📗

046. Hành giả ở Seattle

image

Hành giả ở Seattle

🪷 Phép tắc sinh mệnh của huyền học

Văn tập: 046 Xuất bản: 08/1983 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Đạo của thần, ma, người là như nhau

Vào mùa xuân năm 1983, tôi đã thỉnh được "Pháp yếu tu trì đơn giản của pháp Chuẩn Đề" từ đại A Xà Lê Kim cương Phổ Phương, tông trưởng phái Mật Tông Tổng Trì Tự. Do tôi biết rằng, pháp Chuẩn Đề là pháp môn độc bộ của Mật Tông, cũng là một trong những Mật pháp thù thắng. Mật hiệu của Chuẩn Đề Phật Mẫu là Tối Thắng Kim Cang, còn gọi là Hàng Phục Kim Cang. Pháp này thù thắng trong mọi việc, không gì không như ý, có thể hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo, pháp này có công đức pháp lực vô biên, người tu có thể đạt được thân ánh sáng viên mãn.

Tôi tu Mật nhiều năm, được thầy truyền dạy nhiều loại Mật pháp, chuyên tu "con mắt thứ ba". Phật Thích Ca Mâu Ni trong thiền định của tôi đã xoa đỉnh thọ ký, công nhận tôi là Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh A Xà Lê Tôn Giả. Do đã minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử, tâm nhãn khai mở, nên tôi viết sách tâm linh để làm Phật sự độ đời.

Pháp Chuẩn Đề, tôi từng bảo người khác đi học, nhưng bản thân tôi lại chưa được thọ quán đảnh pháp Chuẩn Đề. Mãi đến mùa xuân năm 1983, nhờ cư sĩ Viên Dân ở Hồng Kông giới thiệu, tôi mới có được pháp bản "Pháp yếu tu trì đơn giản của pháp Chuẩn Đề" từ đại A Xà Lê Kim Cang Phổ Phương. Từ đó, tôi bắt đầu tinh tấn tu trì pháp Chuẩn Đề ở Seattle, Mỹ, và được thọ nhận những khai thị quý báu từ Thượng sư Phổ Phương.

Lần đầu tiên nhập thiền định, tôi đã thấy kim thân của Chuẩn Đề Bồ Tát hiện ra giữa hư không, ba mắt mười tám tay, thân màu vàng trắng, trang nghiêm với các chuỗi vòng ngọc, khoác thiên y màu trắng, ngồi trên tòa sen. Mười tám cánh tay của Ngài kết những ấn khác nhau, có tay kết ấn thí vô úy, có tay kết ấn thuyết pháp, các tay còn lại đều cầm pháp khí. Khi Chuẩn Đề Bồ Tát vừa hiện kim quang, trụ ở không trung đối diện tôi, nét mặt tươi cười, từ bi hiền hòa. Các tay kết ấn và cầm pháp khí, mười tám cánh tay đều phóng ra mười tám luồng hào quang, những luồng hào quang này chiếu rọi khắp thân tôi, tạo thành sự quán đảnh giao thoa.

Bỗng có tiếng trong không trung ngâm rằng: Thị hiện phổ khắp Chuẩn Đề tôn, Mật pháp thù thắng trang nghiêm thân; Liên Sinh tu trì chứng đạo này, Thuyết pháp vi diệu kim cang trân.

Lúc này, thiên nữ rải hoa khắp trời đất, hương thơm ngào ngạt lan tỏa khắp nơi, mùi hương thơm ngát thật là chưa từng có, thật chưa từng có. Tôi tu Mật pháp đã nhiều năm, nhưng lần đầu tiên tu pháp Chuẩn Đề đã có được hiện tượng như vậy, có thể thấy "công đức của pháp này thật lớn lao, chắc chắn sẽ đạt được vô thượng chính đẳng chính giác".

Ngay từ đầu cuốn sách này, tôi đã lấy việc tu pháp Chuẩn Đề làm một khởi đầu. Bởi vì đây là một chứng nghiệm lớn trong quá trình tu trì của tôi ở Seattle, Mỹ. Pháp Chuẩn Đề quả thật có cảnh giới phi phàm, như bài kệ tán thán pháp Chuẩn Đề của Bồ Tát Long Thụ: "Chuẩn Đề công đức tụ, tịch tĩnh tâm thường tụng, tất cả các đại nạn, không thể hại người này, trên trời và nhân gian, thọ phúc như Phật vậy, gặp được ngọc như ý, nhất định đắc vô thượng." Trong đó một câu "thọ phúc như Phật vậy", thật là vinh quang biết bao!

Mùa xuân nước Mỹ thực sự lại về trên Seattle, bầu trời một màu tím trắng, như ánh sáng thuần khiết vĩnh hằng lan tỏa khắp nơi, tôi ngước nhìn vịnh Seattle, biển xanh như tấm vải đang phất phơ nhẹ nhàng, màu núi xanh biếc, vô cùng xinh đẹp. Green Lake nằm ở phía Đông Bắc Seattle, khi mùa xuân về, những người Mỹ sống thoải mái đó đều tập trung về đây, chơi thuyền buồm, chèo thuyền, đủ kiểu người nằm trên bãi cỏ, tắm nắng ấm áp, trẻ em đung đưa xích đu, những nghệ sĩ đường phố cũng đến, họ đàn guitar, hát dân ca, lắc lư nhảy múa. Nam nữ già trẻ, tíu tít ra vào.

Vợ chồng học trò Trang Hoàng Du từ Đài Loan vừa qua Mỹ thăm tôi, tôi dẫn họ ra bờ hồ. Sau khi nhìn thấy cảnh tượng, họ có cảm khái: "Ôi! Cuộc sống của họ thật biết hưởng thụ quá, họ đang lãng phí thời gian. Còn người chúng ta thì có trách nhiệm, những việc chúng ta làm thì dài lâu và gấp gáp." Về sự nhàn nhã của người phương Tây, có thể nói họ đã mở rộng tầm mắt. Lúc đó tôi nghĩ: "Cùng sống trên một Trái đất mà lại có những phong tục sống khác biệt đến thế, cùng là con người mà lại phân chia màu da chủng tộc, cuộc đời này thật kỳ diệu làm sao!"

Tuy nhiên, tôi nhìn người phương Tây cũng là "người", nhìn người phương Đông cũng là "người". Tôi không phân biệt Đông Tây, bởi Phật pháp vốn bình đẳng không hai, huống chi "đạo của thần, ma, người là như nhau", vậy tại sao tôi phải chỉ độ người phương Đông mà loại trừ người phương Tây? Ở Mỹ, tôi cũng nhận học trò người Mỹ, người Mỹ cũng là con người, tôi thương họ không hiểu đạo lý "ngày tháng qua mau, mạng cũng giảm dần", nên tôi truyền pháp tu của mình cho họ, mong rằng Phật pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông ngoài việc dạy họ an thân, còn dạy họ an tâm. Thậm chí tôi muốn họ thành Phật, và họ đã trở thành những người theo tôi.

Danh tiếng của tôi đã lan rộng khắp nước Mỹ, người phương Tây tự động tìm đến tôi, mỗi ngày tôi làm việc rất bận rộn. Tuy người phương Tây và người phương Đông có màu da, chủng tộc khác nhau, nhưng năng lực mà Phật ban cho tôi lại giống nhau. Tôi không dùng chiêm tinh, cũng không dùng bất kì phương pháp xem tướng nào, nhưng đã khiến những người đến gặp tôi ai nấy đều kinh ngạc, thán phục. Thậm chí nhiều người phương Tây nói: "Chỉ cần một lời của Thượng sư Lư, con sẽ xuống tóc, theo Thượng sư đi tu." Phép tính toán thần kỳ của tôi đã khiến người phương Tây cảm động rơi lệ.

Người phương Tây là như vậy, họ cần nhìn thấy chứng cứ, tôi cho họ thấy thần tích, và thế là họ tin. Bất kể là mục sư Tin Lành hay linh mục Công giáo, thậm chí cả những người độc thần giáo cứng nhắc nhất, họ đều ngồi trên chiếu đất trong căn nhà nhỏ của tôi, lặng lẽ lắng nghe tôi thuyết pháp.

Người Tây Tạng có một câu: "Lạp đắc thụy mễ xảo nan kỳ ca." Câu này có nghĩa là "Đạo của thần, ma, người là như nhau." Đây là một câu nói rất chân thật, và bản thân tôi chính là người thể nghiệm sự thật của câu nói này.

Khi còn ở trong nước, có người cho rằng tôi là thần, bởi vì có "thần thông", cũng có pháp lực không thể nghĩ bàn, họ xem tôi là Phật, xem tôi là tiên trời tối cao. Nhưng tôi nói với mọi người rằng, tôi không phải vậy, tôi chỉ là một con người bình thường có xương có thịt, chỉ là tôi tu Phật pháp, biết được tất cả pháp môn vi diệu, thành tựu tất cả pháp lực, "diệu ứng dụng" và "diệu thành tựu" một cách tự nhiên vô vi mà thôi, điều này là hoàn toàn chân thật không hư dối.

Cũng có người nói tôi là "yêu ma quỷ quái", nói tôi là thiên ma giáng thế. Các tạp chí Phật giáo đăng bài liên tục, khi tôi đọc những tạp chí này, giống như đang đọc những bài viết "không liên quan đến mình" vậy. Họ nói thiên ma nhập vào thân tôi, khiến tôi vô tình có được pháp lực của thiên ma, và thiên ma đã giả danh Phật, khiến tôi tin sâu không nghi ngờ, cả đời làm tay sai cho thiên ma. Vị tác giả này có kiến thức Phật học không tồi, nhưng tôi cho rằng, tôi là người dùng lý trí để phân tích sự việc, bản thân tôi không bao giờ mê tín, dù là Phật hay ma, hễ xa rời "chân" và "thiện", tôi đều không tin. Đồng thời tôi kiên định giữ vững đàn thành "tín ngưỡng chân thiện" của mình, không bị mê hoặc. Cho nên khi vị đại thiện tri thức kia nói thiên ma nhập vào thân tôi, nếu quả thật như vậy, thì ma này cũng là hóa thân của Phật, có gì phải sợ.

Nói thật lòng, với tư cách là một đại thiên ma, tôi thực sự đã đạt được tự tại. Có lẽ có người sẽ nói đó chắc chắn là thiên ma của Đại Tự Tại Thiên, nhưng thực ra không phải vậy. Sự tự tại của tôi đã đạt đến trình độ "đạo của thần, ma, người là như nhau". Tôi có thể độ thần thành Phật, cũng có thể độ ma thành Phật, và càng có thể độ người thành Phật, đạo lý của nó không khác nhau; thần, ma và chúng sinh vốn là một, làm gì có ba? Giống như ngày nay, người phương Tây và người phương Đông, có gì khác biệt? Tất cả đều là con người, lẽ nào người phương Tây lại không thể tu hành thành Phật?

Trong mắt tôi, thần, ma và người đều có thể thành Phật, người phương Đông và người phương Tây đều có thể thành Phật. Nếu tu học đại pháp của tôi, tự nhiên sẽ thành Phật, không chút nghi ngờ. Nếu chỉ có tâm phân biệt, tâm phân chia cao thấp, tự mình giới hạn bản thân trong một phạm vi nhỏ hẹp, tự vẽ ra ranh giới, đến cả một Trái đất nhỏ bé cũng không thể vượt qua được, những người như vậy tự giam cầm chính mình, làm sao còn hy vọng thành Phật? Thật là ngu muội đến cực điểm.

Tôi nói: "Nếu người tu Phật pháp, thành tựu tất cả pháp, pháp pháp bình đẳng, ai ai cũng thành Phật." Thần tu Phật pháp, ma tu Phật pháp, cũng đều như vậy. Điều đáng ghét nhất là, tự cho mình là chính phái, phê phán người khác là ma, chỉ có mình mới là Phật, thật như tiếng chim khách kêu quạ gáy, ồn ào chết người.

Tôi nói với mọi người một chân lý: "Đạo của thần, ma và người là như nhau."

Tháng 8 năm 1983 tại Linh Tiên Các, Seattle, Hoa Kỳ

512 Strander Blvd. Tukwila, WA 98188 U.S.A.

Địa chỉ mới của Thượng sư: 17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 U. S. A.

01. Bí mật chuyển thế của Hoạt Phật

Giáo sư Mason dạy tại một trường đại học ở Anh (Malet St), cùng với họa sĩ Paug Yi và nhà điêu khắc Chung Hoành nổi tiếng người Canada, ba người họ cùng đến gặp tôi. Họ hỏi tôi một câu hỏi rất huyền bí, đó chính là bí mật về sự tái sinh của các vị Hoạt Phật Tây Tạng.

Giáo sư Mason đeo kính, mặc vest màu xám chuột, trông như một học giả già. Thái độ hoài nghi của ông là đúng đắn, nhưng cuối cùng, ông đã nở nụ cười thán phục trước tư tưởng học thuật của tôi, và rồi trở nên kính trọng tôi hết mực. Vị giáo sư cố chấp này cuối cùng đã từ bỏ thành kiến của mình.

Câu hỏi đầu tiên của Giáo sư Mason là tại sao chỉ có Tây Tạng mới có thuyết về sự tái sinh của các vị Hoạt Phật?

Tái sinh và đầu thai là hiện tượng tự nhiên của mỗi con người và mọi chúng sinh trong lục đạo, vì vậy thuyết tái sinh vốn là một hiện tượng huyền bí diễn ra trong vũ trụ tự nhiên, không có ngoại lệ nào.

Tuy nhiên, các vị Hoạt Phật Tây Tạng có nguyện lực độ hóa chúng sinh, người Tây Tạng tin rằng các ngài có thể tái sinh trở lại trần gian để hoàn thành những ước nguyện còn dang dở. Các vị Hoạt Phật là người tu trì Phật pháp, khi đã có được sức mạnh của sự tiến hóa và giác ngộ, các ngài có thể tự chủ được việc tái sinh đầu thai của mình, đây là lý thuyết chính và hiện tượng thực tế về thuyết tái sinh của các vị Hoạt Phật Tây Tạng.

Làm sao chứng minh được sự tái sinh và đầu thai bằng sự thật?

Khi một vị Hoạt Phật viên tịch mà chí nguyện chưa hoàn thành, các ngài đều có thể chỉ rõ kiếp sau sẽ sinh vào thời gian và địa điểm nào, những điềm báo nào sẽ xuất hiện. Thị giả của Hoạt Phật hoặc những bậc đại trí sẽ đi tìm đứa bé này. Đây là việc có thể tìm thấy dấu hiệu. Khi có được những dấu hiệu như vậy, họ sẽ trộn lẫn pháp khí của vị Hoạt Phật với các pháp khí khác để cho đứa bé nhận ra, thậm chí còn nhận ra cả thị giả kiếp trước. Chỉ khi xác nhận được những "dấu hiệu" này, đứa bé mới được công nhận là "hóa thân của vị Hoạt Phật".

Tại sao chỉ có các vị Hoạt Phật mới nhớ được tiền kiếp, còn chúng ta thì không?

Tôi nói, là một người nghiên cứu về tâm linh học, tôi biết rằng nhờ vào một loại tri thức siêu việt mà có thể biết được ký ức tiền kiếp. Thuyết luân hồi không phải là chuyện hoang đường. Ví dụ như có một vị Lama tái sinh ở châu Âu, vừa mới sinh ra đã nói tiếng Tây Tạng. Không ai ở châu Âu hiểu được đứa trẻ này nói gì, cuối cùng mới phát hiện ra đó là tiếng Tây Tạng. Hiện nay đứa trẻ này đang theo một vị Hoạt Phật tu đạo, đây là một bằng chứng rất tốt. Đứa trẻ sinh ra ở châu Âu, chưa từng học tiếng Tây Tạng mà lại biết ngôn ngữ của kiếp trước, đây chính là dấu hiệu của ký ức tiền kiếp trong luân hồi.

Chúng sinh thông thường không thể biết được việc của kiếp trước và kiếp sau, đó là vì họ chưa học được loại trí tuệ siêu việt này. Giai đoạn tiến hóa của người thường chỉ chú trọng vào đời này, phạm vi tâm linh bị giới hạn trong kiếp này, không thể bước vào "không gian thứ tư", "không gian thứ năm" hay thậm chí không gian đa chiều. Đó là vì chúng sinh phàm phu sống trong thế giới vật chất với tâm ý xao động, quên đi việc tu tập tâm linh, nên tự nhiên không thể hiểu được việc của kiếp trước.

Câu trả lời này rất đơn giản: Hoạt Phật suốt đời không theo đuổi sự an nhàn của thể xác, mà chỉ chuyên tâm tu tập tâm linh. Khi đã có được trải nghiệm tâm linh sâu sắc, tự nhiên sẽ vượt lên trên chúng sinh phàm phu thông thường.

Tại sao không để cho tất cả chúng sinh đều có ký ức tiền kiếp?

Đây không phải là vấn đề linh mệnh của vũ trụ, mà là vấn đề nhân quả nhân duyên của chúng sinh. Ký ức tiền kiếp chính là túc mệnh thông trong sáu thần thông, không tu tập thì tự nhiên không thể có được. Trong chúng sinh, chỉ có số ít người được tu tập pháp này mới có ký ức tiền kiếp, đây là do tu tập mà có được, không liên quan đến linh mệnh của vũ trụ.

Ông có biết hiện nay có những vị nào là Hoạt Phật tái sinh trong vũ trụ linh mệnh không?

Tôi nói với họ rằng tôi biết tất cả. Tôi lấy ví dụ về phái Karma Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Kể từ thời nhà Tống, đại thành tựu giả Tilopa từ Ấn Độ đã truyền xuống "Thiền định Đại thủ ấn vô thượng tâm pháp", trải qua các vị tôn giả Naropa, Marpa, Milarepa, Gampopa, từ vị Đại Tích Đỗ Ba tôn giả đời thứ nhất truyền đến tôn giả Pema Tönyö Nyinje đời thứ mười hai. Tôi nói rằng đây chính là dòng truyền thừa của các vị Hoạt Phật, đây là dòng truyền thừa Hoạt Phật của phái Karma Kagyu.

Một dòng truyền thừa Hoạt Phật khác của phái này là Đại Bảo Pháp Vương (Karmapa), đã truyền đến đời thứ 17. Thân phận Hoạt Phật của các ngài thường được xác định qua việc công nhận lẫn nhau. Ví dụ như thân phận tái sinh của đại tôn giả Đại Tích Đỗ Ba đời thứ 12 được Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 16 xác định. Còn Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 16 được đại tôn giả Đại Tích Đỗ Ba đời thứ 11 xác định thân phận.

Ngoài ra, phương pháp xác định sự tái sinh của các vị Hoạt Phật trong các phái Hồng giáo, Bạch giáo, Hoàng giáo và Hoa giáo của Tây Tạng phần lớn đều như vậy.

Mật tông Hắc giáo là gì? Hắc giáo có Hoạt Phật không?

Hắc giáo vốn có tên là Bon giáo, là tôn giáo nguyên thủy thờ thần bò của Tây Tạng trước khi Mật tông truyền vào. Đây là một nhánh tà giáo và là tín ngưỡng mê tín của các bộ tộc nguyên thủy. Hắc giáo không phải là Mật tông, vì vậy trong hệ thống chính thống của Mật tông không có tên gọi Hắc giáo.

Người hiện đang cổ xúy cho Hắc giáo là Lâm Vân. Hoạt Phật phải có dòng truyền thừa và cần được thẩm định, tất cả những điều này Hắc giáo đều không có. Lâm Vân, do nghiên cứu Hắc giáo và thấy có cơ hội, đã tự xưng là người truyền thừa duy nhất của Mật tông Hắc giáo. Khi người khác hỏi ông ta có phải là Hoạt Phật tái sinh hay không, ông ta tỏ vẻ bí ẩn, tự nói rằng trên ngực có một nốt ruồi, không dám thừa nhận cũng không phủ nhận, tương đương với việc mặc nhiên công nhận. Điều này dễ khiến người ngoài hiểu lầm rằng Mật tông có một phái Hắc giáo, và hiểu lầm Lâm Vân là một vị Hoạt Phật tái sinh. Người này không có pháp thống truyền thừa của Mật tông, một lòng một dạ theo đuổi tà giáo nguyên thủy, tự nhận là người truyền thừa duy nhất của Hắc giáo, chỉ là lừa gạt thế nhân mà thôi.

Khi tôi 32 tuổi, tôi cũng đã từng nghiên cứu về pháp thuật của Hắc giáo, vì vậy trên đời này, những người có thể phá giải được pháp thuật Hắc giáo có lẽ không còn nhiều, và tôi là một trong số đó. Tôi cười và nói với họ rằng, Lâm Vân nói ông ta có một nốt ruồi ở ngực, nhưng tôi có đến ba nốt ruồi ở ngực, nhiều hơn Lâm Vân hai nốt, tôi là anh cả, còn ông ta là em út. Mọi người nghe tôi nói xong đều phá lên cười.

Tiên sinh tự biết mình là hóa thân của Liên Hoa Đồng Tử, không biết có bằng chứng gì không?

Bất kì bậc tiên tri tiên giác nào cũng phải có trí tuệ và dấu hiệu siêu phàm của riêng mình. Tôi biết được nhân quả kiếp trước, được ghi chép trong quyển sách tâm linh đầu tiên, trong đó có sự chứng kiến của bà Lâm Thiên Đại người đã khai ngộ cho tôi và bà có biệt danh là A Nha, đây là những chứng cứ rất tốt, còn có ông Lý Thiên Tứ cũng có mặt lúc đó. Đây là những người làm chứng cho dấu hiệu này, hiện nay cả ba người đều còn sống.

Ngoài ra, khi về nhà, tôi nằm trên giường vào ban đêm, trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, đã tận mắt chứng kiến cảnh giới tiền kiếp, tai tôi trực tiếp nghe được sự chỉ dạy của Phật, điều này cũng được ghi chép trong quyển sách tâm linh đầu tiên "Mạn đàm linh cơ thần toán". Tôi có những người làm chứng cho việc tận mắt thấy "dấu hiệu", cũng như có sự thật về việc thông linh và trực kiến. Thế rồi, việc viết sách tâm linh cho đến nay đã được bốn mươi sáu quyển, tất cả đều chứng minh một trí huệ chưa từng có.

Tôi nói rằng dấu hiệu và trí huệ chính là bằng chứng. Mỗi vị Hoạt Phật tái sinh đều có dấu hiệu và trí huệ để chứng minh, không phải là điều hư vọng bịa đặt, điểm này vô cùng vô cùng quan trọng.

Giáo sư Mason, họa sĩ Paug Yi và nhà điêu khắc Chung Hoành rất hài lòng với lời giải thích của tôi, họ cho rằng đây là cuộc gặp gỡ hiếm có trong đời. Paug Yi hiện đang tu tập thiền định, vốn là học trò của giáo sư Nam Hoài Cẩn, mẹ cô ấy chính là dân biểu Dương Bảo Lâm.

Cảnh giới của Liên Hoa Đồng Tử chính là mười tám đóa sen tuyệt đẹp trong Ma Ha Song Liên Trì, cảnh giới này vốn được hóa hiện từ linh quang của Phật Tổ, là cảnh giới bất thoái chuyển. Phàm phu thế tục làm sao có thể hiểu được sự siêu việt phi thường của cảnh giới này! Tri thức của thế giới phàm tục làm sao có thể vượt qua được trí huệ của cảnh giới này! Không trách được phàm phu thế tục chỉ biết luân hồi chuyển thế trong lục đạo, mãi mãi trôi nổi chìm đắm, không có ngày xuất thế.

02. Chân tướng của Bất Động Minh Vương

Trong thời gian ở Seattle này, tư duy và sự tiến bộ của tôi thật đáng kinh ngạc. Nhờ cuộc sống yên bình và có quy củ mà tư duy của tôi trở nên nhạy bén hơn, tôi có thể tập trung "tiêu điểm" để khám phá những cảnh giới vô hình, rộng mở và rõ ràng hơn so với khi còn ở trong nước. Tôi đã thu thập được một số bí mật lớn thuộc về thiên cơ, và sẽ lần lượt trình bày trong những tác phẩm sau này.

Gia đình họ Hồng sống ở Bellevue đã mời tôi đến nhà thuyết pháp. Ngôi nhà của họ được xây dựng sau một sườn đồi, có bãi cỏ xanh rộng rãi, mái ngói đỏ tường trắng, trông rất tươi sáng đẹp đẽ. Phòng khách được bài trí gọn gàng và trang nhã, có một tủ gỗ cao cấp đặt ở góc tường, chủ nhà rất chú trọng đến màu sắc và ánh sáng, có đèn bàn và những chiếc đèn treo lộng lẫy, đây quả là một gia đình vừa cao thượng vừa mang khí chất phú quý.

Tôi ngồi trên một chiếc ghế sofa lớn, vừa uống xong chén trà thơm. Tôi thấy ở cửa chính có một làn sương mờ, nó từ từ quấn quanh và di chuyển về phía phòng khách. Thị giác của tôi đã thay đổi, khi tôi quan sát kĩ càng, tôi nhận ra rằng làn sương mờ này thực ra không phải là sương mờ, mà là những tia lửa đỏ và ngọn lửa đang cháy. Tôi không hề sợ hãi, tôi tập trung dùng "con mắt thứ ba" để nhìn kỹ hơn, và thấy rằng trong ngọn lửa có hình tượng của một vị thần.

Vị thần này có mái tóc xoăn màu đỏ rực, đôi mắt lồi ra đầy phẫn nộ, mặt tròn, miệng rất to, răng nanh bên phải nhọn hoắt chĩa xuống dưới, răng nanh bên trái nhọn hoắt chĩa lên trên, tay phải cầm một thanh kiếm chĩa mũi lên trời, tay trái xòe năm ngón đẩy về phía trước. Từ đỉnh đầu, hai mắt, hai tai, miệng, lỗ mũi và khắp các lỗ chân lông trên cơ thể đều phun ra ngọn lửa màu đỏ rực, trông giống như một người đang bốc cháy vậy. Sau đó, vị thần này dần dần di chuyển trong phòng khách, đến trước tủ gỗ lớn thì biến mất.

"Ông Hồng, nhà có điện thờ Phật không?" - Tôi hỏi. "Không, trước đây ở Đài Loan thì có, từ khi qua Mỹ, tuy có ý định lập một điện thờ Phật, nhưng cứ trì hoãn mãi đến giờ, vẫn chưa thờ Phật, đối với một đệ tử Phật là điều rất thất lễ." "Nhưng mà, trong nhà ông có một vị thần đang hiện diện, ông có biết không?" "Không, tôi có thờ cúng gì đâu, sao lại có thần?" - Ông Hồng giật mình kinh ngạc.

Tôi kể lại tất cả những gì mình vừa thấy khi bước vào phòng khách cho ông Hồng nghe. Ban đầu ông Hồng tỏ ra vô cùng kinh ngạc, sau đó lắc đầu với vẻ mặt hoang mang. Ông gọi bà Hồng đến và kể lại sự việc, bà Hồng cũng tỏ ra bối rối và hoang mang không kém, không hiểu được những điều tôi đang nói.

Nhìn thấy chủ nhà như vậy, trong lòng tôi cũng không khỏi nghi hoặc, phải chăng chính mình đã nhìn nhầm? Không thể nào, đặc biệt là những gì tôi vừa thấy, không chỉ đơn thuần là ảo giác mờ nhạt, mà là sự thấy biết chân thật. Rõ ràng là thần đạo vì sự có mặt của tôi mà cố ý hiện hình cho tôi thấy. Khi thần đạo muốn hiện hình cho ta thấy, dù họ sử dụng phương thức nào, nguyên lý vẫn luôn như nhau. "Ông bà có thể nghĩ kĩ lại xem?" "Không có, thật sự là không có."

Đến lúc này, tôi cũng không biết phải làm sao. Đúng lúc đó, con trai cả của ông Hồng từ ngoài trở về, ông Hồng lại kể chuyện này cho con trai mình là Hồng Minh Lượng nghe. Hồng Minh Lượng là sinh viên tốt nghiệp Đại học Stanford, vừa nghe xong liền nói: "À, có rồi, năm ngoái khi đi qua Tokyo Nhật Bản, tôi có đến chùa Quan Âm ở Asakusa để tham quan lễ bái, tiện thể ghé các sạp hàng gần đó mua về một tượng thần, chưa mở ra, cứ nhét trong ngăn kéo của tủ gỗ lớn."

Hồng Minh Lượng mở tủ gỗ lớn ra, mở cửa ngăn kéo, lấy ra một hộp giấy, kích thước khoảng sáu tấc, mở nắp hộp ra, cả bốn người cùng nhìn vào bên trong, đó chính là một tượng thần Kim Cang Bất Động Minh Vương mạ vàng, tay cầm kiếm, toàn thân phun lửa phẫn nộ.

Ông bà Hồng sáng mắt lên, lập tức vô cùng xúc động, vô cùng khâm phục con mắt thứ ba của tôi. Tuy nhiên, tôi chỉ nói rằng đây là chuyện rất bình thường thôi. Bởi vì đối với tôi, những chuyện liên quan đến việc nhìn thấy linh khí như thế này nhiều không đếm xuể, bản thân tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên. Tôi nói với họ rằng Bất Động Minh Vương không phải là thần của Nhật Bản, mà là một trong Bát Đại Minh Vương của Kim cương thừa Mật tông, chỉ là vì Đông mật của Nhật Bản phát triển mạnh hơn và thờ phụng nhiều hơn. Ở Nhật Bản có hàng trăm đạo tràng Đông mật, trong đó có rất nhiều đạo tràng thờ phụng Bất Động Minh Vương Kim Cang Hộ Pháp. Sau khi nghe tôi nói xong, ông bà Hồng quyết định thờ phụng Bất Động Minh Vương Kim Cang Hộ Pháp Thần.

Tôi nói với gia đình ông Hồng rằng, hôm nay tôi đến Mỹ để truyền bá Mật pháp Đại thừa trực chỉ nhân tâm, bao gồm đại pháp tọa thiền thông minh để kiến tính thành Phật, cùng tất cả tâm ấn bí mật của chư Phật, từ phương Đông truyền sang phương Tây, giúp người phương Tây hiểu được chân tướng Phật pháp, nâng cao phúc âm thiên quốc của họ lên một tầng nữa để thành tựu tự tính thành Phật, là tự mình chấm dứt sinh tử, chứ không phải nhờ vào ơn Chúa cứu độ. Pháp của tôi là đại pháp thuần túy, là chính pháp nhãn tạng. Chính vì là chính pháp nhãn tạng nên người đời theo đạo thế tục khó có thể thấu hiểu. Con người thời đại này căn cơ nông cạn, việc tôi đến Mỹ là để truyền pháp từ Đông sang Tây, lưu lại đại pháp này trong thế giới phương Tây, chỉ e rằng đại pháp thất truyền mà thôi.

Khi tôi còn ở Đài Loan, tôi có rất nhiều pháp sư đồng tu, cũng như những đệ tử hiện đang quy y dưới môn phái của tôi. Với khả năng của mình, tôi có thể nhìn thấy linh khí dao động trên thân thể họ. Tôi biết rất nhiều pháp sư vô cùng đố kỵ và hoàn toàn ghét bỏ, bài xích tôi. Tuy nhiên, cũng có nhiều pháp sư sinh lòng kính ngưỡng đối với tôi. Họ chia thành hai phe: một phe thực sự hiểu biết về tôi, biết được năng lực của tôi và thân cận với tôi; phe còn lại không hiểu về tôi, nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ và đố kỵ với danh tiếng của tôi. Đệ tử của tôi cũng vậy, rất nhiều người quy y theo tôi không phải vì mong muốn đạt được "pháp tọa thiền thông minh" hay "minh tâm kiến tính", mà là hy vọng tôi có thể ban cho họ tài lộc và địa vị. Những đệ tử thế tục như vậy cũng rất nhiều, họ mong tôi chỉ dạy cách làm giàu, để có được cuộc sống sung túc và hưởng thụ tốt hơn. Họ bỏ gốc theo ngọn mà đi theo tôi, đối với đại pháp chấm dứt sinh tử chân chính lại tỏ ra thờ ơ.

Tất nhiên, những đệ tử ham cầu danh lợi này, tôi cũng có thể nhìn ra được họ hoàn toàn không có "linh khí", họ sẽ từng bước từng bước đi vào bóng tối và rời bỏ tôi. Trên danh nghĩa là đệ tử của tôi, nhưng thực chất là những kẻ hèn hạ đê tiện cùng cực. Tôi thường dùng con mắt tâm linh để quan sát học trò của mình, nhìn xem "linh khí" quanh thân họ, những sắc màu biến hóa đó, điều này rất thú vị. Rõ ràng là đệ tử này đang nói dối trước mặt tôi, tuy tôi vẫn mỉm cười nhìn họ, nhưng trong lòng lại thở than: "Anh thật đáng thương, thật sự quá đáng thương."

Tôi nói với gia đình ông Hồng rằng, mỗi người đều có Phật tính, mỗi người đều có vị Bổn tôn để tu trì của riêng mình. Chỉ cần thực sự có thể tu trì pháp Bổn tôn của mình, tinh tấn không ngừng theo chính pháp, tự nhiên tâm tục và dục vọng sẽ dần dần giảm đi cho đến khi không còn, lúc đó sẽ phát sinh được năng lực đặc biệt này. Năng lực này có thể giúp đỡ người khác, đạt đến chính đạo, chứ không phải mượn năng lực này để tham cầu cúng dường.

Các đệ tử và pháp sư trong nước làm sao biết được rằng tôi có thể nhìn thấy tất cả thiên cung, có thể thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc, có thể thấy thế giới Đông Phương Lưu Ly Quang, có thể thấy Ma Ha Song Liên Trì, tôi sớm đã có thiên nhãn thông, thậm chí tất cả thần quỷ đi trên mặt đất, tôi đều nhìn thấy được. Tôi cũng nhìn thấy hào quang trên thân của nhiều pháp sư, có người là danh xứng với thực, nhưng cũng có người mang nhiều vết nhơ. Tôi nghĩ, bản thân họ đã có những hành vi ô uế, chắc họ phải tự hiểu được điều đó, tôi không muốn viết ra pháp hiệu tu hành của họ, trừ phi là tình trạng thực sự quá tệ, lúc đó tôi mới không ngừng đưa ra những lời cảnh báo, với hy vọng họ sẽ thực sự đi theo chính đạo.

"Chúng tôi phải cung kính thờ cúng Bất Động Minh Vương như thế nào?" "Hãy trì chú một cách thành kính và tinh tấn, tự nhiên ngồi tĩnh tọa, chuyển động tâm luân, hợp nhất với thiên tâm. Bất Động Minh Vương tôn giả này chắc chắn sẽ phóng ra ánh sáng ngọn lửa màu đỏ chiếu định các bạn, tất cả nghiệp chướng của các bạn sẽ bị thiêu đốt và tiêu tan, Ngài sẽ hộ trì người cúng dường cho đến khi thành Phật. Nếu các bạn theo bước chân của tôi, đến một ngày nào đó, khi tâm nhãn các bạn khai mở, tự nhiên sẽ nhìn thấy được hào quang trắng toàn thân của tôi."

03. Đại sư đã chết

Mở đầu bài viết này, trước tiên xin kể một giai thoại của ngày xưa.

Vào thời Tống Thần Tông tại vị, có một vị danh nho họ Tô tên Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ, người Mễ Sơn, Mễ Châu, Tứ Xuyên. Sau khi một bước thành danh thiên hạ đều biết tiếng, ông được phong làm Hàn Lâm Học Sĩ, dưới trướng của Tể Tướng Kinh Công Vương An Thạch. Cư sĩ Đông Pha thiên tư cao, xem qua là nhớ, xuất khẩu thành chương, trong số các danh sĩ qua các đời, ông có phong thái thoát tục của Lý Thái Bạch, lại có sự mẫn tiệp thông tuệ, phản ứng nhanh nhạy của Tào Tử Kiến.

Có người khen ngợi Tô Đông Pha rằng: "Ngâm thơ viết phú việc nào cũng thông, đùa vui đoán đố chuyện gì cũng rành, nếu chẳng phải Khổng Tử tái thế, ắt hẳn là Nhan Tử đầu thai." Có thể thấy được tài hoa của con người ấy.

Tô Đông Pha có một người bạn trong giới Phật giáo là Thiền sư Phật Ấn, thực ra tài năng của Thiền sư Phật Ấn còn phi phàm hơn nữa. Có một giai thoại như thế này:

Cư sĩ Đông Pha và Thiền sư Phật Ấn ngồi thiền đối diện nhau. Sau một lúc tĩnh tọa, Cư sĩ Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:

"Tôi ngồi thiền như thế nào?" "Tuyệt lắm, vô cùng trang nghiêm, giống như Phật Tổ ngồi thiền vậy." - Thiền sư Phật Ấn khen ngợi Tô Đông Pha. Tô Đông Pha vừa vui mừng vừa phấn khích.

Thiền sư Phật Ấn hỏi lại Tô Đông Pha: "Vậy tôi ngồi thiền như thế nào?" "Giống như một đống phân trâu vậy." - Tô Đông Pha cố ý chế giễu Thiền sư Phật Ấn.

Tuy nhiên, sau khi nghe lời của Tô Đông Pha, Thiền sư Phật Ấn không hề tức giận, ngược lại còn mỉm cười nhẹ nhàng và cúi đầu cảm ơn Tô Đông Pha sâu sắc. Sau đó, Tô Đông Pha đi khắp nơi kể lại chuyện mình đã chọc ghẹo được Thiền sư Phật Ấn. Khi tin này đến tai em gái của Tô Đông Pha, cô ấy nói với cư sĩ Đông Pha rằng: "Huynh đã thua rồi, Thiền sư Phật Ấn mới là người thắng cuộc."

Tô Đông Pha không hiểu, vội vàng hỏi tại sao? "Thiền sư Phật Ấn khi ngồi thiền nhìn huynh như Phật, đó là vì trong tâm Thiền sư có Phật, nên thấy huynh ngồi thiền như Phật ngồi thiền. Còn huynh khi ngồi thiền, thấy Thiền sư như đống phân trâu, đó là vì trong tâm huynh có đống phân trâu, nên nhìn Thiền sư thành phân trâu. Như vậy không phải là thua rồi sao?"

Lần này, ngược lại chính cư sĩ Đông Pha cảm thấy vô cùng xấu hổ, không còn mặt mũi nào, muốn độn thổ cho xong.

Cư sĩ Tô Đông Pha vốn là một Phật tử thông thạo Phật pháp, được hun đúc bởi Phật pháp, điều này thể hiện rõ qua những bài văn có phong cách siêu thoát của ông. Tuy nhiên, Thiền sư Phật Ấn còn là một bậc cao tăng với đức hạnh và học vấn đều xuất chúng. Cư sĩ Đông Pha chỉ nghiên cứu Phật pháp mà chưa thực hành, trong khi Thiền sư Phật Ấn không chỉ thấu hiểu Phật pháp mà còn đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày, tự nhiên cao siêu hơn cư sĩ Đông Pha một bậc.

Tiêu đề của bài này là "Đại sư đã chết". Vậy vị đại sư này là ai? Tôi nói đó chính là "tôi", bởi vì hôm nay tôi nhận được một cuộc điện thoại đường dài, người đó nói với tôi rằng: "Sau khi nghe quá nhiều lời phỉ báng, con nghĩ rằng Đại sư Lư Thắng Ngạn đã chết rồi, hình tượng Đại sư Lư Thắng Ngạn trong lòng con đã vỡ tan, đã chết rồi."

Tôi lặng lẽ nghe cuộc điện thoại đó, rồi giống như Thiền sư Phật Ấn, tôi cảm ơn người đó.

Bởi vì tâm của người đó đã chết. Do tâm đã chết nên "Đại sư đã chết".

Tôi đã chết chưa? Đã biến mất khỏi trái đất chưa? Một vị đại sư thâm nhập Mật pháp đã chết rồi sao? Thật là: ”Thái thượng nhân gian mây nước xa xăm Tiên đồng tiên nữ xếp hàng nghênh đón Mây tía cờ lọng cưỡi mây bay đi Rời xa nhân gian đến chín tầng trời Bốn biển ngợi khen âm thanh chúc tụng Ngũ Nhạc cùng than núi rừng thương xót Từ nay nhân gian mất một kì tài Đi hết Tam giáo trở về chốn xưa.”

Kể từ khi tôi rời khỏi đất nước, tin đồn bắt đầu lan truyền:

Ngài Tam Sơn Cửu Hầu đã bị thượng thiên trừng phạt, linh thần của Ngài đã bị phân tán dần cho đến khi hoàn toàn diệt vong. Từ đó, danh hiệu Tam Sơn Cửu Hầu vĩnh viễn biến mất, không còn xuất hiện trong nhân gian nữa. Điều tôi muốn nói với độc giả là, Tam Sơn Cửu Hầu chính là danh hiệu của một vị Đại La Kim Tiên tối cổ tối cao. Trên thế gian này (chỉ cõi người), chưa từng có ai biết được chân diện mục thật sự của Ngài. Tôi cũng xin thành thật thưa với chúng sinh khắp thiên hạ rằng, trên thế gian này, chỉ có một người biết được lai lịch của Tam Sơn Cửu Hầu, người đó chính là Lư Thắng Ngạn. Nếu tôi tiết lộ lai lịch của Tam Sơn Cửu Hầu, chắc chắn sẽ gây chấn động lớn cho chúng sinh trong lục đạo trên trời dưới đất, tất cả người trong giới Phật đạo đều sẽ kinh hãi thất sắc. Thử nghĩ xem, đây không phải là tôi cố ý làm ra vẻ huyền bí, tôi đảm bảo không chỉ kinh ngạc, mà còn khiến nhiều người ngất xỉu. Tôi xin nói một câu thật lòng nhất, nếu Tam Sơn Cửu Hầu thực sự bị trừng phạt, thì tất cả các cõi trời đều sẽ không còn tồn tại, ngay cả ngai vàng của Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn cũng sẽ sụp đổ tan tành, bởi vì Tam Sơn Cửu Hầu là pháp của các pháp, vua trong các vua, đã đắc vô thượng chính đẳng chính giác và không còn chịu luân hồi nữa.

Tôi chỉ muốn nói rằng, Tam Sơn Cửu Hầu là một vị Đại La Kim Tiên chưa từng lộ diện, còn cao cấp hơn cả Ngũ Lão của Đạo giáo là Đông Hoa Đế Quân, Diêu Trì Kim Mẫu, Thủy Đức Chân Quân, Hỏa Đức Chân Quân và Hoàng Lão - năm vị thần của ngũ phương ngũ khí. Tôi chỉ nói ví dụ như vậy thôi. Còn về diện mạo thật, không cần phải nói, không thể nói được. Nếu nói ra, tất cả người trong giới Phật đạo sẽ kinh hoàng đến ngất xỉu, tôi sẽ phải chịu tội tiết lộ thiên cơ.

Nhiều người đồn đại rằng sự diệt vong của Tam Sơn Cửu Hầu có liên quan đến Lư Thắng Ngạn. Thậm chí có người còn nói rằng, ngay cả Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn cũng vì đã dạy dỗ tên đồ đệ nghiệt súc Lư Thắng Ngạn này mà phạm phải thiên điều, hiện giờ bị giam cầm, ngày ngày khóc lóc thảm thiết; Lư Thắng Ngạn, tên đồ đệ nghiệt súc này, đã khiến Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn bị giam trong thiên lao, nên tội ác của Lư Thắng Ngạn thật là tày trời.

Lời đồn này còn hoang đường hơn nữa. Phải biết rằng Diêu Trì Tây Vương Mẫu, vì ngự ở phương Tây nên còn được tôn xưng là Diêu Trì Kim Mẫu, bởi phương Tây thuộc Kim. Vị Tây Vương Kim Mẫu Thiên Tôn này là một trong năm linh khí của trời đất, là một trong Ngũ Lão của Đạo giáo, địa vị vô cùng tôn quý, ngay cả tiểu thần tiểu tiên muốn diện kiến chân dung của Ngài cũng rất khó khăn. Hai chữ "Kim Mẫu" có ý nghĩa là Kim Cương Phật Mẫu, là vị Đại Thiên Tôn cứu độ chúng sinh trong lục đạo, là bậc tôn quý nhất trong các tiên. Tất cả các pháp, tất cả tiên thần, đều do Kim Cương Phật Mẫu phong tấn, Ngài là bậc Đại Thiên Tôn thanh tịnh minh giác. Thẳng thắn mà nói, ngay cả Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn đối với Ngũ Lão còn phải kính trọng ngang hàng, làm sao linh khí của Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn lại có thể bị giam trong thiên lao? Hơn nữa, như tôi đã nói, Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn vốn là chân khí của phương Tây, bản lai diện mục của Ngài vốn vô hình vô tướng, muốn bắt cũng không bắt được, muốn giam cũng không giam được, xin hỏi làm sao có thể giam trong thiên lao? Ai có thể giam được Ngài?

Có người nói rằng Đại sư Lư Thắng Ngạn đã chết, ông ấy cũng đã phạm thiên điều. Thôi được, đây đúng là nói bậy. Hiện nay tôi đang thiết lập đạo tràng Linh Tiên Tinh Xá tại Hoa Kỳ, sách và pháp bản được giáo sư Đại học Washington giảng giải, đệ tử người Mỹ Karin D. Sreenway chấp bút phiên dịch, có rất nhiều người Mỹ đến quy y. Tôi luôn dùng bình đẳng quán để độ chúng sinh, Linh Tiên Chân Phật Tông là tông phái mang tính toàn cầu, không chỉ giới hạn trong một đảo quốc mà thôi, pháp độ sinh của tôi sẽ hoằng dương khắp thế giới, khiến đại pháp độ tận thiên hạ, đây là ý chỉ của chư Phật Bồ Tát, cũng là ý chỉ của tôi. Đương nhiên, trong tương lai tôi vẫn sẽ về nước, trở về nơi đã nuôi dưỡng tôi khôn lớn, đây chính là "lá rụng về cội".

Ở nước ngoài, tôi nào biết hưởng phúc là gì? Tất cả mọi việc đều vì hoằng dương Phật pháp, hằng ngày tĩnh tọa thiền công, tiếp nhận linh quang gia trì của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và chư Phật Bồ Tát, mỗi ngày viết tâm đắc, chỉ dạy người Mỹ cách lễ Phật tu pháp.

Cuộc sống của tôi ở đây rất cần kiệm, vừa phải viết sách, vừa phải hồi âm thư từ, lại còn phải trả lời thư quy y từ xa (do người trong nước gửi thư xin quy y), tôi bận rộn hàng ngày, người quy y càng nhiều, tôi càng bận, nhưng công khóa tu trì thì không hề quên, một lòng một dạ nỗ lực tinh tấn. Gần đây có lời mời từ châu Âu, lại phải sang châu Âu giảng dạy, làm như vậy mà cũng phạm thiên điều, không biết đã phạm điều mấy chương mấy? Có thể chỉ rõ hơn không? Để tôi tự động lên trời trình diện.

Đại sư Lư Thắng Ngạn đã chết rồi sao? Tôi xin thành thật nói với độc giả rằng, tôi đã tu thành "cầu vồng bất diệt", sẽ tái sinh, sẽ trở lại, vĩnh viễn bất tử.

04. Lời tiên tri cho giới tự nhiên

Có một nhà chiêm tinh đăng quảng cáo lớn trên báo, ông tiên đoán rằng Tổng thống Reagan của Mỹ sẽ vẫn nắm chắc chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984. Ông còn nói rằng với khả năng quan sát khí của mình, trước đây khí của Tổng thống Reagan không ổn định, nhưng hiện tại đang tỏa sáng rực rỡ. Đồng thời, ông cũng tiết lộ rằng mình đã biết trước về vụ ám sát nhằm vào Reagan. Nhà chiêm tinh này còn nói thêm, nếu khí của Tổng thống Reagan không thay đổi giữa chừng thì chắc chắn sẽ đắc cử, nhưng nếu có thay đổi thì mọi chuyện chưa thể nói trước. Tin hay không tùy bạn.

Đọc tin tức này, tôi thấy những kẻ giang hồ mê tín loại này chuyên dùng trò bịp bợm để lừa người, vừa muốn danh vừa muốn lợi, lại một lần nữa lừa gạt độc giả, thật là đáng ghét tột cùng.

Trước thì nói Tổng thống Reagan chắc chắn sẽ đăng quang trong cuộc bầu cử năm 1984, sau lại nói nếu khí có thay đổi thì chưa chắc đắc cử. Xin hỏi độc giả, vị thầy chiêm tinh này đang nói những gì vậy? Có phải là say rượu nên nói những lời điên khùng, lúc nói này lúc nói nọ. Dù đắc cử hay không đắc cử thì ông ta cũng đều nói trúng. Vị thầy chiêm tinh này là ai, tôi không cần nói, độc giả cũng biết là ai, vẫn là cái bộ dạng ấy thôi.

Bản thân tôi chẳng hề quan tâm ai sẽ làm tổng thống. Cho dù Tổng thống Reagan có đích thân đến thăm tôi, như tôi đã nói, tôi chưa chắc đã tiếp kiến ông ấy, tại sao vậy? Lý do rất đơn giản, tôi xem Tổng thống Reagan là người đáng thương nhất trên đời. Ông ấy phải sắp xếp gặp gỡ các nhân vật quan trọng của các nước, sắp xếp phát biểu trên truyền hình, sắp xếp ngân sách, sắp xếp vận động cho cuộc bầu cử tiếp theo, sắp xếp nhân sự, sắp xếp tình hình thế giới. Xung quanh ông ấy luôn có nhân viên an ninh, vì những người tâm thần muốn tính sổ với ông ấy, người thất nghiệp muốn tính sổ với ông ấy, những người bị cắt giảm ngân sách muốn tính sổ với ông ấy, trước Nhà Trắng thường xuyên có người biểu tình. Còn nữa... v.v…, một người mất đi cả thời gian và tự do như vậy chính là người đáng thương bậc nhất thiên hạ. Vì thế, tôi không tiên đoán ai sẽ làm tổng thống.

Chỉ có một lần là ngoại lệ, đó là do mối quan hệ của bố tôi. Thân phụ tôi là ông Lư Nhĩ Thuận, khi phục vụ trong Hải quân Tả Doanh, có một sĩ quan Nhật Bản là ngài Nakasone Yasuhiro làm cấp trên trực tiếp của bố tôi. Hai người rất thân thiết với nhau và trở thành bạn thân nhiều năm. Sau đó, ngài Nakasone Yasuhiro trở về Nhật Bản phát triển sự nghiệp chính trị, lần lượt giữ các chức vụ quan trọng như Trưởng Cơ quan Phòng vệ, Bộ trưởng Công Thương, Tổng Thư ký đảng Dân chủ Tự do và nhiều chức vụ khác. Cách đây 12 năm, theo lời nhờ của ngài Nakasone Yasuhiro, bố tôi đã hỏi tôi về tương lai của ông ấy. Lúc đó tôi đã trả lời rằng ông ấy chắc chắn sẽ trở thành Thủ tướng, nhưng phải đợi 12 năm nữa.

Tuy nhiên, ông Nakasone Yasuhiro tỏ ra không đồng tình hay phản đối, lúc đó ông dự đoán rằng mình chắc chắn sẽ trở thành Thủ tướng trong vòng 5 năm. Khi tôi nói 12 năm, ông ấy tỏ ra không hài lòng lắm. Không chỉ ngài Yasuhiro không hài lòng, mà ngay cả bố tôi cũng cho rằng 12 năm là quá lâu, không thể nào. Bố tôi đã từng công tác tại Nhật Bản và thảo luận về vấn đề này với ngài Yasuhiro.

Tuy nhiên, đường công danh thăng trầm biến đổi, đâu phải như ý muốn, người tính không bằng trời tính, tôi tiên đoán 12 năm tức là đúng 12 năm không sai. Sự thật này đã được tôi viết trong cuốn sách "Địa Linh Dấu Tiên", trang 71, có thư của bố tôi làm bằng chứng. Hiện nay ngài Nakasone Yasuhiro đang sử dụng nghiên mực do thân phụ tôi là ông Lư Nhĩ Thuận tặng. Ngài Nakasone Yasuhiro nhậm chức Thủ tướng vào ngày 25 tháng 11 năm 1982, tính từ lúc tôi đoán số mệnh cho ông ấy đến lúc đó đúng 12 năm. Sự chính xác như vậy tôi cũng không lấy làm lạ, bởi những gì tôi tiên đoán đều sẽ thành hiện thực.

Tuy nhiên, tôi tuyệt đối không tiên đoán gì cho Tổng thống Reagan cả. Cho dù ngài Nakasone Yasuhiro có nhắc đến tôi khi gặp Reagan, hay Reagan có đích thân tìm đến tôi, tôi cũng chỉ mỉm cười với ông ấy và nói: "Hãy cố gắng hết sức nhé! Tận lực mà làm thôi! Thưa ngài, tôi sẽ không nói gì với ngài đâu, tôi chẳng hề quan tâm đến chuyện bầu cử của ngài, thắng hay thua cũng vậy. Mong rằng cái miệng méo mó của ngài sẽ lại mang đến may mắn, chúc ngài mọi điều tốt đẹp." Tôi sẽ mời Tổng thống Reagan uống một chén trà Đông Đỉnh sản xuất trong nước, rồi mời ông ấy ra về, xin lỗi, đã đến giờ tôi tọa thiền rồi, người ngoài (bất kì ai) không được quấy rầy, Tổng thống Reagan cũng không ngoại lệ.

Tiên Sinh Tam Sơn Cửu Hầu nói với tôi: "Tốt lắm. Bầu cử hay không đều là chuyện thế tục. Nhãn thông và khả năng thấu thị của con đã phát triển vượt bậc, có thể thấy được cả trăm năm, năm trăm năm về sau. Con mắt thứ ba của con không chỉ thấy được cõi người, mà còn thấy được cả Tây phương Cực Lạc, lên đến vô số cõi Phật, xuống đến địa phủ u minh. Con đương nhiên có thể thấy được những cuộc tranh chấp giữa các quốc gia, thấy được thiên tai, nhân họa, tử vong, động đất và đủ loại tai ương. Tuy con có một thời thơ ấu gian khổ, nhưng nguyên thần của con sẽ được ta đánh thức, ta sẽ kể cho con về tiền kiếp và từng tầng tiền kiếp của con. Cuối cùng con sẽ sáng lập đại pháp ở nhân gian, khiến mọi người hiểu được pháp và tu trì, con sẽ đi khắp thế giới, và kết quả cuối cùng là thành công cứu độ được rất nhiều người. Sau đó con sẽ vào cõi tịch diệt an lạc, chờ đợi thời cơ chuyển thế và cứu độ tiếp theo."

Tiên Sinh Tam Sơn Cửu Hầu lại nói: "Liên Sinh, trong cung điện tương lai của con là một đại điện màu vàng và trắng, có một vị thần vũ trụ màu xanh là thần hộ mệnh của con, trên bốn bức tường của đại điện ghi chép tâm ấn chú ngữ của tất cả chư Phật và tám nghìn ức Phật thành đạo, có vô số trang sức trang nghiêm không đếm xuể, khiến cho điện đường của con càng thêm trang nghiêm, pháp lực của con không phải tầm thường, đây là thành tựu tất địa từ việc con tu đạo gian khổ và chịu đựng đủ loại sóng gió."

Tiên Sinh Tam Sơn Cửu Hầu chỉ ra một đoạn trong Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh: "Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, vào thời mạt pháp, sẽ có một loại yêu ma tràn ngập thế gian, hành tung bí hiểm, ẩn giấu gian tà, lừa đời dối danh, hoặc tiên đoán tai ương, hoặc bói toán họa phúc, giả dạng thiện tri thức, mỗi người tự xưng đắc pháp Bồ Tát, hoặc khoe khoang thần thông, mê hoặc kẻ vô tri, hăm dọa lừa gạt, không việc gì không làm. Ta lo sợ chúng sinh đời mạt pháp mê mờ bản tâm, bị những yêu tà này mê hoặc, tiêu hao hết của cải, nên ta dạy các tì kheo, tùy phương khất thực, để xả bỏ tâm tham. Chỉ vì nuôi dưỡng thân mạng, không tham cầu vọng động, để thành tựu đạo quả Bồ đề, khiến các tì kheo biết thân như huyễn, ngộ được thế gian vô thường, chỉ tạm trú nhân gian, du hành tam giới, như khách qua đường, đời này nếu xong, sẽ không trở lại, tu trì như vậy mới không hổ thẹn là đệ tử Phật chân chính. Những kẻ muốn cầu lợi dưỡng, mượn pháp phục của ta, giả dạng tăng ni, buôn bán Như Lai, nói lời quái dị hành động kỳ lạ, đều tự xưng là Nhất thừa Phật pháp, lại phỉ báng các tì kheo xuất gia chân chính trì giới đầy đủ là đạo Tiểu thừa, tự xưng là Bồ Tát Đại thừa. Khiến cho vô lượng chúng sinh sinh lòng nghi hoặc, cho rằng chính giáo là Tiểu thừa, không đáng noi theo, từ đó vọng sinh phỉ báng, bỏ chính theo tà, một người mù dẫn đám mù, đều đọa vào địa ngục vô gián, không có ngày giải thoát, nói lời yêu tà, hại người hại mình, thật đáng sợ thay!"

Sau khi đọc bản dịch văn bản này, chúng ta có thể thấy rằng nhà chiêm tinh này đang làm những việc lừa dối thế gian, tiên đoán tai ương, bói toán họa phúc, và còn khoe khoang thần thông, mê hoặc người vô tri. Hơn nữa, người này còn tự xưng là Bồ Tát Đại thừa, giả dạng tăng ni. Tôi nhận ra rằng hắn chính là kẻ mượn danh tinh linh, học vài trò ma thuật giang hồ hắc đạo, nói lời dối trá lừa gạt thế gian, làm những điều kỳ quái để mê hoặc người đời.

Tiên Sinh Tam Sơn Cửu Hầu tuy đã đập tan cái tâm thế tục của tôi và khai mở con mắt thứ ba cho tôi, nhưng Ngài muốn tôi hiểu rằng thế gian vô thường, con người chỉ tạm trú ở nhân gian, là khách lữ hành trong tam giới mà thôi. Hãy nhìn thông suốt, nhìn cho nhạt nhòa, điều duy nhất cần làm nghiêm túc là nỗ lực tinh tấn không ngừng. Không chỉ tinh tấn không ngừng, mà còn phải tu trì chính pháp. Tôi trước tiên thọ giới Bồ Tát của Hiển giáo, sau đó thọ Mật giới của Mật tông, kiêm tu Đạo pháp. Người thật sự giữ giới, tu trì chính định, mới có thể đắc được đạo quả vô thượng.

Tôi sẽ không đi tiên đoán ai sẽ trở thành tổng thống Mỹ vào năm 1984, những chuyện vặt vãnh như thế này, đối với những kẻ thích phô trương mê hoặc người khác, đây chính là cơ hội tốt để hùng biện như hoa sen nở, thu hút thêm tín đồ và kiếm lợi từ của cúng dường của chúng sinh. Còn tôi thì sao? Ngày ngày tinh tấn thiền công, đã sớm thoát khỏi sự trói buộc của danh lợi thế tục, đã sớm đạt được tự tại, ai trở thành tổng thống Mỹ thì có liên quan gì?

Ngoài ra, tôi cũng không nói bừa về tai ương, mọi người đều có tâm sợ hãi tai ương, việc nói bừa về tai ương chính là cách làm của kẻ tà, nhằm mong một bước thành danh thiên hạ. Cho dù có tai ương, đó cũng là do con người tự chuốc lấy, tôi thấu hiểu nhân quả tuần hoàn, muốn không có tai ương, cần con người có thiện niệm trước, nếu có thiện pháp, tai ương tự khắc tiêu tan. Pháp của tôi là pháp tự nhiên, không có những lời tiên tri vĩ đại hay những dự ngôn gây chấn động về cái chết của toàn nhân loại, hoặc là ngày tận thế của trái đất. Tôi dùng con mắt thứ ba của trí tuệ bình đẳng, quan sát các vì sao trong thiên hạ, biết mọi việc lớn nhỏ trong trời đất, tuy biết nhưng chỉ mỉm cười bỏ qua, những điều này chẳng qua chỉ là "tiểu thuật nhân quả" mà thôi, không đáng bàn luận.

Lời tiên tri của tôi cho giới tự nhiên chỉ đơn giản là: "Mọi người hãy thực tu và chứng đắc! Chỉ khi có thực tu chứng đắc mới được gọi là viên thông. Nếu không, đó chỉ là lời nói suông. Sự biến hóa của giới tự nhiên không nằm ngoài hai chữ 'nhân quả'."

(Tác giả không có thiện cảm với bất kì tổng thống Mỹ nào. Trong cuốn "Châm ngôn của người thành công" xuất bản tháng 2 năm 1975, trang 263, phần "Bàn về thành bại của Nixon", tôi có ấn tượng đặc biệt xấu về Nixon, thậm chí ví ông ta như một con chuột.)

05. Linh Tiên Các là phòng bế quan của tôi

Sau bảy ngày đến Mỹ, tôi và gia đình đã chuyển đến một ngôi nhà mới. Ngôi nhà ban đầu có màu nâu, đã qua ba chủ nhân sinh sống, chúng tôi là chủ nhân thứ tư và đã sơn lại từ màu nâu thành màu xanh lá, tạo cảm giác tươi mới. Tính cả tầng hầm thì ngôi nhà có ba tầng, tầng hầm không có vách ngăn, toàn bộ được trải thảm và có một phòng giặt cùng các thiết bị vệ sinh. Phía trên tầng hầm là phòng khách lớn và nhà bếp khi bước vào, cả hai phòng đều rất rộng, bên trái lối vào có hai phòng ngủ và một bộ thiết bị vệ sinh.

Điều đáng nói là, bãi cỏ ở mặt trước, sân sau và hai bên đều rất rộng lớn. Trong sân sau có một cây anh đào to, còn ở bên trái bãi cỏ lớn có một nhà để xe. Nhà để xe này có thể xây thành một căn phòng, nhưng chúng tôi không cần nên để trống hoàn toàn. Có một người làm kinh doanh xây dựng muốn mua nhà để xe của chúng tôi để cải tạo thành một căn nhà mới, đã thương lượng với chúng tôi nhưng không thành công.

Chiếc xe của chúng tôi là loại vừa, đậu trên nền xi măng ở giữa bãi cỏ, khu vực xi măng này có thể đậu được sáu chiếc xe. Những ngôi nhà xung quanh khu vực này đều có kiến trúc khác nhau, vô cùng đẹp mắt, các bãi cỏ và vườn hoa luôn giữ được vẻ tinh khiết và tươi đẹp với muôn màu sắc rực rỡ, có thể nói cứ mỗi bước đi là lại thấy một tác phẩm nghệ thuật được chăm chút tỉ mỉ.

Tầng trên của phòng khách là Linh Tiên Các, có một cầu thang trải thảm màu nước biển dẫn thẳng lên trên. Tôi cảm thấy ngôi nhà của mình nằm ở vị trí cao nhất trên sườn đồi này. Phía sau dốc xuống, phía trước dốc xuống đến một con đường lớn, bên trái dốc xuống đến Cầu Sắt Phi Mã, bên phải cũng dốc xuống. Tóm lại, ngôi nhà màu xanh lá của tôi có thể nhìn bao quát ra bốn phía, là một ngôi nhà độc lập trên sườn đồi.

Linh Tiên Các là thư phòng ở tầng trên cùng, gọi là "Các" vì nó ở vị trí cao nhất, được chia thành hai phần. Phía trước là thư phòng, nơi thờ phụng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát (Đại Bi Mật Chủ), Phổ Hiền Bồ Tát (Kim Cang Tát Đỏa Mật Chủ), và một vị Hoa Thiên Nữ Thần. Thư phòng là nơi tôi viết sách, mỗi ngày tôi ghi chép tâm đắc tu đạo lên giấy, đóng thành tập và cho xuất bản. Phần sau của Linh Tiên Các là phòng ngủ kiêm phòng ngồi thiền, giường trải toàn màu be, chỗ ngồi thiền trải thảm màu xanh lá, gối ngồi màu xanh vàng, trên treo một tấm gương cổ Đại Phạm Thiên, ở giữa trang trí đồ hình đàn tràng tứ phương, mũ Ngũ Phật của tôi đặt phía trên, pháp khí có chuông kim cang, chày kim cang, dây kim cang, bình kim cang và các pháp khí thông thường khác. Đây là nơi chính tôi ngồi thiền tu học Mật pháp.

Thư phòng có một cửa sổ nhìn ra phía trước, cảnh quan xung quanh vô cùng hùng vĩ, dọc theo con đường kéo dài về phía Đông có nhà cửa, cây cối xanh tươi, xa hơn nữa là những ngọn núi cao chót vót nhô lên, nhìn chếch về bên trái là núi tuyết Rainier. Cửa sổ phía Nam đối diện thẳng với núi tuyết Rainier, mỗi đêm, cửa sổ này là một bức tranh tuyệt đẹp, có thể nhìn thấy tháp Space Needle của Seattle, những ánh đèn lấp lánh từ những ngôi nhà trên sườn đồi, có nơi tập trung thành cụm, có nơi thưa thớt, như những vì sao trong đêm lạnh. Cửa sổ phía Đông nhìn ra một con đường ngang, có thể thấy được vài hộ gia đình ẩn mình trong tán cây xanh um, với bầu trời xanh ánh tím.

Cuộc sống của tôi ở đây, ngoài việc tiếp khách ra thì phần lớn thời gian đều ở yên tĩnh trong Linh Tiên Các. Tại Linh Tiên Các, tôi chỉ làm ba việc: viết sách, ngồi thiền và ngủ nghỉ. Ba công việc này đã chiếm hầu hết thời gian của tôi ở Mỹ. Mỗi ngày tôi đều có giờ giấc cố định để viết sách, ngồi thiền và ngủ nghỉ, rất hiếm khi thay đổi. Trong gần một năm ở đây, tôi rất ít khi ra ngoài, tối nào cũng ở nhà, ban ngày ngoài việc ký phát séc ra thì phần lớn thời gian đều ở Linh Tiên Các. Đôi khi tôi cảm thấy, ngoài việc tiếp khách ra thì mình giống như một vị pháp sư đang bế quan. Linh Tiên Các của tôi, ngay cả người nhà cũng không được tự tiện vào, họ thường để đồ vật cần gửi cho tôi ở đầu cầu thang, đến khi tôi lên lầu mới tự lấy lên. Linh Tiên Các chính là phòng bế quan tu đạo của tôi, chỉ là tôi không dùng giấy niêm phong lại mà thôi.

Tôi biết rằng, trên thế giới này có rất nhiều hành giả tu đạo sống ẩn tu một mình, họ trú ngụ trong những ngôi chùa trên đỉnh núi cao, vào phòng bế quan khổ tu. Phần lớn phòng bế quan là những căn phòng nhỏ kín, không có âm thanh lọt vào, cũng không thể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Khi hành giả vào trong, cửa sẽ được đóng kín lại, dán niêm phong bên ngoài, ghi rõ thời gian bế quan, thức ăn phần lớn được đưa vào qua một ô cửa nhỏ.

Thông thường, hành giả bắt đầu từ thời gian bế quan ngắn, rồi dần dần kéo dài thêm. Vì thế có người bắt đầu từ bảy ngày, rồi hai mươi mốt ngày, rồi ba tháng, rồi một năm, rồi ba năm, rồi mười năm, thậm chí cả đời không ra khỏi phòng bế quan cho đến khi già chết trong đó.

Bế quan là một sự rèn luyện, cũng là một niềm tin, và hơn nữa là một pháp tu. Thông thường, hành giả không có lý do gì để rời khỏi phòng bế quan, đó là sự mài giũa tự tính. Trong không gian nhỏ bé ấy, mọi đời sống vật chất đều mất đi, chỉ còn tồn tại đời sống tinh thần. Tôi cho rằng khi hành giả tu trì bế quan, theo quy luật của sinh mệnh, do sự mất đi của đời sống vật chất, tinh thần sẽ đi vào trạng thái tập trung, năng lực về mặt tinh thần sẽ được khai phát, giá trị của năng lực này không phải là điều mà phàm phu thế tục có thể tưởng tượng được.

Tôi biết một số bậc cao nhân tu hành thanh tịnh, để thấu hiểu được năng lực tinh thần, cần phải từ bỏ âm thanh trần tục, sắc tướng trần tục, duyên trần tục, và vị trần tục. Chỉ khi ở trong phòng bế quan, sự tiến bộ mới nhanh chóng. Do đã thể nghiệm được pháp chính định tam muội, nên họ an vui với việc bế quan tu hành, cả đời không muốn xuất quan cho đến khi thành Phật. Đạo lý này, nếu không phải là người tu hành thì mãi mãi không thể hiểu được.

Tôi nói rằng, Linh Tiên Các là phòng bế quan của tôi, tại đây tôi tu trì tất cả các Mật pháp, thấu tỏ hết thảy tâm ấn, thấu tỏ hết thảy thiên cơ, thành tựu hết thảy các pháp. Nhờ đó, tâm đã khai mở, mới hiểu được rằng tất cả phép tắc của sinh mệnh chính là như vậy, có thể tự tại tự như trong mười phương trên dưới.

Những gì tôi có đã đủ phong phú rồi, dù là ban ngày hay khi trời dần tối. Có khi mùa xuân đến, cây anh đào sau nhà nở đầy những bông hoa trắng nhỏ li ti, ong bay lượn trong mùa phấn hoa; có khi là mùa thu đông, ngày đêm đều lạnh, tôi sẽ đắp thêm một tấm chăn len khi ngủ, vì tôi vốn không quen với không khí nóng. Bất kể lúc nào, tôi, một hành giả ở Seattle này, đều thắp lên một lư hương, khói trắng cuồn cuộn bay lên.

Giờ đây, tôi xin chia sẻ một vài tâm đắc nhỏ về việc tu pháp tại Linh Tiên Các như sau:

Trong phòng bế quan, khi viết sách tự nhiên không rời chỗ ngồi, khi ngồi thiền cũng không rời chỗ ngồi, ngay cả khi ngủ cũng không rời chỗ ngồi. Tư thế ngồi giúp tâm dễ tĩnh lặng hơn, còn khi đứng thì tâm dễ động. Ngoại trừ việc ăn uống và vệ sinh, phần lớn thời gian nên ngồi chứ không nên đứng. Nguyên lý là khi ngồi thiền thì khí tụ, còn khi đứng thì khí không tụ. Tôi biết rằng, nếu bế quan tu pháp đúng cách, ắt sẽ có cảm ứng, có cảm ứng tức là có chứng đắc.

Khi tu pháp bế quan Mật tông, ngày vào phòng nên chọn sau hoàng hôn, còn ngày xuất quan nên chọn lúc trời vừa sáng, tượng trưng cho "phá tối thấy sáng". Hành giả cần phát tâm đại bồ đề, tự nghĩ rằng không phải chỉ tu để riêng mình thành Phật như Tiểu thừa, mà là tu để độ hết thảy chúng sinh trong thiên hạ. Với tâm niệm như vậy, sẽ được chư Phật Bồ Tát gia trì. Trong lúc bế quan cũng sẽ có ma cảnh đến quấy nhiễu, tất cả những hiện tượng này nên không để tâm đến. Nếu tu pháp bế quan mà không có chứng cứ cảm ứng, hoặc là tu sai pháp hoặc là nghiệp chướng sâu nặng, nên cầu minh sư chỉ điểm, rồi bế quan lần nữa, cho đến khi có chứng cứ cảm ứng, và tự biết công phu có tiến bộ mới được.

Không được học nhịn đói, đó là tà pháp của ngoại đạo. Nhịn đói không phải là chứng cứ chứng đắc. Các vụ án đồng cốt thiên cung tự giam và pháp sư Phượng Tiên ở Thổ Thành trong nước [Đài Loan] đều không phải là phương pháp căn bản. Dù chết đói hay không chết đói cũng không phải là chứng cứ chứng đắc. Vào phòng bế quan là để tu pháp, nếu bụng trống rỗng thì làm sao tu pháp được?

Linh Tiên Các giống như phòng bế quan của tôi vậy. Tôi đến nơi này mật tu các pháp, pháp pháp thành tựu, được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiển quang gia trì, Kim Cang Hộ Pháp bảo vệ khắp nơi, thật là một cõi trời trang nghiêm tịch tĩnh trong các cõi trời.

06. Thăm dò tâm linh và quán đảnh từ xa

Nhờ cuộc sống yên tĩnh tại Linh Tiên Các, tôi đã thực hiện nhiều cách "thăm dò tâm linh" theo nhiều hướng khác nhau. Ví dụ như tôi dùng phương pháp linh thể phi hành để đến châu Âu, đến Hồng Kông - viên ngọc phương Đông, và tất nhiên thường xuyên qua lại giữa Mỹ và Đài Loan. Tôi đã đến Nepal, dãy Himalaya, viếng thăm cung điện Potala và tu viện Sera ở Tây Tạng. Tâm linh của tôi là một dạng linh thể phi hành được tung ra, không chỉ du hành trên Trái đất mà còn bay đến cả Mặt trăng, sao Hỏa, sao Thổ, thậm chí đến những thế giới xa xôi vô tận. Đó chính là hành trình tâm linh của tôi.

Khi tôi bắt đầu tĩnh lặng trong thiền định, giống như động cơ máy bay đang khởi động, và khi tôi đạt đến trạng thái tam muội kim cang đại định, "thông tin tâm linh" trở thành một dạng phóng chiếu. Tôi nói rằng, vũ trụ ẩn chứa trong tâm tôi, có thể đến bất cứ nơi đâu, và điều đó xảy ra trong tích tắc, không cần tốn nhiều thời gian, tất cả đều rõ ràng trong tâm, không có gì là không hiểu được.

Khi quan sát tình hình gần đây của Linh Tiên Chân Phật Tông, đương nhiên số người quy y rất đông, nhưng việc tu trì của Linh Tiên Chân Phật Tông là tự do tự tại, không có kỷ luật nghiêm ngặt nào, họ muốn quy y thì quy y, muốn chửi tôi thì chửi tôi. Có một số ít đệ tử tu trì nghiêm túc, tôi đều nghe được tiếng tụng kinh trì chú của họ. Nhưng cũng có một số ít kẻ hại đàn, khiến đa số đệ tử Linh Tiên Chân Phật phải xấu hổ, họ vẫn sống trong cảnh ăn chơi trác táng, cờ bạc rượu chè, luân xa trong tâm họ đã rất lâu không còn chuyển động, đôi khi tuy có khởi lên thiện niệm, nhưng chỉ là một thoáng hiện ra rồi lập tức bị những ý nghĩ đen tối che lấp.

"Những đệ tử đáng thương, thật là một lũ người thiếu văn minh chưa khai hóa." Tuy nhiên, kẻ biếng nhác thì cứ biếng nhác, đa số đệ tử vẫn giữ đúng bổn phận, nghiêm túc giữ giới luật của Phật, tinh tấn tu trì.

Tôi đã từng dùng "linh thể phi hành" để đến một quốc gia rất xa xôi, phải vượt qua hai đại dương để đến thăm một người bạn già tu Mật tông. Vị bạn già này không chỉ tinh tấn tu trì vào ban ngày mà còn miệt mài không nghỉ vào ban đêm. Tôi thấy ông ấy thật sự quá mệt mỏi, quá vất vả, may mắn là có Kim Cang Hộ Pháp luôn giúp đỡ ông ấy, nếu không chắc sẽ không chịu nổi.

Khi tôi chăm chú quan sát ông ấy, dường như ông ấy có cảm nhận được, ông ấy là một trong những người có năng lực. Vì thế, tôi biết rằng trong tương lai gần, sẽ có một vị tông sư Hoạt Phật đến thăm nơi này, đồng thời sẽ gặp gỡ một số tín đồ và tổ chức một buổi hoằng pháp nhỏ tại đây.

Vị Hoạt Phật tông sư này cũng là một trong những bậc tông sư mà tôi kính ngưỡng. Tất nhiên, tôi rất vui mừng cho người bạn già của mình, việc Hoạt Phật đến hoằng pháp tại nơi của ông ấy quả là một điều hết sức đáng mừng, và giới truyền thông bên ngoài cũng chưa hay biết gì về việc này. Sau khi xuất định, tôi liền viết một bức thư cho người bạn già tu Mật tông của mình, tôi nói với ông ấy, nhờ ông ấy giúp đỡ, xin thỉnh cầu tông sư ban cho tôi một mình được quán đảnh từ xa. Người bạn già tu Mật tông của tôi là bạn thân của tông sư Hoạt Phật, tôi tin rằng chỉ cần ông ấy mở lời, việc này chắc chắn sẽ thành công. Người bạn tu Mật tông hồi âm, hứa với tôi "nhất định sẽ làm theo".

Đồng thời, điều kỳ lạ là người bạn tu Mật tông của tôi không hiểu sao tôi lại biết được sẽ có một vị Hoạt Phật tông sư đến thăm ông ấy trong ba ngày, dù tôi ở tận Seattle, Mỹ, cách xa hai đại dương, mà lại có thể đưa ra yêu cầu như vậy. Trong thư hồi âm, ông ấy tỏ ra vô cùng kinh ngạc, cho rằng thật không thể nghĩ bàn. Nghi thức quán đảnh từ xa được tiến hành đúng như dự định. Dùng nước hương thanh tịnh rảy vào ảnh của tôi. Dùng tay ấn gia trì quán đảnh. Tụng mật chú. Kết thủ ấn.

Vào lúc đó, tôi đang ngồi thiền tại Linh Tiên Các, trong khoảnh khắc, tôi nhìn thấy từ phía Tây Nam có mây quang minh nhanh chóng bay đến. Trong trạng thái tam muội kim cang đại định, tôi thấy vị Lama Hoạt Phật, Ngài hóa thành Đại Ô Kim Kim Cương Trì, rồi lại hóa thân thành Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó hóa thành chư Phật mười phương năm hướng, rồi biến thành những pháp điển trân bảo của mười phương ba đời, các vị Kim Cang Hộ Pháp đến trước mặt tôi, tụ tập xoay vần, hóa thành ánh sáng ngũ sắc. Trong ánh sáng có mưa cam lộ rót vào đỉnh đầu tôi. Đỉnh đầu tôi tê dại một lúc rồi lan tỏa khắp toàn thân. Tâm nguyệt liên hoa của tôi nở ra, trong hoa sen có một mật tự (chữ Phạn) tỏa ra ánh sáng vốn có, ánh sáng ngũ sắc và ánh sáng tự thân hợp làm một. Tất cả nghiệp chướng từ đời quá khứ của tôi đều hóa thành nước đen, chảy ra từ các lỗ chân lông trên toàn thân, tẩy sạch không còn. Tôi trở nên quang minh tự tại, đạt được đại ngộ, từ đó thân tâm khinh an, phúc huệ tăng trưởng, lực gia trì quán đảnh của Hoạt Phật Thượng sư vĩnh viễn không tán mất. Tôi đã nhận được lực quán đảnh từ xa của Hoạt Phật Thượng sư, đây lại là một sự chứng nghiệm vô cùng to lớn.

Tôi biết rằng với tâm bồ đề của mình, cùng với tâm bồ đề của vị Hoạt Phật, có thể giải hành tương ứng, tâm đồng tâm có thể tương ứng, tâm đồng tính có thể tương ứng, tâm đồng trí có thể tương ứng. Đây là phương pháp rốt ráo nhất. Pháp của tôi là pháp niệm niệm khai mở tri kiến Phật, rất khác với cách các pháp sư thông thường đi vào tri kiến chúng sinh. Phương pháp quán đảnh từ xa của Hoạt Phật Thượng sư chính là phương pháp dùng sức niệm trì để phi hành, có điểm tương đồng với phương pháp linh thể phi hành.

Để kỷ niệm Hoạt Phật Thượng sư đã làm lễ quán đảnh từ xa cho tôi, tôi viết một bài kệ ghi lại:

Chuyển thế Hoạt Phật Kim Cương Trì, Mật hành nhân thiên đại đạo sư, Vô lượng quang minh thành tự tại, Con ở trước Ngài ba khởi thỉnh.

Công đức thù thắng uy lẫm liệt, Pháp môn kim cang độc nhất tôn, Diệu hạnh Không Mẫu đại pháp lực, Tẩy sạch ô uế con nhiều đời.

Thân tâm đều hóa tướng Thích Ca, Ngữ âm tâm ấn thập nhị chi, Tất cả cứu cánh kiêm viên mãn, Không Hành quán đảnh trước chí tôn.

Ban con pháp ký nói chân đạo, Từ tâm biến hóa tựa Quan Âm, Đại ân đại đức nay kính nhớ, Con nguyện hoằng giáo lợi ích lớn.

Thành tựu mà tôi đạt được ở Seattle ngày hôm nay, tôi tin rằng đã vượt gấp ba lần so với thành tựu ở trong nước. Tôi đã từ bỏ tất cả những gì thuộc về thế tục, từ bỏ cuộc sống phồn hoa, từ bỏ bạn bè thân hữu, từ bỏ những ngày tháng thân thiết với đệ tử, từ bỏ những bước chân thảnh thơi trong nước. Mặc dù những đổi thay trong cuộc sống đã từng khiến tôi rơi vào thế giới cô đơn mênh mang, nhưng cuối cùng tôi đã lĩnh ngộ được lợi ích của "sự cô độc về tâm linh". Tôi không hề "mất mặt", mà ngược lại còn vượt xa hơn nữa, tôi dùng sức tu trì lớn nhất để tu tập cảnh giới cao nhất.

Trong thiền định, sinh lực của tôi nhờ vào ảnh hưởng của sức mạnh tinh thần mà càng thêm kiên cường, mỗi một pháp bản đều trải qua sự tu trì và nghiên cứu tỉ mỉ, tôi đặt mình vào trạng thái trong sáng, tôi có thể mỉm cười, tôi viết hết những tâm đắc tu trì của mình vào sách, tôi sẽ không vì một vài "con ngựa hại đàn" của Linh Tiên Chân Phật Tông mà buồn phiền, bởi vì tất cả những điều này, người nên đến chắc chắn sẽ đến, người nên đi chắc chắn sẽ đi, bề ngoài tuy lạnh nhưng tâm vẫn ấm, các đệ tử nên thấu hiểu tâm ý của tôi mới phải.

Linh thể sẽ tự động rời khỏi thân xác mà đi, đó chính là cái chết. Nhưng "linh thể du hành" thì khác, đó là sự kiểm soát của sức mạnh tinh thần, không cần lo lắng, bởi vì nếu tôi bay đi, chắc chắn sẽ bay về, tôi là ánh cầu vồng, cái chết đối với tôi, chỉ là sự thay đổi hình dạng mà thôi.

07. Siêu độ của hành giả

Khi tôi đi qua đường Alula, hai bên đường là những nghĩa trang rộng lớn. Nghĩa trang của người Mỹ theo kiểu chôn sâu, chỉ có bia mộ nhô lên khỏi mặt đất. Xung quanh khu mộ được trồng đầy cỏ xanh và những cây cổ thụ cao vút, thảm cỏ được cắt tỉa phẳng phiu và xanh mướt, trông giống như một công viên.

Khi nhìn thấy nghĩa trang, tôi không khỏi cảm khái. Dù cái chết là điều tất yếu, nhưng khi thể xác con người được chôn vùi dưới đất, và một người bạn biến mất khỏi mặt đất, trong lòng vẫn không tránh khỏi một chút buồn thương. Bản thân tôi không bao giờ sợ chết, bóng ma của cái chết cũng chẳng đáng sợ. Đối với một người hiểu được chân lý và không sợ chết, cái chết cũng giống như giấc ngủ, linh thể sẽ vĩnh viễn rời đi. Có người nói, thể xác là chiếc áo của linh hồn, khi đã cũ, đã rách, không còn dùng được nữa thì phải vứt bỏ.

Tôi đã từng siêu độ cho các linh hồn người Mỹ, cũng đã từng cúng dường cho họ. Hầu như mỗi chiều tà, với tư cách là một hành giả, tôi đều phải thực hiện pháp ban rải cam lộ, để cho những linh hồn đang mê lạc này được một chút thỏa mãn - khát có nước uống, đói có thức ăn, tâm hồn trống rỗng được viên mãn. Vào ngày mồng một âm lịch hàng tháng, tôi đều tụng kinh, gọi từng linh hồn đến nhận sự cúng dường và Phật pháp của tôi.

Trong mỗi lần tụng kinh hàng tháng, tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của họ. Họ có thể là những người ngay ngắn có trật tự và lễ phép, hoặc cũng có thể là một đám quỷ dữ ồn ào hỗn loạn. Tôi không chỉ "cảm nhận" được họ, đôi khi khi mở con mắt thứ ba, tôi còn thấy được đủ loại hình dạng của họ. Có người rất dịu dàng, có người lễ phép, có người thì phóng túng, có người thì thô bạo, thậm chí có người còn vô lại nữa. Tóm lại, người đời trăm kiểu thì ma quỷ cũng trăm kiểu, dương gian và âm gian có gì khác nhau đâu, ma quỷ phương Đông là vậy, ma quỷ phương Tây cũng thế.

Có một lần, tôi niệm thần chú, thần chú như thế này: "Om Ah Hum. Âm thanh chung của vũ trụ chính là tiếng tụng kinh Phạn ngữ, ta triệu thỉnh, hỡi những vong linh đang lang thang giữa hai cõi âm dương! Hãy lắng nghe thật kĩ, ta tụng niệm thần chú, hãy đi theo sau. Không nghe được tiếng sóng biển, không nghe được tiếng lá cây xào xạc, không nghe được tiếng gió nhẹ thổi, không nghe được tiếng nước chảy của sông suối, các ngươi ơi! Có thể tìm kiếm thật kĩ, thần chú của ta sẽ dẫn dắt các ngươi, vượt núi băng đèo, tìm được bến bờ nương tựa. Phải biết rằng! Đây là thế giới hư ảo, chỉ có thần chú của ta mới có thể dẫn dắt các ngươi, đến tận quê nhà xa xôi."

Thần chú tiếp tục vang lên, khói hương lượn lờ, như từng linh hồn nhảy múa, bay lên cao, bay lên cao, lan tỏa đến từng tầng không gian. Quả nhiên, nén hương này đã triệu gọi đến một hồn ma của kẻ chết vì rượu. Y uốn éo thân mình, nhảy múa lắc lư, chân run rẩy, toàn thân bất an.

"Ngươi tên là gì?" "Tabo." - Con ma rượu nói, không phải "taboo". Tên ma rượu này vẫn còn biết đùa, bởi vì "taboo" có nghĩa là cấm kỵ, cấm đoán, nếu vậy thì y không được uống rượu nữa. "Ngươi ở khu mộ nào?" "Qua đường 85, đi vào phía trước, hàng thứ bảy, vị trí thứ hai." - Tên ma rượu lại nói: "Grand Master có thể tìm thấy tên của tôi."

Vì vậy, tôi dùng thủ ấn của Mật pháp cứu độ trung ấm để siêu độ cho y. Tất nhiên tôi cũng lái xe đến đường 85, đó là một nghĩa trang nhỏ, lá rụng khắp nơi vì đang là mùa thu, chỉ cần một đêm gió thổi là lá rụng nhiều đến mức không thể nhặt hết, không thể quét sạch. Tôi dùng tay gạt đám lá trên ngôi mộ thứ hai ở hàng thứ bảy, trên bia rõ ràng ghi tên: "Tabo". Phía dưới là "1935-1979". Đây là một người khá trẻ, chỉ sống được hơn bốn mươi tuổi, mất vì uống quá nhiều rượu.

Mỗi khi tôi tụng kinh siêu độ, đôi khi tôi đốt hai nén hương, đôi khi đốt ba nén hương. Khi thắp nén hương thứ hai, tôi niệm chú, ý nghĩa như sau: "Om Ah Hum. Đây là âm thanh của vũ trụ, những ai nghe được tiếng tụng kinh Phạn ngữ này, hãy đến trước mặt ta, phải biết rằng mọi sự trên đời đều vô thường, hoa có nở có tàn, thời gian cứ thế luân hồi không ngừng, thiếu nữ xinh đẹp rồi cũng sẽ trở thành bà lão nhăn nheo, người sống ở kiếp này, kiếp sau đều hóa thành đầu lâu, chỉ có ngôn ngữ chính pháp của âm thanh vũ trụ của ta là tồn tại mãi mãi. Hãy lắng nghe cho kĩ, đây là ngôn ngữ chính pháp của ta, ta là Kim cương Thượng sư đã thực sự đắc đạo, ta dùng đại pháp siêu độ của ta, có thể khiến các ngươi được an nghỉ vĩnh hằng, đừng còn phiêu dạt giữa hai cõi âm dương nữa, hãy mau quay về! Hãy mau quay về!"

Lần triệu thỉnh này của tôi, một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp đã xuất hiện, đôi mắt xanh to như hai viên ngọc lam tỏa ra ánh sáng mê hoặc, tuổi xuân của cô tỏa ra hương thơm của mùa xuân, tươi mới, xinh đẹp và kiều diễm, ôi! Khiến mọi người đàn ông đều muốn ôm lấy thân hình ấy, eo cô mềm mại, làn da trắng như tuyết, mái tóc vàng như cánh đồng lúa mì đong đưa trong gió, tất cả mọi thứ đều khiến người ta mơ màng. "Cô tên là gì?" "Kitty." - Giọng thiếu nữ rất đỗi buồn bã. "Vì sao mà qua đời?"

"Tôi đã từng có một cuộc tình rất đẹp, một người tình phong lưu đã từng ôm ấp thân thể mảnh mai của tôi, tuổi xuân của tôi đã khiến anh ấy say đắm. Tuy nhiên, người tình phong lưu ấy cũng để ý đến một thiếu nữ ở thị trấn bên cạnh, cô ấy cũng nổi tiếng với nhan sắc hiếm có của mình. Anh ấy rời bỏ tôi, thay lòng đổi dạ, say đắm người khác đến mức không thể tự thoát ra được. Vì thế tôi đau lòng tuyệt vọng, để thoát khỏi nỗi đau khổ ràng buộc của thế gian, tôi tìm đến một dòng suối có thể chôn vùi thân xác, bước vào chỗ sâu, và vĩnh viễn không quay về nữa. Dù người tình của tôi biết tình yêu tôi dành cho anh ấy sâu đậm đến thế nào, nhưng anh ấy chỉ xúc động nhất thời, vẫn cứ sống cuộc sống đôi lứa cùng cô ấy. Tôi là một linh hồn mãi mãi đau buồn."

Sau khi nghe câu chuyện chi tiết của linh hồn thiếu nữ này, trong lòng tôi không khỏi xót xa. Tôi bắt đầu tụng đại mật chú của pháp siêu độ trung ấm, tiếng niệm thì thầm của tôi hòa quyện với làn khói hương bay lên, rồi dùng ấn pháp chỉ của Đại thủ ấn, tôi tụng chú rằng:

"Hãy để ta dẫn dắt vượt qua vùng nước mênh mông vô tận, từ suối nối với sông, sông chảy ra hồ, hồ thông với biển, không bao giờ có lối thoát. Hãy để ta dùng Mật pháp của nước, giải thoát sự giam cầm của nước, thoát khỏi sự tĩnh lặng của thủy giới, vươn lên mặt đất, để linh hồn của ngươi có duyên với cát bụi đại địa. Xin hãy dùng âm thanh vũ trụ của ta cúng dường, dùng sức mạnh cảm thông tâm linh của ta, ta chỉ dẫn tiếp tục tiến bước, trở thành linh hồn vui vẻ và tôn quý, hãy đi đầu thai! Hãy đi đầu thai! Hành trình tương lai cũng là một quá trình rèn luyện lâu dài, sẽ mãi mãi đứng vững vàng."

Tôi nhìn thấy toàn thân linh hồn thiếu nữ Kitty đã khô ráo hơi nước. Trên tay nàng xuất hiện một đóa hoa. Nàng sẽ đi đầu thai với duyên phận với đất mẹ, trước khi đi đã gật đầu với tôi ba lần, đưa tay ra, muốn tôi hôn tay nàng, tôi vui vẻ làm theo.

Công việc siêu độ vẫn tiếp tục được thực hiện mỗi tháng một lần, việc hóa thực cũng được tiến hành hàng ngày. Phần lớn linh hồn người Mỹ đều đơn giản và thiếu hiểu biết, tôi phải giải thích nhiều lần họ mới có thể lĩnh hội được. Những linh hồn lang thang này, không lên được thiên đường, cũng không được đầu thai luân hồi! Tôi nhìn xuống họ, cố gắng hết sức để cứu độ họ, đây là một trong những công việc độ hóa của tôi.

Có người nói rằng, việc độ hóa như vậy quá ít và quá bận rộn, sao không tổ chức theo nhóm, dùng pháp hội để làm. Đúng vậy, chúng ta sẽ làm như thế, nhưng khi mọi việc chưa đi vào guồng, tôi vẫn tiếp tục thực hiện Mật pháp này từng ngày một, độ được người nào hay người đó, đây cũng là một cái duyên. Tất cả những linh hồn được triệu thỉnh đến, ngửi mùi hương mà đến, sẽ ngày càng nhiều thêm, rồi có ngày, dùng cả tàu hỏa chở cũng không hết, đây là một trong những nhiệm vụ siêu độ của tôi.

08. Kiểm soát cảm xúc rối loạn

Hành giả tu trì vốn là để lĩnh ngộ cõi mộng của cuộc đời, tìm về một tấm chân tâm nguyên sơ.

Đức Phật từng có một ví dụ rằng, có một người, trong y phục của mình vốn có buộc một viên ngọc như ý, viên ngọc này có pháp lực muốn gì được nấy, nhưng anh ta không nhận ra báu vật.

Người này rất nghèo khổ, suốt ngày phải đi xin ăn, quả thật là khốn cùng. Tuy nhiên, viên ngọc ấy vẫn luôn gắn với thân anh ta. Một ngày nọ, anh ta gặp được một người biết nhận ra báu vật và nhắc nhở anh, giải thích về diệu dụng của viên ngọc, có thể tùy tâm như ý, muốn gì được nấy, nhờ đó mà trở nên giàu có. Lúc ấy mới ngộ ra viên ngọc không phải từ bên ngoài mà có, tưởng là được nhưng thực chẳng được gì, vốn là thứ vẫn luôn có sẵn, chỉ là lúc mê muội không nhận ra mà thôi.

Ẩn dụ này như sau: Chân tâm là viên ngọc quý. Người nhận ra của báu là người truyền Phật pháp. Cuộc đời là một cuộc truy đuổi hư vọng.

Phật Đà lại dạy: "Chân giác của bản tính vốn không phải là cảnh giới bị soi chiếu; do vốn sẵn có công dụng diệu minh, không rơi vào năng sở, nay vô cớ thêm cái sáng vào trên chân giác, liền chuyển diệu minh thành sự vô minh của năng minh, lấy chân giác làm sở minh vọng giác. Do vọng mà lấy thể tính của chân giác làm cảnh tướng được thấy, sinh ra vọng năng của năng kiến, thế là ở trong chỗ vốn không giống khác, chợt thấy vạn tượng bao la, các loại sai biệt, rõ ràng thành khác. Lại trong muôn nghìn sai biệt, theo loại mà lập thành giống, một khác một giống, hiển bày lẫn nhau, do đó lại lập nên cõi chúng sinh không giống không khác, mê loạn rối ren như vậy, nương nhau làm duyên, từ vọng cảnh dẫn phát vọng tâm, vọng tâm lại phân biệt vọng cảnh, xoay vần lo nghĩ, lo nghĩ đã lâu, tự sinh nhiễm đắm trần niệm, khiến tâm thủy đục ngầu, rối rắm không rõ, càng lún càng sâu."

Đoạn văn này hoàn toàn giải thích về nguyên nhân và hậu quả của vọng niệm rối ren không rõ, nói một cách đơn giản, hành giả tu trì nếu không thể thoát ly vọng niệm, chính là "nhập ma".

Hành giả tu trì trong quá trình tu tập từng bước, phải giữ một tâm thanh tịnh sáng suốt, dù thế nào cũng không được để vọng cảnh mê hoặc. Tôi biết không ít người có khởi đầu rất tốt, nhưng khi cảnh giới vừa xuất hiện, do thiếu sự chỉ dạy và rèn luyện của minh sư, liền đuổi theo cảnh giới, như người nằm mơ vậy, cảnh giới như mộng, người tu trì đuổi theo cảnh giới, chính là đuổi theo cảnh mộng, đó là bóng hoa trong gương, trăng dưới nước, hư vọng không thực, phát triển quá nhanh, sẽ không thể tự kiềm chế, không thể tự kiềm chế, chính là "nhập ma".

Nhiều người nói với tôi rằng có người do tu tập phương pháp tọa thiền Nhân Thị Tử ["Pháp Tĩnh Tọa Nhân Thị Tử" là một cuốn sách về tĩnh tọa do Tưởng Duy Kiều biên soạn và được xuất bản vào đầu thời Dân Quốc.] mà bị ma nhập. Cũng có người kể rằng ở một ngôi chùa nọ, trong khóa tu Phật thất [một tập thể gồm nhiều người cùng tu tập niệm Phật trong thời gian 7 ngày tại tự viện], có người niệm Phật đến nỗi la hét như điên. Thậm chí có cả tín đồ Thiên Chúa giáo, vì quá nhiệt tâm cầu nguyện, đã gặp phải ảo cảnh và bị ma nhập. Tôi nói, đây là hiện tượng tất yếu phải có.

Có người dễ bị ma nhập, có người không, đây là điều định sẵn từ khi sinh ra, việc học tĩnh tọa, niệm Phật, cầu nguyện chỉ là ngòi nổ mà thôi. Tôi từng nói, theo lý thuyết bát tự, trong bát tự có kiểu "dễ thấy ma", đây là do nguyên thần bị quan sát công kích hoặc thực thần tiết thương, tứ trụ thiếu ấn thụ hoặc tỷ kiên kiếp tài mạnh mẽ để sinh thân, ngự địch. Bản thân sức lực yếu ớt, dương khí không vượng, hễ gặp xung phạm liền dễ nhìn thấy âm linh.

Theo cách nói thông thường thì đó là "bát tự thấp". Những người như vậy khi tu trì cần phải đặc biệt thận trọng, bởi họ dễ sinh ảo giác, rồi sau đó rơi vào mê hoặc, chấp mê không tỉnh, đó chính là "nhập ma".

Người tu trì càng tu phải càng sáng suốt, chứ không phải càng ngày càng "rối loạn cảm xúc". Việc càng ngày càng "rối loạn cảm xúc" tự nhiên là do thể xác và thể linh không thể hoàn toàn tự kiểm soát và phối hợp tốt với nhau, sự nóng vội của thể linh càng dễ khiến thể xác bất an. Về nguyên tắc mà nói, người tu trì trong trạng thái không ăn hoặc không ngủ rất dễ rơi vào cảnh giới ma mị.

Tôi thường xuyên kêu gọi như sau: Tất cả những người tu trì phải giữ cho đầu óc tỉnh táo sáng suốt, tự kiểm soát cảm xúc của mình, sinh hoạt đời sống phải bình thường, ăn uống điều độ, ngủ nghỉ đầy đủ, tuyệt đối không được nhịn ăn nhịn uống, thức đêm tu luyện một cách mù quáng. Bởi vì khi không tuân theo quy củ, trong tình trạng nguy hiểm và cảm xúc bất ổn, sẽ sinh ra sự bất an cực độ, dẫn đến nhập ma.

Tôi yêu cầu người tu trì phải duy trì cuộc sống bình thường, điểm này vô cùng vô cùng quan trọng.

Có một người bị nhập ma, sau khi được tôi chữa trị tỉnh lại, anh ta kể cho tôi tình hình như sau:

Trong một lần tu hành, linh hồn anh ta rời khỏi thể xác và bay đi, không chỉ có thể du ngoạn tự do mà còn muốn đến đâu là đến đó. Vì thế, anh ta đâm ra mê đắm cách bay lượn của linh thể này, mỗi lần ngồi thiền đều phải bay đi bay lại như vậy mới chịu thôi. (Đây là thần túc thông.)

Có một lần, anh ta bay đến một cõi thiên tiên, thấy một nhóm thiên nữ xinh đẹp đang múa, anh ta đem lòng say mê một trong số các thiên nữ đó, không nỡ quay về. Vẻ đẹp của vị thiên nữ ấy khiến anh ta - người đang tu tập thần túc thông - phải thần hồn điên đảo, mê muội không biết đường về. Anh ta đi theo thiên nữ, hưởng thụ tất cả trong thiên cung, hoàn toàn chìm đắm trong mê muội, không thể tự kiểm soát được bản thân.

Còn ở cõi người, cha mẹ anh ta thấy anh ta ngồi trong phòng tĩnh, thân nghiêng một bên, miệng lẩm bẩm nói toàn những lời tình cảm viển vông. Khi gọi dậy, anh ta nửa tỉnh nửa mê, không ăn không ngủ, chỉ la hét nhảy múa lung tung, trả lời không đúng trọng tâm, nói năng lộn xộn. Mời bác sĩ đến tiêm thuốc uống thuốc, chỉ ngủ được một lúc, yên tĩnh một chốc rồi lại tiếp tục như cũ. Hỏi thần linh, thần bảo là phạm âm, uống nước phù chú cũng không có tác dụng. (Được gọi là điên vì tình.)

Cứ như vậy, một gia đình vốn yên bình đã trở nên xáo trộn, cả nhà rơi vào một thế giới đáng sợ. Còn vị hành giả kia, đang chìm đắm trong ảo cảnh với tiên nữ, ngày đêm hưởng thụ không ngừng! Anh ta hoàn toàn không muốn quay về, vui quên cả lối về, mê chấp sâu nặng!

Cha mẹ theo đạo Phật, mời thầy xuất gia đến xem, nhưng chẳng thấy được căn nguyên, chỉ nói: "Nhập ma rồi, tu hành nhập ma rồi, không cứu được nữa."

Vì là con một nên cha mẹ anh ta nghe vậy thì khóc lóc thảm thiết. Từ đó không còn muốn lễ Phật nữa, đem tất cả tượng Phật, lư hương, kinh sách, mõ, tràng hạt đốt sạch bằng một mồi lửa, tin Phật mà đến nông nỗi này thì tu hành làm gì nữa, thôi không tu nữa. Cuối cùng họ mời tôi đến, tôi dùng pháp hoàn hồn và hoàn hồn quyết mới rước được linh thể quý giá của anh ta trở về nhập vào thể xác, sau đó linh thể và thể xác dần dần thích ứng với nhau, rồi trở lại bình thường.

Từ hiện tượng này, ta có thể phân tích một số điểm như sau: Thứ nhất, nhập ma đều có nguyên nhân của nó. Thứ hai, không thể tự kiểm soát chính là nhập ma. Thứ ba, tĩnh tọa, niệm Phật, cầu nguyện chỉ là ngòi nổ của việc nhập ma, nguyên nhân chủ yếu nhất là không thể tự kiểm soát. Do đó, tất cả những người tu trì phải giữ đầu óc tỉnh táo sáng suốt, có khả năng tự kiểm soát bản thân, đây mới là yếu tố hàng đầu để không bị nhập ma. Đồng thời phải duy trì cuộc sống bình thường, nhìn nhận mọi ảo cảnh như là ảo cảnh, không để bị mê hoặc.

Tôi đang ở Seattle, Hoa Kỳ, xin tuyên bố với chúng sinh thiên hạ như sau: "Các bậc tôn giả đại giác ngộ đều đã trải qua sự thử thách lớn của thiên ma. Muốn đi sâu vào thế giới thiền định viên thông, cần phải nỗ lực chuyên cần học cách tự kiểm soát. Phải biết đó là ma thì mới không bị ma mê hoặc. Người tu hành phải có khả năng nhận biết ma. Những ai quy y theo tôi, nhờ có Kim cang Hộ pháp gia hộ, tự nhiên có thể tránh được sự quấy nhiễu của thiên ma, không gặp ma sự. Hãy mau mau quy y Kim cương Thượng sư để cầu được chính pháp vô thượng!"

09. Bói toán và chiêm tinh

Trường Đại học Washington ở Seattle, bang Washington có hai vị giáo sư nổi tiếng, một vị là Giáo sư Chung Lộ Thăng, một vị là Giáo sư Đào Trúc Sinh. Giáo sư Chung từng là tổng biên tập "Tuyển tập văn học cổ kim" của báo Quốc Ngữ, với nền tảng Quốc học được mọi người ngưỡng mộ; Giáo sư Đào là một tài năng nghệ thuật, một bậc thầy hàng đầu về nhạc cụ. Hai người cùng đến nhà tôi để hỏi về tương lai.

Trên tờ giấy trắng, tôi viết một cách tự nhiên cho mỗi người một bài thơ, những bài thơ này đã mô tả hết mọi điều trong quá khứ, hiện tại và tương lai của họ. Ngoài việc há hốc mồm kinh ngạc, hai người đều thầm phục trong lòng. Kết quả của việc bói toán không được tiết lộ trong bài viết này, bởi vì liên quan đến quyền riêng tư cá nhân, đứng trên quan điểm đạo đức nghề nghiệp, không tiện viết ra. Tuy nhiên, chuyến viếng thăm của hai vị giáo sư có thể tóm gọn trong bốn chữ: "Tâm phục khẩu phục".

Người Mỹ tìm đến tôi, dĩ nhiên tôi không viết thơ Trung Quốc nữa. Tôi nói chuyện trực tiếp với người phương Tây, họ hỏi, tôi đáp. Những điều tôi nói khiến họ vô cùng kinh ngạc, reo hò ầm ĩ, phấn khích không thôi, bởi vì rất nhiều chuyện không thể nói ra với người ngoài, tôi đều có thể nói trúng phóc chỉ trong một câu. Ví dụ, tôi chưa từng đến nhà họ, nhưng tôi có thể mô tả chính xác diện mạo ngôi nhà, thậm chí còn nói đúng màu sắc của nó (nhà người Mỹ thường có nhiều màu). Tất nhiên họ tin lời tôi, vì có khi họ phải lái xe vài tiếng đồng hồ mới đến được chỗ tôi, nên không thể nào tôi đã từng đến nhà họ được. Điều còn kinh ngạc hơn nữa là tôi có thể biết họ đã làm gì đêm qua, khiến một số người Mỹ tin đến mức không thể hoài nghi. Còn về cuộc đời của họ, tôi cũng kể ra từng chi tiết, họ chỉ biết tròn mắt, dang hai tay và thốt lên: "Trời ơi, chính xác quá!"

Tôi không chỉ xem cho họ về hiện tại, mà còn có thể đoán biết về ông nội của họ, thậm chí còn đoán được ông nội họ đã cưới bao nhiêu vợ. Nếu người phương Tây không tin đến mức chết đi sống lại thì tôi cũng không tin, nhưng tôi có sự tự tin đó. Hiện nay những đệ tử người Mỹ của tôi, sau khi được tôi đoán quá chính xác, họ đều thật sự chân thành theo tôi làm học trò, gặp tôi là lập tức năm vóc sát đất làm lễ.

Tôi thấy rằng để hoằng dương Phật pháp ở phương Tây, không thể bắt đầu bằng "thuyết giảng" hay "kêu gọi ầm ĩ". Người phương Tây rất thực tế, bạn phải có một phương pháp mà họ có thể nhìn thấy được, và họ cần phải "thực sự tin tưởng" thì mới có cách. Họ phải thấy được năng lực của bạn, biết rằng bạn thực sự có khả năng, thì mới chịu tin phục, nghĩa là cần phải có "bằng chứng". Giống như một số pháp sư đến Mỹ, chỉ độ được những người Trung Quốc vốn đã ở đây, người phương Tây không thấy được "thần thông" của pháp sư, họ sẽ chẳng có lý do gì để tin vào Phật pháp cả.

Có ông Hào Thi, mới gặp tôi lần đầu, đã muốn quy y theo tôi. Tôi nói: "Ông từ từ hẵng quy y." "Tại sao vậy?" Ông ấy không hiểu vì sao tôi không nhận ông. "Bởi vì qua việc chiêm đoán, tôi biết ông sắp quy y theo một vị thầy yoga đến từ Ấn Độ. Ông có duyên với vị ấy trước, sau đó mới có duyên với tôi. Duyên của chúng ta ở phía sau, nên tôi chưa nhận ông quy y. Đợi khi ông rời khỏi vị thầy yoga đó rồi hãy đến quy y với tôi, lúc đó tôi sẽ truyền pháp cho ông." "Tôi sẽ gặp một vị thầy yoga sao?" - Hào Thi ngạc nhiên hỏi. "Đúng vậy."

Khoảng hai tháng sau, Hào Thi lại đến tìm tôi và nói rằng những gì tôi đoán đều đã thành sự thật, bây giờ ông ấy đang theo học một vị sư phụ yoga người Ấn Độ, ông ấy rất vui mừng vì lời tiên đoán của tôi đã ứng nghiệm. Đồng thời tôi cũng biết rằng, một ngày nào đó khi Hào Thi rời khỏi vị sư phụ yoga đó, duyên thầy trò giữa chúng tôi mới thực sự bắt đầu, vì vậy ngay từ đầu tôi không muốn nhận ông ấy làm học trò ngay, bởi vì đó là do duyên phận vậy!

Thực ra mà nói, hiện nay tôi không chỉ có khả năng của "con mắt thứ ba", mà còn có khả năng biết trước thấy trước, đây là "năng lực siêu phàm" tự nhiên phát sinh từ việc tu trì Phật pháp của tôi. Khi còn ở trong nước, tôi đã nổi tiếng nhờ khả năng này, mỗi ngày phục vụ cho hai trăm người. Dĩ nhiên, lúc đó tôi cũng phải chịu đựng nhiều lời phỉ báng vô tình và tàn nhẫn từ mọi phía, phải chịu đựng đủ loại lời ác và sự bức hại. Tuy nhiên, khả năng này, trong nước như thế nào thì ở nước ngoài cũng vậy, trong quá trình tu trì của tôi, hiện tại còn tăng thêm nhiều năng lực không thể nghĩ bàn như vậy, mạnh hơn lúc ở trong nước gấp ba lần, năng lực hiện giờ không thể nào so sánh được với trước kia, đã đạt đến cảnh giới mà "Thiên nhãn, Túc mệnh, Thần túc, Tha tâm, Thiên nhĩ, Lậu tận" gần như đều bao gồm đủ cả, thông được một pháp thì thông được trăm pháp, đắc được một pháp thì đắc được trăm pháp.

Thành thật mà nói, về "bói toán và chiêm tinh", tôi chưa từng học qua. Đối với Tử Vi Đẩu Số, Hoàng Cực Số, tôi chỉ biết sơ lược, còn về xem tướng tay, xem tướng mặt, xem xương, Bát Quái, xem trọng lượng, thần số, tử vi và những thứ tương tự, tôi cũng chỉ biết một chút đại khái mà thôi.

Thật ra năng lực thực sự của tôi nằm ở việc tôi tu học Phật pháp, có thể sai khiến quỷ thần, rất nhiều thông tin đều do quỷ thần báo cho tôi biết. Tôi tự nhận phương pháp của mình là "thuật thông linh", phương pháp này không chỉ có thể biết được vận mệnh của trời đất vũ trụ, vận mệnh tương lai của nhân loại, mà còn có thể tính toán và biết được những điều nhỏ nhặt như nhân quả đời trước. Đây chính là Túc mệnh thông trong lục thông, có thể biết được năm trăm kiếp về trước và năm trăm kiếp về sau. Tất nhiên, những người chưa từng gần gũi tôi hoặc không hiểu về tôi sẽ không thể nào tin rằng trên đời có năng lực như vậy, và sẽ đưa ra những lời phỉ báng. Tuy nhiên, tôi cũng hiểu rằng, sự phỉ báng cũng là hiện tượng bình thường, bởi vì phần lớn người đời vốn là kẻ vô minh, còn người như tôi chỉ là thiểu số trong thiểu số.

Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế từng dạy: "Chiêm tinh, bói toán, đoán mệnh, tiên tri, tất cả đều là những dị tướng của ngoại đạo tu hành, người học Phật chân chính nên tránh xa."

Câu nói này cho thấy sự ngăn cấm của Đức Phật đối với việc chiêm tinh bói toán và đoán mệnh tiên tri. Theo như tôi được biết, Phật Đà có hai ý nghĩa về vấn đề này.

Thứ nhất, Thế Tôn không muốn mọi người mê đắm vào chiêm tinh bói toán và đoán mệnh tiên tri, bởi vì khi đã mê muội những điều này, công phu tu tập Phật pháp sẽ bị lệch hướng.

Thứ hai, chiêm tinh bói toán, đoán mệnh tiên tri là những phương diện bên ngoài của Phật pháp, có thể không liên quan gì đến Phật pháp, nên về căn bản đều nằm trong danh sách bị cấm. Ngay cả khi học Phật xong, đắc được lục đại thần thông cũng bị cấm tuyên dương, huống chi là chiêm tinh bói toán, đoán mệnh tiên tri, những thứ như vậy.

Tuy nhiên, sau khi học được chính đạo Phật pháp và đắc chứng, thần thông tự nhiên sẽ lộ ra, và những gì tự nhiên hiển lộ này không thể ngăn cấm được. Vì vậy, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng từng dạy rằng: "Sự hiển lộ tự nhiên của thần thông Phật pháp, tất cả đều do duyên phận mà có. Nếu có thể độ hóa chúng sinh hoặc giảm bớt nỗi khổ của chúng sinh thì có thể sử dụng, nhưng không được mưu cầu lợi ích cho bản thân, không được dùng vào mục đích chính trị, không được phô trương kỳ dị mê hoặc và hại chúng sinh. Thần thông có thể cứu độ người, nhưng cũng dễ khiến người mê muội."

Tôi cho rằng, bói toán và chiêm tinh đều là những môn học lớn, đặc biệt là thiên văn học càng là kiến thức không thể xem thường trong đời sống con người. Bói toán và xem tướng số không chỉ là môn học về quy nạp mà còn là môn học về các ký hiệu. Những môn học này vốn có chiều sâu học thuật, nếu nghiên cứu sâu thì sẽ thấy khó lường được, thậm chí có thể suy luận về nhân quả đời trước, để làm bằng chứng cho Phật pháp. Còn "thuật thông linh" lại càng là thứ vô hình, đây là một tầng học thuật sâu hơn những môn học bề mặt, là cảnh giới cao hơn, thuộc loại thần thông vô hình. Theo cách nói của thế tục thì đó là "quỷ thần mách bảo", phương pháp này người phương Tây khó có thể tin được.

Ngày nay, tôi đang ở phương Tây, người phương Tây đến quy y với tôi, tôi phải cho họ thấy bằng chứng. Nếu không cho họ thấy bằng chứng, họ sẽ hoàn toàn không tin Phật pháp. Để dẫn dắt họ tin Phật, phương pháp duy nhất là trực tiếp dùng Tha tâm thông để khiến họ tin phục, từ đó dần dần hướng dẫn họ đi vào con đường chân chính.

Việc tôi dùng bói toán và chiêm tinh chỉ là công cụ để hoằng dương Phật pháp. Nơi nương tựa thật sự vẫn là Phật. Bởi vì trên thế giới này, người có thể lĩnh ngộ được như vậy, tôi đã là thiểu số trong thiểu số, chính là một trong những người có thể hoàn toàn chính biến tri và giác ngộ.

10. Bước đầu tiên của pháp Than thi

Từng có một người diễn giảng pháp yoga Than thi của ông ta. Ông ta nói dùng pháp Than thi có thể đi xuyên qua ba lớp tường. Tuy ông ta giảng pháp Than thi, nhưng lại chưa nói ra cách làm pháp thật sự của pháp Than thi. Nhưng mà linh khí của ông ấy xuyên qua ba lớp tường thì cũng đã đủ khiến cho một số phàm phu ngưỡng mộ mà không hề biết vì sao lại như vậy.

Thật ra, nguyên lý của pháp Than thi là như sau:

Sơ tĩnh — Than thi tức là "giả chết". Tư thế của nó là hai tay duỗi, hai chân duỗi, nằm ngửa nhìn trời, tay chân đều hơi cong một chút, tức là tứ chi tay chân hơi cong. Miệng hơi mở ra, giống như là trạng thái chết nhưng chưa có người xử lý. Tư thế này trong thuật yoga gọi là "thi thể bày ra". Mục đích của than thi chính là yêu cầu bất động. Tôi từng nói, nếu con người từ sáng đến tối làm việc không nghỉ, nhục thể và linh thể đều bận bịu không ngừng, loại người này không có cách nào tập trung sức mạnh tinh thần được, trên phương diện của linh sẽ không có cách nào thành tựu được. Chỉ có ở trong trạng thái bất động mới có thể nhận thức được sự trưởng thành của linh. Cho nên than thi chính là đạt đến một trạng thái và khả năng của sơ tĩnh.

Tự tại — Nhờ thân tâm thả lỏng của pháp Than thi mà bước vào bên trong cảnh giới không nghĩ gì cả. Tuy nhiên, cảnh giới không nghĩ gì cả này chính là cảnh giới tự tại rất khó đạt đến. Cảnh giới này đâu chỉ là ba bức tường ngăn, cho dù cả thế giới vũ trụ thì trong một giây cũng có thể đến được. Cần biết rằng từ sơ tĩnh đến tự tại là sự buông lỏng hoàn toàn của nhục thể, linh lực thay thế cho tất cả sức mạnh khác. Hoạt động của linh lực đâu chỉ dừng lại ở ba bức tường mà thôi. Cảnh giới cao nhất của pháp Than thi là thân ta chính là vũ trụ, vũ trụ chính là thân ta.

Tôi cảm thấy con người trên thế giới này, rất nhiều người đều rất đáng thương và vô tri, họ chỉ biết đến xã hội vật chất mà không biết đến thế giới tinh thần, cho dù người này rất giàu có, mặc âu phục vào thì giống như một con người kiểu mẫu, giống như một thân sĩ tôn quý, còn phu nhân của họ thì cũng có cách ăn mặc với phục sức hạng nhất, bề ngoài nhìn vào thì rất rạng ngời và quyến rũ. Nhưng trong con mắt của tôi, tôi nhìn thấy thế giới tinh thần của họ chỉ là quả trứng tròn. Tôi nhìn thẳng vào bên trong những bộ quần áo đẹp bóng bẩy đó là một khối thịt thối bốc mùi khiến người ta buồn nôn. Thật ra trong con mắt của tôi, họ là đám người đáng thương nhất tội nghiệp nhất.

Ở Seattle, có một phu nhân họ Lý, có thể xem là một người khá giàu có trong số những người Trung Quốc, lái một chiếc xe vừa to vừa sang trọng, mặc quần áo sang và đắt tiền nhất. Bà ấy cũng kinh doanh công xưởng, trong mọi bữa tiệc, bà ấy rất được quan tâm, luôn luôn nhìn người khác ở dưới mũi của mình. Rất hiển nhiên, bà ấy cũng nghe đến tên tuổi của tôi được lan truyền ở đây, thế là bà ấy tìm cơ hội đến gặp tôi, tuy nhiên tôi cố ý cho bà ấy vấp phải sự khước từ. Tôi lấy cớ là bận việc, liên tiếp từ chối ba lần. Tôi muốn cho những kẻ "gối thêu hoa" vật chất và trần tục này nhận thức về sự tôn quý của thế giới tinh thần. [Gối thêu hoa là từ lóng, để chỉ người chỉ có vẻ bề ngoài mà không có học thức tài năng.] Làm nhụt cái thói cậy có tiền mà ngạo mạn của bà ấy, sau đó tôi mới bằng lòng dạy Phật pháp cho bà ấy. (Ở bất kì ngóc ngách nào của thế giới đều có những nhân vật trần tục như vậy.)

Hôm nay tôi có một cảm ngộ đặc biệt, người học Phật pháp không chỉ hiểu Phật lý, cũng phải đi thực hiện Phật lý đó. Và mỗi người nhập Phật môn chân chính phải tự mình nỗ lực thực hiện, cố gắng tiến bộ. Và Phật pháp cơ bản nhất chính là cầu đắc môn tịnh tu, như vậy mới có thể đạt được đại tự tại chân chính. Những phương pháp này phàm phu thế tục không hiểu, thân sĩ và thục nữ lại càng không hiểu, giai cấp người có tiền sống trong hư giả càng không thể hiểu được.

Bước thứ nhất của pháp Than thi là như sau:

Tưởng tượng chính mình đã chết rồi. Trước tiên bắt đầu từ hít thở, hít thở chậm và yếu, cho đến khi không nghe được âm thanh của hơi thở nữa thì mới thôi. Chân hoàn toàn mất đi tính đàn hồi, không có chỗ nào dùng sức, hai chân mất đi tác dụng. Hai tay mềm và lỏng ra, mọi sức lực đều tiêu biến, cơ thịt của chân tay đều đã lỏng ra rồi, không còn một chút căng nào. Tay không có lực, chân không có lực, cơ thịt đều không còn tác động gì, giống như những vòng thép quấn xung quanh cái thùng gỗ đã bị đứt rồi, từng mảnh gỗ nhỏ của cái thùng gỗ đều rời rạc ra.

Sau đó, các bộ phận bên trong thân thể là dạ dày, thận, bàng quang, phổi, tim, gan, v.v… đều không cần có công dụng hoặc tác dụng gì nữa, toàn bộ đều biến thành trạng thái dừng hẳn. Cổ cũng không được tùy ý xoay chuyển, cứ để nó gục xuống một cách tự nhiên. Mắt cũng nhắm tự nhiên, tất cả ánh sáng đều ở bên ngoài mí mắt. Tai cũng bịt lại, tất cả âm thanh trong vũ trụ cũng không nghe thấy một tí gì, không nhìn thấy. Cơ miệng cũng phải thả lỏng, biểu hiện của bộ mặt có thể dùng một chữ để đại diện, đó chính là "chết". Toàn bộ tâm trí tiến nhập vào trạng thái chân không.

Cách làm pháp Than thi, về mặt vật lý thì khá dễ dàng, nhưng về mặt tâm lý thì tương đối khó khăn. Nói cách khác là, về biểu hiện bên ngoài thì ai ai cũng có thể làm được rất giống, nhưng than thi về mặt tâm lý thì lại không dễ dàng. Những quý ông quý bà bình thường ngày ngày đều soi tiền, có thể dừng dứt những dục vọng của họ thì chẳng thể nào nhanh được, đây cũng là đạo lý dễ hiểu. Nhìn chung, tâm của người văn minh, mỗi ngày đều có thói quen khẩn trương bận rộn, muốn chế ngự ma chướng của tâm này không hề dễ dàng.

Chúng ta có thể học tập những con rùa trong ao phóng sinh, những con rùa đó cứ nằm im trốn trong một xó của cái ao, dường như là chúng nằm im không hề động đậy, im lặng giữ khí như trạng thái chết, đây chính là pháp Than thi của đạo trường sinh. Ta lại xem hình dáng của con hạc, nó đứng một chân trong rừng rậm, cái tướng bất động này, nó có thể đứng im rất lâu rất lâu, đây cũng chính là đạo im lặng giữ khí. Ta lại nhìn con mèo, thân thể nó cuộn tròn lại với bộ dạng uể oải, hai mắt lim dim nằm dưới nắng, cái bộ dạng tất cả thân tâm đều thả lỏng, chính là bề ngoài của pháp Than thi.

Phải nhớ, tâm lý không được căng thẳng lo lắng, gạt bỏ hết những suy nghĩ và chuyện thế tục, biến thành trạng thái tất cả đều lờ đờ uể oải. Có một số người không cách nào không nghĩ, vậy thì chỉ còn cách là nghĩ đến hình chữ của tâm chú của Phật Bồ Tát, nghĩ đến những chữ Phạn phóng ra ánh sáng, ánh sáng lam màu xanh lam, ánh sáng đỏ màu đỏ, ánh sáng trắng màu trắng, các loại ánh sáng, cực kì sáng, cho dù là như vậy thì cũng là rất có sức mạnh rồi. Sau cùng, tốt nhất là khiến tất cả ánh sáng này hoàn toàn biến mất không thấy nữa, như vậy mới có thể thật sự hưởng thụ được trạng thái thân tâm hoàn toàn thả lỏng và đạt đến đại khoái lạc chưa từng có.

Cần biết dùng pháp Than thi mới xuyên qua được ba lớp tường, công phu này có thể xem là dở tệ. Tác giả từng vận dụng pháp Than thi để vào âm gian địa ngục. Cần biết rằng pháp Than thi là bước thứ nhất của thiền định tâm, công phu đến mức sâu rồi thì nội tâm và ngoại cảnh có thể hợp nhất, căn bản chính là một hiện tượng tan vào hư không, quên luôn bản thân mình, tứ chi giống như cỏ cây vậy, lửa có thiêu hay dao có chém thì căn bản là chẳng có cảm giác gì. Ánh sáng chiếu vào bên trong, trong thân trong suốt óng ánh, tự nhiên không còn chuyển động gì. Lúc này chỉ có hồn, phách, linh, niệm, tinh thần, nếu những thứ này có thể tập trung vào một chỗ thì tự nhiên trong ánh sáng hư không mười phương rộng mở, tất cả trở thành vô ngại, muốn vào địa ngục Hữu gián, địa ngục Vô gián, địa ngục A tì đều chẳng khó khăn gì, đến đi tự do.

Tôi từ địa ngục Vô gián đi đến địa ngục A tì, gặp một Quỷ Vương. "Dựa vào gì mà tới?" - Quỷ Vương hỏi. "Dựa vào nguyện lực." - Tôi đáp. "Dựa vào pháp gì?" "Pháp Than thi mà tới đây." - Tôi đáp. "Pháp Than thi chỉ là pháp thả lỏng thân tâm, có khả năng gì mà đến được đây chứ?" - Quỷ Vương không tin. "Tôi có tâm không sinh không diệt, là chân tâm diệu giác bản minh, tuy là pháp Than thi, thế nhưng đã chứng đắc quả Tu Đà Hoàn, đã đoạn trừ tất cả nội trong tam giới, cho nên cũng có thể đến nơi này." - Tôi nói. "Ngươi tên gì?" "Liên Sinh." - Tôi đáp. "Ồ! Ngài là Liên Sinh, thì ra là người phụng trì Địa Tạng Vương Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn đà-la-ni, tay cầm diệu liên hoa màu trắng, là hành giả kim cang vương bảo giác, bậc tôn giả đội hồng quán thánh miện hạ sinh, vậy thì tự nhiên có thể đến, đúng là tự nhiên có thể đến." - Quỷ Vương trở nên hết sức vui vẻ và mừng rỡ.

Tôi có ý nguyện vào địa ngục, là vì vào địa ngục độ chúng sinh cõi u minh chứ không phải bị bắt vào địa ngục. Người bị bắt vào địa ngục không phải là hành giả, mà là chúng sinh điên đảo không thanh tịnh.

11. Chỉ dẫn của tượng thánh

Buổi sáng ở Seattle, ánh nắng vàng rực rỡ chiếu xuyên qua cửa chính, và vào lúc hoàng hôn, nó lại rọi qua những cành cây anh đào vào căn bếp nhà tôi. Dù là sáng hay chiều, trong khu dân cư yên tĩnh trên đồi này, chẳng thấy bóng người, không nghe một tiếng động, không có tiếng rao bán ồn ào của chợ sớm, không có tiếng nước suối róc rách, chỉ thỉnh thoảng vọng lại một hai tiếng chim hót, đó là âm điệu tự nhiên từ những cây to nơi đồng hoang.

Không khí vô cùng trong lành, có thể tưởng tượng được, không có ruồi, không có muỗi, không có gián, không có chuột, trên thảm cỏ xanh không có kiến, một môi trường như thế, còn gì để nói nữa.

Mỗi ngày vào sáng sớm và hoàng hôn, tôi cung kính thắp hương trầm trước bàn thờ trong phòng khách, thành kính làm công khóa sáng và tối của mình. Chính giữa mật đàn của tôi thờ giáo chủ cõi Tây phương Cực Lạc A Di Đà Phật, bên phải thờ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, bên trái thờ giáo chủ cõi u minh Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi dùng tượng Tây phương Tam Thánh để trang nghiêm đàn tràng của mình, mật đàn được trang hoàng bằng vòng hoa sen nhiều màu tạo thành hình tròn, như những chữ Phạn tỏa ra ánh sáng nhiều màu, hai bên đều có pháp khí Kim cang Hộ pháp, chính giữa đàn đặt chuông kim cang, chày kim cang, kinh chú Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm để trấn giữ đàn này, trong đàn có nhiều người cầu bình an, dùng giấy trắng ghi thông tin của họ, đặt yên trong đàn.

Mỗi ngày, công khóa của tôi đại khái như sau:

Thứ nhất, tôi trì niệm chú triệu thỉnh "Ôm pê-cha sa-ma-ya cha", niệm vô số biến cho đến khi thấy chư Phật Bồ Tát hiện đến mới thôi.

Thứ hai, tôi làm đại lễ bái. Một lạy mười phương ba đời tất cả chư Phật (dùng ấn lạy Phật), hai lạy tất cả chư Bồ Tát Ma Ha Tát (dùng ấn hoa sen nở), ba lạy chư vị Hộ pháp Kim cang thần chúng (dùng ấn chắp tay kim cang), bốn lạy (dùng ấn bình đẳng) một cúi đầu, lễ kính mười phương tất cả thánh thần tiên Phật các thánh linh.

Thứ ba, tôi trì tụng chú tứ quy y: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê." Tụng ba lần và lễ ba lạy.

Thứ tư, tôi quán tưởng đại cúng dường. Cúng dường trà, hương, đèn, hoa, quả và các phẩm vật khác.

Thứ năm, tôi tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh hai biến, tùy theo điều cầu nguyện mà có lúc tụng thêm các kinh chú khác.

Thứ sáu, tôi quán tưởng thánh tượng A Di Đà Phật, thấy trên đỉnh đầu của A Di Đà Phật có ánh sáng trắng chiếu xuống tôi, nơi cổ họng có ánh sáng đỏ chiếu xuống tôi, nơi tim có ánh sáng xanh lam chiếu xuống tôi, tôi đi vào trong tâm của A Di Đà Phật, ngồi trên tòa sen, rồi niệm tâm chú A Di Đà Phật: "Ôm a-mi-tê-wa sê" 108 biến.

Thứ bảy, tôi thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen an trụ ngay trước mặt tôi, từ trong bình báu phóng ra một đường hào quang trắng như thủy ngân, hào quang này theo một đường cong, từ đỉnh đầu tôi rót thẳng vào khắp thân thể, khiến tất cả nghiệp chướng đời quá khứ của tôi đều chuyển thành khí đen, thoát ra ngoài qua các lỗ chân lông, tan biến vào trong không khí, toàn thân tôi trở nên thuần trắng. Tôi liền niệm tâm chú Quan Thế Âm Bồ Tát: "Ôm ma-ni pê-mi hum" tổng cộng 108 biến.

Thứ tám, tôi thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát ngồi trên tòa sen, một tay cầm tích trượng, một tay cầm viên minh châu, đầu đội mũ Ngũ Phật, kim thân hóa thành một điểm ánh sáng, từ đỉnh đầu tôi đi vào tâm tôi, ngồi trên tòa sen trong tim tôi, thân Địa Tạng Vương Bồ Tát dần dần lớn lên, cho đến khi bằng với thân tôi thì dừng lại. Lúc này tôi kết ấn tay Địa Tạng Vương, miệng tụng Địa Tạng Vương Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn": "Ôm pẩn-la-mô lin-thô-lin sô-ha." tổng cộng 108 biến.

Thứ chín, nhập định, tĩnh tọa.

Thứ mười, sau khi xuất định, liền làm hồi hướng: "Nguyện người cùng niệm Phật, cùng sinh cõi Cực Lạc, trên báo bốn ơn sâu, dưới cứu ba đường khổ, thấy Phật thoát sinh tử, như Phật độ tất cả." Cầu chúc Liên Sinh và các đệ tử thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành, giúp cho mọi việc Liên Sinh hỏi đều linh nghiệm, mọi việc làm đều có cảm ứng. Con và chúng sinh trong pháp giới, cùng quy y Thượng sư Phật pháp tăng, vì độ sinh phát tâm từ bi hỷ xả, nguyện thân khẩu ý như Bổn tôn thành tựu.

Thứ mười một, hóa thực cho đại bàng Kim Sí Điểu, chúng quỷ thần hoang dã, La Sát Quỷ Tử Mẫu và các vị khác.

Thứ mười hai, lại làm đại lễ bái. Ba lạy một cúi đầu. Xuất đàn.

Mỗi ngày sáng tối tôi đều làm công khóa như vậy, đây là công khóa do chính tôi sắp xếp, khác với công khóa sáng tối thông thường của Hiển giáo, cũng có đôi chút khác biệt so với pháp tu trì công khóa sáng tối thông thường của Mật tông. Tuy nhiên, mỗi ngày sau khi hoàn thành công khóa sáng tối như vậy, không phải là đối phó hay hình thức, mà thật sự đạt đến trạng thái thân tâm đều định. Mỗi lần nhập định đều có thể đạt được tam muội đại định, bất cứ việc gì sắp xảy ra với tôi trong tương lai, đều có phúc thần đến báo cho tôi biết, ba mươi sáu vị phúc thần luôn luôn bảo hộ, chư vị Hộ pháp Kim cang tràn ngập khắp hư không, tôi đã đạt được Đại thủ ấn và Đại viên mãn.

Tôi xin thành thật nói rằng, trong thời gian ở Seattle, Hoa Kỳ, linh quang của Tổ sư đời thứ nhất của Hồng giáo Mật tông Tạng mật - Đại Sĩ Liên Hoa Sinh đã luôn từ bi chỉ dạy tôi, và công khóa sáng tối của tôi chính là pháp tu được sắp xếp dưới sự hướng dẫn của Ngài. Tôi hỏi: "Đại Sĩ đến như thế nào?" Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy: "Ta không đến đi, chỉ cần người nào tin ta, ta liền hiện trước người đó để thuyết pháp."

Một số diệu pháp Mật tông của tôi chính là do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền cho, và dĩ nhiên, tôi cũng đã được Ngài quán đảnh.

Dĩ nhiên, ngoài công khóa hàng ngày, tôi còn tọa thiền tại Linh Tiên Các và tu tập các pháp khác, ví dụ như: pháp Chuẩn Đề Phật Mẫu, pháp Đạt Ma Tổ Sư, pháp Bạch Tản Cái Phật Mẫu, pháp Ngũ Phật gia trì, pháp Văn Thù, pháp Tứ Thủ Bát Thủ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm, pháp Phổ Hiền, pháp cưỡi hoa sen, pháp Tịnh độ, pháp Hoàng Hắc Bạch Tài Thần, pháp đại bảo lâu các Tam Phật, pháp Kim Cang Tâm, pháp Bạch Độ Mẫu, pháp Lục Độ Mẫu, pháp Đại Phật Đảnh, pháp Dược Sư, pháp Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, pháp năm trăm La Hán, pháp Liên Hoa Đồng Tử, pháp Tứ gia hành, pháp Trường Thọ Phật, pháp Ngũ Kim Cang, pháp 21 Độ Mẫu, pháp ba Bổn tôn, pháp Tứ Thiên Vương, pháp Trà Cát Ni, pháp Đại Hắc Thiên... v.v.

Trong mỗi lần tu pháp, những cảnh giới kỳ diệu của tôi càng ngày càng nhiều, càng ngày càng cao và càng thêm tự tin. Công khóa hàng ngày đã đưa tôi vào một cõi giới không thể nghĩ bàn. Tôi tin rằng nếu không có căn cơ to lớn bẩm sinh hoặc đã trải qua nhiều thử thách lớn, không có kiến thức hay trí huệ phong phú thì không thể bước vào cảnh giới này. Ví dụ như tôi đã tận mắt thấy được hình ảnh Phật A Di Đà, thấy được ba đường hào quang, thấy được hình tướng Bồ Tát Quan Thế Âm, thấy được ánh sáng trắng như thủy ngân hóa ra từ tịnh bình, thấy được đại quang minh của Bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát đi vào tâm tôi. Tôi tiếp nhận sự khai thị và chỉ dẫn, rồi dùng pháp của mình để thực hành trên mặt đất. Tuy thân tôi an tĩnh ở Seattle, nhưng còn việc gì mà không thể biết? Tôi đã có thể tự chủ, làm chủ sinh tử, đã đạt được giải thoát, chân thân bất tử, sinh mệnh vô tận. Tôi muốn làm chứng thực sự cho sự thật của Phật pháp.

Lúc bình minh, tôi thắp hương làm công khóa. Buổi tối, tôi cũng thắp hương làm công khóa. Từng ngày từng ngày trôi qua, từng ngày từng ngày trôi qua, có lẽ rồi cũng sẽ từng năm từng năm trôi qua. Tại Linh Tiên Các, tôi có thể nhìn thấy nhiều mái nhà của người phương Tây, nhìn thấy những ngọn núi hùng vĩ, phóng tầm mắt xuống con đường dài, trong khoảnh khắc tĩnh lặng, tôi cũng nghĩ đến chúng sinh ở nơi xa xôi, học trò của tôi hiện đang tản mác khắp nơi, có mặt ở mọi nơi trên thế giới, nếu họ có thể hiểu được, nhất định phải học cách đi đến đích đến của sự thành Phật, ngoài việc tu dưỡng tâm linh, mỗi người đều nương theo pháp Bổn tôn mà tu học, ngày qua ngày, năm qua năm, tự nhiên sự chứng đắc sẽ trong tầm tay.

Số mệnh gian khó, vất vả mới chính là đá thử vàng của bản thân. Số mệnh hưởng phúc, vui sướng thì không thể kiên tâm hướng về Phật.

Tôi viết kệ rằng: Cầu nguyện chư Phật gia trì lực, Đệ tử kiên tâm học tọa liên; Quán xét phúc phận đều phế vật, Hạt giống nở hoa đầy giác viên.

Bài kệ này, khuyến khích các đệ tử.

12. Học tập lại học tập

Rất lâu rất lâu về trước, Phật Thích Ca Mâu Ni và tôn giả A Nan đối đáp tại tinh xá Kỳ Đà Lâm, Phật Thích Ca Mâu Ni từ nhục kế trên đỉnh đầu phóng ra ánh sáng bách bảo vô úy, trong ánh sáng hiện ra nghìn cánh sen, trong mỗi đóa sen đều có Hóa Phật ngồi, tuyên thuyết thần chú tối thượng vô thượng. Thần chú này là vua của tam muội.

Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi A Nan tại tinh xá Kỳ Đà Lâm. "Tâm ở chỗ nào?" "Tâm ở trong thân." - A Nan đáp. "Không đúng."

"Tâm ở chỗ nào?" - Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi. "Tâm ở ngoài thân." "Cũng không đúng."

Tâm ở chỗ nào?" - Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi lần thứ ba. "Không ở trong, không ở ngoài, vậy thì ở giữa trong và ngoài." "Càng không đúng."

"Tâm ở chỗ nào?" - Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi. "Tâm ở trong tự nhiên." - A Nan lần này tưởng rằng mình đã trả lời đúng. Nào ngờ, "Vẫn sai."

Cuối cùng, Phật Thích Ca Mâu Ni mới dạy: "Tâm ở trong là nhục tâm, tâm ở ngoài là không tâm, tâm ở giữa là vọng tâm, tâm ở tự nhiên là vô tâm. Tất cả những tâm này đều là hư vọng không thật, là tâm do nhân duyên hòa hợp mà sinh, khi nhân duyên phân tán thì không còn. Còn chân tâm vốn có chính là diệu giác minh thể của mười phương chư Phật, vốn đều ở trong Như Lai tạng, tịch nhiên thường chiếu, không sinh không diệt, không đến không đi. Tu hành thành Phật không phải là đuổi theo vọng tâm, mà là hiển lộ chân tâm vi diệu của Như Lai. Vốn dĩ diệu giác minh thể của mười phương chư Phật mới chính là tâm chân như."

Từ cuộc đối đáp giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và tôn giả A Nan, tôi cảm nhận được hương vị triết học rất đậm đà trong cuộc đối thoại này, không chỉ vậy, nó còn vô cùng thâm sâu. Phật học là đạo lý cực kỳ thâm diệu, trong việc "chinh phục tâm, phân biệt vọng" và "luận kiến hiển chân", quả thực không phải là việc làm qua loa đại khái, mà là việc tinh tế vi diệu không thể nghĩ bàn, qua đoạn đối đáp này, chúng ta có thể thấy được trí huệ vô tận của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Còn nữa, trong cuộc đối đáp giữa vua Ba Tư Nặc và Phật Thích Ca Mâu Ni còn có một ý cảnh khác. Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: "Hiện nay ngươi vẫn khỏe mạnh, nhưng thân thể này là vĩnh viễn bất hoại, hay là ngày càng suy tàn?" "Từ khi có thân thì đều biến đổi và hoại diệt." "Làm sao biết được?" - Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi. "Thuở thiếu niên, da dẻ mịn màng tươi trẻ, đến tuổi thanh niên, khí huyết cường tráng, nay đã về già, dung nhan khô héo, tinh thần mê muội, già nua lụ khụ, đó chính là bằng chứng." - Vua Ba Tư Nặc đáp.

"Dung mạo già đi như thế nào?" "Mỗi người đều có thể nhận thấy dung mạo của mình thay đổi, từ trẻ đến già, dung mạo càng ngày càng đổi khác. Một hai ngày không thấy gì, mười hai mươi ngày cũng chẳng cảm nhận được, nhưng thực ra vẫn âm thầm biến chuyển. Cứ mỗi mười năm tính là một giai đoạn, sự thay đổi diện mạo ấy thật đáng kinh ngạc. Thực tế là năm này qua năm khác đều thay đổi, tháng này qua tháng khác đều có biến đổi, thậm chí ngày này qua ngày khác cũng đều thay đổi, chỉ là bản thân không để ý mà thôi. Từng sát-na với sát-na, từng niệm với niệm, đều có sự biến đổi."

Đoạn đối thoại này khiến tôi vô cùng chấn động, tôi có thể soi gương, có thể lấy ảnh ra so sánh, mười năm trước là một dáng vẻ như thế nào, mười năm sau lại là một dáng vẻ ra sao, mười năm trước còn như quả mận xanh non, nhưng mười năm sau, tất cả đều như đã chín mọng. Người gầy đã trở nên mập ra, thân hình mảnh mai đã trở nên đẫy đà, tóc đen đã điểm vài sợi bạc, mí đơn đã thành mí kép, đó chính là dấu vết của thời gian năm tháng. Ôi! Thời gian thật kỳ diệu và trôi qua nhanh quá, nỗi cảm thán này vừa là một nỗi buồn, vừa là một sự bất lực vô nghĩa!

Hôm nay, tôi - một hành giả ở Seattle nói rằng, chúng ta cần phải tinh tấn hết lòng! Nỗ lực lắng nghe Phật pháp được giảng dạy, đọc kinh điển, tư duy để thấu hiểu, quy y, học hỏi pháp của bậc minh sư. Hiểu biết nhiều là điều cần thiết, nhưng ngoài hiểu biết nhiều ra, còn phải thực tu một cách vững chắc, chỉ nghe, chỉ đọc, chỉ hiểu thôi vẫn là vô ích, tất cả những điều này nhất định phải thực tu mới có lợi ích, như vậy mới là hành động sáng suốt.

Tôi có một người bạn tu hành gửi thư kể với tôi rằng, về phương diện tu trì, anh ấy để mọi việc tự nhiên, khi tâm trạng tốt thì tinh tấn một chút, khi tâm trạng không tốt thì dừng bước, cứ dừng như vậy có khi đến ba bốn tháng. Tôi khuyên anh ấy rằng, tâm trạng vốn là sự sinh diệt của vọng tâm, phải phá trừ tâm trạng không tốt này đi, phải dùng tâm chân như để tu trì, tinh tấn hàng ngày mới là điều đúng đắn, một ngày đánh cá ba ngày phơi lưới, thái độ như thế là không được, phải giữ vững ý niệm tinh tấn hàng ngày, như vậy mới là một sự bảo đảm cho việc tu hành thành công, đây là ý niệm mà người tu trì cần phải có.

Tôi có một người bạn khác, anh ấy rất nghiêm túc muốn tu hành, và cũng là một giáo sư đại học. Cứ khi gặp vấn đề gì, anh ấy liền chạy đến tìm tôi để hỏi, lúc hỏi này lúc hỏi kia, ghi chép của anh ấy có đến hàng chục cuốn, đây quả là một vị giáo sư "hiểu biết nhiều". Tuy nhiên ngoài việc đó ra, vị giáo sư này cứ mỗi ngày chỉ nghĩ về các vấn đề, suy ngẫm về các vấn đề, tìm cách lĩnh hội Phật lý, đây là chỉ tìm cách hiểu vấn đề mà quên mất tầm quan trọng của việc thực tu. Bản thân dù có hiểu rõ Phật lý, nhưng không có sức mạnh của sự tu trì, thì cũng giống như đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, định nấu một món ăn ngon, nhưng lại không có lửa để nấu, chỉ đẹp mắt mà không ăn được, đây là một chướng ngại do thiên lệch về một phía.

Nói thật lòng, trong quá trình tu tập ở Seattle, tôi chưa từng có một ngày lơi lỏng, tôi hoàn toàn theo đuổi cả tri thức và thực tu. Những Phật sự khác liên quan đến tu trì cũng đều được thực hiện đúng thời khóa. Tôi biết rằng, đời người rất ngắn ngủi, thân thể con người rất mong manh, chỉ cần gặp một cú va chạm mạnh, thân xác máu thịt này rất dễ bị hủy hoại. Mặt trời lặn về Tây, gió đêm nổi lên, một ngày lại trôi qua, và ta lại già thêm một ngày.

Tội nghiệp thay cho một số người, họ lớn tuổi hơn tôi, về mặt hiểu biết Phật lý thì kém xa tôi, về mặt thực tu thì hoàn toàn không có gì, mặc dù ban đầu họ cũng theo tôi, khởi tâm phát nguyện một chút, nhưng rồi cái tâm tu trì đó đã bị vứt lên tận chín tầng mây. Giờ đây họ đắm chìm trong rượu, sắc, tiền, khí. Chân đã lún trong bùn lầy, gần như ngập đến đầu rồi. Điều kỳ lạ hơn nữa là họ tìm lý do để hưởng thụ, đợi ba năm nữa rồi tu, đợi năm năm nữa rồi tu, đợi mười năm nữa rồi tu, đợi già rồi tu, việc tu trì mà cũng dùng chữ "đợi", đến khi tuổi già sức yếu, mái đầu xanh đã bạc, đầu óc mê muội chân bước run rẩy, xin hỏi phải nhờ người dìu đỡ, lúc bấy giờ, còn tu được gì nữa? Thật đáng thương, thật đáng thương thay! Trong con mắt thứ ba của tôi, màu sắc linh quang trên thân họ, từ vàng chuyển thành xám rồi thành đen, trong tương lai không còn nghi ngờ gì nữa, vì sự mê muội của họ, sẽ đọa vào đường súc sinh, vĩnh viễn không có ngày ra.

Ở Seattle, tôi tiếp tục công việc của một hành giả, tiếp tục quy y với sư phụ, tiếp nhận quán đảnh ở cấp độ cao hơn, sống một cuộc sống thanh tịnh và tuân theo đạo lối của mình. Tôi cho rằng chuyến đi Mỹ này rất đáng giá, ít nhất là tất cả những "tạp âm" đã không còn nữa, kể cả những lời phỉ báng từ một số người trong nước. Tôi chỉ đang đi về một đích đến đã biết trước, trong tương lai tôi sẽ đội vương miện vinh quang mà Phật ban tặng, tôi sẽ bay lên không gian vô tận. Cái chết chỉ là sự từ bỏ cái vỏ thân xác hôi thối này, để trở về biển chân như của mười phương chư Phật.

Phật học sâu như biển. Thời gian trôi quá nhanh. Thân này không độ trong đời này. Biết đến bao giờ mới độ thân?

13. Màu sắc của linh hồn

Tôi được mời đến một công ty có quy mô khá lớn, tên công ty là West Coast, và chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty là Jimmy Jay. Công ty này có nhà hàng riêng, sản xuất các sản phẩm nhôm và có chi nhánh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Người phụ trách mời tôi đến chủ yếu vì nghe danh tiếng của tôi (do người của công ty Boeing giới thiệu), và muốn tôi dùng con mắt thứ ba để xem xét các cán bộ của ông ấy.

Người đầu tiên đứng trước mặt tôi là một quý ông da trắng tóc vàng với phong thái thanh thoát. Ông tự giới thiệu tên là Steve Hammick, giữ chức tổng giám đốc của công ty. Tiếng Anh của ông rất chuẩn, với đôi chân dài, đứng trước mặt tôi cao hơn tôi cả một cái đầu. Chúng tôi bắt tay nhau, và tôi quan sát linh khí trên người ông (màu sắc của linh hồn), là một màu hồng tươi sáng tỏa ra bốn phía, ánh mắt ông mang vẻ không ổn định và hơi kiêu ngạo.

Sau khi ông ấy đi khỏi, tôi nói với Jimmy Jay rằng: "Tổng giám đốc của ông là một 'công tử hào hoa' điển hình, tâm địa tốt, nhưng chỉ bỏ ra một nửa công sức cho công việc. Anh ta không lo lắng cho sự nghiệp của ông đâu, chỉ quan tâm đến việc vui chơi hôm nay thôi, và rất giỏi thay đổi bạn gái."

Jimmy Jay ngậm tẩu thuốc, mỉm cười và nói: "Mọi điều anh nói đều đúng cả. Anh ta là thành viên câu lạc bộ công tử, vui vẻ là bản tính của anh ta, hay thay đổi bạn gái, hiện tại có khoảng bảy người đấy! Tuy nhiên, tôi đánh giá cao tấm lòng tốt của anh ta. Dù không nghiêm túc với công việc, nhưng anh ta có quan hệ tốt với mọi người, không ăn cắp đồ, không phản bội chủ. Anh chàng này chỉ có được những ưu điểm đó thôi."

Người thứ hai xuất hiện trước mắt tôi là một phụ nữ ăn mặc gọn gàng, khoảng ngoài năm mươi tuổi, trên mặt có một vài nếp nhăn được che đi bằng phấn trang điểm, mắt màu xanh nhưng hơi ánh xám, tóc vàng nhưng đã điểm bạc đôi chút. Bà ấy gật đầu chào tôi với một nụ cười nhẹ, khi cười lộ ra lúm đồng tiền, có thể thấy hồi trẻ bà ấy từng là một mỹ nhân. Bà mặc áo màu xanh lá có nơ, quần jean. Jimmy Jay cho tôi biết đây là thư ký của ông ấy, tên là Anya. Tôi quan sát linh khí trên người bà ấy, màu trắng nhưng pha chút xám.

Tôi nói: "Đây là một phụ nữ rất đứng đắn, vì thế linh khí của bà ấy có màu trắng, nhưng bà ấy đang sống không hạnh phúc, trong màu sắc linh hồn của bà ấy pha lẫn màu xám u sầu, điều này báo hiệu có chuyện không may xảy ra. Ông có thể tin tưởng vào lời nói và hành động của bà ấy, và giao phó công việc cho bà ấy một cách yên tâm, nhưng sao không giúp bà ấy thoát khỏi nỗi buồn đó?"

Jimmy Jay nói: "Nhận xét của anh thật đáng kinh ngạc, bà ấy quả thực là một người tốt, nhưng nỗi buồn của bà ấy không thể xóa bỏ được, tuần trước chồng bà ấy vừa mới qua đời vì tai nạn xe."

Người thứ ba bước vào cũng là một phụ nữ, tên là Ari, kế toán của công ty. Cô ấy rất xinh đẹp với những đường nét thanh tú. Vừa bước vào, cô đã tự nhiên ngồi xuống trước bàn làm việc lớn của Jimmy Jay. Cô mặc quần jean, áo sơ mi hoa, má ửng hồng, chào tôi một tiếng "Hi" rồi bắt đầu trò chuyện với Jimmy Jay. Tôi quan sát linh khí trên người cô ấy, màu sắc là hồng đào, cho thấy cuộc sống khá lãng mạn, nhưng trong màu hồng đào đó có hai vết nứt. Quan sát kỹ hơn, tôi phát hiện trong màu sắc của cô ấy lấp lánh những sắc thái dao động không chân thành và giả dối. Qua linh khí cho thấy, người phụ nữ xinh đẹp này mới thực sự là một nhân vật nguy hiểm, sự giả dối và làm màu của cô ta đều là giả tạo. Sau khi phát hiện điều này, tôi cân nhắc có nên báo cáo với chủ của cô ta hay không, bởi vì sự tồn tại của một nhân vật nguy hiểm như vậy chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng và xâm hại đến công ty. Nếu nhận định của tôi không sai, Ari có tính phá hoại, nếu nắm giữ quyền hành về kế toán của công ty, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của toàn công ty.

Sau khi cô ấy rời đi, tôi nói với Jimmy Jay: "Xin lỗi vì phải nói điều này với ông, nhưng đây là vấn đề nghiêm trọng, Ari này là một nhân vật nguy hiểm, bề ngoài cô ta cười, nhưng trong lòng lại chứa đầy oán hận, cô ta có những dao động không chân thành. Đồng thời cuộc sống của cô ta quá lãng mạn, có hai vết nứt, cho thấy cô ta đã từng có hai thai nhi, nhưng giờ không còn nữa, không còn ở trên đời này nữa, ông nên đặc biệt chú ý đến cô ta."

Sắc mặt Jimmy Jay trở nên xúc động, ông nắm tay tôi: "Cảm ơn! Master, ngài đã nhìn thấu tất cả, cô ấy quả thật đã có hai thai nhi, một của chồng cũ, một là của tôi. Nhưng cả hai đều đã bị phá bỏ." Ông ấy nói rất chân thành: "Tuy nhiên, cô ta chỉ nhăm nhe tài sản của tôi, lại còn thông đồng với giám đốc đối ngoại của công ty tôi, người tên là Walker, hai người họ đã làm những trò mờ ám về tiền bạc và hàng hóa. Chuyện này tôi đã sớm nhận ra, nhưng vẫn chưa có bằng chứng cụ thể. Ari là người tình của tôi, tôi thấy rất mâu thuẫn, không biết phải làm sao?"

Tôi nói: "Việc xâm phạm là điều tất yếu, tôi đã dự đoán nhiều lần và chưa bao giờ sai. Theo tôi, ông nên dứt khoát như dao chém tơ rối, đừng đắm chìm trong tình cảm nữa." Ông ấy nói: "Được." Tôi hỏi: "Còn Walker thì sao?" "Anh ta đi công tác, sang châu Âu rồi."

Người tiếp theo bước vào là giám đốc sản phẩm, tên là Reagan, trùng hợp là trùng tên với Tổng thống Mỹ Reagan. Anh ấy là một người rất nỗ lực và nhiệt huyết, tóc đen, có cha là người Ý, mẹ là người Mỹ, đôi mắt màu xám đen, tính tình hiền lành. Linh khí tỏa ra từ anh ấy là màu xanh dương, mạnh mẽ và đầy sinh lực. Là một chàng trai ba mươi tuổi chăm chỉ và có chí tiến thủ, tôi luôn ngưỡng mộ người thanh niên này.

Tiếp theo bước vào là một trưởng nhóm, một dạng người đốc công, tên tôi tạm dịch là Baite, khoảng ngoài bốn mươi tuổi, tóc xoăn, màu tóc nửa đỏ nửa xám, giọng nói khàn đục. Người này mặc áo ngắn tay, lông tay thô và xám, phía dưới mặc quần công nhân có dây đeo, một tay thì đung đưa, tay kia cho vào túi quần, ống quần thì rộng thùng thình. Anh ta không giống một công nhân, vì trên quần áo làm việc không hề có chút bụi bẩn nào, lại còn đi đôi giày da bóng loáng.

Baite bắt tay với tôi, chúng tôi nói chuyện về thời tiết ở Seattle, đồng thời tôi quan sát linh khí trên người anh ta. Gã này toàn thân phủ đầy khí màu xám, và màu xám này còn thể hiện sự bất ổn, những dao động không chân thành, giống như những con sóng xám xịt vậy. Tôi đã nói với Jimmy Jay.

Jimmy Jay nói: "Trưởng nhóm này có thể nói là một gián điệp của công đoàn cài vào công ty chúng tôi, mọi động tĩnh ở đây đều do một mình anh ta báo cáo lại cho công đoàn. Lần biểu tình công nhân trước đây cũng do anh ta cầm đầu. Ông biết đấy, ở một đất nước tự do dân chủ như Mỹ, có lợi cũng có hại, công đoàn và người lao động đứng chung một chiến tuyến, người lao động có chút bất mãn là công đoàn đã thay mặt họ đứng ra, hai bên lao động và chủ doanh nghiệp tốn tiền tốn của kiện tụng ra tòa, đây là hiện tượng tất yếu của xã hội tư bản. Có công bằng hay không ư? Khó nói lắm. Nhưng ông nói đúng, làm sao anh ta có thể thành thật với tôi - một ông chủ được! Anh ta là thủ lĩnh của công nhân, là người của công đoàn. Mọi điều phối công nhân đều do anh ta xử lý, miễn là người lao động bình tâm tĩnh khí thì mọi chuyện đều OK."

Sau đó, tôi đã xem linh khí của rất nhiều người nữa, và lần lượt phân tích cho Jimmy Jay nghe. Kết luận của tôi rất chính xác, có thể nói là chính xác đến không thể tả. Tôi đã nói trúng phóc tất cả những trải nghiệm, suy nghĩ và hành vi của mọi người mà tôi quan sát được. Đối với tôi, đây là chuyện rất đơn giản. Nhưng đối với người thường, họ sẽ cho rằng điều này là không thể - làm sao có thể vừa gặp mặt đã nói được về quá khứ của người ta. Đây chính là quán khí của con mắt thứ ba, mà thực chất quán khí là nhìn màu sắc của linh hồn.

Tôi từng quan sát khí trên người một học trò của mình, khí của anh ta đục ngầu, đó là khí của súc sinh. Tôi lặng lẽ để ý hành vi của người học trò này, thì ra anh ta đang làm những việc súc sinh. Khi gặp mặt anh ta, tôi chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở một hai câu. Nhưng anh ta không thể hiểu ý của tôi, pháp âm của tôi đã không thể lọt vào tai anh ta nữa. Kiếp sau, làm lợn đi! Chỉ vì linh sắc của ngươi đã biến thành linh sắc của lợn. Tỉnh hay không tỉnh, là ở chính ngươi.

14. Ý đồ và hành vi

Trong toàn bộ hành trình tu hành của đời người, có lúc chúng ta ở trong môi trường quang minh, có lúc lại ở trong thung lũng tối tăm, chỉ dựa vào một chút Phật quang chỉ dẫn. Người tu hành đương nhiên không thể hoàn toàn không gặp sóng gió, đặc biệt là tu hành là việc lớn nhất của đời người, chúng ta kính Phật lễ Phật học Phật, nhưng chắc chắn sẽ gặp những kẻ xấu phỉ báng Phật và hãm hại chúng ta. Không những thế, ma quỷ thường theo sát người tu hành, thừa cơ xâm nhập tạo nên vô số ma cảnh. Chúng ta chỉ có thể giữ vững đạo tâm, một lòng một dạ tiến về phía trước, cho đến khi đạt đến cảnh giới chứng đạo, cầu chúc cho nhau tu hành an lành cát tường.

Tôi cho rằng, tất cả con người đều bình đẳng như nhau, tôi chưa bao giờ phân biệt đối xử với bất kì ai. Khi nhìn nhân loại trên thế giới, bất kể chủng tộc, màu da hay tín ngưỡng của họ là gì, chỉ cần họ đến trước mặt tôi, tôi đều xem họ bình đẳng như nhau, không có cái gọi là tâm phân biệt. Tuy nhiên, tôi chỉ chú trọng đến ý đồ và hành vi của họ. Con người vốn dĩ bình đẳng như nhau, nhưng chính ý đồ và hành vi đã tạo nên những cảnh giới khác nhau. Có rất nhiều người tuy muốn tu hành, đến trước mặt tôi, nhưng tâm của họ không những chính họ khó kiểm soát, mà tôi cũng không thể kiểm soát được. Tôi biết họ đang đi về phía vực thẳm, nhưng không thể kéo được những con lừa lạc lối này lại.

Tôi mong mỏi rằng, tất cả những người tu hành chỉ có thể cùng sánh vai tiến bước, khích lệ lẫn nhau, nhắc nhở lẫn nhau, cùng chăm sóc cho nhau. Tuy nhiên, khi có người dừng bước không đi nữa, khi có người lạc vào đường tà, có người rời bỏ chính đạo, thậm chí có người làm điều ác, khi ý đồ và hành vi của họ hoàn toàn sai trái, sau khi chúng ta đã kêu gọi họ trong thời gian dài, chúng ta đành phải rời xa những người này, chỉ đau lòng vì ma quỷ đã nuốt chửng tâm họ.

Ở đây, tôi mong muốn mọi người tuân theo bát chính đạo của người tu đạo, những hành giả đi theo bát chính đạo này chính là những người bạn đồng hành tốt của chúng ta. Vốn dĩ chúng ta không có cái nhìn phân biệt cao thấp, nhưng khi ý đồ và hành vi có sự sai lệch, chúng ta cần phải kêu gọi, xin hãy tuân theo bát chính đạo này:

Thứ nhất, phải có chính kiến - người tu hành phải hiểu chân lý về khổ, tập, diệt, đạo, dùng mắt để quan sát thế giới này, hiểu được ý nghĩa chân thật của tứ đế pháp, sáng tỏ kim cang tam muội, y theo tứ đế pháp mà tu, thấu hiểu triệt để chân lý của tứ đế, y giáo tinh tấn tu tập, thông suốt tất cả, viên thông như vậy, chính là chính kiến.

Thứ hai, phải có chính tư duy - đã hiểu được chính kiến, ta tư duy tỉ mỉ, cần thu về suy nghĩ và sinh khởi quán sát, đạt đến vọng tưởng hoàn toàn dứt tuyệt, thân tâm đều quên, tất cả tư duy hữu lậu đều tiêu vong, trí tuệ chân chính có thể tăng trưởng, khiến cho nó luôn sáng tỏ không tối, đây chính là tư duy chân chính, đây chính là chính tư duy.

Thứ ba, phải có chính ngữ - Tất cả khẩu nghiệp hoàn toàn không còn, dùng lời nói của trí tuệ chân chính để trừ bỏ khẩu nghiệp, mỗi lời nói mỗi hành động đều là chính ngữ, không nói những lời phi lý. Cần biết rằng âm thanh là pháp duyên sinh, tướng của âm thanh tuy hư vọng không thực, nhưng tính thường chân thật, là thể diệu giác minh, bí mật và vô hình vô tướng. Chỉ cần tu chính ngữ, trì pháp chân ngôn, liên tục không ngừng, không có lời phi lý, đó chính là chính ngữ. Chính ngữ này là một trong bát chính đạo, người tu hành phạm đạo này rất nhiều, tuy là lời nói vô tâm, nhưng vì cầu lợi cho miệng lưỡi, do vô minh mà phạm khẩu nghiệp. Vì vậy, chuyển khẩu nghiệp thành chính ngữ, chính là chuyển khẩu nghiệp trong tam mật tu hành thành khẩu mật, đây chính là chính ngữ.

Thứ tư, phải có chính nghiệp - Người tu hành phải nhận thức rõ rằng tất cả mọi thứ trên thế giới này đều là "không sắc bất nhị", sinh vốn là bất tịnh, thân cũng là bất tịnh, tất cả mọi thứ đều là bất tịnh, sinh tử của con người cũng là không, xương trắng hóa thành tro, theo gió mà hóa thành không, có được trí tuệ chân thật như vậy mới có thể trừ bỏ tất cả tà hạnh của thân, thân không chạm vào tất cả tà hạnh, đây chính là giữ giới hạnh, người tu hành cần biết, đây chính là chính nghiệp. Ngoài việc giữ giới hạnh, cần biết thân là tất cả ấn của Như Lai, chuyển thân nghiệp thành thân mật đạt được đại dụng viên mãn, đây chính là chính nghiệp.

Thứ năm, phải có chính mệnh - Một người tu hành, ngoài việc thanh tịnh thân khẩu ý tam nghiệp của mình ra, cần phải dùng chính pháp để tu hành, dùng chính pháp để tu hành chính là chính mệnh, thân cận bậc Thượng sư chân chính, cung kính lắng nghe lời dạy của chính Phật pháp, nương theo Phật pháp mà tu học, quan sát sự huyễn diệt của lục trần, tu tập diệt tận định, nếu có một ngày, pháp trần hoàn toàn tiêu trừ, tất cả diệu pháp tánh hiện tiền, được ấn chứng, đây chính là chính mệnh.

Thứ sáu, phải có chính tinh tấn - Bất kể là bậc đại trí tuệ, hay là người có căn cơ thấp kém, khi đã biết chính pháp ở trước mặt, đều phải an trụ nơi tĩnh lặng, thân ngồi ngay thẳng, thời thời khắc khắc không ngừng dụng công, loại công phu tinh tấn này chính là chính tinh tấn, cho đến khi đạt đến cảnh giới đột nhiên khai ngộ, mới được gọi là đại vô ngại, tinh tấn như vậy tự nhiên là chính tinh tấn. Đây chính là dùng trí tuệ chân chính, phát khởi nỗ lực tinh tấn vậy.

Thứ bảy, phải có chính niệm - Tôi thấy rằng đạo của chính niệm là như thế này, chúng ta là người tu hành, tự biết tứ đại đều không, ngũ uẩn cũng chẳng có, thường ngày tự biết tất cả đều là không tịch, tất cả đều là hư không, tất cả hiện tượng đều là không tính bản minh, nghĩ như thế, liên tục không dứt, chính là chính niệm. Cần biết rằng chính niệm này là diệu pháp của Đại thừa, là vô thượng pháp, nhân tướng pháp tướng tứ tướng, tất thảy đều là không tướng, trong từng niệm, quay về với bản giác, đó chính là chính niệm.

Thứ tám, phải có chính định - Chính định là thiền định chân chính, là thiền định thanh tịnh, chính là nhập Tam ma địa. Bản thân tôi rất coi trọng thiền định chân chính, dùng pháp tọa thiền, hai mắt nhìn vào một điểm ở đầu mũi, tâm thu về một chỗ. Sau khi vào định, dùng trí huệ chân chính để đoạn trừ mê hoặc, nhiếp tâm quán chiếu, phiền não hoàn toàn dứt sạch, khi tâm khai mở, tất cả hóa thành ánh sáng. Pháp này tôi đã viết trong cuốn sách "Tọa Thiền Thông Minh Pháp", chiếu sáng mười phương, tiêu diệt tất cả các lậu hoặc. Đạt được thiền định như vậy gọi là chính định, được đại tự tại vậy.

Bát chính đạo này là giới luật mà mỗi hành giả tu trì đều phải giữ gìn. Theo lý mà nói, việc hành giả tu trì phải giữ bát chính đạo này là vô cùng khó khăn. Người thường trong cuộc sống phàm trần cuồn cuộn này, muốn giữ được tám pháp chính đạo này không phải là điều mà người bình thường có thể làm được. Nói về các đệ tử của tôi, tôi mong mọi người giữ gìn bát chính đạo này, thể hội bát chính đạo này, nghiêm tu bát chính đạo này, như vậy mới thực sự là đạo hữu, nếu không thì cách xa lắm vậy!

Bản thân tôi đã dạy từng học trò tại Seattle, Hoa Kỳ về bát chính đạo. Trước đây khi tôi nhận đệ tử ở trong nước, do bận rộn nên không có thời gian giải thích nhiều. Tuy có nhiều đệ tử quy y nhưng người được nghe giảng về bát chính đạo này không nhiều. Thân phận của đệ tử rất phức tạp, có người thực sự tu tập, có người chỉ mang danh suông, thời gian cứ thế trôi qua từng phút từng giây. Trong số học trò của tôi, nhiều người còn chưa bắt đầu tu hành, thậm chí có người còn thụt lùi. Phải biết rằng! Thời gian của đời người không nhiều, từ thiếu niên đến thanh niên, từ thanh niên đến trung niên, từ trung niên đến tuổi già, từ già đến chết, chỉ trong chớp mắt là đến. Việc được nghe và hiểu Phật pháp vốn đã khó, nghe hiểu rồi mà tu hành cũng rất khó, tu hành rồi mà giữ được tinh tấn lâu dài còn khó hơn, người tu hành muốn giữ được bát chính đạo này lại càng khó, những điều này, đều rất khó khăn! Tuy nhiên, nếu tu hành mà không khó, làm sao có thể là việc lớn nhất thiên hạ được.

Tất cả ý đồ và hành vi của tôi ở Seattle, Hoa Kỳ đều tuân theo bát chính đạo này để thực hiện - chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Kỷ luật của tôi ở đây chưa từng lơi lỏng, mỗi tối thứ bảy, học trò trong và ngoài nước đều tụ họp, tôi thị phạm pháp tu hằng ngày, các Phật sự khác cũng được tổ chức đúng thời khóa, không phải ai cũng dễ dàng trải qua những ngày như vậy, đây là một sự rèn luyện nghiêm khắc. Tôi truyền cho mỗi người một pháp, tu trì nghiêm túc tất nhiên sẽ có thành tựu, đây là pháp tu chuyên chú, mỗi người đều có công khóa cố định hằng ngày, như vậy sẽ dễ thành tựu hơn.

Tôi mong các học trò trong nước không chỉ mang danh học trò suông, mà phải thực sự tu trì. Tôi sẽ viết ra tất cả các pháp của mình từng cái một, như các sách "Phục Ma Bình Yêu Truyện" và "Tọa Thiền Thông Minh Pháp", đều là những pháp mà tôi chưa từng nói ở trong nước, đều rất quý báu và khó được nghe. Đây là tâm đắc lớn trong tu trì của tôi ở nước ngoài, cũng là ấn chứng lớn của tôi. Chỉ trong những thời khắc tĩnh lặng của chính niệm mới có thể đạt được sự cảm ngộ về chính định như vậy. Tu trì quả thực là thanh tịnh và không phiền não, tôi mong mọi người giữ gìn bát chính đạo này.

15. Quy y cần tôn kính thầy

Nhiều người cảm thấy rất lạ khi pháp hiệu của Thượng sư Lư Thắng Ngạn là Liên Sinh, và tất cả các đệ tử của ngài đều có chữ "Liên" đứng đầu pháp hiệu. Chẳng phải điều này rất kỳ lạ sao? Theo thông lệ, chữ đầu trong pháp hiệu của sư phụ và đệ tử thường khác nhau, ví dụ như khi tôi quy y với Đạo sư Ấn Thuận, pháp hiệu của tôi là Huệ Ngạn, khi quy y với Pháp sư Lạc Quả, pháp hiệu là Đạo Ngạn, v.v...

Thực ra, việc tôi đặt pháp hiệu có cùng chữ đầu cho cả thầy và trò có ba lý do:

Thứ nhất, quả vị ngang bằng. Tôi mong muốn tất cả đệ tử tu hành đạt được cảnh giới quả báo giống như tôi, ai ai cũng có thể vãng sinh về thế giới Liên Trì.

Thứ hai, đạo pháp gần gũi. Việc tôi đặt pháp hiệu của đệ tử giống với pháp hiệu của mình không phân biệt, đạt được cảnh giới đạo pháp không phân chia, chúng ta là một thể Tam Bảo, càng thêm thân cận, pháp của Thượng sư trực tiếp truyền cho đệ tử, mọi người đều thấm nhuần lợi ích của pháp, không phân biệt thân sơ, tất cả đều được lợi ích.

Thứ ba, thầy trò như một nhà. Tôi vốn đã có suy nghĩ như vầy, nếu đệ tử tu hành đạt được diệu pháp, đôi khi trò còn giỏi hơn thầy, vượt xa thầy, tôi mong muốn việc tu hành của học trò, người người đều vượt hơn tôi, vì vậy tôi đặt pháp hiệu giống với mình, thể hiện thầy trò như một nhà, với ý nghĩa càng thêm gần gũi.

Đồng thời, tôi là một vị Thượng sư hoàn toàn không có vẻ trịnh trọng của Thượng sư, mọi việc đều thoải mái. Còn các đệ tử của tôi xem tôi như một người bạn, từ trước đến nay đều quen với sự thoải mái đó. Cũng chẳng phân biệt được ai là thầy, ai là trò. Tôi cũng chẳng có uy nghiêm gì, cũng không ra lệnh điều khiển, mọi việc đều tùy duyên, tôi là một vị Thượng sư như vậy đấy.

Tuy nhiên, đối với thầy của mình thì lại khác, mỗi khi gặp thầy, tôi nhất định xem như gặp Phật vậy, quỳ hai gối xuống, đầu chạm đất, hai tay dang ra, thực hiện lễ ngũ thể đầu địa, dùng lễ nghĩa của đệ tử để cung kính Thượng sư. Đồng thời, nếu thầy ở gần, tôi sẽ tự mình mang phẩm vật đến cúng dường Thượng sư, nếu ở xa, tôi cũng gửi lễ vật qua đường bưu điện để cúng dường Thượng sư. Đây là phép tắc tôn sư của riêng tôi.

Đối với thầy của mình, tôi luôn tưởng nhớ, một ngày là thầy, cả đời là cha, trong tất cả các pháp sự sớm tối, đều nhớ đến thời khắc quy y với thầy, và đặc biệt trân quý những pháp mà thầy đã truyền dạy.

Phật pháp vốn coi trọng lễ nghi, vì vậy trong văn hồi hướng phát nguyện của Bồ Tát Mã Minh có "Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng", nói về nghi lễ học trò cung kính thầy như thế nào. Tôi viết ra đây, tôi nghĩ, những gì có thể làm được thì hãy cố gắng làm, những gì không làm được thì tùy duyên. Hãy xem "Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng" nói những gì? Đệ tử quy y phải làm thế nào mới đúng với bổn phận của người quy y.

"Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng", giải thích như sau: (Pháp bản này trích từ Tổng Trì Tự.)

Tác giả là Bồ Tát Mã Minh. Người giảng giải là Thượng sư Phổ Phương. Người kính ghi là Viên Dung. Phần giải thích trong văn này là theo thiển ý của người viết.

Điều thứ nhất: Trong mười phương thế giới, tất cả chư Phật ba đời, thường xuyên cung kính đảnh lễ bậc Thượng sư trong ba thời.

Giải thích: Đệ tử phải lễ bái và tưởng nhớ Thượng sư ba thời trong ngày (sáng sớm, giữa trưa, hoàng hôn), cung kính như lễ bái Phật vậy.

Điều thứ hai: Khởi tâm cung kính tối thượng, chắp tay dâng hoa, rải hoa lên mandala, đầu mặt đảnh lễ chân Thượng sư.

Giải thích: Dâng hoa cúng dường đàn thành, cung kính đảnh lễ Thượng sư bằng nghi thức ngũ thể đầu địa.

Điều thứ ba: Dù vị thầy là tại gia hay mới thọ giới cụ túc, nếu đặt kinh tượng trước mặt thì phải dứt mọi nghi báng.

Giải thích: Bất kể thầy là người tại gia hay xuất gia, hoặc mới thọ giới cụ túc, miễn là trước Phật tượng và kinh điển, đều phải cung kính, không được khởi tâm nghi ngờ hay phỉ báng.

Điều thứ tư: Nếu đệ tử xuất gia thường phụng sự với tâm thanh tịnh, khi thầy đã ngồi phải đứng dậy đón tiếp, chỉ trừ lúc đang lễ bái.

Giải thích: Đối với thầy phải phụng sự với tâm thanh tịnh, biết phép nhường chỗ ngồi.

Điều thứ năm: Thầy và trò phải xem xét lẫn nhau về khí chất. Nếu không quan sát trước, cả hai đều mắc tội vượt qua phép tắc.

Giải thích: Trước khi bái sư phải quan sát kĩ vị thầy, xem có thể theo học được không, thầy cũng phải để ý xem đệ tử có thể dạy dỗ được không, nếu không, cả hai đều phạm lỗi không đúng pháp, đều là tội cẩu thả.

Điều thứ sáu: Nếu thầy hay nóng giận không từ bi, tham ái phù phiếm, ngạo mạn tự khoe khoang, không nên chọn làm thầy.

Giải thích: Người dễ nổi giận, không có tâm từ bi, tham lam ham hư danh, kiêu ngạo tự đề cao, những vị thầy như vậy không nên quy y, vì thế trước khi quy y, phải xem xét kỹ tính cách của thầy.

Điều thứ bảy: Có giới hạnh, nhẫn nhục, từ bi và trí tuệ, tự trọng và không nịnh bợ quanh co, thông hiểu các nghi quỹ bí mật, thông thạo các luận nghị.

Giải thích: Người có tâm đại từ bi, có đại trí tuệ, giữ gìn giới luật, biết tự trọng, không nịnh hót quanh co, thông đạt tất cả các pháp, mới là một vị Thượng sư tốt, vì vậy khi chọn thầy phải chú ý điều này.

Điều thứ tám: Thông đạt chân ngôn tướng, sự nghiệp mandala, chứng đắc mười chân như, các căn đều thanh tịnh.

Giải thích: Thông đạt tất cả các pháp, chứng đắc quả vị thập địa Bồ Tát, lục căn thanh tịnh, không còn phiền não, đây mới là một vị Thượng sư tốt.

Điều thứ chín: Nếu người cầu pháp khinh thường phỉ báng thầy, tức là phỉ báng chư Như Lai, thường gặp nhiều khổ não.

Giải thích: Đệ tử cầu pháp không được phỉ báng Thượng sư, chửi Thượng sư giống như chửi Phật, chắc chắn sẽ gặp nhiều khổ não.

Điều thứ mười: Do tăng thêm ngu si mà nhận lấy quả báo hiện tiền, bị ác tinh chi phối, bệnh nặng trói buộc.

Giải thích: Phỉ báng Thượng sư là rất ngu si, sẽ nhanh chóng nhận lấy quả báo, ác thần trên trời nhập tâm, ắt mắc bệnh nặng, không được giải thoát.

Điều thứ mười một: Luật vua ép bức, rắn độc cắn đốt, oán tặc nước lửa tai nạn, quỷ thần quấy phá.

Giải thích: Phỉ báng Thượng sư, ắt phạm vương pháp, bị độc vật làm hại, thủy tai hỏa tai trộm cướp đều đến, tất cả ác quỷ thần thường gây tai nạn.

Điều thứ mười hai: Những tỳ na dạ ca thường gây chướng ngại, từ đó mạng chung, liền đọa ác đạo.

Giải thích: Phỉ báng Thượng sư, tự có ác thần đến giáng tai họa, sau khi chết sẽ vào ba đường ác, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Điều thứ mười ba: Không được khiến A Xà Lê sinh chút phiền não, nếu ngu si trái nghịch ắt đọa vào ngục A Tỳ.

Giải thích: Đệ tử phụng sự thầy không được khiến thầy có một chút phiền não, nếu trái ý thầy, phản bội thầy sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ.

Điều thứ mười bốn: Chịu đủ cực hình khổ sở, nói ra thật đáng sợ, do phỉ báng A Xà Lê, mãi mãi phải ở trong đó.

Giải thích: Địa ngục A Tỳ là địa ngục khổ nhất, do phỉ báng thầy mà phải chịu nỗi khổ kinh hoàng vô tận như vậy.

Điều thứ mười lăm: Vị A Xà Lê là người hoằng trì tạng chính pháp, vì vậy phải một lòng thờ kính, không được sinh tâm khinh mạn.

Giải thích: Với bậc Thượng sư hoằng trì chính pháp, đệ tử phải một lòng phụng sự. Nếu có tâm khinh mạn sẽ phạm các tội nặng đã kể trên.

Điều thứ mười sáu: Thường xuyên phụng sự và cúng dường A Xà Lê, phát khởi tâm tôn trọng, nhờ đó trừ được chướng não.

Giải thích: Hết lòng cúng dường và tôn trọng Thượng sư, nhờ ân đức gia trì của thầy mới có thể diệt trừ chướng ngại và phiền não.

Điều thứ mười bảy: Với thầy phải vui lòng bố thí, không tiếc thân mình, huống chi tài vật.

Giải thích: Đệ tử ngay cả thân mạng cũng có thể hy sinh, huống chi là của cải, người thích bố thí sẽ được phúc báo.

Điều thứ mười tám: Tu hành vô lượng kiếp, khó chứng quả Như Lai, nay trong một đời này, A Xà Lê ban cho.

Giải thích: Người tu hành nếu chưa gặp được Thượng sư thì không thể tu thành Phật quả. Vì vậy, Thượng sư truyền pháp, giúp đệ tử tu thành Phật, công đức này đều do Thượng sư ban cho.

Điều thứ mười chín: Hộ trì giới thệ sâu xa, cúng dường chư Như Lai, cung kính A Xà Lê, cũng như tất cả Phật.

Giải thích: Phụng sự thầy là lời thệ nguyện ban đầu khi mới vào cửa đạo, cũng quan trọng như cúng dường chư Phật.

Điều thứ hai mươi: Vật yêu quý nhỏ nhặt, nhất là những báu vật, cầu bồ đề vô tận, thành tâm dâng tất cả.

Giải thích: Thượng sư là Tam Bảo hợp nhất, dùng những vật tốt nhất để phụng sự, sẽ được công đức vô lượng vô biên.

Điều thứ hai mươi mốt: Cúng dường Phật và A Xà Lê, niệm niệm thường tăng trưởng, là ruộng phúc tối thắng, mau chứng quả bồ đề.

Giải thích: Cúng dường Thượng sư, cúng dường Phật, là ruộng phúc tối thắng, mau chóng chứng đắc quả bồ đề.

Điều thứ hai mươi hai: Người cầu pháp như vậy, đầy đủ giới nhẫn công đức, không dối gạt với thầy, sẽ đạt trí kim cang.

Giải thích: Đối với Thượng sư hết lòng cung kính phụng sự, có tính nhẫn nại, không giả dối, chắc chắn sẽ đạt được trí huệ kim cang của Như Lai.

Điều thứ hai mươi ba: Nếu giẫm lên bóng thầy, mắc tội như phá tháp, ngồi giường và đồ dùng, cưỡi xe thầy cũng vậy.

Giải thích: Không được giẫm lên bóng của Thượng sư, không được ngồi trên giường của thầy, không được dùng những vật dụng thường ngày của thầy, tất cả đều có tội.

Điều thứ hai mươi bốn: Hãy vui vẻ lắng nghe, lời thầy dạy bảo ban, nếu mình không làm được, thì hãy tâu thật lòng.

Giải thích: Hãy vui vẻ tiếp nhận lời dạy của Thượng sư, nếu không làm được thì có thể khéo léo trình bày tình hình.

Điều thứ hai mươi lăm: Do nương vào thầy nên mọi việc đều thành tựu, được an vui sinh thiên, sao dám trái lệnh thầy.

Giải thích: Nhờ Thượng sư truyền pháp, đệ tử mới có thể thành tựu tất cả pháp, Thượng sư là ruộng phúc vô thượng, đệ tử không được trái lệnh.

Điều thứ hai mươi sáu: Của cải thầy như mạng mình, kính yêu người thầy kính như thầy, quyến thuộc thầy như người thân, phụng sự không được lười biếng.

Giải thích: Giữ gìn của cải cho Thượng sư như giữ mạng mình, không được phung phí. Kính trọng những người được Thượng sư kính trọng, kính trọng quyến thuộc của Thượng sư, không được lơ là.

Điều thứ hai mươi bảy: Không nên ở trước thầy che đầu hoặc đi xe, duỗi chân tay chống hông, tùy tiện ngồi nằm.

Giải thích: Trước mặt Thượng sư phải giữ phong thái trang nghiêm, không được có những hành vi thất lễ như gác chân hay chống nạnh.

Điều thứ hai mươi tám: Nếu có việc phải ngồi, không được duỗi hai chân ra, luôn giữ các oai nghi, thầy đứng dậy phải đứng theo.

Giải thích: Oai nghi là điều đệ tử Phật phải có, khi ngồi không được duỗi chân ra cho thoải mái, khi Thượng sư đứng dậy phải lập tức đứng dậy theo.

Điều thứ hai mươi chín: Khi thầy đi kinh hành, không nên bước theo sau, phải đứng nghiêm một bên, không được khạc nhổ bừa bãi.

Giải thích: Trên đường thầy thường đi, nên đứng nghiêm trang một bên để cung kính đón tiếp. Khi thầy ho hay sổ mũi, cũng không được sinh tâm ghê tởm.

Điều thứ ba mươi: Trước mặt thầy không được thì thầm nói chuyện riêng, cười đùa với người bên cạnh, ca múa hát xướng.

Giải thích: Trước mặt thầy, không được nói chuyện riêng tư, tất cả những hành vi không trang nghiêm đều phải loại bỏ.

Điều thứ ba mươi mốt: Khi được lệnh ngồi hoặc đứng, đều phải an tường cung kính. Khi đi trên đường hiểm trở, phải dẫn đường đi trước.

Giải thích: Đối với chỉ thị của Thượng sư, đều phải an tường cung kính. Khi đi trên đường nguy hiểm, phải tự mình dẫn đường cho Thượng sư.

Điều thứ ba mươi hai: Không được đứng trước mặt thầy với dáng vẻ mệt mỏi, bẻ khớp ngón tay kêu răng rắc, dựa vào cột hay tường.

Giải thích: Trước mặt Thượng sư phải giữ tinh thần sảng khoái, không được có vẻ uể oải, phải ngưng mọi động tác nhỏ nhặt, không được dựa người vào cột hay tường.

Điều thứ ba mươi ba: Khi giặt quần áo, rửa chân, tắm rửa và các việc tương tự, phải báo cho thầy biết trước, không để thầy nhìn thấy.

Giải thích: Giặt quần áo, tắm rửa, rửa chân phải báo Thượng sư trước, không để Thượng sư nhìn thấy.

Điều thứ ba mươi tư: Đối với tên thầy, không được gọi tùy tiện. Nếu có người hỏi đến, chỉ nên cho biết một chữ pháp danh.

Giải thích: Không được tùy tiện gọi tên của Thượng sư, khi có người hỏi thì chỉ nên cho biết pháp hiệu.

Điều thứ ba mươi lăm: Khi thầy sai phái việc, phải chăm chú lắng nghe. Đối với việc được giao, ghi nhớ không quên.

Giải thích: Thường xuyên sẵn sàng nghe theo sự sai phái của Thượng sư, ghi nhớ những việc Thượng sư giao phó và nỗ lực hoàn thành.

Điều thứ ba mươi sáu: Khi cười, ho hay ngáp, phải lấy tay che miệng. Có việc cần thưa, phải cúi mình nói nhỏ nhẹ.

Giải thích: Khi muốn cười, ngáp hay ho, đều phải dùng tay che miệng. Khi có việc cần thưa, phải cúi mình cung kính.

Điều thứ ba mươi bảy: Nếu người nữ tại gia, đến nghe pháp với tâm thanh tịnh, chắp tay giữ oai nghi, chuyên chú nhìn mặt thầy.

Giải thích: Người nữ nghe pháp, phải giữ phong thái trang nghiêm đứng đầu, hai tay chắp lại, tinh thần chuyên chú.

Điều thứ ba mươi tám: Nghe xong phải phụng trì, từ bỏ tâm kiêu mạn, như cô dâu mới về, cúi đầu với vẻ e thẹn.

Giải thích: Khi Thượng sư truyền pháp, người nữ phải tỉ mỉ phụng trì, không được tự cao tự đại, như cô dâu mới về nhà chồng, cúi đầu học pháp.

Điều thứ ba mươi chín: Đối với đồ trang sức, không còn sinh ưa thích, điều không thuận với thiện, đều nên nghĩ xa rời.

Giải thích: Người nữ học pháp, phải xa rời phù phiếm, không sinh tâm ưa thích vật trang sức thế tục, những gì không thiện lành, đều phải nghĩ cách xa rời.

Điều thứ bốn mươi: Luôn ngưỡng mộ đức của thầy, không nên dòm ngó lỗi nhỏ, tùy thuận sẽ được thành tựu, tìm lỗi chỉ hại mình.

Giải thích: Học theo đức hạnh của thầy, nếu thầy có lỗi nhỏ, không nên phóng đại hay tô vẽ thêm. Phải biết tùy thuận theo thầy mới có thành tựu, nếu phóng đại lỗi của thầy, chính mình ngược lại không thành tựu được trong việc học pháp, sinh tâm khinh mạn, tự hại mình.

Điều thứ bốn mươi mốt: Thuyết pháp độ đệ tử, mandala Hộ Ma, ở chung thành với thầy, không chỉ thị chớ làm.

Giải thích: Tất cả mọi Phật sự đều phải làm theo ý của thầy, không có chỉ thị của thầy thì không được làm.

Điều thứ bốn mươi hai: Của cải và vật phẩm có được từ việc thuyết pháp, phải dâng cúng toàn bộ lên thầy, tùy thầy cho phép mới được sử dụng.

Giải thích: Thu nhập từ việc giảng kinh thuyết pháp truyền pháp đều thuộc về Thượng sư, chỉ khi được Thượng sư cho phép thì mới được sử dụng.

Điều thứ bốn mươi ba: Đồng môn và pháp quyến không nên nhận làm đệ tử, cũng không được nhận sự cung kính phụng sự trước mặt thầy.

Giải thích: Truyền thừa pháp thống không được lộn xộn, những người cùng bái một vị Thượng sư không được làm thầy trò của nhau, đây là pháp thống.

Điều thứ bốn mươi tư: Khi dâng lễ vật lên thầy, phải dùng hai tay dâng cúng. Khi thầy ban tặng, phải cung kính nhận trên đỉnh đầu.

Giải thích: Khi dâng vật phẩm lên Thượng sư, phải dùng hai tay cung kính. Khi Thượng sư ban cho vật gì, cũng phải dùng hai tay cung kính đưa lên đỉnh đầu mà nhận.

Điều thứ bốn mươi lăm: Tự chuyên tu chính hành, thường ghi nhớ không quên. Nếu người khác không đúng như pháp, dùng lời ái ngữ chỉ dạy.

Giải thích: Đệ tử Phật phải chuyên tâm tu tập công khóa, không ngừng nghỉ. Những việc không hợp giới luật, không được làm, không được cố ý tìm lỗi của Thượng sư.

Điều thứ bốn mươi sáu: Nếu thầy có dạy bảo, mà do bệnh không làm được, phải lễ phép thưa trình, như vậy không có lỗi.

Giải thích: Lời dạy của Thượng sư phải tuân theo từng điều một, nếu vì bệnh mà không làm được, phải uyển chuyển giải thích, như vậy mới không có lỗi.

Điều thứ bốn mươi bảy: Thường khiến thầy hoan hỷ, xa lìa mọi phiền não, phải siêng năng thực hành, sự nhiều nên không thuật.

Giải thích: Tất cả mọi việc làm đều phải thường xuyên khiến Thượng sư hoan hỷ, mọi việc phiền não đều phải giúp Thượng sư giải quyết, nỗ lực thực hành, cung kính cúng dường, phụng sự Thượng sư không được lười biếng. "Sự sư pháp" còn rất nhiều, nên không thể nói hết.

Điều thứ bốn mươi tám: Kim Cang Như Lai, đích thân tuyên thuyết như vậy, cùng những giáo lý khác đã chỉ rõ, nương theo thầy sẽ được thành tựu.

Giải thích: Phật dạy như vậy, nương tựa vào Thượng sư sẽ đạt được đại thành tựu.

Điều thứ bốn mươi chín: Nếu đệ tử thanh tịnh, đã quy y Tam Bảo, phải trao "Sự sư pháp", trước hết bảo học thuộc.

Giải thích: Phàm đệ tử đến quy y, phải bảo họ thuộc nằm lòng "Sự sư pháp", không được phạm sai.

Điều thứ năm mươi: Kế đó truyền Mật giáo, khiến thành pháp khí chân chính, mười bốn giới căn bản, đều phải khéo thọ trì.

Giải thích: Sau khi đệ tử quy y và quán đảnh, lại truyền Mật pháp, khiến họ trở thành người tu tập chân chính. Mười bốn giới căn bản của Mật tông cũng phải được truyền dạy để họ thọ trì và trở thành hành giả kim cương thiện xảo.

"Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng" này là những nghi quy mà đệ tử Phật môn cần phải giữ đối với bậc Thượng sư. Sau khi tôi đọc thuộc "Sự sư pháp", đối với tất cả các vị Thượng sư của mình, tôi cũng phải phụng sự cúng dường như vậy, nỗ lực thực hành đến cùng. Bởi vì tất cả Mật pháp của tôi, nếu không có Thượng sư truyền pháp, làm sao tôi có thể tu trì viên mãn?

Hiện nay đệ tử của tôi ngày càng đông, ở Seattle, Hoa Kỳ, pháp tràng cao vút, để khiến pháp môn được hoàn thiện hơn, tôi mong các đệ tử trong và ngoài nước cùng nghiên cứu "Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng", biết lễ kính Thượng sư và đồng môn, không được biết pháp mà phạm pháp. Tuy tôi tùy thuận các đệ tử, nhưng Kim cang Hộ pháp thần đều ngày đêm hộ trì, những ai coi thường không như pháp, đều sẽ nhận quả báo rất lớn, lúc đó, tôi cũng không thể cứu độ được.

16. Những chuyện về kiếp quá khứ

Có một cặp vợ chồng già ở Chicago, cùng với người con trai hơn 30 tuổi, đã bay đến Seattle để tìm gặp tôi. Ông cụ nói với tôi qua điện thoại rằng: "Nghe danh tiếng của Ngài, chúng tôi có một việc muốn nhờ Ngài giúp đỡ." Thế là chúng tôi đã hẹn thời gian và họ đã bay đến. Hóa ra cả gia đình họ đã di cư sang Mỹ từ nhiều năm trước, chỉ biết nói tiếng Quảng Đông và tiếng Anh, còn tiếng Phổ thông chỉ nói được một chút. Sau khi họ đến, theo thông lệ tôi thắp hương lễ Phật, cầu xin chư Bồ Tát chỉ dạy.

Cặp vợ chồng già hỏi về con trai họ. Người con trai này có dáng người cao lớn, da trắng, tướng mạo đường hoàng, trông rất tuấn tú. Chỉ có điều từ khi bước vào nhà, anh ta không hề nói một lời nào, nhiều lắm chỉ là mím chặt môi và gật đầu. Họ ngồi vây quanh tôi. Tôi tập trung tinh thần, bình thản đưa tay ra, miệng khẽ niệm thần chú, đồng thời niệm tên của người thanh niên ấy, anh ta tên là Paul Đinh, một cái tên hoàn toàn theo kiểu phương Tây.

Khung cảnh lúc này rất yên tĩnh, nhưng đối với người đang hỏi thì có chút căng thẳng và bất an, bởi vì những lời tôi nói ra phải đáp ứng được vấn đề của họ. Tôi chẳng biết gì cả, họ là những người bạn mà tôi mới gặp lần đầu tiên trong kiếp này, gọi là bạn thì có vẻ thân mật quá, thực ra họ là những người hoàn toàn xa lạ! Tuy nhiên tôi phải lập tức biết được quá khứ, tương lai và mọi điều về họ.

Tôi viết lên giấy rằng Paul Đinh là một học giả quản trị doanh nghiệp, đã có bằng tiến sĩ, quá khứ của anh ấy rất hiển hách và vinh dự. Cặp vợ chồng già xem những gì tôi viết, vô cùng vui mừng, bởi vì con trai họ quả thật đã có một quá khứ hiển hách và vinh dự như vậy, điều này khiến họ cảm thấy vô cùng tự hào.

Tuy nhiên, Paul Đinh vẫn không nói gì, cũng không có biểu cảm gì, chỉ nghiêm túc nhìn tôi viết. Tôi tiếp tục viết trên giấy rằng, cách đây ba năm, Paul Đinh đã bị thu hút bởi một tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại trong một cửa hàng đồ cổ, đó là một tượng Phật tượng trưng cho sự giác ngộ trong thế giới tâm linh của nhân loại, tác phẩm nghệ thuật này là hình một người cưỡi voi trắng, được chế tác rất tinh xảo, Paul Đinh đã lưu giữ pho tượng Phật này trong phòng làm việc của anh ấy.

Paul Đinh lúc này mở to mắt, cuối cùng cũng lên tiếng: "Thưa ông Lư, làm sao ông biết được những điều này?" - Anh quay sang nhìn cha mẹ: "Có phải ba mẹ đã kể cho ông Lư qua điện thoại?" "Không có." - Cặp vợ chồng già đồng thanh: "Tuyệt đối không có."

Tôi nhìn anh ta với một nụ cười "tôi biết hết rồi". Anh hỏi: "Thưa ông Lư, ngoài những điều này ra, ông còn có thể nói gì về tôi nữa không?" Tôi nói: "Thưa anh Đinh, anh là người tái sinh." "Người tái sinh, điểm này tôi không hiểu." - Paul Đinh nói. "Trong kiếp trước, anh từng là một nhà sư xuất gia tại núi Nga Mi. Do núi Nga Mi là tịnh độ của Phổ Hiền Bồ Tát, các ngôi chùa ở đây đều thờ phụng Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát chính là vị Bồ Tát đại hạnh cưỡi voi trắng. Cần biết rằng Phổ Hiền Bồ Tát là vị Như Lai nhiều như cát sông Hằng, là Pháp Vương Tử của các đời chuyển kiếp, có 'Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm' lưu truyền. Tôn tượng của Ngài luôn cưỡi voi trắng sáu ngà, Phổ Hiền dùng nhĩ thức, tùy niệm phân biệt, phát ra ánh sáng trí huệ, chiếu soi khắp muôn loài, đạt đại tự tại, là vị Đại Bồ Tát viên thông đệ nhất."

"Đúng, đúng, đúng." - Cặp vợ chồng già vội nói: "Con trai duy nhất của chúng tôi bây giờ không quan tâm đến gì nữa, địa vị, danh lợi, hôn nhân gì cũng không cần, chỉ muốn tu đạo thôi, suốt ngày trốn trong phòng đọc sách, lạy tượng Bồ Tát mà nó mua về, ngay cả công việc tốt cũng bỏ đi, rồi cứ tụng kinh gì đó?"

Paul Đinh bình thản hỏi tôi: "Thưa ông, ông nói tôi là người tái sinh, có bằng chứng gì không?" "Công phu tu hành của anh rất tốt, người tái sinh có nhiều dấu ấn khác nhau, trước ngực anh có một chùm lông trắng, xoắn từ phải sang trái thành hình xoắn ốc, đó chính là bạch hào tướng quang của việc xuất gia tu hành, đó chính là dấu ấn xác thực của anh."

Paul Đinh lập tức cởi áo ra, quả nhiên ở chính giữa ngực có một chùm lông, cũng màu trắng. Bình thường Paul Đinh cũng rất lấy làm lạ không biết chùm lông ngực này từ đâu ra, người phương Tây ai cũng có lông ngực, còn người Trung Quốc thì hiếm lắm mới có. Hơn nữa anh chưa từng để ý hình dạng của chùm lông, giờ nhìn kỹ thì quả thật nó xoắn từ phải sang trái. Lúc này, cả cặp vợ chồng già và Paul Đinh đều kinh ngạc đến sững sờ, trong lòng vô cùng thán phục.

Thì ra sự việc là như thế này: Trong một lần tình cờ, Paul Đinh ghé vào một cửa hàng đồ cổ, thấy trong dãy tác phẩm nghệ thuật có một tượng Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà. Vừa nhìn thấy, dường như pho tượng có một sức mạnh kỳ lạ thu hút toàn bộ tâm trí anh. Vị Bồ Tát trên lưng voi trắng với đôi mắt khép hờ như nhìn thấu tâm can anh, tạo nên một cảm giác thân thiết chưa từng có, khiến anh bị day dứt sâu sắc. Pho tượng Phật này có một sức hút đặc biệt với anh. Anh không thể không mua nó về, rồi thờ phụng trong phòng làm việc. Điều kỳ lạ là vừa thờ phụng xong, anh tự nhiên cúi người lễ bái, ngay cả bản thân anh cũng không hiểu được hành động của mình.

Anh có một người bạn học theo đạo Phật, anh mời người bạn này đến xem đó là tượng Phật gì, người bạn căn cứ vào con vật cưỡi mà nhận ra đó là Phổ Hiền Bồ Tát. Người bạn cũng tặng anh một cuốn Kinh Pháp Hoa, anh bắt đầu tụng kinh, một mình lặng lẽ thắp hương và ngồi thiền trước tượng Phổ Hiền Bồ Tát. Không ai dạy anh điều gì cả, nhưng việc ngồi thiền của anh rất thuần thục, vừa đọc kinh là đã thuộc làu, như thể đã từng học qua. Anh bắt đầu cảm thấy danh lợi, tiền bạc, địa vị, hôn nhân, con cái đều là không, không màng gì nữa mà từ bỏ tất cả, ngay cả công việc cũng nghỉ luôn. Anh dồn toàn bộ tâm sức để tin Phật, tu trì và lĩnh ngộ, tất cả những thay đổi và hành động này đều là do những việc làm từ kiếp trước của anh.

Tuy nhiên, vấn đề xuất hiện khi cặp vợ chồng già cảm thấy con trai mình hành xử không phải phép, họ đã bỏ công nuôi dạy cho con lấy được bằng tiến sĩ, vậy mà giờ không chịu làm việc, không chịu lập gia đình, suốt ngày chỉ lạy Phật, liệu có vấn đề gì không? Do nghe danh tiếng của tôi nên họ vội tìm đến gặp mặt. Con trai họ tưởng tôi chỉ là một thầy bói giang hồ, nên miễn cưỡng bị lôi đến Seattle.

Paul Đinh hỏi rất nhiều về phương pháp tọa thiền, rồi quỳ xuống ngay tại chỗ, bái tôi làm thầy. Tôi đặt pháp danh cho anh là Liên Luân, chính thức nhận vị tiến sĩ quản trị doanh nghiệp này làm đệ tử. Tại chỗ, tôi truyền cho anh pháp Kim Cang Thủ bí mật chủ và năm bộ đại pháp tâm truyền của Vô thượng mật. Tôi dặn Paul Đinh khi về nhà phải tu tập pháp Kim Cang Thủ và năm bộ đại pháp tâm truyền của Vô thượng mật vào những giờ cố định mỗi ngày. Tuy nhiên vẫn phải quay lại làm việc, bởi đây là một xã hội rất thực tế, người theo đạo Phật phải hiếu thuận với cha mẹ, tu tập theo giờ giấc nhất định, đây là cách không bỏ bê cả hai phía, vừa lo tu hành, vừa lo cơm áo, còn chuyện kết hôn hay không thì tùy theo duyên phận.

Cha mẹ anh thấy tôi dặn dò như vậy, vô cùng cảm kích.

Thực ra, kiếp trước của Paul Đinh là trụ trì một ngôi chùa ở lưng chừng núi Nga Mi. Anh hoàn toàn có thể sống một cuộc đời thanh tịnh và thiêng liêng. Anh có đủ tư cách để tiếp tục con đường tu hành, có thể thích nghi với cuộc sống có kỷ cương, giới luật nghiêm ngặt và thời gian tọa thiền dài. Tuy nhiên, vì tôi phải cân nhắc đến cách sống trong xã hội hiện thực và mong mỏi của cha mẹ anh, nên không thể không dặn dò anh như vậy.

Về sự việc này, tôi có rất nhiều cảm xúc:

Niềm tin tu trì không có hai chữ "cái chết", tôi đã sớm bước qua cánh cửa của cái chết để thấu hiểu đạo lý của luân hồi và bất tử. Chúng ta - những người tu hành đã đi một chặng đường rất dài, không chỉ dừng lại ở đất nước mình sinh ra, mà còn vượt qua nhiều đất nước khác, phân tán khắp nơi trên thế giới để thực hiện sứ mệnh cứu độ.

Nếu tôi không đến Mỹ, sẽ không thể gặp được vị hành giả tái sinh từ núi Nga Mi này, anh ấy không thể trở thành học trò của tôi, tôi không thể làm thầy của anh ấy, và pháp Kim Cang Thủ, năm bộ đại pháp tâm truyền của Vô thượng mật của tôi cũng không thể truyền cho anh ấy. Tất cả đều là duyên phận đã định. Con người tuy nhỏ bé, nhưng lại có thể có duyên phận lớn lao như vậy, đây thực sự là duyên, là duyên không thể chia cắt.

Paul Đinh là người tái sinh của một vị trụ trì chùa núi Nga Mi, vậy mà sau khi đầu thai lại sang phương Tây lấy được bằng tiến sĩ quản trị doanh nghiệp, quả thật khó tưởng tượng. Còn tôi, đang sống yên ổn ở Đài Loan, lại vì duyên phận tình cờ mà đến phương Tây, để độ hóa "người tái sinh" này.

17. Động thổ Linh Tiên Tinh Xá

Đạo tràng Phật giáo duy nhất ở thành phố Redmond đã chính thức động thổ khởi công vào lúc 10 giờ sáng ngày 8 tháng 5 (năm 1983). Chúng tôi đã chọn ngày động thổ từ trước, nhưng một tuần trước ngày động thổ, trời mưa liên tục, gió to mưa lớn. Những người quan tâm đến việc này đã gọi điện hỏi cục khí tượng, họ trả lời rằng ngày 8 tháng 5 sẽ có thời tiết âm u mưa gió. Nghe tin này, mọi người đều rất lo lắng, thậm chí có người đề nghị nên đổi ngày động thổ sang ngày khác.

Tuy nhiên, 10 giờ ngày 8 tháng 5 là ngày giờ do Bồ Tát chỉ dạy, làm sao có thể thay đổi dễ dàng được. Nhưng nếu gió to mưa lớn, đất bùn lầy lội, không có chỗ che mưa để cúng tế thần đất thì mọi việc sẽ rất bất tiện. Đến 8 giờ sáng ngày 8 tháng 5, trên trời vẫn còn một mảng mây đen, may mắn là không mưa. 9 giờ mọi người lên một chiếc xe lớn xuất phát, từ góc Tây Bắc Seattle, qua Green Lake, rồi theo cao tốc I5 rẽ vào lối ra 168, đi qua hồ Washington, thẳng đến Linh Tiên Tinh Xá ở thành phố Redmond.

Khi đến đạo tràng, đã là 9 giờ 40 phút. Điều khiến mọi người ngạc nhiên hơn nữa là mọi thứ đã được sắp xếp gọn gàng. Đúng 10 giờ, khi cầm chiếc xẻng buộc dải lụa đỏ lên đào đất, mây đen tan biến, mặt trời bỗng ló ra tươi cười, ôi! Thật là một ngày nắng đẹp rạng rỡ. Chúng tôi đã đào đất mang tính tượng trưng ở trung tâm và bốn góc đạo tràng, làm lễ cúng bái và đốt vàng mã theo phong tục Trung Hoa. Trần Tước Viên, Trần Sâm Long đều đến, các đệ tử người Mỹ cũng có mặt. Mọi người đều niệm "Om mani padme hum" (Lục tự đại minh chân ngôn), cầu mong Quan Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho đạo tràng này được xây dựng thành công, mọi việc như ý, thuận lợi và viên mãn. Câu tâm chú "Om mani padme hum" này của Bồ Tát vang vọng khắp đạo tràng.

Cá nhân tôi tôn kính Quan Thế Âm Bồ Tát nhất, kinh điển được tông phái Linh Tiên Chân Phật Tông tôn sùng nhất là Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh. Tôi đã từng tụng Bạch Y thần chú, Quan Âm linh cảm chân ngôn, Đại bi tâm Đà-la-ni chú. Khi bắt đầu tu Mật, tôi cũng bắt đầu từ pháp Quan Âm. Đặc biệt pháp Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm của Mật tông cũng là một trong những đại pháp căn bản của Mật tông.

Để kết duyên với mọi người, tôi xin giới thiệu sơ lược về pháp Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm như sau:

Thứ nhất, thắp hương, cúng dường, đại lễ bái. Thứ hai, Tứ quy y. Thứ ba, Tứ vô lượng tâm. Thứ tư, kết ấn Kim cang samaya, tụng chú triệu thỉnh, thỉnh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát.

Thứ năm, quán tưởng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát này có mười một mặt, ba mặt phía trước là mặt Bồ Tát, ba mặt bên trái là mặt phẫn nộ, ba mặt bên phải là mặt nửa Bồ Tát nửa quỷ, một mặt phía sau là mặt cười hiểm ác, trên đỉnh là một mặt Phật. Đây đại diện cho năm bộ, trên cùng là Phật bộ, phía trước đại diện Bảo bộ, Bồ Tát kiêm quỷ đại diện Liên Hoa bộ, cười hiểm ác là Yết Ma bộ. Khi quán tưởng cần dùng thức thứ chín (Amala thức) để tương ứng, như vậy mới có thể tương ứng.

Thứ sáu, trì chú, trước tiên tụng toàn bộ Đại bi chú bảy lần, sau đó tụng tâm chú của Đại bi chú "Ôm xi-ten-tô man-tô-lô pa-thô-yê sô-ha" vô số lần. Tay kết ấn mở liên hoa kim cang samaya.

Thứ bảy, nhập định. Thứ tám, hồi hướng. Đại lễ bái.

Trên đây là pháp tu đơn giản của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát, hành giả tốt nhất nên quy y, nhận quán đảnh, sau đó được Thượng sư chỉ dạy tỉ mỉ.

Có người đã hỏi tôi về nguồn gốc của Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi nói rằng, trong đời quá khứ, Quan Thế Âm Bồ Tát đã sớm tu hành thành Phật, danh hiệu là Chính Pháp Minh Như Lai. Mật tông Tây Tạng còn nói rằng, Quan Thế Âm Bồ Tát là hóa thân của Phật A Di Đà. Do thấy vô lượng chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử, mãi không nghĩ đến tu hành, mê muội trong các cảnh giới thế gian mà không tỉnh ngộ, nên Phật A Di Đà đã rơi lệ thương xót. Giọt nước mắt bên phải hóa thành Quan Thế Âm, giọt nước mắt bên trái hóa thành Bạch Độ Mẫu.

Quan Thế Âm Bồ Tát rốt cuộc là thân nam hay thân nữ? Thật ra khi đã đến Tứ Thánh giới thì không còn phân biệt nam nữ nữa. Trước thời nhà Đường, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát không có tượng nữ thân, mãi đến sau thời nhà Đường mới có tượng nữ thân, việc thị hiện nữ thân không gì khác hơn là để thể hiện lòng từ ái của người mẹ. Ba chữ Quan Thế Âm có ý nghĩa chân thật là: "Quan sát âm thanh của thế nhân niệm danh hiệu Bồ Tát mà tùy xứ cứu độ vậy."

Rốt cuộc Quan Thế Âm Bồ Tát có bao nhiêu hình tượng? Theo như tôi biết, do Bồ Tát đại bi thị hiện, cứu độ chúng sinh khắp nơi nên hình tượng của ngài không thể đếm xuể. Những hình tượng phổ biến nhất có: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm, Hương Sơn Hội Thượng Quan Thế Âm, Thiên Trúc Linh Sơn Quan Thế Âm, Phổ Đà Sơn Thượng Quan Thế Âm, Triều Vân Động Lý Quan Thế Âm, Nam Hải Ngạn Biên Quan Thế Âm, Bắc Hải Hà Đầu Quan Thế Âm, Tọa Liên Tống Tử Quan Thế Âm, Phong Ba Lãng Thượng Quan Thế Âm, Bản Thảo Linh Sơn Quan Thế Âm, Hoa Hóa Ngư Lam Quan Thế Âm, Bạch Y Tố Hiện Quan Thế Âm, Tử Trúc Lâm Trung Quan Thế Âm, Tăng Phúc Minh Vương Quan Thế Âm, Ngũ Luân Pháp Thủy Quan Thế Âm, Ngũ Thập Tam Tham Quan Thế Âm, Thất Thập Nhị Nguyện Quan Thế Âm, Tam Thập Lục Nguyện Quan Thế Âm, Tằng Tằng Diệm Diệm Quan Thế Âm.

Ba mươi ba ứng thân là: Dương Liễu Quan Âm, Long Đầu Quan Âm, Trì Kinh Quan Âm, Viên Quang Quan Âm, Du Hý Quan Âm, Bạch Y Quan Âm, Liên Ngọa Quan Âm, Thác Kiến Quan Âm, Thí Dược Quan Âm, Ngư Lam Quan Âm, Đức Vương Quan Âm, Thủy Nguyệt Quan Âm, Nhất Diệp Quan Âm, Thanh Cảnh Quan Âm, Uy Đức Quan Âm, Diên Mệnh Quan Âm, Chúng Bảo Quan Âm, Nham Hộ Quan Âm, Năng Tĩnh Quan Âm, A Nậu Quan Âm, A Ma Đề Quan Âm, Diệp Y Quan Âm, Lưu Ly Quan Âm, Đa La Tôn Quan Âm, Nghêu Sò Quan Âm, Lục Thời Quan Âm, Phổ Từ Quan Âm, Mã Lang Phụ Quan Âm, Hợp Chưởng Quan Âm, Nhất Như Quan Âm, Bất Nhị Quan Âm, Trì Liên Quan Âm, Sái Thủy Quan Âm. Ba mươi ba vị Quan Âm này đều có những câu chuyện thị hiện được truyền lại, tên gọi được đặt theo câu chuyện, đây là ba mươi ba ứng hóa thân của Quan Thế Âm tùy duyên hiển hiện.

Ngoài ra, Mật tông còn có nhiều danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát khác: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm, Thánh Quan Âm, Hồng Quan Âm, Xích Tử Quan Âm, Mã Đầu Quan Âm, Thập Nhất Diện Quan Âm, Chuẩn Đề Quan Âm, Như Ý Luân Quan Âm, Đại Bi Quan Âm, Đại Từ Quan Âm, Sư Tử Vô Úy Quan Âm, Đại Quang Phổ Chiếu Quan Âm, Thiên Nhân Trượng Phu Quan Âm, Đại Phạm Thâm Viễn Quan Âm, Tứ Tý Quan Âm, Bát Tý Quan Âm, Đa La Quan Âm, Tứ Diện Quan Âm, Tỳ Câu Chi Quan Âm, Viên Mãn Ý Nguyện Minh Vương Quan Âm, Kế La Sát Nữ Quan Âm. Trong Kinh Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh còn có: Đại Minh Quan Thế Âm, Quan Minh Quan Thế Âm, Cao Minh Quan Thế Âm, Khai Minh Quan Thế Âm.

Tác giả vẫn luôn xem Quan Thế Âm Bồ Tát như là giáo chủ của cõi Ta Bà, bởi vì lòng đại từ đại bi của Ngài thực sự gần gũi nhất với việc cứu độ nhân loại. Tôi đã nhận được ân đức sâu dày nhất từ Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi tôi khoảng hơn hai mươi tuổi, tôi bị bệnh mắt (mắt phong hỏa), nhiều năm không khỏi. Tôi chuyên tâm trì tụng Bạch Y Đại Sĩ thần chú, trong mộng có một bà lão đến ban thuốc, đắp lên mắt tôi, hai mắt cảm thấy mát mẻ, từ đó, ngày qua ngày dần khỏi, tự nhiên bình phục.

Tôi thờ phụng một tôn tượng Quan Âm có bình tịnh thủy bị gãy, tôi đã dùng chuỗi hạt trắng để treo vào tay cầm bình tịnh thủy bị gãy đó. Ngay trong ngày hôm đó, tôi được thấy Bồ Tát hiển hiện, ngồi trên hoa sen nổi giữa biển. Sau đó, tôi gặp tai nạn xe cộ, bị xe đâm văng người lên không trung, rồi ngã xuống bị thương chân, nhưng sau đó chân tự nhiên lành hẳn. Khi nhìn lại tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, toàn bộ kim thân của Ngài xuất hiện những vết nứt, từ đầu đến tòa sen không chỗ nào không có vết nứt. Quan Thế Âm Bồ Tát bảo với tôi rằng, vì tôi cúng dường Ngài, nên Ngài đã dùng kim thân của mình để thay tôi chịu tai nạn xe này. Lành thay, Bồ Tát, dùng thân vỡ nát của mình để đổi lấy cái chết của tôi, thật là ân đức lớn lao.

Sau đó, tôi tụng Kinh Cao Vương Quan Thế Âm hàng ngày, trong kinh có câu: "Diệt được khổ sinh tử, tiêu trừ các độc hại", tôi tin tưởng không chút nghi ngờ. Lúc đó có một nhóm côn đồ, thấy tôi nổi tiếng, muốn tống tiền, tôi không chịu, bọn chúng tụ tập đông người định hại mạng tôi, may mắn Bồ Tát hiển hóa, chỉ dẫn quý nhân gặp tên thủ lĩnh côn đồ để hóa giải. Việc này tôi đã ghi lại trong "Thông Linh Bí Pháp Thư", cúng dường phụng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát đã giúp tôi chuyển họa thành phúc, bệnh tật được khỏi, đây là sự thật tôi đã trải qua, làm sao không biết được sự cảm ứng từ lòng từ bi và đức độ lớn lao của Ngài. Vị đại Bồ Tát cứu khổ cứu nạn như vậy, ai có thể hết lòng hết dạ tôn kính phụng thờ thì thật có phúc.

Tông phái Linh Tiên Chân Phật tôn sùng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, đạo tràng Linh Tiên Tinh Xá tại Redmond đã được thiết lập, tông phong của Quan Thế Âm Bồ Tát lan tỏa khắp thế giới phương Tây, "Om mani padme hum" - Lục tự đại minh chân ngôn này sẽ cứu độ thế giới phương Tây.

18. Vong hồn người Việt Nam cầu cứu độ

Vào lúc 3 giờ chiều ngày 12 tháng 5 năm 1983, vợ chồng Tào Nhân Kiệt đến gặp tôi để xin quy y và quán đảnh. Tào Nhân Kiệt vốn là một lãnh đạo kiều bào Việt Nam, làm kinh doanh nhà máy xí nghiệp, là một thương gia giàu có ở Sài Gòn. Trước khi Việt Nam thất thủ, ông có sự nghiệp lẫy lừng một thời. Nhờ có người bạn Mỹ cảnh báo, vài ngày trước khi đất nước thất thủ, vợ chồng con cái ông đã phải bỏ lại tất cả để bay ra nước ngoài tạm lánh, không ngờ từ đó phải định cư hẳn ở hải ngoại. Khi vừa rời đi, ông còn đang xây dựng hai nhà máy dưới tên mình, đây là một trang sử thăng trầm của gia đình họ Tào.

Tào Nhân Kiệt cũng có một lịch sử phấn đấu ở Seattle, ban đầu bắt đầu từ công việc bán thời gian, sau đó thi đỗ vào Công ty máy bay Boeing, em trai ông cũng thi đỗ làm dược sĩ, rồi điều hành hiệu thuốc và cửa hàng, vô cùng vất vả. Ông ấy nói với tôi rằng, trong cuộc đời mình, ông đã trải qua những lúc giàu nhất, nghèo nhất, hưởng thụ và khổ cực. Quan Thế Âm Bồ Tát cũng đã hiển linh cứu độ cả gia đình họ, ông vẫn còn người thân ở Việt Nam chưa đi được. Giờ đây, tốt xấu đều đã trải qua, ông muốn quy y Phật môn, chuyên tâm tu tập, ông đã nhận ra rằng, giàu nghèo khổ vui, tất cả đều là không.

Sau khi vợ chồng Tào Nhân Kiệt nhận quy y quán đảnh, họ nói với tôi rằng ở Seattle có khoảng ba mươi nghìn người Việt Nam cần được Phật pháp cứu độ. Ông ấy biết chữ Việt Nam và muốn dịch sách của tôi sang tiếng Việt để tất cả người Việt Nam có thể đọc được. Đây là một việc rất tốt nên tôi nhanh chóng đồng ý với họ. Vợ chồng Tào Nhân Kiệt còn nói rằng, ở phố Tàu Seattle, qua cầu vượt, có một ngôi chùa của người Việt Nam, không biết chúng tôi đã từng đến chưa? Khi nghe vậy, tôi rất ngạc nhiên, hóa ra người Việt Nam có một ngôi chùa ở đây, lập tức cảm thấy phấn khởi, thế là vợ chồng Tào Nhân Kiệt lái xe chở tôi cùng vợ con đi thăm viếng ngôi chùa Việt Nam này.

Ngôi chùa này vốn là một ngôi nhà của người nước ngoài được mua lại và cải tạo, tầng trên thờ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tượng Phật này được chế tác từ Đài Loan, tầng dưới là phòng ăn và nơi ở, ngoài trời có một tượng Bạch Y Quan Âm Bồ Tát, cả tượng Thích Ca Mâu Ni Phật và Bạch Y Quan Âm Bồ Tát đều khá lớn. Vị trụ trì là một tu sĩ Việt Nam, đã sang Vancouver, Canada, nghe nói ở Vancouver cũng có một ngôi chùa Việt Nam do thầy ấy trụ trì. Bình thường ít người đến lễ Phật, chỉ có thứ Bảy, Chủ nhật mới có người Việt Nam đến lễ Phật, khi có pháp sư đến thì cũng giảng kinh thuyết pháp, ngôi chùa do một người trẻ tuổi trông coi.

Trên lầu, chúng tôi dâng hương đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và cũng dâng hương đảnh lễ Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngay đối diện tượng Thích Ca Mâu Ni Phật có thờ một bức tranh Địa Tạng Vương Bồ Tát, phía dưới bức tranh có nhiều bài vị của người Việt Nam, điều kỳ diệu là các bài vị đều hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng tôi cũng thắp hương và lễ bái. Xuống tầng dưới, chúng tôi thấy một quả chuông lớn treo ở đó, điều bất ngờ là quả chuông này được làm tại Tây Đồn, Đài Trung, Đài Loan, có thể thấy ngôi chùa Việt Nam này có nhân duyên sâu sắc với đất nước chúng tôi, nghe nói các tu sĩ đã sang học Phật pháp ở các tu viện nước ta, đây là một vinh dự lớn. Sau khi lễ Phật xong, chúng tôi cũng lên đường về, lúc này đã là 6 giờ chiều theo giờ Seattle.

Vào đêm hôm đó, sau 11 giờ, tôi đã đi ngủ thì bỗng nhiên bị một làn gió âm thổi tới làm thức giấc. Tôi mở mắt ra nhìn, trước giường tôi xuất hiện từng lớp từng lớp khói hương màu xanh lục đậm, chậm rãi bốc lên, tràn ngập cả căn phòng. Ba gương mặt u hồn hiện ra trong làn khói xanh ấy, họ không biểu lộ cảm xúc gì. Một người là đàn ông có khuôn mặt già nua nhăn nheo, hai người còn lại là thanh niên, một nam một nữ. Cả hai người trẻ đều có diện mạo xinh đẹp, đặc biệt là cô gái có vóc dáng mảnh mai và đôi mắt to đẹp. Ba người lặng lẽ di chuyển trong làn khói xanh lục. Họ nhìn tôi, tôi nhìn họ, thật là một khoảnh khắc kỳ diệu.

Tôi nghĩ, nếu là người khác gặp phải tình huống này, có lẽ đã sợ chết khiếp, tim đập loạn xạ, la hét om sòm, nhưng tôi vẫn rất bình tĩnh nhìn ba vị này. Ba vị không phải người phương Tây, cũng không phải người Đài Loan, mà chính là người Việt Nam. Đúng rồi, đó là ba hồn ma người Việt Nam đã lặng lẽ theo tôi về nhà sau khi tôi đi thăm ngôi chùa Việt Nam hôm nay. Ba linh hồn di chuyển theo làn ánh sáng xanh, khiến những tia sáng xanh khi thì tụ lại thành vòng tròn, khi thì tỏa ra, khi thì cuộn lên, nhưng tôi vẫn nhìn thấy rất rõ ràng.

Ba vị gật đầu với tôi, tôi cũng gật đầu lại. Tôi biết họ không có ác ý. Giữa chúng tôi không thể nói chuyện được. Tôi không biết tiếng Việt. Nhưng tôi bắt đầu dùng ngôn ngữ của cõi linh để trò chuyện với họ. "Có chuyện gì không? Tôi có thể giúp gì cho quý vị?" "Chúng tôi biết ngài là Thượng sư, có khả năng giúp chúng tôi." "Nói tôi nghe xem." "Xin hãy siêu độ cho chúng tôi, xin hãy siêu độ cho chúng tôi, chúng tôi rất đau khổ, chúng tôi rất đau khổ." "Chiều mai các vị hãy đến nhé! Bây giờ tôi đã rất mệt rồi, được không?" "Được." Họ làm cho làn khói xanh lục đậm nhảy múa một lúc, như thể đang thở vậy, tôi chăm chú nhìn làn sáng ấy, dần dần tan biến đi, cho đến khi không còn thấy rõ hình dáng nữa. Tôi ngẩn ngơ nhìn ba vị rời đi, rồi mới nhắm mắt lại, dần dần chìm vào giấc mơ, và ngủ say không tỉnh giấc.

Ngày 13 tháng 5 năm 1983, đúng vào ngày mùng 1 tháng 4 âm lịch nước ta, lúc 4 giờ chiều, tôi bảo nhà tôi chuẩn bị hai phần cúng phẩm. Một phần đặt cúng tại đàn thành Mật giáo của chư Phật Bồ Tát, gồm có trái cây, mì, nước và trà. Một phần đặt trong bếp, tạm kê bàn để thiết lập đàn tràng Địa Tạng âm linh. Trước tiên, tại đàn tràng Phật Bồ Tát, tôi tu một thời pháp Quan Âm và một thời pháp Tịnh độ. Sau đó, tôi ngồi trước đàn tràng Địa Tạng âm linh, nhìn chăm chú ba vị u hồn, rót rượu ba lần, thắp hương và đèn dầu lên, tôi nhìn thấy ba linh hồn người Việt Nam ấy.

Tôi lẩm bẩm tụng chú, ý nghĩa của thần chú này như sau: "Hỡi những linh hồn đau khổ! Xin hãy lắng nghe sự dẫn dắt của Thượng sư, cuộc đời vốn chỉ là một giấc mơ, một sự hư không, xin đừng chấp vào khổ cho là khổ, đừng chấp vào vui cho là vui, đừng điên đảo chao đảo. Xin hãy giữ vững ý chí của mình, bước đi những bước chân đúng đắn, từng sát-na đạt đến bất tử. Theo làn hương dẫn dắt của tôi, hãy thăng lên cảnh giới cao hơn! Đừng mê đắm ảo giác ngắn ngủi này, hãy thăng lên! Hãy thăng lên! Buông bỏ tất cả mọi khổ não phiền muộn, theo sự dẫn dắt của thần chú của tôi, đi vào, đi vào."

Tôi tụng Địa Tạng Vương Bồ Tát diệt định nghiệp chân ngôn. Tôi tụng chú vãng sinh. Tôi tụng "Tây phương Cực Lạc thế giới ba mươi sáu vạn tỷ mười một vạn chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật".

Tôi lắc chuông kim cang, dùng âm thanh du dương của tiếng chuông để dẫn dắt họ. Ba u hồn ở cõi trung ấm, ngay trong lúc tôi toàn tâm toàn ý hành pháp, có một luồng ánh sáng chiếu vào tâm họ, họ theo hướng ánh sáng tiến lên, tiến lên. Làn khói xanh lục đã tan biến, giờ đây, họ đã thoát khỏi làn khói xanh lục ấy, thoát khỏi nỗi sợ hãi cô đơn, thoát khỏi sự mê muội thiếu niềm tin, đạt được ánh sáng trong tâm. Cuối cùng tôi chỉ còn lại một niềm tán thán, tán thán lòng từ bi của Địa Tạng Vương Bồ Tát, tán thán Phật Bồ Tát pháp lực vô biên, tán thán lòng từ bi thiện nguyện vô tận của Mật pháp.

Hướng về trung ương, tôi đảnh lễ chư Phật của bộ Trung ương, chư Phật của bộ Kim Cang phương Đông, chư Phật bộ Bảo phương Nam, chư Phật bộ Liên Hoa phương Tây, chư Phật bộ Yết Ma phương Bắc. Địa Tạng Vương Bồ Tát ngự trên tòa sen trong tâm tôi, phóng quang tiếp độ ba vong linh người Việt Nam, tôi thấy ba vong linh hoan hỷ theo ánh sáng mà đi. Trong lòng tôi nghĩ, đây chính là duyên phận! Duyên phận với người Việt Nam.

Vợ chồng Tào Nhân Kiệt đến quy y và nhận quán đảnh. Tào Nhân Kiệt sẽ dịch sách tâm linh của tôi để độ hóa tất cả người Việt Nam, sách của tôi đã có bản tiếng Nhật, tiếng Anh và tiếng Việt rồi. Chùa Phật giáo Việt Nam, Mật pháp của tôi lại kết được thiện duyên này, thật là tốt lành thay!

19. Suy tưởng lúc đêm khuya

Ngày 15 tháng 5 năm 1983 là Chủ nhật, đây là ngày bận rộn nhất của tôi vì có rất nhiều người muốn quy y và nhận quán đảnh, tôi đều sắp xếp vào ngày này. Từ Vancouver, Canada có ông Lôi Đức, ông Ngũ Phong, ông Chẩn Tam Nguyên, ông Chẩn Đắc Thắng, cô Hoàng Thiếu Lan và nhiều người khác đã lái xe suốt ba tiếng rưỡi đồng hồ để đến quy y và nhận quán đảnh. Ở Mỹ, có cả gia đình ông Vương Tiểu Bình và những người khác. Vào buổi tối hôm đó, người nghe danh đến nghe Phật pháp đông như trẩy hội, cả phòng khách chật ních người. Tôi bận rộn từ sáng đến tận mười rưỡi tối mới giải tán, thật là một pháp duyên thù thắng.

Đầu hè ở Seattle, thời tiết rất dễ chịu với nhiệt độ ôn hòa, không khí trong lành, và điều kỳ lạ nhất là mãi đến 10 giờ tối mặt trời mới lặn xuống biển. Khói hương từ mật đàn tỏa bay lên không trung, và sau khi mọi người đã ra về hết, mang lại cho tôi một cảm giác vô cùng tĩnh lặng.

Cuối cùng thì mặt trời cũng đã lặn xuống biển cảng Seattle, tôi không thể nói là "lặn xuống núi", bởi vì phía Đông Seattle là núi, phía Tây là biển cả, nên khi hoàng hôn, mặt trời lặn xuống biển chứ không phải núi. Màn đêm buông xuống, tôi đứng bên cửa sổ phía Nam của Linh Tiên Các, nhìn về hướng núi tuyết Rainier, nơi hàng nghìn hàng vạn ánh đèn đang lấp lánh.

Ánh đèn thành phố Seattle sáng lên từng ngọn một, như những ngọn đèn dầu cúng Phật. Tôi nghĩ đến những người vừa nhận quán đảnh ở đây, giờ đang lái xe với tốc độ cao trên đường cao tốc I5, nhanh chóng trở về nhà mình.

Đứng bên cửa sổ, tôi thầm cầu nguyện cho tất cả những người đã quy y và nhận quán đảnh, mong cho họ như những vì sao, mãi mãi tỏa sáng trên bầu trời, như những viên ngọc quý phóng hào quang. Mong sao việc tu trì của mọi người vang lên như tiếng sóng biển, phát ra những lời tán thán, và như từng ngọn đèn, tỏa ánh sáng hết mình để chiếu rọi mặt đất đen tối này. Đêm nay thật đẹp, đêm Seattle lấp lánh những ánh vàng.

Tôi nhớ về những người đã quy y và nhận quán đảnh trong ngày, tôi đã cẩn thận truyền cho từng người pháp Quan Âm của tông phái Chân Phật Linh Tiên, pháp của tôi như thế này:

Thứ nhất, thắp hương, cúng dường, lễ Phật.

Thứ hai, tu pháp tứ quy y. Quy y Thượng sư, quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng. Thần chú là: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê."

Thứ ba, thỉnh mời Quan Thế Âm Bồ Tát. Dùng niệm danh hiệu của Ngài, quán tưởng hình tượng của Ngài, hoặc quán tưởng pháp khí tịnh bình, vận dụng các loại niệm lực để thỉnh mời.

Thứ tư, Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân, rõ ràng minh bạch, từ tịnh bình cam lộ của Quan Thế Âm Bồ Tát phóng ra ánh sáng trắng, đi thẳng vào đỉnh đầu, chuyển hóa tam nghiệp của mình - khẩu nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp - thành thanh tịnh, biến tam nghiệp này thành tam mật, đây chính là "bí mật trang nghiêm" của hành giả Mật tông.

Thứ năm, niệm tâm chú của Quan Thế Âm Bồ Tát: "Ôm ma-ni pê-mi hùm", từ 108 biến đến 1080 biến. Khi trì tâm chú này, chính mình chính là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Thứ sáu, nhập định, định vào một. Tu trì theo pháp tọa thiền thông minh.

Thứ bảy, hồi hướng phát tâm và lễ Phật.

Ngoài ra, tôi còn truyền dạy một số pháp mặc giáp hộ thân để giúp tất cả đệ tử được bảo hộ và phòng tránh ma chướng. Tôi mong mỏi tất cả đệ tử có thể nương tựa vào một pháp, tinh tấn tu trì, để ai ai cũng được chứng đắc. Khi chứng đắc, tự nhiên sẽ thượng hạ hợp đức, trên thì hợp với diệu tâm bản giác của chư Phật mười phương, đồng thể với Phật, cùng một từ lực, có thể vận dụng vô duyên đại bi để phổ độ chúng sinh. Dưới thì hợp với tâm tính của chúng sinh trong lục đạo mười phương, có thể cùng chúng sinh đồng ưu phiền, cùng bi ngưỡng.

Tất nhiên, tôi biết rằng chúng sinh trên địa cầu hiện tại như đang sống trong thời kỳ đen tối của thời mạt pháp. Tất cả chúng sinh như những con muỗi bị nhốt trong một chiếc bình kín, cùng bay đi bay lại, kêu vo ve ồn ào không ngừng nghỉ. Có những người chỉ biết theo đuổi vinh hoa phú quý, lại có những kẻ mượn danh tu Mật tông để chạy theo quyền quý phú hào, bám víu quan hệ, tham cầu danh lợi. Những chúng sinh như vậy, làm sao hiểu được rằng tất cả mọi thứ đều do tâm thức biến hiện, và có mấy ai thực sự thấu suốt được điều này?

Đêm Seattle thật đẹp làm sao. Bầu trời đêm Seattle càng đẹp tuyệt vời hơn nữa.

Thật ra, tôi đã nhận được sự ưu ái đặc biệt từ trời cao, và cả sự ưu ái đặc biệt từ các vị tông trưởng tiền bối, để có thể nhận thức được bản lai diện mục của vũ trụ. Đáng thương thay loài người, đừng nghĩ rằng thế giới của loài kiến quá nhỏ bé, bởi vua kiến tự cho mình là "thiên hạ chỉ có mình ta", nó không biết đến sự tồn tại của các thế giới khác, tự mãn với chính mình, tự cho rằng tất cả kiến thợ đều là thần dân của nó. Loài muỗi cũng vậy, chúng sống tự mãn trong không gian của riêng mình, cũng tự cho rằng mình thông thái vô song. Con người đáng thương cũng như vậy, tự cho rằng mình là sinh vật cao đẳng nhất trong một Thái Dương hệ. Thực ra có hàng tỷ Thái Dương hệ, đối với loài người mà nói, đây quả thực là một con số thiên văn, và ngoài con người ra, có không biết bao nhiêu sinh vật cao cấp hơn con người.

Thế giới của loài kiến không biết đến sự tồn tại của thế giới loài người, thế giới loài người không biết đến sự tồn tại của thế giới thần Phật, đây là sự vô minh ngang nhau trong vũ trụ. Có thế giới nào nhỏ bé hơn thế giới của loài kiến không? Tôi nói là có, các nhà khoa học đã nhìn thấy qua kính hiển vi một thế giới vi khuẩn còn nhỏ bé hơn, cần biết rằng thế giới vi khuẩn cũng có sự khác biệt về chủng loại, cũng có chiến tranh, cũng có ngày và đêm, và còn có cả những quy luật sinh tồn của riêng chúng. Thế giới vi khuẩn không biết đến thế giới kiến, thế giới kiến không biết đến thế giới loài người, thế giới loài người không biết đến thế giới thần Phật, đây đều là những sự vô minh ngang nhau.

Cần biết rằng, vi khuẩn cũng có mặt trời mặt trăng, có nguyên tử dương âm, có neutron, có ion. Cần biết rằng, kiến cũng có mặt trời mặt trăng, có nguyên tử dương âm, có neutron, có ion. Cần biết rằng, thế giới loài người cũng có mặt trời mặt trăng, có nguyên tử dương âm, có neutron, có ion.

Vũ trụ này rốt cuộc lớn đến đâu? Giới trí thức trong thế giới vi khuẩn vĩnh viễn không biết được, giới trí thức trong thế giới loài kiến vĩnh viễn không biết được, giới trí thức trong thế giới loài người cũng vĩnh viễn không biết được, nhưng giới trí thức ở bất kì thế giới nào cũng tự cho rằng mình biết hết mọi thứ, điều này chẳng phải rất đáng thương sao? Mà còn rất đáng cười nữa. Tôi nói rằng, linh hồn của tôi đã từng bay đến những hành tinh ở các thế giới khác, mọi người đều nói Lư Thắng Ngạn phát điên, thực ra tất cả những gì Lư Thắng Ngạn nói đều là sự thật, chỉ là do sự vô minh của đám trí thức này mà thôi. Việc loài người chúng ta thăm dò phạm vi vũ trụ trong mười phương trên dưới cũng giống như việc giới trí thức trong thế giới vi khuẩn thăm dò phạm vi vũ trụ trong mười phương trên dưới, đều là những sự vô minh ngang nhau. Điều tôi muốn nói với tất cả nhân loại là, loài người chúng ta cũng đang sống dưới kính hiển vi của Phật, các Ngài tồn tại trong một không gian khác, giống như cách chúng ta nhìn xuống sự tự mãn của vua kiến vậy.

Mọi người hãy thử nghĩ xem, khi Đức Phật đang nhìn xuống tổng thống Reagan đang huênh hoang thị uy, giống như cách chúng ta nhìn xuống một con kiến chúa đang chỉ huy đám kiến thợ vận chuyển thức ăn, lúc này trong tâm Đức Phật sẽ có cảm giác và cảm khái gì, và trong mắt Phật, tổng thống Reagan là gì?

Trong không gian thời gian vô cùng vô tận này, vũ trụ siêu lớn bao gồm vũ trụ trung cấp, vũ trụ trung cấp bao gồm vũ trụ nhỏ, vũ trụ nhỏ bao gồm vũ trụ vi tế, tất cả mọi thứ đều được cấu tạo từ những hạt nhỏ, có cái gọi là hạt nguyên tử, có cái gọi là tế bào, electron quay bên ngoài chính là mặt trời mặt trăng, proton, neutron chính là trái đất, từ thế giới nhỏ bé đến thế giới to lớn, có thể nói không can thiệp lẫn nhau, nhưng chỉ có những người có trí tuệ siêu việt mới có thể hiểu được điều này (không phải chỉ trí thức), như tôi, tôi chính là người duy nhất nhận thức được sự vô tận của vũ trụ.

Loài người chỉ có thể dùng một loại "sức mạnh của tâm niệm" để siêu việt, mới có thể giao tiếp với toàn bộ thế giới thần Phật, mới có thể bước vào thế giới của các Ngài. Hôm nay tôi đã không ngừng giải thích về năng lực siêu việt vĩ đại này, chẳng lẽ giới trí thức vẫn không thể hiểu được sao? Thật kỳ lạ thay!

20. Tâm sự của người khác

Theo tư tưởng của Đức Phật, mỗi người tu hành đều phải đoạn trừ dục niệm, bởi dục niệm là gốc rễ của mọi phiền não. Sự hình thành của chúng sinh trong lục đạo thế gian là do có dục niệm mới hình thành, sinh rồi tử, tử rồi sinh liên tục không ngừng, dục vọng của hai tính mới khiến cho chúng sinh trong lục đạo thế gian này tiếp tục nối tiếp.

Dục niệm là gốc rễ của phiền não, cũng là gốc rễ của tiến hóa, hơn nữa là gốc rễ của văn minh, và tất nhiên cũng là gốc rễ của mọi nỗi đau khổ do ham muốn không đạt được, đương nhiên cũng là gốc rễ của chiến tranh. Sinh mệnh của con người bắt nguồn từ dâm dục, và chỉ những ai đoạn trừ được dâm dục mới được coi là thanh tịnh phạm hạnh.

Phật Thích Ca Mâu Ni lại dạy rằng, nếu chưa đoạn trừ được "dâm niệm", dù cho người đó đã thông đạt được Phật lý thâm sâu, trong quá trình tu hành chỉ cần khởi lên một niệm dục vọng, cảnh dục sẽ tùy theo đó mà sinh khởi. Khi những cảnh dục này đan xen xuất hiện, sẽ phá hoại giới thể vốn đã tu trì rất tốt, như vậy ắt sẽ xảy ra việc phạm giới. Hành giả như thế, nếu muốn hàng phục ma chướng, đó là điều không thể, tương lai ắt sẽ đọa vào ma đạo.

Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng, người tu hành không được khởi tâm dâm dục, cũng không được phạm giới dâm dục, đây là pháp thanh tịnh đệ nhất mà chư Phật trong quá khứ và hiện tại đều tu tập. Đức Phật đã ví dụ rằng, một người hành dâm mà muốn tu thành đạo, giống như nấu cát đá trong nồi cơm vậy, dù có nỗ lực tu hành đến đâu cũng là uổng công vô ích.

Ở Seattle, có một vị cư sĩ cao niên đến tìm tôi, vị cư sĩ này có một người bạn tốt có chí tu hành, nghiên cứu sâu Phật pháp, có chí tu trì thiền định. Ông ấy muốn nhờ vị cư sĩ giới thiệu để được quen biết với tôi, tôi đồng ý và nói rằng gặp mặt rồi sẽ nói.

Lần đầu gặp mặt, ông ấy đến thăm tệ xá, người này là người có phúc báu lớn, dáng người phúc hậu, hai tai rủ dài xuống, đôi mắt tràn đầy trí tuệ, kiếm được không ít tiền, kinh doanh nhiều cửa hiệu, còn đầu tư bất động sản ở địa phương này, tính tình cũng rất tốt, nhiệt tâm hoằng dương Phật pháp, có thể nói là một vị thiện tri thức vừa làm kinh doanh vừa học Phật.

Tuy nhiên, tôi nhìn thấy trên người ông ấy có một luồng khí màu xám xen lẫn đỏ trắng, đây là hạt giống dâm dục, trong người ông ấy có cơ dâm, trong tâm có dâm niệm, giống như ngọn lửa cháy trên khúc gỗ ẩm ướt, tỏa ra ánh sáng xanh lục mờ ảo, đây là điều tôi quan sát được bằng con mắt thứ ba.

Lần đầu gặp mặt, tôi không tiện nói thẳng, chỉ trò chuyện sơ lược về đạo lý nhà Phật, và về nhân duyên học Phật trước đây của ông ấy.

Lần thứ hai, tôi thông báo cho ông ấy về buổi pháp hội của chúng tôi và mời ông ấy đến. Kết quả là ông ấy viện cớ bận công việc nên không thể đến.

Lần thứ ba, tôi thông báo cho ông ấy về buổi pháp hội của chúng tôi và mời ông ấy đến. Kết quả là ông ấy viện cớ sắp phải đi xa.

Sau đó, trong một lần thiền định, tôi nhìn thấy một hình ảnh kỳ dị, đó là một vị thần quỷ La Sát đi trên mặt đất, đang há miệng to nuốt chửng một người, và người đó không phải ai khác, chính là vị thương nhân học Phật kia. Sau khi xuất định, tôi cảm thấy đây không phải là điềm lành, tôi tìm đến vị cư sĩ cao niên, gấp rút tìm ông ấy. Gọi điện thoại đi thì người không có ở đó, thì ra ông ấy đã ly hôn với người vợ cũ, vừa mới tái hôn và đang đi du lịch trăng mật. Điều này đã chứng thực tâm niệm dâm dục trong lòng ông ấy.

Nửa tháng sau, tin truyền đến rằng ông ấy lái xe trên đường cao tốc và bị một chiếc xe tải đối diện đâm phải, ông ấy bị kẹt chết trong ghế lái. Điều tôi thấy trong thiền định về việc La Sát nuốt chửng ông ấy đã được chứng thực.

Sau khi ông ấy qua đời, một người đối tác đầu tư với ông ấy, họ Lữ, là một tín đồ Cơ Đốc giáo, đã đến gặp tôi và hỏi rằng, một người tu Phật tinh tấn như vậy, một người tự xưng là cư sĩ Phật giáo, đã in và phát tặng rất nhiều kinh sách, gặp ai cũng giảng Phật pháp, tại sao lại bị xe đâm chết, chẳng lẽ Phật Tổ không phù hộ cho ông ấy sao?

Ông Lữ nghi ngờ hỏi tôi: "Nghe nói ông ấy cũng đã từng đến chỗ thầy, chẳng lẽ thầy không thấy được vận mệnh của ông ấy sao, thầy không thể ra tay cứu ông ấy sao?"

Còn tôi, tôi chẳng thốt nên lời. Là một người tu học Mật pháp, đã được Phật Thích Ca Mâu Ni sờ đầu thọ ký, được ban tặng danh hiệu Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư, một bậc Mật hành tôn giả, hôm nay chỉ biết câm nín. Ngoài việc lắc đầu ra, tôi không muốn giải thích gì thêm. Người đời, có ai biết được rằng, lời dạy thanh tịnh đệ nhất của Như Lai chính là tâm không sinh dâm niệm, thân không khởi dâm hành. Hiện nay có rất nhiều người, bề ngoài thì lễ bái Phật, cũng làm một chút từ thiện cứu tế mùa đông, cũng tham gia xây chùa, in một ít kinh sách tặng người, gặp ai cũng chắp tay, cũng cạo đầu trọc lóc, mở miệng là Phật, khép miệng cũng là Phật, mạo xưng thiện tri thức, nhưng một khi rơi vào "hố dâm" thì không thể tự thoát ra được, việc lễ Phật bề ngoài chỉ là để cho mọi người thấy, tu hành như vậy làm sao được Phật gia hộ?

Thành thật mà nói, trong quá trình tu tập, bản thân tôi cũng tự nhiên gặp những người phụ nữ vô cùng kiều diễm, đẹp như tiên nữ; cũng gặp phải những cảnh quyến rũ trăm bề, không thể tự chủ. Tuy nhiên, trong những lúc như say như mê, không thể làm chủ bản thân đó, tôi luôn bừng tỉnh quay đầu, những thử thách như vậy quá nhiều. Có một lần, năm người phụ nữ xinh đẹp cùng lúc thi triển mê hoặc, nếu không phải tôi có định lực tuyệt vời, có lẽ đã bị họ xoay như chong chóng. Thoát ra khỏi mê hoặc, giống như vừa tỉnh cơn ác mộng, có hối hận có tiếc nuối, may mắn trong tâm tôi có ánh sáng bách bảo vô úy, vội vàng tránh xa, nếu không đã phạm vào đại giới căn bản của Phật pháp. Tôi thấy rằng có quá nhiều người đạo tâm yếu ớt, đạo lực không đủ, đạo tâm không vững, không chịu nổi sự mê hoặc của sắc đẹp, tự nhiên trở thành món điểm tâm trong miệng dạ xoa la sát.

Con mắt thứ ba của tôi rất nhạy cảm, đã đạt đến mức có thể đọc được suy nghĩ của người khác, tôi hoàn toàn hiểu được người khác đang nghĩ gì, bất kì ai giả vờ trước mặt tôi đều vô ích. Càng hiểu rõ những điều này, tôi chỉ thấy sự đáng sợ của con người, ngay cả trong số học trò của tôi cũng có người bề ngoài nói lời tâng bốc, nhưng sau lưng lại phỉ báng tôi như rắn độc, nguyên nhân chính là vì tôi không đáp ứng được điều họ cầu xin. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi đã hoàn toàn hiểu được đa số người đang nghĩ gì, đó chính là con mắt thứ ba đặc biệt, nhưng liệu tôi có nên nói ra sự giả tạo của họ ngay trong lần gặp đầu tiên không?

Thể sinh mệnh vốn có ánh sáng, loại ánh sáng này được phát ra từ điện trong cơ thể con người. Mỗi người đều có ánh sáng khác nhau, có màu vàng kim, màu trắng, màu đỏ, màu xanh, màu xám, màu nâu, v.v... và cũng có những màu pha trộn giữa hai màu, ví dụ như màu đỏ có thể chia thành đỏ tươi, đỏ thường, đỏ nhạt, đỏ rực lửa, hồng phấn, v.v... Tất nhiên cũng có những màu thuần khiết và những màu pha trộn nhiều màu khác nhau. Những màu sắc này liên tục thay đổi theo ý niệm và hành vi của con người, về hình dạng thì chia thành ba loại: có người nhìn như ánh sáng, có người nhìn như khói, có người nhìn như mây. Có loại thì đứng yên, có loại thì rung động.

Có người nói rằng những gì Lư Thắng Ngạn nói có lẽ không đúng sự thật. Tôi xin thành thật nói với mọi người rằng, trong mắt mọi người, ánh sáng mặt trời là một màu hay nhiều màu? Mọi người thấy ánh sáng mặt trời thực sự là một màu vàng nhạt, nhưng khi chiếu qua lăng kính, ánh sáng mặt trời tách thành bảy màu đỏ, cam, xanh lam, xanh lục, vàng, chàm, tím. Thực ra không chỉ có bảy màu, giữa các màu này còn có những màu trung gian, thậm chí còn có những tia hồng ngoại, tia cực tím mà lăng kính không thể phân tách và mắt thường không thể nhìn thấy được. Còn có những tia X khó hiểu hơn nữa, trong không gian còn tồn tại tia alpha, tia beta, tia gamma, v.v... Những gì mắt thường con người có thể thấy được thực sự rất hạn chế, nhưng trên cơ thể con người thực sự có ánh sáng, không thể vì không nhìn thấy ánh sáng trên cơ thể con người mà phủ nhận sự tồn tại của nó. Thực tế, trong vũ trụ này là một thế giới phức tạp của các thể ánh sáng, lấy ví dụ về ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trời không phải một màu mà là sự tổng hợp của vô lượng màu sắc, đây là một cách giải thích phù hợp với khoa học.

Đối với tôi, tôi không muốn nhìn thế giới một cách xấu xí, cũng không muốn thấu hiểu suy nghĩ của từng người. Hiện tại tôi cố gắng tránh sử dụng con mắt thứ ba, tốt nhất là tôi cũng giả vờ như một kẻ khờ khạo, không biết gì cả, không hiểu gì cả, khi người khác hỏi, tôi chỉ biết câm lặng.

Biết trước mọi việc là một nỗi đau, nhưng có ai hiểu được nỗi đau đó của bạn, khi bạn biết rõ người khác nói một đằng nghĩ một nẻo, làm sao có thể nghiêm khắc chỉ trích họ được. Vì vậy! Tốt nhất là im lặng lắc đầu không biết.

Tâm sự của người khác, đừng cố tìm cách "giải mã" nữa.

21. Đừng đợi đến già mới học đạo

Tôi có một đệ tử nữ họ Phan, hơn ba mươi tuổi, đã quy y và quen biết tôi khoảng bảy năm, sau khi quy y chúng tôi gặp nhau khoảng bảy lần, cô ấy chỉ đến thăm tôi mỗi năm một lần, và chỉ vào những dịp sinh nhật của tôi mới quay về thăm thầy. Đệ tử Phan có dung mạo thanh tú, nói năng khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc cho nhiều học trò.

Sau khi tôi đến Mỹ, đệ tử Phan gọi điện cho tôi, cô ấy nói toàn thân đều là bệnh, nào là phẫu thuật nào là châm cứu, còn trẻ tuổi mà đã bị lao phổi, ở cổ họng và lưng đều có u cứng, sợ rằng là bệnh nan y. Vì thế cô ấy xin được đến Mỹ một lần, muốn thực sự học một số pháp, trước khi chết, muốn được nương tựa vào Phật, bù đắp những thiếu sót.

Lúc đó, trong lòng tôi có một nỗi cảm khái, quy y đã bảy năm, chưa từng nghĩ đến việc học pháp tu pháp, đợi đến khi bệnh tật đến thân mới nhớ ra tầm quan trọng của Phật pháp, liệu có kịp không? Đệ tử Phan xin được visa du lịch, quả nhiên đã đến tận Seattle để cầu pháp, cô ấy viết một lá thư trình lên tôi, nay xin công bố toàn văn như sau:

Sư phụ:

Con xin cảm ơn sự yêu thương và chăm sóc của thầy trong nhiều năm qua. Ân từ mà thầy ban cho, con sẽ khắc cốt ghi tâm, mãi mãi ghi nhớ trong lòng. Giờ đây con đã biết kiếp này khó mà báo đáp, cũng không có khả năng tạ ơn, chỉ còn cách mang ơn thầy mà thôi.

Hiện giờ con chỉ còn một mình cô đơn, thật sự là không còn người thân thích, không có ai để nương tựa, mọi việc đều phải tự lo liệu. Trước đây nhờ có nhan sắc, con còn được nhiều người vui vẻ thân cận và giúp đỡ, nào ngờ tuổi còn trẻ mà nghiệp chướng lại nặng nề đến thế, bệnh tật đã ghé thăm con, khiến dung nhan con già nua, giờ đây thân không tự chủ, thể lực có hạn, không còn phấn chấn được nữa. Đôi khi con cảm thấy mình không còn sống được bao lâu nữa, vô cùng đau đớn vì số phận mình sao mà bạc bẽo đến thế. Uổng công những năm trước đã quy y sư phụ, hiểu được thân người khó được, muốn tu tập thì lại vì hoàn cảnh bận rộn mà cứ trì hoãn mãi, đợi đến khi có thời cơ mới tu, nhưng giờ đây thân thể yếu ớt khó chống đỡ, muốn tu hành mà không biết có muộn quá không, e rằng chưa kịp tu thành thì đã phải đến địa ngục điểm danh.

Thưa sư phụ, con biết bề ngoài thầy nghiêm nghị nhưng trong lòng rất từ bi, từ trước đến nay đều không ghét bỏ con - một đệ tử vô dụng với trí tuệ kém cỏi này. Vì vậy con một lòng nghĩ đến việc cầu pháp, mong thầy từ bi thương xót, có thể cứu mạng con, chỉ dạy và cứu giúp con, nên con đã mạo muội đến quấy rầy thầy. Thực ra, trong thế giới rộng lớn này, con không còn chỗ dung thân, con chẳng hề oán thán điều gì, tâm đã tĩnh lặng như nước hồ thu, nếu không có sự hiện diện của thầy trên thế gian này - vị cứu tinh duy nhất của con, ngọn đèn Phật pháp duy nhất tỏa ánh sáng chiếu rọi chúng sinh, là tia hy vọng cuối cùng trong đời con - thì con đã tự kết liễu từ lâu rồi. Việc con còn sống đến ngày hôm nay, mạng sống vô dụng này, hoàn toàn là nhờ ơn cứu độ của thầy, ân tình này cao hơn trời, sâu hơn biển, không thể nào diễn tả được.

Thưa sư phụ, sau này thầy sẽ còn bận rộn hơn nữa, cứu độ nhiều chúng sinh hơn, mỗi ngày phải trả lời quá nhiều thư từ, không bao giờ trả lời hết được, mỗi ngày càng có nhiều người tìm đến, người thì cầu thầy chữa bệnh, người thì cầu thầy truyền pháp quán đảnh, người thì cầu thầy giải đáp khó khăn. Vì vậy, khi con học được pháp rồi, sau khi về con chỉ gửi thư thăm hỏi sức khỏe thầy, không dám làm phiền đến tu hành thanh tịnh của thầy nữa, cũng xin thầy không cần hồi âm cho con.

Thưa sư phụ, đệ tử mạnh dạn khẩn cầu sư phụ, hôm nay đến Mỹ là một cơ hội hiếm có, kính xin sư phụ chỉ dạy cho con nhiều phương pháp tu trì, pháp môn minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử và những điều về vận mệnh kiếp này và kiếp sau của con, có lẽ lần này con đi rồi, từ đây không thể gặp lại mặt sư phụ nữa. Dĩ nhiên, con còn hy vọng hơn nữa là trong quãng đời cuối cùng này, con tu tập được tinh tấn, ngày sau vãng sinh, ở thế giới Tây phương Cực Lạc, lại được gặp sư phụ, được ở bên cạnh thầy nghe kinh học đạo, như vậy thì còn gì tuyệt vời hơn.

Thưa sư phụ, con biết thầy rất bận, lại còn tịnh tu ở Linh Tiên Các, con lại không biết cách nói chuyện, đôi khi hỏi những câu rất ngây ngô, đôi khi rất nông cạn, con tự thấy rất xấu hổ vì trí tuệ kém cỏi, kính xin sư phụ đừng chê cười, đừng trách phiền, con hoàn toàn xuất phát từ tận đáy lòng, vạn phần thành kính thỉnh cầu. Đệ tử thành tâm thành ý nhất tâm tam bái thỉnh cầu, con sẽ mãi mãi ghi nhớ những Mật pháp này, nghiêm túc trong những tháng ngày sắp tới, thực sự học được đạo vãng sinh.

Đệ tử Lan kính thư.

Tôi nói với cô ấy rằng, tự tính của chúng ta vốn là một loại "tinh minh", và phàm phu có tính của lục căn, từ tính của lục căn biến thành lục trần, trở thành có sinh có diệt. Nếu có thể đưa lục căn này trở về "tinh minh", đó chính là trở về nguồn cội, như vậy sẽ không sinh không diệt.

Vì thế, tôi truyền Mật pháp lâm chung của A Di Đà Phật cho cô ấy, tôi xin kính cẩn ghi lại pháp bí mật như sau:

Người tu dùng tư thế nằm, không phải là nằm ngửa, mà là nằm nghiêng bên sườn phải, chính là thế nằm cát tường. (Người bệnh dùng cách này.)

Quán tưởng thắng cảnh của Tây phương Cực Lạc thế giới, tốt nhất là đặt tranh vẽ Tây phương Cực Lạc thế giới ở ngay bên trên chỗ nằm, tưởng tượng nơi mình ở biến thành cảnh giới của Cực Lạc quốc, có hàng cây thất bảo, nước tám loại công đức, v.v… cảnh giới này đều tưởng tượng ở trong đầu.

Và tưởng tượng chính mình thành Bổn tôn A Di Đà Phật. Quán tưởng khuôn mặt của mình là A Di Đà Phật, thân thể mình đang ở tư thế sư tử nằm ngủ của A Di Đà Phật, toàn thân tỏa ánh sáng, tất cả viên mãn. (Tay kết ấn thiền định.)

Khi thở khí ra, nghĩ nó thành màu đen, khi hít khí vào, nghĩ nó thành ánh sáng trắng. Làm như thế 21 lần.

Trong tâm niệm thầm tâm chú căn bản của A Di Đà Phật: "Ôm a-mi-tê-wa sê". Niệm chú này vô số biến, khiến cho thân khẩu ý của chính mình tam nghiệp chuyển thành tam mật, tam mật hợp lại thành một.

Nằm là thân mật, miệng niệm chú là khẩu mật, quán tưởng Bổn tôn Phật cảnh là ý mật, Bổn tôn như thế là ta, ta chính là Bổn tôn, tự nhiên sẽ thành tựu.

Tu pháp như vậy là pháp tu tinh tấn mà người bị bệnh sắp chết nên tu, đây là sự che chở của nguyện lực từ bi của A Di Đà Phật. Hồi hướng niệm rằng: "Nguyện con lúc lâm chung, trừ hết mọi nghiệp chướng, gặp được Phật Di Đà, tiếp dẫn liên hoa sinh."

Khi mới bắt đầu thực hành pháp này, vẫn phải tôn kính Thượng sư truyền pháp.

Trong số đệ tử của tôi, có rất nhiều người giống như đệ tử Phan, tuy họ quy y với tôi nhưng hoàn toàn không biết phương pháp tu trì, những đệ tử quy y này thực sự không như pháp, không biết pháp. Quy y chỉ là một danh xưng trống rỗng, quán đảnh cũng chỉ là một danh xưng trống rỗng, vừa gặp tôi, câu đầu tiên đã là "Thưa thầy, gần đây việc làm ăn của con không tốt." "Thưa thầy, có pháp đặc biệt nào giúp con phát tài lớn không?" Khi nghe những lời này của đệ tử, lòng tôi đau xót vô cùng. Trong lòng đệ tử, Mật pháp họ cần chỉ là pháp phát tài. Mỗi ngày, có rất nhiều đệ tử từ Đài Loan gọi điện cho tôi, trung bình một ngày bốn cuộc. Có đệ tử đi bán bảo hiểm, cầu pháp nhất định thành công; có đệ tử bán đất không được, cầu pháp bán được đất; có đệ tử làm ăn không tốt, cầu pháp làm ăn phát đạt hơn; có đệ tử mơ mộng hão huyền, cầu pháp trúng ngay vé số quốc gia. Những cuộc gọi như vậy không đếm xuể, mà người cầu pháp tu trì thành Phật thì ít ỏi vô cùng, những đệ tử này, thật đáng thương thay, đáng thương.

Có những đệ tử còn kỳ lạ hơn, đợi đến già mới học đạo, nói để mười năm nữa rồi tính! Đợi hai mươi năm nữa khi không còn hưởng được phúc nữa rồi tính! Đợi đến khi tóc bạc trắng, răng lung lay rồi tính! Giống như đệ tử Phan vậy, lúc còn trẻ, xinh đẹp như hoa, dáng vẻ yêu kiều, không hưởng lạc lúc này thì còn đợi đến bao giờ? Tu Phật pháp là việc của người già! Nào hay ma bệnh vừa đến, chỉ một tháng đã khiến một đóa hoa xinh đẹp trở nên tàn úa. Thời gian chớp mắt trôi qua, ngay cả mạng sống cũng không giữ được, tu hành còn kịp nữa không? Những người này thật đáng thương thay, đáng thương.

Điều tôi muốn nói với độc giả là đừng đợi đến già mới học đạo, vì mộ cô đơn toàn là của người trẻ tuổi. Trong đời người, gặp được một vị thầy chân chính không dễ, được thầy truyền pháp càng không dễ dàng. Phải nghe pháp, nghe pháp rồi phải tu pháp, tu pháp rồi phải giữ vững tâm hướng về đạo, nỗ lực tinh tấn không ngừng nghỉ. Tôi từ bi thương xót chúng sinh đáng thương, nhưng những người đọc bài văn này rồi lại để gió thổi qua tai, thật nhiều như cát sông Hằng, vẫn phải nói lại câu cũ: đáng thương thay đáng thương, những người này bao giờ mới quay đầu?

22. Ý kiến của học trò

Đệ tử Hoa Ngọc ở Đài Bắc gửi cho tôi một bức thư, bày tỏ một số ý kiến của cô ấy. Những ý kiến này đáng được công bố trong sách, vì vậy tôi ghi lại như sau:

Thượng sư kính yêu, Đệ tử Hoa Ngọc xin thỉnh an và thăm hỏi Thượng sư.

Thượng sư hoằng dương Linh Tiên Chân Phật Tông tại Mỹ quả thật phi thường, công đức vô lượng, đệ tử thành tâm ngưỡng mộ.

Kính thưa Thượng sư, hôm nay đệ tử xin thành thật thưa với thầy, cách đây tám năm, đệ tử đã vô cùng ngưỡng mộ thầy, đã hết sức cố gắng muốn được gặp Thượng sư, nhiều lần tìm đến Đài Trung, nhưng lúc đó Thượng sư đã đóng cửa không tiếp khách, mỗi lần đều không thể gặp được, không có cơ hội diện kiến Thượng sư một lần, đành phải buồn bã ra về.

Trong suốt thời gian này, con luôn nhớ về thầy. Cho đến một ngày tám năm sau, tức là vào tháng Tư năm ngoái, khi con đang ở trong giai đoạn mất tinh thần nhất và hoang mang nhất, bỗng nhiên con nảy ra ý định muốn thử xem có thể gặp được thầy một lần không. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ thầy mà con mới chính thức được kết nhân duyên với thầy. Trời xanh cuối cùng cũng không phụ lòng người, hôm nay con có diễm phúc được quy y với thầy, thật vô cùng cảm kích. Từ nay về sau con nhất định sẽ tu hành tinh tấn, phụng sự thầy, hoàn thành tâm nguyện cả đời của con.

Thưa thầy, hiện con đang làm việc tại một công ty với thành tích khá tốt. Công việc của con là phụ trách bán hàng và phát triển. Trong công ty có hơn trăm người, con là nữ nhân viên duy nhất. Con có năng lực cao, được sếp trọng dụng, và thành tích của con đứng đầu công ty. Ngoài việc chăm chỉ làm việc, con xin thổ lộ với thầy một bí mật, đó là con rất thành tâm thực hành pháp cúng Thổ Địa. Mỗi lần con cầu nguyện Nam Sơn Phúc Đức Thổ Địa đều rất linh nghiệm. Con thường xuyên đến cầu nguyện với Ngài và kết quả thật sự rất thuận lợi. Hiện nay, con chỉ biết làm nhiều việc thiện, in nhiều kinh sách, tinh tấn tu tập, dùng lòng thành kính của mình để báo đáp sự che chở của chư Phật Bồ Tát và các vị thần thiện.

Hôm kia, con nghe nói ở Thạch Bài có pháp sư Thịnh Lưu, biết xem tướng và xem nhân quả. Đồng nghiệp của con muốn đến gặp cho nên con đi theo. Kết quả thật đáng thất vọng. Con cho ông ta điểm số là "trứng vịt - 0 điểm". Bởi vì đây là một pháp sư "miệng kim cương" của Vượng La Tử Tiên, ông ta toàn nói chuyện đời thường, chỉ trích người khác, còn bàn chuyện chính trị, nói năng bừa bãi. Chỉ cần thấy cách ông ta phát biểu ý kiến một cách thiếu thận trọng, không có ý tứ oai nghi của pháp sư, con đã biết đây là một vị tục tăng. Lúc thì chửi này, lúc thì mắng kia, ông ta nhìn cái gì cũng không vừa mắt, như thể chỉ có mình ông ta là người tốt, còn thiên hạ đều là người xấu, hoàn toàn là một người tự cao tự đại và hẹp hòi. Khi pháp sư Thịnh Lưu biết con là đệ tử của Thượng sư, ông ta kinh ngạc đến nỗi suýt run cả người, liên tục hỏi tại sao con lại bái thầy làm sư phụ. Ông ta nói cũng thường xem sách của thầy, cuối cùng còn bảo vì con quy y với thầy nên ánh mắt lộ vẻ ngoại đạo, nói đến mức như thể con thật sự bị ma ám vậy, suýt nữa thì con tức chết ngay tại chỗ.

Pháp sư Thịnh Lưu xem tướng số của con và nói rất nhiều, nhưng không có điều gì đúng cả, hoàn toàn sai lệch. Con liên tục gợi ý và nhắc nhở ông ta, nhưng ông ta quá chậm hiểu, phản ứng rất đần độn. Ông ta còn nói con sẽ "chết bất đắc kỳ tử", thật là vô lý, con không tin những lời nói vô căn cứ đó của ông ta. Con đã nói ngay tại chỗ rằng, con tu Phật pháp, làm gì có chuyện chết bất đắc kỳ tử, con cũng không sợ chết, cho dù có chết bất đắc kỳ tử thì cũng là số mệnh, không oán trời trách người, con hiểu Phật pháp nên không sợ chết. Bên cạnh pháp sư có một đệ tử của ông ta nói với con rằng, pháp sư xem tướng số chưa bao giờ sai cả, nhưng theo con thấy, những người này có thể là một cái bẫy. Con thường nghe Thượng sư dạy phải tôn kính người xuất gia, nên con vẫn cung kính đảnh lễ ông ta và cúng dường ba trăm đồng tiền hương hỏa.

Sau khi rời khỏi đó, con có một kết luận, không biết đúng hay không, vị pháp sư Thịnh Lưu này, bề ngoài là pháp sư Phật giáo, nhưng khoác áo cà sa để làm chuyện của kẻ giang hồ, không có chút lòng từ bi, giống như con hổ đội lốt cừu vậy. Nhìn thấy trong giới Phật giáo có những vị pháp sư ô uế như vậy, thật là điều bất hạnh cho cửa Phật.

Thưa Thượng sư, con vô cùng kính ngưỡng thầy, tuyệt đối không chấp nhận được việc những người không hiểu thầy lại phỉ báng thầy. Bởi vì con không muốn thầy bị tổn thương, nên trong phạm vi khả năng của mình, con đều tranh luận có lý lẽ để lấy lại công bằng. Thưa Thượng sư, xin thầy tha thứ cho tính thẳng thắn của đệ tử, con không hề có động cơ ý đồ. Có một câu, không biết nên nói hay không, cuối cùng con vẫn quyết định nói ra, chỉ mong Thượng sư thông cảm cho tấm lòng thành của học trò, nếu có nói sai, xin thầy hãy xem như lời nói ngây thơ của trẻ con.

Sau khi đọc "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba", con thấy có một bài là "Vài ý kiến dành cho đại sư Lâm Vân". Về con người này, người có chút thông minh đều nhìn ra được, xung quanh ông ta phần lớn là những ngôi sao nâng đỡ, đó chỉ là một loại "kỹ thuật quảng bá qua ảnh chụp". Ông ta thích chụp ảnh, thích làm màu, tùy tiện bắt ấn này ấn kia để phô trương. Với kiểu người thích phô trương, khoe khoang tài ăn nói như vậy, làm sao có thể ngồi xuống tu tâm thanh tịnh, tu thiền mật tam muội được. Vị đại sư Lâm Vân này chẳng qua chỉ là một kẻ ba phải ham danh tiếng mà thôi. Ông ta không phải là người tu đạo, thực chất chỉ là "nghệ sĩ giang hồ", chỉ biết diễn trò. Đối với việc tu đạo mà nói, ông ta đã tổn phước rất nhiều, tương lai thế nào, trời tự có an bài, chắc chắn là không thể chứng đắc được. Chúng ta thực sự không cần phải lo lắng cho ông ta. Thầy có lòng tốt cho ông ta vài lời khuyên, đó là lòng từ bi của Thượng sư muốn độ ông ta, nhưng có lẽ ông ta hoàn toàn không tiếp nhận, ngược lại, ông ta còn có thể trách thầy là nhiều chuyện.

Trước đây khi đọc sách của Thượng sư, con luôn thấy thầy bị phỉ báng, bị công kích, nhưng chưa từng thấy thầy phản kích. Tuy nhiên trong "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba", con thấy thầy đã khổ tâm chỉ bảo Lâm Vân, đừng trộm pháp, đừng phạm đại giới căn bản của Mật tông. Theo con thấy, chuyện của Lâm Vân là việc của ông ta, mặc kệ ông ta có vào địa ngục hay sống chết thế nào. Thượng sư còn rất nhiều người cần độ, không thiếu một "nghệ sĩ giang hồ" như ông ta, cứ để ông ta đen tối đi!

Kính thưa Thượng sư, đây chỉ là thiển ý của đệ tử, có lẽ Thượng sư đang gánh vác trọng trách, có nghĩa vụ phải đứng ra phá trừ tà giáo, hoặc độ hóa ông ta, điều này con không được rõ. Con chỉ mong Thượng sư đừng giận con, con biết đệ tử phải tuân theo ý chỉ của Thượng sư. Nhưng con biết thầy có tấm lòng từ bi, luôn độ lượng bao dung, xin thầy tha thứ cho tính nóng vội thẳng thắn của con, đệ tử thành tâm cầu xin Thượng sư gia trì quán đảnh, xin thầy chỉ dạy thêm.

Đệ tử Hoa Ngọc cung kính chắp tay.

17/4/1983

Về bức thư của Hoa Ngọc, tôi có một vài điểm cần giải thích như sau:

Thứ nhất, pháp lễ bái Thổ Địa Công được thiết lập dựa trên pháp thần tiên, dựa vào từ trường sinh mệnh của chính mình để kết duyên với thổ địa phúc thần, khiến phúc thần đến trợ giúp, đây là một loại Mật pháp. Pháp này là pháp thế tục, cũng là một phương pháp không thể không dùng trong thế giới hiện thực. Theo thiên địa có ba mươi sáu vị phúc thần, ba mươi sáu vị phúc thần này vốn là hộ pháp thần của người tu Phật, người học Phật nếu biết pháp tương ứng của ba mươi sáu phúc thần, tự nhiên có thể vạn sự như ý, việc gì cũng thành công. Pháp lễ bái Thổ Địa Công chính là pháp tương ứng với thần phúc thần thổ địa, đã được đăng trong cuốn "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba".

Thứ hai, tôi không quen biết pháp sư Thịnh Lưu. Nhưng tôi đã từng nhập định quán tưởng về ông ta, đối với một vị pháp sư như vậy, tôi thực sự không thèm bình luận, ông ta còn chưa đủ tư cách để được nhắc đến trong sách của tôi, bởi vì tầm cỡ của ông ta, trong mắt tôi, chẳng qua chỉ là một thầy bói hạng ba ở vỉa hè mà thôi! Viết về ông ta chỉ phí giấy mực, làm bẩn mắt độc giả. Chỉ là tôi cảm thán rất sâu sắc, trong giới Phật giáo, những kẻ bại hoại như thế không ít, không trách được Phật pháp không được phát dương. Pháp sư Thịnh Lưu, người như tên gọi, là kẻ "thịnh hành trong đám hạ cửu lưu", tên này chết đi chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, vĩnh viễn không được siêu sinh. Đừng tưởng tôi đang chửi ông ta, tôi chửi ông ta là để "sửa vận" cho ông ta, nếu không ông ta sắp gặp vận rủi rồi.

Thứ ba, bài viết "Vài ý kiến dành cho đại sư Lâm Vân" được đăng trong "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba", chỉ là tôi nhắc nhở ông ta một chút, hy vọng ông ta có thể sớm tỉnh ngộ. Trong bài viết đó, vì chỉ là nhắc nhở nên tôi chưa đề cập đến những vấn đề về Hắc giáo. Hiện tại tôi quyết định công khai tất cả những điều về Hắc giáo, Hắc pháp, bởi vì Hắc giáo vốn là tôn giáo nguyên thủy của Tây Tạng, một tín ngưỡng mê tín hoàn toàn không liên quan đến Mật tông Tây Tạng. Đối với người học Phật, đây là điều không thể nhầm lẫn. Ý định ban đầu của tôi là không muốn ông ta mượn danh nghĩa Mật tông, cũng không muốn ông ta cổ xúy tà giáo, chỉ là nhắc nhở sơ qua. Nhưng vì ông ta luôn tự xưng là đại sư Mật tông, lại tôn thờ một Hắc giáo thờ Thần Bò như báu vật. Cách làm này đã làm mê hoặc tất cả mọi người, những người không hiểu Mật tông còn tưởng Hắc giáo thật sự là Mật tông!

Tôi thực sự có trách nhiệm, bởi vì tôi là Hộ pháp của Phật, trong thiên hạ, những người hiểu về Hắc giáo Hắc pháp không nhiều, nếu tôi không nói thì ai sẽ nói? Việc viết ra tất cả về Hắc giáo Hắc pháp, phá trừ Hắc giáo Hắc pháp, chính là gánh vác gia nghiệp của Như Lai, chính là trách nhiệm của Kim cang Hộ pháp, không chỉ cứu độ người trong thiên hạ, mà còn như Đại Uy Đức Kim Cang cứu độ những đệ tử bị mê hoặc. Hôm nay, nếu tôi không cứu Lâm Vân, thì còn ai sẽ từ bi với ông ta?

23. Mật tu pháp Chuẩn Đề

Trong bài viết đầu tiên, tôi đã viết về việc được quán đảnh Chuẩn Đề Phật Mẫu và tu tập pháp Chuẩn Đề tương ứng, người hướng dẫn tôi chính là Thượng sư Phổ Phương. Thượng sư Phổ Phương là vị Thượng sư tích cực nhất trong việc hoằng dương pháp Chuẩn Đề ở Đài Loan.

Thượng sư Phổ Phương đã sưu tầm tất cả tài liệu về việc tu trì Chuẩn Đề Phật Mẫu qua các thời đại, giới thiệu như sau:

Thời Chu - Phật Thích Ca Mâu Ni.

Thời Tần - Bồ Tát Long Thụ viết một bài kệ tán thán Chuẩn Đề: Chuẩn Đề công đức tụ, tĩnh lặng tâm thường tụng, tất cả các đại nạn, không thể phạm người này, trên trời và nhân gian, thọ phúc như Phật vậy, gặp được ngọc như ý, ắt được vô đẳng đẳng.

Thời Đường - Bồ Tát Kim Cang Trí dịch "Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni Kinh".

Thời Đường - Bồ Tát Thiện Vô Úy dịch "Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp" và "Thất Câu Chi Độc Bộ Pháp".

Thời Đường - Bất Không Kim Cang dịch "Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh" và "Thất Câu Chi Chuẩn Đề Đà La Ni Niệm Tụng Nghi Quy".

Thời Đường - Tôn giả Địa Bà Ha La dịch "Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh".

Thời Liêu - Đạo Điện đại sư viết "Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu Tập".

Thời Tống - Thiên Tức Tai Kim Cang dịch "Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh".

Thời Minh - Tạ Vu Giáo viết "Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp".

Thời Minh - Dao Đĩnh viết "Chuẩn Đề Tâm Yếu".

Thời Minh - Viên Liễu Phàm, tác giả "Liễu Phàm Tứ Huấn", suốt đời tu trì pháp Chuẩn Đề.

Thời Thanh - Hoằng Tán viết "Trì Tụng Chuẩn Đề Chân Ngôn Pháp Yếu".

Thời Dân Quốc - Pháp sư Từ Hàng tu trì pháp Chuẩn Đề.

Thời Dân Quốc - Pháp sư Tịch Quang quyên góp khắc thần chú Chuẩn Đề và pháp yếu trì tụng quán tưởng, hoằng dương pháp Chuẩn Đề.

Thời Dân Quốc - Pháp sư Trí Quang tu pháp Chuẩn Đề và hoằng dương pháp Chuẩn Đề.

Thời Dân Quốc - Pháp sư Phổ Lực tu pháp Chuẩn Đề và hoằng dương pháp Chuẩn Đề.

Nhật Bản - A Xà Lê Seiyu Kiriyama viết "Chuẩn Đề Thiên Nhật Hành Tập Yếu". Hiện nay người Nhật rất thịnh hành pháp Chuẩn Đề.

Tại Đài Loan - Đại Kim Cang A Xà Lê Phổ Phương tại Đài Loan tích cực hoằng dương, có tín chúng khắp nơi trên thế giới.

Thực ra, trước khi được Thượng sư Phổ Phương chỉ dạy, tôi đã từng giới thiệu nhiều đệ tử vào môn phái Tổng Trì để học pháp Chuẩn Đề, đồng thời bản thân tôi cũng tu tập pháp Chuẩn Đề. Pháp Chuẩn Đề này tôi đã bí mật tu trì từ rất lâu trước khi xuất ngoại. Nói một lời thật lòng, trong số đệ tử của tôi, đã có hơn trăm vị sở hữu kính đàn Chuẩn Đề, và những kính đàn này đều do tôi quán đảnh. Theo linh thị, tôi biết Chuẩn Đề Phật Mẫu và Linh Tiên Chân Phật Tông có duyên rất sâu. Trong số đệ tử thờ phụng kính đàn rất nhiều, và những người thờ phụng Phật Mẫu như Trang Hoàng Dụ, Trần Khâm Bảo và nhiều người khác cũng có đàn thành Chuẩn Đề Phật Mẫu. Trong quá khứ, trước khi được Thượng sư Phổ Phương quán đảnh, dựa theo linh thị, tôi cũng đã có pháp tu trì (Chuẩn Đề Phật Mẫu), pháp này tôi đặc biệt ghi chép lại để thỉnh giáo chư vị Kim cương Thượng sư.

Pháp tu trì Chuẩn Đề Phật Mẫu như sau:

1. Dâng trà cúng. 2. Cúng hoa, quả, thực phẩm chay, v.v., ngũ cúng hoặc bát cúng. 3. Thắp hương. 4. Đại lễ bái Phật. Lễ thứ nhất là lễ Thập phương Phật, dùng ấn tháp Phật. Lễ thứ hai là lễ chư Bồ Tát, dùng ấn hoa sen. Lễ thứ ba là lễ Hộ pháp Kim cang, dùng ấn tam xoa xử. Lễ thứ tư là cúi đầu, dùng ấn Bình đẳng. 5. Tụng chú Tứ quy y: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê" ba lần. 6. Trì chú mặc giáp hộ thân phòng ma: "Ôm bua-rua lan chưa-li" bảy lần. Ấn vào đầu, cổ họng, tim, vai trái, vai phải. 7. Quán tưởng khuôn mặt từ bi của Chuẩn Đề Phật Mẫu với con mắt thứ ba trí huệ, phóng quang chiếu định. Tay kết ấn thuyết pháp. (Do tác giả đã khai mở thiên nhãn, mỗi lần tu pháp Chuẩn Đề đều thấy Chuẩn Đề Phật Mẫu trụ trên không trung, khuôn mặt từ bi của Ngài có con mắt thứ ba trí huệ ở phía trên giữa hai mắt, con mắt thứ ba này phóng ra một tia kim quang chiếu thẳng vào thiên tâm ở giữa hai mắt của tôi, như vậy, ánh sáng mắt chiếu định ánh sáng mắt, khiến mỗi lần tôi tu trì một lần pháp Chuẩn Đề, công lực lại tăng thêm, mỗi lần tu công lực lại tăng thêm một lần, đây chính là bí mật lớn của việc khai thiên nhãn.) 8. Trì tụng tâm chú Chuẩn Đề Phật Mẫu: "Ôm chưa-li chu-li chuân-thí sô-ha. Bu-lin." Tụng 108 biến, khi có nhiều thời gian, tôi tụng 1080 biến, khi thời gian ít, tụng 108 biến. Đây là tâm chú của Chuẩn Đề Phật Mẫu, tâm chú là tinh hoa của chú dài, nên ngắn hơn, chú dài thêm vào phần tán tụng ca ngợi, công đức của chú dài và tâm chú không có gì khác biệt. 9. Tụng thêm "Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh". 10. Tôi nhập định như pháp, vào Tam ma địa của Tỳ Lô Giá Na Phật. 11. Sau khi xuất định thì hồi hướng, phát tâm bồ đề. 12. Đại lễ bái Phật xong thì xuất đàn.

Trước khi nhập định, tác giả thường dùng pháp đếm hơi thở, có khi cũng dùng pháp quán tưởng, lần lượt đi vào chính định (Tam ma địa định), nhập vào biển đại viên kính trí, biển tính Tỳ Lô, định nơi Tỳ Lô Giá Na Phật Tam ma địa. Lúc này tự thân đã hóa thành ánh sáng, hoàn toàn hòa nhập, đây chính là tự thân quang minh như hư không. Trong Mật giáo, đây được gọi là hội quy Tỳ Lô tính hải na-già đại định, thân ánh sáng biến mất, chính là đại không tam muội, hay còn gọi là thắng nghĩa không định.

Trong thời gian ở Seattle, tôi tuyệt đối không dám lơi lỏng việc tu trì pháp Chuẩn Đề, mỗi ngày đều mật tu.

Tại sao Chuẩn Đề Bồ Tát và Linh Tiên Chân Phật Tông có duyên với nhau sâu sắc như vậy, tôi cho rằng điều này có nguyên nhân lớn, thông thường đàn thành Chuẩn Đề Phật Mẫu ở chính giữa, tám phương đều có tám vị Đại Bồ Tát vây quanh bảo hộ, tám vị Đại Bồ Tát này là quyến thuộc của Chuẩn Đề Phật Mẫu, danh hiệu của tám vị Đại Bồ Tát là Quan Thế Âm Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát.

Độc giả hãy mở "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" hoặc "Thông Linh Bí Pháp Thư" phần "Linh Tiên Chân Phật Tông Tôn Sùng Cao Vương Kinh", trong đó có niệm Bát Đại Bồ Tát, tám vị Đại Bồ Tát này chính là: Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Di Lặc Bồ Tát, Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát, Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát, Nam mô Kim Cang Thủ Bồ Tát, Nam mô Diệu Cát Tường Bồ Tát, Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Nam mô Địa Tạng Bồ Tát.

Trong số này chỉ có tên của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Diệu Cát Tường Bồ Tát là khác nhau. Tuy nhiên, theo hiểu biết của tôi, Diệu Cát Tường Bồ Tát vốn chính là danh hiệu khác của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Tám vị Đại Bồ Tát được thỉnh cầu trong "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" hoàn toàn giống với tám Đại Bồ Tát quyến thuộc của Chuẩn Đề Phật Mẫu, như vậy chẳng phải "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" là bộ kinh điển được Linh Tiên Chân Phật Tông tôn sùng có duyên rất lớn hay sao.

Tôi xin nói như thế này, trong "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh", toàn bộ đều là thánh hiệu của chư Phật Bồ Tát, trong đó có Phật bộ, Bảo bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ, Yết Ma bộ. Năm bộ này bao gồm tất cả. "Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh" này, tuy rất ngắn gọn, nhưng thực chất là đại tập hợp tâm chú của thánh hiệu Phật, ai có duyên tụng đọc được, pháp môn tâm chú này chính là một đại nhân duyên của khắp thiên hạ!

Ngoài ra, pháp Chuẩn Đề cũng tổng nhiếp ngũ bộ, thủ ấn và pháp khí của pháp này tổng nhiếp hai mươi lăm bộ đại mandala, Chuẩn Đề Phật Mẫu có mười tám loại công đức thành Phật, đây là mười tám pháp bất cộng thế gian. Tâm chú Chuẩn Đề này là vua tam muội trong pháp giới bí mật tạng, tuy là độc bộ mật pháp, nhưng thông suốt ngũ bộ mật pháp thù thắng.

Trong cuộc đời hành giả của tôi ở Seattle, Hoa Kỳ, tôi đã truyền pháp Quan Âm trước, rồi truyền pháp A Di Đà Phật, thứ ba truyền pháp Địa Tạng Bồ Tát, sau cùng truyền pháp Chuẩn Đề Phật Mẫu, ngoài ra còn nhiều pháp khác nữa, thật là pháp duyên thù thắng, pháp duyên pháp tràng cao vời dựng lập ở phương Tây.

image

24. Lời thề của đệ tử ở Hồng Kông

Đây là một bức thư từ đệ tử Liên Hàn của Linh Tiên Chân Phật Tông ở Hồng Kông. Hiện nay, đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông đã lan rộng khắp thế giới, có đạo tràng ở Bỉ thuộc châu Âu và cả ở Malaysia. Mỗi ngày đều có thư xin quy y và quán đảnh từ các nơi như Úc, Đông Nam Á, Nam Mỹ, Nhật Bản, châu Âu và các nơi khác.

Các đệ tử ở Hồng Kông mời tôi đến Hồng Kông hoằng pháp, bởi hiện nay số người muốn quy y Linh Tiên Chân Phật Tông ở Hồng Kông có đến hàng nghìn người, và đây chỉ là con số ước tính thấp nhất.

Bài viết này là về sự tu trì và lời thề nguyện của Liên Hàn ở Hồng Kông, rất đáng được tiết lộ.

Thượng sư tôn kính!

Chào thầy. Con là đệ tử Liên Hàn ở Hồng Kông. Nếu Thượng sư còn có ấn tượng, có lẽ Thượng sư sẽ nhớ rằng Liên Hàn đã đến thăm Thượng sư mà không báo trước vào mùa thu năm 1980. Lúc đó con thật đường đột, xin Thượng sư tha thứ, lượng thứ cho con. Với lòng thành kính suốt nhiều năm, lần đầu tiên con đến Đài Loan tìm gặp Thượng sư, trải qua nhiều gian nan, tìm kiếm khắp nơi, sau hơn một tháng trắc trở, con mới được diện kiến Thượng sư lần đầu tiên, trong lòng vừa mừng vừa tủi. May mắn nhờ lòng từ bi của Thượng sư, ban cho con lời khai thị, khai mở tâm si mê của đệ tử, và còn tự tay ban cho con Kinh Cao Vương, dạy bảo cách tu trì khi về Hồng Kông, ân đức như vậy, con nguyện suốt đời không quên. (Sau này con trì tụng Kinh Cao Vương được khoảng 800 lần, liền tránh được một tai họa lớn, sự linh ứng nhanh chóng như vậy, đều là nhờ ân đức của Thượng sư ban cho).

Vào mùa thu năm 1981, đệ tử đã đến Đài Loan lần thứ hai để thăm Thượng sư một lần nữa. Con đã gặp được đại sư huynh Trương Hoàng Minh, được ngài không chê, cho biết rằng Thượng sư sẽ chính thức mở đàn thu nhận đệ tử vào tháng 11. Vì vậy, sau khi trở về Hồng Kông, con đã làm thủ tục xin đến Đài Loan lần nữa, vượt qua mọi khó khăn, may mắn được chấp thuận. Vào ngày 22 tháng 11 (một ngày vô cùng hoan hỷ và trang nghiêm), cùng với nhiều người quy y khác, con được ân sư từ bi chính thức thu nhận làm đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông.

Đệ tử từ thuở thiếu niên đã thích Phật pháp, chín năm trước khi đến Hồng Kông đã đi khắp nơi cầu đạo tìm thầy. Sáu năm trước mới có duyên đọc được sách tâm linh của Thượng sư, kinh ngạc như được đọc thiên thư. Vừa đọc xong một cuốn, lập tức quay lại hiệu sách mua hết tất cả tác phẩm của Thượng sư, đọc ngày đọc đêm, quên ăn quên ngủ. Từ đó kiên định niềm tin không lay chuyển, nhận định rằng pháp tu trì của Linh Tiên Chân Phật Tông chính là pháp môn Đại thừa cứu độ nghìn năm khó gặp. Vô cùng may mắn trong đời này được gặp diệu pháp chính pháp thuận tiện như vậy, cơ duyên lớn như trời, nào dám bỏ lỡ, đúng là "đời này thật may mắn"! Điều càng cảm thấy may mắn hơn nữa là đời này kiếp này được gặp hóa thân của Liên Hoa Đồng Tử - vị đại đạo sư vĩ đại của Linh Tiên Chân Phật Tông thân hành giáng thế, đích thân thuyết pháp độ chúng sinh rộng khắp, thật là chúng sinh may mắn, đệ tử may mắn! (Đệ tử viết đến đây, không kìm được nước mắt tuôn rơi, tâm tình vừa mừng vừa tủi.)

Đệ tử nghiệp chướng sâu dày, việc tu trì tiến bộ không rõ rệt, lại gặp nhiều chướng ngại. Nhiều năm qua con đã trì tụng thần chú Đại Bi, Thất Phật chân ngôn, Kinh Cao Vương, chú Lăng Nghiêm, thần chú Chuẩn Đề và chú Lục tự đại minh. Con luôn chú trọng giới luật, mỗi lời nói việc làm đều không dám phạm lỗi, không bao giờ lừa dối xảo trá, không biết nịnh hót, không phóng đại dọa nạt để trục lợi. Thường ngày con tự nguyện giúp người tụng kinh lễ sám, cầu nguyện giải trừ tai ách, thành lập hội phóng sinh, khuyên người hướng thiện, tin nhân quả và dạy người tu pháp. Tất cả hành trì đều nhằm để bản thân trở thành một đệ tử tin Phật chân chính, một đệ tử Linh Tiên Chân Phật không làm nhục môn phái. Kính xin ân sư huệ nhãn soi xét, trông xuống minh giám.

Ba năm trước, đệ tử đã long trọng lập lời thề trước Phật: "Con nguyện mãi mãi không thoái chí, tận hết khả năng độ khắp chúng sinh, siêu độ u minh. Khuyên người hướng thiện, cứu khổ phò nguy, tế độ nhân sinh. Dốc hết sức lực, không từ gian khổ, dù vạn lần chết cũng không lùi bước. Nếu con trái đạo lý, phản bội lời thề, nửa đường thoái chí, tham đắm phú quý vinh hoa, xin chịu thiên lôi trừng phạt, chịu hình phạt địa ngục!" Lời thề nguyện này do con tự phát, luôn ghi khắc trong tâm, thúc giục bản thân tinh tấn tu trì, nỗ lực sớm thực hiện đại nguyện này.

Sự ngu si của chúng sinh thật vô cùng đáng thương, đặc biệt là chúng sinh ở Hồng Kông, nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội, những làn sóng đục của trần thế đã nuốt chửng tất cả mọi người nơi đây. Ai ai cũng sống trong cảnh say đắm mộng mị, chạy theo lợi danh, lừa lọc lẫn nhau, không từ thủ đoạn, gây hấn và sát hại lẫn nhau, thật không thể nói hết! Độ chúng sinh không phải dễ dàng, đặc biệt là ở Hồng Kông càng khó hơn. Những sách thiện thông thường khuyên người làm việc thiện nay đã khó phát huy hiệu quả. Tín ngưỡng tôn giáo ở Hồng Kông thì đa dạng phức tạp, có chính có tà, người ta tin theo đủ kiểu nhưng không có pháp tu trì chân chính. Hiện nay, pháp môn tu trì sẵn sàng dốc sức cứu độ chúng sinh khắp thiên hạ chính là Linh Tiên Chân Phật Tông. Chỉ có đại pháp Linh Tiên Chân Phật mới có được sự tu trì của Phật pháp chính thống, lại còn có hiệu quả thiết thực trong đời sống. Vì vậy, người Hồng Kông hoàn toàn bị năm chữ "Linh Tiên Chân Phật Tông" làm chấn động, tin rằng chỉ có đại pháp Linh Tiên Chân Phật mới cứu được người Hồng Kông.

Khi luyện linh, đệ tử cố gắng đạt đến trạng thái "vô niệm", tâm tĩnh lặng đến độ không còn một niệm sinh khởi, lúc đó càng cảm nhận được sức mạnh linh động dâng trào. Sự tĩnh lặng của tâm và sự linh động tỷ lệ thuận với nhau, phản ứng nhanh chóng như cắm cọc thấy bóng. Tâm càng tĩnh thì linh càng động. Như Thượng sư đã dạy: "Thiền là nói về 'định' nói về 'tĩnh', còn ta nói về 'linh' nói về 'động', giống như đại dương vậy, mặt biển sóng vỗ dữ dội, nhưng đáy biển lại tĩnh lặng như nước, nguồn linh tính cũng như vậy, đây là diệu pháp vô vi mà hữu vi...". Đệ tử thâm tâm tán thán chân lý bất di bất dịch này, thật là vĩ đại biết bao!

Gần đây, đệ tử được đọc bốn cuốn sách mới của Thượng sư: "Thông Linh Bí Pháp Thư", "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba", "Linh Tiên Phi Hồng Pháp" và "Địa Linh Dấu Tiên", như được đọc thiên thư, quả thật là báu vật hiếm có của thế gian, vô cùng quý giá. Đệ tử đã chọn học trước những pháp phù hợp với mình như pháp nuốt nhả cương khí, pháp thần thủy cửu phụng phá uế, pháp kim cang bảo kiếm chày hàng ma và pháp Đà-la-ni thông thường. Ngoài ra, pháp phù được ứng dụng rộng rãi, ở Hồng Kông những tà sư dùng pháp phù giáng bùa ngải, hầu như ngày nào cũng nghe thấy, nhiều không đếm xuể, nay đại pháp Linh Tiên Chân Phật Tông vừa ra đời, những tà sư đó không còn đường trốn tránh, không thể hại người nữa. Trong bốn cuốn sách này, đệ tử tìm khắp mà không thấy một pháp nào thích hợp cho cá nhân tu trì để siêu độ u minh. Theo thiển ý của đệ tử, khi trục tà, nếu có thể dùng pháp phù kết hợp với pháp siêu độ thì sẽ càng hoàn hảo hơn, bởi vì tà linh cũng cần được độ hóa, trừ tà là lợi cho người, siêu độ là lợi cho ma, người ma đều được lợi, càng thêm viên mãn. Suy nghĩ này của đệ tử có thể hoàn toàn là do vô tri, nhưng đệ tử xuất phát từ lòng thành, rất mong Thượng sư có thể truyền dạy đại pháp siêu độ (đại pháp siêu độ dành cho cá nhân tu trì).

Thật ra không chỉ khao khát được Thượng sư truyền dạy pháp này, đệ tử đã nghĩ ngợi suốt nhiều năm, mơ ước khắc khoải, thậm chí không tiếc công sức tìm đến Thượng sư, tất cả đều không ngoài mục đích tìm cầu chân lý, cầu thầy truyền pháp. Có được minh sư mới có thể tu tập vạn pháp, mới có được khả năng độ mình độ người, nói suông nghĩ viển vông đều vô ích. Chúng con vô cùng hy vọng Thượng sư có thể đến Hồng Kông độ chúng sinh. Ở Hồng Kông, số đệ tử cầu quy y lên đến hàng nghìn người, tin rằng không chỉ có từng đó. Hiện nay, những người muốn sang Mỹ cầu thầy để được quán đảnh cũng có đến hàng trăm người. Thượng sư phát đại nguyện từ bi, phổ độ chúng sinh khắp toàn cầu, việc đến Hồng Kông độ chúng là điều sẽ xảy ra một ngày nào đó, không phải là ảo tưởng, mà là tâm nguyện của đệ tử.

Đệ tử tu tập con mắt thứ ba đã được hai năm, thường xuyên ngồi thiền đến trạng thái vô niệm (trong mỗi giờ ngồi thiền, chỉ đạt được ba, năm lần vô niệm, mỗi lần chỉ khoảng một, hai phút). Con cảm thấy trước mắt có vòng sáng lơ lửng. Kính xin Thượng sư từ bi chỉ dạy pháp tu trì linh nhãn, con vô cùng thành kính, trăm lạy thỉnh cầu.

Tràn đầy kỳ vọng, cầu xin Thượng sư từ bi. Kính chúc Phật an. Đệ tử Liên Hàn trăm lạy. 25/5/1983

Thư của đệ tử Liên Hàn ở Hồng Kông rất thành kính. Để thuận tiện cho việc tu hành của chúng sinh, tôi đặc biệt tiết lộ hoàn toàn đại pháp siêu độ u minh của Linh Tiên Chân Phật Tông (pháp cá nhân tu trì), như sau:

Muốn tu pháp siêu độ, trước hết phải có đàn thành Địa Tạng Bồ Tát, cúng dường Địa Tạng Vương Bồ Tát, đồng thời đặt chuông kim cang, chày kim cang, thừng kim cang, bình cam lộ (bình kim cang) bên trong, cúng dường Địa Tạng Vương Bồ Tát, tất cả đều như pháp, có thể cúng một, ba, năm, tám món cúng phẩm, tóm lại tất cả đều như Địa Tạng Vương Bồ Tát ngự trong đàn thành vậy. Trước khi hành pháp, tắm rửa thanh tịnh thân thể rồi vào đàn, thay trà, dâng cúng phẩm dâng hương, tất cả đều tiến hành theo nghi thức.

Lễ Phật vẫn là ba lạy một khấu đầu. Lạy thứ nhất là lạy mười phương Phật, dùng ấn tháp Phật. Lạy thứ hai là lạy chư Bồ Tát, dùng ấn hoa sen. Lạy thứ ba là lạy Hộ pháp Kim cang, dùng ấn chày tam xoa. Thứ tư là khấu đầu, dùng ấn bình đẳng. Tụng chú Tứ quy y: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê." Tụng chú mặc giáp hộ thân: "Ôm bua-rua lan chưa-li" bảy lần. Ấn vào đầu, cổ họng, tim, vai trái, vai phải.

Tiếp đến là điểm rất quan trọng này, hành giả quán tưởng để thỉnh mời Địa Tạng Vương Bồ Tát đến, trong tâm phóng quang chữ "Om" ba lần, Địa Tạng Vương Bồ Tát đến trụ nơi đỉnh đầu ta, đi thẳng vào tim ta, rồi biến hóa thành cùng kích thước với ta không hai không khác. Sau khi Địa Tạng Vương Bồ Tát biến thành chính mình rồi, tụng chú Địa Tạng Vương Bồ Tát: "Ôm pẩn-la-múa lin-thô-lin sô-ha." Tụng chú này 108 biến, lúc này ta đã là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bổn tôn tức ta, ta tức Bổn tôn. Nhập định vào Tam ma địa của Địa Tạng Vương Bồ Tát, khi đó Địa Tạng Vương Bồ Tát phóng quang làm tất cả pháp.

Bổn tôn thỉnh mời vong linh cần siêu độ đến trước mặt, Bổn tôn dùng ấn kim cang tam samaya nâng viên minh châu trong tay. Ánh sáng của minh châu chiếu về phía u linh, nghiệp chướng của u linh được tiêu trừ. Tụng chú Địa Tạng Vương Bồ Tát 108 biến. Ánh sáng của minh châu lại chiếu về phía u linh, u linh thoát khỏi khổ của ba đường ác. Tụng chú Địa Tạng Vương Bồ Tát 108 biến. Ánh sáng của minh châu chiếu lần thứ ba về phía u linh, u linh tùy ý vãng sinh cõi người, cõi trời hoặc cảnh giới cao hơn. Tụng chú Địa Tạng Vương Bồ Tát 108 biến.

Đến đây, có thể trì tụng thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng có thể trì tụng Kinh Địa Tạng, hoặc trì tụng chú vãng sinh. Với pháp siêu độ này, nếu có ảnh của người cần siêu độ, có thể dùng ảnh để quán tưởng thỉnh mời u linh đến. Nếu không có ảnh, chỉ biết tên họ, cũng phải niệm tên họ để thỉnh mời u linh đến. Pháp này chia làm hai đoạn, đều là yếu quyết. Trước hết thỉnh mời Bổn tôn đến, rồi biến thành Bổn tôn. Đây là đoạn thứ nhất. Thỉnh mời u linh đến, siêu độ họ. Đây là đoạn thứ hai. Sau khi làm pháp xong, xuất định. Hồi hướng, phát tâm bồ đề, đại lễ Phật, xuất đàn.

Tác giả đã đắc nội chứng, có thể nói đã minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử, nhập Tam ma địa của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nghĩa là thân mình biến thành Địa Tạng Vương Bồ Tát, có thể siêu độ chúng sinh tội khổ, dùng ánh sáng thanh tịnh viên minh của chư Phật, dùng dòng chảy pháp ngũ trí, khiến u linh thoát khỏi sinh diệt, pháp này không khác gì Địa Tạng Vương Bồ Tát đích thân siêu độ, người học không thể không biết.

Ngoài ra, phép tu trì con mắt thứ ba, đợi có duyên sẽ truyền sau.

25. Đệ tử Brunei cầu quy y

Đệ tử Trần Kính Nguyên của tôi, pháp hiệu Liên Tham, có ba vị thầy quy y. Tôi đã bảo anh ấy học pháp Chuẩn Đề, vì vậy anh ấy quy y với đại Kim cang Thượng sư Phổ Phương của phái Mật Tông Tổng Trì. Sau đó anh ấy lại quy y với pháp sư Thánh Nghiêm, và anh ấy cũng là đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông. Đệ tử Trần Kính Nguyên nhiệt tâm học Phật, từ khi phát tâm cho đến tu trì chưa từng giảm sút chút nào, luôn dốc hết tâm sức để hoằng dương Phật pháp. Vì vậy anh ấy đã tự lập "Nơi lưu thông sách thiện Liên Bang", địa chỉ liên lạc là số 8, ngách 3, ngõ 6, đường Thực Tiễn, Thạch Bài, Đài Bắc.

Trần Kính Nguyên đi từ nghe nhiều đến suy nghĩ, từ suy nghĩ đến giác ngộ. Anh ấy đã tự mình biên soạn tập sách nhỏ "Văn khuyên tin Phật", còn có tên là "Cứu cánh của nhân sinh, nhân sinh của cứu cánh", từ tập một đến tập năm. Tôi vô cùng khâm phục tinh thần nỗ lực không ngừng của anh ấy, cũng như việc đã dốc hết sinh mệnh và tài lực của mình vào việc hoằng dương Phật pháp. Mỗi cuốn sách của anh ấy đều in phát hành hơn 30.000 bản, đây là một con số đáng kinh ngạc. Trong tập năm, anh ấy viết: "Chúng ta có thể mượn sự diễn giải của linh học để khuyến hóa nhân tâm một cách thuận tiện và thiết thực hơn, đồng thời nhận thức được bản lai diện mục của tính linh, gỡ bỏ lớp áo 'thần bí'. Việc nghiên cứu linh học chắc chắn là một pháp môn phương tiện vừa nguyên sơ nhất, vừa tiến bộ nhất của việc học Phật. Một niệm thiện ác trong tâm người chính là sự lựa chọn của linh giác, nguyện cho chúng sinh thời mạt pháp có thể từ sự giác ngộ của tính linh mà bỏ ác hướng thiện, để tái tạo thế giới quang minh của Phật giáo nhân gian."

Do sự hoằng dương Phật pháp mạnh mẽ của đệ tử Trần Kính Nguyên, pháp sư Thánh Nghiêm cũng đã viết thư khích lệ anh ấy: "Về việc tiếp dẫn đại chúng trong xã hội tin tưởng và học tập Phật pháp, chắc chắn sẽ đạt được hiệu quả to lớn, những người đang thật tâm nghiên cứu và tu tập Phật pháp có thể đạt được nhận thức đúng đắn về những đạo lý căn bản trong Phật giáo." Chính nhờ sự hoằng pháp của anh ấy mà ở vùng xa xôi như Brunei cũng có Phật tử được sự khai ngộ sâu sắc từ anh ấy. Dưới đây là một lá thư của một Phật tử học Phật ở Brunei tên Ngụy Sĩ Cường viết cho Trần Kính Nguyên:

Thưa thầy Kính Nguyên! Sau khi đọc cuốn "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba" của Thượng sư Lư, tôi đã có những lĩnh hội tương tự như "linh hồn xuất du" hay nghe "âm thanh nội tại của khớp xương". Nhưng tôi xin bắt đầu từ việc tu tập thiền ngủ của tôi, thật ra tôi đã tu tập pháp này gần hai năm rưỡi rồi. Tôi nghĩ người học Phật ít nhiều đều bị nghiệp lực ràng buộc. Khi tôi tu tập thiền ngủ của Thượng sư Lư, tu tập đúng pháp, có lúc thân thể cảm thấy như bị đè nặng nghìn cân, có lúc cảm thấy ngạt thở, hoặc sau lưng thường có từ lực mạnh mẽ hút chặt, muốn lật ngược thân thể lại, nhưng tôi không quan tâm đến điều gì cả. Đôi khi tôi bỗng cảm thấy toàn thân phiêu bồng bay bổng, cảm giác rất thoải mái, có lúc như đang du hành trong không gian, cứ thế bay lên cao mãi, càng cảm thấy thoải mái và vui sướng hơn, nhưng rồi đột nhiên lại trở về và thiếp đi. Có khi trong tâm thành kính niệm A Di Đà Phật mới được ba tiếng đã chìm vào giấc ngủ. Sau một thời gian, khi thức dậy mỗi khớp xương đều phát ra tiếng động.

Khi tôi liên tục lắc lư hai tay và vai, các khớp xương phát ra tiếng liên tục, không biết có giống với "âm thanh nội tại của khớp xương" mà Thượng sư Lư đề cập trong sách hay không. Từ "âm thanh nội tại" này có thể đoán biết vận mệnh, thật là kỳ diệu. Tôi cũng không muốn phân biệt âm thanh nội tại tốt hay xấu, thà để tự nhiên sẽ được tự tại hơn. Tôi nghĩ, pháp của Thượng sư Lư quả thực là kỳ diệu nhất thiên hạ, xa vời không thể với tới. Tôi hy vọng việc "linh hồn xuất du" của mình là bình thường, loại xuất du này không phải thường xuyên có, dường như còn có thể tự chủ, nó chỉ mang lại cho tôi sự thoải mái mà không có cảm giác "đêm không ngủ yên". Việc "nguyên thần xuất du" bình thường, thành tiên thành Phật đương nhiên là tốt nhất, không bình thường sẽ rơi vào cảnh ma, sau khi chết sẽ trở thành quyến thuộc của ma, điều này còn đau buồn hơn cả việc không thể chấm dứt sinh tử.

Trong thư trước, tôi đã đề cập đến việc muốn quy y với Thượng sư Lư. Tôi nghĩ vì Thượng sư đang ở Mỹ nên có lẽ kiếp này tôi không có duyên, nhưng qua thư của thầy, tôi được biết có thể quy y qua thư từ. Được quy y với Thượng sư một cách thuận tiện như vậy thật là tốt quá, từ nay tôi sẽ phải tụng thêm chú tứ quy y.

Qua cuốn "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba", được biết tin tức gần đây của Thượng sư, trong lòng tôi vô cùng hoan hỷ. Nếu tôi được quy y với Thượng sư, chắc ngài sẽ nhớ rằng ở một góc của thế giới này, tại Brunei có một đệ tử, và trong lúc ngài "linh hồn xuất du" sẽ đến xem xét việc tu trì của đệ tử. Từ nay, tôi sẽ tinh tấn tu hành nghiêm túc hơn, xin thầy gửi thư giới thiệu tôi được quy y thọ giới, tôi thành tâm thành ý mong đợi. Kính chúc Phật pháp hoằng dương.

Ngụy Sĩ Cường kính bái. 30/4/1983

Lá thư này chủ yếu là để cầu xin quy y, vì vậy trong bài viết này, tôi sẽ giải thích quy y là gì. Nhiều người đã hỏi tôi rằng, chỉ cần học Phật thôi, quy y hay không quy y thì có gì khác biệt? Không quy y có được không? Tôi trả lời như sau: "Tốt nhất là nên quy y, bởi vì quy y giống như việc đăng ký nhập học vậy. Có đăng ký rồi thì Thượng sư mới truyền Phật pháp cho bạn. Do đó, khi đã coi trọng việc Thượng sư truyền pháp, bạn mới có Phật pháp để tu tập, mới có minh sư chỉ dạy, điều này đương nhiên rất quan trọng. Không quy y đồng nghĩa với việc không đăng ký, như vậy chỉ là dự thính mà thôi, không thể đi sâu được."

Đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông là đệ tử tứ quy y, nghĩa là ngoài tam quy y còn thêm quy y Thượng sư. Pháp tứ quy y này, tôi xin giải thích như sau:

Thứ nhất, Na-mô gu-ru pây [Namo guru beh] (quy y Thượng sư) - Thượng sư có nghĩa là bậc thầy vô thượng, đã viên mãn tu trì nhiều pháp môn, tinh thông tất cả giáo luật, đã có tâm đắc và khai ngộ về tất cả pháp môn, đã nhập vào Tỳ Lô tính hải, được Phật ấn chứng, thêm vào đó còn được Căn bản Thượng sư ấn chứng mới đủ tư cách gọi là Thượng sư. Thượng sư chính là A Xà Lê, có thể truyền pháp. Khi bạn quy y Thượng sư, Thượng sư sẽ truyền pháp cho bạn, giúp bạn thực sự được lợi ích, còn đệ tử phải phụng sự Thượng sư, xin hãy xem "Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng". Thượng sư từ bi với đệ tử, đệ tử cung kính Thượng sư, Thượng sư khai đàn truyền pháp, là nhất thể Tam Bảo, đệ tử phải cung kính đúng nghi lễ. Học Phật pháp mà không biết quy y thì sẽ không có Thượng sư truyền pháp cho bạn. Nói chung, trong Phật pháp thì Thiền tông, Mật tông, Luật tông, ba tông này coi trọng Thượng sư nhất. Còn Linh Tiên Chân Phật Tông là sự tổng hợp của ba pháp tu Thiền tông, Mật tông và Đạo gia, đương nhiên tất cả đệ tử đều phải quy y Thượng sư. Mật tông thậm chí còn quy định, nếu không có Căn bản Thượng sư, không quy y Thượng sư thì không thể tu Mật pháp, vì tu cũng như không tu, bị xem là trộm pháp, đây là phạm đại giới samaya. Và Linh Tiên Chân Phật Tông kế thừa từ ba pháp Thiền, Mật, Đạo, đương nhiên là cần phải quy y, nếu không cũng được xem như trộm pháp.

Thứ hai, Na-mô pút-ta yê [Namo buddhaya] (quy y Phật) - Quy y Phật nghĩa là quy y tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Mục đích tu hành của chúng ta là để thành Phật, Phật là bậc đạo sư của chúng sinh. Đã muốn thành Phật, tương lai cùng nhập vào Tỳ Lô tính hải, hòa làm một với chư Phật mười phương, tự nhiên phải quy y trọn đời kiếp này. Lấy Phật làm kim chỉ nam, lấy Phật làm tấm gương, tự nhiên phải cung kính lễ bái, tôn kính đúng nghi lễ.

Thứ ba, Na-mô ta-mô yê [Namo dharmaya] (quy y pháp) - Quy y pháp nghĩa là suốt đời nỗ lực học tập những giáo pháp do Đức Phật truyền lại, quy y pháp trong mười phương chính là quy y Phật pháp. Pháp tối thượng vô thượng chính là tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, cùng chuyển pháp luân, phát tâm bồ đề rộng lớn. Những Phật pháp này là để cứu độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi lục đạo, nhập vào cảnh giới của bốn thánh, giải thoát tất cả phiền não của kiếp người, chứng đắc Phật tính, vượt qua bể khổ. Tinh tấn tu trì Phật pháp chính là hướng đi nỗ lực để quy y tất cả pháp trong mười phương ba đời.

Thứ tư, Na-mô sâng-kya yê [Namo sanghaya] (quy y tăng) - Quy y tăng nghĩa là quy y tất cả chư vị Thượng sư tăng bảo đã đắc Phật pháp trong mười phương ba đời, bởi vì tất cả Phật pháp đều do các ngài giảng dạy, truyền thừa và hướng dẫn. Chính các ngài giúp chúng ta tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, vì vậy chúng ta phải cung kính quy y tất cả chư vị Thượng sư truyền pháp trong mười phương ba đời, bởi các ngài là đạo sư của chúng ta.

Quy y Phật cho đến khi thành Phật. Quy y pháp, tu pháp viên mãn. Quy y tăng, kính lễ đạo sư. Pháp tứ quy y này vốn là một trong Tứ gia hành của Mật tông Tây Tạng, tất cả đều lấy pháp tứ quy y làm nền tảng. Người chưa quy y mà học Phật pháp, do chưa có Thượng sư chỉ thẳng chân tính vốn thanh tịnh, muốn tu đạt lĩnh ngộ kiến tính mà tự mò mẫm xa xôi thì uổng công tiến bước, không biết phương hướng, không được giải thoát.

26. Quỷ thần và tôi

Tại Vancouver, Canada, đã có nhiều người biết tôi đang ở Seattle, Hoa Kỳ để truyền pháp quy y và quán đảnh của Linh Tiên Chân Phật Tông. Số đệ tử đến thọ nhận quy y và quán đảnh ngày càng đông. Mỗi Chủ nhật, từng đoàn xe chở người đến tham dự nghi thức quy y Linh Tiên Chân Phật Tông và nghi thức kết duyên quán đảnh. Tôi truyền cho mỗi người tâm chú và thủ ấn căn bản, mong các đệ tử mới tinh tấn tu trì pháp môn thù thắng này.

Ngày 23 tháng 5 năm 1983, lại có một nhóm người đến thọ nhận quy y và quán đảnh, trong đó có các vị Liêu Thụy Thanh, Giang Mẫn Tuệ, Hùng Mỹ Linh và một số người khác. Trong số họ có một người tên là Hoàng Thiếu Lan, người Đài Sơn, biết nói tiếng Quảng Đông, chỉ biết một chút tiếng phổ thông. Hoàng Thiếu Lan này là một nhân vật đặc biệt, có thể nghe được tiếng nói của quỷ thần. Khi tôi nhìn Hoàng Thiếu Lan, thấy trên gương mặt cô ấy có âm khí, hóa ra cô ấy là người đã được ban cho khả năng nghe được âm thanh nhờ tụng niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thường ngày cô ấy hay ở cùng với quỷ thần, nên trên gương mặt cũng vương một chút âm khí. Cô ấy kể cho tôi nghe một câu chuyện có thật.

Một lần nọ, cô ấy đi dã ngoại bên bờ sông phía Nam Vancouver, là khu vực dành cho dã ngoại. Tại một nơi khá vắng vẻ có tụ tập một bầy ma, cô ấy nghe được họ đang trò chuyện. "Có một người tên Lư Thắng Ngạn, đang truyền Phật pháp ở Seattle." - Một con ma nói. "Hà! Tôi biết người này từ lâu rồi." "Ông ta đã minh tâm kiến tính chưa?" - Một con ma hỏi. "Chúng ta cùng đi quấy phá ông ta, không phải sẽ biết ngay sao." "Đúng, đúng, đúng..." - Bầy ma nhao nhao phụ họa.

Đúng lúc bầy ma đang ồn ào, trên không trung hiện ra một vị thần. Cô Hoàng Thiếu Lan mô tả vị thần đó có đỉnh đầu tỏa hào quang ngũ sắc, hình dáng một bà lão, mặc áo thần bảy màu, bay lượn trên không, nghe cô Hoàng Thiếu Lan mô tả, tôi biết đó là Không Hành Mẫu.

"Này, mọi người đừng ồn ào nữa." - Không Hành Mẫu nói. Bầy ma thấy Không Hành Mẫu đến, đều chắp tay cung kính. "Ta đã nghe hết những gì các ngươi nói rồi, các ngươi định quấy phá Thượng sư Lư phải không?" "Chúng tôi sẽ kéo cả bọn đến, một đứa chui vào đầu ông ta, làm cho ông ta chóng mặt hoa mắt; một đứa chui vào mắt, làm cho ông ta tối tăm mù mịt; một đứa chui vào tai, làm cho ông ta điếc đặc; một đứa chui vào cổ họng, làm cho ông ta câm không nói được; một đứa vào tim, làm cho tim ông ta suy nhược; một đứa chui vào bụng, làm cho ruột ông ta tiêu chảy; một đứa nhập vào tay, làm cho tay ông ta không nhấc lên được; một đứa nhập vào chân, làm cho ông ta đi lại khó khăn. Chúng ta thử ông ta như vậy, xem ông ta có phải là vị Thượng sư chân chính không, có đạo hạnh gì không?" "Không được." - Không Hành Mẫu nói. "Tại sao không được? Chẳng lẽ chúng tôi thử một chút cũng không được sao?" "Ấn kim cang quyền mà Thượng sư Lư kết có một luồng hào quang đỏ mạnh hơn bất kỳ vị Thượng sư nào, hào quang này người, súc sinh, quỷ thần đều không thể chống đỡ được một đòn. Vì vậy khi ngài kết ấn kim cang quyền, nhất định sẽ kết bên trong cà sa, không để lộ ra ngoài. Các ngươi đến tìm ngài, ngài chắc chắn sẽ biết. Nếu tay ngài kết ấn kim cang quyền, con ma bám vào tay và con ma bám vào tim sẽ là những kẻ đầu tiên bị đánh trúng, hai con ma này nhất định sẽ bị thương nặng, không một ma tiên nào có thể cứu được, ngay cả ta là Không Hành Mẫu cũng không thể cứu được." "Nếu vậy thì chúng tôi không đi quấy phá nữa." "Tốt nhất là đừng đi, đây là lời khuyên chân thành của ta." - Không Hành Mẫu nói. Nói xong, Không Hành Mẫu liền biến mất. Bầy ma cảm thấy chán nản, cũng lần lượt giải tán.

Sau khi đến Seattle, ngay cả bầy ma ở Vancouver, Canada cũng biết được, và Không Hành Mẫu hộ pháp cũng đã kịp thời ngăn chặn hành động nông nổi của bầy ma này. Tôi biết loài ma vốn thích làm theo ý mình, có một số ma thích phá phách, chúng đều thích thử thách đạo hạnh của người tu hành. Người tu hành không hay biết, thường bị nhiều loài ma quấy nhiễu mà không tự biết, đây cũng là một việc rất phiền phức. Đối với những loài ma này, tốt nhất là đừng chủ động trêu chọc, bởi vì ma rất khó đối phó, một khi đã trêu chọc thì sẽ bị dính chặt không dứt, giống như kẹo dính vậy, dính vào rồi thì vĩnh viễn không thể gỡ ra được, đặc biệt là những con ma lì lợm, đã bám thì bám mãi không thôi, rất phiền phức.

Tất nhiên, ấn kim cang quyền chỉ được sử dụng khi không còn cách nào khác, khi kết ấn kim cang quyền xong, sẽ có một luồng hào quang đỏ tỏa ra, vì vậy phải kết ấn và xả ấn bên trong cà sa để tránh vô tình làm tổn thương người khác. Khi không mặc cà sa cũng phải dùng vải bọc tay lại, không để hào quang đỏ tỏa ra. Đây là cách làm thông thường. Nhưng nếu trước tiên kết ấn lưới kim cang, lấy lưới kim cang chặn bên ngoài, kim cang quyền làm bên trong, thì không còn phải sợ gì nữa. Đối phó với loài ma vẫn nên tránh dùng kim cang quyền, bởi vì ma thẳng tính, một khi đã kết oán thì rất khó hóa giải, chúng lại đông đảo, tốt nhất là đừng trêu chọc, đương nhiên mọi việc dĩ hòa vi quý.

27. Cao Vương Kinh khiến tù nhân an tâm

Trước tiên, tôi xin chia sẻ một lá thư từ độc giả:

Thượng sư Lư, xin chào thầy!

Khi cầm bút viết lời xưng hô này, tôi không kìm nén được cảm xúc bồi hồi, bởi thầy đã hiện diện trong cuộc sống của vợ chồng tôi nhiều năm qua. Từ cuốn sách đầu tiên cho đến hơn bốn mươi cuốn hiện nay, vợ chồng tôi không bỏ sót cuốn nào. Mặc dù khoảng bốn năm trước, ông Trương Đại Mưu đã từng nhắc đến việc có thể giới thiệu thầy để mọi người được biết nhau. Nhưng chồng tôi vẫn nghĩ rằng thầy đã quá bận rộn, không tiện làm phiền, chỉ cần tiếp tục đọc tác phẩm của thầy là có thể giải đáp được nhiều thắc mắc về Phật pháp. Thế nên chúng tôi âm thầm chưa từng đến thăm thầy, cũng chưa từng viết thư thăm hỏi, hôm nay lần đầu tiên trực tiếp xưng hô với thầy (vợ chồng tôi quen gọi như vậy), tôi tin thầy sẽ hiểu được tâm trạng này.

Khi chúng tôi đang ở trong thuận cảnh, vẫn kiên trì tu tập, và ngay cả hiện tại khi gặp khó khăn cũng không thay đổi, đây là lời dạy của thầy, và còn mong cầu tinh tấn hơn nữa. Tôi tin rằng mọi tai ương đều có nhân quả, có lẽ đây là ý tốt của Bồ Tát, dù gặp nhiều trắc trở liên tiếp, nhưng không cảm thấy quá buồn, vì đã thấu hiểu rằng nỗi khổ trong cuộc đời là không thể tránh khỏi.

Tôi nhớ khi cuốn "Thông Linh Bí Pháp Thư" vừa xuất bản, chồng tôi đã mua được trước tôi, nhưng chỉ một ngày sau đã vào tù. Tôi vội vàng gửi cuốn sách này vào và đánh dấu trang 89. Chồng tôi, người đã bị hiểu lầm, đã nghiêm túc tu tập trong tù. Anh ấy như được thấm nhuần cam lộ, siêng năng tụng một nghìn biến Cao Vương Quán Thế Âm Chân Kinh trong tù. Anh ấy nói rằng trong hoàn cảnh này, lòng biết ơn đối với tâm cảnh của thầy thực sự không thể diễn tả bằng lời. Phật thật từ bi, anh ấy cũng có nhiều cảm ứng xuất hiện trong tù.

Hiện nay, anh ấy tùy duyên giới thiệu sách của thầy, tùy duyên độ hóa những người đồng cảnh ngộ, với tâm chuộc tội như vậy, để tìm được chút an tâm, biến mọi tai ương thành trí tuệ, đây hoàn toàn là công đức độ hóa của Thượng sư Lư! Vô cùng biết ơn. Trong quá trình tu tập, cũng xuất hiện nhiều điều không hiểu, đã từng gọi điện hỏi học trò của thầy là ông Trịnh, nhưng chưa gặp được. Sau đó nhờ bà Trịnh giới thiệu ông Vưu Ngân Thọ ở Phong Nguyên, ông Vưu nhiệt tình giải đáp thắc mắc của tôi, và còn nhờ ông ấy giới thiệu mà tôi có thể thuận lợi quy y chính thức vào Linh Tiên Chân Phật Tông, trở thành đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông, nguyện ước cả đời đã thỏa! Mong Thượng sư không chê, ban cho gia trì, xin kính lạy ba lạy từ xa.

Ban đầu tôi trì tụng thần chú Bạch Y, sau đó thêm Thất Phật diệt tội chân ngôn, Tâm Kinh, chú Đại Bi, Phổ Môn Phẩm, Kinh Ma Lợi Chi Thiên và Quan Âm linh cảm chân ngôn. Hiện nay khóa tụng sáng tối của tôi là Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, chú Đại Bi, chú Hư Không Tạng, chú vãng sinh, và khi tọa thiền thì thầm niệm Thất Phật diệt tội chân ngôn. Tôi xin hỏi Thượng sư Lư, có pháp tu nào phù hợp hơn cho tôi không? Tôi đã từng tọa thiền theo phương pháp trong "Khởi Linh Học", rất may mắn là vừa ngồi thiền đã nhanh chóng có cảm ứng. Hiện nay tôi đã kết được nhiều thủ ấn và ghi chép lại từng cái một, sự biến hóa thật không thể nghĩ bàn, đúng như Thượng sư đã nói "đúng là tuyệt đỉnh". Chồng tôi hiện ở trong tù không tiện tọa thiền, nhưng càng chuyên cần đọc tác phẩm của thầy và làm khóa tụng sáng tối (gần giống như tôi), lại sợ có điều gì sai sót, xin Thượng sư chỉ dạy.

Cuối cùng, mong Thượng sư từ bi gia trì, tôi xin chờ tin vui. Kính chúc gia đình an lành. Đệ tử Hồng kính bái. 21/04/1983

Theo như tôi quán chiếu trong tâm linh thì đây là một gia đình rất thiện lương, cả nhà đều tu tập Phật pháp. Tuy nhiên, gia đình học Phật không phải là sẽ luôn được như ý. Những việc trong đời đều vướng mắc nhân quả báo ứng từ nhiều đời, chuyện không như ý chiếm đến tám chín phần mười. Chồng của chị ấy vào tù vì vướng pháp luật về chứng từ trong kinh doanh, may mắn là không oán trời trách người, vẫn giữ được bản tâm, tiếp tục tu Phật không ngừng, thật sự là điều rất đáng quý.

Tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh có công đức vô thượng, điều này tôi đã xác nhận. Đừng vì cho rằng kinh này không phải do Phật thuyết mà phê phán nặng nề, thực ra kinh này có gì để phê phán đâu, bên trong toàn là danh hiệu Phật, phê phán tức là phỉ báng Phật, phỉ báng Phật sẽ phải đọa vào địa ngục A Tỳ.

Họ đã trì tụng rất nhiều kinh chú nhưng vẫn chưa thoát khỏi những khó khăn thực tế về tài chính. Phải chăng điều này cho thấy Phật pháp không linh nghiệm? Không phải vậy, mà là vì họ chưa biết trong Mật tông có những pháp tu thực tiễn như pháp Bạch Tài Thần, pháp Hoàng Tài Thần, pháp Hắc Tài Thần. Việc tu tập những pháp này không chỉ đơn thuần để phát tài, mà trong lúc hồi hướng phải phát nguyện rằng, sau khi phát đại tài sẽ dùng tài sản đó vào việc hoằng dương Phật pháp, để chính pháp chân thật nhờ sự hỗ trợ của tài vật mà được phát triển rộng rãi. Công khóa hàng ngày của họ đã rất đầy đủ rồi, tôi sẽ hướng dẫn thêm cho họ, nhưng tôi muốn dạy họ thêm một phương pháp tu Hoàng Tài Thần.

Tôi đã từng đề cập đến pháp tu Hoàng Tài Thần và Hắc Tài Thần trong cuốn "Tọa Thiền Thông Minh Pháp", tuy nhiên chưa được chi tiết lắm. Hôm nay tôi sẽ chuyên luận về pháp Hoàng Tài Thần, cách thực hành có đôi chút khác biệt so với phương pháp trong "Tọa Thiền Thông Minh Pháp" và sẽ được trình bày chi tiết hơn.

Phương pháp tu trì pháp Hoàng Tài Thần như sau:

1. Chỉnh trang y phục và vào đàn thành (dùng một cái đĩa có đáy sâu, đặt tiền ở dưới đáy, phía trên tiền đổ đầy gạo thành hình núi, cắm ba nén hương đã thắp lên trên gạo). 2. Cúng dường. Dâng năm cúng phẩm gồm hoa, hương, đèn, trà, quả hoặc tám cúng phẩm. Đặt đĩa gạo phía sau các cúng phẩm. 3. Thắp đàn hương. 4. Lễ Phật. Thứ nhất lễ thập phương Phật, kết ấn tháp Phật. Thứ hai lễ chư Bồ Tát, kết ấn hoa sen. Thứ ba lễ Hộ pháp Kim cang thần, kết ấn chày tam xoa. Thứ tư cúi đầu, kết ấn bình đẳng. 5. Tụng chú Tứ quy y: "Na-mô gu-ru pây. Na-mô pút-ta yê. Na-mô ta-mô yê. Na-mô sâng-kya yê" ba lần. 6. Trì chú mặc giáp hộ thân phòng ma: "Ôm bua-rua lan chưa-li" bảy lần. Ấn vào đầu, cổ họng, tim, vai trái, vai phải. 7. Hành giả ngồi thẳng lưng, quán tưởng trên ba nén hương cắm trên gạo, khói quyện bay lên, hóa thành một vị Hoàng Tài Thần trong tư thế ngồi, thân màu vàng, ngồi bán già, chân phải buông xuống, ngón chân cái bên phải sưng đau. Hình tướng của Hoàng Tài Thần là một đầu hai tay, đội mũ Ngũ Phật bằng ngọc quý, mặt hiện tướng phẫn nộ, tay phải cầm một viên bảo châu (hình như quả bưởi), tay trái ôm một con chuột phun châu báu. 8. Lúc này hành giả đã quán tưởng xong Hoàng Tài Thần, kết ấn chắp tay kim cang trên đỉnh đầu, tụng "Ôm ah hùm sô-ha" ba lần. Triệu thỉnh Ngũ phương Ngũ Phật trụ trên không trung phía trên Hoàng Tài Thần, mỗi vị phóng ra ánh sáng ngũ sắc chiếu vào Hoàng Tài Thần. Lúc này phải tụng chân ngôn quán đảnh: "Ôm hùm chân-sưa-ya" ba lần. 9. Do được Ngũ phương Ngũ Phật quán đảnh, quán tưởng ngón chân cái bên phải của Hoàng Tài Thần hết sưng đau, Hoàng Tài Thần nở nụ cười. 10. Tụng tâm chú Hoàng Tài Thần: "Ôm chân-pa-la cha-lâng cha-na-yê sô-ha" 108 biến. 11. Lại quán tưởng con chuột phun tài bảo há miệng, phun ra vô số vàng bạc châu báu, rơi xuống núi gạo, núi gạo hóa thành núi vàng bạc châu báu, mọi điều cát tường viên mãn, cả núi tràn đầy. 12. Tiễn Hoàng Tài Thần theo làn khói hương mà đi, hoặc trở về bản xứ. 13. Hồi hướng: "Nguyện được đại tài rồi, lại thí pháp tài." 14. Đại lễ bái Phật, xuất đàn.

Theo kinh nghiệm tu tập của tôi, những vị Tài Thần đều là thần của sự giàu có, có thể ban phúc cho hành giả. Tuy nhiên, các vị thần giàu có cũng có những nỗi khổ riêng, ví dụ như Hoàng Tài Thần bị đau ngón chân cái bên phải, Hắc Tài Thần bị nóng ở tim, Bạch Tài Thần bị đau đầu. Chúng ta chỉ cần thỉnh Phật pháp để giúp các ngài được thân tâm an lạc, các vị Tài Thần sẽ ban phúc lành cho chúng ta. Tuy nhiên, điều tôi muốn mọi người lưu ý là việc hồi hướng phát nguyện rất quan trọng, khi kiếm được nhiều tiền không nên tham lam vô độ, phải biết tri túc thường lạc, dùng tiền dư ra để cúng dường Tam Bảo. Bởi vì pháp tu Hoàng Tài Thần và các vị Tài Thần khác cũng là phương tiện trong Phật pháp để độ thế nhân.

28. Ấn chứng linh hồn xuất du

Linh hồn xuất du có thật không? Tôi nói rằng điều này là thật, bởi vì nó giống như giấc mơ, nhưng còn rõ ràng hơn giấc mơ một chút. Hiện tượng linh hồn xuất du là một trạng thái nằm giữa mơ và tỉnh, xin hãy suy ngẫm kĩ những lời tôi nói dưới đây, có lẽ độc giả sẽ hiểu được.

"Giấc mơ có thật không?" Giấc mơ là thật, bởi vì chắc chắn có hiện tượng mơ, đương nhiên là thật. Giấc mơ cũng là giả, bởi vì cảnh mơ hư ảo không thật, tự nhiên là giả.

Tôi xin nói với bạn một điều rất đáng ngạc nhiên: Khi tất cả chúng sinh không bị giấc mơ kiểm soát, mà ngược lại có thể kiểm soát được giấc mơ, đó chính là "linh hồn xuất du".

Ở đây, tôi xin tiết lộ một bức thư:

Thượng sư Lư:

Ngày 11 tháng 4, tức ngày 28 tháng 2 âm lịch, chúng con có một pháp hội lớn kéo dài ba ngày tại khu vực Bắc Đầu, đúng vào ngày viên mãn, em gái con cũng đến tham dự và mang theo pháp tướng Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư mà Thượng sư đã ban tặng. Con xin cảm ơn Thượng sư về tất cả.

Pháp tướng của Thượng sư phúc đức viên mãn, trang nghiêm như Phật, con xin chúc mừng Thượng sư ngày ngày tinh tấn, đạt được đại thành tựu, phổ độ mười phương thế giới.

Khi em gái con chưa đến địa điểm pháp hội, chúng con có nói chuyện qua điện thoại về Thượng sư. Thượng sư rất quan tâm đến chúng con, và còn ban tặng ảnh pháp tướng, khiến chúng con vô cùng hoan hỷ. Qua điện thoại, con đã kể cho em gái nghe về giấc mộng sáng sớm ngày 14 tháng 3 (tức ngày 30 tháng Giêng âm lịch).

Đó là một nơi con chưa từng đến và cũng không biết là nơi nào. Con và một số người vô tình bước vào một ngôi chùa nguy nga tráng lệ. Khi con đang thắp hương ở đại điện, nghe thấy mọi người nói: "Nhanh lên! Sau khi thắp hương xong hãy đến thỉnh giáo Thượng sư." Thế là con theo mọi người vào trong phòng, ôi! Thì ra Thượng sư Lư đang ngồi ở đó, với pháp tướng trang nghiêm lần lượt khai thị cho từng đệ tử đến trước mặt. Con vô cùng hoan hỷ (vì đã lâu mới được gặp lại) vội vàng tiến lên, quỳ trước Thượng sư, nói: "Đệ tử đảnh lễ Thượng sư" rồi lạy một lạy. Thượng sư đích thân nói với con: "Phật pháp vô biên, thân ta ở Mỹ nhưng tâm ở Đài Loan." Nghe xong câu nói đó, con tỉnh giấc. Ôi! Thì ra là một giấc mơ! Nhưng lời Thượng sư nói trong mơ con nghe rất rõ ràng, một mình ngẫm nghĩ ý nghĩa trong đó, nhớ về những lời dạy của Thượng sư ngày trước. Qua điện thoại con nói với em gái rằng, chúng con đều được Thượng sư ban tặng pháp tướng, mà con còn được nghe pháp ngữ của Thượng sư nữa! Nhờ ơn Thượng sư ban cho pháp ngữ, hôm nay lại được ban tặng pháp tướng, vui mừng khôn xiết, xin cảm tạ nhiều lần, đảnh lễ rồi lại đảnh lễ.

Vào đầu tháng 2, khi đi dạo ở phố sách Nam Lộ Trùng Khánh, con tình cờ thấy cuốn "Thế Giới Của Con Mắt Thứ Ba" và mang về nhà đọc. Con cũng đã chuyển khoản đặt trước sách "Linh Tiên Phi Hồng Pháp" và các sách khác tại Nhà sách Học Hải. Mặc dù Thượng sư đã rời xa chúng con, không thể ngày ngày thân cận thỉnh giáo nữa, như đứa trẻ mồ côi mất mẹ, lúc đầu cảm thấy hoang mang. Sau đó con tự nói với mình rằng không thể cứ mãi dựa vào Thượng sư, phải "tự độ", nhưng đáng buồn là nói thì dễ mà thực hiện thì khó, bởi vì chúng sinh nghiệp nặng, huệ căn quá nông. Tuy nhiên, được đọc từng tác phẩm vĩ đại của Thượng sư, thật là vui sướng vô cùng. Khi đọc những tác phẩm này, con tưởng như có Phật quang gia trì, những lời chỉ dạy ân cần của Thượng sư hiện ra trước mắt.

Hiện tại trong công phu tu tập, con chỉ biết làm đến nơi đến chốn, giữ bổn phận, hàng ngày thành tâm tu pháp, lễ Phật trì chú, thường niệm Phật không ngừng, đọc nhiều kinh sách để hiểu và lĩnh hội Phật pháp. Giờ đây con chỉ mới hiểu được một phần rất nhỏ trong biển Phật pháp mênh mông, như múc nước biển bằng đấu có khi cũng cạn, nguyện đời đời kiếp kiếp hành Bồ Tát đạo.

Ngày 16 tháng 4, khi đọc cuốn "Địa Linh Dấu Tiên" ở dòng cuối trang 4, con thấy Thượng sư viết "thân ở Mỹ nhưng tâm ở Đài Loan." Ôi! Con đã chứng thực giấc mơ của mình không hư giả, xúc động vô cùng, không kìm được nước mắt tuôn rơi. Lần này, con sẽ cùng nhiều sư huynh sư tỷ hân hạnh được sang Mỹ thăm viếng Thượng sư và rất phấn khởi, chỉ mong trong thời gian ngắn ngủi ấy, được nghe nhiều pháp ngữ của Thượng sư, thế là mãn nguyện và tràn đầy pháp hỷ.

Kính chúc Phật an! Liên Cục đảnh lễ. 21/4/1983

Ghi chú: Ở Vancouver có một ông Phùng Phùng, tác giả cuốn "Tiếng Chuông Nửa Đêm" do nhà xuất bản Hoàng Quan phát hành, là người rất chính trực, hết lòng hộ trì Phật pháp, có những năng lực siêu nhiên kỳ lạ, là một đại hộ pháp của Phật giáo.

Sau khi nhận được bức thư này, tôi có một vài điều cần giải thích:

Thứ nhất, "linh hồn xuất du" là một phương pháp tôi thường xuyên rèn luyện, khi xuất phát giống như tên lửa phóng đi, khi trở về nhập thân, vùng thiên tâm cũng có một cảm giác mở ra khép vào, hiện tượng của tôi là lực nhập thân rất mạnh, khiến tôi tỉnh giấc ngay lập tức. Do thường xuyên "linh hồn xuất du" nên có nhiều cơ hội thị hiện trong mộng, nếu ai đã luyện thành huệ nhãn cũng chắc chắn có thể nhìn thấy tôi. Những điều này đều có thể chứng thực, khi đệ tử nghe được pháp ngữ của Thượng sư trong mộng, sau đó mở sách của tôi ra, thấy rõ ràng tôi cũng viết như vậy, đây chính là sự chứng thực.

Thứ hai, "linh hồn xuất du" đôi khi là đi vào thế giới đa chiều, thậm chí có thể đi vào đường hầm thời gian, tiến sâu hơn vào không gian năm độ, sáu độ, bảy độ, tám độ, chúng ta có thể thấy thời đại hồng hoang thượng cổ, có thể thấy được tình trạng hủy diệt của Trái đất. Tôi thấy từ bên trong Trái đất phun trào những dòng dung nham cuồng nộ, nuốt chửng tất cả mọi thứ, bản thân Trái đất như một vũ công điên cuồng nhảy múa "disco", không có thứ gì còn nguyên vẹn, sóng biển dâng cao tận trời, thậm chí cuốn theo cả mây trên bầu trời, lửa dữ dội nhất, bùng cháy từ tâm Trái đất, lịch sử nhân loại đều bị hủy diệt, biển hóa thành núi cao, núi cao lại biến thành biển, không một ai trong nhân loại có thể trốn thoát thảm họa này. Trái đất vỡ nát, phân thành nhiều mảnh vỡ, nền văn minh nhân loại như những con kiến dưới chân người khổng lồ, không còn hang để ẩn náu, ngay cả mặt trăng cũng rơi xuống, nó không còn là vệ tinh của Trái đất nữa, nó trôi dạt và lảng tránh những mảnh vỡ của Trái đất, đến những hành tinh khác để làm vệ tinh. Sự diệt vong của Trái đất, đối với toàn vũ trụ mà nói, không có quá nhiều biến động và chấn động, như một tia lửa lóe lên, chỉ trong khoảnh khắc đã hoàn tất. Ôi Trái đất, Trái đất, vốn đến từ "không", giờ lại trở về "không", không có lịch sử, không có sự sống, thậm chí không ai biết nó đã từng tồn tại hay chăng? Thưa độc giả, đây là những gì tôi thấy về sự hủy diệt của Trái đất trong tương lai. Tôi còn biết nói gì nữa đây, khi ấy tôi, tồn tại trong một thế giới thiên thể khác, chỉ có một loại người là người thực sự bất tử, chỉ có người vận hành được "linh hồn" mới là người bất tử.

Thứ ba, "Phật pháp vô biên", câu nói này quả thật chính xác. Điều khiến tôi cảm thán nhất là Phật pháp không chỉ đơn thuần là một tôn giáo trên bề mặt Trái đất, mà nó phải vượt thoát khỏi mọi tông phái, vượt thoát khỏi Trái đất, vượt thoát khỏi nhân loại, vượt thoát khỏi thần thánh. Chỉ có Phật pháp mới có thể thể hiện được ánh hào quang của cảnh giới vĩ đại và siêu việt như "hội tụ quy về Tỳ Lô tính hải". Đây là một môn học vô cùng vô tận, các nhà khoa học không thể dùng nghiên cứu hữu hình để so sánh với Phật pháp. Tôi thường chê cười những nhà khoa học này, tự mãn giống như ếch ngồi đáy giếng, kêu ộp oạp, gọi Phật pháp là mê tín, thật là những kẻ vô tri, cũng là một hiện tượng kỳ quặc của thời đại văn minh.

Thứ tư, ông Phùng Phùng, khi tôi còn ở trong nước đã nghe danh tiếng của ông, và cũng đã đề cập đến ông trong các tác phẩm của mình. Tôi cũng đã đọc cuốn "Tiếng Chuông Nửa Đêm" của ông. Giữa chúng tôi, ông biết có tôi, tôi biết có ông, khi tôi đến Seattle, ông đã thấy tôi trong linh thị, và tôi cũng đã thấy ông trong linh thị. Chúng tôi chưa từng gặp mặt trực tiếp. Nhưng chúng tôi đã là những người bạn rất tốt từ lâu. Khi có người từ Vancouver đến, tôi nhờ họ chuyển lời thăm hỏi đến ông, và ông cũng nhờ người gửi lời chào tôi. Chúng tôi là "bạn trong tâm tưởng", hiện ông đang viết một cuốn sách lớn về tiểu sử của một vị đại sư Phật giáo. Ông biết hoàn cảnh của tôi, tôi cũng biết mọi điều về ông, tuy chưa gặp mặt, nhưng giữa tâm linh với tâm linh, cần gì phải gặp mặt, chúng tôi "tâm thông" với nhau. Ông Phùng Phùng là người rất thật thà, sống ẩn cư, ăn mặc thoải mái, không câu nệ tiểu tiết, cuộc sống giản dị, ăn chay, tự lo liệu mọi việc, thiên nhãn của ông tu luyện rất tốt, những gì ông nhìn thấy đều rất chính xác. Tôi tin rằng trong tương lai, hai vì sao lưu lạc này cuối cùng sẽ gặp nhau, tỏa sáng một tia hào quang của Phật pháp.

29. Lời của hành giả

Bài viết này là do hai đồng môn kim cang viết cho tôi, đây là cảm nhận đọc sách của họ:

Thứ nhất:

Về bài "Ma Ha Song Liên Trì", đệ rất vui mừng khi thấy huynh đã tìm được tiên cảnh bạn đạo, cảm xúc rất sâu sắc.

Về bài "Nuốt nhả cương khí quang minh hiển hiện", pháp nuốt kim quang, đệ từng nghe qua và cũng đã từng luyện tập, nhưng không được chi tiết và rõ ràng như lời giải thích của huynh. Mãi đến nay đệ mới biết đây là pháp quang thể tụ tập ánh sáng hiển hiện. Về ấn hào quang của chú kim quang, đệ đã tìm kiếm ấn quyết này suốt một năm mà không được, nên đệ chỉ biết chú kim quang mà không hiểu ấn hào quang, chỉ biết luyện tập quán tưởng hấp thu kim quang vào thân và phóng kim quang bao phủ toàn thân để bảo hộ. Giờ đây đệ sẽ tu trì theo như những gì huynh đã viết, xin cảm tạ sự chỉ dạy của huynh. Vì sách là do huynh viết, đệ xin huynh khai thị thêm về ấn khế của ấn hào quang.

Bài "Cửu phụng phá uế tịnh thủy pháp" thật tuyệt vời, có sự tương đồng tuyệt diệu với pháp cờ Lục tự đại minh chân ngôn của Mật tông. Do gần đây đệ có pháp hội của Hoạt Phật nên việc làm cờ chân ngôn bị trì hoãn, đệ sẽ treo cờ chân ngôn trong nhà, và theo phương pháp của huynh, thực hành "Cửu phụng phá uế tịnh thủy pháp". Nhờ pháp này mà đệ đã học được pháp của huynh, xin cảm tạ!

Bài "Thân ngoại hóa thân hiển thần thông", đệ đã sớm biết huynh có bản lĩnh như vậy, có khả năng thông thiên triệt địa. Nhưng lần đầu tiên được nghe về pháp "vòng tròn Thái cực", đệ đã học thêm được một trí tuệ mới, thật là huyền diệu, chưa từng được nghe, thật lợi hại. Bài "Trên đầu hóa Phật thủ", ôi, thật không thể tưởng tượng được, thật tuyệt vời, đây là điều mà tất cả người tu đạo trên thiên hạ đều không thể nghĩ tới. Lư huynh ơi, huynh đã đạt đến cảnh giới như thế. Không chỉ phàm tăng bình thường, mà ngay cả cao tăng đương đại, ẩn sĩ, cũng không thể sánh được với đạo hạnh của huynh. Dù có người đạt đến cảnh giới này, họ cũng sẽ vì vấn đề thiên cơ, hoặc vì phàm phu vĩnh viễn không tin nên không nói ra. Người có thể đạt đến cảnh giới cao như vậy, tin rằng không nhiều.。

Các pháp khác như pháp quán nguyên thần, pháp thu thần, chân quyết khai tượng... nhiều không kể xiết. Hơn chín phần mười là những pháp đệ chưa từng nghe qua, lần này thật sự được mở rộng tầm mắt. Cũng cảm ơn huynh đã viết ra. Nhờ vậy tiểu đệ cũng thu được nhiều lợi ích, thật sự rất cảm tạ huynh. Có một số pháp đệ không dám tu trì, vì đó là pháp của huynh, không có sự cho phép và chỉ dẫn thêm của huynh, không dám tu tập một cách khinh suất.

Ở đây, đệ xin thỉnh giáo huynh về kĩ năng xem nhà. Trình tự tu pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông là khởi linh, trúc cơ, thổ nạp, tĩnh công, nhập ngã, ngã nhập, biến thân... Khoảng hai năm trước, đệ đã từng khởi linh, hiệu quả là ngón tay hơi nóng và rung động, thời gian khởi linh khoảng bốn mươi phút. Sau đó do áp lực công việc nặng nề, thêm vào đó là nghiệp chướng vô hình từ nhiều đời. Sau này có duyên học Mật tông, đệ đã thật thà niệm Phật tụng kinh trì chú, tự thanh tẩy nghiệp lực. Đệ sẽ sớm tĩnh tọa trở lại, chuyên cần tu Mật pháp và khởi linh, cũng như tu tập theo một số pháp mà huynh đã chỉ dạy.

Sau khi đọc nhiều tác phẩm của huynh, đệ thấy nhận định từ một năm trước của mình quả không sai, cảnh giới của huynh thực sự rất cao, thế mà huynh vẫn quy y và nhận quán đảnh. Thành thật mà nói, đệ không nên đem huynh ra so sánh với Hoạt Phật, nhưng đệ xin nói thẳng, đệ cảm thấy thành tựu của huynh trong thời đại ngày nay, ít người có thể sánh bằng, ít nhất thì huynh và Hoạt Phật cũng ngang bằng nhau. Đặc biệt là những đạo pháp mà huynh biết, Hoạt Phật còn chưa biết đến, do đó cảnh giới của huynh... Thôi! Đệ không nói nữa, huynh cũng hiểu mà.

Thứ hai:

Đồng môn kim cang vô cùng ngưỡng mộ việc Thượng sư xây dựng đạo tràng và hoằng dương Phật pháp tại Seattle, Hoa Kỳ. Tuy nhiên, về việc viết cuốn "Phục Ma Bình Yêu Truyện" lại có những quan điểm và nhận xét khác nhau.

Rất nhiều Mật pháp, tất cả các tổ sư đều giữ kín không truyền, đó chính là "Phật pháp khó biết". Theo truyền thuyết, Mật pháp chỉ được Thượng Vương Phật giảng một lần trong vô lượng kiếp quá khứ, và trong thời Hiền kiếp thiên Phật, chỉ có Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đích thân giảng lại một lần, còn chín trăm chín mươi chín vị Phật khác từ xưa đến nay chỉ tự mình biết mà không nói ra.

Kim Cương thừa, tôi đã đọc rất nhiều sách của các vị Thượng sư, như Thượng sư Lưu Duệ Chi ở phương Nam. Thượng sư Trần Kiện Dân ẩn tu ở Nepal, sau đó sang Mỹ. Thượng sư Âu Dương ở phương Bắc. Thượng sư Ngộ Quang ở chùa Trúc Khê, Đài Nam. Thượng sư Phổ Phương ở Sĩ Lâm, Đài Bắc. Thượng sư Cống Cát ở Cống Cát Tinh Xá. Thượng sư Pháp Xưng ở Liên Hoa Tinh Xá... Pháp bản của các ngài đều rất súc tích, thường chỉ truyền cho từng người hoặc số ít người, chứ không giảng dạy Mật pháp trực tiếp cho đại chúng, vì sợ phạm vào giới căn bản không được nói ra (đại giới samaya).

Trong cuốn sách "Phục Ma Bình Yêu Truyện", có một số Mật pháp mà các đồng môn kim cang cho rằng không thể tiết lộ, nhưng nay Thượng sư Lư đã công khai tất cả, khiến nhiều đồng môn vô cùng lo ngại. Bởi những điều này vốn không thể nói ra, đó là đại giới căn bản của Mật tông, từ trước đến nay chưa ai dám phạm. Thế mà giờ đây, Thượng sư Lư lại công khai tất cả không giữ lại điều gì, điều này đã gây chấn động và khiến tất cả các môn phái Kim Cương thừa kinh ngạc, đó là điều tất yếu.

Tuy nhiên, tôi nói với họ rằng, Thượng sư Lư không phải là một vị Thượng sư bình thường, hành động của ngài khác với các Thượng sư thông thường, ngài viết sách liên tục không ngừng, ngài đầy nhiệt huyết, tinh thần tinh tấn và nghiên cứu sâu về Phật pháp của ngài, hiểu biết tất cả các pháp môn trên đời, trong mọi việc đều khác với người thường.

Tôi đã đọc kĩ các tác phẩm của Thượng sư, từ cuốn thứ nhất đến cuốn thứ bốn mươi tư, và biết rằng Thượng sư là người không giấu giếm điều gì, luôn nói hết những gì mình biết. Dù có phạm vào đại giới căn bản không được nói ra của Mật tông, Thượng sư vẫn cứ nói. Bởi vì Thượng sư được Phật Thích Ca thọ ký, được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ trực tiếp truyền thừa, được Đại Bảo Pháp Vương quán đảnh, nên tôi biết chắc rằng Thượng sư là bậc phi phàm trong những bậc phi phàm, điều này là có nguyên do của nó.

Trong các đồng môn, chúng tôi đều thấy rõ những hành vi của Lâm Vân, đó hoàn toàn là Mật tông giả, nhưng không ai dám lên tiếng. Chỉ có Thượng sư Lư dám cất tiếng gầm sư tử, một sự can đảm mà người thường không thể có được. Trong cửa Mật tông, chỉ có một vị Thượng sư như vậy thì Mật pháp mới hưng thịnh. Tôi có một câu không dám nói, nhưng bây giờ tôi cũng nói ra, đó là: "Tổ sư Liên Hoa Sinh thật sự đã tìm đúng người." Mật tông trong tương lai muốn hưng thịnh trên thế gian, chỉ có nhờ Thượng sư Lư dám nói ra, thì mới có thể phát triển trong xã hội. Tất cả các Thượng sư đều không nói vì "bí mật không tiết lộ", vậy làm sao Mật pháp có thể phổ biến? Hôm nay, Thượng sư Lư đã dám liều phạm đại giới samaya của Mật tông, hy sinh bản thân, hoằng dương Mật giáo, đây mới thực sự là hành động của một bậc Thượng sư vĩ đại, sẵn sàng vào địa ngục và đồng cam cộng khổ với chúng sinh.

Gần đây có rất nhiều Thượng sư Mật tông Tây Tạng thuộc phái Bạch giáo đến Đài Loan, phái Hoàng giáo cũng đến, thậm chí cả phái Hoa giáo cũng đến truyền pháp Thời Luân Kim Cang. Sách của Thượng sư Lư viết tại Mỹ được xuất bản đúng thời điểm, đây là lúc Mật tông thực sự hưng thịnh, là ngày Kim Cương thừa của chúng ta được ngẩng cao đầu. Thậm chí các vị pháp sư Hiển giáo cũng bắt đầu âm thầm học Mật pháp, có một vị pháp sư Hiển giáo nổi tiếng, sau khi đọc sách của Thượng sư Lư, đã lén lút học Mật pháp, tự tu và chứng đắc. Trước đây ông rất phản đối Mật tông, vậy mà giờ đây lại học Mật tông, không còn chỉ trích Mật tông nữa, đây cũng là một công đức lớn của Thượng sư!

Pháp Bạch Tản Cái Phật Mẫu, pháp Lục Độ Mẫu, pháp Xích Tử Quan Âm, pháp cưỡi tòa sen vãng sinh, trong đó tôi đã tu hai pháp đầu, nhưng hai pháp sau thì chưa từng nghe qua, mong Thượng sư chỉ dạy. Pháp Xích Tử Quan Âm tôi thấy rất hay, pháp cưỡi tòa sen vãng sinh lại càng là đại pháp phù hợp với thời điểm và hoàn cảnh hiện tại, nhờ đó có thể độ hóa được nhiều người hơn nữa, thật là pháp duyên thù thắng, hiếm có quý báu.

Sau khi đọc 6 bài viết về "Sắc ma nhập tâm", quả thật là những kiến giải tinh tế và sâu sắc. Trên thế giới này, không còn ai dám viết và nói thẳng những điều như vậy nữa. Việc có thể trình bày từng điều một, cảnh tỉnh mọi người về hành vi của họ, quả thật là bậc Thượng sư trong các Thượng sư. Nếu 6 bài viết này được mọi người hoằng dương rộng rãi, thì những đồng cốt tà đạo tự nhiên sẽ biến mất, không còn dám lừa gạt thế nhân nữa. Đây là nhận định của tôi, công đức của Thượng sư thật như trời cao.

Mười bảy năm trước, tôi là đệ tử được trực tiếp truyền thừa từ Đại Bảo Pháp Vương Thượng sư. Pháp Vương từng nói rằng tôi có thực chất của một vị Thượng sư, nhưng không có danh xưng Thượng sư. Nay đọc được tác phẩm lớn của Thượng sư Lư, mới biết trên người còn có người, trên trời còn có trời. Nhớ lại Thượng sư Pháp Xưng cũng từng thỉnh giáo Thượng sư, có thể thấy về mặt danh phận tôi là sư huynh của Thượng sư, nhưng thực ra cũng phải cầu Thượng sư khai thị, mong sư đệ từ bi. Tôi có một yêu cầu, nếu Thượng sư trong định gặp được Đại Bảo Pháp Vương Thượng sư, xin hãy thay tôi vấn an ngài. Đây là yêu cầu của tôi, xin nhớ cho, đây là điều mà sư huynh yêu cầu sư đệ làm, dù thế nào cũng phải thực hiện.

Tôi tin rằng trong tương lai chắc chắn sẽ có nhiều tà ma ngoại đạo gây phiền phức cho Thượng sư. Phải biết rằng, Thượng sư đã công khai những điều bí mật không được phép tiết lộ của Mật pháp, những đồng môn kim cang hiểu được Thượng sư thì không sao. Nhưng những người không hiểu Thượng sư vẫn sẽ có những lời phê bình, đây là điều tất yếu. Thực ra, chúng tôi đã sớm biết Thượng sư là đệ tử của Đại Bảo Pháp Vương, nhưng Thượng sư không nói nên chúng tôi cũng không tiện đề cập. Sau đó Thượng sư còn được Đại Tích Đỗ Ba Tôn Giả, Thượng sư Lý Đình Quang, Thượng sư Phổ Phương quán đảnh gia trì, chúng tôi đều biết cả. Nhưng những người không hiểu Thượng sư vẫn sẽ cho rằng Thượng sư mạo danh Thượng sư mà sinh bực tức, tuy nhiên Thượng sư luôn không e sợ trước tất cả, điều này chúng tôi đều hiểu rõ. Chúng tôi sẽ làm chỗ dựa tinh thần cho Thượng sư, đừng sợ hãi điều gì, hãy xem "Mật pháp hưng thịnh" là trọng trách lớn lao trong tương lai!

Phật giáo Hiển tông tự nhiên càng không hiểu được Thượng sư, các tông phái khác lại càng không hiểu Thượng sư hơn nữa. Thượng sư chắc chắn sẽ gặp phải những đợt tấn công dữ dội như cuồng phong bão táp, còn chúng tôi chỉ có thể an ủi Thượng sư rằng đừng sợ hãi, hãy tin rằng Thượng sư là bậc thông đạt Mật pháp, tự có long thiên hộ trì gìn giữ, chúng tôi đã lo lắng quá nhiều rồi.

Trong quyển "Phục Ma Bình Yêu Truyện", phần "Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chân ngôn", có một chữ bị in sai, đó là ở trang 135, dòng đầu tiên, năm chữ cuối cùng, trong đó có một chữ "ga", phát âm đáng lẽ phải là "wa" mới đúng. Tôi tin rằng đó là lỗi của nhà in, và khi kiểm tra không để ý. Thần chú này rất quan trọng, hễ có sai sót nhất định phải tuyên bố, nếu không những người đọc sách của Thượng sư, học theo âm chú trên sách, kết quả sẽ bị sai, như vậy sẽ rất phiền phức. Việc này đặc biệt nghiêm trọng, không được phép tái phạm, đây là lời thành thật của tôi.

Về việc của vợ chồng họ Lâm, tôi không quen biết họ, nhưng việc họ phỉ báng sư phụ cũng như phỉ báng Phật, đây là một tội phạm giới rất nghiêm trọng. Hai vợ chồng họ có thể sẽ không được tái sinh làm người trong muôn kiếp. Họ đương nhiên không biết được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này, phàm phu thế tục không hiểu được sự vĩ đại của Thượng sư Mật tông, xem Thượng sư như một vị thầy bình thường, những đệ tử như vậy không nên thu nhận. Sau này Thượng sư cần phải xem xét kĩ càng rồi mới thu nhận đệ tử, bởi vì như vậy sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến thanh danh của Thượng sư, điều này là không như pháp. Nhưng trên đời lại có những đệ tử như vậy, những đệ tử này thật là đáng thương vì quá vô tri.

"Ở Trung Hoa không có thiền sư", câu này rất hay. Nhưng vì người khác không hiểu được ý của thầy, sẽ gây nên sóng gió, sau này hãy cố gắng đừng viết như vậy nữa. Bởi vì chỉ có "bậc đã chứng ngộ" mới biết được, thiên hạ làm gì có thiền sư? Thầy viết như vậy, những vị thiền sư không tự hiểu rõ lòng mình, lại sẽ chỉ trích thầy.

Thượng sư đã thông đạt cả Đạo giáo, Hiển giáo, Mật giáo, còn tôi chỉ được một pháp Mật giáo, vẫn đang trong quá trình tu chứng. Sư đệ là bậc Thượng sư, bậc thánh triết trời ban, quả thật là bậc thánh triết trời ban.

30. Thành tựu Yết Ma

Nay xin công bố một bức thư:

Kính gửi Thượng sư Lư:

Từ khi toàn thể gia đình Thượng sư sang Mỹ, con rất nhớ thầy, không biết khi nào mới được gặp lại, cách xa vạn dặm, chỉ còn biết chờ duyên đến mà thôi.

Ở Đài Loan, không có tin tức gì về Thượng sư, khi rảnh rỗi chúng con thường đến cửa hàng Thành Ích, chỗ bà Trịnh, để mua sách Thượng sư viết ở Mỹ về đọc, nhờ đó mà biết được tình hình gần đây của cả gia đình thầy. Quả thật, khi Thượng sư ở Seattle, đời sống tinh thần có thể yên tĩnh hơn, không bị nhiều người nhàn rỗi quấy rầy, tự nhiên sách cứ liên tục được xuất bản, điều này thật đáng mừng. Bình thường, Thượng sư giúp đỡ cả gia đình chúng con rất nhiều, công đức to lớn của thầy, đời này kiếp này mãi ghi nhớ trong tim, cảm ơn không hết, không biết làm sao báo đáp ơn thầy. Thượng sư như vị Bồ Tát sống trong lòng chúng con, cứu khổ cứu nạn, việc gì cũng có thể giúp người thoát khỏi nguy nan, hễ gặp khó khăn, ý nghĩ đầu tiên hiện lên chính là Thượng sư. Mong Thượng sư đừng trách con có tâm ỷ lại nặng nề, thật sự Thượng sư là bậc thần toán đệ nhất, tạo nên những điều kỳ diệu.

Năm ngoái, sau khi dùng phù an thai, vào ngày 21 tháng 9 con đã sinh một bé trai bình an (tên là Nghi Lâm). Đúng như Thượng sư đã tiên đoán là sẽ sinh được con, và là con trai, thật cảm ơn thầy! Gia đình thêm một niềm vui, và con cuối cùng cũng đã trút được tảng đá lớn trong lòng, có thể báo cáo với bố mẹ chồng rồi. Vì Thanh Lương là con một nên trách nhiệm của con rất lớn. Dưới sự tiên đoán của Thượng sư, không có điều gì là không chính xác. Giờ đây hai đứa bé rất đáng yêu, con gửi kèm ảnh để Thượng sư xem.

Phật Thanh và Phật Kỳ chắc đã lớn lên nhiều rồi! Con nhớ Phật Thanh rất hiểu chuyện, còn Phật Kỳ rất năng động, có vài cái răng sâu đen đen, cười lên trông thật dễ thương. Thưa Thượng sư, từ nhỏ con đã rất nhút nhát, hay lo nghĩ, giờ làm mẹ cũng vậy, đọc sách mới biết Thượng sư có phương pháp giải tỏa, xin Thượng sư chỉ dạy.

Trong lòng con có rất nhiều chuyện, xin Thượng sư dành chút thời gian giúp con giải đáp, con vô cùng cảm ơn! Cả nhà con đều rất nhớ Thượng sư! Kính chúc Thượng sư bảo trọng. Kính chúc Phật an!

Đệ tử Dung kính bái! 10/04/1983

Những lá thư như vậy rất nhiều, ở đây chỉ trích đăng một lá thư để làm bằng chứng. Theo Mật tông mà nói, đây chính là thành tựu Yết Ma. Đối với người tu hành, thành tựu Yết Ma chỉ là một "tác dụng phụ", không phải là mục đích tu hành, chúng ta có thể thỉnh thoảng giúp đỡ người khác bằng cách dùng chú ngữ Yết Ma. Đây cũng là một phương tiện để tiếp dẫn chúng sinh quy y Phật môn, nhưng không được đắm chìm trong pháp Yết Ma.

Tất cả những người có chí tu hành, phải lấy thành Phật làm mục tiêu hàng đầu, còn pháp Yết Ma sẽ tự nhiên có được, không cần phải chuyên tâm học hỏi, điều này rất quan trọng.

31. Nền tảng Phật pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông

Cho đến nay, Linh Tiên Chân Phật Tông chỉ duy trì danh xưng là một pháp môn tu hành giữa tôi và nhiều học trò. Chúng ta không có tổ chức, sống rải rác khắp nơi trên thế giới, đạo tràng chân chính mới bắt đầu được thiết lập ở Mỹ. Thật lòng mà nói, tôi không muốn biến nó thành một tổ chức, tôi chỉ mong Linh Tiên Chân Phật Tông là một pháp môn tu trì vô tướng, để mỗi người đều nhận được một phần Phật pháp chân chính và hữu ích, để thoát sinh tử, để minh tâm kiến tính, để hành bồ đề đạo, người người tu hành, người người thành Phật. Bản thân tôi bắt đầu tu từ Đạo giáo, nên mỗi học trò phải cung kính Tam Thanh Tổ sư của Đạo gia, cũng phải tôn kính chư thần tiên trên trời, và tôn kính các vị thần cai quản nhân quả. Đặc biệt là đối với Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh và Thanh Chân Đạo Trưởng. Không được vì tu pháp khác mà quay lại phỉ báng Đạo môn. Thực ra Đạo gia thâm sâu khôn lường, không vào cửa Đạo thì không biết được "chu thiên di hợp", chớ vì Phật môn phê bình ngoại đạo mà cho rằng đó là Đạo gia, khi Phật Thích Ca Mâu Ni phê bình ngoại đạo, Ngài chỉ đề cập đến Bà La Môn giáo và các tạp giáo khác ở Ấn Độ, chứ không phải Đạo gia Trung Quốc. Tôi là bậc Đạo trưởng tôn quý.

Đối với Hiển giáo, bản thân tôi đã tu tập hơn mười năm và thọ Bồ Tát giới. Các đệ tử Linh Tiên Chân Phật cũng có thể tu theo Tịnh Độ tông hoặc các tông phái khác, mỗi người nương theo pháp sư tu hành. Chúng tôi cho rằng các tông phái Hiển Mật đều bình đẳng, các pháp môn đều bình đẳng, chỉ vì căn cơ mỗi người khác nhau nên có tám vạn bốn nghìn chúng sinh tu tám vạn bốn nghìn pháp môn. Chúng tôi vẫn luôn tôn kính lễ bái tất cả pháp sư Hiển giáo trong Phật môn. Trong Hiển giáo, tôi là một ưu bà tắc thọ Bồ Tát giới. Cuối cùng tôi nương theo Mật tông, tu pháp Mật tông là chuyển tam nghiệp thành tam mật, cũng là pháp bí mật trang nghiêm, đại viên cảnh trí. Đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông phải cung kính lễ bái Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Ngài là Tổ sư đời thứ nhất của Tạng mật. Sau khi bản thân tôi được bí mật quán đảnh, nhập Tỳ Lô tính hải, rồi truyền pháp cho các đệ tử, trở thành Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư.

Mặc dù Linh Tiên Chân Phật Tông không có tổ chức, nhưng có rất nhiều người quy y, tín đồ trải khắp thế giới. Tôi muốn mọi người ghi nhớ ba điểm:

Thứ nhất, Linh Tiên Chân Phật Tông là pháp môn kết hợp tu tập cả Đạo giáo, Hiển giáo và Mật giáo, ra đời để đáp ứng thời đại, là pháp môn bất nhị [chỉ đạo lý quan sát vạn vật cần thoát khỏi cách nhìn đối đãi hai bên cực đoan mới có thể đạt được chân thực] thích hợp nhất cho người hiện đại tu hành. Pháp duyên thù thắng, tương lai còn hứa hẹn nhiều điều.

Thứ hai, người có chí hoằng dương Linh Tiên Chân Phật Tông phải có đủ tư cách của một Thượng sư. Thân phận Thượng sư có hai loại: Một là được Căn bản Thượng sư công nhận là Thượng sư. Hai là thực sự đã "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử" trong quá trình tu trì, được Bổn tôn công nhận, được chư Phật Bồ Tát Bổn tôn hiển hiện và công nhận là Thượng sư. (Điều này phải thật sự chính xác, nếu nói dối sẽ đọa vào đại A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không được siêu sinh.)

Người được Thượng sư công nhận cũng phải tu trì Đạo giáo, Hiển giáo, Mật giáo nhiều năm, qua quan sát thực sự biết pháp, tu pháp, ngộ pháp, có chứng nghiệm thực sự mới có thể làm thầy dạy người, nếu không sẽ làm hỏng danh tông, ngược lại bị đọa lạc, cũng vào đại địa ngục A Tỳ.

Thứ ba, đã quy y Căn bản Thượng sư thì các Thượng sư khác không được nhận những sư huynh đệ trước đây làm đệ tử, để tránh rối loạn truyền thừa. Điểm này phải nhớ kĩ, rất quan trọng.

32. Tôi sẽ viết "Hắc giáo Hắc pháp"

Tôi sẽ viết "Hắc giáo Hắc pháp" - Vạch trần lời nói dối của "người thừa kế duy nhất" của "tà giáo".

Sau khi hoàn thành "Hành giả ở Seattle", cuốn sách tiếp theo của tôi, tập 47 trong tuyển tập của tôi, sẽ có tên là "Hắc giáo Hắc pháp", với tiêu đề phụ là "Quả báo cuối cùng của chú thuật ngoại đạo".

Lý do tôi viết "Hắc giáo Hắc pháp" là vì có một người tự xưng là "người thừa kế duy nhất" của "Hắc giáo", khiến giới truyền thông hoàn toàn bị lừa dối. Liệu giới truyền thông có biết rằng, giữa trời đất này, người thực sự hiểu rõ "Hắc giáo" duy nhất chính là Lư Thắng Ngạn. Còn vị tiên sinh kia chẳng qua chỉ là treo đầu dê bán thịt chó, mượn danh Hắc giáo để phô trương, lừa gạt người khác mà thôi. Lý thuyết của ông ta toàn là những luận điểm nhỏ nhặt về Mật tông, không có chút nào là bản chất thực sự của "Hắc giáo". Dựa trên ý thức về công lý, tôi buộc phải công bố toàn bộ "Hắc giáo Hắc pháp" ra thế gian, để tất cả độc giả hiểu rõ về Hắc giáo chân chính, không để kẻ đó tiếp tục lợi dụng truyền bá, dẫn người vào con đường tà của Phật pháp, nhận tà làm chính, đảo lộn đen trắng, lừa dối chúng sinh thiên hạ.

Ở đây, tôi xin nêu quan điểm của hai vị đại sư Mật tông chân chính:

Vị Hoạt Phật của Bạch giáo Thrangu Rinpoche khi đến hoằng dương Mật tông trong nước, đã thăng tòa thuyết pháp tại điện Viên Thông Bảo của chùa Từ Minh. Có người hỏi về Mật tông Hắc giáo của một người nọ là gì? Vị Hoạt Phật đã trả lời như sau: Trong Tạng mật, Mật tông có bốn truyền thừa, một là Hồng giáo (Nyingmapa cổ phái), hai là Hoàng giáo, ba là Bạch giáo (Kagyupa), bốn là Hoa giáo. Còn về Hắc giáo, hoàn toàn không liên quan đến Mật tông, Hắc giáo là tôn giáo mê tín nguyên thủy vốn có ở Tây Tạng trước khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ Ấn Độ sang Tây Tạng. Sau này, do Mật tông hưng thịnh ở Tây Tạng, Hắc giáo đã dần tan biến vào khoảng thời nhà Đường. Hắc giáo không phải là Mật tông, và việc người này tuyên truyền mình là người thừa kế duy nhất, e rằng có động cơ khác. (Thrangu Rinpoche chính là đệ tử của Đại Bảo Pháp Vương thuộc Bạch giáo.)

Ngoài ra, có một vị Thượng sư Kim Cương thừa của Mật tông, sống ở Đài Bắc trong nước, chính là Thượng sư Âu Dương, khi ông đến Seattle, Hoa Kỳ, có người hỏi ông về Mật tông Hắc giáo của một người nọ, vị Thượng sư Kim cương thừa Âu Dương này lắc đầu liên tục, xua tay liên tục. Ông nói với người hỏi rằng, xin đừng nhắc đến tên người này trước mặt tôi, hắn chỉ là kẻ xuyên tạc, mượn danh Mật tông để phô trương, hắn biết gì về Hắc giáo đâu, một tên tiểu tử hỗn loạn, chỉ cần nhắc đến tên hắn đã thấy buồn nôn rồi.

Bây giờ, quay lại nói về việc tại sao tôi biết về "Hắc giáo Hắc pháp". Nguyên do là thế này: Tôi bắt đầu tiếp xúc với Mật tông từ năm 32 tuổi, và bắt đầu nghiên cứu cũng như thực hành Mật pháp. Trong việc học Mật tông, điều quan trọng nhất là truyền thừa quy y và quán đảnh, vì vậy tôi đã thọ nhận cả quán đảnh quy y và đại quán đảnh bí mật. Việc tu tập Mật tông của tôi được ghi chép trong hai cuốn sách "Phục Ma Bình Yêu Truyện" và "Tọa Thiền Thông Minh Pháp". Do thầy hướng dẫn tôi là bậc tông sư Tạng mật một đời, trực tiếp hay gián tiếp, tôi đã biết được rất nhiều về Hắc pháp của Hắc giáo. Đây là duyên phận trời ban, tôi thấu hiểu sâu sắc cơ duyên của Hắc giáo Hắc pháp, có lẽ đã đến lúc phải vạch trần Hắc giáo Hắc pháp. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Sau đó, trong thời gian ở Seattle, vị Tổ sư đời thứ nhất của Tạng mật đã thị hiện vào ngày mùng 10 tháng 7, ngày sinh của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, ngài ngồi trên đài sen vàng, giáng lâm nơi mật đàn của tôi. Ngài đích thân hướng dẫn tôi cách tu Mật. Tiếp đó, Ngài truyền thụ cho tôi toàn bộ Hắc giáo Hắc pháp vốn đã thất truyền, giúp tôi hiểu rõ hơn về nguồn gốc của Hắc giáo, những chú thuật của họ, cách họ hại người, cách hóa giải, và quả báo tương lai của người hành pháp này. Lúc đó tôi không hiểu dụng ý, hóa ra là để tôi thâm nhập Hắc giáo Hắc pháp, rồi sau đó viết sách phá trừ tà thuyết của Hắc giáo.

Hóa ra người đầu tiên phá trừ Hắc giáo chính là tổ sư đời thứ nhất của Tạng mật Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nhập Tam ma địa của Văn Thù Bồ Tát, hóa hiện ra Đại Uy Đức Kim Cang để giáo hóa tín đồ của Hắc giáo. Đại Uy Đức Kim Cang chính là Ngưu Đầu Kim Cang, nguyên nhân chính là vì Hắc giáo tôn thờ thần Trâu làm tổ sư. Hiện nay, tôi là người thứ hai sau Liên Hoa Sinh Đại Sĩ phá trừ Hắc giáo Hắc pháp. Tôi công khai toàn bộ bí mật của Hắc giáo Hắc pháp để thế nhân phán xét ai là chính, ai là tà. Trên đời này, người có thể viết về Hắc giáo Hắc pháp, ngoài tôi ra, e rằng không thể tìm được người thứ hai.

Mật tông sẽ hưng thịnh trong tương lai, ngoài truyền thừa Tạng mật ra, còn có truyền thừa Đông mật (do Đại sư Không Hải, tức Đại sư Hoằng Pháp) truyền sang Nhật Bản. Ngoài ra còn có truyền thừa Trung mật, từ Ấn Độ truyền sang Trung Thổ, chính là truyền thừa của ba vị đại A Xà Lê Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy và Bất Không. Học Mật tông đều phải coi trọng truyền thừa quán đảnh, chưa quy y chưa quán đảnh mà học được gọi là trộm pháp, không chỉ phạm giới căn bản của Mật tông, mà còn phạm tội vọng truyền Mật pháp. Những giới căn bản này, kẻ kia đều đã phạm cả, lại tự xưng là "Đại sư Mật tông" thật là hỗn loạn, tự xưng là "người thừa kế duy nhất của Hắc giáo" càng là vọng ngữ của vọng ngữ. Hắc giáo đã sớm tan biến, hơn nữa Hắc giáo vốn không phải là Mật tông, sao dám tự xưng là đại sư Mật tông? Hắc giáo không có truyền thừa, tại sao lại tự xưng là "người thừa kế duy nhất"? Người sáng mắt nhìn một cái là biết ngay, tôi không cần phải nói nhiều. Kẻ kia thường nói học Mật pháp từ năm 6 tuổi, vậy đã thọ quy y và quán đảnh chưa? Thượng sư là ai? Ai truyền cho ngươi quán đảnh A Xà Lê?

Có kẻ thường khoe khoang về Đại Thủ Ấn, thật là buồn cười, chỉ đọc sách rồi bắt chước lung tung, không hiểu "động tác phân giải", thật là hỗn loạn. Điều đáng thương là, trên thế gian này có không ít tông phái Mật tông có truyền thừa, Mật giáo đang dần dần phát triển rực rỡ. Nhưng giới truyền thông lại đi tuyên truyền về Mật tông giả, người truyền thừa giả. Điểm này mọi người không nói ra, nhưng khi gặp một người chính khí hiên ngang như tôi, thì phải vạch trần bộ mặt thật của họ, Mật tông có nhiều vị Hộ pháp Kim cang thần phẫn nộ, làm sao có thể dung túng cho Hắc giáo tà ác tiếp tục tồn tại.

Tôi viết cuốn "Hắc Giáo Hắc Pháp" là xuất phát từ tâm chính nghĩa, để trừ ma đen tà ác, phá tà hiển chính. Xin tất cả độc giả hãy chú ý, đây là tác phẩm quý hiếm độc nhất, gây chấn động toàn thế giới.

Nay xin liệt kê những nội dung chính của cuốn "Hắc Giáo Hắc Pháp" như sau:

Thứ nhất, nguồn gốc và sự suy tàn của Hắc giáo (tên gốc là Bon giáo). Thứ hai, việc Hắc giáo thờ phụng thần Trâu. Thứ ba, quyền xâm phạm trinh tiết của các thiếu nữ của pháp sư Hắc giáo. Thứ tư, về các nữ tì trong đền của Hắc giáo. Thứ năm, những thủ đoạn lừa gạt của pháp sư Hắc giáo và lý luận của họ.

Thứ sáu, cách thực hành Hắc pháp của Hắc giáo, các loại công cụ và chú thuật. Tôi sẽ viết ra vài chục phép, nhưng phải giấu đi một phần quan trọng, vì sợ kẻ xấu lấy được sẽ bắt chước làm theo. Tôi còn lo sợ một người nào đó, khi biết tôi viết cuốn "Hắc Giáo Hắc Pháp", sẽ cầm sách của tôi đi diễn giảng để "ra vẻ", không khéo lại lấy cuốn "Hắc Giáo Hắc Pháp" của tôi làm luận văn tiến sĩ của mình, khiến tôi không biết nên khóc hay cười nữa.

Thứ bảy, quả báo tương lai của việc sử dụng Hắc giáo Hắc pháp. Điểm này đặc biệt quan trọng, vì việc sử dụng Hắc giáo Hắc pháp hoàn toàn dựa vào yêu ma tà linh, mê hoặc xâm nhập tâm trí. Người học Hắc pháp đã bị tà ma tà tuệ xâm nhập, tự xưng là người thừa kế duy nhất của Hắc giáo, truyền bá tà dâm, phá hoại truyền thừa của Mật tông. Không những thế, người đời nay căn cơ nông cạn, vốn muốn tu hành chân chính nhưng lại trở thành ma nghiệp, cuối cùng biến thành quyến thuộc của ma. Họ và đệ tử của họ, sau khi mạng chung, nhất định sẽ trở thành dân ma. Những quả báo này tôi cũng sẽ liệt kê từng điều một. Đây là vì chúng sinh thời mạt pháp, giúp chúng sinh tu tập chính định chân chính, nhận ra đâu là chính, đâu là tà, tuệ nhãn viên minh mà không bị ma ám.

Tôi dùng Thiên nhãn quan sát, thấy một người trong Tam ma địa khởi lên tâm niệm thích được nổi danh, từ đó chăm chỉ theo đuổi danh lợi, tham cầu giao du với các ngôi sao, chính trị gia và giáo sư, biết rằng gần gũi ba hạng người này là cách dễ dàng và nhanh chóng nhất để nổi danh. Lúc này Thiên ma thấy thời cơ đã chín muồi, lập tức phái tinh linh nhập vào thân người đó, ban cho y trí tuệ tà ma, khiến y vì danh lợi mà đi khắp nơi diễn thuyết biểu diễn, tự xưng là có thể quan sát được khí, không coi trọng thực tu mà chỉ coi trọng giao tế, mượn danh Hắc giáo, vọng xưng Mật tông, tự nhận là người thừa kế duy nhất. Những kẻ như vậy, trong thiên hạ chỉ có tôi nhìn thấu được họ một cách rõ ràng, và chỉ có tôi mới có thể cứu họ.

Cuối cùng, tôi xin khuyên một lời, đừng bao giờ mê muội không tỉnh ngộ. Cuốn "Hắc Giáo Hắc Pháp" này của tôi viết ra không phải để hại mà là để cứu các vị. Lẽ nào các vị thực sự không biết sự tà ác của Hắc giáo hay sao? Sấm sét quán đảnh, pháp môn rộng mở, đừng tự trói mình như tằm kéo kén, vĩnh viễn không thấy được mặt trời Phật, hãy mau mau quy y Mật tông có truyền thừa, trở thành một pháp sư thấu tỏ chân tính, đây là tấm lòng cứu độ chân thành của tôi. Hãy mau sám hối, mau quay đầu.

Tháng 8 năm 1983 tại Hoa Kỳ. 512 Strander Blvd. Tukwila, WA 98188 U.S.A.

33. Phụ lục 1: Thư gửi Thượng sư Lư Thắng Ngạn của Khải Luân - một đệ tử Mỹ

April 8, 1983

Dear ShiFu,

How can I express to you my heart’s love? When you spoke of the Formless my heart cried with bliss. For, dear Teacher, therein lies my joy, my life, my all.

As the days and weeks go on, the more and more I feel my life to be not my own. There is no seeking to be done, only abidance in the Formless beyond words. Everything else is but an expression, a manifestation, of That! Through your grace I will mature as that one Reality. In this I am unsurmountedly grateful.

Dear ShiFu, I have no other desire than to do whatever you want. I ask for nothing. Please take me and allow me to do your will. For your will, dear Teacher, is Buddha’s Will. I’m surrendering my all to you. I am surrendering my all to Buddha. You know best what I need to do and learn in order to fulfill my dharma, my destiny. Teach me whatever I am supposed to know. You know better than I my purpose for being here. All I know is what keeps me from dissolving into the Formless. It is the cry of souls in bondage, that’s what. And my own soul cries out to rescue them. For I can not rest until all souls are at peace, have realized their Higher Self. Until then I will keep coming back. So to find you, dear ShiFu, brings joy to my heart, because it is through your grace that my human weaknesses will be overcome and our dharma fulfilled. I say our dharma, because we want the same thing and have the same mission.

Dear ShiFu, many teachers have I had before you, but I have never accepted initiation from any. Only with you have I accepted initiation. For I knew in my heart that through your wisdom, power, light and love I would mature in realization of Tao and be able to be of service in this world.

So many human frailties I have picked up however. So much pride, vanity, and selfishness. Therefore, be harsh on me, whip me if it will help, put me on severe austerity if it will help—anything to set me free to worship and serve Thee—without any ego involvement.

My ego creeps up in even the questions I ask you. I feel unworthy of your grace and yet ever grateful for it. For it will be through your grace, nothing of my own doing, that I will reach my highest potential. And that is how it should be.

Cremate my ego. Purify my soul. Whatever is needed to be one with Thee. My life is in your hands, for there is no other way.

Open to whatever you give or take away,

Your devotee,

Lian Chin

🌟

Ngày 8 tháng 4 năm 1983

Kính thưa Sư Phụ,

Con biết phải diễn tả tình yêu trong tim con thế nào đây? Khi Sư Phụ giảng về cảnh giới vô tướng, tim con đã rơi lệ trong niềm hỷ lạc. Bởi thưa Thầy kính yêu, trong đó chứa đựng niềm vui, cuộc sống và tất cả của con.

Theo thời gian trôi qua, con càng cảm thấy cuộc đời này không còn là của riêng con nữa. Không cần phải tìm kiếm gì, chỉ an trú trong cảnh giới vô tướng vượt ngoài ngôn từ. Mọi thứ khác chỉ là biểu hiện, là hiện tướng của cảnh giới đó! Nhờ ân đức của Thầy, con sẽ trưởng thành trong thực tại duy nhất ấy. Con vô cùng tri ân điều này.

Kính thưa Sư Phụ, con không còn ước muốn nào khác ngoài việc làm theo ý Thầy. Con không cầu xin gì cả. Xin Thầy nhận lấy con và cho phép con thực hiện ý chỉ của Thầy. Bởi ý chí của Thầy, thưa Thầy kính yêu, chính là ý chỉ của Phật. Con xin dâng hiến tất cả cho Thầy. Con xin dâng hiến tất cả cho Phật. Thầy biết rõ nhất điều gì con cần làm và học để hoàn thành pháp của con, định mệnh của con. Xin hãy dạy cho con những điều con cần biết. Thầy hiểu rõ hơn con về mục đích con có mặt ở đây. Tất cả những gì con biết là điều gì ngăn cản con hòa tan vào cõi vô tướng. Đó chính là tiếng khóc của những linh hồn đang bị trói buộc. Và linh hồn con cũng khóc than để cứu độ họ. Bởi con không thể an nghỉ cho đến khi tất cả các linh hồn đều được bình an, đều nhận ra được Chân Ngã của họ. Cho đến lúc đó con sẽ tiếp tục tái sinh. Vì vậy được gặp Thầy, kính thưa Sư Phụ, mang lại niềm vui cho tim con, bởi nhờ ân đức của Thầy mà những yếu kém của con người con sẽ được vượt qua và pháp của chúng ta sẽ được viên thành. Con nói pháp của chúng ta, bởi chúng ta mong muốn cùng một điều và có cùng một sứ mệnh.

Kính thưa Sư Phụ, trước khi gặp Thầy con đã từng theo học nhiều vị thầy, nhưng chưa bao giờ con chấp nhận nhận pháp từ ai cả. Chỉ với Thầy con mới chấp nhận nhận pháp. Bởi con biết trong tim rằng thông qua trí tuệ, năng lực, ánh sáng và tình thương của Thầy, con sẽ trưởng thành trong sự chứng ngộ Đạo và có thể phụng sự cho thế gian này.

Tuy nhiên con đã mang lấy quá nhiều yếu đuối của con người. Quá nhiều kiêu ngạo, phù phiếm và ích kỷ. Vì vậy, xin Thầy hãy nghiêm khắc với con, đánh đập con nếu điều đó giúp ích, bắt con khổ hạnh nghiêm ngặt nếu điều đó có ích - bất cứ điều gì để giải thoát con để con có thể tôn thờ và phụng sự Thầy - mà không có bất kì sự can thiệp nào của bản ngã.

Bản ngã của con len lỏi ngay cả trong những câu hỏi con đặt ra với Thầy. Con cảm thấy không xứng đáng với ân đức của Thầy nhưng vẫn luôn biết ơn vì điều đó. Bởi chính nhờ ân đức của Thầy, không phải do công của con, mà con sẽ đạt được tiềm năng cao nhất của mình. Và đó là cách nó phải như vậy.

Xin hãy hỏa thiêu bản ngã của con. Thanh lọc linh hồn con. Bất cứ điều gì cần thiết để được hợp nhất với Thầy. Đời con trong tay Thầy, bởi không còn con đường nào khác.

Sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì Thầy ban cho hay lấy đi.

Đệ tử của Thầy, Lian Chin.

34. Phụ lục 2: Bài thơ của Quan Thế Âm Bồ Tát gửi cho Thượng sư Liên Sinh thông qua một nữ giáo viên người Mỹ

Dear child of Buddha’s light, Through this body form I am able To write to you again Doing so brings great joy to my heart For so dear are you to me For the dharma you are spreading For the devotees you are reaching For the souls you are healing.

Dear child, Much good shall you do here in the West Yet be prepared for changes in your traditional ways of seeing things For the West has yet to learn proper protocal and humility

The western mind is determined to have things done his or her own way Much more so than the eastern mind. The western mind is just now beginning to see possibilities beyond what can be understood intellectually Most are still imbedded with skepticism and ignorance But some are tired and want to find a new way a better way a way out of despair and discontinuity.

These are the ones you will touch most. These are the souls to be healed. These are the devotees to teach. The United States is built around institutions. People will want to set up institutions around you. But in so doing they will distort and misuse the teachings For the teachings are too simple, too clear too complete to fit within the frameworks of an Institution. They don’t need to be put in institutions, but rather in mans heart. They don’t need to be talked about, only lived. They are to be experienced, not intellectualized about. And oh, how westerners love to intellectualize, rationalize, and argue. Such people will not get far with you however; for there will be nothing to attach to they will try to get a reaction from you but will not succeed they will think you simple-minded and ignorant And you love only to smile and serve them tea.

Other people will want to associate with you To be close to you For their own self-gain In order to exhalt their ego to feel important and self-righteous.

Dear one, I realize you know all this already I only want you to know that I love you and will see to it that the mass public does not make a mockery of the teachings the transmission, the power. This will be prevented by living the very simple life you are now The West puts great value on material possessions and will try to get you living like a king You are king through remaining very ordinary. Through this body form called Lian Chin I will be helping you disseminate the teachings Into proper channels. For this body/mind form knows the ways of the West Is very acquainted with the type of people who will take an interest in the teachings. I am delighted to have the opportunity to be with you in this body form And I hope to be able to work through many others also. Much will be accomplished. First my body/mind form needs to be prepared for the intensity of its mission This preparation you make possible dear One You catalyze this body form’s realization/purification. As you do so many other souls. This body form’s nerve system can only take so much right now So I must stop writing for now.

Ever Your Very Self, Guan Yin

🌟

Hỡi đứa con của ánh sáng Phật, Thông qua hình tướng này Ta có thể Một lần nữa lại viết cho con Điều này mang lại niềm vui lớn trong tim Ta Bởi con quá đỗi thân thương với Ta Vì Pháp mà con đang truyền bá Vì những đệ tử mà con đang tiếp độ Vì những linh hồn mà con đang chữa lành.

Hỡi đứa con thân thương, Con sẽ làm được nhiều điều tốt đẹp ở Tây phương Nhưng hãy chuẩn bị đón nhận những thay đổi trong cách nhìn truyền thống của con Bởi phương Tây vẫn chưa học được cách tôn kính và khiêm nhường đúng đắn Tâm thức phương Tây luôn quyết tâm làm mọi việc theo cách riêng của họ Khác xa với tâm thức phương Đông.

Tâm thức phương Tây giờ mới bắt đầu thấy được những khả năng vượt xa những gì có thể hiểu được bằng tri thức Phần lớn vẫn còn đắm chìm trong hoài nghi và vô minh Nhưng có những người đã mệt mỏi và muốn tìm một con đường mới một con đường tốt đẹp hơn một lối thoát khỏi tuyệt vọng và đứt đoạn. Đây là những người mà con sẽ chạm đến nhiều nhất. Đây là những linh hồn cần được chữa lành. Đây là những đệ tử cần được dạy dỗ.

Hoa Kỳ được xây dựng quanh các tổ chức. Người ta sẽ muốn lập ra các tổ chức quanh con. Nhưng làm như vậy họ sẽ bóp méo và lạm dụng giáo pháp Bởi giáo pháp quá đơn giản, quá rõ ràng quá trọn vẹn để có thể đặt vào khuôn khổ của một Tổ chức. Chúng không cần được đặt trong các tổ chức, mà cần được đặt trong tim người. Chúng không cần được bàn luận, mà cần được sống. Chúng cần được trải nghiệm, không phải để lý luận. Và ôi, người phương Tây thích lý luận biết bao, hợp lý hóa, và tranh cãi. Tuy nhiên những người như vậy sẽ không thể đi xa với con; bởi sẽ không có gì để bám víu họ sẽ cố gắng kích động phản ứng từ con nhưng sẽ không thành công họ sẽ nghĩ con đơn giản và ngu dốt Và con chỉ mỉm cười và mời họ trà.

Những người khác sẽ muốn kết giao với con Để được gần gũi con Vì lợi ích cá nhân của họ Để tâng bốc cái tôi của họ để cảm thấy quan trọng và tự cho mình là đúng. Người thương yêu, Ta biết con đã hiểu tất cả điều này Ta chỉ muốn con biết rằng Ta yêu thương con và sẽ đảm bảo rằng đám đông không biến giáo pháp thành trò đùa sự truyền thừa, năng lực. Điều này sẽ được ngăn chặn bằng lối sống giản dị mà con đang sống Phương Tây đề cao vật chất và sẽ cố khiến con sống như một vị vua Con là vua khi vẫn giữ được sự bình thường.

Thông qua hình tướng này mang tên Lian Chin Ta sẽ giúp con truyền bá giáo pháp Qua những kênh phù hợp. Bởi hình tướng thân/tâm này hiểu rõ cách thức phương Tây Rất quen thuộc với những kiểu người sẽ quan tâm đến giáo pháp. Ta rất vui được có cơ hội ở bên con trong hình tướng này Và Ta hy vọng có thể làm việc thông qua nhiều người khác nữa. Nhiều điều sẽ được hoàn thành. Trước tiên hình tướng thân/tâm của Ta cần được chuẩn bị cho cường độ của sứ mệnh Việc chuẩn bị này con làm được, hỡi Người thương yêu Con là chất xúc tác cho sự chứng ngộ/thanh lọc của hình tướng này. Như con đã làm cho rất nhiều linh hồn khác. Hệ thần kinh của hình tướng này chỉ có thể chịu đựng được một mức độ vào lúc này Nên Ta phải dừng viết... tạm thời.

Mãi mãi là Chân Ngã của Con, Quan Âm

(Hết.)

Mục lục