📗

044. Phục ma bình yêu truyện

image

Phục ma bình yêu truyện

🪷 Hé lộ bộ mặt thật của Thiên Ma

Văn tập: 044 Xuất bản: 05/1983 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Để mở đầu cuốn sách này, tôi xin kể lại một câu chuyện cũ. Và đương nhiên đây là câu chuyện mà tôi đích thân trải qua.

Thời gian đó là vào khoảng lúc tôi tốt nghiệp đại học, tôi phục vụ trong đơn vị trắc lượng, khi ấy vẫn chưa gặp kì duyên. Địa điểm là tại một chợ đêm khu vực đường Công Viên ở Đài Trung. Đó là một buổi tối tôi đang đi dạo một mình. Đường Công Viên và đường Trung Hoa là nơi tập trung nhiều hàng quán rong, có hàng ăn vặt, có biểu diễn võ thuật để bán thuốc, có thầy bói đoán mệnh, có hàng bán quần áo, đồ trang sức, cái gì cũng có.

Khi đó tôi còn độc thân, chưa kết hôn, tự do tự tại, buổi tối nhàn nhã thỉnh thoảng tôi vẫn đi bộ loanh quanh.

🌟

Chính vào buổi tối kì lạ đó, tôi trông thấy một ông cụ tướng mạo đặc biệt thanh cao lui cui nơi góc phố. Trước mặt ông cụ trải ra một tấm vải đỏ, trên tấm vải bày một bộ bài, trước bộ bài có đặt một lư hương, trong lư hương có thắp một que hương đang cháy với làn khói nhẹ xoắn lơ thơ, mùi hương sực nức. Bởi vì ông cụ lom khom ở góc phố nên rất ít người chú ý thấy ông, ông cũng chẳng gọi khách qua lại, mặc dù đám người đông đi lại như dòng nước nhưng không ai buồn liếc mắt nhìn ông lấy một chút.

Tôi nhanh nhẹn tiến lên phía trước, rồi tôi cũng cúi lom khom. Ông đưa mắt nhìn tôi, tôi phát hiện ra đôi mắt ông ánh lên lấp lánh, cứ thế ông nhìn thẳng vào tôi từ khoảng cách rất gần.

Thế rồi ông nói: "Chàng trai trẻ, muốn xem bói thì rút ba lá bài."

Tôi rút ra lá bài thứ nhất, đó là lá bài một vị thiên quan, đầu đội mũ quan màu đen, đứng trên một đám mây, bên cạnh có viết bốn chữ: "Trạng Nguyên thi đậu." Ông cụ nói: "Thật hay cho tấm bài Trạng Nguyên thi đậu, chàng trai trẻ, anh đã tốt nghiệp đại học rồi."

Tôi gục gặc đầu, rồi lại rút ra lá bài thứ hai, trên lá bài này có vẽ một cuốn kinh Kim Cang và một chuỗi tràng hạt, bên cạnh viết bốn chữ: "Tiên Phật đạo căn". Ông cụ ngẩng đầu lên, lại nhìn tôi một cái rồi nói: "Tôi nhìn không ra là chàng trai trẻ cũng thích tu đạo, anh có rất nhiều đạo duyên."

Tôi không nói gì. Bởi vì khi đó, tôi không hiểu thế nào gọi là tu đạo, cũng chưa từng đọc kinh Phật, tôi là một tín đồ đạo Cơ Đốc đã được rửa tội. Lời ông cụ nói không đủ để tin, nhưng tôi cũng không muốn bác lại cụ.

Tôi lại rút ra lá bài thứ ba, trên lá bài này có vẽ một vòng tròn, không có cảnh vật gì, cũng không có chữ gì hết. Ông cụ hét to một tiếng: "Quái lạ! Anh không giống người bình thường." Nói thực lòng, khi đó tôi bị ông cụ làm cho chết sững. Ông cụ nhìn tôi với vẻ mặt kì lạ, nói: "Tôi bói bài rất chuẩn và linh, lá bài vòng tròn này đã nhiều năm nay chưa có ai bốc trúng, người bốc được lá bài này căn bản không phải là người."

"Không phải là người, vậy thì là ma." - Tôi nói. "Vòng tròn này là kí hiệu cho vô cực, là giới linh hồn, không phải ma thì tức là tiên." "Xin cụ nói rõ hơn, tôi rõ ràng là người mà." "Tôi đoán cho anh không được, anh đi đi, đừng tới làm phiền tôi nữa."

Ngoài bộ mặt kinh ngạc ra, ông cụ còn nhắm mắt lại và ngồi xuống, hoàn toàn phớt lờ tôi. Khi đó, tôi nghĩ trong lòng, ông cụ nói tôi không phải là người, vậy tôi là cái gì? Thật sự là không sao hiểu nổi.

Sự việc này tôi chưa từng nhắc đến trong rất nhiều cuốn sách về tâm linh của mình, bởi vì tôi muốn đợi đến khi tất cả thời cơ đều chín muồi thì tôi mới công khai lần lượt các mật pháp, lần lượt tiết lộ những sự việc trong quá khứ. Giống như đến cuốn văn tập số 40 "Thông linh bí mật pháp thư" tôi mới nói đến kiếp trước của tôi rằng tôi vốn là một đóa Liên Hoa Đồng Tử của Ma Ha Song Liên Trì.

Đến nay, lá bài bói của ông cụ xưa kia đã chuẩn rồi. Lá bài thứ hai nói tôi sẽ đi trên con đường tu đạo, lá bài thứ ba nói tôi không phải ma thì tức là tiên.

🌟

Bồ Đề Thụ - tạp chí Phật giáo hàng tháng nói rằng thứ tôi tu là ma đạo. Ông Chấp Sự ở Phật Giáo Liên Xã nói Lư Thắng Ngạn là đại ma đầu số một của Thiên Tự.

Thế còn lão tiền bối của Tiên Thiên Nhất Quán Đạo nói, Lư Thắng Ngạn là người "khảo ma" số một, phụng thiên mệnh xuống phàm trần. Khảo ma tức là chuyên môn đi đối phó với những người tu đạo, chuyên môn gửi ma đến người tu đạo để kiểm tra, là một vị quan phán quyết của cõi trời đã đắc thiên đạo.

Rồi mục sư Chu Đại của Cơ Đốc Giáo trong khi giảng đạo đã chỉ trích tôi là quỷ Satan. Ngoài ra, hiệp hội Siêu tâm lý cũng có người nói pháp tu đạo của Lư Thắng Ngạn là ma pháp, tu rồi sẽ tẩu hỏa nhập ma.

Tốt thôi, vẫn còn có rất nhiều chuyện chém gió thị phi nữa được lưu truyền nổi cuồn cuộn như bão. Còn bản thân tôi bây giờ sống tại Seattle nước Mỹ, nhàn nhã chẳng có gì làm, đành châm hương tịnh tọa, ngắm trăng nhìn sao, đôi khi tôi cùng đạo hữu nhâm nhi chén rượu, nói chuyện xưa nay. Khi nảy ra ý tưởng thì lại viết một chương sách, tất cả cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi. Trong khi tôi ngồi thiền, tôi đi vào đi ra các vòng tròn thái cực, giống như thần tiên đi chơi, thực sự là vô cùng vui vẻ.

Những gì tôi đã học được, cao nhất có thể đến Tây phương cực lạc thế giới, thấp nhất có thể đến u minh địa phủ. Bấm ngón tay thần toán có thể biết được nhân quả trăm kiếp là bần cùng hay phú quý. Khi tụ khí có thể thành cả một thế giới. Gọi quỷ nhờ thần tùy ý đến đi. Nhưng tôi ẩn hình đổi dạng, chọn sống ở nước ngoài, chỉ mong muốn được sống một cuộc sống tiêu dao tự do tự tại.

🌟

Những người tu đạo nói tôi là ma, tôi không phủ nhận, cũng không thừa nhận.

Tôi chỉ viết cuốn sách "Phục ma bình yêu truyện" để kể một chút về những khó khăn do ma chướng mà tôi đã gặp phải trong quá trình tu đạo của tôi. Tôi thường nói "đạo tâm vừa khởi, ma tướng liền sinh", đây không phải lời nói dối.

Tu đạo là những nấc thang lên thiên đường, làm người khó, lên thiên đường càng khó. Đường lên thiên đường vô hình, toàn bộ chỉ có dựa vào tâm mà tu. Độc giả đọc xong cuốn sách này là có thể biết Lư Thắng Ngạn là ma hay Phật, là quỷ hay tiên.

"Người người nói tôi là ma, không biết rằng tôi là kẻ thù của ma. Tu đạo nào phải là trò chơi, đối với người ngu tâm vọng tưởng thì lại càng không dễ." Tôi cảm thấy đáng tiếc cho những phàm phu tục tử toàn là những loại người ruột cong não rỗng vô giá trị. Cần biết rằng thế giới sinh sinh hóa hóa này vốn là một giấc mơ lớn nghìn vạn năm, thật bi ai! Thật thảm thương!

Tôi viết một bài kệ: Nguồn gốc yêu ma vẫn tại thiên Tu tâm học đạo theo thánh hiền Sinh sống xưa nay vốn vẫn vậy Học pháp vẫn chỉ tròn và nghiêng.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Liên Hoa Đồng Tử tái thế

Có người nói những sách tâm linh mà Lư Thắng Ngạn viết đều là sách mê tín, sách mê tín này là hư huyễn không thật. Mặc dù viết thành sách có thể truyền cho đời sau nhưng không thể tin hết. Sách mà không đáng tin hết thì còn tệ hơn cả việc không có sách.

Cũng có người nói rằng những sự biến huyễn của thế gian tưởng là bình thường, nhưng nếu suy nghĩ kĩ thì cũng có những sự việc trùng hợp rất kì lạ. Sách tâm linh của Lư Thắng Ngạn viết chưa chắc đã là hư giả. Thế gian này có quá nhiều pháp thuật giả tạo, thế nhưng linh pháp thật sự thì con người lại chẳng tin.

Tôi nói, tin hay không tin thì cũng chẳng có can dự gì đến tôi. Miệng của chúng sinh chẳng phải lúc nào cũng giống nhau. Như bây giờ đây, sách tôi viết đúng là thiên thư, những chuyện tôi nói là chuyện trên trời, là chuyện về giới tâm linh.

🌟

Hơn 10 năm trước, khi tôi mới gặp được kì duyên, buổi đêm trong lúc nửa tỉnh nửa ngủ, tôi đã du lịch khắp thiên thượng. Một vị thần tiên chỉ một đồng tử tỏa bạch quang rực rỡ và nói rằng, vị này là Liên Hoa Đồng Tử, cũng là tiền thân của ngài. Mặc dù là tôi đang nửa tỉnh nửa ngủ, nhưng kí ức rõ ràng một cách kì lạ. Chuyện này tôi đã viết lại trong cuốn sách tâm linh đầu tiên của tôi, nhưng khi đó tôi vẫn chưa nói đến đạo hiệu của Liên Hoa Đồng Tử này.

Sau đó, tôi tự tay viết hồng danh của chư Phật Bồ Tát trên một tờ giấy hình chữ nhật màu đỏ rồi treo lên để thờ, ở góc dưới cùng bên phải tôi viết danh húy của Liên Hoa Đồng Tử, cạnh đó viết thêm Thiên La Thần, Địa La Thần. Rất nhiều học trò của tôi thấy vậy cũng đem đi photocopy để về thờ cúng. Cũng có người hỏi tôi Liên Hoa Đồng Tử này là thần thánh phương nào. Tôi vẫn luôn không nói lộ ra, chỉ khẽ cười nói, đến lúc sẽ tự biết.

Tôi không muốn nói thẳng ra chủ yếu là vì tôi không cho rằng tiền thân của mình là Liên Hoa Đồng Tử chuyển thế là điều gì lớn lao to tát. Bởi vì kiếp này đã là một người trong ngũ trược ác thế, kiếp trước cho dù đã từng là Đại La Kim Tiên xuống phàm trần, thì cũng vẫn là ô trược, tất cả vẫn phải tu lại từ đầu. Tu thành chính quả thì mới có gì để nói, không tu thành chính quả thì chỉ khiến người ta cười chê một cách hả hê rằng cho dù có là cốt tiên thì cũng chẳng bằng cốt chó, cốt lợn.

🌟

Cõi giới của Liên Hoa Đồng Tử ở gần Tây phương cực lạc thế giới, được gọi tên là Ma Ha Song Liên Trì, tổng cộng có mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử, trên tay mỗi vị cầm hoa sen màu sắc khác nhau, chín vị hiện thân nam, chín vị hiện thân nữ. Cảnh giới này vốn là thế giới do Vô Tà Nhãn Như Lai hóa hiện ra, cao hơn nhiều so với các cõi trời thông thường, nhưng vẫn thấp hơn Tây phương cực lạc thế giới. Vị Liên Hoa Đồng Tử là tôi đứng trên hoa sen, tay cầm một bông hoa sen màu trắng, do vậy được gọi là Bạch Liên Hoa Đồng Tử, là vị đứng đầu trong tổng số mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử.

Ở cõi giới này, cảnh trí tiên sơn, tiên thủy, tiên hoa, tiên điểu đều đẹp tươi khác thường. Ngoài cảnh đẹp tuyệt vời như vậy ra thì cũng có rất nhiều tiên nữ bay lượn, có người cầm phất trần, có người cầm gậy như ý, có người cầm tiêu, có người cầm quạt, tất cả đều diễm lệ không gì sánh bằng, ai nấy đều có tiên chất thanh cao tao nhã.

Giờ đây, toàn bộ mười tám vị Liên Hoa Đồng Tử ứng kiếp hạ phàm trần, thế gian mênh mông, sắc màu rực rỡ, đúng là họ đều có đạo căn, sẽ không thất tán. Nhưng trong cảnh phú quý có mấy ai hiểu được "tiền nhân hậu quả", thay vào đó lại tìm đến cái họa từ danh lợi sắc dục mà vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp luân hồi không dừng. Số cùng mạng tận, họ đánh mất đi cơ hội trở về cõi trời, đánh mất bản tính. Ngay cả đến đạo căn vốn có cũng mất sạch chẳng còn. Trên chẳng học siêu hình độ thế, dưới chẳng biết cứu thế cứu người, tâm trí dù có thông với linh giới thì cũng trở nên mờ mịt, mặc dù có đạo duyên thì cũng bị cuốn vào quên lãng, không thoát khỏi những thứ vỏ bọc bề nổi thì vĩnh viễn khó mà trở về trời.

🌟

Tác giả may mắn được khai mở thiên khiếu, được tận mắt nhìn thấy nhân quả tiền kiếp, cảm thấy thế sự vô thường, chi bằng thực tu thoát sinh tử. Từ lúc được Thượng sư đích thân đến chỉ dạy, tôi liền dốc toàn sức lực để tu đạo. Sư phụ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh mỗi tối đều đến dạy tôi một tiếng đồng hồ rồi lại đi, đến một cách vô hình, đi không lưu dấu vết, ngay cả cha mẹ và đồng nghiệp của tôi cũng chẳng hay biết.

Trong tu hành, tôi dựa vào ý thức thanh tịnh để tu đắc pháp "nhập ngã ngã nhập". Nó giống hệt như một tấm gương trí huệ to tròn, tiến nhập vào trong tâm Thượng sư của Kim Cang Bộ, toàn thân tỏa ra bạch quang thanh tịnh, tôi biết bạch quang thanh tịnh này chính là diệu tịnh quang, có thể hóa sinh thành hoa sen, hoa sen cũng là thuần bạch, cũng chính là diện mục vốn có của tôi. Tôi cứ như vậy mà tu hành, mỗi ngày một tinh tấn.

Trong quá trình tu hành tôi thường xuyên gặp ma chướng. Có thiên ma đố kị, có địa ma lừa bịp, có nhân ma hãm hại, đủ mọi loại ma chướng liên tục kéo đến. Cõi địa ngục, cõi người, cõi ngạ quỷ, cõi a tu la, thậm chí có cả những khảo nghiệm của đủ loại ma trên trời, những linh hồn trung ấm trên con đường hiểm trở cũng kéo đến, khiến tôi biết càng nhiều những khó khăn của tu đạo, nếu không phải là bậc trí giả đệ nhất thì chẳng có cách nào bền tâm chịu đựng được. Còn tôi vẫn nhất tâm bất loạn nhẫn nhục vượt qua. Nhằm kêu gọi mười tám đạo hữu xưa kia cùng trở về Ma Ha Song Liên Trì, vì tất cả những con người có đại thiện căn khắp thiên hạ, tôi viết sách tâm linh hết cuốn này tới cuốn khác, chủ yếu nhất là dẫn dắt những tâm hồn ô nhiễm trở thành tâm hồn thanh tịnh, rồi sau đó biến tâm thanh tịnh thành tâm bồ đề.

🌟

Người trong Phật môn của Liên Hoa Đồng Tử ít ai biết, người trong Đạo gia cũng không biết rằng chỉ có một cuốn Phật điển có ghi chép lại rằng cảnh giới này xếp hạng Tứ thánh, nhưng chưa phải là cao nhất. Đương nhiên so với quả vị những người tự gọi mình là Phật gì gì đó, Bồ Tát gì gì đó chuyển thế thì thấp hơn, tuy nhiên tôi là người thực sự biết được nhân quả tiền kiếp, tôi không dám vọng ngữ khoác lác rằng mình là Phật gì gì đó chuyển thế. Nhưng tôi thực sự là Liên Hoa Đồng Tử tái thế, chỉ là một Liên Hoa Đồng Tử nhỏ bé, cũng chẳng phải là Phật sống.

Đối với những người hỏi tôi, lúc đầu ông không nói, sau bây giờ mới nói? Tôi cho rằng đây là cơ duyên, bởi vì khi mọi thời cơ chưa đến thì nói ra sẽ có người cho rằng tôi cao ngạo. Giờ đây tôi không ở Đài Loan, ở Mỹ tôi cũng là người bán ẩn cư, tôi không biết người, người chẳng biết tôi. Hôm nay có người biết tôi là ai, nhưng đã chẳng thể tìm thấy tôi nữa rồi. Tôi chẳng mong nhận cúng dường và những lời tán dương đẹp đẽ. Tôi chỉ hy vọng người đọc sách tâm linh, bất kể là tin hay không tin, bất kể đã đắc đạo hay chưa đắc đạo, chỉ cần có duyên, phát tâm tu hành, đừng tỏ ra là thích lắm đấy nhưng rồi bỏ qua, thế là tốt rồi. Tuy nhiên độc giả cần nhớ:

Biến diệt vô thường như khói thoảng Sự đời có gì chẳng hết duyên Đều vì chúng sinh mê chấp nặng Tha hương lưu lạc hãy nên dừng.

02. Hộ pháp tôn thần La Hầu La

Trong lúc tu trì định quán, tôi từng nhìn thấy thần hộ pháp của tôi, vị thần này là đầu người thân rồng, đầu rất quái dị, có bốn mặt, từ dưới lên trên tổng cộng có năm tầng, mỗi mặt có ba con mắt, răng nanh lộ ra ngoài, râu đỏ mặt xanh, một tay cầm chuông đầu rồng, một tay cầm cung tên. Tướng mạo rất uy mãnh, thể hiện trạng thái phẫn nộ.

Tôi từng hỏi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh: "Vị thần này tên là gì?" "La Hầu La." - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: "Phẩm vị của vị thần hộ pháp này rất cao, vốn là linh quang của Phật chuyển thế, chuyên hộ trì Phật Bồ Tát và đạo tràng, không đâu là không có ngài hiện thân, sau này nếu con có muốn thờ phụng ngài thì chỉ cần dùng "bất động căn bản ấn", đọc chú ngữ Đại Kim Cang Luân bằng tiếng Phạn là ngài ấy sẽ đến."

🌟

Tác giả đã phụng thỉnh thần hộ pháp mấy lần. Đầu tiên sẽ thấy một ngọn lửa lớn cháy phừng phừng phẫn nộ, tái hiện cảnh thiên long nhe nanh giơ vuốt, sau đó sẽ nhìn thấy hai tay, chuông đầu rồng và cung tên, cuối cùng là toàn bộ cả đầu và thân đều hiển hiện, hai con mắt phẫn nộ khiến người ta nhìn vào là phải kính sợ, quả nhiên là ngài có mặt ở khắp nơi, cứ thỉnh là ngài đến.

Ngoài ra tôi cũng phát hiện thấy vị thần hộ pháp này vẫn có vô số vô tận các vị thần hộ pháp phân thân đi theo, mỗi lần ngài hiện thân là các vị đến chật kín cả bầu trời.

🌟

Tôi từng nghĩ thế này, chúa Jesus của Cơ Đốc giáo đã từng bị ma quỷ thử nghiệm, đến cuối cùng Jesus cho phép ma đi vào trong tâm của Judah, kết quả là Judah, một trong mười ba môn đồ của Jesus không ngờ đã bán đứng Jesus, cả thế giới cháy lên ngọn lửa ma quỷ, còn Jesus bị đóng đinh lên cây thập tự giá.

Phật Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo từ sau khi đại giác ngộ từng bị Ma Vương Ba Tuần phái ba mỹ nữ tới khảo nghiệm. Trong khi hành đạo, ngài cũng bị những người như Ương Quật Ma La phỉ báng, thậm chí bị những kẻ như Đề Bà Đạt Đa phá hoại, v.v…

Từ đây có thể thấy rằng, đạo tâm vừa khởi, ma tướng liền sinh, trên thực tế, bản thân chúa Jesus của đạo Cơ Đốc hoặc Phật Thích Ca Mâu Ni đều phải chịu vô cùng vô tận khó khăn do ma quỷ gây ra, tu đạo càng cao thì ma càng lớn. Cũng như vậy, ma càng lớn thì cảnh giới cũng càng cao, bởi thế mà thánh nhân đã nói rằng lấy bệnh khổ làm thuốc tốt, lấy hoạn nạn làm tiêu dao, lấy che chướng làm giải thoát, lấy ma quỷ làm bạn pháp.

🌟

Có rất nhiều tôn giáo ngay khi vừa bắt đầu tu đạo đã dạy người ta cần phải phòng ngừa nạn ma quỷ như thế nào, làm sao để bảo vệ thân, làm sao dùng bia Kim Cang làm áo giáp, v.v… Tác giả khi mới tu đạo, căn bản là không biết có ma quỷ, nhưng trên thực tế, ma nạn mà tôi đã phải chịu là nhiều nhất.

Tôi dùng "thông tương tam quán" mới biết rằng thiên ma thích tôi nhất, không có lúc nào là không tìm cơ hội để làm tôi thoái lùi đạo tâm, bọn họ lợi dụng khi tôi tu hành tinh tấn đã biến hóa nên các pháp tướng, tranh thủ lúc tôi ngủ gọi tôi tới mức không thể nào tập trung được, tranh thủ lúc tôi nhận học trò đến phá quấy các buổi gặp gỡ đạo tràng của tôi.

Tất cả những sự việc này tôi đều biết, nhưng tôi sẽ chẳng thối lùi đạo tâm. Bởi vì tôi có một vị hộ pháp tôn thần vĩ đại La Hầu La. Ngoài ra, tôi đã tu thành công pháp "Hàng phục kim cang". Đây là do sau khi tu Liên Hoa Bộ xong thì tôi tu luôn "Kim cang thần biến". Nhờ đó, tâm của tôi là tâm Bồ Tát, tay của tôi là Kim cang thủ, do vậy tôi có thể "phục ma bình yêu".

🌟

Theo tôi được biết, Phật Thích Ca Mâu Ni vừa tu Phật vừa tu Uế Tích Kim Cang, Uế Tích Kim Cang chính là biến hóa thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, nói cách khác Uế Tích Kim Cang cũng chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni tu hạnh bồ đề mà thành tựu bổn tôn, tu Uế Tích Kim Cang mà thành tựu phục ma bình yêu.

Mặc dù tôi chỉ là một Liên Hoa Đồng Tử nhỏ bé chuyển thế, nhưng tôi đã chứng đắc "hạ trung siddhi", cảnh giới này là thiên cung tự do đi lại. Tôi còn chứng đắc "hạ thượng siddhi", có thể tự do trở về Ma Ha Song Liên Trì. Tôi lại chứng đắc "trung hạ siddhi", có thể tự do ra vào trung tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Tôi lại chứng đắc "trung trung siddhi", hễ định tâm là lập tức có thể du lịch đến các cõi tịnh độ của chư Phật. Thể xác và tinh thần của tôi tự tại nhưng không đảo điên, tất cả đều dễ dàng. [ ND: siddhi: nghĩa là thành tựu ]

Kì thực, đã đến được cảnh giới này rồi thì "Phật hay ma cũng không phân biệt, quỷ và tiên cũng chẳng tách chia, sống và chết là chuyện bình thường".

Ba câu nói này của tôi, nếu có người tu đạo thực sự thể hội được, hơn nữa đã đắc chứng được lời này, thì người này cũng đã có được tâm ấn của Văn Thù Bồ Tát rồi, mọi cõi tịnh độ của Phật đều có thể đến, mọi pháp đều có thể thành tựu.

🌟

Tại Seattle nước Mỹ, có người hỏi tôi: "Đại sư viết sách, có xu hướng thay đổi gì không?" "Trước đây ở trong nước, tôi chuyên tu bồ đề tâm, bây giờ ở nước ngoài, tôi tu trì Kim cang thủ." "Hai cái này có gì khác nhau?" - Người đó hỏi. "Cái đầu là Bồ Tát, dùng tâm từ bi để giải quyết sự việc, là nhu. Cái sau là Kim Cang, là hàng phục ma quỷ để giải quyết sự việc, là cương." "Cái nào hơn, cái nào kém?" "Bồ Tát là bản tính như như của thế giới hoàng kim, Kim Cang là hộ tính như như của lưỡi gươm rực lửa, nghĩa là bát nhã không phân biệt trí huệ hơn kém cao thấp đó."

🌟

Tác giả nhờ có được sự bảo hộ của đại hộ pháp tôn thần La Hầu La mà tu trì, trong khoảng thời gian đó các ma nạn mà tôi gặp không chỉ là nghìn là vạn. Tôi mong rằng việc viết ra những tâm đắc tu trì của tôi có thể khiến cho chúng sinh trong thiên hạ đều có được lợi ích lớn. Đây chính là đại công đức của "phục ma bình yêu".

Liên Sinh bất kể tuổi tác, tu đạo hướng thiện, dù cho đức yếu vẫn phải chịu ma nạn, nhưng ý chí và tấm lòng vĩnh viễn không thoái chuyển, mọi duyên pháp đều có được, được tham khảo những sách bí mật nhất của thiên thượng để tu Bồ Đề Kim Cang. Nhưng vì vô tư nên tôi đặc biệt viết ra cuốn sách này, nhờ vào việc đốt lên ngọn lửa kim cang phẫn nộ để mà đốt cháy tất cả những gì tà uế.

Thần bất đức, thần bất chính, người có hành vi tà ác, tôi đều lấy thanh kiếm trí huệ mà đâm, không cần thiên đạo để tru, không cần địa pháp để diệt, chỉ dùng Kim cang huệ kiếm là có thể diệt trừ được vô hình.

03. Đạn kim cang tránh ma

Tiêu đề của chương này là "Đạn kim cang tránh ma", "đạn" này không phải là đạn trong từ "viên đạn", mà là đạn trong từ "đạn chỉ" nghĩa là búng ngón tay.

Pháp này là do Hàng Phục Kim Cang truyền thụ cho tôi. Không có bất kì cuốn kinh điển nào có ghi chép về pháp này, đây hoàn toàn là một pháp bí mật tối thắng, giá trị của nó không tiền nào có thể sánh bằng. Hôm nay tôi truyền pháp bí mật này ra, làm lợi ích cho mọi người tu đạo trên trời dưới đất.

🌟

Người tu hành, vào lúc nào sẽ dễ mất công hạnh nhất, vào lúc nào khó giữ kiểm soát nhất, đó chính là lúc ngủ.

Con người một khi đã ngủ thì sẽ bước vào một thế giới khác, lúc này tâm không dễ bị bó buộc, sẽ cho rằng mộng cảnh chính là thật, khởi tâm tham sân si, tất cả những hành vi trong mơ đều vì tác dụng của tiềm thức mà điên đảo vọng tưởng.

Ngoài ra, đối với người tu hành, ma sẽ lợi dụng khi đạo nhân đang ngủ mà đến để quấy nhiễu suy nghĩ, ma ở trong não, trong tâm của người tu đạo tùy ý tung hoành, phá hoại chính niệm. Lúc này, những tinh tấn tu hành ban ngày biến thành công lao đổ xuống sông xuống biển hết. Không chỉ công cốc mà có đôi khi còn tệ hại hơn cả một người bình thường.

Theo tôi được biết, một người phàm phu thế tục thì thiên ma sẽ chẳng lãng phí tinh thần để mà đi tìm anh ta gây phiền nhiễu, bởi vì người phàm phu thế tục không biết tu hành, suốt đời suốt kiếp trầm luân trong ác đạo, cho nên vốn dĩ họ cũng chính là quyến thuộc của ma rồi. Duy chỉ có người tu đạo muốn thoát khỏi tam giới, muốn tu thành tiên đạo, Phật đạo, muốn thoát ly khỏi sự khống chế của thiên ma, cho nên thiên ma mới thích tìm đến những người này để gây sự. Tác giả chính là một trong những nhân vật mà thiên ma thích nhất.

🌟

Khi tác giả mới tu hành, có một thiên ma tên gọi là Tì Na Dạ Xoa, tướng mạo của nó là có hai tai nhọn hoắt, có năm con mắt, tất cả đều nằm ở trên trán, miệng rất nhọn, lưng có hai cánh, có thể biến to thu nhỏ, toàn thân được bao bọc bởi một lớp quang khí như khói mù. Nó thường lợi dụng lúc tôi ngủ say liền đến phủ một lớp khói mù trước giường tôi, dùng cái miệng nhọn hoắt cắm vào lỗ mũi tôi, hít hết sạch khí mà tôi thở ra, còn nó thì sẽ nhổ ra khí đen bẩn để cho tôi hít vào, cứ lặp đi lặp lại như vậy.

Thiên ma Tì Na Dạ Xoa này là một loại thiên ma ăn trộm khí, người tu hành mà bị nó quấy nhiễu sẽ không bệnh mà hao mòn.

Hồi mới đầu tôi vẫn chưa ý thức được về điều này, về sau dần dần tôi mới nhận thấy, mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, chân tay đều không có sức lực, hoa mắt chóng mặt, rõ ràng là tôi đã ngủ rất nhiều rồi, nhưng thực sự là càng ngủ càng mệt mỏi, tinh thần khó tập trung, từ đầu tới chân đều không khỏe khoắn. Càng tồi tệ hơn là tự nhiên có cảm giác trống rỗng và cảm thấy cuộc sống vô vị. Ban ngày trì chú ngồi thiền nhưng suy nghĩ đều thất tán. Lúc này, tôi mới giật thót mình và thấy hoang mang.

🌟

Tôi vội vã niệm chú thỉnh thần, thắp một nén hương, có một vị là Kim Cang thần đạo đến. Đầu tiên là ngài ấy hiện hình vai của áo giáp, sau đó thì hiện nguyên hình tướng, toàn thân kim quang rực rỡ.

Vị Kim Cang thần này chắp hai tay lại, khi hiện thân thì đọc một câu Kim Cang Thủ Bồ Tát chân ngôn: "Om bua ru lan chưa li."

Tôi mới hỏi vị Hàng Phục Kim Cang này xem vì sao tôi lại tu thành hiện tượng như vậy, thần Kim Cang nói với tôi: "Đó là Tì Na Dạ Xoa trộm khí, nguyên khí mất đi, những tinh hoa tu hành của người tu đạo đều bị Tì Na Dạ Xoa lấy hết, thiên ma trộm khí này càng có được lợi thì càng không buông tha ngài. Còn người tu đạo thì mỗi ngày lại thất tán tinh hoa công hạnh, hơi thở yếu dần, tinh thần uể oải, vậy thì không thể nào tu hành được nữa."

Tôi hỏi: "Làm sao để tránh?" Hàng Phục Kim Cang đáp: "Trước khi ngủ, mặc quần áo sạch sẽ, rửa tay súc miệng, đứng trước giường, chắp tay cung kính, niệm Kim Cang Thủ Bồ Tát chân ngôn: "Om bua ru lan chưa li" bảy biến, dùng tay phải búng ngón tay vào bốn góc giường.

Tôi bắt đầu mở linh nhãn ra xem, chỉ thấy ở nơi tôi búng ngón tay sinh ra một vệt ánh sáng vàng kim, bốn điểm kim quang càng lên cao càng lớn, thế rồi gặp nhau và xoắn vào với nhau, tạo thành một tấm chắn kim quang, giống như treo lên một tấm màn chống muỗi vậy, tấm màn chắn này vừa sáng vừa đẹp vừa rất thực.

🌟

Đêm đó tôi trốn trong "kim quang trướng", dùng linh nhãn nhìn ra bên ngoài. Đến nửa đêm giờ Sửu [1-3h sáng], tôi nhìn thấy từ bên ngoài cửa sổ bay vào một lùm khói mù. Trong màn khói mù có một vật tướng mạo giống như tôi đã mô tả ở trên, nhưng lần này vừa đâm phải tấm màn kim quang thì cái đám khói mù đó liền thụt lùi lại, không có cách nào tiếp cận tới thân tôi được.

Nó lại đâm vào lần nữa thì lại bị đẩy lùi ra, cứ như vậy mấy lần, mới không còn cách nào khác đành luôn mồm nói "ghét, ghét" rồi bay ra ngoài cửa sổ đi mất.

🌟

Từ đó về sau, mỗi lần lên giường đi ngủ, tôi cứ y theo pháp "đạn kim cang tránh ma" này mà làm một lần, khi đi ngủ không lo sợ có ma đến quấy nhiễu nữa, đêm ngủ ngon lành, tinh thần vui vẻ, không còn sợ những tinh hoa tu hành bị thiên ma hút khí trộm mất nữa.

Tôi phát hiện ra rất nhiều người xuất gia hoặc người tu đạo gặp phải Tì Na Dạ Xoa trộm khí. Do vậy, người xuất gia hoặc người tu đạo không chỉ tu pháp không thành mà thân thể còn trở nên gầy yếu, ngũ quan thất sắc, tinh thần khô héo. Những người này phần lớn là gặp phải thiên ma trộm khí Tì Na Dạ Xoa.

🌟

Hôm nay tác giả viết cuốn sách "Phục ma bình yêu truyện", hơn nữa còn truyền pháp "đạn kim cang tránh ma", vẫn chính là vì tôi thương xót con người trong thiên hạ khi rất nhiều người phải chịu sự dày vò của loại ma này. Không có người nào biết cách phá giải.

Phương pháp này mặc dù đơn giản nhưng thế nhân lại không biết. Viết ra như thế này, tôi tin rằng Hàng Phục Kim Cang cũng sẽ không trách gì tôi. Còn nữa, Tì Na Dạ Xoa kia lại càng tức Lư Thắng Ngạn tôi đây muốn chết, bởi vì tôi đã phá hoại việc tốt của nó.

04. Bí mật viết chữ Phạn có thể trừ ma

Tôi nhớ từng xem một bộ phim Nhật, tên phim là "Quái đàm". Trong phim có một tình tiết mô tả một hòa thượng bị mù biết gảy đàn, âm thanh tuyệt diệu. Đột nhiên một đêm nọ, có thị vệ của một vị tướng quân đến mời ông đi gảy đàn cho tướng quân nghe, thế là vị sư phụ mắt mù kia trong đêm tối lập tức đến phủ tướng quân đánh đàn.

Lại có một ngày nọ, sư phụ mắt mù gặp một cao tăng, vị cao tăng này vừa nhìn thấy hòa thượng mắt mù thì đột nhiên sửng sốt, bởi vì cao tăng đã nhìn ra khắp mặt hòa thượng mắt mù toàn là âm khí, chỉ vài ngày nữa sẽ chết.

Cao tăng bí mật dò hỏi, nhờ đó mà biết được tướng quân kia đã chết trong một trận hải chiến ác liệt, thị vệ đến mời sư phụ mắt mù kia tới đánh đàn cũng là một hồn ma, đám người nghe đàn đông như núi như biển vốn chỉ là những linh hồn chết trong trận hải chiến năm xưa mà thôi. Sư phụ mắt mù bị dẫn đến phủ tướng quân nhưng ở đó vốn chỉ là một bờ biển mênh mông trống trải.

Và thế là hàng đêm, sư phụ mắt mù đến bãi biển đánh đàn cho những u linh nghe, âm khí trên người mỗi ngày một nặng, sẽ chẳng còn sống được trên cõi đời này bao lâu nữa.

Thế rồi cao tăng và u linh thị vệ kia đấu pháp. Cao tăng viết lên đầu, mặt, thân và tứ chi của sư phụ mắt mù kia dày đặc những chữ Phạn. Đêm khuya, u linh thị vệ đến, nhìn thấy trên toàn thân sư phụ, những chữ Phạn lấp lánh phát quang thì không dám hành động, nhưng phát hiện thấy chỉ có hai tai đã bị quên không viết chữ, thế là u linh thị vệ lấy ra một con dao cắt đứt hai tai của sư phụ rồi mới bỏ đi. Đây chính là nguyên nhân khiến sư phụ mắt mù lại còn thiếu mất hai tai.

🌟

Tác giả cũng có một trải nghiệm như thế này. Đó là khi tôi còn đang sống tại tòa chung cư Nhạc Quần ở Đài Trung, khoảng thời gian đó tôi đóng cửa không tiếp khách, không gặp bất kì người nào. Có một vị giám đốc một ngân hàng tầm trung họ Chu, tên Thư Thông, ông có một đứa cháu trai tên là Duy Lương, bà nội của cậu đặc biệt yêu quý đứa cháu này. Bà nội luôn mang đứa cháu này bên mình, suốt từ lúc bé cho đến khi cháu đi học mẫu giáo.

Bỗng có một ngày, Chu Duy Lương bị sốt cao không đỡ, tình trạng diễn biến xấu tới mức cuối cùng miệng cậu bé không thể nói được nữa, hai mắt không thể mở ra, hai chân không thể đi lại, toàn thân mềm nhũn, ngoài tim vẫn còn đập ra thì toàn bộ cơ thể đã mất đi mọi hoạt động. Ông bà nội cuống lên đưa cháu tới bệnh viện thành phố Đài Trung, bác sĩ chẩn đoán là bị viêm não, đồng thời sau khi kiểm tra tình hình thì bác sĩ nói không cứu được nữa và từ chối cho nhập viện để chữa trị.

Bà nội của cậu bé có niềm tin kiền thành vào Phật, bà liền vội vàng đến các nơi để cầu thần bái Phật, nhưng tình hình vẫn không có gì khởi sắc. Cho đến khi một thầy bói nói với bà Chu là tại sao không thử tìm Lư Thắng Ngạn.

🌟

Người phụ nữ họ Chu vận dụng đủ mọi quan hệ, ngay cả đến người cố vấn pháp luật của tôi là cô Trần Hạnh Nga cũng được mời tới, thế nên tôi mới mở cửa tiếp khách.

Lúc đó tôi vừa trông thấy Chu Duy Lương liền nhìn ra ngay trên trán cậu bé có một vòng ánh sáng màu lục xám, điều này cho thấy cậu bé đã bị ma đến từ cõi atula ám vào thân. Phần thân dưới của con ma này hình chim, phần thân trên hình người, có hai sừng, một tay cầm đinh ba, nó chuyên thích mạng sống của trẻ em. Con ma này gọi là An La, quyến thuộc của nó đều là các linh hồn trẻ em.

Khi đó trong lòng tôi nghĩ rằng, đứa bé này mạng lớn, nếu không thì chỉ một tuần nữa, ánh sáng màu lục xám kia sẽ lan ra khắp toàn thân, linh hồn cậu bé sẽ rơi vào cõi Atula, vĩnh viễn không được siêu sinh, trở thành quyến thuộc của cõi ma xanh xám.

🌟

Tôi cầm cây hương, quán tưởng chữ Phạn, rồi đứng cách một khoảng, viết lên trên người của Chu Duy Lương dòng chữ "Thất câu chi đại minh đà la ni". Tôi cũng viết kín khắp toàn thân Chu Duy Lương. Sau khi viết xong, tôi lại vẽ ba tấm phù tịch ma, yêu cầu sau khi trở về nhà, mỗi tối đốt một lá phù hòa vào nước, dùng nước này chấm vào trong miệng là được.

Bà nội của Chu Duy Lương hỏi tôi: "Có khỏi được không?" - Đôi mắt bà khẩn thiết, lộ vẻ đầy hy vọng. Tôi đáp: "Sẽ khỏi. Ba ngày sau cậu bé sẽ tỉnh lại."

Đứa bé mà bệnh viện thành phố Đài Trung từ chối chữa trị, đứa bé toàn thân đã mềm nhũn, đứa bé mà đã đi khắp nơi cầu thần hỏi quẻ cũng đều không có chút hy vọng nào, thế mà không ngờ tôi lại nói ba ngày nữa sẽ khỏi, chẳng phải tôi quá to gan rồi sao.

Mọi người nghe nói ba ngày sau sẽ khỏi thì vỡ òa vì vui mừng. Nhưng trong lòng họ cũng hoài nghi không biết có đúng như tôi nói không, tôi cũng chẳng biết phải nói sao nữa.

🌟

Đến buổi sáng ngày thứ ba, bà nội của Chu Duy Lương nghe thấy cậu bé mở miệng ra gọi một tiếng "bà ơi" đầu tiên, bà nội của Chu Duy Lương khóc òa vì sung sướng. Bà cảm động tới mức chạy đi khắp nơi thông báo tin tốt lành rằng cháu bà đã hồi phục rồi.

Bác sĩ trưởng của bệnh viện thành phố Đài Trung nghe được điều này thì cứ hỏi đi hỏi lại suốt là làm sao mà khỏi bệnh, rồi cứ liên tục lắc đầu, cho rằng đây là một kì tích. Bản thân Chu Duy Lương cũng được tôi nhận làm học trò, trên người cậu bé đã mang lá bùa hộ thân do chính tôi đặc biệt làm cho.

🌟

"Bí mật viết chữ Phạn có thể trừ ma" hoàn toàn không phải là điều gì kì quái, bởi vì chữ Phạn trong tiếng Ấn Độ là từ lúc thế giới mới hình thành, Đại Phạm Thiên Chủ từ trên trời hạ giáng, Đại Phạm Thiên Chủ đã dạy con người những chữ viết này, rất giống với những văn tự phù chú của Trung Quốc. Nếu là chữ Phạn thì trong đó có rất nhiều đại lực của thần, do vậy chữ Phạn có sức mạnh bất khả tư nghì.

Tôi nghiên cứu chân ngôn tu hành đã lâu, biết rằng chú là tâm ấn thành Phật của Phật, do vậy dựa vào chú sẽ có được cảm ứng thần thông. Ví dụ như "Thần biến kinh sớ", "Thiên thủ thiên nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát tu hành nghi quỹ kinh", "Thất câu chi đại minh đà la ni kinh", "Hoa nghiêm sớ sao", "Hiền thủ bát nhã tâm kinh sớ", v.v…, các chú ngữ tiếng Phạn trong đó đều có công dụng rất lớn. Ví dụ như tiêu tai, tăng ích, kính ái, hàng phục, xuất thế gian, tôi đều vận dụng để mong cầu chứng đắc thánh quả.

Rất nhiều học trò của tôi chỉ biết rằng tôi hiểu pháp, nhưng không biết tôi dùng pháp ra sao. Giờ đây, tôi vì mọi người trong tương lai mà lần lượt viết ra hết, từng cái một không còn cất giấu nữa, tôi sẽ dạy mọi người về ý nghĩa gốc, để cho càng nhiều người biết được rằng có pháp môn giải thoát này, để cho chúng sinh đạt được tự tại, trừ diệt được phiền não bệnh khổ.

05. Bám chấp là đại ma

Sở dĩ Phật pháp vĩ đại là vì sự vô lượng vô biên, hay nói cách khác, Phật pháp chính là sự không bám chấp. Pháp môn trong Phật pháp rất nhiều, bất kể là khiếm khuyết hay toàn vẹn, bất luận là trên hay dưới, tất cả đều bao dung. Sự vĩ đại của tôn giáo này có liên hệ cực kì lớn với việc không bám chấp.

Lúc còn nhỏ, tác giả là một tín đồ đạo Cơ Đốc (đã được rửa tội). Sau này khi tôi tin Phật, tôi đã ngộ ra rằng hóa ra Jesus Christ cũng là một vị Bích Chi Phật (có tu trì, nhưng dùng phương pháp khác mà đạt được thành tựu của một vị đại thần). Thiên đường của thánh Jehovah là một trong số ba mươi ba cõi trời, Jehovah có địa vị là Thượng Đế.

🌟

Có một khoảng thời gian tôi cũng bí mật tu Đạo giáo, phát hiện ra các giáo pháp mà giáo phái Bà-la-môn của Ấn Độ dùng có nhiều điểm rất giống với Đạo giáo. Đồng thời, Phật giáo nguyên thủy hoặc giáo pháp của Mật tông Kim cương thừa cũng có tu những thứ như trừ bệnh tiêu tai, sống lâu tăng ích, thậm chí là cầu mưa, Long Vương, sấm sét, thái dương, thái âm, v.v… Không ngờ so với đạo thuật của đất nước tôi [Trung Quốc] cũng chỉ là các con đường khác nhau cùng dẫn đến một điểm đích. Tôi lĩnh ngộ ra rằng những chú ngữ trong Đạo giáo của đất nước tôi cũng chính là chân ngôn của Phật giáo, các phù mà Đạo giáo dùng cũng giống như các Phạn tự của Ấn Độ. Pháp "hộ ma" được dùng trong Mật tông cũng chính là pháp đốt hương của Đạo giáo.

🌟

Sau khi tác giả đắc chứng được pháp "xuất thần" thì có được một sự lĩnh ngộ rất sâu sắc, đó chính là "hữu pháp giai thông" [ND: mọi pháp tồn tại đều liên thông với nhau]. Do vậy, tôi cho rằng Phật pháp là không bám chấp nhất, hễ ai còn bám chấp thì phần lớn cũng chẳng đạt đến được ngộ cảnh này. Tôi viết một bài kệ cho sự chứng ngộ này như sau:

Phật giáo ngày nay đã chỉ ra Nếu không bám chấp, hiểu chân như Nếu còn công kích, người cười nhạo Hoa cỏ cây lá vốn tiêu dao.

Tôi xem Phật giáo như cây cổ thụ, xem Đạo giáo như hoa, và xem Cơ Đốc giáo như cỏ. Bất kì tôn giáo nào cũng đều có phương pháp tu hành, cũng có các cảnh giới. Chúng ta có thể nghiên cứu về sự cao thấp trên dưới của các cảnh giới đó, nhưng không được bám chấp để mà phỉ báng, đây chính là cảm ngộ đặc thù nhất của tôi ngày hôm nay.

Trong cuốn "Thông linh bí mật pháp thư", tác giả có viết một chương sách là "Đánh ma không siêu thoát", viết về một vị "phi thiên thần ma", vị thần ma này vốn là một cao tăng của triều Tống, bình thời thường trì tụng kinh Pháp Hoa, cả đời không có hành vi ác nào. Nhưng vì tâm tính cao ngạo cổ quái, do vậy đã mọc lên một cái sừng, tai biến thành nhọn hoắt vì thích nghe những lời tâng bốc, trên lưng mọc ra hai cánh là do ông ta tu mà thành. Sư phụ của tôi nói, có rất nhiều người tu hành đều tự cho mình là luôn đúng, cứng đầu cứng cổ, hơn nữa còn tự cao tự đại, cả đời sống như vậy nên bám chấp rất nặng nề, về sau đều trở thành một dạng đại ma đầu.

🌟

Tôi hỏi: "Người tu hành vì sao lại thành ma?" Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đáp: "Không chỉ có, mà còn có rất nhiều người tu hành trở thành ma. Hễ người nào có tâm bám chấp nặng nề, không có cách nào hòa nhập trong ngoài, không có cách nào phân biệt đúng sai, chấp một mà không biết hai, rất có thể sẽ đi vào ma đạo mà tự mình cũng không biết. Những người này ở trong vỏ ốc và xem đó là đạo tràng, không biết rằng bên ngoài trời vẫn còn có trời. Phàm là người lĩnh ngộ càng cao thì càng biết rằng gió không chặn được nước, mây không che được trăng. Do vậy Đạo giáo, Cơ Đốc giáo căn bản đều sẽ không phải là chướng ngại của Phật giáo, không chỉ không là chướng ngại mà còn là cái gì đến tự sẽ đến, cái gì đi tự sẽ đi."

🌟

Nhờ có kinh nghiệm và sự lĩnh ngộ này khiến tôi lại nhớ đến lão cư sĩ họ Lý giảng kinh ở Đài Trung, khoảng hơn mười năm trước đây tác giả thường tới nghe giảng kinh. Nói thật lòng, tôi thích nghe lão cư sĩ họ Lý giảng kinh, ông ấy giảng vừa tỉ mỉ vừa thấu triệt sắc bén. Với mỗi một câu kinh, ông thường dùng nhiều cách giải thích. Công đức giảng kinh của lão cư sĩ là vô cùng lớn. Ngay cả rất nhiều đại hòa thượng, có người xuất gia thành tựu, cũng ngưỡng mộ và khen ngợi những bài giảng về Phật học của lão cư sĩ họ Lý.

Nhưng trong những bài giảng kinh, lão cư sĩ họ Lý lại đặc biệt xem thường các vị thần linh của Đạo giáo, thậm chí ông còn chửi "Cửu Thiên Huyền Nữ",… Kì thực tôi cho rằng, Cửu Thiên Huyền Nữ là một trong những pháp chủ của Đạo giáo, địa vị rất cao quý. Diêu Trì Kim Mẫu trong Đạo giáo là Tây phương Nhất lão, so với Cửu Thiên Huyền Nữ thì địa vị còn cao hơn. Hai vị này không chỉ là thần tiên mà còn là tiên đứng đầu trong các vị tiên.

Chúng ta từ lâu sống trong tam giới, Thượng Đế, Thành Hoàng, Táo Thần là những vị trưởng quan của cõi giới nhân quả này, sao có thể bất kính với họ chứ?

Ngày nay giới Phật giáo có rất nhiều người bám chấp rằng họ là tín đồ Phật giáo chính tín, tự cho rằng Phật đều cao hơn bất kì vị thần nào, do vậy họ bất kính với mọi thần, cách nghĩ cách làm này về căn bản chính là bám chấp.

Tôi nhớ Ấn Quang đại sư thường nói: "Đối với quỷ thần, Phật, Bồ Tát trong trời đất, cần phải biết kính trọng." Đối với thần đạo ở cấp độ cơ bản nhất mà còn bất kính thì còn có thể kính Phật được không?

Lão cư sĩ họ Lý cái gì cũng đều tốt, chỉ có bám chấp là không tốt. Ông ấy chỉ chấp vào mỗi Phật Bồ Tát, còn đâu chửi hết thảy thần đạo trong thiên hạ. Cần biết rằng Phật Bồ Tát mặc dù rất cao, nhưng thần minh trong trời đất cũng có thiên nhãn. Mặc dù lão cư sĩ công đức rất cao nhưng lại không thể dung nạp và dung hòa. Tôi e rằng sau này ông ấy sẽ trở thành thiên ma thì thật là đáng tiếc. Bởi vậy cho đến hôm nay, tôi vẫn hoài niệm về ông ấy, muốn cứu ông ấy.

Tôi hy vọng lão cư sĩ họ Lý đừng chửi các vị thần tiên nữa. "Cho dù sau này ông có thành tựu được Phật Bồ Tát thì cũng không thể dùng phương thức như hiện tại là chửi mắng thần minh trong trời đất. Ông nói xem có đúng không?"

06. Ma ý thức khó chế ngự nhất

Tôi có một học trò cùng học đạo với tôi, người này họ Lâm, 40 tuổi. Có một đêm anh bất ngờ đến gặp tôi, ấp a ấp úng kể với tôi một sự việc khiến tôi vô cùng kinh ngạc, toàn bộ sự tình là như thế này:

Nhà anh Lâm có thờ cúng một vị Quan Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát này không biết là do ai tạc tượng, khoảng 4 năm trước tại một cửa hàng bán vật phẩm Phật giáo, anh đã mua về, và khoảng 1 năm trước thì anh mời người đến khai quang điểm nhãn.

Kể từ đó anh sớm tối dâng hương. Anh Lâm khi có thời gian thì cũng thắp đàn hương, rồi niệm "Quan Thế Âm Bồ Tát phổ môn phẩm". Anh là người có thiện căn, đã quy y người xuất gia, cũng theo tôi học đạo. Anh là người độc thân, đã lập lời thề rằng sẽ không lấy vợ.

🌟

Bỗng nhiên có một ngày, khi anh Lâm đọc xong Phổ môn phẩm, ngẩng đầu lên nhìn Bồ Tát thì giật nảy mình. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát sống động như thật bỗng dưng cười với anh một cái đầy tình ý. Dường như hai má của Bồ Tát còn ửng hồng, xiêm y rực rỡ của ngài còn bay bay nữa. Hơn nữa anh còn tự thấy rằng hình như chính anh cũng thích, và thế là trong lúc mơ màng, thần trí của anh giống như đã bay mất.

Từ đó về sau, mỗi lần thắp hương, anh chăm chú nhìn Bồ Tát là ý niệm lại sinh ra. Đôi mắt to tròn của Bồ Tát cứ dường như long lanh nhìn anh lả lướt.

Thế rồi anh cứ thế say mê đắm chìm trong sự mê huyễn giống như đang mơ chưa tỉnh lại vậy. Mỗi lần anh ngẩng lên nhìn Quan Thế Âm Bồ Tát, thì lại cảm thấy đôi lông mày của Bồ Tát như chiếc lông vũ màu xanh ngọc, da thịt như tuyết trắng ngần, xiêm y như bay bay, cử chỉ duyên dáng yêu kiều, tướng mạo đầy diễm lệ, ánh mắt của Bồ Tát thì trong veo như nước và mang một vẻ đa tình đến mức khiến người ta rung động tâm tư.

Anh Lâm chỉ là một phàm phu tục tử, ngay lập tức bị ý nghĩ xấu xâm chiếm khiến anh như say như mê.

🌟

Một tối nọ, khi nửa đêm về khuya, anh Lâm bỗng nhìn thấy một người con gái thướt tha kiều diễm đi tới, ngạc nhiên sao đó chính là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Bồ Tát nói với anh: "Anh không chê tôi nghèo hèn thấp kém thì tôi nguyện cùng anh vui vẻ trên giường."

Một cách tự nhiên, anh Lâm không có cách nào kiểm soát được mình, thế là trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hai người đã như đôi uyên ương quấn quít, chính là toàn bộ thân tâm đều quấn quít giao tình, trong đêm tối như vậy thì có ai biết được.

Sáng sớm hôm sau anh Lâm tỉnh dậy thì Bồ Tát đã biến mất không dấu tích, chỉ có một vệt nước dinh dính chứng tỏ rằng chuyện đêm qua không phải là mơ.

🌟

Kể từ đó, cứ cách một, hai đêm Bồ Tát lại đến, hai người lại cùng chung chăn gối, cùng thân mật bay bổng trong lạc thú.

Tịnh phòng tu đạo đã trở thành nơi hưởng thú an lạc, đôi uyên ương cùng bay xuống bay lên. Lúc mới đầu anh Lâm tự cảm thấy khoái lạc như thần tiên, nhưng về sau thì cảm thấy có gì đó không còn đúng nữa.

Mỗi buổi sáng anh đều cảm thấy hoa mắt chóng mặt, xương cốt đau mỏi, miệng ngáp liên tục, cho dù ban ngày nhưng rất buồn ngủ. Thỉnh thoảng anh ngủ trưa Bồ Tát cũng đến rồi làm cho anh tới mức tinh cùng lực kiệt.

Anh từng hỏi Bồ Tát: "Bồ Tát là Tây phương Tam Thánh, vì sao lại như phàm phu thế này?" Bồ Tát trả lời một cách lả lơi: "Nghĩ làm gì, là duyên tiền kiếp mà thôi."

Đến lúc đó, anh Lâm thực sự không thể tự kiềm chế được cảm xúc của mình nữa. Việc đầu tiên anh làm là chạy đến tìm tôi, hỏi tôi xem việc này là thế nào, phải làm sao. Thế là tôi vội vã chạy tới nhà anh.

🌟

Vừa vào trong Phật đường ở nhà anh, tôi nhìn ngay đến bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đó, quả nhiên bức tượng được điêu khắc với đôi mắt đong đầy ý tình, đôi má thì ửng hồng thanh xuân, miệng nhỏ xinh như trái anh đào, hai bầu ngực lộ ra một nửa, đúng là một bức tượng đầy ma mị.

Tôi nói: "Anh thỉnh bức tượng này về thì cũng đã kêu gọi luôn cả ma ý thức về rồi, đây là anh tự tìm phiền phức. Đầu tiên là anh khởi động tà niệm nên ma đã tự đến ám vào tượng Quan Thế Âm Bồ Tát rồi."

Anh Lâm không ngừng hối lỗi, nét mặt đầy bối rối xấu hổ.

Tôi dùng "khởi âm nhãn pháp" để quan sát thì thấy con ma kia đang ở đó. Tôi quát lên hỏi: "Cô là ma phương nào đến? Dám giả mạo Quan Thế Âm Bồ Tát!" "Liên Sinh, chuyện này ông không thể quản, cũng quản chẳng được đâu. Tâm sinh thì tôi sinh, tâm diệt thì tôi diệt. Anh Lâm với tôi có duyên nên tôi mới chủ động đến thân mật."

Ma nữ đó thực sự là có biết tôi, nhưng nó nói cũng có lý.

"Anh Lâm là học trò của tôi, tôi không quản thì ai quản. Nay tôi đã biết chuyện này, nếu tôi phụng thỉnh hộ pháp chư thiên thì cô khó mà thoát khỏi bị lôi hỏa thiêu trụi. Hôm nay cô tự rút lui đi! Tôi sẽ không làm khó cho cô." "Không được." - Ma nữ đó nhướn đôi lông mày lên, mở to đôi mắt tròn: "Trừ phi anh Lâm kia thực sự tự mình tu cho thanh tịnh." "Được thôi! Cô là con ma ý thức, tôi không tranh cãi với cô, tôi sẽ làm việc với anh Lâm."

🌟

Tôi bảo anh Lâm tới hàn xá của tôi, dạy anh pháp "Tam giải thoát môn". Tôi đặt một chữ "Hum" tại cửa phòng, một chữ "Hum" ở dưới giường ngủ, một chữ "Hum" hóa thành nước đi từ miệng đi vào trong người.

Liên tiếp mấy đêm, ma nữ kia ở ngoài cửa thiết tha gọi, ban đầu thì cô ta dụ dỗ, sau đó thì cô ta nhục mạ, khi dụ dỗ thì cô thỏ thẻ nỉ non, khi nhục mạ thì cô thẳng tưng chửi rủa. Liên tục như thế suốt 49 ngày, sau đó ma nữ kia mới tự bỏ đi không còn tung tích.

Lần này khả năng kiềm chế của anh Lâm cũng không tệ. Bởi vì tôi đã bảo anh rằng nếu anh còn tự mình mở cửa, điều này cho thấy anh vẫn còn hoài niệm không quên sắc tướng, từ đó sẽ mất đi căn cơ học đạo, và cũng đừng đến tìm tôi nữa. Hơn nữa, sau khi chết anh sẽ chuyển thế sinh vào đạo súc sinh, tôi cũng sẽ không đủ sức cứu đâu.

🌟

Sau sự việc này, tôi đem tượng Quan Thế Âm Bồ Tát kia hơ qua ngọn lửa thanh tịnh, rồi khai quang điểm nhãn lại từ đầu, sau đó gửi đến cúng dường cho một ngôi chùa Phật.

Pháp tướng của vị Quan Thế Âm Bồ Tát này mặc dù thiếu trang nghiêm, có tướng mạo khá yêu kiều, cũng không rõ là do bàn tay ai điêu khắc ra, nhưng người xuất gia thì không được chấp vào hình tướng bên ngoài, người tu đạo cũng không nên chấp vào tướng. Mặc dù nhìn thấy là có tướng nhưng cũng là vô tướng, dáng điệu yêu kiều thì cũng chỉ là sự yêu kiều của hình tướng, nếu tâm không lay động thì làm gì có thiên ma?

Vì việc này, tôi viết một bài kệ: "Đêm vắng sao xa ngắm trăng tròn Tâm động ma tới cùng huyễn duyên Muốn phá chỉ nhờ vào tâm định Tu hành tiên đạo, nước tự ngon."

[ ND: Ý Sư Tôn của câu cuối là tu hành tiên đạo khi thành tựu thì nước nhạt bình thường cũng sẽ tự "trở thành", hoặc "cảm thấy" ngon ngọt ]

07. Ma ý thức là tâm ma

Rốt cục, ma ý thức là cái thứ gì? Kì thực ma này do tâm sinh ra, chính là "tâm ma". Nhìn chung, loại ma này là do tự tâm ta khởi động lên ý nghĩ nên đã chiêu gọi ma tới. Nếu tâm bất động thì ma không có gì để dựa vào nên một cách tự nhiên ma cũng sẽ bị diệt trừ. Người tu đạo cần phá bỏ tâm ma.

Có một bài thơ là "Tây Giang Nguyệt" như sau: "Phú quý năm canh xuân mộng, Công danh một đám phù vân. Xương thịt này đây chẳng thật, Ân ái trở thành hận sân.

Đừng đem gông vàng đeo cổ Đừng lấy khóa ngọc trói thân Thanh tâm quả dục thoát trần Hạnh phúc đủ đầy ấm thân."

Bốn chữ "thanh tâm quả dục" ở đây vốn là cơ sở để thành Phật tu Tiên, nếu không thể làm được thì xin đừng làm đạo nhân nữa. Bởi vì người không làm được điều này sẽ làm mất mặt những người tu đạo chân chính, chân tu bất thành, lại thành giả tu. Một miền đất phong quang thanh tịnh bị làm cho trở thành ô yên chướng khí.

Trở lại chủ đề chính, bốn chữ nói trên xem ra rất dễ, nhưng kì thực lại rất khó, rất khó. Chính vì rất khó nên mới thể hiện sự trân quý của việc tu đạo. Tu đạo vốn là lên trời, thuộc vào việc đại sự đẳng cấp số một.

🌟

Học trò của tôi gặp phải ma ý thức không chỉ có mỗi mình anh Lâm, ngoài ra còn có một người họ Ngụy, một người họ Dư, chỉ là tình huống của hai người này không nghiêm trọng như sự việc của anh Lâm.

Họ kể với tôi rằng họ đều bền lòng hướng đạo, sớm tối trì tụng kinh chú. Có một khoảng thời gian tạp niệm cứ sinh ra mạnh mẽ, họ cũng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên nhìn Bồ Tát, không ngờ lại khởi lên tạp niệm. Tà niệm ý thức này hễ sinh ra thì thực sự không có cách nào dừng lại được. Mặc dù miệng niệm kinh chú, nhưng trong đầu chỉ toàn nghĩ chuyện đâu đâu, muốn buộc tâm lại một chỗ nhưng không có cách nào tự mình khống chế được.

Họ cho rằng tình trạng này có lẽ chỉ xảy ra một ngày, nhưng thực tế không như vậy. Từ đó ngày nào họ cũng nghĩ như vậy, không lạy Bồ Tát nữa, không niệm kinh chú nữa thì lập tức không vọng tưởng. Nhưng hễ châm hương, lạy lạy niệm niệm thì tà niệm lại đầy ắp, căn bản là không có cách nào dừng lại được. Thế là họ thử tìm cách chặn đứng tà niệm, nhưng khi chặn đứng thì lại càng tệ hơn, họ lại càng nghĩ đến đủ thứ linh ta linh tinh, tất cả những gì họ nghe được, thấy được, những thứ mà họ từng làm khi còn trẻ thiếu kinh nghiệm đều được phản chiếu diễn biến ra trong đầu họ. Cuối cùng họ không còn cách nào để cưỡng ép nữa, chỉ có cách dừng không trì niệm kinh chú nữa, và cũng chỉ duy nhất không trì tụng kinh chú nữa thì ma ý thức mới không sinh ra.

Họ nói, họ cảm thấy trước mặt Bồ Tát mà có kiểu dục niệm như vậy thì là đại bất kính đối với Bồ Tát, nhưng nếu dừng tu trì thì cũng giống như đánh mất đạo tâm. Tu trì kinh chú cũng không tốt, không tu trì kinh chú cũng không tốt, họ không biết phải nghĩ ra sao nữa, không biết thế nào mới phải, vì thế mà họ đến hỏi tôi.

🌟

Tôi nói: "Các anh vốn không phải vừa sinh ra đã tu đạo, do vậy lúc còn chưa tu đạo thì đã tạo ra bao nhiêu chướng ngại về dục vọng như thế này mất rồi. Các anh cũng vốn không sống ở trong núi, nên việc tiệc tùng chè chén cũng đã gặp chẳng ít. Mà bởi vì không thể trói mình nơi nhà tranh khe suối, cũng không thể sống trong núi suốt đoạn đời còn lại, thế nên không thể nào tránh khỏi những suy nghĩ trần tục. Do vậy có tà tư tà niệm như vậy cũng là điều bình thường. Nếu hoàn toàn không có tà tư tà niệm thì đã thành thánh nhân rồi, vì thế không cần phải cảm thấy xấu hổ, không cần phải buồn phiền. Việc tà niệm sinh ra vượt ngoài khả năng kiểm soát là quá trình mà mỗi người tu đạo đều phải kinh qua. Đây là ma chướng, không phải là tội, nên đừng sợ."

Tôi nói với họ hãy xem việc tà niệm sinh ra là một hiện tượng bình thường, đây là nguyên nhân của việc tu hành vẫn chưa hoàn thiện, đừng căng thẳng, cũng đừng sợ hãi.

Phương pháp xử lý tốt nhất là bốn chữ: "Hoàn toàn lờ đi." Căn bản là đừng chú ý đến nó, vẫn cứ tụng kinh của ta, trì chú của ta, tất cả cứ mặc kệ nó. Đừng có cảm giác xấu hổ, bởi vì điều này là bình thường. Khi tất cả đều mặc kệ nó thì thời gian qua đi, những suy nghĩ linh ta linh tinh này cũng chẳng có gì là mới hay lạ nữa, và nó cũng không ngăn được ta hướng về tâm Phật, và thế là nó sẽ từ từ nhạt đi.

Trì kinh chú, tạp niệm sinh ra, nếu không khổ não thì nhanh nhất là vài tháng, chậm nhất là vài năm, những suy nghĩ này sẽ từ từ nhạt đi, đến cuối cùng tạp niệm sẽ không sinh ra nữa. Kinh nghiệm của tôi là càng muốn khống chế nó thì sức phản kháng của nó càng mạnh. Chi bằng mặc kệ nó thì nó lại tự biến đi. Có niệm biến thành vô niệm, cảnh giới này chính là đã có thể phá ma.

🌟

Người tu đạo chuyên tâm tu đạo, tốt nhất là tránh liên quan đến tham lam lợi ích. Người có đạo tâm không mạnh thì đừng chấp vào sắc tướng. Nếu trên con đường tu đạo mà rơi vào những bẫy tửu sắc danh lợi, vẫn sống buông thả trong vòng xoáy phóng túng thì điều này là sai. Tu hành mà bị danh lợi tửu sắc tới làm phân tán thì cho dù sớm tối trì chú niệm kinh cũng chẳng có tác dụng gì. Do vậy tôi nói với họ rằng: "Thanh tịnh chính là tăng, vô dục chính là thánh."

🌟

Phương pháp của tôi chính là cách mà Lục Tổ Huệ Năng nói với Huệ Minh: "Con vì pháp mà đến, nếu có thể bằng mọi cách nhịn thở được, đừng khởi lên một suy nghĩ nào, thì ta sẽ nói cho con nghe."

Hồi lâu sau, Huệ Năng không nói một tiếng nào. Huệ Minh thì đã ngộ ra rồi. Huệ Năng nói: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính vào lúc đó, đó chính là bản lai diện mục của Thượng tọa."

Do vậy, đừng đi truy cứu về tà ý tà niệm, thường giữ tâm mình thanh tịnh, thì lâu dần, tự tính vốn có sẽ lần lượt hiển thị rõ ràng từ đầu tới cuối.

🌟

Trong "Đại sám hối văn" có lời rằng: "Tự tính chúng sinh, vốn dĩ thanh tịnh. Tuy nhiên, từ vô thủy qua bao nhiêu đại kiếp, cho đến ngày nay, chúng sinh vẫn cứ mê lầm vào bản ngã mà không tỉnh giác, vẫn xem là có ta có người. Bởi vì đã tính là có "ta" cho nên chính ta tự tạo duyên nghiệp. Vì cái căn trần tạo ra đã lớn nên ý thức âm mới nổi lên, buộc chặt và khuấy động tâm ta, cũng giống như truyền điện, mắt tai mũi lưỡi thân ý thanh tịnh, nhưng chỉ một suy nghĩ không ý thức được thì sẽ làm phản lại cả sáu thứ, trộm mất tài pháp của ta. Một khi thấy giặc thì giặc sẽ thiêu cháy dữ dội, phá hoại thành Niết Bàn, làm hại đến pháp thân, đốt cháy huệ mệnh."

Đây là cốt lõi ý thức thanh tịnh của chúng sinh, khi gặp phải hoàn cảnh ô nhiễm, khi học Phật học đạo chắc chắn những sự quấy nhiễu sẽ lần lượt xuất hiện. Nếu muốn loại bỏ thì mặc kệ nó, lâu dần nó sẽ tự đi. Mây tan sẽ thấy trăng sáng bội phần.

08. Pháp song thân dễ rơi vào ma đạo

Người tu trì Mật tông thường thích nói: "Hiển giáo không còn hưng thịnh là lúc Mật giáo bắt đầu, nội Mật ngoại Hiển." Nhưng theo như tôi biết, người tu hành Mật tông đã ngày càng nhiều, đây là thời kì mạt pháp, và Mật tông nổi lên là một hình thức hoàn toàn mới.

Mật tông vốn có một phương pháp tu hành gọi là pháp song thân, giống như pháp "Càn khôn hợp bao" của Đạo gia, cũng tương tự như Tố nữ kinh của hoàng đế, là một loại pháp tu hành. Vốn là một pháp tham thiền nhờ vào sự thần diệu của tính nữ, nhờ thuần dương chân hỏa bốc lên chạy khắp toàn thân mà tu luyện thành khả năng ngồi thiền bất động bất loạn. Lúc này toàn thân nhẹ nhàng thư giãn trong cảm giác mơ hồ rất lâu, cùng trời đất trao đổi khí với nhau, giống như một dạng tinh thần thiền định khi đạt đến ngộ giới hưng phấn. Nhưng kiểu nhẹ nhàng thư giãn này khác với việc quan hệ tình dục của phàm phu tục nữ.

Pháp song thân là ngồi im, không động không loạn. Quan hệ giữa phàm phu tục nữ là vừa động vừa loạn.

🌟

Pháp song thân của Mật tông là pháp vô thượng du già đát-đặc-la [Anuttara yogatantra]. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, người sáng lập phái Nyingma, chính là người có tượng song thân được truyền lại. Sau này, tăng lữ của phái Nyingma tu pháp song thân đặc biệt nhiều, nhưng gần như toàn bộ họ đều tẩu hỏa nhập ma. Họ không phải là không động không loạn mà là vừa động vừa loạn, trở nên đắm chìm trong khoái lạc nam nữ, hình thành nên một biến tướng yêu ma huyễn hoặc. Thế là, tăng nhân Tsongkhapa vốn là người của Nyingma đã đổi sang mặc áo cà sa màu vàng, tự gọi tên là phái mũ Vàng [ Gelugpa ]. Ngài có hai đệ tử mà ngài rất hài lòng, đó chính là Dalai Lama và Panchen Lama. Lúc này, Tsongkhapa thay đổi việc thực hành pháp song thân thành quán tưởng tượng song thân.

🌟

Trong các dòng phái Mật tông, ban đầu có người cho rằng tu pháp song thân là pháp môn vô thượng du già, gọi mỹ nữ là Mẫu đát-đặc-la, gọi tắt là Phật Mẫu, có thể thông qua việc quán tưởng hợp nhất cùng bổn tôn mà tức thân thành Phật.

Nhưng một vài Lama của phái Nyingma đã dùng pháp song thân như một lời bào chữa, tổ chức những đại hội dâm loạn công khai, tạo nên một đường lối tu đạo méo mó xấu xa, rơi vào ma đạo, cuối cùng trở thành yêu ma huyễn vọng.

Theo những gì tác giả được biết, Bất Không Thành Tựu Như Lai có Phật Mẫu là Đa La Mã Cứu Độ Phật Mẫu, Kim Cang Thủ Bồ Tát có Phật Mẫu là Giang Đắc Mã Phật Mẫu, Trừ Cái Chướng Bồ Tát có Phật Mẫu là Ni Đắc Mã Phật Mẫu, Bảo Sinh Như Lai có Phật Mẫu là Phật Nhãn Phật Mẫu, A Súc Như Lai có Phật Mẫu là Mã Ma Ki Phật Mẫu, Di Lặc Bồ Tát có Phật Mẫu là Bổ Biệt Mã Phật Mẫu…. Các vị Phật, Bồ Tát khác đều có các vị Phật Mẫu khác nhau, từ đó mà có những bức tượng một cặp "song thân tu hành" trong pháp song thân của Mật tông.

🌟

Đạo gia cũng có phương pháp tu hành tương tự gọi là "thái âm bổ dương", nhưng may mắn là vẫn chưa tạo thành đại loạn. Tạo hình tượng Phật của Mật tông có rất nhiều tượng song thân, người không chuyên đều gọi là "hoan hỉ Phật" hoặc "hoan hỉ thiền". Thực tế, đây chính là quán tưởng pháp song thân bất động bất loạn của Mật tông.

🌟

Thời hiện đại ngày nay, pháp song thân vẫn bị tránh nói đến vì người ta cho rằng phương pháp này cũng chẳng thể tu đạt được.

Bởi vì có gái đẹp "tọa hoài bất loạn" [ND: gái đẹp ngồi lòng lâu mà tâm không loạn], vẫn trong như giá sạch như ngọc, thì từ xưa tới nay ở Trung Quốc chỉ có một người là Liễu Hạ Huệ thôi, còn đâu tất cả đều là những tín đồ "tọa hoài liền loạn".

Đây không phải là tôi nói để dọa mọi người sợ. Con người ngày nay căn cơ công phu không sâu không vững, người có thể ngồi tĩnh lặng, công phu thiền định tới mức độ "lư hỏa thuần thanh" [ ND: câu trong Đạo giáo, ở đây chỉ trình độ tu tập đã tới mức thuần thanh tịnh, không còn nhục dục ] không nhiều, trong nghìn vạn người cũng chẳng tìm nổi một người, cho nên người thường không có cách nào cưỡng lại được đủ kiểu mê hoặc của gái đẹp.

Không chỉ "tọa hoài đại loạn" mà rất nhiều người chỉ nhìn thôi cũng đã đại loạn rồi, đặc biệt là khi bị những xu hướng xấu của văn minh phương Tây tấn công với những phim ảnh sách tranh khiêu dâm, v.v… bất kì chỗ nào cũng có thể nhìn thấy nghe thấy mỹ sắc khêu gợi. Người muốn phá hoại công phu, muốn khuấy động người thiếu sức mạnh lại càng nhiều. Đừng nói đến việc tu đạo, làm một người bình phàm mà không loạn đã là vô cùng khó khăn rồi. Anh không đụng phải gái thì gái cũng tự tìm đến anh, đúng là một khi gái đã tấn công, muốn thoát cũng chẳng có đường thoát.

🌟

Trong số người tu đạo mà tôi biết có hai người vì tu pháp song thân mà rơi vào ma cảnh, một người ở phía Bắc là một lão cư sĩ nổi danh đã nhiều năm, công phu thiền định rất thâm hậu, nhưng những năm sau này đã thất tiết, nghe nói tu pháp song thân khiến cho chân dương bị mất hết, lưng dưới và đầu gối đều yếu và đau, đến nay thì bị trăm thứ bệnh hành hạ.

Người kia thì ở Đài Nam, là sư phụ của cư sĩ họ Trần, cũng tu pháp song thân, đồng tu với một nữ đệ tử khá xinh đẹp. Sau đó không ngờ nữ đệ tử kia mang thai, thực là khiến người ta tức cười muốn chết. Vốn dĩ là tu quán tưởng song thân thanh tịnh, pháp thanh tịnh vô thượng du già đát-đặc-la, lại biến thành pháp phu thê ân ái để có con cái nối dõi. Tu đạo như vậy không những không thành được thánh hiền, trái lại rơi vào đường núi, chẳng có cách nào hàng long phục hổ mà lại bị hổ ăn thịt, ai oán khóc than!

Cư sĩ Trần từng đưa cô gái kia đến gặp tôi, cô gái này xinh đẹp như hoa, quả nhiên đáng yêu rung động lòng người, bất kì người nào gặp cô cũng khó tránh được hồn phách đảo điên, khó trách người tu đạo muốn "tọa hoài đại loạn", sự việc phát sinh cũng là có nguyên nhân của nó cả. Sắc đẹp như miệng hổ, đạo nhân không thể vào.

Tôi viết một bài kệ như sau: "Tiếc thay tu đạo Mật tông gia Song thân gái đẹp xinh như hoa Chỉ vì thiền quán tâm vẫn động Phong lưu mấy chốc thành hoàng sa.*"

[ ND: ở đây có sự chơi chữ "hoàng" - màu vàng, trong tiếng lóng Đài Loan màu vàng là chỉ khiêu dâm, đồi trụy.]

🌟

Tôi không tán thành pháp song thân vì có hai nguyên nhân: Dưới góc nhìn của người ngoài, về cơ bản họ không có cách nào hiểu sâu và đầy đủ được ý nghĩa của pháp này, và với cách phán đoán của người thế tục thì tu pháp song thân cơ bản là thuật tà ma ngoại đạo. Lại thêm có những tín đồ tâm thuật bất chính, giả danh là tu đạo nhưng thực sự là làm điều ác dâm, biến đạo tràng thanh tịnh tốt đẹp như vậy thành đại hội công khai nam nữ hoan lạc. Ví dụ một số tăng đồ của phái Nyingma có rất nhiều hành vi lầm lỗi sai lệch, đánh mất mục tiêu ban đầu, trở thành yêu vọng. Vốn dĩ là pháp giới vô chướng ngại thì biến thành toàn là ma chướng.

Thiên ma dựa vào sắc tướng để mê hoặc con người, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là đã bị Ma vương tam nữ tới mê hoặc. Sắc tướng thiên ma lợi hại như vậy, người tu đạo bình thường có sức mạnh đến mức nào mà có thể vọng ngôn nói là phá bỏ được. Trừ phi có lục căn thanh tịnh thực sự, nhưng trong nghìn vạn người thì cũng chẳng tìm được một người nào có lục căn thanh tịnh.

Tu pháp song thân, kết quả dễ đạt được nhất chính là gọi ma, bởi vậy hành giả tầm thường đừng nên tu.

09. Milarepa tôn giả có phải là ma không?

Tôi có một người bạn thân ở Hồng Kông học Mật tông, anh nhận quán đảnh ở Đài Loan, làm thầy giáo ở một trường học tại Hồng Kông, họ Cao. Anh đề cập đến tình hình đối nghịch như nước với lửa giữa hai tông phái Mật tông và Hiển tông, trong lòng anh rất buồn. Anh viết cho tôi một bức thư như sau:

"Đúng như sư huynh nói, thầy của đệ phát triển rất nhanh, tương đối khiến cho Hiển giáo cảm thấy bất an. Về điểm này đệ rất đồng ý. Không chỉ có thầy của đệ mà Mật pháp của các môn phái khác cũng nhận được sự đối xử như vậy. Các pháp sư Hiển giáo có thể thấu hiểu được Mật tông là rất hiếm, rất hiếm. Học Hiển giáo thành Phật cần phải trải qua ba đại a tăng tì kiếp, trong khi đó Mật tông có thể tức thân thành Phật, điều này chính là Phật nói. Pháp sư Hiển giáo có thể cho rằng không thể có khả năng này, Mật pháp làm gì có pháp nào nhanh như vậy, trong khi các pháp Hiển giáo thì chậm như thế, thành Phật đâu phải dễ, không thể nào nhanh như vậy mà có thể thành Phật được.

Hầy! Đệ cho rằng bọn họ hiểu lầm rồi, Hiển giáo làm sao hiểu được tâm ấn của Phật Tổ, trực chỉ nhân tâm, rằng người người đều có thể thành Phật, chính là câu nói "phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật". [ND: người làm việc ác chỉ cần quyết tâm bỏ ác hướng thiện là lập tức trở thành người tốt. Thiện tâm này không khác gì thiện tâm của Phật.]

Người người đều có Phật tính, có thể đốn ngộ để Phật tính hiển hiện thì người đó chính là Phật rồi. Cho dù là người theo Hiển giáo nhưng nếu có thể hiểu được đạo lý này thì cũng có thể tức thân thành Phật được! Cũng thế, bọn họ làm sao biết được nhiều người tuy học Mật pháp, nhưng trong đó rất nhiều pháp sư cả đời luyện Mật pháp lại vẫn không thể "tức thân thành Phật" được.

Pháp do Phật Tổ truyền lại, mọi pháp bình đẳng, mọi tông phái bình đẳng, không hai không khác, chỉ có con người dùng tâm phàm tục để phân biệt nhau mà thôi. Do vậy, học Hiển học Mật, tu đạo học pháp, sự thành tựu nhanh hay chậm nằm ở sự nhất tâm của con người, thành tâm và bền tâm mà thôi.

Hơn nữa, gần đây có một người giấu tên viết một cuốn sách bình luận về Mật tông, đệ có đọc một chút, thấy là đúng như trong giới luật Bồ Tát nói: "Như ba trăm mũi đao đâm vào tim." Người nói rằng Mật pháp là không đúng này rất tôn sùng Hiển giáo, nói rất nhiều điều không đúng về tôn giả Milarepa của Tạng Mật, nói rằng Milarepa là thiên ma, là đại ma vương thích ăn thịt, lại còn uống rượu, phá giới luật của Phật. Đệ đọc mà thấy rất đau lòng, lẽ nào tác giả này không biết rằng ở Tây Tạng đến cỏ cũng không có nhiều, nếu muốn ăn chay thì chỉ có tranh cỏ với trâu cừu mà ăn! Rồi nếu toàn bộ người Tây Tạng đều ăn cỏ thì trâu cừu ở nơi đó cũng chết đói mất, như vậy thì người Tây Tạng chẳng phải là đã phạm vào giới sát nặng số một đó sao. Giới sát bao gồm sát nhân, sát nghiệp, sát duyên….

Người theo Hiển giáo liệu đã từng nghĩ đến câu "tửu nhục xuyên tràng qua, Phật Tổ tâm trung lưu" chưa! [ ND: "rượu thịt đi qua ruột, Phật Tổ còn trong tâm", ý nghĩa của câu nói này là rượu thịt thì rồi cũng theo ruột mà tiêu hóa hết, trong tâm vẫn còn Phật mới là quan trọng. ] Các pháp Đại thừa đều là như vậy. Ta quán tưởng tất cả là chay thì tất cả sẽ là chay, chay hay mặn đều là vật ở ngoài thân cả.

🌟

Từng có lần ở một thư viện Phật giáo, có một bác sĩ theo Hiển giáo nói lớn rằng Mật pháp là không đúng. Ông nói với rất nhiều người rằng: "Thiền tông là chính tông, có truyền thừa chân chính, là do Phật truyền cho Đạt Ma, từ Đạt Ma truyền tới Lục Tổ Huệ Năng, Huệ Năng truyền đến cho chúng ta, chúng ta đây mới là chính tông chính thống." Ông lại còn nói: "Truyền thừa Mật tông là giả. Đều là giả tạo, bọn họ đều là những kẻ siêu khoác lác, hoàn toàn không có căn cứ." Tiếp đó còn nói: "Giữa hai chân mày của Phật Tổ phóng ra ánh sáng của tướng bạch hào mới là chính tông. Còn Mật tông thì phóng ra ánh sáng gì, ánh sáng nào cũng chẳng đúng, thật là quá khoa trương."

Trong đám người nghe ông ta thuyết pháp, có một người trẻ tuổi cũng học Mật tông, rất có huệ căn, anh ta không nói gì, chỉ cười cười. Sau đó chúng đệ nói chuyện với nhau, lúc đó đệ mới biết rằng anh ấy là đệ tử trong pháp môn do Đại Bảo Pháp Vương trực tiếp truyền thừa, cũng gần giống với cảnh ngộ của sư huynh đó. Chúng đệ cùng nói với người quản lý thư viện đó rằng: "Cuốn sách "Bình luận về Milarepa" này không có tên tác giả, không có in tên nhà xuất bản, toàn toàn là một cuốn sách viết vớ vẩn thiếu trách nhiệm, hơn nữa, bất luận thế nào, Mật tông cũng là một trong tám vạn bốn nghìn pháp môn do Phật Tổ truyền lại.

Phật Tổ từng nói: Tất cả chú ngữ của quỷ thần đều không thể xem thường, đều là do Như Lai hóa thân mà nói ra. Do vậy phỉ báng Mật pháp cũng là phỉ báng một trong Tam Bảo, ông xem làm thế nào đây?" Người quản lý thư viện nghĩ một hồi rồi gom toàn bộ sách "Bình luận về Milarepa" lại, thật là... A Di Đà Phật.

Lư sư huynh, sư huynh là người hiểu Mật pháp, đương nhiên hiểu được tâm của sư đệ. Đệ đồng ý với điều mà sư huynh nói trong thư trước: "Mật pháp tương lai sẽ là ánh sáng vĩ đại và rực rỡ phủ khắp thế gian." Cách nói của sư huynh giống y hệt như những gì mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã nói. Đại Sĩ nói rằng: "Khi nào chim sắt bay trên trời, Mật pháp sẽ thịnh hành khắp thế gian!" Chim sắt này chính là máy bay đó."

🌟

Bức thư này rất dài, tôi chỉ chọn ra đại khái một số chi tiết thôi, và tôi đưa thêm giải thích như sau:

Bởi vì cách tu pháp của Hiển giáo và Mật giáo khác nhau, nghi quỹ khác nhau, cảnh giới khác nhau, nên sẽ xảy ra những tranh chấp và bài trừ lẫn nhau. Điều này từ lâu tôi đã nhìn ra rồi, nhưng đây cũng là hiện tượng bình thường thôi. Cá nhân tôi chưa bao giờ bài trừ Hiển giáo, tôi có quy y pháp sư Hiển giáo. Tôi cũng không bài trừ Mật pháp, tôi cũng nhận quán đảnh, cũng học Mật. Không chỉ như vậy, tôi cũng học Đạo giáo, tôi từng nói, tôi là "mì xào tổng hợp". Nhưng dù là nước hoa quả tổng hợp hay mì xào tổng hợp thì hương vị cũng chẳng thua kém gì tu pháp đơn lẻ. Tôi, Lư Thắng Ngạn, là người thực có những gì tôi đã thành tựu được, đã dung nạp được Chính Biến Tri, đạt được đại giác.

Tôi đã từng đọc truyền thuyết Milarepa, tôn giả Milarepa là một vị tôn giả thực sự đắc chứng. Người đắc chứng tất có cái ngộ của đắc chứng. Giống như ánh sáng trí huệ của bình minh, chiếu khắp đại thiên, lấp lánh tự tính, thiện ác vô nhiễm. Tác giả đã ngộ được chân đế, đã vào tới cõi phi thiên nhập thánh, cũng đã từng tham kiến Milarepa tôn giả, biết được ngài đã chứng bồ đề ra sao. Những con người phàm tục, không biết sự vĩ đại của các vị tôn giả Mật pháp, nói tôn giả Milarepa là Ma Vương. Nhưng tôi cảm thấy việc này cũng chẳng có vấn đề gì cả, đắc chứng thì vẫn là đắc chứng, người vọng ngôn thì cũng biến Phật thành ma, còn Milarepa tôn giả vẫn là một vị thánh giả một trăm phần trăm, sẽ chẳng vì những điều ồn ào của trần thế mà bỗng nhiên biến thành ma được.

🌟

Theo tôi được biết, cách tu của Hiển giáo và cách tu của Mật thừa, phương pháp và hình thức mặc dù khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng của cả hai đều là thành Phật. Bởi vì mục đích giống nhau nên cổ vũ và học hỏi lẫn nhau chẳng phải là càng tốt hơn sao. Hà tất phải bài trừ nhau như nước với lửa vậy. Tôi thấy đây đều là do thiên ma cố ý phát tán những ma con ma cháu tự cao tự đại xuống, trốn trong tâm của mỗi người tu hành để mà tác quái.

10. Nhật kí bắt ma

Có một lần ngồi thiền, trước mắt tôi hiện lên vạn ánh hào quang, nhưng trong vạn ánh hào quang có một vệt khí đen xông thẳng lên trời, tôi lại dùng mắt nhìn thử, hóa ra là một con ma "Ô-ma-lặc-già" đang tác quái. Sau khi xuất định, tôi bấm ngón tay để thần toán một chút, rồi tôi nói với Sư Mẫu: "Sắp tới đây e rằng lại có chút phiền phức nhỏ rồi, cần chú ý cẩn thận."

🌟

Sáng sớm khoảng hai hôm sau, có vợ của một họa sĩ ở Thảo Đồn khẩn cấp gọi điện thoại cho tôi nói: "Thầy Lư, đêm qua thầy có đến nhà tôi không?" "Không có." - Tôi đáp.

Xin bạn đọc chú ý, ở đây không phải là người thật đến nhà, mà là ý nói nguyên thần (linh hồn) của tôi, tôi vẫn thường xuất pháp thần, thường xuất linh hồn ra ngoài để đi chơi, vợ của người họa sĩ kia hỏi chính là có ý này.

Tôi lại hỏi: "Đêm qua tôi không đến, xảy ra chuyện gì sao?" "Đêm qua ông chồng tôi nói là thầy đến, nhập vào người ông ấy để viết chữ, ồn ào tới mức cả đêm không ngủ được, một lúc nói cái này, một lúc lại làm cái nọ, mà thầy bảo không đến thì chắc chắn là ma nhập vào ông ấy rồi." "Mau cảnh báo ông nhà." - Tôi thấy lo lắng.

"Ông ấy nói thầy Lư nhập vào người để viết chữ, nhưng tôi xem kĩ những chữ này thì không giống chữ của thầy, tôi nhắc ông ấy nhưng ông ấy không nghe. Ông ấy cho rằng chính là thầy đến, cũng có rất nhiều thần khác đến. Xin thầy mau đến cứu ông ấy, xin mau đến cứu ông ấy."

🌟

Lần này, tôi thực sự nhập định, nguyên thần bay lên giữa không trung, nhanh như chớp bay về phương nam, đến Thảo Đồn.

Tôi nhìn lướt qua đã thấy một vệt khí đen bay lên giữa không trung, chính là con quỷ mặt đen đó. "Quỷ mặt đen, đừng hòng chạy." - Tôi hét to một tiếng.

Con ma "Ô-ma-lặc-già" vốn nhập vào người họa sĩ kia, vừa nghe thấy tiếng hét của tôi, nó ngẩng đầu lên. Vừa nhìn thấy tôi, nó lập tức rời khỏi người của họa sĩ, cũng bay vọt lên không trung, chạy trốn về phía bắc.

Lần này tôi không để nó chạy thoát, nguyên thần của tôi ở giữa không trung xoáy thành một vòng tròn, trông thấy thân thể mềm nhũn yếu ớt của họa sĩ kia từ từ hồi tỉnh, thế rồi tôi mới đuổi theo con quỷ kia.

"Ô-ma-lặc-già" chính là quỷ mặt đen, có khả năng tương đương với la-sát, là một trong những loại quỷ ăn thịt người, cũng chính là quỷ ăn tinh khí.

Nhân loại, trong tâm mỗi người có bảy giọt nước ngọt để điều dưỡng cho tinh thần tự tại. Nhưng khi bị "Ô-ma-lặc-già" nhập vào thì con quỷ này sẽ hít hết một giọt, khiến cho người ta đau đầu không ngừng. Nếu nó ăn mất ba giọt thì sẽ làm cho người ta trầm cảm tới mức tinh thần điên loạn, mà mất bảy giọt thì coi như người này chết rồi.

"Ô-ma-lặc-già" sống ở phương bắc, bình thường nó hay ám vào những cây to, nhưng có con thì không hại người mà lại nhận cúng dường của nhân gian nên được gọi là Đại Thụ Công.

🌟

Tôi đuổi theo một đoạn, sắp tới lúc có thể tóm được nó. Đột nhiên nó biến mất, không thấy đâu nữa. Tôi cẩn thận nhìn xung quanh, nơi đây chính là Hậu Lí [ ND: một thị trấn nhỏ ở Đài Trung, Đài Loan ], bên cạnh đường cao tốc có một ngôi miếu nhỏ, miếu nhỏ này là một cái cây to có tán xòe như cái ô, giống như tấm hoa cái, cực kì đẹp. Tôi cũng không tiếp tục truy đuổi nữa, mau chóng quay trở về.

Cách vài hôm sau, tôi nhờ một học trò của tôi lái xe đưa tôi đến Hậu Lí, tôi nói là để giúp người ta làm pháp thế thân, sẽ đem lông tóc móng tay chôn xuống một cái hố đào bên dưới một cây to.

Tôi đến Hậu Lí, xe đi lòng vòng một lúc thì tìm được ngôi miếu bên cạnh cây to như cái ô đó. Nhưng mấy học trò của tôi chỉ thấy: "Chỉ thấy cây xum xuê, chẳng thấy một bóng hình." Thế còn tôi lại nhìn thấy: "Nước từ tâm người lành, mê hoặc tình quê hương."

Lập tức tôi cầm lấy chiếc đinh bằng đồng, đi ra phía sau cây to, rồi bất ngờ đóng đinh lên cây. "Đại thụ vương công ô-ma-lặc-già" thét lên một tiếng, rồi đột ngột một trận gió nổi lên, lá trên cây rào rào rụng xuống rất nhiều. Học trò của tôi hét lên: "Nhựa cây chảy ra rồi."

🌟

Đêm đó, tôi mơ thấy mình đến một nơi, gió mát thổi vào người, một mùi hương lạ phả vào mặt. Đúng vào lúc kì quái đó, có một cụ già râu bạc chống gậy, bước đi loạng choạng đến trước mặt tôi. Đúng lúc tôi định hỏi cụ già nơi đây là nơi nào, nhưng lại thấy cụ già quẳng gậy đi, như muốn quỳ xuống.

Tôi vội vàng đỡ cụ dậy, cụ già râu bạc nói: "Tôi chính là Thổ Địa Công ở thị trấn Hậu Lí, bởi vì con quỷ Ô-ma-lặc-già kia làm loạn chiếm nhà của tôi, nên tôi phải trốn đi sống tha phương. Hôm nay pháp sư bất ngờ đến đây, dùng đinh đồng đâm chết ô-ma-lặc-già, thế nên tôi đã được trở về nơi ở cũ, nay đặc biệt đến quỳ gối cảm tạ!" "Ấy! Cụ không cần như vậy, việc này là trách nhiệm của tôi, không đáng nhắc tới." Lão Thổ Địa Công cảm ơn rối rít, rồi mới từ từ rời xa, hóa thành cơn gió nhẹ bay đi mất.

🌟

Họa sĩ ở Thảo Đồn chính là người đã từng được tổng thống Tưởng Kinh Quốc triệu kiến, ông từng tặng tôi hai bức tranh, thư pháp của ông cũng rất nổi tiếng.

Thầy xem tướng nổi tiếng Thiết Bút Tử - Thiết tiên sinh, cũng vội vã đến thăm ông, nhưng khi đó, người họa sĩ đã hoàn toàn tỉnh táo. Tốt rồi. Họa sĩ hồi tưởng lại sự việc thì chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra, còn tôi cũng chẳng nói gì cả.

🌟

Ô-ma-lặc-già cải trang thành diện mạo của tôi, nhập vào kê đồng hoặc giáng linh xuống kê bút, không phải chỉ xảy ra có một lần. Theo tôi được biết, nó giả danh Lư Thắng Ngạn nhập vào kê đồng hoặc người khác để trộm tinh khí của người tổng cộng đã hơn 30 lần, còn những lần tôi không biết thì không rõ bao nhiêu lần nữa.

Bởi vì danh tiếng của tôi lớn như đại thụ, ma giới trên trời dưới đất đều biết. Những con ma này mạo danh tôi thực sự khiến cho tôi không thể nào phòng ngừa hết được. Ngoài cảm thán ra, tôi cần thức tỉnh người tu đạo chú ý, đừng để bị lừa.

Kì thực đều có thiên lý pháp lý tồn tại cả, làm sao có thể giả ngu giả điếc, tốt thì là tiên đạo, xấu thì là ma đạo, khó mà thoát được sự khảo nghiệm của thời gian.

Trong cõi vô hình, thiện ác đều có báo ứng. Cần phải phân biệt được thật giả, cần chúng sinh dùng tâm để phân biệt. Linh nhập vào thân để bói toán, là thần tiên thật thì quá hiếm, còn giả thì đặc biệt nhiều.

11. Ma tướng trong thiền định

Rất nhiều người trong lúc tu pháp, có lúc trong khi thiền định hoặc trong giấc mơ buổi đêm sẽ hiện ra rất nhiều hình tướng. Tôi có một học trò, mỗi lần anh ngồi thiền, trước mắt lại xuất hiện một con quỷ một sừng, tóc đỏ, mắt vàng lồi ra ngoài, phẫn nộ nhìn anh trừng trừng, khiến anh sợ toát mồ hôi, có một lần còn suýt chút nữa thì ngã từ trên ghế xuống đất.

Anh ta sợ tới mức toàn thân run rẩy tới tìm tôi. Tôi nói với anh, nhìn thấy bất kì hình tướng gì, bất kể là tướng thiện hay tướng ác đều không cần phải sợ hãi, tiếp tục ngồi xuống trì chú, những huyễn tướng này chắc chắn sẽ biến mất. Nhưng học trò này của tôi lá gan rất bé, hễ nhìn thấy mặt quỷ hung ác là hết lần này tới lần khác rụt lại không dám tiếp tục nữa.

Cuối cùng, tôi nói với anh rằng, anh hãy chuẩn bị một cây bút lông, chấm đẫm mực đen, nắm chặt cây bút lông ngồi thiền, hễ thấy mặt quỷ hiện lên thì vẽ một cái lên mặt nó để xem xem nó là cái thứ gì. Anh ấy làm theo như vậy, kết quả là tay phải của anh cầm bút lông, khi vẽ một cái thì không ngờ lại vẽ lên tay trái của chính mình, thế là trong lòng bàn tay trái có chữ XX to đùng.

🌟

Vì việc này mà tôi đã thỉnh giáo Phật Bồ Tát. Phật Bồ Tát trả lời rằng: "Việc này là do kiếp trước, tay trái của người này tích lũy nhiều nghiệp sát. Kiếp trước anh ta bị què tay trái, vốn là một đồ tể. Nhưng trong lòng vẫn muốn hướng Phật, có quy y pháp sư, cổ vũ Phật giáo bằng việc xây chùa, ấn tống kinh sách. Do vậy kiếp này anh ta được tiếp cận thiện tri thức, học tập đạo công thiền định, nhưng tay trái tạo sát nghiệp vẫn chưa hết, do vậy mới có mặt quỷ hiện lên để dọa và ngăn trở đạo tâm của anh ta. Đây cũng là oan nghiệp đeo bám. Nếu công phu trì chú đủ lâu thì oan nghiệp này sẽ tiêu tan, mặt quỷ sẽ tự bỏ đi."

Tôi kể lại với anh chỉ thị của Phật Bồ Tát, anh đột ngột tỉnh ngộ. Anh nói: "Chẳng trách không chỉ nhìn thấy mặt quỷ mà đồng thời cũng ngửi thấy mùi máu tanh nữa, mỗi lần trước khi nhìn thấy mặt quỷ thì đầu tiên sẽ nhìn thấy một bàn tay có dính vết máu mờ mờ, sau đó bàn tay này mới hóa thành mặt quỷ." Sau khi anh đã lĩnh ngộ được điều này, từ đó anh không còn sợ nữa, lại càng chăm chỉ trì chú hơn, công phu suốt một năm trời thì mặt quỷ kia cũng biến mất không thấy đâu nữa.

🌟

Trường hợp khi thiền định nhìn thấy các hình tướng là cực kì nhiều. Khi tôi mới học ngồi thiền, các hình tướng tôi nhìn thấy càng nhiều. Mẹ tôi cũng học ngồi thiền, mỗi lần đều nhìn thấy thần khẩu (ý bảo bà hãy trì chú nhiều hơn). Người trì trú tinh tấn trong số các đệ tử thì ai ai cũng đều thấy.

Nếu xuất hiện hung tướng thì nhìn chung là do nhiễm nghiệp ma mà sinh ra, nhưng đừng sinh tâm nghi hoặc, cũng không cần phải ngạc nhiên, nghiệp ma trước mắt sẽ tự động tiêu trừ, hãy hoàn toàn lờ đi mà nỗ lực tinh tấn, thời gian qua đi các hung tướng này có thể sẽ không còn gặp nữa.

Có người hỏi tôi, tập trung tinh thần vào việc niệm tụng, chăm chỉ cổ vũ thân tâm, không để cho mình lười biếng, vậy sao lại xuất hiện hung tướng? Tôi trả lời rằng, mỗi người thiền định, khi tiến gần đến thành tựu, chắc chắn sẽ có đủ loại ma chướng xuất hiện, chúng ta cần giữ định tâm không sợ hãi, cũng đừng nghi ngờ, đừng chấp vào tướng đó, dù có thấy cũng như không thấy, đừng để bị quấy nhiễu, tự nhiên ma tướng sẽ rời đi.

🌟

Trong thiền định cũng sẽ có thiện tướng xuất hiện, ví dụ như nhìn thấy Phật Bồ Tát trang nghiêm hiện ra kim quang, nhìn thấy các vị phi thiên tiên chúng của cõi trời, nhìn thấy phong cảnh diệu kì của Tây phương cực lạc thế giới, nhìn thấy thiên nữ rắc hoa, nghe thấy diệu pháp âm của Phật Bồ Tát, thậm chí nhìn thấy nhân quả ba kiếp của bản thân.

Cũng có người cảm thấy thân thể chính mình biến thành to cao lồng lộng, như một ngọn núi lớn đỉnh vươn tới tận trời. Hoặc thấy mình đến núi tiên, ăn các loại hoa quả thơm ngon, hoặc cảm thấy thân thể mình có thể bay qua biển, tiến nhập vào tiên cung nhiều lầu, hoặc ngồi trên đài hoa sen, khắp nơi đều là hoa sen. Hoặc nhìn thấy các loại ánh sáng màu sắc, hít vào đủ loại diệu quang. Ngoài ra có người tự cảm thấy răng rơi ra và tái sinh, tóc bạc biến thành tóc đen, thân thể sạch sẽ, trong suốt như ánh sáng. Các hiện tượng này đều là thiện tướng, cho thấy rằng các tội chướng từ vô thủy của bạn đã tiêu diệt hết rồi.

🌟

Thiền định có hung tướng là do nghiệp ma vẫn chưa diệt trừ hết. Từ hung tướng có thể tu đến khi có thiện tướng, nếu thiện tướng xuất hiện thì cho thấy tội chướng từ vô thủy đã hoàn toàn tiêu trừ. Nhưng cũng phải xem thiện tướng là hư huyễn, đừng tham luyến bám chấp, không thể vì để được thấy những thiện tướng này mà đi ngồi yên thiền định.

Cần biết rằng bất kể là tướng thiện hay tướng hung thì đều là do nghiệp duyên hóa hiện lên, đừng bám chấp vào nó, đừng khoe khoang, đừng chọn hay bỏ thì tự nhiên sẽ có cảnh giới cao hơn sản sinh ra.

🌟

Có một số pháp sư tu hành không nắm được những điều chính yếu, cả đời tu hành, nhưng bởi chưa trải qua việc "nghiệm thành hành tướng", chẳng bao giờ nhìn thấy cái gì cả, thế là hễ nghe có người nói nhìn thấy cái gì đó, là liền hét lớn "tẩu hỏa nhập ma" rồi, đây cũng là một kiểu phản ứng quái dị, là do bị thiên ma quấy nhiễu, nói tóm lại là cứ làm loạn cả lên.

Kì thực, không nhìn thấy cái gì cả là thể hiện việc tu hành của pháp sư đó vẫn chưa tiến nhập vào cảnh giới "nghiệm thành hành tướng". Có thể pháp sư đó cho rằng họ tu "vô tướng pháp", cho nên mọi hình tướng đều là yêu ma quái dị, câu nói này cũng không sai. Nhưng vô tướng pháp là quả của vô thượng bồ đề, là thành tựu cửu phẩm cực kì khó đạt được. Ngày nay, tôi từ hữu tướng tu đến khi vô tướng, tôi cho rằng hữu tướng cũng là pháp, xin các pháp sư đừng phỉ báng hữu tướng mới là phải đó.

🌟

Tác giả khi mới học chú ngữ, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói, chú lực có lớn có nhỏ, các hình tướng (cảnh giới) hiện ra của nó không giống nhau, cần ta lĩnh hội được toàn bộ mới có thể độ được chúng sinh hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm. Do vậy những gì mà tôi đã tu học có cả thần chú của quỷ thần, cũng có cả chú ngữ yết ma, có chú của chư Thiên, có chú của Kim Cang Thần, thậm chí là chú của chư Bồ Tát, chú ngữ của chư Phật.

Để độ cho chúng sinh thượng phẩm thì dùng chú của chư Phật Bồ Tát, độ chúng sinh trung phẩm thì dùng chú Kim Cang Thần, chú chư Thiên, độ chúng sinh hạ phẩm thì dùng chú của quỷ thần, để cho tất cả đều được thành tựu mà không bị thiếu sót mất ai.

🌟

Thầy của tôi, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là vị tổ sư vô hình vô tướng, nhưng vì hiển hóa mà đã hóa thân thành chín đỉnh núi, được phân chia bởi ba đường ánh sáng màu xanh lam, tôi đã vẽ lại hình ảnh này và được in trong cuốn "Linh Tiên Phi Hồng Pháp". Đây là một trong những hình tướng mà trong quá khứ tôi đã thu thập không tiết lộ ra. Thành tựu này cũng không phải là hạng tầm thường.

12. Thần quỷ tóc bạc xin quy y

Trong số rất nhiều học trò của tôi, có một học trò vô hình. Vì là không có hình tướng nên là phi nhân, và cũng là phi tiên. Bởi vì không phải là người không phải là tiên, nên tự nhiên nếu không phải quỷ thì là ma. Trong việc này cũng có căn nguyên, cũng xem như là duyên phận.

Vốn là trong một pháp hội siêu độ, tôi nhìn thấy phía đông nam có một cụ già tóc bạc bay tới. Tư thế bay lượn của cụ già tóc bạc này rất đẹp đẽ, không lù đù lờ đờ giống như loài ma.

Lúc đó trong lòng tôi thầm thốt lên: "Chà! Thực sự quá thần kì, quá đẹp đẽ." Cụ già tóc bạc, trong tay cầm một một thanh kiếm thất tinh, bay tới gần, lúc này tôi bắt đầu mới thấy cụ rất đáng sợ, mặt tái mét, hai răng nanh trắng ệch thò ra ngoài.

Cụ dừng lại trên không trung một lát, nhìn tôi trong pháp hội đang làm thủ ấn, sau đó mới từ từ bay xuống. Lúc này các loài ma quỷ nhìn thấy cụ hung ác liền lũ lượt trốn hết để tránh đường.

Tôi hỏi cụ già tóc bạc: "Cụ là thần gì? Xin tiếp nhận cúng dường của chúng tôi." Cụ già tóc bạc nói: "Liên Sinh, tôi là thần quỷ tóc bạc, khi còn tại thế, tôi tu Thanh sĩ Mật tông, cũng chính là phái Hoa giáo như mọi người vẫn gọi. Tôi quy y Tát Già Ba đại sư, tu pháp Đại viên thắng huệ, nhưng vì vội vã nóng nảy nên tôi đã bỏ cuộc nửa đường. Sau khi qua đời được phong là thần tác chủ, tôi đã hiện về báo mộng cho một thần đàn, thần đàn đã cho điêu khắc tượng kim thân của tôi để thờ cúng, nhận hương hỏa của nhân gian."

"Chà! Không ngờ hóa ra lại là cao nhân tiền bối." - Tôi nói. Cụ già tóc bạc tiếp tục nói: "Về sau, tôi gặp một người tu đạo, người này nói rằng tôi không có thần cách, nên đã niệm chú cấm lên tượng kim thân của tôi, rồi tùy tiện quẳng tôi cho một tiệm điêu khắc, tôi không thể nhận cúng dường của nhân gian được nữa." "Còn bây giờ thì sao?" "Tôi đến đây để cầu xin pháp sư tìm lại tượng kim thân của tôi, giải chú cấm, tôi nguyện quy y Liên Sinh Thượng sư." Nói rồi cụ liền quỳ xuống, hướng về tôi lạy một lạy, tôi vội vã đỡ cụ đứng dậy và liên tục nói: "Không thể nhận cái lạy này, không thể nhận. Tát Già Ba đại sư là giáo chủ của Mật tông Hoa giáo, Liên Sinh tôi vô công vô hành, không dám nhận lạy, tôi đồng ý giúp cụ là được rồi."

🌟

Sau pháp hội, tôi lưu ý việc này trong lòng, tìm một buổi tối rảnh rỗi để đi đến tiệm điêu khắc kia. Tôi ở khu vực cửa kính trưng bày của tiệm điêu khắc tìm kiếm hồi lâu, vẫn không thấy kim thân của thần ma tóc bạc. Ở đó có Tế Công, Huyền Thiên Thượng Đế, Quan Công, Quan Thế Âm Bồ Tát, Thiên Thượng Thánh Mẫu, Na Tra Tam Thái Tử và các tượng thần, Phật phổ biến thông thường. Tôi hỏi thợ điêu khắc của cửa tiệm, họ lắc lắc đầu nói "không có". Tôi tìm đến chủ nhân của tiệm điêu khắc, ngay cả người chủ của cửa tiệm cũng không biết tượng thần nào tóc bạc trắng, cầm kiếm thất tinh. Lần này tôi rơi vào trong màn sương vạn dặm rồi.

Đúng vào lúc tôi chưa nghĩ ra cách nào thì vừa hay vợ của ông chủ tiệm trở về nhà, ông chủ hỏi bà nhà sự việc này. Bà ấy nghĩ một lúc rồi nói: "A! Có, hai năm trước, có một đạo giả cầm một bức tượng thần đến đây, nói rằng để chúng tôi tùy ý xử lý. Đúng là tượng đó có hình dáng như vậy, tôi tiện tay lấy giấy báo cũ gói lại, rồi cất vào nhà kho ở tầng trên.

Thế là tôi cùng với ông chủ đi vào nhà kho, tìm kiếm khoảng hơn mười phút mới tìm thấy trong một đống lớn tượng thần thiếu chân thiếu tay, quả nhiên đúng là một vị tóc bạc trắng như tơ, tượng thần có tướng mạo hung ác, mặt xanh răng nanh dữ tợn, tay phải cầm một thanh kiếm thất tinh. Thế là tôi trả giá để mua bức tượng, thỉnh về nhà, khai quang điểm nhãn lại từ đầu cho tượng, giải trừ chú cấm, trong lòng không giấu được niềm vui.

🌟

Đêm đó, thần quỷ tóc bạc tới gặp tôi, và một lần nữa tiếp nhận quy y chính thức. Thầy giáo tôi đây lại phải hỏi ngược lại lại học trò: "Thế nào gọi là quỷ?" "Tu sai pháp, chưa chứng ngộ, hành vi dị thường thì được gọi là quỷ." "Thế nào gọi là thần?" "Chỉ là thiện ma mà thôi." "Thế nào gọi là ma?" "Người chết rồi thì đều là ma."

Theo cách giải thích của thần quỷ tóc bạc thì các tượng thần thông thường nếu bị niệm chú cấm thì sẽ không thể nhận cúng dường của nhân gian được nữa, trong một năm chỉ có được một ngày là tự do bay lượn.

Từ lâu cụ đã biết đến lai lịch và quá khứ của tôi, thế là cụ liền chọn một ngày có pháp hội để đến thỉnh cầu tôi giải trừ chú cấm. Năm đầu tiên, cụ đã tìm đến một đại pháp sư khá nổi tiếng, cũng vào một pháp hội lớn, hy vọng đại pháp sư giải được giới hạn của chú cấm. Nhưng đại pháp sư kia đầu đội mũ Ngũ Phật, ngồi trên pháp tọa, thực sự lại chỉ là một pháp sư danh tiếng rởm.

Thần quỷ tóc bạc đến đó thì đại pháp sư kia chẳng nghe chẳng thấy gì, lại còn tự diễn như thật, tiếp tục lừa bịp thế nhân. Pháp sư đó lại còn đi diễn giảng khắp nơi, danh tiếng vang khắp cả nước nữa. Làm trò cả nửa ngày trời, hóa ra vẫn chỉ là một tục tăng hữu lậu đái dầm ban đêm mà thôi.

Thần quỷ tóc bạc đã chờ đợi một năm vô ích nên vô cùng tức giận. Đến năm thứ hai thì mới tìm được tôi.

🌟

Tôi đáp ứng yêu cầu của thần quỷ tóc bạc, tìm một ngôi chùa quen biết, kể với trụ trì về lai lịch của thần này, yêu cầu trụ trì thờ cúng ở một nơi bí mật tách biệt, không để cho tăng ni nhìn thấy hung tướng của thần này, tránh dẫn tới những thị phi phiền toái. Tôi vốn muốn thờ cúng thần này, nhưng thần nói không được, trên đời làm gì có lý nào sư phụ lại thờ cúng học trò.

Thần nói: "Liên Sinh, tôi nói thật với ngài, tôi là quỷ." Tôi nói: "Không hiểu." "Năm xưa, tôi tu Đại viên thắng huệ pháp, quá vội vã sốt ruột, nên tôi đã dùng máu của mình để cúng Phật. Bởi vì tôi cắt quá rộng nên máu chảy không dừng mà chết. Cuối cùng trong lòng tôi cảm thấy tức tối, tôi không làm việc thiện nữa mà chuyên uống máu bẩn. Giờ đây tôi sống nương nhờ chùa Phật, theo Địa Tạng Vương Bồ Tát, mong được Bồ Tát chỉ dẫn, thu về tâm ma, chuyển ma thành Phật, như vậy có thể chứng đắc."

Tôi chúc phúc cho thần quỷ sớm có ngày đắc chứng.

13. Thiên ma tâm pháp

Khi tác giả còn ở trong nước [Đài Loan], bởi vì là người tạo ra "linh tiên tâm pháp", là tông phái tu hành bắt đầu từ khởi linh để có được cảm ứng. Vì thế tôi bị rất nhiều các vị trưởng tông phái khác hiểu nhầm tôi là ngoại đạo tà môn, có một số vị trưởng tông phái còn nói tôi là "thiên ma chuyển kiếp", cố ý tự tạo lập tông phái, làm hỗn loạn đạo đức Phật giáo. Nói Lư Mỗ tôi là "hỗn thế đại thiên ma vương", người nào theo tôi học linh tiên tâm pháp sẽ biến thành ma cháu ma con tẩu hỏa nhập ma hết.

Đối với những lời bình luận phỉ báng này của các trưởng tông phái, tôi rất hiếm khi đi giải thích, cũng chẳng buồn đi giải thích, chỉ là tôi đi đường tôi, tôi qua cầu tôi, việc tu hành vốn có trong tâm tôi, chẳng có liên quan gì đến người khác. Tôi đã thực sự có những gì tôi chứng đắc được. Ngược lại các trưởng tông phái, những ai đã đắc chứng thì tự nhiên sẽ không có lời nào để nói, còn những kẻ nửa đêm lén tè bậy thì biểu hiện bên ngoài trang nghiêm nhưng trong lòng thì nhỏ nhen, thử nghĩ xem, thực sự khiến người ta cảm thấy kinh tởm cực kì. Kể cả tôi có là "hỗn thế đại thiên ma vương" thì tôi cũng vẫn quang minh chính đại hơn những người giả Phật giả đạo giả bộ bên ngoài là chính phái. Tôi không sợ nhìn thấy kim cang bảo kiếm dựa trời mà run, còn thực sự nên xử trảm những kẻ giả Phật đạo "mặt thiện tâm ác" này. Rồi sẽ tới lúc thời gian có thể nghiệm chứng từng người một.

🌟

Theo kinh nghiệm của tôi, trong cùng bất kì một tông phái, một pháp môn, một pháp nào cũng đều có người thành Phật, có người lại thành ma. Hiển giáo, Mật giáo, Đạo môn, tất cả đều giống nhau, tôn giáo nào cũng có cảnh giới tột cùng của nó, cái nào cũng có cửa phụ, cái nào cũng có hoàn hảo khiếm khuyết, cái nào cũng có tà có chính.

Lấy ví dụ Mật tông, Tạng mật phân thành bốn giáo phái:

  • Thứ nhất là Hồng giáo, còn được gọi là dòng Cổ mật, tổ sư là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, cảnh giới cao nhất của phái này là pháp Đại Viên Mãn.
  • Thứ hai là Bạch giáo, còn được gọi là Kinh tông, tổ sư là đại sư Marpa, cảnh giới cao nhất của phái này là pháp Đại Thủ Ấn.
  • Thứ ba là Hoàng giáo, còn gọi là Tân mật, tổ sư là đại sư Tsongkhapa (vốn là một tăng nhân của phái Hồng giáo), cảnh giới cao nhất là pháp Đại Uy Đức Kim Cang.
  • Thứ tư là Hoa giáo, còn gọi là Thanh sĩ Mật tông, tổ sư là đại sư Tát Già Ba, cảnh giới cao nhất là pháp Đại Viên Thắng Huệ.

Trong chương trước, tác giả đã ghi lại chuyện về thần quỷ tóc bạc chính là người đã tu hành pháp Đại Viên Thắng Huệ của phái Hoa giáo, vẫn chưa thành tựu mà lại thành ma đạo. Ngoài ra Tây Tạng còn có Bổn giáo (Đạo Bon), chính là một tên gọi khác của Hắc giáo, làm tà pháp, chuyên hại người, do vậy không được xếp vào trong số các tông phái chính đáng. Nay có người tên là Lâm Vân, giả xưng là truyền nhân duy nhất, đã gây ra nhiều vấn đề lung tung lộn xộn, thậm chí còn làm lớn tới mức lập ra phong thủy Mật tông, trở thành một hình tượng không đúng đắn. Tác giả đã từng chỉ ra cái đúng, mong ông ta sớm biết sai mà hối cải, tránh phải chịu khổ của địa ngục vô gián.

🌟

Dựa theo cách nói của thập pháp giới thì Phật giới là quang minh trong suốt, người mà tâm không nhiễm dù chỉ một sợ tơ mỏng thì chính là đạt đến cảnh giới cao nhất. Còn đối với mười thánh vị Bồ Tát, thì tâm chỉ còn một màn mây bụi cực kì nhỏ, cũng xem như là những hạt cát bụi vô minh, kiến hoặc vẫn chưa dứt. Nếu kiến hoặc và tư hoặc vẫn chưa hoàn toàn đoạn trừ thì là Bồ Tát tam hiền vị.

Nếu nhìn chung tâm lượng không thể hoàn toàn toàn vẹn viên mãn thì cũng nhập vào Hữu dư niết bàn, thì được gọi là Thanh Văn, Duyên Giác. Thanh Văn còn được gọi là Tự Liễu La Hán, tự mình thoát được sinh tử, nhưng không độ chúng sinh, tâm lượng quá nhỏ hẹp, thì không có cách nào để toàn vẹn viên mãn được. Ở trên chính là cảnh giới của Tứ thánh, là thành tựu chân tâm.

🌟

Còn như chuyên tu thiện nghiệp, công đức thành tựu nhờ quang minh thiện nghiệp thì chính là cảnh giới vui vẻ của chư Thiên. Còn cảnh giới của atula là ánh sáng của thiện nghiệp rất mãnh liệt, nhưng tâm tham vẫn chưa diệt trừ, nên tranh đấu không ngừng, tạo thành cảnh giới "có phúc mà không có đức".

Thế giới của con người thì thiện ác không khác nhau nhiều lắm, tỉ lệ tương đương, do vậy cõi người là nửa thiện nửa ác, là cảnh giới thị phi phức tạp. Mặc dù người tốt không ít, nhưng các thế lực ác thì cũng rất lớn mạnh.

Đạo súc sinh thì tham niệm mạnh nhất mà tạo thành cảnh giới này, do vậy mà trọng dục thiểu trí. Đạo ngạ quỷ thì tâm sân hận rất nặng, cũng lại là cảnh giới không có thiện nghiệp. Còn đối với đạo địa ngục thì hoàn toàn không có chút thiện nghiệp nào, quang minh mất sạch, làm toàn ác nghiệp, là cảnh giới phải chịu khổ chịu nạn. Sáu cảnh giới tầm thường này là do vọng tâm tạo nên.

🌟

Tuy nhiên, cảnh giới thiên ma của Cứu cánh thiên ma tâm pháp nằm ở đâu? Thiên ma rốt cục như thế nào thì mới biến thành thiên ma? Kì thực thiên ma cũng là cư sĩ, pháp sư, đại đức tu hành các pháp. Cảnh giới của họ mặc dù vẫn chưa thể so sánh với Phật Bồ Tát, nhưng tôi gọi cảnh giới của họ là "Thiên Phật", "Thứ Bồ Tát", "Thiên Ma". Cảnh giới của Thiên Ma gần như cao tương đương với Phật, Bồ Tát, chư Thiên, thành tựu của họ lại càng không phải là tầm thường.

Cơ Đốc Giáo xếp hạng quỷ thần là: Jehovah - Jesus - ma quỷ. Vị trí của ma quỷ chỉ xếp sau Jesus, tương đương với hàng thần thánh, thậm chí là đứng đầu thần thánh nữa.

Tôi sắp xếp Thiên Ma như sau: Thiên Phật Thiên Ma --- thành tựu Phật pháp, nhưng vẫn còn một ít bám chấp. [ ND: Chữ "Thiên" trong "Thiên Phật" ở đây là sai, lệch, trong ý nghĩa của những từ như thiên kiến, thiên vị…, không phải ý nghĩa "trời" ]

Thứ Bồ Tát Thiên Ma --- thành tựu đạo Bồ Tát, nhưng còn một ít tâm phân biệt. [ ND: Chữ "Thứ" trong "Thứ Bồ Tát" ở đây có nghĩa là phụ, kém hơn, trong ý nghĩa của những từ như thứ yếu, thứ phẩm, thứ cấp… ]

Ma Thiên Thiên Ma --- thành tựu chư Thiên, nhưng còn một ít tâm bất bình đẳng. Tôi thực lòng thực sự nói để chúng sinh trong thiên hạ được biết, tu hành của Thiên Phật Thiên Ma không khác gì so với Phật, tu hành của Thứ Bồ Tát Thiên Ma cũng không thua kém gì Bồ Tát. Thiên ma của Ma Thiên cũng thành tựu mọi niềm vui của chư Thiên.

🌟

Sự khác biệt giữa Phật và Ma giống như một tờ giấy trắng. Bất kì cảnh giới nào cũng đều có ma tồn tại. Do vậy tâm pháp của ma cũng không hề thấp kém hơn, ngược lại mỗi loại lại tự thành tựu một cảnh giới hoàn toàn mới. Ma cũng là một trong những kiểu tu hành thành tựu giả, hoàn toàn không thể coi thường. Thiên Ma muốn biến thành Phật thì chỉ cần buông bỏ ba loại tâm bám chấp, phân biệt, bất bình đẳng là có thể một cách tự nhiên chuyển từ "thiên" thành "chính". Nhưng việc tu thành tựu Thiên Ma cũng có nhân duyên của nó tồn tại, việc buông bỏ ba tâm kia xem ra thì dễ, thực tế cũng không đơn giản.

Có người cho rằng, Thiên Ma thì chắc chắn là chuyên môn làm việc xấu, kì thực đây là sai lầm chết người. Thiên Ma chỉ là tu hành vẫn chưa xong mà thôi, thậm chí có rất nhiều Thiên Ma cũng khuyến thiện. Hôm nay, tôi đã viết ra toàn bộ bộ mặt thật của Thiên Ma, không còn giữ trong lòng nữa, e là sẽ khiến cho các vị trưởng tông phái sửng sốt kinh ngạc, rồi lại đổ lỗi rằng đây là do Ma nói rồi.

14. Chiếc mũ của Thành Hoàng tôn thần

Người thân, bạn bè, bạn đọc của tôi ở trong nước đều biết rằng, Lư Thắng Ngạn tinh thông Kinh Dịch, không chỉ giỏi thực hành khoa tâm linh Đại Lục Nhâm [ND: lục nhâm là phép bói toán tính theo ngũ hành], mà buổi tối còn quan sát hiện tượng các vì sao mà biết được việc đại sự trong thiên hạ, nhìn núi sông địa lý là biết phong thủy hưng vượng, ngũ hành cửu tinh đều nắm vững trong đầu, không những có thể giải trừ cát hung họa phúc mà còn có thể cứu người trong những lúc nguy cấp khốn cùng, hiển hiện Tiên pháp, độ chúng sinh vô số.

Nhưng cũng có người cho rằng tôi bốc phét, được thôi, "trâu không phải để thổi, đầu xe lửa không phải dùng để đẩy" [ND: ý của câu nói này là giờ thì tôi nói thật đây này, vì trong tiếng Trung, từ "thổi trâu" là một từ tiếng lóng, có nghĩa là khoác lác, bốc phét], giờ thì hãy nghe tôi thuật lại chi tiết một câu chuyện có thực như sau đây.

🌟

Năm đó, tôi còn ngụ tại tòa nhà chung cư Nghi Hân ở Đài Trung, có một người từ Gia Nghĩa đến xin tôi đoán vận mệnh. Người này mở công ty xây dựng, họ Vương. Ông cùng vợ đến nhà của tôi.

Tôi nói: "Tôi không đoán vận mệnh của ông được." "Vì sao? Vận mệnh của tôi không bói chuẩn được sao?" "Không phải không chuẩn, mà là vì chuẩn quá, do vậy tôi không bói." "Ông nói thế là có ý gì, tôi đi rất xa từ tận Gia Nghĩa tới đây, từ sáng sớm đã lên đường, hơn nữa chúng tôi đã phải báo danh hai tháng trời mới đến lượt. Ông không bói, chẳng phải là cố ý gây khó dễ cho người ta sao." - Người khách có đôi chút tức giận. "Nói vậy thì tôi chỉ còn cách nói thật, xin đừng tức giận." "Hỏi hung không hỏi cát, xin cứ nói thật đừng ngại, tôi không cấm kị gì cả."

Tôi viết lên giấy một bài kệ rồi đưa cho ông ta đọc. "Ngày nạn ma đến nhà Bát vỡ, chủ thương vong Không quá ba ngày sau Người thân hết đau xót." Ông đọc xong, thấy mông lung không hiểu ý nghĩa trong bài thơ, ông hỏi: "Đây là tai nạn gì?" "Tôi không dám giấu ông, sau ba ngày nữa ông sẽ chết."

Tôi nói xong, vợ chồng họ mặt mày biến sắc, còn những người xung quanh thì kinh hãi. Trước nay người xem bói chỉ đoán xem người ta lúc nào gì sẽ giàu, khi nào sẽ bị mất tiền, vợ chồng, gia đình có viên mãn không, hôn nhân tốt hay không tốt, con cái có mấy người, lúc nào thì quan vận hanh thông, sức khỏe thế nào ra sao, về già vận tốt hay không tốt. Chẳng có ai giống như tôi, vừa mở mồm ra là bảo người ta ba ngày sau sẽ chết, hơn nữa lại còn nói chắc như đinh đóng cột là chắc chắn sẽ chết, lại còn đưa ra hạn định ngày giờ là ba ngày, không hề có chút vòng vo nào.

🌟

Ông Vương nói với những người xung quanh: "Chết mẹ nó chứ, thân thể tôi cường tráng thế này, ba ngày sau sẽ chết ư, tôi không tin. Lư Thắng Ngạn cái quái gì, tôi thấy ông ta đúng là đồ điên."

Tôi mặc kệ ông ta. Tôi nói với vợ ông rằng, ba ngày sau, nếu thực sự có nguy cấp, xin hãy gọi điện cho tôi, tôi sẽ dạy cho mọi người cách giải cứu, nếu không có pháp giải của tôi thì chắc chắn sẽ chết. Ông Vương lôi vợ của ông bỏ đi, ngay cả chào tạm biệt cũng không, chỉ nói một câu rằng: "Một tháng nữa tôi chắc chắn sẽ tới tìm ông."

Vì sao tôi lại phán đoán rằng ba ngày sau ông Vương sẽ chết, bởi vì trên người ông ấy đã bị quỷ ám vào, con quỷ đó nằm ở nơi cổ, qua một ngày nữa sẽ xuống đến tim, qua thêm một ngày nữa sẽ xuống đến bụng. Tôi thông linh với con quỷ này, quỷ nói: "Đây là nghiệp chướng kiếp trước, xin đừng cứu ông ta, ba ngày sau ông ta sẽ chết." Ma quỷ đến hại người cũng vì nghiệp chướng nên mới làm như vậy, chứ không hề tùy tiện hại người.

🌟

Đúng vào buổi sáng ngày thứ ba, trong lúc ăn sáng, con gái của ông Vương không cẩn thận đã làm rơi vỡ một cái bát. Ông Vương nổi giận đùng đùng, lôi con gái ra đánh cho một trận gần chết.

Đến buổi tối hôm đó, ông Vương hẹn một người bạn đến nhà nhậu nhẹt, chuẩn bị chuyển qua giờ Tí [ND: 11 giờ tối đến 1 giờ sáng hôm sau] thì cũng là sắp sang ngày thứ tư, do vậy phán đoán của tôi có phần sai rồi.

Vừa uống rượu được một lúc thì ông Vương bị đau bụng, cơn đau này rất dữ dội, khiến ông hét lên mấy tiếng, rồi đột nhiên ngã lăn ra đất, sắc mặt trắng bệch, đồng tử mắt không còn sáng, môi miệng thâm tím, móng tay biến thành màu xanh.

Bạn ông lập tức gọi bác sĩ tới, bác sĩ lắc lắc đầu, không tìm ra được nguyên nhân, lúc đó nhịp tim ông Vương cũng đã rất yếu, đưa tới bệnh viện cũng không tỉnh lại, đã phải dùng tới máy sốc tim nhưng ông vẫn bất tỉnh. Đường đường là một người rất cường tráng, nhưng vừa đau bụng một cái thì tứ chi cũng bất động luôn.

Bà Vương thấy tình hình không ổn, sự thể nguy cấp quá rồi nên đã vội vã gọi điện cho tôi.

Tôi nói: "Đừng hỏi nguyên nhân, bà mau tới miếu Thành Hoàng ở Gia Nghĩa, đưa ít tiền cho người quản lý, hướng đến Thành Hoàng Tôn Thần nói Lư Thắng Ngạn muốn mượn mũ của ngài để dùng một lát, rồi xin thỉnh mũ của Thành Hoàng xuống, sau đó đưa cho chồng bà đội ba lần, làm như vậy sẽ được cứu."

Bà Vương nghe xong lời dặn dò của tôi thì lập tức làm theo, khiến cho người quản lý miếu lẫn bác sĩ đều chẳng hiểu chuyện gì. Thế rồi sau khi đội mũ lên ba lần thì ông Vương liền đánh rắm mấy phát, thực sự khiến cho con quỷ không sao chịu nổi, từ thân ông thoát ra ngoài. Sắc mặt ông Vương chuyển thành màu vàng, nhịp tim từ từ bình thường, dần dần ông đã tỉnh lại. Cuối cùng thì đã thoát chết, ông đã được cứu rồi.

🌟

Một tháng sau, vợ chồng ông Vương lại đến Đài Trung, lần này không phải đến để lý sự, mà là đến để cảm tạ.

Mũ của Thành Hoàng Tôn Thần có thể trừ ma, đây đúng là chuyện không ai có thể tưởng tượng được! Thành Hoàng ở Gia Nghĩa là nghĩa phụ của tác giả. Khi còn nhỏ tôi khó nuôi nên đã được gửi đi làm con nuôi của Thành Hoàng. Còn Thành Hoàng ở Đài Trung là bạn tốt của tác giả, tôi có việc gì cầu đến ngài thì sẽ luôn được đáp ứng.

Thành Hoàng cũng có phân chia lớn nhỏ, Thành Hoàng của một đất nước là vị cao nhất, tiếp theo là thành Hoàng ở các thành phố, tiếp theo nữa là Thành Hoàng ở các tỉnh, cuối cùng là Thành Hoàng ở các huyện. Thành Hoàng Tôn Thần là một trong các vị của Thần Đạo, quản lý thổ địa bốn phương, cũng là chân Thần của linh giới, hưởng thụ hương hỏa của nhân gian.

Mũ của Thành Hoàng có nhiều linh khí tích tụ, người có bệnh mà đội lên đầu thì ma quỷ tức khắc phải tháo chạy.

Ở đây, tôi muốn đặc biệt giải thích một chút. Độc giả đừng cho rằng mũ của Thành Hoàng Tôn Thần có thể trừ ma, thế là người nào người nấy đều đi thỉnh về, lấy về, trộm về. Nếu không có chỉ thị của pháp sư, không được Thành Hoàng đồng ý, thì sẽ không có tác dụng lớn như vậy được, hoàn toàn không có chuyện mỗi người bệnh đội mũ lên ba lần là liền khỏi bệnh hết, xin mọi người đặc biệt lưu ý.

Tôi biết nếu tôi không đặc biệt giải thích như vậy thì mũ của Thành Hoàng trong cả nước này sẽ đều mất sạch không còn một dấu vết. Còn tôi thì chắc chắn sẽ bị đầu trâu mặt ngựa truy đuổi, còn Thành Hoàng Tôn Thần sẽ mắng tôi là: "Được lợi rồi lại còn bán đứng tôi, không xứng là bạn tốt!"

15. Mũ Ngũ Phật phá ma

Đúng lúc tôi viết chương sách "Chiếc mũ của Thành Hoàng Tôn Thần", đột nhiên mũi tôi ngửi thấy một mùi hương thơm nức, trong lòng tôi trào lên một cơn xúc động. Trước mắt tôi xuất hiện hào quang, nhưng tôi chỉ thấy bên dưới một áng mây đỏ có phần chóp màu tím có năm đóa hoa sen đung đưa bay đến. Có bông thì tỏa ra những tia sáng có màu sắc như sương tuyết, có bông thì lấp la lấp lánh như một tấm da cừu được may rất tinh xảo, có bông thì như một viên ngọc châu được gói ghém trong màn mây cát tường mờ ảo. Đúng là chỉ có Tiên, Phật cưỡi mây xuất nhập, phàm trần khó gặp được cảnh tượng này.

🌟

Hóa ra đóa hoa sen hiện ánh sáng trắng chính là Đông Phương Bất Động Phật, còn được gọi là A Súc Phật, tay ngài cầm chày kim cang.

Đóa hoa sen hiện ánh sáng màu vàng là Nam Phương Bảo Sinh Phật, tay cầm chuỗi hạt Mani. Đóa hoa hiện ánh sáng đỏ là Tây Phương A Di Đà Phật, tay cầm hoa sen màu sắc diệu kì. Đóa hoa hiện ánh sáng xanh lục là Bắc Phương Bất Không Phật, còn được gọi là Bất Không Thành Tựu Phật, luân thủ tương giao. Đóa hoa hiện màu xanh lam là Trung Ương Tỳ Lô Giá Na Phật, hóa hiện ra nghìn luân thủ. Ngũ Phật ngồi trên hoa sen, hiện giữa không trung, hào quang vạn tia, thụy khí nghìn sợi.

Tôi vội vã chắp tay cung kính lễ Phật, cầu nguyện thầm trong lòng: "Hôm nay thấy Ngũ Phật cùng hiện lên, cảm thán cho nỗi khổ của thiên đạo tuần hoàn, thời gian thì trôi vụt qua như bay rồi cuối cùng là chết, con người sống trên thế gian này rốt cục nhằm mục đích gì đây? Là vì tranh danh đoạt lợi sao? Vô ích, những gì tranh giành được chỉ như một đụn cát. Là vì để ăn ngon mặc đẹp sao? Sự sung sướng này đâu có vĩnh hằng. Chi bằng tôi niệm Phật tu tâm, thiền định, tĩnh lặng, tập trung khí, học pháp thành tựu để phục ma, viết văn viết sách về thế giới quan vô biên giới. Trên thế gian này, người ta cho rằng tôi là kẻ mê tín ngu si, kì thực họ sao biết được tôi đã cùng trời đất vũ trụ hợp nhất."

🌟

Sau đó Ngũ Phật, mỗi vị đưa ra bốn chữ trong không trung, tôi nhìn được đó là:

  1. Bao dung rộng lớn.
  2. Liêm chính không tham.
  3. Động tĩnh chăm tu.
  4. Cứu tai trừ nạn.
  5. Loại bỏ oán trách.

Sau khi chữ hiện ra, Ngũ Phật đột nhiên biến mất, tất cả chỉ còn không gian mênh mang, nhưng mùi hương thì vẫn còn vương vất.

🌟

Theo tôi được biết, năm vị Phật này cũng chính là năm vị trên mũ Ngũ Phật mà các pháp sư Phật giáo thường đội trên đầu. Mũ Ngũ Phật thường được đội khi các pháp sư làm pháp, mỗi lần trước khi làm pháp thì sẽ phải trai giới thanh tịnh, phụng thỉnh Ngũ Phật để thu nạp sự thanh tịnh cho mũ Ngũ Phật. Bởi vì Ngũ phương Ngũ Phật có sức mạnh đại uy thần, do vậy mũ Ngũ Phật cũng có sức mạnh hàng phục ma quỷ.

Khi pháp sư đội mũ Ngũ Phật trên đầu thì cũng tượng trưng cho Như Lai của năm phương đều đến trụ trên đỉnh đầu, cho phép pháp sư có thể đại diện cho pháp tướng và pháp lực của Phật, với đầy đủ sự trang nghiêm và uy lực. Lúc này pháp sư làm pháp có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh trong thiên hạ, việc hùng biện, diễn giảng, dạy dỗ không còn chướng ngại.

Tôi biết các pháp sư chân tu ngộ đạo, chỉ cần thu hút được sức mạnh của Ngũ Phật vào mũ, thì chiếc mũ Ngũ Phật này cũng giống như chiếc mũ của Thành Hoàng Tôn Thần, có thể hàng phục mọi ma quỷ.

Nhưng nếu là tục tăng giả tu, vẫn chưa ngộ đạo, mà cũng đội mũ Ngũ Phật, thì cũng chỉ như diễn viên hát ca kịch đội mũ mà thôi. Khi biểu diễn các trò ma thuật mới đội lên thì chiếc mũ Ngũ Phật này tự nhiên chẳng có chút công dụng nào. Phụng thỉnh Ngũ Phật không đến, tục tăng làm pháp cũng chỉ như diễn kịch, bản thân họ cũng đã là ma đạo, làm sao có thể trừ ma phá ma. Do vậy muốn phá ma, thỉnh mũ Ngũ Phật, đội lên đầu ba lần, xem xem có linh hay không.

🌟

Cần biết rằng uy thần lực của Ngũ Phật hoàn toàn không phải là nhỏ bé, mỗi vị lại có rất nhiều Bồ Tát quyến thuộc.

Ví dụ bốn phía xung quanh A Súc Phật là Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, Kim Cang Hỉ Tai Bồ Tát, Kim Cang Vương Bồ Tát, Kim Cang Ái Bồ Tát.

Xung quanh Bảo Sinh Phật là Kim Cang Bảo Bồ Tát, Kim Cang Uy Bồ Tát, Kim Cang Tràng Bồ Tát, Kim Cang Quyến Bồ Tát.

Xung quanh A Di Đà Phật là Kim Cang Pháp Bồ Tát, Kim Cang Kiếm Bồ Tát, Kim Cang Nhân Bồ Tát, Kim Cang Lợi Bồ Tát.

Xung quanh Thành Tựu Phật là Kim Cang Khí Bồ Tát, Kim Cang Ngữ Bồ Tát, Kim Cang Phụng Bồ Tát, Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát.

Xung quanh Tỳ Lô Giá Na Phật có Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát, Kim Cang Bảo Ba La Mật Bồ Tát, Kim Cang Pháp Ba La Mật Bồ Tát, Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ Tát.

Đương nhiên, Ngũ phương Ngũ Phật cùng hai mươi vị Kim Cang Đại Bồ Tát vẫn còn có nhiều hơn nữa các vị đại Bồ Tát khác là quyến thuộc của họ, Tứ Nhiếp Bồ Tát và Bát Cúng Bồ Tát thậm chí có thể biến ra hàng trăm vị, đầy khắp hư không, pháp lực vô biên.

Cho đến nay, tác giả vẫn chưa dám đội mũ Ngũ Phật, chủ yếu là vì tôi vẫn tự tu tại gia, chưa xuất gia. Mặc dù tôi đã chọn được mảnh đất tốt cho việc chân tu, nhưng ngày hoàn thành tịnh xá vẫn chưa tới, do vậy tôi cũng chưa dám đội.

🌟

Linh Tiên tịnh xá này của tôi ở thành phố Redmond bang Washington nước Mỹ, địa lý của Linh Tiên tịnh xá là do tôi tự lựa chọn địa điểm. Phía trước mặt có một hồ lớn, có một ngọn núi nguy nga cao chót vót với những đỉnh núi nhấp nhô, giống như một con rồng thủy tinh sống động. Cây cối trên núi xanh thẫm ken dày, còn dưới chân núi là hồ nước lớn như mặt trăng. Vẻ đẹp của hồ nước này chính là màu xanh thúy biếc. Xung quanh vùng đất này là những vùng cát bảo vệ vô hình. Khi tôi còn chưa xây dựng tịnh xá thì nơi đây chỉ là một bãi cỏ mềm rộng lớn mọc đầy ngọn rau su su, rất nhiều ngựa tới đây ăn cỏ. Mảnh đất này mọc lên ba cây tùng cao lớn và khỏe khoắn, sau này chắc chắn sẽ xuất hiện ba nhân vật hậu thế nổi danh thế giới.

Tôi cho rằng vùng đất này còn tuyệt vời hơn cả núi Thiên Thai, thần kì hơn cả núi Vũ Di, sống động hơn cả núi Cửu Hoa, duyên dáng hơn cả núi Nga Mi, có "võ" hơn cả núi Võ Đang, diệu kì hơn cả núi Chung Nam, hùng dũng hơn cả núi Thái Sơn, xanh mướt hơn cả núi La Phù. Mặc dù hiện tại tác giả vẫn chưa có dịp đi qua những ngọn núi này, nhưng cũng đã "thần du" không ít lần.

Lôi Môn Linh Tiên này của tôi thực cũng không kém gì, thực sự là một thắng cảnh thiên hạ vô song, là vùng đất số một ở nước Mỹ. Tôi đề lời bình là: "Cưỡi hạc xưng Thần phẩm, Linh Tiên đệ nhất gia." Vạn cổ tinh anh đều ẩn thân ở vùng đất này. Tôi mong muốn sau khi đến tu hành ở trên mảnh đất này, tôi có thể đội mũ Ngũ phương Ngũ Phật trên đầu, Ngũ phương Ngũ Phật sẽ ban quán đảnh đại trí huệ cho Liên Sinh tôi, khiến cho đạo tâm của tôi vĩnh viễn kiên cố, giúp tôi thực sự cất cánh bay lên. Ngũ phương Ngũ Phật hiện kim thân để cho tôi nhìn thấy. Tôi cũng biết sức mạnh phục ma của mũ Ngũ Phật.

Tôi viết một bài kệ như sau: "Ngũ Phật tự hiện ngọc hào quang Tường vân liên đài thật đặc thù Hàng ma chỉ nhờ kim cang lực Lôi Môn Linh Tiên truyền chân thư."

16. Lửa đốt ma nhập

Năm đó, khi tôi còn sống ở tòa chung cư Lạc Quần ở Đài Trung, có một cô gái đến gặp tôi, người nhà của cô gái trẻ này cũng cùng tới. Cô gái đi một mạch đến trước mặt tôi, biểu hiện của cô rất kì quái, ánh mắt đầy vẻ hung ác, tay phải cô giơ ra nắm đấm, chậm rãi huơ vòng vòng, quay giống như là cái cối đá xay gạo vậy, miệng cô thì vẫn tự lầm bà lầm bầm.

Tôi hỏi người nhà đến cùng cô việc này là thế nào. Họ nói với tôi rằng, có một lần cô gái đến chùa xem bói cầu hồn (là kiểu viết chữ trên cát). Thừa lúc thầy bói nghỉ tay, cô đã nhất thời hiếu kì cầm lấy kê bút (là bút nhọn được làm từ gỗ cây đào), không ngờ kê bút tự nhiên chuyển động, viết ra một mạch rất nhiều bài thơ.

Người trong chùa đều vô cùng sửng sốt, cho rằng cô gái này có huệ căn, thế là họ đặc biệt mời cô năng đến chùa để xem bói. Suốt một tuần đầu tiên không có gì khác thường. Cho đến một ngày, có một vị thần hạ giáng, cô gái hỏi thần: "Làm sao để tôi báo đáp ơn của thần minh?" Không ngờ vị thần này lại trả lời: "Ta sẽ cưới cô làm vợ."

Người ngồi ghi chép lại ở bên cạnh nghe vậy cũng rất hoang mang, ở đâu ra kiểu thần minh "chuối" như vậy, thế là anh ta cứ đứng đơ ra bên cạnh. Ngược lại, cô gái không hề bận tâm, cô cho rằng thần minh nói đùa với mình.

🌟

Khoảng hai ngày sau, cô gái bỗng ngửi thấy một mùi hương, thần trí đột nhiên trở nên mịt mờ. Buổi tối đi ngủ cô cảm thấy mình xuất thần đi chơi, lúc thì cưỡi mây, lúc thì cưỡi sương, lúc thì mơ hồ cảm thấy có người nằm cạnh…

Mỗi lần cô ngửi thấy mùi hương này thì cô lại đưa tay phải ra, làm động tác vẽ vòng vòng như lúc xem bói, miệng thì niệm những chú ngữ mà mọi người nghe không hiểu gì. Người trong nhà cô kể lại với người ở chùa, người ở chùa cho rằng đây là "thần minh đang dạy cô xem bói". Nhưng tình hình càng ngày càng nghiêm trọng, cô gái bất ngờ không ăn không ngủ, lại còn nói rằng không bao lâu nữa, thần minh sẽ thực sự lấy cô làm vợ, cô cần đi cùng thần minh. Mãi cho tới lúc này, người nhà mới nhận ra là tinh thần cô gái đã không còn bình thường nữa, sắc mặt cô vàng vọt, xung quanh mắt thì thâm tím. Họ vội vã đưa cô tới bệnh viện tâm thần để chẩn trị, nhưng càng chữa càng tệ, tới mức cô còn đánh người ta. Họ cũng đã đi hỏi rất nhiều thầy bói, họ đều nói rằng là do nhân quả kiếp trước. Họ cũng cho cô uống nhiều loại nước bùa rồi nhưng vẫn không khỏi.

Lúc này, tay phải cô gái vẫn làm động tác vẽ vòng vòng như cối xay gạo, ánh mắt rất ác, miệng thì vẫn lầm rầm không ngừng.

Đột nhiên, cô nói với tôi: "Lư đại sư, xin ngài hãy tác hợp cho chúng tôi." "Xin hỏi là ai?" "Tôi không phải là người, tôi là thần, tôi vốn là Tân Nguyên Soái của Ngọc Hoàng Đại Đế." - Miệng cô gái đó phát ra giọng đàn ông. "Nói láo, nếu là Tân Nguyên Soái thì là chính thần, làm gì có lý nào lại lấy con gái phàm trần làm vợ riêng, tôi không tin là Tân Nguyên Soái. Hãy rời khỏi người cô gái này thì mọi việc coi như xong, nếu không rời khỏi người cô gái này thì tôi sẽ dùng pháp để trị đó." "Ông có pháp gì? Dám phá hoại chúng tôi à." - Cô gái đó cũng cao giọng, cánh tay phải thì vẫn cứ không ngừng "xay gạo". "Dừng ngay tay lại, ở chỗ tôi đây không cần phải làm bộ làm tịch." - Tôi hét lớn.

Cô gái đột nhiên nghe lời, tay dừng lại, nhưng hai mắt vẫn nhìn một cách đầy tức tối.

"Pháp mà tôi dùng, hãy nghe cho rõ đây, tôi sẽ dùng pháp "phục ma hộ ma", là dùng lư hương mà tôi làm hỏa cúng và gỗ phục ma để trị ngươi." "Ông dùng gỗ gì cơ?" "Dùng gỗ đắng, là rễ của cây ma hoàng."

Lúc này, tên Tân Nguyên Soái giả này vừa nghe nói đến rễ cây ma hoàng thì toàn thân run rẩy, lảo đảo muốn ngã, nhưng cô gái thì lại chắp tay lạy lạy, nói: "Hôm nay mới gặp được minh sư, giữa chúng ta không có can thiệp vào chuyện của nhau, tôi đi là được."

Thế là, Tân Nguyên Soái giả kia vừa bỏ đi thì đôi chân cô gái trở nên yếu ớt tới mức phải nằm trên ghế sofa. Sau khi uống xong cốc nước, người nhà đưa cô về, nghe nói sau đó cô đã hoàn toàn bình phục, thật là may mắn.

🌟

Pháp hộ ma này vốn là một phương pháp của Mật tông, là phương pháp dùng gỗ hộ ma để đốt trong lư hương dùng để làm pháp.

Lửa đại diện cho pháp lực, ánh sáng và trí huệ của Phật. Gỗ đại diện cho phiền não, khổ nạn, ma quỷ.

Pháp đốt lửa hộ ma thì tùy vào tác dụng khác nhau mà lựa chọn gỗ để đốt cũng khác nhau. Ví dụ muốn tăng ích thì dùng gỗ của cây ăn quả, muốn kính ái thì dùng cây hoa, muốn triệu tập thu hút người khác thì dùng cây có gai, muốn hàng phục thì dùng gỗ đắng. Khi truyền pháp này cho tôi, thầy tôi từng nói với tôi rằng, muốn phục ma thì không thể không dùng rễ cây ma hoàng.

Đốt rễ cây ma hoàng trong lư hương, một mặt trì chú, một mặt niệm tên họ của đối phương, thì ma sẽ bị lửa pháp này đốt, bị đốt cháy đen sì mà chết.

Tác giả đã từng dùng pháp này để chữa khỏi cho ba người bị ma nhập. Trong lư hương, bọn chúng đều không ngừng kêu la oai oái, cuối cùng đều hóa thành tro, trở thành cục than đen sì. Bởi vì con ma ám trên người cô gái này vừa nghe tôi nói đến rễ cây ma hoàng là lập tức thấy rõ rằng khi bị tóm đuôi của mình rồi thì, cắt đuôi bỏ đi là đại cát.

Tôi cho rằng con ma này xem như vẫn còn thông minh, biết nắm lấy cơ hội, thế là còn khá. Còn bình thường, có rất nhiều những con ma cố chấp không sợ chết, thường thích gây sự, muốn so võ công cao thấp, lúc đó mới biết tiến lùi. Nhưng rễ cây ma hoàng cũng chỉ phù hợp để chế ngự những con ma ám vào thân mà thôi, còn những thiên ma ở cấp độ cao hơn những con ma này thì vẫn không có cách nào khống chế được chúng.

Riêng Tân Nguyên Soái thực sự là một đại tướng ngự tiền của Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, cùng với Đặng, Tân, Triệu, Trương hợp lại được gọi là Tứ Đại Nguyên Soái, phụng thỉnh mệnh lệnh phải tu Bộ Cương Đạp Đẩu, niệm chú vẽ phù. Khi tác giả học pháp cũng từng phụng thỉnh mệnh lệnh này. Tên giả Tân Nguyên Soái kia tưởng là lừa được pháp nhãn của tôi à, vẫn còn non lắm nhé!

17. Các loại ma nghiện

Giữa trời đất này, ma nghiện ở đâu đâu cũng có. Tác giả đọc sách, tình cờ đọc được bốn bài thơ Tây Giang Nguyệt.

"Bình Đế vong thân vì rượu độc Bên sông Lý Bạch cũng tiêu đời (*) Nước vô tình này xin đừng uống Say rồi tâm ý đều u mê."

[ (*) ND: Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Ông cũng nổi tiếng với thú vui thích uống rượu. Có lần khi rượu say, ông đã nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng trên sông mà bị chết đuối. ]

"Vĩ Sanh dưới cầu nước cuồn cuộn Ngô quốc Tây Thi thật đáng thương Tham luyến cành hoa rồi gặp họa Duyên lành lại hóa thành ác duyên."

"Có tài có thế là anh hùng Số chẳng gặp thời cũng uổng công Thạch Sùng xưa kia giàu mà chết Núi đồng chẳng cứu nổi Đặng Thông."

"Bá Vương tự vẫn tại sông Ô Chu Du có chí vẫn đoản mệnh Bao nhiêu mãnh tướng nơi trận tiền Đều vì tranh đấu mà vong thân."

Bình Đế là Vua Bình (Lưu Diễn) của nước Tây Hán, vì ham rượu nên bị Vương Mãng dùng rượu độc hại chết. Còn Vĩ Sanh, theo truyền thuyết là anh chàng có hẹn gặp một cô gái đẹp ở dưới chân cầu, khi nước dâng lên cao, Vĩ Sanh không muốn thất tín, vì thế đã bị chết đuối. Vở Kinh kịch "Hội Lam Kiều" chính là diễn lại câu chuyện này. Bá Vương chính là Sở Bá Vương Hạng Vũ.

🌟

Hóa ra bốn bài thơ này là khuyên người ta đừng vì rượu, sắc, tài, khí mà trở nên mê lầm. Bốn thứ này vốn là những sự vật vô tình, nếu để tâm bị khuấy động bởi chúng thì thân tâm sẽ bị ma ám, đến chết vẫn không tỉnh ngộ ra.

Tôi có hai học trò. Một người tên là Trần Trọng Phi, một người tên là Liệu Thụy Khinh. Hai người này đại diện cho kiểu người nghiện rượu. Hai người này đều giỏi uống rượu, nhưng dù có uống giỏi thì cũng vẫn sẽ say. Mỗi lần say rượu thì mọi thói xấu xa đều bộc lộ ra hết, có khi thì vung nắm đấm, lật bàn đạp ghế, có khi thì la hét, hát hò oang oang, những lời nói thô thiển tục tĩu đều tuôn ra hết. Còn có một người nữa họ Trương, hiện sống tại viện dưỡng lão, bị bệnh nghiện rượu tới mức nói năng lung tung lảm nhảm. Người nghiện rượu hãy mau thức tỉnh.

Tôi có hai học trò nữa. Một người là Lâm Xung Nhân, một người là Nguyễn Tú Toàn. Hai người này chính là đại diện cho kiểu người nghiện sắc. Cần biết rằng việc tiêu khiển với thú vui sắc tình, phàm tâm bất tịnh thì sẽ thối lùi đạo tâm. Hỏa dục là ngọn lửa thiêu thân, khó kiểm soát nhất. Người tu đạo phải nhất tâm tu đạo, đoạn tuyệt phàm trần, thì những con ma nghiện kia tự nhiên sẽ rút lui bỏ đi. Nếu một người có hào quang thì các loại ma quỷ cũng không dám đến gần.

Lại nói, tiền nhiều như Thạch Sùng, nhưng cũng chính vì tiền nhiều quá mà rước họa. Đặng Thông có núi tiền cũng vô ích, cũng không thể cứu được ông khỏi chết đói. Bởi vậy, nhiều khi có tiền cũng vô ích. Quân tử yêu tiền, nên lựa chọn một cách khôn khéo vừa phải thì mới không mắc sai lầm. Tôi có hai học trò, một người là Lí Liên Lương, một người là Lâm Hồng Ngạo, hai người này chính là đại diện cho kiểu người nghiện thế lực đồng tiền. Cần biết rằng mặc dù có tiền thì tốt, nhưng cũng có thể làm hại đến cảm xúc. Nếu dùng tiền để bố thí thì vẫn có công đức. Nếu giữ khư khư tiền cho bản thân, không dùng vào việc tốt, thì đối với việc tu đạo của bản thân cũng không có lợi ích gì.

Lại nói về chữ "khí", lẽ tự nhiên người tu đạo càng cần phải trân trọng. Khi trời đất thuở sơ khai còn hỗn mang, khí đã vận hành tại đại tiểu chu thiên, nhờ có nguyên khí mà vạn vật mới có vận động, con người cần giữ được chân khí mới có thể giữ được mạng sống. Người tu đạo cần tu chính khí, chân khí, không phải là khí của sự sân hận giận dữ. Hãy nhớ rằng càng không được tranh đấu để gây hiềm khích chia rẽ. Trong số học trò của tôi có hai người đại diện cho kiểu thích tranh đấu gây hiềm khích lẫn nhau. Một người tên là Vương Lợi Đan, một người tên là Trang Danh Túc. Hễ động một tí là to gan muốn đánh người ta, mặc dù có khí khái anh hùng, nhưng đây cũng không phải là bản tính chân như của người tu đạo.

🌟

Tôi có lời khuyên các quý anh: Uống rượu không nghiện là tốt nhất Háo sắc không loạn là anh hào Đồng tiền vô nghĩa xin đừng lấy Nhẫn nhịn tha thứ họa tự tiêu.

Tôi biết rằng những con ma nghiện thường thừa lúc tâm người ta dao động liền ám vào, một khi đã mê muội rồi thì vĩnh viễn không thể tỉnh ngộ. Cho dù có chính nhân quân tử đến khuyên răn cũng không dễ dàng gì quay đầu. Tôi mở linh nhãn, những con ma nghiện mà tôi nhìn thấy là như thế này. Có con đầu rất rất to, có nhiều tay nhiều chân đều mọc tại vùng xung quanh đầu, chân tay đều dài và có lông cong như cái móc, có thể móc chặt lên thân người, khiến người ta vùng vẫy đấu tranh vẫn không thoát được.

Vạn sự vạn vật đều tồn tại ma nghiện, không chỉ là bốn thứ tửu, sắc, tài, khí mới có, ngay cả trong các tôn giáo cũng có các con ma nghiện tồn tại. Có rất nhiều người tu đạo đã đi lạc vào tà đạo, ma nghiện bám vào thân khiến họ thành ma luôn. Ví dụ cô gái trong chương truyện trước mà tác giả đã kể chính là như vậy. Tác giả cũng từng trông thấy một tín đồ Cơ Đốc giáo kiền thành, bởi vì cả ngày cả đêm không ngừng cầu nguyện mà nhập vào ma cảnh, trên đại lộ đã cao giọng hát thánh ca, gặp ai là chửi người đó tội lỗi, tự cho mình là chúa Jesus mượn thân thể anh để nói chuyện, chạy lên bục thuyết giảng để giật lấy micro của mục sư rồi lớn giọng hò hét.

🌟

Tôi cho rằng phàm là bất kì chuyện gì cũng cần giữ được đầu óc sáng suốt, dùng lý trí để phân biệt đâu là Phật đâu là ma. Cần dùng tâm để phân biệt cái gốc của chính tà, không thể cứ thế mê muội đi, không thể dừng lại được. Cũng giống như chơi mạt chược, cần phải nhận thức rõ chơi bài là không tốt, thế nhưng người ta vẫn thường tìm lí do tự bao biện cho bản thân là bị người khác khích bác dụ dỗ để mong thoát tội. Bất cứ sự việc gì cũng đều cần cố gắng nghiên cứu tìm hiểu, nhưng cần luôn giữ được khả năng phân tích rõ ràng, không được để mình mê muội mà không ngộ ra được.

Không mê không nghiện vào tửu, sắc, tài, khí, thì trong vạn người cũng chẳng tìm được một người. Còn ma thì lại càng lợi dụng bốn chữ này để mê hoặc làm chúng sinh trong thiên hạ đảo điên. Sự lợi hại của ma, cho dù bạn có dùng hết nghìn kiểu sức mạnh thì cũng tự động không thể làm gì được. Cho dù có là người thích tu đạo, nhưng bốn loại ma này không loại trừ được, thì vĩnh viễn không thể tu đạo đạt thành tựu được.

18. Thủ ấn mặc giáp hộ thân

Trong cuốn sách "Thông linh bí pháp thư", chương "Chày kim cang bảo kiếm hàng phục ma", tôi đã chỉ ra cách thực hiện pháp để hàng ma như sau:

Dùng hai tay để kết hai thủ ấn "lôi đình", tay phải kết "đình ấn", ngón cái cong lại đè lên ngón áp út ở vị trí đốt ngón tay thứ 10 [đếm đốt ngón tay bắt đầu từ ngón cái], còn ngón trỏ, ngón giữa, ngón út đều đè lên ngón tay cái, tạo hình dạng nắm đấm hàng phục ma.

Tai trái kết "lôi ấn", ngón cái cong lại, đè lên đốt ngón tay thứ 11 của ngón áp út, ngón trỏ, ngón giữa và ngón út đều cong lại đè lên ngón cái, tạo hình dạng nắm đấm hàng phục ma.

Đầu tiên chụm hai nắm tay lại ở vị trí giữa hai chân mày, rồi từ đó tách ra, chạm vào hai tai, rồi hai vai, hai be sườn, rồi đến hai ngực, chạm vào hai bên eo, hai bên thận, hai đùi, hai đầu gối.

Sau đó dùng "lôi ấn" của tay trái, bắt đầu từ lòng bàn tay phải quét một đường tới vai, tiếp đó lại dùng "đình ấn" của tay phải, từ vai trái quét một đường xuống đến hai eo.

Nam chân trái nữ chân phải, dậm chân xuống đất, niệm chú ngữ: "Kim cương bảo kiếm hàng ma xử, lôi đình vạn quân thế như thiên, thiên ma tinh tà giai độn khứ, tâm hữu quang minh bất đảo điên. Cấp cấp phụng hộ pháp long thiên luật lệnh."

Đây chính là pháp mặc giáp hộ thân của Đạo gia, cũng chính là một trong Ngũ Lôi Thiên Tâm Chính Pháp. Công hiệu rất lớn.

🌟

Các giáo đồ Thiên Chúa khi đi vào thánh đường thì chỉ đơn giản là quỳ xuống, dùng tay chấm vào nước thánh, rồi điểm vào đầu, vào giữa ngực, hai vai để vẽ thành hình chữ thập, hành động này biểu thị đã nhập thần và mặc giáp hộ thân. Kể ra cũng kỳ lạ, vì việc vẽ chữ thập này chính xác giống như cách làm của Phật giáo Mật tông.

Cách làm pháp Mặc giáp hộ thân của Phật giáo Mật tông như sau: Tay kết Kim cang quyền ấn, hoặc chắp tay kim cang, niệm Kim Cang Thủ Bồ Tát chân ngôn. Kim Cang Thủ Bồ Tát chân ngôn: "Ôm bua-ru lan chưa-li” bảy biến.

[Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông.]

Đầu tiên chạm ấn vào trán (phía trên hai chân mày), tiếp đó chạm ấn vào họng, rồi chạm vào giữa ngực, rồi chạm vào vai trái, chạm vào vai phải. Tổng cộng là chạm vào năm vị trí, năm vị trí này rất quan trọng. Ấn pháp của tôi và các ấn pháp thông thường khác thứ tự có phần khác, nhưng hiệu quả thì hoàn toàn như nhau. Tín đồ Thiên Chúa giáo vẽ chữ thập, giống với cách làm của tác giả.

🌟

Phật giáo Mật tông cũng có một pháp "Ngũ ấn mặc giáp hộ thân" tương đối phức tạp, được dùng khi pháp sư làm pháp, tôi tóm lược như sau:

Ấn thứ nhất: hai tay chắp lại, gọi là "vị khai liên hoa thủ ấn". Chú ngữ là "tịnh tam nghiệp", ba câu chú để tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý. Ấn thứ hai: thủ ấn là "Phật đỉnh ấn", chú ngữ là "chú thỉnh Phật", dùng Nhất tự kim luân chú là được. Ấn thứ ba: thủ ấn là "khai liên hoa thủ ấn", chú ngữ là "chú thỉnh Bồ Tát", dùng chú ngữ của Thiện nữ thiên là được. Ấn thứ tư: thủ ấn là "tam cổ kim cang ấn", chú ngữ là "chú thỉnh Kim Cang", dùng Kim cang tâm chú là được. Ấn thứ năm: thủ ấn là "nội tam cổ kim cang ấn", chú ngữ là "chú kim cang hỏa", dùng chú Đại Phạm Thiên là được.

Năm loại ấn và năm câu chú này, mỗi loại cũng chạm vào năm chỗ (đỉnh đầu, họng, giữa ngực, vai trái, vai phải), điểm ấn xong thì lại niệm ba tiếng "hum, hum, hum".

🌟

Vì sao cần tu mặc giáp hộ thân? Bởi vì trong quá trình tu hành đều có các khó khăn do ma gây ra. Ma thích nhất là phá đám người tu hành. Do vậy pháp Mặc giáp hộ thân giống như các chiến binh thời cổ đại khi xuất chinh phải đeo bên mình một chiếc bia giáp để bảo vệ mình không bị đao kiếm đâm bị thương. Nói cách khác là, trước khi tu pháp cần phải tu mặc giáp hộ thân, dựa vào Phật lực bảo hộ, khiến ma không có cơ hội đến xâm nhập, như vậy việc tu đạo mới có thể thành công.

Lần đầu tiên tác giả tu mặc giáp hộ thân đã nhìn thấy một mạng lưới kim quang màu vàng từ trên trời chụp xuống, bao trọn lấy xung quanh bản thân.

Mỗi lần tu mặc giáp hộ thân thì cường độ sáng của kim quang màu vàng càng mạnh, tỏa sáng lấp lánh, diễm lệ khác thường, giống như một tấm lưới được thêu dệt đẹp đẽ. Nếu có gặp ma tới thì ma ở bên ngoài võng, còn tôi ngồi ở bên trong võng, bên ngoài võng cho dù có mưa gió bão bùng thì bên trong võng tôi vẫn không hề bị phiền hà gì.

🌟

Sau này, tôi tu mặc giáp hộ thân còn đặc biệt gia trì thêm chú Kim cang hỏa, thì tôi thấy tấm màn kim sắc cháy lên ngọn lửa mãnh liệt, ngọn lửa này không phải là lửa thường, có thể thiêu đốt mọi ma quỷ. Có Thiên ma dùng tay chạm vào thì tay đều bị cháy xém thành than đen, nổi giận lôi đình, nhưng vẫn chẳng làm gì được tôi. Chỉ có làm như vậy thì tôi mới không bị tẩu hỏa nhập ma.

Tôi cảm thấy những ma nạn mà tôi gặp phải khi tu hành thực sự là quá nhiều, sống chết chỉ trong chân tơ kẽ tóc. Không chỉ có Thiên ma đố kỵ, Địa ma (âm ma) bức hại, thậm chí là những loại ma ám vào thân cũng đến để làm hại tôi. Tôi đã phải chịu đựng hàng trăm hàng nghìn ma nạn, thực sự là đau khổ tới mức không lời nào mô tả được. Nhưng nhờ có ma nạn mà tôi càng ngày càng được mài giũa trở nên mạnh mẽ hơn, sinh tử đều gạt qua một bên, danh lợi đều không cần, con cháu đều chẳng quan tâm, thì tôi còn gì để mà sợ nữa. Vì chính nghĩa, tôi càng phải nỗ lực phấn đấu đến cùng, không sợ ma đến thử nghiệm, càng thử nghiệm tôi càng mạnh mẽ, nhờ đó mà đạo tâm vững như đá, vừa lạnh vừa cứng.

Tôi biết rằng Thiên ma đều biết có một người không sợ chết, người này chính là Lư Thắng Ngạn. Cho dù cả đời này có giày vò ông ta đến chết thì đến kiếp sau, sinh ra lại từ đầu, ông ta vẫn tu đạo, ông ấy đã liên tục tu hành nhiều kiếp rồi, thêm vài kiếp nữa thì sẽ được công đức viên mãn. Ông ấy chính là Liên Hoa Đồng Tử, là vị tôn giả tay cầm hoa sen trắng chuyển kiếp.

Truyền đạo lý tối cao của cõi trời đến thế nhân. Thân này ngồi trên hoa sen trắng, khí chất bao la khắp vũ trụ, đạo Phật nguyện tu cho đến cùng. Nhiều kiếp tu hành, khổ cực luôn có, thiên kinh địa vĩ, đã đều thông đạt, nghìn vạn pháp môn, đều nằm trong tâm, cứu tai giải nạn, phục ma trừ yêu, đây chính là trách nhiệm cả cuộc đời này của tôi.

19. Tam quy y và Tam hồng thủy

Khi tôi ở trong nước, có rất nhiều học trò đến quy y tôi làm thầy, rồi tu hành theo pháp của tôi. Đồng thời, tôi cũng nói rằng, nếu học trò của tôi cho rằng pháp của pháp sư khác hay hơn, thì vẫn có thể đi quy y pháp sư khác. Tôi không hạn chế học trò của tôi là ngoài tôi ra thì không được quy y pháp sư khác. Tôi hy vọng rằng mọi người cứ nỗ lực đi tìm pháp, tự nhận ra pháp mà mình có duyên nhất, thầy mà mình có duyên nhất, rồi cứ như vậy mà tu hành thì sẽ có được kết quả tốt hơn. Dựa vào thầy nào, dựa vào pháp nào đều là một dạng duyên phận.

🌟

Cái gọi là Tam quy y chính là “Nam-mô bút-đa yê" [ Namo buddha ye ], quy y tất cả chư Phật tôn kính khắp thập phương tam thế. Nói cách khác là "tự quy y Phật, giúp đỡ chúng sinh, thấu hiểu đại đạo, phát vô thượng tâm".

"Nam-mô đa-ma yê" [ Namo dharma ye ] chính là quy y tất cả các pháp tôn kính trong thập phương tam thế. Nói cách khác là "tự quy y pháp, giúp đỡ chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển".

“Nam-mô sang-ga yê” [ Namo sangha ye ] chính là quy y một số tăng lữ tôn kính tu hành theo Phật trong thập phương tam thế. Nói cách khác là "tự quy y tăng, giúp đỡ chúng sinh, chỉnh lý đại chúng, không còn chướng ngại".

Sau khi tôi dạy Tam quy y cho học trò xong, tôi sẽ dùng tay phải làm kiếm quyết, tay trái làm tam sơn quyết để cầm tịnh bình, dùng kiếm quyết viết ba chữ "Hum, Hum, Hum" trên tịnh thủy. Lúc này, tịnh thủy này đã trở thành "Tam hồng thủy". [ND: Hồng là âm Hán Việt của cách viết âm "Hum" trong tiếng Trung.]

Tôi dùng Tam hồng thủy vẩy lên đầu mỗi đệ tử quy y, rồi tôi niệm: "Ta dùng nước cho con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y Liên Trì Hải Hội Chúng Bồ Tát." Tam hồng thủy này của tôi thực sự chính là nước quán đảnh trong Mật pháp, được gọi là ba pháp giải thoát để kết duyên.

Tam hồng thủy được gọi là pháp giải thoát ba tầng.

Tầng thứ nhất có thể nuôi dưỡng thiên thần, thiên thần nhận quy y, có được Tam hồng thủy thì cũng có thể giải thoát thành Phật. Tầng thứ hai nuôi dưỡng con người, có thể nhờ đó mà kết duyên quán đảnh, từng bước tu hành thành Phật. Tầng thứ ba có thể nuôi dưỡng quỷ chúng, Tam hồng thủy có thể giải thoát các loài ma quỷ thoát khỏi đau khổ, ban đầu sẽ trở thành đạo nhân, rồi tiếp đó tu hành thành Phật. Do vậy mới gọi nước này là pháp giải thoát ba tầng.

🌟

Sau khi tôi thay các học trò làm Tam quy y, tôi dùng nước Tam hồng thủy để quán đảnh, như vậy các học sinh sẽ có được 36 thiện thần thay phiên nhau bảo vệ họ, nếu bắt đầu tập khởi linh thì nhờ có thiện thần bảo vệ nên bản tâm không bị loạn. Tuy nhiên nếu đã nhận Tam quy y rồi, đã được vẩy Tam hồng thủy rồi, mà không tu tập cho tốt, không cố gắng tinh tấn, ngược lại lại đi làm các việc xấu, thì coi như Tam quy y và Tam hồng thủy này nhận cũng như không, chẳng còn một chút tác dụng nào, 36 vị thiện thần cũng rời bỏ, so với phàm phu thông thường cũng chẳng khác gì. Những đệ tử làm việc xấu này cho dù đã nhận quán đảnh Tam hồng thủy rồi thì cũng vẫn là nhập vào ma đạo thôi.

🌟

Giờ đây, tôi sống ở nước ngoài, có rất nhiều người hỏi tôi rằng từ giờ về sau làm sao để quy y tôi. Tôi nói rằng nếu các bạn thực sự muốn quy y Chân Phật Tông, có thể chọn ngày mồng 1 hoặc 15 âm lịch hàng tháng, vào đúng 7 giờ sáng, quay mặt về hướng mặt trời mọc.

Trước đó cần tắm rửa sạch sẽ, tịnh khẩu, chắp tay cúng kính lạy ba lạy, miệng niệm rằng: "Nam-mô gu-ru pây. Nam-mô bút-đa yê. Nam-mô đa-ma yê. Nam-mô sang-ga yê. Liên Sinh Hoạt Phật chỉ dẫn. Quy y Chân Phật."

Tổng cộng niệm ba lần, chắp tay cung kính lạy ba lần. Sau đó gửi tên, địa chỉ nơi ở, tuổi của bạn, kèm theo một phong bì có dán sẵn tem hồi đáp, gửi đến địa chỉ thường trú của tôi như sau:

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct. Redmond, WA. 98052 U.S.A

Sau khi nhận được thư của bạn, tôi sẽ ở trước Phật đường của mình, thay bạn đốt sớ bẩm báo, đồng thời tôi cũng đọc giảng về Tam quy y, dùng Tam hồng thủy vẩy lên hư không, làm như vậy, tâm thành tắc linh. Việc này sẽ thuận tiện cho những chúng sinh ở trong nước muốn cầu quy y. Sau đó tôi sẽ gửi chứng thư quy y đến cho bạn, đây là phương pháp quy y hàm thụ, cũng có công hiệu tương đương, thực sự là bất khả tư nghì.

🌟

Đệ tử nhận quy y cần phải nhận thức được rằng bản thân mình là sinh tử phàm phu, tội chướng sâu nặng, luân hồi lục đạo, khổ không kể xiết. Nay gặp được thiện duyên này, nên nỗ lực tu học Phật pháp, nếu có duyên với Hiển giáo thì mau chóng nhất tâm niệm Phật, cầu nguyện vãng sinh, thường niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát, Nam mô thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát. Cầu nguyện bản thân lúc lâm chung không gặp chướng ngại, A Di Đà Phật từ xa đến đón, nước cam lộ của Quan Âm vẩy lên đầu, đài sen vàng của Đại Thế Chí nâng bước con đi, trong một sát-na có thể rời xa ngũ trược, ôm trọn lấy con ngã vào hồ sen.

Nếu có duyên tu Mật giáo thì dựa vào Thượng sư của bốn dòng phái Hồng giáo, Hoàng giáo, Bạch giáo, Hoa giáo để tu pháp, hoặc dựa theo Đông mật, Đài mật để tu hành đều được. Bất kể là pháp Chuẩn Đề, pháp Kim Cang Tát Đỏa, pháp Lục Độ Mẫu, các pháp Quan Âm, pháp mạn-đà-la, đều có thể dựa theo nghi thức mà tu hành.

Phương pháp tu hành của Chân Phật Tông, Hiển giáo Mật giáo Linh pháp đều không nằm ngoài ba siddhi [ ND: Thành tựu ] thượng - trung - hạ, đều có thể tu trì, không cần có tâm phân biệt, cần có tâm bình đẳng, tất cả đều tùy theo duyên phận mà tu.

Nếu gặp pháp sư nào phê bình Chân Phật Tông hoặc phỉ báng Lư Thắng Ngạn, thì xin các đệ tử hãy lắng nghe và chỉ mỉm cười, tuyệt đối không được chống đối lại pháp sư đó. Phải biết rằng Chân Phật Tông là pháp môn phương tiện cảm ứng, pháp sư kia không biết được mục đích của nó nên tự nhiên sẽ phỉ báng thôi, việc này cũng là thay tôi tiêu nghiệp chướng, kệ cho ông ta móc máy, kệ cho ông ta phỉ báng.

Nhưng khi bạn theo pháp sư học pháp, nhất định cần học "chân pháp" của họ, cẩn thận đừng sơ xuất hoặc coi thường, hãy chỉ học những cái tốt của họ, cái xấu thì đừng học.

Pháp Tam quy y và Tam hồng thủy của tôi xem thì rất đơn giản, thực sự có thể khiến cho 36 thiên thần đến cảm ứng để bảo vệ không? Tôi biết, pháp giải thoát ba tầng xem thì rất đơn giản, nhưng pháp này là thực sự là dựa vào sự hộ trì của Thiên Long. Không chỉ bản thân có được thành tựu mà cha mẹ, tổ tiên, oan thân nhiều kiếp cầu vãng sinh tịnh độ cũng đều có được thành tựu. Các đệ tử không biết rằng, chỉ với mỗi pháp Tam hồng thủy này mà tôi đã tu được hơn 10 năm rồi đó.

Chữ "Hum" phát ra, cổng trời đã mở. Chữ "Hum" phát ra, người được giác ngộ. Chữ "Hum" phát ra, phá cổng địa ngục.

20. Ma sắc nhập tâm (Phần 1)

Ngày xưa có một vị cao tăng tên gọi là hòa thượng Ngọc Thông, tu hành 50 năm, nhưng vì đắc tội với một viên quan địa phương, nên viên quan địa phương kia bí mật lập mưu pháp hoại giới hạnh của ông. Quan cho gọi một cô gái lầu xanh xinh đẹp, lấy tên giả là Quan phu nhân, đến chùa của hòa thượng Ngọc Thông để thắp hương.

Buổi tối ở lại chùa, cô giả vờ bị đau bụng tới mức sắp chết, cần dùng phương pháp bí mật đặc biệt để chữa trị thì mới có thể khỏi được, đó là phải chạm rốn của một người đàn ông vào rốn của cô thì sẽ chữa khỏi.

Hòa thượng Ngọc Thông là người đàn ông duy nhất ở chùa này, vì từ bi nên đành chấp nhận lộ rốn ra để cứu cô. Nhưng cô gái lầu xanh này đã lao vào ôm chặt lấy hòa thượng, lộ ra thủ đoạn quyến rũ cáo già. Đáng thương cho hòa thượng Ngọc Thông, nhất thời không không chế được bản thân, đã bị ma sắc nhập tâm, thế là giới hạnh đã không giữ được nữa.

Viên quan địa phương gửi một bài thơ đến cho hòa thượng Ngọc Thông, có hai câu sau cùng là: "Tiếc thay bao năm xá lợi tử, Đã chảy hết vào hai cánh sen."

Hòa thượng Ngọc Thông vốn là một cao tăng ngộ đạo, nhưng vì ma sắc nhập tâm, một khi đã đánh mất sự cẩn trọng là rơi ngay vào ma đạo, cuối cùng ông bị ép tới mức không ngờ đã treo cổ tự vẫn.

🌟

Đây là một câu chuyện được truyền lại từ thời cổ đại. Cao tăng ngộ đạo đấu không lại được với ma sắc, trở thành một trò cười về tu hành suốt nghìn năm, đây là một sự đả kích sỉ nhục đối với người xuất gia chân tâm tu hành.

Tuy nhiên, độc giả thử nghĩ xem, bản thân hòa thượng Ngọc Thông có đạo hạnh của một cao tăng, việc tu hành của ông cũng đã đạt đến được thành tựu La Hán kim thân, ấy vậy mà cũng vẫn vô ích, thì nói gì đến bao kẻ phàm phu bình thường.

Mặc dù có tâm tu đạo nhưng hễ bị ma sắc nhập tâm thì bất cứ ai cũng bị đánh bại. Do vậy, tu sao cho bỏ được sắc tâm này là việc quan trọng số một của bất kì người tu đạo nào. Biết rõ là rất khó, nhưng nếu không phá được ma sắc này thì không có cách nào thoát khỏi cõi trời dục giới.

🌟

Nhân đây, tác giả cũng lại kể một câu chuyện khác.

Có một người đàn ông trung niên ngoài 40 tuổi, tu Đạo gia "chính nhất pháp môn", tại nhà của mình có một đạo tràng, tự lấy hiệu là Thanh Vân đạo trưởng, thỉnh thoảng vẽ phù, niệm chú, tụng kinh lễ sám cho người ta. Đạo trưởng sống thanh sạch, đọc khá nhiều sách.

Có một phu nhân được người ta giới thiệu đến cầu đạo trưởng làm tiêu tai giải nạn, sau khi tới lui vài lần thì cũng thành thân quen. Chồng của phu nhân này họ Du, sống tại thành phố Đài Trung, ông Du tuổi ngoài 50, nhưng bà Du thì mới 30 tuổi, chồng già vợ trẻ.

Vị phu nhân này tư sắc cũng chẳng tồi chút nào, có một bài văn thơ xa xưa để hình dung về bà như thế này: "Lông mày như dáng núi mùa xuân, đôi mắt trong veo như ánh nước mùa thu, nét mặt phảng phất u uất giống như "Tây Tử phủng tâm", chợt khóc chợt cười tựa như Dương Phi năm xưa cắt tóc.

Tiếng đàn tì bà chẳng kêu, là một minh phi vẫn chưa rời khỏi quan ải. Điệu kèn lá nếu thành, sẽ phân minh được người con gái hoang dã mạnh mẽ hay hòa nhã. Trời sinh cho tư chất phong lưu, cho dù là tranh vẽ cũng chẳng thể diễn tả được hết."

Còn nữa: "Lông mày uốn cong tựa trăng non, má hồng như hoa đào mùa xuân, dáng vẻ đặc biệt diễm lệ như đóa hoa ưu tư, làn da sáng như ngọc trong lấp lánh. Nói chẳng hết vẻ đẹp yêu kiều, vẽ chẳng nổi nghìn nét xinh tươi!"

[ ND: "Tây Tử phủng tâm" nói về bệnh u uất của mỹ nữ, so sánh giống như Tây Thi khi xưa, lúc buồn rầu thường ôm tim nhíu mày nhưng vẫn đẹp tuyệt vời. ]

Thanh Vân đạo trưởng là một đạo nhân chân tu, giới hạnh rất tốt, nhưng cũng âm thầm khen ngợi, cảm thán trước vẻ đẹp của phu nhân này.

🌟

Có một hôm, phu nhân đến nói với đạo trưởng rằng cô có chuyện riêng muốn nói, nhưng phải đóng cửa phòng lại, không để cho người ngoài nhìn thấy. Thế là Thanh Vân đạo trưởng đóng cửa phòng lại, cũng đóng luôn cổng lớn bên ngoài, và cũng thắp hương tại đạo đường, cầm hương vái thần, sau đó chăm chú lắng nghe phu nhân tâm sự.

Phu nhân kia vừa thấy cửa phòng đã đóng liền lộ ra mục đích quyến rũ mê hoặc. "Hằng đêm em đều chẳng ngủ được." "Vậy cần đi khám bác sĩ mới được." "Không, bởi vì em đến chỗ này rồi nên mới không có cách nào ngủ được đó." - Phu nhân kia õng ẹo lao vào ôm ấp.

Lúc này, Thanh Vân đạo trưởng âm thầm lo sợ, toát mồ hôi lạnh, hướng đôi mắt nhìn lên Thái Thượng Lão Quân ở trên thần đàn, không dám nhìn khuôn mặt của phu nhân.

Phu nhân kia bám chặt lấy Thanh Vân đạo trưởng, tay chân Thanh Vân đạo trưởng đều không biết đặt vào đâu. Tinh thần hoảng hốt, mũi thì ngửi thấy sực nức mùi nước hoa.

"Du phu nhân, tôi là người tu đạo." - Thanh Vân đạo trưởng nói một cách miễn cưỡng. "Vậy xin hỏi chúng ta có duyên không?" - Cô nói một cách đầy hớn hở.

🌟

Thế rồi, phu nhân kia giở hết trò quyến rũ, đôi tay mềm như rắn cuốn, thân thể dán chặt lên người Thanh Vân đạo trưởng, một tay thì lúc mạnh lúc nhẹ liên tục vuốt ve tấm lưng của Thanh Vân đạo trưởng.

Lúc này, Thanh Vân đạo trưởng đã bị ma sắc nhập tâm, cũng không có cách nào khống chế được, bèn quay mặt lại, thế là miệng kề miệng thành hình chữ "lã".

[ ND: Chữ "lã" có hình hai chữ khẩu - cái miệng - ở cạnh nhau ].

Nhanh chóng hỏa dục nổi lên, tất cả nào là tu đạo, thủ giới, thủ pháp, chính niệm, thanh tịnh, toàn bộ đều ném bay ra khỏi chín tầng mây rồi. Không ngờ lại còn diễn ra trước mặt Thái Thượng Lão Quân và chư thần đạo, trong làn khói hương cuộn xoắn bay lên, hai người đã trở thành đôi uyên ương quấn quít. Chính ngay trước chư thần mà thành đôi uyên ương điên đảo.

Sau sự việc này, Thanh Vân đạo trưởng trong lòng vô cùng đau buồn, nhưng phu nhân kia vẫn thường xuyên đến, ông lại không thể kiềm chế được, và rồi cứ thế sống trong mâu thuẫn.

Có một ngày, ông đọc được sách của tôi bèn vội chạy tới tìm tôi. Tôi dạy ông cách thu dọn đạo tràng, mau mau chuyển nhà, chuyển đến một nơi hoàn toàn không ai biết, rồi an phận tu đạo giữ mình lại từ đầu.

"Tôi còn có thể tu đạo sao? Tôi đã phá giới rồi, tôi phải vào địa ngục." - Ông ta khóc một cách cay đắng, đầy sự chân tình.

"Người tu đạo nếu bị ma sắc nhập tâm, thực sự là giống như con thiêu thân vậy. Nghìn lần vạn lần đều không nên, nhất là những lúc cam go không giữ nổi mình. Nhưng người tu đạo rốt cục vẫn mang máu thịt của phàm phu, vẫn chưa thể bất động như thánh, vẫn luôn có lúc sảy chân, nếu vẫn còn biết hối hận và tỉnh ngộ thì xem như vẫn còn có đạo căn.

Sao ông không tu pháp Hàng phục Kim cang, để đánh bay nghiệp tội ma sắc này. Cần biết rằng nghiệp tội này nằm trong bốn nghịch tội nặng nhất, chính là giết Phật, làm thân Phật chảy máu, giết cha mẹ, giết thánh tăng hoặc thánh nhân. Mặc dù ông bị ma sắc nhập tâm, nhưng nếu thực lòng sám hối, chuyển qua chân tu pháp hàng phục, thì vẫn có thể cứu được. Bốn nghịch tội còn có thể tiêu trừ được, huống hồ là nghiệp sắc."

Thanh Vân đạo trưởng nghe lời tôi, thu dọn đạo tràng, rồi sau đó cũng không biết ông đi đâu.

21. Ma sắc nhập tâm (Phần 2)

Ở Đài Nam, Đài Loan, có một người là Hình đạo trưởng của Ngũ Liễu Tiên Phái, một rẽ nhánh của phái Long Môn, tu tập theo các pháp Đạo gia như "Kim tiên chính luận", "Tiên Phật hợp tông", "Linh Tiên chính lý", v.v… của Liễu Hoa Dương tổ sư và Ngũ Xung Hư đạo nhân. Việc tu hành của ông ta rất tốt, sắc diện tỏa sáng hồng hào, tự nói rằng mình đã đắc đạo pháp tam muội, tự thân đã đắc được bất lộ đan, có thể thỉnh thần gọi tướng bất kì lúc nào các ngài sẽ đều đến.

Về sau, ông tình cờ có được một cuốn sách mật, viết về "Tiểu thiên tinh pháp" của Đạo gia, trong đó viết rõ rằng lấy quả trứng đầu tiên của con gà mái lần đầu tiên đẻ trứng, lăn quả trứng này trên thân của người bị ốm bệnh hoặc bị ma xung phạm, đồng thời miệng niệm mật chú, thì có thể trừ khử được ma trên thân của người bệnh bằng cách thu bệnh hoặc ma vào trong lòng đỏ của quả trứng. Sau đó lại đem quả trứng này, chọn một mảnh đất tốt, chôn sâu xuống. Làm như vậy thì người bị bệnh hoặc bị ma nhập sẽ bình phục.

Hình đạo trưởng tu Ngũ Liễu Tiên pháp vốn đã đạt thành tựu cao, nên tiếp tục tu "Tiểu thiên tinh pháp" cũng thành tựu dễ dàng. Kể từ đó, ông dùng pháp Tiểu thiên tinh để hàng phục ma, cứu giúp người khắp nơi, và đã cứu được rất nhiều người.

Người ốm nằm trên giường, mặc một bộ quần áo mỏng, trong khi đó đạo trưởng dùng tay ấn giữ quả trứng và lăn qua lăn lại trên thân thể người bệnh. Đạo trưởng nhắm mắt, miệng đọc mật chú, quả nhiên vô số người đã khỏi bệnh.

Nếu chỉ đơn thuần là cứu người như vậy thì Hình đạo trưởng thực sự là có công đức cực kì lớn. Nhưng Hình đạo trưởng lại gặp phải ma sắc nhập tâm. Chỉ trong một lần tình cờ tâm dao động mà đã đánh mất đạo tâm, từ đó mà công hạnh tu đạo bao nhiêu năm đều đổ xuống biển hết. Tiểu thiên tinh phục ma pháp vốn là để phục ma, không ngờ ông lại bị "ma phục", bảo sao chẳng đáng tiếc đáng than!

🌟

Sự tình là như thế này: Có một người đàn ông giàu có, có một vợ và hai thiếp (hai người vợ lẽ), họ đều sống riêng biệt. Người vợ lẽ thứ hai của ông bị bệnh đau đầu, biết đến tiếng tăm của Hình đạo trưởng nên mời ông đến nhà để chữa bệnh. Ai ngờ đâu Hình đạo trưởng vừa nhìn thấy cô vợ lẽ này, thấy cô xinh đẹp quyến rũ từ đầu đến chân, khắp thân thể thơm tho mềm mại, đôi lông mày cong cong thanh mảnh như núi non xa xăm, đôi mắt hút hồn sáng long lanh, gương mặt như đài sen, đôi môi chúm chím đỏ mọng như trái anh đào.

Lần này, Hình đạo trưởng đã gặp phải "oan gia đối đầu" mà vẫn không hay biết, vẫn cho rằng bản thân mình có định lực đủ lớn, có thể nhìn thấu mỹ sắc, cho dù có là nghìn người mặt hoa da phấn thì đều là ma quỷ cả.

Bởi Hình đạo trưởng một đời nghiêm túc giữ gìn giới luật, có thể nói là chưa từng gặp mỹ sắc, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, trong lòng cũng tự cảm thấy lo lắng căng thẳng.

Ông cứ giống như trai trẻ phong lưu mới biết rung động say tình vậy. Hơn nữa cô vợ lẽ xinh đẹp kia lại chỉ mặc trên người bộ quần áo mỏng manh, nằm thẳng trên giường, Hình đạo trưởng do dự không dám tiến lên. Lúc làm pháp, vốn dĩ mắt cần nhắm lại, nhưng cũng không nhắm mắt nổi, tay run run, tay không nghe theo ý, không ngờ trứng gà cũng không giữ được mà cứ chạm lung tung.

🌟

Cô vợ lẽ đương nhiên cũng để ý được điều này, cô cố ý mở to mắt nhìn ông. Bốn mắt nhìn nhau, Hình đạo trưởng đã bị ma sắc nhập tâm, trong lòng ước ao được yêu cô, không muốn rời đi. Cô vợ lẽ xinh đẹp lại còn có phần dùng lời lẽ đưa đẩy dụ dỗ, lại dùng cánh tay lả lơi kéo lại. Cuối cùng, không ngờ Hình đạo trưởng cùng với cô vợ lẽ kia hai thành một cặp, tình đầu ý hợp, tình sâu ý đượm, sớm tối hoan lạc.

Diễn biến cuối cùng khiến người ta phải không ngớt thở dài. Hình đạo trưởng cũng chẳng tu đạo nữa, còn cô vợ lẽ của người đàn ông giàu có kia cũng vơ vét tiền bạc rồi cùng đạo nhân bỏ trốn, không biết đi đâu.

🌟

Tôi viết một bài kệ rằng: "Không biết tu đạo đừng nói khoác Vì một chữ sắc phí nhân sâm Chữ tình nếu như hiểu thấu được Mới chẳng hổ thẹn người phục ma."

Theo tôi được biết, sư phụ của Hình đạo trưởng là một vị đạo nhân tu Đạo gia Long Môn phái hoàn toàn chân chính, thành tựu tu rất cao, Hình đạo trưởng là đệ tử mà ông tâm đắc, nói ít thì cũng đã tu 20 năm.

Nhưng sức mạnh của "ma sắc nhập tâm" rất lợi hại, "Kim tiên chính luận", "Tiên Phật hợp tông", "Linh Tiên chính lý" không ngờ chẳng vượt qua nổi một chữ "sắc". Thật sự là quá bi thương.

Nếu như Hình đạo trưởng tu Ngũ Liễu Tiên Phái, không tiếp xúc với pháp Tiểu thiên tinh phục ma, cả đời này ông thanh tịnh tu hành thì có lẽ sẽ không gặp vấn đề gì. Thế nhưng ông ta lại học Tiểu thiên tinh phục ma pháp, ngược lại đã trở thành phương tiện chủ động tìm đến nghiệt duyên, thay vào đó, Tiểu thiên tinh phục ma pháp này đã hủy hoại nền tảng tu đạo cả đời của ông.

🌟

Đời này tác giả đã gặp rất nhiều người, biết rằng có một số thuật sĩ giang hồ cũng biết đến pháp Tiểu thiên tinh phục ma, nhưng những thuật sĩ giang hồ này cố ý bất lương, lợi dụng chính pháp của Đạo gia này để làm những chuyện mờ ám bỉ ổi vô liêm sỉ, dụ dỗ con gái nhà lành, lừa tiền gạt sắc. Do vậy, tôi cảnh cáo các quý cô đừng dễ dãi đi thử pháp này, bởi vì rất có khả năng đây là cái bẫy do những kẻ xấu ngụy trang bằng những lời hoa ngôn xảo ngữ để lừa tình lừa sắc.

Tôi cũng xin được khuyên tất cả những người tu đạo đừng đến gần nữ sắc, đừng dễ dàng tin vào định lực của chính mình. Mặc dù biết rõ rằng "nghìn người mặt hoa da phấn thì đều là ma quỷ cả", đều là những kẻ hút tinh khí của con người, là dao sắc vô hình, nhưng nhất thời đánh mất sự thận trọng thì chỉ còn hối hận cả đời.

Cái chúng ta cần học là tinh thần Đạo gia đầu đội trời chân đạp đất, chính trực, không tà ác, không nịnh nọt. Nếu vẫn luôn có tà tâm thì tuyệt đối đừng tu đạo nữa, trước tiên cần phải loại bỏ được tà tâm để tránh khỏi bị sa đọa vào những hành vi bại hoại, làm ô nhục tới thanh danh của Tiên gia đạo.

🌟

Còn nhớ Khổng Tử từng nói: "Thực, sắc, tính dã."

[ ND: Thực, sắc, tính dã: Nghĩa là ăn uống và sắc dục vốn là tính gốc căn bản, là sự ham muốn lớn của con người ]

Cố nhiên những thứ này là ham muốn rất lớn của con người, nhưng người tu đạo chính là cần tu để cho tâm ham muốn này hóa thành hư vô, có như vậy mới có thể chuyển hóa những ham muốn cá nhân này thành khí thuần dương của đại đạo quang minh. Ấy nhưng sự lợi hại của Thiên Ma vốn dĩ là do nó bám chặt vào tâm con người mà sinh ra, nó lợi dụng ham muốn lớn của con người mà đến để mê hoặc ta. Nếu qua được cửa này thì mới xem như là hảo hán vững chãi cương nghị, thẳng đường mà đi, không chút nhiễm tà.

Viết đến đây, tôi không thể kìm được mà phải quăng bút than trời!

22. Ma sắc nhập tâm (Phần 3)

Người xưa, khi hình dung về vẻ đẹp của người con gái thì luôn luôn là: "Đôi mắt phẳng lặng như mặt hồ nước mùa thu, đôi lông mày thanh mảnh cong cong như núi mùa xuân, mái tóc bồng bềnh như mây, đôi chân như gót sen, cặp môi nhỏ xinh căng mọng như trái anh đào, eo thon như cành dương liễu. Chưa cần biết đến mùi hương và sự ấm áp của cơ thể đã biết rằng đây là người con gái cực kì xinh đẹp diễm lệ."

Cần biết rằng người con gái có được những lời mô tả về sắc đẹp như thế này thì đều là những mỹ nữ nghiêng nước nghiêng thành, giống như Hán Cao Tổ nuông chiều Thích Cơ, Đường Thái Tông loạn luân với em dâu, Lã Thị nhà Hán và Võ Tắc Thiên nhà Đường suýt chút nữa thì đánh mất cả giang sơn. Triệu Phi Yến và Dương Ngọc Hoàn làm ô uế hỗn loạn cả hậu cung. Những nhân vật luôn tìm kiếm mĩ sắc này, dù thân là Hoàng Đế cao quý, nhưng cũng mê đắm vào sắc cho đến tận lúc chết.

"Sắc" vốn là một thứ đẹp đẽ, xinh xẻo, ngọt ngào, dịu dàng. Chúng sinh trong thiên hạ, người có thể thoát được sự yêu hoặc của sắc thì trong vạn người cũng chẳng có nổi một người. Và người tu đạo muốn phá được "ma sắc" chính là cần phải cắt đứt được sự yêu hoặc của tình dục, chặt đứt được "ma" trong cái tâm mê sắc, có như vậy mới giữ vững được đạo tâm, không chạy theo những con sóng xô bồ như chúng sinh phàm trần.

🌟

Năm xưa, khi tôi vân du ở Gia Nghĩa, có một cô gái trẻ xinh xắn đến gặp tôi. Cô thẹn thùng ấp úng, ngượng ngùng nói không nên lời, lắp bắp nói: "Thầy Lư, không biết con có nên nói hay không nữa?" "Cô cứ nói đừng ngại." "Con đến một ngôi chùa nọ để xem bói, hỏi chuyện hôn nhân của con khi nào sẽ tới?" - Cô gái trẻ này tuổi cũng đã 28, nhân duyên hôn nhân nhiều long đong lận đận, trong lòng rất sốt ruột, do vậy mới đi xem bói hỏi "thần". "Nếu muốn có duyên hôn nhân tốt, trước tiên cần có thần duyên." - Thầy bói bảo cô. "Thế nào gọi là thần duyên?" - Cô gái nghe không hiểu. "Buổi tối một mình cô tới đây, thần sẽ nhập vào người tôi, thần sẽ cùng cô tạo nhân duyên trước. Sau đó, bởi vì cô đã có được thần duyên rồi, nên hôn nhân tốt của cô sẽ đến rất nhanh. Phương pháp này chính là như vậy."

Cuối cũng cô gái cũng hiểu ra. Thầy bói đó muốn cô gái tối khuya một mình đến tầng hầm của chùa, đi đến đó để đợi thần minh ban may mắn cho cô. Cô trở về nhà nói với người bạn đã đưa cô đi xem bói, không ngờ người bạn này, vốn cũng đã từng nhận được sự ưu ái của thần minh, thế nên lại càng khuyến khích cô chấp nhận phương pháp này. Người bạn đó nói với cô rằng, việc này là cùng với thần minh lập lời thề nghiêm túc, không phải là việc tùy tiện, người có thần duyên thì mới có thể gặp được kì duyên.

Cô gái hoang mang hỏi tôi, lẽ nào thần minh thực sự lại có kiểu duyên phận như vậy cùng với con người sao? Cô gái rất ngây thơ muốn tôi quyết định thay, giả sử tôi nói là được thì cô sẽ đi, tôi nói là không được thì cô sẽ không đi. Trong lòng cô cảm thấy e sợ, nhưng vì muốn hôn nhân tốt mau tới nên cũng chỉ còn cách chấp nhận kết duyên với thần minh trước.

Tôi nghe xong thì lập tức thay đổi sắc mặt, tôi đưa bàn tay ra đập xuống mặt bàn một cái khiến chén trà cũng bị đổ ra bàn, cô gái bị bất ngờ nên giật mình đánh thót một cái.

"Mẹ nó chứ, cái đám thầy bói chết tiệt này, cái lũ thần minh lưu manh này, làm tôi tức muốn chết, thực sự là làm tôi tức điên lên mất." - Tôi nghiến răng trèo trẹo: "Đúng là một lũ bất chấp luật lệ coi trời bằng vung, mẹ nó, ông trời ở đâu chứ? Không ngờ lại để cho cái lũ ma sắc này tồn tại trên đời để hủy hoại những mầm non ngây thơ, cái lũ chết tiệt này."

🌟

Lâu lắm rồi tôi không chửi người chửi thần, nhưng vừa nghe kể về thủ đoạn bẩn thỉu hạ lưu này, tôi không thể nhịn được mà phải chửi lớn lên. Giả sử thần minh thực sự gớm guốc như vậy thì còn là cái loại thần gì nữa, tôi có mà chửi vào mặt, nhổ vào mặt hắn. Cái loại này có mà là thần rùa môi giới gái điếm, đơn giản là cái loại rắm thối!

Tôi nghĩ, đó chắc chắn không phải là ý của thần, mà là ma sắc nhập tâm. Tên thầy bói kia nếu không phải là chủ ý của hắn thì là đã bị ma sắc ám vào người, chuyên môn hủy hoại những cô gái trẻ non tơ. Bình thường tôi đã không có ấn tượng tốt với thầy bói, những kẻ làm thầy bói đến cuối cùng cũng biến chất rất nhiều, phần lớn là mượn thần để thu tiền và mượn thần để lừa sắc, một mớ bừa bộn bẩn thỉu loạn cào cào.

Tôi nói với cô gái trẻ kia rằng, trên đời này làm gì có chuyện như vậy, đây là mánh khóe lừa đảo của lũ thần côn, trừ phi chính cô muốn đi để làm chuyện hoang đường điên rồ, chứ còn không bao giờ có chuyện như vậy. Tay thầy bói này buổi tối không có ai bầu bạn, muốn tìm "rau sạch" mà không mất một xu đây mà.

"Vậy con không đi nữa." - Cô gái trẻ mấp máy nói một cách tội nghiệp. "Đương nhiên là không đi, đi thì chẳng khác gì cừu vào miệng hổ đó."

Sự việc này có bác sĩ Lâm là bác sĩ nhi khoa ở Gia Nghĩa biết rõ ràng tường tận. Muốn bắt lũ ma sắc, đám thầy bói hại người này, cần nhờ đến sự giúp đỡ của cảnh sát nữ (đồng thời cũng phải xinh đẹp), giả vờ bị mắc bẫy. Dùng nữ cảnh sát xinh đẹp làm mồi nhử để vạch trần thủ đoạn của những tay thầy bói háo sắc này, để xem xem bọn chúng còn dám làm hại người ta nữa không.

🌟

Có một bài thơ rằng: "Nhà nhỏ liền vườn, màn trướng ẩn xuân Cúi mày khẽ ngắm hồng nhan, gác cong xa ngắm màn thêu Nửa sáng nửa tối, người và thần thấp thoáng Xanh xanh đỏ đỏ, khắp trong chùa ngập tràn gió xuân."

Bài thơ này thực sự hay, đã nói thẳng ra hết việc lén lút quan hệ tình cảm nơi miếu thần. Nói một cách thẳng thắn, tôi không xúc phạm Thần đạo, những Thần, Phật bằng đất nặn gỗ đẽo này chẳng có tội lỗi gì cả, kẻ có tội chính là con người. Thầy bói chẳng tu đạo, chỉ là loại thầy bói không từ bỏ được tâm sắc, cuối cùng thì chẳng ai thoát được cửa ải ma sắc nhập tâm, sớm hay muộn chắc chắn sẽ xảy ra chuyện. Đúng là một đám trẻ ranh ngu dốt, mức độ lú lẫn còn tăng thêm ba cấp.

Ở Tây Tạng, các lama của Mật tông Hắc giáo (đạo Bon) có quyền lực, đối với mỗi gặp vợ chồng sắp cưới, trước khi kết hôn, cần phải dâng cúng người phụ nữ cho vị lama đại biểu cho Phật Bồ Tát để ông ta phá trinh. Bởi vậy mà tôi mới phản cảm ác liệt đối với Mật tông Hắc giáo như vậy, nguyên nhân chính là ở đây. Tu đạo là cần phải cắt đứt con quỷ tình đục, chặt bỏ tâm ma sắc. Phái Hắc giáo này (đạo Bon) không phải là tà giáo thì là cái gì?

23. Ma sắc nhập tâm (Phần 4)

Có một tay thầy bói chính tại một loan đường nọ [ ND: loan đường là một giáo phái tôn giáo khá thịnh hành trong tín ngưỡng dân gian Đài Loan. ], họ Quách, khá trẻ trung, mới khoảng 28 tuổi. Cái gọi là loan đường là để chỉ một dạng thánh đường dựa vào việc xem bói viết chữ để xin chỉ thị của thần tiên. Thầy bói chính là người cầm bút chim phượng hoàng để viết chữ. Khi thần giáng xuống, cây bút sẽ tự động nhảy nhót mà viết thành chữ, và sẽ có một người hoặc hai người giúp bên cạnh để viết ra, hoặc thơ, hoặc từ, hoặc văn chương. Hiện tại hình thức này ở Đài Loan vẫn còn rất nhiều.

Họ Quách kia đã trải qua huấn luyện, chính thức trở thành thày bói chính, phụng chỉ viết ra không ít sách, phần lớn là sách khuyên răn con người, phát hành rộng rãi, danh tiếng cũng tốt. Bản thân anh ta cũng tin thần bái Phật rất kiền thành, một lòng một dạ thay mặt Tiên Phật phục vụ. Bất kì khi nào vào ngày xem bói, anh ta đều trai giới tắm gội sạch sẽ rồi mới bước vào ngồi cạnh bàn cát, đợi để thỉnh thần thông qua kê bút. Mỗi lần thần tiên hạ chỉ cũng đều khích lệ khen ngợi anh ta.

Bên cạnh bàn cát, ngoài thày bói chính ra thì cũng có người xướng chữ, có người ghi chép lại, người ngồi ghi chép được gọi là bút sinh. Một hôm, bên cạnh bàn cát có một người mới đến để ghi chép, là một thiếu nữ trẻ tuổi, mặc một bộ xiêm áo phượng hoàng màu xanh da trời, mái tóc buông xõa bồng bềnh tự nhiên, trang điểm chỉnh tề, nét mặt dịu dàng, vẻ đẹp rạng rỡ, đôi mắt đầy thần thái hút hồn người khác.

Họ Quách vừa trông thấy thiếu nữ này đã bị vẻ đẹp của cô cuốn hút, thần hồn lâng lâng, tâm ý bay bổng. Vừa nghe cô cất giọng oanh vàng hát xướng, chỉ xíu chút nữa là anh chàng không cầm nổi bút nữa rồi.

🌟

Mấy hôm sau, họ Quách ngồi bên bàn cát, tay cầm bút gỗ, nguệch ngoạc viết ra mấy chữ lớn: "Thày bói chính họ Quách, có Tiên duyên chẳng sai, phải bế quan lần nữa. Bút sinh kia Nhã Phân, cũng có duyên huyền môn, phải đồng thời bế quan." Nhã Phân được nói đến ở đây chính là chỉ cô thiếu nữ xinh đẹp Vương Nhã Phân.

Có một loan sinh già tiến lên trước hỏi: "Anh Quách là dương, cô Vương là âm, vậy có cần phải phân phòng để bế quan không?" Nhưng rồi lại nhìn thấy bút gỗ ngoáy tít như múa, thần chỉ thị rằng: "Tiên cảnh tịnh hư tuyệt dục trần, tâm phàm sao biết được thánh tâm, bên trong tự có huyền cơ ẩn, hai người bế quan tất chẳng sai."

Những loan sinh đương nhiên biết rằng âm dương có sự phân biệt, làm sao có thể ngồi cùng một phòng được. Nhưng chỉ thị của thần tiên là trong việc này có nhân duyên bí mật, không thể đem việc thánh nhập nhằng với suy nghĩ phàm tục được. Thế là họ cũng chỉ thị hành sự, ở trong phòng bế quan thắp đàn hương, thời gian ngồi bế quan là 7 ngày, sáng trưa tối ba bữa ăn sẽ do người trong chùa đưa vào qua một lỗ hở. Cô gái họ Vương có tính cách lãng mạn ngây thơ, thần tiên đã chỉ thị như vậy khiến cô tự nhiên vui vẻ cực kì. Cô cho rằng đây là nhân duyên kì ngộ, tự cho là tiên duyên chẳng phải chuyện thường.

Đến ngày bế quan thứ nhất, họ Quách nói với cô Vương: "Thời xưa có một vị tướng quân gặp được một tiên nữ, tiên nữ muốn gả cho tướng quân làm vợ, tướng quân nổi giận, cho rằng là tiên nữ thì sao có thể làm như vậy. Đến một ngày tướng quân bị bệnh, phải đi cầu cứu tiên nữ. Tiên nữ nói với tướng quân, lúc trước muốn gả cho chàng, là vì muốn dùng khí của tiên gia để bổ khuyết cho chàng, tướng quân lại cho rằng đó là dâm dục. Chàng không nghe theo, nay số phận đã tới, không cứu được rồi. Tướng quân hối hận thì cũng đã muộn, không cứu được mạng sống."

Ngày bế quan thứ hai, họ Quách nói với cô Vương: "Thần tiên có rất nhiều phương pháp để cứu người, con người thế tục không thể hiểu được. Tôi đã có chính khí của tiên gia, trong 7 ngày cô và tôi ở cùng nhau, cô phải có được thần khí này, sẽ giúp cô bỏ qua được 5 năm khổ tu, mà lại còn an tịnh nhàn nhã, trí nhớ tăng trưởng tràn đầy."

Cô Vương hỏi: "Phải làm sao để có được?" "Phải gắn kết thể xác, tiên khí của tôi tự có thể đi vào trong cơ thể cô."

Cô Vương vẫn tin rằng điều này là thật. Thế là họ Quách ôm lấy cô Vương, cởi quần áo cho cô, trong làn khói đàn hương bay bay, trong phòng bế quan, cô Vương đã đánh mất trinh tiết của mình.

Họ Quách nói với cô Vương: "Tiên cơ không được để lộ ra." Còn nói: "Việc này là thần tiên hội tụ, chúng ta là bạn tiên cõi trời, đây là việc nên làm, tôi làm như vậy là để độ hóa cho cô." Thế nhưng cô Vương đã trở nên mê muội, vì tiên khí này mà suốt 6 ngày, tình cảm như mật ngọt, cô Vương giờ đây căn bản là không còn phân biệt được thật giả nữa rồi.

🌟

Cứ như thế, từ sau khi có được tiên khí, cho đến khi bụng của cô Vương cứ từ từ lớn dần lên, đến lúc cái bụng to như bụng của Di Lặc Bồ Tát, người thân mới truy cứu nguyên nhân. Tổ sư nó! Hóa ra chính là tên thầy bói chính giả lời của thần tiên để làm trò quỷ trong thời gian ngồi rèn luyện. Sau khi lộ ra, họ Quách khẩn thiết van nài, đền bù rất nhiều tiền hòng che giấu vụ lùm xùm này. Đường chủ của loan đường đã đuổi họ Quách ra khỏi cửa.

Những sách mà anh ta phụng chỉ viết ra từ ngày xưa, muốn thu hồi lại cũng chẳng thu hồi được, chúng là thật hay giả thì cũng không biết được. Những cuốn sách này vẫn có công dụng khuyên con người thế gian, cứ để cho chúng tiếp tục lưu hành vậy!

Nói thật lòng, những chuyện đồi bại giống như kiểu ở chốn loan đường này cần phải được đưa ra công chúng, để cho những thiếu nữ mê tín vô tri trong thiên hạ đừng sa vào trò lừa của đám thần côn. Muốn tin thì cần phải tin những điều hợp lý, những điều không hợp lý không hợp tình thì tuyệt đối cần phải phân biệt cẩn thận.

Theo tôi được biết, sức mạnh của ma sắc còn được biết đến là đệ nhất thiên ma, các hòa thượng già, đạo sĩ già, hễ bị ma sắc nhập tâm thì vẫn điên đảo như thường. Sắc không quyến rũ người thì người cũng tự mê mẩn, huống hồ tên tiểu tử trẻ tuổi như họ Quách kia, vừa gặp được cô Vương đã tự động ngã đâm đầu, đạo chẳng muốn tu, bói chẳng muốn xem. Cái tâm thanh tịnh của thần tiên đã hoàn toàn bị những người này làm cho ô uế lộn xộn, nhem nhuốc bẩn thỉu hết cả.

24. Ma sắc nhập tâm (Phần 5)

Một ngày nọ, có một tì kheo ni già đưa một tì kheo ni trẻ đến ngôi nhà nhỏ của tôi. Tôi trông ni cô trẻ mặc dù ăn mặc là người xuất gia nhưng không giấu được hình thể duyên dáng, gương mặt xinh đẹp, đặc biệt là đuôi lông mày đầy vẻ thanh xuân quyến rũ. Tôi nhìn kĩ hơn khuôn mặt của ni cô trẻ, trên chóp mũi có một đám khí đen, đôi mắt mặc dù rất đẹp nhưng bên cạnh tròng đen có sát khí màu đen.

Tôi nói với vị ni già, bệnh của ni cô trẻ này chính là ma sắc nhập tâm. Vị ni già nói: "Đại sư suy đoán chẳng sai, vậy phải làm sao để giải cứu?"

🌟

Sự tình hóa ra là như thế này. Lúc ni cô trẻ này 20 tuổi, bởi vì thất tình nên mới cạo đầu xuất gia, quy y vị ni già, cứ như vậy mà sống bình dị đơn sơ được 3 năm, mọi thứ đều an bình tĩnh lặng.

Hồi đầu năm, họ tới nhà một thanh niên mất mạng do tai nạn xe để làm Phật sự, sau khi trở về chùa liền phát hiện ra ni cô trẻ như bị mất hồn, đôi khi có hiện tượng tinh thần điên đảo kì dị. Đặc biệt là đến ban đêm, cô thường không ngủ, lẩm bẩm một mình, tinh thần và thể xác mỗi ngày một kiệt quệ.

Khi được hỏi nguyên nhân, lúc đầu ni cô trẻ cương quyết không nói thật, sau đó mới kể rằng, khi cô ngồi tụng kinh một mình trước linh vị của người thanh niên trẻ chết vì tai nạn, người trong tấm ảnh đó rất đẹp trai nho nhã, trong đầu cô liền thay đổi suy nghĩ, rằng nếu người thanh niên tướng mạo tuấn tú này không chết, còn mình vẫn chưa xuất gia, thì đây chính là một cuộc hôn nhân rất mĩ mãn rồi. Cứ tự mình nghĩ như thế rồi mặt cũng nóng bừng và đỏ ửng lên, rồi cũng không biết đã niệm kinh đến chỗ nào rồi nữa. Ai ngờ đâu chỉ một suy nghĩ này mà cô đã bị ma sắc nhập tâm rồi.

🌟

Sau khi về chùa, buổi tối cô vừa đi ngủ thì chàng thanh niên tuấn tú nho nhã này liền nhập mộng, ni cô trẻ quên mất mình là người xuất gia, chỉ còn biết rằng mình vẫn là một thiếu nữa đa tình. Mặc dù là trong mơ nhưng họ vẫn vuốt ve rất thân mật, rồi từ từ tiến tới quan hệ thể xác. Từ sau đó, chàng thanh niên tuấn tú kia mỗi đêm đều tới, khi lâu nhất thì cũng chỉ cách một đêm là lại tới.

Ni cô trẻ cũng tự biết như thế này là không tốt, vững tâm niệm Phật nhưng đều không có hiệu quả gì, trong lòng vô cùng mâu thuẫn. Ban ngày, cô tự cảm thấy mình có lỗi với những quy định trong sạch của Phật môn, phát lời thề sám hối, nhưng buổi đêm thì lại mê man trong sắc tình, mong chờ chàng thanh niên tuấn tú kia đến sớm một chút.

Cho đến thời điểm sự việc càng trở nên nghiêm trọng hơn, không chỉ trong mơ anh chàng mới đến, mà ngay cả ban ngày, ni cô trẻ cũng có cảm giác anh ta ở trong phòng, không có gió mà cửa vẫn chuyển động, đồ đạc tự động rơi xuống, có rất nhiều chuyện kì lạ, kể ra cũng chẳng kể hết được.

Vị ni già cũng phát hiện thấy có những sự việc kì lạ, nhưng chỉ thấy là đồ nhi của mình cả ngày lẫn đêm đều lơ nga lơ ngơ, không thiết ăn uống, tinh thần ủ rũ. Mời bác sĩ tới khám bệnh thì không tìm ra nguyên nhân của bệnh, cũng chẳng chữa được. Cầu Phật giúp đỡ, tụng kinh lễ sám, cũng không thu được chút hiệu quả nào. Chàng trai tuấn tú kia vẫn đêm đêm lại tới.

Vị ni già từ lâu đã đọc sách của tôi, biết đến danh tiếng của tôi, liền đưa ni cô trẻ đến hàn xá, xin tôi hóa giải. Không ngờ tôi vừa trông thấy ni cô đã nhìn ra sự việc, đây chính là ma sắc nhập tâm.

🌟

Tôi nói với hai vị ni cô rằng, theo như sự quan sát của tôi thì chàng thanh niên tuấn tú này đã mượn khí của ni cô trẻ để có thể luyện thuật "thái âm luyện hình", sau một thời gian dài có thể thành hình để hại người. Nếu tôi không loại bỏ anh ta thì thật thiếu trách nhiệm. Thế là tôi vẽ 5 lá "Tịnh minh ngũ lôi phù", rồi dán từng lá bùa vào cửa chính cửa sổ. Rồi tôi lại vẽ thêm một lá "Chính nhất trảm tà phù" và dán lên đầu giường của ni cô trẻ.

Sau đó hơn một tuần, vị ni già và ni cô trẻ lại cùng đến để cảm tạ. Theo như họ kể thì đêm đó, chỉ nghe thấy bên ngoài cửa có tiếng bước chân, nhưng không vào được trong phòng. Khi ngủ cũng không mơ, rất an bình. Đêm thứ hai, cửa sổ rung lắc, kêu hu hu, nhưng ni cô trẻ ngủ cũng không mơ gì. Đêm thứ ba, từ chỗ lá phù "chính nhất trảm tà" phát ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng ra ngoài cửa sổ. Kể từ đó suốt một tuần sau, mọi thứ đều yên ắng vô sự.

🌟

Tôi nói: "Lá phù Tịnh minh ngũ lôi này là do sư phụ của tôi là Thái Huyền chân nhân truyền cho. Thái Huyền chân nhân là một vị chân tiên đắc đạo, lá phù Tịnh minh ngũ lôi này không giống với những lá phù ngũ lôi thông thường.

Còn lá phù Chính nhất trảm tà là do Thanh Chân đạo trưởng truyền cho tôi, là bí mật trong bí mật, luôn luôn là kiếm thần rơi xuống, phù pháp bay lên, người âm tự nhiên sẽ sợ hãi chạy trốn, không dám quay trở lại nữa."

Tôi còn đặc biệt vào một căn phòng khác, nói với vị ni già rằng: "Tôi nói thực lòng, hãy để cho cô ấy hoàn tục đi." "Đại sư đã biết rồi sao?" "Đúng vậy. Từ lâu cô ấy đã có ý muốn hoàn tục rồi, cô ấy cũng đã từng cầu xin bà, nếu là người có duyên với cửa Phật thì sẽ không nhiễm bụi trần nữa. Một người thế tục, tuy nói là xuất gia, nhưng lại nghĩ đến những hân hoan ong bướm, đây là duyên thế tục, chi bằng để cho cô ấy đi đi! Đặc biệt là xem đuôi lông mày đa tình và khuôn mặt đào hoa của cô ấy, thì rõ ràng cô gái này đã kết duyên với trần thế, đã yêu nhiều lần rồi, bảo cô ấy vào cửa Phật để chết khô thì thực sự là khó lại càng khó. Chi bằng cứ để cho cô ấy trả những món nợ tình duyên, thì sẽ chẳng còn gây nên tội chướng nữa." "Được thôi, vậy thì sẽ nghe theo lời đại sư." Cuối cùng, tôi nghe nói ni cô trẻ này quả nhiên đã hoàn tục và kết hôn rồi.

🌟

Theo tôi được biết, muốn học Phật cũng phải có Phật duyên, học đạo cũng cần có đạo duyên. Bây giờ những người đến để muốn theo tôi học Phật học đạo chẳng dưới mấy nghìn mấy vạn người. Trong số những người này, phải thừa nhận rằng mọi người đều là thành tâm thành ý, muốn tìm kiếm đạo pháp, nhưng người có thể thực sự hiển hiện được uy linh lừng lẫy, không bị ma sắc hớp hồn thì trong vạn người cũng chỉ có được một, hai người mà thôi. Mặc dù biết rằng gái đẹp vốn cũng là một con dao đẹp, giết sạch những kẻ phong lưu trong thiên hạ, nhưng con người ta vẫn cứ háo sắc như thường. Có thể thấy là ma này vẫn lợi hại như thường.

Thiền sư Pháp Hải có một bài kệ rằng: Mong khuyên thế nhân đừng mê sắc Người mà mê sắc bị sắc mê Thân tâm đoan chính thì tự khắc Tà ác đâu thể quấy nhiễu đây?

25. Ma sắc nhập tâm (Phần 6)

Cần biết rằng thiên ma lợi hại, dùng sắc tình đến để hại người tu đạo, rất hiếm người tu đạo không bị bọn chúng đến để khảo nghiệm. Không thể coi thường hai chữ "sắc tình" này. Hai chữ này liên quan đến tất cả mọi người, đầu tiên là nhìn thấy sắc, sau đó là nảy sinh tình cảm trong tâm. Tình và sắc là tương sinh, cũng như tâm và mắt tương sinh lẫn nhau vậy.

Từ xưa đến nay, thực sự không thể đếm hết có bao nhiêu chính nhân quân tử đã bị sắc làm điên đảo, giống như một thành ngữ của Phật là "như hằng hà sa số". Hơn nữa có người còn cho rằng bản thân mình rất nhất tâm chuyên chú, thì lại càng là những kẻ trở thành "thánh phong lưu". Những người này tự cho mình là nhân vật phong lưu, nhưng lại là một đám phàm phu tục tử tự cho đầu vào thòng lọng.

Pháp sư Huệ Viễn thậm chí còn nói thế này: "Sắc và tình giống như nam châm được đặt vào trong tâm con người, hễ gặp phải người có tính "sắt" thì lại càng hút giữ chặt lại, không tách rời ra được nữa. Nam châm và sắt ở đây là những vật vô tình mà còn như vậy, huống hồ là một đám chúng sinh tự cho mình là hữu tình."

🌟

Tác giả nghiên cứu Phật đạo, đạo Phật là do Tây phương Thích Ca Mâu Ni Phật lập nên, tỏa ra ánh sáng đại trí huệ, ngài thuyết pháp 49 năm, Phật quang phổ chiếu khắp thập phương thế giới, trở thành thầy của trời người, hiện kim sắc liên hoa Phật quốc, độ hóa chúng sinh. Phật Tổ thành đạo dưới gốc cây bồ đề, Ma Vương Ba Tuần đã phái Ma Vương tam nữ dùng sắc tướng đến để dụ dỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, kết quả là Phật vẫn không hề lay động, bởi vậy mà phá bỏ được ma sắc, trở thành giáo chủ cõi Ta Bà của Phật môn.

[ ND: Tây phương Thích Ca Mâu Ni Phật: Đây là tính trên bình diện tại mặt đất, từ Trung Quốc đi sang hướng Tây sẽ là Nepal - Ấn Độ bây giờ, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển pháp luân tại cõi Ta Bà. Vì vậy mới có chuyện Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh. Còn nếu tính toàn bộ vũ trụ Phật giáo trong hư không, phương Tây là cõi tịnh thổ của đức A Di Đà Phật ]

Đạo gia được sáng lập bởi ông tổ của nguyên khí thuở sơ khai hỗn độn, trời đất đều là do nguyên khí tạo ra, nên còn được tôn xưng là Thiết Sư Nguyên Dương Thượng Đế, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân hóa thân như cát bụi ở khắp nơi, không thể đếm xuể. Vào năm Thương Thang Vương thứ 48, ngài đã dùng chân khí tinh khiết của mặt trời để hóa thành đơn hoàn, bay vào trong miệng của trinh nữ, ở trong thân thể của ngọc nữ hoài thai suốt 81 năm, cho đến tận năm Vũ Đinh thứ 9 mới ra đời. Lúc hạ sinh là ở dưới một gốc cây lý [cây mận], do vậy mới lấy tên của cây này làm họ, hơn nữa khi sinh ra thì tóc đều bạc trắng, do vậy người đời mới gọi là Lão Tử [ ND: Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, Lão Tử nghĩa là đứa trẻ già ].

Lão Tử tên là Nhĩ, tự là Bá Dương. Về sau này, Lão Tử cưỡi trâu đi khỏi Hàm Cốc Quan, để lại bộ Đạo Đức Kinh 5 nghìn từ, do vậy ngài còn có xưng hiệu là Đạo Đức Chân Quân. Đạo Đức Kinh 5 nghìn từ là chân ngôn tu tiên vô cùng tinh túy, trong đó đã chỉ thẳng việc "phá sắc tướng", phá sắc tướng ở đây cũng chính là phá bỏ ma sắc.

Người tu đạo chúng ta dựa vào Phật đạo mà tu trì, đều có Phật pháp và đạo phạm để mà tu hành theo. Nhưng trên đời này vẫn có phương pháp sai lệch về phía tà, phương pháp này chính là linh quỷ pháp, dùng những linh hồn ma quỷ yếu để ám vào người dương mà mê hoặc họ. Người có hành vi chính trực thì sẽ có ma thiện bám theo, vẫn có thể gọi là thiện. Nếu ma xấu đến ám vào thì hành vi sẽ sai lệch, bất chấp luân thường đạo lý.

Pháp linh quỷ mà tôi nói đến ở đây chính là việc xem bói lên đồng, dùng công cụ là ma quỷ nhập vào thân, phần lớn các thầy bói đến cuối cùng cũng đều đi vào con đường sai lệch hết.

🌟

Tôi lại có một câu chuyện rất chân thực như sau: Có một quả phụ họ Hồng, chồng qua đời khi cô mới chỉ 25 tuổi, nhan sắc xuất chúng, thực sự là một biểu tượng sắc đẹp, khuôn mặt đầy vẻ đào hoa, xinh xắn như hoa phù dung, thân thể thon thả như cành dương liễu. Điều đáng quý nhất là tâm tính cô thanh khiết như ngọc, giữ gìn tiết hạnh, quyết chí như vậy, cô ấy cũng đã quy y tôi, sớm tối trì chú niệm kinh.

Có một lần, bạn cô đưa cô đến một ngôi chùa nọ để thắp hương, vừa hay có một thày bói đang hỏi thần. Cô cũng hiếu kì đến hỏi một vài chuyện. "Tân duyên của cô Hồng sắp đến, không thể để lỡ." - Thần nói. "Thế nào gọi là tân duyên?" - Cô Hồng hỏi lại. "Cô giữ gìn trinh tiết quả phụ, thần và người đều ngưỡng mộ, do vậy thần đặc biệt ban cho một đức lang quân như ý, cùng cô kết thành một đôi, không được chống lại." "Xin hỏi là khi nào?" "Ba ngày nữa, ở dưới bảng thông tin xe buýt cô thường đi, có một người sẽ đến hỏi chuyện cô thì chính là người này, thời gian vào khoảng chính trưa giờ Ngọ."

Sau khi thầy bói hát xướng lên một khúc lộn xộn thì từ đầu tới chân run lên mấy cơn, nghĩa là thần đã lui đi rồi.

🌟

Cô Hồng trở về nhà, không tin vào chuyện kiểu này, cô vốn đã xác định thủ tiết với chồng, khuê môn nghiêm chỉnh mà nuôi dưỡng đứa con trai, giữ khuôn phép gia đình. Mặc dù có thần đạo nói như vậy, nhưng cô cũng không xem là việc quan trọng.

Đến ngày thứ ba, cô lại nảy sinh tâm hiếu kì, cô muốn biết thực sự sẽ có việc này hay không, và "đức lang quân như ý" này là ai.

Giờ Ngọ của ngày thứ ba, cô đứng dưới một bảng thông tin xe buýt, từ phía xa, cô nhìn thấy một nam thanh niên chạy xe máy đến, người thanh niên này đeo cặp kính mát, anh ta gật đầu chào cô, bỏ kính mát ra, thế là tất cả mọi chuyện đều rõ ràng rồi. Anh ta chính là tay thầy bói ở miếu Cửu Thánh.

Tay thầy bói này đưa tay ra kéo cô Hồng lên xe, cô Hồng sợ tái mặt, hai người cứ đùn đùn đẩy đẩy nhau dưới tấm bảng xe buýt, cho đến khi cô Hồng hét to lên thì anh ta mới dừng. Tay thầy bói trước khi bỏ đi còn văng ra một câu thô tục: "Bỏ mẹ cô, cô mà không nghe theo, tôi sẽ bỏ bùa cô, khiến cho thằng con trai cô cũng chết luôn."

🌟

Cô Hồng không ngừng lo lắng, chỉ còn biết chạy đến tìm tôi. Đương nhiên, vẫn là Lư Thắng Ngạn tôi giải nguy cho cô. Tên thày bói bảo bối này là cái thá gì chứ, đúng là cái đồ cặn bã trong miếu chùa, lũ sâu bọ của thế gian. Loại người này tới kiếp sau sẽ tái sinh trong đám phân thối ở nông thôn, làm loài dòi bọ trắng ởn bò lúc nhúc.

Những chương sách viết về ma sắc nhập tâm này không phải phiếm luận về chuyện xuân hoa thu nguyệt, mà trực tiếp chỉ thẳng ra ma sắc náo loạn tâm của người tu đạo đáng sợ như thế nào. Chỉ là phong lưu một chốc mà bất chấp danh tiết của đạo nhân. Làm một người tu đạo thì cần phải nam không mê sắc, nữ không hoài xuân, chí như vàng ròng, tâm như đá rắn. Khi có những chuyện kiểu này xảy ra thì tự sẽ có lòng trung thành tuyệt đối, cho dù có bị trăm phương mê hoặc thì cũng không đánh mất đạo tâm.

Đây chính là: Tâm chưa dứt tình đừng hỏi đạo Biển dục vẫn chìm chớ thiền chi.

26. Kim quang phục ma

Tôi có một tấm ảnh, tấm ảnh này do tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn ở New York trong lần về nước tham gia hội Quốc Kiến chụp cho tôi. Tiến sĩ Hạ viết thư gửi về nước tìm tôi, người nhà của tôi thông báo rằng tôi đang ở Seattle nước Mỹ. Thế là vào mùa đông năm 1982, ông cùng với vợ người Nhật và cô con gái út công chúa cưng của ông đã đáp máy bay đến Seattle.

Ông ấy chụp cho tôi một tấm ảnh chân dung, không ngờ sau khi rửa tấm ảnh này ra, liền nhìn thấy trong ảnh trán của tôi phóng ra một tia kim quang rất mạnh, khiến tiến sĩ Hạ lấy làm kinh ngạc. Lần đầu tiên tiến sĩ Hạ đến hàn xá của tôi, tôi nói với ông rằng: "Tiến sĩ Hạ, Viện bắc cực kim điện bát nhã của ông tổng cộng đang thờ cúng 21 vị Phật Bồ Tát."

Bản thân tiến sĩ Hạ là người sáng lập Hội liên hợp Đạo giáo Phật giáo. Chính ông cũng không rõ đã thờ cúng bao nhiêu vị bổn tôn, thế là ông lấy ra một tấm ảnh đại điện, lần lượt đếm từng bức tượng, không thừa không thiếu một vị nào, vừa hay đúng là 21 vị. Tiến sĩ Hạ và vợ mắt mở to miệng há hốc vì ngạc nhiên.

Điều khiến ông ta càng cảm thấy khó hiểu là tia kim quang phóng ra từ trán của tôi. Kì thực việc này cũng chẳng có gì kì quái, người tu đạo đã có đắc chứng thì trán sẽ hiện ra tam quang. Thứ nhất là tia sáng màu đỏ, là ánh sáng công đức tích tập được do tu thiện pháp, thứ hai là tia sáng màu trắng, là ánh sáng pháp lực do tu hành tinh túy thuần khiết, thứ ba là tia sáng màu vàng kim, là ánh sáng ánh sáng hoa sen do đã đắc chứng. Ánh sáng kia màu vàng kim, chụm lại thành một chùm, phóng ra từ trán, chiếu thẳng đến Tây phương cực lạc thế giới.

Không thể xem thường tia kim quang này, nó không phải là thép, cũng không phải là sắt, nhưng kim quang có thể hóa thành bảo kiếm, lẫm liệt như thần uy, kim quang bảo kiếm này không phải tôi luyện, không cần phải được luyện trong lò lửa, nhưng vẫn tỏa ra hào khí anh hùng oai nghiêm. Những tia sáng màu sắc tỏa ra là màu hồng từ trong vàng, những người nhìn thấy không ai là không cảm thán rằng thật là kì lạ tuyệt vời. Trong những tia sáng kim sắc của lưu ly còn có bông hoa sen nhỏ màu vàng kim nổi bồng bềnh, lấp la lấp lánh, tầng tầng lớp lớp, tỏa ra kim quang lấn át cả những vì sao, chiếu thẳng đến Tây phương cực lạc thế giới.

🌟

Từng có một lần, có một Thiên Ma đến. Khắp toàn thân Thiên Ma này đều là những tấm áo giáp, có hai đầu, mắt lồi ra, lưỡi rất dài, đứng trong không khí, miệng tuôn ra tiếng người, nói rằng: "Ta đến hỏi ông để lấy bí pháp Thái Ất Kim Liên, nếu ông giao cho ta thì vạn sự đều tốt đẹp, nếu không giao cho ta, miệng ta sẽ phun ra lửa tam muội, thiêu cháy ông chết đi sống lại." "Thái Ất Kim Liên bí pháp là do Thiên Hoàng Thượng Nhân truyền dạy, không được truyền bừa bãi, làm sao giao cho ngươi được?" "Lư Thắng Ngạn, ông đừng có ỷ vào thế lực của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, ta xem ông như đứa trẻ ba tuổi thôi." "Ta không thể đưa được." "Thật là không đưa?" "Đương nhiên."

Thế rồi Thiên Ma đó quả nhiên miệng phun ra lửa, đốt thẳng về phía tôi. Thế là, tôi niệm thầm: "Thúc tâm nhất xử thị thánh hùng Thần thông hội thượng đệ nhất thông Khai quang nhất đạo chiếu tứ tượng Cần tu vạn niên như thiên long Ngạch đầu khai xứ khả tán vụ Cao cao đài khởi cấp như phong, Nhất đạo kim tiễn xạ xuất hậu Nhiễu biến tây phương Tu Di phong."

Trán tôi vừa mở ra lập tức phóng ra một đường kim quang, bay vào trong ngọn lửa cháy. Vừa xung kích thì hỏa lực của Thiên Ma lập tức rút đầu rút đuôi lụi mất.

Thiên Ma kia vừa nhìn thấy kim quang thì giật thót mình, nhận ra rằng đây là liên hoa quang, liền vội vã tìm đường lui, chạy một mạch tới hào sâu khe suối để ẩn thân, về sau không dám xuất đầu lộ diện nữa.

Thiên Ma này về sau đã gặp rất nhiều bạn ma của nó, đều nói rằng: "Lư Thắng Ngạn đã tu xuất ra liên hoa quang, không thể coi thường, không thể xem thường được." Nhưng rất nhiều thiên ma đều không tin, bởi vì trong giới Phật mà nói thì liên hoa quang chỉ có Phật, Bồ Tát mới có. Trong giới Đạo mà nói thì chỉ có Thiên Tiên, Kim Tiên mới có. Tên họ Lư kia là cái thá gì mà không ngờ lại có liên hoa quang, thế là đám ma chúng cũng đến để thử nghiệm, cố ý dụ tôi hiển lộ ra thần thông kim quang một lần nữa. Nhưng tôi không muốn khoa trương, cũng không cần thể hiện. Đây là "đả phá huyền nguyên đệ nhất quan", hoàn toàn không phải trò biểu diễn ma thuật rẻ tiền mà bất kì lúc nào cũng có thể hiển hiện được.

🌟

Có người hỏi tôi, làm sao để tu "Liên Hoa Quang"? Tôi đáp: "Niệm "Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh" một vạn biến. Niệm Phật Mẫu Chuẩn Đề thần chú bảy vạn biến. Đây là pháp trước là để tiêu trừ nghiệp chướng tiền kiếp, sau là để khảo nghiệm đạo tâm của đệ tử xem có kiên cố hay không, trước tiên là để cho ma sắc kiểm nghiệm, nếu không bị ma sắc đánh bại thì mới có thể học được."

Trong số các đệ tử của tôi, có một người rất có đạo duyên, nhưng đáng tiếc là anh ta cũng chẳng có cách nào thoát được cửa ma sắc này. Cầu đạo cầu pháp, khí tượng vạn nghìn, nhưng đức hạnh khó thành, làm sao đắc đạo. Tôi thấy anh ta đã chuẩn bị rất cực khổ, nhưng đáng tiếc là sắc tâm không bỏ, đã bị ma làm ô nhiễm rồi. Tôi khuyên anh ta kiếp sau lại đến vậy!

Vòng tuần hoàn của trời đất này nhanh như vậy, thế gian nhân loại thì chẳng lưu lại được lâu, tranh danh đoạt lợi cuối cùng chỉ có được nấm mồ, yêu thích sắc tình thì càng chẳng được lâu. Chi bằng đi tu chân thành tính, cho thân này trải nghiệm đại đạo giải thoát. Thế nhân cười tôi ngu si, tôi có phải là kẻ ngu si thật không thì cũng cười một cái, rồi tự do theo gió mà đi thôi.

27. Đại Bạch Tản Cái trừ ma chướng

Để bắt đầu chương này, tôi công bố một lá thư của một đệ tử nữ như sau: Thưa thầy, con chào thầy. Thời gian trôi qua thật nhanh, thầy xuất ngoại đến nay cũng đã 8 tháng rồi. Trong khoảng thời gian không dài cũng chẳng ngắn này, cuộc sống, sức khỏe, hoàn cảnh của thầy mọi thứ có được như ý không? Thực sự các học trò không ngừng lo lắng. Thầy cũng biết học trò luôn là một người sốt sắng, vẫn luôn cho là gọi điện thoại để thỉnh an thầy thì nhanh hơn là viết thư rất nhiều, do vậy con đã coi thường việc viết thư thỉnh an, xin thầy lượng thứ cho con nhiều nhiều.

Hồi tưởng lại năm ngoái, con vì bệnh tình liên miên mà phải nhập viện, sinh mạng đã rất gần với cái chết rồi, may nhờ có đại lực của Tiên Phật và thầy bảo hộ, mới khiến cho mạng sống này của con chuyển nguy thành an, như được tái sinh, thực sự khiến học trò ghi nhớ mãi trong lòng, vĩnh viễn chẳng quên.

Nhớ lại trước đây, mỗi lần học trò gặp khó khăn thì luôn luôn có thể đến gặp thầy để thỉnh giáo nhằm giải quyết khó khăn, nhưng nay thầy ở một đất nước xa xôi như vậy, khoảng cách không gian và thời gian khiến học trò chẳng có cách nào tìm đến thầy thường xuyên như trước được nữa để mà được ở bên cạnh thầy nghe chỉ bảo, dạy cách giải tỏa những băn khoăn của con. Mỗi lần nhớ đến đây, con luôn cảm thấy buồn vô hạn, thực sự ước gì có thể mãi mãi theo phục vụ bên cạnh thầy, giúp tu hành thêm tinh tấn để bước lên một trình độ mới.

Thầy ơi, thầy vẫn luôn từ bi hoài mong phổ độ quần sinh, đối với các học trò thì thầy lại càng bằng mọi cách có thể để chăm lo giúp đỡ, thực sự luôn khiến cho mọi học trò đều cảm kích vạn phần. Nay thầy ở nước Mỹ, lại càng vì việc hoằng dương Phật pháp mà dù ở đất nước đó vẫn nỗ lực bận rộn không ngừng, học trò ở đây càng chúc phúc cho thầy hóa đạo thành tựu ánh sáng vạn trượng, để quần sinh trong thiên hạ tất cả đều quy y, khiến vạn tượng sinh Phật, chúng sinh được nương nhờ. Học trò La Ngọc Cầm. Kính thư.

🌟

Bức thư này được gửi tới từ thị trấn Phong Nguyên tại thành phố Đài Trung, Đài Loan. Bức thư này khiến tôi nhớ lại toàn bộ những sự việc năm xưa đã cứu cô ấy. Cô ấy vốn bị một con ma chết đuối ở phía sau khu nhà cô ở ám vào người. Tôi gọi con ma chết đuối kia là "thủy ma", con ma này chết đuối tại một con sông lớn phía sau nhà cô.

Ban đầu, cô vô duyên vô cớ bị ốm, sốt cao không hạ, lúc đầu không chú ý, về sau bệnh tình trở nên nghiêm trọng mới tìm bác sĩ khám, bác sĩ cũng không tìm ra nguyên nhân. Tóm lại, đã khám mấy vị bác sĩ nhưng vẫn không có kết luận gì cả, bệnh cũng không khá lên. Sau khi bệnh tình giày vò cô nửa năm, mặt cô trở nên đen sạm, nhãn cầu trũng xuống, linh hồn thậm chí còn đi tới âm phủ, lúc thì thấy thần, lúc thì thấy quỷ.

Cuối cùng, cô được người thân đưa đến hàn xá của tôi, tha thiết cầu cứu, dù cô không thể quỳ nhưng vẫn miễn cưỡng quỳ xuống. Khi đó cô yêu cầu mau chóng được ban cho cái chết để không còn phải chịu đau đớn nữa. Khi đó, bác sĩ ở phòng khám ngoại khoa Anh Cát tại huyện Bắc Đồn [Thành phố Đài Trung] cũng nhận định rằng cô chín phần chết một phần sống, không thể cứu được nữa rồi. (Phòng khám ngoại khoa Anh Cát chẩn đoán là bị nhiễm độc tiết niệu.)

Chính vì thấy cô quỳ mọp xuống như vậy, trong lòng tôi vô cùng thương xót. Vốn dĩ thọ mệnh của La Ngọc Cầm đã hết từ lâu, việc này là do tôi bấm ngón tay thần toán nên sớm đã biết rồi. Tuy nhiên, cô lại quỳ như vậy, tôi hướng đến chư Phật nói, người này nếu phải chết thì cho thấy Lư Thắng Ngạn thật vô dụng, con cần phải chứng minh có thể phá được nhân quả về vận mệnh.

🌟

Khi đó, tôi đến nhà cô, ở phía trước và sau nhà ở của cô, tôi dùng ngón tay viết lên hư không "Đại Bạch Tản Cái chú luân", chú âm này dịch ra phiên âm trong tiếng Trung là: "Ôm. Sa-ơ-oa, ta-tha-cha-tua, a-ni-ka, sư-ta, ta-ba-chưa, hùm, pây. Hùm, ma-ma-hùm-ni, sô-ha."

[ ND: Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông. Nguồn gốc chú tiếng Phạn: Om sarva tathagato anika sitatapatra. Hum pei! Hum mama hum ni soha ]

Tôi biết rằng khi tôi làm như vậy thì con thủy ma kia cũng sẽ không có cách nào vào nhà được nữa, cũng không có cách nào ám lên người cô La Ngọc Cầm. Kể từ khi La Ngọc Cầm được người nhà đưa tới gặp tôi, rồi cô quỳ như vậy, tôi đã thề rằng cần phải đền bù cho cô thêm một số năm thọ mệnh nữa. Cô lại đến phòng khám Anh Cát, bệnh tình dần dần tốt lên rồi hồi phục hẳn.

Bác sĩ ngoại khoa ở Anh Cát cũng cho rằng đây là kì tích. Bác sĩ ở phòng khám ngoại khoa Anh Cát cũng từng đến làm khách tại hàn xá của tôi, sự việc này hoàn toàn là sự thật.

🌟

Nói thật lòng, tôi dùng pháp Đại Bạch Tản Cái để đối phó với bệnh ma, việc này là dùng dao mổ trâu giết gà, bởi vì Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu là Kim Cang Đỉnh Kế Đại Hồi Già Mẫu, là vị nghìn tay nghìn mặt nghìn mắt, vốn là Đại Bạch Mẫu vạn hình tướng cháy rực có một không hai, thống trị tất cả chúng sinh trong tam giới.

Uy lực của Đại Bạch Tản Cái tâm chú có thể khiến cho tất cả kẻ thù tự động rút lui, thiên ma tà ma cũng rút lui, hơn nữa còn có thể phá hủy tất cả lời nguyền giáng đầu, có thể nhờ A Di Đà Phật mà tăng thêm thọ mệnh, phá thiên, địa, thủy ba loại ma, phàm tất cả bệnh tình nguy kịch, giấc ngủ bất an, ma quỷ hiện hình, đều có thể phá bỏ được.

Tu trì pháp Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu có thể đạt được sự ưu ái yêu thích của nhật nguyệt tinh đẩu, ngoài ra còn được ban phúc cát tường. Có thể thọ trì, tụng chú, cúng dường, mang theo thân thì càng có nhiều công đức, khi mệnh chung được vãng sinh Phật quốc, không bị đọa vào lục đạo.

🌟

Tôi đặc biệt ghi ra đây cách tu trì pháp Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu như sau: (Dùng vải màu vàng viết Đại Bạch Tản Cái chú luân cúng dường.)

Quy y Liên Sinh Thượng Sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nguyện chúng sinh vãng sinh Phật quốc. Nguyện chúng sinh thoát ly khổ ách. Nguyện chúng sinh tinh tấn đắc pháp. Nguyện chúng sinh ác ma lui tán.

Lời tán tụng: Pháp Không đều là bất trụ tướng Mẫu Bạch Tản Cái thân màu trắng Một đầu hai tay ba con mắt Thân mặc thiên y đội bảo quán Trên mỗi tay chân đều có mắt Trái cầm tản cái, phải ban nguyện Thế ngồi kim cang trên hoa sen Ôm ben-da, sa-may-a. Cha Hum Bam Hô, thân hợp nhất Bởi từ chữ Ôm tỏa bạch quang. Om A Hùm so ha. (niệm 3 biến) Cúng dường. (dâng bát cúng)

Niệm Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu tâm chú như sau: "Ôm. Sa-ơ-oa, ta-tha-cha-tua, a-ni-ka, sư-ta, ta-ba-chưa, hùm, pây. Hùm, ma-ma-hùm-ni, sô-ha." Mỗi lần tu trì, niệm tâm chú này 108 biến.

Sau đó lại niệm hồi hướng: Nhất thiết Như Lai vô thượng đỉnh Hóa thân vi diệu hiện thiên vân, Uy đức tự tại Bạch Tản Cái Ngài xuất hiện đây con kính lễ Pháp Bạch Tản Cái nguyện tu trì Mau thành pháp quang, vô địch quang Che chắn chúng sinh hàng thiên ma Đều cùng bay về chư Phật địa.

🌟

Theo tôi được biết, khi tôi còn trẻ, tôi đã từng đến Thập Phương Đại Giác Tự ở Cơ Long [Keelung - Đài Loan] và được một vị tăng ban cho một lá phù hộ thân Đại Bạch Tản Cái, bên trong có tâm chú và kiên giáp chú, khi đó tôi chỉ biết rằng đây là một trong những thần chú hàng ma. Sau này tu tập Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu tâm pháp để đối trị với ma, có chữ Om của Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu làm tâm ấn, tuôn chảy ra ánh sáng đại quang minh màu trắng, ánh sáng này là bất khả tư nghì.

Tôi cầu nguyện Phật Mẫu từ bi hộ trì cho tất cả chúng sinh, cũng hộ trì cho các đệ tử của tôi, để cho tâm pháp của Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu và sức mạnh uy thần của pháp giúp hàng ma phục yêu. Tôi hy vọng chúng sinh có chí hãy tu trì pháp này, sẽ có được lợi ích lớn.

28. Pháp Lục Độ Mẫu trừ ma chướng

Chương này tôi cũng lại công bố một lá thư của đệ tử gửi đến.

Thầy Lư. Xin chào thầy! Đầu tiên xin kính chúc thầy xuân mới hạnh phúc, mọi sự thuận tâm. Con là một đệ tử còn khá xa lạ với thầy. Kể từ mùa hè năm ngoái con đã mang nợ tấm lòng từ bi của thầy. Tại tịnh xá Thái Bình, thầy đã ban quán đảnh quy y cho con, pháp lực đi vào trong thân con, nhưng khi đó con vẫn không có cảm giác gì. Đến khi thời tiết vào mùa thu thì con mới có hiện tượng nội công, thân thể sản sinh ra trạng thái linh động. Từ đan điền, chỗ hội âm, có một dạng năng lượng rung động, rung động tới cả tứ chi và xương cốt toàn thân, thỉnh thoảng sự rung động còn cực kì mãnh liệt, giống như sắp biến thành bay lên không vậy.

Khoảng một tháng sau, có một lão cư sĩ tập thiền nhiều năm nhìn thấy khi con tịnh tọa, thân thủ làm động tác kết ấn, thì cảm thấy rất khó hiểu, nên mới đặc biệt bắt mạch cho con, liền phát hiện ra trên người đệ tử có một dòng điện mãnh liệt, do ngón tay bắt mạch đã truyền điện đến khắp toàn thân ông, khiến ông ấy không ngớt kinh ngạc.

Từ đó, khi đệ tử khẽ đặt tay lên lòng bàn tay của người khác, dùng ý niệm để linh lực có thể truyền qua ngón giữa, ngón áp út đến lòng bàn tay của người kia, thì mỗi người đều cảm nhận được một chút phản ứng (nóng, lạnh, tê, như điện giật). Có một số người thậm chí sẽ từ chỗ hội âm sản sinh ra sự rung lắc, nhưng cũng có một số người thì cảm thấy cánh tay tê đi, thậm chí là toàn thân trở nên mất sức.

🌟

Đệ tử cũng mời những người có cảm ứng ngồi cách ba mét trước mặt đệ tử để tịnh tọa. Đệ tử kết thủ ấn (thủ ấn này là do vô thức sinh ra, ngón trỏ của hai bàn tay hướng cong vào trong, đặt vào cạnh trong của ngón tay cái, còn ngón út, ngón áp út, ngón giữa của tay phải tay trái, thì đầu các ngón tay đều chạm vào đối xứng nhau, hướng ra ngoài, tạo thành hình dạng ba lớp tam giác trùng điệp, ngón út tạo thành lớp dưới, ngón áp út tạo thành lớp giữa, ngón giữa tạo thành lớp trên, đầu hai ngón tay cái chạm vào nhau). Đỉnh nhọn của thủ ấn chĩa thẳng vào đối tượng, dùng niệm lực để khiến cho linh có thể truyền sang đối phương, đối phương sẽ cảm nhận thấy toàn thân bị giật điện, hoặc nhìn thấy ánh sáng trắng, hoặc có dòng diện chạy trên thân, khiến cho thân của người có cảm ứng bị rung lắc, thậm chí có người còn nhìn thấy trong ánh sáng là pháp tướng của Lục Độ Mẫu.

Nếu là người có bệnh trong người thì chỗ bị bệnh phản ứng mạnh mẽ một cách đặc biệt, sản sinh ra tác dụng chữa trị bằng tâm linh. Có người chỉ làm một lần là bình phục, có người thì bệnh tình thuyên giảm.

Trước mắt, những hiện tượng mà đệ tử đã báo cáo, không biết có phải là bình thường không, xin thầy chỉ giáo. Đệ tử ăn chay được gần một năm, từ sau khi ở chỗ của thầy nhận quy y không lâu, bởi vì liên quan đến công việc mà con bị điều đến Đài Bắc. Trong một dịp tình cờ, con đã gặp được một hành giả yoga Ấn Độ (trường phái yoga Ananda Marga), học tập yoga (mantra) pháp, nhưng con vừa ngồi xuống thì xuất hiện thủ ấn linh động, ngay cả hành giả yoga này cũng cảm thấy rất khó hiểu, họ đều cảm thấy là vô cùng kì quái và kinh ngạc.

Thầy ở tận nước Mỹ xa xôi, đệ tử đã hỏi nhiều người, ai cũng không biết, không có nơi nào để hỏi lời khuyên. Con là đệ tử được thầy chính thức ban quán đảnh quy y, tu hành chính pháp dưới pháp môn Linh Tiên Chân Phật Tông. Nay biết được địa chỉ mới của thầy tại Mỹ, nên con đặc biệt viết thư thỉnh giáo. Con kèm theo chi phiếu cho phí bưu điện gửi hồi đáp, xin thầy cho con mấy lời bình luận.

Đệ tử pháp hiệu Liên Ấm. Tưởng Truyền Chấn kính thư.

🌟

Điều tôi muốn đặc biệt thông báo với Tưởng Truyền Chấn là, mọi việc của anh cho đến bây giờ tất cả vẫn bình thường. Khả năng tâm linh có thể chữa bệnh là một sự việc chân thực xưa nay, không có chút nào là giả cả. Có người nhìn thấy pháp tướng Lục Độ Mẫu trong ánh sáng, tôi nói để anh biết rằng, vào thời nhà Đường, Lục Độ Mẫu chính là công chúa Văn Thành, là một vị Phật Mẫu tay phải giữ thủ ấn từ bi. Còn có một vị nữa là Bạch Độ Mẫu, chính là công chúa Từ Trân của Nepal, tay phải kết tam xoa ấn. Lục Độ Mẫu và Bạch Độ Mẫu đều tượng trưng cho trí huệ vô song.

Thủ ấn mà tay anh kết chính là một trong những thủ ấn của Lục Độ Mẫu, anh đã dùng thủ ấn của Lục Độ Mẫu để chữa bệnh cho người khác bằng tâm linh, đương nhiên sẽ có công hiệu rất lớn. Đây không phải là chuyện nhỏ. Vị yogi Ananda Marga kia đã không hiểu rõ về trị liệu bằng linh tiên tâm linh.

Rất nhiều vị thầy Phật giáo cũng không hiểu linh tiên tâm pháp. Khởi linh chỉ là mức độ sơ cơ, là phương pháp tiện lợi dẫn dắt người ta gia nhập Phật môn, bởi vì có cảm ứng thì mới có thể khiến người ta tâm trí không thoái chuyển, việc tu trì sẽ được kiên định. Còn tôi dẫn dắt người ta quy y Phật lại dùng quán đảnh Tam hồng thủy, để cho người người đều có được pháp tam giải thoát. Cách làm pháp của tôi thì các vị thầy Phật giáo khác cũng chưa chắc đã hiểu được. Tuy nhiên, tôi thực lòng thực sự biết rằng, tôi đã được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí quán đảnh, tôi có hoa Phật thủ trên đỉnh đầu, được chính Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí.

🌟

Các thầy Phật giáo khác không hiểu tôi, phàm phu thế tục lại càng không hiểu, có rất nhiều người xem tôi là "ma". Tôi là "ma" cũng được, là "Phật" cũng được, kì thực ma cũng là chúng sinh, những con ma này tương lai cũng là thân quyến của Phật, Phật vẫn cần độ hóa cho ma. Do vậy, tôi cũng chẳng sợ người khác xem tôi là ma, ma này của tôi nếu có thể dạy đạo cho người khác thành Phật thì đó mới là thành tựu vượt qua cả tông phái, công đức lớn khắp thập phương.

Anh Tưởng Truyền Chấn quy y tôi, tiếp nhận quán đảnh Tam hồng thủy, kết thủ ấn Lục Độ Mẫu, vậy thì tôi có trách nhiệm nói cho anh biết phương pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu, hơn nữa Bổn tôn của anh chính là Lục Cứu Độ Phật Mẫu, về sau anh nên tu trì theo pháp Bổn tôn này, tương lai nếu cứ tiếp tục tu trì bền vững thì nhất định sẽ có cảm ứng bất khả tư nghì, có thể cứu giúp được càng nhiều người hơn thoát khỏi bệnh tật khổ ách.

🌟

Pháp tu trì Lục Cứu Độ Phật Mẫu: Tu trì pháp Lục Độ Mẫu, ban đầu có thể đến các chùa Mật tông để phụng thỉnh một bức pháp tướng Lục Độ Mẫu về nhà cúng dường, các chùa Mật tông thông thường đều có in pháp tướng của Lục Độ Mẫu.

Tịnh tọa trước tiên cần quán tưởng Lục Độ Mẫu rất trang nghiêm, ngồi trên tòa hoa sen, trên đỉnh đầu đội một chiếc mũ Ngũ Phật nhỏ, xung quanh mũ Ngũ Phật có gắn thêm rất nhiều đóa hoa nhỏ xinh xắn, tay trái cầm bông hoa sen mới nở nửa chừng, tay phải kết thủ ấn từ bi, toàn thân màu xanh lục sáng. Bên dưới tòa sen mà Bổn tôn ngồi có cuống sen, cần quán tưởng cuống sen này chạm vào đỉnh đầu của mình, cuống sen phóng ra luồng ánh sáng lớn, có ánh sáng chiếu vào trong thân tâm chính mình, tất cả bệnh tật đều được tiêu trừ, toàn bộ đều tan biến không còn dấu tích, tất cả ma nạn chướng ngại đều được tiêu diệt hoàn toàn.

Toàn thân chính mình giống như Bổn tôn, biến thành màu xanh lục tỏa sáng, trí huệ thần thông, pháp lực thù thắng, phúc thọ phú quý, tất cả đều thành tựu. Việc quán tưởng này có thể làm trước khi tu pháp, hoặc làm sau khi tu pháp đều được.

Trước khi tu pháp thì niệm chú Tứ quy y: "Namo Guru pei. Namo Buddha ye. Namo Dharma ye. Namo Sangha ye."

[ Nam-mô gu-ru pây. Nam-mô bút-đa yê. Nam-mô đa-ma yê. Nam-mô sang-ga yê ]

Tiếp theo niệm kệ sám hối: "Quy y Tam bảo tịnh sám hối Hết thảy nghiệp chướng đều tiêu trừ Thánh phàm thắng hành đều tùy hỉ Bồ đề đại tâm hằng hộ trì."

Kết thủ ấn Lục Độ Mẫu. Phát nguyện rằng: "Nguyện chúng sinh có được mọi niềm vui và nhân duyên đưa đến niềm vui. Nguyện chúng sinh được thoát ly khổ và nhân duyên của cái khổ. Nguyện chúng sinh luôn được sống vui vẻ khỏe mạnh không còn khổ đau. Nguyện chúng sinh chứng oan thân bình đẳng giác."

Đây gọi là Tứ vô lượng tâm, hay còn gọi là đại bồ đề tâm nguyện.

Lời thán rằng: "Quy y Phật Mẫu Lục Độ tôn An tọa đỉnh thượng bảo liên tọa Lục quang chiếu khắp thân tâm con Pháp lực tu trì đều như ý."

Trì tâm chú Lục Cứu Độ Mẫu: “Ôm ta-ra tút-ta-ra tu-rê, sô-ha”

[ ND: Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông. Nguồn gốc chú tiếng Phạn tham khảo: Om tara tuttara ture soha. ]

Trì chú này 108 biến. Sau đó quán tưởng ánh sáng quang minh thanh tịnh màu xanh lục, toàn thân trong suốt.

🌟

Tác giả được biết rằng, Lục Cứu Độ Mẫu bởi vì toàn thân màu xanh lục trong suốt, nên người tu trì để có được thân quang minh này thì không được hút thuốc, không được ăn năm loại thực phẩm có mùi hắc [ND: Ngũ tân: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu], bởi vì khói gây chướng ngại mờ mịt, còn năm thực phẩm mùi hắc gây chướng ngại cho thân thể, đặc biệt năm loại thực phẩm này cũng là mẹ của dục niệm, do vậy cấm hoàn toàn.

Không chỉ người tu trì pháp này cần cấm kị mà tu các pháp khác tốt nhất cũng nên cấm kị hút thuốc và năm loại thực phẩm này.

29. Nam mô Mật Đa Ngôn tôn giả

Tôi có một đệ tử nhí tên là Giang Dụ Quần. Trong giấc mơ, cậu liên tục nhìn thấy một vị thần linh khổng lồ, sau khi tỉnh dậy đã đặc biệt dùng giấy bút để vẽ lại và gửi cho tôi xem.

Vị thần này rất to cao, trên đỉnh đầu có nhật nguyệt, trên nữa có một cặp thiên long bay lượn vòng tròn, tóc màu đỏ tía bay bay trong gió, con mắt phẫn nộ, tai nhọn hoắt, miệng rộng nhe răng nanh, tổng cộng có sáu cánh tay, một tay cầm chày giáng ma, một tay cầm cung, một tay cầm tên, một tay cầm rìu, một tay cầm khiên, một tay cầm búa tròn như quả bí ngô, một chân bước lên trước, một chân nửa quỳ giẫm lên một con quỷ.

Tôi vừa nhìn thì nhận ra đây chính là Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả, là một trong những vị thần hộ pháp của Mật tông, hóa ra vị thần này chính là vị thần hộ pháp của Giang Dụ Quần.

🌟

Căn cứ theo kinh điển Mật tông, hành giả Mật tông hoặc là người có duyên với Mật tông đều có thần kim cang bảo vệ, hễ gặp ma nạn thì thần kim cang sẽ lập tức bảo vệ. Đồng thời thần kim cang phần lớn là có kèm theo mật chú, do vậy mật chú có thể đẩy lùi oan ma, đây đều có nguyên nhân là do sự bảo hộ của kim cang thần.

Nói thật lòng, người đã thành tựu Thập Địa Bồ Tát vẫn cần dùng chú để bảo vệ bản thân, huống hồ là chúng sinh nhỏ bé như chúng ta.

Chúng ta, bất kể là Hiển giáo, Mật giáo, hay tu dạo, nhất tâm nhất ý học pháp, thì một là sợ tâm ma, hai là sợ ngoại ma, nhưng khi những con ma này đến thì nhất định cần có pháp để phá trừ.

Các vị đại đức thượng sư thông thường hay nói rằng hãy làm ngơ trước ma và phi ma, ma có đến thì cứ mặc kệ nó, Phật đến cũng mặc kệ, qua một thời gian dài thì tự sẽ không còn gặp chuyện ma nữa. Nếu sinh ra tâm sợ hãi thì chỉ càng làm cho những con ma mà bạn sợ đến nhiều hơn, do vậy không nảy sinh dù chỉ một ý niệm chính là bí quyết để hàng phục ma.

Cũng có cách nói khác là khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, Ma Vương (vua của Tha Hóa Tự Tại Thiên), trong lòng đố kị, liền phái Ma vương tam nữ và một bầy ma nữ toàn thân lõa thể đến để quấy nhiễu Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi đó Phật Thích Ca Mâu Ni niệm kim cang hàng ma chú, tay trái kết kì khắc ấn, tay phải búng ngón tay, tất cả ma nữ đều ngã lăn ra đất không gượng dậy được. Do vậy hàng ma kiêm cả ấn và chú, nhưng chú kim cang hàng ma thì uy lực mạnh mẽ nhất, bình thường không dùng thì tốt hơn.

🌟

Tôi biết Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả là một trong những vị kim cang hộ pháp. Phàm là người có Phật duyên thậm thâm xuất thế thì đạo công càng sâu, ma chướng càng nặng, đây chính là cái gọi là "đạo cao một xích, ma cao một trượng".

Đệ tử Giang Dụ Quần bởi có kim cang hộ pháp của Mật tông, do vậy một cách tự nhiên giống như có duyên với Mật tông. Nếu con gặp ma, có thể trì tụng Bổn tôn hộ pháp thần của mình, khi đó Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả tự nhiên sẽ đến để hộ trì cho con.

Nhưng, tôi muốn nói với các hành giả tu trì rằng ma cũng là một loại chúng sinh, mặc dù có pháp hàng ma, nhưng đừng tiêu diệt nó, bởi vì tiêu diệt ma rồi thì cũng xem như đánh mất bồ đề tâm.

30. Pháp Xích Tử Quan Âm

Chương sách trước tôi nhắc đến Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả, hơn nữa vị tôn giả này vẫn luôn hộ trì cho Xích Tử Quan Âm. Ở đây có một nhân duyên. Hôm nay, trước tiên tôi công bố một bức thư của ông Giang Đông Hoàng, là bố của đệ tử nhí Giang Dụ Quần gửi đến như sau:

Thưa thầy Lư, Trong thư này đệ tử gửi kèm một tờ giấy vẽ hình ảnh vị thần mà Dụ Quần đã thấy trong mơ. Đệ tử không biết đây là vị thần thánh nào, chỉ còn cách làm phiền thầy tìm hiểu giùm cho. Vị này liên tục xuất hiện trong giấc mơ khi Dụ Quần bị ốm, sau khi khỏi bệnh thì cháu đã vẽ lại theo trí nhớ, không biết có đúng không? (Thần này chính là Mật Đa Ngôn tôn giả.)

Ngoài ra còn một sự việc nữa. 11 giờ đêm ngày 14 tháng 11 âm lịch, đệ tử đưa Dụ Quần ra ngoài thì nhìn thấy trên bầu trời có một vị Quan Thế Âm Bồ Tát pháp tướng trang nghiêm, tay cầm hoa sen, vị Bồ Tát này mặt rất đặc thù.

Sau khi về nhà thì cháu lại vẽ lại hình ảnh của ngài, nhưng đệ tử hoàn toàn không để ý. Có một ngày, đệ tử và cháu trai Ngưỡng Thần đến một cửa hàng tạp hóa ở khu Quật Giang, Cao Hùng, thì tình cờ phát hiện thấy một vị Quan Âm rất giống với bức vẽ của Dụ Quần, nhưng vì giá quá cao nên đệ tử không có khả năng thỉnh về được. Sau đó anh rể họ Kinh đã bỏ tiền để mua và tặng cho Dụ Quần, đến nay đã khai quang điểm nhãn để thờ cúng tại nhà rồi. Đây lại là một sự việc trùng hợp kỳ lạ nữa, xin thầy góp ý.

Học trò. Giang Đông Hoàng kính thư.

🌟

[Sư Tôn trả lời:]

"Thần Hộ pháp của Giang Dụ Quần là Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả, hơn nữa nay đệ tử này còn thờ cúng Quan Thế Âm Bồ Tát, vậy nên giờ đây tôi biết được thêm là Bổn tôn của Giang Dụ Quần là Quan Thế Âm Bồ Tát. Do vậy trong chương này sẽ dạy cho con pháp Xích Tử Quan Âm. Pháp này con có thể mỗi ngày tu một lần, thành tựu sau này sẽ ngang ngửa với các kim cương thượng sư Mật tông. Pháp hiệu trong tương lai của con là Bát Diệp Liên Hoa Tạng Kim Cương Thượng Sư."

Còn pháp Xích Tử Quan Âm tu trì như sau: Quy y Liên Sinh Thượng sư. Nam-mô gu-ru pây. Nam-mô bút-đa yê. Nam-mô đa-ma yê. Nam-mô sang-ga yê.

[Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông. Phạn ngữ: Namo guru peh. Namo buddha ye. Namo dharma ye. Namo sangha ye.]

Đầu tiên, dừng mọi vọng niệm, quán tưởng Phật tâm như gương sáng, tự tâm cũng thanh tịnh, dùng trí huệ quán chiếu tự tính, như vậy vọng niệm sẽ không sinh ra nữa.

Ngồi trước mặt Quan Thế Âm, hai tay chắp hoa sen, quán tưởng chính mình ngồi trên nguyệt luân hoa sen tám cánh, giống như đứa trẻ sơ sinh vậy, nét mặt khẽ cười ngây thơ, ban đầu là để hồi phục lại tâm ngây thơ của một đứa trẻ mới sinh. Hai tay chắp lại chính là ấn hoa sen chưa nở. Đầu tiên, từ tâm của xích tử [xích tử là đứa trẻ sơ sinh] sinh ra chân tâm, rồi lại sinh ra chính tâm, tiếp đó lại sinh ra tâm bình đẳng, rồi lại sinh ra tâm phát nguyện bồ đề.

Hãy nhớ trong quán tưởng có tám con chim khổng tước bay lượn xung quanh, tượng trưng cho niềm hoan hỷ khi Xích Tử Quan Âm xuất thế. Ngoài ra, sau lưng Xích Tử Quan Âm có vị hộ trì là Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả, không sợ thiên ma đến làm hại. Cần quán tưởng hết tất cả những điều này.

Sau đó, trong quán tưởng nếu nhìn thấy chữ "Om" trong nguyệt luân ở trong tâm Quan Thế Âm Bồ Tát phóng ra ánh sáng trắng, bạn có thể hít sâu một hơi để hít ánh sáng trắng này vào, theo thời gian, khi ánh sáng trắng này trong người bạn nhiều lên, thì thân sẽ hiện lên như viên ngọc thủy tinh, trong suốt. Thời gian quán tưởng từ 10 đến 20 phút là được.

Sau đó tụng: “Ôm ma-ni pê-mê hum” [Om mani padme hum] là tâm chú của Quan Thế Âm Bồ Tát, tổng cộng 108 biến, tay có thể lần chuỗi hạt. Tụng xong chân ngôn thì lại niệm: Với tâm Xích Tử xin phát nguyện Đắc thành tự tại Quán Âm tôn Phổ độ chúng sinh nhiều vô số Đều được an trú nơi Phật địa.

Mặc dù cách tu đơn giản nhưng rất có công hiệu, không được coi thường pháp này. Đây là thành tựu tột cùng của Bát Diệp Liên Hoa Tạng Kim Cương Thượng Sư.

🌟

Tác giả biết rằng Mật thừa truyền đến từ Tây Tạng gọi là Tạng mật, từ Tây Tạng truyền đến Nhật Bản rồi lại từ Nhật Bản truyền về thì gọi là Đông mật.

Mặc dù người tu hành Mật tông thì nhiều, nhưng người hoàn toàn hiểu rõ nguyên lý của Mật tông thì không nhiều. Có nhiều người chạy loạn lên tìm kiếm bên ngoài, không hiểu được rằng thực tu nội chứng mới là quan trọng.

Rất nhiều người cho rằng quy y Mật tông thì hôm nay đến pháp hội quán đảnh này để xin quán đảnh, ngày mai lại đến một nơi khác để xin quán đảnh. Hôm nay thì là pháp Bổn tôn này, ngày mai thì là pháp Bổn tôn kia. Mặc dù những gì học được thì nhiều nhưng chướng ngại lại càng nặng, như vậy thì ngược lại thành ra không tốt. Chi bằng thực tu một loại pháp, sau khi đã thông thạo một pháp rồi thì trăm pháp đều thông. Chỉ cần thực tu đến khi đắc chứng được một pháp thì ấn chứng trong tương lai tự khắc sẽ lần lượt hiển lộ.

Tôi có lời khuyên thế nhân, quán đảnh cần tìm thượng sư tốt để xin quán đảnh, nếu là pháp sư loạn cào cào thì cũng giống như dùng ngũ trược ác khí để quán đảnh cho chúng sinh mà thôi. Ngược lại, những chúng sinh đó thì chẳng có được sự thanh tịnh, lại thành ra từ đầu đến chân bị dội đầy nước phân. Những nghiệp tội, nhiễm bẩn không được loại trừ, ngược lại còn tăng thêm ô nhiễm.

Nói tới nói lui, bất kể là như thế nào, tu Mật tông cần phải dùng đến công phu ý lực kiên trì, thì ngoại chứng nội chứng đều đạt được, khi đó mới chính là một vị kim cương thượng sư chuẩn một trăm phần trăm.

31. Sự bại hoại của rắn và bọ cạp

Trong cuốn sách "Thế giới của con mắt thứ ba", trang 21, tôi đã viết một chương là "Tránh xa rắn và bọ cạp". Trong bản văn đó tôi đã tỉ mỉ thuật lại sự việc về một cặp vợ chồng đều bái tôi làm thầy. Tôi biết người phụ nữ này tính nết như rắn độc bọ cạp, nhưng tôi vẫn nhận bà làm đệ tử, vì tôi làm theo mục đích từ bi chúng sinh của Bồ Tát để mong cảm hóa bà ta. Sau đó, quả nhiên tôi đã nhận lại sự phỉ báng. Đây chính là đại ý của chương "Tránh xa rắn và bọ cạp". Trong bản văn, tôi kể rằng, dựa theo "động huyền pháp" bấm ngón tay tính toán thì chòm sao Xà Yết [ ND: Xà, Yết là tên gọi của hai chòm sao, đồng thời có nghĩa là rắn và bọ cạp ] này cũng sẽ không chiếu sáng quá lâu, đến nay quả nhiên đã ứng nghiệm rồi.

🌟

Nhân đây, tôi công bố một bức thư học trò gửi đến để chứng minh như sau: Chào thầy Lư, chúc mừng năm mới. Hôm nay là ngày mồng một đầu năm mới, vốn dĩ là một ngày khiến cho người ta tràn đầy niềm hy vọng, nhưng chúng con lại đang đối mặt với một tình huống vô cùng bi thảm. Bởi vậy nên chúng con đang trải qua những ngày Tết trong sự bất an và lo âu.

Đúng như những gì mà thầy đã đề cập đến về một "nữ xà yết tinh" trong cuốn sách "Thế giới của con mắt thứ ba", hôm nay thực sự đã được ấn chứng rồi. Chúng con rất hối hận đã không nghe theo lời cảnh tỉnh của thầy là cần phải cẩn thận mọi lúc mọi nơi.

Vợ chồng Lâm Thị vào ngày 6 tháng 2, lấy lý do con gái ở nước ngoài làm đám cưới nên đã lén trốn ra nước ngoài. Hai ngày trước đó, thị trường cổ phiếu liên tiếp hai ba phiên bán tháo lớn, bây giờ cả công xưởng cũng đã đóng cửa rồi. Cha của con bị họ làm liên lụy, bây giờ nợ nần khó tránh, khả năng sẽ vi phạm vào luật công cụ chuyển nhượng. Thân làm con cái như chúng con cũng buồn đến rơi nước mắt vì cha mẹ, tâm trạng này không có bút mực nào mô tả được hết.

Sự việc xảy ra đúng vào dịp xuân mới, vốn dĩ nhà nhà hoan hỉ, tâm tình vui vẻ, nhưng những gia đình, bạn bè, người thân có liên quan đến vợ chồng Lâm Thị đều phải gánh một món nợ lớn. Những nhân vật đã từng hô mưa gọi gió, uy phong bát diện, thì nay những kẻ phải chịu trách nhiệm đã kéo cả nhà trốn ra nước ngoài, còn những nhân công ở công xưởng thì tiền lương cũng phải thông qua sự đồng ý của cục tổng công đoàn xã hội của ủy ban huyện.

Bọn họ vẫn luôn tín Phật, tự cho mình là những nhà làm từ thiện, thế mà nay lại làm cái việc khiến người và thần đều phải phẫn nộ. Kiếp nạn này của cha con khó tránh khỏi lao tù, khả năng phải vào tù làm nghĩa vụ. Nhưng chúng con rất không cam lòng, thậm chí đã nghĩ đến chuyện báo thù. Thưa thầy, xin thứ lỗi cho chúng con đã có suy nghĩ như vậy, nhưng sự phẫn nộ này khó có thể tiêu tan. Từ nay trở đi chúng con nên làm thế nào, xin thầy chỉ rõ cho chúng con.

Xin gửi lời hỏi thăm đến Sư Mẫu và các em, chúc xuân mới vui vẻ. Học trò. Một người thầy đã biết tên. Kính thư. (Con gửi kèm theo một trang báo, xin thầy xem qua.)

🌟

Nhận được bức thư và bài báo này, tôi thực sự buồn mất mấy ngày. Nó khiến tôi nhớ lại chuyện cũ cách đây 7 năm, tôi nhất thời phát khởi tâm bi mẫn khi thấy họ một ngày ba lần đến, tỏ ra rất kiền thành, thế nên tôi đã dùng hai pháp để giúp đỡ cho sự thịnh vượng của họ.

Một là pháp "nhật nguyệt trì quang minh", hai là pháp "liên hoa quan tỏa", hơn nữa còn nói rõ sau 7 tháng nữa họ sẽ phát đạt. Khi dùng pháp này, thì khi đó liền có ngay hai người đích thân đưa tiền cho họ mượn để vượt qua cửa ải khó khăn. 7 tháng tiếp theo quả nhiên doanh thu của họ từ 300 vạn mỗi tháng trở thành 1500 vạn mỗi tháng. Trong khoảng thời gian rất ngắn (khoảng một năm), họ đã kiếm được trên 60 triệu tệ, họ thực sự là hô mưa gọi gió, không ai ngăn cản được.

Đương nhiên, sau khi có tiền rồi, lời nói, hành vi, khẩu khí của họ đương nhiên đã khác so với khi xưa khi họ đến cầu tôi giúp. Không phải là một ngày ba lần, phải thừa nhận là họ vẫn có sự cung kính đối với tôi, nhưng phần nhiều là không như trước, trước đây một ngày tới ba lần thì nay trở thành một năm một lần. Cá nhân tôi cũng tự mình biết rằng giờ người ta có tiền rồi, xe thì mua hết cái này tới cái khác, ngay cả con cái cũng lái xe mới, tôi là thầy thì qua cầu rút ván là xong, chẳng còn giá trị sử dụng nữa.

🌟

Khi đó tôi chỉ có ba lời khuyên cho họ: Một là, đừng dùng số tiền kiếm được mà tiêu xài bừa bãi vào việc xây dựng mở rộng nhà xưởng, tiền nợ phải trả thì mau trả lại, số tiền còn lại thì tiết kiệm để phòng những lúc cần đến. Câu nói này tôi nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại.

Hai là, mau chóng tu Phật đạo làm từ thiện, bố thí công đức, in ấn kinh sách để tích lũy công đức để bổ sung cho những công đức mình còn thiếu, nhờ đó mà phú quý sẽ có được liên tiếp không dừng, những thiện nguyện đã đưa ra thì phải lần lượt thực hiện.

Ba là, đối với người khác đừng hợm hĩnh, đừng vọng tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp. Cần phải dừng tham niệm, biết đủ mà hài lòng, cần biết điểm dừng. Mỗi ngày đừng quên thực hành khóa tu Phật, thành tâm lễ Phật, thì tự sẽ có thiện báo. Nếu không tương lai nhà xưởng sẽ rơi vào tay người khác.

Về sau, họ đã dùng số tiền kiếm được để xây dựng và mở rộng nhà xưởng. Rồi còn xây nhà riêng, trang trí cực kì sang trọng, mua về dàn âm thanh tốt nhất, phàm tất cả mọi thứ hưởng thụ được thì họ đều có hết. Nhưng ngôi nhà riêng này đều không hợp với tất cả địa lý. Họ thay đổi khu mộ của bố cũng không rõ đã nhờ thỉnh đến thầy địa lý nào. Tóm lại, người thầy là tôi đây từ lâu đã bị họ mau chóng đá ra ngoài rồi. Mặc dù vậy, tôi vẫn thông qua học trò là Trần Chính Hùng nói cho họ những lời cảnh báo này, nhưng người giàu thì tâm cao ngạo, những lời của tôi chỉ như gió thổi qua tai ngựa mà thôi.

🌟

Cặp vợ chồng này giàu có đến đỉnh điểm. Người phụ nữ yêu tinh bọ cạp này vì có tiền có thế, nên đã biến trở thành "một đại diện hình ảnh phụ nữ nổi tiếng", lên làm hội trưởng câu lạc bộ gì gì đó. Khi thành lập hội này thì phó tổng thống cũng đích thân đến dự, tiếng tăm trở nên lừng lẫy. Còn người thầy là tôi đây thì mặc dù ở nước ngoài xa xôi, nhưng đến cả một lá thư thông báo cũng không có, họ đã hoàn toàn quên sạch. Riêng người chồng của người phụ nữ này thì ăn no mặc ấm rồi sinh thói dâm dục, còn mua nhà riêng cho bồ nhí.

Kết cục cuối cùng càng kì lạ. Chuyện của ông chồng bị lộ ra, nhưng họ lại đổ trách nhiệm lên đầu tôi. Trời ạ! Một năm gặp mặt không tới một lần, giờ nồi cháy bắt tôi phải đền, cái thế giới gì thế này, rõ ràng như trời với đất, lẽ nào chẳng còn vương pháp đạo trời? Người thầy là tôi đây chỉ là một tên thầy cho người ta mắng chửi hay sao?

Cặp vợ chồng rắn và bọ cạp đó chẳng phân biệt trắng đen đúng sai, công khai phỉ báng ân nhân đã cứu mạng họ, thực sự họ đã làm một việc xấu xa không thể chấp nhận nổi, khiến cho tôi vô cùng đau lòng, buồn bã rời khỏi quê hương.

Tôi thỉnh thị Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát nói: "Từ bỏ phương nam duyên chúng sinh Một bước lên mây phương tây tiến Mộng đêm từ nay chẳng vì nước Thì chẳng còn tạo nên nhiễu phiền."

Bài thơ này là do Phật Bồ Tát dành cho tôi khi tôi rời quê hương, là Phật Bồ Tát muốn tôi tránh xa những lũ rắn và bọp cạp nhỏ mọn này. Hơn nữa chư vị còn chỉ thị rằng, người phụ nữ kia sẽ nhận được báo ứng, suốt cuộc đời bà sẽ "bụng bò dưới đất, răng nhọn chĩa ra, trong mồm ngậm độc, gây chiến như rắn, chính là một con rắn hoa ban dài ngoằng."

🌟

Kì thực, tác giả đã tu tập nhiều loại pháp của Phật đạo, thiên văn địa lý cũng tường tận, bản thân đã ấn chứng ngoại thành bát pháp và nội thành bát pháp, từ lâu đã tự tâm minh bạch, tự tại giải thoát. Tôi không những đã biết quá khứ tương lai, cũng có thể thay đổi nhân quả, thành bại của vợ chồng Lâm Thị từ lâu tôi đã nắm trong lòng bàn tay, từ đầu tôi đã muốn cứu họ. Tôi đã sớm biết tương lai sẽ xảy ra việc không tốt thế này, chỉ là tôi vẫn một lòng nhân từ, nhất thời không nỡ bỏ họ mà thôi.

Đây chính là: "Một lòng từ bi thiện niệm Hóa thành nước chảy hoa trôi Thánh hiền khổ tâm một nỗi Ai người có thể đếm đo."

Vợ chồng Lâm Thị, thiếu nợ thì phải trả tiền, lẽ trời rõ ràng, đừng cho rằng tạm thời trốn được thì có thể trốn được mãi. Tôi khuyên các người mau tu Bách tự minh chân ngôn của Kim Cang Tát Đỏa: “Ôm, bên-da, sa-tô, sa-may-a. Ma-nu-pa-lay-a. Bên-da, sa-tô, tê-nô-pa-ti-tra. Tri-đố mê-ba-oa. Su-tô-thai-ô, mê-ba-oa. Su-pô-thai-ô, mê-ba-oa. A-nu-rắc-tô, mê-ba-oa. Sa-oa, sít-đi-mê-pô-ra-yát-sa. Sa-oa, ka-ma, sút-sa-mê. Chi-ta-mô, su-ri-rưn, ku-ru-hum. Ha ha ha ha hô. Ba-ka-uân, sa-oa, ta-tha-gát-ta. Ben-da, ma-mê-mun-sa. Ben-di, ba-oa. Ma-ha, sa-may-a, sa-tô. A. Hum. Pây.”

[ ND: Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông. Phạn âm: Om vajrasattva. Samaya manupalaya. Vajrasattva tvenopatistha. Dridho me bhava. Sutokayo mebhava. Supokayo mebhava. Anurakto mebhava. Sarvasiddhim me prayatsa. Sarvakarma sutsame tsitam shreyam kuru. Hum. Ha ha ha ha Hoh. Bhagawan sarva tathagata. Vajra mame muntsa. Vajri bhava mahasamaya sattva. Ah. Hum. Phat ]

Khi đọc chú ngữ trên sẽ có những công đức như sau:

  1. Có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng đã tạo nên từ vô thủy đến nay.
  2. Có thể dừng tất cả ác niệm, khiến ác niệm không còn tăng trưởng.
  3. Có thể phá trừ tất cả phiền não.
  4. Có thể tăng trưởng vô lượng vô biên phúc phận.
  5. Có thể tạo ra đủ loại công đức, sau khi tu pháp xong mà trì thêm chú này thì có thể loại bỏ được mọi lỗi lầm trong lúc tu trì, cũng như bổ sung những thiếu sót.
  6. Tùy nguyện sở cầu, đều được như ý.

🌟

Tôi nói các người đời này cần trì tụng Bách tự minh chân ngôn ngay, một là sẽ cứu được ông Lâm dừng ngay ác niệm, hai là cứu được bà Lâm không phải chịu báo ứng làm rắn độc. Mặc dù các người hại tôi chửi tôi, nhưng tôi vẫn cứu các người, và cũng chỉ có cách truyền pháp này cho các người thôi. Ai bảo tôi đã nhận các người làm học trò chứ. Nếu các người thực lòng sám hối thì có thể đến tìm tôi, tôi sẽ vẫn truyền pháp tu cho các người.

Trước hết tôi muốn các người hãy tu sám hối, các người chửi Phật chửi thầy thì xin hãy thường niệm: "Ác nghiệp xưa nay con đã tạo Đều bởi vô thủy tham sân si Sinh ra đều bởi thân ngữ ý Đã phạm thập ác ngũ vô gián Và nghiệp tội như samaya Vô biên vô lượng bao loại tội Nay con hết thảy xin sám hối Chư Phật thương xót hãy tiếp nhận Đến khi thành Phật, đừng rời xa." iệm chú sám hối: "Om. Benza samaya sato. Ah."

Hãy mau tu hai pháp này, nếu không, các người sẽ không kịp cứu đâu, chắc chắn sẽ nhận lấy báo ứng. Hãy mau nghe lời thượng sư, bằng không sẽ chỉ còn biết khóc thôi, xin hãy nhớ rõ. Nhân quả báo ứng, thời gian sẽ trả lời, chẳng sai chẳng trật.

32. Bố vợ chuyển thế tại Điểu Tùng

Bố vợ của tôi là Lư Kim Thủy, qua đời năm 77 tuổi, tại thị trấn Thái Bình, Đài Trung, Đài Loan. Trước khi ông qua đời, tôi nhìn thấy linh ảnh Địa Tạng Vương Bồ Tát và bố vợ đến trước giường của tôi.

Bố vợ nói với tôi rằng, ông ấy đã nhận được "lệnh triệu tập", đương nhiên, tôi lập tức biết rằng việc này nghĩa là thế nào.

Tôi hỏi: "Bố chuyển thế đến nơi nào?" "Bồ Tát nói kiếp này bố thích đi du lịch, nên sẽ chuyển thế làm chim." - Bố nói với tôi. "Chim? Chim là loài bay trên trời, sao có thể như thế được!"

Tôi quay qua hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát là Bổn tôn tu pháp của tôi, là Bổn tôn Bồ Tát mà tương lai tôi sẽ thành tựu, giữa chúng tôi rất thân thiết.

"Ông Kim Thủy là bố vợ của ngài, cả đời ông không phạm vào tội gì lớn, nhưng tu hành một chút cũng không có, mặc dù có tin thần, nhưng chỉ là lạy lạy mà thôi, ông ấy là người không thiện không ác, duy nhất thích chu du khắp nơi, dựa vào luật nhân quả thì tự nhiên ông sẽ chuyển thế làm chim thì sẽ là con đường đẹp nhất, không có gì miễn cưỡng, do vậy mới dựa vào tính cách của ông để mà chuyển thế." - Bồ Tát nói. "Nhưng Lư Kim Thủy là bố vợ của tôi, Bồ Tát không thể nào để bố vợ của Lư Thắng Ngạn chuyển thế làm chim được! Tôi sẽ tu một pháp để giúp ông ấy." "Người đã nhập âm, hồn bay phách tán, tất cả đã muộn rồi." "Thực sự không có cách nào vãng sinh sao?" "Đúng vậy." - Bồ Tát nói: "Trừ phi ngài bỏ ra một ít công đức mà ngài tự mình tu được cho ông ấy, thì ông ấy vẫn có thể chuyển thế làm người." "Được thôi, tôi đồng ý." - Tôi nói. "Bởi vì ngài đã cho phép, vậy thì chuyển thế làm người vậy." "Địa điểm ở chỗ nào?" "Điểu Tùng, thị trấn Điểu Tùng tại thành phố Cao Hùng, ở khu vực gần hồ nước trong. Bởi vì khi sắp chết ông ấy vốn muốn chuyển thế làm chim, nhưng vì ngài giúp ông ấy, nên chỉ có cách đưa ông ấy về tái sinh làm người tại thị trấn Điểu Tùng, như vậy cũng hợp được một chữ điểu."

Sau khi Bồ Tát nói với tôi những điều này, bố vợ tôi và Bồ Tát liền cùng nhau biến mất. Sáng ra, tôi đem sự việc này kể với nhà tôi là Lư Lệ Hương, cùng với ba anh em Trần Tước Viên, Trần Sâm Hà, Trần Sâm Long là bạn tốt của tôi. Ngoài ra còn có ông Vương Thạch Lân cũng biết chuyện này, bởi vì ông Vương vừa hay mới từ Đài Loan đến đây chơi.

🌟

Buổi chiều, theo giờ Đài Loan là sáng sớm, bố vợ tôi đã qua đời. Người nhà từ Đài Loan gọi điện đến, kì thực không những tôi đã sớm biết, thậm chí tôi còn biết sớm hơn họ một ngày, đặc biệt là tôi còn biết thêm là ông sẽ chuyển thế đến thị trấn Điểu Tùng ở thành phố Cao Hùng. Bố vợ tôi qua đời, sẽ tái sinh tại Điểu Tùng.

Vào buổi tối, tôi đến đại siêu thị mua rất nhiều hoa quả và đồ điểm tâm, rồi tại Phật đường trong nhà, tôi cùng Lệ Hương, Phật Thanh, Phật Kì, tất cả cùng niệm kinh, tụng kinh siêu độ, cầu Bồ Tát bảo vệ, để cho ông được tái sinh vào trong một gia đình người tốt, gặp được duyên Phật, sớm tu hành, sau này được vãng sinh đến Tây phương cực lạc thế giới Phật quốc, tránh phải chịu khổ trong lục đạo luân hồi. Đây là những hy vọng của chúng tôi.

Đối với bố vợ tôi, tôi có chút hối tiếc, bởi vì tôi là một người biết đại pháp, lẽ ra tôi nên đem đại pháp giao phó cho người thân, để người thân cũng có thể vãng sinh, không phải chịu khổ trần thế. Nhưng con người tôi lại cũng rất có cá tính, tôi vẫn luôn luôn để "tùy duyên", không miễn cưỡng người khác. Anh không đến cầu thì tôi cũng sẽ không nói, với bất kì ai cũng vậy. Tôi không có một chút xíu nào miễn cưỡng đối với việc tu hành học Phật. Cho dù có là người thân, nhưng họ không cầu đến tôi thì tôi cũng không nói. Đây là duyên phận, tất cả những nhân nhân quả quả này đều là duyên phận mà thôi.

🌟

Có hay không nhân quả báo ứng? Có hay không luân hồi? Sao lại không có chứ. Tôi cười những người "ăn cơm khoa học", và cả những người "mê tín khoa học", những người như thế sau khi chết đi, khi tất cả đều hiểu ra thì mọi thứ cũng đều muộn rồi.

Tôi thực lòng thực sự nói với số đông chúng sinh rằng thực sự có linh hồn, thực sự có nhân quả, thực sự có luân hồi, mọi người hãy mau tìm cầu minh sư, mau tìm cầu thượng sư, mau mau tu hành, đừng đợi chết đến nơi rồi mà vẫn không giác ngộ, đừng trách Lư Thắng Ngạn tôi sao cứ viết nhiều sách cảnh cáo như vậy. Đến lúc đó đừng đổ tội, than trời trách đất, trách người.

🌟

Tôi có một diệu pháp tiện lợi, bất kì ai đều thích hợp để tu trì. Pháp này gọi là "Tọa liên vãng sinh pháp". [pháp ngồi hoa sen vãng sinh]

Đầu tiên thỉnh một người biết làm thủ công bằng giấy, làm một đóa hoa sen thật đẹp, màu vàng kim, màu đỏ, màu trắng đều được, rồi cúng trước tượng Phật Bồ Tát. Mỗi ngày như pháp tu trì một lần.

Trước hết niệm: “Namo Liên Sinh Thượng sư. Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê.”

[Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt mô phỏng khẩu âm của Liên Sinh Hoạt Phật Chân Phật Tông. Phạn ngữ: Namo guru beh. Namo buddha ye. Namo dharma ye. Namo sangha ye.]

Lúc này chắp tay lại là được. Tiếp đó tay kết ấn Kim cang samaya và niệm Tứ vô lượng tâm: Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ. Nguyện hết thảy chúng sinh chứng oan thân bình đẳng giác.

Rồi phát tâm rằng: "Đệ tử tên là……………, từ nay tu học Tọa liên vãng sinh pháp, nhận Liên Sinh pháp sư làm Thượng sư, từ nay xin gần Tam Bảo, phát đại bồ đề tâm, thề nguyện cùng chúng sinh cùng chứng bồ đề."

Niệm chú: “Ôm bô-đi-chi-ta ben-za sa-ma-ya ah hùm.”

Lại niệm: “Ôm a-mê-li-tưa-hây hùm-pây.”

Tam niệm: “Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng.”

Lúc này người tu trì tĩnh tọa quán tưởng trước mắt hiện lên một vị A Di Đà Phật của Tây phương Cực Lạc thế giới, toàn thân màu đỏ, tướng mạo trang nghiêm, tay phải đưa xuống, tay trái cầm đài hoa sen. Rồi lại thấy A Di Đà Phật ném bông hoa sen này cho bạn, bản thân bạn liền một lòng một ý ngồi lên trên bông hoa sen. Chỉ trong sát-na, bạn đã bay đến Tây phương Cực Lạc thế giới, bay nhanh giống như một tia chớp lóe lên vậy, lập tức hoa nở thấy Phật, vẻ mặt A Di Đà Phật khẽ cười.

Lúc này, người quán tưởng có thể chắp tay niệm "Tọa liên vãng sinh chú" 108 biến. Chú rằng: “Ôm bê-ma-ta-li hùm.”

Niệm xong thì hồi hướng: "Con nguyện lúc lâm chung Tận trừ mọi ràng buộc Hoa sen mau xuất hiện Vãng sinh trong sát-na."

Làm như vậy mỗi ngày một lần. Đến cuối cùng chắc chắn sẽ cát tường viên mãn. Cần ghi nhớ điểm quan trọng nhất là, có thể dùng giấy bóng kính hoặc hộp thủy tinh để gói bông hoa sen lại, cúng trước Phật Bồ Tát, bình thường dùng vải sạch để lau bụi bám bên ngoài để giữ cho nó được luôn luôn sạch sẽ sáng bóng, đợi đến khi lâm chung thì nhờ người thân con cháu đem hoa sen đốt để có thể ngồi lên hoa sen mà vãng sinh.

🌟

Tác giả biết ở Gia Nghĩa, có một vị pháp sư đã lợi dụng pháp này, dùng giấy bìa carton để làm thành ghế ngồi hoa sen, sau đó để cho tín đồ ngồi lên, pháp sư liền niệm chú, đưa ngón tay chỉ và hét lên một tiếng: "Chi". Sau đó tín đồ bước xuống, ngay lúc đó ghế ngồi hoa sen được đem đốt, để biểu thị rằng người này đã có được một bông hoa sen rồi đó. Mỗi lần ngồi như vậy ông ta thu phí tới hàng vạn đồng, pháp sư này dùng cách này đã kiếm được một khoản tiền lớn, kết quả là giàu có khắp vùng.

Nhưng pháp "Tọa liên hoa vãng sinh" thực sự là không cần phải thỉnh pháp sư đến để làm pháp hộ, mà là tự mình có hằng tâm tu trì, lâu ngày công phu sẽ dày lên, vào lúc lâm chung hoa sen sẽ như lúc bình thường quán tưởng, hoa mở ra là thấy Phật đến, vô cùng nhanh chóng và cứ thế ra đi một cách chắc chắn. Việc này đã có ấn chứng, không phải là nói khoác.

Vị pháp sư ở Gia Nghĩa kia mặc dù rất khôn khi dùng phương pháp này, nhưng tín đồ lại thiếu mất công phu tu trì, tiêu rất nhiều tiền nhưng trong tâm không có hoa sen thì hoa này sẽ không vững bền, vẫn chỉ là hư huyễn không thể tin được. Chi bằng tự mình tu để có tác dụng chân thực và ổn định, thì sẽ tương đối chắc chắn và đáng tin hơn là pháp sư dùng phương pháp đốt hoa sen để kiếm tiền.

Còn tôi dạy mọi người tu pháp "Tọa liên vãng sinh", tôi dám bảo đảm rằng, chỉ cần có thể làm theo một cách bền bỉ liên tục, tôi nguyện bảo đảm rằng nếu bạn không thành Phật, tôi Lư Thắng Ngạn thề không thành Phật.

[ ND: Chú ngữ được phiên âm tiếng Việt để đọc lên chính xác theo bản văn tiếng Trung được sử dụng trong Chân Phật Tông. ]

33. Chân định không sợ yêu ma

Một người tu đạo, khi thực sự nhập định thì sẽ không sợ yêu ma đến quấy nhiễu. Người bị quấy nhiễu là vẫn chưa thực sự nhập định. Bởi vì hiện tượng "chân định" còn được gọi là "bí mật trang nghiêm", chắc chắn luôn có 36 thiên thần bảo vệ, các lỗ chân lông của người nhập định chắc chắn sẽ phóng ra kim quang [ ND: ánh sáng màu vàng kim ], trong mỗi một tia kim quang chắc chắn có một vị tôn hóa Phật. Trước sự vinh diệu nhường ấy, bầy ma nhìn thấy sẽ hoảng sợ khiếp đảm, sao còn dám đến để bắt nạt. Trừ phi công phu nhập định chưa tới thì mới có thể tẩu hỏa nhập ma, thần hồn điên đảo.

Khí của người nhập định sẽ tạo nên một ngọn núi cao khổng lồ, cứng như kim cương thạch bàn, những yêu ma thông thường cũng không thể nào đi qua được. Tất cả yêu ma đều chỉ ở xa xa mà không thể tiếp cận được.

🌟

Tác giả nhập định (Kim cang tam muội đại định), thứ tự thực hành như sau: Bước một, trước tiên tôi tắm rửa sạch sẽ toàn thân, ngồi trước Phật lễ bái dâng hương. Trước khi lễ bái, tôi mặc áo cà sa đeo chuỗi hạt, khoác giới y, đội hồng quán [ ND: mũ miện đỏ ] tay phải cầm chày kim cang, tay trái cầm chuông kim cang. Sau đó dâng cúng, rẩy tịnh thủy, khiến cho pháp tọa và bản thân đều thanh tịnh. Sau đó lại lên pháp tọa và ngồi xuống.

Bước hai, trước tiên tôi quán tưởng Bổn tôn của mình là Địa Tạng Vương Bồ Tát, thân màu hồng, đầu đội mũ Ngũ Phật, đại minh lục tự chân ngôn, bờ vai cong tỏa ra ánh sáng lục sắc. Địa Tạng Vương Bồ Tát với cái nhìn từ bi, tướng mạo trang nghiêm không gì sánh bằng, thân mặc áo cà sa màu đỏ thẫm, trang trí thêm các loại trân bảo. Tay phải cầm cây trượng để phá cổng địa ngục, tay trái cầm chuỗi hạt thất bảo quang minh, ngồi trên nguyệt luân hoa sen, an trụ trước mặt tôi. Từ trán ngài phóng ra một đường kim quang bao chùm lấy tôi. Thế rồi, tôi tụng thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát và chú ngữ chân ngôn của Bổn tôn.

Bước ba, lúc này Địa Tạng Vương Bồ Tát liền hóa thành hồng quán, nhập vào hồng quán, hồng quán phóng quang, từ trong hồng quán tuôn chảy ra cam lộ. Cam lộ này từ đỉnh đầu chảy xuống tới chân, khiến cho nội tâm tôi vô cùng cảm động. Cam lộ rửa sạch hết tất cả mọi nghiệp tội của tôi từ vô thủy đến nay. Tất cả nghiệp tội, bệnh tật, ma chướng của tôi đều được tiêu diệt hoàn toàn. Lúc này tôi như thánh giả, chỉ trong một sát-na là đã đạt được giải thoát tam muội.

Bước bốn, lúc này Địa Tạng Vương Bồ Tát thu nhỏ lại như một điểm ánh sáng mãnh liệt nhỏ bằng hạt gạo, từ lỗ trên đỉnh đầu của tôi đi thẳng vào trung mạch, rồi ngự tại tòa sen trong tâm thanh tịnh của tôi. Thế rồi tôi tụng thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát và chân ngôn, lần tụng niệm này tất cả đều là kim cang niệm.

Bước năm, lúc này Địa Tạng Vương Bồ Tát lại từ từ phóng to ra, cho đến khi thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát lớn bằng thân tôi, từ đó hai chúng tôi bí mật hợp nhất. Khi đã hoàn toàn hợp nhất rồi thì Địa Tạng Vương Bồ Tát chính là tôi, tôi chính là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát và tôi hoàn toàn không khác biệt.

🌟

Ở mức độ bí mật trang nghiêm này thì tất cả đều thành tựu. Toàn thân tôi có thể phóng quang, to lớn như hư không, có thể hoàn toàn hợp với trời đất, khí toàn thân tỏa ra to lớn như núi Tu Di, nhấc mình là đến Tây phương cực lạc thế giới Phật quốc, du hành khắp thập phương pháp giới, có thể đi tới bất kì Phật quốc nào. Đồng thời có thể đi vào địa phủ, xuống đến tận địa ngục vô gián. Tôi tức là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát tức là tôi, thành tựu tất cả Phật sự trang nghiêm, độ hóa vô tận hết thảy chúng sinh.

Nếu có yêu ma đến, vừa nhìn thấy cảnh tượng này thì con ma nào cũng thất kinh. Các loài có căn tính yếu kém thì rất nhanh chóng sẽ chạy trốn. Loài nào có thiện căn khí thì sẽ chắp tay cung kính, rồi tất cả đều tới quy y. Quy y "Vô thượng hồng quán kim cương bảo miện tôn giả Liên Sinh Thượng sư, quy y U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương từ bi Bổn tôn, quy y chính giác tu hành linh tiên chư Đại Thánh, quy y bí mật trang nghiêm ngũ tạng thập nhị bộ đại mật pháp." Không chỉ là yêu ma không dám làm hại, mà đồng thời yêu ma cũng lại trở thành hộ pháp, chuyển thành hướng dẫn cho các yêu ma khác đến để tu chính pháp.

🌟

Những điểm nên chú ý khi tu "chân định": Thứ nhất, người mới tu, chú ý không được động tâm, chế tâm quy về một chỗ, không động không loạn, nếu có vọng tưởng xuất hiện thì cần biết để không được chạy theo nó, nhưng cũng không được áp chế nó. Làm được như vậy thì lâu dần mới có thể kiểm soát tâm. Cần quán tưởng tất cả các tướng đều như mộng, như huyễn, như bong bóng ảo ảnh. Dừng lại tất cả mộng huyễn bào ảnh thì tự nhiên lục căn sẽ thanh tịnh. Học giả cần biết rằng: trong tâm vô cảnh, trong cảnh vô tâm.

Thứ hai, người mới học, chú ý cần phải không khởi lên vọng niệm, chính vọng niệm sẽ dẫn dụ tất cả ma tới, có vọng niệm tất sẽ có phân biệt giữ hay bỏ, yêu hay ghét, và bám chấp vào đó. Cần biết rằng tất cả pháp đều không, ba tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều vốn không thể nắm bắt được. Nếu không khởi vọng niệm mới có thể đắc được. Học giả cần biết rằng: trong tâm vô sự, trong sự vô tâm.

Thứ ba, "nhập định" chính là nhập vào cửa giải thoát. "Xuất định" chính là bước trên con đường bồ đề.

Đây là một quan niệm trọng yếu nhất. Nhập định là buộc lục hợp lại thành một tinh minh, là pháp môn vô thượng của việc tu hành, là đạo pháp giải thoát dùng tâm tính thanh tịnh không nhiễm bẩn của chính mình hợp nhất cùng pháp giới.

Xuất định là bồ đề đại đạo, không phải là phàm phu, mà là tam quán nhất tâm, từ việc tu mà trải nghiệm, thực hành vào trong cuộc sống thường ngày, dần dần không trụ trong sinh tử và niết bàn, bình thường vẫn giữ được tư tưởng về tự tính quang minh, giữ từng điểm sáng, trực tiếp chứng vô thượng chính đẳng chính giác viên chứng bồ đề, đây mới là viên giác nhất tâm.

34. Duy ngã độc tôn có phải ma không?

Thiền sư Hoàng Bách sau khi đắc chứng từng nói: "Trong quốc nội Đại Đường không có thiền sư." Còn tôi, sau khi đắc chứng, tôi cũng muốn nói: "Trong đất nước Trung Hoa không có thiền sư."

Giả sử câu nói này được lan truyền rộng khắp, vậy thì không chỉ có nghìn người, mà hàng vạn người, tất cả các thiền sư trong và ngoài nước nhất định sẽ chửi vào mũi tôi, liên tiếp vừa chửi vừa đánh, rồi tận lực bút chê miệng trách mà chửi tôi. Còn tôi sẽ sứt đầu mẻ trán đến mức không bệnh mà chết là điều không còn gì phải nghi ngờ. Tôi vốn dĩ đã bị chỉ trích là "ma" rồi, bây giờ nếu lại thốt ra câu nói kiểu "chả có gì đáng để tôi phải quan tâm" này, dẹp toàn bộ pháp sư trong đất nước này qua một bên, thì thử nghĩ mà xem, tôi liệu còn có thể sống được không?

🌟

Nói thật lòng, Phật Thích Ca Mâu Ni khi mới hạ sinh đến nhân gian này, chân bước lên hoa sen, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, câu đầu tiên đã nói: "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn." Khi đó, nếu có pháp sư nào có mặt mà nghe được câu nói khoa trương tự đại như vậy, nhất thời ngọn lửa phẫn nộ bùng lên, thì hẳn là dám cả gan tàn ác, một gậy đánh cho Phật Thích Ca Mâu Ni chết luôn, thì ngày hôm nay Phật giáo này không biết sẽ do ai truyền lại, đại pháp này không biết sẽ do ai diễn giảng.

"Duy ngã độc tôn có phải là ma không?" Tôi có thể nói rõ ràng rành mạch với các độc giả rằng, có một số pháp sư chưa "đắc chứng", chỉ là giảng pháp đến mức hoa trời rơi rụng, lý luận thì có cả một đống lớn, những điều họ giảng thì nghe rất hay, rất đặc sắc. Nhưng thực sự họ chẳng có cái gì cả, cho dù có dựng nên cả một ngôi chùa hoành tráng đệ nhất thiên hạ, tín đồ cũng nhiều đệ nhất thiên hạ, thuyết pháp giảng Phật một ngày một lần, tiếng tăm địa vị cũng đệ nhất thiên hạ, mỗi lần tổ chức hội nghị Phật giáo toàn cuốc cũng đều là đệ nhất, ..v.v. Tập hợp được nhiều cái đệ nhất như vậy, nhưng thực sự lại chẳng có một tí "đắc chứng" nào, vậy thì, vị pháp sư "duy ngã độc tôn" này chính là ma một trăm phần trăm. Pháp sư chưa đắc chứng, mà chỉ có những thứ đệ nhất duy ngã độc tôn, thì tôi dám chỉ thẳng vào mũi của ông ta rằng, người này chẳng phải Phật, cũng chẳng phải là pháp sư, mà là "ma".

🌟

Mặt khác, mỗi vị pháp sư "đắc chứng" nhất định cần phải dựa vào thực tu ấn chứng mà có, khi đã hiểu rõ tự tâm rồi thì sẽ sản sinh ra cách nghĩ "duy ngã độc tôn", tự nhận ra đã đắc thực chứng, vượt ra khỏi tam giới, thì "duy ngã độc tôn" này chính là điều đương nhiên thôi. Do vậy thiền sư Hoàng Bách nói: "Trong quốc nội Đại Đường không có thiền sư." thì câu nói này không phải là trong mắt "chả có gì đáng để tôi phải quan tâm", mà chính là cảm nhận khi đã "đắc chứng".

Bản thân tôi cũng có cảm nhận rằng: "Trong đất nước Trung Hoa không có thiền sư." Tôi có thể nói như vậy, bởi vì hôm nay tôi cũng "đắc chứng", phàm là người đã đắc chứng đều có thể nói như vậy cả, "Tôi là thiền sư chân chính."

Những cảm tưởng dùng tư duy và nghiên cứu để mà viết ra thì không phải là "thực tu đắc chứng", mà chỉ là một mớ lý luận và nghiễm nhiên cho rằng chúng là "đắc chứng", những mớ lý luận này vĩnh viễn không thể nào so sánh được với "thực tu đắc chứng".

Thiền sư Hoàng Bách nói câu này không phải để chửi người ta, cũng không phải để sỉ nhục người khác, cũng không phải là trong mắt chẳng coi ai ra cái gì, mà chỉ là cảm ngộ của việc hiểu rõ tự tâm, đã đắc đại chứng ngộ của sự tu hành vĩ đại.

Ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã nói: "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn". Hôm nay tôi hy vọng người người đều có thể nói ra câu nói này, biểu thị rằng mọi người đều đã hiểu rõ tự tâm, đã là người đắc chứng, chứ không phải bắt chước là người ta thế này thế nọ thì mình cũng thế nọ thế kia. Nếu chưa phải là mình tự đắc chứng thì tất cả đều là vọng tưởng.

🌟

Tuy nhiên, cũng có một số người vẫn chưa "đắc chứng", mà đã tự nói mình "đắc chứng", cho rằng mình đã chính là Phật, phủ định sự "đắc chứng" của người khác, thì cách nhìn như vậy cũng chính là "ma".

Người tu hành vẫn chưa có được lực thì tuyệt đối không thể nói tự mình đã "đắc chứng", bởi vì một khi đã nghĩ như vậy thì mới là mắc phải bệnh "trong mắt chẳng coi ai ra gì". Chữ "ngạo" này vốn là hóa thân của "ma". Chưa thành Phật, đã thành ma, giữa Phật và ma, sự khác biệt cực kì nhỏ, vốn chỉ là một sợi tóc mỏng mảnh mà thôi. Thực sự là không thể nói "đắc chứng" vậy, không thể nói vậy!

🌟

Tôi nói đến đây có lẽ cũng khiến độc giả cảm thấy rối rồi, bây giờ tôi sẽ giải thích tỉ mỉ như sau:

Thực tu đắc chứng --- Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn. Người này hiểu rõ tự tâm có thể thành Phật, chứng nhập tính Không, hiểu rõ ràng tất cả, hoàn toàn tuyệt đối có được trí huệ của thiên thượng địa hạ, thập phương pháp giới. Lúc này đã lĩnh ngộ ra rằng "thiền môn vô sư, vô sư là thiền", do vậy thiên hạ làm gì có thiền sư? Tự khắc có thể nói ra câu nói này, hơn nữa tôi bảo đảm người nói ra câu này mới được xem là người thực sự "đắc chứng". Người này là Phật, không phải yêu ma.

Chưa đắc mà nói đắc --- Người này cũng thường nói câu nói thiên hạ đệ nhất này. Nhưng không có cách nào bảo đảm tự mình chắc chắn thành Phật, tất cả chỉ là vọng niệm huyễn tưởng đuổi mây mắt bóng, vọng đoán cảnh giới của Phật Bồ Tát, dựa vào trí não để tư duy về tất cả mọi vấn đề, tự cho mình là đúng, phủ định tất cả mọi thứ của người khác, vẫn chưa chứng nhập tính Không mà vẫn "chém gió", không có hiện tượng đắc chứng thực tế, tự xưng là có linh cảm mơ hồ, thường xuyên nghi ngờ này nọ, thì cho dù có hư danh khắp thiên hạ, địa vị vô cùng cao, được gọi là đại sư, thì vẫn là yêu ma chính hiệu.

Cho phép tôi khuyên các đệ tử, tu hành Phật pháp, thực tu là số một, có một ngày không tu thì ngày đó chính là "ma", cần tinh tấn tu hành.

Không phải tôi kêu các bạn rằng các việc khác đều không làm nữa, mà là mỗi ngày hãy cố định thời gian thực hành công khóa, nhất định không được lơ là.

Và cũng đừng chém gió lý luận, lúc thì tu cái này, lúc thì tu cái nọ, không có một bộ công khóa tu hành chân chính, thì sau này tất cả đều chẳng đạt được kết quả gì, một chút hiệu quả cũng không có. Đó là điều đáng tiếc nhất.

Tôi không ưa nhất là kiểu người khi mới phát tâm thì mỗi ngày đều chăm chỉ tu tập, nhưng một thời gian sau thì chẳng còn tí nhiệt tình nào nữa, trở về diện mạo phàm phu ban đầu. Loại người này không có tư cách thành Phật.

35. Chân Phật Tông tôn sùng Cao Vương Kinh

Tác giả xin có lời khuyên người tu đạo nên trì một kinh một chú, một đời một kiếp mỗi ngày đều trì tụng không gián đoạn, bền bỉ trì tụng tất có linh ứng.

Có người hỏi tôi, kinh nào tốt nhất, chú nào có công đức nhất, câu trả lời của tôi là: "Chỉ cần có duyên thì đó chính là thượng phẩm, kinh chú không phân biệt hơn kém, có thể niệm đến khi chuyển pháp luân thì đó là thành công."

Do vậy, tôi cho rằng kinh điển Đại thừa và kinh điển Tiểu thừa đều có công đức, chú lớn và chú nhỏ đều có pháp lực, chỉ cần bạn "có công mài sắt" thì tất sẽ "có ngày nên kim". Công đức niệm kinh chú là bất khả tư nghì, chư Phật Bồ Tát dựa vào kinh chú để giúp cho chúng sinh trong thiên hạ, còn phàm phu thì dựa vào kinh chú để có sự chở che của Phật Bồ Tát.

🌟

Tôi biết, phàm là tụng kinh chú thuần thục đến khi tâm khẩu ý hợp nhất thì ngữ âm của kinh chú này sẽ hóa thành bạch quang xoay tròn, bạch quang từ trong miệng tỏa ra, từ đỉnh đầu tỏa ra, từ các lỗ chân lông trên khắp người tỏa ra, tạo thành một đường ánh sáng chói lọi, ánh sáng này cùng kết hợp với Phật quang của kinh chú thì Phật Bồ Tát sẽ có thể cảm thông đến kinh chú của người tu đạo.

Bạch quang xoay tròn cũng chính là làm chuyển động pháp luân, người bình thường niệm đến khi pháp luân xoay chuyển thì có thể nói rằng đã thoát khỏi cái vỏ phàm phu rồi, tương lai sẽ đến Tây phương cực lạc thế giới, liên hoa hóa sinh, vĩnh viễn không phải chịu khổ báo của luân hồi nữa, thành Phật thành Thánh, đạt được cuộc sống vĩnh hằng.

Việc niệm kinh niệm chú, chỉ cần chú ý rằng đó là kinh thật chú thật, không phải là kinh giả chú giả. Chỉ cần là kinh chú do Phật Tổ truyền lại, hoặc Tiên Phật thực sự dạy cho, thì đều có thể xem là kinh thật chú thật. Còn như kinh chú do phàm phu thế tục ngụy tạo ra thì không được niệm.

Nếu đúng là do Tiên Phật truyền dạy thì có thể phụng hành tôn kính, nếu là do thế tục ngụy tạo thì có niệm cũng vô ích. Điểm này vô cùng quan trọng, tuyệt đối đừng để lãng phí thời gian quý giá, lãng phí tinh thần vào việc tụng kinh tụng chú giả.

🌟

Còn "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" mà Chân Phật Tông tôn sùng không phải do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy, mà đây là một bản "mộng thọ kinh", là một bản kinh điển được viết ra sau khi được một vị cao tăng đắc đạo đã chỉ điểm trong mơ.

Bản kinh này thông qua trải nghiệm tâm linh của tôi thì thực sự là có sức mạnh siêu nhiên, hơn nữa còn là những chân ngôn ngộ đạo của một bậc cao tăng đắc đạo. Do vậy, tôi thấy nếu người người niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" thì rất nhanh chóng sẽ có được linh cảm, hơn nữa còn có ích lợi lớn đối với việc ngộ đạo chân tu, tương lai cũng có thể đắc được vĩnh sinh đại đạo, thực sự là không hề thua kém kinh điển Đại thừa. Do vậy tôi muốn những người tu tập Chân Phật Tông người người đều trì tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh".

🌟

Các tu sĩ Phật môn ngày nay đều phê bình các loại kinh điển ngoại đạo và xếp là ngụy kinh, luôn chỉ tôn sùng những kinh điển do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho đệ tử đã được kết tập. Còn đối với những kinh được truyền trong mộng, kinh "phi loan", kinh tự soạn, thì đại bộ phận đều không tin.

Ấy vậy, các tu sĩ Phật môn duy nhất đối với "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" được truyền trong mộng này thì lại không có bình luận bài trừ, hơn nữa họ còn cảm thấy kinh ngạc đối với bản kinh có nhiều Phật hiệu và nhiều hiện tượng linh dị như vậy.

Tác giả có cảm hứng đối với kinh này, hơn nữa còn cảm thấy có nhiều niềm yêu thích hân hoan, cho rằng không thể thờ ơ với đại công đức như thế, do đó tôi đã đặc biệt cung kính cho in lại mấy vạn cuốn, không những để cho các đệ tử của Chân Phật Tông trì tụng, mà thậm chí để phàm phu thế tục cũng có một cuốn trong tay, tương lai có thể chuyển hóa thế giới này thành cực lạc, thành tựu quang minh đại tịnh thổ.

Với mục đích lưu truyền rộng khắp, tôi đặc biệt ghi lại nguồn gốc và nguyên văn bản kinh này như sau: (Bản kinh này cũng được ghi ra trong cuốn "Thông linh mật pháp thư".)

🌟

Nguồn gốc "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh": Ngày xưa vào thời Ngũ Đại [ ND: 5 triều đại xuất hiện vào khoảng giữa giai đoạn lịch sử khi nhà Đường suy tàn (năm 907) và sự thành lập nhà Tống (năm 960). ], có một vị quốc vương là Cao Hoan, một vi tướng làm chức châu quận chủ thích giết người. Có một vị quan thích bảo tạng tên là Tôn Kính Đức đã bị vu là phạm vào trọng pháp (kết quả khảo chứng sau này là do em trai của ông phạm pháp, nhưng Tôn Kính Đức phải chịu liên lụy), bị giam trong nhà lao đợi đến ngày chết.

Trong thời gian này ông liên tục trì "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm", ngày đêm không ngơi nghỉ, rồi bất ngờ mơ thấy một tăng nhân nói rằng, ông trì kinh này không thể thoát chết, tôi khuyên ông trì "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" một nghìn biến, thì sẽ thoát được tội danh này. Kính Đức nói, nay trong giam cầm, làm sao có được kinh điển. Tăng nói, tôi sẽ đọc để dạy cho ông, ông viết lại trong khi ngủ thì sẽ không quên được.

Thế rồi ông kiên tâm tụng niệm được 900 biến. Sau khi có văn bản án lệnh, sự việc cần trình lên để đóng dấu, vua lệnh đem ông ra chợ chém đầu. Kính Đức sợ hãi hỏi cai ngục xem chợ còn bao xa. Cai ngục nói hỏi làm gì. Kính Đức nói, buổi đêm mơ thấy một vị tăng bảo rằng tụng "Quan Thế Âm Kinh" một nghìn biến thì sẽ được miễn tội chết, nhưng tôi vẫn còn thiếu 100 biến nữa, xin đi chậm một chút, trên đường đi tôi sẽ niệm nhanh cho đủ số. Đến chợ, khi cai ngục tuyên chém, nhưng thân và đầu không bị tổn hại, đao thì gãy làm ba khúc.

Trình báo sự việc lên vua, vua kinh ngạc hỏi ông đã dùng huyễn thuật gì mà có thể làm ra như vậy. Kính Đức nói, thực sự không có huyễn thuật nào cả, bởi vì trong ngục sợ chết nên đã trì tụng "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm", không ngờ mơ thấy một vị tăng đến dạy cho tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh" một nghìn biến mà có được phúc như vậy.

Vua nói với Kính Đức rằng ông đã thắng vua rồi, ông có khác gì Phật. Vua gọi người cai ngục đến viết lại kinh này, lệnh cho mọi tội nhân và người bị xử tử mỗi người đều phải trì tụng một nghìn biến, rồi đem ra chém đầu để kiểm nghiệm, tất cả đều linh ứng. Do vậy vua đã hạ lệnh cho toàn dân khắp nơi trì tụng để có được quả phúc, truyền lại đến các đời sau được gọi là "Cao Vương Quan Thế Âm Kinh".

Nhờ có sự thật cảm ứng như vậy suốt từ xưa đến nay, do vậy cẩn thận thuật lại khởi nguồn của kinh này, hơn nữa còn ghi chép lại những ứng nghiệm của kinh, để cho những người có trai tâm hướng thiện sẽ phần nào nghe theo lời khuyên này mà tụng niệm.

Muốn niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", trước tiên tắm rửa sạch sẽ, phần nguồn gốc bản kinh không cần đọc, chỉ cần đọc toàn bộ phần nguyên văn.

Nơi niệm kinh thông thường đương nhiên là ở Phật đường là tốt nhất, không có Phật đường thì đọc ở trong phòng đọc sách, nếu không có phòng đọc sách thì ở trong một góc của phòng ngủ, dọn lấy một chỗ giản tiện sạch sẽ (đừng đọc kinh ở nơi bất tịnh, sẽ mất đi tâm cung kính).

Thắp lên một que hương, hoặc đốt đàn hương, nếu tất cả đều không tiện thì chắp tay cung kính niệm cũng có hiệu quả tương đương. Đứng chắp tay niệm, ngồi chắp tay niệm, quỳ chắp tay niệm, dùng pháp khí hoặc không dùng pháp khí, tùy theo ý muốn mà niệm, hoàn toàn không có quy định cứng nhắc.

Điều quan trọng nhất là tâm phải kiền thành, niệm thành tiếng cũng được, không niệm thành tiếng cũng được, không được suy nghĩ lung tung.

Trì tụng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", người có nguyện lực lớn thì mỗi ngày niệm 10 biến, sáng tối mỗi khóa niệm 5 biến, thậm chí càng nhiều càng tốt. Người có nguyện lực nhỏ thì mỗi ngày niệm 2 biến, sáng tối mỗi khóa niệm 1 biến. Khi gặp chuyện gấp thì cần thỉnh đại lực của Bồ Tát hỗ trợ, mỗi ngày tụng 100 biến, 10 ngày sẽ được 1000 biến, kiên trì thường niệm như vậy, tôi tin tưởng rằng cảm ứng sẽ luôn như hình với bóng, có cầu có ứng. Người càng có tín tâm kiên định thì càng có thể thành công, đây là đạo lý chắc chắn.

🌟

Năm xưa, tác giả tại một ngôi chùa nhỏ ở Đài Trung, Đài Loan lần đầu tiên nhìn thấy Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, đó là một cuốn kinh bìa cứng, tôi đã nói với vị trụ trì là muốn thỉnh cuốn kinh này, trụ trì là sư Thích Huệ Linh, là vị tăng xuất gia, có quan hệ thân tình đối với cha mẹ tôi.

Sau khi tôi cầm cuốn kinh này về nhà thì lập tức có được giấc mơ, mơ thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa hoa sen thuyết pháp, pháp tướng ngài trang nghiêm khiến người ta sinh tâm cung kính.

Sau đó tôi cẩn thận đọc "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", đột nhiên có một mùi hương đưa đến, thơm như hoa. Khi đó tôi vẫn chưa biết tu đạo và khởi linh, sau sự việc này mới bắt đầu biết rằng ai có căn duyên tiền kiếp thì tất sẽ có hiện tượng như vậy.

🌟

Khi còn trẻ, tác giả học trắc lượng, thường ra vào vùng núi sâu, ở nhờ tại nhà dân hoặc chùa miếu. Trước mỗi chuyến ra ngoài đi trắc lượng, và sau khi trở về nhà, tôi thường cung kính đọc tụng một biến "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh".

Kể từ đó đến nay đã hơn 10 năm rồi, tôi không bỏ qua một ngày nào là không đọc. Về sau tôi ra nước ngoài du lịch, ở tại một khách sạn lớn, buổi sáng tôi hướng mặt về phía cửa sổ, hướng ra bên ngoài niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh". Đây là một trong những công khóa hàng ngày của tôi khi tôi đi du lịch. Tôi cho rằng làm như vậy sẽ tác động sâu đến tâm của tôi, tôi cũng cho rằng Quan Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ bảo vệ tôi, bởi vì tôi tin tưởng sâu sắc rằng chư Phật không vọng ngữ.

🌟

Đặc biệt sau khi tôi đắc chứng, khi mới chuyển pháp luân, biết rằng "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" có công đức bất khả tư nghì vô lượng vô biên. Đó là do Đại Sĩ vì muốn tiện lợi độ chúng sinh mà thị hiện bản kinh điển này, với đầy đủ tất cả pháp tướng để phổ độ tất cả chúng sinh hữu tình, Hiển - Mật viên thông, có được đại trí huệ, thành tựu thân kim cang bất hoại.

Người niệm "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", lại niệm thêm lục tự đại minh chân ngôn "Om mani padme hum" 108 biến thì càng có thể tu quán tưởng pháp Quan Âm Tứ Thủ, lại càng được 36 thiên thần ngày đêm bảo hộ, tất cả quỷ thần không ai là không cung kính nghe lệnh. Thực sự là công đức vô lượng vô biên.

36. Phật pháp trị ma bệnh

Tác giả học Phật pháp, đắc được pháp "Dược Sư Phật trị ma bệnh", nên đặc biệt công bố ra đây, hy vọng các bạn đồng tu trong thiên hạ trân trọng, cứu người cứu thế, công đức vô lượng.

Phật Dược Sư đầy đủ 32 tướng tốt, là giáo chủ của Đông Phương Lưu Ly Quang Thế Giới. Bình thường người tạc tượng thường chế tác Phật mặc áo cà sa, tướng mạo gần giống với Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng thân có màu xanh lam sáng, tay trái kết ấn cầm bát, bên trong bát đựng đầy cam lộ trị bệnh, tay phải cầm thanh quả trị ba loại độc, đặt trên đùi. Những tượng Phật Dược Sư ở Trung Quốc được làm là cầm bảo tháp cũng rất phổ biến.

🌟

Phật Dược Sư đã đưa ra 12 đại nguyện: Đại nguyện thứ nhất, nguyện đến kiếp sau, khi đã đắc A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, tự thân này tỏa sáng rực rỡ, chiếu rọi vô lượng vô số vô biên thế giới, dùng 32 tướng đại trượng phu, 80 vẻ đẹp trang nghiêm, để khiến cho tất cả chúng sinh hữu tình được như ta không khác.

Đại nguyện thứ hai, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, thân như lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, quảng đại quang minh, công đức đồ sộ, an trụ thân lành, trong lửa trang nghiêm, vượt lên nhật nguyệt, u minh chúng sinh, đều được soi sáng, tùy theo ý thích, mà làm sự nghiệp.

Đại nguyện thứ ba, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, dùng vô lượng vô biên trí huệ phương tiện để khiến cho chúng sinh hữu tình đều có được vô tận những vật dụng họ cần, không để chúng sinh thiếu thốn thứ gì.

Đại nguyện thứ tư, nguyện đến kiếp sau, khi đã đắc Bồ Tát, nếu có chúng sinh nào đi vào tà đạo, ta đều khiến họ an trụ trong bồ đề đạo, nếu ai thực hành Thanh Văn, Độc Giác thừa, thì ta đều dùng Đại thừa để an trụ cho họ.

Đại nguyện thứ năm, nguyện đến kiếp sau, khi đã đắc Bồ Tát, nếu có vô lượng vô biên chúng sinh hữu tình ở trong pháp của ta, tu hành phạm hạnh, ta sẽ khiến tất cả đều không sai sót một giới luật nào, có đầy đủ tam tụ giới, còn nếu có người phạm lỗi, chỉ cần nghe danh của ta, là lại được thanh tịnh, không đọa vào ác đạo.

Đại nguyện thứ sáu, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, nếu chúng sinh nào, có thân yếu kém, mọi căn không đủ, xấu xí ngu si, mù điếc câm ngọng, chân cong lưng gù, bạch tạng cuồng điên, đủ loại bệnh khổ, nghe danh ta rồi, tất thảy đều được, đoan chính thông minh, mọi căn có đủ, không còn cực khổ.

Đại nguyện thứ bảy, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, có chúng sinh nào, bệnh tình đày đọa, không nơi nương tựa, không có thuốc thang, không người thân thích, khổ sở bần cùng, danh hiệu của ta, qua tai người đó, mọi bệnh đều khỏi, thân tâm an lạc, gia quyến đầy đủ, đều được sung túc, cho đến khi chứng, Vô thượng Bồ đề.

Đại nguyện thứ tám, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, nếu có nữ nhân nào vì trăm thứ xấu do làm thân nữ mà chịu áp bức đến mức căm ghét muốn từ bỏ thân nữ, thì chỉ cần nghe danh ta, thì tất cả đều được chuyển từ nữ thành nam, có đầy đủ các tướng trượng phu, cho đến khi chứng đắc Vô thượng Bồ đề.

Đại nguyện thứ chín, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, ta sẽ khiến cho mọi chúng sinh hữu tình thoát ra khỏi lưới ma, giải thoát tất cả mọi ràng buộc ngoại đạo, nếu có chúng sinh rơi vào rừng sâu của đủ loại ác kiến, thì đều được dẫn dắt để đến với chính kiến, dần dần ta sẽ khiến cho họ tu tập mọi hạnh Bồ Tát, mau chóng chứng Vô thượng Chính đẳng Bồ đề.

Đại nguyện thứ mười, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, nếu chúng sinh nào, phạm vào vương pháp, bị trói đánh roi, giam chặt trong ngục, hoặc chịu hành hình, rồi bị vô số, tai nạn đày đọa, u sầu giày vò, thân tâm thống khổ, nếu nghe danh ta, nhờ vào phúc đức, uy lực của ta, đều được giải thoát, khỏi mọi ưu phiền.

Đại nguyện thứ mười một, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, nếu chúng sinh nào, đói khát cùng cực, vì tìm thức ăn, mà tạo ác nghiệp, nghe được tên ta, chuyển niệm thọ trì, trước tiên ta sẽ, đem thức ăn ngon, cho họ no đủ, sau dùng pháp vị, giúp họ kiến lập, an lạc đến cùng.

Đại nguyện thứ mười hai, nguyện đến kiếp sau, khi đắc Bồ Tát, nếu chúng sinh nào, nghèo không áo mặc, nóng lạnh và muỗi, ngày đêm giày vò, nghe được tên ta, chuyển niệm thọ trì, thì như mong ước, lập tức có đủ, mọi quần áo đẹp, đồng thời có được, trân bảo trang nghiêm, trâm hoa phấn hương, trống nhạc đủ loại, tùy ý mà chơi, đều được đầy đủ.

🌟

Bởi có 12 đại nguyện này của Phật, nên nếu để chữa trị các bệnh thông thường, thì lấy thuốc, hoặc nước sạch, hoặc dầu quả trám, thanh quả [ ND: quả trám xanh ], hồng táo [ ND: loại táo nhỏ như táo ta, màu đỏ, thường dùng trong các món ăn hoặc bài thuốc Trung Hoa ], trà, gạo, v.v… để cúng trước tượng Phật Dược Sư, kiền thành niệm tâm chú của Phật Dược Sư 1080 biến, quán tưởng Phật Dược Sư hạ giáng xuống đàn tràng, từ tâm ấn phóng quang gia trì cho các loại thuốc, sau đó uống sẽ bình phục.

Nếu muốn trị bệnh mãn tính khó chữa, thậm chí là các bệnh như câm điếc, thì lấy thuốc cho vào tịnh bình, viết một chữ "Hum" tiếng Phạn trên giấy, gấp thành hình vuông, rồi dùng mảnh vải lụa mỏng màu đỏ gói lại, dùng sợi tơ xanh đỏ để buộc, rồi đặt lên trên thuốc, phần dây tơ còn thừa thì thả ở ngoài bình, che miệng bình bằng mảnh lụa màu đỏ hoặc vàng, rồi dùng sợi tơ xanh đỏ quấn buộc lại. Sau đó đặt bình này vào tịnh phòng, nhập đàn đốt hương lễ Phật. Tay phải nắm lấy sợi tơ buông ra ở bên ngoài bình, kiên nhẫn tụng tâm chú Phật Dược Sư, quán tưởng Phật Dược Sư hạ giáng xuống đàn tràng. Đầu tiên ngài phóng quang gia trì vào chữ "Hum" bên trong bình, tiếp đó chữ "Hum" ở tâm của Phật Dược Sư lại phóng quang, chư Phật thập phương cũng phóng quang tương ứng, các luồng tia sáng cùng gặp nhau và hòa lẫn với nhau làm một.

Lúc này, tất cả chư Phật mười phương đều biến thành Phật Dược Sư. Tất cả chúng sinh và những người cầu nguyện trong thập phương lục đạo, hễ gặp được ánh sáng công đức này, thì mọi nghiệp tội đều được tiêu trừ, bệnh tật tự có thể hết và khỏi.

Pháp này nếu người nào có thể cắt bỏ ngoại duyên, dốc toàn tâm trì tụng tâm chú Phật Dược Sư, hơn nữa còn phát đại bồ đề tâm cứu độ tất cả chúng sinh bệnh khổ, mỗi lần trì tụng 1080 biến, trong một tháng, tu pháp ba đàn, tu trì lâu ngày công đức sâu dày, thì có thể cứu được rất nhiều rất nhiều người.

Người tu pháp này, nhờ có được cam lộ tưới đẫm toàn thân, khắp cả tứ chi, khiến tất cả bệnh tật tai ác được tiêu trừ trong một sát-na, thân tâm thanh tịnh tự tại, tự có thể chuyển biến thân này thành hóa thân của Phật Dược Sư.

37. Dòng truyền thừa pháp của tôi

Cho đến ngày hôm nay, tôi đã là một người đại triệt đại ngộ rồi. Tôi lĩnh ngộ được hai điểm. Thứ nhất, tôi là người tu hành chuyển thế nhiều đời, thứ hai, tôi là pháp sư thông suốt cả tam giáo [ ND: Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Phật giáo ]. Mỗi một kiếp sống của tôi, tôi đều khổ cực bội phần, hơn nữa mỗi kiếp đều gặp được kì duyên, mỗi kiếp đều có thần thông, mỗi kiếp đều thành lập tông phái tu pháp, mỗi kiếp đều cần độ hóa một số người. Mỗi đời mỗi kiếp của tôi đều có liên quan với phát bồ đề tâm và đại nguyện của tôi.

Kiếp này, ban đầu tôi tiếp xúc với đạo Cơ Đốc, trong thời gian học sơ trung và cao trung [ ND: tương đương cấp 2 và cấp 3 phổ thông ], mỗi ngày chủ nhật tôi lại đến giáo đường. Khi tôi 16 tuổi, tôi tu nghiệp tại trường Thánh Kinh Vạn Quốc và trường Thánh Kinh Thời Triệu. Vào mùa hè năm 16 tuổi, tôi được mục sư Khâu Dĩ Chính ấn chứng, tại giáo hội Trưởng Lão ở quận Tân Hưng thành phố Cao Hùng, dưới sự chủ trì của mục sư Tô Thiên Minh, tôi đã chính thức tiếp nhận lễ rửa tội của giáo hội Trưởng Lão.

Bởi tôi đã tốt nghiệp lớp sư phạm tại trường học chủ nhật, lại chính thức học tập tại lớp học chủ nhật của giáo hội, nên tôi đã được làm thầy giáo tại trường học chủ nhật. Hiệu trưởng của trường này khi đó là trưởng lão Ngô Tân Đức.

Trong tín ngưỡng của đạo Cơ Đốc, tôi là thầy giáo của lớp học nghiên cứu kinh thánh, do vậy các chương mục trong kinh thánh tôi đều thuộc lòng. Trong tín ngưỡng này, tôi từng đọc về thần quang của Jesus Christ. Tôi thực sự tin rằng Jehova và Jesus là thượng đế của một vương quốc trên thiên đường, người phương tây đều nhờ ân của các ngài cứu độ.

🌟

Sự tiếp xúc lần thứ hai của tôi là Đạo giáo. Khi đó tôi khoảng 25 tuổi, tình cờ tôi gặp nhân duyên kì lạ, chỉ trong một sát-na tôi đã hiểu rõ về nhân quả tiền kiếp. Thế là tôi chuyên tâm tu đạo, tôi bái Thanh Chân Đạo Trưởng của phái Thanh Thành tại núi Đại, thị trấn Tập Tập, huyện Nam Đầu làm thầy. Tôi học pháp thông linh, pháp địa linh, học đan đỉnh phù lục, lễ bái Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn. Dưới sự dẫn dắt của Thanh Chân Đạo Trưởng, tôi chính thức đạt được những thành tựu vượt trội và trở thành đạo trưởng.

Trong quá trình thực tu Đạo gia, tôi đã học ba bộ Thiên - Địa - Nhân của "Long môn độn giáp thiên thư", "Địa linh cửu tinh đại pháp", "Thanh Thành phái phù lục", "Ngũ lôi thiên tâm chính pháp", "Kim hoa chính tông", v.v……

Điều đáng nói đáng viết nhất là trong ba năm học Đạo này, tôi nhờ pháp thông linh mà đã nhận được ân của vị thầy vô hình là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, tổng cộng ngài đã dạy mật pháp cho tôi suốt ba năm. Mỗi đêm linh của ngài sẽ giá lâm một tiếng, bởi vì Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là vị thầy vô hình, rất nhiều mật pháp của tôi đều là do thầy truyền dạy, sự việc này là chân thực, là kì lạ, không bút mực nào có thể mô tả hình dung được. Do vậy, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là vị thượng sư truyền pháp mà tôi vĩnh viễn tôn kính suốt cuộc đời này của tôi.

🌟

Lần thứ ba, tôi tiếp xúc với Phật môn Hiển giáo vào khoảng năm tôi 27 tuổi, tại Phật Giáo Liên Xã Đài Trung, tôi đã quy y Ấn Thuận đạo sư. Đây là vị sư phụ đạo Phật đầu tiên của tôi. Về sau có duyên, căn nhà tôi ở tại quận Thái Bình vừa hay lại cùng một tòa nhà với tịnh xá Hoa Vũ của Ấn Thuận đạo sư, bên phải là tịnh xá Hoa Vũ, bên trái là nhà của tôi, xung quanh không có hàng xóm nào. Mỗi tháng tôi đến thăm sư phụ một lần, đó là khi tôi còn ở trong nước. Lần đầu tiên tôi quy y, mẹ tôi cũng cùng đến quy y.

Vị sư phụ đạo Phật thứ hai của tôi là pháp sư Lạc Quả, là vị pháp sư đến từ Hong Kong. Thầy cũng là trụ trì của chùa Phật Quang Tự tại Phổ Lí, tình cờ lại giảng Kinh Kim Cang tại Sa Lộc. Tôi nhận được lời giới thiệu của đại biểu quốc dân đại hội Khương Cát Phủ và đã chính thức quy y pháp sư Lạc Quả, địa điểm chính là ở Sa Lộc. Tôi đã từng đến qua đêm tại Phật Quang Tự, nhận giáo huấn của thầy, bái Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tượng pháp tướng của Bồ Tát ở Hong Kong có một vị, ở Phổ Lí Phật Quang Tự có một vị, trên thế giới chỉ có hai bức tượng này.

Bởi do nhân duyên này, phương hướng đại điện của Phật Quang Tự tại Phổ Lí là do tôi dùng canh của địa linh pháp chủ để chọn. Trụ trì của chùa khi đó là Đạo Trung Sư, là sư huynh của tôi. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật Quang Tự là pháp tướng Mật tông, nhưng Phật Quang Tự vẫn là truyền thừa Hiển giáo, cùng với Từ Thiện Tự ở Đài Trung có nhân duyên sâu đậm.

Sư phụ quy y thứ ba của tôi là pháp sư Đạo An, địa điểm quy y là ở Huyền Trang Tự trong khu hồ Nhật Nguyệt tại Nam Đầu. Pháp sư giảng tam quy y, lục độ ba la mật. Đêm đó có bữa cơm cúng trai ở lầu Hàm Bích tại hồ Nhật Nguyệt. Lúc mới quy y, pháp sư Đạo An không biết, hồi sau nghe nói tôi đến quy y, liền bảo: "Thật đúng là hay quá, quá hay rồi, người này tôi sớm đã nhận ra, tiếng tăm của anh ta như sấm bên tai." Tôi và pháp sư cười vang vui vẻ bắt tay nhau.

🌟

Năm Dân Quốc thứ 61 (năm 1972) là kỉ niệm 220 năm mở núi xây dựng Bích Sơn Nham Tự ở Nam Đầu (bởi tính từ năm Càn Long thứ 17). Trụ trì của Bích Sơn Nham Tự là pháp sư Như Học phát tâm truyền thụ hộ quốc thiên Phật giới hội, thế là vào ngày 17 tháng 4 khai đường truyền giới, tôi có được sự giới thiệu và đề bạt của pháp sư Thiền Minh nên đã đích thân tới để thọ Bồ Tát Giới.

Hòa thượng đắc giới là lão pháp sư Huệ Tam, tôi nhớ thầy nói rằng: "Bồ Tát lấy tôn chỉ là lợi tha."

Hòa thượng yết ma là lão pháp sư Hiền Đốn, tôi nhớ thầy nói: "Tu hành cần sám hối tất cả nghiệp tội trước, cần biến thập ác thành thập thiện, học tập giới pháp liên tục cho đến khi thành Phật."

Hòa thượng giảng dạy là lão pháp sư Giác Quang, tôi nhớ thầy nói: "Dạy về uy nghi thì có ba nghìn uy nghi, tám vạn hạnh nhỏ, tất cả đều không nằm ngoài đi, đứng, ngồi, nằm."

Trên tay trái của tôi có ba vết sẹo giới, xếp hàng rất thẳng thắn, đó là khi tôi 28 tuổi nhận Bồ Tát giới, ba vết sẹo Bồ Tát giới này đỏ đỏ nằm trên cánh tay tôi, giống như nằm trong tâm tôi, vĩnh viễn không thể nào quên.

🌟

Khi tôi 32 tuổi, tôi tiếp xúc với Phật môn Mật tông, trước đó tôi từng quy y Thiên Đức thánh giáo của thầy Tiêu Xương Minh, địa điểm là ở thôn mới Bích Hồ tại Nội Hồ, do lão tiên sinh Vương Đức Truyền chủ trì. Chính vào năm 32 tuổi đó, tôi đã có một cơ duyên được gặp Đại Bảo Pháp Vương Thượng Sư một lần, lại nhận được quán đảnh của Đại Tích Đỗ Ba thượng sư. Lần gặp mặt của tôi và Đại Bảo Pháp Vương là một sự việc trọng đại trong cuộc đời tôi, bởi vì trong lần gặp mặt này, Đại Bảo Pháp Vương đã nói về nhân quả của tôi, trực tiếp chỉ ra pháp lưu truyền thừa của tôi, cũng xem như là đốn khai thiên nhãn cho tôi rồi.

Có được tâm pháp Mật tông, tôi trực tiếp được Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí quán đảnh, trong cuốn "Thông linh bí mật pháp thư", trang thứ 153, tôi đã ghi chép lại kinh nghiệm kì lạ khi được Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí quán đảnh. Đồng thời, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường xuyên xuất hiện trong thiền định của tôi, hóa thành một điểm ánh sáng, tọa trên liên hoa tâm của tôi. Tôi đã quy y và quán đảnh không biết bao nhiêu lần. Tôi đã được Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu quán đảnh, được Hắc Tài Thần quán đảnh, được Ngũ Phật quán đảnh, được Địa Tạng Bồ Tát quán đảnh, được Dakini tôn giả quán đảnh. Những tâm pháp Mật tông mà tôi đã học được đều được sử dụng để đáp ứng những thỉnh cầu của chúng sinh, hiệu quả phi phàm.

Tiếp đó, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ lại giá lâm đến Mật đàn của tôi, chỉ dẫn cho tôi vận dụng thủ ấn Đại Viên Mãn. Tôi biết Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là kim cương ứng hóa thân của thân-khẩu-ý-tam mật của Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát và Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện kim cang lục đạo, xuất hiện tại thế gian này. Tôi đã đắc ba yoga, Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ, Kim Cang Phật Mẫu, Phật A Đạt Nhĩ Mã, thọ vô thượng mật ngũ bộ tâm truyền đại pháp, đắc tất cả pháp yếu nội ngoại mật, chứng trí huệ Ngũ Phật.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ Ấn Độ vào Tây Tạng hoằng pháp, là vị tổ sư đời thứ nhất của Tạng mật. Tôi còn nhớ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từng nói: "Ta chẳng đến cũng chẳng đi, duy nhất người nào tin vào ta, ta lập tức sẽ hiện lên trước mặt người đó mà thuyết pháp." Nay Liên Hoa Sinh Đại Sĩ không ngờ đã hiện lên trước mắt tôi, sao không khiến tôi hoan hỉ vui sướng khôn nguôi. Đồng thời, trong khi tôi nhập định, ngài Liên Hoa Sinh còn đội hồng quán cho tôi, ban cho tôi là Hồng Quán Kim Cương Bảo Miện Mật Hành Tôn Giả. Tôi tu pháp ngày ngày tinh tấn, ngoại bát thành, nội bát thành, lần lượt đắc chứng từng pháp. Đây là dòng chảy truyền thừa nửa đầu cuộc đời của tôi.

🌟

Tác giả sinh ra đúng vào thời mạt pháp, cho dù có thấu hiểu rõ nội tâm, biết sự việc tiền kiếp, cũng biết những sự kiện về sau, quá khứ vị lai đều biết, nhưng giáo nghĩa chân thực của đại pháp tu đạo đã chẳng còn ai hiểu nữa, tinh thần căn bản của bất kì tôn giáo nào cũng đã gần như cạn kiệt rồi. Chúng sinh muốn cầu đạo thì cũng có muôn pháp muôn nẻo, chính có tà có, rối rắm phức tạp. Tác giả đã kinh qua trên ba tôn giáo, đều thâm nhập tới cứu cánh, không còn phân biệt yêu ghét, giữ bỏ, chỉ còn phân biệt giữa cứu cánh và phi cứu cánh mà thôi. Tôi muốn các đệ tử hãy cố gắng từ cảnh giới phàm phu dần dần tu hành một mạch đến khi chứng Phật quả.

Chân Phật Tông là tông phái mà tôi thành lập tại kiếp này. Tác giả đã đem những cảm ứng sơ cơ của pháp khởi linh để đánh thức tín ngưỡng nơi con người, rồi lại truyền vô thượng viên đốn tâm pháp của thời kì mạt pháp, để chính pháp lại một lần nữa trụ thế, phổ độ chúng sinh. Tôi là một người thắp đèn, mỗi một cuốn sách tâm linh chính là một cuốn pháp thư đáp ứng thời cơ một cách thẳng thắn. Nhất tâm kính tín, tự có thành tựu.

Bản văn này là tóm tắt về dòng chảy truyền thừa của tôi. Kí lục ngày 23 tháng 2 năm 1983.

38. Bí mật về sinh nhật của ngài Tôn Trung Sơn

[ND: Quý vị xin lưu ý, nội dung được đặt trong bối cảnh tại Đài Loan, người viết là người Đài Loan]

Bài viết của tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn.

"Trời phụ hộ dân ta, đã cho ra đời một người cha của đất nước - Ngài Tôn Trung Sơn, người đã lãnh đạo quần chúng, kiến lập Dân Quốc, khởi xướng chủ nghĩa Tam Dân, kế thừa chính giáo Khổng Tử của tư tưởng văn hóa Trung Hoa. Từ xưa đến nay, trong và ngoài nước, anh hùng thánh triết đâu chỉ có nghìn vạn người, nhưng người có thể so sánh với ngài thì chẳng có được mấy ai.

Cuộc đời của quốc phụ phong phú muôn hình muôn vẻ, có buồn có vui, có máu và nước mắt, có sự nghiệp cách mạng vĩ đại trang nghiêm, nhưng cũng có khía cạnh rất bí mật. Bản văn này nhằm mục đích thuật lại những điều còn nhiều khó hiểu về sinh nhật của ngài và tín ngưỡng sơ khai nhất của ngài, để cho mọi người có nhận thức và hiểu biết càng sâu sắc hơn về con người vĩ đại này.

Người bình thường đều biết rằng quốc phụ vào những năm tháng trưởng thành đã tin theo đạo Cơ Đốc, nhưng cũng có rất nhiều người biết rằng tổ tiên của quốc phụ là một gia tộc có truyền thống đạo Phật. Tuổi thơ của quốc phụ từng bái Huyền Thiên Thượng Đế và trở thành con nuôi của ngài, hơn nữa còn tuyên thề trước Huyền Thiên Thượng Đế là vĩnh viễn giữ bí mật về ngày sinh của mình cho đến khi trưởng thành, và cả cuộc đời quốc phụ vẫn luôn giữ chắc lời thề không đổi. Dân ta nếu tin rằng có thần linh, sẽ thấy rằng quốc phụ khi trưởng thành đã làm cách mạng kiến quốc, nhờ có sự bảo hộ của thần linh vô hình mà đã có được những cống hiến to lớn.

Khi quốc phụ còn tại thế, địa điểm mà ngài sinh ra, thời gian mà ngài sinh ra cũng là một bí mật đối với chính ngài. Ở đây có một vài nguyên nhân chắc chắn, rất đáng để thâm nhập nghiên cứu. Bởi vì khi quốc phụ tại thế, rất rất ít người trong nhóm đồng chí biết được về sinh nhật của ngài. Vào năm Dân Quốc thứ 14, sau khi quốc phụ qua đời, tôi vì vấn đề ngày mà đã tìm kiếm và hỏi han các đồng chí của quốc phụ trong suốt một khoảng thời gian tương đối dài.

Ông Đới Lý Đào nói: Khoảng vào giữa năm Dân Quốc thứ 5 và thứ 6, quốc phụ sống tại Thượng Hải, một buổi tối nọ có tổ chức hai bàn tiệc tại nhà riêng, chỉ có một số ít đồng chí tham gia. Sau khi mọi người ngồi vào chỗ, các đồng chí mới hỏi nguyên nhân mời khách, quốc phụ chỉ cười cười không đáp. Tôn phu nhân mới nói ngày này là sinh nhật của quốc phụ. Thế là mọi người liền nâng ly chúc thọ quốc phụ.

Ông Đới nói, khi quốc phụ còn tại thế thì chỉ có một lần này là tổ chức chúc thọ. Cho đến nay nhớ lại thì thực sự đây là một điều khó hiểu lớn không dễ gì giải đáp được.

Chúng ta có cần biết nguyên nhân của việc này nằm ở đâu không? Sau khi quốc phụ tạ thế, trong một số lần liên quan đến việc báo cáo về giai thoại cuộc đời quốc phụ tại Quảng Châu, ông Liệu Trọng Khải cho rằng rất đáng để nghiên cứu. Khi đề cập đến bí mật về sinh nhật của quốc phụ, ông Liệu Trọng Khải nói: Nguyên nhân quốc phụ chưa bao giờ để lộ ra sinh nhật của mình có liên quan đến việc sau khi quốc phụ ra đời, cha của quốc phụ là ông Tôn Đạt Thành, từng tìm một thầy bói xem tướng số đến, thầy tướng số nói rằng: "Đứa con này phi phàm, đại phú đại quý, có danh vị hoàng đế. Ngày sinh nhật cần phải giữ bí mật." Bởi vậy ông Đạt Thành mới đặt tên gọi ở nhà của quốc phụ là Đế Tượng, Đế Tượng này nghĩa là Con voi của hoàng đế.

Sau này, trong lòng ông Đạt Thành vô cùng bất an và lo sợ, nói cách khác là bởi vì trong nhà sinh ra một đứa con sau này sẽ làm vua, nếu như phúc đức tổ tiên không dày, e rằng sẽ xung khắc, hơn nữa nếu ngày tháng năm sinh bị nhà Thanh biết được thì cũng không có gì tốt lành. Do vậy khi quốc phụ 7 tuổi, ông đã đưa quốc phụ đến một ngôi chùa tại thôn Thúy Hanh, thỉnh Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế trong ngôi chùa này bảo vệ cho quốc phụ khôn lớn, nhận Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế làm cha nuôi, và vì bát tự Đế Tượng của quốc phụ mà đặc biệt bắt quốc phụ phát lời thề trước thần rằng, từ nay về sau không được đem ngày tháng năm sinh của mình nói cho người ngoài. Quốc phụ khi đó không hề do dự mà thề trước thần, đồng thời đã giữ trọn lời thề này. Do vậy, rất ít các đồng chí cách mạng biết được sinh thần bát tự của quốc phụ.

Mãi cho đến khi triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, thành lập Dân Quốc, cuộc cách mạng của quốc phụ thành công, quốc phụ trở thành đại tổng thống lâm thời, thì quốc phụ mới không giữ bí mật về ngày sinh của mình nữa, thế nhưng đến khoảng giữa năm Dân Quốc thứ 5 và thứ 6, vẫn rất ít người biết về sinh thần bát tự của quốc phụ. Có thể thấy rằng quốc phụ cả đời làm sự nghiệp luôn trọng lời thề, luôn giữ lời thề như nhất. Có thể thấy rằng nếu chúng ta tin tưởng có thần linh, thần chắc chắn sẽ bảo vệ ta, công đức của Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế cũng vô cùng oai phong và cao quý. "

🌟

Người viết bản văn này là tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn tại New York nước Mỹ, đã từng về nước tham gia cuộc họp mặt Quốc Kiến. Ở New York, ông đã xây dựng đạo tràng Bắc Cực Kim Điện Bát Nhã Viện. Biết tôi ở Seattle, ông đã đặc biệt đến tìm gặp, ngoài ra còn đưa cho tôi bản văn này, hi vọng tôi có thể xuất bản nó. Ông có chú thích thêm về Huyền Thiên Thượng Đế như sau:

"Huyền Thiên Thượng Đế Đại Thiên Tôn là phân linh của Vô Cực Hỗn Nguyên Giáo Chủ, còn Hỗn Nguyên Giáo Chủ là tổ sư của tam giáo (Nho, Đạo, Phật), hiệu là Tam Nguyên Đô Tổng Quản. Còn Huyền Thiên Thượng Đế là Cửu Thiên Du Dịch Sứ, Tả Thiên Cương, Hữu Viên Đại Tướng Quân, Trấn Thiên Trợ Thuận, Chân Vũ Linh Ứng, Phúc Đức Diễn Khánh, Nhân Từ Chính Liệt, Hiệp Vận Chân Quân, Trị Thế Phúc Thần.

Huyền Thiên Thượng Đế hiệu là Trị Thế Phúc Thần, Trấn Bắc Đại Tướng Quân, ngài du tuần khắp mọi cõi trời cõi đất, nắm giữ càn khôn thế giới, trợ giúp đại đạo thời mạt thế, hộ quốc hộ giáo. Không đành lòng trước ngũ trược ác thế, trước cảnh chúng sinh phải chịu nhiều khổ cực, nên ngài đích thân theo Ngọc Đế giáng linh, thống soái thiên chân vạn thánh, quan sát cảnh tỉnh chúng sinh dưới hạ giới, đại từ đại bi, đại thánh đại nguyện, nhân tâm tế thế, ban phúc trường thọ, tiêu tai cứu nạn, là vị đại thiên tôn độ thế xá tội.

Huyền Thiên Thượng Đế là hỗn nguyên hóa thân, là phân linh nhất khí chí tôn, giống như Thần Nông Đại Đế của thượng cổ Đại Đức Thượng Thánh, là thủy tổ của y dược ngũ cốc thức ăn ngày nay. Nhất khí hóa thân cũng như một vị quân chủ Đường Nghiêu đức cao thánh minh vĩ đại, vì chế độ pháp lệnh dân chủ của chính phủ quốc gia nhân loại ngày nay. Nhất khí cũng giống như Hoàng Thái Tử của Quốc vương Tịnh Lạc thời ngũ đại hậu Đường yêu thích học đạo, không thích vương vị, nên đã tu đạo tại núi Võ Đang thuộc tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc, bái Diệu Lạc Thiên Tôn làm thầy, tu đạo 42 năm, ngộ chân thành đạo, thành tựu Đại Giác Kim Tiên của quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, ban ngày có thể bay lên trời. Ngọc Đế vô cùng ca ngợi công lao thành tích đức hạnh quả vị của ngài, giao cho trọng trách trấn giữ Bắc thiên du tuần chư thiên chư địa, ngoài ra còn phong làm Ngọc Hư Sư Tướng Huyền Thiên Thượng Đế Chân Võ Đang Ma Đại Thiên Tôn, còn có hiệu là Tế Thế Chân Nhân.

Gần đây, Minh Thành Tổ [ ND: Vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh ], khi còn chưa hoàn thành đế nghiệp hoàng đồ, còn gặp phải rất nhiều khó khăn, đã thỉnh cầu Huyền Thiên Thượng đế linh ứng giúp đỡ, âm thầm trợ giúp ông thừa kế hoàng vị chính thống, bắt đầu thành lập đế nghiệp, dời đô về Nam Kinh, hiệu là Thánh Đức Hoàng Đế, đạt nhiều thành tựu về văn hóa, chính trị, quân đội, thiên hạ thái bình, công đức thành tích của ông rất huy hoàng. Sau đó, Minh Thành Tổ còn được Huyền Thiên Thượng Đế ban cho linh thị, rằng để kế vãng khai lai [ ND: tiếp tục kế thừa quá khứ và phát triển cho tương lai ], hoằng dương dân tộc Hoa Hạ văn minh [ ND: Hoa Hạ tên cũ của nước Trung Hoa ], lưu truyền tinh thần văn hóa vương đạo của văn hóa Hoa Hạ, nên Thành Tổ đã lệnh cho Trịnh Hòa (Tam Bảo Thái Giám) chế tạo nghìn vạn tàu thuyền, bảy lần thực hiện các cuộc hải trình hướng về phía Tây, đến các nước Đông Nam Á, Bắc Phi Châu, Hồng Hà, Vịnh Ba Tư, Ả Rập… để truyền bá văn hóa Hoa Hạ, đến nay vẫn là thuật hàng hải sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chính việc truyền bá tinh thần vương đạo của văn hóa Hoa Hạ này mà ngày nay mới có Hoa kiều phân bố ở khắp Đông Nam Á và mọi ngóc ngách khác của thế giới.

Những thành tựu này đều là do Minh Thành Tổ, Trịnh Hòa Tam Bảo Thái Giám và mỗi đoàn thuyền đều thờ cúng thần linh Huyền Thiên Thượng Đế, nhờ vào sự bảo hộ của ngài mà có được. Hơn nữa, công đức chí đại chí cao của Huyền Thiên Thượng Đế Đại Thiên Tôn còn trực tiếp ảnh hưởng đến bảy con đường hàng hải cận thế giới, lần lượt phát hiện ra các lục địa thế giới, theo đó là các chủng tộc nhân loại, các cuộc di dân tự nhiên ở mỗi châu lục, tạo nên sự phát đạt và thành tựu về tri thức lịch sử hàng hải của nhân loại.

Từ hai triều đại Minh - Thanh đến Trung Hoa Dân Quốc, dân chúng nói chung tín phụng Huyền Thiên Thượng Đế, trong nước và hải ngoại khắp nơi đều thờ phụng Huyền Thiên Thượng Đế của Đạo giáo. Bởi vì Huyền Thiên Thượng Đế trưởng quản bắc thiên thất tinh, những người đi biển đều theo sao bắc cực mà đi. Công đức và đại nguyện của ngài luôn đi cùng với nhân loại thế giới, cùng vũ trụ càn khôn suốt nghìn vạn năm vô lượng kiếp, hơn nữa, công lao cứu thế của ngài có thế sánh với trời đất, như nhật nguyệt tỏa hào quang, ánh sáng chiếu tới đại thiên thế giới, bao kiếp cứu thế huy hoàng, huân công vĩ tích, giống như cầu vồng rực rỡ giữa ban ngày vậy.Ư

🌟

Lư Thắng Ngạn chú thích:

Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế được thờ cúng tại các chùa miếu ở Trung Quốc cực kì nhiều, là vị thần tiên của Đạo giáo, tay phải cầm kiếm, trên kiếm có viết "Thất tinh kiếm", một ngón tay trái viết "Thông thiên chỉ", đầu đội mũ Võ Quan, để tóc dài, gọi là Lão Đế Da. Những vị được thờ cúng ở Mai Sơn, Gia Nghĩa thì có vị không có râu, một chân dẫm lên một con rắn, chân kia dẫm lên một con rùa, con rùa và rắn này là hộ pháp tướng quân của ngài. Một số bức tượng thông thường có mặt đen, cũng có mặt đỏ, và bức nào cũng đều có tướng rất uy mãnh.

Nơi thờ Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế hương hỏa hưng thịnh nhất thuộc về Thọ Thiên Cung ở hang Tùng Bách tại Nam Đầu, Đài Trung, Đài Loan, các phân đường của cung này phân bố khắp toàn tỉnh, ngài giáng linh thông qua "thần kiệu" hoặc "kê đồng" là phổ biến nhất. Bởi ngài trấn thủ bắc cực, do vậy tinh kì [ ND: cờ sao ] của ngài có màu đen, trên đó viết Bắc Đẩu Thất Tinh, là một trong những pháp bảo để hàng ma.

Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế thành đạo tại núi Võ Đang, có nhiều bản kinh điển được truyền thế, nổi tiếng nhất có ba bộ kinh:

  1. Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Chân Võ kinh.
  2. Huyền Thiên Thượng Đế kim khoa ngọc luật chân kinh.
  3. Huyền Thiên Thượng Đế cứu thế chân kinh.

39. Phá Hắc giáo hắc pháp

Hồi đó, khi tôi còn đang truyền bá trên tạp chí, lúc tôi đọc thấy hai chữ "Hắc giáo", thật sự là tôi giật nảy mình kinh ngạc, bởi vì trong khắp thiên hạ này, không có nhiều người nhận thức được tâm pháp Mật tông (chân tri chân kiến), lại càng hiếm người có thể biết đến nguồn gốc, hoạt động và ảnh hưởng của Hắc giáo. Cá nhân tôi, bởi vì tôi là hành giả Mật Hành Tu Trì Hồng Quán Kim Cương Bảo Miện, từ sớm tôi đã có nhận thức sâu sắc đối với Hắc giáo. Đối với những người lợi dụng danh của Hắc giáo, tự cho mình là truyền nhân duy nhất của Hắc giáo, rồi lại thêm thế nhân vô tri, vẫy cờ hò hét, vì thế lại càng tạo ra nhiều nhầm lẫn, tôi thật sự cảm thấy buồn sâu sắc cho đám thế nhân vô tri. Còn những người phụ họa theo Hắc giáo, ủng hộ Hắc giáo thì thật sự cái tâm đó đáng chết.

🌟

Mật thừa phân ra làm ba bộ phận là Mật tông, Mật hành, Mật giáo, còn được gọi là truyền thừa bí mật của Phật và Phật, được truyền bởi những vị thầy có đủ tư cách, bởi vì là tâm tâm tương truyền nên được gọi là truyền thừa mật ý. Đây chính là Mật tông.

Mật hành là truyền thừa của Phật đối với Bồ Tát, tác giả thuộc về bộ phận này. Mật giáo thì mới là truyền thừa của tổ sư đối với phàm phu, hướng dẫn cho người người nhập Phật, tiến nhập Phật địa.

Mật thừa được khởi đầu bởi Bồ Tát Long Thọ, hoàn thành bởi Bồ Tát Long Trí. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Mật thừa hoàn toàn không khai tông lập vị. Sau khi Phật tịch diệt, Bồ Tát Long Thọ theo ý chỉ của Phật mà thuyết pháp, bắt đầu diễn xuất pháp Mật thừa trong Phật pháp, hiểu sâu sắc Kinh Lăng Nghiêm và pháp môn nội chứng viên thông.

🌟

Còn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, vào ngày mồng 10 tháng 7 âm lịch, tại hồ Danakosha, Ấn Độ, đã hóa sinh từ hoa sen ngũ sắc, Quốc vương của Tây Ấn Độ là Indrabodhi, từ hoa sen trên biển đã bế ngài về, lập làm Thái tử. Sau này xuất gia, ngài bái thầy là Anan Tôn giả, chứng trí huệ Ngũ Phật. Sau đó, ngài đáp ứng lời mời của Quốc vương Tây Tạng là Trisong Detsen, đã từ Ấn Độ vào Tây Tạng, trở thành vị tổ sư đời thứ nhất của Tạng mật. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là người từ Ấn Độ đến Tây Tạng vào thời đại nhà Đường, nối tiếp pháp của Long Thọ Bồ Tát, sáng lập Hồng giáo [ ND: Nyingma - dòng Mũ Đỏ ] để giáo hóa dân tộc Tây Tạng, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Hoàng giáo, Hoa giáo, Bạch giáo sau này đều từ đây mà ra, nghi quỹ rất nhiều, nhưng đều có pháp lưu truyền thừa, nên dù nhiều nhưng không bị hỗn loạn, đến ngày nay vẫn rất hưng thịnh không ngừng.

Tuy vậy, thế nào gọi là Hắc giáo, Hắc giáo vốn là một giáo phái bắt nguồn từ đạo Bà-la-môn của Ấn Độ, từ rất sớm đã truyền đến Tây Tạng, hoàn toàn không có liên quan gì đến Mật thừa của Phật giáo. Bà-la-môn vốn là đạo đa thần, cực kì mê tín, thấy mặt trời là lạy mặt trời, thấy mặt trăng là lạy mặt trăng, thấy núi lạy núi, thấy lửa lạy lửa, thấy cây cũng lạy cây, thấy đá cũng lạy đá, thậm chí thấy động vật súc sinh cũng bái lạy hết.

Trong đó, phái Hắc giáo chuyên môn lạy thần Trâu, trong nhà của các pháp sư của Hắc giáo đều thờ cúng thần Trâu, thần Trâu là giáo chủ của Hắc giáo, là tà môn trong số các tà môn. Hắc giáo vốn là một tôn giáo thờ phụng thần Trâu, sao có thể liên quan đến Mật thừa được, điều ảo diệu trong việc này thì người ngoài càng không thể biết được. Nay tôi lần lượt trình bày ở đây để phá bỏ tà môn này.

🌟

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thương xót cho đám người của Hắc giáo mê tín thần Trâu này, để cứu độ đám chúng sinh bướng bỉnh hay làm om sòm này, Đại Sĩ đã hiển hóa thần thông nhập vào tam ma địa của Văn Thù Bồ Tát, sau đó làm xuất hiện một vị thần kim cang, chính là Đại Uy Đức Kim Cang, kêu những tín đồ Hắc giáo mê tính vào thần Trâu này hãy đi lạy Đại Uy Đức Kim Cang, nhờ Đại Uy Đức Kim Cang đến để cứu độ những người mê tín vào Hắc giáo này.

Hình tướng của Đại Uy Đức Kim Cang, ở trên cùng là Văn Thù Bồ Tát, ở giữa là mắt kim cang phẫn nộ, ở dưới là thần Trâu, tổng cộng có ba mặt, thần Trâu mọc ra hai chiếc sừng dài, mũi trâu, mắt trâu, miệng trâu, mọc ra nhiều tay, trên đầu trâu và thân trâu có treo nhiều đầu lâu. Đại Uy Đức Kim Cang thật sự thì không phải là thần trâu, đây là do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vì cứu những chúng sinh mê hoặc vào Hắc giáo mà cố ý hóa hiện ra hình tướng như vậy để độ hóa cho họ. Từ việc này có thể thấy sự thấp cấp và yếu kém của Hắc giáo, chỉ là một loại vô trí mê tín mà thôi.

Khi xưa Liên Hoa Sinh Đại Sĩ muốn độ hóa Hắc giáo, các pháp sư và tín đồ Hắc giáo cũng phản kháng, Liên Hoa Sinh biết vậy, chỉ có cách dùng phương thức khuyên răn, hóa sinh thành Đại Uy Đức Kim Cang đến đế giáo hóa Hắc giáo. Hắc giáo cũng có vận dụng đủ loại giới cấm, đủ loại lời thề để khống chế những tín đồ của mình, nghiêm khắc giới hạn tín chúng không được phản bội, đây là một kiểu cách làm của tà giáo. Còn lời thề của Hắc giáo là, người nào dám không tín phục, chắc chắn sẽ bị sừng trâu húc chết. Người đến quy y Hắc giáo đều phải phát lời thề.

🌟

Ngoài bái thần Trâu ra, một điểm đặc trưng của Hắc giáo là các pháp sư đều làm theo ác pháp, học một số thuật nguyền rủa chuyên môn hại người, do vậy hắc pháp hoàn toàn là chú thuật nguyền rủa. Hễ một lần làm ác pháp thì người thỉnh cầu nhất định cần phải cúng tiền cho pháp sư, pháp sư, pháp sư sẽ tùy theo số tiền nhiều hay ít mà tiến hành pháp thuật, những pháp này đều là hại người cả. Thử nghĩ mà xem, ngay cả pháp sư cũng đều hại người, tự trói mình trong kén, tâm vô tri ngày càng nặng, chỉ coi trọng tà pháp, vĩnh viễn không có ngày thấy Phật. Sự mê tín của Hắc giáo thật đáng thương, khiến người ta thật buồn thay. Pháp sư không hiểu tự tính, lại thêm đám tín chúng ngũ trược, đây chính là bộ mặt thật của Hắc giáo, thật là tội lỗi, tội lỗi.

Pháp sư Hắc giáo vốn dĩ thô tục không chịu nổi, hơn thế nữa, phàm là phụ nữ tin theo Hắc giáo, thì đêm đầu tiên sau đám cưới phải do pháp sư Hắc giáo phá trinh. Thậm chí, trong các miếu thờ thần Trâu của Hắc giáo cũng nuôi một đám kĩ nữ, chuyên môn hầu hạ các pháp sư Hắc giáo hưởng lạc. Việc nuôi một đám kĩ nữ trong chùa vốn bắt nguồn từ đạo Bà-la-môn mà có. Ở khu vực Ấn Độ rất nóng, nam nữ đều phát triển sớm, do vậy sắc dục rất nặng, các chùa của đạo Bà-la-môn đều có các kĩ nữ. Thế nhưng Hắc giáo lại còn xấu xa hơn nữa, không những nuôi kĩ nữ trong chùa, thậm chí ngay cả phụ nữ gia nhập Hắc giáo thì đêm đầu tiên xuất giá của họ cũng thuộc quyền sở hữu của pháp sư, thật đúng là tà môn.

Tác giả nghe nói trong cung Ung Hòa tại Bắc Kinh có bức Tứ Hoan Hỉ Phật, trước đây người đến tham quan chỉ cần lén đưa tiền cho người trong chùa thì họ sẽ đưa bạn đi xem, đó là một vị đầu trâu thân người, hai chân đều dẫm lên một mỹ nữ, trong tay lại ôm một mỹ nữ, đúng thực sự là gian dâm với mỹ nữ. Con quái vật đầu trâu này chính là sản vật của Hắc giáo, không phải là giáo chủ thần Trâu của Hắc giáo thì còn là ai nữa?

Có lẽ cũng sẽ có người nói rằng, Mật tông cũng có pháp song thân, kì thực, pháp song thân cũng là Hắc giáo ngoại đạo mới có. Tổ sư của Phật giáo vì độ hóa Bà-la-môn và Hắc giáo nên chỉ có cách đành chấp nhận như vậy. Ban đầu Duy Ma đại sĩ xác lập "bất đoạn dâm nộ si, diệc bất dữ câu" [ ND: không loại bỏ dâm nộ si, cũng chẳng sống cùng với dâm nộ si ] thì mục đích trước tiên để cho người ta hưởng lạc, sau đó lĩnh ngộ ra sự vô ích của dục, sau đó dừng dục thăng hoa, dựa vào trí huệ để cắt đứt dâm dục, chuyển thức thành trí.

[ ND: Một vài quý độc giả, hành giả cấp độ cao có thể hơi ngạc nhiên khi đọc đoạn trên, tuy nhiên xin quý vị lưu ý đoạn văn trên là ý kiến của Tôn sư khi ngài mới 39 tuổi (1983). Mặc dù đã thành tựu cực kì cao, nhưng lúc đó ngài còn chưa đạt tới các thành tựu vĩ đại cùng tột như thời kì về sau này. ]

Hắc giáo hắc pháp bị chính pháp quét sạch sẽ, vốn là một dạng quyền lực thiết lập cứu độ sơ cơ của Mật tông, Đại Uy Đức Kim Cang còn là hóa thân của tổ sư Phật môn.

🌟

Hắc pháp tà môn có thể tóm gọn lại thành ba đặc điểm:

  1. Mê tín thần Trâu.
  2. Làm ác pháp hại người.
  3. Trọng dục vọng.

Tác giả cũng cảm thấy con người ngày nay căn cơ hời hợt, đối với Mật thừa căn bản là cũng không hiểu gì. Có người còn ăn theo tự gọi mình truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc giáo, truyền bá đến giới những người không có khả năng phân biệt thật giả chính tà, không có pháp lưu truyền thừa, kết quả là bảo Hắc giáo bất thanh tịnh này chính là Mật tông. Thế nhân không kiểm tra cho kĩ, bị mê hoặc mà còn không tự biết, do vậy tôi mới viết bản văn "Phá Hắc giáo hắc pháp" này để nói rõ mọi việc cho đúng.

Cần biết rằng "Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ", tương lai của Mật tông sẽ phát triển rộng rãi, sẽ đạt tới những đỉnh cao, Phật quang sẽ phổ chiếu, phổ nguyện pháp giới hữu tình đều cùng chứng viên giác. Cá nhân tôi khi 32 tuổi đã quy y Mật tông, nhận quán đảnh mật hành, nhờ Thượng sư truyền pháp, chưa từng nói ra những thực tế thật sự về bí mật tu hành của bản thân, tôi chỉ nói rằng tôi kiêm tu Đạo và tu Phật mà thôi.

Tất cả hắc pháp tôi đều nghiên cứu để tham khảo, Hắc giáo hắc pháp cũng do Thượng sư truyền thụ giảng dạy toàn bộ cho tôi mà biết được. Những gì tôi đã học được là rất nhiều, tôi vì vai trò "Hồng Quán Kim Cương Bảo Miện Pháp Sư" tương lai mà bất kì pháp nào [ dù xấu hay tốt ] tôi cũng đều học hết để tham khảo.

Nay có người phụ họa theo Hắc giáo, tôi có trách nhiệm ra mặt để hướng dẫn và chỉ ra sai lầm, mong chúng sinh nhận biết được thật giả chính tà, đừng đảo ngược lại pháp luân, vậy là may mắn rồi..

40. Bình luận về việc Lâm Vân tham vấn Dalai Lama

Lâm Vân Đại Sư gặp Dalai Lama [Đạt Lai Lạt Ma] tại Hawaii, ông thỉnh giáo Dalai Lama một vấn đề. Lúc đầu Dalai Lama nghe không rõ Lâm Vân đang thì thầm điều gì, sau đó có người đứng bên cạnh phiên dịch, Dalai Lama cuối cùng mới hiểu ra đôi chút, rằng ông Lâm Vân hỏi rằng: "Có thể đồng thời tu trì tam mật được không?"

Lúc đó, Dalai Lama tự lẩm bẩm với chính mình một lúc, rồi mới trả lời rằng: "Người bình thường không có cách nào cùng lúc tu trì tam mật, phải làm từng bước một." Lâm Vân từ trong đám đông chen lên phía trước, vẫn muốn hỏi thêm, nhưng lại có người khác cũng chen lên trước, nên ông bối rối đứng lại, không biết làm gì hơn, có một cảm giác đau khổ vì bị cô lập.

🌟

Đối với câu hỏi của Lâm Vân Đại Sư dành cho Dalai Lama, người khác không thể nhận ra cái hay ở trong vấn đề này. Còn tôi thấy ngay ở đây có rất nhiều vấn đề, cần phải nghĩ cẩn thận, tự mình cũng có thể thấy được một đôi điều.

Một là, "Có thể đồng thời tu trì tam mật được không?" Câu hỏi này xuất phát từ miệng của Lâm Vân, đi vào tai của Dalai Lama, thực sự khiến người ta cảm thấy khá kì lạ. Bởi vì trong toàn bộ Mật thừa mà nói thì phàm là người nào học Mật thừa đều có thể trả lời câu hỏi này. Thế mà không ngờ nó lại xuất phát từ chính miệng của Lâm Vân Đại Sư, người tự xưng là truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc giáo, khiến chúng ta cảm thấy Lâm Vân này chẳng giống một đại sư Mật tông chút nào, nói thẳng ra là chẳng khác gì trẻ con mẫu giáo hỏi thầy giáo: "Thầy ơi con muốn xi xi." Trình độ của học sinh mẫu giáo này ngay cả đến tư cách làm lớp trưởng cũng chẳng có, mà e rằng còn chỉ mới là học sinh tiểu học vừa mới vào lớp, ngay cả đến việc "xi xi" cũng cần có thầy giáo giúp cởi quần xuống kéo quần lên.

Hai là, chúng ta cảm thấy rằng, nếu Lâm Vân Đại Sư hỏi một câu hỏi trẻ con như vậy, cho thấy Lâm Vân Đại Sư thực sự chẳng biết đã đạt đến được điểm nào trong Mật thừa. Nhưng việc này cũng khó trách, bởi vì giới học thuật cũng không có hành giả tu trì Mật thừa chân chính, minh tinh cũng chẳng có người nào là hành giả tu trì Mật thừa chân chính. Có được một vài chuyện hay, một số người đứng vẫy cờ ủng hộ, thì hành giả này cũng chỉ là người đứng ngoài Mật pháp quan sát mà thôi.

Người không có hiểu biết rõ ràng về Mật thừa, khi đọc qua một vài cuốn sách đã liền tự xưng là đại sư Mật tông mà nói thì cũng giống như người ngoài hành tinh ET xuất hiện thôi. [ ND: ET là viết tắt của Extra-Terrestrial, tên bộ phim khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1982, trong đó có một sinh vật ngoài hành tinh có tên là ET mắc kẹt trên trái đất. ] Mọi người sẽ chỉ hiếu kì mà ôm lấy nó, chứ không cảm thấy sự xấu xí của nó.

Có một vị hành giả Mật tông tu trì 10 năm, là đệ tử truyền thừa của pháp tự Norlha Hotogtu tại vùng tây Kham, đã nói rằng Lâm Vân căn bản không phải là Mật tông, nhưng Lâm Vân mở miệng là nói Mật tông, ngậm miệng là nói Mật tông, trong khi đó người thật sự là hành giả Mật tông thì sẽ chẳng có ai nói gì cả. Tôi nói với ông rằng, chính tại vì người tu Mật tông thật không nói gì nên mới để cho Lâm Vân giả Mật tông gây nên tiếng vang ầm ĩ như vậy.

Ba là, câu hỏi "Có thể đồng thời tu trì tam mật được không?", chúng ta cảm thấy thỉnh thị Dalai Lama về điều này dường như có "mùi" cố ý coi thường hoặc sỉ nhục Dalai Lama. Dalai Lama là trưởng môn của phái Hoàng giáo Tây Tạng, chúng ta có thể tưởng tượng, Dalai Lama nhất định cho rằng Lâm Vân đưa ra câu hỏi ấu trĩ này thực sự khiến người ta cảm thấy vô cùng kì cục, giống như một học sinh hỏi một giáo sư đầy một bụng tri thức rằng: "Một người có thể cùng lúc mở miệng ra nói ba thứ ngôn ngữ được không?"

Vị giáo sư này bị làm rầy rà đến mức không chịu được mà nói: "Một người bình thường không có cách nào đồng thời nói ba thứ tiếng được, cần nói xong một thứ tiếng rồi mới nói đến thứ tiếng thứ hai, rồi thứ ba."

Chúng ta tưởng tượng Lâm Vân không có chuyện gì đành kiếm chuyện mà nói, hoàn toàn nhàm chán và vô tri.

🌟

Hôm nay, tôi đặc biệt chỉ dẫn cho Lâm Vân Đại Sư ngài như sau: Tam mật, thân khẩu ý, được phân ra "hữu hình" và "vô hình".

Thân bí mật là hóa thân công đức, người tu hành cần giữ không phạm thân nghiệp. Tu ngũ trí pháp, cho đến khi huyết mạch, lục phủ ngũ tạng toàn thân, phàm tất cả nhân quả da thịt của kiếp trước, những giết, cướp, dâm đều tẩy rửa sạch sẽ, hành giả thật sự bảo trì được sự thanh tịnh của thân, thì mới là hóa thân công đức của thân bí mật vô hình.

Khẩu bí mật là báo thân công đức, người tu trì cần giữ không phạm khẩu nghiệp. Tu thiệt thanh tịnh pháp, cho đến khi không còn ác khẩu, hai lưỡi, vọng ngữ, khỉ ngữ, đến cuối cùng trở thành ngôn ngữ, khí công, khí của toàn thân đều thanh tịnh, như vậy vĩnh viễn bảo trì được khẩu bí mật vô hình của báo thân công đức. Lâm Vân Đại Sư thích nhất là nói về khí, kì thực khí là khẩu bí mật vô hình, ngài cần thể hội cho tốt hơn.

Ý bí mật là pháp thân công đức, người tu hành cần giữ không phạm vào ý nghiệp. Tu chân huệ pháp quán tưởng để tiêu trừ ba thứ độc tham, sân, si. Toàn thân tâm, ý, khẩu đều hiển hiện quang minh, như vậy mới xem như bảo trì được pháp thân công đức của ý bí mật.

Tam mật nói đến ở trên là vô hình, là trọn vẹn nhất, là tận cùng của vấn đề nhất.

🌟

Còn như Lâm Vân Đại Sư hỏi Dalai Lama, đương nhiên tôi biết ông ấy hỏi về cái "hữu hình", đây là cách hỏi của dân ngoại hạng không chuyên.

Thân bí mật, tay kết thủ ấn, đi đứng ngồi nằm và tất cả các hành động đều là ấn khắc. Khẩu bí mật, miệng tụng chân ngôn, tất cả các hành động đều có chân ngôn. Ý bí mật, tâm trí quán tưởng Bổn tôn, tất cả hành vi đều dựa vào Bổn tôn làm chủ.

Câu trả lời của Dalai Lama rất có lý, một người chưa thành đạo thì cần từng bước tu trì tam mật, hết cái này đến cái kia, tu từng bước từng bước vững chắc như chân đạp đất, trước tiên là tu khẩu, xong đến thân, sau đó tới ý niệm, đến khi thực sự tam mật có thể hợp nhất cũng tức là đã "thành đạo".

Tôi cười Lâm Vân căn bản không hiểu Mật thừa, bởi vì tam mật có thể đồng thời tu trì cũng tức là đã "thành đạo". Phàm phu không có cách nào làm được như vậy, câu hỏi này của Lâm Vân Đại Sư thực sự là câu hỏi thừa thãi, chẳng có gì để nói đành cố kiếm chuyện để nói.

Có lẽ Lâm Vân Đại Sư cho rằng trong miệng niệm chú, tay đưa ra một cái thủ ấn, trong đầu quán tưởng một vị Phật, như vậy chính là "Tam mật hợp nhất" mà tu pháp rồi. Kì thực đó là "hữu chấp giả kiến", còn muốn "tam mật hợp nhất" thì phải như thế này mới được xem là "vô hình chân đắc":

Thân bí mật --- thân tâm hai phần, pháp nhiên bất động. Khẩu bí mật --- chư Phật cảm ứng, đại truyền pháp luân. Ý bí mật --- gia trì nội chứng, tự minh Phật tướng.

Đây mới là tu trì chân thực "Tam mật hợp nhất". Không phải miệng niệm chú, tay kết ấn, tâm quán tưởng, như vậy chính là "tam mật hợp nhất". Cần biết rằng, đắc chứng của thân bí mật là "lý cụ thành Phật", đắc chứng của khẩu bí mật là "gia trì thành Phật", đắc chứng của ý bí mật là "hiển hiện thành Phật". Để làm được như vậy cần từng bước, đến cảnh giới tối cao thì tự nhiên sẽ là "Tam mật hợp nhất".

🌟

Tôi muốn khuyến cáo Lâm Vân Đại Sư rằng, xin đừng nhắc lại chuyện khi ông 6 tuổi tại cung Ung Hòa học pháp nữa, bởi vì tu trì Mật tông nhất định cần có pháp lưu truyền thừa do thầy truyền dạy, nói cách khác là cần quy y Thượng sư, nhập đàn quán đảnh thọ pháp mới được xem là đệ tử Mật tông chính thức.

Không phải là đọc thêm mấy cuốn sách, đọc sách rồi học được vài cái thủ ấn, nắm được một ít thứ hỗn tạp nào là phong thủy, kinh dịch, đạo, rồi phụ họa thêm Hắc giáo hắc pháp là nghĩ có thể tự gọi mình là truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc giáo được. Cần phải chỉ ra Thượng sư của mình là ai. Mật tông không phải là tự một mình có thể tu được, mà cần quy y Thượng sư, có được Thượng sư truyền pháp mới có thể tu trì.

Do vậy Mật tông luôn luôn có thêm một phần nữa, đó chính là quy y Thượng sư. Bạch giáo có phái Karma Kagyu, Hồng giáo có phái Nyingmapa, đều có dòng truyền thừa pháp từ thầy, tuyệt đối không thể tự học tự tu được, đó chỉ là tu luyện một cách mù quáng. Bất luận là ông tu pháp gì, nhất định cần có pháp lưu truyền thừa từ thầy, hãy mau coi trọng việc quy y chính pháp đi.

Đặc biệt, người tu trì Mật thừa chân chính luôn luôn xem Ấn Độ giáo (đạo Bà-la-môn), Tạng giáo, Hắc giáo (đạo Bon) là các loại tà ma xấu xa, là tiểu thừa ngoại đạo. Ông không cần phải tự mình cam chịu hạ lưu, phụ họa theo Hắc giáo hắc pháp. Tác giả nói điều này là vì tôi vẫn luôn giữ vững tâm từ bi và tâm vô úy nên mới dốc lòng dốc sức khuyên đi khuyên lại như vậy, hy vọng ông cũng cùng quy về bồ đề đạo.

Trước mắt ông nên tu quảng đại cúng dường để mà cúng dường Thượng sư, Tam bảo, Kim cang, Hộ pháp. Hãy nhận thức được niềm vui khi quy y Thượng sư, nhờ vào quy y mà tu sửa cho đúng, dựa vào cúng dường mà sám hối, như vậy mới có thể rửa sạch những vọng nghiệp mà ông đã gây ra từ ngày xưa, từ đó tạo nên những bước chân vững chắc, đừng có nói năng lung tung hồ đồ nữa.

6 tuổi học pháp, xin đừng nhắc lại nữa, để tránh làm ô nhục đến sư môn Mật thừa.

41. Vài mẩu chuyện về Lâm Vân đại sư

Từ khu thôn mới Tứ Duy, quận Phố Tâm, thành phố Dương Mai, thuộc Đào Viên, Đài Loan, lão tiên sinh Tạ Thực Đoan đã gửi đến một bức thư, tôi đặc biệt công bố như sau:

Kính gửi Lư Đại Sư, Tôi có thể nhận được lá thư tay của một vị Thượng sư một tông phái, thật là may mắn trong đời này của tôi, trong lòng tôi thật vinh dự, giống như cảm xúc trong quá khứ tôi từng được tổng thống Tưởng Công [ ND: Tưởng Giới Thạch ] triệu kiến vậy.

Tôi đã thử khởi linh, theo hướng dẫn thì cần nhịn ăn một ngày rồi cầu nguyện.

  1. Lúc bắt đầu, hai chân tôi rung lên không ngừng.
  2. Tiếp theo là hai tay tôi chắp lại cũng lắc với một lực rất mạnh.
  3. Trong lúc hoàn toàn không có ý thức, tôi đứng dậy, thế là hai tay tách ra, lúc này chỉ có hai cánh tay là rung lắc.
  4. Sức mạnh rung lắc này đến từ bên trong cơ thể, dường như càng rung lắc càng có "linh" của thần, nhưng người tôi thì hoàn toàn tỉnh táo, những hiện tượng này tôi vẫn mong được thỉnh giáo xem thế nào.

Ngoài ra, tôi đọc báo ngày hôm nay, thấy có một nhà báo viết bài về một người là Lâm Vân, đọc xong trong lòng tôi cảm thấy cực kì không vui. Tôi đã đặt ra rất nhiều dấu chấm hỏi. Là ông ta chứ chẳng phải ai khác, dẫu biết rằng ông ta vẫn cả đời gạt thế trộm danh, vô hình trung, tâm tư ông ta đã tự coi là một đại sư hóa thân, vì thế mà đọc xong tôi cảm thấy không vui, vậy nên cứ nhiều lời nói mãi.

Kính chúc đại sư pháp an. Tạ Thực Đoan.

🌟

Ông Tạ Thực Đoan đã cắt bài báo kia gửi cho tôi, sau khi đọc xong, tôi chỉ cảm thấy rất buồn cười. Bây giờ tôi sẽ cầm cây bút, viết một vài mẩu chuyện về vị đại sư này, hãy xem thử một bộ mặt khác của ông ta.

Chuyện thứ nhất: Con trai của tướng quân Hồ Liễn đến tìm tôi, người này phục vụ trong Đại Lục Thiết Kế Ủy Viên Hội, hỏi về bệnh của mẹ anh ta (tức Hồ Liễn phu nhân, bị bán thân bất toại). Tôi bấm ngón tay để tính toán một lúc, tôi trả lời: "Đã có người cầu nguyện cho bà ấy rồi, người này dùng tà pháp. Bệnh của phu nhân đã không thể chữa, xin hỏi người này là ai?" Con trai của Hồ Liễn đáp: "Lâm Vân." "Ông ta nói có thể chữa khỏi sao?" "Có thể." - Khẩu khí anh ta rất kiên định. "Nay thì sao?" "Đã chữa rất lâu rồi, nhưng chữa không khỏi." "Sao không lại đến tìm ông ta?" "Ông ta vừa thấy là không chữa được, nên đã cụp đuôi trốn mất rồi."

Tôi bảo với con trai của tướng quân Hồ Liễn rằng, Hồ Liễn phu nhân đã không còn cách nào kéo dài cuộc sống nữa, nhưng có cách để chấm dứt cuộc sống, không cứu được nữa. Con trai của tướng quân Hồ Liễn làm động tác kết một thủ ấn mà Lâm Vân Đại Sư đã dạy cho anh ta, hỏi tôi thủ ấn này có thể cứu được mẹ anh không. Tôi cười bảo anh rằng, đây là thủ ấn "kiếm cơm" thôi, ngay cả con kiến cũng chẳng cứu nổi.

🌟

Chuyện thứ hai: Thành phố San Francisco nước Mỹ gặp mưa lớn núi lở, đã chôn sống giáo sư Hứa Giới Dục. Tôi đã từng bấm ngón tay để xem bói cho ông ta, ngũ hành nạp âm của ông Hứa thuộc thủy, nhà ông Hứa lại ở phía sau núi, thổ khắc với thủy, do vậy ông chết chắc không còn gì nghi ngờ. Khi ấy núi lở, giáo sư Hứa đã mất tích.

Có một người con gái của Trần tướng quân đã vội vã đến thỉnh giáo Lâm Vân Đại Sư. "Giáo sư Hứa có tướng trường thọ, chắc chắn không chết." - Lâm Vân Đại Sư nói chắc như đinh đóng cột.

Hai ngày sau vụ núi lở, vẫn không thấy giáo sư Hứa xuất hiện, điều này chứng tỏ ông đã bị chôn sống trong đất rồi. Con gái của Trần tướng quân lại đi hỏi Lâm Vân.

"Đây… đây… đây là tai họa thiên nhiên, không có cách nào đoán được." - Lâm Vân ấp a ấp úng. "Rốt cục là còn sống hay đã chết?" "Chết. Chắc chắn chết."

Sự việc mất mặt này của Lâm Vân Đại Sư được lan truyền khắp trường đại học Washington, rất nhiều giáo sư cho rằng tên tiểu tử này lừa ăn lừa uống lừa ngủ, mặt dày như vậy, thế mà không ngờ vẫn khiến người ta dễ dàng cả tin vào ông ta, ai nấy biết chuyện đều lắc đầu cảm thán, rõ ràng thấy rằng ông ta "biến thuật cao minh" và giỏi tuyên truyền.

Con gái của Trần tướng quân nói: "Bói toán như vậy thì trẻ con ba tuổi cũng biết."

🌟

Chuyện thứ ba: Cũng lại là một phu nhân tướng quân đến tìm tôi. Bà nói: "Lâm Vân bảo tôi, chỗ này cần đặt một tấm gương, chỗ kia cần treo một cái chuông đồng, kết quả là chẳng những bệnh không tốt lên mà ngược lại càng ngày càng nghiêm trọng. Chúng tôi chẳng nghĩ được cách nào nữa, chỉ còn biết đến tìm Lư đại sư cầu cứu. Thực sự, từ đầu đến chân tôi đau đớn muốn chết rồi. Đã treo gương, đã treo chuông, nhưng bệnh lại càng nặng thêm, Lâm Vân rốt cục có biết hay không biết đây, thật sự là có vấn đề."

Tôi dùng pháp "Dụng thần chế sát", rồi lại dùng lá phù thứ sáu của "Linh Tiên phi hồng pháp" để chữa cho bà hết đau. Quả nhiên bà đã khỏi. Phu nhân tướng quân cảm kích tôi không ngừng.

🌟

Mấy chuyện hài này của Lâm Vân Đại Sư thực sự nhiều như sao trên trời. Nếu tôi kể hết ra thì có thể viết tới cả trăm chuyện. Điều khiến tôi cảm thấy kì lạ là rất nhiều giáo sư, minh tinh, nhà báo, những người này liệu có phải đã bị tà thuật che mờ mắt hay không, sao lại có thể nhận thức không rõ ràng như vậy, hoặc có lẽ nào họ đều là những kẻ ngoại hạng không chuyên, cả đời theo sau ông ta mà tung hô.

Điều hài hước nhất là, ông ta nói mình thông qua linh thị của Phật, thế nhưng phong thủy tổ tiên của Lâm Vân Đại Sư lại có sai lầm. Hãy xem anh chị em của Lâm Vân, cả nhà lớn lớn nhỏ nhỏ nếu không kết hôn muộn thì cũng không kết hôn, không có ai ngoại lệ cả, bản thân Lâm Vân cũng không kết hôn, cả mấy anh chị em nhà ông ta đều như vậy. Lâm Vân Đại Sư từ sáng đến tối giảng phong thủy Mật tông, nhưng phong thủy tổ tiên của chính mình thì lại đầy lỗi, thực sự là chẳng có cách nào chữa được, không thể chữa, không dám chữa.

Tôi xin hỏi Lâm Vân Đại Sư, có vấn đề gì với phong thủy Mật tông của ngài vậy? Giả sử ngài vẫn không có biện pháp nào, tôi khuyên ngài mua một cuốn văn tập số 43 của tôi "Địa linh tiên tông" mà đọc thử, rồi trước tiên hãy thử giải quyết phong thủy tổ tiên của chính mình đã. Sau đó hãy cầm cuốn sách mà tôi viết để giảng nghĩa, sẽ đặc biệt giúp ngài xây dựng được phong thủy Mật tông cho mình đó.

🌟

Tôi thấy đến nay Lâm Vân Đại Sư vẫn tự cho mình là truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc giáo. Còn tôi đây với hiểu biết như một chuyên gia về Mật tông Hắc giáo lại vẫn không thể nhìn ra Hắc giáo hắc pháp của Lâm Vân Đại Sư nằm ở đâu?

Như "Khí", "Linh tử thuyết", "Đa nguyên duyên sinh luận", "Nhập thế giải", "Xuất thế giải", "Tam mật gia trì", "Đại minh lục tự chân ngôn", v.v… đều là những tiểu luận của Mật tông, vẫn còn pha tạp những lý luận của Đạo gia, những thứ này đối với người tu trì Mật tông mà nói đều là trò chơi vặt, chỉ lừa được những dân a-ma-tơ [ amateur ] ngoại hạng, không thể lừa được những chuyên gia, vậy xin hỏi Hắc giáo hắc pháp nằm ở đâu? Ông có biết Hắc giáo là tà giáo sùng bái thần Trâu không?

Tôi rất muốn viết một cuốn sách, tên sách chính là "Hắc giáo hắc pháp", để cho ông hiểu thêm một chút, Lư Thắng Ngạn vốn hoàn toàn không hề hàm hồ về Hắc giáo hắc pháp. Khi tôi 32 tuổi tôi đã nghiên cứu rất kĩ càng về Hắc giáo hắc pháp rồi. Điều này có thể khiến ông cảm thấy rất bất ngờ, bởi vì ông tưởng rằng Hắc giáo hắc pháp chỉ có mỗi mình ông biết, kì thực ông đã sai rồi. Đối với Hắc giáo (đạo Bon), những gì tôi đã tu trì học hỏi vượt xa ông rất nhiều [ học để biết, nhưng không sử dụng ]. Sau này ông đọc sách rồi, chắc chắn ông sẽ tin vào lời của tôi, xin lỗi ông, cái danh "truyền nhân duy nhất" này của ông có thể đổi thành "truyền nhân duy nhị" rồi đó. Nhưng Hắc giáo hắc pháp, tác pháp rất nhiều, nên tôi sẽ giấu kín một vài thứ trong sách viết, việc này cũng là bất đắc dĩ thôi.

Tôi nói cho ông biết, tôi là một người Mật hành tu trì chân chính với Hồng Quán Kim Cương Bảo Miện, là thiên hạ đại pháp Chính Biến Tri. Tôi chỉ ra cái sai của ông, đối với ông và đối với tôi đều có công đức, đây là tôi bí mật giúp ông, hãy nhớ kĩ, nhớ kĩ!

42. Hai mươi hai vị Phật nói như vầy

Hơn 3 giờ chiều, ngày 4 tháng 2 năm 1983, tôi ở nhà mình tại Linh Tiên Các tịnh tọa tham thiền. Khi tôi tịnh tọa tham thiền thì tôi đóng cửa lại, nếu có người đến thì cũng không vào trong phòng được. Tôi cũng kéo rèm cửa sổ lại, trong phòng rất tối.

Đột nhiên cả căn phòng sáng rực như được bật đèn. Ánh sáng kì lạ này giống như tơ như sợi, tôi nhìn thấy ghế ngồi hoa sen phóng quang, chuyển động lên xuống. Tôi đếm thử bên dưới, không ngờ có 22 tòa sen, ánh sáng của những tòa sen này làm cho cả căn phòng sáng rực rỡ như ban ngày.

Hóa ra, 22 tòa sen này là các vị Phật Bồ Tát từ Đài Loan đến nước Mỹ để nhận pháp hội cúng dường tại Linh Tiên Tịnh Xá, trước ngày tổ chức pháp hội một ngày, các vị đã đều đến đây thị hiện liên quang.

Tôi tán thán: "Thật ngoạn mục, thật thần kì, thật là thần thông vĩ đại."

🌟

Phật Bồ Tát đều để lại những câu kệ tâm linh: Phật quang chiếu sáng Linh Tiên Các Pháp hội Karma hiện quần anh [ ND: Pháp hội Karmarpa ] Trì chú thủ ấn đều có lực Tham ngộ cưỡi sen đến Phật kinh.

Thanh yên tràn ngập Linh Tiên Các Ngày đêm tu đạo giữa đất trời Xuất nhập cảnh giới đều lão luyện Còn biết năm sau gặp vân thiên.

Kì lạ lạ kì Linh Tiên Các Nơi đây vi diệu ít ai hay Tiên nhạc phiêu du theo sợi nắng Biết rằng Liên Sinh cưỡi hạc bay.

Hoa sen bồng bềnh Linh Tiên Các Khoảnh khắc ngao du khắp đông tây Độ hóa nhân gian ba nghìn chuyến Trải nghiệm thế gian chín trăm thu.

Cây quý thất bảo Linh Tiên Các Pháp vụ đời này cần chăm lo Trai giới lễ Phật thường trì chú Trừ yêu phục ma quét bụi trần.

Nhàn nhã an yên Linh Tiên Các Mây nước tuyệt thắng tự ngâm du Trăng sao đều dừng nơi Bích Lạc. Bảy đại châu lục lướt mây đi.

[ ND: Theo Đạo giáo, tầng trời cao nhất có tên gọi là Bích Lạc. ]

Ánh sáng mơ ảo Linh Tiên Các Viết sách làm thơ chẳng vướng trần Xuân đến đại địa hoa dâng Phật Từ nay sóng đời chẳng đảo điên.

Thần khí hào sảng Linh Tiên Các Nhân gian cũng có được cảnh tiên Lầu này thông đến tam thiên giới Tục khách vướng đàn sẽ chẳng dung.

🌟

Khi đó tôi chắp tay lạy Phật, trong lòng vừa cảm thán vừa hoan hỉ, tôi vội vã thỉnh thị Phật lý.

Một vị nói: "Bốn câu hoàn toàn không cần nói." Một vị nói: "Thiên ma ngoại đạo nên chém đầu." Một vị nói: "Mê ngộ hai cửa chỉ một đầu." Một vị nói: "Tam tạng huyền cơ chẳng thiếu gì."

Lại có một vị nói với tôi: "Liên Sinh, những bài viết của ngài có lúc là ánh mắt Bồ Tát từ bi cúi nhìn, nhưng có lúc là ánh mắt phẫn nộ của Kim cang uy mãnh, ác liệt như sư tử hổ dữ giương móng vuốt, và rồi ma đạo liền bị bắt sống, không loài nào thoát mạng. Lại như Đại Uy Đức Kim Cang, tay cầm Ỷ thiên hàn bảo kiếm, uy phong lẫm liệt, vạch trần hết những đám ma đạo này ra cho chúng sinh được thấy."

"Con đã sai rồi sao?" - Tôi chắp tay cung kính hỏi. "Tất cả đều hợp với chính đạo, nhưng cũng còn một chút vi trần."

"Như thế nào?" "Ngài chỉ trích lão cư sĩ họ Lý chửi Thần chửi Tiên cũng không sai, chỉ trích sự cố chấp của ông ấy cũng không sai. Nhưng ông ấy giảng kinh Phật đã nhiều năm, đã dẫn dắt được nhiều chúng sinh quy y Phật, công quả của ông ấy cũng không ít, cũng coi như là một phần tử của Liên Trì Hải Hội. Công lao này cũng đáng để bỏ qua cho ông ấy được. Ông ấy cũng là người có quả vị, ngài chửi ông ấy, cơn giận này của ông ấy sẽ lớn như núi Tu Di, do vậy mà ngài còn vương bụi trần."

"Vậy con không nói nữa là được." "Thậm chí cho dù nếu cư sĩ họ Lý không có quả vị, nhưng nhiều học trò của ông ấy là người có quả vị, những học trò này sẽ vì việc ngài phê bình thầy giáo của họ mà cả đời này sẽ sinh tâm tức giận lớn như núi Tu Di, trên một góc độ thì cũng giống như phát tâm phẫn nộ. Đây chẳng phải là tự hiện mê ảnh, ai nấy đều phá tan tâm hướng đạo thành Phật sao?"

"Khai thị có lý, vậy con cần làm sao?" "Viết thêm một chương "Hai mươi hai vị Phật nói như vầy" là được rồi.

43. Pháp hội kì tích

Tôi còn nhớ pháp hội lần đầu tiên tại tịnh xá Linh Tiên ở Tukwila. Ngày 5 tháng 2 năm 1983, Tukwila tại Seattle có được một ngày thời tiết đẹp vô cùng hiếm có, mặt trời vừa to vừa sáng, bầu không khí u ám của mùa đông lạnh lẽo bị quét sạch sẽ. 10 giờ sáng, hội trường pháp hội của tịnh xá Linh Tiên tại Mỹ đông đúc với dòng người đổ về ào ào như mây như gió. Ở Washington mà nói thì cảnh tượng này rất hiếm thấy, bởi vì pháp hội lần đầu tiên tổ chức tại tịnh xá Linh Tiên tại Mỹ còn khá mới mẻ, thế nhưng đã rất thu hút mọi người, có thể nói là một sự kiện lớn không ngờ tới.

Những quần áo và vật phẩm cầu phúc của pháp hội này xa nhất là được gửi tới từ Đài Loan theo đường hàng không, là đồ của ông Giang Đông Dần, ông Trịnh Dụ Tín, ông Vưu Ngân Thọ, v.v… Kiện vật phẩm đầu tiên được gửi đến từ Los Angeles là của cả gia đình Thái Lâm Mỹ Liên.

Những người đầu tiên gửi đồ tới từ Houston là các ông Hoàng Ngọc Đường, Giang Tư Vinh, Trương Tam Chi. Người đầu tiên vội vã đến từ Vancouver, Canada là ông Lại Văn Ngạn. Người đầu tiên nhanh chóng đến từ San Francisco là ông Triệu Chiêu Minh.

Tóm lại, đại chúng tham gia pháp hội cầu phúc này tổng cộng có hơn trăm người, có thể nói rằng cảm giác lúc đó là người đông như núi như biển. Bởi vì lần đầu tiên tổ chức pháp hội mà đã có được thành tích như vậy, trong lòng tôi cảm ơn sâu sắc Bồ Tát từ bi đã linh ứng thập phương, thời cơ để phổ độ chúng sinh ở phương Tây đã đến rồi!

🌟

Pháp hội lần này dâng cúng lên Tây phương cực lạc thế giới A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Nam mô Vi Đà Tôn Giả, Nam mô Già Lan Tôn Giả.

Ngoài ra, vào buổi chiều ngày 4 tháng 2, đúng lúc tôi tịnh tọa tham thiền, đã có rất nhiều cao linh từ hư không hạ giáng, hóa ra đó là 22 vị Tiên Phật của Đài Loan cùng đến nước Mỹ để trợ giúp pháp hội tại tịnh xá Linh Tiên có nhiều linh cảm. Tiên Phật từ phương xa đến khiến mọi người cảm động rơi nước mắt.

Pháp hội do tôi làm người chỉ đạo trung tâm, bên trái có Trần Tước Viên, bên phải có Trần Sâm Hà, đốt sớ, cầu nguyện, bố thí, cúng dường, thủ ấn, tất cả đều được tiến hành theo nghi quỹ.

Kinh chú mà chúng tôi đã trì tụng gồm có:

  1. Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ môn phẩm.
  2. Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm đà-la-ni.
  3. Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh.
  4. Quan Thế Âm Bồ Tát đại cứu khổ chân kinh.
  5. Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh.

Trong khi niệm Phật, tôi đã sử dụng đại thủ ấn của phái Karma Kagyu - Tạng giáo (phái Mật tông Bạch giáo). Trong khi tôi diễn hóa lần lượt từng thức từng thức của đại thủ ấn, tôi nhìn thấy Di Lặc Bồ Tát của cung trời Đâu Suất hạ giáng, ngài đội lên đầu tôi mũ Ngũ Phật màu dỏ. Tôi nhìn thấy bảy Đại Nguyện Vương dùng pháp thủ kì diệu sắp xếp gọn ghẽ mọi cúng phẩm, biến hóa cúng phẩm, khiến cho vật phẩm cúng dường đầy khắp các thiên cung.

Tôi thay cho chúng sinh chân thành phát lộ lòng sám hối mọi ác nghiệp đã tạo ra trong quá khứ, cầu nguyện chư Phật Bồ Tát đại chuyển pháp luân hiển minh chính pháp, cầu nguyện ban phúc cho chúng sinh tiêu tai giải ách, cầu nguyện Bồ Tát thường trụ thế gian làm lợi ích chúng sinh, cầu nguyện Phật Bồ Tát thương xót chúng sinh, tiếp nhận chúng sinh, độ tất cả những người cố chấp kém cỏi, để Phật pháp phổ độ khắp chúng sinh hữu tình ở phương Tây.

Trong khi niệm phật, tôi dùng đại thủ ấn để nhập vào tâm của chư Phật, đốn ngộ vào cảnh giới thành Phật, phóng chiếu sức mạnh tâm linh từ bi của Phật đến thập phương thế giới. Trong một sát-na, toàn bộ kì tích đều hiển hiện ra. Tâm pháp vô thượng của lần thiền định đại thủ ấn này đã khiến cho những chúng sinh cầu phúc trực giác lĩnh ngộ được quang minh của Phật pháp.

🌟

Trực giác của Trần Tước Viên lĩnh ngộ được bản tâm của Thanh Trừ Tai Kim Cang, toàn thân hóa thành màu xanh, tay tạo thủ ấn Thanh Trừ Tai Kim Cang, dùng linh lực nhập vào trong tâm của những chúng sinh cầu phúc, khiến họ đạt được giác ngộ khởi linh, dùng sức mạnh tinh thần để khiến chúng sinh đắc được diệu trí huệ ngộ đạo.

Nữ sĩ Lý Hạnh Châu có mặt tại pháp hội đã cảm nhận được Phật lực bao trùm, khiến bà chắp tay cung kính kiền thành, tự động gập người lạy Phật tám lạy. Cả đời bà chưa từng cúi đầu tới sát chân để lạy như vậy. Nhưng linh lực của Phật Bồ Tát đã giáng lên thân thể bà, khiến đầu bà tự động cúi chạm mặt đất, đầu muốn ngẩng lên nhưng không thể ngẩng lên được. Với từng động tác chậm rãi, bà lạy Phật Bồ Tát một cách đầy chuẩn mực. Sau việc này bà kể với chúng tôi, đó là linh lực của Phật Bồ Tát giáng lên người bà, bà hoàn toàn bị động khi làm như vậy. Bà vô cùng vui sướng, cho rằng đây là kì tích.

Nữ sĩ Đồ Mãn Muội ở tại pháp hội đã cảm nhận được linh lực của Phật Bồ Tát đi vào trong tâm mình, hai tay bà tự động lạy Phật không ngừng. Cũng vì linh lực này mà toàn thân bà rung lắc liên hồi, những người nhìn thấy vậy đều tặc lưỡi kinh ngạc. Rất nhiều người chắp tay thầm cầu nguyện, Phật Bồ Tát liền nhập vào tâm họ. Chỉ trong một sát-na, ai nấy đều linh động, ai nấy đều khởi linh, ai nấy đều có cảm ứng. Pháp hội này thật sự là một pháp hội có cầu tất ứng, thật sự là một pháp hội có nhân duyên lớn.

🌟

Tôi hóa ra nước chú Đại Bi, vẩy lên từng y áo vật phẩm, có tai tiêu tai, có ách giải ách, ban phúc cát tường, trường thọ tăng ích. Lúc này, chư Phật Bồ Tát cùng phóng quang hòa quện, biến hóa thành một biển ánh sáng, quán đảnh cho từng người tham gia pháp hội và từng vật phẩm tượng trưng cho mỗi người tham gia. Những nguyện cầu của chúng sinh đều được Phật Bồ Tát lần lượt gia trì thành hiện thực. Người nào đang đau ốm thì đến ngày hôm sau đều khỏi.

Pháp hội lần đầu tiên được tổ chức tại tịnh xá Linh Tiên ở Tukwila nước Mỹ thật sự đã tạo ra liên tiếp kì tích. Linh quang của Phật Bồ Tát hiển hiện lại càng chỉ dẫn cho chúng ta thêm tín tâm độ chúng sinh trong tương lai, một tương lai chắc chắn, vô cùng, đầy tính quang minh.Một pháp hội thần tích khiến ai ai cũng đều có cảm ứng - đây là một khởi đầu cứu độ mới mẻ nhất, chân thực nhất mà xã hội phương Tây đã gặp được.

(Hết)

Mục lục