được cửa này, trước mắt sẽ xuất hiện một điểm ánh sáng, trong ánh sáng này sẽ xuất hiện huyễn ảnh của quá khứ. Thông thường những gì xuất hiện là những thứ mà trong lòng bạn mong muốn sẽ lần lượt hiện ra, chúng ta gọi là huyễn giác, huyễn thị và huyễn thính, đây là dòng chảy ngược của việc tập trung tinh thần. Cái gọi là ma xuất hiện để kiểm tra sự điên đảo đều sẽ phát sinh ở giai đoạn này. Người có định lực không đủ thì sẽ bị huyễn giác huyễn thị huyễn thính dẫn nhập vào con đường sai lệch. Giai đoạn này giống như nằm mơ vậy, người nằm mơ thân bất do kỉ, tự cho rằng mình là người trong mơ, cứ thế tiếp tục thì nguyên thần sẽ điên đảo như say như si vậy, cái này chính là tập trung tinh thần mà tẩu hỏa nhập ma. Thật ra, người tẩu hỏa nhập ma cũng không phải là ngoại ma, có người cho rằng ngoại ma quấy nhiễu, trên thực tế, những cái này đều là tâm ma của bản thân hiển hiện. Ví dụ người háo sắc thì chắc chắn sẽ có mỹ nữ hiện lên khảo nghiệm, người háo lợi lộc ắt có tiền hiện lên khảo nghiệm, người háo thần thông ắt các linh sẽ hiện lên khảo nghiệm, người háo thắng ắt hiện lên cuộc tranh đấu để khảo nghiệm. Những khảo nghiệm như thế, nếu không thể vượt qua cửa ải thì không phải do yếu tố đến từ bên ngoài, mà là bản thân đã không thắng được chính mình. Kẻ địch vốn dĩ của tẩu hỏa nhập ma lại chính là bản thân mình.
Muốn khắc phục tẩu hỏa nhập ma thì phương pháp duy nhất là "mặc kệ". Nếu nhìn thấy ác quỷ, mặc kệ; nếu nhìn thấy mỹ nữ, mặc kệ; nếu nhìn thấy vàng bạc châu báu, không động tâm; nếu nhìn thấy thần tiên dẫn đường, mặc kệ; nếu nhìn thấy ngai vàng, không động tâm. Phương pháp này chính là vô tâm, nếu vô tâm thì những cảnh tượng này sẽ tự nhiên biến mất không nhìn thấy nữa. Vô tâm thì sẽ không có gì mà nhiễm, vô nhiễm thì tất cả sẽ thoảng qua như mây khói, như hoa trong gương trăng trong nước mà thôi. Bạn lúc này vẫn ngồi vững giữa đại địa, lấy đâu ra những cảnh tượng như thế. Vì vậy hãy thận trọng! Thận trọng đó!
26. Minh tưởng và niệm lực
Muốn khắc phục tẩu hỏa nhập ma, trên phương diện rốt ráo, đó chính là vấn đề nhân quả. Cũng có nghĩa là, trong lúc sinh thời, đừng tạo nhân ác, nếu không tạo nhân ác, tỉ suất chịu phạt do nhân quả tiền kiếp sẽ vì không có ác duyên sản sinh mà có thể may mắn thoát khỏi tẩu hỏa nhập ma. Đối với thiện ác của nhân quả kiếp trước, trên cơ thể con người đều có kí hiệu, muốn biết nhân quả kiếp trước, nói thì bảo là đơn giản, nhưng thực tế nội dung rất rộng lớn và phức tạp.
Trên thực tế, khắc phục tẩu hỏa nhập ma khiến cho người tu đạo tôn trọng cuộc sống bình thường, không được tu luyện một cách đui mù, không được không ăn không uống, cũng không được không ngủ, bởi vì ăn uống là thức ăn cho thân thể con người, ngủ là thức ăn cho tinh thần, tu hành là thuận theo tự nhiên chứ không phải là làm trái với tự nhiên. Giống nữ đạo sĩ Phụng Tiên ở cung Kim Hạc ở Bản Kiều, Thổ Thành, do không biết chữ, không có học thức, bế quan 120 ngày, tự xưng là không ăn không uống. Phương pháp tu luyện như vậy, tự cho rằng mình đã chịu đói thành công thì chính là tu hành cao siêu rồi, thật ra chỉ là kê đồng ngồi chịu đựng thuật gây tê hôn mê, cái này trái với tự nhiên, căn bản là tự ngược đãi mình một cách thiếu hiểu biết. Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới gốc cây bồ đề, từ lâu đã biết phương pháp nhịn đói đến chết này không dẫn tới đâu cả, hơn nữa phương pháp này còn rất dễ tẩu hỏa nhập ma.
Vì thế, để khắc phục tẩu hỏa nhập ma, nhất định phải hiểu rõ đạo lý tĩnh tọa, có kế hoạch đầy đủ kĩ càng, có sự chuẩn bị chu đáo, trước tiên phải hiểu thế nào là tẩu hỏa nhập ma, lí do bị tẩu hỏa nhập ma là gì, phương pháp ứng phó thích hợp là gì, còn như nữ đạo sĩ Phụng Tiên, bà ấy là bị thần đến nhập vào thân hay hồn ma đến nhập vào thân. Đến bản thân bà ấy còn không biết, đã bị thần quỷ mượn thân thể làm vật trung gian, điều này khác xa nghìn dặm so với tu đạo, hai điều này hoàn toàn không có liên quan gì đến nhau. Hồn ma ồn ào náo loạn, đem đến cho người tu đạo không phải cát tường may mắn, ngược lại lại là một dạng tai họa. Và hãy nhớ rằng người tu đạo có định lực tự kiềm chế chứ không phải là vật trung gian để cho linh giới khống chế. Điểm này vô cùng quan trọng, vô cùng quan trọng.
Định lực đủ để khắc chế tẩu hỏa nhập ma, và định lực này đến từ minh tưởng và niệm lực, tu trì Phật môn đều dựa vào định lực, còn minh tưởng và niệm lực kéo dài liên tục không ngừng chính là một công khóa lớn của tăng nhân xuất gia tu tập Phật môn. Muốn tiêu nghiệp chướng, tăng phúc huệ, vãng sinh Phật quốc, độ chúng sinh, nếu không có sức mạnh tâm lý chiến đấu lâu dài thì có được hiệu quả gì.
Thế nào là minh tưởng, tôi thử dùng một bài thơ mới để biểu đạt: "Con đường đạo xa xăm mịt mờ Một mình ta lẻ loi đơn độc Lên đường đi tìm kiếm tương lai Đã thấy bao phong cảnh mênh mông ruộng đồng suốt bốn mùa Coi trời xanh như đất nước Cắt những manh gió làm thành xiêm y Hồ nước cũng có thể làm gương soi An tĩnh quan sát bản thân"
Ví dụ khi tôi niệm "cam lộ thủy chân ngôn", lúc đọc "đại bàng Kim Sí Điểu", tôi minh tưởng trên đỉnh núi Tu Di, một con chim đại bàng màu vàng kim đang lượn vòng trên đỉnh núi, đôi cánh dang rộng, và khi nước cam lộ của tôi tung lên, hóa thành váng sữa cho chim đại bàng, hóa thành đồ ăn ngon của chim, thế rồi chim đại bàng trở về tổ của nó, không đi tìm thức ăn mà gây sát sinh nữa. Lúc đọc "khoáng dã quỷ thần chúng", tôi minh tưởng ở vùng núi non hoang dã, có rất nhiều những ngôi mộ xếp hàng, những hồn ma quỷ dại chưa luân hồi mà vẫn còn lang thang, họ khóc lóc thảm thiết, khi tôi vẩy nước cam lộ ra, giống như hạn hán lâu ngày gặp mưa, giống như người đói gặp đồ ăn ngon, khiến cho họ đều nhờ nước pháp mà được no nê. Lúc đọc "la sát quỷ tử mẫu", tôi minh tưởng ở những nơi âm u băng giá, những loài ma quỷ biến hình chạy nhảy tung tăng như cơn gió, những chiếc sừng nhọn dài dài cong cong, những bàn chân như chân gà, khi nước pháp tung ra khắp nơi, chúng có được ánh sáng, cũng có được những thức ăn có thể nuốt xuống bụng, ở thế giới này không còn thiếu thốn nữa mà được đầy đủ sung túc.
Khi vẩy nước cam lộ, tôi giống như cưỡi gió, chân dẫm lên mây màu nhiệm, bay lên giữa lưng trời, mang theo nỗi lòng Bồ Tát đầy thương xót chúng sinh, lo lắng săn sóc cho những linh hồn khác ngoài con người, tôi đứng sừng sững trong mây. Dưới bầu trời xanh, tôi không biệt này khác, đem tình thương ban trải đi khắp nơi. Lúc này, lửa ở miệng núi lửa và nham thạch đều đông đặc lại và mang sắc màu lạnh, biển cả với cuồng phong sóng dữ dần dần bình lặng như gương, cuộc sống của nhân loại được an ổn bình thường như năm tháng. Tất cả linh hồn không còn vết tích của đau khổ. Ngôn ngữ giàu hình tượng chính xác này đã thể hiện được chất và lượng của cảm xúc, cảnh giới này tự nhiên có cho có nhận.
Tu trì Phật môn Mật tông đã chứng tỏ tầm quan trọng của minh tưởng, "sau khi tĩnh lặng sẽ thấy được chính mình". Họ coi trọng pháp khí, coi trọng đạo tràng trang nghiêm, đầu đội mũ ngũ trí, thân mặc pháp y, cầm pháp khí, kết định ấn trí huệ, mắt nhắm lại là lập tức minh tưởng bản thân chính là Bổn tôn Đại Nhật Như Lai của Mật giáo Tỳ Lô Giá Na Phật. Nhờ vào tính chất đặc biệt của minh tưởng, lấy hư làm thực, đây là tự mình tạo ra cảnh giới, tạo nên sự hưởng ứng, cộng hưởng biến ảo trong không gian. Tính chất đặc biệt của sự biến ảo này lại kết tinh thành một điểm, đây chính là kĩ thuật tập trung tinh thần. Sau khi có được nền móng thâm hậu rồi thì từng bước hình thành nên khả năng minh tưởng ra hình dạng ổn định, không bị biến đổi, hễ nhắm mắt là lập tức suy nghĩ lẫn cảm giác đều là một vị Tỳ Lô Giá Na Phật mười phân vẹn mười.
Kĩ thuật tập trung tinh thần vốn dĩ là không nghĩ đến bất kì cái gì cả, nhưng không nghĩ về cái gì cả thì lại là "ngoan không" [ ND: nghĩa là chấp không, có cái không kiến vô tri vô giác ], dường như không có cách nào để người nào đó có thể không nghĩ gì cả. Thế nên, Mật giáo dùng cách minh tưởng thành Phật để tập trung, Thiền tông dùng cách đếm hơi thở để tập trung, Tịnh độ tông dùng cách niệm Phật để tập trung. Giả như Tịnh độ tông có thể trong lúc niệm Phật mà lại thêm minh tưởng hình tượng trang nghiêm của Phật, cứ tu trì theo cách như vậy thì cũng xem là Hiển Mật song tu. Tôi sửa một bài thơ thành thơ thiền như thế này: "Trăng sáng hoa khẽ bay trong sương, đêm nay ta muốn vào Phật môn, bảo tháp lung linh đắc chân đạo, biết dù minh tưởng cũng là không."
Trong truyện kể về Phật giáo thường nói đến nhân quả, có người thích vẽ ngựa, yêu ngựa, đến mức độ cuồng si, kết quả là sau khi chết thì đọa vào thai ngựa. Cũng có người thích mèo, yêu mèo quá mức bình thường, sau khi chết thì luân hồi thành mèo. Vì thế, minh tưởng thành Phật, tu trì đến mức không khác gì Phật, không sai lệch không bám chấp, thì tự nhiên thành Phật, đây đương nhiên cũng là nhân quả. Minh tưởng đến cuối cùng sẽ biến thành dạng định lực không thể kháng cự nổi, một số huyễn tưởng thô nhám xù xì sẽ bị phá trừ là điều không phải nghi ngờ, một số huyễn ảnh về tà ma đè pháp tướng của Tỳ Lô Giá Na Phật xuống thì cũng biến mất, thậm chí dù Dạ xoa bay trên trời, ma A tu la đến quấy nhiễu, một tiếng sư tử gầm của Phật môn cũng sẽ phá tan ma pháp. Minh tưởng và định lực quan trọng như thế.
Còn nhớ lúc mới tôi học niệm Phật, nửa đêm đột nhiên gặp ác mộng, bị dồn ép tới mức không còn cách nào nữa, thế là liền niệm một tiếng Phật hiệu, vừa niệm Phật hiệu thì tà ma liền rút lui, một lúc sau tỉnh lại, lúc này trong miệng vẫn còn lầm rầm niệm Phật hiệu! Sau này mới biết, khi bị dồn ép đến bước đường cùng, vào lúc cấp bách, cần nhất là chân thành, Phật hiệu lúc này là thật một trăm phần trăm, Phật hiệu và Phật tướng cảm ứng, Phật hiệu và Phật hoàn toàn giống nhau, và bản thân người niệm Phật cũng chính là Phật, Phật mà đến thì tà ma tự nhiên thối lùi và tản đi, tà không thể thắng chính, lúc này, ta chính là Phật, Phật chính là ta.
Nên hiểu thấu đáo một câu nói "Ai người niệm Phật?", "ai" ở đây chính là Phật, điều này không hề giả dối.
Minh tưởng chỉ cần có phương pháp chính xác, có thầy giáo chỉ đạo đúng đắn thì sẽ không có chuyện tĩnh tọa gặp nguy hiểm. Trừ phi tự mình không coi trọng những điều đó, phát sinh huyễn tưởng hoặc căn bản là tình trạng nghĩ ngợi lung tung, biến thành nhập ma nhập mê, bằng không tuyệt đối sẽ không tẩu hỏa nhập ma. Người học tập không được quá hấp tấp, một ngày đã muốn học xong thì là điều không thể. Giống như người ta cưỡi ngựa, thúc ngựa chạy nhanh thì tự nhiên sẽ đầy rẫy nguy hiểm. Vì thế, tu định lực minh tưởng có cái gọi là "tọa hướng", "lễ nghi", đều là những phương pháp nhất định phải nghiên cứu khi minh tưởng. Hơn nữa, điều mà tác giả nhấn mạnh nhất chính là nhân quả nghiệp chướng, coi trọng người tu trì nghiêm khắc tuân thủ giới luật và phẩm đức làm người, mục đích đương nhiên là để bảo đảm chắc chắn sự an toàn cho người tu trì.
Có được định lực rồi thì linh tính cũng xem như là cố định, hễ gặp phải những mê hoặc hay cảm giác kích thích thì phản ứng sẽ sáng suốt và hợp lý, sẽ không kích động mù quáng. Linh giới có quy tắc nhất định, không có quá nhiều những chuyện mới mẻ cổ quái kì lạ, phàm là điều gì trái với tự nhiên thì chưa chắc đã là cảnh giới cao nhất. Đối với mỗi sự việc cần phải biết bình tĩnh suy xét, hoặc không coi đó là điều gì ghê gớm cả. Như vậy thì cho dù phong ba bão táp như thế nào cũng đều có thể vượt qua, sẽ không có chuyện khó khăn không thể tiến bước. Cá nhân tôi còn có một công phu rất độc đáo, đó là điều tiết cho phù hợp, phương pháp này sẽ tạm để lại cho người có duyên đến tìm tôi thì tôi mới bằng lòng truyền thụ, bởi vì phương pháp này quá ư bất khả tư nghì, người bình thường không chắc đã có thể làm được.
27. Báo ơn cha mẹ và độ người âm
Năm xưa có được sự chỉ dạy của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, tôi biết được rằng báo đáp công ơn cha mẹ và độ ma quỷ u minh cũng chính là một cách rất tốt để bản thân có được những lợi ích phong phú. Ở đây tức là "cha mẹ trong quá khứ, bảy đời được siêu thoát, cha mẹ hiện tại vĩnh viễn không đau ốm bệnh tật, bản thân và người khác có được nhiều lợi ích, bảo đảm lúc chết có được ân huệ mà vĩnh viễn xa rời ác đạo, cuối cùng là được hưởng hạnh phúc thường hằng."
Sử dụng pháp này, người chết có thể siêu thoát thoát khổ, người sống thì cuộc đời được hạnh phúc vui vẻ, những sinh mạng trong tứ sinh cửu hữu [ ND: tứ sinh là bốn loài thai sinh, thấp sinh, noãn sinh, hóa sinh; cửu hữu là chín cõi cư trú của chúng hữu tình ], chúng sinh quỷ thần của bát nạn tam đồ [ ND: bát nạn gồm nạn địa ngục, nạn ngạ quỷ, nạn súc sinh, nạn sinh lên cõi trời trường thọ, nạn sinh ở Uất Đan Việt, nạn điếc mù câm ngọng, nạn thế trí biện thông, nạn sinh trước Phật và sau Phật ], đều có thể có đủ lòng sám hối mà thoát khỏi biển khổ trầm luân. Báo đáp ơn cha mẹ là nghĩa vụ của kẻ làm con, hơn nữa, độ quỷ thần u minh tương đương với cơ sở để thành Phật, bất luận là công đức ra sao thì đây cũng chính là nêu cao đại bi tâm, là thiện duyên chí thiện.
Đệ tử Mục Liên của Phật Thích Ca Mâu Ni khi có được sáu đại thần thông, muốn dựa vào thần thông để độ hóa cho mẹ của ngài, nhằm báo đáp ơn dưỡng dục của cha mẹ. Mục Liên nhìn chăm chú vào dòng nước chảy, dùng pháp "thủy ảnh" mà thấy được người mẹ đã qua đời của mình đang sống trong đạo ngạ quỷ. Hình ảnh ở cõi ngạ quỷ là da và xương dựng đứng, bụng rất to, cổ gầy và dài. Mục Liên vận dụng thần thông để nhập vào cõi u minh này, dùng bát đựng cơm đưa cho mẹ ăn, người mẹ đưa tay ra cầm bát cơm, nhưng cơm còn chưa vào miệng thì đã hóa thành củi cháy, căn bản là không thể nào ăn được. Bởi vậy, Mục Liên khóc nức nở, tìm đến Phật Thích Ca Mâu Ni cầu thỉnh.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói, người có tội căn nặng thì thần thông không thể cứu được, cho dù có là Thần Trời Thần Đất, tà ma, đạo sĩ ngoại đạo, Tứ Thiên Vương Thần cũng chẳng có cách nào siêu thoát được cho những ngạ quỷ này. Thế là, Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Mục Liên tôn giả rằng, vào ngày mười lăm tháng bảy, dùng cơm trăm vị và ngũ quả, đổ đầy nước vào chậu, và những thứ thơm ngon ngọt ngào nhất trên đời như dầu mè, nến thơm,… để cúng dường đến chúng tăng và tất cả thánh chúng đại đức của mười phương. Sau đó, thỉnh tất cả chúng tăng và thánh chúng thập phương cầu phúc để cầu phúc giải thoát cho cha mẹ bảy đời của mình. Những đồ ăn được thọ thực cần đặt ở trước tháp Phật trước, sau đó mới phân phát cho chúng tăng và Thánh chúng.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói, ngạ quỷ trong đạo ngạ quỷ cần phải dùng đến sức mạnh công đức của Tam Bảo, sức mạnh uy thần của chúng tăng mới có thể cứu độ. Do vậy, cúng dường tăng chúng thập phương, thỉnh cầu chúng tăng thập phương thay mình cầu phúc cứu độ cho cha mẹ bảy đời. Đây là một trong những phương pháp cứu độ. Do vậy, vào ngày Phật hoan hỉ là ngày 15 tháng 7 âm lịch, người làm việc hiếu thuận mong muốn cho cha mẹ hiện tại phúc thọ vẹn toàn, cha mẹ bảy đời đều được siêu thoát, sinh ra ở cõi trời thì cần phải cúng dường chúng tăng và Thánh chúng thập phương ở cõi trời này. Theo những gì tác giả được biết, tập tục phổ độ vào tháng bảy âm lịch ở khắp Trung Nguyên dùng thức ăn mặn và vật tanh hôi để cúng dường quỷ thần, việc này đã sai lệch rất nhiều so với chủ ý của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phải nên dùng đồ ăn thanh tịnh, tụng kinh cúng Phật, sau đó dùng đồ ăn thanh tịnh phân phát cho chúng tăng đã cầu phúc thay cho cha mẹ mình, như vậy mới là cách làm đúng đắn.
Tác giả đặc biệt ghi lại pháp này như sau:
- Chúng tăng nghe tiếng rung chuông ba hồi, đến trước Phật, phân ra đứng thành hai hàng thẳng, sư phụ hoan hỉ dẫn khánh làm hiệu lệnh cho chúng tăng lạy Phật ba lần.
- Tiếp đó, khi sư phụ thấy người chủ pháp đã đến, thì lại gõ khánh ba lần nữa, đồng thời đánh trống chũm chọe ba hồi.
- Người chủ pháp lễ Phật ba lạy, thắp hương.
- Tiếp theo, chúng tăng hát bài tụng tán, lời tụng tán như sau: "Mục Liên khởi giáo, Thế Tôn tuyên dương, chén bát gom cơm lợi ích tồn vong. Thoát khổ về tây phương, diệu lạc vô cùng, việc làm hiếu thuận vĩnh viễn để tiếng thơm. Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát."
- Tiếp theo, lại xưng Thánh hiệu "Nam mô đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát" ba lần. Người chủ pháp cầm bình nước nói: "Nước cam lộ từ cành liễu của Bồ Tát, có thể khiến một giọt hóa khắp thập phương, tiêu trừ hết mọi tanh hôi dơ bẩn, gia trì đàn tràng đều thanh tịnh."
- Sau đó, chúng tăng cùng niệm chú đại bi ba lần. Chủ đàn pháp vẩy nước sái tịnh ba vòng.
- Tiếp theo, lại xưng Thánh hiệu "Nam mô Vu Lan Bồn hội thượng Phật Bồ Tát".
- Tiếp theo là tụng kinh "Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh". Tụng kinh xong thì tụng chú báo đáp cha mẹ như sau: "Nam mô mi li tô, tô pô ye so ha." Tổng cộng tụng 49 biến.
- Chủ đàn pháp lại tụng lời khấn nguyện: "Những người có chí hiếu thuận chúng con, tu hành nhân tịnh thổ, sám hối tiêu trừ ba tội chướng, báo đáp ơn cha mẹ, người sống được hưởng phúc thọ, người chết được siêu thoát, cùng sinh về cõi yên lành, độ hết tất cả oan thân."
- Cuối cùng là lạy Phật và xưng rằng: "Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhất tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhất tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới chư Phật. Nhất tâm đảnh lễ thập phương Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhất tâm đảnh lễ Lan Bồn khởi giáo đại Mục Liên tôn giả."
- Lạy Phật xong lại niệm ba lần văn quy y: "Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. Tự quy y pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển. Tự quy y tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lí đại chúng, tất cả vô ngại, hòa nam thánh chúng."
Nghi thức ở trên là tịnh đàn. Còn nghi thức dưới đây mới là "Thượng Lan Bồn cúng".
Hát bài tán thán: "Vừa khai lễ hội Lan Bồn, mở cửa phổ độ khắp nơi, cung nghênh Tam Bảo giáng lâm, an tọa trên đài sen quý, duy nhất ý nguyện thương xót, xin nhận tuyệt diệu hương trai. Nam Mô Trai Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam Mô Trai Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam Mô Trai Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát."
Người chủ đàn bạch Phật rằng: "Kính cẩn nghe pháp thân thường tịch, vốn không đến cũng không đi, diệu trí viên dung, thực chẳng phải Không cũng chẳng phải Sắc, khéo léo dừng bặt mọi đối đãi, biển giác bao la khó đo lường, chúng sinh bị che phủ bởi u mê, lâu nay rõ ràng chịu ảnh hưởng. Hôm nay chính là ngày chư Phật hoan hỉ, tăng chúng cũng tác pháp Tự tứ, vì cha mẹ bảy đời mà sắm sửa trăm vị thơm ngon, tuân theo nghi lễ đầy đủ tốt nhất, noi gương hiếu thuận của Mục Kiền Liên, dâng chén cơm thơm ngon ngọt lành, với phẩm chất Giác Vương, mong ban phát ánh sáng từ bi, thọ nhận cúng dường này."
Khi dâng cúng thì đọc: "Tam thân Như Lai, kính dâng Lan Bồn thượng cúng Tam Bảo."
Sau đó các vị Duy-na tăng lại niệm: "Các đấng Đại hùng xuất thế cùng đến thọ trai tại thành Xá Vệ mà chính pháp được lưu hành, cũng dự cúng dường trong nội cung của Vua Ba Tư Nặc. Phật tùy cơ mà hiện tướng phổ tế quần sinh. Hôm nay chúng con kính cẩn sắp lễ Lan Bồn, chí tâm đảnh lễ tỏ bày hiến cúng. Trên đài sen nghìn cánh, trong ánh sáng của trăm báu vật, đức Năng Nhân với 32 tướng tốt, bậc Đại Giác với 80 vẻ đẹp ở khắp mười phương pháp giới, quá khứ vị lai vô lượng Phật bảo, duy nguyện không từ bỏ từ bi, thương xót chúng sinh hữu tình, hôm nay xin nhận cúng dường này."
Tiếp theo là bài tụng cúng Phật, bài tụng cúng pháp, bài tụng cúng tăng. Ở trước Phật, dâng cúng và xưng niệm Phật hiệu: "Nam mô Vu Lan hội thượng Phật Bồ Tát, nam mô thượng trụ thập phương Phật, nam mô thường trụ thập phương pháp, nam mô thường trụ thập phương tăng, nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, nam mô Quá Khứ Giá Hoa Định Tự Tại Vương Phật, nam mô Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Phật, nam mô Đa Bảo Như Lai, nam mô Bảo Thắng Như Lai, nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai, nam mô Quảng Bá Thân Như Lai, nam mô Li Bố Úy Như Lai, nam mô Cam Lộ Vương Như Lai, nam mô A Di Đà Như Lai, nam mô Thế Gian Quảng Đại Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như Lai, nam mô Phật Thuyết Lan Bồn kinh, nam mô Đại Từ Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát, nam mô quá khứ hiện tại tự tứ Bồ Tát Duyên Giác Thanh Văn tăng, nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả, nam mô lịch đại tổ sư Bồ Tát, nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát, nam mô già lan thánh chúng Bồ Tát, nam mô tam giới thánh phàm u hiển tôn thần."
Tiếp theo, niệm biến thực chân ngôn, cam lộ thủy chân ngôn, phổ cúng dường chân ngôn. (Trong các quyển khóa tụng của Phật môn đều có, nên tôi không ghi ra đây nữa.)
Sớ văn thông thường sẽ viết như sau: "Nhờ đọc tụng những chương kinh điển đời này, thấy rằng tình cảm thật khó mà rũ bỏ, xin ý chỉ của thánh giáo Lan Bồn, dám đặt hết mọi suy nghĩ vào việc huân tu, mong độ con thuyền từ bi, bày tỏ tấm lòng thành. Chúng con hoàn toàn suy nghĩ mong sớm cắt bỏ trần duyên, từ bỏ tình thân, hoặc nghiêm phụ từ mẫu đã mất sớm, đột ngột thiếu mất tình nồng; hoặc cha mẹ vẫn còn sống nhưng luôn làm trái với lẽ thường, không làm những việc lợi mình lợi người, thường nhận không đồ bố thí của người khác, ngước lên xấu hổ, cúi xuống thẹn thùng. Nhưng khi nghĩ về cội nguồn, cha mẹ đã có ơn sinh thành, dạy dỗ với tấm lòng của một người thầy, cái gốc khởi nguồn là vô cùng, không thể đánh mất dòng dõi đã tích lũy nhiều kiếp, nên vẫn thành tâm phổ độ toàn bộ chúng sinh hữu tình của siêu pháp giới. Cho nên, xin giãi bày tâm can với tấm lòng thành, con gánh nước hái hoa dâng cúng, cung kính quy y pháp bảo, khắp trời khắp đất để lưu chảy ân đức, nhổ tận gốc khổ luân, tất cả đều tiến lên con đường giác ngộ. Vì thế, con đã chọn ngày… tháng… để tập trung hải chúng bước lên Thánh đàn, đọc tụng bảo điển. Lại nguyện ánh hào quang chiếu rọi để cõi Ta Bà khắp nơi đều được viên minh. Pháp hải mênh mông, chúng sinh hữu tình ở khắp trái đất đều được tắm đẫm, cha mẹ nhiều đời của chúng con đã trải qua nhiều kiếp có quan hệ thân thích làm thầy và làm bà con quyến thuộc, người sống được gia tăng phúc huệ, người chết thì được bước lên đài sen, khắp nơi được gia tăng duyên lành, lợi ích hằng hà sa số chúng sinh còn đau khổ. Càng mong tam môn yên tĩnh, hải chúng an hòa, hễ có bị cản trở thì mong mọi việc đều như ý. Dâng sớ lên cao, thỉnh Tam Bảo minh chứng."
Cuối cùng là hát bài tán thán và hồi hướng, như vậy mới được xem là hoàn thành nghi thức.
Tác giả nhận thấy rằng con người trong xã hội đã biến pháp hội Vu Lan Bồn vào mỗi dịp tháng bảy thành pháp hội cúng tế sát sinh động vật lớn để cúng dường quỷ thần, đồng thời những tăng đạo được mời đến chẳng qua chỉ là các thuật sĩ giang hồ bịp bợm, từ lâu họ đã làm tản mát hết các nghi quỹ Phật môn, vừa không thích hợp lại không trang nghiêm, đại hội phổ độ đã biến thành bữa liên hoan của bầy ma quỷ liên lụy đến nghiệp chướng, chỉ thấy tăng nạn sát sinh, khiến người thân quyến thuộc tăng thêm tội chướng, việc báo thân độ vong chưa thành, ngược lại đều đọa vào địa ngục tối tăm, đây thật sự là sai lầm lớn. Vì thế, tôi đặc biệt viết rõ nghi thức ra đây, đã chiếm tương đối độ dài của chương sách, mong rằng độc giả cũng đồng lòng với tôi, cùng dốc hết tâm lực vì việc báo thân độ âm.
Bây giờ tôi lại đặc biệt giải thích rõ như sau: pháp hội Vu Lan Bồn vào ngày mười lăm tháng bảy âm lịch hàng năm, hoặc chọn lấy một ngày hạ chí trong tháng bảy để cử hành. Đệ tử Phật dùng trăm vị thanh tịnh, ngũ quả, múc nước, chuẩn bị một cái chậu, dầu mè, tất cả vật dụng hàng ngày đặt vào trong chậu (dùng chậu mới) để cúng Phật, Bồ Tát, và chúng tăng đại đức trong thập phương. Có được công đức của Tam Bảo, uy thần lực của chúng tăng, cha mẹ kiếp này và lục thân quyến thuộc đều thoát khỏi khổ tam đồ. Nếu người vẫn còn cha mẹ thì cha mẹ sẽ được thân thể khỏe mạnh, phúc lạc trăm năm. Ngay cả cha mẹ bảy đời trong quá khứ cũng được sinh vào cõi người, trời, phúc lạc vô cùng. Phàm là đệ tử Phật tu hiếu thuận thì nên thường xuyên nghĩ nhớ đến cha mẹ, thậm chí là cha mẹ bảy đời, vào tháng bảy hàng năm thường làm những việc hiếu nghĩa để nhớ về cha mẹ thân sinh, vì họ mà làm Vu Lan Bồn, cúng Phật và tăng, nhằm báo ơn cha mẹ đã thương yêu nuôi dưỡng ta bao lâu nay. Trong pháp hội có thể tụng thêm kinh Bản Nguyện Địa Tạng Bồ Tát, buổi đêm sắp đặt lễ cúng Du Già Diệm Khẩu thí thực hoặc Mông Sơn thí thực, để bố thí rộng khắp cam lộ pháp thực, nhờ công đức này mà siêu tiến cử tổ tiên các đời, bạn bè thân thích, quyến thuộc và oan thân nhiều kiếp, cứu tế rộng khắp những loài ma quỷ lang thang cô độc không được thờ cúng, chỉ cầu mong họ nhanh thoát khỏi chốn u minh, sớm sinh về tịnh thổ, pháp giới hàm thức, cùng chứng Bồ Đề.
Tôi đã biết rất sâu. Chú báo ơn cha mẹ: "Nam mô mi li tô, tô pô ye so ha." Giả như trong tháng bảy, mỗi ngày trì tụng 49 biến, có thể báo ơn cha mẹ. Đây là một phương pháp rất thuận tiện cho con người tu trì. Bỏi vì pháp hội Vu Lan Bồn, nếu chỉ có một người một nhà làm thì không ai trang trải đủ chi phí, hợp sức của nhiều người lại để làm thì chi phí ít đi mà vẫn thu được lợi ích như thế. Nếu là gia đình nghèo không có cách nào để tham gia pháp hội Vu Lan Bồn được thì tôi khuyên họ mỗi ngày trì chú 49 biến, trong tháng bảy âm lịch ngày ngày đều hành trì, thì vẫn thành tựu báo thân vào độ âm. Đây cũng tức là vạn nhà sinh Phật, công đức vô cùng lớn.
28. Pháp thủy ảnh của Mục Liên tôn giả
Ở bài viết trước, tôi đã nói Mục Liên tôn giả dùng "pháp thủy ảnh" mà biết được mẹ mình đang sống trong đạo ngạ quỷ. Trong kinh điển chỉ nói rằng Mục Liên tôn giả đắc sáu đại thần thông, không hề nói đến ba chữ "pháp thủy ảnh". Độc giả có lẽ sẽ cảm thấy kì lạ, vì sao tác giả lại có thể biết được rằng Mục Liên tôn giả dùng pháp thủy ảnh? Tôi không chỉ biết Mục Liên Tôn giả dùng pháp thủy ảnh mà tôi còn thấy rõ những hành động và thái độ của Mục Liên tôn giả khi đó.
Mục Liên tôn giả đi đến bên một con suối nhỏ, ngài ấy ngồi dưới bóng râm của một cái cây, ngài ấy cứ ngồi yên lặng như thế, nhìn những chiếc lá khô trôi dập dềnh theo dòng nước, nước suối trong vắt, có thể nhìn thấy những hòn sỏi ở đáy suối. Những hòn sỏi trong huyễn ảnh của dòng nước chảy dường như đang nhảy múa, nước suối phát ra âm thanh róc ra róc rách. Ngày hôm đó trời rất xanh, ánh mặt trời hơi nóng, khiến người ta nghĩ đến sự mát lạnh của nước.
Mục Liên nhìn dòng nước chảy, nghĩ đến vấn đề của "chư căn", trong lòng có một cảm xúc rất sâu sắc. [ ND: chư căn là nói về năm cái "gốc" gồm tín, cần, niệm, định, huệ và tất cả thiện căn khác]. Ngài ấy biết rằng tu trì Phật pháp, mặc dù quảng đại uyên bác thâm sâu, nhưng mà là ta tu ta đắc, người tu người đắc, không thể thay thế lẫn nhau, thế nên cho dù gần như cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ chồng cũng vậy. Có khi con cái ngộ đạo, nhưng cha mẹ thì vẫn đọa vào địa ngục, có khi người chồng đắc đạo, nhưng vợ thì vẫn đọa địa ngục, hoàn toàn không vì quan hệ mẹ con hoặc quan hệ vợ chồng mà một người đắc đạo, gà chó thăng thiên. Vì thế mà ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, tu hành hoàn toàn là chuyện của mỗi người. Hơn nữa, càng rõ ràng hơn là, người thân ngược lại lại càng khó độ hóa, ví dụ như con ngộ đạo, khuyên mẹ mình tu trì, nhưng quan niệm của người mẹ lại là anh là do tôi sinh ra, lẽ nào tôi lại có cái đạo lý vô lý đó, thành tựu của anh có lớn, đạo hạnh có cao thì vẫn là con tôi. Rồi chồng đắc đạo, khuyên vợ mình tu trì, quan niệm của người vợ là, anh là chồng tôi, đêm ngủ chung giường, cùng chung sống với nhau, cho dù anh rất tài giỏi thì cũng vẫn là chồng tôi, thế là lại lơ là với công phu tu trì. Đó chính là đạo lý người thân thì ngược lại càng khó độ hóa.
Mục Liên nghĩ đến đạo lý của "chư căn" này, tự nhiên nghĩ đến người mẹ của mình, thế là ngài bèn niệm chú báo ơn cha mẹ, ánh mắt nhìn chăm chú vào nước, trong sát-na liền nhập vào thiền định. Cần biết rằng nước suối vốn là một trong số "chư căn", nước suối nối liền với sông lớn, sông lớn nối liền với biển lớn, mặc dù là một dòng suối nhỏ bé, nhưng cuối cùng vẫn chảy vào đại dương mênh mông. Đại dương mênh mông chính là cái nguồn gốc của dòng suối nhỏ, sự thiền định của Mục Liên đã theo dòng nước chảy mà nhập vào sông lớn, theo sông lớn mà nhập vào biển lớn, theo biển lớn mà nhập vào địa ngục. Thế rồi ngài nhìn thấy mẹ mình đang sống trong đạo ngạ quỷ. Mục Liên lúc này vẫn đang ngồi dưới bóng cây, chỉ là dùng thiên nhãn của ngài để quán nước, trong nước liền xuất hiện mẹ của ngài. Mặc dù Mục Liên đắc đạo, nhưng mẹ của ngài vẫn sống ở trong đạo ngạ quỷ, giống như tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát là cô gái Quang Mục, mẹ của cô gái Quang Mục còn thảm hơn, bà đã đọa vào địa ngục vô gián.
Và thế là Mục Liên vội vàng muốn cứu mẹ mình ra khỏi đạo ngạ quỷ, cho nên mới sinh ra pháp hội Vu Lan Bồn. Tôi soạn ra ba điểm quan trọng của bản văn này như sau:
Thứ nhất, có người hỏi tôi, địa ngục ở đâu? Tôi đáp, địa ngục ở đáy của đáy biển. Địa ngục vốn là ở trong tâm của con người, theo tâm của con người mà địa ngục hình thành trước, sau đó thân này của bạn chết đi, linh hồn của bạn liền nhập vào địa ngục ở đáy của đáy biển, đây chính là vấn đề nghiệp duyên, cũng là vấn đề của "chư căn". Căn nguyên của mỗi một người và người khác đều không giống nhau, mẹ và con, vợ và chồng, đều chỉ là một duyên phận tạm thời cực kì ngắn ngủi trên thế gian mà thôi. Cho nên, dùng thiên nhãn để quan sát có thể nhìn được cha mẹ bảy đời, có thể nhìn được vợ chồng bảy đời, cũng có khi là thân duyên, có khi là nghiệt duyên, thật sự là không thể nói trước. Cho nên thiện duyên chính là đến để báo ơn, ác duyên chính là đến để báo thù, sinh được con trai cũng đừng vui mừng, kết thành vợ chồng cũng đừng hoan hỉ, ai biết được là thiện duyên hay ác duyên, ai biết được diễn biến tương lai ra sao, những gì thấy được trước mắt chẳng qua chỉ là giả tướng tạm thời, nhất thời hồ đồ thì kết quả là hối hận không kịp.
Thứ hai, địa điểm tổ chức thí thực cho quỷ thần, tốt nhất là chọn ở bờ biển, hoặc là bên cạnh sông suối nối liền với biển, đây là vấn đề về "đạo lưu". Tôi cảm thấy thứ nhất, đây là để tưởng nhớ Mục Liên tôn giả, thứ hai là các vong linh âm phủ trực tiếp nhận được lợi ích, suối nhỏ thông với sông nhỏ, sông nhỏ thông với sông lớn, sông lớn thông với biển lớn, biển lớn thông với cõi u minh, đây chính là "đạo lưu" đó! Giờ đây cuối cùng tôi đã hiểu, trước kia vào tháng bảy, tôi thường nhìn sóng biển, mỗi lần nhìn thấy có người từ trong sóng biển trồi lên, đó chính là một linh hồn của cõi u minh, từng tốp người từ trong biển đi về bờ. Nên nếu pháp hội thí thực tổ chức trên bãi biển thì những linh hồn này không cần phải lặn lội đường xa, sẽ nhận được cam lộ biến thành thức ăn của pháp sư, có được pháp lực của chư Phật, được uy thần của chúng tăng, như vậy cũng tiện lợi hơn một chút.
Thứ ba, giả dụ trong số độc giả có người biết pháp khởi linh, mà do luyện tập lại có được linh nhãn, có thể vào tháng bảy, muốn biết vong linh cha mẹ đã khuất kiếp trước đời này của mình ở đâu, có thể trì chú báo ơn cha mẹ, đi đến con suối nhỏ nối liền sông mà thiền định, thời gian nhất định phải sau giờ Ngọ. Khi thiền định, linh nhãn nửa khép nửa mở, chăm chú nhìn mặt nước, miệng niệm chú báo ơn cha mẹ, trong đầu có thể nghĩ đến hình ảnh của cha mẹ lúc còn sống. Nước sông suối ban đầu sẽ hơi sáng lên, sau đó dần dần hình thành nên một vòng tròn, trong vòng tròn tự nhiên sẽ thấy cha mẹ hiển hiện, nếu hình ảnh là gầy khô và bụng to thì là cha mẹ ở trong đạo ngạ quỷ, nếu hình ảnh ở trong tù thì là cha mẹ ở trong đạo địa ngục, nếu là dung mạo dữ tợn đáng sợ thì là đạo Atula. Nếu trong vòng tròn ánh sáng đó không hề có hình tướng cha mẹ thì xin chúc mừng, nếu không phải họ đã chuyển thế thì chắc chắn đã thăng lên thiên đạo hoặc liên bang Cực Lạc thế giới rồi. Pháp khởi linh của Linh Tiên Chân Phật Tông có thể nhờ vào linh thông để mà tu tập lục thông, đắc chứng lục thông thì tự nhiên cũng không khác gì tứ Thánh, có thể không phải chịu khổ luân hồi nữa. Tôi cảm thấy nhân quả là khổ, chúng sinh luân hồi thì lại càng khổ không sao chịu thấu, có thể nhập vào thiên đạo hoặc cảnh giới tứ Thánh mới có thể nói là vui vẻ sung sướng, cho dù có là vua ở nhân gian thì cũng vẫn là đau khổ. Về điểm này, đệ tử Phật không thể không biết.
Ngoài ra, đại sư Liên Trì từng chú giải "Vu Lan Bồn" rằng: "Thế nhân vào ngày mười lăm tháng bảy, thí thực cho quỷ thần, làm hội vu lan ăn chay, cái này cũng là sai. Nếu làm hội Vu Lan bắt nguồn từ Mục Liên, thì vào ngày mười lăm tháng bảy, chúng tăng giải hạ, bản thân được thoải mái, sau chín tuần tham học, người đắc đạo nếu vào ngày này mà tu cúng dường cho họ thì phúc sẽ gấp trăm lần, không phải là thí thực cho quỷ thần. Còn nếu thí thực quỷ thần mà bắt nguồn từ A Nan thì không giới hạn vào ngày mười lăm tháng bảy, dụng cụ sử dụng là cái hộc của nước Ma Kiệt Đà, không dùng chậu lan, đậy lại, thứ nhất là trên phụng Thánh hiền, thứ hai là dưới tế ngạ quỷ. Bi thương gào khóc thì có nhiều kiểu, nhưng mà làm sai thì cũng chỉ là giả mạo và ngu độn mà thôi." Đoạn trích này vốn được ghi trong sách "Vân thế pháp vựng" của đại sư Liên Trì.
Tôi viết bài kệ rằng: Nguyên do pháp hội là đạo căn, báo đáp cha mẹ ơn sinh dưỡng. Người còn phúc lạc càng tăng trưởng, người mất thoát khổ được siêu thăng. Hàm thức sau này đều được lợi, nhân gian tam đồ khổ chúng sinh. Gột rửa hết cấu uế thành tịnh, tất cả vượt lên khỏi trầm luân.
29. Địa Tạng và tôi là bạn đạo
Vài ngày trước, tôi rất nhớ bạn hữu ở Đài Loan. Sau khi làm xong công khóa, tôi kể với Địa Tạng Vương Bồ Tát những tâm sự trong lòng. Buổi tối ngày hôm đó, Địa Tạng Vương Bồ Tát liền hiển hiện trong mây. Tôi nhìn thấy Bồ Tát từ trong túi áo lấy ra một tờ giấy hình vuông cạnh dài sáu centimet, sau đó Ngài dùng hai tay gập rồi lại gập, không ngờ cuối cùng gập ra một bông hoa sen màu đỏ, hoa sen sống động như thật, đầy đủ từng cánh hoa sen, nhìn không ra đó là một bông hoa sen gấp từ giấy, hơn nữa bông hoa sen đỏ này dường như còn thoang thoảng hương thơm, thật sự là vừa kiều diễm vừa mỹ lệ.
Bồ Tát nhẹ nhàng thảy bông hoa sen xuống, hoa sen nhỏ từ từ biến thành to, to bằng cỡ bánh xe. Bồ Tát bảo tôi: "Theo nguyện lực của ngài, ngài có thể đạt được nguyện vọng, ngồi lên trên đóa hoa sen đỏ này, tất cả tự sẽ thành tựu." Thế là, trong ý thức mơ hồ, tôi nhìn thấy bạn hữu mà tôi muốn gặp, nhìn thấy những học trò mà mình nhớ nhung, tôi cảm thấy vô cùng hưng phấn, bởi vì ngồi trên bông hoa sen này, từng lời nói việc làm, nhất cử nhất động của họ đều sống động như ở ngay trước mắt. Tôi chỉ nguyện sau khi chết, chỉ cần có bông hoa sen đỏ đi theo tôi như thế này, thì cũng xem như là mãn nguyện rồi.
Địa Tạng Bồ Tát là vị đại Bồ Tát thứ hai mà tôi thỉnh về nhà để thờ phụng, vị Bồ Tát thứ nhất là Quan Thế Âm Bồ Tát, hai vị Bồ Tát đều có những chuyện thần bí. Vị Bồ Tát thứ hai được điêu khắc từ gỗ, lúc điêu khắc tôi vốn muốn làm cỡ nhỏ để đem theo người, nhưng chiều cao tới hai mươi centimet, mặc dù nhỏ hơn bức tượng thông thường cao hai mươi lăm centimet, nhưng khi mang theo người cũng hơi bất tiện, nên chỉ còn cách là đặt trên bàn thờ. Có người nhìn thấy tướng mạo của Bồ Tát thì đều nói, tướng mạo của tôi cực kì giống với tướng mạo của Bồ Tát. Thờ phụng Địa Tạng Vương Bồ Tát chưa được bao lâu thì Bồ Tát hiện kim thân cao lớn không gì sánh bằng, đầu đội mũ Ngũ Phật, tay cầm tích trượng, chân dẫm lên hoa sen, tay kia thì cầm chuỗi hạt quang minh, thân khoác áo cà sa, trang nghiêm khác thường. Sau khi tôi nhìn thấy vậy thì sinh tâm hoan hỉ, nên liên tục thờ phụng ngài bất li thân. Vì thế khi đến Mỹ rồi, tôi vẫn phụng thỉnh Ngài đến Mỹ.
Kể ra cũng kì lạ, không chỉ có mỗi vị Địa Tạng Vương Bồ Tát mà bản thân tôi thờ phụng tôi mới sinh tâm hoan hỉ, mà mỗi khi đến một ngôi chùa nào, nhìn thấy vị Địa Tạng Vương Bồ Tát, tôi đều sinh tâm hoan hỉ, ví dụ như Địa Tạng Vương Bồ Tát ở linh cốt tháp tại chùa Từ Thiện ở Đài Trung, như Địa Tạng Vương Bồ Tát được thờ phụng tại điện bên trái chùa Từ Minh ở Đài Trung, đều khiến tôi vừa nhìn thấy đã sinh tâm cung kính cúi chào. Còn có Địa Tạng Vương Bồ Tát ở Gia Nghĩa thì càng thần bí phi phàm. Ông nội của tác giả là Lư Xương, linh cốt của ông được thờ cúng tại chùa Từ Minh, linh hồn của ông nội Lư Xương thấy tôi phải chịu khổ chịu nạn, gia cảnh khốn cùng, thế là ông khẩn thiết thỉnh cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát ở chùa Từ Minh, và Bồ Tát đã đồng ý giúp tôi, tôi mới có được chút thành tựu nhỏ bé ngày hôm nay. Đây cũng là ân từ đặc biệt của Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Hiểu được những nhân quả này rồi, trong thiền định của tôi, tôi đã gặp được nguyện lực của Địa Tạng Vương Bồ Tát, mấy lần tôi tiến vào âm gian đều có thể biến lửa địa ngục thành lửa mát lành. Đích thân nếm trải cái khổ của địa ngục, nên tôi đã phát nguyện lực anh hùng, hy vọng có thể giúp ích cho các linh hồn ở trong địa ngục tam đồ khổ đạo. Và rồi, tôi đã hiểu ra tất cả, Địa Tạng Vương Bồ Tát là Bổn tôn của tôi, pháp tôi tu là pháp Địa Tạng, lời nguyện tôi phát ra là nguyện Địa Tạng, tôi nhập môn Địa Tạng, làm bạn Địa Tạng.
Điều tôi lĩnh ngộ được là: pháp môn Địa Tạng, trước là đại nguyện, sau là bi tâm, công đức hơn trời, liên thai hoa tọa, nhất vị viên âm, bình đẳng giá hội, phổ siêu u minh, Thánh nhân tùy cơ, chứng sinh Cực Lạc.
Địa Tạng Vương Bồ Tát từng dạy tác giả một pháp kết giới. Cái gọi kết giới cũng chính là pháp tịnh đàn của Đạo gia. Lấy một con dao mới, cúng trước tượng Bồ Tát, niệm 21 biến chú Đại Bi, sau đó dùng dao vẽ lên xung quanh của tịnh phòng hoặc chùa chiền, làm như vậy thì tà ma không thể vào. Lại dùng hạt cải trắng, cũng niệm 21 biến chú, rồi chôn hạt cải vào bốn xung quanh của chùa, tà ma cũng không thể vào được. Hoặc dùng tro sạch, hoặc chỉ ngũ sắc đều được, cách làm và công dụng hoàn toàn giống nhau.
Chỉ có cách làm của Linh Tiên Chân Phật Tông là khác, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói, dùng tay phải làm kiếm quyết, dùng linh lực, niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, vừa niệm vừa vẽ, đi vòng quanh nơi kết giới, như vậy thì không cần dùng vật thay thế cũng vẫn là kết giới, tất cả tà ma đều không vào được, sức mạnh uy thần của Địa Tạng Vương Bồ Tát là cực lớn.
Địa Tạng Vương Bồ Tát từng dạy tác giả một pháp "phi không", có nghĩa là bạn muốn đến thiên giới nào thì có thể đi đến đó tùy ý muốn, nhưng không phải lúc khẩn cấp thì tuyệt đối không được dùng. Dùng chỉ ngũ sắc, buổi tối lúc đi ngủ, quấn chỉ vào năm đầu ngón tay, chỉ ngũ sắc này phải được niệm 21 biến chú Đại Bi, trước khi ngủ phải trải khăn trải giường mới, chăn mới, tắm gội, mặc quần áo mới, tốt nhất là thắp đàn hương ở trong phòng, dùng ngón tay đã quấn chỉ ngũ sắc hướng lên mây ở trên trời, vẫy năm lần, niệm năm câu Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Như thế khi nằm mơ, sẽ có mây ngũ sắc từ không trung hạ xuống, nhẹ nhàng đỡ bạn lên, rồi hướng về thiên giới mà bạn muốn đến. Vẻ đẹp của cảnh sắc cõi trời, sự thanh cao của Tiên chúng, sự kì diệu của núi sông ở nhân gian chẳng thể biết tới, nhân gian chẳng thể hình dung nổi, nhưng cần phải nhớ không được tham lam, tham niệm mà khởi lên thì pháp phi không bằng mây ngũ sắc này lập tức mất tác dụng, muốn sử dụng lại thì cũng không còn linh nữa.
Ban đầu khi tôi viết bản văn này, tôi không dự tính sẽ viết về pháp "ngũ sắc tường vân phi không", bởi vì pháp này là vô giá, người có thể vận dụng nó thì cũng giống như có được báu vật vô giá. Đồng thời tôi cũng e sợ rằng người thực hành pháp này quá nhiều sẽ quấy rầy thiên giới, như thế thì tôi lại còn vi phạm lỗi tiết lộ thiên cơ, đến lúc đó lại bị trời khiển trách. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, dùng ngón tay ngũ sắc để gọi mây cũng cần dùng đến linh lực, người không biết pháp khởi linh thì sẽ không thể làm được. Hơn nữa, tâm vốn có tính hiếu kì, rất nhiều người chỉ là thử một lần xem sao, những người như thế thì cũng chẳng có cách nào thành tựu được. Trong số đó nếu có người có duyên, một ngày nào đó người ấy dùng thuật "ngũ sắc tường vân phi không" mà thành công thì người ấy nhất định có thể bền lòng hướng Phật, thay Phật môn tuyên dương hoằng pháp, chỉ cần diệu pháp ứng với căn cơ này có thể độ hóa một người thì công đức ấy cũng đã tự nhiều rồi, một người đắc độ thì vạn người được nhờ. Cho nên cho dù có liều lĩnh một phen nguy hiểm tôi cũng phải nói ra.
Nếu so sánh pháp kết giới của Phật môn và tịnh đàn của Đạo gia với nhau thì pháp của Phật môn có vẻ đơn giản hơn, còn pháp kết giới của Linh Tiên Chân Phật Tông thì lại càng là một cách sáng tạo độc đáo. Có lẽ đó là nhờ lòng từ bi của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tất cả các pháp đều phải lấy đại nguyện làm cơ sở, tôi rất mong muốn có thể trình bày hết lần lượt các pháp bí mật của Phật môn ra, để đem đến cho tất cả các đệ tử Phật toàn thế giới một sự hưng thịnh mới, dần dần tăng thêm ích lợi, từng bước phát triển, tiết lộ những viên ngọc quý còn ẩn giấu, khiến người người đắc thành tựu.
30. Linh Tiên tinh xá là đạo tràng trang nghiêm
Khi còn ở Đài Loan, tôi không tán thành xây dựng chùa chiền, bởi vì chùa ở Đài Loan đã đủ nhiều rồi. Hàng năm, số tiền tiêu tốn cho việc xây chùa đã rất khó xác định, số lượng chùa chiền đã vượt quá cả tổng số làng quê và thị trấn của cả nước. Hơn thế nữa còn có một làng quê nhỏ mà có tới năm ngôi chùa, năm miếu Đạo, con số này thật sự khiến người ta sửng sốt. Người có tri thức và kinh nghiệm thì cực kì lo lắng trước hiện tượng này, cho rằng các chùa ở Đài Loan không có cách nào xử lý theo lẽ công bằng tất cả tài sản của chùa, nên đã có những người mượn thần để vơ vét của cải. Thêm nữa, việc quản lý chùa chiền không kiện toàn, người quản lý lợi dụng ý thần để lừa người ta bằng những lời lẽ ma mị. Chùa trở thành các địa điểm tham quan, đã làm biến dạng và làm méo mó hình tượng của việc tu hành.
Vì thế, ở Đài Loan, Linh Tiên Chân Phật Tông không xây chùa, không có tổ chức, không có ngân quỹ, cái gì cũng không có, thứ duy nhất có đó là các học trò nhận tôi làm thầy, còn người thầy là tôi đây thì vẫn luôn để tùy duyên, khi các học trò nhận tôi là thầy thì tôi chính là thầy của Linh Tiên Chân Phật Tông, còn khi các học trò nhận tôi là "người ngu" thì tôi chính là "người ngu" của Linh Tiên Chân Phật Tông, tôi vẫn luôn tùy theo nhận định của học trò. Tôi chưa bao giờ tự nhận mình là một vị thầy vạn người chí tôn, không có cái vẻ cao ngạo của một người thầy. Cũng có thể nói thế này, khi các học trò thấy tôi không vừa mắt nữa thì tôi sẽ trở thành ông thầy cho họ chửi bới, vì thế, người thầy là tôi đây thật ra cũng không phô bày.
Sau khi đến Mỹ, tình hình trong nước ở Mỹ rất khác với Đài Loan. Thành phố Seattle ở bang Washington chỉ có một ngôi chùa của người Nhật Bản, chuyên để cho người Nhật lễ Phật hoặc dùng khi có các lễ cúng. Người Hoa ở Washington không ít, nhưng tinh thần tín ngưỡng của họ thì cũng ở trạng thái trống không. Có rất nhiều người Hoa, từ nhỏ đã xa nhà, gian nan tìm chỗ đứng, trong xã hội chủ nghĩa vật chất chỉ có tiền mới là vạn năng, do đó hễ nói đến tu đạo tu hành thì về cơ bản là họ không hề nghĩ tới. Tinh thần của họ là rỗng tuếch, khi buồn khổ, ngoài việc tìm đến những nơi vui chơi khuấy động để trút nỗi buồn ra, thì chính xác là họ đã biến thành động vật ngày ngày lê lết kiếm sống.
Cá nhân tôi nhận thấy điều này, tôi cảm thấy ở mảnh đất Mỹ này, xây chùa và đạo tràng là điều cần thiết, chùa là đất thanh tịnh. Thế là tôi dùng pháp phong thủy và tìm được khu vực Redmond, mua một mảnh đất. Nơi đó rất đẹp, có núi có hồ, chỗ dựa sau lưng có khí rồng tới, hai bãi cát bên trái phải đều tạo thành thế bảo vệ, thật sự là một đạo tràng trang nghiêm rất tự nhiên. Chúng tôi đã nộp đơn lên chính quyền tiểu bang để thành lập một tổ chức từ thiện, cung cấp nhiều nhất có thể những buổi giảng đạo về tinh thần tu hành, khéo léo từ chối sự chuyên quyền cá nhân. Về mặt xử lý tiền bạc, đạo tràng được xây dựng đơn giản trang nghiêm, giảm bớt những chi phí không cần thiết, thu nhận tài trợ để xây dựng thư viện cho Linh Tiên Tinh Xá, thành lập lớp bồi dưỡng tiếng Anh. Có thể tưởng tượng rằng Linh Tiên Tinh Xá này là một đạo tràng trang nghiêm ở hải ngoại.
Ở trung tâm là đại điện của chùa, là một tòa kiến trúc hai tầng, ở chính giữa tòa nhà có Quan Thế Âm Bồ Tát làm chủ tôn, bên trái phải là Hộ pháp Vi Đà tôn giả và Hộ viện Già Lan tôn giả. Khu điện ở hai bên là các phòng giảng kinh và nhà trọ cho khách. Ngoài ra, khu điện ở hai bên có thể cung cấp nơi tổ chức hội nghị hoặc các lớp học bồi dưỡng tiếng Anh, thư viện cũng nằm ở đó. Bước ra khỏi chùa, ở chính giữa là một con đường lớn, ngày thường là nơi xe ô tô ra vào hoặc nơi dừng đỗ xe, ở giữa chùa và con đường lớn là một quảng trường, có thể đánh quần vợt hoặc cầu lông, có thể vận động tập thể dục. Hai bên đường lớn, mỗi bên đều xây dựng bốn tòa nhà, trái phải đều có, tổng cộng là tám tòa nhà, đó là nhà ở của những người đã xây dựng nên Linh Tiên Tinh Xá, khi có khách từ nơi xa đến thì cũng có thể dùng làm nơi ở cho họ.
Cửa chính của đạo tràng Linh Tiên Tinh Xá trang nghiêm có đặt một tấm bia ở cửa, trên đó viết bốn chữ "Linh Tiên Tinh Xá". Tinh xá bốn phía đều có tường bao quanh, không bị bên ngoài làm phiền. Những mái ngói của tòa đại điện ở giữa được làm theo thiết kế của Nhà tưởng niệm Tôn Trung Sơn ở Đài Loan, trở thành kiểu cung điện. Quan Thế Âm Bồ Tát tọa tây hướng đông, tức là hướng tọa Thân vọng Dần. Trong Phật đường treo một bức phướn có chữ "Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát", thắp đèn quang minh thập phương, thắp đèn sáng liên tục, ngày đêm thắp đàn hương, dựa theo nghi thức Phật môn mà làm khóa lễ buổi sáng, khóa lễ buổi chiều, khóa lễ buổi tối, dùng các lễ phẩm thanh tịnh như trà, đèn, quả, đồ ăn để cúng dường. Tượng Phật Thích Ca, tượng A Di Đà, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, đều được thờ phụng ở phía trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, bởi vì tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đặc biệt to lớn, do vậy phải để ở phía sau. Chúng tôi theo nghi thức ngày ngày cúng dường, lòng dạ chân thành. Ở tinh xá này, vào ngày hai mươi mốt hoặc chọn ngày đẹp, người người có thể thanh tịnh giữ trai giới, đọc kinh điển Đại thừa, hoặc trì chân ngôn, hoặc niệm Phật, để tiêu trừ nghiệp chướng của kiếp trước.
Trước đây tôi nhận sự giáo huấn của sư phụ, sư phụ nói, tu trì Phật môn cũng có một môn là đạo tràng trang nghiêm, cần phải thuần thục nghi thức thì mới không có sai lầm, cần có đạo lý phân minh mới có thể chính - tà đều biết, cần quán chỉ định niệm thì tâm mới không đảo điên, cứ như thế thì Bồ Tát tự có thể gia hộ. Vì thế, đạo tràng trang nghiêm là một công khóa mới nhập môn, đạo tràng trang nghiêm, con người cũng sẽ trang nghiêm, không thể không biết điều này.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có một tay cầm một tòa cung điện, cánh tay này gọi là "hóa cung điện thủ", nếu có người chuyên môn thi công chùa chiền, để cho đạo tràng trang nghiêm lợi ích quần sinh, thì những người này đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện của Phật Bồ Tát, hơn nữa không bị thọ sinh trong "thai tạng". Theo như tôi biết, người có bàn tay "hóa cung điện thủ", tu trì đạo tràng trang nghiêm, thì có rất nhiều cơ hội được sinh vào thiên cung ở thiên giới, bởi vì trang điểm cho kim thân của Phật chính là trang điểm cho kim thân của chính mình, xây cung điện Phật chính là xây cung điện ở cõi trời cho mình, nên việc sinh ra ở thiên cung là điều không có gì phải nghi ngờ.
Tôi cảm thấy hôm nay tôi có thể ngồi yên tĩnh để viết cuốn sách này đúng là do Phật Bồ Tát đã tận lực an bài, giả sử ở Đài Loan, tôi bận rộn suốt ngày đêm, sẽ không có cách nào hoàn thành được những tác phẩm như vậy. Và việc xây dựng đạo tràng trang nghiêm như thế này cũng là chủ ý của Phật Bồ Tát, tất cả đều là định số, rất nhiều những điều trùng hợp khó lý giải. Nếu tôi đến Mỹ sớm hơn thì cũng không thành, không sớm không muộn mới là hoàn hảo nhất. Tôi tỉ mỉ hồi tưởng về mọi thứ đã qua trong cuộc đời mình, thật sự là bất khả tư nghì, giống như một giấc mộng, ngay cả thật giả tự mình cũng đều thấy hồ đồ rồi, nhưng sự thật là tất cả mọi thứ đều là thật.
Có lẽ tất cả chướng ngại đều là ý trời, nên tôi tới Seattle nước Mỹ xây dựng đạo tràng trang nghiêm của Phật Bồ Tát.
31. Tịnh tam nghiệp chỉ quán
Trong quá khứ tôi thường nói rằng người xuất gia không phải là để đầu trọc, điểm sẹo giới, ăn chay, mặc tam y là thành người xuất gia. Người xuất gia chân chính phải là ra khỏi ngôi nhà thế tục, đi vào ngôi nhà của Phật tổ thì mới gọi là xuất gia chân chính. Cũng có nghĩa là cái xuất gia của tâm chứ không phải là cái xuất gia của những biểu hiện bên ngoài. Tu đạo chân chính không phải chỉ là nói khơi khơi ngoài miệng mà còn là sự tu đạo của tâm, phải thật sự đi thực tiễn, nỗ lực thực hành. Ở đây xuất gia thật và xuất gia giả, tu đạo thật và tu đạo giả phân biệt ra sao, chỉ cần nhìn vào "tam nghiệp tịnh", tam nghiệp thanh tịnh thì chính là xuất gia thật và tu đạo thật, tam nghiệp không thanh tịnh chỉ có thể nói là xuất gia giả, hoặc là xuất gia nhưng chưa kiện toàn.
Xuất gia chưa kiện toàn là sự phô trương từ ngữ chuyên môn về mặt học thuật, còn thật ra họ chỉ là nhất tâm lưỡng dụng, do không hề chuyên tâm nhất trí nên không thể tiến vào sự sâu sắc của Phật học, mặc dù họ có liên hệ với Phật môn nhưng chỉ có thể xem như là xuất gia giả. Tôi viết như thế này, người xuất gia đừng tức giận, đây không phải là tôi cố ý phân định như vậy, bởi vì do có một từ là "cao tăng" nên phải có "thấp tăng" thấp hơn trình độ của cao tăng. Đây không phải là phỉ báng, mà là xuất gia chân chính mới có hàm ý của xuất gia, mới có hiệu quả của việc độ hóa thế nhân, đây là vấn đề "sử dụng triệt để".
Muốn tịnh tam nghiệp thì phải coi trọng "sử dụng triệt để", hoặc nhiều hoặc ít phải dựa vào trí huệ. Tác giả viết chương sách "Tịnh tam nghiệp chỉ quán" này vốn là một sự tu trì hoàn chỉnh, việc tu trì này tuyệt đối không phải là hưởng lạc, cũng tuyệt đối không phải là cực khổ, cần biết rằng khổ - lạc đều là vấn đề của tâm cảnh. Điều này không hề sâu xa khó hiểu, giả dụ bạn có thể đạt đến cảnh giới này thì chắc chắn sẽ biết lạc là từ trong khổ mà có, dù khổ nhưng thật sự lại là lạc, quả vị tương lai sẽ tương đối lớn, chứng được quả vị tịnh tam nghiệp rồi thì sẽ có càng nhiều hi vọng. Tôi mong rằng tất cả các đệ tử Phật có thể hoàn thành tu hành tịnh tam nghiệp, bởi vì đây là cái gốc căn bản để thành Phật, là nền tảng tu luyện của xuất gia và thành Phật.
Tu trì "tịnh tam nghiệp chỉ quán" nói về sử dụng triệt để, cách làm của tôi như sau: "Thứ nhất, phải có tín tâm kiên định, từ nội hướng ngoại, hoặc từ ngoại hướng nội, đó là việc tu trì của cá nhân, tự mình tịnh tâm lĩnh ngộ. Thứ hai, các viện Phật học phải có những người thầy giáo lương thiện tốt lành, có thể cung cấp diệu pháp làm sao để tịnh tam nghiệp. Các chùa Phật phải lấy tịnh tam nghiệp làm trọng, hoàn cảnh tu hành rất quan trọng, phải giải quyết những khó khăn của người xuất gia và những vấn đề giày vò tâm trí họ, khiến họ có thể hướng tam tâm thành nhất tâm. Thứ ba, phải tu tĩnh tọa chỉ quán, cái này đòi hỏi phải có cao tăng nhân tài đích thân chỉ bảo, không thể chỉ dựa mỗi vào sự mày mò của bản thân, bởi vì cao tăng là người từng trải, cần hướng dẫn người kém hơn, cùng gánh vác công việc cứu độ những linh hồn nhân loại của thế giới. Cái thời chỉ lo thân mình đã qua rồi, ngày nay Phật môn nên cùng với các tăng nhân có thành tựu hợp tác tương trợ lẫn nhau."
Tu trì từ ngoại hướng nội có phương pháp như sau: Người xuất gia phát bồ đề tâm quảng đại, xin thề độ hóa tất cả chúng sinh, bản thân duy trì trai giới, trước tiên phải tịnh khẩu nghiệp, tịnh thân nghiệp, tịnh ý nghiệp, ba nghiệp này thanh tịnh rồi mới xem như là xuất gia thật. Sống trong căn phòng yên tĩnh, nhất định phải thường xuyên tắm gội sạch sẽ, mặc tam y sạch sẽ, tâm mình phải thu nhiếp vào tâm Phật, tuyệt đối không được nảy sinh những tình cảm khác. Trước khi muốn đến đạo tràng, nhất định phải dùng nước thơm để tắm gội, mặc quần áo sạch sẽ nhất để làm pháp sự. Khi rời khỏi đạo tràng, mặc quần áo bình thường thì cũng phải sạch sẽ mới được, điều này rất quan trọng.
Người xuất gia phải tắm gội hàng ngày, trước khi làm pháp sự, sau khi làm pháp sự, mỗi tối trước khi đi ngủ đều phải tắm gội. Quy định một khoảng thời gian nào đó bế khẩu không nói, hoặc tuyệt đối không nói lời lung tung, tất cả mọi đối đáp chào hỏi càng ít càng tốt, điều này có nghĩa là vào khoảng thời gian này không được có một sát-na nào nghĩ đến sự vụ thế tục, nếu ăn cơm đi ngủ cũng phải như vậy, không được để tâm tản mạn. Như thế, lấy việc mặc quần áo sạch sẽ là sự thanh tịnh của ý, lấy việc tắm gội thân thể là sự thanh tịnh của thân, lấy việc bế khẩu không nói là sự thanh tịnh của khẩu, đây là phương pháp tu trì từ ngoài vào trong.
Người tu hành thắp một nén hương trước tượng Phật, lúc này nên nhắc nhở bản thân rằng tất cả chư Phật và chúng sinh trong pháp giới, và thân tâm của ta là một, ở đây chỉ là chư Phật đã giác ngộ mới thành Phật, còn tất cả chúng sinh thì vẫn sống qua ngày trong sự mê muội, còn ta thì vì chúng sinh mà đến để tu hành, dẫn dắt chúng sinh ra khỏi con đường mê lầm. Và khi lạy Phật, đều phải liên tục nhớ như vậy. Thế rồi an tịnh ngồi xuống để tu pháp chỉ quán.
Tịnh tam nghiệp chỉ quán, niệm lực tập trung vào khói hương phất phơ, khói này hóa thành mây hoa thơm đầy ắp thập phương pháp giới, thổi đến từng thế giới Phật quốc, hóa thành vô lượng vô số cảnh tượng trang nghiêm, Bồ Tát đều vì vậy mà càng thêm trang nghiêm, Như Lai càng vì vậy mà đại chuyển pháp luân. Những đài hoa sen ánh sáng phóng tỏa ra ánh sáng nhiều màu sắc, âm nhạc của cõi trời đẹp đẽ kì diệu, giáng xuống mưa hoa, những y phục quý báu của thiên giới từng thứ đều sạch sẽ, diệu pháp tràn trề, mỗi một vị thần tiên đều mặc trên người y phục quý báu của cõi trời, hết vị này đến vị khác đều có diệu pháp đắc đạo của mình, những diệu pháp này đều trang nghiêm và quay tròn mãi mãi không dừng lại, tất cả đều chen nhau đến trước đài sen của Tam Bảo. Còn bản thân mình thì đang ngồi trước mặt Tam Bảo Phật, tu hành cúng dường lễ bái, giữa Phật và ta vô chướng vô ngại.
Tu tịnh tam nghiệp không hề chỉ là miệng tụng "tịnh tam nghiệp chân ngôn" là xong, mà càng phải làm với tâm ý kiên định mới được. Trước kia sư phụ hướng dẫn tôi, hễ phát hiện thấy tâm ý tán loạn, tạp niệm ùn ùn kéo đến thì lập tức dừng ngay bất kì việc gì, chạy vào phòng tắm, mở vòi nước, dùng nước lạnh dội lên đầu, hoặc dùng nước lạnh để tắm gội, sau khi tắm gội xong, tất cả tạp niệm sẽ theo nước lạnh trôi đi. Đây là một phương pháp rất hay, nhưng để xem bạn có làm hay không mà thôi.
Có người nói, cách tắm nước lạnh của Lư Thắng Ngạn thật sự là cao kiến, đây chính là tinh thần "học tập tín tâm". Muốn ép tạp niệm dừng lại là vô cùng không dễ dàng. Khuyên bảo thì dễ hơn nhiều so với áp chế, và chỉ dẫn theo đường vòng dễ hơn là nhìn thẳng vào vấn đề. Cách tắm nước lạnh là một cách chỉ dẫn theo đường vòng, đừng cho rằng đây là tài vặt vớ vẩn, thật ra nó lại có công hiệu lớn, có thể thật sự làm được cũng không phải là dễ, đây là kiến thức về vấn đề sử dụng triệt để.
Khẩu nghiệp không tu, kiếp sau mồm thối; thân nghiệp không tu, da thịt thối rữa; ý nghiệp không tu, biến thành lợn chó trâu. Đây chính là lời cảnh báo cho việc không tu tam nghiệp thân khẩu ý, mặc dù không có minh chứng, nhưng đây cũng là nhân quả để mà khuyên răn người đời!
32. Pháp phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên
Khi Thánh linh từ trên trời hạ giáng, nếu là người có linh nhãn sẽ quan sát thấy giống như pháo hoa mỗi dịp lễ tết ở nhân gian, có khi là ánh lửa cháy rực bầu trời, có khi là ánh sáng chói chang rực rỡ, có khi là mưa hoa đầy trời, có khi là nhiều màu sắc đẹp đẽ. Theo như tôi biết, càng là thần cấp thấp thì màu sắc càng sặc sỡ và đậm, càng là thần thánh của thượng giới thì ánh sáng rất thuần rất sáng. Họ đến từ không trung để tiếp nhận cúng dường của nhân gian.
Các vị Phật Bồ Tát cao quý vốn là những vị đã thoát ly khỏi chướng ngại trần thế, cư ngụ tại thiên giới thanh tịnh hoặc ở pháp giới vượt ra ngoài tam giới. Thế gian nhơ bẩn không đáng để các vị đến, nhưng chư vị đều có tấm lòng từ bi, chỉ cần chí thành phụng thỉnh, ân cần gọi tên từng vị ba tiếng, hoặc có thể làm cảm động tấm lòng từ bi của chư vị, các vị sẽ vì bảo hộ và nhớ thương các chúng sinh thế tục mà nhất định sẽ đến nhân gian một chuyến.
Cá nhân tôi tu hành là tăng cường hướng nội để nghiên cứu sâu về tâm tính của mình. Về phương diện hướng ngoại thì tôi tìm kiếm bản thể của vũ trụ. Đối với phương diện nhân tình thế thái, tôi lại tương đối lơ là. Có nghĩa là tôi khá coi trọng hướng nội để tự kiểm điểm bản thân, tương đối coi trọng tri thức thực tiễn, còn đối với phương diện lễ nghi thì tôi khá e ngại. Nhưng đối với Phật môn, phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên có lễ nghi nhất định, cái này có tính hệ thống, không thể xem nhẹ. Người học Phật mỗi lần dâng cúng dường hoặc pháp sự nhất định phải thỉnh Tam Bảo Chư Thiên. Vì thế tôi đặc biệt thuật lại từng việc trong pháp phụng thỉnh như sau:
"Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô quá khứ vô lượng ức kiếp Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Thế Tôn. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô quá khứ chín mươi chín ức Căng Già Sa Chư Phật Thế Tôn. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô quá khứ vô lượng kiếp Chính Pháp Minh Thế Tôn. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô mười phương hết thảy Chư Phật Thế Tôn. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô mười phương pháp giới hết thảy Chính Trụ Như Lai."
Phụng thỉnh Phật thì niệm bài kệ rằng: "Pháp tính như Không chẳng thể thấy, pháp bảo thường trụ khó nghĩ bàn. Con nay tam nghiệp như pháp thỉnh, kính mong hiển hiện nhận thọ cúng."
"Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô quan Thế Âm Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Tổng Trì Vương Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Bảo Vương Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Hoa Nghiêm Bồ Tát, Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Đức Tạng Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Di Lặc Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô thập phương tam thế nhất thiết Bồ Tát. Nhất tâm phụng thỉnh, Nam Mô Ma Ha Ca Diếp, vô lượng vô số đại Thanh Văn tăng."
"Nhất tâm phụng thỉnh Thiện Trá Phạn Ma Cù Bà Già Thiên Tử, hộ thế Tứ Vương, Thiên Long Bát Bộ, Đồng Mục Thiên Nữ, Hư Không Thần, Giang Hải Thần, Tuyền Nguyên Thần, Hà Chiểu Thần, Dược Thảo Thụ Lâm Thần, Xá Trạch Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Phong Thần, Thổ Thần, Sơn Thần, Địa Thần, Cung Điện Thần, và thủ hộ pháp trường hết thảy thiên long quỷ thần và các quyến thuộc."
"Kính mong Thích Ca bổn sư, Di Đà từ phụ, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, thập phương tam thế nhất thiết Chư Phật, không rời bản tế, bình đẳng từ bi, mời đến đạo tràng, chứng con làm pháp, quảng đại viên mãn, hiển hiện đạo tràng, nhận con cúng dường. Quan Thế Âm Bồ Tát, với đại nguyện lực, xin đến trước con, thần chú gia trì, tiêu trừ tam nghiệp. Đại Thế Chí Bồ Tát, các vị đại Bồ Tát đẳng cấp Tổng Trì Vương, Ma Ha Ca Diếp các đại Thanh Văn, cùng khởi từ bi, xin mời giáng xuống. Phạn Thích Tứ Vương chư thiên bát bộ, thuận theo thỉnh cầu, giữ vững đạo tràng, ủng hộ Phật tử, đẩy lùi ma chướng, thị hiện cát tường, để con tu hành, không trái ý nguyện."
Phần trên là bài văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên. Nói ra thì cũng rất kì lạ, lúc tôi đang viết bản văn này, tôi vừa viết vừa niệm, nhất tâm phụng thỉnh rất nhiều thần thánh, mũi tôi ngửi thấy mùi đàn hương ùa tới, mùi hương này không phải là hương thơm bình thường, ngẩng đầu lên thì trông thấy một vị Hộ Pháp Kim Giáp Thần đang giáng quang ngay trước mặt tôi. Tôi dùng ý thức để bẩm báo rằng vì viết bản văn này, tôi vừa viết vừa niệm, không ngờ đã làm kinh động đến đại thần giáng quang, thật sự rất áy náy. Đại thần đáp rằng: "Vì ngài viết văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên nên tự nhiên cảm ứng mà đến thôi, chứ không thật sự là có việc gì khác, ngài kính cẩn viết, tôi đến để hộ trì thôi mà." Lúc này, tôi vô cùng sửng sốt, không ngờ viết bản văn này mà lại làm kinh động đến Kim Giáp Thần hạ giáng, đúng là ân cần phụng thỉnh ba lần ắt có cảm ứng giáng xuống.
Văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên không phải là đã có thì không thể thay đổi, mà là có thể thay đổi tùy theo, lấy Phật Bồ Tát chủ đàn của pháp hội mà phụng thỉnh. Ví dụ trong bản văn này là lấy Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát làm chủ, như thế tự nhiên Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ là đứng đầu tất cả các vị Bồ Tát. Thuận theo sự thay đổi tự nhiên của vị trí mà liệt kê kể tên các vị Phật Bồ Tát có quan hệ lẫn nhau, các vị tiếp theo thì có thể dùng tên gọi chung là được.
Trong quá khứ, tôi từng nhận lời mời đến Lâm Biên ở miền nam để tham gia một pháp hội long trọng. Pháp hội này mặc dù hình thức là Phật môn, những kinh điển được tụng là bảo điển Đại thừa, nhưng người chủ sự của việc tụng kinh được mời đến lại không phải tăng, không phải đạo, không phải tục, cũng không biết là người của phái nào tông nào. Người đó đọc văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên thứ tự trước sau đảo lộn hết cả, ngay cả một số Nho sĩ lớn thời đầu nhà Thanh như Đình Lâm, Thuyền Sơn, Lê Châu cũng được kể tên. Phật môn bị nhập vào trong Nho học, chư Phật Bồ Tát lại được kể tên sau, trở thành đứng tên sau cùng. Đặc biệt là trong sớ văn chỉ nhắc đến tri thức và lòng nhân từ, sự trung thực, thẳng thắn theo đuổi thái độ khoa học, dường như là không có bằng chứng thì không tin, trở thành khoa học hóa tôn giáo.
Cuối cùng, văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên đã trở thành văn phụng thỉnh linh hồn của các Nho sĩ, kéo cả một đám ma quỷ chướng khí mù mịt, có quỷ răng nanh chìa ra ngoài, có quỷ thì đầu to chân nhỏ, có quỷ thì một sừng nhiều sừng, có quỷ thì lưỡi dài quét đất, có quỷ thì nhiều tay nhiều chân, có quỷ thì kì hình dị thú. Trong lòng tôi vô cùng đau xót, văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên này vốn rất có hệ thống và trang nghiêm, là cơ sở kinh nghiệm của Phật môn, phải rõ ràng và có trật tự, như vậy mới có sức mạnh cảm ứng cực lớn, chứ không phải là tùy tiện có thể đổi sang khoa học xã hội hoặc khoa học tự nhiên mới, một cách suy nghĩ mới mà rời xa ý chỉ ban đầu thì tự nhiên sẽ gay go to. Phật Bồ Tát chưa đến, ngược lại lại là yêu ma quỷ quái đến, thế thì sẽ biến thành hiểu biết sai lầm rồi.
Cá nhân tôi đối với học thức của Cố Đình Lâm, Vương Thuyền Sơn, Hoàng Lê Châu thì vô cùng tôn trọng, bởi vì cả đời họ đã hết sức cố gắng đề xướng việc thực học một cách hữu dụng triệt để nhất, cố gắng đẩy lùi cái tệ hại rỗng tuếch của đoạn kết trào lưu Dương Minh Học, khiến cho tư tưởng và văn hóa học thuật cận đại của Trung Quốc nổi lên công dụng khảo chứng. Thế nhưng liệt tên họ trong văn phụng thỉnh Tam Bảo Chư Thiên thì không biết là do khảo chứng của vị đại đức nào đã học theo và phát huy, đã làm ra một thứ ngô không ra ngô, khoai không ra khoai, khiến cho người ta chê trách, bởi vì Phật môn và các nhân vật khảo chứng đặt ngang hàng, đồng thời như thế đã đủ làm tổn hại đến hình tượng của tôn giáo, gây nên nhận thức sai về tín ngưỡng. Cần phải được làm sáng tỏ thêm về điều này.
Hiện nay, tri tính đang phát triển quá mức, nguy cơ mà văn hóa trọng tính tri thức đang đối mặt chính là sự uy hiếp lớn đối với nhân loại, hậu quả bất công này, con quái vật mà khoa học đã tạo ra - "bom hạt nhân", đã dần dần thoát khỏi sự kiếm soát của con người và quay ngược lại thôn tính nhân loại. Tôi cảm thấy tâm linh của nhân loại cần phải cởi mở, giá trị quan của tôn giáo cần được đề cao, Phật học trong văn hóa cần phải được phát triển cân đối, như vậy mới có thể khiến cho văn hóa nhân loại càng phong phú hơn. Không thể mở ra cánh cửa tri thức nhưng lại đóng mất cánh cửa học Phật được.
33. Công đức trì chú
Chú Đại Bi của Phật môn có nhiều tên gọi, ví dụ như "Quảng đại viên mãn", "Vô ngại đại bi", "Cứu khổ đà la ni", "Diên thọ đà la ni", "Diệt ác thú đà la ni", "Phá ác nghiệp chướng đà la ni", "Mãn nguyện đà la ni", "Tùy tâm tự tại đà la ni", "Tốc siêu thượng địa đà la ni". Chú Đại Bi được lưu truyền rộng rãi nhất, người thọ trì cũng nhiều nhất, linh cảm rộng lớn và sự bất khả tư nghì của câu chú này cũng rất vĩ đại.
Còn người trì chú, trước tiên phải coi trọng sự phát tâm, phát tâm sẽ trở thành nguyện vọng. Phát tâm quan trọng nhất chính là chúng ta phải đạt được huệ nhãn viên tịnh, trước tiên phải độ tất cả chúng sinh trầm luân, hơn nữa, độ chúng sinh không sinh ra sai lầm. Chúng ta càng cần hiểu rằng, mặc dù Phật môn có vạn vạn pháp, nhưng không nằm ngoài ba phần cốt yếu, đầu tiên là cầu trí huệ bát nhã thật sự, sau khi thành tựu trí huệ rồi thì lại vượt qua biển khổ sinh tử, đắc xuất thế thượng thượng giới định, cuối cùng mới xem là thành công, nhập vào tam đức niết bàn.
Hơn nữa, người trì chú, tất cả hành vi phải phù hợp, một là Quán cảnh giới bất tư nghì, hai là Phát bồ đề tâm, ba là Xảo an chỉ quán, bốn là Phá pháp biến, năm là Thức thông tắc, sáu là Điều thích đạo phẩm, bảy là Đối trị trợ khai, tám là Tri thứ vị, chín là Năng an nhẫn, mười là Ly thuận đạo pháp ái.
[ ND: Ở đây Tôn sư đang nói đến Thập thừa quán pháp:
- Quán bất tư nghì cảnh: quán xét về cảnh không thể nghĩ bàn. Tức là quán trong một niệm tâm mà phàm phu khởi lên hàng ngày có đủ tất cả những gì của đời sống con người, tam đế nhất thể hóa lẫn nhau, là cảnh giới mầu nhiệm không thể nghĩ bàn.
- Phát bồ đề tâm: khi hành giả nương vào sơ quán mà chưa thành công, thì đổi sang phát tâm bồ đề vô tác, vì cầu bồ đề cứu độ chúng sinh mà lập bốn thệ nguyện lớn.
- Xảo an chỉ quán: khéo dùng chỉ quán làm cho tâm an trụ nơi bản tính chân thực.
- Phá pháp biến: phá khắp các pháp, tức trừ diệt tâm chấp trước nơi tất cả các pháp.
- Thức thông tắc: biết chỗ thông suốt, chỗ bít lấp. Tức là có khả năng quán biết rõ chỗ thông suốt, chỗ bít lấp, phân biệt rõ chỗ ưu, khuyết của tình thức.
- Đạo phẩm điều thích: điều hòa việc tu đạo cho thích hợp. Tức quán xét 37 đạo phẩm để tùy theo tính chất năng lực của hành giả mà tu cho thích hợp.
- Đối trị trợ khai: diệt trừ các chướng ngại để giúp cho việc tu đạo. Tức tu các thiện pháp thấp, gần gũi và cụ thể để giúp thêm cho việc tu đạo, tức mở ra Tam giải thoát môn để đối trị chướng ngại.
- Tri thứ vị: biết thứ bậc. Tức không khởi tâm ngã mạn tự cho đã chứng tính vị, mà phải biết rõ giai vị tu hành của mình, nghĩa là khéo phân biệt và ý thức được sự tu chứng của mình đã tới đâu.
- Năng an nhẫn: có khả năng chịu đựng. Tức đối với các chướng ngại bên trong cũng như bên ngoài, tâm không dao động, nhưng chịu đựng để thành tựu Phật sự.
- Ly pháp ái: không mê đắm pháp. Tức diệt trừ tâm bám dính vào pháp chẳng phải là bồ đề đích thực để tiến vào bồ đề vị chân chính. ]
Tu Phật trì chú, kì thực là cần nhanh biết tất cả đạo pháp, có thể đạt được nhiều sự quán sát trí huệ để tiện lợi độ tất cả chúng sinh, bản thân có thể lên được thuyền pháp, vượt qua biển khổ sinh tử rồi từ giới đạt đến chân đế của định, vĩnh viễn nhập vào vô sinh niết bàn, khiến cho nhân tính của bản thân trở thành pháp tính, vĩnh viễn không chịu sự hạn chế của thời gian không gian, trở thành Quán tự tại vĩnh viễn tự tại.
Trì chú có thể có được đại công đức như vậy, bởi vì chú Đại Bi là do chư Phật nhiều như cát của chín mươi chín ức sông Hằng đã nói, để cho tất cả những người tu hành chưa viên mãn nhanh chóng được viên mãn, để cho những người chưa phát bồ đề tâm có thể nhanh chóng phát tâm, người chưa đắc ấn chứng nhanh chóng đắc ấn chứng, hơn nữa: Người trì chú là Phật tương lai, xưng hiệu là Phật Thân Tạng, được chín mươi chín ức chư Phật tâm che chở bảo bọc. Người trì chú là Quang Minh Tạng, tất cả ánh sáng của Như lai sẽ chiếu khắp lên họ. Người trì chú là Từ Bi Tạng, vì chú lực tức là từ bi cứu khổ. Người trì chú là Diệu Pháp Tạng, bởi vì bản thân chú lực chính là một loại pháp vi diệu. Người trì chú là Thiền Định Tạng, bởi vì trong chú lực có ẩn tàng pháp vị tam muội. Người trì chú là Hư Không Tạng, bởi vì thường dựa vào trí huệ tính Không mà quán sát chúng sinh. Người trì chú là Diệu Ngữ Tạng, bởi vì trì chú tức là ngôn ngữ vi diệu. Người trì chú là Thường Trụ Tạng, tam tai bát nạn đều được tiêu trừ hết. Người trì chú là Giải Thoát Tạng, thiên ma ngoại đạo đều không thể làm hại. Người trì chú là Dược Vương Tạng, bởi vì chú lực có thể chữa bệnh của chúng sinh. Người trì chú là Thần Thông Tạng, bởi vì có thể thần túc du hành đến mọi Phật quốc.
Tác giả trì chú, thời gian mặc dù không dài, nhưng cũng có lịch sử trên mười năm. Bốn năm trước, có một lần tôi trì chú cũng phát sinh kì tích. Tôi thường tu trì chú Đại Bi, tôi cũng thường niệm mười tiểu chú, chú Nhất tự kim luân và chú Biến tịnh thổ của Mật giáo tôi cũng thường xuyên tu trì. Ngày hôm đó, tôi ở Phật đường tại nhà mình, an tịnh lễ chư Phật Bồ Tát xong, tôi chắp tay ngồi yên, bắt đầu trì chú Đại Bi. Sau khi trì niệm bảy biến, tôi lại niệm chú Nhất tự kim luân. Sau đó, giống như cơn đại địa chấn, một tiếng sét vang lên, thân tâm của tôi từ từ biến thành hư không, cảm giác này là bản thân mình đã quên mất thân tâm của mình ở đâu. Sau đó, tôi đã trải qua một khoảng thời gian không biết là bao lâu, trong miệng vẫn còn niệm Nhất tự kim luân, trong tai vẫn nghe mật ngôn, nhưng vừa mở mắt ra thì lập tức có chút giật mình hoảng hốt, bởi vì ngay trước mắt tôi chính là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đang ngồi trên kim cương tọa.
Pháp thân Phật Tổ cao lớn tới tận mây, có mây cát tường che phía trên, toàn thân có kim quang tỏa ra từ các lỗ chân lông, pháp tướng trang nghiêm phi thường. Xung quanh Phật Tổ có Long Thiên Hộ Pháp, trong số đó tôi nhận ra rất rõ ràng là Diệu Âm Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát này chính là vị Đại Bồ Tát thường xuyên hiển hiện để dạy tôi âm chuẩn của chú ngữ. Ngoài ra, trong không trung đầy ắp các thiên thần âm nhạc biết bay, ngồi phía trước đầy kín tất cả các Bồ Tát Thanh Văn, còn tôi thì đang quỳ ở phía trước Phật Tổ. Khi ấy, trong lòng tôi nghĩ, tôi vốn đang ngồi tại Phật đường trong nhà mình cơ mà, sao đột nhiên lại đến được Phật quốc nơi Phật Tổ đang cư trú chứ?
Phật Thích Ca Mâu Ni khẽ mỉm cười, phát ra pháp âm rằng: "Chân không pháp tính như hư không. Thường trụ pháp bảo khó nghĩ bàn. Thân ảnh hiện lên trước pháp bảo. Nhất tâm như pháp quy mệnh lễ."
Thế là, trong lòng tôi sung sướng không sao tả xiết, sự hưng phấn trong tâm không có lời nào nói hết. Tôi lễ Phật tám lạy, nhiễu quanh Phật ba vòng, tất cả đều làm một cách trang nghiêm cung kính. Làm xong, tôi lại quỳ trước Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni lại phát ra pháp âm rằng: "Năng lễ cần lễ tính không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn. Pháp vị của ta như ngọc đế. Bên trong chú pháp đã hiện hình."
Thế là, tôi lại chắp tay đặt trước ngực, hướng về Phật Tổ lạy ba lạy. Thoáng một cái, tất cả đều biến mất, tôi lại ngồi ở trước Phật đường tại nhà mình. Khi ấy, nội tâm tôi trầm ngâm suy nghĩ, đó là sự khích lệ và gợi ý của Phật Tổ dành cho tôi. Bởi vì bốn năm trước, tôi đã phải chịu rất rất nhiều sự phỉ báng và khổ nạn, không chỉ có tà ma ngoại đạo muốn "ăn thịt" tôi, mà ngay cả trong Phật môn, những tu sĩ mà tôi có lòng trân trọng cũng khăng khăng bài trừ tôi, có thể nói tôi đã trở thành cái bia để mọi người bắn tên. Bất kể là họ dùng ngôn từ hay văn chương thì đều là kiểu ghét cay ghét đắng đến mức nghiến răng nghiến lợi, muốn đẩy tôi đến chỗ chết, thậm chí có đại mục sư Chu cũng nói, Lư Thắng Ngạn là đại sứ giả ma quỷ do quỷ Sa Tăng phái đến. Phật môn thì quở trách tôi là tà môn ngoại đạo, thuật sĩ giang hồ thì lại càng chửi bới một cách thiếu suy nghĩ, còn phần tử tri thức thì nói tôi là cách mạng tôn giáo.
Thật ra, việc tôi muốn truyền bá linh học của tôi chẳng hề có suy nghĩ trù tính gì cả, không phải vì danh, cũng không phải vì lợi. Rõ ràng là mạo phạm khiến nhiều người tức giận chứ nào có được cái danh gì? Tôi đóng cửa từ chối tiếp khách, đi thật xa ra nước ngoài, nào có được cái lợi gì? Tôi thuần túy chỉ biểu lộ rõ ràng những giải thích về chính nghĩa, chỉ rõ về xuất thế, nói chuyện nhân quả, giảng giải chân lý, kể về bản tính mà thôi, cũng tức là: "Chúng sinh vô biên thề nguyện độ, phiền não vô số thề nguyện đoạn, pháp môn vô tận thề nguyện học, Phật đạo vô thượng thề nguyện thành."
Tôi mong các học trò của tôi đều có thể niệm, có thể thuộc lòng thần chú Đại Bi viên mãn, bởi vì có thể diệt trừ rất nhiều tội chướng. Vì thế, chí tâm trì tụng, công đức vô tận. Pháp môn trì chú nhìn có vẻ đơn giản, nhưng thật ra cũng không phải dễ đâu. Trước tiên cần phải có lòng kiên trì, ngày ngày trì tụng không gián đoạn, cả đời cả kiếp không gián đoạn, ngữ âm của chú ngữ phải chính xác, phải có pháp sư cao minh hướng dẫn. Trì chú phải phát nguyện, bởi vì có nguyện lực rồi thì mới có công hạnh, hai cái này là nhân quả với nhau.
34. Pháp sám hối và pháp thanh tịnh
Tôi từng có một cơ duyên gặp mặt Hoạt Phật của Tây Tạng là ngài Dalai Lama. Tôi tỉ mỉ quan sát tướng mặt và lời nói, cử chỉ của ngài ấy. Tai của ngài mỏng và không có thịt, không có lỗ tai, mũi hẹp và nhọn, đeo mắt kính, khi nói chuyện thì có thói quen dùng tay đỡ cho mắt kính ở chính giữa, hơn nữa khi giảng đạo thì thân thể ngài hơi đung đưa sang hai bên, nói tiếng Anh rất chậm rãi, vai phải để lộ ra bên ngoài áo cà sa màu đỏ. Tôi chú ý bả vai ngài, mặc dù dày và đầy đặn nhưng rất rõ ràng là ở trên vai có dấu hiệu của bệnh ngoài da. Ngài Dalai Lama dùng vải đỏ để bọc kinh điển lại, khi giảng pháp thì cởi tấm vải đỏ ra, kinh điển chỉ là những tờ giấy, trên đó in đầy chữ Phạn.
Tôi chỉ nhớ Hoạt Phật Tây Tạng Dalai Lama nhắc đi nhắc lại rằng: "Phải sám hối, sám hối là pháp tu trì số một, sám hối là pháp thanh tịnh." Dalai Lama giảng rất nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ một câu này.
Còn nhớ khi tôi sống tại ngôi nhà của tôi ở phường Tân Quang, quận Thái Bình, thành phố Đài Trung, Đài Loan, hàng xóm của tôi là Ấn Thuận Đạo Sư, và bên phải còn có một ngôi chùa gọi là Viện Sám Hối, trụ trì là một ni sư xuất gia. Từng có người bạn hỏi tôi: "Trụ trì đó nhất định là trong quá khứ đã mắc sai lầm, bây giờ mới xuất gia sám hối nhỉ?" "Không đúng." "Vì sao không đúng?" "Nghiệp mà Phật môn nói đến có nghiệp tạo ra trong kiếp quá khứ, hàm chứa rất rộng rất lớn, sám hối nghiệp tội không nhất định là phải có lỗi mới sám hối, mà là sám hối những lỗi lầm đã phạm phải trong kiếp quá khứ, vì nay đã hiểu rõ Phật lý nên mới muốn lần lượt sám hối tất cả." "Những gì đã làm trong quá khứ chúng ta cũng không biết mà." "Chính vì không biết nên sợ rằng chúng ta đã gây ra rồi, cho nên mới cần tu sám hối đó."
Thật ra, chúng ta có thể thử nghĩ mà xem, một đời một kiếp, có việc gì là không sai, Thánh hiền còn có những việc làm sai, có những lúc nói sai, huống hồ là phàm phu này nọ. Nếu mỗi người tự vấn tâm mình, trong thiên hạ, liệu có ai dám tự xưng rằng từng lời nói việc làm suy nghĩ đều hoàn toàn không có sai lầm? Vì thế, tu pháp sám hối chính là pháp số một để thanh tịnh nghiệp chướng. Đó cũng là vì sao trong kinh điển Phật giáo có bái Thủy Sám, bái Lương Hoàng Sám.
Tôi tĩnh tọa trong thiền định. Tôi từng quan sát rất tỉ mỉ ý nghĩ của con người, phát hiện ra mỗi khi con người nảy ra ý nghĩ thì trên đỉnh đầu liền bay lên một thứ gần giống như là "khối bọt khí", ý nghĩ mà phóng khoáng thì bọt khí sẽ to, ý nghĩ hẹp hòi thì bọt khí nhỏ; ý nghĩ bất định thì bọt khí sẽ vỡ, ý nghĩ mà định thì bọt khí sẽ bay lên; ý nghĩ tốt thì bọt khí giống như là ánh sáng, ý nghĩ xấu thì bọt khí sẽ có chất bẩn. Một số người tạp niệm quá nhiều, trên đỉnh đầu trôi nổi rất rất nhiều bọt khí nhỏ, người tu hành đắc đạo thì bọt khí ít, cho dù có bọt khí thì cũng là khí sáng và sạch. Đây chính là luận "bọt khí" mà tôi phát hiện ra.
Thêm nữa, ý nghĩ xấu càng đến càng nhiều thì những bọt khí chứa tạp chất cũng càng nhiều, khi ấy trên đỉnh đầu sẽ xuất hiện một đám khí đen. Còn người tốt thì nhiều ý nghĩ thiện, người tu trì rất tốt thì trên đỉnh đầu có một đám khí trắng, trở thành sự đối lập với đám khí đen. Khí đen bao trùm đỉnh đầu thì trong nhân quả báo ứng chắc chắn sẽ gặp quả xấu, khí trắng bao trùm đỉnh đầu thì trong nhân quả báo ứng chắc chắn sẽ có điều lành đáng chúc mừng, khí trắng càng tăng cường thì sẽ thành những vòng tròn ánh sáng như trên đỉnh đầu của Phật Bồ Tát. Vì thế, người tu hành tuyệt đối không thể tạo ác nghiệp. Không chỉ như vậy, người bình thường cũng cần phải có lựa chọn đúng đắn giữa tà và chính trong suy nghĩ của mình, sự khác biệt chỉ nằm trong một ý nghĩ này vô cùng quan trọng.
Phật môn vốn có văn đại sám hối như sau: "Con và chúng sinh. Vô thủy đến nay. Vì do ái kiến. Tính toán trong lòng. Lại thêm bạn xấu. Không biết tùy hỉ. Một chút điều thiện. Khắp cả tam nghiệp. Tạo bao tội chướng. Dù việc không lớn. Tâm ác khắp nơi. Ngày đêm liên tục. Chẳng hề dừng dứt. Che giấu lỗi lầm. Không muốn ai biết. Không sợ ác đạo. Không thấy hổ thẹn. Gạt bỏ nhân quả. Đủ mọi loại tội. Đều đã gây ra. Thập ác ngũ nghịch. Phỉ báng pháp, người. Phá giới chay tịnh. Phá hoại tháp chùa. Trộm đồ của tăng. Làm bẩn phạm hạnh. Quấy nhiễu nơi ở. Thức ăn của cải. Nghìn Phật xuất thế. Mà không sám hối. Tội lỗi như vậy. Vô lượng vô biên. Vì thế hôm nay. Tin tưởng nhân quả. Mà thấy hổ thẹn. Đã biết sợ hãi. Phát lộ sám hối. Đoạn tâm tương tục. Phát tâm bồ đề. Đoạn ác tu thiện. Chăm ngẫm tam nghiệp. Một chút điều thiện. Niệm thập phương Phật. Có đại phúc huệ. Có thể cứu con. Tu chân ngôn hành. Cùng các chúng sinh. Phát lộ trọng tội. Cầu xin sám hối. Mở ra kiến tri. Chế ngự ngoại ma. Tam nghiệp tinh tấn. Tu nhân tịnh thổ. Bỏ cả thân này. Không còn hứng thú. Quyết định đắc sinh. A Di Đà Phật. Cực Lạc thế giới."
Người tu sám hối niệm văn sám hối này, nếu thật tâm sám hối, tự nhiên sẽ sản sinh ra sức mạnh sám hối, có thể diệt trừ những tội chướng, nhưng nếu người sám hối chỉ làm hình thức lễ tiết vô nghĩa, thể hiện công phu bề ngoài, thì dù sám hối nghìn lần vạn lần cũng không có chút tác dụng gì.
Tác giả được ân sư chỉ dạy, biết được một pháp rất hay, nếu người thật sự sám hối muốn cầu thân tâm thanh tịnh, phải lấy một cái gương mới, ở trước gương niệm 21 biến chú Đại Bi đà la ni, sau đó dùng ngón tay tâm linh sắc nhiếp thanh tịnh. Chọn ngày mồng bảy âm lịch hàng tháng, dùng gương chiếu vào thân của người sám hối, chiếu vào đầu và tim ba lần, niệm: "Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, thiên thủ hộ trì, thiên nhãn chiếu kiến, lệnh sám hối giả nội ngoại chướng duyên tịch diệt, tự tha hạnh nguyện viên thành."
Đối với người sắp chết, phương pháp này có công lực đặc biệt, bởi vì người có ác duyên phải đọa tam ác đạo, có thể nhờ pháp này mà được sinh vào cõi người; bởi vì người có thiện ác tương đương phải sinh vào cõi người có thể nhờ pháp này mà sinh vào cõi trời, pháp thanh tịnh này kì diệu không lời nào kể xiết. Nếu người chết không gặp đúng ngày mồng bảy âm lịch thì có thể chọn ngày mồng một, ngày mồng bảy, ngày mười bốn, ngày hai mốt, ngày hai tám đều được, nhưng tốt nhất vẫn là ngày mồng bảy.
Phương pháp này không chỉ là pháp thanh tịnh, mà còn là diệu pháp chữa những bệnh do nhân quả. Từng có một người toàn thân không có chút sức lực, hoa mắt chóng mặt, lúc lạnh lúc nóng, đi khám tây y nhưng không tìm ra nguyên nhân, đi khám đông y nhưng uống trăm loại thuốc đều vô hiệu, đã khám bao nhiêu bác sĩ nhưng ai nấy đều bó tay. Cuối cùng anh ta tìm đến tôi, tôi vừa nhìn thì hóa ra có một linh hồn bà lão nhập trên người anh. Thế là tôi dùng pháp thanh tịnh ấn ở đầu và tim anh ta ba cái, đột nhiên anh ta hét lên một tiếng, từ đó về sau anh dần dần bình phục. Niệm chú Đại Bi đà la ni vào trong gương, đem gương này chiếu thì ma sẽ bỏ chạy. Chẳng trách trong kinh Phật có nói: Nếu trong nhà có người mắc bệnh nặng, trăm điều kì quái, quỷ thần tà ma, làm loạn cả nhà. Cần thường xuyên sắp đặt đàn tràng trước tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, chí tâm niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, nếu tụng đủ nghìn biến, thì những chuyện xấu kể trên đều bị tiêu diệt, vĩnh viễn được yên ổn.
Năm xưa, ân sư cũng nói với tôi: "Liên Sinh, con sẽ phải chịu sự phỉ báng ác liệt nhất." Tôi hỏi: "Làm sao để hóa giải?" "Con hãy tạc một bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát hay hai tay chắp lại. Bởi vì Bồ Tát hay tay chắp lại để kính lễ, nên tất cả chúng sinh tất nhiên sẽ luôn cung kính mến yêu." "Vị Bồ Tát này tên là gì?" "Chính là Hợp Chưởng Thủ Quan Thế Âm Bồ Tát."
Sau này, đúng như lời của ân sư tôi, tôi đã phải chịu sự phỉ báng khủng khiếp như đào núi lấp biển vô cùng vô tận, nhưng tôi lại không tạc tượng Hợp Chưởng Thủ Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì quãng thời gian mà tôi phải chịu phỉ báng rất dài, ban đầu tôi rất buồn, về sau thì tôi thản nhiên tiếp nhận, đây chẳng phải là sự trơ lì, mà là bản thân tôi không hổ thẹn với trời đất chúng sinh. Bất kể như thế nào, tôi đã học được cách nhẫn nhục chịu đựng, cho dù những lời ác khẩu liên tiếp dồn dập tới mức muốn chết, nhưng tôi vẫn không chết, những sự phỉ báng này thì có gì đáng sợ chứ? Trái lại chỉ lãng phí nước bọt và bút mực của người ta thôi, chỉ khiến trong lòng tôi có đôi chút bất an mà thôi. Tôi thường nghĩ, đối với những người trù yểm tôi, tôi nên thỉnh cầu Bồ Tát hóa giải sự oán ghét trong lòng họ, hơn nữa, tôi lại càng muốn cầu xin Bồ Tát ban cho họ một trái tim nhu hòa. Tôi thường niệm "Brum hum", đây là chú ngữ Nhất tự kim luân, hi vọng hóa lời trù yểm thành công đức của tôi.
Khả năng là vì tôi không tạc tượng Hợp Chưởng Thủ Quan Thế Âm Bồ Tát để thờ phụng, cho nên ngoài việc tiếng tăm của tôi nổi lên như cồn thì tự nhiên cũng sẽ phải chịu những tai bay vạ gió. Do đó, tôi khuyên những người nổi tiếng, vào lúc cây to gặp gió to thì cần thờ phụng Hợp Chưởng Thủ Quan Thế Âm Bồ Tát, để tất cả chúng sinh khi nhìn thấy bạn thì đều ngưỡng mộ và cung kính với bạn, sẽ không đố kị bạn hoặc hãm hại bạn, để trong cuộc đời rối ren phức tạp này tránh khỏi phải chịu những tổn thương vô vọng.
Pháp sám hối đòi hỏi lòng chân thành, pháp thanh tịnh cũng đòi hỏi lòng chân thành, đối với sự phỉ báng cần phải biết "tâm bất động", người tu hành phải chịu phỉ báng là chuyện thường gặp, bởi vì nơi nào có người thì sẽ có thị phi đó!
35. Quán trí huệ thần thông
Còn nhớ đó là mấy kiếp trước, có Đại Phạm Thiên Vương thỉnh vấn tôi: "Liên Sinh, vì sao lại tiết lộ pháp thần thông?" Quan Thế Âm Bồ Tát ở gần đó khen ngợi nói: "Đó là để thuận tiện lợi ích tất cả chúng sinh." Tôi nói: "Thần thông là hữu danh vô thể, vì thế, quán trí huệ thần thông chính là một niệm mà quán được mười, trăm, nghìn cõi giới, diệu pháp nằm ở một niệm, nghìn loại thần thông cũng là như thế, toàn bộ cũng tức là Không." Quan Thế Âm Bồ Tát lại nói: "Thần thông chính là tâm quán Không trong tướng mạo của đà la ni. Tướng mạo đà la ni chính là tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm vô nhiễm, tâm quán không, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm vô tạp loạn, tâm vô thượng bồ đề."
Phật môn không nói về duyên cớ của thần thông, bởi vì pháp thần thông không phải là mục tiêu của người tu trì, vì e rằng nói quá thiên lệch về pháp thần thông thì với người có căn cơ cao có thể hiểu được cảnh giới trí huệ đó, nhưng người căn cơ thấp thì sợ hãi hoặc nghi ngờ thần thông, lẫn lộn đầu đuôi, trái lại còn ngăn chặn chính pháp.
Nhưng chúng sinh ngày nay, mặc dù khoa học phát triển, nhưng từ lâu đã quên hẳn việc tu trì, tâm tham sân si đều nặng, động đến thân khẩu ý không gì ngoài danh lợi, tùy nghiệp mà nhận báo ứng, vạn kiếp nghìn sinh. Nếu không hiển thị thần thông thì không có cách nào xoay chuyển nhân tâm thói đời, nếu không dựa vào phương pháp thần thông thì sao có thể khiến họ lập tức tỉnh ngộ. Có pháp thần thông rồi mà thế nhân vẫn còn lúc thấy lúc quên, không có pháp thần thông thì thành quả cứu độ chúng sinh cũng tương đương với con số 0.
Người có thần thông, con mắt có công dụng chiếu sáng, trên có thể nhìn thấy ba mươi ba cõi trời của mười phương pháp giới, dưới có thể nhìn thấy âm ti địa ngục tam ác đạo, con mắt thần thông này cũng chỉ trong một ý nghĩ là có thể chiếu hiện. Còn tay có thể thành tựu tất cả diệu pháp, có sức mạnh đề bạt, có thể cứu độ tất cả chúng sinh, bàn tay thần thông này cũng chỉ trong một ý nghĩ là có thể chiếu hiện. Còn tai, có thể nghe tiếng kêu cứu khổ, lời nói bí mật cũng biết, lời nói rõ ràng cũng biết, đại pháp diệu pháp đều có thể nghe hiểu, và cũng chỉ trong một ý nghĩ là biết hết. Tâm niệm không rời xa trí huệ, có trí huệ chân thực, thông hiểu mọi cảm nhận. Còn người túc mệnh thì tâm hiện lên cảnh giới trí huệ, giống như bước vào ngôi nhà nhỏ, lần lượt từng cánh cửa đều được mở ra, quá khứ tương lai không có gì là không thể biết. Nếu muốn thần túc, có thể tu quán, chỉ cần ngồi thẳng suy nghĩ, nhập vào nguyên thần vi diệu là tự có thể chu du khắp tam muội, những cảnh giới thần kì đều có hình thể chân thực hiện lên, tất cả đều là thật.
Đối với người có thần thông thì duy có lậu tận thông là tương đối khó! Phải chuyên nhất chỉ quán an trụ trong pháp tính, khiến cho sự vắng lặng và chiếu soi đều hòa tan vào nhau, gọi là tâm bình đẳng, nếu cái trí huệ chưa hiển hiện do ba thứ mê hoặc che phủ, thì phải quán chiếu bản tính Không của thứ mê hoặc này, pháp tính vốn tịnh, không thể bị phá hỏng, gọi là tâm vô vi. Như thế thì trí huệ sẽ do tâm sinh ra, sản sinh ra trí huệ thần thông, tức có thể gọi là vô ngại, mà đã vô ngại thì cũng tức là trí huệ không rò rỉ nữa. Ban đầu tu tướng, sau đó tu vô tướng, vượt ra khỏi tướng và vô tướng thì tự sẽ đắc lậu tận, đây chính là lậu tận thông.
Người thực sự đắc được sáu đại thần thông thì đã siêu phàm nhập Thánh rồi, không phải thường xuyên ngồi thiền định, cũng không thường xuyên làm pháp bát nhã, càng không phải cùng tiến hành công - hạnh, mà lúc này là tùy theo ý của mình mà tam muội. Tùy theo ý của mình mà tam muội nghĩa là không làm không ngồi, trải qua thiện ác cũng không ghi nhớ, không có nhân không có quả, phá vỡ nhân quả.
Tác giả nghiên cứu pháp khởi linh đã nhiều năm, hoàn toàn ý thức được rằng linh động là do thực thể siêu phàm, nhưng khéo vận dụng tinh thần thì tự mình có thể kiểm soát được, đến cuối cùng khi đạo hạnh đã sâu rồi thì linh động cũng có thể do tự mình, sự vận dụng khéo léo tâm thần của mình đều do tự mình khống chế. Phương thức cảm ứng đạo giao này là đầu tiên để cho "tha động", sau đó là "tự động". Mượn cảm ứng để củng cố tín tâm của người tu hành, cũng có nghĩa là trước tiên cho họ tín tâm trước, sau đó thúc đẩy năng lực tu trì. Theo cách này, pháp môn Linh Tiên Chân Phật Tông không thể không thị hiện sức mạnh cảm ứng thần thông ngay từ lúc bắt đầu, tiếp đó là biết được định số của quá khứ tương lai, ấn chứng diệu pháp tha tâm thông, rồi sau đó nhờ phối hợp với cảm ứng của cá nhân mà khiến chúng sinh có được Phật pháp gần gũi. Chúng sinh ngày nay rất nhiều phiền não, bệnh tật đeo bám, gia đình bất hòa, nghèo khổ chồng chất, cản trở đạo lộ tu hành. Vì thế, tôi ứng dụng pháp cảm ứng khởi linh để trừ bỏ vô minh của chúng sinh, trị ác bệnh của chúng sinh, tăng thêm ích lợi cho chúng sinh, hòa hợp tình cảm gia đình, độ chúng sinh như vậy, chúng sinh đều cam tâm tình nguyện hành trì, khiến người người đều thoát khỏi khổ luân, cùng đến được trí địa.
Trong kinh Phật có ghi chép, khi Phật Thích Ca Mâu Ni diễn giảng đại pháp, nếu không phải là do Phật bí mật phóng thần thông, thì là các vị đại Bồ Tát bí mật phóng thần thông, thế nên ánh sáng thần thông chiếu sáng khắp thập phương sát thổ, tam thiên đại thiên thế giới đều được ánh sáng phổ chiếu, toàn bộ đều trở thành thế giới màu vàng kim, thậm chí trên tới tận thiên cung, dưới tới long cung trong biển, cung điện của các vị thần đều chấn động, sông, hồ, biển lớn, núi Thiết Vi, núi Tu Di, thổ sơn, hắc sơn cũng đều chấn động lớn, ánh sáng của mặt trời mặt trăng và các vì sao đều biến mất. Và rồi trong đó có Bồ Tát thấy cảnh tượng hi hữu này, kì lạ chưa từng có, nhất định sẽ từ chỗ ngồi mà đứng dậy, hỏi Phật, những cảnh tướng thần thông này là do nguyên nhân gì.
Lấy kinh Phật để xem xét, lấy Phật Thích Ca Mâu Ni làm ví dụ, đây là một điểm cực kì đặc biệt của Phật điển, đâu đâu cũng chứng minh sự trông ngóng mỗi khi Phật Tổ diễn pháp, cũng có thể xem như là phần mào đầu. Vì thế, cảm giác của tôi là, bản thân Phật Tổ đã dùng thần thông làm phần mào đầu cho mỗi lần giảng pháp, điều này có thể thu hút được sức chú ý của người nghe, phương pháp này của Phật có lẽ là rất hữu ích, có công dụng của tính chất giáo hóa, có thể nhờ thần thông mượn cảnh tượng để tạo nên sức hấp dẫn ngay từ đầu cho việc thuyết giảng. Tôi không ngừng thường xuyên soi chiếu Phật điển, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân, tôi sâu sắc cảm thấy cách làm của tôi không hề xa rời sự chí lí của Phật môn, bản thân đã hết lòng hết sức cam chịu mọi việc. Tôi lương thiện và lại còn phụng sự việc công, thế mà vì sao lại gây nên sự rối loạn và phê phán của giới tôn giáo chứ? Tôi cảm thấy thời kì dùng thần thông thiết lập tôn giáo dường như đã đến rồi, vì muốn chúng sinh lựa chọn thiện ác được mất để làm sự khuyên răn, Phật môn nên mở rộng cánh cửa phương tiện, thương xót lấy thiên hạ, thương xót cho vạn vật không có nơi sinh dưỡng. Pháp môn cảm ứng thần thông liệu có đúng thời gian đúng địa điểm hay không, liệu có giá trị kế thừa và phát triển hay không, là điều đáng để các đại đức Phật môn nghiên cứu bàn bạc, thần thông là một sự biểu hiện hình thái thời đại tương đối nổi bật.
Thật ra, Phật môn Mật giáo nhất định sẽ là vận mệnh hưng thịnh của tương lai, bởi vì khí thế của Mật giáo mang theo tư tưởng thần thông biến động bất ngờ và pháp thuật kì diệu, người lập ra giáo pháp này không né tránh kị húy nói đến thần thông, có một cách xử thế ứng thế hào hùng, kiêm hình tượng xót trời thương dân, sau này rất có khả năng sẽ kế thừa địa vị của Hiển giáo. Vì tôi có thể tiên tri tiên giác, và thực tế là người đầu tiên đề xướng cách thuyết pháp này, nên tự nhiên lại mạo phạm vào đại kị, khiến người ta nghiến răng nghiến lợi, muốn giết muốn hại. Nhưng tôi thì vẫn luôn dửng dưng, có một kiểu tinh thần là coi truyền thống lo lắng cho thiên hạ là trách nhiệm của mình, quả thật là người buồn vui vì đời, cũng là cái chí của quân tử. Trong tương lai, ý thức thần thông sẽ là phong cách cứu độ chúng sinh của Phật môn.
36. Trên đầu hóa Phật thủ
Trong những trải nghiệm kì quái của tôi, có một chuyện cũng vô cùng đặc biệt, đó là khi tôi đọc thấy Phật đích thân sờ đầu thọ kí cho người tu trì, tôi thực sự thấy vô cùng cảm động, cảm thấy việc này thật sự quá ư vĩ đại. Trong cảm giác về sự vĩ đại đó, tôi còn có niềm ước ao, đương nhiên rồi, một cách rất tự nhiên tôi cũng hi vọng bản thân mình có thể tu được đến khi chư Phật mười phương thấy tôi tinh tấn như vậy mà cảm động, và cũng đích thân hiển hiện sờ đầu thọ kí cho tôi.
Tôi cảm thấy việc "thọ kí" cũng tương đương với được Phật Bồ Tát điểm danh vậy, như một sự cổ vũ mà cũng như một sự thành tựu, có thể được chư Phật đích thân đến sờ đầu thọ kí thì đương nhiên bồ đề tâm sẽ không thối chuyển, tương lai đời đời kiếp kiếp không ở trong thai tạng, đời đời kiếp kiếp không rời xa chư Phật, thật là vinh quang biết bao!
Trải nghiệm sờ đầu thọ kí của tôi là như thế này. Có một lần, tôi nhập vào đại định kim cang tam muội, trong định xuất hiện một đóa hoa sen, hoa sen này trôi theo dòng dòng suối mà đến, bông hoa xoay tròn trôi theo dòng suối, lúc chậm lúc nhanh, có lúc thì trôi lướt như tên bắn, có lúc thì như thi nhân một mình nhẩn nha dạo bước. Đóa hoa sen đó là hư ảo, lúc ấy tôi có một ý nghĩ, đóa hoa này từ đâu mà đến, hoa đi tới nơi nào, lẽ nào chẳng đến từ đâu, chẳng đi về đâu, cuộc hành trình trước mắt vốn dĩ mịt mù chẳng thể đoán biết.
Không lâu sau, nước suối chảy vào một cái hồ, có một mùi thơm đặc biệt phảng phất thấp thoáng đâu đây, giống như một tấm lưới mỏng manh, và trong cái hồ này có rất nhiều hoa sen lộng lẫy xán lạn như gấm thêu, giống như những mảnh vàng đầy kín cả hồ, duyên dáng khác thường. Lúc này, tôi phát hiện thấy trên mỗi đóa hoa sen có một người đang ngồi, còn tôi thì cũng đang ngồi trên đóa hoa sen màu mận tím đang trôi đến theo dòng nước. Lúc này chỉ thấy trong không trung có một đám hoa đang rơi xuống, giống như được bắn tung ra vậy, có đủ các màu đỏ vàng xanh, trong đám hoa có một đài hoa sen lớn rất tráng lệ, ngồi trên đài hoa sen chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đài hoa sen này bay lên không trung, ở ngay trên nền đám hoa, hình tượng ấy vô cùng nổi bật.
Lúc này một bầu không khí tĩnh lặng trang nghiêm, cao quý và cổ kính bao trùm, một hồ đầy "người hoa", bất kể là tăng đạo, bất kể là dân thường, có thể nói là ai nấy đều ngước nhìn đầy cung kính và ngưỡng mộ. Cái thiền ý ấy vượt lên trên tất cả âm thanh, trong tay của Phật Thích Ca Mâu Ni nâng một vị Hóa Phật, bỗng nhiên không rõ là hữu ý hay vô ý mà nét mặt Phật tươi cười. Lúc này, lòng tôi cũng mông lung và hoang mang, Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Nam Thiệm Bộ Châu có một người tu trì là Liên Sinh, sống với cái tâm chính trực như pháp, linh tiên pháp của người này đã khiến cho chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề, nay ta đặc biệt sờ đầu thọ kí."
Lúc này, Phật Thích Ca Mâu Ni vươn dài cánh tay, một tay xoa lên đầu tôi, tay kia đặt vị Hóa Phật lên trên đỉnh đầu tôi. Khi một cánh tay của Phật sờ đầu tôi, đầu tôi giống như nổ "oàng" một tiếng vang lớn, rồi đầu tôi giống như bắn tung ra, từ trong đầu tôi cũng nhô ra một cánh tay, vị Hóa Phật của Phật Thích Ca Mâu Ni nằm gọn trong cánh tay vươn ra từ trong đầu tôi. Hai tay tôi vốn đang chắp lại, ngồi trên hoa sen màu mận tím, và trên đỉnh đầu có một cánh tay vươn ra, nắm chắc lấy vị Hóa Phật mà Phật Thích Ca Mâu Ni ban cho, hình tượng ấy không bao giờ phai mờ, vĩnh viễn tôi không thể nào quên. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Thiện tai! Thiện tai! Đỉnh đầu hóa Phật thủ, bậc thiền định đệ nhất, sờ đầu thọ giới định, sẽ đi về pháp tính."
Tôi cung kính lễ bái Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó xuất ra khỏi đại định kim cương tam muội. Đây chính là trải nghiệm được Phật Thích Ca Mâu Ni sờ đầu thọ kí của tôi, hôm nay tôi viết ra đây mà vẫn còn cảm thấy sự việc vẫn còn vô cùng sống động trong tâm trí tôi. Trên thế giới này có vô cùng nhiều những cao tăng và Hoạt Phật tu trì, và cũng không biết có bao nhiêu cư sĩ cao cấp ẩn cư thoát ly thế tục. Trong con mắt của những cao nhân, trải nghiệm sờ đầu thọ kí của tôi đương nhiên chỉ là ngồi trong giếng mà quan sát mà thôi, trên đầu hóa Phật thủ của tôi là cái gì chứ. Đương nhiên tôi cực kì hi vọng được các cao tăng cao sĩ chỉ điểm, vì cá nhân tôi chỉ là đọc thấy trong kinh Phật nói về sờ đầu thọ kí, thật sự không biết thập phương chư Phật sờ đầu thọ kí cho những người tu trì là pháp sờ đầu như thế nào, chỉ hi vọng rằng những cao tăng cao sĩ đã từng được thập phương chư Phật sờ đầu thọ kí sẽ viết ra những trải nghiệm của bản thân để người bình thường biết được rằng lời của chư Phật thật sự không phải hư giả, có được ấn chứng rồi thì lại càng có thể thúc đẩy tâm tinh tấn tu trì.
Đối với thiền định, tôi có mấy điều tâm đắc, xin kể ra như sau:
Thứ nhất, quá trình phát triển của thiền định là một quá trình sinh trưởng, nó vốn có tính chất riêng của sinh mệnh vô cùng tận, không ngừng tiếp nhận ảnh hưởng của những kiếp trước, nhưng đồng thời cũng không ngừng sáng tạo thêm cái mới, không ngừng rũ bỏ nghiệp chướng, không ngừng tăng trưởng Phật trí, lại cũng không ngừng sản sinh ra những nhân quả mới trên nền nhân quả cũ, trong sự biến hóa đó liên tục tích lũy lại bản tính vững bền. Đó chính là quá trình biến hóa của thiền định, tôi tự cảm thấy cách nói như vậy là vô cùng thích hợp rồi.
Thứ hai, thiền định là sản phẩm kết tinh của hoạt động tâm linh cá nhân, có tính hệ thống đối với sự phát sinh lĩnh ngộ và tiếp nhận ảnh hưởng từ các kiếp quá khứ, là do tự ngã sinh ra và tự chủ, gốc rễ của nó nằm trong ngọn nguồn sinh mạng, liên tục phát triển cho đến sự khai hoa kết quả sau này. Nếu người tu trì chịu phản tỉnh và thành thật thì hoạt động tâm linh sẽ càng ngày càng cao cấp, năng lực tự sinh và tự chủ càng mạnh, sự kết tinh của nó cũng càng ngày càng quý giá. Ví dụ, tác giả đã công khai trải nghiệm "trên đỉnh đầu hóa Phật thủ" trước các độc giả, kinh nghiệm này được viết ra trong sách là rất hiếm, có thể xem như xưa nay chưa từng có, chỉ mong sau này còn có những người khác nữa.
Thứ ba, phương diện phát triển của thiền định rất rộng, sự lĩnh ngộ bên trong của nó rộng lớn như trời đất, trời rộng vô biên, thiền định cũng rộng vô biên như thế. Có một điểm đặc biệt quan trọng, đó là sự phản tỉnh càng tinh vi thì đối với phẩm cách và sinh mệnh của bản thân lại càng có sức mạnh phát tỏa ra, sinh mệnh dẻo dai, ý thức siêu hình càng mạnh. Chúng ta cần phải hướng ra ngoài để hấp thu trí huệ và kinh nghiệm trên phương diện này, chỉ có đạo lý cực kì tinh vi mới có thể khiến bản thân nâng cao lên đến được cảnh giới của Phật Bồ Tát. Ngồi thiền một cách lơ đễnh cẩu thả thì không sản sinh ra được sức mạnh, nếu lĩnh hội nhân sinh không đủ sâu, phương diện phát triển thiền định cũng sẽ rất có hạn.
Thứ tư, bất kể bạn là tăng nhân, cũng xin nghe tôi nói như thế này, có người tu thiện hạnh, có người trì mật chú. Tuy thế, nếu không tu hành thiền định chỉ quán, dĩ nhiên sau này nhân quả vẫn sẽ rất tốt, tướng mạo viên mãn, cầu gì được nấy, có được phúc báo của thiên nhân, nhưng mà, lơ là thiền định tam muội cực quảng đại, cực tinh vi này thì bạn vĩnh viễn vẫn chỉ loanh quanh trong nhân quả họa phúc mà thôi, bạn không có duyên với đại định kim cương tam muội, không có cách nào có được quả vị ở cảnh giới thượng phẩm của Phật Bồ Tát. Giá trị tu hành có sự khác biệt cao thấp giỏi kém, điểm này vô cùng quan trọng.
Thứ năm, càng nhập vào kim cương tam muội nhiều thì sức mạnh tự chủ càng mạnh, đặc tính sẽ càng rõ ràng, sức sống càng bền bỉ dẻo dai. Sự quấy nhiễu đến từ âm ma bên ngoài sẽ càng ngày càng yếu, cho đến mức độ mà âm ma không có cách nào quấy nhiễu được nữa thì thiền định xem như là đã chín muồi rồi. Nghiệp chướng kiếp trước toàn bộ đều đoạn trừ, đến được cảnh giới này đã xem như là siêu phàm nhập Thánh rồi. Ngược lại, tha lực càng mạnh thì lực tự chủ càng yếu, mặc dù có thiền định nhưng nếu bị ma quấy nhiễu thì cũng ngẩn ngơ chẳng hề biết.
Thứ sáu, thiền định tâm linh của con người đại thể bao gồm ba phương diện trí huệ, ý thức, Không quán. Ba nhân tố này trở thành sức mạnh đan xen lẫn nhau, nhưng sự mở rộng của thiền định thì mọi lúc đều chịu ảnh hưởng của môi trường sống thực tế. Vì vậy vì hoàn cảnh sống khác nhau, đối với mỗi loại nhân tố phiền não, kích thích, đau khổ của hoàn cảnh sống phải giảm nhẹ được chúng xuống mức độ thấp nhất, hơn nữa còn phải điều chỉnh cho cân bằng. Đối với mặt thiên lệch thì phải tu chính, nếu sai lệch về mặt ý chí và tình cảm thì cũng phải chú ý cân đối, hoàn cảnh khác nhau, tâm thái khác nhau, cần có người thầy tốt hướng dẫn từng cái mới có thể thành công.
Thứ bảy, muốn thúc đẩy tâm thiền định thì phải sửa cho đúng những chỗ bị thiên lệch, người hướng dẫn phải thuận theo tự nhiên mà dẫn nước vào kênh, giống như Đại Vũ khơi thông trị thủy vậy. phải khơi gợi cho người học thừa nhận giá trị của thiền định, chỉ ra phương pháp chỉ quán của họ đúng hay sai, từ cấp độ của cảnh giới và sự tự nhiên của tâm thái mà có thể nhìn rõ tinh thần của người tu trì.
Thứ tám, cần có niềm tin kiên định vào thắng lợi, có sự tinh tấn bền bỉ, bởi vì thiền định là trải qua tôi luyện trong sự phấn đấu trường kì một đời một kiếp mà trưởng thành, chứ không phải là một ngày, một tháng hoặc một năm là có thể thành công. Đặc tính của thiền định chính là sự bền lòng, mặc dù huệ căn của mỗi người đều có sự khác biệt không giống nhau, nhưng có tâm bền bỉ là yếu tố cơ bản của thành công. Nếu thành công, lúc đó năng lực lĩnh ngộ sẽ cực kì đáng kinh ngạc, có thể khắc phục được hoàn cảnh khó khăn. Lúc đó hoàn cảnh khó khăn không có cách nào trói buộc được hành giả thiền định, vì thế cho dù là hổ dữ có đứng trước mặt thì tâm hành giả thiền định vẫn hiện lên ánh sáng cát tường, cũng có thể hóa hung ác thành tốt lành, khiến hổ dữ khuất phục mà rời đi.
Thứ chín, bởi thiền định là do tâm linh cá nhân khởi đầu, do vậy mỗi người đều có khuynh hướng và cảnh giới thiền định riêng, vào những thời kì khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, minh sư khác nhau, dưới sự lĩnh ngộ khác nhau, kết quả thiền định của mỗi người tự nhiên sẽ khác nhau. Kinh nghiệm của bản thân tôi là, vào lúc tất cả ma nạn hóa thành vô hình, khi tất cả chướng ngại đều được quét sạch sẽ, ấy là lúc vinh quang của thiền chói lọi lóa mắt nhất, nhưng tới khi tất cả đều thuận rồi thì trái lại, biểu hiện lại rất phẳng lặng mờ nhạt. Mỗi khi trải qua một lần khảo nghiệm tất sẽ nâng cao thêm một bước, phương hướng thiền định cũng sẽ tự mình điều chỉnh và thích ứng.
Thứ mười, trí huệ của thiền phải tiếp nhận và tiêu hóa hai quá trình, khi lĩnh ngộ được chân lý thì phải ghi chép lại khi có thể, người có căn cơ, người có sự dẻo dai sẽ có được sự giúp ích hơn. Ngược lại, nếu tùy tiện đọc những cuốn sách về thiền mà không có cách nào tiêu hóa được chúng - những văn tự thiền cố làm ra vẻ huyền bí, thì trái lại sẽ nhập vào thiền ma, chẳng giúp ích gì cho thiền định chân chính.
37. Tâm là tấm gương sáng
Câu kệ "thân là cây bồ đề, tâm là tấm gương sáng" của thượng tọa Thần Tú nói về cái Có, còn câu "thân chẳng phải bồ đề, tâm chẳng phải gương sáng" của Lục Tổ Huệ Năng là nói về cái Không, cả hai người họ đều có sự vẻ vang của riêng mình, người trước là bậc thanh đức thuần phác, người sau thì chẳng hề nương dựa vào thứ gì.
Kì thực, nếu con người có thể tu trì đến khi "tâm là tấm gương sáng" thì có thể nói là đã chẳng phải phàm phu rồi, phải biết rằng sở dĩ tác giả có thể biết trời biết đất biết người biết linh chính là dựa vào "tâm là tấm gương sáng", đã có bản lĩnh "tâm là tấm gương sáng" thì đã có thần thông rồi. Thần thông này cũng chính là tha tâm thông, là túc mệnh thông, là thiên nhãn thông, là thiên nhĩ thông, trên trời dưới đất không gì là không biết, biết hết mọi thứ.
Khi một người đang thiền định, mở rộng hoàn toàn tâm mình, tâm giống như tấm gương sáng, thế rồi khi người đó chuyển niệm lực muốn gặp Thiên Đế của Đế Thích Thiên, Thiên Đế liền xuất hiện ở trong tấm gương sáng, muốn nhìn thấy tây phương Cực Lạc thế giới, tây phương Cực Lạc thế giới liền xuất hiện trong tấm gương sáng, muốn nhìn thấy cõi ngạ quỷ ở địa ngục thì ngạ quỷ địa ngục sẽ xuất hiện trong tấm gương sáng, tất cả hữu hình hữu tướng hữu âm hữu hành làm sao mà không thật chứ? Bất kể là một kiếp trước, mười kiếp trước, trăm kiếp trước của bản thân đều lần lượt hiện lên trong tấm gương, muốn thấy kiếp trước của người khác, quá khứ tương lai của người khác thì cũng lần lượt hiện lên trong tấm gương sáng. Đây chính là thần thông của thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mệnh. Vì vậy, tâm linh hoàn toàn mở rộng chính là khi tâm cảnh hiện lên rõ rệt, tâm là tấm gương sáng chính là cảnh giới thần thông.
Đôi khi, vào lúc tâm linh hoàn toàn mở rộng, không hề có một ý nghĩ nào, thì những chỉ thị tâm linh của Phật Bồ Tát liền xuất hiện trong tâm gương, đây chính là bát nhã, chính là trí huệ. Trải nghiệm của tác giả là: tôi coi lòng bàn tay mình như tâm gương của mình, niệm lực của tôi nhớ đến một người nào đó, thế là trong lòng bàn tay liền xuất hiện hình dáng của người đó, nếu hỏi về vận mệnh của người này thì trong lòng bàn tay sẽ chỉ ra quá khứ tương lai của người này, các ngón tay sẽ tự động nhảy múa ra kí hiệu, từ đó mà tôi biết được người này vận mệnh tốt hay xấu, tôi gọi phương pháp này là "gập ngón tay thần toán". Cá nhân tôi vận dụng phương pháp "gập ngón tay thần toán" mà tôi chưa chính thức công khai, vốn đã phục vụ chúng sinh trong thiên hạ suốt mười năm rồi, những điều sâu xa huyền diệu trong đó thật sự là nhiều vô cùng. Có người hỏi tôi, ngón tay thật sự có thể tự động nhảy múa sao? Tôi thật lòng thật sự nói rằng, tuyệt đối không phải là nói dối, hôm nay Lư Thắng Ngạn này thật lòng thật sự kể với độc giả không một lời nào giả dối, tất cả đều là thật, đặc biệt là thủ ấn của tôi, bất kể là Đại Viên Mãn hay Đại Thủ Ấn, đều là do Phật Bồ Tát mật truyền, Phật Bồ Tát sẽ nhân lúc tôi tĩnh tọa mà tự động làm cong gập các ngón tay tôi, hai tay biến hóa với các ngón tay tự động kết thành thủ ấn, thủ ấn của tôi hoàn toàn là đích thân Phật Bồ Tát hướng dẫn mà thành, không hề mảy may giả dối.
Sự lĩnh hội năm xưa và sự phấn kích khi viết sách đã làm dậy lên những cơn sóng cực lớn trên mọi phương diện của cả nền văn hóa tôn giáo cận đại, bởi vì đó là cảnh giới mà tôi đã trải nghiệm qua nhưng nhân loại chưa từng trải qua. Trong thời đại khoa học, tôi bị coi là kẻ kì dị quái đản không thể tin tưởng, có người còn hiểu lầm rằng thần kinh tôi có vấn đề. Còn tôi thì hết lần này tới lần khác sâu sắc phản tỉnh bản thân, đây chính là "tâm là tấm gương sáng" đó!
38. Pháp đà la ni
Pháp đà la ni chính là pháp chân ngôn, là do Phật thuyết, giờ đây, vì lợi ích tất cả chúng sinh, tôi đặc biệt thuật lại như sau:
Pháp vợ chồng hòa hợp:
Tất cả các cặp vợ chồng bất hòa trong thiên hạ, mười thì tới chín trường hợp là vợ chồng kết hôn vốn là kẻ thù của nhau do oan nghiệp kiếp trước, có người thì cả đời cãi nhau, có người thì đầu giường cãi nhau cuối giường làm lành, nhưng duyên chưa hết. Càng nghiêm trọng hơn là chạm mặt nhau là đỏ con mắt, nhìn nhau như kẻ thù, hận là không thể xẻ thịt lột da người đó. Đương nhiên cũng có vợ chồng là đến để đền ơn, do thiện nghiệp kết thành thì sẽ tương đối ân ái, nhưng vợ chồng ân ái được lâu dài cũng không nhiều, đại bộ phận là lúc mới đầu thì ân ái, nhưng về sau thì bất hòa.
Nếu gặp tình hình như vậy, vợ chồng bất hòa với nhau như nước với lửa, có thể lấy lông của chim uyên ương mỗi con một cái lông, đặt trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát để thờ phụng, mỗi ngày chắp tay thắp hương niệm chú Đại Bi đà la ni mười biến trăm biến bất kể số lượng, niệm cho đến khi đủ 1080 biến, lấy lông chim uyên ương mang theo người, thế thì tình cảm vợ chồng sẽ dần dần khôi phục, hai người cả đời thương yêu tương kính lẫn nhau.
Ngoài ra còn có một cách nữa, bởi vì lông uyên ương không dễ kiếm được, nên có thể lấy khăn tay mà vợ chồng đã dùng qua mỗi người một cái, ở bốn góc cùng thắt bốn cái nút chết, sau khi giặt sạch, cùng đem thờ cúng trước Quan Thế Âm Bồ Tát, niệm 1080 biến chú Đại Bi đà la ni, sau đó vĩnh viễn đem theo khăn tay bên mình, vợ chồng cũng sẽ yêu thương tương kính. Lông chim uyên ương có công hiệu lớn, nhưng nếu không thể tìm được lông chim uyên ương thì dùng khăn tay để thay thế cũng được.
🌟
Pháp trừ bỏ nỗi sợ:
Có rất rất nhiều người, người lớn hay trẻ con cũng đều như vậy, rất dễ sợ hãi, trẻ con hơi một tí là cho đi "thu kinh" [ ND: một hình thức gặp kê đồng làm pháp tâm linh để trẻ con hết sợ hãi ], người lớn thì cứ đến buổi đêm là hãi hùng khiếp vía, lo sợ bất an, tình huống người dọa người rất nhiều, ban đêm một mình không dám đi ngoài đường, tầng hầm ở ngay trong nhà cũng không dám xuống. Những người như vậy lấy một sợi chỉ trắng, thờ cúng trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, niệm chú Đại Bi đà la ni 37 biến, sau đó thắt 21 cái nút trên sợi chỉ rồi đeo sợi chỉ trắng này trên cổ mình như đeo vòng cổ, như thế thì cái tâm sợ hãi sẽ tự động được tiêu trừ. Từ đây trẻ con sẽ không phải thu kinh nữa, đi đường ban đêm sẽ không sợ hãi nữa.
Pháp trì chú lên sợi chỉ trắng để phá bỏ nỗi sợ này còn có một công dụng khác nữa. Dùng sợi chỉ thắt nút đeo trên cổ thì người này quá khứ đã phạm vào những tội ác gì cũng có thể được giảm nhẹ hoặc tiêu trừ. Vì thế, pháp trì chú lên sợi chỉ trắng để trừ bỏ nỗi sợ này cũng là một trong những pháp để diệt tội.
🌟
Pháp phá bỏ bùa chú giáng đầu:
Khắp thiên hạ có rất nhiều pháp sư dùng pháp thuật tà ác, ví dụ ác pháp sư của Mật tông Hắc giáo, chú thuật trù yểm giáng đầu ở quần đảo Nam Dương, "tán ma pháp" ở vùng núi Đài Loan, chú thuật cúng tế của người Indian ở Mỹ, "phù A Lộ" ở Đại Lục Thượng. Pháp thuật mà các ác pháp sư này sử dụng đều là hại người. Phương pháp phá trừ của chúng ta cần phải xem họ dùng những tà vật nào, có pháp sư thì dùng mèo, dùng ếch nhái, dùng cá, dùng rắn, dùng rết, v.v…
Lấy một ví dụ để nói, nếu bị dùng mèo hạ bùa chú thì phải lấy một cái xương mèo đem đốt thành tro, dùng đất sạch trộn lẫn với tro xương mèo thành một đống, sau đó dùng đất này nặn thành một hình mèo, đem cúng trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, sau đó lấy một con dao mới bằng thép không gỉ, cũng đem cúng trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, chắp tay lại niệm một biến chú Đại Bi đà la ni, lấy dao cắt vào hình con mèo bằng đất một khúc, tổng cộng niệm 108 biến chú thì cắt 108 khúc. Làm theo cách này, người bị bỏ bùa lên mèo, nếu mắc phải bệnh hiểm nghèo thì tự nhiên sẽ dần dần bình phục. Dùng ếch, rắn, cá, rết, muốn giải trừ những ác chú trù yểm hoặc bùa giáng đầu thì phương pháp làm cũng giống như với mèo.
🌟
Trừ oan gia đối địch:
Theo như tôi biết, nhân gian vốn là thế giới hỗn loạn bất an, tiểu nhân ở đâu cũng có, người có tâm địa hẹp hòi thì thích mưu hại người khác, những tính toán mờ ám tầng tầng lớp lớp, quân tử khó tránh khỏi bị hãm hại. Đặc biệt là phụ nữ có tướng mạo trán nhô cao, mặt phẳng, tướng giống đàn ông thì đều là tướng mạo của người phụ nữ có tâm ác độc nhất, họ có lòng dạ hẹp hòi, ngày đêm có tư tưởng mưu hại người khác, loại người này không thể không đề phòng.
Lấy đất sạch, hoặc bột mì, hoặc sáp, nặn thành hình tượng của đối phương, trên tượng đó viết bát tự ngày tháng năm sinh của đối phương, đem bức tượng này cúng trước Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng dùng dao mới làm bằng thép không gỉ niệm chú Đại Bi đà la ni, niệm xong một biến thì đọc một lần tên của đối phương, rồi dùng dao cắt một phần vào bức tượng đối phương, tổng cộng niệm 108 biến, sau đó đem đám đất đó ném vào trong lửa để đốt. Sau khi bạn làm pháp này thì đối phương rất nhanh chóng sẽ thay đổi cách nhìn về bạn, không những không làm hại bạn nữa mà ngược lại còn cực kì cung kính đối với bạn.
🌟
Trừ tai họa trong nhà:
Từng có một gia đình đêm hôm tới tìm tôi, kể cho tôi về tai họa trong nhà, người cha bị tai nạn giao thông nằm trong bệnh viện, chị gái thì gặp tai nạn máy bay, em trai bị u ác phải mổ, người mẹ bị bệnh tăng nhãn áp sắp mù, em gái thì tâm thần thất thường, cả nhà lớn nhỏ không mắc bệnh thì gặp họa, không trừ một ai.
Tôi bảo người đó rằng lấy cành cây lựu tổng cộng 1080 đoạn, ở hai đầu mỗi đoạn bôi mật ong, cứ niệm một biến chú Đại Bi đà la ni thì đốt một đoạn cành lựu, cứ như thế tổng cộng đốt 1080 đoạn cành lựu, tổng cộng niệm 1080 biến chú. Nói ra cũng rất kì lạ, người cha nhà đó vốn dĩ bị tai nạn hôn mê, thế mà rất nhanh đã tỉnh lại, người em trai cắt bỏ u ác cũng thuận lợi, người mẹ bị bệnh tăng nhãn áp cũng đã kiểm soát được rồi, càng kì lạ hơn là, em gái hoàn toàn khỏi bệnh, bản thân người đó bị bệnh đau đầu cũng không uống thuốc mà khỏi. Sự ảo diệu của pháp đà la ni thật sự là vô cùng vô tận. (Pháp này phải làm trước tượng Phật Bồ Tát.)
🌟
Pháp trị ma:
Trong nhà bình thường không thanh tịnh, nếu có linh vật quấy phá, hoặc trong nhà có ma tụ tập, muốn đuổi chúng ra khỏi nhà, lấy 77 khúc cây có mấu, mỗi khúc cây lại bôi mật ong lên đó, ở trước tượng Đại Bi Quan Thế Âm, niệm một biến chú Đại Bi đà la ni, rồi ném một khúc cây vào trong lửa đốt, niệm xong 77 biến thì cũng là đốt hết 77 khúc cây, từ đó trong nhà sẽ trở nên thanh tịnh, ma quỷ không dám đến nữa.
🌟
Thuật dùng ma:
Loài ma quỷ cũng có phân loại thiện ác, ma không nhất định đều là xấu, ma cũng có thần thông, ví dụ chính là pháp nhĩ báo, người theo nghề tướng mệnh nếu biết cách dùng ma chắc chắn sẽ linh nghiệm chuẩn xác, so với bát tự, tướng mặt, tướng tay, nắn xương, đoán chữ, bốc quẻ của thuật sĩ giang hồ thì càng linh ứng hơn, chắc chắn sẽ gây chấn động toàn thế giới, xa gần đều biết tên. Nếu không dùng năm thuật thần thông của ma mà muốn tướng thuật chuẩn thì đều là xấp xỉ tàm tạm mà thôi, còn muốn thông linh sâu thì không dùng đến ma không được.
Muốn sai khiến ma quỷ phải lấy một hoặc năm cái đầu lâu ở nơi hoang dã, ngũ quỷ tượng trưng cho ngũ quỷ thuật, rửa sạch, ngồi xuống trước Đại Bi Quan Thế Âm, sắp đặt hương án, cầu nguyện Đại Bi Quan Thế Âm, nó rõ rằng muốn dùng ma để giúp người, mỗi lần niệm bảy biến Đại Bi đà la ni, khi niệm chú thì phân thành thượng cúng và hạ cúng, thượng cúng là để cúng Quan Thế Âm Bồ Tát, hạ cúng là để cúng cho đầu lâu, cúng phẩm thì dùng các loại hoa thơm và đồ ăn thức uống, ngày ngày đều làm như vậy.
Đến ngày thứ bảy thì ma quỷ chắc chắn sẽ đến hiện thân, sẽ thấy trong giấc mơ ban đêm, hoặc thấy ở đầu giường, về sau vào ban ngày cũng có thể thấy. Cúng phẩm phải có hàng ngày không gián đoạn, có bất kì tin tức gì ma quỷ tất sẽ thông báo trước, ví dụ ngày mai có người nào đến xem tướng, cũng có thể dự đoán tiên tri. Người có thể sai khiến được ma quỷ thì đôi bên phối hợp với nhau, xem tướng mệnh không có chuyện không chuẩn. Người có thể dùng ma quỷ đến mức tinh vi thì chính là bậc tiên tri tiên giác.
Tác giả thừa nhận trong quá khứ có một quãng thời gian, tôi cũng là người sai khiến ma quỷ, ma quỷ để cho tôi sai phái, nhưng tôi cũng kính trọng bọn họ, vì thế mà việc xem tâm linh của tôi gây chấn động, một ngày khách đến xem tới trăm người nghìn người mà không có sai sót gì, không gì khác mà chính là nhờ pháp nhĩ báo của ma quỷ mà thôi. Đối với những người tự xưng là xem bói cực chuẩn là dùng quỷ thuật, là những chiêu trò giang hồ, tôi nhìn là biết ngay. Thuật tướng mệnh, tướng thuật dùng pháp sai khiến ma quỷ là cao cấp nhất, các pháp xem bói khác thì tôi cảm thấy chỉ là suy lý và quy nạp mà thôi. Thuật dùng ma quỷ chắc chắn sẽ khiến cho người ta giương mắt ra nhìn, bởi vì nhĩ báo của ma lợi hại đến mức tối qua bạn làm gì họ đều biết, trong lòng bạn nghĩ đến chuyện gì họ lại càng biết.
Về sau, Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ thị cho tôi rằng, dùng pháp sử dụng ma quỷ lâu ngày không có ích lợi gì đối với việc tu trì của tôi, kiếp sau sẽ lại theo nhân quả, tôi sẽ chuyển thế thành đại lực quỷ vương, trở thành thủ lĩnh của tất cả ma quỷ, hoặc là trở thành đô giám sứ của ma quỷ lang thang. Thế là Bồ Tát ra chỉ lệnh yêu cầu sứ giả của Tứ Thiên Vương của Tứ Thiên Vương Thiên đi theo tôi, vì thế nên bây giờ tôi sai khiến không phải là ma quỷ mà là sứ giả của Tứ Thiên Vương. Đó là một trải nghiệm ngày xưa của tôi.
🌟
Pháp trừ bỏ cổ độc:
Trước kia ở Trung Quốc Đại Lục, ở khu vực Miêu Cương Vân Nam đều có người dùng cổ độc, đây cũng là một giáo phái, gọi là Tây Lạp Giáo. Cổ độc cần có một khoảng thời gian nhất định để phát tác, có khi là một năm, có khi là ba năm, phải lập tức uống thuốc giải độc mới có thể cứu được. Độc phát ra sẽ chết, sâu độc ăn vào tim thì cực kì đáng sợ. Các phần tử dã tâm vì muốn khống chế thuộc hạ nên thường xuyên sử dụng cổ độc, cái tâm ấy của họ thật sự đáng hổ thẹn, và cũng có những người phụ nữ dân tộc Miêu thích người Hán đã sử dụng cổ độc để kiểm soát đàn ông, tránh cho họ không thay lòng đổi dạ mà bỏ đi. Loại sâu độc nổi tiếng nhất là kim tuyến cổ, xà cổ, ngô công cổ.
Nếu bị cổ độc làm hại, mau lấy long não hương và an túc hương chia phần đều nhau, hòa vào một lít nước giếng rồi đem sắc cho đến khi chỉ còn nửa lít, sau đó cúng trước tượng Đại Bi Quan Thế Âm, niệm chú Đại Bi đà la ni 108 biến rồi uống, như thế cổ độc có thể được đẩy ra ngoài.
🌟
Trừ ma xung sát:
Có rất nhiều người mắc bệnh lạ, bác sĩ kiểm tra không tìm ra nguyên nhân, thì luôn luôn là do đã bị ma khí nhập vào người. Tôi biết không ít người mắc phải hiện tượng này, ví dụ như đưa tang đám ma lên đỉnh núi, sau khi trở về thì phát sốt không thuyên giảm, người tham gia tang lễ bị xung phạm thì đi khám sẽ không tìm ra nguyên nhân, còn người bệnh thì trong lòng khó chịu muốn chết, đau đớn muôn phần.
Cần mau lấy an tức hương đặt trước tượng Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, niệm chú Đại Bi đà la ni 37 biến, niệm xong thì ở bên cạnh người bệnh đốt cho họ ngửi xông mũi, làm như vậy thì người bệnh rất nhanh chóng sảng khoái tinh thần, ma khí sẽ được giải trừ. Phương pháp chữa trị căn bệnh này của thế tục là lấy chân hương sau khi trở về nhà thì cho vào trong nước để tắm gội. Có người thì dùng sợi gai và muối hạt đun lên với nhau để tắm. Nhưng những phương pháp này đều không bì được với phương pháp dùng an tức hương, làm được như thế thì càng nhanh chóng có hiệu quả. Điều cấm kị của phương pháp này là cấm ăn thịt trong ba ngày, lưu ý khẩu nghiệp, không được mắng chửi lung tung.
🌟
Diệu pháp phụng thỉnh thiên thần:
Có nhiều người khởi linh, nhưng do sự liên hệ nghiệp chướng mà khởi linh đều không thấy gì, thiên thần không đến, vậy phải làm sao? Họ hỏi tôi, tôi dạy họ đến hiệu thuốc mua hai lạng ngưu hoàng, sau đó bỏ vào bình thủy tinh, đặt trước tượng Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, niệm chú Đại Bi đà la ni 108 biến.
Mỗi lần khởi linh thì chạm bình thủy tinh đựng ngưu hoàng này lên trán, rồi quét một lượt khắp toàn thân, cánh tay và chân, thiên thần nhìn thấy sẽ nảy sinh tâm yêu thích mà đến. Và như thế, thiên thần sẽ theo lời thỉnh cầu của bạn mà xuống. Làm như vậy khởi linh nhất định sẽ thành công.
Nếu có người tự nhận là không hề có đức hạnh gì thì e là rất khó thỉnh thiên thần đến, có thỉnh họ cũng không đến, hoặc thỉnh cả buổi e rằng chỉ thỉnh được ma quỷ tới, dùng diệu pháp phụng thỉnh thiên thần này thì tất cả thiên thần đều nhìn thấy, trong lòng hoan hỉ, chắc chắn sẽ đến. Ngưu hoàng dùng làm pháp một lần có thể dùng lại nhiều lần.
🌟
Pháp và chú trừ ma:
Pháp và chú ngữ trừ ma của Phật môn rất nhiều, so với Đạo gia thì cũng tương đương, trong cõi vô hình đã có rất nhiều hiện tượng trùng hợp với nhau. Phần lớn ma thuộc về âm, do vậy mới gọi là âm ma, Đạo gia thì do Thái Dương Tinh Quân dùng ánh sáng mạnh để phá trừ ma, còn Phật môn thì do Nhật Quang Bồ Tát đến đến phá trừ. Ngoài ra, Đạo gia dùng Lôi quyết để phá ma, Phật môn dùng tiếng gầm sư tử để phá ma. Những phương pháp này thật ra không có sự khác biệt lớn, có thể thấy mặc dù Phật và Đạo không giống nhau, nhưng kì thực lại hiệu quả vi diệu như nhau.
Nhật Quang Bồ Tát có một chú ngữ là: "Nama buddha kunami, nama dharma mahati, nama samgha tayani, tirabuvi satvadam nama." Nếu ở trước Phật tụng một câu chú này, lạy Phật một lạy, thì Nhật Quang Bồ Tát sẽ hộ trì cho người này tu hành, phóng ánh sáng chiếu đến người này, tất cả ma chướng không thể xâm phạm, cũng có nghĩa là bạn đi đến nơi nào thì ánh sáng mặt trời cũng chiếu đến nơi đó, khiến cho ma không có chỗ trống nào mà nhập vào.
Theo như tôi biết, người bình thường nếu chê tu hành quá khó khăn, tốn thời gian tốn sức lực, cảm thấy chi bằng cứ yên yên ổn ổn mà đi làm một người giàu có là được rồi, thế nhưng chỉ cần sớm tối niệm ba biến chú ngữ của Nhật Quang Bồ Tát, hướng đến Phật lạy ba lạy, chỉ tu trì đơn giản như vậy, thì kiếp tương lai sinh ra sẽ có tướng mạo vô cùng đoan chính, hơn nữa còn có phúc và may mắn, quan vận hanh thông, hưởng tận phú quý. Nếu là phụ nữ thì chắc chắn sẽ xinh đẹp, quý thì làm hoàng hậu, trí huệ hơn người. Một chú ngữ đơn giản như vậy, mỗi lần lạy ba lạy đã có công đức lớn như vậy rồi. Người không tu cho kiếp này mà tu cho kiếp sau thì cớ sao mà không làm chứ.
🌟
Pháp loại bỏ đau đớn:
Tôi sâu sắc biết rằng đời người khổ nhiều hơn vui, sinh lão bệnh tử của đời người đều là tượng trưng cho cái khổ, đặc biệt là bệnh khổ, bệnh cũng là một trong những nghiệp chướng, bệnh toàn thân khiến cho thể xác phàm phu không có cách nào chống đỡ được, chỉ có thể rên la gào thét đến khi nào mới chấm dứt đây?
Có người hỏi địa ngục ở nơi nào? Thật ra nhân gian chính là địa ngục, dao và cưa ở bệnh viện đều có đủ cả, tách não, thông ruột, rửa dạ dày, cắt thận, đặt ống nội khí quản, thay tim, cắt phổi, lúc các bác sĩ y tá xôm vào để động thủ chẳng phải là địa ngục trần gian thì là cái gì? Lẽ nào đây là thiên đường trần gian sao? Lại còn có những ác bệnh không tên, khiến cho bạn sống chẳng được chết chẳng xong, người bệnh chữa trị lâu không khỏi, coi thường mạng sống của mình mà nhảy lầu chết, không muốn sống nữa vì bị đau khổ dày vò, những chuyện như vậy lâu nay vẫn thường nghe thấy.
Nguyệt Quang Bồ Tát có một câu chú là: "Samdheti tusutha ah jame ututha samkitha palautiyamejatha ututha kaulotitha kimotha svaha." Lấy sợi dây ngũ sắc, cúng trước Phật, tụng chú ngữ Nguyệt Quang Bồ Tát năm biến. Sau đó đem sợi dây ngũ sắc để ở chỗ đau nhức, hoặc buộc ở chỗ đau… như thế nỗi khổ đau nhức có thể được giảm nhẹ, thậm chí hoá thành vô hình. Lực từ bi và lực trong mát của Nguyệt Quang Bồ Tát khiến cho con người kinh ngạc. Bởi thế pháp loại bỏ đau đớn dùng chú lực của Nguyệt Quang Bồ Tát là tối cao, người tu trì không thể không biết.
🌟
Bùa hộ thân của Linh Tiên Chân Phật Tông:
Bùa hộ thân của Linh Tiên Chân Phật Tông là do tác giả tiếp nhận sự chỉ thị ngầm của Phật mà thiết kế ra, mặt trước in bốn chữ "Linh Tiên Tinh Xá", phía dưới là liên hoa tọa, mặt sau là Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, Kim Mẫu sắc lệnh cho Lục Đinh Thiên Thần, Lục Giáp Thần Binh bảo vệ thân thể sinh mạng. Bùa hộ thân này đúc bằng đồng, cũng có người làm bằng bạc, lại cũng có người đúc bằng vàng, tất cả bùa hộ thân đều do tác giả dùng ba câu chú là Đại Bi đà la ni, Nhật Quang Bồ Tát chú cùng Nguyệt Quang Bồ Tát chú để gia trì, sau đó dùng linh chỉ sắc nhiếp, linh lực của nó có thể đạt đến cảnh giới bất khả tư nghì.
Cái này là để giúp chúng sinh giải trừ tất cả chướng nạn, trừ tất cả rủi ro bệnh tật đau khổ, thành tựu tất cả thiện pháp, rời xa tất cả nỗi sợ hãi. Người đeo bùa này cần thân tâm thanh tịnh, thọ trì thần chú, đồng thời cần truyền bá rộng rãi bùa hộ mệnh này, bùa hộ mệnh này lợi ích chúng sinh ba cõi. Người đeo bùa hộ mệnh này có thể loại trừ tất cả bệnh hiểm nghèo; người đeo bùa hộ mệnh này có thể không gặp tai nạn ngoài ý muốn; người đeo bùa hộ mệnh này có thể tránh được nạn đao binh; người đeo bùa hộ mệnh này tự có thể tránh ma, bùa này được rất nhiều uy thần canh giữ, thần lực bất khả tư nghì. Khi tôi chế tác ra bùa hộ mệnh này thì thiên nhân long thần đều tán dương, khen ngợi rằng bất khả tư nghì. Vì thế bùa hộ mệnh này có mật chú của chín mươi chín ức Hằng Hà sa chư Phật ở trong đó, nếu có người nào phỉ báng thì sẽ phải đọa vào ác thú, không có ngày thoát ra. Người nào nâng niu trân trọng bùa hộ mệnh này là tất cả chúng hội Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích, Phạm Thích Tứ Vương, Thiên Long Quỷ Thần.
🌟
Tiền giấy của Linh Tiên Chân Phật Tông:
Tiền giấy của Linh Tiên Chân Phật Tông là do tác giả nhận được chỉ thị ngầm của Phật mà thiết kế ra, phân làm bốn loại:
Thứ nhất, Tiền Thất Phật có in Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn, là một trong mười tiểu chú, Thất Phật chân ngôn này là do bảy vị Phật nói, diệt tất cả tội lỗi, người tu trì tụng một biến, đốt một tờ tiền, nếu một lần đốt nhiều tờ tiền, một lần tụng nhiều biến chú, thì tất cả ác nghiệp đều được tiêu trừ.
Thứ hai, Tiền Như Ý có in phù hiệu của Lục Đinh Lục Giáp Thần, có hai đối tượng Như Ý làm thành một cặp, cái này là do Như Ý Luân Quan Thế Âm Bồ Tát hộ trì, sau khi đốt có thể được cát tường như ý, ánh sáng của ngọc như ý chiếu tới, là pháp tăng ích.
Thứ ba, Tiền Trừ Bệnh có in phù hiệu quang minh, nếu trong nhà gặp bệnh hiểm nghèo, xuất hiện liên tiếp những điều kì quái, quỷ thần tà ma làm loạn gia đình, thì sau khi đốt tiền trừ bệnh có phù hiệu quang minh, bách bệnh tự nhiên hàng phục, tiền này được Nhật Nguyệt Kim Mẫu hộ trì, tất cả bệnh hiểm nghèo đều bị tiêu diệt, đây là pháp tiêu tai.
Thứ tư, Tiền Hòa Hợp có in phù hiệu của hai vị Tiên Hòa Hợp, một nam một nữ, được dẫn dắt bởi hai vị Tiên Hòa Hợp. Duyên vợ chồng đã hết, thường xuyên cãi vã, đụng chân đụng tay, hơn nữa còn mưu hại lẫn nhau, trong nhà việc lớn nhỏ nội ngoại đều bất hòa, nam thì lăng nhăng, nữ thì ngoại tình, nếu chí tâm niệm thần chú Đại Bi đà la ni, cộng thêm đốt tiền Hòa Hợp thì cả nhà bình yên, người người hòa thuận, vợ chồng tương kính ân ái, tiền Hòa Hợp rất có hiệu quả.
39. Đại ôn dưỡng là pháp đan đỉnh
Trong cuốn sách "Khởi Linh Học", tôi từng nhắc đến chân lý của pháp đại ôn dưỡng, thực ra đại ôn dưỡng là cơ sở của tất cả Đạo công, không thể coi thường, vì thế trong cuốn sách này thật sự cần thiết phải trình bày chi tiết lại từ đầu. Tác dụng của pháp này chính là sự hồi chuyển của linh lực, cũng tức là sự luân hồi của linh lực, bởi vì sự luân hồi này sinh ra nhiệt độ, rồi lại vì nhiệt độ tăng cao mà hình thành nên khối cương khí vô hình ở bên trong. Khối chân khí này chính là công phu đan đỉnh của Đạo gia, thông thường người tu linh ở phần bụng đều có khí ấm, khí âm lạnh ở phần thân dưới đã được loại bỏ hết. Đây là một dấu hiệu rất tốt, ngoài khí lực khỏe mạnh ra thì đây cũng vẫn là cơ sở của thành Phật thành Tiên.
Hồi thứ nhất, ngồi xuống nên chọn song bàn, đơn bàn hoặc như ý tọa, để cho phần thân dưới vững chắc bất động là hay nhất, hai tay đặt vào hông, người luyện tập pháp này cũng phải có tâm bền bỉ, không cần phải gò bó vào bất kì giáo phái nào, không phải thỉnh thần, nhưng phải đập hai hàm răng vào nhau 36 lần để cho tinh thần tập trung thống nhất, hai mắt không cần quán tưởng, toàn bộ là công phu nội ngoại. Đầu tiên phải đặt lưỡi chạm hàm trên, để cho thiên tân ngọc lộ (tục gọi là nước cam lộ) tiết ra, thực ra chính là nước bọt của chính mình, đợi đến khi ngọc lộ đầy trong miệng rồi thì hít sâu vào một hơi khí, khí hít vào không đi qua phổi mà là đi vào thực quản vào dạ dày rồi vào đan điền. Phải nhớ kĩ một điểm quan trọng nhất, sau khi hít sâu khí vào thì cũng nuốt ngọc lộ vào theo để đè khối cương khí này xuống, đây là yếu quyết thứ nhất. (Cuốn "Khởi Linh Học" đã bỏ sót đoạn ghi chép này.)
Hồi thứ hai, sau khi hít khí vào, không được vội vàng thở khí ra, trước tiên phải giữ không để thở ra, thế rồi thân thể sẽ dao động sang hai bên trái phải, cần nhớ là không phải dao động theo hướng trước sau, cái gọi là thân thể dao động là phần thân trên dao động, đung đưa qua trái qua phải từ chỗ hai tay đặt ở giữa hông cho đến nửa thân trên, tốc độ dao động không nên quá nhanh, điều quan trọng nhất là nửa thân dưới phải vững như bàn thạch không mảy may cử động, chỉ có nửa thân trên dao động mà thôi. Trong thời gian tiến hành không được lấy hơi, lúc này sẽ mặt đỏ tía tai, nhiệt độ tăng cao, cho đến khi nhịn thở không nổi nữa thì chầm chậm thở khí ra, đây là một quá trình.
Hồi thứ ba, làm xong hồi thứ nhất và hồi thứ hai lại quay lại làm từ hồi thứ nhất. Công phu này xem ra có vẻ rất đơn giản, nhưng thật ra thành tựu của nó rất lớn. Đung đưa nửa thân trên trong kĩ thuật yoga là áp dụng pháp thận thủy, cũng là một trong những phương pháp làm vững chắc cái gốc. Công phu lâu ngày thì công lực càng sâu, vùng đan điền nóng lên giống như lửa trong lò lửa vậy! Mặc dù đây là một kĩ thuật nhỏ đơn giản nhất trong thiên hạ, nhưng cũng là bí mật huyền diệu mà vạn người không biết. Tôi công khai kĩ thuật này thực sự là đã tiết lộ chân cơ không được tiết lộ rồi. Bảo vệ cái gốc vững chắc chỉ có một cách, chính là "bão nguyên thủ nhất" [ ND: một kĩ thuật của Đạo gia, mục đích chính là để bảo vệ tinh khí thần của con người không bị hao tổn, thất thoát ra bên ngoài, có tác dụng kéo dài tuổi thọ, trường sinh bất diệt ], nâng khí đi lên, hóa thành những viên ngọc, kết thành xá lợi.
Đạo lý về cái gốc vững chắc này giống như nguyên lý của máy bơm quay tay vậy (máy bơm nước), lợi dụng sự nén của không khí khiến cho nước ngầm theo ống dẫn mà dâng lên, còn thân thể của chúng ta giống như máy bơm nước, huyết dịch và thận thủy là nước ngầm, sự hô hấp là khí áp, thân thể dao động cũng giống như quay tay để bơm nước vậy, và thế là thận thủy dâng lên, nửa thân dưới vốn dĩ lạnh và lỏng, vì hết lần này tới lần khác trải qua sự nâng lên mà phát sinh độ nóng, đây chính là chân lý của pháp đại ôn dưỡng. Tam bảo của Đạo gia - tinh khí thần có thể giữ chắc vốn chính là đạo thành Tiên.
Nói chung chúng sinh có thể tu được đến mức giữ được tinh huyết thì cũng tức là thần tiên bất lão ở nhân gian, có thể chứng đắc trường sinh bất lão. Phái đan đỉnh tu hành Đạo gia coi công phu xây dựng nền móng của pháp đại ôn dưỡng này là điểm then chốt đầu tiên.
Về nguyên tắc, tôi cho rằng công phu này của Đạo gia cũng là một trong những pháp bảo phá âm ma của Phật giáo Thiền tông. Tôi tin tưởng rằng niệm thức của Phật môn nếu phối hợp với Đạo công thì càng có thể phát huy rộng lớn, nếu có thể nội ngoại kiêm tu, thủ huệ và thủ mệnh, huệ mệnh song tu thì đây là một việc rất có ý nghĩa. Nếu người xuất gia cũng học tu pháp đại ôn dưỡng, tu trì lâu ngày thì tất nhiên tinh thần sẽ sung mãn, sẽ không để thất thoát nguyên tinh, thì tinh hoa tiềm tàng, lễ Phật tụng kinh, tu tĩnh thiền công tất nhiên chỉ cần làm ít mà công phu tăng gấp bội phần, sẽ không ảnh hưởng đến Phật tâm như như bất động, đây là tôi nói về kinh nghiệm của mình.
Pháp hít thở đại ôn dưỡng trước tiên là hít thở sâu, nhưng về sau thì không phải là hít thở sâu nữa, mà là hít thở tự nhiên, từ hữu hình đến vô hình, cho đến khi có thể ngồi chặn được huyết hà, đóng được cửa sinh tử thì mới xem như nền tảng đã vững chắc, linh khí lúc này chỉ có tăng lên chứ không bao giờ giảm bớt. Từng ngày từng ngày lấy khí của chân linh để tiếp lửa, công lực càng ngày càng sâu, khí chạy mười hai tầng lầu, tự có thể kết đan, đan này chính là tiên thiên xá lợi tử, là sự kết tinh thần khí của việc bế đoạn, chặn đứng huyết hà. Người xuất gia nếu không bị chảy nguyên tinh, nguyên dương [ ND: nguyên dương là cái gốc của dương khí trong thân thể con người, còn gọi là thận dương, chân dương, chân hỏa, lửa mệnh môn, lửa tiên thiên. ] thì chắc chắn sẽ có xá lợi, còn nếu nguyên dương chảy mất thì chắc chắn không có xá lợi, là cao tăng hay phàm phu chỉ cần nhìn là biết.
Người khởi linh tu pháp đại ôn dưỡng sẽ dễ dàng hơn người bình thường tu pháp này, mặc dù ngồi trên bồ đoàn có động tác giống nhau, nhưng sự dao động của thân thể có thể do linh đến mà gây ra, đặc biệt là linh lực vận động từ dưới hướng lên trên, toàn thân sẽ khởi lên sự rung lắc tự nhiên mà vi diệu, điều này càng có lợi cho sự xung kích khí huyết. Vả lại, thân thể hoạt động tự nhiên, tay cũng có thể phụ trợ với thân, trở thành nửa là thần lực nửa là nhân lực, thì tất cả tự có thể thành tựu.
Cá nhân tôi đánh giá pháp đại ôn dưỡng rất cao, nếu bền bỉ thực hành thì càng vào sâu sẽ càng tinh vi, giống như con người bình địa nổi dậy, tái tạo nên tương lai tươi sáng, đây là sự phát triển phong phú của tri tính. Đời người nhận được sự tưới đẫm này thật sự có thể nói là trời đất cảm động.
Tôi cải biên mấy câu thơ của Phạm Trọng Yêm: [ ND: nhà văn, tướng lĩnh, nhà chính trị thời Bắc Tống. ] "Mây núi thăm thẳm Sông nước mênh mang Dưỡng ấm chân khí Núi cao sông dài."
40. Một lời tuyên bố nhỏ
Có phóng viên Trang Chí Thân của một tờ báo nọ đưa tin, đã viết ra một bài báo thế này: Đài Loan gần đây có Phụng Tiên bế quan 120 ngày, và tập thể Gia Định Học Đồng nổi lên việc lên đồng viết chữ, đã gây nên sự chú ý trong xã hội. Thành phố Cao Hùng cũng có một nhân sĩ thông linh là Mi Thạch Kim, khởi đầu một phong cách riêng, có thể kiểm tra tâm linh về lành dữ của mỗi người, lại còn có thể múa bút làm thơ ngay tại chỗ, chỉ cho người ta đường đi đúng, đã có không ít người đến thỉnh giáo nhân sĩ này.
Mi Thạch Kim, hiệu là Bản Mộc, ba mươi tám tuổi, người Hán Khẩu, sau khi giải ngũ đã làm việc cho nhiều công ty, năm Dân Quốc 67 tình cờ gặp được kì duyên, sau khi phát đại nguyện thì lập tức thông linh. Ông ta có thể giao tiếp với các giới thần linh bằng ngữ âm, đối với chúng sinh thế tục thì dùng linh thơ để độ hóa. Người thỉnh giáo chỉ cần đưa ra một cái tên, bất kể có phải bạn bè hay không, trong vòng vài phút là ông ta có thể điều tra ra được những nghi vấn về nhân quả của người này, và dựa vào họ tên để làm thơ chỉ ra sai lầm của họ.
Trong những năm người này giúp đời, thường có người dò hỏi về nguồn gốc lai lịch của những nhân vật như đại sư Lư Thắng Ngạn, giáo sư Lâm Vân và Thái Triệu Kì. Mi Thạch Kim trả lời bằng linh thơ phân biệt sự tu trì của ba người này như sau:
Giáo sư Lâm Vân là truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc phái, tháng gần đây có mức độ tỏa sáng khá cao, khi xuất hành đều có các ca sĩ diễn viên nổi tiếng đi theo, họ cùng soi chiếu lẫn nhau nên ánh hào quang tăng trưởng. Thơ rằng: "Lâm" tông duy tôn thụ mật truyền. "Vân" hải nhậm du linh tự phản. "Khai" ngộ tinh hiểu hỗn độn thế. "Khiếu" thông hoàn vũ thức vô biên.
Thái Triệu Kì là người dẫn chương trình của Hội nghiên cứu ý thức khoa học Trung Hoa Dân Quốc, viết cuốn sách "Hồi ức kiếp trước tôi theo Phật Đà", học giả đi theo rất nhiều, tiếng tăm lẫy lừng. Thơ rằng: "Thái" vô chân chỉ cơ bán tuyên. "Triệu" nghiệp thi giáo sĩ thông thiên. "Kì" tâm tùy duyên càn khôn chuyển. "Đức" tính ứng thời độ vô biên.
Lư Thắng Ngạn là đại sư về linh học ở trong nước, viết sách rất phong phú, trước khi bế quan, người đến thỉnh giáo ông ta nhiều như cá diếc qua sông, tiếng tăm vang khắp cả nước. Thơ rằng: "Lư" sinh dạ bán phùng tiên giáo. "Thắng" sự cộng cử hợp thiên điều. "Ngạn" phẩm giai chất liên trung sinh. "Chân" giả khởi dung tha nhân hiểu.
Mức độ linh nghiệm của ba bài thơ này ra sao, độc giả có thể tự mình kiểm chứng. Tin tức này do người bạn của tôi là ông Tiêu Thụ Sơn ở Thảo Đồn sau khi đọc xong đã cắt bài báo ra và gửi đến Seattle nước Mỹ cho tôi.
Tôi không quen ông Mi Thạch Kim, ông ta viết cho tôi bài thơ này tôi không có ý kiến gì, điều duy nhất tôi có ý kiến là trong bài báo nói tôi bế quan. Thật ra tôi đâu có bế quan, tôi chỉ di cư sang Mỹ, lúc rảnh thì đi đến Vancouver Canada. Nữ họa sĩ Bàng Huy, tiến sĩ Dương Nãi Ngạn, và nữ ủy viên lập pháp Dương Ngọc Lâm đều từng đến làm khách tại hàn xá của tôi. Ủy viên lập pháp Dương Ngọc Lâm là đại diện quốc gia chủ trì lễ tế Khổng Tử ở nước ngoài đầu tiên của nước ta, địa điểm ở San Francisco, lộ trình đi qua Seattle nên bà đã đặc biệt tặng tôi một bức quốc họa và tượng Khổng Phu Tử, chúng tôi cũng chụp ảnh chung làm lưu niệm, việc này có tấm ảnh làm chứng.
Trước mắt tôi tạm thời ở Mỹ, vùi đầu vào viết sách, sau khi hoàn thành cuốn sách số 40, tôi sẽ tiếp tục viết cuốn số 41. Viết sách tâm linh đặc biệt không dễ dàng, bởi vì xưa nay chưa từng có ai làm. Những lời giải thích của tôi cần phải chú ý đến nhiều phương diện, khó có thể chu toàn. Tôi đã cống hiến cho độc giả tất cả mọi hiện tượng không hề giữ lại điều gì, ngay cả tiền bạc cũng đã không thể so sánh với giá trị của nó rồi. Đây chính là cái chỗ chân thành tận tụy của cá nhân tôi, hi vọng trí huệ của Phật đạo tồn tại khắp trong tâm của độc giả, chứ không bị tôi độc chiếm cho riêng mình. Ở đây, tôi đặt tất cả hy vọng, niềm tin và giá trị vào đời sống kiếp này của mình, hi vọng đức tính và linh lực của tôi có thể kiến lập nên một thế giới giá trị.
Đối với giáo sư Lâm Vân, vì chưa từng gặp mặt, chỉ từ bài báo mà biết được một hai điều, có một bài viết trước đây nhắc đến một vị Mật tông trưởng lão đã cười vào mũi người này, vì thế tôi đã tỉ mỉ nghiên cứu nguyên nhân. Mật tông Hắc phái trước đây có tiếng tăm không tốt, còn thầy của giáo sư Lâm Vân là ai? Ông ta không có sự trao truyền, Mật tông vốn coi trọng sự truyền thừa kế tục, nếu không có truyền thừa thì chính là trộm pháp, thế nên vị nguyên lão Mật tông kia mới chửi cho giáo sư Lâm Vân một chặp. Tôi cảm thấy đáng tiếc thay cho giáo sư Lâm Vân, ông ta là học giả, phẩm cách học giả lại càng cần coi trọng tài hoa, tính tình càng cần coi trọng năng lực, không thể rêu rao khắp nơi, thể hiện khoe mẽ cá nhân, giở nhiều trò bịp bợm, ngược lại sẽ bị người ta ghét. Tác giả không tiện viết tên của nguyên lão Mật tông nọ ra đây, bởi vì ông ấy là một vị thuộc một phái Tạng giáo, địa vị rất cao quý.
Tôi cảm thấy giáo sư Lâm Vân giảng Phật giảng Đạo giảng nguyên lý bát quái, thậm chí giảng linh học, tự có khí phách góc cạnh oai phong riêng, giải thích cũng hợp tình hợp lý, có giá trị khách quan độc lập, điểm này đáng cho tôi kính phục. Nhưng ông ta nói đến Mật tông Hắc giáo, đây là một bước tính sai lầm lớn. Các lực lượng trong Mật giáo rất lớn, tất nhiên ông ấy sẽ phải chịu sự đả kích của các giáo phái khác, điều này có thể dự liệu được. Còn người họ Thái kia thì còn kém giáo sư Lâm Vân xa lắm!
41. Dấu chân ngao du vạn dặm - Úc Châu tiểu kí
Ngày 9 tháng 8 năm 1981 tôi du lịch châu Úc, cùng đi với tôi có ông Lâm Vĩnh Mậu, tên tiếng Anh là Mike. Ông Lâm Vĩnh Mậu làm tổng đại lý thương mại đã đặt chân đi khắp thế giới, ông đã đi châu Úc không biết bao nhiêu lần, đi cùng với ông ấy thì mọi thứ ông đều thông thuộc.
Chúng tôi đi chuyến bay của hãng hàng không Cathay Pacific, quá cảnh ở Hongkong rồi bay thẳng đến Sydney Australia. Vừa đến sân bay quốc tế Sydney, máy bay đang dừng ở bãi đỗ thì đã có hai nhân viên kiểm dịch, mỗi người cầm hai bình xịt sát trùng, họ mở nắp bình sát trùng ra rồi xịt mù mịt khắp cả khoang hành khách của máy bay. Nghe nói đây là phương pháp phòng dịch đặc thù của cơ quan kiểm dịch Australia, họ tặng cho những người khách mới đến đây một món quà gặp mặt đầy hỗn loạn bất an.
Chúng tôi ở trong một khách sạn lớn là khách sạn Skye, nằm trên đường Park Road, thế nên tôi cứ thuận bước đi tới công viên. Mặc dù là mùa thu nhưng có lẽ do trùng vào mùa mưa nên cỏ mọc dày như tấm thảm nhung xanh mướt, những hàng cây lớn đung đưa những phiến lá xanh biếc, hơn nữa còn nở bung những chùm hoa hồng hồng vàng vàng tròn tròn như những búp bông bằng len, và còn có cả mùi thơm ngào ngạt quyến rũ trôi bồng bềnh bất định như tấm lưới mỏng, cứ thế khiến con người ta say mê. Trong công viên Sydney có ba pho tượng lớn, một là ngư dân, một là phụ nữ, một là nông dân, ở phía trên có giải thích ngư dân là nước, phụ nữ là lửa, nông dân là đất, ngầm ám chỉ rằng đây là những người tiên phong trên trái đất.
Nhà hát kịch Opera Sydney có kiến trúc nổi tiếng thế giới, mang một chút hình thù theo kiểu tôn giáo, vừa giống như cái mũ của các kị sĩ cổ đại, lại cũng giống như bông hoa tỏa ra nhiều cánh, nhìn từ xa thì lại trông giống như một con cá lớn đang bơi trên biển. Chẳng trách nó thu hút sự chú ý của người ta như vậy, bởi vì nó vừa chẳng giống cái gì mà cũng lại vừa giống mọi thứ. Nhà hát Opera Sydney nằm cạnh biển, nằm ở bờ đối diện với biển rộng xanh ngắt, giữa những con sóng mờ ảo. Những ô cửa kính đan chéo đẹp mắt, màu trắng hồng, xanh lục nhạt, đỏ thẫm và vàng mơ khiến tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn, quả thực rất ngoạn mục, tòa kiến trúc này đúng là có một không hai trên thế giới.
Tôi chú ý đến tốc độ đi đường vội vã của người Úc, không ngờ chẳng có ai đi thong dong từ tốn cả, tiếng bước chân đi bộ gõ nhịp dồn dập, tiếng hít thở gấp gáp khiến tôi cảm thấy bầu không khí khẩn trương, cũng có rất nhiều người đi đường chạy băng băng vì đuổi theo tàu hỏa, đuổi theo thuyền, đuổi theo ô tô, còn kẻ giống như người khách du lịch mang dáng vẻ ngà ngà say như tôi đây dường như còn phải tránh để không chắn đường họ. Ở những góc phố mặc dù có những người hát rong lang thang nhưng chỉ lác đác dăm ba người nghe, chỉ có một mình tôi dừng bước, ngần ngừ thương cảm cho họ mà không nỡ bước đi, Mike nói với tôi: "Số tiền lẻ trong cái hộp đàn guitar đó chẳng đổi được một bữa ăn no."
Ở khu Chinatown giống hệt mọi khu người Hoa khác trên toàn thế giới có công ty sách báo Nghệ Phong, tôi lại phát hiện ra sách tâm linh của tôi nằm yên ắng trên giá sách, là bản tiếng Quảng Đông. Lúc tôi chưa đến Úc, theo như ông chủ của nhà in nói, những cuốn sách này từng gây xôn xao khắp Sydney, trên báo cũng tuyên truyền và bình luận rất nhiều. Tôi cũng không nói với ông ấy rằng tôi là tác giả của những cuốn sách này, chỉ có điều trong lòng tôi giống như có liên tiếp những ngọn đuốc sáng được thắp lên, đuốc cháy tới mức hai má của tôi nóng rực, đến mức độ toát ra một chút khí khái anh hùng, giống như là bản thân mình đột nhiên cao lớn lên, nhưng cái nhân vật đã gây náo động này sao vẫn một mình cô độc đi bộ trên con đường hoàng hôn ở Sydney vậy?
Từng có một buổi tối buồn tẻ, chúng tôi cùng đi xem cuộc sống về đêm của người Úc, đó là "Cầm Khu", dưới ánh đèn neon lập lòe có rất nhiều bóng dáng cao gầy đang đứng, đây là phạm vi thế lực của Cầm Khu. Khu vực này sực nức mùi thơm, không ngừng mê hoặc người qua lại, người có sức kháng cự yếu thì nhanh chóng trở thành người khách sa vào lưới nhện, đây chính là con sâu độc của xã hội hiện đại. Tôi nhìn những cặp mắt đong đưa quyến rũ, những khuôn mặt xinh đẹp nhưng hoang mang trống rỗng, những bộ âu phục màu hồng nhạt, những đôi chân thon dài đẹp đẽ nhưng tuyệt đối không lộ liễu, đó thật sự là vô cùng lộng lẫy. Còn chúng tôi chỉ là người qua đường, không phải là những người "làm việc khuya", chúng tôi không thể lạc bước vào trong chốn nóng bỏng này.
Đi hưởng thụ một bữa tối tao nhã vậy! Chúng tôi tìm đến một nhà hàng có không gian ấm cúng, thắp lên một ngọn nến sáng, nhìn ra ngoài cửa sổ là biển, bên dưới ban công là những con sóng vỗ lấp lánh ánh đèn, con thuyền mờ mờ ảo ảo tiến về phía trước như không khí như khói sương, những dải đèn màu phía xa xa nhìn giống như giăng lên bao nhiêu ý thơ, ly rượu nho hảo hạng ánh lên trong ánh đèn đêm, lại có thêm món hải sản tươi ngon, tất cả những thứ này khiến chúng tôi lại trở nên ngây ngất say sưa.
Từ Sydney bay tới Melbourne, tôi nhìn thấy một tấm biển quảng cáo thuốc lá có nội dung rất đối lập là "Thank you for not smoking" [ ND: cảm ơn vì không hút thuốc ], một tấm biển khác thì là "Too good to refuse" [ ND: Quá ngon để có thể từ chối ], tấm biển trước là cảm ơn bạn, xin đừng hút thuốc, tấm biển sau thì lại nói là thuốc ngon quá, khiến tôi chẳng thể nào từ chối được. Tấm quảng cáo đối lập nhau này là chiêu bài lớn của công ty thuốc lá, chưa bàn đến việc hút thuốc lá tốt hay xấu, nhưng chỉ xem biển quảng cáo này thì dường như đã khiến người ta không hút thử không được.
Chúng tôi ở tại khách sạn Naya rất gần khu Chinatown, vì thế việc ăn uống của chúng tôi rất dễ giải quyết, gần đó có cung điện nhà Hán, có vườn hoa nhà Minh, hay nhất là còn có khu vườn đá kiểu Nhật Bản.
Mục đích chuyến du lịch nước Úc lần này của tôi là muốn quan sát hoàn cảnh địa lý ở đây. Mặc dù Australia ở bán cầu nam, nhưng hoàn cảnh địa lý xa xôi, đất rộng người thưa, khu vực ở giữa là hoang mạc rộng lớn còn dân cư thì phân bố ở bốn xung quanh. Do hoàn cảnh địa lý đặc thù nên trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đều không bị ảnh hưởng, và những phần tử cấu thành nên đất nước này vẫn luôn không tranh giành với thế giới, người dân ban đầu đến từ châu Úc, thổ nhưỡng cấu tạo từ đá trầm tích nên đất đai không hề màu mỡ, vì thế nước Úc phần lớn làm nghề chăn nuôi. Dân cư sinh sống tại đây không khó để gặp được những người nhà giàu mới nổi, bởi vì mức sống rất cao, chi phí cuộc sống khiến người ta kinh ngạc. Theo quan sát của tôi, bất kì thứ gì cũng đắt hơn ở các nước khác, hơn nữa chí phí sinh hoạt cao hơn chúng ta rất nhiều. Người phương đông chúng ta đến nơi này đông nhất là người ở bán đảo Đông Dương và người Hồng Kông.
Ở Melbourne tôi đã gặp một người bạn đại học cũ là Tiển Đồng Chính, anh ấy bảo tôi, người Úc luôn bế quan tự thủ, cuộc sống yên ổn, người dân hiền lành, không có bạo lực, nhưng thiếu tinh thần phấn đấu, cũng không cần phải nghĩ chuyện làm giàu ở đây, chết nơi đất khách quê người xa xôi, đời người cũng không có nhiều ý nghĩa lớn. Đồng thời người Úc cũng có sự kì thị chủng tộc, cùng điều kiện giống nhau nhưng người Úc dễ thăng chức, người ngoại lai bị loại trừ. Ở đây con người cạnh tranh với nhau cũng phải nỗ lực muốn chết, khó tránh cảm thấy nản lòng.
Mặc dù nước Úc cũng có sự hấp dẫn của nó, nhưng nó đã để lại cho tôi cảm giác mịt mù không chắc chắn. Cảnh sắc ở nước Úc mặc dù đẹp mê người giống như miền nam Trung Quốc, bốn mùa rõ rệt khiến con người thích thú say mê, nhưng mảnh đất thiên nhiên tinh thâm này không phải là nơi tôi có thể tuyên dương Phật pháp. Và như thế, nước Úc trong lòng tôi chỉ là một trạm dừng chân giữa đường của tôi, con người ở đó không thể ảnh hưởng được đến bao nhiêu mối liên tưởng trong đầu tôi. Nước Úc, trong ấn tượng của tôi, chỉ là một đất nước nằm ở bán cầu nam.
42. Tuyển tập thư của học trò gửi đến
Vưu Ngân Thọ
Vừa mới chia tay ở sân bay, thế mà thoắt cái đã hơn nửa tháng trôi qua rồi, ở phương xa con xin kính chúc cả gia đình ân sư bình an!
Ngày 16 tháng 6, mặc dù thời tiết mát mẻ như thế, nhưng tâm trạng của mỗi người lại nặng trĩu, chia tay ân sư rồi không biết khi nào mới lại có thể gặp lại thầy, không thể kìm được những giọt nước mắt cay cay, ngày hôm đó con chẳng thể kiềm chế được nữa mà đã òa khóc.
Ân sư, thầy đã cho con một ngọn đèn sáng, khiến con thay đổi hướng đi của đời người, là bước ngoặt trong cuộc đời con. Trên hành trình cuộc đời mù mịt khó dự đoán này, vào những lúc không biết phải làm thế nào, thầy đã dang đôi tay đầy từ ái kéo con ra khỏi bóng đêm tối tăm để con không còn trầm luân nữa, khiến con nhận thức được sự tồn tại vĩnh cửu của ý nghĩa chân lý cuộc đời. Thầy trao cho con Đạo pháp, truyền cho con dựa vào thánh mà tu, ơn thầy sâu như cha mẹ tái sinh, con là người vinh hạnh nhất trong số các sư huynh đệ.
Sau này đệ tử sẽ luôn luôn cảnh giác lời nói và hành động của mình, kiền thành học Phật, tu trì học tập, không phụ sự dạy bảo của ân sư, để đền đáp công lao dạy dỗ của ân sư.
🌟
Trang Hoàng Du
Từ sau khi thầy đi, rất nhiều học trò đều không biết hoặc không hiểu rằng thực sự trong lòng thầy rất đau khổ. Mặc dù mỗi học trò đều nói phải làm sao để kiền thành tôn kính thầy, nhưng nếu trong số đó có một con sâu làm rầu nồi canh, không nghe theo những lời giáo huấn của thầy, vì thế đã làm tổn hại đến danh dự và uy tín của thầy, những tội này lại do thầy gánh vác, đây thật sự là sai lầm của chúng con.
Cái tâm của con người là thế nào? Như Phật Đà đã nói, "tâm quá khứ không thể đắc, tâm hiện tại không thể đắc, tâm vị lai không thể đắc", chúng sinh bây giờ chỉ biết nóng lòng cầu minh sư, tiếc là, cho dù gặp được minh sư, có được cái tâm đúng đắn rất quý giá, nhưng khi quay về thì lại quên mất, cuối cùng vẫn lại chạy theo mưu cầu danh lợi.
Chúng sinh ở biển Đông có lẽ phúc mỏng, không giữ được người thầy linh tiên anh minh, thầy đã rời xa chúng con, viết đến đây, trong lòng con cảm thấy thật bứt rứt, không kìm nén được sự sám hối và phản tỉnh.
🌟
Lại Danh Hương
Đã qua Tết Đoan Ngọ rồi, gia đình thầy có ăn bánh ú không? Cổ nhân nói "mỗi dịp lễ tết lại nhớ người thân bội phần", đúng là có cảm xúc mà bật ra thành câu thơ. Lúc ăn bánh ú, cả nhóm chúng con ở Đài Loan nhớ đến gia đình thầy, không biết tai mọi người có thấy nhột nhạt không?
Với nhận thức muộn màng, chúng con vĩnh viễn không thể theo kịp trào lưu, làm bất kì việc gì cũng đều luôn chậm chạp, khi chúng con bắt đầu ý thức được rằng phải xin thầy chỉ bảo và học pháp từ thầy thì thầy đã đi rồi, thầy đã đi xa không một chút vướng bận như vậy, không một chút ràng buộc như vậy, để lại cho học trò chúng con đây biết bao thẫn thờ và hoài niệm.
🌟
Liệu Kim Thành
Xa cách đã lâu, đến tận hôm nay con mới cầm bút viết thư thỉnh an thầy, vẫn mong thầy thứ lỗi. Cuộc sống ở Mỹ của thầy có được yên tĩnh nhàn nhã không? Chế độ phúc lợi xã hội toàn diện của một đất nước văn minh luôn khiến người ta cảm thấy vô cùng an toàn. Đi ra ngoài để quan sát và hiểu rõ hơn, đúng là đi vạn dặm đường tốt hơn đọc vạn quyển sách.
Lần này đệ tử du lịch châu Âu tổng cộng ba mươi lăm ngày, xuất phát từ trạm đầu tiên ở Hongkong, sau khi chuyển máy bay ở Bangkok thì dừng ở New Delhi Ấn Độ, sau đó đến Ruba ở Ả Rập, Athens ở Hy Lạp tham quan miếu thần, rồi đến thủ đô Vienna nước Áo, tiếp theo là Copenhagen ở Đan Mạch, Thụy Điển, hiện tại con đang ở Hamburg nước Đức. Con đi đến nơi nào cũng gặp được điềm lành, cảm ơn thầy đã ban phước làm chứng hôn cho con, khiến hai người chúng con được hạnh phúc an nhàn.
🌟
Từ Mạnh Mỹ
Con có rất nhiều lời muốn nói, nhưng lại không biết bắt đầu đặt bút viết thế nào, chỉ mong thầy có thể hiểu chúng con rất nhớ thầy. Còn nhớ ngày hôm đó là sinh nhật thầy, mọi người đều tụ tập cùng nhau để chúc mừng, nhưng nếu mà có thầy ở đó thì không biết sẽ vui mừng đến mức nào!
Vào thời khắc này, có lẽ thầy đang viết sách hoặc làm việc gì đó, kẻ làm học trò như con đây vẫn muốn nhấn mạnh rằng, mong thầy nhớ đến những học trò ngày xưa, đồng thời đừng quên hồi tưởng lại nơi mà chúng ta đã sinh ra và lớn lên.
🌟
Trịnh Dụ Tín
Khi thầy còn ở Đài Loan, thầy đã chăm lo cho cả nhà chúng con không khác gì người cha. Từ sau khi thầy đi Mỹ, mỗi ngày con đều cảm thấy sự trống trải mất mát, có một khoảng thời gian tâm lý không có cách nào cân bằng được. Bây giờ chúng con cũng chẳng có cách nào để nói và báo đáp, chỉ có thể làm hết bổn phận nỗ lực làm việc, trên phương diện tu trì thì tinh tấn không lười nhác, bây giờ cũng chỉ có cách cầu Phật che chở để sau này lại có duyên được ở gần nhau.
Ngoài ra, hy vọng bản thân thầy cũng trân trọng ngọc thể, chỉ cần cả nhà khỏe mạnh vui vẻ là đã khiến cho con an tâm rồi.
🌟
Giang Dụ Quần
Thầy có khỏe không? Từ sau khi thầy đi Mỹ, chúng con đều rất nhớ thầy. Sắp đến sinh nhật của thầy rồi, nhớ lại năm ngoái vào ngày sinh nhật thầy, mọi người vui mừng tụ tập nhau lại để cùng chúc mừng thầy, thật khiến người ta khó quên, quãng thời gian vui vẻ này không biết đến khi nào mới có thể lặp lại. Thầy ơi, con kính cẩn gửi đến tấm thiệp nho nhỏ này để biểu thị sự chúc phúc và tôn kính của con đối với thầy. Con chúc thầy sinh nhật vui vẻ.
Hôm nay con đã tốt nghiệp rồi, nhờ có Phật Bồ Tát bảo hộ và sự dạy dỗ của thầy cô và cha mẹ, với thành tích là người đứng thứ nhất, con đã thay mặt cho những học sinh tốt nghiệp đọc bài diễn văn chúc mừng. Thầy ơi, chắc chắn thầy cũng sẽ mừng cho con! Hy vọng thầy có thể cùng con hưởng niềm vinh dự này.
🌟
Trương Bích Châu
Bao nhiêu năm qua nhờ có sự hỗ trợ của thầy mà nhà xuất bản do học trò quản lý đã có thể trụ vững được lâu như vậy. Vui mừng biết tin thầy đang sống ở nước Mỹ xa xôi, tu luyện đạt đến trình độ càng cao hơn, lại còn chuyên tâm viết sách, đã đem những kinh nghiệm suốt mấy chục năm nay viết thành cuốn "Thông linh bí pháp thư", để cho người đời và tất cả học trò đều có được những gặt hái quý giá, nhờ sự dẫn dắt ấy mà hướng thiện, đồng thời hiểu rõ đạo lý của việc khởi phát linh học, đúng là một tin cực kì tốt lành.
Chỉ mong cuốn sách này tỏa ánh hào quang vạn trượng, đạt đến cảnh địa "truyền linh". Nhà xuất bản của con cũng đã bắt tay vào lên kế hoạch làm sao để mở rộng phát hành. Kính chúc thầy vạn sự như ý.
43. Thư của bố và những người khác
Bức thư thứ nhất:
Thắng Ngạn, Lệ Hương, Phật Thanh, Phật Kì, các con các cháu có khỏe không? Kể từ khi các con đi đến thế giới mới, vùng đất mới, mỗi ngày bố đều nhớ các con! Nhận được thư của các con bố rất vui mừng.
Seattle đứng thứ 5 trong số các thành phố đáng sống nhất ở Hoa Kỳ. Với lượng mưa hàng năm là 39mm, ít hơn một chút so với Boston, đứng thứ 18 về tổng thể, nhưng mưa thường xuyên hơn. Sau khi các con rời khỏi Đài Loan, thời tiết ngày ngày đều âm u và có mưa, có lẽ trời đất cũng thương xót cho nỗi đau khổ sinh ly của chúng ta nên đã khóc những giọt nước mắt đồng cảm.
Ngày 20 tháng 6, nhà ta chuyển đến nhà mới, rất nhiều học trò của con đều vì tình nghĩa mà đến giúp đỡ, tấm lòng nhiệt tình thật cảm động. Việc bán ngôi nhà cũ do mẹ con một tay thu vén, bố thấy bà ấy rất buồn, đồ đạc lại rất nhiều, trong tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, việc mua bán không phải là dễ dàng. Trong ngôi nhà của con, mỗi ngày trung bình có hàng chục cuộc điện thoại, hỏi khi nào thì con từ Mỹ trở về, có thể nói là ai cũng hỏi một câu y hệt. Em trai Chiêu Dung của con thậm chí còn nghe thấy bên kia điện thoại cả nhà lớn nhỏ đều khóc thút thít rồi hỏi: "Thầy đi Mỹ rồi, có còn trở về nữa không?", khiến Chiêu Dung cũng ngây người ra, không dám gác điện thoại.
Sau khi các con đi, máy quay phim đã bị hỏng tiếng, không thể phát ra âm thanh vui vẻ nữa. Có thể lâu ngày không có ai sử dụng nên rất dễ hỏng hóc. Ngay cả con chó cưng cũng không buồn ăn uống nữa, nó đã gầy rộc đi, không còn hoạt bát như trước nữa. Bầy cừu của con đã mất đi người chăn dắt, hoang mang vô chủ. Hai người già này thì tựa cửa nhớ các cháu, nhớ nàng dâu hiền, và người chăn dắt vĩ đại. Nhìn những tấm bảng lưu niệm trong phòng khách nhà con, chẳng dễ mà có được chúng, nhìn vật lại nhớ người, con đã làm rạng danh tổ tông, đúng là phúc của gia đình.
Sau khi Phật Đà niết bàn không lâu, các đệ tử không ai bảo ai mà cùng kết tập, thuật lại chi tiết lời của Thế Tôn, gom góp tập hợp kinh điển. Các môn đồ của Chúa Jesus thì gặp khổ nạn mà từng người tản mát đi khắp nơi, lan truyền phúc âm của Chúa. Các học trò của con cũng vào ngày 15 tháng 5 âm lịch tập hợp tại Linh Tiên Tinh Xá tổ chức chúc mừng sinh nhật con, cử hành đại pháp hội cầu phúc chúc mừng sinh nhật, mặc dù thầy của họ đã ở một lục địa mới xa xôi vạn dặm nhưng cũng vẫn như ở ngay cạnh bên. Họ xướng lên tiếng Phạn và âm thanh cầu phúc thấu tới tận trời xanh, rồi nhờ sự tiếp dẫn của Bồ Tát mà bay xa vượt trùng dương để đến vùng trời nơi con đang ở, đây chính là lời chúc phúc từ tận đáy lòng của mọi người.
Mong con mãi mãi đừng quên tất cả mọi thứ ở hòn đảo xinh đẹp này, bầy con chiên trung thành của con mong mỏi con dành thời gian trở về Đài Loan, chỉ thị và hướng dẫn họ, truyền đạt những thanh âm tốt lành. Còn những sáng tác văn chương của con là đại sự nghiệp nghìn đời, đừng xao nhãng. Hãy nhắc hai đứa cháu ngoan ngoãn, vợ chồng tương kính như tân, thời gian như người đi đường, trời đất là lữ quán, đi đến nơi nào mọi người cũng sẽ nhớ các con. Chúc các con bình an hạnh phúc! Vạn sự như ý!
Nhĩ Thuận, Ngọc Nữ, Nghê Anh, Chiêu Dung thân ái. 7/7/1982
🌟
Bức thư thứ hai:
Thắng Ngạn, Lệ Hương, Phật Thanh, Phật Kỳ, nơi đất khách bình an! Bố vừa nhận được văn kiện của Ủy ban văn hóa kiến thiết của Viện Hành Chính nói rằng, rất ngưỡng mộ ngài đã sáng tác rộng rãi và phong phú, thành tựu xuất sắc, có cống hiến đáng kể đối với sự phát triển và kiến thiết văn hóa văn nghệ. Nhằm biên tập mục lục các tác giả tác phẩm của Trung Hoa Dân Quốc, xây dựng hồ sơ, họ yêu cầu điền vào bảng tài liệu một bản và ba tấm ảnh, bảng tư liệu này bố đã điền, ảnh thì phải gửi bưu điện về đây, đây là một việc vô cùng có ý nghĩa, không thể mặc kệ.
Con đã nhận được tấm lụa có kí tên là quà sinh nhật cho con chưa? Ngày hôm đó, bố mở thư con gửi về ra, rất nhiều học trò đều ghi lại địa chỉ, ngoài ra còn có học giả Hồ Vĩnh Thanh của nhà in, luật sư Vũ Trung Sâm, Bành Hồng Cẩm Châu ở cung Hương Sơn Thánh Mẫu, còn có Ngô Hoành Chấn rất lịch sự gửi lời hỏi thăm sự bình an của con. Ngoài ra thì cái kẻ lưu manh sống nơi núi non hoang dã ở Đài Loan cũng đăng một bài quảng cáo và đăng gợi ý là lại chính thức rời núi, mỗi ngày hẹn gặp mười danh nhân để xem tướng, kết quả thế nào thì sống chết mặc bay, e rằng người đi tìm ông ta cũng lác đác như sao buổi sớm. Đối với thật giả, thế nhân lâu ngày rồi cũng sẽ nhìn ra và thấu hiểu cái công phu huênh hoang khoác lác của hắn ta lần này không hiệu nghiệm rồi. Muốn dựa vào sự thần toán nhạy bén để kiếm ăn ư, hắn ta cũng thật là suy nghĩ viển vông!
Ngày 28 tháng 7 có cơn bão Andy đổ bộ, miền trung được trời ưu ái nên đã bình yên vô sự, nhưng hàng rào bằng thép không gỉ của nhà Ấn Thuận Đạo Sư hàng xóm cũng bị thổi lật nhào, Ấn Thuận Đạo Sư lập tức gọi người đến sửa lại, hỏi ý kiến chúng ta có muốn cùng sửa hay không, đương nhiên là chúng ta vui vẻ đồng ý rồi.
Theo thống kê trong cuốn Giáo Dục Hoa Kì do bộ giáo dục Hoa Kì ấn hành, từ năm 1981 đến nay đã trao tặng danh hiệu Tiến sĩ cho tổng cộng 72.700 người, hiện tại mỗi năm có 3.300 người, trong đó ngành sư phạm chiếm nhiều nhất là 24.3%, ngành sinh vật chiếm 21.1%, ngành xã hội học chiếm 9.9%, ngành khoa học tự nhiên chiếm 9.5%, ngành tâm lý học chiếm 8.5%, ngành kĩ sư chiếm 7.7%, các ngành khác chiếm 29%. Việc bồi dưỡng giáo dục cho Phật Thanh, Phật Kì phải từ từ, đừng vội vàng sốt ruột, mặc dù Phật Thanh Phật Kì đi học toàn đứng thứ nhất, nhưng không nên quá nôn nóng. Não bộ của những đứa trẻ người Hoa sinh ra tại Đài Loan đứng số một thế giới, tương lai phải xem hứng thú của chúng, để cho chúng tự phát huy sở trường.
Cuốn sách số 40 "Thông linh bí pháp thư" của con chắc sắp xong rồi nhỉ! Cuốn sách số 40 là một cột mốc lịch sử, như người Nhật thì chuộng tổ chức tiệc rượu để kỉ niệm xuất bản, từ lâu rồi bố đã nghĩ sẽ tổ chức một bữa tiệc rượu kỉ niệm xuất bản cho con, kết quả là đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được dự định đó, thực sự là khiến người ta tiếc nuối. Các con ở Mỹ, hãy nhân cơ hội này mà rèn rũa luyện tập thân thể, ăn uống cho tốt, các con đã quen với cuộc sống sinh hoạt thường ngày chưa? Mọi người rất nhớ các con! Chúc các con khỏe! Hạnh phúc! Thân tâm vui vẻ! Tất cả các học trò đều nhớ các con.
Nhĩ Thuận, Ngọc Nữ, Nghê Anh, Chiêu Dung thân ái. 4/8/1982
44. Đại học Washington và nhà sách Nam Thiên
Hồi mới đến Seattle nước Mỹ, có người hỏi tôi, ở Seattle có mua được sách của thầy hay không, tôi trả lời rằng e là không có!
Mặc dù ở New York, Los Angeles, Chicago, thậm chí ở Sydney Australia, London nước Anh đều thấy sách của tôi trưng bày trong hiệu sách, nhưng Seattle nhỏ hơn các đại đô thị thông thường ở Mỹ thì làm sao có thể bán sách của tôi chứ? Vì thế, khi tôi còn chưa biết chắc thì tôi luôn trả lời là e rằng không có đâu!
Một hôm, có giáo sư Chu Chính Hoa của Đại học Washington đến phỏng vấn tôi, ông ấy khẩn thiết giải thích cho tôi biết rằng sở dĩ ông ấy biết tôi là vì trong thư viện của Đại học Washington có những cuốn sách của tôi, không chỉ là một cuốn mà có tương đối nhiều. Không chỉ như thế, những cuốn sách này thường xuyên được mượn, là loại sách rất được ưa thích tại thư viện Đại học Washington. Ngoài ra, hàng xóm tôi có ông Trần Ngạn Lợi, ông ấy bảo tôi, ở trung tâm thành phố Seattle có nhà sách Nam Thiên, nhà sách Nam Thiên này cũng có bán sách của tôi. Kết quả là, tôi không thể không cảm thấy một cảm giác thân thiết mơ hồ đối với thành phố Seattle này.
Tiến sĩ Ngô ở Los Angeles, bà Thẩm Dẫn Hoa của hãng hàng không Trung Quốc Airlines, Bàng Huy ở Canada, thậm chí hai luật sư Henry và Dick người Mỹ, họ đều đem đến cho tôi tin tức đáng mừng là ở các nơi trên thế giới, chỉ cần là nơi có người ở thì sẽ có sách của tôi được trưng bày ở đó, ở những thành phố lớn lấp lánh ánh đèn, hay những nơi phố núi hoang vu ở hải đảo xa xôi, thậm chí ở cảng biển New Castle xa tít tắp ở phía bắc nước Anh, La Rochelle ở Pháp, Dortmund ở Tây Đức đều có sách của tôi được bày bán. Tôi thật sự là không thể ngờ! Những tác phẩm của tôi lại được truyền bá rộng lớn đến như vậy. Còn tôi thì chỉ lặng lẽ ở quê hương mình viết sách, chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt chưa bao giờ được coi trọng mà thôi.
Mấy ngày trước, bố tôi từ Đài Loan gửi thư đến nói, Ủy ban văn hóa kiến thiết của Viện Hành Chính có công văn nói rất ngưỡng mộ tôi đã sáng tác rộng rãi và phong phú, thành tựu xuất sắc, có cống hiến đáng kể đối với sự phát triển và kiến thiết văn hóa văn nghệ. Để biên tập mục lục các tác giả tác phẩm của Trung Hoa Dân Quốc, xây dựng hồ sơ, họ yêu cầu điền vào bảng tài liệu một bản và ba tấm ảnh. Bố tôi nói với tôi điều này là muốn tôi gửi về ba tấm ảnh, không thể mặc kệ chuyện này được.
Tôi cảm thấy, trước kia tôi sống ở quê nhà, mặc dù đã viết 39 cuốn sách, nhưng luôn luôn cực kì ít liên hệ với giới văn hóa và văn nghệ, không có biểu hiện cụ thể rằng tôi là người sáng lập cái gì cả. Tôi chỉ nghĩ là chăm chỉ viết, hy vọng có một ngày sẽ có người hiểu tôi, tôi cũng sâu sắc biết rằng tình yêu và niềm kì vọng của tôi đối với quê hương có phần tha thiết hơn người bình thường, cho dù hiện tại tôi đang ở nước ngoài, nhưng tôi vẫn giữ được cái tâm thái muôn thuở ấy, cho dù tôi nổi tiếng khắp thiên hạ thì tôi vẫn là tôi. Tôi sẽ không thay đổi hay thất vọng về cách người ta đối đãi với tôi, cho dù sự đối đãi của họ là thân thiết hay lạnh nhạt.
Tại Linh Tiên Các ở Seattle, trong căn gác xép cô độc ở tầng ba, tôi cẩn thận xem xét lại những điều huyền bí của linh giới. Tôi mong mỏi con người đừng coi thường sự tồn tại của thế giới tâm linh. Mục đích và tác dụng của việc tôi viết sách không chỉ là nói về tín ngưỡng, mà còn là chú trọng đến thực tiễn, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Tôi đưa ra cho họ thấy viễn cảnh tương lai sau cuộc đời mỗi con người, đưa ra một lời giải thích thiết thực hơn đối với đạo đức và ý nghĩa của cuộc sống, không khuyến khích ham muốn vật chất của con người, mà là thay đổi quan niệm về giá trị của thế nhân.
"Linh Tiên bí pháp thư" không phải là một cuốn sách phổ thông, trên thị trường, mặc dù có rất nhiều sách về tu đạo của Đạo gia, nhưng chỉ có một số ít là có thể đọc được và có tính thực tiễn. Phần đầu của cuốn sách này thiên về Đạo gia, còn phần sau thiên về Phật môn, bất kể là Phật môn hay Đạo gia thì đều có thể tu trì không mâu thuẫn nhau, tránh dẫn tới việc phê bình và phỉ báng ai cao ai thấp. Những gì được viết trong phần trước đều là những bí mật tương đối quý giá, những bí mật mà nếu không phải là đệ tử tâm đắc thì sẽ không truyền, đều nằm trong đó, nhưng có một số ấn phù tôi có giấu một chút, bởi vì chúng có mối liên quan trọng đại, nếu người xấu dùng thủ đoạn phi pháp để đi đường tắt, e là bản tính của họ không thay đổi, sẽ làm xằng làm bậy, vì thế tôi không thể không lựa chọn cách làm này. Giả sử độc giả thật sự có lòng thành, hi vọng các bạn đến tìm tôi, có thể truyền thì tôi sẽ truyền pháp cho bạn, không thể truyền thì vẫn cứ dừng ở đó thôi, đừng cho rằng tôi không đủ hữu hảo, cũng đừng cho rằng tôi quá ích kỉ, bởi vì nếu truyền cho không đúng người thì cũng vô cùng nguy hiểm. Đạo thuật trong Đạo pháp có sự tiết chế nhiều lớp, nếu dùng không đúng pháp thì sẽ làm tổn hại đến người khác, cũng làm tổn hại đến chính mình, lễ nghĩa có sai hỏng lại càng đắc tội với cao chân thập phương, đây thuộc về sai sót do thiếu hiểu biết, cũng là sai lầm vô ý.
Ngày nay, tôi phát hiện thấy rất nhiều người không hề quan tâm đến chân lý, cái này vô cùng nguy hiểm. Quan điểm linh học của tôi có lẽ là những ngôn luận mà một bộ phận người nào đó không thích, nhưng cái này cũng không hề gì, quan điểm linh học của tôi không hề dựa vào thần học để làm cơ sở, tôi hoàn toàn không áp đặt phương thức để kêu người ta phải tín ngưỡng tôn giáo đó, tôi cũng không đưa ra hệ thống đạo đức, chỉ là chứng minh rằng linh giới tồn tại là sự thật không còn gì nghi ngờ, sau này hãy để cho khoa học chứng minh. Bất kể độc giả tin tưởng cái gì, các bạn có thể nghi ngờ chất vấn, bởi vì khi nghi ngờ chất vấn thì có thể đi thực nghiệm và thực tiễn, dùng sự suy xét trung thực để biểu đạt lí do của ý chí. Giả sử bạn học cách tập trung tinh thần thì tôi sẽ không cần phải biện hộ cho những bài viết của tôi nữa, mọi người sẽ thừa nhận những gì tôi viết là không hề xuyên tạc, mà là chân lý.
Seattle là một thành phố có phong cảnh xinh đẹp, yên bình, gọn gàng sạch sẽ, rất trật tự và tốt đẹp. Linh Tiên Tinh Xá ở Mỹ đang trong quá trình lên kế hoạch xây dựng. Người tu đạo chúng ta phải học những ưu điểm và đạo đức tốt, như là siêng năng, tiết kiệm, trung nghĩa, ôn hòa, khiêm tốn, biết điều, hiếu học, kính trọng người tài đức, v.v… Đạo Phật của người Trung Quốc nhất định có thể sánh kịp với người nước ngoài, trí huệ của chúng ta cũng không thua kém gì những chủng tộc khác. Đó là mục tiêu lớn nhất của tôi khi xây dựng Linh Tiên Tinh Xá, tuyên dương Linh Tiên tông phong ở nước ngoài, chỉ mong địa vị quốc tế của chúng ta càng ngày càng tiến lên, để cho người nước ngoài biết người Trung Quốc cũng là một đất nước tiên tiến, cùng sánh vai sáng tạo ra thế giới đại đồng tốt đẹp này.
Tháng 1 năm 1983. Seattle, Hoa Kỳ.
(Hết)