Đêm ở hồ U Linh
Văn tập số: 076 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Những trải nghiệm về Liên Hoa Đồng tử hạ sinh
Tôi ở Mỹ, đến nay đã hai lần chuyển nhà. Lần đầu tiên là từ quận Ballard chuyển đến Redmond, bây giờ lại từ Redmond chuyển đến hồ U Linh, tên tiếng Anh của hồ U Linh là Phantom Lake. [ ND: Phantom Lake, hồ ở phía đông thành phố Seattle, bang Washington, Mỹ ] Hồ U Linh này rất nhỏ, so với hồ Sammamish thì không biết là nhỏ hơn mấy trăm lần. [ ND: Hồ Sammamish ở hạt King, nằm 8 dặm về phía đông thành phố Seattle, bang Washington, Mỹ. ]
Vì sao lại gọi tên là hồ U Linh? Theo như những người thổ dân Indians ở nơi đó nói thì hồ U Linh này quanh năm có sương mù bao phủ, rất thần bí, rất kì diệu,... Khi trời mưa, hồ sẽ trở nên lớn hơn một chút. Khi khô ráo, hồ sẽ trở nên nhỏ hơn một chút. Mặt hồ có thể biến hóa, do vậy người địa phương liền gọi nó là hồ U Linh. Hồ U Linh cũng lưu truyền rất nhiều câu chuyện về ma quỷ đó!
Tôi chuyển nhà từ thành phố Redmond đến hồ U Linh. Lệ Hương, Phật Thanh, Phật Kì vẫn lưu luyến hàng xóm cũ, nên rốt cục chúng tôi đã sống tại hồ Sammamish ba năm, bây giờ mới khẽ khàng nói lên hai tiếng "tạm biệt". Tôi không thể không rời khỏi thành phố Redmond. Bởi vì Chân Phật Mật Uyển sớm tối ngày càng có nhiều khách không mời mà tới, không có cách nào ứng phó. Tôi không thể không rời khỏi thành phố Redmond. Bởi vì điện thoại vào ban đêm ở Chân Phật Mật Uyển đã trở nên phiền nhiễu đến mức không thể ngủ yên. Chuyển đến hồ U Linh cũng là vì muốn tìm một chút yên tĩnh để thiền định mỗi ngày.
Hàng ngày, sáng sớm tôi lái xe xuất phát từ hồ U Linh trở về Chân Phật Mật Uyển ở thành phố Redmond để viết sách, trả lời thư, tu pháp. Hàng ngày, chập tối, tôi lái xe từ Chân Phật Mật Uyển trở về hồ U Linh. Tôi đã trở thành "dân công sở". Trong thời gian lái xe này, tôi đã nghĩ vì sao không viết một cuốn sách tên gọi là "Đêm ở hồ U Linh" nhỉ!
Trong ánh hoàng hôn lảng bảng, xe chạy qua những con đường núi nhỏ tịch mịch, tôi trở về chỗ ở của tôi bên cạnh hồ U Linh. Nơi tôi ở dường như vắng lặng chẳng có người. Phóng tầm mắt ra bốn phía giống như: Tà dương soi núi vắng Độc hòa thượng lái xe Mấy tầng sương giăng lối Chẳng thấy người nơi nào.
"Đêm ở hồ U Linh" trở nên cô độc và bình yên như vậy, tất cả duyên phận đều chỉ là khói tụ bụi tan mà thôi, tôi lại càng trở nên vô tâm và tự tại.
"Đêm ở hồ U Linh", sương trôi bồng bềnh, hơi lạnh ở khu rừng núi phía sau nhà, hơi lạnh ở con đường dẫn ra hồ quện lẫn vào nhau, trải dài ra mênh mông, cũng giống như những suy tư của tôi trải dài miên man.
"Đêm ở hồ U Linh", tôi nghĩ, tôi dần dần rời khỏi hồ Sammamish, bước chân đầu tiên tôi bước đi là tôi đã bắt đầu ở giữa khói hoang cỏ dại rồi. Giữ lấy ngày tháng. Giữ lấy kí ức.
"Đêm ở hồ U Linh", tôi muốn mở ra ổ khóa trong tim mình, viết ra những câu chuyện về kiếp trước của mình. Trong khoảng thời gian xa xăm, lớp này đến lớp khác, những đợt sóng kí ức liên tiếp vang vọng, tôi đã phóng tầm mắt nhìn ra cõi xa xăm ở tận Thiên thượng giới, về định mệnh sâu thẳm, tôi có thể tiết lộ toàn bộ không sót lại một chút gì.
Ở hồ U Linh, tôi đã thấm đẫm toàn thân mình sự trong sáng, thanh tịnh và tươi mới của núi non sông nước. Cái hồ nhỏ này giống như một tấm gương tròn bay từ trên cõi trời cao cao xuống đây, trải ra trước cửa nhà tôi, hắt lên ánh sáng rực rỡ thanh khiết như ngọc, lành lạnh thăm thẳm.
Những đêm ở hồ U Linh là khoảng thời gian hé lộ ra chân tướng về định mệnh của tôi. Những cuộc đời định mệnh của tôi cứ lững lờ chảy thành dòng, lấp lánh tươi đẹp như mặt hồ. Tôi muốn ghi chép lại từng kiếp, từng kiếp sống của tôi...
Tôi nghĩ đến, sẽ có một ngày, tôi cần viết ra tiền kiếp của một vị tì kheo giữa trời đất yên tịch, để cho người đời hiểu cuộc đời là sự kéo dài liên kiếp của nhân quả, giống như sương khói mây nước dài tít tắp đều có nguyên nhân của nó. Cho dù là một làn khói bếp, một đốm lửa nhỏ cũng tự có nhân duyên đó!
Cuốn văn tập số 76 là những mảnh kí ức sinh ra từ trong sự thiền định của tôi, là những không gian cách đây nhiều kiếp, là tâm linh kì ảo, là công phu trùng trùng công phu. Là những bước chân kiếp trước.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Chân Phật Hải Hội - A Di Đà Phật ủy thác
Khi Thích Ca Mâu Ni Phật dặn dò Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài nói như sau: Hiện tại vị lai thiên nhân chúng Nay ta ân cần dặn dò con Nhờ đại thần thông thuận lợi độ Ác thú đừng để họ rơi vào.
Còn ở Chân Phật Hải Hội, A Di Đà Phật cũng căn dặn Liên Hoa Đồng Tử như vậy. Khi ấy, Liên Hoa Đồng Tử tại Tây phương Cực lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, đang ngồi xếp bằng trên một tòa hoa sen trắng lớn, xung quanh là 17 đóa hoa sen, hoa xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa vàng tỏa ánh sáng vàng, hoa đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa tím tỏa ánh sáng tím, mỗi đóa hoa sen đều tỏa ra mùi thơm tinh khiết vi diệu.
Bạch Liên Hoa Đồng Tử âm thầm vận thần thông, khiến Ma Ha Song Liên Trì biến hóa thành ánh sáng vàng kim chói lọi khác thường, tất cả hoa thơm đều nở rộ, cỏ cát tường cũng tỏa hương thơm. Còn các loài chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng cũng đều hóa thành màu vàng kim, cất lên thiên âm hòa nhã, tươi sáng mà đẹp đẽ.
Không chỉ mặt đất hiện lên màu vàng kim, không trung cũng tỏa ra ánh sáng vàng kim, có thiên âm thanh tịnh tuyệt vời đến từ hư không, các thế giới đều tỏa hương thơm ngát, các lầu các bằng vàng trong không trung đều tỏa ánh sáng lộng lẫy, khắp nơi là hoa sen vàng, hoa trời bay bay trong không trung.
Lúc này, khắp Ma Ha Song Liên Trì chấn động, vô lượng chư Thiên đều cảm nhận được, Bồ Tát và Thanh Văn cũng cảm nhận được. Bồ Tát Thanh Văn đều đến Ma Ha Song Liên Trì, 33 Thiên Chủ đều vội vã đến Ma Ha Song Liên Trì, bao gồm Tứ Thiên Vương (Trì Quốc Thiên, Tăng Trưởng Thiên, Quảng Mục Thiên, Đa Văn Thiên), gồm 18 cõi trời Sắc giới, Tứ không thiên của vô số sắc giới, còn có cả Hộ pháp, Thiên long bát bộ, vô lượng vô số Trời Người, đều tụ hội đến Ma Ha Song Liên Trì.
Lúc này, Ma Ha Song Liên Trì lập tức sinh ra một đóa hoa sen lớn mười do tuần, từ trong hoa sen hiện ra A Di Đà Phật, mắt Phật trong veo ánh lên màu đỏ tía, diệu tướng trang nghiêm. Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, hai thị giả của Phật đứng hai bên.
A Di Đà Phật, ở khoảng giữa hai lông mày, có những sợi ánh sáng trắng xoay vòng theo chiều bên phải uyển chuyển, như năm ngọn núi Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển lớn, thanh bạch thấu suốt. Lỗ chân lông trên toàn thân đều hiện lên ánh sáng, từng lỗ chân lông đều hiện hóa ra Phật. Mỗi một vị Phật hóa hiện ra lại có rất nhiều Bồ Tát làm thị giả.
A Di Đà Phật toàn thân màu vàng kim, kết ấn thiền định diệu quan sát trí, thân khoác áo cà sa màu đỏ, ngồi xếp bằng trên bảo tọa hoa sen lớn. Chúng trời người thấy vậy, hoan hỉ tán thán.
A Di Đà Phật nói: "Ma Ha Song Liên Trì tỏa kim quang rực rỡ, quả là vi diệu, là vì có nhân duyên!" Lúc này, thủ tọa của Ma Ha Song Liên Trì là Bạch Liên Hoa Đồng Tử hai tay chắp lại, đảnh lễ Tây phương Cực lạc Thế giới A Di Đà Phật, cung kính thỉnh thị: "Là vì nhân duyên gì?" A Di Đà Phật đáp: "Nhân duyên Chân Phật." "Cái gì gọi là nhân duyên Chân Phật?" "Xả bỏ thân Phật, giữ lại nhân Phật."
Lập tức, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử đã hiểu ra, biết rằng thời điểm phải thừa nguyện hạ sinh đã đến, cố kìm nén hai hàng nước mắt buồn thương. "Hà tất phải rơi lệ, rơi lệ là tính cách của chúng sinh." A Di Đà Phật nói: "Nay Thích Ca đã niết bàn, Long Hoa Tam Hội chưa đến, thế gian kiếp vận liên miên, Phật pháp không hưng thịnh, việc con phóng ra đại kim quang, đại vi diệu, vẫn là nguyện lực của bản tính giác ngộ thấu triệt, hãy lấy tính cách của chúng sinh làm bản tính, mọi tính thành một, mới chứng được bồ đề." "Cung thỉnh Di Đà khai thị chân ngôn." "Sông núi có thể chọn chỗ Chuyển dời vết tích còn lưu. Không cầu danh lợi sở hữu. Pháp Không tự mình dựa vào." "Con làm sao để độ chúng sinh?" "Xua tan trừ hắc nghiệp. Hướng dẫn theo Phật pháp. Chúng sinh quy chân tính. Phân biệt đắc thọ kí." "Cảm tạ A Di Đà Phật dặn dò chỉ bảo. Con xin lĩnh lời truyền thụ."
A Di Đà Phật từ thiên tâm phóng quang, tuôn ra muôn đóa hoa sen, rực rỡ xán lạn, vô lượng vô tận và nói: "Tương lai, Di Lặc Bồ Tát sẽ đích thân ban mũ đỏ, đội lên đầu con, thân tướng trang nghiêm của con không khác một vị Phật. Hơn nữa, Di Lặc Bồ Tát còn dặn dò, trong thế giới tương lai, những người còn lại sau khi Văn Thù Bồ Tát độ chúng sinh, những người còn lại sau khi Quan Thế Âm Bồ Tát độ chúng sinh, sẽ do Liên Hoa Đồng Tử ứng hóa mà độ cho họ. Những chúng sinh do con độ hóa sẽ nhiều vô lượng vô tận như muôn đóa hoa sen tuôn ra từ thiên tâm của ta." "Có thể cầu thọ kí ở đâu?" "Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ đích thân ban thọ kí." "Có thể cầu pháp ở đâu?" "Liên Hoa Sinh Đại Sĩ sẽ đích thân truyền Mật pháp." "Lấy gì làm tông phái?" "Lấy Chân Phật làm tông phái." "Cái gì gọi là Chân Phật?" "Pháp thân không hình tướng là Chân Phật, tướng tốt quang minh, đầy đủ như một vị Phật chân chính. Chân Phật vô hình, chân pháp vô tướng, con là hóa thân Phật, nên gọi là Chân Phật."
"Tự xưng như thế nào?" "Tự xưng là Bí Mật Chủ, vì lai lịch bí mật, thế nhân khó biết được, thâm ý ở đây chính là sự gắn bó chặt chẽ thân ngữ ý của Như Lai, chỉ giữa Phật và Phật mới biết. Con có bí mật thần thông của bậc Bí Mật Chủ, thế gian không có ai có thể sánh bằng, là bí mật trong bí mật. Cũng có thể tự xưng là Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư, bởi vì con đã có được chiếc rương bí mật, có bảo quán của vị Acarya vĩ đại đã sử dụng. Cũng có thể tự xưng là Hoạt Phật, bởi vì là Chân Phật, bảo tính lưu truyền chân như, do vậy là một vị Phật sống." "Khi ở thế gian, trước tiên cần luyện tập cái gì?"
Lúc này, Quan Thế Âm Bồ Tát, tay phải cầm hoa sen chưa nở, toàn thân hiện sắc vàng kim, vô cùng rạng rỡ, đầu đội bảo quán, chuỗi ngọc tôn lên vẻ trang nghiêm, thân mặc thiên y màu trắng gắn trăm bông hoa sen quý trang nghiêm. Ngài khoan thai tiến lên phía trước, nói với Liên Hoa Đồng Tử rằng: "Trước tiên hãy luyện tập lòng từ bi, nguyện khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc gọi là làm việc nhân từ, nguyện loại bỏ đau khổ của tất cả chúng sinh gọi là làm việc bi mẫn. Từ bi trước có mười hai cái lợi, đó là phúc thường theo thân, nằm yên, ngủ yên, không gặp ác mộng, có Trời che chở, được người yêu kính, không bị hạ độc, không vướng vào binh đao, không chết vì nước, không chết vì lửa, sống hưởng lợi lộc, chết làm Phạm Thiên."
Tiếp đó, Đại Thế Chí Bồ Tát nhấc thân quang minh tỏa ra ánh sáng vàng tím, trên đỉnh đầu kết búi tóc, trên búi tóc có một chiếc bảo bình, tay trái cầm hoa sen đã nở, đầu đội thiên quán, cũng khoan thai tiến lên trước nói với Liên Hoa Đồng Tử rằng: "Tiếp đó hãy luyện tập trí huệ, ánh sáng trí huệ có thể chiếu tới tất cả chúng sinh, vĩnh viễn rời xa cái khổ của tam đồ bát nạn. Trí là hiểu được tất cả thực tướng, huệ là lý giải được hết tất cả lí lẽ, trí huệ có thể phá bỏ sự ngu si của chúng sinh, như ánh mặt trời phá tan đêm tối. Trí huệ có thể đoạn trừ phiền não và diệt trừ tận gốc sinh tử, cũng như gươm sắc có thể chặt đứt mọi vật. Con cần dùng trí huệ để chiếu soi và quan sát mọi sự tình lí lẽ, phá bỏ mọi mê hoặc. Cần dùng trí huệ quảng đại, bao hàm tất cả mọi pháp, đắc vô thượng trí."
Bạch Liên Hoa Đồng Tử hai tay chắp lại, đảnh lễ hai vị Đại Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát có mật hiệu là Chính Pháp Kim Cang hoặc Thanh Tịnh Kim Cang. Đại Thế Chí Bồ Tát có mật hiệu là Trì Luân Kim Cang.
Lúc này, Bạch Liên Hoa Đồng Tử nhấc một chân lên, nhẹ nhàng thả hoa sen xuống, không chỉ tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động mà ngay cả Ma giới thiên cung cũng đều chấn động không ngừng. Các Ma Vương đều vô cùng sửng sốt.
A Di Đà Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở nhân gian, có nhân duyên qua lại với ma, ngay cả ma cũng có thể độ hóa được." Lúc này, 18 đại Liên Hoa Đồng Tử hát lên bài kệ rằng: Mười tám đại liên hoa Nơi hồ sen rộng lớn. Phật nhãn nở hoa quý Cõi trời cần phải xa. Nay ta nhận pháp thư Đem pháp môn phổ khắp. Tâm ấn ba nghìn cõi Lần lượt thọ kí ta. Một, hướng về Cực Lạc Hai, về Song Liên Trì. Đạo Hiển Mật thượng sách Cuối cùng quy Chân Như. Vốn sinh Không thành Có. Lại từ Có thành Không. Đây là vè Chân Phật. Quan trọng là nhất tâm.
18 Đại Liên Hoa Đồng Tử hát xong bài kệ. Bạch Liên Hoa Đồng Tử từ giữa hai chân mày phóng ra những tia sáng trắng chiếu đến một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông, không bỏ sót chỗ nào, trên lên tới A Già Ni Thiên, Tứ Không Thiên, dưới tới tận A Tì Địa Ngục, trong toàn bộ thập phương thế giới đều thấy hết được ánh sáng.
Trong chốc lát, 33 Thiên Chủ, Tứ Vương Thiên, Trời - Người, Thiên long bát bộ Hộ pháp, đều vô cùng thán phục, thề rằng sẽ hộ trì Liên Hoa Đồng Tử, hạ sinh ở nhân gian, chúng tôi sẽ theo Liên Hoa Đồng Tử sẽ xuống Trung Thổ trước, hy vọng rằng Liên Hoa Đồng Tử giữ được nhiều thiên tính, để tránh bị đọa lâu ở chốn phàm trần.
A Di Đà Phật nói: "Liên Hoa Đồng Tử lần này hạ sinh ở nhân gian sẽ hóa làm người dân bình thường, mọi đường đều bình an hanh thông thuận lợi, hễ được sinh ra đều thành tựu Phật quả. Trời người thề nguyện hộ trì, sẽ đến được chốn cực thiện." Trời, Người, Bát bộ Hộ pháp thấy lời khen ngợi của A Di Đà Phật đều hoan hỉ chắp tay, cung kính làm lễ. Tất cả đều niệm chú, làm lễ rồi rời đi. "Lipo lipo te, kio kio te, tola nite, nia late, pili nite, muahua chate, chenlin chante soha."
02. Bay đến cung Đại Nhật
Sau khi Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì lĩnh thụ lời dặn dò của A Di Đà Phật, ngồi tĩnh tọa tại hồ sen, trong tâm âm thầm vận đại bí mật samaya, đây là diệu pháp vô thượng. Chính trong sát-na này, linh thần của Ngài như thể như tướng, hòa hợp tập trung tương ứng, bay đến cung Đại Nhật.
Cung Pháp Giới Đại Nhật này vốn là nơi ở của Tì Lô Giá Na Phật. Cung Pháp Giới Đại Nhật này là đại quang minh biện chiếu, đại nhật biện chiếu, chiếu đến khắp tất cả mọi nơi. Cung Đại Nhật có lửa mặt trời, tất cả thiên ma tà quỷ không thể đến gần, bởi vì một khi tiến lại gần thì lập tức bị thiêu thành tro, cháy xèo xèo, cháy thành tro bụi, không còn chừa lại dù một tí tẹo.
Muốn bay đến Cung Đại Nhật, chỉ có vị Phật vô hình vô thể, tương ứng đại samaya bí mật, có pháp thể hoàn toàn không còn một chút trở ngại nào mới có thể vào được.
Trong Cung Pháp Giới Đại Nhật, Tì Lô Giá Na Phật hiện ra diêm phù đàn có màu vàng kim pha sắc tím, đầu đội bảo quán, toàn thân tỏa ra đủ loại ánh sáng sắc màu, thân mặc áo lụa trắng, tay kết ấn Trí quyền, ngồi trên hoa sen tám cánh, phía sau đầu có một vòng ánh sáng ngũ sắc đan xen, toàn thân chỉ là các lớp ánh sáng như vô số các lớp lụa xếp lên nhau, bản chất trang nghiêm, trang sức bên ngoài là sự không hư giả.
Đại Nhật Như Lai chính là giáo chủ của Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cang Đỉnh của Mật giáo, là chủ tôn của hai bộ Mandala Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới. Liên Hoa Đồng Tử đích thân đến Cung Pháp Giới Đại Nhật đảnh lễ Đại Nhật Như Lai.
"Liên Hoa Đồng Tử sẽ hạ sinh ở thế giới Ta Bà phải không?" "Đúng vậy, vì sao Như Lai biết?" "Chẳng có đến, cũng chẳng có đi, không có đến đi, do vậy mà ở khắp mọi nơi." - Đại Nhật Như Lai nói. "Con biết nguồn gốc Liên Hoa Đồng Tử chứ?" - Đại Nhật Như Lai hỏi. "Chỉ biết một, hai điều mà thôi." "Để ta nói cho con biết. Vào vô lượng kiếp trước, pháp thể không có một chút trở ngại nào, vì mọi đức hạnh đã viên mãn, thường trụ bất biến, duy có ánh sáng chiếu tới pháp giới, ánh sáng này vốn xuất phát từ đôi mắt, cho nên gọi là Đại từ phổ nhãn, do Đại từ phổ nhãn hóa hiện thành, hết thảy Phật nhãn đại kim cang cát tường, hết thảy Phật mẫu tâm tôn, đó chính là ánh sáng của Đại Nhật Như Lai, hóa thân thành Phật Nhãn Phật Mẫu. Phật Nhãn Phật Mẫu bố trí Phật nhãn tại Tây phương Cực lạc Thế giới. Có hai con mắt Phật nhãn, tạo thành hai hồ sen trang nghiêm, trong hồ đều có những vòng tròn ánh sáng, hỉ lạc vô tận, chính là Ma Ha Song Liên Trì. Tam muội của Ma Ha Song Liên Trì chính là lấy Đại từ phổ nhãn làm vật thể, quan sát các chúng sinh tương ứng, dẫn đường, ánh sáng tỏa ra từ từ nhãn chiếu đến khắp nơi."
"Thế còn Liên Hoa Đồng Tử?" Đại Nhật Như Lai nói: "Ở đây chính là Đại Nhật Như Lai từ ánh sáng đôi mắt hóa thành Phật Nhãn Phật Mẫu, đôi mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu hóa thành Ma Ha Song Liên Trì, còn 18 đại Liên Hoa Đồng Tử là hóa sinh của những vòng tròn ánh sáng thanh tịnh trong hồ sen." "Như con hôm nay tới được Cung Đại Nhật là sao?" "Đây là Như Lai tùy theo loại hình xuất sinh tam muội, do vậy mới đến được Cung Đại Nhật." "Vì sao phải hạ sinh cõi Ta Bà?" - Tôi rất lo sợ. "Ánh sáng của Đại Nhật Như Lai bình đẳng chiếu khắp pháp giới, hạ sinh ở Ta Bà có thể khởi phát tất cả thiện tâm của vô số chúng sinh, nhờ nhân duyên này mà tất cả mọi thứ của thế gian và xuất thế gian đều đạt thành tựu."
"Con làm thế nào để trở về Ma Ha Song Liên Trì đây?" "Liên Hoa Đồng Tử đối nội cần đạt Chân Như, đối ngoại cần soi thấy và phá bỏ tà pháp, thân thể và tâm linh dung hợp, tập hợp tất cả tâm tính của chúng sinh và chư Phật Như Lai, có thể bảo tồn pháp nhĩ bản lai, như vậy có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì." "Ngày xưa Như Lai có hạ sinh không?" "Mặc dù Như Lai ngồi trên tòa sen, hiện tướng tịch tĩnh, nhưng báo thân của ta là Phật Lô Giá Na, ứng thân của ta là Phật Thích Ca Mâu Ni, ta cũng từng hạ sinh tại Đại Tự Tại Thiên Cung thuyết pháp. Hôm nay, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh cõi Ta Bà cũng chính là tam muội xuất sinh của Đại Nhật Như Lai đó!" "A! Con hiểu rồi." - Liên Hoa Đồng Tử nói.
Lúc này, Cung Pháp Giới Đại Nhật sinh ra vô cùng tận thiên âm, hát lên bài kệ rằng: Liên Hoa Đồng Tử lễ Tam Bảo Giáng sinh đại giáo chủ du-già Diễn hóa bí mật tịnh tam nghiệp Để độ chúng sinh chúng hữu tình. Lệnh cần dung hợp chúng sinh tính. Đều theo Như Lai bí mật thừa. Tu hành từ đó đạo Hiển Mật. Toàn diện tam giáo đắc chân đế. Chân Phật đã định rõ thứ tự. Cúi đầu tôn giả cần khắc ghi.
Thiên âm đẹp đẽ truyền đến hư không, vô thượng tôn quý. Liên Hoa Đồng Tử quỳ trước Đại Nhật Như Lai, hai tay chắp lại, đôi mắt tuôn rơi hai dòng lệ buồn đau, lại hỏi Như Lai: "Thỉnh Như Lai khai thị pháp ngữ!" Đại Nhật Như Lai nói: "Tất cả bí mật chân thực của Như Lai cần hiểu thật rõ ràng. Tất cả tâm chân thực của Như Lai cần trở thành tâm bí mật của chính mình. Tất cả pháp yếu bí mật của việc độ chúng sinh cần phải thông hiểu toàn bộ. Tất cả bí mật tạo ra bởi Kim Cang Hộ Pháp cần phải biết biến hóa. Tại thế gian và xuất thế gian cần phải thông hiểu đạo lí. Cần phải tiến nhập vào tam ma địa Bất Không Đại An Lạc. Cần phải tiến nhập vào tam ma địa của Nguyên Thủy Bà Tiên Như Lai. Cần tiến nhập vào tam ma địa Tối Thắng Huệ. Cần tiến nhập vào tất cả tam ma địa của Phật Hải Hội. Cần tiến nhập vào tam ma địa Samaya. Cần tiến nhập và lập tức đắc được chứng lượng tam ma địa. Cần tiến nhập vào tam ma địa Samaya Tối Thắng Huệ. Cần tiến nhập vào tam ma địa Hải Hội Bí Mật. Cần tiến nhập vào tam ma địa Bình Đẳng Vô Nhị. Cần tiến nhập vào tam ma địa Hư Không Hoàn Toàn Viên Mãn. Cần tiến nhập vào tam ma địa Kim Cương Bảo Quán Thường Tịch Vô Lượng."
"Vô lượng pháp bí mật, xin chỉ dạy khẩu quyết." Đại Nhật Như Lai nói bài kệ: Ngũ trí tứ nhãn tam muội. Như Lai kim cương bí mật. Thế gian xuất thế tấn thành. An lạc bất không vô phiền. Đại bi không trí tương ứng. Chính là đại thừa hiện chứng. Hết thảy bí mật hiện tiền. Kim cương bảo quán chính giác.
Liên Hoa Đồng Tử nghe xong bài kệ này, trong lòng vô cùng hoan hỉ, lập tức đạt được ba loại thành tựu: Thành tựu thứ nhất: cưỡi trên hư không bay khắp mười phương không gặp chướng ngại. Nhập vào tất cả tam ma địa. Thành tựu thứ hai: tàng hình ẩn tích trong một hạt cát một hạt bụi. Đắc được tất cả trí huệ thần thông của diệu pháp. Thành tựu thứ ba: hàng phục mọi ma quỷ, biến hóa vô cùng. Yêu ghét bình đẳng không khác biệt.
Đại Nhật Như Lai thấy Liên Hoa Đồng Tử đã lập tức đốn ngộ, liền ca ngợi rằng: "Liên Hoa Đồng Tử tại cõi Ta Bà, chắc chắn sẽ đạt được địa vị của một bậc trí huệ kim cương, đắc được hết thảy mọi trí huệ, cũng chính là một bậc Thánh Giả Tự Giác Như Lai, có thể hàng ma phục tà, sẽ tập hợp chúng sinh, chỉ dạy chúng sinh, tu hành giáo pháp, người người tự tính thành tựu. Hành giả Chân Phật tương lai nếu có thể giữ vững bồ đề tâm, có chí hướng và nguyện vọng đại bi, tu hành như pháp, nhất định thành tựu siddhi."
Đúng vào lúc này, trong tâm của Đại Nhật Như Lai xoáy ra một vầng ánh sáng lớn màu xanh lam xoay tròn, vầng ánh sáng này tuôn dào dạt như sóng, khí thế khiến người ta kinh ngạc, ánh sáng chói chang xán lạn, quan sát tỉ mỉ thì thấy dường như có hình dáng, dường như không có hình dáng, thoắt hướng lên trên, thoắt hướng xuống dưới, ánh sáng ấy không thể đo lường, rất sâu không thể đo được, lúc to lúc nhỏ, lúc đậm lúc nhạt, trong ánh sáng màu xanh lam có một chú tự, chính là chữ:
(Kim Cương Giới) Rồi lại biến hóa thành chữ:
(Thai Tạng Giới) Ánh sáng này bay tới và đi vào trong tâm của Liên Hoa Đồng Tử, ẩn tích và biến mất.
Đại Nhật Như Lai nói: "Ánh sáng này chính là khí từ tâm của thập phương tam thế nhất thiết Phật tập hợp lại mà thành, toàn bộ là đạo tâm Phật của thập phương tam thế sinh ra, công chính và vô vi. Đây là tâm ấn, nhờ vào tâm ấn tâm, chính là sự từ bi và oai phong trang trọng của truyền thừa, long trọng khác thường, đây là truyền thừa của thập phương tam thế nhất thiết Phật." "Con không dám tin nữa? Đây là truyền thừa của thập phương tam thế nhất thiết Phật." "Con không tin ư?", Đại Nhật Như Lai vận chuyển trí huệ nguyên sơ, toàn bộ Cung Pháp Giới Đại Nhật tỏa ra vạn ánh hào quang hắt lên cao ngút trời, lỗ chân lông của Đại Nhật Như Lai tỏa ra ánh hào quang, trong từng ánh hào quang đều có một vị Như Lai đang ngồi nghiêm trang.
Tôi chăm chú quan sát dáng vẻ và ấn tướng của chư Phật, có Thích Ca Mâu Ni Phật, có Lô Giá Na Phật, có A Di Đà Phật, có Dược Sư Phật, có A Súc Phật, có Bảo Sinh Phật, có Bất Không Thành Tựu Phật, có Đa Bảo Phật, có Định Quang Phật, có Tự Tại Vương Phật, có Bảo Nguyệt Phật, có Vô Cấu Phật, có Thanh Tịnh Phật, có Thủy Vương Phật, có Chiên Đàn Công Đức Phật, có Du Hí Thần Thông Phật, có Tự Tại Tràng Vương Phật, có Tịnh Quang Bí Mật Phật, có Pháp Tạng Phật, có Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật... Vô lượng vô tận các vị Phật, đều ở trong ánh sáng, ngồi trang nghiêm.
Khi ấy, thập phương tam thế nhất thiết Phật tại Cung Pháp Giới Đại Nhật đồng thanh nói: "Truyền thừa tâm ấn bí mật của thập phương tam thế nhất thiết Phật ủy thác cho Liên Hoa Đồng Tử." Tôi thẹn thùng, lo sợ, đảnh lễ nhiều lần.
Dạng thần thông hấp thụ trí huệ nguyên sơ này so với thiên nhạc cùng ngân vang, so với hoa trời bay múa thì càng trang nghiêm và chấn động hơn. Thập phương tam thế nhất thiết Phật cũng ban cho Liên Hoa Đồng Tử bài kệ: Thập phương như bàn tay. Tam thế khắp chốn thiền. Tâm ấn tam thiên giới. Tổng trì ẩn tại tâm.
03. Thủ hộ Minh Vương biến huyễn
Khi Liên Hoa Đồng tử sắp rời khỏi Cung Pháp Giới Đại Nhật, Đại Nhật Như Lai bí mật cử Bất Động Minh Vương làm vị Minh Vương bảo vệ cho Liên Hoa Đồng Tử, bất kì lúc nào cũng đều bảo vệ Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh tại nhân gian.
Liên Hoa Đồng Tử biết Ngũ Phật hóa thân thành Ngũ Đại Kim Cang Minh Vương: Đại Nhật Như Lai --- Trung Ương Đại Thánh Bất Động Minh Vương. Đông Phương A Súc Phật --- Hàng Tam Thế Minh Vương. Nam Phương Bảo Sinh Phật --- Quân Đồ Lợi Dạ Xoa Minh Vương. Tây Phương A Di Đà Phật --- Đại Uy Đức Minh Vương. Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật --- Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương.
Đây là Ngũ Phương Phật vì sắc lệnh chúng sinh, phá ma phục tà, hộ trì Tam Bảo, Ngũ Phương Phật đã biến hiện thân phẫn nộ. Còn Bất Động Minh Vương chính là thân phẫn nộ do Đại Nhật Như Lai biến hóa ra để hàng phục tất cả ác quỷ, chiếm vị trí chủ tôn trong Ngũ Đại Minh Vương. Lời thề nguyện của Ngài chính là: Người trông thấy ta mà phát bồ đề tâm. Người nghe tên ta mà bỏ ác tu thiện. Người nghe ta nói mà đắc đại trí huệ. Người biết tâm ta sẽ tức thân thành Phật.
Lúc này, Bất Động Minh Vương xuất hiện sau lưng Liên Hoa Đồng Tử, toàn thân màu xanh đen, một mắt nhắm, một mắt mở, nghiến răng, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm dây thừng, sau lưng hiện lên ngọn lửa lớn cháy hừng hực, tư thế Ngài dũng mãnh khiến yêu ma khiếp sợ, thân tướng phẫn nộ viên mãn, ngọn lửa cháy lớn là biểu hiện bề ngoài của Ngài.
Liên Hoa Đồng Tử chắp tay lễ Bất Động Tôn giả: "Cảm tạ Tôn giả hộ pháp." "Đây là sắc lệnh, đâu cần cảm tạ!" - Khi cất lời nói, miệng Ngài phun ra lửa, khí thế khiến người kinh sợ. "Xin hỏi bí mật kim cương của Bất Động Minh Vương Tôn giả." - Liên Hoa Đồng Tử hỏi. "Rồng là biểu tượng của ta, niệm chân ngôn của ta chính là làm sống dậy rồng lửa, rồng lửa chính là Câu Lợi Gia La Long Vương. Chân ngôn của ta chính là quy mệnh, Tôn giả kim cương tướng phẫn nộ, quét sạch ma chướng ác quỷ tàn bạo, là Tôn giả đại phẫn nộ! Phá vỡ mọi sự khủng bố. Quy mệnh phẫn nộ Tôn giả Bất Động Minh Vương." "Còn ngọn lửa phía sau lưng?" "Ngọn lửa này là lửa Thích Ca La, đốt cháy tất cả phiền não."
"Là nhân duyên gì mà Đại Nhật Như Lai bí mật phái Ngài đi bảo vệ Liên Hoa Đồng Tử?" "Bất Động Minh Vương thường trụ kim cang, nhận sắc lệnh của Phật, y lệnh mà làm, chính là nhân duyên đó. Đặc biệt là trong tương lai, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh nhân gian, hoằng dương Phật pháp. Chủ của tam thiên thế giới, Ma Ê Thủ La chắc chắn sẽ đến gây trở ngại, cử thiên ma hạ giáng, lệnh cho một số chúng sinh ngang ngược đến để nhục mạ phỉ báng, hóa thành tất cả những vật ô uế bao vây lấy Liên Hoa Đồng Tử, bức hại truy sát không gì bì kịp, khi ấy thì chỉ có Bất Động Minh Vương ẩn tích bảo vệ." "Minh Vương canh giữ có thể có khiến thay đổi không?" "Có, cũng là tùy theo duyên phận mà biến huyễn. Ví dụ, con sẽ sinh vào năm con Gà (Ất Dậu), Bất Động Minh Vương ta sẽ là Bổn tôn hộ mệnh cho con. Con sinh vào tháng 5, Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ là phúc tôn bảo vệ cho con. Và sinh vào ngày 18, Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ là phúc tôn bảo vệ cho con." "Ồ! Con hiểu rồi."
Tôi đã hiểu, thì ra ngày tháng năm mà tôi sinh ra không ngờ đã ngầm có Tôn giả bí mật bảo vệ, hơn nữa trong đó còn có những quỹ đạo vận mệnh ẩn giấu: Bất Động Tôn giả Bổn tôn bảo hộ --- thời kì Phẫn nộ kim cang. Đại Thế Chí Bồ Tát bảo hộ --- thời kì Trí huệ hoằng pháp. Quan Thế Âm Bồ Tát bảo hộ --- thời kì Từ bi tịch tĩnh. "Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh nhân gian, khi hết duyên ở cõi Ta Bà thì ai lại đến nhân gian để độ chúng sinh?" "Chính là Bất Động Tôn giả chuyển hóa. Đây là một bí mật trong bí mật, trong tương lai, con sẽ biết."
Liên Hoa Đồng Tử nghĩ đến bài kệ của Bất Động Minh Vương, trong đó có đoạn: Thập phương Phật thế giới. Tập hợp thành đại hỏa. Uy nộ thắng công đức. Dũng mãnh luôn vượt trội. Vô biên chư Như Lai. Thân Bổn tôn phụng sự. Lại có sáu mươi vạn. Hằng hà câu chi Phật. Được Bổn tôn giáo thị. Thành vô thượng bồ đề. Vô lượng chúng thiên long. Luôn cúng dường thừa sự. Hành giả giỏi ghi nhớ. Công đức của Bổn tôn. Muôn kẻ gây cản trở. Đều sẽ bị phá trừ. Nơi hành giả sinh sống. Ma quỷ phải cách xa. Bổn tôn tái hiện thân. Như bậc Bạc Già Phạm. [Bạc Già Phạm là một trong mười hiệu của Đức Phật, một trong hiệu chung của chư Phật.] Chân ngôn: "Nam-mô san-man-tô mô-thô-nam wa-zư-la lan hàn".
Liên Hoa Đồng Tử biết thế giới Ta Bà trong tương lai sẽ có sứ giả thánh kiếm của Đại Nhật Như Lai là Bất Động Minh Vương Tôn giả phóng quang hạ sinh, đây là nhân duyên từ xa xưa, theo Liên Hoa Đồng Tử mà tới, đây là nhân duyên của cõi trời, cũng là nhân duyên của nhân gian.
04. Mười tám Đại Liên Hoa Đồng Tử
Liên Hoa Đồng Tử từ Cung Pháp Giới Đại Nhật trở về Ma Ha Song Liên Trì. Ngồi trên tòa sen trắng nghìn cánh, yên lặng suy tư, nghĩ tưởng về sự hình thành của Ma Ha Song Liên Trì, nghĩ tưởng về sự hóa sinh của 18 đại Liên Hoa Đồng Tử.
Lúc này, tâm trí đột nhiên khai mở, Ngài xoay vòng theo chiều bên phải và phóng quang. Từ phía bên trái tâm của Liên Hoa Đồng Tử có 8 vị đồng tử bước tới (hiện thân nam), từ phía bên phải tâm của Liên Hoa Đồng Tử có 9 vị đồng tử bước tới (hiện thân nữ), hợp lại tổng cộng có 18 vị Liên Hoa Đồng Tử.
18 đóa hoa sen lớn này chính là: Trắng Đỏ Cam Vàng Lục Lam Tím Kim Đen. (Hiện thân nam, màu sắc đậm) Trắng Đỏ Cam Vàng Lục Lam Tím Kim Đen. (Hiện thân nữ, màu sắc nhạt) Thì ra, 18 đóa hoa sen lớn này đều từ trong tâm của Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hóa sinh mà ra. Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử là chủ tôn của Ma Ha Song Liên Trì. Là do nguyên nhân gì? Thì ra, màu trắng là nền tảng của mọi màu sắc, tất cả màu sắc đều từ màu trắng mà ra, một vị Phật chính giác nhất định cần tu Bạch thiện pháp mới có thể thành tựu.
Vì sao Ma Ha Song Liên Trì không nói là một vị Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, mà lại cần nói là 18 vị? Thì ra, một cây không thể tạo nên bóng mát, cần phải cả một rừng cây và cần rất nhiều cây mới có thể tạo thành một rừng cây. Một vị Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hóa sinh thành 18 đại Liên Hoa Đồng Tử, hơn nữa mỗi một vị Đồng Tử lại có 500 trung Liên Hoa Đồng Tử ở xung quanh, mỗi một vị trung Liên Hoa Đồng Tử lại có 500 tiểu Liên Hoa Đồng Tử, đây chính là việc tích bụi thành núi, nhiều dòng chảy nhỏ tạo nên biển lớn. Ma Ha Song Liên Trì không khác gì Phật quốc tịnh thổ của Liên Hoa Đồng Tử.
Nhiều Liên Hoa Đồng Tử sắc màu như vậy, mỗi màu sắc có diệu pháp gì không? Đúng vậy, mỗi màu sắc lại có diệu pháp: Kim Liên Hoa là đại trí huệ thâm sâu. Bạch Liên Hoa là pháp giới thể. Lục Liên Hoa là cất giữ vạn bảo. Hắc Liên Hoa là hàng phục ma quỷ. Hồng Liên Hoa là hạnh nguyện viên mãn. Tử Liên Hoa là tướng đoan chính trang nghiêm. Lam Liên Hoa là quả đức viên mãn. Hoàng Liên Hoa là đầy đủ phúc báo. Tranh Liên Hoa là tướng đồng chân ngây thơ chất phác.
Những Liên Hoa sắc màu này hóa sinh chính là vì lợi ích quần sinh, cũng chính là tùy duyên mà hóa hiện lên. Nhiều Liên Hoa sắc màu như vậy vốn dĩ là thị hiện tùy theo người có căn cơ sâu hay căn cơ nông, vừa cần có đầy đủ sáu loại thần thông, vừa cần có lửa trí huệ để thiêu rụi hết ma phiền não, vừa cần có lòng đại từ bi để làm việc đại nguyện, vừa cần trong sáng như pha lê biểu thị tâm bình đẳng, vừa cần phải có đầy đủ phúc báo biểu thị đại phúc, vừa cần trị được bệnh hiểm nghèo để làm viên mãn quả đức, vừa cần có biểu hiện bề ngoài thân phẫn nộ để hàng phục ma quỷ, vừa cần nghiên cứu kinh pháp, giải thích đạo lý tuyệt diệu để đắc được trí huệ thâm sâu, vừa phải cùng hòa hợp chiếu sáng, trở về với pháp giới thể...
Ma Ha Song Liên Trì này cũng có bảy tầng lan can, bảy hàng cây, bảy hồ quý, nước tám loại công đức, thiên nhạc luôn ngân vàng, mặt đất bằng vàng, pháp âm hòa nhã, những hàng cây treo mọi loại bảo vật, võng lưới treo bảo vật, quang minh vô lượng, thọ mệnh vô lượng...
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử xuất ra khỏi sự tư duy tĩnh lặng, toàn thân hiện lên sắc trắng chân thực, đầy đủ 32 tướng tốt, ngồi trên tòa sen trắng, tay phải kết ấn thuyết pháp, tay trái kết ấn cầm hoa sen, đây là tư thế tiêu biểu của Liên Hoa Đồng Tử.
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói với các vị Liên Hoa màu sắc khác nhau: "Chúng ta hôm nay nhận sự ủy thác của A Di Đà Phật hạ sinh ở cõi Ta Bà, từ nay sẽ mất đi thân tâm trong sáng, mất đi pháp thân thông suốt dễ chịu, tương lai sẽ trôi dạt trong biển khổ sinh tử, lưu lạc trong lục đạo luân hồi, đây gọi là đóa sen gánh chịu đại nghiệp cứu độ chúng sinh của Như Lai. Bản thân chúng ta trước tiên cần thoát khỏi sự ràng buộc của lục căn, cần chứng đắc Nhân - Không, trừ tận gốc chấp Ngã, đạt đến tính Không viên minh, rồi tiếp đó phá trừ chấp Pháp, chứng tỏ Ngã - Pháp đều không, chứng Vô sinh pháp nhẫn, đạt đến cảnh địa Bồ đề Niết bàn, như vậy mới có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì."
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hỏi các Liên Hoa Đồng Tử các màu sắc: "Liên Hoa Đồng Tử trong Ma Ha Song Liên Trì vốn dĩ tỏa hương thơm ngát vi diệu, siêng tu Phật pháp, đều đã chứng đắc pháp vị, mỗi vị cũng đều có bồ đề tâm, hơn nữa đã ngộ và hiểu mười tám đại pháp. Trong đời tương lai, chúng ta độ chúng sinh, cần dựa vào pháp gì để làm nền tảng viên thông, dựa vào pháp tu nào để chứng nhập tam ma địa?"
Lúc này, 17 đóa Liên Hoa Đồng Tử khác nghe thấy lời của Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, mỗi vị đều muốn nói lên những kinh nghiệm tu chứng của mình. Hơn nữa, các vị trung Liên Hoa Đồng Tử và tiểu Liên Hoa Đồng Tử đều muốn tự thuật về quá trình chứng đạo của bản thân. Cùng lúc, trăm nghìn vạn đóa hoa sen đều phóng tỏa hào quang, chiếu rọi khắp Cực lạc thế giới sáng rực rỡ huy hoàng, đây là bí mật ẩn giấu của chư Phật, định - huệ cùng vận chuyển, có Như Lai Tạng chân tâm, khác biệt với rất nhiều diệu pháp môn tu hành khác. Đây là thành quả cực điểm.
Chính vào lúc này, Tử Liên Hoa Đồng Tử đứng trên tòa hoa sen, hướng về chủ tôn, chắp tay lại nói: "Vào nhiều kiếp trước, con đã hóa sinh ra từ tâm của Bạch Liên Hoa, từng xuống thế giới Ta Bà, từng theo một vị Phật tu hành, Phật tên là Tử Quang Như Lai, Tử Quang Như Lai đã chỉ dạy cho con thắp lên ngọn đèn màu tím, cúng dường thập phương tam thế nhất thiết Phật, rồi lại dùng lá cây màu vàng kim ánh tím để đắp thành tượng Phật, do vậy, con đã đạt được tướng trang nghiêm đoan chính, thân thường tỏa ra ánh sáng màu tím vàng kim. Lúc ấy, pháp mà con tu là pháp Tử quang. Pháp Tử quang là quán tưởng vũ trụ này đều là màu tím, rồi lại quán tưởng bản thân cũng là màu tím, trong một cái búng tay là thân tâm trở thành tướng định, nhờ đó mà tiêu diệt được pháp trần, pháp tính vi diệu hiện tiền, như vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Nếu chúng ta hạ sinh tại cõi Ta Bà, hãy lấy pháp Tử quang này để độ chúng sinh."
Hồng Liên Hoa Đồng Tử tiếp tục đứng lên, chắp tay hướng về chủ tôn, nói rằng: "Vào nhiều kiếp trước, con đã hóa sinh ra từ tâm của Bạch Liên Hoa, từng xuống thế giới Ta Bà, theo một vị Phật tu hành, Phật tên là Hành Thiện Như Lai, Hành Thiện Như Lai thường nói, nếu con người tu thượng phẩm thập thiện, thành tựu các loại thiện nghiệp, tất sẽ đắc được nghiệp Trời. Vậy nên con đã tuyên bố với chúng sinh rằng, phụng hành thiện nghiệp, khuyên người giữ giới tu thân, khiến thân thanh tịnh, không nhiễm phàm trần. Con đi đến các nơi cũng đều khuyên thiện hạnh, sau đó đã có được thân phận là giáo chủ của một thế hệ. Cuối cùng, con biết con và Phật đồng thể, có thể vận dụng pháp lực của đại từ đại bi, định lực mỗi ngày một sâu hơn, vì thế mà từ từ tăng lên, hạnh nguyện cũng viên mãn, chân tâm bất sinh bất diệt, tự nhiên hiển hiện, quang minh tỏa chiếu, bỗng chốc mười phương đều viên minh, như vậy mới có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì. Nay chúng ta nếu có giáng sinh tại thế giới Ta Bà thì hãy lấy pháp thượng phẩm thập thiện làm cơ sở, hướng dẫn chúng sinh phụng hành thập thiện, như vậy mới hợp với diệu tâm bản giác của chư Phật mười phương."
Lục Liên Hoa Đồng Tử cũng tiếp tục từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về chủ tôn, nói rằng: "Vào nhiều kiếp trước, con đã hóa sinh ra từ tâm của Bạch Liên Hoa, cũng thường xuống thế giới Ta Bà, khi ấy con rất giàu có, sưu tập đủ bảo vật của thế giới, thậm chí là cái gì cũng có, chí nguyện viên mãn, cho đến khi con phụng sự một vị Phật, Phật ấy tên là Bảo Tướng Trang Nghiêm Như Lai, được nhờ lực thần thông của Như Lai mà con đã được đưa tới Nam Phương Bảo Tạng Phật Thổ, khi ấy con mới thấy những bảo vật trên đời chẳng khác gì cỏ rác. Từ khi biết được điều đó, tất cả mọi thứ trên đời như mộng như huyễn, không có một thứ gì là chân thực, cũng không có một vật gì là con thực sự sở hữu, thế nên con tu mộng huyễn quán, biết tất cả tịnh uế đều là do tâm thức biến hiện lên, cuối cùng con nhập vào thực tính viên thành, nhờ vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Sau này chúng ta độ chúng sinh, cần phải dạy họ quán mộng huyễn mới được."
Kim Liên Hoa Đồng Tử lễ chủ tôn xong rồi nói: "Vào nhiều kiếp trước, con hóa sinh từ tâm của Bạch Liên Hoa, khi hạ sinh tại Ta Bà vừa hay lại ở cùng chỗ với Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni dạy bảo tất cả trí huệ, dùng trí huệ để chiếu soi khắp không gian tứ đại đất nước lửa gió, nhờ đó trí huệ phóng quang, mười loại ánh sáng trân quý vi diệu phóng chiếu khắp mười phương, đây cũng chính là ánh sáng đại viên kính trí. Pháp môn mà con tu trì là dùng trí huệ để quan sát thế giới vi diệu, từ đó chứng đắc diệu lực viên minh, lĩnh ngộ chân tướng, như vậy mới có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì. Lần này chúng ta giáng sinh, đương nhiên có thể dạy chúng sinh dùng trí huệ quán."
Hắc Liên Hoa Đồng Tử cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về chủ tôn, nói rằng: "Vào nhiều kiếp trước, con hóa sinh từ tâm của Bạch Liên Hoa, theo một vị Phật tu hành, Phật tên là Dũng Mãnh Kiến Phật, Phật dạy tu hành tinh tấn, lấy việc hàng phục ma của tự tâm là chủ yếu, nhận ra tất cả ma đều tự tâm chiêu cảm. Con người chúng ta chuyển động hay dừng lại đều do tâm điều khiển, nếu tâm xúi giục thì ma chắc chắn sẽ nhập vào, chắc chắn sẽ gây nên những tạp niệm liên miên không dừng, từ đó mà cứ nhao nhao cãi cọ điên cuồng, không có cách nào tu hành được. Muốn hàng ma, trước tiên phải hàng phục ma của tự tâm, tâm diệt thì ma cũng diệt, tâm sinh thì ma cũng sinh, luyện tập cho tâm bất động là đạo lý cơ bản. Nếu tâm bất động thì chân tâm mới có thể phóng đại quang minh, mới có thể biện chiếu vô ngại, bởi vì đắc được chân tâm quang minh vi diệu rồi thì tự nhiên sẽ hàng phục được ma, như vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Chúng ta nếu giáng sinh tại Ta Bà, hãy dạy chúng sinh bất động tâm pháp mới được."
Lam Liên Hoa Đồng Tử tiếp theo sau Hắc Liên Hoa Đồng Tử cũng đứng dậy, chắp tay lễ chủ tôn, nói rằng: "Vào nhiều kiếp trước, con hóa sinh từ tâm của Bạch Liên Hoa, con đã giáng sinh tại Ta Bà nhiều lần, đều ở cùng chỗ với chủ tôn Bạch Liên Hoa Đồng Tử, chủ tôn đã dạy con pháp môn thần thông, dùng pháp thần thông để du hành thập phương, cứu độ chúng sinh, ví dụ như chữa trị các loại bệnh tật, dùng thần thông để đạt được mục đích kêu gọi, thu hút lòng tin Phật của chúng sinh. Bởi vì tự tại vô ngại, quả đức từ từ viên mãn, hơn nữa vì có sức mạnh thần thông nên biết rất rõ thần thông vốn là sự phát lộ của tâm quang, khởi đầu đã có rồi, đầy đủ sáu thần thông, biết được chân tính tiềm tàng của Như Lai, thần thông hóa thành thanh tịnh lấp lánh, tự nhiên thường trụ trong vắt, nhờ vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Lần này chúng ta hạ sinh ở Ta Bà, hãy lấy pháp môn thần thông để cứu giúp rộng rãi chúng sinh."
Tranh Liên Hoa Đồng Tử cũng lễ bái chủ tôn, đồng thời nói: "Vào nhiều kiếp trước, con hóa sinh từ tâm của Bạch Liên Hoa, con cũng nhiều lần giáng sinh tại Ta Bà, mê mẩn với chốn nhân gian, thường quên trở về. Con dùng mắt để quan sát thế gian, vì những mê lầm vào sắc mà đánh mất bản tính, dần dần đánh mất căn cơ. Sau đó nghe được một vị Phật thuyết pháp, Phật tên là Thiên Nhãn Thần Thông Phật, Phật đã dạy con đóng lại con mắt trần, mở thiên nhãn, việc mở thiên nhãn này không phải là dùng thủ thuật, mà là nội minh kim cương tam muội, trước tiên con quan sát tự tâm, tự tâm tỏa sáng, chiếu đến tam thiên đại thiên thế giới, thông suốt từng thứ một cách rõ ràng chính xác và rộng mở, giống như quan sát cảnh chân thực vậy, thế là con trở về và tuân theo sự sáng suốt nguyên sơ, như vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Tương lai chúng ta hạ sinh, hãy dạy chúng sinh nội minh kim cương tam muội, người người mở thiên nhãn thì tự có thể độ chúng sinh."
Hoàng Liên Hoa Đồng Tử chắp tay lễ bái chủ tôn, nói rằng: "Vào nhiều kiếp trước, con hóa sinh từ tâm của Bạch Liên Hoa, con từng xuống cõi Ta Bà, đời đời được giàu có, có được thiên phúc, có được địa phúc, có được nhân phúc, từng nhiều kiếp làm vua, phú quý dư thừa, có bảy trăm vị Phạm Thiên Vương hộ trì, cho nên luôn được đầy đủ sung túc số một. Nhưng thân sống trong địa vị phú quý, cũng vẫn khó tránh khỏi khổ do sinh lão bệnh tử, vì thế, con thừa sự Đa Bảo Như Lai, biết nhân sinh đời người lúc tụ lúc tan, không nơi nào để đến, không nơi nào để đi, bởi thế, hiểu được tất cả nhân duyên quả báo, biết được tướng là hư vọng, tính là chân thực, do quan sát nhân duyên mà khai ngộ, như vậy mới trở về Ma Ha Song Liên Trì. Nay chúng ta hạ sinh, ban đầu hãy dạy chúng sinh pháp nhân duyên, vì nhân duyên quả báo sẽ dẫn dắt chúng sinh trở về Ma Ha Song Liên Trì."
Trên đây là pháp âm vi diệu của tám đại Liên Hoa Đồng Tử, ngoài ra còn có nhiều vị Liên Hoa Đồng Tử khác tiếp tục nêu ra các loại pháp môn. Tam muội kim cương của những pháp môn này giao hòa ánh sáng đan quện lẫn nhau, giống như một tấm lưới quý báu, hiện lên cảnh tượng cát tường, giống như trời trút mưa hoa sen trân quý, thiên nhạc âm vang trong không trung, tiếng hát tụng kinh ngân vang mãi...
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử thấy vậy rất vui mừng, nói lên bài kệ rằng: Bao pháp môn tiện lợi. Thuận nghịch đều khả thi. Đến bỉ ngạn nhanh chậm. Thánh tính sẽ đều thông. Chân tâm vốn sẵn có. Từ gốc này mà tu. Việc viên minh tịnh diệu. Rộng mở sẽ hiểu thông.
Lúc này, có một tiểu Liên Hoa Đồng Tử đang ngồi trong đám ấy đã hiểu sự chí lí của việc tu thành Phật, nhưng vẫn chưa tự mình chứng đắc được Thánh quả Đại niết bàn, là người mang nghiệp thọ sinh, bởi vì bản thân là một hoa sen màu nhạt, là một Bồ Tát mới phát tâm, đã xa rời trần thế, nghe xong bài kệ của chủ tôn Đại Bạch Liên Hoa liền liều mình tiến lên trước, đảnh lễ chủ tôn, vừa mừng vừa tủi chắp tay rập đầu mà thưa rằng: "Thưa chủ tôn, tiểu Liên Hoa Đồng Tử con đây đã hiểu đạo lý thành Phật, quyết định đích thân chứng Thánh quả Như Lai, nhưng bản thân vẫn chưa đắc chứng, vậy thì có thể độ người trước được không?" "Bản thân vẫn chưa đắc chứng, cũng có thể giảng giải đạo lý, khuyến khích đồng tu, phát nguyện độ chúng sinh, đây là Bồ Tát phát tâm. Giác hạnh của bản thân đã viên mãn rồi, đã đích thân chứng đắc rồi, giảng giải kinh nghiệm tu hành, hơn nữa khiến người khác giác ngộ, đây là Như Lai đáp lời thế gian. Bồ Tát phát tâm là đã hiểu và biết rõ con đường trở về trời, diễn thuyết Phật pháp là điều không có gì phải lo ngại." Tiển Liên Hoa Đồng Tử nghe xong, trong lòng cảm thấy viên mãn sáng tỏ, chắp tay cảm tạ.
Lúc này, Kim Liên Hoa Đồng Tử lại chắp tay bước lên phía trước, nói rằng: "Thưa chủ tôn, khi chúng con hạ sinh, linh tính sẽ trở nên mông lung do bị che lấp, sẽ quên mất diện mạo vốn có, hơn nữa ở thế gian này, tà sư rất nhiều, thế nào cũng có vàng thau lẫn lộn, chính tà khó phân biệt được, bởi thế, chúng con cứ trầm luân kiếp này tới kiếp khác, sẽ thoái lùi và đánh mất bồ đề tâm, làm sao có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì?" Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói: "Đạo quả vô thượng của Ma Ha Song Liên Trì sẽ được trồng trong tâm của Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh, ta sẽ đánh lên tiếng trống đại pháp, thổi đại pháp loa, các hành giả khi nghe thấy Ma Ha Song Liên Trì chắc chắn trong lòng sẽ cảm động, Liên Hoa Đồng Tử tự có thể nhiếp tâm tu hành, thêm nữa có thể dẫn dắt chúng sinh đời mạt thế, cứu độ và hộ trì họ. Như vậy tự có thể tránh xa khỏi những mê hoặc và quấy nhiễu của tà ma ngoại đạo."
05. Đào tiên trong yến tiệc
Bởi thế mà tại Ma Ha Song Liên Trì, 18 đại Liên Hoa Đồng Tử và trung Liên Hoa Đồng Tử, tiểu Liên Hoa Đồng Tử đã tập trung lại để diễn pháp xong, rồi tùy vật hóa hình, tùy hình hóa vật, từ trong hồ sen ở Ma Ha Song Liên Trì xuất hiện yến tiệc, tùy duyên mà hóa nên các vật, ai muốn thứ gì thì đều có thứ đó.
Đúng vào lúc đó, bỗng thấy cảnh giới Tứ Thiên có một vệt ánh sáng đỏ từ dưới chiếu lên trên, xuyên tới Ma Ha Song Liên Trì. Vệt ánh sáng lớn này lại hóa thành nghìn nghìn vạn vạn tia sáng đỏ nhỏ, dừng lại trên bàn yến tiệc, lấp la lấp lánh, vô cùng diễm lệ. Mọi người quan sát tỉ mỉ, hóa ra là những trái bàn đào.
Là những quả đào tiên của Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn, do Diêu Trì Kim Mẫu gửi tặng. Diêu Trì Kim Mẫu đội mũ phượng, diện mạo xinh đẹp duyên dáng hiền từ, tay cầm phất trần, là chủ tôn của Hồ Ngọc trên núi Côn Luân, tỏa vạn ánh hào quang, muôn khói cát tường, có tiên cô Đổng Song Thành hầu hạ, phía trước có ba vị sứ giả Chim Xanh dẫn đường, nhẹ nhàng hạ giáng xuống, cỗ xe mây của Ngài lộng lẫy tráng lệ khác thường.
Diêu Trì Kim Mẫu vừa hạ xuống, vừa ngân nga: Đạo ấy là đạo gì Tên Có cũng tên Không Đại La Thiên rộng lớn Thế nhân chưa từng hay Ta nay vốn tự tại Chỉ cư ngụ nơi tâm Vũ trụ bao la đó. Tất cả đều như như.
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử thấy Diêu Trì Kim Mẫu hạ giáng xuống Ma Ha Song Liên Trì, lập tức đứng dậy nghênh tiếp, chắp tay cúi đầu hỏi: "Kim Mẫu Thiên Tôn vì sao mà tới đây?" "Vì Đạo duyên nên dâng tặng đào tiên." "Đạo duyên?" "Đúng vậy, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh xuống, tương lai sẽ truyền bá và làm vinh hiển giáo pháp, cũng truyền bá pháp Mật giáo, ban đầu cũng sẽ truyền bá những pháp thanh tịnh của Đạo gia, vì nhân duyên này nên ta mới đến đây dâng tặng đào tiên."
"Vì sao sẽ truyền pháp thanh tịnh của Đạo gia?" "Bởi vì Người có nhân duyên toàn diện cả tam giáo, từ đạo Cơ Đốc mà tiến vào Đạo giáo, lại từ Đạo giáo mà tiến vào Phật giáo." "Vì sao lại phiền phức như vậy?" - Tôi nói. "Đây là từ phương tiện mà nhập vào cứu cánh, đây là con đường tất yếu của các vị giáo chủ tôn giáo vĩ đại, như vậy thì mới có được quang hoa sáng chói." "Cảm tạ lời chỉ dạy của Kim Mẫu Thiên Tôn, đa tạ món quà tặng bàn đào nồng hậu."
"Bàn đào này, thế tục ngộ truyền rằng ba năm mới kết quả một lần, hoặc nghìn năm mới kết quả một lần, thật ra là năm trăm năm kết quả một lần, tiệc bàn đào của Tây Vương Mẫu chính là vào lúc ấy, nhưng yến tiệc của thần tiên không giống phàm trần, tất cả đều lấy thanh khí làm món ăn, bàn đào ở Hồ Ngọc là do tinh chất của hỗn nguyên hình thành nên, ăn bàn đào cũng tương tự như được uống nguồn gốc của vạn thánh linh, ăn một quả sẽ có tác dụng bồi căn dưỡng tính thành tam muội, quả bàn đào trên cây bàn đào có đầy đủ đạo lý ngũ hành ảo diệu, các Liên Hoa Đồng Tử mỗi người ăn một quả thì đạo tâm sẽ không thoái chuyển, đời đời có thể phát huy Phật tính."
Các Liên Hoa Đồng Tử nghe xong, mỗi người liền lấy bàn đào trên bàn tiệc để ăn, quả nhiên vị ngon khác thường không gì sánh bằng, đúng là thần tiên thánh phẩm, cả người khoan khoái, lập tức sinh ra tiên khí. Tiên cô Đổng Song Thành ngâm nga bài Đạo kệ: "Cây đào ra Thánh quả Tiên gia đến giúp cùng Cho Đồng Tử hạ sinh Mưa pháp không thiên vị."
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử vô cùng cảm tạ Vô Cực Diêu Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn đã cưỡi mây giáng xuống giúp đỡ, hơn nữa còn ban tặng bàn đào tiên quả năm trăm năm mới ra trái một lần. Bài ngâm thơ của Tiên cô Đổng Song Thành, tôi cũng hiểu được ý nghĩa phi phàm của nó, cho nên lại một lần nữa chắp tay thỉnh giáo Diêu Trì Kim Mẫu về việc liên quan đến hạ sinh tại cõi Ta Bà. Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Đầu tiên sẽ lập phái Linh Tiên, sau đó lập phái Chân Phật." "Sao lại có trước, sao lại có sau?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Tương lai tự biết."
Diêu Trì Kim Mẫu ngâm bài kệ: "Cõi trần không ổn định Huyễn hóa tới trước sau Tham sân si mê hoặc Khó nghĩ vạn sự thông. Liên miên ma quấy nhiễu Pháp vụ chớ để dơ. Ân oán cần dừng dứt Độ chúng sinh mới nhiều."
"Cảm tạ Kim Mẫu Đại Thiên Tôn đã khai thị pháp ngữ." Diêu Trì Kim Mẫu lại nói: "Tu Đạo gia, vẫn phải lấy thanh tịnh tự nhiên làm chủ, đây chính là diệu tính vô vi thuần nhất thanh tịnh, bởi vì cao nhất của vô vi cũng là thanh tịnh, vì trong vô vi nếu sân hận thì căn gốc sẽ không có lý do nào để xuất sinh ra. Tương tự cần phải tiêu tan vọng trần, lấy sự vô tâm mà đối phó, nội ngoại tâm linh đều sáng trong lung linh, thuần tịnh không tì vết, ánh sáng phổ chiếu, rực rỡ vô ngại."
Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Tiên gia bao nhiêu thế hệ không hẳn là hoàn toàn ẩn cư để tu Tiên, thật ra sau khi đã ngộ đạo, họ cũng có thể biến hóa vô cùng, cảnh giới cao nhất của Thần Tiên cũng có thể biến ra huyễn ảnh tứ đại giả hợp, quay trở về bản tính chân thực duy nhất mà thành chân nhân, chân nhân là đạo tràng bất động, hóa thân tùy loại hiện hình, làm việc theo đạo lý, vận dụng phúc huệ diệu thần thông lực mà che chở cho chúng sinh."
Diêu Trì Kim Mẫu mỉm cười nói: "Tương lai Đồng Tử hạ sinh, chúng ta sẽ còn có lúc gặp mặt." "Làm sao mà gặp mặt?" - Tôi cảm thấy rất ngạc nhiên. "Khi Người thiền định, ở hai tính động - tĩnh, sáng tỏ sự bất sinh và căn trần đều diệt, như thế bên trong không có lực trói buộc Người, bên ngoài cũng không có cách nào gò bó Người. Người có thể bay đến Hồ Ngọc, chiếu rọi pháp giới, đến lúc ta lại mở yến tiệc, cúng dường Liên Hoa Đồng Tử, ta sẽ lại nói về những đạo lý huyền diệu."
Diêu Trì Kim Mẫu nói xong lại bay lên cỗ xe mây, ba sứ giả Chim Xanh tiến lên trước dẫn đường, năm vị Tiên hầu hạ theo xung quanh do Tiên cô Đổng Song Thành dẫn đầu, cỗ xe mây từ từ bay lên không, trang nghiêm thanh tịnh. Lúc này, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nghe pháp ngữ của Diêu Trì Kim Mẫu, quan sát vào sâu trong tự tính, biết Đạo gia diệu pháp về lục căn thanh tịnh vô vi, đó là bản giác nội huân, đắc pháp tam muội.
Diêu Trì Kim Mẫu quả nhiên là bậc Thượng Tiên căn cứ vào sự chính trực và dịu dàng, sự nhân từ khiêm tốn của Ngài, từ pháp giới Hồ Ngọc trực tiếp đến Ma Ha Song Liên Trì để tặng bàn đào, đại ân đại đức như vậy, Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì đều cảm thấy khó mà báo đáp.
(Nhân duyên giữa Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn và Liên Hoa Đồng Tử cực kì sâu đậm, ban đầu Liên Hoa Đồng Tử đắc Đạo pháp, mở thiên nhãn, đều là do sự dạy bảo và chỉ thị của Diêu Trì Kim Mẫu. Kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu cũng là một trong những kim thân mà Liên Hoa Đồng Tử khi hạ sinh ở nhân gian luôn luôn mang theo bên mình để thờ phụng. Liên Hoa Đồng Tử hoằng dương hai phái Hiển - Mật tại Mỹ cũng đem theo kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu, hơn nữa còn luôn phụng thỉnh Ngài trước tiên.)
06. Giáng xuống Ma Vương Thiên
Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh thế giới Ta Bà, vì lẽ gì mà trước tiên lại giáng xuống Ma Vương Thiên? Nguyên nhân là ở chỗ, khi A Di Đà Phật tại Chân Phật Hải Hội phó thác: Bạch Liên Hoa Đồng Tử nhấc một chân lên, khẽ thả hoa sen xuống, không chỉ là tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động, mà ngay cả đến Ma giới thiên cung cũng chấn động không ngừng. Các hạng Ma Vương đều vô cùng sửng sốt.
A Di Đà Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở nhân gian, có duyên với Ma, có nhân duyên qua lại với Ma, nên ngay cả Ma cũng độ hóa được."
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng xuống Ma Vương Thiên, có năm trăm trung Liên Hoa Đồng Tử, lại có cả năm trăm Thiên thượng Tiên Đồng, Thiên thượng Tiên Nữ dùng mọi bảo vật chuỗi ngọc trân quý để trang trang điểm uy nghiêm cho Ngài. Có một nghìn bảo bình đựng nước hoa thơm. Có một vạn đóa hoa thơm của cõi trời. Có hàng tỉ trân châu bảo vật. Tự nhiên xuất hiện xung quanh Ngài, tự nhiên nhiễu quanh Liên Hoa Đồng Tử ba vòng. Trong hư không, Vô Sắc Giới Thiên (Không Vô Biên Xứ Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Phi Phi Tưởng Xứ Thiên), Sắc Giới Thiên (Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền), có vô lượng Thiên Nhân đều hoan hỉ theo Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử đồng hành hạ giáng. Thiên Nhân thốt lên những lời ca ngợi: "Nay Ta Bà thế giới, có Phật xuất thế rồi!"
Thiên Nhân các cõi trời nói: "Liên Hoa Đồng Tử, cõi Ta Bà đêm dài nay đã có ánh sáng, thế giới Ta Bà thành tựu hết thảy. Chư Thiên chúng tôi nguyện hộ trì Chân Phật, hộ trì Liên Hoa Đồng Tử, thành tựu hết thảy cát tường." Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử từ từ cưỡi hoa sen hạ giáng, an tường tĩnh tịch, hướng đến chư Thiên chắp tay cung kính cảm tạ.
Vào lúc Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng, nghĩ đến cuộc đấu pháp giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và Ma Vương Ba Tuần: Ngày xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni, từ tướng bạch hào ở giữa hai chân mày phóng ra một tia sáng, tia sáng này là "ánh sáng có thể hàng phục xua tan ma quỷ", ánh sáng này chiếu khắp cung điện Ma Vương, che hết ánh sáng của Ma. Ma Vương vừa trông thấy ánh sáng này, trong lòng kinh hãi, dùng thần thông để quan sát thì phát hiện ra: Cung điện của mình đã chấn động và sụp đổ thành đống gạch ngói vụn. Năm cấp tướng của mình đều tỏ vẻ cực kì không vui. Bản thân phải lưu lạc tha phương, không có chỗ dung thân. Tâm chẳng thể yên, sinh ra cuồng loạn, toàn thân run rẩy.
Ma Vương Ba Tuần lập tức triệu tập hết thảy quyến thuộc của các Ma cung, cho rằng "chẳng lẽ có kẻ có uy lực phúc đức đến sống ở nơi này?" Sau đó thì biết là Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vậy, Ma Vương ra lệnh: "Chúng Ma nghe ta điều động, có Thái tử họ Thích muốn chứng bồ đề, đã xâm nhập vào thế giới của ta, chúng ta phải cùng nhau đuổi tên này đi, cắt đứt cái tâm tinh tấn dũng mãnh của hắn, không để cho hắn đắc chứng, tránh cho hắn xâm nhập vào thế giới của ta."
Khi ấy có Ác Khẩu Ma nói: Kẻ thấy ta, tâm sẽ hư hoại Bật gốc cả cây, đổ xuống bùn Huống chi lũ Sa-môn nhỏ bé Nếu thấy ta, ắt chạy tít mù.
Khi ấy có Bách Đấu Ma nói: Trên người ta mọc trăm cánh tay Một tay tên bắn ba trăm mũi. Chiến tranh tranh đấu ta bền nhất Mình ta có thể đuổi Sa-môn.
Ma Vương Ba Tuần còn cử ma nữ đi quấy rối tâm của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế là, các ma nữ xinh đẹp tấp nập kéo tới biểu diễn những động tác quyến rũ, thể hiện đủ trò lôi kéo của phụ nữ, ví dụ như cười bỡn cợt, điệu bộ ngó bên nọ nhìn bên kia, nhướn nhíu đôi lông mày, để lộ eo cong, lộ nửa bầu ngực, lộ ngực và lưng, rồi cởi quần áo, rên rỉ hổn hển, miệng cười mắt nhắm, đòi hỏi chuyện ân ái...
Thích Tôn nói bài kệ: Ma nữ các người sao ngu muội, Xấu xí bẩn thỉu phi trí nhân. Chư Phật Đại Thánh nơi trần thế. Tâm vô chướng ngại thể như không.
Ma Vương Ba Tuần thấy sắc không thể dụ dỗ được, lại cử đám quân ma đi đánh Phật Thích Ca Mâu Ni. Ma sân hận dùng một cây đao dài quăng về phía Thích Tôn, đao bay được nửa đường rơi xuống đất thì lại có đá núi quăng về phía Bồ Tát, đá núi không tới được thì lại quăng búa rìu gậy gộc chùy kích, nhưng tất cả đều không làm được gì.
Ma Vương dùng cả đại thần thông lực để trút xuống cơn mưa lửa, cơn mưa lửa hóa thành hoa sen trắng, sấm rền chớp giật, mưa đá rơi xuống đất đều biến thành hoa thơm rụng xuống. Cả bầy rắn được phái đi để cắn Thích Tôn, nhưng bầy rắn đều dừng lại bất động. Có kẻ cầm cung tên bắn vào Bồ Tát, những mũi tên tới tấp quay đầu bắn ngược trở lại. Có kẻ bắn đi năm trăm mũi tên thì toàn bộ đều bị hoa sen trên không trung đỡ lấy. Có một nữ la-sát tay cầm đầu lâu đi đến trước mặt Thích Tôn thì không thể tiếp tục tiến lên được nữa. Có một tên đại ác quỷ miệng phun ra lửa để đốt cháy Thích Tôn, rốt cục không nhìn thấy Thích Tôn đã đi đâu mất. Lúc ấy, cả đám quân ma đều chạy tán loạn, yếu thế nên tự mình tìm đường tháo chạy.
Liên Hoa Đồng Tử nghĩ đến ngày xưa chuyện Phật Thích Ca Mâu Ni hạ sinh ở cõi Ta Bà đã đánh bại Ma Vương Ba Tuần, đã lĩnh ngộ được đạo lý của Phật và Ma: Phật là bậc giác ngộ, tức là tự giác giác tha, là đại Thánh nhân giác hành viên mãn. Phật có thể phá tan sự ngu si u ám của chúng sinh, từ bi quảng đại, phổ độ vô tư. Nguyên nhân của thành Phật chính là do tất cả thiện căn công đức. Phật cụ túc vô thượng chính trí và hết thảy các loại trí huệ. Có thể lĩnh ngộ đạo lý chí cao của nhân sinh, giác ngộ vô thượng bồ đề, tức là Phật. Phật có thể thấy được tất cả mọi pháp, tất cả phi không phi hữu, bất khả tư nghì. Và Phật cũng tức là bậc Chân Như, đó là tất cả chúng sinh đều có bản chất giác ngộ bất biến và không thay đổi, là thường trụ và không có biến đổi. Tâm của Phật là tâm thanh tịnh, là tâm vô trọc uế, là tâm vô trở ngại, là tâm không ưu sầu mệt mỏi, là tâm hiền hòa êm dịu, là tâm thành tựu nghiệp, là tâm chân tịch định.
Vậy còn Ma? Ma là những kẻ chiếm đoạt mạng người, cản trở tu hành, quấy nhiễu nhân tâm, phá hoại Thánh đạo, gây đủ mọi phiền nhiễu và phiền toái cho người tu đạo. Khiến người ta mắc bệnh ma quỷ. Quấy phá chính tâm chính niệm, khiến người ta khởi lên tà niệm. Chiếm đoạt công đức của người ta. Khiến người ta khởi dâm niệm. Ma thích nhất công, danh, lợi. Đó là tham. Ma thích đấu, tranh, chiến. Đó là sân. Ma thích thù oán, tự đại, ác nghiệp. Đó là si. Người học Phật hãy nhớ, đừng học làm Ma.
Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh cõi Ta Bà là muốn sáng chói như mặt trời, xua tan bóng đêm tăm tối, để dạy chúng sinh có được tâm thanh tịnh, thuần khiết như hoa sen. Cần học để tâm như hư không không còn giới hạn, ban pháp khắp đại địa để dưỡng dục quần sinh. Dùng nước tám công đức của hồ sen để rửa sạch hết những ô uế hủ bại. Cần học tập để bất động như núi Tu Di, để Ma không thể làm lay động dù chỉ một sợi lông, dạy dỗ vô thượng chính đẳng bồ đề để người người thành tựu bồ đề đạo thành.
Thế là, Liên Hoa Đồng Tử giáng xuống Ma Vương Thiên trước, ở Ma cung gặp Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. "Tôi sắp giáng xuống Ta Bà, ông có lời gì muốn nói không?" - Liên Hoa Đồng Tử nói với Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. "Đã đến cõi giới của ta, đương nhiên ta phải cản trở." - Ma Vương đáp. "Cản trở như thế nào?" "Ta sẽ khiến ngươi gặp rắc rối lớn, dùng tham sân si để mê hoặc ngươi, khiến người lưu chuyển trong tam giới sinh tử, vĩnh viễn không có ngày khai ngộ. Ta sẽ khiến ngươi sinh ra những tà kiến vô minh, dùng dâm niệm tà niệm để che phủ huệ căn tiền kiếp của ngươi, cản trở bồ đề tâm của ngươi." - Ma Vương nói.
"Tôi cũng có thể phá bỏ những chướng ngại phiền não và tất cả chướng ngại mà ông tạo ra cho tôi. Tôi dùng Ngã Không, Ngã Không tức là Ngũ uẩn vô ngã, tất cả đều là hư vọng không thật, tôi hoàn toàn không phải là thực thể, Ngã Không Chân Như này thì không thể nhiễm tham sân si. Đó là sự giải thoát trí huệ, giải thoát trí huệ có thể khiến tôi thoát khỏi tất cả chướng ngại phiền não, chứng ngộ niết bàn bất sinh bất diệt. Tôi cũng dùng Tâm Không, tôi sẽ chuyển hóa nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại da thức của bản thân thành trí, tự tôi có thể biết tâm thể vĩnh viễn bất biến, cũngn tức là Như Lan Tạng Tâm, tự tính thanh tịnh tâm, Như Lai Tạng Tâm chính là Tâm Không, Tâm Không không nhiễm bụi trần, thì sao có thể có tà niệm dâm niệm. Như vậy, thân tịch tĩnh và tâm tịch tĩnh thì tự đắc được giải thoát tự tại."
"Thôi đi, Liên Hoa Đồng Tử nhà ngươi chưa từng biết ta thần thông biến hóa quảng đại, uy lực tự tại hả?" "Tôi biết." - Liên Hoa Đồng Tử, tâm biết Ma Vương Ba Tuần thần thông tự tại. "Ta có thần thông, ngươi có pháp gì?" "Tôi dùng nguyệt yểm, bởi vì nguyệt yểm có thể điều hòa, cùng với ba mươi bảy vị sứ giả Kim Cang." "Ta sẽ nhập vào trong tâm người thân của ngươi, nhập vào tâm đệ tử của ngươi, ra lệnh cho họ không thuận duyên, khiến ngươi không đạt được mục đích độ sinh. Ta sẽ nhập vào tâm của sư phụ ngươi khiến họ ruồng bỏ ngươi." "Tôi hoàn toàn có thể bố thí, giữ vững bồ đề tâm." "Cứ cho là thế đi, thử rồi sẽ biết." - Ma Vương nói. "Đôi cánh định - huệ, giúp tôi bay vào hư không chẳng rơi xuống, cuối cùng tôi sẽ quay trở về Ma Ha Song Liên Trì." - Tôi khẳng định với Ma Vương như vậy.
07. Đủ kiểu mê muội
Khi Liên Hoa Đồng Tử rời khỏi Ma Vương Thiên, trong lòng nghĩ đến đủ kiểu mê muội. Tất cả chúng sinh vốn đều có sẵn Như Lai Tạng tính, thật sự là đã có sẵn Phật tính chân như, không hề có bất kì tạp nhiễm nào. Chỉ vì một suy nghĩ mù quáng mới vướng vào những mê muội. Suy nghĩ mù quáng này thật sự là gốc rễ của mê muội. Phật là chân tướng thật sự. Ma là suy nghĩ mù quáng. Sự khác biệt giữa Phật và Ma thật sự chỉ nằm ở giữa một suy nghĩ mà thôi. Vì sao lại mê muội, cũng chính bởi vì chúng sinh ngưỡng mộ và theo đuổi những cảnh giới đẹp đẽ bên trong và bên ngoài thân.
Ma muốn nhập tâm luôn cần phải do vọng tưởng của bản thân dẫn dắt:
- Chúng sinh đều có những thói quen phóng túng bừa bãi của kiếp trước, chỉ cần dâm niệm của bản thân khởi lên thì cũng giống như châm lửa, thế là lửa dục thiêu thân. Ma sẽ dùng mỹ nữ để mê hoặc, khiến cho hành giả phá giới và chìm vào mê muội.
- Tham niệm của người đời cũng là bẩm sinh, chỉ cần tham niệm của bản thân khởi lên thì ma sẽ lại tiếp cận, khiến họ lòng tham không đáy, mãi chạy theo vật chất không biết dừng lại, không có cách nào phá bỏ sự mê đắm vào tiền bạc.
- Người đời đều coi trọng bản thân, chê bai người khác, đó chính là tâm ngã mạn. Bản tính của ma chính là đề cao bản thân, tự cao tự đại. Người tu hành mắc phải chứng bệnh này cực kì nhiều, luôn luôn tự cho mình là pháp lực cao nhất, và thế là ma liền lợi dụng tâm ngạo mạn sinh ra để khiến người ta mê muội mà không tự biết.
- Nguyên nhân khiến chúng sinh thích đấu đá nhau là do so bì lẫn nhau, tị nạnh lẫn nhau, chỉ trích lẫn nhau, ma liền lợi dụng tâm tư này để xâm nhập vào tâm của hành giả, trở thành sân hận.
- Ma tiến nhập vào tâm hành giả, đầu tiên sẽ thúc đẩy ngã mạn, rồi lợi dụng lòng đố kị để sinh ra sự căm ghét lẫn nhau, oán trách lẫn nhau, cùng tranh giành địa vị tài giỏi, bài xích lẫn nhau. Thế là có thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến. Tất cả mọi quan điểm cá nhân tự phụ, không biết nhường nhịn, không biết loại bỏ cái tôi để theo người khác.
Tham niệm sinh ra, ma sẽ có kẽ hở để xâm nhập. Tham danh, tham lợi, tham sắc. Sân niệm sinh ra, ma sẽ có kẽ hở để xâm nhập. Ngã mạn, kiêu ngạo, đố kị. Si niệm sinh ra, ma sẽ có kẽ hở để xâm nhập. Vô minh, vô tri, tà ngộ.
Ma "quái quỷ" chuyên môn bám vào người tham danh lợi khiến cho người ta vĩnh viễn không biết chừng mực mà mãi tham luyến không buông bỏ. Ma "bạt quỷ" chuyên môn bám vào người tham sắc, để hút lấy tinh khí của họ. Ma "mị quỷ" chuyên môn bám vào người gian trá, khiến họ đầy rẫy mưu kế hãm hại mọi người. Ma "cổ độc quỷ" chuyên môn bám vào người có thói xấu, khiến họ như bị trúng độc, không có cách nào tự thoát khỏi được. Ma "lệ quỷ" bám vào người có tâm hung ác, giết người phóng hỏa, khiến người ta mắc bệnh dịch. Ma "ngạ quỷ" bám vào người kiêu căng tự cao, vì ngạo mạn mà tạo nên đủ loại ác nghiệp. Ma "võng lượng quỷ" bám vào những người thông minh nhưng có tà kiến, khiến thói quen lừa gạt của họ không thể dừng lại, sẽ nói đủ loại tà pháp, gây tội vào người. Vân vân và vân vân.
Vì sao người tu hành lại tiếp xúc với bệnh ma, đó là vì người tu hành không biết bản tâm chân thường, sinh tử không khác biệt, từ bỏ chính giác lại còn không tu, tự bản thân tu luyện như người mù lòa, chỉ có tu tâm ngông cuồng mà thôi. Có người càng tu hành thì càng tham danh tham lợi, đây chắc chắn là đã gặp ma. Có người càng tu hành, trong tâm càng khởi lên tà dâm, đây cũng là đã gặp ma. Có người càng tu hành, tính khí nóng nảy càng ghê gớm, kiêu căng ngạo mạn, duy ngã độc tôn, đố kị kiêu kì, đó chính là đã gặp ma. Có người càng tu hành thì lại càng trở nên vọng tưởng, sản sinh ra huyễn giác, bám chấp vào những u mê mà không ngộ ra, tự nói mình đã chứng đắc, không ngừng khởi lên những suy nghĩ ảo vọng ngông cuồng, đây cũng là đã gặp ma. Có người càng tu hành, càng thích tranh đấu, bài xích người khác, tu tập rối loạn, nói những lời phỉ báng ác độc, phạm tất cả giới luật, những người tu hành kiểu đó tự nhiên cũng là những người gặp phải ma.
Con người thế gian, có người cứ oán trách "tu hành lại gặp ma", kêu người khác đừng tu hành nữa. Đây không phải là lỗi của việc tu hành, mà là bản thân người tu hành ở vào tình huống không có chính niệm, là kết quả của sự vọng tưởng mình đã đắc chứng. Người tu hành đã đánh mất chính niệm thì rất dễ gặp ma, đủ kiểu mê muội, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thật ra là do tự mình vọng tâm mà tạo nên, chứ thực tế không phải là lỗi của việc tu hành!
Tệ hại nhất là chúng sinh ngu độn, người mê muội vô tri rất nhiều, phàm phu rất dễ đánh mất chính niệm, thêm nữa là Thiên ma lợi hại, cả đám xấu xúm vào đầu độc, người tu hành có thể ngộ được điều này là hiếm lắm!
Trước khi Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, từ Ma Vương Thiên đi ra, có cảm nghĩ về đủ kiểu mê muội, trong lòng cảm thấy bi thương, bởi vì tương lai của Liên Hoa Đồng Tử nhất định sẽ có ma tới quấy nhiễu, hơn nữa còn bị những đám người xấu công kích. Đệ tử mà không đủ định lực thì sẽ sẽ gặp phải kế sách xằng bậy xấu xa của lũ ma quỷ, canh phòng tâm không chặt thì thiên ma sẽ nhập vào tâm, sẽ có trí huệ điên khùng, huyễn giác tẩu hỏa nhập ma sẽ sinh ra. Điên đảo vọng tưởng như thế sẽ làm liên lụy rất nhiều đệ tử.
Liên Hoa Đồng Tử trong lòng cảm thấy xót xa, nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của định lực, tầm quan trọng của sự "bất động", tầm quan trọng của sự tịch tĩnh. Bảo vệ đệ tử thiền định khiến họ thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác.
08. Giáng xuống Đâu Suất Đà Thiên
Ma Vương Thiên còn gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên, bên dưới Tha Hóa Tự Tại Thiên là Hóa Lạc Thiên, bên dưới Hóa Lạc Thiên là Đâu Suất Đà Thiên.
Đâu Suất Đà Thiên là cõi trời thứ tư trong số sáu cõi Dục Thiên, ở trên Dạ Ma Thiên, ở cõi trời này niềm vui đến từ việc làm mọi thứ một cách hoan hỉ vui vẻ, vì vậy còn được gọi là Hỉ Lạc Thiên.
Đâu Suất Đà Thiên phân ra nội viện và ngoại viện. Người sống ở ngoại viện có thọ mệnh là bốn nghìn năm, người sống ở nội viện thì tuổi thọ không giới hạn. Vào các kiếp tương lai, ba loại tai ương lớn về nước, lửa, gió không thể gây tổn hại đến những người sống trong nội viện của Đâu Suất Đà Thiên.
Nội viện của cõi trời này lại phân ra làm 49 viện, trong 49 viện đó có một viện gọi là Thuyết Pháp Viện, chính là nơi Di Lặc Bồ Tát thuyết pháp. Liên Hoa Đồng Tử và Di Lặc Bồ Tát có mối duyên phận rất sâu sắc. Bởi Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh tại nhân gian cõi Ta Bà, trở thành Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh tôn giả, chiếc mũ miện đỏ này chính là do Di Lặc Bồ Tát tự tay đội lên.
Nội viện của Đâu Suất Đà Thiên này đều được làm từ ngọc mani, có thể nói là cả một vùng sáng rực rỡ. Liên Hoa Đồng Tử theo thứ tự hạ giáng xuống Đâu Suất Đà Thiên, mọi Thiên nhân đều hoan hỉ nghênh tiếp. Liên Hoa Đồng Tử đích thân yết kiến Di Lặc Bồ Tát ở Thuyết Pháp Viện. Tại Thuyết Pháp Viện này, có rất nhiều thánh giả cao tăng đều theo Di Lặc Bồ Tát, chờ đến lúc Di Lặc Bồ Tát hạ sinh tại Ta Bà, khi mở Long Hoa Tam Hội sẽ lại cùng hạ sinh tại Diêm Phù Đề, cùng giáo hóa chúng sinh. Họ đều là những thánh giả thừa nguyện độ chúng sinh.
Di Lặc Bồ Tát vừa trông thấy Liên Hoa Đồng Tử liền nói: "Thừa nguyện mà đến, Liên Hoa Đồng Tử, xin hoan nghênh, hoan nghênh."
Tôi ngẩng đầu nhìn Di Lặc Bồ Tát. Lúc này, Bồ Tát không giống như hình tượng bụng lớn mặt tròn miệng cười rộng như ở thế gian vẫn thấy, mà là đầu đội mũ miện quý báu, trong mũ miện có một bảo tháp, bảo tháp có xá lợi quang, tay trái của ngài đặt trước ngực, bàn tay xòe rộng, tay phải cầm hoa sen, trên hoa sen có bảo bình. Tay trái tay phải đều đeo chuỗi vòng ngọc, tướng mạo trang nghiêm như Phật, ngồi trên tòa hoa sen nghìn cánh. Đồng thời, tôi thấy bên cạnh pháp tọa của Bồ Tát có đặt một chiếc "Hồng Quán" tỏa ánh sáng lấp lánh.
"Liên Hoa Đồng Tử yết kiến Di Lặc Thánh Tôn." - Tôi cung kính chắp tay đảnh lễ. "Ta đang đợi con đến đây." - Di Lặc Bồ Tát cười ha ha. "Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh cõi Ta Bà, cần được Bồ Tát ấn chứng." "Chiếc mũ miện đỏ này chính là được chuẩn bị cho con, đợi con đến để đội lên." "Bây giờ ư?" - Liên Hoa Đồng Tử hỏi. "Không phải bây giờ, mà là sau khi con hạ sinh ở Ta Bà, tại thế giới Ta Bà, trải nghiệm hết cả tam giáo [ ND: Cơ đốc giáo, Đạo giáo, Phật giáo, đây là ba tôn giáo mà trong kiếp này Lư Sư Tôn đã có nhân duyên học tập ], trong thiền định con sẽ lại trở về Đâu Suất Đà Thiên. Tại thế giới Ta Bà, con tu các pháp chỉ quán lớn nhỏ, xoay vòng rồi lại xoay vòng, lặp lại mấy vòng xoay, nếu lại trở về Đâu Suất Đà Thiên, ta sẽ đội cho con chiếc Hồng Quán này." - Di Lặc Bồ Tát nói.
"Chà!" - Các thánh giả đều vô cùng kinh ngạc: "Ta Bà ngũ trọc ác thế, lòng người chống đối, đầy rẫy tà sư, trong thiền định trở về Đâu Suất Đà Thiên là việc khó lắm." "Không khó, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh, thời niên thiếu thì lập chí tu đạo nhỏ, giữa đường sẽ gặp được Thánh giả giáo hóa, Thích Tôn sẽ ban thọ kí, tương lai cậu ấy sẽ thành Phật. Liên Hoa Đồng Tử vốn là hóa sinh từ ánh sáng tại Tây phương tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì, huệ căn sâu dày, phụng mệnh Đại Nhật Như Lai, sẽ cứu độ được rất nhiều chúng sinh, thuyết pháp hành hóa, pháp duyên của cậu ấy xen vào giữa ta và Phật Thích Ca Mâu Ni, tương lai trong thiền định sẽ trở về Đâu Suất Đà Thiên, sẽ không gặp khó khăn." Các thánh giả đều vô cùng ngạc nhiên.
"Kính mong Bồ Tát Thánh Tôn hướng dẫn thêm." - Tôi cung kính trả lời, chắp tay tụng thán: Từ Thị A Dật Đa "Diệu Pháp Vô Năng Thắng Long Hoa có Tam Hội Chúng sinh đều đắc chứng Khắp toàn bộ ba vòng Liên Sinh lễ Di Lặc Tương lai mong ban tặng Hồng quán đội trên đầu."
[ ND: Từ Thị là dịch nghĩa theo tên gọi của Đức Phật Di Lặc Maitreya. A Dật Đa cũng là một danh hiệu gọi Phật Di Lặc.]
Khi tôi niệm bài kệ này, chiếc hồng quán bên cạnh Di Lặc Bồ Tát bỗng nhiên phóng ra ánh sáng đỏ rất mạnh ba lần, hơn nữa, trên chiếc hồng quán còn có bảo châu ngũ sắc, đều tỏa ra ánh sáng ngũ sắc rực rỡ, tạo thành một đường cong rót xuống đầu Liên Hoa Đồng Tử. Chiếc hồng quán lại từ từ bay lên, tự động bay về phía Liên Hoa Đồng Tử, cũng bay vòng quanh Liên Hoa Đồng Tử ba vòng, rồi lại bay trở về chỗ cũ.
Các thánh giả nhìn thấy cảnh tượng này đều ca ngợi Liên Hoa Đồng Tử pháp duyên quả nhiên thâm hậu, hồng quán đã tìm thấy người chủ đích thực của mình rồi. Các thánh giả và thiên nhân khen ngợi và hát lên bài kệ: "Liên Hoa quốc tối thắng. Tốt lành cứu chúng sinh. Dựng cờ pháp thần kì. Đạt niết bàn tối cao."
Liên Hoa Đồng Tử tại Thuyết Pháp Viện của Di Lặc Bồ Tát ở Đâu Suất Đà Thiên đã cung thỉnh Di Lặc Bồ Tát khai thị thuyết pháp. Di Lặc Bồ Tát giảng giải "pháp vi tế". Di Lặc Bồ Tát nói: "Một người tu định, tu chỉ quán, sẽ biết rằng hết thảy mọi pháp đều từ trong tâm sinh ra, hết thảy thân thể nhân duyên đều không phải chỉ là nhất thời tụ hội lại mà thôi, từ đó mà biết cái Không, đây gọi là "thể chân chỉ". Đến cuối cùng, trên không còn thấy Phật quả, dưới không còn thấy chúng sinh nào mà độ, đó là pháp tu giả nhập không quán. Nếu như vĩnh viễn trụ trong sự quán tưởng này thì sẽ rơi vào địa của Thanh Văn và Bích Chi Phật. Vì không còn thấy chúng sinh nào mà độ, không thể phát bồ đề tâm, tâm cũng không hỉ lạc, như vậy thì dù có định lực nhưng cũng không thấy được Phật tính."
Di Lặc Bồ Tát nói: "Một người đã tu được định, nhờ định đắc Không, nhờ Không đắc huệ, từ đó biết được tất cả các pháp trên đời đều là giả, giống như huyễn hóa chứ không phải thật, kì thực là sản sinh ra tướng kiến văn giác tri mà thôi, sự khác biệt thì có rất nhiều, người tu hành chỉ có thể ở trong hư không tu hành các kiểu, ví dụ như trồng cây trong hư không, phân biệt các căn của chúng sinh. Đó là từ tu hành Không nhập Giả quán mà đạt được phương tiện tùy duyên chỉ, đến được cảnh giới này là có trí huệ, có thể thuyết pháp, có pháp nhãn, dù thấy Phật tính nhưng cũng vẫn chưa thấu triệt."
Di Lặc Bồ Tát nói: "Một người tu định thái quá sẽ trở thành tất cả đều không, còn một người tu huệ thái quá sẽ trở thành tất cả đều giả. Do vậy, việc học định - huệ cần phải luyện tập "chấm dứt phân biệt nhị biên", thực hành trong trung đạo chính quán, cần biết rằng tâm tính là không thật không giả, phi không phi hữu, cũng có nghĩa là song chiếu nhị đế, tâm tính thông đạt trung đạo. Nếu như trụ trong sự quán chiếu này thì sẽ đắc Phật nhãn, tất cả trí lực, định lực, huệ lực đều ngang bằng, sáng tỏ và kiến Phật tính."
Các thánh giả niệm bài kệ: "Pháp sinh bởi nhân duyên Ta nói tức là không. Cũng gọi là tên giả. Nghĩa trung đạo là thế."
Thì ra, sự phân biệt vi tế của tam quán trong cái Không - Giả là như sau: Từ Giả nhập Không quán --- định lực nhiều, không kiến Phật tính. Từ Không nhập Giả quán --- lực trí huệ nhiều, dù kiến Phật tính nhưng lại không thấu triệt. Trung đạo chính quán --- định lực và huệ lực ngang nhau, hiểu thấu và kiến Phật tính.
Liên Hoa Đồng Tử bước nhanh tới trước, quỳ thẳng chắp tay, bạch Bồ Tát rằng: "Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà thì cuộc đời ấy sẽ như thế nào?" Di Lặc Bồ Tát nói: "Đi vào thai mẹ. Chịu khổ nhân gian. Trải nghiệm tam giáo. Tập pháp. Xuất gia. Lập tông phái. Làm đạo trưởng. Hàng phục ma. Thành chính giác. Chuyển pháp luân. Nhập niết bàn."
Liên Hoa Đồng Tử bỗng nhiên nhớ đến lúc A Di Đà Phật dặn dò, A Di Đà Phật đã cho một bài chân ngôn khai thị, bởi vậy liền thỉnh Di Lặc Bồ Tát khai thị luôn. Chân ngôn khai thị này là: "Nên ở gần sông núi. Chuyển dịch không vết tích. Chẳng mong cầu danh lợi. Pháp Không tự dựa vào."
Di Lặc Bồ Tát nói: "Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh cõi Ta Bà, để an tâm tu hành sẽ thường xuyên phải chuyển nhà, cần chuyển đến ở những nơi có sông có nước, đừng sống ở thành thị phố xá, cần dừng hết mọi sự theo đuổi việc thế gian có duyên với bản thân. Có thể chuyển đến những vùng hồ trong núi sâu, nghe được những âm thanh của thiên nhiên như tiếng côn trùng, tiếng nước chảy, tiếng cây cối xào xạc. Cần dừng hết mọi sự theo đuổi việc thế gian có duyên với bản thân, vậy mới là dịch chuyển mà không để lại dấu vết nào, dừng hết mọi sự theo đuổi việc thế gian có duyên với bản thân thì tất cả mọi danh lợi mới có thể không còn nhân duyên. Nếu cứ quanh luẩn trong vòng danh lợi thì cũng không thể có được tâm thanh tịnh. Liên Hoa Đồng Tử sau khi khai ngộ cần sống tại nơi sông núi, không được tìm cách trèo cao, trừ việc tu đạo và hoằng pháp ra thì tâm tình phải không được vướng bận thứ gì cả."
"Nếu như cần dừng hết việc thế gian có duyên với bản thân thì vì sao cần phải lập tông phái?" "Lập tông phái là vì chúng sinh, bởi vì có tông phái thì tâm lực mọi người mới có thể tập trung lại, thống nhất mục tiêu, từ đó tạo ra một trung tâm, thì cảm ứng về thân tâm của các đệ tử mới có thể phát sinh. Đồng thời cần có hội đồng tu, đồng tu là mượn sức mạnh của mọi người để tăng cường công phu tu hành của bản thân. Lập tông phái là kết duyên với tông phái, duyên cùng tu, tương lai sẽ dìu dắt nhau cùng đi đến Ma Ha Song Liên Trì. Lập tông phái là giáo pháp tiện lợi, nhờ tông phái mà sản sinh ra tín tâm, có được đường lối tu hành."
Di Lặc Bồ Tát nói: "Tông phái có thể khiến chúng sinh khởi tâm hộ pháp, là từ bỏ cái ác, tiếp tục làm thiện, công đức mới có thể tăng trưởng! Người người phát khởi tâm hộ trì tông phái, đó là lời thề nguyện lớn lao vô cùng quan trọng đó!" "Con đã hiểu rồi." - Liên Hoa Đồng Tử nói.
09. Giáng xuống Đế Thích Thiên
Liên Hoa Đồng Tử cưỡi hoa sen trắng lớn từ từ hạ giáng, bỗng nhìn thấy trong hư không xuất hiện Đế võng minh châu [ ND: Tại cõi trời Đế Thích, mọi thứ đều sáng rực rỡ nhìn như một mạng lưới ngọc minh châu ], Đế võng có rất nhiều lớp, ánh sáng của những viên minh châu lấp lánh phản chiếu lẫn nhau, sáng đẹp như một kì quan, trải dài miên man tới cả nghìn vạn dặm, nơi đây khắp nơi tỏa hương thơm mát, vô số sợi ánh sáng sắc màu bay lên như hình xoắn ốc, mỹ lệ phi phàm.
Khi đóa hoa sen hạ thấp đến gần Thiện Pháp Đường thì tôi trông thấy có một đồng tử và thiên nữ từ phía trước bay tới. Đồng tử có hai búi tóc trên đầu, nét mặt hồn nhiên đáng yêu. Thiên nữ mặc váy, khoác thiên y, đeo hoa tai, vòng cổ, vòng tay, lắc tay, vòng chân, toàn thân đeo vàng đeo ngọc, tướng mạo thanh tú xinh đẹp.
"Hai người là ai?" - Liên Hoa Đồng Tử hỏi, không giấu nổi sự ngạc nhiên. "Tôi là con trai của Đế Thích." - Đồng tử nói. "Tôi là Đế Thích công chúa." - Thiên nữ nói. "Thì ra là công tử và công chúa của Thích Đề Hoàn Nhân, không biết hai người có việc gì không?" "Chúng tôi ở Thiện Pháp Đường nghe thấy chư thiên hội nghị, biết được rằng Tây phương thiên Ma Ha Song Liên Trì có Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở thế giới Ta Bà, chúng tôi từ lâu đã nghe thế giới Ta Bà hỉ nộ ái ố phi thường, rất muốn đích thân trải nghiệm, nay đặc biệt cầu xin Thánh tôn trước, xin hãy đem hai chúng tôi đi cùng." - Đồng tử rụt rè, thiên nữ thẹn thùng. "Việc này sao có thể được!" "Được chứ, được chứ, chỉ cần Thánh tôn nói rõ là cần chúng tôi là được." "Làm gì có chuyện như vậy, tôi không hiểu." "Chư thiên ở Thiện Pháp Đường đang hội họp, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở nhân gian, chư thiên sẽ tặng cho hai lễ phẩm, hễ Liên Hoa Đồng Tử nêu ra là cần cái gì thì chư Thiên đều đáp ứng, bởi thế, Thánh tôn có thể chỉ định hai chúng tôi, hai chúng tôi có thể theo Thánh tôn xuống phàm trần, du lịch Ta Bà." "Thì ra là vậy, nhưng lễ phẩm là lễ phẩm, thiên nhân là thiên nhân, làm sao đánh đồng như nhau được?" "Lễ phẩm là vô hạn, chỉ mong Thánh tôn đồng ý."
Liên Hoa Đồng Tử rất khó xử. Nếu bằng lòng thì làm sao có thể đem công tử và công chúa của Thích Đề Hoàn Nhân xuống phàm trần, nếu không bằng lòng thì lại thấy đồng tử và thiên nữ cầu xin rất khẩn thiết, nhất thời không biết phải làm sao mới tốt. Lúc này, Liên Hoa Đồng Tử vận dụng thần thông, xoay chuyển túc mệnh, trong chốc lát đã hiểu rõ nguyên nhân hậu quả, nên khẽ gật đầu. Đồng tử và thiên nữ vừa trông thấy Liên Hoa Đồng Tử gật đầu thì hoan hỉ vỗ tay rời đi.
Khi Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng xuống Đế Thích Thiên, Đế Thích Thiên có rất nhiều thiên nhân đã đi cùng Liên Hoa Đồng Tử dạo chơi bốn đại uyển lâm.
Đầu tiên là Xa Uyển Lâm, Xa Uyển Lâm là khu vườn của những cỗ xe mây rất nhiều màu sắc và hình dạng, trong tâm nghĩ sao thì sẽ hiện lên như vậy, thiên nhân cưỡi xe mây bay lượn trong thiên giới, ánh sáng rực rỡ lấp lánh, tâm hồn vui phơi phới, có thể du lịch khắp 33 thiên giới.
Thứ hai là Thô Ác Uyển, trong khu vườn này tự động xuất hiện tất cả mọi pháp khí, hết thảy mọi pháp khí đều có, chày kim cang, kiếm, đinh ba, rìu, rìu chiến, v.v… mọi thứ đều có, khi A La Hán Vương và Đế Thích Thiên giao chiến, Thô Ác Uyển lập tức xuất hiện mọi vũ khí.
Thứ ba là Tạp Lâm Uyển, khu vườn này là nơi vui chơi của Đế Thích Thiên, tất cả các trò chơi tiêu khiển ở nhân gian đều có, hơn nữa còn vui hơn hay hơn cả ở nhân gian, tất cả đều đầy ắp niềm vui, nơi tận hưởng mọi thú vui hay nhất của thiên hạ.
Thứ tư là Như Ý Uyển, khu vườn này là bí mật nhất, có niềm hạnh phúc vô thượng, nghĩ gì được nấy, do vậy gọi là Như Ý. Vừa bước vào Như Ý Uyển thì bất kì nơi nào (cảnh giới) thiên nhân muốn đến thì đều có thể nhanh đến nhanh về, thần biến như ý hết sức.
Nhờ có nhiều thiên nhân cùng đi, Liên Hoa Đồng Tử đã đến Hỉ Kiến Thành ở đỉnh núi Tu Di bái kiến Thích Đề Hoàn Nhân (Thiên chủ của Đế Thích Thiên).
Liên Hoa Đồng Tử trông thấy mặt đất trải thảm đỏ, mây tím quấn quanh thân, mây ngũ sắc làm thành pháp tọa, ở trung tâm, Đế Thích cưỡi voi trắng, tay phải cầm chày ba chấu, tay trái cầm bảo bình như ý, Đế Thích Thiên Chủ tướng mạo viên mãn đầy uy nghiêm, nhưng đôi mắt rất hiền từ. Bên phải Đế Thích Thiên Chủ có một đồng tử, chính là con trai của Đế Thích, rồi bên trái có một thiên nữ đứng cạnh, chính là Đế Thích công chúa. Đồng tử và thiên nữ trên tay mỗi người đều cầm một chiếc bát hoa sen, bên trong bát có rất nhiều bảo vật trân quý. Còn có mười vị đồng tử thiên nữ khác cũng ăn mặc đẹp đẽ như vậy, trên tay cũng cầm bát hoa sen, cũng đựng đầy bảo vật trân quý.
"Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, chúng tôi tiếp nhận văn thư Phật pháp, trong lòng khâm phục tôn kính, nên sẽ hộ trì Thánh tôn hạ sinh ở Ta Bà. Nay chư thiên hội nghị, nguyện trình lên Thiên Thượng hai lễ phẩm để Thánh tôn hạ sinh ở Ta Bà có thể dùng." "Quà quý ở cõi trời, tại nhân gian có thể dùng sao?" "Quà quý ở cõi trời, nhân gian không nhìn thấy dùng, nhưng có thể dùng một cách vô hình, thật sự là diệu dụng vô cùng." - Đế Thích Thiên Chủ nói. "Xin lấy ví dụ để nói rõ." "Nếu như chọn bút tiên thì cây bút kì diệu này sẽ nở hoa, cảm hứng sẽ tuôn trào như nước chảy. Nếu như chọn ấn tiên thì sẽ đạt tới ba chức quan cao nhất. Nếu như chọn hoa tiên thì nhan sắc trẻ mãi, sống lâu trường thọ. Nếu chọn ngọc tiên thì trí tuệ hơn người. Nếu chọn cây tiên thì tài nghệ kiệt xuất…" "Những thứ này tôi đều không cần." "Thánh tôn, vậy ngài muốn cái gì?" - Đế Thích Thiên Chủ hỏi. "Tôi muốn Đế Thích công tử và Đế Thích công chúa." - Liên Hoa Đồng Tử chỉ vào đồng tử và công chúa ở bên cạnh Thích Đề Hoàn Nhân. Chư thiên ai nấy vô cùng sửng sốt.
Thế nhưng Đế Thích Thiên Chủ chỉ cười khẽ: "Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng đến Đế Thích Thiên, trong lòng Đế Thích đã hiểu, việc này từ lâu đã tồn tại nhân duyên rồi, Đế Thích không chỉ để cho Đế Thích công tử và Đế Thích công chúa xuống phàm trần mà còn cho thêm 10 vị đồng tử thiên nữ cùng xuống phàm trần, đây chính là lí do mà hôm nay có mặt 12 vị đồng tử thiên nữ ở đây." Chúng Thiên nhân vô cùng kinh ngạc.
Đế Thích Thiên Chủ nói: "Nhân duyên ở đây kể ra thì dài lắm, nhưng chúng Thiên nhân sau này chắc chắn sẽ biết thôi." "Đồng tử thiên nữ hạ giáng Ta Bà, sau này làm sao tôi nhận ra họ?" - Liên Hoa Đồng Tử hỏi. "12 vị đồng tử thiên nữ của Đế Thích Thiên hạ giáng Ta Bà, khi họ sinh ra chắc chắn sẽ kết thủ ấn của Đế Thích Thiên, có thể nhận ra họ nhờ thủ ấn." - Đế Thích Thiên Chủ lại nói tiếp: "Thủ ấn của Đế Thích Thiên chính là trước tiên tay trái nắm lại, ngón giữa vươn thẳng, ngón trỏ cong lại đèn lên lưng của ngón giữa, như vậy là thành thủ ấn." (Liên Sinh Hoạt Phật ghi chú: Phật Thanh, Phật Kì khi sinh ra, cả hai đều kết thủ ấn của Đế Thích Thiên. Phật Thanh chính là Đế Thích công chúa, Phật Kì chính là Đế Thích công tử. 10 đồng tử thiên nữ khác cũng đã tìm ra một số người, lúc sinh ra đều là những em bé sơ sinh có kết thủ ấn Đế Thích Thiên.)
Các đồng tử thiên nữ vừa nghe là đều được xuống Ta Bà thì đều vui mừng nhảy nhót như trẻ con. Đế Thích Thiên Chủ nói: "Liên Hoa Đồng Tử, xin vui lòng đưa 12 đồng nam đồng nữ trở về." "Tôi biết." - Nhưng trong lòng tôi thật sự là rất buồn, bởi vì không đưa họ trở về được thì phải làm sao đây! Trong lòng Liên Hoa Đồng Tử nghĩ vậy nhưng không dám nói ra. Không ngờ Đế Thích Thiên Chủ đã sớm biết tâm ý của Liên Hoa Đồng Tử, bèn nói: "Xin hãy yên tâm, tôi đưa cho ngài xem một thứ này." Đế Thích Thiên Chủ đưa tôi đi xem Đế Thích Cung, đó là một cầu vồng rất đẹp, trên trời hiếm thấy. Xem Điện Thù Thắng, là nơi ở bí mật của Đế Thích Thiên Chủ. Xem Núi Đế Thích, chính là nơi mà Đức Phật đặc biệt giảng kinh cho Đế Thích nghe. Xem Lưới Đế Thích, được treo tại Đế võng minh châu ở Đế Thích Thiên, lớp lớp vô tận.
Cuối cùng là xem chiếc bình Đế Thích, có thể tuôn ra vạn vật mà ta muốn. Tên gọi khác của chiếc bình này là Đức Bình, Hiền Bình, Cát Tường Bình. Chiếc bình Đế Thích này là bí mật của Đế Thích Thiên Chủ, không dễ dàng đem ra cho người khác xem, khác với chiếc bình như ý mà Đế Thích hiện thân cầm trên tay. Đế Thích Thiên Chủ nói: "12 đồng nam đồng nữ nếu như đánh mất bản tính, không thể trở về trời thì tôi sẽ ở trước chiếc bình này gọi chúng, lúc đó tự nhiên chúng sẽ hiện ra. Còn tại thế giới Ta Bà thì sinh mệnh của chúng cũng sẽ tự nhiên mà chết thôi."
Đế Thích Thiên Chủ thử nghiệm trước miệng chiếc bình cho Liên Hoa Đồng Tử xem. Ông ấy gọi một thiên nhân ở Đế Thích Thiên đã sinh tại cõi Ta Bà, thiên nhân này không ngờ lại từ miệng chiếc bình mà tuôn ra như khói, rồi từ từ tụ lại thành hình, trên người tỏa ánh sáng, như thiên nhân bình thường không khác biệt gì.
"Chà!" - Liên Hoa Đồng Tử cực kì sửng sốt. "Đây là nguồn gốc của Đế Thích Thiên Chủ sao?" - Tôi cung kính hỏi. "Tôi có được nó từ lâu rồi, vốn là của Cổ Phật, tại Đế Thích Thiên chỉ là hiển hóa mà thôi." - Đế Thích Thiên Chủ nói: "Tại cõi Ta Bà, muốn biết lai lịch của Đế Thích, có thể tu tập nghi quỹ "Đế Thích nham bí mật thành tựu", đây là pháp mà Kim Cang Thủ Bồ Tát có được khi tận mắt đến Núi Đế Thích, mật chú là do Di Lặc Bồ Tát tạo ra."
Liên Hoa Đồng Tử biết Đế Thích có truyền thuyết về trận đánh với Tu La Vương. Ba truyền thuyết này như sau: Hỏi rằng: "Vì sao Tu La thường đánh nhau với Đế Thích?"
Có ba đáp án là: "Tu La có mỹ nữ nhưng lại không có đồ ăn ngon, chư thiên có đồ ăn ngon nhưng lại không có mỹ nữ, hai bên ghen tị với nhau, do vậy mà đánh lẫn nhau."
Và: "Có Đại A La Vương tên gọi là La Ha, tu được thân thể to lớn dài hai vạn tám nghìn dặm, sống tại đáy biển lớn ở phía bắc núi Tu Di, thấy các vị thần như thần Nhật Nguyệt ở Đao Lợi Thiên và chư thiên du hành bay qua trên đầu hắn, vì thế mà hắn tức giận bèn khởi binh gây chiến."
Và: "Có A Tu La Vương tên gọi là Bì Ma Chất Đa, có chín đầu, mỗi đầu có nghìn mắt, chín trăm chín mươi chín cánh tay, tám chân, miệng phun ra lửa. Hắn có người con gái đoan chính không ai sánh bằng, Đế Thích mời về làm vợ, gọi tên là Duyệt Ý, sau đó, vì Thiên Đế cùng những người con gái khác vui chơi trong vườn khiến Duyệt Ý khởi tâm ghen tuông, liền báo với cha, nên Bì Ma Chất Đa vì con gái mà khởi binh đánh Thiên Đế."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi Đế Thích Thiên Chủ về ba truyền thuyết này. Đế Thích Thiên Chủ chỉ cười, không trả lời. Liên Hoa Đồng Tử lại hỏi: "Truyền thuyết nói rằng sau khi Phật Ca Diếp diệt độ, có một cô gái nghèo phát khởi tín tâm, muốn xây một tháp Phật, khi ấy có 32 người nguyện đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ cô gái xây tháp. Sau đó, cô gái nghèo này chỉ dựa vào công đức ấy mà trở thành Đao Lợi Thiên Chủ, còn 32 người kia cũng hỗ trợ cho Thiên Chủ này, trở thành thuộc hạ, mỗi người tạo lập một đơn vị thành 32 cõi trời, ở phương tây, do vậy mà có 33 cõi trời."
Đế Thích Thiên Chủ cũng không trả lời, nhưng có nói một bài kệ: "Đại nạn đều đã qua. Lời hứa không đọa lạc. Giống như Liên Sinh đây. Ngoài thu vẫn còn thu."
Chính bài kệ này đã nói lên bí mật của Đế Thích Thiên Chủ rồi! Liên Hoa Đồng Tử đã hiểu rõ ràng thấu đáo tường tận rồi. Liên Hoa Đồng Tử thỉnh giáo Đế Thích Thiên Chủ về việc có liên quan đến Dục Giới Thiên.
Đế Thích Thiên Chủ đáp: Dục Giới Thiên phân ra làm Địa Cư Thiên và Vân Cư Thiên. Địa Cư Thiên có Kiên Thủ Thiên, Trì Hoa Man Thiên, Thường Phóng Dật Thiên, Nhật Nguyệt Tinh Túc Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên. Vân Cư Thiên có Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Dục Giới Thiên vẫn có hình dạng vật chất, có mũ áo, có nhu cầu ăn uống nam nữ, do vậy mới gọi là Dục Giới Thiên. Còn như Sắc Giới Thiên, có hình dạng vật chất, nhưng đã không còn nhu cầu nam nữ, không cần mũ áo, nhưng vẫn cần nhờ vào pháp hỉ thiền định làm thức ăn. Còn Vô Sắc Giới Thiên thì đã không còn hình dạng vật chất, không còn nhu cầu nam nữ, không còn bốn loại sắc, có định quả sắc, lấy pháp hỉ thiền định và ý thức làm thức ăn. "Lục Dục Thiên, thập bát Thiền Thiên, tứ Không Thiên" gọi chung là tam giới 28 thiên.
Bài tụng Lục Dục Thiên chính là: "Tứ Vương Đao Lợi cùng ôm ấp Dạ Ma cầm tay Đâu Suất cười Hóa Lạc thân quen cùng Tha Hóa Ấy là niềm vui của Lục Thiên."
Tuy nhiên, lên được 28 thiên này, mặc dù có lạc thú vô cùng, nhưng vẫn còn ở trong luân hồi, vẫn chưa phải là cảnh giới bất động cuối cùng, vẫn chưa phải là niết bàn.
Có một bài tụng rất hay là: "Lục Dục chư thiên năm điều kém Tam thiền vẫn gặp nạn gió mưa Dẫu tu đến tận phi phi tưởng Chẳng bằng trở về được Tây phương."
Đế Thích Thiên Chủ (Thích Đề Hoàn Nhân) được người bình thường gọi là Thiên Đế, hoặc là Ngọc Hoàng Đại Đế, hoặc là Thiên Chủ (Chúa Trời). Ông ấy nói với Liên Hoa Đồng Tử rằng Đế Thích Thiên Chủ là hộ pháp của Như Lai, là vị chủ hóa sinh ra lợi ích, thân hộ pháp biến hóa, chiếm vị trí là chủ tướng của 33 thiên, vô cùng linh nghiệm uy nghiêm.
Sau khi Phật diệt độ, có một con quỷ to lớn bị tật ở chân đã đến cướp xá lợi Phật, Đế Thích Thiên Chủ đã biến hóa thành Thần Tướng dùng sức mạnh thần túc cưỡi mây đạp gió, trong chớp mắt đã tóm được con quỷ bị tật chân. Đế Thích Thiên Chủ cũng có hình dạng dũng mãnh uy lực đó! Ông ấy là đại hộ pháp của Phật môn.
Muốn lên được Lục Dục Thiên thì cần làm mười loại thiện nghiệp, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không khỉ ngữ, không tham lam, không sân hận, không ngu si. Luôn giữ mười hành vi lương thiện là có thể dẫn tới con đường lên trời. Giữ giới pháp của đạo mười thiện nghiệp là nền tảng của người tu hành. Trong Dục Giới, vẫn có bốn ác thú, đó chính là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, a tu la. Ngoài ra, ở nhân gian có bốn bộ châu là Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lư châu. Còn Lục Dục Thiên thì ở phía trên nhân gian, là gần với nhân gian nhất.
Liên Hoa Đồng Tử thỉnh giáo Đế Thích Thiên Chủ về thiện pháp để độ chúng sinh. Đế Thích Thiên Chủ đáp bằng một bài kệ: "Độ sinh thật ra là cứu người Cứu người là chữa bệnh của tâm Nếu như nhân tâm đều hướng thiện Thế gian đẹp đẽ biết nhường nào. Chữa trị nhân tâm bảy trạng thái Thất tình lục dục mà dứt được Thập thiện tự nhiên khắp nhân gian Cũng là thiên hạ được thái bình."
Đế Thích Thiên Chủ đã mở đại tiệc tại Hỉ Kiến Thành cho chư thiên nhân, nói rằng: "Nay gặp Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh tại Ta Bà, Liên Hoa Đồng Tử khó tránh được những đau khổ thế gian. Liên Hoa Đồng Tử đã không tiếc thân Thánh tôn, thiên nhân chúng ta sao có thể yên lòng mà sống tại thiên giới, quả vị của thiên nhân chúng ta dù nhỏ bé, nhưng cũng có thiện nghiệp công đức, chỉ mong thiên nhân hộ trì Liên Hoa Đồng Tử, tất cả đều giữ được đạo lý, tất cả đều ngộ ra bản giác, khiến chúng sinh có được pháp lạc, chúng ta sẽ được an tâm."
Liên Hoa Đồng Tử nói: "Sau này, tôi ở tại nhân gian luyện tập thiền định, trong thiền định chắc chắn sẽ trở về Đao Lợi Thiên để cảm tạ Đế Thích Thiên Chủ." Đế Thích Thiên Chủ nói: "Ngài trở về Đao Lợi Thiên, nếu thấy thảm đỏ trải trên mặt đất, mây tím quấn quanh thân, thì cũng tức là chân thân của tôi."
10. Đến Cát Tường Thiên
Liên Hoa Đồng Tử cưỡi trên tòa hoa sen trắng lớn rời khỏi cung Đao Lợi Thiên, nhất thời trong lòng không có chủ ý, không biết sẽ lại xuống tới nơi nào. Tòa hoa sen bay loanh quanh luẩn quẩn rồi thoắt thì bay về đông, thoắt lại bay về tây, cứ mập mà mập mờ.
Lúc này, tôi tự cảm thấy là đã đến chỗ của Bắc Thiên Vương (Bì Sa Môn Thiên) rồi, nhưng vẫn chưa đi vào trong cõi này thì đã gặp một cơn gió thần thổi tới, thổi ào Liên Hoa Đồng Tử tới một thắng cảnh nọ. Thắng cảnh này có rất rất nhiều hoa thơm vi diệu. Có đủ loại ánh sáng hạnh phúc nhiều màu sắc đan xen vào nhau. Tại thắng cảnh này, có một nơi là điện Công Đức, không ngờ lại được xây bằng bảy loại bảo vật.
Liên Hoa Đồng Tử vừa trông thấy cảnh sắc này thì biết ngay là đã đến Cát Tường Thiên. Cát Tường Thiên còn gọi là Công Đức Thiên, là nơi ở của Đại Cát Tường Thiên Nữ, cha của nàng ấy là Đức Xoa Ca Long Vương, mẹ của nàng là Ha Lê Đế Mẫu, anh của nàng là Bì Sa Môn Thiên (Đa Văn Thiên).
Đại Cát Tường Thiên Nữ từng tu tập Phật pháp, đi theo Bảo Hoa Công Đức Hải, Lưu Ly Kim Sơn, Chiếu Minh Như Lai, gọi tắt là Kim Sơn Chiếu Minh Như Lai.
Đại Cát Tường Thiên Nữ đi theo Kim Sơn Chiếu Minh Như Lai, đã trồng rất nhiều thiện căn, do vậy mà muốn gì được nấy tùy ý, có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều có được mọi niềm vui, đối với y phục hay ẩm thực, của cải đều có đủ, tiền bạc, thất bảo, trân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, đá ngọc... đều ban cho chúng sinh mà không hề lo nghĩ.
Đại Cát Tường Thiên ở gần Bắc Phương Thiên, nơi ấy còn gọi là Diệu Hoa Phúc Quang. Tại thế giới Ta Bà có lưu truyền bộ kinh gọi là "Đại Cát Tường Thiên Nữ thập nhị khế nhất bách bát danh vô cấu đại thừa kinh", "Phật thuyết Đại Cát Tường Thiên Nữ thập nhị danh hiệu kinh", và "Công Đức Thiên pháp".
Đại Cát Tường Thiên Nữ có 12 danh hiệu, đó là Cát Khánh, Cát Tường Liên Hoa, Nghiêm Sức, Cụ Tài, Bạch Sắc, Đại Danh Xưng, Liên Hoa Nhãn, Đại Quang Diệu, Thí Thực Giả, Thí Ẩm Giả, Bảo Quang, Đại Cát Tường.
Chân ngôn của nàng là: "Taruyetha. Shuli. Nishuli. Nishamuacha. Liye. Satuaning. Si ning sining. Ning ning ning ning. Ah. Luachi shiming. Namsaya. Soha."
Có thể trì 12 danh hiệu chân ngôn này thì có thể loại bỏ hết thảy nghèo khổ, mau chóng đạt được mọi tài bảo phong phú, cát tường an lạc.
Lúc ấy, Liên Hoa Đồng Tử tại Cát Tường Thiên trông thấy bên dưới cõi trời này đều có những đám mây thơm nâng đỡ, mỗi loại hoa ở đây đều có mùi thơm lạ, tất cả mọi vật đều thơm lạ, đây là đất nước của những mùi thơm đặc biệt.
Khi Liên Hoa Đồng Tử cưỡi tòa sen trắng lớn bay đến, cánh cổng lớn ở điện Công Đức Thắng tự động mở ra, Đại Cát Tường Thiên Nữ đã ở bên trong điện đó.
Đại Cát Tường Thiên Nữ thân đoan chính, mặc thiên y màu trắng đỏ, có hai cánh tay, đeo chuỗi ngọc, vòng xuyến, hoa tai, mũ miện. Tay trái của nàng cầm báu vật như ý, tay phải kết "thí vô úy ấn". [ ND: ấn ban cho lòng can đảm ] Sau lưng nàng hiện lên một ngọn núi thất bảo, phía trên mũ miện của nàng là mây thơm ngũ sắc, thiên y màu trắng đỏ của nàng vô cùng diễm lệ. Dung mạo của Đại Cát Tường Thiên Nữ xinh đẹp trang nghiêm, vẻ đẹp vượt trội vạn vạn thiên nữ. Lúc này trong không trung có thiên nhạc, đó cũng là chú âm của Đại Cát Tường Thiên.
Tiếp đó lại có một bài hát rằng: "Hôm nay ở Thắng Điện Từ xa tỏa khói mây Tòa sen trắng bay tới Tìm tiền kiếp nhân duyên. Bạch quang chiếu tới gần Ta Bà hiện trăng sao Độ sinh cũng có bạn Trong lòng chớ âu lo."
Liên Hoa Đồng Tử vừa nghe bài kệ này, có phần hiểu có phần không, gặp Đại Cát Tường Thiên Nữ, thiên nữ tươi cười nói: "Thánh tôn, có duyên tới đây, tôi sẽ đồng hành." "Nàng ư?" "Chính xác thì là linh quang của Đại Cát Tường Thiên Nữ."
Chỉ thấy Đại Cát Tường Thiên Nữ vừa xoay mình một cái thì từ trong hư không bay ra 12 vị thiên nữ. Một vị thiên nữ toàn thân là trang sức châu ngọc, một vị thiên nữ màu trắng, một vị thiên nữ có diệu nhãn, một vị thiên nữ toàn thân là ánh sáng quý báu, một vị thiên nữ nhiều màu sắc, một vị thiên nữ trang nghiêm, một vị thiên nữ cầm giỏ rắc hoa, một vị thiên nữ thì múa vũ điệu phi thiên, một vị thiên nữ ngón tay thon dài, một vị thiên nữ eo thon, một vị thiên nữ cầm báu vật, một vị thiên nữ dáng đi đẹp đẽ.
Liên Hoa Đồng Tử trông thấy thiên nữ có ngón tay thon dài đứng ở đầu hàng, bởi vậy gật đầu chào thiên nữ, thiên nữ này lập tức ẩn mình vào hư không, tan biến không thấy đâu nữa.
Đại Cát Tường Thiên Nữ và 11 vị thiên nữ khác cùng ngân nga bài kệ: "Người mới còn chưa đi Duyên cũ vừa chợt thấy Sinh xuống cõi Ta Bà Chần chừ chờ ngoài cửa Chàng đi ra hỏi nàng Nàng hãy cùng theo ta Lo việc nhà việc Phật Kiếp trước đừng si mê."
(Liên Sinh Hoạt Phật ghi chú: thiên nữ có ngón tay thon dài chính là Sư Mẫu Lư Lệ Hương, tức Thượng sư Liên Hương. Thượng sư Liên Hương không có đặc trưng gì khác, chỉ có ngón tay nhỏ và dài. Bà ấy biết rất nhiều việc thủ công, nấu cơm nấu canh, may đồ âu phục, giặt giũ quét dọn, thậm chí còn làm được cả những việc nặng như lắp đặt các thiết bị điện trong gia đình. Bà ấy là một thị giả chuẩn mực của Liên Sinh Hoạt Phật. Sau khi Liên Sinh Hoạt Phật xuất gia, Thượng sư Liên Hương cũng tiếp tục hầu hạ chăm sóc.)
Đại Cát Tường Thiên Nữ hóa thân ra 12 thiên nữ, trong số đó, thiên nữ có ngón tay thon dài chính là Thượng sư Liên Hương.
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Sau này, thiên nữ có ngón tay thon dài trở về cõi trời bằng cách nào?" Đại Cát Tường Thiên Nữ đáp: "Thánh tôn, trong quá khứ, tôi đã đi theo Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai, đã ứng đầy đủ mười danh hiệu của bậc Chính Đẳng Giác. Tất cả những thiện căn mà tôi đã trồng được, nhờ được Như Lai từ bi thương xót mà niệm uy thần lực, khiến tôi bây giờ có thể tới bất cứ đâu tùy ý muốn, đến bất kì đất nước nào mà tôi thấy và muốn đến, có thể khiến cho vô lượng trăm nghìn vạn tỉ chúng sinh được hưởng niềm vui, thậm chí có đầy đủ những thứ như quần áo thực phẩm của cải. Những bảo vật như vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách đều có đầy đủ."
Đại Cát Tường Thiên Nữ còn nói: "Nếu như có người chí tâm tán tụng "Kim quang minh tối thắng vương kinh", đồng thời ngày ngày đốt hương thơm và cúng hoa thơm, vì ta mà cúng dường Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai, rồi mỗi ngày ba thời xưng niệm danh hiệu của ta thì ta sẽ ban phúc cho chúng sinh ấy." "Họ sẽ có được tám loại lợi ích:
- Thân quyến không suy yếu.
- Cơn ăn áo mặc không thiếu.
- Uy quang trường thọ.
- Địa vị tăng nhanh.
- Có thể cầu mưa bất kì lúc nào.
- Thiên thần yêu thích.
- Lương thực sinh sôi.
- Mọi suy nghĩ đều thành."
Đại Cát Tường Thiên Nữ nói với Liên Hoa Đồng Tử: "Sau này Thượng sư Liên Hương muốn trở về Đại Cát Tường Thiên thì cần niệm như sau: Nhất tâm kính lễ nam mô nhất thiết thập phương tam thế chư Phật. Nam mô Bảo Kết Phật. Nam mô Vô Cấu Quang Minh Bảo Tràng Phật. Nam mô Kim Tràng Quang Phật. Nam mô Bách Kim Quang Tạng Phật. Nam mô Kim Cái Bảo Tích Phật. Nam mô Kim Hoa Quang Tràng Phật. Nam mô Đại Đăng Quang Phật. Nam mô Đại Bảo Tràng Phật. Nam mô Đông Phương Bất Động Phật. Nam mô Nam Phương Bảo Tràng Phật. Nam mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật. Nam mô Bắc Phương Thiên Cổ Âm Phật. Nam mô Diệu Tràng Bồ Tát. Nam mô Kim Quang Bồ Tát. Nam mô Kim Tạng Bồ Tát. Nam mô Thường Đề Bồ Tát. Nam mô Pháp Thượng Bồ Tát. Nam mô Thiện An Bồ Tát." "Tiếp đó tụng chú Đại Cát Tường Thiên Nữ ba biến, triệu thỉnh như vậy, tôi sẽ nghe được mà lập tức đến, rồi tùy theo mong cầu của nàng ấy, nếu muốn trở về Đại Cát Tường Thiên thì lập tức sẽ trở về được. Từng lời tôi nói đều là thật, không hề dối gạt."
Liên Hoa Đồng Tử biết nếu có chúng sinh trên đời thờ phụng 12 vị Phật, thờ phụng sáu đại Bồ Tát kể trên, ba thời cúng dường và lễ bái, rồi lại niệm thần chú Đại Cát Tường Thiên Nữ thì Đại Cát Tường Thiên Nữ chắc chắn sẽ đến để tiếp nhận cúng dường của chúng sinh, như vậy họ sẽ có được cảm ứng cát tường, sẽ nhận được nhiều niềm vui, tương lai sẽ có thể thăng lên Đại Cát Tường Thiên.
Liên Hoa Đồng Tử biết rằng thiên nữ có ngón tay thon dài chính là một trong 12 hóa thân của Đại Cát Tường Thiên Nữ, hạ sinh ở Ta Bà, trợ giúp Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp độ chúng sinh. Thiên nữ có ngón tay thon dài cũng có điểm đặc biệt kì lạ, hễ nghĩ điều gì thì tất cả đều hiện ra, nói cách khác là muốn cái gì thì cái đó sẽ xuất hiện. Đó là chính thiện căn, quả nhiên kì diệu bất khả tư nghì.
11. Hạ giáng đạo Địa Ngục
Liên Hoa Đồng Tử vừa rời khỏi Đại Cát Tường Thiên, đóa hoa sen trắng tỏa ánh sáng xa muôn trượng, đột nhiên linh quang đó hạ thẳng xuống, đi xuyên qua vô số thiên giới, xuyên qua vô số tầng mây, đi qua vô số quốc gia, rồi bất ngờ xuống thẳng tới đạo Địa Ngục.
Muốn tới địa ngục thì phải do hai nguyên nhân: Thứ nhất, là do uy thần lực. Thứ hai, là do tội chướng mà phải đọa địa ngục.
Nay Liên Hoa Đồng Tử trực tiếp hạ giáng xuống địa ngục chính là do nhân duyên đại uy thần lực, bởi vì trong nhiều kiếp trước, Liên Hoa Đồng Tử từng có lời thề rằng muốn độ chúng sinh chịu khổ trong địa ngục.
Địa ngục thật ra cũng phân thành ba loại:
- Địa ngục căn bản --- tám đại địa ngục và tám địa ngục lạnh giá.
- Địa ngục cận biên --- 16 địa ngục du tăng. [ ND: địa ngục du tăng là những nơi mà chúng sinh khi rơi vào đây thì đau khổ tăng lên gấp bội ]
- Địa ngục cô độc --- ở vùng núi, ở nơi hoang vui, ở trong rừng, ở trong không gian.
Tám đại địa ngục ở địa ngục căn bản được phân ra như sau:
- Địa ngục đẳng hoạt --- chịu các loại khổ như bị chặt chém, đâm chọc, xay xát, khuấy đảo, nhưng khi một con gió mát thổi qua thì lại tỉnh lại, vì vậy gọi là đẳng hoạt.
- Địa ngục dây thừng đen --- dùng dây thừng đen để căng tứ chi, sau đó cưa chặt, do vậy gọi là dây thừng đen.
- Địa ngục tổng hợp --- rất nhiều hình phạt được áp dụng lên thân, do vậy gọi là tổng hợp.
- Địa ngục gào thét --- bị đủ thứ khổ chèn ép, người phạm tội đau đớn mà gào thét ai oán, do vậy gọi là gào thét.
- Địa ngục kêu la --- bị những cái khổ ghê gớm nhất chèn ép, người phạm tội phải kêu gào la ó, do vậy gọi là kêu la.
- Địa ngục nóng nực --- lửa nóng bùng lên, cháy hừng hực, nóng tới mức không thể chịu nổi, do vậy gọi là nóng nực.
- Địa ngục đại nhiệt --- là đỉnh điểm của cái nóng, giống như rơi vào trong nham thạch nóng chảy, do vậy gọi là đại nhiệt.
- Địa ngục vô gián --- vĩnh viễn chịu khổ không dứt, vì chịu khổ liên tục không gián đoạn, do vậy gọi là vô gián. Địa ngục vô gián còn gọi là đại địa ngục A Tì.
Ngoài ra còn có tám địa ngục lạnh giá, 12 địa ngục du tăng, địa ngục cô độc. Trong đó có hình phạt bị đá tảng đè, hình phạt bị nướng cháy, hình phạt đóng băng, hình phạt trong hầm than, hình phạt bị nấu trong phân sôi, hình phạt bị rơi vào rừng kiếm, hình phạt rơi vào núi đao, hình phạt bị sắt đâm, hình phạt máu chảy thành sông, hình phạt bị xiên vào cọc đồng.
Liên Hoa Đồng Tử biết rằng tám đại địa ngục ở địa ngục căn bản, mỗi địa ngục lại có 16 địa ngục du tăng [ ND: mỗi đại địa ngục có 4 cửa, bên ngoài mỗi cửa lại có 4 địa ngục du tăng, do vậy bên ngoài mỗi đại địa ngục có 16 địa ngục du tăng ], tổng cộng là 128 địa ngục, lại thêm tám địa ngục nóng căn bản nữa thì sẽ là 136 địa ngục.
Liên Hoa Đồng Tử cưỡi trên tòa sen trắng lớn hạ giáng xuống đạo Địa Ngục, không ngờ văn thư của Phật Thích Ca Mâu Ni đã được gửi đến chỗ của Địa Tạng Vương Bồ Tát rồi. U minh giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát và thị giả bên cạnh ngài là Đạo Minh Hòa Thượng và Mẫn Công đều đến đón tiếp, cùng tiến vào Thúy Vân Thánh Cung.
Liên Hoa Đồng Tử trông thấy Địa Tạng Bồ Tát, đầu đội mũ Ngũ Phật, thân khoác áo cà sa, hai tay cầm ngọc như ý sáng rực, tướng mạo từ bi trang nghiêm. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, trước khi Di Lặc Bồ Tát xuất thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát đã được Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò và giao phó sẽ là một vị đại Bồ Tát cứu độ chúng sinh.
Thâm ý của hai chữ "Địa Tạng" này là: An ổn bất động như đại Địa. Tĩnh lự thâm mật như mật Tạng.
Liên Hoa Đồng Tử biết, Địa Tạng Bồ Tát độ chúng sinh đã hiển hiện làm các thân như Phạm Vương, Đại Tự Tại Thiên, Phật, Thanh Văn, Diêm La Vương, Quỷ Vương… để cứu độ tất cả chúng sinh chịu tội khổ. Vào kiếp tương lai, Địa Tạng Bồ Tát từng tự thề rằng nhất định phải độ hết lục đạo chúng sinh thì mới bắt đầu thành Phật. Giờ đây, ngài tùy niệm mà hiện thân trong cõi địa ngục của trời người, cứu mọi khổ nạn của chúng sinh.
Tại Thúy Vân Thánh Cung, Liên Hoa Đồng Tử gặp mặt Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng gặp cả sáu vị sứ giả của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Sáu vị sứ giả này chính là Diễm Ma sứ giả, Trì Bảo đồng tử, Đại Lực sứ giả, Đại Từ thiên nữ, Bảo Tạng thiên nữ, Nhiếp Thiên sứ giả.
(Liên Sinh Hoạt Phật ghi chú: trong số sáu vị sứ giả của Địa Tạng, Đại Lực sứ giả vì được Địa Tạng Bồ Tát giao phó rằng cần phải theo Liên Hoa Đồng Tử độ chúng sinh, do vậy sau này đã trở thành thị giả của Liên Hoa Đồng Tử. Đại Lực sứ giả cũng chính là Đại Lực Quỷ Vương, vì ông ấy có khuôn mặt tươi cười nên Liên Sinh Hoạt Phật gọi ông ấy là Tiếu Diện Quỷ Vương, ông ấy ẩn náu trong ngón cái tay phải của Liên Sinh Hoạt Phật. Đây chính là nguyên nhân mà Tiếu Diện Đại Lực Quỷ Vương trở thành thị giả của Liên Sinh Hoạt Phật.)
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni tại Đao Lợi Thiên dặn dò Địa Tạng Vương Bồ Tát đã nói rằng: "Hiện tại vị lai chúng trời người Nay ta ân cần dặn dò con Dùng đại thần thông thuận lợi độ Đừng để họ rơi vào ác thú."
Còn A Di Đà Phật tại Ma Ha Song Liên Trì cũng căn dặn Liên Hoa Đồng Tử rằng, hạ sinh ở Ta Bà, đích thân học pháp tu pháp để độ chúng sinh, cũng là một sự giao phó trọng trách lớn như vậy. Bởi vậy, khi Địa Tạng Bồ Tát gặp Liên Hoa Đồng Tử đã muôn phần cảm thấy thân thuộc, khi ấy Liên Hoa Đồng Tử cũng đưa ra đại nguyện lực với trời người, nguyện sẽ coi lời nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát như lời nguyện của mình, "địa ngục bất không, thề không thành Phật", nguyện đi theo Địa Tạng Vương Bồ Tát.
"Thánh tôn là Đại Bạch Liên Hoa ở Ma Ha Song Liên Trì, địa ngục ô uế, làm sao ngài có thể sống ở đây?" - Địa Tạng Bồ Tát nói. "Tôi đã lập lời thề như vậy, cần ở địa ngục." - Liên Hoa Đồng Tử nói: "Xin chỉ thị cho biết chỗ nào là ô uế nhất, tôi cần độ địa ngục ô uế nhất trước."
Địa Tạng Bồ Tát nói: "Trong địa ngục của tôi, có một nơi ô uế nhất, chính là Ao Máu, máu trong Ao Máu không chỉ có máu người, mà còn là tổng hợp đủ loại máu như máu gà, máu vịt, máu ngỗng, máu chó, máu trâu, máu chuột, máu hổ, máu rắn, máu ngựa, máu dê, máu khỉ, v.v… mùi tanh hôi xộc lên khiến người ta muốn nôn mửa. Đây là nơi ở của chúng sinh khi còn tại thế đã làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, nhục mạ sư phụ, tu tà pháp uống máu, bởi vì khi tại thế, họ thích những thứ bẩn thỉu, do vậy mà chiêu cảm việc sinh ra tại địa ngục bẩn thỉu này. Địa ngục này những thánh giả bình thường không muốn tới, bởi vậy chúng sinh trong Ao Máu khó mà được thoát khỏi đây." Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Vì sao tội này lại nặng như vậy?" "Việc làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, sỉ nhục lăng mạ sư phụ, là mười trọng tội xấu xa nhất đi ngược lại Đại thừa, trong chớp mắt, họ sẽ phải trải qua địa ngục vô gián của pháp giới này, thậm chí họ phải nhiều lần trải qua địa ngục vô gián của mười phương. Hình phạt ở Ao Máu là chìm nổi trong ao máu, chính xác là liên tục không gián đoạn. Thậm chí, những kẻ tu tà pháp uống máu, vẫn là huân tập tạp thuật, nhiễm đẫm máu tanh, tự nhiên sẽ chiêu cảm tới địa ngục Ao Máu." "Vậy chúng ta tới địa ngục Ao Máu." "Vì Thánh tôn muốn vậy, tôi sẽ dẫn đường trước." - Địa Tạng Bồ Tát nói.
Địa Tạng Bồ Tát đưa thị giả đi trước dẫn đường, còn Liên Hoa Đồng Tử cưỡi tòa sen đi theo sau. Khi gần tới Ao Máu. Khắp trời khắp đất là hắc quang uế khí. Máu tanh tăm tối, cái mùi ấy quả thực khiến người ta muốn nôn mửa, nói thẳng ra là không có cách nào hít thở được, có thể thấy chúng sinh ở Ao Máu chìm nổi trong Ao Máu khổ sở biết nhường nào. Lúc này, các thị giả đều dừng lại, không thể tiến thêm về phía trước được nữa.
Địa Tạng Bồ Tát vội vàng đem pháp tọa hồng quang ra, ánh sáng đỏ từ từ lan ra, bao trùm xung quanh các thánh giả để tránh cho khí bẩn chạm vào thánh giả. Hắc quang uế khí này hễ chạm vào thân thì tất cả đạo hạnh sẽ hóa thành số không. Lúc này, chỉ thấy các thánh giả đang bay trong ánh sáng đỏ, ánh sáng đỏ và ánh sáng đen vừa tiếp xúc với nhau thì đôi bên đều lùi lại mấy trượng, ánh sáng đỏ tiến lên thì ánh sáng đen cũng tiến theo, đôi bên rơi vào sự dùng dằng bế tắc.
Còn tòa sen trắng lớn của Liên Hoa Đồng Tử thì tỏa ra ánh sáng trắng, ánh sáng trắng chính là khắc tinh của ánh sáng đen, ánh sáng trắng tiến đến đâu thì ánh sáng đen liền bị xua tan đi đến đó. Liên Hoa Đồng Tử bay trong vòng ánh sáng trắng, đi theo ánh sáng đỏ của Địa Tạng Bồ Tát. Hai vùng ánh sáng trắng đỏ cứ bay như vậy trong đám khí đen, chẳng mấy chốc đã tiến vào trong Ao Máu.
Đám lính quỷ trong Ao Máu trông thấy Địa Tạng Bồ Tát và Thánh tôn đến, đều quỳ sụp xuống đất, vô cùng ngạc nhiên mừng rỡ, lớn tiếng thông báo cho các lính quỷ khác: "Chúng tôi suốt bao nhiêu kiếp tới nay phải sống ở địa ngục Ao Máu, chấp hành hình phạt, chỉ gặp Địa Tạng Bồ Tát hai lần, nay có Thánh giả tới đây, chúng tôi được cứu rồi!"
Liên Hoa Đồng Tử hỏi Địa Tạng Bồ Tát: "Lính quỷ trong địa ngục Ao Máu vì sao mà bị sinh ra ở đây?" "Lính quỷ của địa ngục Ao Máu là những kẻ tội chướng tương đối nhẹ, hơn nữa còn biết sám hối, nên đầu tiên tới đây để biết về vũng ao bẩn thỉu này, trừ bỏ uế khí, sau đó đến Ao Giải Oan, tẩy sạch oan khí, nhưng vì vẫn có tội chướng nên mới hóa thành lính quỷ."
Liên Hoa Đồng Tử và Địa Tạng Bồ Tát vì có linh quang hộ thân bèn đi thẳng đến không trung phía trên địa ngục Ao Máu, nhưng chỉ thấy sự rộng lớn của địa ngục này, mênh mông bát ngát thẳng cánh cò bay. Các loại máu tụ lại ở đây quả nhiên mênh mông như biển lớn, sóng vỗ ào ào, chúng sinh trong Ao Máu lúc thì chìm xuống, lúc thì nổi lên, đông nhung nhúc. Trong mớ hỗn độn mờ ảo đó vẳng lên tiếng khóc thút thít nỉ non không dứt, thống khổ và thê thảm.
Thì ra, chúng sinh trong Ao Máu, đói quá thì uống máu, khát cũng uống máu, khi tay chân không còn sức lực thì cũng chìm trong biển máu, chịu đau đớn chết chìm trong máu. Sau đó lại tỉnh lại, lại nổi lên trên bề mặt ao máu, lại ăn máu, lại uống máu, tay chân kiệt sức thì lại chết đuối, trong một ngày trải qua vô số lần như vậy. Những chúng sinh trong Ao Máu này cũng đã ở trong Ao Máu vô số kiếp rồi!
Liên Hoa Đồng Tử ở trong vùng ánh sáng trắng trông thấy cảnh tượng này, nước mắt tuôn rơi vì thương xót, cảm thán rằng: "Cũng là do ta sơ suất mà khiến cho chúng sinh trong địa ngục này khổ sở như vậy." Địa Tạng Bồ Tát nói: "Chúng sinh khổ báo vô tận, chúng ta đây cũng khó mà khước từ trách nhiệm này." "Tôi sẽ độ chúng sinh trong Ao Máu trước." - Liên Hoa Đồng Tử nói, rồi lập tức âm thầm chuyển nguyên thần, từ ánh sáng trắng phóng ra chín tia sáng sắc màu sáng chói chiếu tới Ao Máu, sau đó chín tia sáng lại hóa thành tám mươi mốt tia sáng, tám mươi mốt tia sáng hóa thành sáu nghìn năm trăm sáu mươi mốt tia sáng, ánh sáng hóa thành dây thừng rồi từng sợi từng sợi thả xuống Ao Máu.
Lúc này, chỉ thấy chúng sinh trong Ao Máu lần lượt nắm lấy dây thừng, cố sức bò lên trên, muốn thoát khỏi đau khổ nơi Ao Máu. Người người tranh nhau tóm lấy dây thừng, phấn khích trèo lên. Lúc này, trong Ao Máu bỗng xuất hiện Huyết Thú, nhe răng nanh sắc nhọn, lao tới cắn những chúng sinh đang bò lên, và những chúng sinh kiệt sức lại rơi xuống Ao Máu thì càng thê thảm hơn. Liên Hoa Đồng Tử thấy cảnh tượng ấy mà thất kinh. Đồng thời, chúng sinh bò lên dây thừng vì khốn đốn trong Ao Máu đã lâu nên đã chẳng còn sức lực, leo lên được một đoạn thì lại rơi xuống, không có cách nào leo lên bờ được. Bởi vậy mà rốt cục chẳng có một người nào lên được bờ.
Liên Hoa Đồng Tử lại phóng ánh sáng trắng để bảo hộ cho chúng sinh, ai ngờ trọc khí quá sâu, ánh sáng trắng chiếu tới Ao Máu, mặc dù đã áp sát được một lần nhưng vẫn bị dội ào ngược trở lại. Tình hình càng nguy hiểm đáng sợ hơn khi có những con Huyết Thú nhe răng nanh sắc nhọn chọn những người ngã xuống để ăn nên càng thêm kinh hoàng. "Huyết Thú từ đâu tới?" "Do nghiệp lực chúng sinh cùng tạo nên, vì Thánh tôn cứu độ nên chúng mới xuất hiện để gây trở ngại." - Địa Tạng Bồ Tát nói. "Vậy tôi phải làm sao để cứu độ?" "Thánh tôn thương xót chúng sinh ở Ao Máu, nhưng chúng sinh ở Ao Máu là do cộng nghiệp mà sinh ra, chẳng có pháp lực nào có thể độ được, sức mạnh của một mình Thánh tôn, muốn gánh nghiệp của chúng sinh ở Ao Máu e là khó khăn lắm." "Như vậy sao được! Tôi không tới thì thôi, đã tới đây rồi sao có thể tay không trở về được, như vậy thì làm sao mà độ chúng sinh được?" "Chỉ có cách thỉnh chư Phật cùng đưa tay ra cứu trợ mà thôi." - Địa Tạng Bồ Tát nói.
Liên Hoa Đồng Tử khi ấy trong lòng quyết tâm, chắp tay cung kính, hướng về hư không làm lễ, niệm một tiếng: "Om. Ah. Hum." Từ đỉnh đầu phóng ra mười vầng ánh sáng trắng bao bọc khắp pháp giới. Trong tâm Liên Hoa Đồng Tử niệm thầm: "Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, nay tới độ chúng sinh ở địa ngục Ao Máu trước, vì chúng sinh nghiệp nặng, Liên Hoa Đồng Tử không đủ sức xoay chuyển, nay cầu thỉnh thập phương Như Lai cùng độ chúng sinh ở Ao Máu, Liên Hoa Đồng Tử nhất tâm phụng thỉnh ba lần."
Vừa phụng thỉnh xong thì lập tức hiện lên vô lượng Phật quang, địa ngục Ao Máu sáng rực như ban ngày, tất cả khí ô trọc đều tiêu tan không còn vết tích, chỉ có những con sóng ở Ao Máu vẫn cuồn cuộn, Huyết Thú cắn người càng hung hăng hơn, chúng sinh gào khóc kêu cứu.
Trong hư không xuất hiện rất nhiều Như Lai: Thích Ca Mâu Ni Phật, Tì Lô Giá Na Phật, Lô Xá Na Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Phật, A Súc Phật, Bảo Sinh Phật, Bất Không Thành Tựu Phật, Đa Bảo Phật, Định Quang Phật, Phật Nhãn Phật, Bảo Tràng Phật, Lôi Âm Phật...
Trong hư không xuất hiện rất nhiều Bồ Tát: Quan Âm Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Pháp Tự Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Sơn Hải Huệ Bồ Tát, Quang Minh Vương Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Tam Muội Vương Bồ Tát, Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Uy Đức Vương Bồ Tát, Nhật Chiếu Vương Bồ Tát...
Chư Phật Bồ Tát cùng ban chiếu Phật quang khắp nơi, nhưng Phật quang khi gặp Ao Máu ô uế nhất cũng rơi vào sự bế tắc, không biết phải làm sao để thu dọn đám máu bẩn thỉu này.
Lúc này, Thích Ca Mâu Ni Phật nói: "Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng Ta Bà, vì một nhân duyên đại sự mà sinh, sau này cũng do ta đến trao cho ấn kí Như Lai, do vậy, việc độ chúng sinh trong Ao Máu cần phải do ta đến giúp đỡ." - Thích Tôn nói xong, xoay người về bên trái, phóng ra ánh sáng xanh lam.
Ánh sáng xanh lam hóa hiện thành Uế Tích Kim Cang Đại Quyền Thần Vương Phật đại uy lực, với hình tướng đại phẫn nộ với tám cánh tay, mắt đỏ thẫm, toàn thân màu xanh đen, tỏa hào quang sáng chói, trên tay cầm pháp khí và kết ấn, có kiếm, dây thừng, gậy gộc, đinh ba. Uy nghiêm hơn nữa là trên cánh tay đều có rồng quấn quanh để làm vật trang sức cho ngài.
Uế Tích Kim Cang còn gọi là Hỏa Đầu Kim Cang, Bất Hoại Kim Cang, Bất Tịnh Kim Cang. Lời thề gốc của ngài chính là ăn sạch tất cả những thứ bất tịnh, là vị Kim Cang quét sạch bất tịnh. Chỉ thấy Uế Tích Kim Cang đứng trong hư không, uy vũ không gì sánh bằng, với tám con rồng quấn trên cánh tay, vừa ngửi thấy mùi máu tanh bẩn là đã nóng lòng muốn thử xem sao. Uế Tích Kim Cang duỗi tám cánh tay ra, tám con rồng nhất loạt bay ra, mỗi con đều hiện nguyên thần, tám con rồng đều to lớn vô cùng, mở miện ra là có thể nuốt gọn nước của ba sông.
Thì ra, tám con rồng chính là: Bà Yết La Long Vương. Nan Đà Long Vương. Bạt Nan Đà Long Vương. Hòa Tu Cát Long Vương. Đức Xoa Ca Long Vương. A Na Bà Đạt Đa Long Vương. Ma Na Tư Long Vương. Ưu La Long Vương.
Tám vị Long Vương bay vút lên cao lượn vòng, hưng phấn dị thường, lập tức tám cái miệng cùng há ra uống sạch nước ô uế trong Ao Máu, ngay cả đám Huyết Thú cũng bị nuốt gọn. Sau hai, ba lần, máu trong Ao Máu đã bị hút hết sạch. Chỉ còn chừa lại chúng sinh trong Ao Máu ở dưới đáy ao mà thôi.
Uế Tích Kim Cang Đại Quyền Thần Vương Phật lại vươn tám cánh tay ra, thu hồi tám Long Vương, tám Long Vương này lại quấn trên cánh tay của Kim Cang Thần. Chư Phật Bồ Tát có mặt ở đó trông thấy khí thế nhường ấy đều vô cùng tán thán rằng: "Quả nhiên là Đại Quyền Thần Vương Phật. Là Đại Kim Cang hiện khắp thập phương. Lời nguyện từ bi cứu thế chẳng bỏ. Những nơi ô trọc cũng chẳng nề hà. Chúng sinh cầu thỉnh hiện tiền lập tức."
Uế Tích Kim Cang lại hóa thành ánh sáng xanh lam, lại tiến nhập vào trong tâm của Thích Ca Mâu Ni Phật. Lúc này, chỉ thấy Quan Thế Âm Bồ Tát cầm cành dương liễu và tịnh bình tiến về phía trước, cầm cành dương liễu vẩy tịnh thủy xuống Ao Máu, quả nhiên mỗi giọt hóa thành hoa sen đỏ, rải khắp tam thiên, tất cả đều thanh tịnh. Những chúng sinh trong Ao Máu đáng thương từ lâu đã phải trải qua vô số kiếp khổ, có chúng sinh đã chẳng còn thịt da, chỉ còn lại bộ xương khô tàn phế, có chúng sinh thì khiếm khuyết không toàn vẹn, miệng không thể nói, tai không thể nghe, đứt tay đứt chân, mù lòa, sau khi được Bồ Tát vẩy tịnh thủy thì không ngờ đều được phục hồi lại nguyên vẹn.
Quan Âm Bồ Tát quả nhiên là một vị Bồ Tát vĩ đại: "Nếu ta đến núi đao, núi đao tự gãy vỡ. Nếu ta đến ao lửa, ao lửa tự cạn khô. Nếu ta đến địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu ta đến ngạ quỷ, ngạ quỷ tự no nê. Nếu ta đến tu la, ác tâm tự điều phục. Nếu ta đến súc sinh, chúng tự có trí huệ."
Chúng sinh chịu khổ trong địa ngục chắp tay cùng niệm: Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát.
Lúc này, Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật lại tiến lên trước, nói với chúng sinh trong Ao Máu: "Nay có Nam mô Tây phương Liên Trì Hải Hội, Ma Ha Song Liên Trì, thập bát đại Liên Hoa Đồng Tử, Bạch Y Thánh Tôn, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư, Chủ Kim Cương Chân Ngôn Giới Bí Mật Chủ, Đại Trì Minh Đệ Nhất Thế Linh Tiên Chân Phật Tông, Liên Hoa Đồng Tử Mật Hành Tôn Giả hạ giáng cõi Ta Bà, thuyết pháp độ chúng sinh. Các người vừa đúng lúc gặp được cơ hội nghìn năm khó gặp này, nay độ các người thoát khỏi Ao Máu, lại trở về nhân gian, quy y Liên Hoa Đồng Tử, vào kiếp tương lai, chúng sinh ở Ao Máu chắc chắn sẽ có được nhân duyên thù thắng mà có được lợi ích lớn, tu hành lục độ viên mãn, chứng đắc trở thành thầy của trời người, cuối cùng chắc chắn sẽ vãng sinh đến Phật quốc của Ma Ha Song Liên Trì."
A Di Đà Phật nói với Liên Hoa Đồng Tử: "Chúng ta giao phó chúng sinh Ao Máu cho con." "Như vậy thật tốt." - Liên Hoa Đồng Tử chắp tay lại. Lúc ấy, A Di Đà Phật niệm ba biến vãng sinh chân ngôn: "Na-mo a-mi-tua-pua-ye, tua-tha-cha-tua-ye, tua-ti-ye-tha, a-mi-li-tua-pua-pi, a-mi-li-tua, xi-tan-pua-pi, a-mi-li-tua, pi-cha-lan-ti, a-mi-li-tua, pi-cha-lan-tua, cha-mi-ni, cha-cha-na, chua-tuo-cha-li, so-ha."
Chú này vừa niệm xong thì thấy trong hư không bung tỏa ra ánh sáng đỏ, một mùi thơm lạ kì trút xuống Ao Máu, khiến cho chúng sinh Ao Máu khi được tiếp xúc với mùi hương này thì tất cả đều được đưa tới chuyển luân đài để chuyển sinh thành người. Chư Phật Bồ Tát sau khi thấy việc độ chúng sinh ở Ao Máu đã xong thì lần lượt cưỡi hoa sen trở về thập phương pháp giới.
Trong hư không, chư thiên nhân cùng tán tụng rằng: "Đạo đức cao chót vót Rửa sóng máu địa ngục Nguyện làm người cha hiền Luôn luôn độ quần sinh. Miên man tiếng tụng kinh Bao đóa sen trở về Ai bảo địa ngục khổ Mật tu cũng thành Phật."
Lần này, Liên Hoa Đồng Tử cùng Địa Tạng Bồ Tát đến các ngục trong địa ngục nhiều lần, Liên Hoa Đồng Tử còn nhiều lần thuyết pháp trong địa ngục, dạy người ta thành tâm tụng "Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh", cũng độ cho rất nhiều chúng sinh trong địa ngục hiểu rõ đạo lý sinh tử, lại càng có nhiều chúng sinh được chuyển luân thoát khỏi địa ngục, thậm chí có người siêu thăng tới thiên giới, đó là một việc trọng đại trong cõi địa ngục.
Liên Hoa Đồng Tử đã ở trong địa ngục một thời gian dài, đến khi địa ngục tương đối thanh tịnh, các linh hồn đều có nơi quy về thì mới rời khỏi đạo địa ngục.
12. Luận đạo cùng Địa Tạng Bồ Tát
Liên Hoa Đồng Tử trong đạo Địa Ngục từng luận đạo cùng Địa Tạng Bồ Tát tại Thúy Vân Thánh Cung. Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Tâm tham dục sinh ra, cần dùng pháp nào để đối trị?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Tâm tham có thể che lấp thiện tâm, vì tâm tham như lửa, càng cháy càng mãnh liệt, dục vọng cũng càng mạnh. Người tu hành cần dùng các pháp như "bất tịnh quán", "quán khổ", "quán vô thường", "quán vô ngã" để đối trị. Bốn niệm này chính là để đối trị với tâm tham dục, là một cách quán tưởng để giữ tư tưởng suy nghĩ đúng đắn. Tứ niệm xứ không chỉ là ngoại cảnh mà còn cần thân tâm của bản thân phải thường xuyên khởi lên sự quán chiếu, như vậy thân tâm mới có thể có tiến bộ." Địa Tạng Bồ Tát lại nói: "Người tham dục nặng thì tự nhiên đây sẽ là căn nguyên của phiền não. Cái gọi là "trước ma" chính là khi trong tâm của hành giả đột nhiên hiện lên lòng tham dục, vừa đúng lúc ấy có quỷ thần ở gần đi qua và bắt được sự tương ứng đó mà ám vào, và đó chính là căn nguyên của "trước ma"." [ ND: trước ma có nghĩa là sự si mê, mê muội, trong tu hành thường gọi là tâm ma, dính mắc vào ma. ]
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Khi tâm sân nổi lên thì đối trị như thế nào?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Người có tính cách kiên cường cứng cỏi thì lại chính là người có tâm sân nặng, người cố chấp dễ sinh ra tâm sân. Trong số các đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, người có tâm sân nặng nhất hẳn là thuộc về tôn giả Đại Ca Diếp. Phật Đà thấy ông ấy đã cao tuổi, khuyên ông ấy từ bỏ khổ hạnh đầu đà, ông ấy vẫn cố chấp không chịu thỏa hiệp. Vì sao mà dẫn tới tâm sân, trên thực tế, cá tính bẩm sinh đã như vậy, rồi còn do ngoại cảnh tác động." - Địa Tạng Bồ Tát nói tiếp: "Tâm sân nổi lên, tự nhiên cũng là căn nguyên của phiền não, nếu chuyển biến thành tâm ghét bỏ muốn rời xa thì cái này cũng không hề gì. Nếu tâm phát hỏa không thể cứu vãn được thì sẽ gây trở ngại tới Thánh đạo. Người tu hành muốn đối phó với sự phiền não của sân hận chính là cần phải "bất động", bất động chính là Không, Không sẽ làm hiển lộ trí huệ. Hãy thử nghĩ duyên sinh ra như thế nào, cần lấy sự từ bi đi độ hóa người khác, đi gia trì cho người khác, hành giả cần chuyển hóa bất động thành từ bi, dùng từ bi để đối trị, từ bi này chính là vô lượng tâm, bình đẳng tâm."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Tâm si khởi lên, vậy làm sao để đối trị?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Vì vô minh mà dẫn tới ngu si, chúng sinh trên đời đa phần là ngu si, vì ngu si nên mới sinh ra tâm tham sân. Tham sân si ngăn trở Thánh đạo, si là không có sức mạnh quán chiếu minh giác. Chính vì chúng sinh ngu si, do vậy mới cần có Phật Thích Ca Mâu Ni hạ sinh nhân gian, Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh nhân gian, Di Lặc Bồ Tát hạ sinh nhân gian, những vị Phật Bồ Tát ấy hạ sinh cõi Ta Bà thuyết pháp chính là để truyền bá đại trí huệ, có phương pháp quán chiếu minh giác, chính là để đối trị lại sự ngu si. Đối trị ngu si thì cần dùng trí huệ, có trí huệ rồi thì mới có thể quan sát và lý giải đạo lý về vô ngã, vô thường, nhân duyên, không. Đối trị ngu si cần dùng sức mạnh quán chiếu, dùng trí huệ để phân biệt. Trí huệ minh xác là chuyên để đối trị ngu si."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Tương lai đến Ta Bà, cần dùng pháp gì để dạy con người?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Tốt nhất là dạy con người tu hành thực tế. Thế nhân phần lớn là lúc thì hay nghi ngờ, lúc lại dễ cả tin, hơn nữa lại thích những pháp nhanh, lại càng thích những pháp tu hành mới lạ nhưng cổ quái, đối với những pháp tu hành đơn giản thì lại coi thường. Thật ra những phương pháp đơn giản thì chỉ cần thực tu là nhất định sẽ tu hành thành công, nếu như có tín tâm lại cộng thêm dùng công lực tốt, thực tu một cách đơn giản thì cũng đã được hưởng cực kì nhiều lợi ích rồi. Liên Hoa Đồng Tử xuống Ta Bà chính là nên dạy con người thực tu, sửa chữa bệnh ngạo mạn về pháp của thế nhân, đồng thời cũng sửa chữa lý luận suông, chỉ nói chứ không làm của thế nhân."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Địa Tạng Bồ Tát dựa vào cái gì để độ chúng sinh?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Khi tôi tại thế, bên ngoài đã thể hiện thiện tướng, dùng sự tôn kính thầy, tôn kính Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, hiếu kính với cha mẹ, bố thí, trì giới, cúng dường Phật pháp tăng, hiểu biết sâu rộng và huân tu, đó chính là sự dạy dỗ chúng sinh biểu hiện ra bên ngoài của tôi, tôi phát đại nguyện lực." - Địa Tạng Bồ Tát nói: "Còn thiện tướng bên trong thì tôi dùng phương pháp thiền định mà Phật Đà dạy để nội tu, để đối trị với chứng bệnh của con người thế tục, thân tâm điều phục vọng niệm, nhập vào trong sự định chân chính, dùng tâm nhãn để nhìn mọi thứ bên trong thân, đắc thiện căn từ đó phát lộ ra ở hình tướng bên ngoài, trong định tôi phát tâm từ bi nghĩ về chúng sinh, trước tiên độ người thân được hạnh phúc, nội tâm vui vẻ không sao tả xiết. Từ đó mới phát đại nguyện độ chúng sinh chịu khổ trong địa ngục."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Làm sao phân biệt chính thiền và ngụy thiền?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Cần dùng trí huệ quán chiếu để phân biệt chính thiền và ngụy thiền, bởi vì người tu thiền định thân tâm đều sẽ từ từ chuyển biến. Chính thiền --- biểu hiện bên ngoài là từ bi, nội tâm tịch tĩnh và quang minh. Ngụy thiền --- biểu hiện bên ngoài là hung ác, nội tâm vọng động và hắc ám. Xuất hiện tâm kiêu ngạo, xuất hiện tâm tự đại, xuất hiện tâm đố kị, xuất hiện tâm không chịu thua kém, xuất hiện tâm tranh đấu, đó là những sự biến đổi xấu và ác. Hành giả cần dùng chính quán và không quán để phá bỏ, như vậy mới có thể làm sâu sắc thêm cảnh giới định. Hết thảy các tướng thấy trong thiền định đều phải biết là hư ảo và lừa gạt, phải không lo lắng không sợ hãi, cũng như không giữ không bỏ, không phân biệt tính toán, dừng dứt cái tâm kiến tướng này, thì tự nhiên tịch nhiên."
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Tôi xuống Ta Bà, Bồ Tát giúp đỡ tôi bằng cách nào?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Khi ngài gặp nghịch cảnh, tôi sẽ hiện thân chỉ dẫn, dạy ngài dùng sức mạnh quán chiếu."
Địa Tạng Bồ Tát nói bài kệ: "Thánh tôn khi quán tâm Đừng nhiễm ngũ trọc dục Nghịch cảnh, ta hiện thân Chỉ dẫn vào tịch tĩnh."
13. Lễ Quan Âm ở Nam Hải
Tại Thúy Vân Thánh Cung, Liên Hoa Đồng Tử cáo biệt Địa Tạng Bồ Tát, rời khỏi địa ngục, tòa sen trắng lại từ từ bay đến Phổ Đà Sơn ở Nam Hải, không ngờ lại đến tịnh thổ của Quan Thế Âm Bồ Tát. Tịnh thổ này là đại đạo tràng của Quan Thế Âm Bồ Tát, chính là "Tử Trúc Lâm Trung Quán Tự Tại". Cõi tịnh thổ này phong cảnh rực rỡ tươi đẹp. Có pháp âm của tiếng sóng biển, có phong cảnh kì diệu của các rặng núi đá, có rừng trúc, có Phật quang…
Quan Thế Âm Bồ Tát có mật hiệu là Chính Pháp Kim Cang và Thanh Tịnh Kim Cang. Bồ Tát quan sát mọi pháp, tự do tự tại, ban cho chúng sinh mọi công đức, bố thí cho chúng sinh mọi công đức, khiến chúng sinh thoát khỏi biển khổ, có được niềm vui. Quan Thế Âm Bồ Tát là vị đại Bồ Tát nghe tiếng kêu mà tới cứu khổ.
Quan Thế Âm Bồ Tát hiện đủ loại thân trong đủ cõi tịnh thổ, ứng với căn cơ của chúng sinh để làm lợi ích cho chúng sinh, do vậy còn gọi là 33 ứng hóa thân Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát còn ứng hóa thành 6 vị Quan Âm, 33 thể Quan Âm. Còn vị Quan Âm ở Trúc Lâm Phổ Đà Sơn ở Nam Hải là Dương Liễu Quan Âm, toàn thân mặc thiên y màu trắng, ngồi tư thế xếp bằng trên tòa hoa sen trang trí bởi trăm bảo vật trang nghiêm, đầu đội mũ hoa thất bảo trang nghiêm, trên cổ đeo chuỗi ngọc bảo châu, cổ tay trái tay phải đeo vòng xuyến, dung nhan lộng lẫy trang nghiêm, tay phải của ngài cầm cành dương liễu, tay trái nâng tịnh bình. Thị giả của ngài là Thiện Tài Đồng Tử hai tay chắp lại, và Long Nữ cầm bảo vật.
Phía trên Tử Trúc Lâm có một con chim mỏ ngậm tràng hạt. Con chim này gọi là chim Thái Bình. Lúc này, chim Thái Bình bỗng kêu lên rằng: "Liên Hoa Đồng Tử đến rồi, Liên Hoa Đồng Tử đến rồi." Vừa kêu lên như vậy thì chuỗi tràng hạt rơi xuống lớp cát bụi. Quan Thế Âm Bồ Tát trong lòng lay động, lập tức hiểu tất cả. Bồ Tát mỉm cười bước xuống khỏi chỗ ngồi, Liên Hoa Đồng Tử vội vã chắp tay lại lễ bái Quan Thế Âm. "Liên Hoa Đồng Tử vì sao lại vội vàng tới đây?" "Theo gió mà đến, chắc hẳn có duyên phận." - Liên Hoa Đồng Tử đáp.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: "Con quả nhiên là thần cơ diệu toán, thân tùy duyên mà đi. Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, Đế Thích công tử là con trai của con, Đế Thích công chúa là con gái của con, Đại Cát Tường Thiên Nữ là vợ của con, nhưng làm sao có thể không cha không mẹ được nhỉ! Phàm thai của cha mẹ thế tục không có cách nào giấu được thân của con. Vừa nãy con tới, chim Thái Bình thị giả của ta đã thấy con tới trước mà gọi to Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử và con chim này nhân duyên kiếp trước rất sâu, nhưng vừa há mỏ ra thì tràng hạt lại rơi xuống cát bụi, có thể thấy là duyên phận đã định, chim Thái Bình sẽ hạ phàm trần, đó là định số rồi. Con đã tới đây thì chim Thái Bình sẽ đi theo con, ta cũng sẽ thiếu mất một thị giả." "Xin Bồ Tát lượng thứ." "Không cần khách khí, đây cũng là một kiểu công đức thôi mà."
Thì ra, chim Thái Bình đi theo Quan Thế Âm Bồ Tát vốn là chim Ca Lăng Tần Già ở tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật biến hóa ra, còn gọi là chim Cộng Mạng. Quan Thế Âm Bồ Tát ở Tử Trúc Lâm trông thấy chúng thì thích thú, do vậy đã thỉnh A Di Đà Phật gửi đến một con, làm thị giả của ngài, nhân duyên kiếp trước của nó rất sâu là vì nó được biến hóa từ tâm của A Di Đà Phật mà tới.
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: chim Thái Bình của Quan Thế Âm Bồ Tát từ lâu đã theo Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở nhân gian, hơn nữa còn trở thành người mẹ sinh ra Liên Hoa Đồng Tử, chính là người mẹ ruột ở nhân gian, tên thế tục của bà là Lư Ngọc Nữ. Năm 18 tuổi thì bà sinh ra Lư Thắng Ngạn, Lư Thắng Ngạn chính là chuyển hóa của Liên Hoa Đồng Tử. Người mẹ Lư Ngọc Nữ mỗi lần nằm mơ đều mơ thấy trên thân mình có đôi cánh, biết bay, bay lượn là việc thường gặp trong mơ. Đồng thời, người mẹ được một dị nhân chỉ điểm rằng nhân quả kiếp trước của bà chim Thái Bình bên cạnh Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển thế, sự việc này từ rất lâu trước khi Liên Sinh Hoạt Phật đạt khai ngộ đã biết rồi. Đây là nhân duyên của người mẹ sinh ra ngài.)
Quan Thế Âm Bồ Tát nói với chim Thái Bình: "Lần này xuống cõi Ta Bà, đi mau về mau, ta không có gì ban tặng, hãy cầm chuỗi tràng hạt này đem đi vậy!" (Khi mẹ tôi sinh ra có nhau thai quấn quanh ngực, có nghĩa là đeo chuỗi ngọc mà sinh ra.) Chim Thái Bình nói: "Mong Bồ Tát hộ trì để có thể trở về Nam Hải." Bồ Tát cười vui vẻ: "Con sinh ra Liên Hoa Đồng Tử, là người mẹ thân sinh ra Liên Hoa Đồng Tử, nhưng sau này mẹ sẽ quy y con trai, con trai sẽ truyền cho mẹ Phật pháp, đó là nhân duyên, mẹ sinh con, con độ mẹ, đó là một câu truyện đẹp đẽ muôn đời, nhân gian hiếm thấy, chắc chắn có thể trở về trời." "Chỉ mong như vậy." - Chim Thái Bình cũng rớt nước mắt. "Con đi đi!" - Quan Thế Âm Bồ Tát nói với chim Thái Bình: "Tâm tính thanh tịnh, trong sáng là quan trọng. Tương lai ta sẽ lại ban cho con một viên ngọc, nhưng viên ngọc này chỉ chơi thì được, ta sớm muộn gì cũng sẽ thu lại, hãy nhớ! Hãy nhớ!" (Sự việc ban cho ngọc minh châu này cũng rất linh nghiệm. Nếu có cơ duyên, tôi sẽ thuật lại sau.)
Lúc này, chỉ thấy một ánh lửa đỏ bao trùm lấy chim Thái Bình, thế rồi từ hư không rơi xuống đủ loại hoa quý, chim Thái Bình hướng về Bồ Tát cúi đầu ba lần rồi bay vút lên không trung mà đi. Không trung vang lên tiếng hát bài kệ: Đại từ đại bi Quan Thế Âm Bố thí hết thảy cho chúng sinh Tây phương Cực Lạc chim Cộng Mạng Hồng liên trang nghiêm hạ phàm trần Thái Bình chim nhỏ đã bay xa.
Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Mẹ tôi Lư Ngọc Nữ vốn là chim Thái Bình thị giả của Quan Thế Âm Bồ Tát chuyển hóa, do vậy linh thể của mẹ tôi rất nhẹ, lúc còn trẻ đã có rất nhiều sự việc linh dị.
Những sự tích về việc thông linh của mẹ tôi cũng có thể kể ra vô tận. Ví dụ như thỉnh thần gọi tiên, muốn gặp một vị thần nào đó thì thần tiên đó lập tức hạ giáng, chỉ điểm công việc, vô cùng ứng nghiệm. Người khác thỉnh thần gọi tiên cần sử dụng thêm nhân lực, mẹ tôi chỉ có một mình đã có thể gọi thần đến, kì diệu phi phàm.
Gần đây có một câu chuyện linh dị như sau: Có một nơi là Linh Tiên Tịnh Xá ở Đài Trung Đài Loan, trước Phật đàn có đặt một vị gọi là Ông Hổ, là một vị cực kì linh nghiệm, có một hôm đột nhiên xuất hiện ba vệt cháy trên lưng của vị đó. Mẹ tôi thấy vậy thì cảm thấy rất kì lạ, bèn hỏi: "Ông Hổ, trên lưng của ông vì sao lại có ba vệt cháy vậy?" "Bị Bồ Tát đánh đó." - Ông Hổ đáp. "Vì sao?" "Bởi vì... bởi vì..." "Ông cứ nói đi đừng ngại." - Mẹ tôi truy hỏi đến cùng: "Có phải là ông không bảo vệ Phật đàn không?" "Không phải, là vì thần đàn ở nơi khác đang chỉ điểm Đại Gia Lạc minh bài, tôi nhất thời ham vui nên lập tức xuống đàn thành, cũng chỉ thị minh bài." - Ông Hổ đáp. [ ND: Đại Gia Lạc - Cả Nhà Vui là tên một hình thức chơi xổ số thịnh hành vào giữa những năm 1980 tại Đài Loan, minh bài là tiết lộ, chỉ điểm kết quả, đặc biệt được những nhân sĩ có khả năng thông linh tự xưng là nắm được thông tin từ "tay trong" nên có thể chỉ điểm kết quả xổ số. ] "Thì ra là như vậy." - Mẹ tôi đã hiểu ra. "Bồ Tát không cho phép tôi ra ngoài đi chơi, hơn nữa lại còn dung túng cho trò đánh bạc, do vậy tôi bị đánh ba roi." "Có đau không?" "Đau muốn chết đây." - Ông Hổ nói. "Tôi cho ông nước chú đại bi, bôi vào để giảm đau, có được không?" "Được, được, được." - Ông Hổ cực kì vui mừng.
Mẹ tôi lập tức niệm chú đại bi, dùng nước chú để bôi lên lưng của Ông Hổ. "Còn đau không?" "Không đau, rất cám ơn." - Ông Hổ đáp. "Ông có muốn tôi đem tượng của ông đi tới tiệm điêu khắc để sửa lại không, để che ba cái vết cháy đó đi?" - Mẹ tôi hỏi. "Đương nhiên là được rồi. Nhưng cũng cần Bồ Tát đồng ý đã." - Ông Hổ đáp. Mẹ tôi quay qua thỉnh Bồ Tát chỉ thị. Bồ Tát nói: "Không cần làm mới lại, Ông Hổ ham chơi, ba vết cháy này chính là để cảnh cáo, cần giữ giới, mới có thể đắc quả vị, đó cũng là để nhắc nhở chúng sinh."
Câu chuyện linh dị này đã chứng minh năng lực thông linh của mẹ tôi, cũng đã đạt tới trình độ thần hóa, đồng thời nước chú đại bi mà mẹ tôi niệm có thể điều trị các chứng bệnh liên quan tới thần linh, đó cũng là một điều thần diệu bất khả tư nghì. Sự kết nối giữa mẹ tôi và Bồ Tát đương nhiên càng trở nên thông suốt không hề có trở ngại.
Tại Chân Phật Mật Uyển ở Mỹ, tôi từng dạy cho mẹ tôi bí quyết vẽ phù, muốn vẽ phù linh nghiệm thì nghi thức và khẩu quyết là quan trọng nhất, mẹ tôi đã nắm được hết tâm yếu. Tôi lại dạy cho mẹ tôi khẩu quyết tu trì, mẹ cũng nắm được hết tâm yếu. Bí quyết thành công của Tam giáo đạo [ND: Đạo, Khổng, Phật ] "rút thần hợp nhất" mẹ tôi cũng nắm được hết. Bao gồm cả những chú ngữ bí mật cần phải đích thân truyền, tôi đều đã truyền thụ cho mẹ tôi.
Cuối cùng, tôi cũng chỉ có hai vị Thiện - Ác Đồng Tử biếu tặng cho mẹ tôi để trợ giúp cho linh uy của mẹ. Phù lục cứu đời của mẹ tôi từ lâu tiếng vang đã lan truyền khắp thế giới, chỉ cần nhờ Bồ Tát chỉ thị là có thể xuất phù, phù mà mẹ tôi vẽ ra vô cùng linh nghiệm. Các loại phù trừ bệnh, hòa hợp, cầu tự, cầu lợi, tăng ích, trừ tà, hộ thân, áp sát, trấn trạch... đều muốn gì được nấy, chưa bao giờ có sự sai sót nào.
Mẹ đến quy y con trai. Con trai truyền pháp cho mẹ. Đó là nhân duyên của sự việc lễ Quan Âm ở Nam Hải. Nhân duyên thù thắng giống như vậy, tại nhân gian này đã là rất hiếm rồi, rất hiếm rồi, rất vi diệu, rất vi diệu.
14. Tâm yếu của pháp môn Quán Âm
Liên Hoa Đồng Tử ở chỗ của Quan Thế Âm Bồ Tát tại Tử Trúc Lâm ở Nam Hải Phổ Đà Sơn, theo Bồ Tát đi khắp nơi thuyết pháp, nghe pháp, có được những cảm nhận vô cùng hay. Đặc biệt là pháp môn Quán Âm. Thì ra, tên gọi đúng của pháp môn Quán Âm là "Như huyễn vấn huân vấn tu kim cang tam muội".
Tu pháp này đạt được hai loại công đức thù thắng: Thứ nhất, trên hợp với bản giác diệu tâm của thập phương chư Phật, đồng thể với Phật, hơn nữa còn cùng một từ lực, có thể vận dụng vô duyên đại bi, phổ độ chúng sinh. Thứ hai, dưới hợp với thập phương lục đạo và hết thảy tâm tính chúng sinh, có thể cùng chúng sinh cùng chịu gian nan khổ cực, cùng đau buồn thương xót.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói với Liên Hoa Đồng Tử rằng: "Ngày xưa, ta từng cúng dường Quán Âm Như Lai, Quán Âm Như Lai ban cho ta ấn tâm, truyền thụ pháp môn Quán Âm, hôm nay ta đắc được thân Phật, cũng đắc được năng lực của Phật, do vậy mới có được 32 ứng hóa thân, có thể tùy cơ đi đến bất kì nơi nào theo ý muốn, tùy ý ra vào thập phương pháp giới, phổ độ chúng sinh còn trong mê lầm cùng lên bến bờ giác ngộ."
Bồ Tát hỏi Liên Hoa Đồng Tử: "Con có muốn ấn tâm không?" "Con xin học." - Liên Hoa Đồng Tử đáp: "Để con độ chúng sinh."
Thế là, Quan Thế Âm Bồ Tát ban ấn tâm cho Liên Hoa Đồng Tử. Rồi lại truyền dạy pháp môn Quán Âm. Pháp môn Quán Âm là bắt đầu tu từ đặc tính nghe thấy của tai, đây là pháp nhĩ căn tu chứng tam muội. Nhờ có được ấn tâm mà lập tức cảm thông được thập phương chư Như Lai, vượt ra ngoài thiên giới, vượt ra ngoài nhân giới, vượt ra ngoài tất cả mọi thứ trong sinh tử luân hồi, vượt ra ngoài pháp giới vô tận, đột nhiên siêu việt cả thế gian và xuất thế gian, không phải chịu sự trói buộc vào những quan niệm về "Không", "Hữu", v.v... trực tiếp tiến nhập vào "tịch chiếu hàm không, thập phương viên minh".
Pháp này yêu cầu như sau: "Vấn trung" --- quay trở vào trong lắng nghe tự tính, bản giác nội huân. "Ngược dòng" --- từ bỏ những thứ nghe thấy từ bên ngoài, quay trở về lắng nghe cái chân tâm ở bên trong, lục căn thanh tịnh. "Phản chiếu" --- quay trở về với diệu giác tinh tường sáng suốt, quang minh thuần tịnh không tì vết phổ chiếu. "Tận diệt" --- hai tính Động - Tĩnh hiển nhiên không sinh ra nữa, căn trần đều diệt hết.
Liên tục như vậy cho đến khi đến được cảnh giới tính Không trong suốt tịnh nhiên, trí tuệ giác chiếu cũng không, và nhờ đó, chân tâm bất sinh bất diệt sẽ tự nhiên mà hiển hiện, phát tỏa hào quang rực rỡ. Pháp "Nhĩ căn vấn huân vấn tu kim cang tam muội" có đại pháp lực, nếu tu chứng được pháp môn Quán Âm thì sẽ có được sức mạnh tuyệt diệu, có thể phân thành vô số thân để tìm đến nơi có những tiếng kêu cứu mà cứu khổ. Lửa bên ngoài thế gian không thể làm hại, nước bên ngoài thế gian không thể làm hại, gươm đao chạm tới thân thì sẽ bị đứt gãy hoàn toàn, tất cả ác quỷ đều không thể đến gần, xiềng xích gông cùm không thể trói được thân, phường trộm cướp không thể cướp bóc, rời xa tham sân si.
Pháp môn Quán Âm là nhĩ căn viên thông là tuyệt vời nhất trong tuyệt vời, là ấn tâm diệu kì nhất trong diệu kì.
Liên Hoa Đồng Tử cho rằng điểm quan trọng của pháp này là như sau: Kiến văn giác tri có thể trở thành pháp lưu thanh tịnh viên dung toàn vẹn. Căn bản là không còn chút chướng ngại nào. Hành giả trở nên nhậm vận tự tại tùy ý. Như trăng in dưới nước, có linh cảm tất ứng nghiệm.
Tu chứng pháp môn Quán Âm có thể thị hiện vô số vẻ bề ngoài kì diệu, có thể nói vô biên thần chú bí mật. Sự biến hiện của nó có thể uy mãnh như Mã Đầu Minh Vương, có thể tịch định như Thánh Quan Âm, có thể huệ chiếu như Như Ý Luân Quan Âm. Có thể nói bất kì thần chú bí mật nào, như một người thực thi can đảm không hề biết sợ hãi.
Ấn tâm này là: Nhất tâm hiện tiền. Vạn pháp vốn có. Đều có thần lực. Và nhờ trí minh. Phật tâm thượng đẳng. Hàm thức cũng thế.
Pháp môn này là: Nghe bản chất, thấy tri giác. Hạn chế mọi ma chướng bên ngoài. Có đầy đủ mọi tổng trì. Quảng độ chúng sinh mọi phẩm cấp.
Liên Hoa Đồng tử ở chỗ của Quan Thế Âm Bồ Tát tại Tử Trúc Lâm Phổ Đà Sơn có được ấn tâm chân chính, pháp môn Quán Âm khiến cho Liên Hoa Đồng Tử đắc được hai loại công đức thù thắng.
15. Nghi quỹ thực tu pháp môn Quán Âm
Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng, đệ tử Chân Phật muốn tu pháp môn Quán Âm thì trước tiên cần xin ấn tâm của Liên Sinh Hoạt Phật, có nghĩa là cần thỉnh cầu tâm ấn của Liên Sinh Hoạt Phật trước. Tâm ấn này là ấn tâm mà Quan Thế Âm Bồ Tát của Tử Trúc Lâm ở Nam Hải Phổ Đà Sơn ban cho Liên Hoa Đồng Tử. Rồi Liên Hoa Đồng Tử lại ấn tâm cho đệ tử Chân Phật.
Nghi quỹ tu trì pháp môn Quán Âm như sau (phân làm hai giai đoạn): Giai đoạn thứ nhất:
- Vào đàn thành niệm chú thanh tịnh.
- Triệu thỉnh Phật Bồ Tát chư Tôn.
- Chân Phật đại lễ bái.
- Chân Phật tứ quy y.
- Chân Phật bia giáp hộ thân. (kết giới)
- Chân Phật đại cúng dường.
- Niệm Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh. (1-3 biến)
- Hành giả Chân Phật hai mắt nhắm lại, tư thế ngay ngắn nhưng hơi buông lỏng một chút, không cần quán tưởng, miệng không cần niệm chú niệm Phật, không cần lần chuỗi hạt, tay cũng không cần kết ấn, tư thế ngồi tự nhiên đoan trang.
- Trong tâm của chính mình nghĩ đến bốn chữ Quan Âm Bồ Tát, mỗi chữ nghĩ khoảng hai giây.
- Phát âm mỗi chữ ở trong tâm, và tai nghe âm trong tâm. Chú ý nếu như trong tâm xuất hiện âm trong tâm của bốn chữ này thì mặc dù không dùng miệng để phát ra âm thanh nhưng vẫn có thể dùng tai để nghe âm thanh này. Do vậy có thể chứng minh được sự tồn tại của tâm.
- Sức chú ý luôn đặt vào âm trong tâm và sự nghe thấy của tai, cứ như vậy không dừng dứt, tất cả tạp niệm đều thu về bốn chữ này. Cố gắng như vậy, hấp thu vạn niệm thành nhất niệm, không lâu sau tâm cảnh sẽ được mở mang khai thông, bên trong đạt được trạng thái tinh thần thống nhất khinh an.
- Giữ trạng thái định trong cái "nhất" này một hồi lâu.
- Xuất định.
- Hồi hướng: Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con sớm đắc được trí huệ nhãn. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con mau chóng độ hết thảy chúng sinh. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con sớm đắc thiện phương tiện. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con mau chóng lên con thuyền bát nhã. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con sớm vượt qua được biển khổ. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con mau đắc được giới định đạo. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con sớm chứng niết bàn sơn. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con mau chóng có thể vô vi xả. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm, nguyện con sớm tương đồng với thân pháp tính. Đại lễ bái Phật. Cát tường viên mãn.
(Giai đoạn tu pháp thứ nhất này là vạn niệm thu về thành nhất niệm, mọi niệm đều nghĩ tới Quan Âm Bồ Tát, lập tức nhập vào cảnh giới nhất tâm bất loạn. Khi ngồi thiền, thời gian nửa tiếng là phù hợp.)
Giai đoạn tu pháp thứ hai: (sau khi đã có thể giữ nhất tâm bất loạn được một thời gian dài thì có thể tu giai đoạn thứ hai) Tiến hành mục 1 đến 7 giống như giai đoạn thứ nhất. 8. Hành giả Chân Phật hai mắt nhắm lại, tư thế ngồi tự nhiên đoan trang. Tay không kết ấn, miệng không niệm Phật niệm chú, không quán tưởng, không lần chuỗi hạt. 9. Dừng việc niệm thầm "Quan Âm Bồ Tát", dừng âm trong tâm, bỏ hết mọi sự nắm giữa. 10. Dùng tai nghe để quán chiếu trong tâm liệu có "tự âm tự ngữ", nếu có thì lập tức lại niệm thầm bốn chữ "Quan Âm Bồ Tát" để thu lấy cái "tự âm tự ngữ" đó, nếu không có thì nhập vào cảnh giới viên tịch vi diệu, đây chính xác là "sinh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền", hai tính động - tĩnh hoàn toàn không sinh ra, tâm linh an tịnh, pháp thân thanh tịnh, nhập vào niết bàn. 11. Do nhất niệm trở thành vô niệm mà nhập vào kim cang tam ma địa, tam ma địa này chính là "Như huyễn vấn huân vấn tu kim cang tam muội". 12. Nhập định trong tam ma địa này một hồi lâu. 13. Xuất định, hồi hướng: (giống như giai đoạn thứ nhất) Đại lễ bái Phật. Rời khỏi đàn thành. Cát tường viên mãn.
(Giai đoạn tu pháp thứ hai có thể ngồi khoảng hai giờ, pháp môn này có thể đạt được sự khinh an, quang minh thanh tịnh, hỉ lạc xuất hiện, đắc đại trí huệ, đắc đại giải thoát, độ sinh vô tận, đắc thân pháp tính.) Nghi quỹ tu pháp môn Quán Âm mặc dù đơn giản nhưng mà là lời giản dị ý sâu xa, do có ấn tâm, Quan Âm Bồ Tát pháp lực viên thông mà mau chóng đạt được thành tựu.
16. Cung Tử Hà ở Thiên Hà Thắng Cảnh
Liên Hoa Đồng Tử rời khỏi Tử Trúc Lâm ở Nam Hải Phổ Đà Sơn, bèn đến ngay Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ này cũng là quê hương của Thần Tiên. Liên Hoa Đồng Tử ở tại Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ để chờ đến lúc hạ sinh.
Thần Tiên (thiên nhân) ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ đều biết Liên Hoa Đồng Tử chuẩn bị hạ sinh, do vậy thiên nhân đều năng lui tới để thăm hỏi, cảm giác thân thiết bội phần.
Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ kì thực chính là giới Ngân Hà ở trên trời. Ở nơi này, bất kì vật phẩm nào cũng đều tỏa hào quang, hào quang nghìn tia vạn tia, rực rỡ tuyệt đẹp. Cung điện, rừng cây, hồ nước đều tươi sáng lấp lánh. Trên trời có hương thơm kì diệu, có âm thanh kì diệu. Thiên nhân đều mặc thiên y, đeo chuỗi ngọc trang nghiêm.
Còn Cung Tử Hà nơi Liên Hoa Đồng Tử ở là cung điện thất bảo nguy nga lộng lẫy nhất tại Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ. Liên Hoa Đồng Tử du lịch khắp Thiên Hà Thắng Cảnh, thấy đời sống của thiên nhân có nhiều thứ thần kì và bất khả tư nghì, đúng là "bất khả thuyết", nói ra thì người ta cũng không tin.
Liên Hoa Đồng Tử đi tới một nơi nọ có một Kim Đàn, là một đàn thành màu vàng kim vô cùng cao lớn, tất cả đều được làm bằng vàng, rực rỡ đẹp đẽ tráng lệ, cánh cổng lớn phía trên cao có treo sáu chữ, đó là "Thầy của Liên Hoa Đồng Tử".
Liên Hoa Đồng Tử vừa trông thấy thì kinh ngạc, chuyện này là thế nào đây? Liên Hoa Đồng Tử hỏi một thần tiên đi qua đường: "Thầy của Liên Hoa Đồng Tử, sáu chữ này hàm ý là gì vậy?" "Có lẽ người không phải là thần nhân ở xứ này, bởi vì thần nhân ở xứ này đều biết cả." Thần tiên qua đường nói: "Nay có vị Phật Vương vĩ đại nhất là hóa thân ánh sáng của Đại Nhật Như Lai sẽ đến thế giới Ta Bà để du hí tam muội, rất nhiều thiên nhân đều hộ giá ngài hạ giáng, vị Phật Vương vĩ đại nhất này chính là Liên Hoa Đồng Tử. Hơn nữa, Kim Đàn tôn giả ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ còn nhận được chiếu thư của Phật, muốn Liên Hoa Đồng Tử sớm hạ sinh ở nhân gian, tương lai ở thế giới Ta Bà sẽ dạy cho Liên Hoa Đồng Tử học tập các pháp như ngũ thuật Đạo - Mật, khiến Liên Hoa Đồng Tử đạt được thành tựu, do vậy Kim Đàn tôn giả chính là thầy của Liên Hoa Đồng Tử." "Thì ra là vậy, Kim Đàn tôn giả là ai nhỉ?" - Liên Hoa Đồng Tử tự lẩm bẩm với chính mình.
Vị thần tiên qua đường nói tiếp: "Kim Đàn tôn giả ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ trở thành vị thầy ở cõi Ta Bà của vị Phật Vương vĩ đại nhất, chẳng phải là một việc đáng chúc mừng sao? Bởi vậy mà cung Kim Đàn mới treo cao sáu chữ "Thầy của Liên Hoa Đồng Tử", đây cũng là vinh quang lớn nhất của Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ đó!" "A! Hóa ra là như vậy, chẳng trách ta đến đây để chờ ngày hạ sinh."
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Kim Đàn tôn giả hạ sinh ở Ta Bà, sinh ra trong đại lục, xuất gia làm tăng từ sớm, vị ấy chính là Liễu Minh Hòa Thượng, về sau ngài tới Đài Loan ẩn cư thì đổi tên thành Thanh Chân Đạo Trưởng, ẩn cư tại núi Tập Tập. Liễu Minh Hòa Thượng từ lúc còn trẻ đã gây chấn động khắp Trung Quốc, thần tướng cực kì nổi danh. Những thuật mà Thanh Chân Đạo Trưởng đã luyện đều truyền cho một mình Liên Sinh Hoạt Phật, và chính Thanh Chân Đạo Trưởng, không phải là ai khác, chính là Kim Đàn tôn giả ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ.)
Liên Hoa Đồng Tử nhớ đến câu chuyện Phật Thích Ca Mâu Ni hạ sinh ở cõi Ta Bà: Thích Ca Như Lai xuống Ta Bà. Thái tử hoàng cung mừng khôn xiết. Cung nga mỹ nữ thật ung dung. Thế giới Ta Bà khó hiểu thấu. Đại nguyện kiếp trước vẫn còn đây. Giang sơn vứt bỏ không nuối tiếc. Ái tình biển nghiệp biết làm sao. Tuyết Sơn sáu năm khổ đã nhiều. Dưới gốc bồ đề ngài ngộ đạo. Tháng năm thuyết pháp trong khu vườn. Vương quốc tự tại của Pháp Vương. Phổ độ chúng sinh về Cực Lạc.
Tại Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, Liên Hoa Đồng Tử nghĩ đến tương lai hạ giáng cõi Ta Bà, Phật Bồ Tát chư Tôn và thiên nhân đều sắp xếp ổn thỏa, ngay cả vị thầy để học pháp cũng đã chỉ định sẵn, nhưng cũng vẫn cảm thấy một mình lẻ loi phiêu bạt, tự nhiên phải chịu vô số gian nan vất vả, trải qua các kiếp nạn, lại còn phải vừa học pháp, vừa phổ độ, rồi phải học đạo lập thân, lại phải tu thân. Còn thế nhân thì chỉ có ăn ăn ngủ ngủ mà thôi, người mà tích cực hơn thì cũng là quay cuồng lặn ngụp trong danh lợi, chúng sinh khó độ, thế nào là tốt, Liên Hoa Đồng Tử làm thế nào để học tập theo tấm gương của Như Lai, Liên Hoa Đồng Tử cũng phải chịu khổ hạnh sáu năm ở Tuyết Sơn giống như Như Lai sao? Liên Hoa Đồng Tử có thể chịu đựng bị roi đánh không? Liên Hoa Đồng Tử có thể chịu đựng sống trong đói khát không? Liên Hoa Đồng Tử có thể chịu đựng phỉ báng không? Liên Hoa Đồng Tử có thể chịu đựng sự ghen ghét không? Liên Hoa Đồng tử có thể chịu đựng sự quyến rũ sắc tình không? Tất cả những điều này đều khiến người ta lo lắng.
Đúng vào lúc này, vị thần tiên qua đường hỏi: "Dám hỏi thần nhân đạo hiệu tôn xưng là gì?" "A! Thật không dám giấu, tôi chính là Liên Hoa Đồng Tử." "Liên Hoa Đồng Tử, vị Phật Vương vĩ đại nhất, hóa thân ánh sáng của Đại Nhật Như Lai." - Thiên nhân vừa nói vừa hướng về Liên Hoa Đồng Tử đảnh lễ. Liên Hoa Đồng Tử vội vàng đỡ ông ta dậy, hỏi: "Phải xưng hô với tôn giá thế nào?" [ ND: tôn giá là cách xưng hô tôn trọng người đối diện ] "Tôi là sứ giả cầm đèn ở Cung Tử Hà." "Tôi sống tại Cung Tử hà, vì sao không thấy ông?" - Liên Hoa Đồng Tử lấy làm kì lạ. "Cung Tử Hà rộng lớn như vậy, Thánh tôn thân phận cao quý, tiểu thần chức vị thấp kém, làm sao Thánh tôn thấy tiểu thần được!" "Làm gì có chuyện đó chứ. Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng cõi Ta Bà, vận mệnh sau này nhiều điều bất thường, phải chịu nhiều điều sỉ nhục, tương lai làm gì có tôn ti trật tự gì để mà nói, giờ đây, từ lâu trong lòng tôi đã vứt bỏ cái tâm phân biệt tôn ti trật tự rồi. Tại cảnh giới thần tiên thì có tôn ti trật tự, nhưng ở Phật quốc thì tất cả Chân Phật đều bình đẳng."
"Vậy thế nào là Chân Phật?" - Sứ giả cầm đèn hỏi. "Ông đã nghe bài tụng "Tự tính chân Phật giải thoát" của Thiền tông Lục Tổ Huệ Năng chưa?" "Chưa nghe!" Thế là, Liên Hoa Đồng Tử giải thích cho sứ giả cầm đèn về bài tụng "Tự tính chân Phật giải thoát":
Đến cuối cùng, bản tính không còn khởi lên tâm niệm phân biệt chính là Chân Phật, tâm niệm tạo tác không ngay thẳng và lòng tham lam, sân hận, ngu si chính là Chân Ma. Người vẫn còn những quan kiến không ngay thẳng thì cũng chẳng khác gì có ma quỷ ở bên trong thân thể mình, người có trí huệ và kiến giải đúng đắn thì Phật đã ở trong tâm người đó rồi. Bản tính bị tiêm nhiễm những tà kiến thì dễ sinh sôi lòng tham, sân hận, ngu si. Bản tính lúc này càng trở thành ngôi nhà cho Ma Vương trú ngụ. Nếu như dùng kiến giải đúng đắn để đoạn tuyệt với tâm tham lam, sân hận, ngu si thì ma quỷ sẽ trở thành Phật, điều này là sự thật không hề giả dối.
Bản thể của vũ trụ gọi là pháp thân, Phật và Bồ Tát đại giác đại ngộ và đầy ắp trí huệ gọi là báo thân, chúng sinh thế gian và vạn tượng vô giới hạn gọi là hóa thân. Ba thân này thật sự là một thân. Nếu như từ sinh mệnh ba thân hợp làm một của bản thân mà tìm kiếm được sự tự giác ngộ thì đó chính là nguyên nhân của sự giác ngộ thành Phật. Sinh mệnh hữu hình này của chúng ta có thể nói là hóa thân, và bản tính bản lai sau cùng thanh tịnh không phân biệt lẫn nhau của chúng ta chính thì ngầm gửi gắm trong hóa thân này, hơn nữa cũng biểu hiện ở trong hóa thân này. Bởi vì vạn tượng bao la trong vũ trụ có cái nào không phải là hóa thân đây? Bản tính tột cùng ở trong hóa thân khiến hóa thân hành chính đạo, tương lai đạt được kết quả viên mãn thì phúc huệ cũng vô cùng.
Tình cảm và khát khao mặc dù là sức mạnh khiến con người sinh sống tại thế tục, nhưng cũng đồng thời là động lực khiến người ta theo đuổi sự thanh tịnh, theo đuổi chân lý. Sau khi trải qua sự thanh lọc tình cảm và ham muốn, thân linh giác thanh tịnh sẽ không còn vướng bận lo lắng, trong bản tính của chúng ta chỉ cần thoát khỏi dục vọng đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thì trong sát-na đã có thể thấy được bản tính chân chính. Đời này nếu như lĩnh ngộ được sự chỉ giáo về giác ngộ đột nhiên thì sẽ có thể tận mắt thấy được Thế Tôn. Thế Tôn sẽ ở trước mặt. Nếu như không thấy được đạo lý đốn ngộ, lại muốn dùng phương pháp tu hành để tìm kiếm Phật thì bạn sẽ không biết phải tới nơi nào mới tìm được Chân Phật. Nếu như có thể thấy được Chân Phật ở ngay trong tâm mình thì đó mới là nguyên nhân để bản thân thành Phật. Bản thân không tìm kiếm Chân Phật ở trong tâm, lại hướng ra bên ngoài để tìm kiếm, thì luôn luôn là một kẻ đại ngốc mà thôi.
Giáo lý đốn ngộ hiện tại đã để lại cho các vị, muốn cứu độ thế nhân thì các vị buộc phải tự mình tu tập lĩnh ngộ trước đã. Các vị là những người học đạo, những điều này tôi đều đã nói với các vị rồi, nếu như vẫn không thể lĩnh hội được thì đúng là cứ thế mà thong dong sống qua ngày thôi!
Liên Hoa Đồng Tử tại Cung Tử Hà đã truyền thụ và giảng giải Chân Phật Pháp cho sứ giả cầm đèn, sứ giả cầm đèn nghe xong ngay lập tức lĩnh ngộ, tức khắc trên đỉnh đầu hiển hiện Phật quang, ngồi trong Phật quang có một hóa Phật, thân biến thành cao mấy trượng, toàn thân phát ánh sáng màu tím vàng kim, dưới chân nở hoa sen, 32 tướng tốt đều hiển hiện ra, giống như một bức bảo tướng Như Lai trang nghiêm. Thiên nhân ở Cung Tử Hà đều trông thấy, ai cũng kinh ngạc tán thán.
Các thiên nhân hỏi: "Sứ giả cầm đèn, có chuyện gì vậy?" "Vì tôi nghe xong Chân Phật Pháp, ngay lập tức đốn ngộ, liền có được tướng như thế này." "Ai thuyết pháp vậy?" "Liên Hoa Đồng Tử." - Sứ giả cầm đèn đáp. Thế là, các thiên nhân ở Cung Tử Hà toàn bộ đều đến chỗ Liên Hoa Đồng Tử yêu cầu giảng giải Chân Phật Pháp. "Xin Liên Hoa Đồng Tử giảng Chân Phật Pháp!" "Tôi không chỉ biết Chân Phật Pháp, còn biết cả tam miểu tam bồ đề nữa!" "Liên Hoa Đồng Tử là vị Phật Vương vĩ đại nhất, là hóa thân của Đại Nhật Như Lai, điều này chúng tôi biết, nhưng ngài sống ở đâu?" "Ma Ha Song Liên Trì." - Liên Hoa Đồng Tử đáp. "Vì sao hạ sinh ở Ta Bà?" "Phổ độ chúng sinh, thuyết pháp cho chúng sinh." "Thuyết pháp gì?" "Pháp môn cứu cánh thành Phật." "Vì sao không độ thiên nhân ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ trước?" "Nếu các người muốn độ, tôi sẽ thuyết pháp cho nghe."
Thế rồi, Liên Hoa Đồng Tử diễn pháp tại Cung Tử Hà, giảng đến mức hoa trời rơi xuống, toàn bộ Cung Tử Hà tỏa ánh sáng khác thường, trên chiếu tới 33 cõi trời, 28 cõi trời, tứ Không Thiên, tứ Thánh giới, dưới chiếu tới lục đạo chúng sinh. Các thiên nhân nghe được pháp kì diệu này đều được trồng chủng tử thành Phật. Hơn nữa, Cung Tử Hà sáng chói vô tận, mùi thơm lạ lan tỏa khắp nơi, tất cả đều là vì Liên Hoa Đồng Tử diễn pháp tại đây. Những thiên nhân ấy tại Cung Tử Hà nghe pháp, ngửi thấy hương thơm kì lạ của tự nhiên tỏa ra từ miệng của Thánh tôn, lại nhìn thấy xung quanh Liên Hoa Đồng Tử phát ra ánh sáng cát tường ngũ sắc, trong ánh sáng ấy nghìn vạn đóa hoa sen mờ ảo lúc ẩn lúc hiện. Trong khoảnh khắc ấy, Liên Hoa Đồng Tử hóa thân thành Đại Nhật Như Lai, trong không trung hiện lên cầu vồng, pháp tọa của Liên Hoa Đồng Tử vàng son lộng lẫy, vô lượng tia sáng chiếu đến khiến trong lòng các thiên nhân hoan hỉ.
Khi Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp, các thiên nhân tự cảm thấy đều như ngồi trên hoa sen, xung quanh Cung Tử Hà trở nên rộng lớn và lung linh vô cùng, còn có cả trăm loại nghìn loại hoa cỏ xuất hiện, từng khúc từng khúc thiên nhạc vang vọng tới.
Chính vào lúc diễn pháp tại Cung Tử Hà, một vị Phật từ thời thượng cổ đã bị thu hút tới, vị Cổ Phật này ngồi trên một con voi trắng, bốn chân của con voi trắng đều dẫm trên bốn đóa hoa sen, trên lưng voi trắng có một bảo tọa hình hoa sen, vị Cổ Phật này kim thân cao một trượng sáu.
Từ trong không trung, vị Cổ Phật này thốt lên: "Đồng Tử cũng phải độ chúng sinh ở Ta Bà sao?" "Đúng vậy, trước mắt thập phương tam giới vẫn chưa có một người nào đưa ra nguyện lực giống như con." - Liên Hoa Đồng Tử đáp. Cổ Phật nghe xong, nghĩ tới chính mình cũng không có nguyện lực ấy. "Đồng Tử phát đại nguyện lực, còn Cổ Phật ta đây lại chẳng thể phát đại nguyện lực, Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, Cổ Phật ta tự sẽ giúp đỡ một tay." "Cổ Phật tôn xưng là gì?" "Trước kia ta nhờ vũ trụ mà sinh ra, vốn chẳng có xưng hiệu gì, vậy thì lấy vũ trụ làm tên gọi, thôi thì gọi là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, cũng có thể gọi ta là Cổ Liên Tiên Sinh." Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh hướng về Liên Hoa Đồng Tử, chắp tay lại nói: "Được rồi, vì lời nguyện này, tự ta sẽ hiện thân." - Cổ Phật cưỡi voi trắng, voi trắng dẫm lên bốn đóa hoa sen từ từ bay về hư không.
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, Cổ Liên Tiên Sinh, vốn là hóa thân của Khoáng Thế Cổ Phật, chư thiên nhân không biết diện mục thật sự của ngài, ngay cả Đại La Kim Tiên cũng không biết. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh vì Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp tại Cung Tử Hà đã khiến Khoáng Thế Cổ Phật xúc động mà hạ giáng, bởi thế mà sau khi Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà, trước tiên đã có vị linh sư vô hình đến chỉ dạy cho Liên Hoa Đồng Tử đủ loại Mật pháp, sau đó lại hướng dẫn Liên Hoa Đồng Tử đi quy y Thanh Chân Đạo Trưởng. Đó là một nhân duyên vô cùng kì diệu. Những nhân duyên này đều được viết trong những cuốn sách tâm linh trước đây của tôn giả Lư Thắng Ngạn, hoàn toàn chân thực, không có điểm nào giả dối.)
17. Sứ giả thắp đèn là ông nội
Một hôm, Liên Hoa Đồng Tử tại Cung Tử Hà thuyết pháp xong, bước xuống pháp tọa thì gặp mặt sứ giả đốt đèn tại Điện Đăng Chỉ. "Vì sao gọi là Điện Đăng Chỉ?" - Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Đăng Chỉ cũng là tên của một tì kheo, khi tì kheo này sinh ra có một ngón tay phát ra ánh sáng, do vậy đặt tên là Đăng Chỉ. Về sau xuất gia tu đạo, đắc quả vị La Hán, có truyền lại Đăng Chỉ Nhân Duyên Kinh, điện này là để tưởng nhớ tì kheo Đăng Chỉ." - Sứ giả cầm đèn đáp. "Tôi thì biết rằng đèn là một trong những thứ cúng Phật, và đèn sáng thì cũng giống như ngọn đèn đuốc sáng dâng lên trước Thần Phật, đèn sáng tượng trưng cho trí huệ của Phật. Trước đây có Đăng Minh Phật, tên đầy đủ của ngài là Minh Nguyệt Đăng Minh Phật, là một vị Phật quá khứ. Giống như Phật Thích Ca ngày nay, ngài hiện sáu tướng tốt lành, cũng là một vị Phật giảng kinh Pháp Hoa."
"Đèn tượng trưng cho trí huệ, còn tôi thì cầm đèn mà lại chẳng có trí huệ gì." - Sứ giả cầm đèn nói. "Vậy thì ông có cái gì?" "Lòng chính trực." - Sứ giả cầm đèn nói: "Lòng chính trực là gia phong, chính trực là thần. Tôi cảm thấy tôi tại thế làm người đúng là chỉ có lòng chính trực mà thôi, con con cháu cháu chẳng có gì, chỉ có chính trực mà thôi." "Ở Ta Bà ông còn có ai nữa?" "Chỉ còn một đứa con trai. Mấy đời độc đinh." - Sứ giả cầm đèn trả lời. "Thời điểm tôi hạ sinh ở Ta Bà cũng sắp tới rồi, chỉ mong chọn được một gia đình chính trực, tiếc là không tìm được nơi nào, đúng là tìm kiếm khắp nơi mà không tìm được nơi nào, tất cả những gì thu được chỉ là sự phí hoài công sức." "Thánh tôn có muốn đến nhà tôi không?" - Sứ giả cầm đèn sửng sốt. "Sao lại không thể chứ?" - Liên Hoa Đồng Tử nói: "Chính trực là thần, thế nhân ngày nay, khó tìm người chính trực lắm." "Thánh tôn là Phật, ngữ chúng tôi chỉ là chúng sinh thôi." Liên Hoa Đồng Tử nói với sứ giả cầm đèn: "Phật tức là chúng sinh, chúng sinh tức là Phật."
Phật và chúng sinh tức là: Khi mê muội, người vốn có tâm Phật nhưng những gì thể hiện ra chỉ là tâm chúng sinh thì anh ta vẫn chỉ là chúng sinh. Khi giác ngộ, người vốn có tâm chúng sinh, nhưng những gì thể hiện ra lại là tâm Phật thì anh ta chính là Phật. Khi ngu si, người vốn có tâm Phật, nhưng những gì thể hiện ra chỉ là tâm chúng sinh thì anh ta vẫn chỉ là chúng sinh. Khi trí huệ, người vốn có tâm chúng sinh nhưng những gì thể hiện ra lại là tâm Phật thì anh ta chính là Phật. Khi tâm địa hiểm ác, người vốn có tâm Phật, nhưng những gì thể hiện ra chỉ là tâm chúng sinh thì anh ta vẫn chỉ là chúng sinh. Trong tâm lĩnh hội được đạo lý bản tính vạn vật tương thông, không còn khởi lên và tạo tác sự phân biệt, bởi vậy sản sinh ra lòng thương xót, lúc này, người vốn có tâm chúng sinh nhưng lại thể hiện ra tâm Phật thì anh ta chính là Phật.
Nếu như trong một niệm mà hiểu được chúng sinh bản tính tương đồng thì có thể thấy rõ chúng sinh tức là Phật, Phật tức là chúng sinh. Trong tâm của ta có Phật, Phật ở trong tâm của chính ta này mới là Chân Phật. Nếu bản thân mình không có tâm Phật thì còn đi tới nơi nào để cầu Phật đây? "Thì ra là như vậy." - Sứ giả cầm đèn đã hiểu rồi. "Vậy ông chính là ông nội nhân gian của tôi rồi." - Liên Hoa Đồng Tử cúi đầu làm lễ trước ông nội. "Không dám, không dám." - Sứ giả cầm đèn vội vàng đáp lễ.
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Tại thế giới Ta Bà, sứ giả cầm đèn họ Lư tên Xương, là một con người chính trực, làm từ thiện giúp đời. Lối sống của ông nội vô cùng cần cù tiết kiệm, ông kinh doanh những mặt hàng dầu mỡ, gạo muối, v.v… Ông giỏi quản lý tài sản, vì thế trở thành một phú hào, nếu gặp gia đình nghèo đến mua chịu gạo thì ông cũng cho luôn, đến khi hết năm thì những hóa đơn ghi nợ ông cũng đem ra đốt hết. Sứ giả cầm đèn chính là ông nội của Lư Thắng Ngạn, còn cha của Lư Thắng Ngạn là Lư Nhĩ Thuận, ông nội là Lư Xương, sinh ra một người con trai duy nhất là Lư Nhĩ Thuận.)
Ở đây đã chứng minh được mấy chữ: Tổ tiên hữu đức, phúc ấm tử tôn. Tổ tiên vô đức, họa lụy tử tôn. Trong việc này đều có luật nhân quả, tất nhiên không thể không thận trọng. Đây chính là: Bất kì sự việc gì trên thế gian đều đều đã có định trước. Đời người dù có bận rộn lo toan cũng chẳng ích gì.
Liên Hoa Đồng Tử đã tìm được một gia đình chính trực, trong lòng rất hoan hỉ, cứ nghĩ mãi không ngừng về sự tốt lành này. Liên Hoa Đồng Tử nguyện sẽ chịu gian khổ độ người. Sống tại thế giới Ta Bà, thân thể xương thịt sẽ phải chịu một chút đau khổ để đến lúc công quả viên mãn. "Thánh tôn, Lư gia tôi nay đã suy thoái rồi." - Sứ giả cầm đèn nói. "Không sao." - Liên Hoa Đồng Tử đáp: "Chính trực là tốt." "Thánh tôn, ngài hạ sinh, chúng sinh cũng không biết ngài đâu, ngài sẽ phải chịu khổ đó." "Không sao." - Liên Hoa Đồng Tử đáp: "Khổ cực không sợ, chính trực là tốt." "Thánh tôn, ngài sẽ trải nghiệm cái khổ của sinh, cái khổ của già, cái khổ của bệnh, và cái khổ của tử đó." "Không sao." - Liên Hoa Đồng Tử đáp: "Phật tâm chính trực vĩnh viễn tồn tại, tất cả mọi khổ đau đều không sợ. Tôi độ chúng sinh, chính là muốn chúng sinh trở về Ma Ha Song Liên Trì đó!"
18. Địa Tạng Vương mặt đen ở am Địa Tạng
Tại Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, Liên Hoa Đồng Tử đã biết sẽ giáng sinh tại huyện Hậu Hồ, tỉnh Gia Nghĩa ở Đài Loan, hiện nay là thành phố Gia Nghĩa, tại một trại nuôi gà bên cạnh con suối Ngưu Trù. Nước ở con suối Ngưu Trù này sạch sẽ trong vắt, là một chốn bồng lai tiên cảnh.
Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh vào năm Ất Dậu, nghĩa là mang tuổi con Gà. Liên Hoa Đồng Tử trước đó đã du hành tới tỉnh Gia Nghĩa, đầu tiên là đến am Địa Tạng. Địa Tạng Vương Bồ Tát đã để lại cho Liên Hoa Đồng Tử ấn tượng rất sâu đậm, đầu ngài đội mũ Ngũ Phật màu vàng kim, tay cầm tích trượng, mặt đen tai lớn, thấy linh quang của Liên Hoa Đồng Tử giáng xuống thì lập tức đi ra đón tiếp, biểu hiện sự nhiệt liệt hoan nghênh Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh tại Gia Nghĩa.
"Thánh tôn, có cần sinh ra ở nơi lầu son gác tía không?" "Không, tôi sẽ sinh ra ở trại gà." "Thánh tôn, có cần hoa sen đua nở không? Địa Tạng Bồ Tát có thể sai bảo Địa Thần đi làm." "Không, cứ bình thường giản dị là được, chỉ cần có âm thanh tiếng suối Ngưu Trù thôi." "Thánh tôn, có cần tiền bạc mã não không?" "Không, chỉ cần nhà có tường đất là được." "Thánh tôn, có cần vải vóc tơ lụa không?" "Không, chỉ cần mảnh áo cũ thô rách thôi." "Thánh tôn, có cần hiển hiện điều khác thường kì lạ không? Ví dụ như ba dải cầu vồng?" "Không, tất cả tự nhiên bình thường là được." "Thánh tôn thiện tâm từ bi như vậy, Địa Tạng nhỏ bé không biết phải đón tiếp thế nào mới phải?" - Địa Tạng Bồ Tát nói. "Thế giới Ta Bà này, các thứ dù tốt nhưng rốt cục cũng chẳng bằng một phần vạn so với Ma Ha Song Liên Trì, giờ đây, Liên Hoa Đồng Tử ngay cả Phật quốc Cực Lạc cũng đều không muốn hưởng thụ nữa, sẵn lòng quay ngược con thuyền từ bi đến độ người ở thế giới Ta Bà, không cần những vinh hoa phú quý của tục thế, vinh hoa phú quý ở tục thế làm sao sánh bằng công đức trang nghiêm ở Phật quốc được!" "Thánh tôn, lời nói rất đúng." - Địa Tạng Bồ Tát nói: "Vậy Thánh tôn muốn học nghề y không?" "Muốn học y, nhưng không phải là nghề y chữa bệnh thể xác, mà là nghề y chữa tâm bệnh của thế nhân, cần chữa tham, sân, si của chúng sinh trên thế gian, khiến cho thân, tâm của thế nhân có nơi chốn quay về tốt lành." - Liên Hoa Đồng Tử nói. "Thánh tôn, có việc gì mà tôi có thể cống hiến sức lực không?" - Địa Tạng Bồ Tát hỏi. "Vậy thì phiền Bồ Tát thông báo cho các Thành Hoàng Thổ Địa ở vùng ấy thế này! Đó là hãy kết giới nơi tôi giáng sinh để tránh ma quỷ xâm nhập trộm mất linh hồn sống, kẻo phí hoài mọi sự khổ tâm sắp đặt." "Điều này được thôi." - Địa Tạng Bồ Tát gật đầu. "Vậy tôi xin cáo biệt ở đây." - Liên Hoa Đồng Tử nói: "Cảm ơn Địa Tạng Bồ Tát trước." "Tiễn Thánh tôn." - Địa Tạng Bồ Tát tiễn ra khỏi cửa am.
Liên Hoa Đồng Tử lại du hành một hồi ở không trung phía trên suối Ngưu Trù, nghe thấy Thổ Địa Công Công nói với Thổ Địa Bà Bà: "Bình thường chúng ta ở đây chẳng có việc gì cả, không ngờ nay có vị Phật Vương vĩ đại nhất lại muốn giáng sinh du hí tam muội ở đây, thiên nhân của các cõi trời đều đến hộ giá, tiểu thần chúng ta sợ hãi muôn phần, e rằng hầu hạ không chu đáo. Ai ngờ, Phật Vương Thánh tôn giáng sinh lại không cần bất kì sự hiển hiện nào, không cần phô trương lãng phí, chỉ cần giống như phàm phu sinh con, chỉ cần chúng ta kết giới thôi." Thổ Địa Bà Bà nói: "Mặc dù chỉ là kết giới để bảo vệ thôi, nhưng ở vùng này có rất nhiều ong gấu, lại có rất nhiều sâu kiến, cần phải đuổi hết chúng đi mới được, không thì lỡ chúng đốt Phật Vương một cái, ai mà chịu trách nhiệm được đây!"
Những lời nói chuyện của Thổ Địa Công Công và Thổ Địa Bà Bà đều lọt hết vào tai Liên Hoa Đồng Tử, khiến ngài cảm thấy họ thật đáng yêu.
Liên Hoa Đồng Tử cưỡi tòa sen trắng, lại đi tới Miếu Thành Hoàng. Khi ấy, Thành Hoàng ở Gia Nghĩa họ Bạch, Bạch Thành Hoàng mặc áo bào màu đỏ, đeo thắt lưng tím, đầu đội mũ ô sa, mày đậm mắt to, mặt vuông tai lớn, ngài lập tức ra đón tiếp. "Thánh tôn đến rồi, hoan nghênh, hoan nghênh." Liên Hoa Đồng Tử vừa thấy Bạch Thành Hoàng thì trong lòng rất xúc động, lập tức hiểu ra tất cả.
Liên Hoa Đồng Tử nói với Thành Hoàng Bồ Tát: "Sau khi tôi ra đời, làm phiền Bồ Tát phối hợp nhiều mặt, và xin Bồ Tát rộng lượng bao dung." "Nào dám, không cần khách khí."
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh thành Lư Thắng Ngạn, Lư Thắng Ngạn khi còn là trẻ sơ sinh thì rất khó nuôi, nhiều bệnh và nhiều phiền phức, bởi vậy cha mẹ đã đưa Lư Thắng Ngạn đến miếu Thành Hoàng ở Gia Nghĩa để nhận Thành Hoàng làm cha nuôi, nhờ Thành Hoàng bảo vệ, như vậy mới có thể nuôi đến lớn.)
Lúc ấy, Thành Hoàng Bồ Tát Gia Nghĩa còn gọi Thổ Địa Cảnh Chủ, Yết Đế Thần, Thổ Địa Thần, Tư Mệnh Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Mộc Thần... ở khắp bốn phương đến. Các thần đều chắp tay kính cẩn nghênh tiếp Liên Hoa Đồng Tử. Đồng thời thỉnh Liên Hoa Đồng Tử lên pháp tọa thuyết pháp. Liên Hoa Đồng Tử lên pháp tọa, hát lên bài kệ rằng: Thân này thường biến hóa Tướng Phật cùng chúng sinh Ngày nay ta ngồi trên Ngày sau ta ngồi dưới.
19. Thuyết pháp tại miếu Thành Hoàng
Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp tại miếu Thành Hoàng, trong lòng ngẫm nghĩ, thần thánh ở trong miếu Thành Hoàng phần lớn là những vị thần thưởng thiện phạt ác, cũng đều là các thần quan, là người thi hành pháp. Vậy thì hôm nay thuyết pháp, nên dạy họ tu "từ tâm quán", tu "từ tâm quán" có thể tiến vào cảnh giới cao hơn. Thế là, Liên Hoa Đồng Tử tại miếu Thành Hoàng đã dạy pháp "từ tâm quán".
Liên Hoa Đồng Tử nói, người có tâm sân hận học pháp thì cảnh giới cao nhất là Kim Cang Thần Tướng, thấp nhất là các vị thần thiện thưởng ác phạt, còn nếu muốn đạt đến cảnh giới vô thượng chân chính thì cần phải học quán tâm từ bi.
Ví dụ: Có một con chim bồ câu bay đến bên cạnh Xá Lợi Phất, con chim bồ câu đó vẫn còn hơi sợ sệt nên run rẩy, bởi vì Xá Lợi Phất là một vị A La Hán nhưng vẫn có tập khí sân hận còn chưa trừ bỏ được. Nhưng khi con chim bồ câu đó bay đến bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni thì lại đậu xuống một cách vô cùng thoải mái. Đó là bởi vì từ tâm của Phật Đà vô cùng viên mãn rồi.
Người tu hành pháp "từ tâm quán", tu hành ở trong núi sâu, rắn độc thú dữ cũng đều không làm hại, thậm chí có thể trở thành bạn tốt và hộ pháp của hành giả. Mãnh thú đã cảm nhận và ý thức thấy được "từ tâm", biết rằng người này vô hại, bởi vậy mà chúng vui thích đến làm thân. Người tu "từ tâm quán" có thể cảm hóa tất cả động vật có tâm sân rất nặng, dùng tâm từ bi để cảm hóa động vật có tâm sân nặng, biến công kích thành mềm mỏng.
Liên Hoa Đồng Tử nói, Di Lặc Bồ Tát còn có tên gọi là Từ Thị, ngài ấy chính là một vị Bồ Tát tu pháp "từ tâm quán", bởi vậy khi ngài ấy hạ sinh đến cõi Ta Bà độ chúng sinh, muốn cảm hóa chúng sinh thì nhất định cần từ tâm, như vậy mới là phẩm hạnh của Bồ Tát. Người tu hành tâm từ bi thì nội tâm của người ấy sẽ luôn vui vẻ thanh tịnh không thể diễn tả được. Người tu "từ tâm quán" thì gương mặt cũng mang dáng vẻ hiền từ, mọi thứ đều vô cùng vui vẻ.
Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp đến đây thì tỏa ra vô lượng ánh sáng hiền từ, chiếu khắp trời đất, một cơn gió mát thổi khắp đại địa, lướt qua và đi vào trong tâm của các thần, các thần đều cảm động sâu sắc. Trong số ấy có một cô gái mang thân của Thủy Thần, trên thân tỏa ra nhiều ánh hào quang rực rỡ, đột nhiên quỳ sụp trên mặt đất, khóc nức nở nghẹn ngào, rập đầu đảnh lễ trước Liên Hoa Đồng Tử. Liên Hoa Đồng Tử trong lòng xúc động, đã sớm biết ý của cô, liền nói: "Cô hiện nguyên thần đi, ta không làm hại cô đâu." Lập tức vang lên một tiếng sét, cô gái Thủy Thần này hiện nguyên hình. Thì ra cô không phải là Thủy Thần, mà là một con báo, lông trên người có nhiều màu sắc, do vậy mới có hào quang nhiều màu sắc của Thủy Thần.
Các Yết Đế Thần ở xung quanh vừa trông thấy thì vô cùng phẫn nộ, cầm pháp khí tiến lên trước để dẹp đường: "Yêu quái nơi nào! Dám đến gây hỗn loạn pháp đàn!" "Thánh tôn cứu con!" "Hãy khoan!" - Liên Hoa Đồng Tử ngăn các Yết Đế Thần lại, nói với cô gái: "Cô là một con báo, vì sao lại cải trang thành Thủy Thần để đến miếu Thành Hoàng nghe pháp vậy?" "Thánh tôn xin hạ cố lắng nghe." - Con báo nói: "Con vốn ở tại suối Ngưu Trù tu hành nhiều năm, có thể biến hóa thành hình người. Đại Tự Tại Thiên Vương biết Thánh tôn sẽ giáng sinh tại cõi Ta Bà bèn lệnh cho con đợi thời cơ để trộm nguyên thần của ngài, khiến cho ngài thánh nghiệp chưa thành thì sớm đã toi mạng rồi. Nay biết ngài thuyết pháp ở miếu Thành Hoàng, con liền biến hóa thành Thủy Thần để trà trộn vào hàng ngũ các thần, chờ thời cơ hành động. Nhưng nghe Thánh tôn dạy quán từ bi, lại tỏa ra vô lượng ánh sáng hiền từ, khiến thân tâm con cảm động, liền sám hối tội lỗi của bản thân. Bây giờ con chỉ hy vọng Thánh tôn thu nhận con làm đệ tử, dạy con Mật pháp, để con đền ơn Thánh tôn."
Liên Hoa Đồng Tử nghe xong, trong lòng nghĩ, con báo này mặc dù bất lương, còn lòng ta đầy ắp sự thương cảm, đó cũng chính là quán từ bi, bởi vậy liền nói: "A Di Đà Phật, thiện tai! Thiện tai!" Trên trời rót xuống cam lộ, vẩy lên đầu con báo, thu nhận con báo làm đệ tử. Con báo hết sức vui mừng: "Con sẽ đầu thai rồi đến để trợ giúp Thánh tôn." "Cô đi đi!" Con báo nói: "Thánh tôn cẩn thận, Ma Vương đã tung ra thiên la địa võng, muốn ngài nhập ma, tương lai ma kiếp trùng trùng, bốn phương tám hướng phỉ báng lay động trời đất, cạm bẫy khắp nơi. Ma tăng yêu đạo khắp nơi đều muốn bao vây tiêu trừ, đó là vì Ma Vương đã ra lệnh, mong Thánh tôn đặc biệt nhân từ." "Cảm ơn lời cảnh báo." - Liên Hoa Đồng Tử nói: "Cô mau ẩn thân, tu chân dưỡng tính, đầu thai làm thân người, ta sẽ độ cho cô." Con báo hóa thành một cơn gió mát bay đi.
Liên Hoa Đồng Tử cân nhắc trong lòng: lần này hạ giáng cõi Ta Bà, quả nhiên ma nạn trùng trùng, chắc chắn sẽ phải vật lộn đọ sức với ma, đây đúng là khổ. Liên Hoa Đồng Tử còn chưa hạ sinh, chỉ mới thuyết pháp ở miếu Thành Hoàng mà đã có ma tới rồi, việc ở phàm trần không biết khi nào có thể làm được đây.
Thế rồi lại nghĩ, bất kể là đao thương búa rìu, bất kể là phỉ báng chấn động trời đất, bất kể là yêu ma quấy nhiễu, Liên Hoa Đồng Tử chỉ dùng một câu: "Hễ thấy tất cả cảnh tượng ác ma bên ngoài thì đều biết rằng đó là hư huyễn lừa gạt, không lo không sợ, cũng không giữ không bỏ, không phân biệt tính toán thì tâm sẽ yên lặng." Đó cũng là như như bất động.
May mắn là trong hư không vẫn còn có Hộ pháp, rồng, trời. Liên Hoa Đồng Tử biết rằng, muốn biết mọi cạm bẫy của ma thì cần phải "bất động". Trong kinh Phật, ma chính là được tạo nên bởi thân tâm chúng ta, cộng thêm quỷ thần đến từ bên ngoài, phàm là bất kì những gì cản trở tu hành đều gọi là "ma".
Do vậy: Phiền não là ma. Sợ chết cũng là ma. Âm nhập giới ma. Quỷ thần ma.
Người tu hành không sợ chết, cần phải hiểu rõ về sinh tử, nếu tham sống sợ chết, tự nhiên cũng không thể khắc phục được "ma chết". Phiền não của nhân gian cũng nhiều, cần đối trị với tất cả mọi phiền não, nếu có phiền não thì tu đạo không thể thành tựu. Bởi vậy cần phải trừ bỏ phiền não, nếu không còn phiền não thì mới xem là thắng được "ma phiền não".
Âm nhập giới ma là chỉ ngũ uẩn, thập nhị xứ, lục nhập hoặc thập bát giới. Quỷ thần ma là những sự quấy nhiễu của ngoại cảnh, nghiệp chướng kiếp trước của chúng ta, hoặc những xung phạm trong kiếp này, đều có rất nhiều quỷ thần đến gây chướng ngại để cản trở việc tu hành. Những quỷ thần này bình thường thì gây rối, chúng ta không chỉ cần tiếp tục tinh tấn mà còn phải thắng được chúng, hàng phục chúng, độ hóa chúng.
Ma thì thiên biến vạn hóa. Ma cũng có thể biến hóa thành hình tướng Phật, Ma Vương của Tha Hóa Tự Tại Thiên có thể hiển hiện 32 tướng, hiện thân Phật với tướng tốt sáng rực rỡ, do vậy, khi chúng ta gặp được Phật trong thiền định, cần dùng lý trí để phân biệt thật giả, hoặc chọn phương pháp không giữ không bỏ, tiếp tục nỗ lực luyện tập.
Nếu yêu thích và chấp vào hình tướng, để mặc bản thân bị thúc đẩy, thì dễ đánh mất tâm mà trở nên điên cuồng. Cái gì là bình thường, hợp lý, cái gì là không bình thường, bất hợp lý, cần hoàn toàn dùng lí trí để phân biệt và loại bỏ.
Pháp phá ma chân chính là cần phải "bất động", hơn nữa cần phải đạt đến công phu bất động, nghĩa là "vô ngã". Cái tôi đã biến hóa thành không, tâm cũng đã thành vô tâm, hình cũng đã thành vô hình, những gì ta thấy đều không thể có được, vậy thì ở đâu còn có ma hay ma cảnh gì nữa. Cái ngã đã thành vô ngã, tâm đã thành vô tâm, thì chết cũng không sợ, sự quấy nhiễu của ma cũng biến mất.
Người tu hành đừng sợ ma, cần phải luôn luôn nghĩ như vậy. Ma đến để giúp đỡ chúng ta thành Phật, ma đến gây chướng ngại là để thử nghiệm chúng ta, khiến chúng ta đạt tới phẩm vị cao hơn. Ma và ác tạo chướng ngại cho chúng ta, là vì muốn chúng ta thành tựu, chúng ta cần cảm ơn ma và ác đã làm điều tốt cho chúng ta. Đây là một quan niệm khá chính xác. Nghĩ được như vậy thì ta sẽ được yên tâm thoải mái, tất cả đều như như bất động.
Người tu hành cần kiên trì, không được để mất chính niệm, ngoại cảnh không thể khởi lên bất kì sự quấy nhiễu nào. Chúng ta muốn được yên tâm thoải mái thì phải tiếp tục cần cù nỗ lực, hoàn toàn phớt lờ thì sẽ dễ thành tựu. Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp tại miếu Thành Hoàng, cũng giảng về việc người tu hành cần làm sao để phá bỏ ma chướng.
Liên Hoa Đồng Tử nói bài kệ: "Ta nói Phật và ma Vốn ra chỉ là một Một bên là chính giác Một bên là khảo nghiệm Chỉ vì hai chữ này Mà thành trăm quyển kinh Tính linh quang lấp lánh Đạo cũng ở đó thôi."
Liên Hoa Đồng Tử cũng biết tương lai hạ giáng thế giới Ta Bà vốn là vì lời thệ nguyện mà đến, giống với lời thệ nguyện lại đến của các bậc Như Lai. Vốn dĩ sự nghiệp vĩ đại cứu độ chúng sinh khỏi biển khổ không hề có liên quan tới điều gì khác mà chính là bố thí mưa pháp cam lộ khắp nơi. Thế nhưng nhất định cứ có người đến để làm khó cho các bậc Thánh tôn. Người một nói: ẩn giấu ý đồ. Người hai nói: hỗn loạn lòng dân. Người ba nói: mê hoặc nam nữ. Người bốn nói: cầu danh cầu lợi.
Giờ đây Liên Hoa Đồng Tử phải làm sao. Về cơ bản, Liên Hoa Đồng Tử chẳng hề để bụng, bên dưới bầu trời này, nơi nào không có chúng sinh chứ, nơi nào không thể đi đây?. Liên Hoa Đồng Tử không muốn mở miệng đấu khẩu, cũng không muốn tranh luận bằng văn tự, có bị phỉ báng danh dự thì cũng không động tâm, có duyên thì ở lại, không có duyên thì đi. Cuối cùng cũng vẫn là một con người phiêu bạt. Những thứ như "ẩn giấu ý đồ", "hỗn loạn lòng dân", "mê hoặc nam nữ", "cầu danh cầu lợi" chẳng có can hệ gì đến ta. Ma Ha Song Liên Trì mới là xứ hữu duyên cực lạc, những cái khác đều là đồ bỏ đi. Liên Hoa Đồng Tử là Thánh tôn của Phật quốc Cực Lạc, là thiên ngoại thiên thì còn có thể yêu thích danh và lợi của thế giới Ta Bà này sao? Thật nực cười, thế sự hà tất phải tranh giành, hữu duyên thì tới, vô duyên thì đi.
20. Chữa bệnh cho Địa Thần
Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp tại miếu Thành Hoàng, có một lão Thổ Địa Thần cũng đến nghe pháp, nhưng ông ấy bước đi tập tễnh, đầu gối sưng lên một cục rất to, có cả máu mủ. Địa thần ấy cau mày, nghiến răng, gầm gừ kêu khổ.
Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Đã làm Địa Thần rồi mà vẫn còn đau ốm sao?" "Ôi! Thánh tôn, Địa Thần cũng chỉ là một âm thần nhỏ bé, làm sao thoát được đau khổ bệnh tật, nghiệp chướng vẫn nặng lắm đó! Cho dù là thần ở trên trời thì vẫn có ốm đau, giống như Đa Văn Thiên Vương cũng bị bệnh đau ngón chân, đau tức ngực, rồi đau đầu, các thần ở trên trời cũng đều khổ vì bệnh cả, huống hồ tiểu thần nhỏ bé chúng tôi!" - Lão Thổ Địa Thần nói. "Tôi giúp ông chữa bệnh thì sao?" "Thánh tôn, cái khối u máu mủ ở đầu gối tôi đây đã hại tôi hơn 5 năm rồi, thần trí của tôi có hạn nhưng cũng biết là có oan hồn kiếp trước không tha, đã bám lên đầu gối, muốn tôi đau đớn 10 năm mới thôi, giờ tôi vẫn còn phải chịu đau khổ 5 năm nữa. Thánh tôn, oan hồn không đi thì bệnh cũng sẽ không khỏi được, đây là oan nghiệt rồi!" - Lão Thổ Địa Thần nói. "Thế này đi! Để tôi thử xem." - Liên Hoa Đồng Tử nói.
Liên Hoa Đồng Tử vừa vận chuyển nguyên thần, dùng ba ngón tay đặt vào vị trí của khối u, lúc này chúng thần quay qua xem Liên Hoa Đồng Tử chữa bệnh cho lão Thổ Địa Thần. "A! Thánh tôn có Phật quang ở trên đầu." - Thì ra trên đỉnh đầu Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện một vị Đại Nhật Như Lai Phật. "A! Đầu ngón tay của Thánh tôn phóng ra Phật quang." - Thì ra nơi đầu ngón tay của Liên Hoa Đồng Tử phóng ra ánh sáng trắng, đỏ, xanh lam, bắn nhanh về chỗ đầu gối.
Phía trên đầu gối bốc lên một khối khí đen, khí đen biến thành một hình người, chắp tay đảnh lễ Liên Hoa Đồng Tử, khí đen này nói với Liên Hoa Đồng Tử: "Oan nghiệt trăm năm, nhờ có Phật quang của Thánh tôn Đại Nhật Như Lai chiếu tới mà nay đã được giải trừ rồi. Nhưng tôi thành một cô hồn, không có nơi nào để an cư, cầu xin Thánh tôn từ bi chọn cho tôi một chỗ để đi." - Linh hồn màu đen nói. "Phải xử lý thế nào?" - Liên Hoa Đồng Tử quay ra hỏi Thành Hoàng Bồ Tát. "Trong miếu Thành Hoàng, dù có thu nhận cô hồn nhưng đều là những cô hồn có luật lệnh. Cô hồn này không có lý do gì, không biết phải xử lý thế nào, mong Thánh tôn định đoạt." "Có cách rồi." - Liên Hoa Đồng Tử nghĩ đến Chuyển Luân Thánh Vương, hay là triệu thỉnh Chuyển Luân Thánh Vương đến, Chuyển Luân Thánh Vương phụ trách việc luân hồi của lục đạo chúng sinh, chắc chắn sẽ đưa ra cách giải quyết.
Liên Hoa Đồng Tử niệm chân ngôn triệu thỉnh, tổng cộng niệm ba biến. Trong một sát-na, có một tiếng vang rền, trước miếu Thành Hoàng đứng sừng sững một vị đại thần kim thân cao sáu trượng, mặt béo tròn xoe, trắng tinh, tóc đỏ râu đen, chân dẫm trên pháp luân, hai tay đều cầm pháp khí, vừa hiện thân đã khiến chúng thần đều giật mình sửng sốt, đúng thật là Chuyển Luân Thánh Vương, quả nhiên là có dáng dấp như vậy.
Chuyển Luân Thánh Vương nói: "Thánh tôn, có việc gì sai bảo?" Liên Hoa Đồng Tử nói: "Xin hãy đem oan hồn này sung quan cho chuyển luân được chứ?" "Chỉ là chuyện nhỏ, cô hồn trên đời đều dựa vào nhân quả nghiệp báo mà luân hồi trong lục đạo, tôi thu nhận nó là được. Nhưng vì cô hồn này đã được Phật quang chiếu tới, đã kết Phật duyên, nó có thể chuyển thế đến một gia đình từ thiện, tương lai nhờ Phật duyên mà xuất gia, nghe kinh mà được độ, đây là nhờ lòng từ bi của Thánh tôn." "Như vậy thì rất tốt, làm phiền Thánh Vương đại giá." "Sau này Thánh tôn có gì sai bảo thì xin cứ niệm chân ngôn." - Chuyển Luân Thánh Vương nói xong thì vẫy cờ lệnh trên tay, cô hồn liền bị hút vào trong cờ rồi biến mất. Chuyển Luân Thánh Vương cũng đi theo luôn. Chúng thần đều xuýt xoa ca ngợi Liên Hoa Đồng Tử pháp lực vô biên.
Chúng thần lại quay qua xem lão Thổ Địa Thần, khối u máu mủ nơi đầu gối của lão Thổ Địa Thần đã biến mất, chân cũng có thể duỗi thẳng ra rồi, thần quang rực rỡ. Lão Thổ Địa Thần thử bước đi liền hét lên: "Khỏi rồi, khỏi rồi, hoàn toàn không đau đớn chút nào nữa. Lần này lặn lội từ xa xôi đến nghe pháp, thật không ngờ bệnh này có thể khỏi được, thật là cảm tạ Thánh tôn, hết sức cảm tạ Thánh tôn."
Trong số các thần đang đứng vây thành vòng tròn, có một số thần cũng có bệnh, khi ấy các thần đều thỉnh Liên Hoa Đồng Tử phát tâm từ bi chữa bệnh cho họ. Có một vài thần xem Thánh tôn chữa bệnh mà chẳng hề tốn một chút sức lực nào, lập tức thông báo cho quyến thuộc của chúng thần. Rất nhanh chóng, miếu Thành Hoàng đã đông nghịt chật ních. Liên Hoa Đồng Tử chữa bệnh cho các thần, tiếng tăm lan truyền, muốn ngừng cũng không được.
Liên Hoa Đồng Tử đã biến thành Chữa Bệnh Đồng Tử rồi. Hễ ai được Phật quang phóng ra từ ba đầu ngón tay của Liên Hoa Đồng Tử chiếu tới thì đều khỏi bệnh, đó chủ yếu là vì Phật quang của Đại Nhật Như Lai có thể giải trừ tất cả hắc nghiệp, oan nghiệp. Một khi hắc nghiệp, oan nghiệp đã hết thì bệnh sẽ khỏi. Việc chữa bệnh ở miếu Thành Hoàng này khiến cho các Địa Thần ở thế giới Ta Bà ai ai cũng biết. Liên Hoa Đồng Tử vẫn còn chưa giáng sinh tại thế giới Ta Bà nhưng các thần đều đã biết hết rồi, có thể nói là còn chưa giáng sinh mà đã gây chấn động rồi!
(Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Sau khi Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh tại thế giới Ta Bà, ba ngón tay Phật quang của Lư Thắng Ngạn đã chữa khỏi bệnh cho không ít người. Đau đầu, đau tim, đau ngực, đau mắt, đau dạ dày, thậm chí là bệnh tâm thần, các chứng bệnh nan y khó chữa, đều đã được ba ngón tay Phật quang chữa khỏi. Trước cửa nhà của Lư Thắng Ngạn mỗi ngày đều có ba trăm người chờ chữa bệnh, cánh cổng bị chen lấn đạp đổ, tường cũng bị đạp đổ, những việc này đều là sự thật.)
Liên Hoa Đồng Tử thuyết pháp tại miếu Thành Hoàng, cũng đã thảo luận về "bệnh lý". Bệnh do bốn yếu tố (tứ đại): Bệnh do yếu tố đất --- sẽ mắc các bệnh như thân thể khô cằn, nhiều nốt sưng phù nặng, bệnh xương cốt. Bệnh do yếu tố nước --- sẽ mắc các bệnh như đau bụng kiết lị, cơ quan tiêu hóa, nhiều đờm, trướng bụng đầy hơi, thận thủy, niệu độc, v.v. Bệnh do yếu tố lửa --- sẽ mắc các bệnh như tay chân xương khớp đều đau, miệng, tai, mắt bị nóng, đại tiện khó khăn, kiết lị, v.v. Bệnh do yếu tố gió --- sẽ mắc các bệnh như co thắt và sưng phổi, nôn mửa, khó thở, thở không đều, hệ thần kinh, v.v. Có nghĩa là: nếu một yếu tố không điều hòa thì sẽ sinh ra trăm thứ bệnh. Bốn yếu tố không điều hòa thì hàng trăm loại bệnh đều đủ cả. Các bệnh do tứ đại thì đều có biểu hiện ra bên ngoài.
Bệnh ở ngũ tạng: Tim chủ quản miệng: thân thể nóng lạnh, đau đầu, khô miệng. Phổi chủ quản mũi: nghẽn tim, nghẹt mũi, phù toàn thân, đau toàn thân. Gan chủ quản mắt: mắt thâm, nóng nảy, chán ghét, trầm cảm, hôn trầm. Tỳ chủ quản lưỡi: bệnh da liễu, ngứa ngáy, nhạt miệng, đau nhức. Thận chủ quản tai: bụng trướng, lãng tai, niệu độc.
Liên Hoa Đồng Tử nói, con người sinh bệnh là do ba nguyên nhân chính, có người thì mắc bệnh sinh lý, có người thì mắc bệnh tâm lý, còn có người mắc bệnh do nghiệp chướng, được phân tích như sau: Phương diện sinh lý --- do tứ đại ngũ tạng tăng giảm mà sinh bệnh. Phương diện tâm lý --- do quỷ thần vô hình tạo tác mà mắc bệnh. Phương diện nghiệp chướng --- nghiệp từ kiếp trước nên kiếp này mắc bệnh do nghiệp chướng.
Liên Hoa Đồng Tử cho rằng, con người một khi có bệnh thì đầu tiên cần phân biệt được là bệnh trên phương diện sinh lý, hay là bệnh trên phương diện tâm lý, hay là bệnh trên phương diện nghiệp chướng. Bệnh sinh lý thì cần mời bác sĩ chữa bệnh. Bệnh tâm lý thì cần mời pháp sư trì chú làm pháp để cầu an cầu phúc. Bệnh nghiệp chướng thì cần tu phúc, hành thiện, từ tế, sám hối.
Trước kia, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói về pháp bí mật để trị bệnh, tổng cộng có 72 pháp. Có phương pháp chữa bệnh dùng tâm, tức là tâm đặt vào chỗ có bệnh. Có phương pháp chữa bệnh dùng thủ đan điền, đan điền còn gọi là ưu đà na [ udana ], hỏa đan điền sinh ra sẽ đốt cháy nơi có bệnh, vi khuẩn gây bệnh sẽ chết, nhờ đó mà khỏi bệnh. Có phương pháp chữa bệnh dùng khí. Lục khí ở đây chính là: 1. Thổi, 2. Hô, 3. Thở nhẹ, 4. Hà hơi, 5. Hà hơi thật chậm, 6. Nghỉ.
Sáu loại hơi thở này còn có bài kệ như sau: Tim nằm hà hơi thận thì thổi, Tì hô phổi nghỉ ai chẳng hay, Gan nóng ấy hà hơi thật chậm, Tam tiêu tắc nghẽn thở nhẹ thôi.
Có phương pháp chữa bệnh dùng 12 hơi thở [ ND: thập nhị tức ], 12 hơi thở này chính là: thượng tức, hạ tức, mãn tức, tiêu tức, tăng trưởng tức, diệt hoại tức, noãn tức, lãnh tức, xung tức, trì tức, hòa tức, bổ tức. Liên Hoa Đồng Tử cho rằng, thế gian có bệnh đều vì có nguyên nhân của nó thì mới có kết quả này. Đặc biệt là bệnh do quỷ thần vô hình gây ra, người thế tục gọi là bị "xung phạm". Nghiêm trọng hơn là bệnh do nghiệp chướng. Có một số người vừa sinh ra thì đã có bệnh bẩm sinh rồi, đó đều là vì nghiệp chướng mà mắc bệnh. Bệnh do quỷ thần gây ra thì cũng thường là vì nghiệp chướng mà tới, còn nghiệp chướng thì lại do mình tự gây ra, do vậy, phương pháp giải quyết căn bản chính là bắt đầu từ tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng tiêu trừ rồi thì bệnh mới có thể khỏi.
Còn làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng, Liên Hoa Đồng Tử liệt kê ra 8 pháp như sau:
- Đọc tụng 1000 biến Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh.
- Trì 1.000.000 biến Thượng sư tâm chú.
- Tu 100 đàn pháp sám hối.
- Lễ bái, cúng dường, xây chùa, xây tháp, làm tượng Phật.
- Niệm danh hiệu Phật Bồ Tát cho đến khi tương ứng.
- Thiền định để đạt được sức mạnh giới định huệ.
- Căn bản Thượng sư tu pháp để gia trì và thay người bệnh di dời bệnh.
- Chân không hóa vô.
8 đại pháp này, cách thứ nhất là dựa vào sức mạnh của kinh, cách thứ hai dựa vào sức mạnh của chú, cách thứ ba dựa vào sức mạnh của pháp, cách thứ tư dựa vào sức mạnh của bố thí, cách thứ năm dựa vào sức mạnh của Phật, cách thứ sáu dựa vào sức mạnh của định, cách thứ bảy dựa vào sức mạnh của thầy, cách thứ tám dựa vào sức mạnh của tính Không.
Tại miếu Thành Hoàng, Liên Hoa Đồng Tử đã thuyết giảng về bệnh lý và cách chữa bệnh, các thần đều đến nghe pháp, bao gồm Thần Sông, Thần Hồ, Thần Núi lớn nhỏ, Thần Biển, Thần Cây, Thần Thóc, Thần Mùa Màng, Thần Hoa, Thần Đất, Thần Cỏ, Thần Gỗ, Thần Đá, cùng tất cả các Thần của các chùa miếu ở các địa phương, Thần Ngày, Thần Đêm, Thần Trực Nguyệt, Thần Trực Nhật, Thần Công Tào, Thần Luật Lệnh, v.v… đều hội tụ tại miếu Thành Hoàng.
Khi ấy, vạn tia sáng cát tường chiếu rọi thẳng tới sao Ngưu sao Đẩu, nghìn tia khí tốt lành phủ xuống thế giới Ta Bà, chúng thần cảm nhận được niềm sung sướng của pháp hỉ, chắp tay cung kính, tín thọ phụng hành.
21. Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh
Liên Hoa Đồng Tử du hành thuyết pháp tại Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ và thế giới Ta Bà, đợi đến ngày giáng sinh. Đến ngày 18 tháng 5 âm lịch năm 1945 (năm Dân Quốc 34), Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ đã dựng nên một bức lũy hoa giữa không trung, bày vô số hoa cỏ thanh tịnh. Phía trên vô lượng hoa cỏ thanh tịnh có một ngọn đèn chín đóa hoa sen. Ngọn đèn chín đóa hoa sen này tỏa ra chín ánh sáng sắc màu, trên chiếu tới Tứ Thánh Giới, dưới chiếu tới Tam Ác Đạo. Trong mười pháp giới không có đâu là không sáng tỏ.
Tại bức lũy hoa giữa không trung đó còn cắm thêm cờ Thiên Ma bốn phương, tất cả Thiên Ma đều không thể lọt vào được. Ở trung tâm vô lượng hoa cỏ thanh tịnh lại có ngũ long bảo đỉnh, đốt lên hương thơm ngoài sức tưởng tượng, hương thơm này không chỉ triệu thỉnh mùi thơm mà còn có cả hào quang cũng theo hương thơm mà đến, không phải là hương thơm bình thường.
Đến giờ Ngọ. Ngũ Phương Phật đều hiển hiện ở năm phương trên hư không, đó là Đại Nhật Như Lai, A Súc Phật, A Di Đà Phật, Bảo Sinh Phật, Bất Không Thành Tựu Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật và tất cả chư Phật của thập phương tam thế đều hiển hiện ở không trung. Bát Đại Bồ Tát, là Quan Thế Âm Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát của thập phương tam thế cũng hiển hiện trên không trung. Hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên nhân đều hiển hiện tại không trung. Ngũ Đại Kim Cang, Bát Đại Minh Vương cũng xuất hiện, Tứ Đại Thiên Vương phân ra bốn bên. Thiên nhân của 28 cõi trời đứng ở bốn xung quanh.
Liên Hoa Đồng Tử hướng lên bầu trời nói: "Nay đã đến ngày hạ sinh, thân tôi khó tránh khỏi đau khổ hồng trần, kính mong ánh sáng từ bi của chư Tôn cùng phổ độ quần sinh." Chư Tôn đáp: "Ma Ha Song Liên Trì, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử Thánh tôn xuống Ta Bà, đó là không tiếc thân Thánh tôn, chúng ta đương nhiên sẽ cùng hộ trì, chỉ mong Chân Phật phổ khắp đi lên, chúng sinh được độ, chúng sinh thành Phật, thì chúng ta sẽ được an tâm." Liên Hoa Đồng Tử nói: "Tục tử hạ giới xin nương nhờ chư Tôn." Chư Tôn đáp: "Thân thể của Thánh tôn đọa vào nơi ô trọc, thay trời hành đạo, chắc chắn sẽ trở về với chính giác."
Liên Hoa Đồng Tử hát bài kệ: "Ta ở Song Liên Trì Niềm hạnh phúc bao la Tự tại nhập tịch diệt Sắc tướng đều biến mất Vì một lời thề nguyện Cùng thương xót chúng sinh Cùng ta vào tâm linh Đi con đường duy nhất Nay đến ngày giáng xuống Sinh tử là từ đây Ác đạo nào dễ độ Kính mong mọi phù trợ."
Chư Tôn hát lên bài kệ ngợi ca: "Thánh tôn vào ô trọc Chân Phật ở trong tâm Kim quang chín màu sắc Vẫn tinh khiết trắng trong."
Trong hư không, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, thần tiên của 28 cõi trời cùng tiễn Liên Hoa Đồng Tử xuống Ta Bà, có thể nói là một sự kiện trọng đại của trời người. Đây chính là Chân Phật Hải Hội, châu ngọc đầy trời trút xuống, diệu hoa trút xuống khắp nơi, diệu hương nồng nàn, công đức trang nghiêm phi thường. Tương lai, thế giới Ta Bà là thế giới Liên Hoa Thành, mưa pháp từ trên trời trút xuống. Liên Hoa Đồng Tử vốn từ ánh sáng của Đại Nhật Như Lai mà ra, nay lại phát tâm từ bi, đó là muốn độ chúng sinh đều thành Phật, muốn chúng sinh cùng trở về Ma Ha Song Liên Trì.
Lúc này, vô pháp sinh nhất pháp, nhất pháp sinh vạn pháp, tương lai sẽ thành tựu là một bậc đại giác đạt được đại viên dung, chứng ngộ được tất cả tam thiên đại thiên thế giới, thập phương đều tiếp nhận giáo hóa. Thánh tôn đại tự tại vốn dĩ chính là Đại Hùng Như Lai.
Sứ giả cầm đèn ở phía trước. Trực Nhật Công Tào, Kim Giáp Thần ở phía sau. Đúng vào giờ Ngọ ngày 18 tháng 5 năm 1945. Liên Hoa Đồng Tử đã hạ sinh tại một trại gà bên cạnh con suối Ngưu Trù, tại huyện Hậu Hồ, tỉnh Gia Nghĩa, nước Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc. Hoa sen bừng nở, ánh sáng chói chang rực rỡ.
Từ đây, dòng truyền thừa chính là: Đại Nhật Như Lai --- Phật Nhãn Phật Mẫu --- Liên Hoa Đồng Tử --- Liên Sinh Hoạt Phật (Lư Thắng Ngạn).
22. Hỏi đáp về đêm ở hồ U Linh
Hỏi: Nghe nói gần đây Liên Sinh Hoạt Phật viết một cuốn sách mới, tên sách cực kì mới mẻ, là "Đêm ở hồ U Linh". Nội dung viết về những câu chuyện về hồ U Linh sao? Đáp: Tên sách là "Đêm ở hồ U Linh", nhưng nội dung lại không phải là những câu chuyện về hồ U Linh, mà là viết về trải nghiệm hạ sinh trong cuộc đời này của Liên Hoa Đồng Tử, cũng có nghĩa là trải nghiệm hạ sinh từ Ma Ha Song Liên Trì đến thế giới Ta Bà.
Hỏi: Vậy vì sao lấy tên sách là "Đêm ở hồ U Linh"? Đáp: Bởi vì gần đây tôi chuyển nhà, từ bờ hồ Sammamish chuyển tới ven hồ U Linh. Mỗi đêm tôi ngồi thiền định minh tưởng tại hồ U Linh, mở ra kí ức của tiền kiếp, bởi vậy mới mượn tên hồ để đặt cho sách, gọi là "Đêm ở hồ U Linh", viết về những chuyện của thiên thượng giới.
Hỏi: Chuyện của thiên thượng giới thâm sâu khó đoán, phải chăng chúng là chuyện huyễn tưởng? Đáp: Huyễn tưởng là suy đoán vô căn cứ, còn Liên Sinh Hoạt Phật không phải suy đoán, mà là những hồi ức chân thực. Trong lúc tôi ngồi thiền minh tưởng, từng sự việc đã qua giống như thời gian chảy ngược, giống như xem phim vậy, ngay cả những cuộc đối thoại ở trong đó cũng tỉ mỉ rõ ràng như chân tơ kẽ tóc, vô cùng chính xác, nếu là huyễn tưởng thì chẳng thể được như vậy.
Hỏi: Vậy thì cuốn sách này chắc là rất đáng đọc rồi. Đáp: Tôi tin rằng sự xuất hiện của cuốn sách này, không dám nói về tính giá trị của nó như thế nào, nhưng thật sự rất ít người viết sách với nội dung như vậy. Bởi vì những cuốn sách trên đời phần lớn đều viết về những tri thức trong xã hội này, ít cuốn nói về những tri thức của thiên thượng giới. Còn ở đây, tri thức trong cuốn sách này là tri thức của thiên thượng giới, những thứ ở bên trong nó thế nhân rất khó tưởng tượng được. Hy vọng mọi người có thể hiểu rõ.
Hỏi: Thế nhân làm sao hiểu rõ được chuyện của thiên thượng giới? Đáp: Kì thực thiên thượng giới vẫn có một số diễn biến thay đổi, chứ không phải là cố định bất biến. Ví dụ như Dục Giới Thiên trong 28 cõi trời, sự biến động của nó còn lớn hơn, vẫn có thiên tai gió, lửa, nước, những thứ này đều vượt ra khỏi sự tưởng tượng của nhân loại. Thế nhân muốn hiểu rõ việc của thiên thượng giới thì nhất định phải dựa vào tu hành, khiến tinh thần thống nhất, dùng pháp lực để tháo gỡ những đầu mối then chốt của linh tính, có như vậy mới có thể đạt được điều mong ước.
Hỏi: Sự ảo diệu của túc mệnh thông có phải là thần thông không? Đáp: Túc mệnh thông chính là một trong sáu đại thần thông, đối với thế nhân mà nói thì nếu không phải là thần thì chẳng có cách nào biết được, do vậy thế nhân mới gọi là thần thông. Còn tôi xin thật lòng thật sự nói để mọi người biết rằng, thần thông thần bí ảo diệu chính là sự hiển hiện của Phật tính, mỗi một cá nhân đều có Phật tính, cũng có nghĩa là mỗi một người đều có thần thông, chỉ là hãy xem Phật tính có lộ ra hay không mà thôi. Nếu Phật tính hiển hiện thì hiện tượng thần bí ảo diệu không hề là hiện tượng thần bí ảo diệu nữa, thần thông cũng không còn là thần thông nữa, tất cả đều là tự nhiên mà thế, chỉ như vậy mà thôi.
Hỏi: Thế nào là tự nhiên mà thế? Đáp: Ví dụ như cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh", vốn dĩ chính là tự nhiên mà thế. Trải nghiệm hạ sinh của Liên Sinh Hoạt Phật tự nhiên mà thế, điều này giống như sự hoán đổi ngày đêm, sự tuần hoàn của bốn mùa, nước biển dâng lên hoặc rút xuống, sự sống chết của con người, nhưng đối với người thế tục thì những chuyện đó có lẽ cũng vẫn rất đáng kinh ngạc.
Hỏi: Lời của Hoạt Phật rất có lý, bởi vì người bình thường không có cách nào tưởng tượng được! Đáp: Vũ trụ vạn tượng tự nhiên là thế, trong sự liên hệ chặt chẽ lẫn nhau của vạn tượng, giả dụ bạn quan sát kĩ lưỡng, chắc chắn có thể phát hiện ra mọi thứ đều được phân ra làm hai loại lớn là vật chất và tâm linh mà thôi. Truy ngược về phương diện vật chất thì là sự khởi đầu của văn minh khoa học, kì thực khoa học vật chất khi đạt tới trình độ cao nhất thì cũng khiến người ta kinh ngạc tán thán, và cũng không có cách nào tưởng tượng được. Vật chất dựa trên đạo lý "có", nhưng truy đến tận cùng cao nhất thì sẽ đạt tới đạo lý "Không".
Truy ngược về phương diện tâm linh, cũng tương tự là đạo lý "Có", đạt tới đạo lý "Không", ở trong đó là tinh thần thống nhất, tinh thần một khi thống nhất rồi thì một khi ý chí đã quyết, bạn có thể đạt được mọi thứ, sáu đại thần thông bạn đều có thể có được. Vũ trụ này có hằng hà sa số không gian và thời gian, hiện tại, vị lai, quá khứ có thể hòa thành một khối, đó là năng lực truy ngược tâm linh.
Vật chất và tâm linh, một cái là "Có", một cái là "Không", nhưng Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng mức độ cao nhất của vật chất và tâm linh là giống nhau, Có và Không cũng như nhau. Đối với việc ở thiên thượng giới, nếu thế nhân chưa đạt đến cảnh giới "chân không", vẫn là Có - Không lẫn lộn với nhau, thì sẽ thấy rất khó tưởng tượng được. Lời của tôi chỉ có thể giải thích đến mức này thôi, bởi vì ở đây chính xác là khó hiểu một cách không thể hiểu được!
Hỏi: Túc mệnh thông của Liên Sinh Hoạt Phật cũng có liên quan đến nhân quả phải không? Đáp: Chính là nhân quả. Trong cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh", tôi sẽ nhắc đến nhân quả của cha tôi, mẹ tôi, Thượng sư Liên Hương, Phật Thanh, Phật Kì, nhân quả nhân duyên đều đã được định trước. Ở thiên thượng giới vạn tượng đan xen, kì thực cũng có nhân quả, lớn thì đến hàng Phật Bồ Tát, nhỏ thì đến nhân loại, động vật, thực vật, quỷ thần, không có cái nào không là nhân quả.
Hỏi: Làm sao để hiểu được mối liên hệ nhân quả? Đáp: Liên Sinh Hoạt Phật hiểu mối liên hệ nhân quả đều nhờ vào công phu thiền định và minh tưởng. Sự tu hành của tôi cũng thành tựu theo thứ tự, đầu tiên là "hữu niệm", sau đó mới đạt đến "vô niệm". Hiểu được mối liên hệ nhân quả trước tiên phải chế tâm ở một chỗ, rồi sau đó tiến nhập vào trong không gian thời gian, đến khi tất cả đều rõ ràng rành mạch. Thứ tự tu hành của tôi có ba bước: Đại định --- suy nghĩ dừng lại trong 30 phút. Diệu định --- suy nghĩ dừng lại trong 1 giờ. Viên định -- suy nghĩ dừng lại vĩnh viễn, không tự khởi lên nữa. Tâm lượng quảng đại giống như không gian vũ trụ, trong suốt như nước yên tịnh. Trong ba trạng thái định này đều đã có năng lực vạn tri vạn năng rồi, đương nhiên tự nhiên có thể hiểu được rõ ràng các mối liên hệ nhân quả. Trong ba định này, tự nhiên xuất hiện pháp lực, có khi là toàn tri toàn năng.
Hỏi: Ai ai cũng có thể hiểu được mối liên hệ nhân quả và tu định đạt được thành tựu sao? Đáp: Tôi lấy một câu nói của Phật Thích Ca Mâu Ni để trả lời câu hỏi này: "Chúng sinh trên trái đất này đều có trí huệ phúc đức của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng trói buộc nên không thể đạt được. Nếu diệt được vọng tưởng thì vô sư trí, tự lai trí, có muôn loại năng lực, nhậm vận tự tại." Bởi vậy, ai ai cũng đều có thể hiểu rõ mối liên hệ nhân quả và tu định đạt thành tựu.
Hỏi: Tu hành rất khó, nghe nói rất khổ? Đáp: Có người cho rằng tu hành rất khó, nhưng tôi lại cho rằng không khó, chỉ cần bền lòng mà tu, tất sẽ có ngày tới đích. Tôi có thói quen giống con rùa chậm chạp, mỗi ngày bò một bước, sớm muộn cũng đến được đích. Tôi cũng không nghĩ rằng tu hành là khổ, thật ra tu hành là một việc rất an lạc, lợi ích mà ta có được hơn hết bất kì vật chất có giá trị nào, tu hành là tận hưởng sự an lạc vĩnh viễn.
Hỏi: Thiền định có vui không? Đáp: Đương nhiên là có, tôi lấy năm danh từ: Thiền vị --- ngọt thơm. Là mùi vị vi diệu và tinh tế. Thiền lạc --- khinh an. Tự nhiên nhẹ nhõm ung dung. Thiền tâm --- định nhất. Tâm tự tại không chút phiền não. Thiền huệ --- đại trí. Sản sinh ra trí huệ vô cùng, nhậm vận tự như. Thiền duyệt --- hỉ lạc. Niềm hỉ lạc tràn trề tối vô thượng và viên mãn. Niềm sung sướng có được trong thiền định thật sự không thể dùng ngôn từ để giải thích được. Chúng ta chỉ có thể dùng bốn chữ "tùy tâm sở dục" để mà diễn đạt nó.
Hỏi: Phương pháp thiền định như thế nào? Có pháp nào hay hơn tốt hơn không? Đáp: Thực ra, đi đứng ngồi nằm đều có thể thiền định, nhưng tư thế ngồi thì sẽ có được sự dễ chịu thoải mái tương đối lâu hơn. Phương pháp này đã có viết ở trong sách rồi, chúng tôi cho rằng vẫn nên thiền ngồi. Còn như sau này có xuất hiện pháp nào hay hơn tốt hơn không thì khả năng là có, nhưng trước mắt vẫn là dựa trên nguyên tắc kéo dài sự thoải mái.
Hỏi: Chúng ta biết rằng Hoạt Phật dùng thiền định và minh tưởng để viết cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh", liệu Hoạt Phật có thể khai thị về lai lịch của người thân không? Đáp: Trong cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh" tôi đều đã kể vô cùng tường tận rồi, nhưng ở đây tôi cũng thuật lại như sau: Ông nội --- là sứ giả cầm đèn ở Cung Tử Hà. Cha tôi --- là con trai của sứ giả cầm đèn. Mẹ tôi --- là chim Thái Bình của Nam Hải Quan Âm. Vợ tôi (thị giả) --- là Đại Cát Tường Thiên Nữ. Con trai --- là Đế Thích công tử. Con gái --- là Đế Thích công chúa. Còn bản thân tôi thì chính là Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử.
Hỏi: Thế còn sư phụ của Hoạt Phật? Đáp: Thanh Chân Đạo Trưởng là Kim Đàn tôn giả ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là Cổ Phật xxxxxx, thế nhân không biết lai lịch của ngài, địa vị của ngài rất cao quý và vĩ đại, hiện tại tôi chưa thể nói được!
Hỏi: Vì sao lai lịch của người thân và sư phụ của Hoạt Phật đều tốt như vậy? Đáp: Đây cũng là nhân duyên thôi! Trong vũ trụ có rất nhiều sự biến hóa của sự vật, đó là những biến hóa sống động chứ không hề rập khuôn, vượt ra khỏi sự tưởng tượng của chúng ta. Người ta cho rằng lai lịch của người thân của tôi tốt như vậy, thật ra con người trên thế gian, có rất nhiều người lai lịch tốt hơn tôi, chỉ là họ không thấy được mà thôi. Lai lịch tốt, đôi khi cũng không có tác dụng gì, nếu không tu hành thì cả đời cũng vẫn xoàng xĩnh tầm thường thôi, vẫn phải lục đạo luân hồi, còn tệ hơn cả phàm phu thế tục.
Hỏi: Lẽ nào tu hành chỉ vì để biết rõ lai lịch sao? Đáp: Không phải vậy. Về đại thể thì mục đích của tu hành có hai nội dung quan trọng chính:
- Niềm an lạc vĩnh hằng --- không phải chịu đau khổ luân hồi.
- Lợi ích hiện thực --- tâm không phiền não, có đại trí huệ, hỉ lạc sung mãn.
Thật ra, người tu hành hiểu rằng khổ tâm mưu cầu danh, danh cũng là không, khổ tâm chạy theo lợi, lợi cũng là không, thời gian thấm thoắt thoi đưa, đầu đã bạc rồi mới biết sống uổng phí cả một đời. Những gì có được lại là thị thị phi phi, phiền não phiền muộn, giống như một cái sọt vậy, chẳng có lợi ích gì. Còn người tu hành thì khác, người tu hành hiểu về sự trống rỗng ngắn ngủi của thế tục, sẽ không mê đắm vào sự mưu cầu ham muốn hưởng thụ vật chất, vượt lên trên sự ham muốn hưởng thụ vật chất, đạt được sự an lạc vĩnh hằng của tâm linh, những gì họ học chính là điều được nói đến trong Tâm Kinh: "Tâm không lo nghĩ, vì không lo nghĩ nên không có sợ hãi, tránh xa mộng tưởng điên đảo, cuối cùng là nhập niết bàn." Người tu hành có thể học được sự không sợ hãi thì sẽ có được định lực, có được định lực thì sẽ có đại trí huệ, việc xử thế độ sinh lại càng dễ dàng.
Hỏi: A! Tôi hiểu rồi, ngài viết cuốn "Đêm ở hồ U Linh" cũng là độ người ta tu hành! Đáp: Đúng vậy, đúng vậy.
Hỏi: Tôi thấy trên tay Hoạt Phật có đeo đồng hồ Rolex, người tu hành sao có thể đeo đồng hồ Rolex được? Đáp: Cùng kiếp khổ hạnh, là tu hành. Cẩm y ngọc thực cũng có thể tu hành. Tây phương Cực lạc thế giới A Di Đà Phật không có quy định là ai đeo đồng hồ Rolex thì không thể tu hành. Anh có biết không? Tây phương Cực lạc thế giới là gác vàng lầu ngọc, chim quý thú lạ, kim sa phủ mặt đất, kì hoa dị thảo đó!
Hỏi: Thế tôi thấy Hoạt Phật lái xe Bentley, cũng có thể tu hành sao? Đáp: Chân không - đi đất là tu hành. Lái xe Bentley cũng là tu hành. Còn như mì thô cơm nguội, đầu bù tóc rối, áo tơi giày rách, ở nơi nhà dột, chịu mọi kham khổ, vốn chỉ là một trong những biểu hiện bên ngoài của tu hành, giả sử cho rằng tu hành cứ phải là như vậy thì chỉ là hạng người amateur nói lời amateur mà thôi. [ ND: amateur - không chuyên ] Người lái xe Bentley cũng có thể tu hành, không cần phải là chân không đi đất mới gọi là tu hành. Ở tây phương Cực lạc thế giới, các vị đều ngồi tòa sen thất bảo, được làm từ bảy loại bảo vật. Thiên giới đều cưỡi xe mây đẹp đẽ lộng lẫy, còn xịn hơn cả xe Bentley đó. (Trong số các đệ tử của Liên Sinh Hoạt Phật có người làm tổng đại lý cho hãng đồng hồ Rolex và xe Bentley.)
Hỏi: Ý Hoạt Phật muốn nói là người có tiền cũng có thể tu hành? Đáp: Đúng vậy. Người có tiền tu hành không cần phải giả nghèo, không cần phải bỏ không làm kinh doanh nữa, không cần phải ăn uống nhạt nhẽo, không cần phải không tắm rửa, không cần phải mặc áo vá đi giày rách, cho dù có mặc áo gấm vinh hoa phú quý, ăn sơn hào hải vị, sống nơi nhà cao cửa rộng, lái xe hạng sang, nhưng chỉ cần mỗi ngày đều tu, tâm không mê đắm vào ngoại cảnh, không tham sân si, không còn phiền não, cũng không còn ham muốn vật chất nhiều hơn nữa, tất cả đều không tham chấp, có thể mỗi ngày mỗi tu, thảnh thơi vô tư lự, mục tiêu đúng đắn, thu về mọi tạp niệm, vậy thì chẳng phải là tu hành càng tốt hơn sao? Đồng thời người có tiền lại càng dễ bố thí, cứu tế chúng sinh, chẳng phải là càng phúc huệ song toàn hơn sao? Tu hành không phải là chỉ có một con đường khổ hạnh. Phật Thích Ca Mâu Ni cuối cùng cũng từ bỏ khổ hạnh, người tu hành ngày nay đừng hiểu nhầm rằng chỉ có khổ hạnh mới có thể chứng quả. Liên Sinh Hoạt Phật cho rằng khổ hạnh và lạc hạnh đều có thể chứng quả.
Hỏi: Tôi hiểu rồi, nhưng thế nào là mục tiêu tu hành đúng đắn? Đáp: Tu hành đúng đắn thực ra là trị tâm, trị tâm chính là trị niệm, tiêu trừ những tạp niệm ở trong tâm, trước tiên là đắc định vào một thứ, sau đó một thứ lại hóa thành không.
Hỏi: Vì sao Hoạt Phật thường nhắc đến vô niệm? Đáp: Cần biết rằng công phu vô niệm này là chí đại vô thượng. Con người chúng ta nếu muốn đến tây phương Cực lạc thế giới thì chỉ cần nhất tâm bất loạn, khi nhất tâm bất loạn thì Phật Tổ sẽ đến tiếp dẫn. Còn nhất tâm bất loạn vẫn có "nhất niệm", nếu đạt tới vô niệm thì không có Phật nào tới tiếp dẫn cả cũng có thể tức thân thành Phật được.
Hỏi: Làm sao bảo đảm được? Đáp: Một câu trong Kinh Kim Cang có thể đảm bảo được: "Không nên trụ nơi sắc sinh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, nên không có chỗ trụ mà sinh tâm ấy." Đó chính là vô niệm. Có một câu nói rằng: "Thập phương Như Lai không có gì là rất đặc biệt, vì các vị đã sâu sắc đạt được sự vi diệu của vô niệm, tín thọ phụng hành, nên đã đắc được A nậu đa la tam miểu tam bồ đề."
Hỏi: Vô niệm là cái gì? Đáp: Vô niệm chính là một điều thật nhất. Chính là A nậu đa la tam miểu tam bồ đề. Vô niệm chính là thực tướng. Vô niệm chính là Như Lai Tạng. Vô niệm chính là viên giác. Vô niệm chính là chân như. Vô niệm chính là minh tâm kiến tính. Vô niệm chính là am bổn la thức.
Hỏi: Vô niệm có thể tức thân thành Phật, chúng ta trực tiếp tu vô niệm là được, vì sao cần tu Chân Phật Mật Pháp? Đáp: Nói chung, có nghìn vạn kinh điển cũng là nhắm vào nghìn vạn căn khí khác nhau của chúng sinh nên mới viết ra, không có trực chỉ, bởi vì trực tiếp chỉ ra thì ngược lại, có khi lại khiến người ta thấy khó tin, có nghĩa là phải ngoảnh đầu nhìn trái nhìn phải thì sau đó mới tin. Tám vạn bốn nghìn pháp môn đều có một bộ pháp để trị niệm, mục đích cuối cùng của các pháp ấy vẫn là tiêu trừ tạp niệm, đạt đến nhất niệm, rồi sau đó tiến nhập vào vô niệm. Chân Phật Mật Pháp là tâm yếu tu tập khai ngộ của Liên Sinh Hoạt Phật, cũng là một trong số các pháp môn. Pháp môn này có lợi ích thực đối với con người thời hiện đại. Các pháp trong Chân Phật Pháp được nói tường tận hơn. Nhờ thực tu Chân Phật Mật Pháp, thứ tự tu hành vô cùng rõ rệt, có thể đạt được trí huệ nhãn, bát nhã định, niết bàn sơn, vô vi xả. Ở đây là để độ chúng sinh rộng khắp, tu Chân Phật Mật Pháp chính là tu vô niệm, coi trọng thực tu, Chân Phật Mật Pháp là phương pháp tu hành vô niệm thực tiễn, chính là chìa khóa thành công.
Hỏi: Chúng ta đã hiểu rõ về lý lẽ rồi, nhưng điều quan trọng nhất là gì? Đáp: Thực tu, thực tu, thực tu.
Hỏi: "Đêm ở hồ U Linh" còn nói về cái gì nữa? Đáp: Bởi vì Chân Phật Tông là do tôi sáng lập nên, vì tôi muốn các đệ tử đều có được nơi nương tựa chân chính nên mới viết cuốn sách này. Chân Phật Mật Pháp tuy là một phương pháp tốt đẹp thiện lành nhưng không có nguồn gốc và truyền thừa rõ ràng, người thế tục bình thường trong quá trình tu tập dễ khởi lên suy nghĩ nghi ngờ, như vậy thì sẽ không có công đức và thành tựu, có tu cũng uổng công. Do vậy trong cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh" tôi hoàn toàn không giữ lại trong lòng nữa mà đã nói một cách dứt khoát rõ ràng, tường tận về pháp thân, chân thân, chân ngã của Liên Sinh Hoạt Phật, tiết lộ thiên cơ, tôi tin rằng sẽ có lợi ích lớn hơn nữa đối với chúng sinh.
Hỏi: Cuốn "Đêm ở hồ U Linh" là tiết lộ thiên cơ sao? Đáp: Ý định ban đầu của Liên Sinh Hoạt Phật là chờ đến trước khi thăng về Tây phương thì mới viết ra cuốn sách này. Thế nhưng con người hiện đại sống trong xã hội hiện thực, Chân Phật Mật Pháp mặc dù có thể cứu đời độ chúng, lợi ích chúng sinh, nhưng muốn thế nhân đều quy y học pháp thì thực sự là rất khó. Mật pháp tốt như vậy mà muốn hoằng dương, nếu không tiết lộ thiên cơ thì chẳng có cách nào thấy được hoa sen nở ở khắp nơi, hoa nở thấy Như Lai. Đó là phương pháp tốt nhất, là vô thượng pháp, đó là Chân Phật, chỉ cần tin tưởng và nguyện làm theo thì sẽ có thể đạt tới khai ngộ. Do vậy, không thể nào không tiết lộ thiên cơ được!
Hỏi: Hoạt Phật tiết lộ nhiều thiên cơ như vậy, thử nghĩ xem chúng sinh có thể vì thế mà được độ không? Đáp: Hiện nay, có khoảng hai trăm nghìn đệ tử quy y trên toàn thế giới, đương nhiên tôi kì vọng càng ngày càng nhiều hơn, hai trăm nghìn đệ tử này chính là hai trăm nghìn hạt giống, mười năm sau, người thụ hưởng đương nhiên không chỉ là hai trăm nghìn người, thậm chí là một trăm năm sau, một nghìn năm sau, Chân Phật Mật Pháp độ chúng sinh sẽ giống như hòn tuyết lăn, càng lăn càng to, đến mức to lớn vô hạn, độ chúng sinh vô hạn.
Hỏi: "Đêm ở hồ U Linh" còn có hàm nghĩa đặc biệt phải không? Đáp: Đúng vậy. Tôi cho rằng hàm nghĩa đặc biệt là chỉ dạy cho chúng sinh nhận thức đúng đắn về luân hồi. Sơn hà đại địa ở đâu? Mặt trời mặt trăng những ngôi sao ở đâu? Cái gì gọi là "nhất niệm tam thiên". Hàm nghĩa đặc biệt của cuốn sách này chính là "nhất niệm tam thiên".
[ ND: Nhất niệm tam thiên - một niệm ba nghìn, có vài cách hiểu và giải thích khác nhau. Có một nghĩa là trong mỗi một niệm có đủ ba nghìn pháp giới, đồng thời trọn đủ. Ngoài ra, nhất niệm cũng gọi nhất tâm, ý nói tâm niệm hoạt động trong khoảng thời gian ngắn nhất. Tam thiên biểu thị ý nghĩa tổng hợp tất cả thiện ác, tính tướng, người và vật sai khác trong thế gian và xuất thế gian. Nhất niệm tam thiên nghĩa là ngay trong một tâm niệm của phàm phu có đầy đủ ba nghìn các pháp tính tướng của thế gian. ]
Ở đây tôi thiền định minh tưởng cũng là nhất niệm tam thiên. Có thứ hình thành từ hỗn độn Sinh ra có trước cả đất trời Độc lập bất biến, đi khắp không mỏi Liên Hoa Đồng Tử, Đại Nhật Như Lai.
23. Tiên thiên phù bút
(1) "Tiên thiên phù" thật sự là không giống với phù lục của thế tục, sự thần bí ở trong phù ấy là không thể đo lường suy đoán được. Vốn dĩ không thể công khai "Tiên thiên phù", không thể nói ra. Nhưng vì muốn để thế nhân hoặc nhiều hoặc ít có được nhận thức nào đó đối với pháp phù, có một vài am hiểu về pháp phù, và gia tăng tín tâm, nên tôi mới viết cuốn sách "Tiên thiên phù bút". "Tiên thiên phù bút" là cuốn văn tập số 77 của Liên Sinh Hoạt Phật.
(2) "Tiên thiên phù" sở dĩ đặc biệt là vì phù thức này từ tự tâm Liên Sinh Hoạt Phật tuôn chảy, trước nay chưa từng có, là Hoạt Phật đức hạnh quảng đại, phù pháp viên mãn quang minh, do sự linh nghiệm kì lạ của pháp phù có thể vượt trội tất cả phù lục hữu hình và hậu thiên, nên đây là một sự thù thắng vĩ đại nhất. Tiên thiên phù xuất sắc không gì sánh bằng. Tiên thiên phù cũng giống như Tôn Thắng Đà-ra-ni vậy. Người học tập và người sử dụng, thậm chí là người chứng kiến, đều có thể đạt được lợi ích lớn, giống như tùy bệnh bốc thuốc vậy, có phù là khỏi bệnh. Tiên thiên phù có thể tiêu tai, có thể cầu phúc, có thể trừ bệnh, có thể tăng ích, có thể kính ái, có thể hàng phục, có thể siêu độ. Thật sự là tế thế cứu nhân. Tiên thiên phù là mười phần thù thắng, đạo lý ở trong đó rất sâu sắc, phù lục có thể phóng quang, có thể phi hành, có thể thiên giáng diệu hoa, có thể giao tiếp với quỷ thần, có thể sai khiến mưa gió sấm chớp, có thể hiện ra đủ loại bảo vật, có thể phòng chống trộm cắp, có thể làm tín hương, có thể triệu thỉnh Tiên Phật. Một lá phù hóa núi Tu Di. Một lá phù nuốt trọn nhật nguyệt. Một lá phù cắt đứt tam thiên. Một lá phù nắm toàn thiên giới.
(3) Thời gian gần đây, Liên Sinh Hoạt Phật tự tâm tuôn chảy rất nhiều Tiên thiên phù, những phù lục chữa bệnh thần tốc bí mật này là đạo lý tuyệt diệu sâu tới mức thậm thâm vô tướng. Khi dùng pháp phù thì có thể phá bỏ hết những ngọn núi nghiệp chướng, dùng pháp phù có thể khiến tà ma trông thấy mà sợ mất vía, dùng pháp phù thì uy lực không gì sánh bằng, dùng pháp phù thì có thể nhiếp thông Tứ thánh vị, thật sự là phúc lợi quảng đại vô cùng, bởi thế có thể rộng khắp che chở chúng sinh.
Liên Sinh Hoạt Phật tán dương Tiên thiên phù, nhận định rằng uy lực của phù lục ấy thật sự rất khó tưởng tượng được. Chỉ là một mảnh giấy mỏng nhẹ, trên giấy vẽ những văn tự kì diệu, nhưng cầu gì đều ứng nghiệm, muốn gì được nấy. Siêu độ được lên trời. Địa ngục được chuyển thế. Núi gươm thành rừng vàng. La sát thành thiên nữ. Biển máu hóa ao sen. Khói lửa thành nến thơm.
(4) Để mọi người tu trì thành Phật, để sự tu trì dựa theo giáo lý, để cứu độ được càng nhiều người hơn, để chư thiên nhân cùng rủ lòng gia trì, tôi đã thu thập các loại Tiên thiên phù để mọi người cùng chiêm ngưỡng phù thức đặc biệt này, chỉ hy vọng rằng mọi người ai ai cũng được sống lâu như ý nguyện, lĩnh ngộ được chân lý mà trở về với vô tướng, trí huệ toàn vẹn tiếp diễn vĩnh hằng, sớm đắc chính giác, loại bỏ cái khổ tham sân si của chúng sinh, người người thường lạc ngã tịnh. Nhất tâm sinh vạn pháp. Phù thức là minh châu. Pháp môn này bí mật. Kết liễu bao điều khổ.
(5) Bí quyết vẽ phù thành công:
- Thanh tịnh bút, mực, nghiên, giấy. (hơ qua lửa)
- Đốt sớ văn, cầu nguyện Phật quang gia trì. (đốt sớ trước Phật hoặc cầu nguyện)
- Phật phóng quang chiếu lên bút, hạ bút thành phù thức. (quán tưởng)
- Cầu nguyện Phật phóng quang gia trì cho phù thức. (quán tưởng)
- Áp lệnh cho phù thức, áp ấn. (dùng thủ ấn để chỉ huy phù thức)
- Cát tường viên mãn.
Các chi tiết ở đây có thể thỉnh thị vị Kim cương Thượng sư hiểu về phù thức. Bí quyết vẽ phù là một dạng nghi quỹ, nghi quỹ chu toàn, Phật quang bao trùm thì phù nhất định có linh có nghiệm. Khẩu quyết vẽ phù là: "Tâm thành tắc linh".
24. Sự giác ngộ của Liên Hoa Hán Đào
(Liên Hoa Hán Đào là giáo sư ở trường Đại học Guam.)
Sư Tôn, Sư Mẫu kính yêu! Lần này con đến Seattle tham gia pháp hội cầu phúc, toàn bộ chuyến đi đều tràn đầy niềm vui và sự thích thú. Sau khi trở về con cảm thấy cả người mình nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Đệ tử biết rằng bản thân mình đang diễn ra những sự thay đổi. Trước đây vì có liên quan đến gia đình và hoàn cảnh, đệ tử cần phải xem nhẹ danh lợi, những lời tán tụng, phê bình, phỉ báng, nhiều ít cũng có thể chịu đựng những việc và người không như ý.
Lần này sau khi trở về, con cảm thấy không cần phải chịu đựng nữa, trái lại, con đã có thể tiếp nhận chúng, có lẽ đây là nguyên nhân khiến những bước chân của con nhẹ nhàng thoải mái hơn rất nhiều. Bởi vì bản thân sự chịu đựng chính là ôm cả một bụng uất ức, e rằng sẽ càng phải chịu đựng hơn nữa để đè nén khẩu khí nhằm tránh đánh mất hình ảnh bản thân. Còn tiếp nhận thì khác. Bất kể người khác như thế nào, chúng ta cần công nhận quyền của người khác và có thể luôn luôn nghĩ cho người khác và đối xử với họ bình đẳng.
Nói về việc vì sao con lại có những thay đổi như vậy, con còn nhớ lần này ở Seattle, khi con đang giúp làm bánh bao ở trong bếp của chùa thì đúng lúc Sư Tôn bước vào, nói với đệ tử rằng sau này con có thể làm Thượng sư Bánh Bao. Con luôn cảm thấy Sư Tôn thích nói đùa, chỉ là nói đùa mà thôi, bánh bao làm sao có thể thành Thượng sư được chứ.
Thế rồi buổi chiều hôm đó, khi con được bái kiến Sư Tôn, Sư Tôn đã rất ân cần dặn con phải hoằng pháp nhiều, dẫn dắt nhiều người nhập môn hơn, trải nghiệm và lĩnh ngộ nhiều hơn, tương lai khi nào lại tới đây thì lại nhận quán đảnh Thượng sư. Khi ấy con chỉ cảm thấy chức Thượng sư là vô cùng thần thánh và trách nhiệm rất lớn. Mặc dù con biết rõ là không có được năng lực để đảm đương, nhưng có thể là Sư Tôn biết đệ tử có lời thề nguyện, thành tâm tận lực vì Phật đạo, nhưng vì còn quá lười biếng và tinh tấn chưa đủ nên thầy mới đặc biệt cổ vũ con, hơn nữa còn cho con thêm chiếc mũ, muốn con tăng tốc tu hành, để hữu danh hữu thực, cứu độ được nhiều người hơn.
Sau đó, Sư Tôn khai thị ở trong pháp hội, Sư Tôn có nói đến điều kiện và năng lực cần có để trở thành một Thượng sư, và những Thượng sư khác cũng nói về con đường tâm linh mà họ đã trải qua, con đã hiểu được sâu sắc cảnh giới và pháp lực của họ đều vô cùng cao siêu, không như khả năng tu trì trong mấy năm của con chỉ bằng một phần vạn, do vậy con bắt đầu cảm thấy bồn chồn lo lắng.
Lúc còn ở Seattle, con đã rất muốn nói với Sư Tôn rồi, bản thân đệ tử tu pháp, chỉ thiền tu một pháp, không hề có chút pháp lực nào để mà nói, ngoài thỉnh thoảng mơ thấy Sư Tôn đến gia trì ra thì không hề có bất kì sự tương ứng nào cả. Sư Tôn thật sự không nên có kì vọng quá cao đối với đệ tử như vậy. Tuy vậy, mặt khác con lại nghĩ Sư Tôn làm như vậy nhất định là có nguyên nhân. Cụm từ "Thượng sư Bánh Bao" này cứ lởn vởn trong đầu con, một cái bánh bao chẳng là cái gì cả, chỉ là một món ăn làm từ bột mì chẳng có gì quan trọng cả, làm sao có thể kết mối liên hệ với việc làm Thượng sư thần thánh được. Bánh bao và làm Thượng sư gần như chẳng hề có mối quan hệ nào.
Sau đó ở trong bếp, mỗi ngày đệ tử đều trông thấy rất nhiều phụ nữ, các sư tỉ tình nguyện làm việc giúp đỡ, khiến đệ tử ngộ ra rằng sự tồn tại của mỗi cá nhân đều có tác dụng. Pháp hội lần này, nếu toàn bộ chỉ có các Thượng sư đắc chứng ngộ tham gia, vậy thì ai sẽ nấu cơm, ai sẽ làm bánh bao, mục đích của pháp hội nằm ở đâu? Bánh bao chính là pháp vị.
Cảm tạ Sư Tôn đã cho con làm Thượng sư Bánh Bao, mỗi người một chiếc bánh bao, mỗi người một ít pháp vị, khiến đệ tử suy nghĩ sâu xa và đã hiểu rõ rằng đừng đối đãi với bất kì người nào bằng tâm phân biệt, bất kì ai có được pháp vị đều có thể thành Phật, chỉ là chậm hay nhanh mà thôi. Trong dòng thời gian không ngừng trôi đi, mỗi người chỉ là tùy theo nhân duyên, đóng vai nhân vật của chính họ, tất cả nhân quả đều đã có đã có tiền nhân hậu quả rồi.
Vì sự lĩnh ngộ này khiến đệ tử không muốn chịu đựng người và việc không như ý nữa, mà đã có thể chấp nhận người và việc không như ý. Nay đệ tử cũng dần dần hiểu được rằng vì sao khi bao nhiêu người hỏi Sư Tôn phải làm thế nào, câu trả lời của Sư Tôn luôn là "tốt". Bởi vì trong lòng Sư Tôn hiểu rõ rằng những gì chống lại ta cũng là một dạng khảo nghiệm, khảo nghiệm cũng là việc tốt, đương nhiên là tốt, do vậy tất cả tùy duyên, thuận theo tự nhiên. Trước đây con không hiểu, do vậy con cảm thấy rất kì lạ, bây giờ con hiểu rồi, Sư Tôn biến trở ngại thành hanh thông, vượt trội so với những con người thông thường của đời sống.
Sự lĩnh ngộ này chính là bất kì cá nhân nào tồn tại trên đời đều có công dụng nhất định nào đó, họ đóng vai những nhân vật khác nhau, diễn hóa nhằm hoàn thành nhân quả. Tất cả mọi thứ diễn ra trên đời đều là như thế cả.
Do vậy, bây giờ con cũng không buồn phiền lo lắng về việc bản thân không có tư cách làm Thượng sư nữa. Cho dù Sư Tôn nhất thời đánh giá sai thì quyết định sai lầm ấy cũng là nhân duyên mà thôi. Thượng sư Bánh Bao đã định rồi, nghe nói Sư Tôn thích nhất là ăn bánh bao, sau này trở về Ma Ha Song Liên Trì, nhất định sẽ đem đệ tử cùng đi, bởi vì Thượng sư Bánh Bao có thể ngày ngày làm bánh bao cho Sư Tôn ăn.
Lần này Thượng sư Liên Hàn đến đảo Guam, hoàn thành kế hoạch về chương trình sơ bộ của Viên Giác Đường, đó là một sự khích lệ rất lớn đối với Viên Giác Đường. Đệ tử ở Guam có thể đoàn kết hợp tác, cùng lan truyền pháp vụ, đạt tới giác ngộ viên mãn.
Trong pháp hội cầu phúc, Thượng sư Liên Hàn đặc biệt hướng dẫn rằng chúng con nên cố gắng hết sức để đạt tới sự vô ngã. Có một hôm con hỏi Thượng sư Liên Hàn, vô ngã có phải là chỉ còn có người khác không, Thượng sư cười không nói gì, đó là một câu nói đùa. Nhờ có Sư Tôn và Thượng sư Liên Hàn liên tục khai thị mà đệ tử có được sự lĩnh ngộ như sau:
Trật tự đời người là như vậy Hài nhi hai tay nâng bình sữa Biết mình chẳng biết Phật hay ai Trẻ em nương nhờ vào cha mẹ Biết mình biết người Phật thì chưa Lớn lên bắt đầu biết nhân quả Biết mình biết người biết có Phật Thánh nhân quán không Phật nhập tâm (nhập ngã) Có người có Phật mình thì không. Bồ Tát xem mình cũng như người (hợp nhất) Không mình không người chỉ Phật thôi. Vô hạn tử quang nhập mẫu quang (ngã nhập) Không mình không người Phật cũng không. Phật đến hay đi đều vô ngại (xuất định) Có mình có người có cả Phật.
Không biết sự lĩnh ngộ này có đúng hay không? Xin Sư Tôn khai thị. Kính thư! Cát tường như ý. Đệ tử Liên Hoa Hán Đào cúi đầu. Ngày 17 tháng 3 năm 1988.
Liên Sinh Hoạt Phật chú thích: Mình ở đây là chỉ bản thân, còn người là chỉ những người khác. Phật ở đây là chỉ ý thức vũ trụ. Sự lĩnh ngộ này rất đúng! Nếu có thể lĩnh ngộ được đạo lý ở trong thư này thì cũng sẽ hiểu được: Phật và tất cả Phật. Tâm chính là Như Lai.
25. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác
(Đây là thư của Liên Hoa Kim Thiền, là tấm chân tình chỉ nương dựa vào duy nhất Vô thượng chính đẳng giác.)
Nam mô ân sư Liên Sinh Hoạt Phật từ bi soi xét.
Cờ pháp Chân Phật dựng san sát Pháp loa Linh Tiên đã gióng lên Thập phương pháp giới hoa sen hiện Đồng Tử phân thân thành vô số Phật nhãn thấy hết bao bệnh khổ Phật Mẫu từ bi thương chúng sinh Nhật quang sáng chói trùm thiên hạ Uy thần Như Lai thật diệu kì.
Ân sư như từ phụ: Đi theo thầy. Con sẽ chẳng cô độc. Dựa vào thầy. Con luôn được trợ giúp. Đã có thầy. Con tràn đầy hy vọng. Tin tưởng thầy. Sẽ có ngày thành Phật.
Vũ trụ ngang dọc, biến hóa thập phương, vĩ nhân mở ra thời đại mới, mặt trời vĩ đại là thầy, thầy là mặt trời, là ngọn hải đăng của thế giới vũ trụ, là chúa cứu tế của nhân loại chúng sinh. Đại nhật quang minh phổ chiếu thập phương, chiếu xuyên tới tất cả những nơi tối tăm u ám, thắp lên vô tận ngọn đèn tâm, tứ sinh lục đạo đều nương dựa, thập phương Như Lai đều tán thán, là con thuyền từ bi trên biển khổ Ta Bà, là vị Kim Cang ban phúc cho những người khốn cùng lao đao, là vị Minh Vương trí huệ giải trừ phiền não vô minh.
Xin hãy gia trì cho con! Ân sư, vì con mà xoa đầu để con không thoái chuyển, vì con mà thọ kí để con thành Phật!
Xin hãy gia trì cho con! Ân sư, xin quang minh vĩnh viễn chở che, từ bi không rời bỏ. Nụ cười đẫm nước mắt của Phật nhãn, pháp nhũ quang minh của Phật Mẫu khiến hài nhi được nuôi nấng khỏe mạnh, bồi dưỡng hài nhi trở thành vị Vua Sư Tử tất thắng, huân luyện hài nhi thành một người anh dũng can đảm, nghị lực kiên định như bàn thạch, tín tâm tràn trề như biển, bền lòng như nhật nguyệt vĩnh hằng.
Xin hãy gia trì cho con! Ân sư, nguyện rằng khi con trưởng thành, bay cao bay xa khắp thập phương, sẽ luôn ghi nhớ công ơn, kế thừa đại pháp chỉ của thầy, tiếp tục trọng trách của thầy, làm rạng danh tông phái, để báo đáp ân huệ vĩ đại của thầy.
Trò nhỏ còn non dại Mọi thứ chưa trưởng thành Vẫn bốc đồng hành động Tính nóng nảy hãy còn Những bước đi chậm chạp Nương dựa thầy dạy dỗ.
Xin hãy gia trì cho con! Ân sư, linh hồn con do thầy sinh ra, linh hồn con bám lấy thầy, tất cả đều nương dựa vào thầy, hoa sen chắc chắn sẽ trường sinh. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con được quang minh vô biên. Chiếu khắp vô biên chư ác thế. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con được thọ mệnh vô biên. Toàn bộ thọ mệnh dành độ chúng sinh. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con được trí huệ vô biên. Giúp trừ mê hoặc đưa vào đại trí. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con có đầy đủ tam muội vô ngại, biện tài thiện xảo để thuyết pháp thù thắng vi diệu, chuyển đại pháp luân. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con có đầy đủ đại nguyện lực vô biên của Dược Sư. Tránh xa bệnh tật, phiền não, tai nạn, tàn tật. Xinh đẹp, giàu sang, chứng bồ đề. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con có đầy đủ sức mạnh uy mãnh của Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu. Thiên ma, tâm ma, ngoại đạo đều hàng phục. Thiên tai, nhân họa, đói khát đều không đến thân. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con nhanh chóng cứu độ vô biên đau khổ và bệnh tật. Xưng là đệ nhất cứu khổ cứu nạn. Nương dựa vô thượng chính đẳng giác. Nguyện con được phúc đức vô biên. Viên mãn mọi sở cầu của chúng sinh. Hộ trì chúng sinh chứng bồ đề.
Con nguyện mọi lời nguyện đều thành, thành tựu để báo ân thầy. Thủa bé con sợ mùi xác chết Do vậy mà yêu Phật Đại Nhật Lớn lên lại mắc nhiều bệnh tật Do vậy mà yêu Phật Dược Sư Thanh xuân vẫn còn nhiều ngu muội Do vậy mà yêu Đức Văn Thù Tinh thần tư tưởng thầy giao phó Do vậy mà yêu Phật Liên Sinh.
Sư Tôn ở xa nghìn dặm, con không biết phải gửi gắm tình cảm đến đâu, không có cách nào đi để xin gia trì, ở phương xa mong ân sư rủ lòng che chở, khẩn thiết mong thầy thường nhớ đến con, ân sư như từ phụ, con mãi mãi tưởng nhớ.
Đồ nhi vừa dốt lại lười nhác Thậm chí ham ngủ hay lờ đờ Chậm chạp trì trệ đã bao năm Thói xấu vẫn chưa từ bỏ được Mong thầy gia trì cho trí huệ Vén mây cho con thấy mặt trời Ngu si được biến thành trí tuệ Mong thầy gia trì cho tinh tấn Uy mãnh được như sư tử gầm Đồ nhi nghiệp chướng nhiều và nặng Chướng ngại chưa thể nào thoát ra Nợ nần chồng chất đã lâu ngày Mong thầy quán đảnh đại quang minh Khiến cho nghiệp chướng chóng tiêu trừ Nợ nần thu xếp được ổn thỏa Trang trải được hết mọi nợ nần. Đồ nhi hời hợt không tích cực Vẫn chưa hợp nhất được với thầy Đi đứng ngồi nằm sẽ ghi nhớ Ân sư cũng là chính con đây Mong thầy từ bi đại gia trì Chú luân thường chuyển sớm hợp nhất.
Đại Phúc Kim Cang đại phúc lực: Nghiệp chướng sớm rời xa Bố thí tiền như ý Hoằng pháp khắp thập phương Cúng dường đại từ tôn. Nước chảy nhỏ giọt cũng có sức mạnh xuyên mòn đá, con thề cùng thầy hợp nhất, hết sức cố gắng cúng dường thân tâm, con xin mãi mãi phục mình sát đất quỳ lạy. Kính ái người cha từ bi mà con nương dựa. Đệ tử Liên Hoa Kim Thiền đảnh lễ. Ngày 10 tháng 3 năm 1988.
Liên Sinh Hoạt Phật đặc biệt nhắc nhở, muốn thành Phật, đạt đại thành tựu thì cần có năm điều quan trọng:
- Quy y và nương dựa vào một vị Thượng sư chân chính. Đây là khởi đầu của thành Phật.
- Cần phát tâm, nguyện đem pháp này để cứu độ chúng sinh. Sinh ra bồ đề tâm.
- Cần sám hối, tất cả các duyên đều từ tâm khởi lên, nhất cử nhất động không có cái gì là không tạo nghiệp.
- Cần cúng dường Thượng sư, cúng dường Thượng sư tương đương với cúng dường Tam Bảo Phật, pháp, tăng, một vị thầy đầy đủ đức hạnh là tổng trì của Tam Bảo.
- Cần có được truyền thừa gia trì từ Thượng sư, Thượng sư sẽ đem năng lực vũ trụ mà bản thân đã đạt được để phân chia đến các đệ tử, đó là sức mạnh của dòng chảy truyền thừa, tu trì Thượng sư tương ứng pháp, tương ứng với Thượng sư thì sẽ có được lực truyền thừa gia trì.
Năm điều trên nếu như đều làm được tốt thì rất viên mãn, tất cả sẽ cát tường như ý, tự nhiên có được đại phúc, học pháp nhất định thành tựu, đắc được đại trí huệ, cuối cùng chắc chắn thành Phật, đắc vô thượng chính đẳng giác.
26. Tường thuật pháp hội cầu phúc năm Mậu Thìn
Thứ bảy ngày 27 tháng 2 năm Mậu Thìn (1988) là pháp hội cầu phúc tại Lôi Tạng Tự ở nước Mỹ. Thời tiết ngày hôm ấy rất đẹp, tràn ngập ánh mặt trời. Nhân sĩ trong và ngoài nước đến tham dự tới hơn một nghìn người.
Phụ thân của Liên Sinh Hoạt Phật là ông Lư Nhĩ Thuận, mẫu thân là bà Lư Ngọc Nữ, đều là khách quý của pháp hội. Đồng thời, mẫu thân Lư Ngọc Nữ của Liên Sinh Hoạt Phật đến để tiếp nhận quán đảnh lần thứ ba, hơn nữa bà còn ngày ngày học pháp, tinh tấn tu trì.
Liên Sinh Hoạt Phật đăng đàn pháp ngữ: Cầu phúc cầu phúc. Tâm ta làm chủ. Cầu phúc cầu phúc. A Di Đà Phật.
Pháp ngữ này được giải thích như sau: phúc phần của mỗi người thật ra là do tâm của mỗi người làm chủ, tâm lượng vô tận thì phúc phần sẽ vô tận. Người có tấm lòng quảng đại thì phúc phần càng nhiều, người có tâm lượng nhỏ hẹp thì phúc phần sẽ nhỏ.
Cầu phúc phải đến từ tâm của mỗi hành giả, hoàn toàn là sự bộc lộ của nội tâm, do vậy mới nói là vạn pháp do tâm tạo, cầu phúc cũng là do tâm tạo nên thôi. Tâm của chúng ta nhớ đến A Di Đà Phật, mà phúc phần của A Di Đà Phật ở Tây phương Cực lạc Thế giới là lớn nhất, chúng ta cầu phúc cần hướng đến A Di Đà Phật để cầu xin, A Di Đà Phật có đại phúc, nên tu trì để mong vãng sinh Tây phương là chẳng có gì sai. Bởi vậy, cầu phúc, cầu phúc, chính là A Di Đà Phật!
Chương trình pháp hội như sau: Trong tiếng trống pháp hội nhất tề vang lên, kính thỉnh Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Hoạt Phật và các vị Thượng sư lên pháp tọa. Hát bài tán tụng. Đốt sớ văn, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát hạ giáng đàn thành phóng quang. Liên Sinh Hoạt Phật khai thị pháp ngữ: Tu pháp cầu phúc, lễ bái, cúng dường, quy y, hộ thân, kết giới, tụng kinh, trì chú. Rồi Liên Sinh Hoạt Phật diễn hóa đại thủ ấn cầu phúc. Các đệ tử tín chúng đích thân tham dự đều được Liên Sinh Hoạt Phật ban gia trì và quán đảnh. Pháp hội viên mãn cát tường.
Vào 8 giờ tối ngày 27 tháng 2 và 8 giờ tối ngày 28 tháng 2, Liên Sinh Hoạt Phật đã cùng thuyết giảng hai đàn pháp: Đàn thứ nhất là pháp Địa thần. Đàn thứ hai là Nhân duyên hạ sinh của Liên Hoa Đồng Tử. Trong pháp Địa thần, hai bức tượng thần Thiện Ác Đồng Tử do Liên Sinh Hoạt Phật đích thân thờ cúng đã được bán từ thiện, khoản tiền từ bán hàng từ thiện được dùng để hỗ trợ xây dựng Lôi Tạng Tự tại Đài Loan, số tiền thu được là 51.000 đô la Mỹ, do bà Trần Mỹ Hằng đến từ Viên Giác Đường ở Guam chịu trách nhiệm.
Trong bài báo đăng trên tờ Tây Hoa Báo, tờ báo tiếng Hoa tại Mỹ, có viết như sau: "Liên Sinh Hoạt Phật vốn có tổng cộng là sáu người con." Câu nói này đã khiến người ta hiểu nhầm. Ý Liên Sinh Hoạt Phật muốn nói rằng, đời này có hai người con, con trai là Lư Phật Kỳ, con gái là Lư Phật Thanh. Liên Sinh Hoạt Phật có bốn vị Thiện Ác Đồng Tử, là Đồng Tử của pháp nhĩ báo, bởi vì sống cùng đã lâu nên ngài đã xem họ như con, bốn vị Đồng Tử của pháp nhĩ báo này là vô hình, do vậy mới nói là tổng cộng có sáu người con.
Hai vị Thiện Ác Đồng Tử trong bán hàng từ thiện là trong lúc thuyết pháp cao trào, người người phát tâm, nên đã tranh nhau dâng tặng cho Liên Sinh Hoạt Phật.
Trong đàn pháp thứ hai, Nhân duyên hạ sinh của Liên Hoa Đồng Tử, Liên Sinh Hoạt Phật đã tiết lộ nhân duyên của Lư Lệ Hương, Lư Phật Thanh, Lư Phật Kỳ. Đây là một trải nghiệm mới mẻ, khiến người ta không ngớt ca ngợi.
Pháp hội cầu phúc năm Mậu Thìn có rất nhiều kì tích. Các nhân sĩ tham dự đều thuật lại những trải nghiệm thực tế, tất cả đều được mắt thấy tai nghe, rõ ràng như ban ngày. Có người trông thấy Phật quang. Có người trông thấy Liên Sinh Hoạt Phật ban cho chuỗi tràng hạt. Có đệ tử người phương Tây trông thấy toàn bộ Lôi Tạng Tự và mọi người đều bay lên không trung, cả pháp hội đều diễn ra ở trên trời. Có đệ tử người phương Tây trông thấy mọi người tham gia pháp hội trong tâm đều tỏa hào quang, trong một sát-na, tất cả mọi người đều biến thành Liên Hoa Đồng Tử. Có người trông thấy Liên Sinh Hoạt Phật mọc ra nghìn cánh tay, những cánh tay phóng quang, mỗi cánh tay đều cầm bảo vật tặng cho chúng sinh. Có người trông thấy Phật. Có người cảm động, nước mắt không ngừng, hoan hỉ tán thán. Tất cả đều vô cùng cát tường, tất cả đều vô cùng viên mãn, pháp hội cực kì thù thắng.
27. Thư của Liên Hoàn
Thầy kính yêu! Con xin gửi lời chào đến thầy. Sư Mẫu, Phật Thanh, Phật Kì đều bình an! Con xin được thuật lại tóm tắt chuyến đi về Đài Loan của mình. Lần này đệ tử quay về một tháng, thời gian ở cùng với Lâm Linh Quyên rất nhiều. Cô ấy và sư huynh Liệu Kim Thành và một người có biệt danh là Lưu Bang đều là những người rất thú vị, rất chăm chỉ tu trì.
Một ngày trước pháp hội, vì em gái của con là Diệu Du lái xe, cùng với Linh Quyên đợi một người cùng đi đến Trác Lan thăm sư huynh Lâm Ích Xuân và Đông Sơn Đường, con người ở miền quê ấy chất phác giản dị, thân thiết, đồng thời không khí ở vườn quýt trên núi rất trong lành tươi mát, để lại ấn tượng không thể phai mờ trong kí ức của chúng con.
Vào ngày pháp hội Hộ Ma tại Thảo Đồn Lôi Tạng Tự, chúng con cả nhóm đông người đều đi, bố con, cùng với ba chị em, và gia đình họ Trương đều vô cùng hoan hỉ mua rất nhiều hoa tươi dâng lên Phật Bồ Tát, trong số đó, ở chợ Thái Bình bố con đã mua được hoa cúc hoa hồng nhiều màu sắc, em gái thì chọn mua một bó hoa lan tao nhã và một nắm cúc vạn thọ đẹp vô cùng. Con thì mua một tá hoa hồng vàng và rất nhiều hoa dạ lý hương, thêm một số loại khác nữa, trông rất đẹp mắt.
Linh Quyên nói, buổi sáng hôm ấy trước khi đi, cô ấy đã gọi điện cho người dì, bảo dì ấy cùng đi. Thật không ngờ khi dì ấy qua đi cùng thì đã quyên góp một triệu Đài tệ, vợ chồng Linh Quyên cũng quyên góp sáu trăm nghìn Đài tệ. Mọi người đều rất hoan hỉ ca ngợi. Con cũng thấy sư huynh Lâm ở Trác Lan quyên góp năm trăm nghìn tệ, sư huynh Tạ ở Cao Hùng quyên góp năm trăm nghìn tệ. Họ chân thành phát tâm như vậy, còn con thì lại chẳng có bao nhiêu tiền, cũng không có năng lực gì, lại cộng thêm cảm giác thấy mình nhỏ bé, những gì con có thể làm đại khái chỉ có "hết thảy công đức, con đều tùy hỉ" thôi!
Lần này trở về, học trò của con là Lâm Thị, có bệnh tâm thần phát tác nghiêm trọng hơn lần trước, em ấy sống rất đau khổ, phần lớn thời gian đều phải gửi đến trại Tịnh Hòa. Nhờ sự giúp đỡ của Linh Quyên (Phật Bồ Tát thường chỉ thị cho cô ấy trong mơ), bốn người chúng con đưa Lâm Thị đến chỗ của Thành Hoàng Bồ Tát ở đường Trung Hiếu, thành phố Đài Trung để nhờ Thành Hoàng điều giải, một mặt siêu độ oan thân trái chủ, một mặt sám hối tội chướng.
Kể cũng kì lạ, huyễn thanh huyễn thị của cô ấy đã biến mất, cô ấy cảm thấy cả người dường như được đổi thành một con người mới. Đó là một kì tích mà Phật Bồ Tát đã từ bi hiển hiện. Bệnh tình kéo dài bảy năm của Lâm Thị đã khỏi hoàn toàn rồi. Con cũng không dám tin quá, nhưng điều con không thể tin nhất lại là bố của con, vì chuyện này mà ông đã quy y Liên Sinh Hoạt Phật. Vốn dĩ chuyện độ chúng sinh, muốn độ cha mẹ của mình là rất khó, chính xác như thầy đã từng nói, làm cha mẹ làm sao có thể hạ mình mà sẵn lòng nghe con mình được!
Lần này con về nhà, bố con vẫn còn không đồng ý việc con tin theo tông phái này, nhưng sự việc này là ông tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình Lâm Thị phát bệnh và khỏi bệnh, thế rồi cả chị gái Diệu Linh, em gái Diệu Du đều quyết tâm quy y Liên Sinh Hoạt Phật, đệ tử xin được hạ bút viết ra câu chuyện này để kỉ niệm nhân duyên bố con quy y Hoạt Phật.
Hôm pháp hội Hộ Ma tại Thảo Đồn, con trông thấy bố con thành kính cung kính dâng lên một chút tiền để đóng góp xây chùa, con đã rất cảm động, bởi vì con biết, đó là thành ý rất lớn của bố con đó!
Lần này con quyết định tham gia pháp hội ở Seattle Lôi Tạng Tự vào cuối tháng 2 một cách rất vội vàng, gần giống như là con muốn đến thì đến, cũng không biết vì sao, không có mục đích gì, nhưng con cứ khăng khăng là cần phải đi, thật là kì lạ. Có một số đệ tử khác đến Mỹ tham gia pháp hội là có mục đích, con cũng đoán được đôi chút, vì Sư Tôn từng nói sắp tới Sư Tôn "hai bàn tay trắng, không biết kết cục ra sao", theo suy đoán của con thì ít nhất mọi người cũng đã bị câu nói này dọa cho sợ rồi, có lẽ là mọi người lo lắng mấy năm sau, Sư Tôn sẽ rời xa Seattle, sau khi vân du bốn phương thì sẽ không dễ gặp mặt Sư Tôn nữa. Trước dịp năm mới, sư huynh Dương Thái Giám vừa nghe được tin tức này đã khóc một trận lớn, đệ tử này đã quá say đắm Sư Tôn rồi!
Gần đây, vùng đất Alaska đã bị băng tuyết bao vây chặt chẽ, buổi tối cách đây mấy hôm, có hai con nai lớn đói khát băng qua rừng đến khu dân cư bên hồ cát để tìm thức ăn. Con nghĩ chúng nhất định là đói lắm rồi, ngay cả đến những cành cây trơ trụi cũng đều gặm cả (chúng cao gần bằng một tầng lầu, to gấp ba lần trâu ở Đài Loan), nhưng đi đến đâu cũng chỉ là một miền trắng xóa. Con nghĩ, khi nào thì mùa xuân mới đến đây, để ánh nắng mùa xuân xua tan hết băng tuyết.
Kính chúc thầy và mọi người vui vẻ. Đệ tử Thẩm Diệu Quyên (Liên Hoàn). Chắp tay kính thư. Ngày 16 tháng 2 năm 1988.
Lá thư này được gửi đến từ Alaska nước Mỹ, là thư do Liên Hoàn viết. Thư của Liên Hoàn khiến người ta có cảm giác thanh khiết và trong trẻo, đọc thư của cô ấy có cảm giác tươi mát. Đối với việc xây dựng chùa, các đệ tử phát tâm khiến người ta cảm động. Lâm Linh Quyên, dì của Lâm Linh Quyên, khi tôi ở Đài Loan, họ đều là những đệ tử thân thiết của tôi.
Lâm Linh Quyên giúp Lâm Thị chữa khỏi bệnh tâm thần, nhờ có Thành Hoàng Đài Trung điều giải, quả nhiên đã khỏi bệnh, khiến người ta vui mừng. Ở đây có một bí mật, Thành Hoàng Đài Trung là bạn thân ở linh giới của Liên Sinh Hoạt Phật đó!
Thư của Liên Hoàn khiến tôi hân hoan. Người nhà được độ, đúng là không đơn giản. Nhưng hy vọng nắng xuân sớm đến, sớm làm tan chảy băng tuyết. Đó là nhân, đó là duyên, đó là quả.
28. Thư của Thượng sư Liên Hàn
Dưới đây là một bức thư của Thượng sư Liên Hàn:
Ân Sư, Sư Mẫu kính yêu! Con xin chào! Ngày 28 tháng 1 con có gửi đi một phong bì, chắc là đã tới nơi rồi. Gần đây đệ tử mới có vinh dự được đọc cuốn sách mới được xuất bản của Ân Sư, là cuốn "Thông suốt cõi vô hình", thật thán phục Ân Sư từ lâu đã nhập vào cảnh giới hư không vô vi siêu việt càng siêu việt, đệ tử dường như đang được ôn lại những lời dạy bảo của Ân Sư. (Trước đây Ân Sư đã có những lời huấn thị kiểu này rồi, nhưng không bộc lộ tường tận và sâu như vậy.)
Kể từ dịp Tết Nguyên Đán sau khi nghe bài giảng "chư pháp vô ngã" của Ân Sư (thật ra là sau khi nghe lần thứ hai), đệ tử ngoài cảm thấy hổ thẹn sâu sắc ra thì tư tưởng cũng có rất nhiều thay đổi lớn, tất cả đều thấy được mở mang hơn. Lại thêm gần đây đọc cuốn "Thông suốt cõi vô hình", càng giống như ánh mặt trời chiếu tan sương giá, rất nhiều thứ lắng đọng lâu nay đều lần lượt được hòa tan trong tâm con. Đệ tử nguyện sẽ đọc lại nhiều lần cuốn "Thông suốt cõi vô hình", để tư tưởng siêu việt của Ân Sư vĩnh viễn thấm sâu vào tâm linh của đệ tử. Đệ tử sẽ không ngừng nỗ lực học tập và thực hành. Đệ tử nhận được ơn sâu to lớn của Ân Sư! Ân Sư đã ảnh hưởng đến đệ tử một cách vô cùng to lớn và sâu sắc!
Đệ tử vinh dự được đọc cuốn "Con đường cuối cùng", không nén nổi cảm giác đau lòng. Trước đây đệ tử từng nghe Ân Sư hé lộ riêng về nhân duyên tản mát sau này, những hồi tưởng đi kèm với cảm giác đau xót vẫn dâng trào, mong đệ tử có duyên có thể sát cánh bên cạnh Ân Sư đi đến muôn phương, đi đến phút cuối cùng trên "Con đường cuối cùng"!
Sau khi từ Đài Loan trở về Hồng Kông (ngày 14 tháng 1), đệ tử bị ốm liên tục suốt hơn 10 ngày, bệnh này chưa hết lại đến bệnh khác, cho đến tận ngày 31 tháng 1, sau khi làm pháp hội siêu độ tại Tín Pháp Đường mới bình phục hẳn, đó là kết quả của pháp lực thù thắng của pháp hội.
Bản tiếng Anh cuốn sách "Cảm ứng của người quy y" của Ân Sư đã in xong, nay con xin gửi đến hai cuốn, ngoài ra còn có 80 cuốn đang được gửi đi bằng đường bưu điện. (Bưu kiện giới hạn là 20 cân, vừa hay là được 80 cuốn.)
Gần đây con được vinh dự đọc cuốn "Thông suốt cõi vô hình", vô cùng cảm khái, nên đã nảy ra một bài thơ theo thể trường luật, lấy tiêu đề là "Chân Phật", nay con không ngại kém cỏi mà dâng lên trình Ân Sư, con rất hân hạnh mong Ân Sư hiệu đính.
Con gửi kèm trong phong bì này tờ ngân phiếu là cúng dường của các đồng môn, cung thỉnh Ân Sư từ bi vui lòng nhận cho. Con xin kính chúc cả gia đình năm mới vui vẻ! Phật quang phổ chiếu thế gian! Ngu đệ tử Liên Hàn chí thành đảnh lễ. Ngày 8 tháng 2 năm 1988.
Bài thơ trường luật như sau:
Chân Phật "Trụ thế cơ duyên vạn năm gặp Độ sinh bi nguyện kín bầu trời Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm Đầy đủ thần thông trăm lẻ tám Mặc lũ sâu bọ cười khinh miệt Thiên mã mình ta cưỡi trên trời Chính giác tối cao đều thành tựu Vũ trụ vô thượng đều viên dung Đặt bút xót thương ban giáo hóa Cầm hoa khẽ cười cùng ung dung Hồ Sammamish vầng trăng sáng Soi ta chìm trong định tuyệt vời."
Kính dâng lên Liên Sinh Hoạt Phật Ân Sư. Đệ tử Liên Hàn chí thành đảnh lễ.
Xuân mới Mậu Thìn. Nhận được thư và bài luật thơ này của Thượng sư Liên Hàn, tôi cũng muốn đáp lại bằng một bài thơ. Gần đây tôi chuyển nhà đến bên bờ hồ U Linh, giữa đêm đều ngồi thiền ở bên hồ. Hồ U Linh lúc này càng yên tĩnh hơn.
Tôi viết cuốn sách "Đêm ở hồ U Linh", kể ra nhân duyên Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh ở Ta Bà. Những điều này tôi đều biết được trong những lúc thiền định minh tưởng, linh cảm trào dâng như nước nguồn, vô cùng thù thắng.
"Thông suốt cõi vô hình" nghĩa là tam giới thập phương đều có thể hiểu rõ. "Con đường cuối cùng" chính là mức độ cao nhất của sự thông suốt cõi vô hình, cũng có nghĩa là tất cả mọi thứ đều có thể buông xả hết.
Tiêu đề bài thơ: Đêm ở hồ U Linh.
"Núi xa trùng điệp hồ xanh biếc Đường vắng rừng sâu khách chẳng qua Một ngọn đèn đơn soi trăng sáng Trong đầu sắp xếp mấy áng thơ Lặng lẽ Liên Sinh ngồi suy ngẫm Tiền kiếp luôn luôn có nguyên do Chẳng than nhân duyên và quả báo Vô tâm vô sự nước xuôi dòng."
(Hết)