📗

131. Chuyện lạ về siêu độ

image

Chuyện lạ về siêu độ

🪷 Tình nghĩa của quỷ thần

Văn tập: 131 Xuất bản: 11/1998 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Về thế giới trung ấm (linh hồn), tôi tự nhận mình là người hiểu rõ nhất. Theo kinh điển nói: "Khoảng thời gian từ lúc trước khi chết cho đến sau khi chết và trước khi tái sinh, hình dạng âm thể mà chúng sinh có được, gọi là trung ấm." Thế giới linh hồn, trong kinh Phật có nhiều thuyết khác nhau: Câu Xá Luận - có linh hồn. Đại Thừa tông - khi có khi không, không nhất định. Thành Thật tông - không có linh hồn.

Việc nói "có linh hồn" hay "không có linh hồn", tạm thời không bàn đến. Nhưng, mọi người có thể xem một bộ kinh điển, kinh này tên là "Trung Ấm Kinh", do Trúc Phật Niệm dịch vào thời Diêu Tần, trong kinh văn có nói Phật Thích Ca Mâu Ni đi vào thế giới linh hồn, tập hợp các linh hồn trong thế giới linh hồn, thuyết giảng đại pháp siêu độ, phóng hào quang rực rỡ độ u minh.

Ngoài ra, lễ Vu Lan tháng bảy của người Trung Quốc, dựa theo tích Tôn giả Mục Liên xuống địa ngục cứu mẹ, đã phát triển thành lễ cúng dường chư tăng và siêu độ. Trong Phật pháp có: Pháp thí ngạ quỷ. Pháp thí đèn quang minh. Pháp thí thực. Du già diệm khẩu. Trung ấm nghe dạy được độ. …………………….

🌟

Tôi nói, tôi hiểu rõ nhất về thế giới linh hồn, nguyên nhân chính là vì tôi đã thực sự bước vào không gian của thế giới linh hồn, tôi đã cảm nhận được, đã trải nghiệm, đã tự thân chứng nghiệm.

Từ khi bắt đầu học Phật cho đến ngày nay, tôi đã làm vô số pháp sự siêu độ, có thể nói là siêu độ khắp nơi, siêu độ mọi lúc. Tôi hiểu rằng, thường xuyên làm pháp thí thực siêu độ, Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng, sẽ được năm phúc báo: thứ nhất, tướng mạo từ bi; thứ hai, pháp lực tăng trưởng; thứ ba, thọ mạng kéo dài; thứ tư, không tai không nạn; thứ năm, biện tài vô ngại. Ngoài ra, phúc đức tăng trưởng, sau khi chết được vãng sinh Phật quốc.

Tôi nhận thấy linh hồn có một số đặc điểm chung: 1. Thân do ý sinh - chỉ được hình thành từ ý niệm, không phải từ tinh huyết, nên gọi là thân do ý sinh. 2. Cầu thân - các linh hồn rất khao khát có được thân thể, thích nhất là tìm cách nhập vào thân thể khác, giống như người rơi xuống biển muốn bám vào phao nổi vậy. 3. Di chuyển nhanh - do chỉ có ý niệm nên cử động rất nhanh chóng, ý thức đặc biệt nhạy bén. 4. Thích hương - ưa mùi thơm. Nhưng không nhất định có tiêu chuẩn, có một số linh hồn lại coi mùi hôi là thơm. 5. Ngũ uẩn - ngũ uẩn sinh ra từ "thân do ý sinh" đặc biệt mạnh mẽ, mạnh hơn nhiều so với thân xác thịt, vì thế quỷ thần đều có năng lực siêu nhiên, chỉ là khả năng lớn nhỏ không giống nhau, nhỏ thì là ma quỷ, lớn thì là thần.

🌟

Cuốn sách này có tên là "Chuyện lạ về siêu độ", nội dung chủ yếu xoay quanh thế giới linh hồn, trong đó có nhiều nhân quả đan xen, đủ để cảnh tỉnh người đời. Những gì hiện ra trước mắt độc giả là bức tranh về luân hồi, tác dụng khuyến thiện của Phật pháp, và sự phán xét của chân như.

Tôi đã tu học Phật pháp gần ba mươi năm, hoằng pháp khắp thế giới, vì vậy những nhân vật, địa điểm, thời gian được viết trong sách, tôi không muốn ghi chép quá chi tiết, tên người cố gắng dùng tên giả, tránh những phiền phức không đáng có và những tranh cãi vô căn cứ.

Nhưng, tôi có thể nói như thế này: Tất cả đều là sự thật. Độc giả tin cũng được. Không tin cũng chẳng sao. Tin hay không, tùy ở bạn.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT Redmond WA 98052 U. S. A.

01. Gương cổ

Tôi đang làm lễ siêu độ cho con gái quá cố của một đôi vợ chồng. Trong bức ảnh, cô gái có dáng vẻ dịu dàng thanh tú, đứng dưới một cây hoa anh đào, đẹp tựa bức tranh, gương mặt rất linh động. Tôi triệu thỉnh cô ấy, niệm tên cô: "Khương Gia Hân". Trong các buổi lễ siêu độ của tôi, tôi thường thấy được linh hồn người chết chậm rãi đi đến, có lúc người thân của họ cũng nhìn thấy được, thấy được hay không đều do cơ duyên.

Tôi ngồi trên pháp tọa, bỗng nhiên cảm thấy lạnh buốt. Tôi quay đầu hỏi: "Cô ấy mất như thế nào?" Hai vợ chồng đáp: "Là nhảy sông tự tử, toàn thân ướt đẫm." "Chuyện gì đã xảy ra vậy?" Người vợ đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ, thì ra là bài thơ tuyệt mệnh của Khương Gia Hân, thơ rất đẹp, nhưng thật sầu thảm: Chiều đông mưa buốt giá, Bên song nghe mưa rơi; Người thương chưa thấy bóng, Khổ luyến lệ đôi dòng.

🌟

Từ xa, tôi thấy trong sương mù sông nước có một thiếu nữ áo trắng, quả nhiên tà áo tung bay đang tiến đến. Tôi hỏi vợ chồng họ Khương: "Có thấy không?" Người vợ nói: "Khi nhắm mắt lại, tôi thấy có một dòng sông, từ trong sóng nước, một người bước ra, đúng là Gia Hân không sai, nhưng bóng dáng khi gần khi xa, ẩn hiện trong làn sương." Người vợ nói xong! Đau đớn tột cùng! Tôi không nói gì nữa.

Trước tiên làm lễ thí thực, sau đó thành kính tụng kinh chú, kết ấn quán tưởng, tôi triệu thỉnh Bổn tôn Quan Thế Âm Bồ Tát phóng quang gia trì cho Khương Gia Hân, thanh tịnh Khương Gia Hân, Khương Gia Hân trông rất an tường. Tôi lĩnh hội ý chỉ của Bồ Tát. Sau khi xuống tòa, đôi vợ chồng hỏi tôi: "Gia Hân sẽ đi đâu?" "Nam Hải!" - Tôi đáp. "Nam Hải xa lắm không?" "Trong gang tấc." Hai vợ chồng sửng sốt một lúc.

🌟

Buổi siêu độ này, tôi cảm thấy kết quả rất tốt đẹp. Tôi thỉnh cầu Quan Thế Âm Bồ Tát, và Ngài đã quang lâm, thật là ánh tường vân tỏa rực rỡ, hào quang hộ pháp thân, chân dung hiện giữa mây, chân đạp tòa sen báu.

Còn Khương Gia Hân cũng rất tốt, lặng lẽ an nhiên tiếp nhận nước thanh tịnh từ cành dương liễu trong bình cam lộ tế độ của Bồ Tát. Tôi nhìn theo cho đến khi áng mây lành của Quan Thế Âm Bồ Tát dần xa, trong chớp mắt ánh vàng biến mất mới xả định. Tôi nói Khương Gia Hân đã về Nam Hải!

Tuy nhiên, vài ngày sau, vợ chồng họ Khương lại tìm đến tôi. Vợ chồng họ nói: "Siêu độ không linh!" "Sao lại không linh?" "Sau khi siêu độ, vợ chồng tôi đều mơ thấy Gia Hân, thấy con bé vẫn còn dưới đáy nước, toàn thân ướt đẫm, vẻ mặt buồn rầu." "Ôi!" - Tôi không nói được gì. "Vẫn còn ở dưới nước, toàn thân ướt đẫm, làm sao mà về được Nam Hải? Như vậy chẳng phải là siêu độ không linh sao!" "Chuyện này là thế nào đây?" - Tôi lẩm bẩm tự hỏi. "Thế nào là thế nào, phải hỏi thầy mới biết chứ!"

Khi gặp vấn đề như thế này, tôi cảm thấy rất lúng túng, rõ ràng Bồ Tát đã đưa cô ấy về Nam Hải, sao lại còn ở dưới đáy sông, phải chăng đã đi rồi lại về, hay là có điều gì sai sót. Tôi gãi đầu, nghĩ mãi không ra.

Thông thường trong các buổi siêu độ của tôi, người thân chủ lễ đều được những giấc mơ tốt lành, mơ thấy vãng sinh Phật quốc, tỏa ánh vàng, cưỡi hoa sen, cưỡi thiên mã, cảnh giới trang nghiêm, bước vào thành phố ánh sáng, nét mặt vui tươi. Vậy mà cha mẹ của Khương Gia Hân lại cùng mơ thấy dưới đáy nước, ướt sũng, vẻ mặt sầu não, thế này chẳng phải là điều rất không hay sao.

🌟

Sau khi siêu độ, người thân có những giấc mơ không tốt lành, điều này tất nhiên rất quan trọng đối với tôi. Vào thời điểm đó, tiếng tăm về việc siêu độ của tôi rất lớn, nhiều nhà thỉnh cầu, tôi làm pháp sự hết lòng, lấy tâm "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi" để thực hiện. Đồng thời, công phu thiền định của tôi sâu dày, pháp lực phi phàm, đây là điều tôi khá tự hào. Nay xảy ra chuyện như vậy, làm sao tôi có thể bỏ mặc, làm sao có thể không quan tâm được. Đương nhiên là tôi lo lắng. Tôi nói với cha mẹ của Khương Gia Hân: "Hãy làm lễ siêu độ một lần nữa." "Có tác dụng không?" "Có." - Tôi kiên quyết nói.

Lần này, tôi dùng Du Già Diệm Khẩu, pháp này là khi A Nan Tôn Giả đang tọa thiền trong rừng, có quỷ đói Diệm Khẩu xuất hiện, A Nan không biết cách đối phó, bèn đi cầu kiến Phật Thích Ca Mâu Ni, và Phật Đà đã truyền dạy pháp Du Già Diệm Khẩu. Trước tiên tôi quán chữ Phạn, sau đó khởi thần biến. Kết ấn bước vào mandala. Chính là: Nam Bắc Đông Tây bốn cõi châu, Trăm nghìn cõi nước cũng đáp ứng; Đỉnh núi Tu Di an cung điện, Cô hồn dưới đất thoát khổ sầu.

Trên đầu tôi đội mũ Ngũ Phật, đúng như bài kệ: "Năm phương Ngũ Phật oai thần lớn, kết giới hàng ma khắp cõi trần, đêm nay Tỳ Lô hiện trên đỉnh, một chiêm một lễ đều quy chân."

Pháp sự lần này kinh động chư linh, rất nhiều chúng sinh cõi linh giới đến lễ bái tôi, họ gọi tôi là: "Nam Mô Tận Hư Không Biến Pháp Giới Chủ Kim Cang Bí Mật Chủ Đăng Bảo Tòa Bồ Tát Ma Ha Tát." Nhập vào thiền định thâm sâu, tôi thấy hết thảy mọi sự trong thế gian.

Tôi nhìn thấy: Cô hồn Khương Gia Hân. Tôi rất kinh ngạc, sao cô ấy chưa đến chốn Nam Hải Bồ Tát? Quả thật việc siêu độ của tôi không đủ lực, thật là thảm! Tôi lại nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân, thấy từng lớp mây rực rỡ bay lượn, nghìn tia khí lành ẩn hiện, Bồ Tát tỏa ánh vàng rực rỡ, trên thân trang sức như ráng chiều, Nam Hải Bồ Tát đứng trước cô hồn. Bồ Tát hỏi Khương Gia Hân: "Cô là ai?" "Con là Khương Gia Hân." "Cô không phải." "Con đúng là Khương Gia Hân." - Cô hồn phản đối.

Bồ Tát không nói gì, từ trên thân lấy ra một tấm gương cổ, rọi tấm gương cổ này về phía cô hồn. Chỉ thấy linh quang chớp lóe, nghìn sợi xanh biếc mảnh mai, một điểm đỏ thắm tận đáy lòng, bản tính vốn không, linh diệu có công năng kỳ lạ.

Vừa soi xong, cô hồn Khương Gia Hân biến mất, thay vào đó là một người phụ nữ khác, khuôn mặt đầy vẻ thê lương và oán hận, tiều tụy như lá thu tàn. "Cô là ai?" - Bồ Tát lại hỏi. "Con là Ôn Cầm." - Cô ta vừa nói vừa khóc. "Đừng khóc nữa, không được khóc! Hãy kể sự thật cho Bồ Tát nghe, Bồ Tát sẽ không phạt con đâu!"

Lúc này Ôn Cầm mới kể ra tất cả sự thật: Ôn Cầm cũng là người chết đuối dưới sông, sau đó mới đến Khương Gia Hân, hai linh hồn đã trở thành chị em thân thiết, thề nguyện sẽ mãi bên nhau. Sau khi Khương Gia Hân được Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn ban ân gia trì, đã được Nam Hải Bồ Tát đưa về tịnh thổ Tử Trúc Lâm ở Nam Hải.

Ôn Cầm trở thành cô hồn lang thang, cuối cùng mới nghĩ ra diệu kế, trước hết biến hóa thành Khương Gia Hân, báo mộng cho cha mẹ của Gia Hân, để Liên Sinh Hoạt Phật làm phép siêu độ lần nữa. Hy vọng Nam Hải Bồ Tát từ bi, cũng đưa Ôn Cầm về Nam Hải, như vậy, Ôn Cầm và Khương Gia Hân hai người có thể mãi mãi bên nhau. Ôn Cầm kể đến đây, mọi sự thật đã sáng tỏ.

🌟

Nam Hải Bồ Tát hỏi Ôn Cầm: "Quê ở đâu?" "Đạm Thủy, Đài Bắc." "Bao nhiêu tuổi?" "Năm nay hai mươi hai." "Làm nghề gì?" "Ở vũ trường nọ tại Đài Trung, nghệ danh là 'Mai Tử'." Bồ Tát nói: "Sinh thời cô xinh đẹp như vậy, sao lại nhảy xuống nước?" "Mẹ con là một người phụ nữ điếc, hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, nhà nghèo rớt mồng tơi, không đủ cơm ăn qua ngày, con đành phải làm vũ nữ kiếm sống. Nhưng bản tính con ít nói ít cười, tuy bề ngoài rực rỡ như hoa đào, mà trong lòng lạnh như sương tuyết."

Ôn Cầm lại nói: "Sau đó có một khách quen đến, đã chi rất nhiều tiền cho con, nhưng dần dần hắn có những cử chỉ vô lễ, con cương quyết từ chối, nào ngờ hắn bỏ thuốc vào đồ uống, khiến con đau đớn không muốn sống!" "Rồi sao nữa?" "Con nói mình là một người con gái trinh bạch. Ai ngờ hắn bảo con đừng giả vờ đạo mạo, con nói con sẽ chết, hắn cười nhạo rồi bỏ đi." Ôn Cầm nói: "Thân con tuy nghèo, nhưng chuyện tà vạy không làm, tính tình cương trực, nghĩ lại cuộc đời mình, lại gặp phải kẻ vô lại như thế, chỉ còn cách chết để giữ trong sạch mà thôi." Bồ Tát nghe đến đây, vô cùng xúc động.

Tôi định nói. Bồ Tát quay sang bảo tôi: "Không cần nói thêm, ngài hãy dùng pháp lực bí mật, chuyển hóa năm độc bên trong của Ôn Cầm là tham, sân, si, nghi, mạn, biến nghiệp của năm độc thành cảnh giới giải thoát và chính biến tri. Ngài hãy hiển hiện pháp lực thân, khẩu, ý của Bổn tôn để tịnh hóa và gia trì cho cô ấy. Ta - Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ tự nhiên thỏa mãn nguyện vọng của cô ấy."

Tôi là một hành giả du già chân chính. Trong một sát-na, tâm không tán loạn. Hòa nhập vào trạng thái hợp nhất của Bổn tôn, chân ngôn và trí huệ. Nam mô Quang Vô Lượng. Tôi cùng Ôn Cầm và chúng sinh đều bình đẳng như hư không. (Câu này có năng lực gia trì mạnh nhất.) Từ trong tính Không, tất cả mọi nhiễm ô đều được tịnh hóa hoàn toàn. Hum! Hum! Hum! Thành tựu viên mãn trang nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn.

Khi tôi hoàn tất pháp sự, Nam Hải Bồ Tát lập tức đưa Ôn Cầm về Nam Hải. Tôi nói: "Xin Bồ Tát dừng bước!" "Chuyện gì vậy?" "Đổi vật này lấy vật kia!" - Tôi nói. "Tôi đã giúp Ôn Cầm tu pháp Đại Viên Mãn tịnh hóa." - Tôi tiếp tục: "Giờ đây, tôi nghĩ Bồ Tát nên để lại bảo vật có thể soi thấu nguyên thần kia." "Bảo vật? Gương cổ?" "Đúng vậy." - Tôi phủ phục: "Xin tạ ơn Bồ Tát!" Bồ Tát mỉm cười, rồi hỏi lại tôi: "Nam Hải ở đâu?" "Trong tấc lòng!" - Tôi đáp. "Vậy gương cổ ở đâu?" - Bồ Tát lại hỏi tôi. Tôi không nói nên lời.

Bồ Tát nói: "Khi ngài nhìn thấy tướng bên ngoài của thế giới này, đừng để bị che mờ, tự nhiên, nó có điều kỳ diệu bên trong. Tự tính vốn thanh tịnh chính là tấm gương cổ chiếu sáng đó, khi đi vào tự tính thanh tịnh ấy, trong tay ngài sẽ có được gương chiếu yêu, hiện giờ ngài xin gương cổ của ta, gương cổ của ta ở ngay trong tấc lòng, chính ngài cũng có gương cổ." Bồ Tát dẫn Ôn Cầm đi. Tôi không kìm được sự kinh ngạc, và tự mình cũng phải bật cười.

🌟

Sau sự việc này, tôi đến một vũ trường nọ. Gọi tên Mai Tử. Quả nhiên ở đây có một vũ nữ tên Mai Tử, họ nói: "Cô gái này chẳng biết phong nhã gì cả, khách hàng tốt với cô ta như vậy, vậy mà lại đi tự tử!"

02. Ma vạn tửu

Có một thời gian, vào buổi tối trước khi nghỉ ngơi, tôi thường uống một ly rượu nhỏ, với món nhắm đơn giản chỉ là đậu phộng rang và cá khô.

Tôi chẳng bao giờ kén chọn rượu, nhưng loại tôi hay uống nhất là rượu Ngũ Long Nhị Hổ, một loại rượu bổ (rượu thuốc) sản xuất ở Trung Quốc Đại Lục, chỉ uống một ly nhỏ.

Về sau, rượu Ngũ Long Nhị Hổ đổi tên thành rượu Ngũ Long Nhị Bổ, là vì Hiệp hội Bảo vệ Động vật Thế giới. Nhị Hổ biến thành Nhị Bổ. Ha ha! Thú vị thật!

Ngoài rượu Ngũ Long Nhị Hổ, tôi cũng uống Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ, Nhị Quả Đầu, Gia Phạn Tửu, Thiệu Hưng... Về rượu ngoại, có Louis XIII, Blue Label, XO, Remy Martin, rượu vang đỏ, rượu vang trắng, rượu băng... Khi thì tôi tự rót tự uống một mình. Khi thì có Thượng sư Liên Hương làm bạn.

Nhiều đệ tử Chân Phật Tông biết tôi hay uống rượu, nên từ khắp nơi trên thế giới gửi tặng rượu ngon (rượu danh tiếng), ví dụ như rượu Tửu Thần của Trung Quốc (báu vật trong làng rượu), rượu nhân sâm của Dư Nhân Sinh, rượu Thập Toàn Đại Bổ, rượu Dưỡng Mệnh của Nhật, rượu gạo Nhật Bản... Cả đời này uống rượu, tôi chưa bao giờ phải bỏ tiền mua.

Tôi xin đặc biệt nói rõ: 1. Người xuất gia không được uống rượu. 2. Tuy nhiên, khi rượu được dùng làm dẫn thuốc thì có thể được khai giải. 3. Trong Mật giáo, rượu được xem là cam lộ. Ý nghĩa của cam lộ này chỉ dành cho hành giả thực sự có thể thọ dụng được rượu. 4. Hễ uống say thì sẽ là phạm giới. 5. Hễ sau khi uống rượu mà nói năng lộn xộn, hành vi thất thường, động tay đánh nhau, làm chuyện tà dâm, đều là phạm giới. 6. Uống rượu quá độ thì rượu không phải cam lộ, mà là thuốc độc. 7. Hành giả Mật giáo nếu chưa đạt cảnh giới, không được động đến rượu. Tôi viết như vậy, mọi người ắt hiểu được.

🌟

Một đêm nọ, trời rất lạnh, tôi ngồi một mình tự rót tự uống. Bên ngoài tối đen, tôi chỉ thắp một ngọn đèn cô đơn, đang cảm thấy vô cùng buồn chán, nghĩ thầm, giá như lúc này có một người tri kỷ bầu bạn thì tốt biết mấy. Đang nghĩ như vậy, bỗng có một vật đen to lớn từ ngoài tường bay vào, rơi xuống từ xà nhà, còn xoay hai vòng trên không trung, rồi không lệch chút nào, ngồi xuống ngay chiếc ghế đối diện với tôi. Cả đời này tôi chẳng sợ trời chẳng sợ đất. Nhưng việc này cũng khiến tôi tỉnh ngủ ngay tức khắc.

Trong nháy mắt, chỉ trong phút chốc, trước mặt tôi xuất hiện một cụ già tóc bạc phơ. Trong giây lát, tôi cũng đứng ngây ra như phỗng. Ông ấy nói: "Đừng sợ!" - Cụ già tóc bạc nói: "Tôi không có ác ý, chỉ vì thấy Hoạt Phật một mình tự rót tự uống, quá cô đơn, nên đặc biệt đến làm bạn." Tôi hỏi: "Quý danh?" Ông đáp: "Họ Vạn."

Ông lão tóc bạc xách một bình rượu to, tất nhiên bên trong toàn là rượu. "Rượu gì vậy?" "Rượu Quỷ." "Rượu Quỷ là gì?" "Rượu Quỷ là tên một loại rượu, là đặc sản của Hồ Nam, Trung Quốc đấy, uống rượu mà không biết đến loại rượu nổi tiếng này thì thật phí!" Ông lão tóc bạc tuy tuổi cao nhưng lời nói rất mạnh mẽ, cử chỉ hào sảng, lấy ra hai bát to, rót đầy cả hai, mỗi người một bát uống cạn, rồi hét lớn: "Thật đã quá! Thật đã quá!"

Ông lão đột ngột hỏi tôi: "Ngài biết tôi là ai không?" "Họ Vạn." "Họ Vạn là do tôi nói với ngài thôi, tôi là Ma Vạn Tửu đây, ha ha! Ma men uống rượu với ma men, mới đúng là ma men danh xứng với thực!" Ma Vạn Tửu chỉ vào bát rượu lớn trước mặt tôi: "Uống đi!" Tôi nâng bát lên và uống. Ma Vạn Tửu nói: "Tôi không quen ép khách, cứ tùy ý ngài thôi, Hoạt Phật muốn uống bao nhiêu thì uống!"

🌟

Thật lòng mà nói, với hoàn cảnh như tôi, nếu không có tu luyện, rèn được định lực cực mạnh, mà đổi lại là người bình thường, đột nhiên xuất hiện một ông lão, trong đêm tối đen như mực, cùng uống rượu với mình, lại tự xưng là Ma Vạn Tửu, trong bầu không khí như vậy, không bị dọa chết vì sợ hãi đã là may mắn lắm rồi! Người có gan to một chút, có lẽ cũng phải rùng mình ớn lạnh, nói năng lắp bắp run rẩy được thì đã là khá lắm rồi.

Nhưng hôm nay tôi là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, cả đời này tôi đã từng trải qua nhiều trận mạc, cũng gặp ma quỷ nhiều rồi. Tôi rất bình tĩnh, tôi nhìn chăm chú vào mặt ông ta, mặt ông không hề đỏ vì rượu, chỉ thấy một màu xanh tím ghê rợn, đôi mắt phóng ra hai tia sáng lạnh lẽo.

Ông nói: "Quả nhiên Hoạt Phật là Hoạt Phật thật, định lực đủ mạnh, thật đáng khâm phục!" "Không dám! Chỉ là gặp nhiều rồi thôi." "Để tỏ lòng tôn kính Hoạt Phật, tối nay tôi mời khách." "Mời khách?" "Đúng vậy, tôi có chút pháp lực, có thể lấy đồ ăn được, không biết Hoạt Phật còn muốn uống rượu gì nữa?" Tôi trầm ngâm không nói, không biết nên uống rượu gì đây?

Ông ta nói: "Có rồi! Hoạt Phật đã từng đến Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây Trung Quốc nổi tiếng về rượu Phần, đúng là uống rượu phải uống Phần, rượu Phần phải uống, ha ha! Vậy lấy một chai rượu Phần tỉnh Sơn Tây đi!"

Ma Vạn Tửu vừa nói xong, chỉ thấy miệng ông lẩm bẩm niệm chú, đột nhiên giơ tay chộp vào không trung, trên tay liền xuất hiện một chai rượu Phần. Tôi tận mắt nhìn thấy Ma Vạn Tửu vung tay không về phía hư không, liền có ngay một chai rượu, đúng là ảo thuật, thuật pháp kỳ diệu khiến người ta khâm phục.

Ma Vạn Tửu nói: "Có rượu mà không có đồ nhắm thì mất hứng quá!" "Ông lại muốn lấy đồ ăn à?" "Đúng vậy." "Lấy đồ ăn bằng cách nào?" "Xin cho tôi một cái đĩa không và một chiếc khăn tay." Tôi chuẩn bị xong xuôi. Ma Vạn Tửu đặt đĩa không lên bàn, lấy khăn tay phủ lên đĩa, miệng lẩm bẩm niệm chú, rồi tay nhanh chóng kéo khăn ra, hô lớn: "Cấp cấp như luật lệnh!" Tôi nhìn trên đĩa. Một con cá vược hấp gừng thơm phức. Tôi há hốc mồm, trợn mắt kinh ngạc. "Đây là lấy vật từ hư không sao?" "Đây là phép ngũ hành xê dịch đại vận chuyển, ma quỷ cũng có thần thông đấy." - Ma Vạn Tửu cười ha hả.

Chúng tôi có rượu có thức ăn, ăn uống thoải mái vui vẻ! Ma Vạn Tửu bỗng nhiên lại nói: "Chúng ta có rượu có thức ăn, chỉ thiếu ngâm thơ, chúng ta làm thơ đi!" Vạn ngâm: "Thiên biến vạn hóa xuyên qua tường." Tôi đối: "Đưa trăng và gió dài bóng đêm." Vạn ngâm: "Cớ sao uống rượu sầu chưa dứt." Tôi đối: "Chỉ bởi độ sinh tự bận mình."

Tiếp: Vạn nói: "Có duyên quý trọng khó gặp lại." Tôi đối: "Rượu Phần, cá vược say gió chiều." Vạn nói: "Người ma tương phùng duyên sắp tận." Tôi đối: "Nhiều chén không bằng một chén nồng."

Ma Vạn Tửu nói: "Cái gì mà nhiều chén không bằng một chén, không đúng, không đúng." "Vậy phải nói sao?" "Phải là một chén không bằng nhiều chén." Tôi nói: "Một chính là nhiều, nhiều chính là một." Ma Vạn Tửu nói: "Câu cuối, đừng dùng một chén nồng, hay nhiều chén nồng nữa, mà đổi thành: một chén một chén một chén nồng." "Như vậy rất hay!"

🌟

Về Ma Vạn Tửu, dựa vào kiến thức của tôi, thật sự có rất nhiều điều đáng ngờ. Vị Ma Vạn Tửu này, tự xưng là ma, tôi quan sát khí sắc trên mặt ông ta, đúng là một ma thật. Ma là "ý sinh thân", tự nhiên có thể đi vào bất cứ đâu. Mật giáo có nói rằng: Ma (trung ấm) chỉ có hai nơi không thể đến được, thứ nhất là tử cung của người mẹ tương lai, thứ hai là kim cang bảo tọa của Phật. Thứ nhất là cảnh giới luân hồi. Thứ hai là cảnh giới niết bàn. Ma một khi vào hai cảnh giới này sẽ "chết" ngay.

Ma Vạn Tửu vào nhà tôi cùng uống rượu, về điểm này, tôi không hề nghi ngờ gì. Nhưng việc Ma Vạn Tửu vươn tay lấy rượu Phần từ hư không, và biến ra món cá vược hấp gừng trên bàn, điều này khiến tôi vô cùng khó hiểu. Việc lấy vật từ không trung, phép ngũ hành xê dịch đại vận chuyển, chỉ có thần tiên mới làm được điều này. Ma quỷ thông thường không có pháp lực như vậy, ma không có khả năng gọi gió gọi mưa, vì không thể sai khiến được thần gió thần mưa, ma cũng không thể ở trong đền lớn, vì sợ thần sấm. Vậy tại sao Ma Vạn Tửu lại có thần thông lớn như vậy? Làm sao có thể thực hiện được phép ngũ hành xê dịch đại vận chuyển?

Tôi đang suy nghĩ thật kĩ. Ma Vạn Tửu bỗng biết được, ông ta nói: Kiếm ấn cao vút với lư hương, Càn Khôn Cấn Tốn bút phong sừng; Rùa hạc đàn thư Khôn Thân địa, Thiên môn thánh địa lắm tiên nhà.

Tôi kêu lên "À!" một tiếng: "Ông đã được phong thủy đất tiên." "Hoạt Phật thật giỏi, tôi chỉ đọc một bài kệ này, Hoạt Phật đã biết ngay là nhờ địa khí mà tôi có được thần thông, giỏi thật! Giỏi thật! Thì ra Hoạt Phật cũng là một bậc đại sư về phong thủy địa lý."

Lời nói của ông ta khiến tôi nghĩ mình không nên nghi ngờ nữa. Tuy nhiên, tôi lại thắc mắc, Ma Vạn Tửu thích uống rượu, nhưng lại có tài làm thơ làm kệ, vậy ông ta là nhân vật thế nào? Ma Vạn Tửu mỉm cười nhẹ nhàng, như thể ông ta lại biết được tôi đang nghĩ gì? Ông ta nói: "Bốn tháng nữa chúng ta sẽ có duyên gặp lại, lúc đó mọi chuyện sẽ sáng tỏ." "Ông có thể tiên đoán tương lai sao?" - Tôi kinh ngạc, điều này còn thần kỳ hơn nữa. "Tôi là kẻ nghiện rượu, làm sao lại nói dối được." - Trong lời nói của Ma Vạn Tửu, dường như điều gì ông ta nói ra đều chắc chắn sẽ thành sự thật, ông ta rất tự tin về năng lực của mình. Ma Vạn Tửu uống cạn thêm một bát lớn nữa, rồi đứng dậy cáo từ, biến mất trong chớp mắt.

🌟

Sau chuyện này, tôi không hề kể với ai về việc gặp Ma Vạn Tửu, kể ra thì người ta cũng chưa chắc đã tin. Tôi vẫn bận rộn như thường lệ, rất nhanh đã quên bẵng cuộc hẹn bốn tháng sau.

Vào một buổi trưa bốn tháng sau, có một người thanh niên đến xin gặp tôi, yêu cầu tôi nhất định phải siêu độ cho người cha quá cố của anh ta. Người thanh niên đưa cho tôi xem tấm ảnh, ồ! Chính là Lão Tửu. Tôi hỏi: "Anh họ Vạn phải không?" "Vâng, Vạn Tông Nhân. Sư phụ sao biết được ạ?" Tôi không trả lời, chỉ nói: "Tôi nhất định sẽ giúp cụ siêu độ!"

Đến ngày siêu độ, trên bàn thờ bày rất nhiều cúng phẩm, trong đó nổi bật nhất là có rượu Phần và cá vược hấp gừng. "Sao cúng như vậy?" - Tôi chưa kịp hỏi. "Bố tôi báo mộng nói nhất định phải có hai món này, một là rượu Phần, hai là cá vược hấp gừng. Chúng tôi không biết tại sao lại cần hai món này, nhưng giấc mộng rất rõ ràng, nên chỉ còn cách làm theo!" "Cái ông nghiện rượu này..." - Tôi lẩm bẩm. "Vâng." - Vạn Tông Nhân nói: "Lúc còn sống bố tôi nghiện rượu như mạng, biệt danh là Ma Vạn Tửu." "Khi còn sống ông làm nghề gì?" - Tôi hỏi. "Giáo sư Quốc học." "À..." - Tôi đã hiểu ra tất cả.

03. Chiến tranh của người âm

Tôi ngồi trên pháp tọa. Hát bài kệ: Đại Nhật tối thắng xin cúi lạy Vô tận Tam Bảo Thánh Quan Âm Tôi theo lời dạy cứu u minh Chỉ mong từ bi ban gia trì.

Tôi dùng tâm lực để triệu thỉnh: "Nhất tâm triệu thỉnh, mặt trời tựa như mũi tên, thỏ ngọc tựa như con thoi, muốn thịt xương tách rời, thấy giọng nói và hình dung không còn tồn tại. Đầu tiên đốt hương quý, trước hết triệu thỉnh linh hồn Tôn Thị, chỉ mong được nhờ sức mạnh Tam Bảo, dựa vào lời bí mật, đêm nay lúc này đến pháp hội, nhận cam lộ pháp thực đã bày ra này." Kết ấn câu triệu bí mật.

Niệm chân ngôn triệu thỉnh: "Ôm pu-pu-ti-li ka-li-tua-li ta-tha-yê-tô-yê." Cô hồn nghe triệu thỉnh mau mau đến. Tôi niệm chú triệu hồn này, kết ấn câu triệu linh hồn, dùng tâm ý để triệu hồn, linh hồn nhất định sẽ đến.

Mắt tôi nửa nhắm nửa mở, ở trong huyễn quán, tôi nhìn thấy trên trời có treo một vầng trăng đẹp đẽ mát rượi, nhẹ nhàng tỏa ra những ánh bạc nhàn nhạt lấp lánh, phủ lên mặt đất yên ả, khiến cho mặt đất nhuộm thành một vùng màu trắng bạc. Có một hình bóng đang thả bước dưới trăng đi đến, cô hồn đang đi dạo dưới trăng này nhất định là cô hồn nhà họ Tôn, là Tôn Tế không sai.

Thế nhưng đúng vào lúc này, đột ngột có tiếng rít, một tiếng hú chói tai, thì ra là một âm linh cực to lớn, hai mắt lóe lên ánh sáng xanh khủng bố, trên tay cầm dao sắc, lao về phía Tôn Tế muốn giết. Tôn Tế sợ đến mức bán mạng chạy trốn. Nhưng âm linh to lớn này giống như con sói nhanh nhẹn bám theo rất sát, Tôn Tế la hét: "Cứu! Cứu tôi với!" Tôn Tế không còn đường thoát, chỉ còn cách trốn sau người tôi.

Âm linh to lớn này chạy đến trước mặt tôi. Lần này tôi nhìn rất rõ hắn. Là một nam tử hán trông rất to khỏe, ngũ quan hung ác, cơ bắp toàn thân lồi ra, tay cầm dao sắc, ánh mắt tức giận. "Trả Tôn Tế đây!" "Anh là ai?" "Tôi là Mao Công." "Tôn Tế và anh có oán thù à?" "Hừ! Ngôi mộ đẹp đẽ của Mao Công tôi, ông ta không tránh đi, đã chiếm nhà tôi rất lâu rồi, tôi hận ông ta rất lâu rồi!"

Tôi dùng lời nói tốt đẹp khuyên hắn: "Đêm nay con cháu của Tôn Tế làm pháp sự, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôi làm chủ đàn, cô hồn Tôn Tế xứng đáng được hưởng cam lộ, được Bồ Tát Tam Bảo quán đảnh gia trì, sớm rời khỏi ác đạo, cũng sớm siêu sinh thôi." Mao Công hét lớn: "Không đúng, không đúng, Tôn Tế chiếm ngôi mộ của tôi, mỗi lần pháp sự phải là tôi hưởng thụ mới phải, chứ không phải là ông ta." "Là Tôn Tế." - Tôi nói. "Không phải, là Mao Công tôi."

Tôi ngồi trên pháp tọa, tự cảm thấy buổi siêu độ đêm nay có phiền phức, Tôn Tế và Mao Công ở trong tình huống bế tắc. Nói về siêu độ, công đức chủ hôm nay là Tôn gia, đương nhiên phải siêu độ cho Tôn Tế mới phải. Nhưng lại có một vị Mao Công xuất hiện, không thể thương lượng mà cứ nằng nặc đòi hưởng thụ hương hoa, muốn đuổi công đức chủ đi, còn nói Tôn Tế đã bá chiếm ngôi mộ của hắn. Ngay lúc này cũng không thể hiểu được ai đúng ai sai, tôi cảm thấy khá khó xử, khá phiền toái. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: "Đêm nay, tôi phải bảo vệ Tôn Tế. Đây là trách nhiệm của tôi."

Mao Công gầm lên giận dữ: "Pháp sư, đừng có trách, tính khí tôi nóng nảy lắm đó!" Mao Công cầm dao sắc, vung một chiêu Hoa Sơn cái đỉnhv à xông thẳng đến. Tôi vội vàng kết ấn, hai tay đan nội phộc, mười ngón tay ngửa lên, hóa ra một bánh xe lửa lớn, bay lên bảo vệ đầu. Tôi niệm chú: "Fa-cha! Fa-cha! Fa-cha!" Dao sắc kia vừa chạm vào bánh xe lửa lớn thì "rắc" một tiếng, gãy luôn.

Mao Công nổi cơn thịnh nộ, lao nhanh về phía trước, hai tay muốn tóm lấy cổ tôi. Hai tay tôi lật bàn tay lại giữ trước ngực, duỗi hai ngón trỏ ra, mở ra, khẽ đung đưa. Tôi niệm: "Ôm wa-zư-la na-chia-a-hùm." Chữ Hum trên thủ ấn bay ra một vòng lửa lớn, vòng lửa lớn này đốt ngay Mao Công khiến hắn kêu lèo xèo, không thể chạy trốn. Tôi nói với Tôn Tế đang trốn sau lưng mình: "Đừng sợ, tất cả vô sự rồi, ông ra đi!" Thân thể Tôn Tế không kìm được sự run rẩy, tướng mạo của Tôn Tế lúc này lại giống bộ dạng của một học sinh. Tôn Tế nói: "Đa tạ Hoạt Phật đêm nay đã cứu, đến già cũng khó quên!"

🌟

Làm xong pháp sự, tôi rời khỏi pháp tọa. Con cháu của Tôn Tế đi nhanh về phía trước: "Hoạt Phật, không có chuyện gì chứ?" "Có chuyện gì là sao?" - Tôi hỏi ngược lại. Con cháu của Tôn Tế nói: "Là như thế này, trước kia chúng tôi mời pháp sư đến giúp siêu độ, pháp sư làm pháp sự nhiều lần xảy ra chuyện, có người thì ngay ở trên pháp tọa bị chóng mặt không chịu nổi, có người thì ngồi trên pháp tọa nước mũi chảy thành dòng, có người thậm chí bị ốm, pháp sự chỉ làm được một nửa, có người bị nghiêm trọng hơn nữa, chúng tôi không dám nói…………" "Nói đi, không sao đâu!" "Có một vị pháp sư làm pháp sự xong, trở về nhà không lâu thì không ngờ đã chết rồi." "Có chuyện này ư?" "Đúng vậy." "Hừ! Mao Công này cũng quá hung hãn rồi!" - Tôi nghĩ thầm.

Con cháu của Tôn Tế kể với tôi: Kể từ sau khi Tôn Tế qua đời, trong nhà suy thoái, thường xuyên có sự cố phát sinh, chúng tôi được Tôn Tế báo mộng, nói rằng tình hình không tốt, không có được cơm áo, thường xuyên bị người khác cướp mất. Còn nói, mộ phần có chỗ không đúng, chúng tôi đã mời thầy phong thủy đi xem phong thủy, cũng không tìm ra được chỗ nào không đúng, đã mời nhiều thầy phong thủy rồi, mỗi người đều nói khác nhau. Việc này cứ mãi không giải quyết được. Con cháu của Tôn Tế sau đó nghe danh của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn mới đặc biệt đến mời tôi chủ trì pháp sự.

Tôi nghe xong lời kể chi tiết của họ, bản thân cảm thấy việc này quả nhiên có một số tranh chấp, xem ra muốn hóa giải việc này, không phải tôi thì chẳng có ai làm được. Tôi tự nghĩ, tôi chỉ là làm siêu độ, pháp sự xong xuôi là tôi không còn việc gì nữa, không muốn lại tiếp tục dây dưa thêm việc. Nhưng sự việc này đã đến tay tôi, nếu tôi không quản, nếu tôi không đi hóa giải, trong thiên hạ này còn có ai có thể hóa giải đây? Thế là tôi lại việc đáng làm thì phải làm. Tôi kể với họ chuyện vừa xảy ra ở trên pháp tọa, tôi nói: "Việc này cứ để cho tôi lo liệu." Chà! Họ rất vui mừng, họ chẳng còn để ý gì khác ngoài việc khoa chân múa tay vì sung sướng. Tôi hỏi: "Mao Công là ai?" Họ lắc đầu: "Không biết!" Tôi nói: "Có khả năng ngôi mộ của Tôn Tế đã xâm chiếm vào phần mộ của Mao Công, việc này tôi phải tự mình đi xem phong thủy thì mới biết được."

🌟

Ngôi mộ của Tôn Tế nằm ở một bên của núi Đông Sơn, nơi đó là một khu nghĩa địa lớn, mọi người tập trung rất đông. Tôi nghĩ đến bài thơ Vịnh Hoa của quốc sư Ngộ Đạt: Hoa nở đỏ đầy cây, hoa rụng trơ vạn cành Chỉ còn lại một đóa, ngày mai theo gió bay.

Bài thơ Vịnh Hoa này tuy là chỉ hoa, nhưng cũng không phải là không chỉ người, nhìn hoa nở hoa rụng, nhìn người sinh người diệt, những ngôi mộ đầy ngọn núi, đây cũng là khắp chốn hoa rơi!

Chúng tôi đi đến trước ngôi mộ của Tôn Tế. Tôi tràn đầy tin tưởng nói với họ: "Chú ý những ngôi mộ lớn nhỏ trước sau trái phải, chắc chắn có một ngôi mộ của Mao Công, tìm ra được là sẽ hiểu rõ nguyên nhân thôi." "Vâng." - Họ chia nhau ra đi tìm. Họ và tôi triển khai tìm kiếm theo kiểu cuốn chiếu, ngay cả những đám cỏ dại cũng lật lên nhìn, ngay cả những ngôi mộ nhỏ cũng đều kiểm tra kĩ, càng tìm kiếm phạm vi càng rộng, những ngôi mộ trong phạm vi 50 mét đều đã kiểm tra hết rồi. Cả trăm dòng họ đều có, nhưng không có một người nào họ Mao.

Tôi không tin. Lại tiếp tục tìm kiếm, vẫn không có. Họ nhìn tôi. Mặt tôi đỏ lên trông rất khó coi, mồ hôi túa ra đẫm lưng. Tìm không ra ngôi mộ của Mao Công, xem ra suy luận của tôi chắc chắn sai rồi, nhưng làm sao có thể sai được chứ? Thật sự nghĩ không thông.

Tôi đứng tại nơi đó, hoang mang. Sau đó, tôi nói với họ rằng: "Tôi đi loanh quanh gần đây tìm một nơi thiền định!" "Thiền định là cái gì?" "Tức là ngồi xuống một lúc, yên lặng suy nghĩ!" "Được thôi! Chúng tôi cũng mệt rồi, mọi người ngồi nghỉ một lát!"

Tôi tìm được một cái cây, bên dưới cây khá râm mát, tôi nhắm mắt lại tĩnh tọa rồi dần dần đi vào trong công phu thiền định rất sâu. Trong công phu thiền định, thân thể ở trong trạng thái nghỉ ngơi, tâm linh cũng tạm thời dừng hoạt động, lúc này không một hình trạng, đẹp đẽ tuyệt diệu cực kì, không thể mô tả giải thích được.

Tuy rằng tôi là tôi, nhưng lại không còn là một đơn vị chịu giới hạn, mà là trong tri giác, ánh sáng nhỏ như hạt đậu biến thành một hồ ánh sáng rực rỡ bao la, mở rộng ra xung quanh trong vòng một trăm dặm toàn là những vòng tròn ánh sáng. Chìm vào trong những vòng tròn ánh sáng lớn đó, thân tâm thư thái, lại có thể nhận biết được niềm vui sướng trong ánh sáng rực rỡ, trong tầng ý thức như gần như xa, tôi nghĩ đến hai chữ Mao Công, tóm lại, ý thức tự ngã mở rộng ra, tồn tại cùng với ánh sáng, cùng một thể sinh ra.

Tôi quan sát vật thể. Bề ngoài của vùng phụ cận núi Đông Sơn đó rất rõ ràng, như cây cối hoa lá, như thảm cỏ xanh, hoặc những nấm mộ lần lượt đều lui đi. Tôi ở ngay trong trạng thái thiên nhãn mở rộng ra, lúc này tôi đang đi vào trong lòng đất, đi tìm ngôi mộ của Mao Công, ngay cả bên dưới mặt đất cũng rõ ràng như dưới ánh mặt trời. Đây mặc dù là một dạng biến hóa nội tại của tâm, nhưng rất rõ rệt, tôi đã nhìn thấy vị Mao Công kia rồi. Tất cả những việc này xảy ra đột ngột và khó tin như vậy, tôi nhìn thấy hắn nằm đó, nhờ vào sức mạnh của tâm tôi mà tôi biết hắn chính là Mao Công.

Còn phía trên của Mao Công, tôi lại nhìn thoáng qua, trong lòng chấn động, thì ra bên trên chính là nấm mộ của Tôn Tế. Tôi không thể nào đưa thiên nhãn nhìn đi chỗ khác, cảnh tượng trước mắt tôi khó mà khiến người khác tin được, tôi nhìn chằm chằm, nhìn chăm chú, nhìn đờ đẫn về phía cảnh tượng đó, chính tôi cũng không dám tin vào những gì mà thiên nhãn của mình nhìn thấy. Tôi ra khỏi thiền định.

Tôi nói với họ rằng: "Lúc đầu mọi người chôn Tôn Tế, mảnh đất này trước đó đã có chôn Mao Công rồi, chỉ là do quan tài bị chôn sâu quá, hoặc là đã bị vùi lấp sau nhiều năm, khi mọi người đi tìm đất, cho rằng đây là đất chưa có người chôn. Mọi người đào đất nhưng vẫn chưa đào đến quan tài của Mao Công, cho nên mọi người đã chôn Tôn Tế xuống. Như bây giờ, Tôn Tế ở trên, Mao Công ở dưới, chỗ mà hai người này ở giống như là nhà chung cư vậy." Họ nghe xong thì cũng đờ người ra. "Có chuyện như vậy ư?" "Có." - Tôi khẳng định nói: "Lần này tôi tận mắt nhìn thấy!" "Tận mắt ư? Trong đất ư?" "Đúng vậy." Họ lắc đầu.

Một người lớn tuổi trong họ nói: "Hôm nay cũng đã chẳng nghĩ ra cách nào, thôi thì cứ tạm thời tin tưởng Hoạt Phật một lần, đây cũng là lần cuối cùng rồi, vậy thì bây giờ sẽ phải làm gì?" Tôi nói: "Tôn Tế và Mao Công chiến tranh với nhau đã lâu, bây giờ cách để đẹp cả đôi bên là trước tiên đào ngôi mộ của Tôn Tế lên, nhặt xương, tìm một nơi có phong thủy tốt rồi chôn lại từ đầu. Còn với Mao Công, cũng giúp hắn nhặt xương, ở nguyên chỗ cũ, sửa sang thành một ngôi mộ đơn sơ cho hắn, như vậy cả hai đều không bị thiệt thòi, được không?" "Thật là có thi thể của Mao Công ở bên dưới không?" - Họ vẫn không tin. "Lần này chúng ta đánh cược." - Tôi hơi bực. "Không cần đánh cược, tin tưởng Hoạt Phật là được rồi." - Cụ già nói. Họ bàn bạc. Sau đó đồng ý làm theo ý tưởng của tôi.

🌟

Khoảng một tuần sau là ngày lành giờ tốt để động thổ, họ thuê công nhân lên núi. Những người công nhân cùng bắt tay vào làm. Rất nhanh chóng mở quan tài của Tôn Tế ra, sau 6 năm quả nhiên cũng đã phân hủy gần hết rồi, rất dễ nhặt xương cho vào bình (kim đẩu). Công nhân thu dọn công cụ. "Khoan đã, còn có một chiếc quan tài nữa!" - Họ nói. "Ở đâu?" "Chính là ở bên dưới quan tài vỡ này!" "Thật ư?" - Công nhân hoài nghi. "Là thật đó." "Trong cách chôn chưa từng có chuyện chồng lên nhau trên dưới thế này!" - Công nhân cảm thấy rất kỳ lạ. Công nhân lại đào xuống nữa. "Mẹ ơi! Quả nhiên vẫn còn một chiếc quan tài nữa!" Trong lòng tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm.

Họ biết chuyện gì đang diễn ra, quan tài ở bên dưới này chắc chắn là Mao Công. Khuôn mặt của họ lộ ra vẻ kinh ngạc, rồi họ quay mặt ra nhìn tôi. Đầu lâu của Mao Công cũng đựng vào trong bình kim đẩu. Bây giờ đã có hai bình kim đẩu.

Con cháu của Tôn Tế tin lời tôi, linh hồn tổ tiên được an lành, nghiệp chướng của người dương dần dần giảm nhẹ, đồng thời được tổ tiên phù hộ, phúc báo cũng sẽ lớn lên. Họ y theo lời của tôi mà dời mộ đến nơi có phong thủy tốt.

Sau đó con cháu của Tôn Tế quả nhiên đã có phúc báo. Sự nghiệp hanh thông, thành lập một công ty khởi nghiệp. Sinh ra được mấy cháu trai thông minh. Người có bệnh lâu ngày dường như cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều, giống như đã nhẹ đi, rồi bình phục. Người khỏe mạnh thì đều sống lâu. Tất cả đều tốt đẹp, dường như ai nấy đều trở nên sáng láng hơn. Con cháu của Tôn Tế đều quy y Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, trước đây ở Đài Loan, cứ đến dịp lễ Tết là họ đều tặng tôi rất nhiều quà. "Cảm tạ Thánh Tôn!" "Không cần cảm ơn, việc nên làm thôi."

🌟

Còn về Mao Công, con cháu của Tôn Tế cũng không phá bỏ lời hứa, họ mời công nhân xây một ngôi mộ nhỏ, còn lập một tấm bia mộ cho mộ của Mao Công. Nghe nói, Mao Công không phải là không có con cháu, chỉ là con cháu đã chuyển nhà đến một nơi rất xa rồi. Con cháu của Mao Công từng trở về tìm lại ngôi mộ để cúng tế, nhưng lúc đó tìm kiếm thế nào cũng không tìm được, như thể đã tiêu biến rồi. Mấy năm sau, con cháu của Mao Công lại quay trở về tìm, lần này họ giật mình kinh ngạc, hóa ra không ngờ ngôi mộ của Mao Công đã xuất hiện rồi. Con cháu của Mao Công này cũng không hiểu ra làm sao, không biết là có chuyện gì, cũng không có ai nói cho họ biết có chuyện gì. Thông tin tôi nghe được từ phía khác là Mao Công lúc còn sống vốn là một gã đồ tể, mổ lợn.

🌟

Từng có người có nghi ngờ về sự việc này: "Pháp sư siêu độ Tôn Tế, lần nào Tôn Tế cũng không được siêu độ, thì ra là Mao Công cầm dao đuổi theo Tôn Tế." "Vấn đề là, Mao Công cầm dao đuổi Tôn Tế, vì sao không một nhát chém luôn Tôn Tế? Phải đợi đến khi Liên Sinh hoạt Phật đến siêu độ thì mới xem là kết thúc vụ này?" Câu trả lời của tôi là: "Có lẽ Mao Công đuổi theo Tôn Tế, cầm dao sắc chỉ là hù dọa Tôn Tế chứ không thật sự muốn giết ông ta, Mao Công chỉ là muốn có được cúng phẩm siêu độ mà thôi, giết ông ta thì cũng chẳng có ích gì."

Còn một đáp án khác là: "Cảnh giới của linh hồn là cảnh giới của "ý sinh thân", ở đây còn có sự trói buộc của luật âm khác nữa. Thế nào là sống? Thế nào là chết? Người này sống thì người kia chết, người này chết thì người kia sống, sống sống chết chết không có hồi kết, cũng có thể nhiều lần sống nhiều lần chết, mọi người đọc kinh Địa Tạng thì có thể hiểu được chết rồi sống, sống rồi chết của linh hồn."

04. Luật lệnh âm phủ

Tôi vô cùng ngưỡng mộ những hành giả có thành tựu lớn trong tu hành, và luôn hướng lòng về những ngôi chùa cổ có lịch sử lâu đời.

Tôi biết rằng trong dãy núi ở khu Môn Đầu Câu, ngoại ô phía tây Bắc Kinh, Trung Quốc có một ngôi chùa tên là Đàm Trạch Tự. Ngôi chùa này được xây dựng từ thời Tây Tấn. Ban đầu chùa có tên là Gia Phúc Tự, đời Đường đổi tên thành Long Tuyền Tự, sau đó lại đổi thành Vạn Thọ Tự, Tụ Vân Tự.

Cuối cùng, vì phía sau chùa có một hồ rồng, dưới chân núi có một cây giá, nên mới được gọi là Đàm Giá Tự.

Chùa có nhiều di tích cổ, cung điện hành cung của vua chúa thời nhà Thanh cũng nằm trong chùa Đàm Giá, đó là cung Vạn Tuế và cung Thái Hậu. Ở phía đông Đại Hùng Bảo Điện có một cây bạch quả nghìn năm tuổi, được vua Càn Long phong là cây Đế Vương. Ngoài ra trước chùa có bốn cây tùng, được đặt tên là Tứ Tùng Thanh - Kỳ - Cổ - Quái.

Kiến trúc chính của chùa Đàm Giá gồm có Thiên Vương Điện, Đại Hùng Bảo Điện, Tam Thánh Điện, Tỳ Lô Các, Phương Trượng Viện, Quan Âm Điện, Giới Đàn và nhiều công trình khác. Chùa được xây dựng theo sườn núi, kiến trúc cao thấp xen kẽ hài hòa, khí thế nguy nga tráng lệ, xung quanh chùa là những ngọn núi trùng điệp xanh tươi, những cây tùng cổ thụ vững chãi, phong cảnh tuyệt đẹp.

Tại sao tôi viết về chùa Đàm Giá? Chủ yếu là vì trong chùa Đàm Giá có một tượng Thiên Thủ Quan Âm rất linh thiêng, tượng rất lớn, và tôi đã có duyên với ngài. Hơn nữa, chùa Đàm Giá từng mời tôi làm lễ khai quang chúc mừng cho điện Phật khi hoàn thành. Ngoài ra, bài viết này cũng có chút liên quan đến chùa Đàm Giá.

🌟

Có một hậu duệ của hoàng tộc nhà Thanh dâng tặng tôi rất nhiều lễ vật, ông họ Lê tên Uy, ông biết tôi tu Mật giáo.

Trong số lễ vật có bảy báu vật mạ vàng, tám cát tường mạ vàng, một tòa mandala bằng vàng, hai chiếc đèn bạc, mười gói gỗ đàn hương, mười khăn khata lớn, hơn mười tấm vải làm long bào (các màu gấm) v.v. Lê Uy nói với tôi: "Xin thầy nhận cho!" "Quá quý giá rồi." "Xin làm phiền Hoạt Phật!" "Ông cầu điều gì?"

Lê Uy thành thật nói với tôi: "Tôi có một người em họ tên là Thi Thanh Hóa, hồi nhỏ sống ở nhà tôi, tình cảm hai bên rất tốt đẹp. Sau đó cậu em này qua đời, thực ra đã mất nhiều năm rồi, tưởng đã quên lãng từ lâu! Không ngờ gần đây thường xuyên gặp người em họ này trong mơ, trong mơ cậu ấy có vẻ không được tốt lắm, em họ tôi liên tục yêu cầu nhờ Liên Sinh Hoạt Phật siêu độ cho cậu ấy, cứ yêu cầu nhiều lần như vậy." Tôi cười: "Chuyện này thường xảy ra lắm!" Tôi hỏi Lê Uy: "Ông làm sao biết được tôi là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn?" "Thấy sách của thầy." "Chuyện này thường xảy ra lắm, ha ha!" - Tôi lại hỏi ông ta: "Sao ông biết cúng dường những lễ vật này?"

Lê Uy trả lời: "Lê Uy tôi là hậu duệ hoàng tộc nhà Thanh, sinh ra trong dân tộc Mãn, nhưng cũng đã đi khắp vùng đất Hán-Tạng-Mông, nên cũng biết đôi chút về lễ vật Mật tông Tây Tạng. Hoạt Phật là nguồn gốc của lợi lạc cho tất cả chúng sinh, là người kế thừa giáo pháp quý báu của Đức Phật, đối với vị Pháp vương nắm giữ Phật pháp, chúng tôi đương nhiên phải biết cúng dường tôn kính." Lê Uy lại nói: "Thưa Liên Sinh Hoạt Phật, sau khi thầy làm xong pháp sự, tôi còn muốn cúng dường thầy vài bộ kinh Phật, và nhiều tượng Phật cổ, tháp xá lợi. Ở nhà tôi còn có đệm ngồi và tựa lưng của Pháp Vương, thậm chí cả bộ cà sa, có mandala kim cang, có ghế bành da hổ." "Sao ông lại có những thứ này?" Lê Uy trả lời: "Ông nội tôi hồi đó trong cung, có vài vị đại Lama thường xuyên vào triều yết kiến. Đó là Lama Mạn Lang, Lama Tô Đồ, Lama Mã Khúc Kiệt, Lama Tạp Tát Khắc... và nhiều vị khác." "Ông nội ông làm quan chức gì?" Lê Uy trả lời: "Đại thần sống ở đất Tạng." "Thảo nào!" - Tôi thầm nghĩ.

🌟

Tôi thực hiện pháp sự cho Thi Thanh Hóa, hoàn toàn theo nghi thức Phật giáo Tạng truyền. Thiết lập các loại đàn thành. Tôi dùng "Giáo giới Kim Cang hợp tu tịch tĩnh và phẫn nộ". Thỉnh mời Kim Cang Thủ Đại Luân Kim Cang, Năng Đoạn Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Song Thân Kim Cang, Bí Mật Kim Cang, 13 vị Đại Uy Đức Kim Cang, Mật Tập Kim Cang, Bạch Thắng Lạc Kim Cang... Tôi rải đồ ăn. Rải torma.

Đây là: Đối với các cô hồn đang phiêu bạt nơi hoang vu không nơi nương tựa, và những chúng sinh trong cõi u minh đang khao khát nơi an thân và Phật pháp, chúng tôi đã trải rộng mây pháp từ bi, rưới xuống những giọt cam lộ no đủ, thỏa mãn cơn đói của u linh, cũng thỏa mãn tâm nguyện hướng Phật, trong đêm tối mịt mùng, thắp lên ngọn đèn soi đường quang minh.

Pháp sự chúng tôi làm đây, thuận theo giáo huấn quang minh của Phật Đà, là thứ tự viên mãn của con đường giải thoát, giúp chúng sinh cõi u minh đạt được bảo vật vô thượng, biến cõi giới không ánh sáng thành kim quang rực rỡ. Chỉ cần là người có đủ duyên. Ắt được Phật tiếp dẫn, vãng sinh Tây phương.

Pháp sự này rất trang nghiêm long trọng. Chư tôn hạ giáng thọ cúng. Nhiều u linh có ánh sáng bị bụi trần che mờ nhiễm ô cũng đã trở thành pháp thân thanh tịnh. Tất cả đều cát tường viên mãn.

Điều duy nhất khiến tôi kinh ngạc và bất an là: "Cô hồn Thi Thanh Hóa không đến!" Thi Thanh Hóa này có phải đang bị vô minh mê muội chi phối không? Nếu không thì tại sao cô hồn chính lại không đến?

Một buổi siêu độ theo nghi thức Phật giáo Tạng truyền, chư tôn đều giáng lâm thọ cúng, nhiều u linh được thọ hưởng cam lộ cúng dường, nhưng chủ nhân thật sự cần được siêu độ là Thi Thanh Hóa lại không đến, không thấy bóng dáng đâu, không có mặt? Tôi mơ hồ quá. Tôi ngẩn người ra, làm sao có thể như vậy được?

🌟

Sau khi xuống pháp tọa, tôi tự thấy mình thật lúng túng. Tôi nói: "Tôi phải làm thêm một lần pháp sự nữa, tôi tin rằng lần triệu thỉnh này, cô hồn Thi Thanh Hóa nhất định sẽ đến. Tôi thực sự không hiểu, tại sao chư tôn đều đến mà riêng cô hồn lại không đến." Lê Uy nói: "Thưa Liên Sinh Hoạt Phật, thầy đừng để tâm, tất cả phẩm vật cúng dường, tôi vẫn sẽ dâng cúng đầy đủ." "Không phải vấn đề tiền bạc." - Tôi nói: "Đây là vấn đề trách nhiệm, nếu là một vị pháp sư khác, họ sẽ chẳng quan tâm cô hồn có đến hay không!" Lê Uy đáp: "Tất cả xin để Hoạt Phật quyết định!"

Tôi nói với Lê Uy: "Hôm nay, không phải tôi coi thường ai, nhưng mọi việc trên trời dưới đất, không có gì tôi không biết. Tôi không phải là người nói suông, tôi thực sự có bản lĩnh. Trên thế giới này, người như tôi đã không còn nhiều!" Lê Uy cười: "Tôi biết, tôi biết, tôi không trách thầy đâu!"

Tại sao tôi phải giải thích đi giải thích lại với Lê Uy như vậy, ở đây tôi cần phải nói rõ, bởi vì tôi là người suốt đời không nói dối, không lừa gạt ai. Pháp sự siêu độ thành công, tôi sẽ nói là thành công, không thành công thì tôi nói không thành công, cô hồn có đến hay không, tôi đều biết rõ ràng. Không đến mà nói là đến, đến mà nói là không đến, những chuyện như vậy, tôi sẽ không bao giờ làm.

🌟

Pháp sự lần đầu không thành. Tôi làm lần thứ hai. Tôi chuẩn bị "gỗ sét đánh", trong Đạo gia, loại gỗ này gọi là "kinh đường mộc", chỉ cần đánh một tiếng là bên trong có "sấm ngầm". Thi Thanh Hóa vẫn không đến đàn thành của tôi. Tôi dùng gỗ sét đánh để kinh động anh ta. Hội trường làm pháp sự rất trang nghiêm.

Riêng phần cúng phẩm, hoa tươi được bày biện ngũ sắc rực rỡ khắp nơi, hương thơm tỏa khắp mười phương, xung quanh treo đầy những thangka thêu dệt lộng lẫy, đàn tràng được trải thảm đỏ rực như ráng chiều, trong lư báu, khói trầm hương tỏa bay lên nghi ngút. Về phần quả cúng, quả được chất cao như tháp như lầu. Các loại kẹo bánh cũng vậy, có chocolate, kẹo thơm, kẹo đường phèn, kẹo bạc hà, món nào cũng tinh xảo.

Về phần món chay, có hạt dẻ to tròn, vải thiều tươi đào tươi, táo đỏ bánh hồng khô, hạt thông nho khô, mứt, nhiều loại bánh ngọt. Đường ngọt rưới lên, hoa văn xếp đặt công phu, bánh bao lớn cả mâm và bánh đào chúc thọ.

Ngoài ra còn có nấm hương, mộc nhĩ, măng non, kim châm, hoàng tinh, váng đậu, đậu phụ, rau xanh mười vị, trăm món cao lương.

Trong mandala của tôi gồm có: Phật Thích Ca Mâu Ni và hóa thân. Ngũ phương Ngũ Như Lai. Kim Cang Tát Đỏa. Phật Nhiên Đăng. Heruka (Bí Mật Phật). Chư vị Bồ Tát. Không hành mẫu. Hộ pháp. Chư thiên (bao gồm các vị địa thần).

Đàn thành mà tôi thiết lập như vậy là theo giáo hóa của Đức Phật, để chế định thứ tự "thánh tính". Đây là đàn thành lấy Phật làm trung tâm, là đàn thành cao nhất, hàm chứa các loại thánh tính và pháp lực khác nhau. Tôi cũng chuẩn bị các pháp khí như kiếm trí tuệ, chày kim cang, chuông kim cang, thiên cung, bảo tiễn.

Trên pháp tọa, tôi không dùng ấn triệu thỉnh để triệu thỉnh, mà dùng Bất Không Quyến Sách vô cùng đặc biệt để triệu thỉnh.

Bất Không Quyến Sách bay ra, dùng "móc bất không" để móc cô hồn Thi Thanh Hóa, nhất định phải móc được. Kết quả, "bất không" cũng thành "không". "Móc bất không" quay về, trên móc trống rỗng. Cá chưa cắn câu. Vì sao vậy? Không biết được! Móc bất không của Bất Không Quyến Sách là một hóa thân khác của Quán Tự Tại Bồ Tát. "Bất Không" có nghĩa là "không rơi vào không" và "nhất định". Vị Quan Âm này có một mặt ba mắt tám tay, móc lấy cá của thiên nhân để cứu độ chúng sinh, "tứ lục nhiếp pháp" của ngài rất nổi tiếng, "móc quyến sách" ắt phải có được. Hiện giờ, hồn của Thi Thanh Hóa vẫn chưa đến!

🌟

Tôi thực sự nổi giận. Tôi giơ cao gỗ sét đánh đập mạnh ba cái xuống pháp tọa. "Bịch!" "Bịch!" "Bịch!" ba tiếng vang lớn. Làm kinh động cả bốn phương. Nghe nói rằng. Ba tiếng vang lớn này, như ba tiếng "sấm ngầm", vang vọng trong trời đất, thấu tới âm phủ địa phủ, ngai vàng của Diêm Vương trong điện cũng đổ nhào, cả điện Diêm Vương rung chuyển, khiến văn võ bá quan trước bậc thềm đều ngã nhào. Đó là: Sấm sét âm u rền đất trời, Quỷ thần sông biển đều kinh hãi.

Diêm Vương thấy văn võ bá quan ai nấy đều lộ vẻ kinh hãi trên gương mặt, liền hỏi: "Mọi người có biết đây là chuyện gì không?" "Đây là do Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn dùng pháp, móc gọi cô hồn Thi Thanh Hóa mà ra." "Móc gọi Thi Thanh Hóa, cần gì phải dùng đến kinh đường?" - Diêm Vương hỏi. "Diêm Vương có điều chưa rõ, cô hồn Thi Thanh Hóa phạm tội ngũ nghịch, đã bị đày xuống kim cang địa ngục, vĩnh viễn không được hưởng cúng phẩm nhân gian, đây là luật lệnh của âm phủ. Vì vậy, Thi Thanh Hóa không thể triệu thỉnh được, cũng không thể tìm được, không thể móc về được." "Đã như vậy thì cứ cho người báo với Hoạt Phật là được, báo sớm đi, để tránh phải dùng đến kinh đường mộc, làm rung chuyển âm phủ, chư thần bất an." "Dạ." - Văn võ bá quan đồng thanh đáp.

🌟

Trong khoảnh khắc, giữa hư không. Mùi hương trời phảng phất lan tỏa, Muôn hoa tiên rực rỡ đua nở. Tròn xoe xoe, Giữa ánh sáng rực rỡ, ráng chiều lấp lánh, khí lành bốc lên nghi ngút. Hiện ra một vị tôn quý, dải lụa thêu phất phơ như vòng thoát tục, nhiều đầu nhiều tay nhiều mắt, mỗi gương mặt đều lộng lẫy như ngọc, trang nghiêm như xuân về, nửa oai nghiêm nửa mỉm cười như đóa anh đào nở, bước đi nhẹ nhàng, mùi hương tỏa ra, vô số hộ pháp run rẩy theo sau. Đó là: Mây thơm lớp lớp, Ngọc khánh lanh canh. Chính là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Vị Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát này có hai mươi bảy mặt, bốn mươi hai tay tượng trưng cho nghìn tay, và mỗi bàn tay có một con mắt, tượng trưng cho nghìn mắt. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát có năm bộ, chủ về tức tai, điều phục, tăng ích, kính ái, câu triệu. Ngài là vị Bồ Tát có đại pháp lực. Tôi hỏi: "Bồ Tát từ đâu đến?" "Từ chùa Đàm Giá!" "Vì sao vậy?" "Thi Thanh Hóa là người xuất gia ở chùa Đàm Giá, pháp danh của anh ta cũng là Thích Thanh Hóa. Hôm nay, Bồ Tát đến thay cho anh ta!"

Tôi nghe xong, giật mình kinh ngạc: "Tại sao Thích Thanh Hóa không đến? Sao phải nhờ Bồ Tát thay thế?" "Thích Thanh Hóa phạm tội ngũ nghịch, bị đày xuống kim cang địa ngục, không thể hưởng cúng phẩm, đó là luật lệnh của âm phủ. Ta là Bồ Tát đến đây vì Thích Thanh Hóa từng quét dọn điện Quan Âm bảy năm, có duyên với ta, nên ta mới đến." "Thanh Hóa ở âm phủ chịu hình phạt gì?" "Mỗi ngày cắt tai một lần, chặt ngón tay một lần, cắt thận một lần..." "Ôi! Hình phạt quá khổ sở." - Mồ hôi tôi tuôn đầm đìa. "Đúng vậy." - Bồ Tát nói: "Ta đã báo cho Hoạt Phật biết, ta sẽ trở về chùa Đàm Giá." Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát vừa dứt lời, giữa hư không đã trở nên tĩnh lặng!

🌟

Tôi bước xuống pháp tọa. Lê Uy tiến đến hỏi: "Thế nào?" Tôi hỏi lại: "Thi Thanh Hóa là người xuất gia ở chùa Đàm Giá, sao ông không nói?" "Hoạt Phật đã biết?" "Biết rồi, tôi còn biết anh ta phạm tội ngũ nghịch, tội rất nặng, âm phủ không tha về được, ngay cả tôi cũng bất lực."

Lúc này Lê Uy mới chủ động kể cho tôi: Thi Thanh Hóa vốn tâm địa hiền lành, xuất gia từ nhỏ ở chùa Đàm Giá, pháp danh cũng là Thích Thanh Hóa. Đáng tiếc sau này đạo tâm không vững, bị một người phụ nữ đến chùa dâng hương quyến rũ, từ đó phạm tà dâm, trở nên phóng đãng. Thích Thanh Hóa nghe lời người phụ nữ đó, trong chùa làm điều trái phải, dụ dỗ các tu sĩ không vững tâm tu hành phạm tà dâm, đồng thời chiếm đoạt tài sản của chùa.

Thích Thanh Hóa lợi dụng Phật giáo, lừa gạt tiền bạc của người khác, tự mua nhà cửa đất đai, kinh doanh việc đời như một thương gia. Lại còn tà dâm với nhiều phụ nữ, nhiều thê thiếp. Sau đó: Thích Thanh Hóa bỗng nhiên mất trí, tự cầm dao mổ, chạy vào điện Quan Âm chùa Đàm Giá, quỳ trước Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Hắn gào lớn: "Bồ Tát quở trách con, không nên nghe lời phụ nữ, gây chia rẽ trong chùa, phá hoại hòa hợp tăng đoàn, con xin tự cắt tai mình." Hắn tự cắt đứt tai của mình. Hắn lại kêu: "Bồ Tát phạt con, không nên lừa gạt tiền bạc của người, chiếm đoạt tài sản chùa, bắt con chặt ngón tay." Hắn tự chặt đứt ngón tay mình. Rồi lại kêu: "Bồ Tát quở trách con, không nên tà dâm với phụ nữ, phạm tội tà dâm, khiến con phải cắt thận, con xin cắt." Hắn một nhát tự cắt thận mình ra, máu me đầm đìa, thật khủng khiếp. Người chứng kiến đều xúc động, mọi người chạy đến xem thì hắn đã chết!

Tôi nghe xong, đúng là: Cắt tai. Chặt tay. Cắt thận. Lời của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát đã ứng nghiệm, tôi càng thấm thía, luật lệnh âm phủ quả thật nghiêm khắc đáng sợ.

🌟

Ngũ nghịch tội có nhiều cách giải thích, trong đó "Kinh Ngũ Nghịch" nói: Một là giết cha. Hai là giết mẹ. Ba là giết A La Hán. Bốn là làm thân Phật chảy máu. Năm là phá hòa hợp tăng.

Thi Thanh Hóa phạm tội phá hòa hợp tăng, tức là trong khi đại chúng tăng ni đang hòa hợp hành pháp sự, tu tập Phật đạo, dùng thủ đoạn ly gián, khiến họ tranh chấp, rồi bỏ bê pháp sự.

Phá hòa hợp tăng thoạt nhìn có vẻ không nghiêm trọng, nhưng thực ra đây là tội nặng nhất. Bề ngoài không phải là giết, nhưng thực chất là giết chết đạo tâm của người tu hành, tội này trong ngũ nghịch là nặng nhất.

Tôi siêu độ cho Thi Thanh Hóa, bề ngoài dường như không có hiệu quả gì, vì theo luật lệnh âm phủ, ngay cả hồn phách cũng không thể triệu thỉnh được. Tuy nhiên, xét về ý nghĩa sâu xa, Thi Thanh Hóa vốn ở kim cang địa ngục (vô gián địa ngục), chẳng có ngày thoát ra.

Nhưng nhờ nhân duyên của thần chú siêu độ, sau mười sáu kiếp, sẽ thoát khỏi kim cang địa ngục, đến biên địa địa ngục. Sau mười sáu kiếp nữa, sẽ chuyển sinh làm người hạ tiện, rồi mười sáu kiếp sau đó, chuyển sinh vào nhà phú quý, mười sáu kiếp tiếp theo, chuyển sinh làm người tu hành, và mười sáu kiếp sau nữa, có thể chứng được quả vị.

Đây là nhân duyên quả báo của Thi Thanh Hóa. Tuy nhiên, trong đó cũng có thể có biến đổi, phải xem tạo hóa của bản thân Thi Thanh Hóa.

Theo giới luật Mật tông: Nghiệp sát là nặng nhất. Bởi vì vạn sinh vạn vật trong thiên hạ đều cùng một thể, kẻ phạm nghiệp sát là do từ bỏ tâm từ bi" Tuy nhiên nghiệp sát không chỉ là giết hại sinh mạng. Tội giết hại đạo tâm của người, còn nặng hơn cả nghiệp sát sinh.

05. "Hổ thành phố"

Khi bắt đầu học nghi lễ, tôi có hai sư phụ: Thứ nhất, pháp sư Thiện Tứ ở chùa Từ Âm. Thứ hai, pháp sư Thượng Lâm ở chùa Từ Minh. Sau khi có khả năng thông linh, tôi thực sự có thể thấy tướng. Chỉ cần đứng trước bài vị của người đã khuất, tôi có thể thấy được họ đã qua đời như thế nào.

Thời đó, mẹ tôi và tôi thường đi tụng kinh, trợ niệm cho người khác. Phần lớn là làm từ thiện, có khi đi cùng với đoàn tụng kinh.

Một lần nọ. Có một người tên Ngô Dụ qua đời, đoàn tụng kinh chúng tôi đến tụng kinh cho ông ta. Pháp sư chủ trì không phải là tôi, tôi chỉ đứng ở một bên.

Khi tôi vừa nhắm mắt, bỗng thấy một con hổ khổng lồ, nhanh nhẹn như vượn, con hổ này chạy qua các ngọn cây, nhảy lên mái nhà, phi nhanh giữa các điện các, chạy vun vút, cuối cùng, nhảy phóng xuống, đứng thẳng hiên ngang. Con hổ khổng lồ đó chạy về phía tôi, tôi rất hoảng sợ. Con hổ chạy qua bên cạnh tôi, miệng ngậm một người, tôi nhìn kĩ, chính là Ngô Dụ.

Tôi nói: "Ngô Dụ bị hổ cắn chết." Mọi người xung quanh cười tôi: "Lư Thắng Ngạn thông linh đến tận rừng nguyên sinh rồi, làm gì có hổ trong thành phố ở Đài Loan?" Pháp sư chủ trì cũng tỏ vẻ nghi ngờ: "Con thấy chắc chắn không?" "Chắc chắn." - Tôi cảm thấy oan ức. Pháp sư chủ trì nói: "Điều này không thể nào, ở Đài Loan có người bị rắn độc cắn chết, nhưng chưa từng nghe ai bị hổ cắn chết cả!" Mọi người lại cười ồ lên chế giễu tôi.

Cuối cùng, chủ nhà đến nói với chúng tôi rằng Ngô Dụ đã bị xe hơi đang chạy tốc độ cao đâm chết trên đường. Tất cả chúng tôi đều sững sờ. Tôi nhớ lại ngày xưa trên các cột điện thường có cảnh báo như sau: Đường như miệng hổ. Người đi đường phải cẩn thận. Xe hơi chẳng phải là "hổ thành phố" sao? Loài hổ của đô thị. Mọi người nhìn nhau, rồi nhìn về phía tôi.

🌟

Tôi có thêm một câu chuyện lạ về "hổ thành phố". Ở Đài Loan, tôi có một người bạn là luật sư, họ Đới, tên Nguyên Phóng, là người rất trọng nghĩa khí, gương mặt vuông vắn chính trực, thuộc tuýp người "thấy chuyện bất bình là tuốt gươm tương trợ", làm việc gì cũng quên ăn quên ngủ. Một lần nọ, anh ấy nói với tôi: "Thầy Lư à (lúc đó anh ấy gọi tôi như vậy), thầy có biết tại sao phần lớn luật sư và thẩm phán đều mặc đồ đen, đen nhiều trắng ít không?" "Tôi không biết." Anh ấy nói: "Đen tối mù mịt." Tôi hỏi: "Vậy tại sao lại vừa có đen vừa có trắng?" Anh ta đáp: "Vì họ nói chuyện đen trắng lẫn lộn (tiếng Đài)." Chúng tôi cùng phá lên cười.

Luật sư Đới nghiêm túc nói với tôi: "Nhưng mà, tôi hiểu rõ đạo lý nhân quả của Phật giáo, trong quan trường cũng là nơi tốt để tu tâm sửa tính. Có những lúc, tôi không nhận thù lao, vì một chút công lý mà tôi cũng dốc hết sức, không đòi hỏi bất cứ đền đáp nào. Thời buổi này, người như tôi đã hiếm lắm rồi. Tôi nửa đen nửa trắng, giống như thái cực, hợp với đạo vậy." Tôi không nói gì thêm.

Một ngày nọ. Có một cuộc điện thoại khẩn cấp gọi đến, là phu nhân Đới gọi, nói rằng luật sư Đới Nguyên Phóng gặp tai nạn giao thông, ông ấy bị một chiếc xe quân sự lớn đâm từ phía sau. Cả người văng lên cao, bị hất văng rất xa, hiện đang nằm trong bệnh viện, bất tỉnh nhân sự, tình trạng nguy kịch.

Lúc đó tôi chưa học được pháp trung ấm nghe dạy được độ, cũng chưa học được pháp quang uẩn thiên thức, chỉ mang theo một chiếc áo hải thanh rồi vội vã đến bệnh viện.

Tại bệnh viện, có rất nhiều người đang vây quanh... Phu nhân Đới thấy tôi liền nói: "Thầy Lư đã đến, để thầy ấy xem có cách nào không!" Phu nhân Đới tin vào khả năng thông linh của tôi, hỏi tôi: "Cần chuẩn bị gì không?" "Không cần!" "Cần trì chú không?" "Không cần!

Tôi chỉ khoác chiếc áo hải thanh mà tôi thường mặc lên người luật sư Đới Nguyên Phóng mà thôi. Phòng bệnh im lặng, mọi người đều chăm chú nhìn động tác của tôi. Sau khi khoác xong, tôi đứng sang một bên. (Chiếc áo hải thanh này đã theo tôi tụng kinh trì chú nhiều năm.) Có người hỏi: "Làm vậy để làm gì?" Có người thì thầm: "Làm thế có tác dụng gì không?" Phu nhân Đới đáp: "Thầy Lư có ý của thầy ấy, cứ để vậy đi! Chúng ta không cần hỏi tại sao!"

Lúc đó tại hiện trường, có vài người thân bạn bè tỏ vẻ không đồng tình, cho rằng khoác một chiếc áo đen lên người là không may mắn, họ rất phản cảm. Nhưng sau khi phu nhân Đới lên tiếng, mọi người đều kìm nén lại.

Sau đó. Luật sư Đới Nguyên Phóng tỉnh lại sau ba ngày, sức khỏe dần dần hồi phục, cho đến khi bình phục hoàn toàn. Sau khi tỉnh dậy, anh ấy kể lại như sau: Anh thấy mình đi cùng một đoàn người rất đông, bước vào một đại sảnh, phía trên có một người ngồi trông giống như quan chức cao cấp. Bắt đầu điểm danh. Từng người một được dẫn ra khỏi đại sảnh, không biết bị dẫn đi đâu, nhưng chắc chắn không phải nơi tốt đẹp gì, bởi vì ai nấy đều như tù nhân bị áp giải, thất thểu bước đi. Sắp đến lượt luật sư Đới Nguyên Phóng. Luật sư Đới bỗng nhiên cảm thấy có một người tiến đến, khoác lên người mình một chiếc áo hải thanh. Anh quay đầu nhìn lại thì người đó đã đi mất, không nhìn rõ người đó là ai, tóm lại là trên người đã mặc áo pháp. Gọi tên: "Đới Nguyên Phóng!" "Có." - Anh bước lên phía trước. Hai vị quan lại bước đến, định áp giải anh đi. Lúc này, vị quan cao cấp phía trên nói: "Khoan đã, người này tụng kinh trì chú nhiều như vậy, lại khoác áo hải thanh, áo hải thanh có hào quang, sao lại đến chốn này, có lẽ nhầm rồi." Hai vị quan giám binh không dám lên tiếng! "Thả hắn về." - Vị quan cao cấp phía trên nói. "Tuân lệnh." Luật sư Đới Nguyên Phóng là người duy nhất được thả về. .............

Kể từ sau vụ tai nạn xe, luật sư Đới đã thay đổi rất nhiều, chỉ cần có thời gian rảnh là tụng kinh Phật, trì mật chú, niệm danh hiệu A Di Đà Phật, cố gắng làm nhiều việc thiện, chuyên tâm tu hành.

🌟

Tôi có thêm một câu chuyện nữa, cũng liên quan đến "hổ thành phố". Khi còn trẻ, tôi cùng mẹ và vị pháp sư chủ trì đi tụng kinh siêu độ cho người khác. Pháp sự này do vị pháp sư chủ trì đứng ra nhận, tôi chỉ là người phụ giúp.

Đó là một gia đình giàu có, phòng khách biệt thự được trang hoàng rất lộng lẫy, hoa cúc vàng trắng khắp nơi, cả căn phòng ấm áp. Pháp sư chủ trì ngồi vào vị trí. Tôi ngồi ở một bên. Cả phòng đầy khách.

Bất chợt tôi nhìn thấy một vùng đất trống không một ngọn cỏ xanh, là vách núi quanh đồi, có hai con hổ đang đánh nhau. Một con hổ không chống đỡ nổi, rơi xuống vách núi, như thể đất rung chuyển, quả là một thảm họa khủng khiếp, chắc chắn có thương vong!

Nhìn thấy cảnh tượng như vậy, chẳng bao lâu sau, tôi lại thấy trên đỉnh cao xuất hiện nhiều oan hồn, có người đứt tay đứt chân, có người đầu một nơi thân một nẻo, cũng có người còn nguyên vẹn, đếm kĩ thì có hai mươi bảy vị, lũ lượt kéo đến. Những oan hồn đứt tay đứt chân hét lớn: "Kim chỉ! Kim chỉ!" Tôi biết họ đang yêu cầu pháp sư khâu lại thân thể cho họ. Tôi nhìn về phía pháp sư chủ trì, thầy ấy hoàn toàn không hay biết gì. Các oan hồn tiến đến gần pháp tọa, tình thế càng lúc càng nguy cấp...

Tôi lập tức kết ấn chỉ, khắp không gian tràn ngập chỉ, rồi kết ấn kim, khắp không gian tràn ngập kim. Các oan hồn nhặt lấy kim chỉ. Chỉ trong chốc lát. Những người đứt tay đứt chân, đầu một nơi thân một nẻo, tất cả đều được khâu lại nguyên vẹn, các oan hồn vô cùng hoan hỷ.

Rồi đến tiệc tối tụ hội, khách khứa đông đảo, tôi lại kết ấn biến hóa ra vô vàn phẩm vật cúng dường để đãi hai mươi bảy vị. Đang lúc tôi vui vẻ kết ấn thì pháp sư chủ trì phát hiện, thầy ấy trừng mắt nhìn tôi, vẻ mặt không vui. Tôi cười hì hì với thầy ấy rồi thu tay về.

Sau đó, tôi mới biết được rằng, người con trai trẻ của gia chủ đã tham gia chuyến đi của trường, xe buýt du lịch đã va chạm với một chiếc xe tải lớn trên con đường uốn quanh vách núi cao, khiến xe buýt rơi xuống vực, lộn nhào nhiều vòng, rơi xuống tận đáy suối. Trên xe có tất cả ba mươi chín học sinh, hai mươi bảy người thiệt mạng, chỉ có mười hai người sống sót... Hai mươi bảy người, đúng là hai mươi bảy người. Trong số đó quả thật có người đứt tay đứt chân, và người đầu một nơi thân một nẻo, vách núi quá sâu.

Sau buổi pháp sự đó. Pháp sư chủ trì trách tôi nhiều chuyện: "Từ nay về sau không được tham gia đoàn tụng kinh nữa, là ta chủ trì hay là ngươi?" Tôi cúi đầu, im lặng không nói, rồi khẽ đáp: "Lần sau con không dám nữa!"

06. Ma thắt cổ

Thời kỳ đầu, Chân Phật Tông không gọi là Chân Phật Tông, mà được gọi là Linh Tiên Tông. Vì Linh Tiên Tông đã bị người khác đăng ký mất, nên mới đổi tên thành Chân Phật Tông.

Thời kỳ Linh Tiên Tông, nơi tôi ở được gọi là Linh Tiên Tinh Xá. Tinh xá này của tôi từng bị các pháp sư phái khác chỉ trích: 1. Linh — nghĩa là ma quỷ. 2. Tiên — nghĩa là tiên nhân ngoại đạo. 3. Tinh — nghĩa là yêu tinh. 4. Xá — nghĩa là tụ tập nhảy múa. Loại diễn giải cưỡng ép này, tôi đã từng thấy trong một tạp chí Phật giáo nọ, do một vị pháp sư viết. Vị pháp sư này, nhiều năm trước, cũng đã sớm quy tiên, trở thành ma quỷ yêu tinh.

Ban đầu, tôi đặt tên "Linh Tiên" là do thiên khải, tức là do trời chỉ dạy. Hơn nữa, việc tu đạo chứng quả ở Trung Quốc được chia thành chín phẩm: phẩm thứ nhất là Cửu Thiên Chân Hoàng, phẩm thứ hai là Tam Thiên Chân Hoàng, phẩm thứ ba là Thái Thượng Chân Nhân, phẩm thứ tư là Phi Thiên Chân Nhân, phẩm thứ năm là Linh Tiên, phẩm thứ sáu là Chân Nhân, phẩm thứ bảy là Linh Nhân, phẩm thứ tám là Phi Tiên, phẩm thứ chín là Tiên Nhân.

Hai chữ "Linh Tiên" này của tôi có nguồn gốc của nó. Không phải như vị pháp sư kia nói, cái gì mà một giuộc quỷ linh, ngoại đạo, yêu tinh. Tuy nhiên, đối với những lời phê bình như vậy, tôi chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng vị pháp sư ấy nói cũng không sai, tôi là người thấy được rất nhiều quỷ thần, có nhiều cảm ứng kỳ lạ mà người ngoài thực sự không thể hiểu được.

🌟

Khi còn ở Linh Tiên Tinh Xá. Vào một mùa đông nọ, trong nhà rất lạnh, tôi bị lạnh đến tỉnh giấc. Khi vừa tỉnh dậy, tôi chợt nhìn thấy một cảnh tượng khiến toàn thân toát mồ hôi lạnh. Lúc đó, mọi suy nghĩ trong đầu tôi bỗng chốc ngưng đọng, da đầu tê dại, toàn thân không khỏi run rẩy. Khi tôi miêu tả như vậy, độc giả chắc hẳn sẽ thấy lạ: Lư Thắng Ngạn đã gặp ma quỷ nhiều như vậy, vốn chẳng sợ ma, đồng thời còn là tổ sư của ma quỷ, là vua bắt ma, vậy mà lại run rẩy toàn thân, có phải là nhầm lẫn gì không.

Thực ra không sai: Một, nhìn thấy đột ngột thì sẽ giật mình. Hai, toàn thân run rẩy không hoàn toàn là do sợ, mà là vì thời tiết quá lạnh. Ba, con ma này không bình thường, mà là ma thắt cổ. Ma thắt cổ là ma treo cổ chết, lưỡi dài tóc dài, bảy lỗ đều chảy máu, vô cùng kinh khủng. Răng tôi đánh lập cập.

Nói chung, nếu tôi đã có sự chuẩn bị tinh thần thì sẽ không bị giật mình, chỉ khi hoàn toàn không có sự chuẩn bị mới bị sợ. Có một lần, tôi thức dậy giữa đêm để đi tiểu, mò mẫm vào nhà vệ sinh trong bóng tối, đang lúc tiểu tiện thì có con ma bám vào bên tai tôi nói chuyện. Lúc đó tôi đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, đêm khuya không một bóng người, tối mờ mịt, bỗng nhiên bị gọi, giật mình! Tôi hoảng hốt đến nỗi nước tiểu cũng ngừng lại. Chuyện này nghe cũng buồn cười!

Sau đó, có những con ma biết tính của tôi, chúng thường báo hiệu trước bằng một tiếng "đinh đoong", như thể bấm chuông điện vậy. Hoặc là một tiếng chuông, hoặc tiếng mõ, hoặc một làn hương trầm, hoặc hiện màu sắc trước. Tôi liền biết ngay "những vị khách" ấy đến, đây là nghi thức chào hỏi giữa hai bên, tránh đột ngột xuất hiện từ phía sau làm người ta hoảng sợ!

Con ma thắt cổ hỏi: "Có phải Pháp sư Lư không?" "Phải... phải... phải... ạ." - Tôi vẫn còn run. "Pháp sư sợ ma sao?" - Con ma thắt cổ cười, nụ cười trông còn khó coi hơn cả khóc. "Không sợ." - Tôi lấy hết can đảm nói. Con ma thắt cổ chế giễu tôi: "Người vẫn còn run kìa!" - Con ma thắt cổ nói một cách thân thiện. "Tại trời lạnh!" - Tôi đáp. Con ma thắt cổ nói: "Pháp sư Lư, thầy không cần sợ, tôi không có ác ý, không phải đến để hại thầy đâu. Tôi nghe nói pháp sư Lư tu Phật học Đạo, pháp thuật cao cường, có thể giải quyết khó khăn cho người khác, hôm nay đến đây là đặc biệt để cầu xin thầy!" "Cầu xin tôi?" "Vâng."

Tôi không sao hiểu nổi, vì tôi đâu có quen biết con ma thắt cổ này! Ma thắt cổ nói: "Tôi họ Khổng, tên Nguyệt. Vài ngày nữa, gia đình tôi sẽ đến nhờ thầy siêu độ cho tôi. Cho nên, hôm nay tôi đặc biệt đến trước để cầu xin sự giúp đỡ!" "Giúp như thế nào?" "Xin pháp sư Lư cho tôi một tờ giấy thông hành, trên đó phải ghi rõ: Thần núi thần sông, xin nhường đường, đi lại thông suốt không trở ngại." "Cái này..." "Pháp sư không cho sao?" "Từ chối thì không hay, nhưng đồng ý ngay cũng quá vội vàng, không biết lấy tờ giấy thông hành này để làm gì?"

Tôi là người rất cẩn thận, thầm nghĩ trong lòng, con ma thắt cổ Khổng Nguyệt này, muốn lấy "giấy thông hành thập phương viễn hành", chắc chắn không phải để đi du lịch khắp nơi, nhất định có mục đích gì đó, nếu là việc thiện thì tôi không tiện từ chối, còn nếu là việc ác thì tôi có thể không cần cho.

"Nhất định phải nói cho pháp sư biết sao?" "Nhất định." - Tôi lại hỏi: "Tại sao không đi cầu xin Thành Hoàng Bồ Tát, mà lại cầu xin tôi?" Ma thắt cổ đáp: "Giấy thông hành của Thành Hoàng Bồ Tát chỉ có hiệu lực trong phạm vi một huyện một thành, có giới hạn khu vực, còn giấy thông hành của pháp sư Lư, tôi đã tìm hiểu rõ ràng, thông hành vô ngại khắp mười phương thế giới. Những bậc cao nhân xuất thế như pháp sư Lư được chư thần kính ngưỡng, thế gian này không còn mấy người!" Nghe ma thắt cổ Khổng Nguyệt nói vậy, tôi rất kinh ngạc, hỏi: "Cô biết thân phận của tôi ư?" "Nếu không biết, sao phải đến gặp pháp sư Lư?"

🌟

Ma thắt cổ Khổng Nguyệt thành thật kể cho tôi nghe: Lúc còn sống, Khổng Nguyệt là người học giỏi nhất, rất tự trọng bản thân, dung mạo xinh đẹp, vóc dáng mảnh mai, ai thấy cũng mến. Có người anh họ tên Tôn, là kẻ vô lại phóng đãng, đã thèm thuồng sắc đẹp của Khổng Nguyệt từ lâu. Một đêm nọ, Tôn lẻn vào phòng đọc sách của Khổng Nguyệt. Hắn vừa sờ soạng ngực, vừa cưỡng hôn. Tôn đã nổi cơn thịnh nộ, muốn cưỡng hiếp. Khổng Nguyệt quyết liệt chống cự, Tôn dùng tay bóp cổ, định cưỡng bức. Khổng Nguyệt muốn hét lên, nhưng không thể phát ra tiếng, chỉ còn rên rỉ! Nàng vùng vẫy dữ dội, kêu lên: "Tôi sẽ chết!" Tôn không tin. Sau đó, tiếng rên rỉ ngừng bặt, đầu gục sang một bên, hắn nâng đầu lên, đầu lại gục xuống, thử hơi thở thì thấy đã tắt thở. Tôn hoảng hốt kinh hãi, muốn bỏ trốn! Hắn lấy một sợi dây vải, quấn qua xà nhà, bế Khổng Nguyệt lên, treo cổ nàng lên đó, tạo dáng như tự thắt cổ. Thấy mắt nàng trợn ngược, lưỡi thè ra. Tôn dọn dẹp hiện trường rồi lẻn đi. Một thời gian sau, hắn chuyển đến nơi xa.

Cái chết của Khổng Nguyệt khiến cả nhà kinh hoàng, nhưng không ai nghi ngờ đây là một vụ giết người. Họ chỉ nghĩ rằng vì cô học quá giỏi, lần kiểm tra này điểm hơi kém, bị bạn học chế giễu ở trường, nên đã nghĩ quẩn mà tự vẫn. Ma thắt cổ Khổng Nguyệt xin "giấy thông hành thập phương" là để đi tìm Tôn.

🌟

"Được, tôi sẽ cho cô." - Tôi ghét nhất là bọn dâm tặc. Khổng Nguyệt mừng rỡ khôn xiết: "Có được giấy thông hành này, dù hắn có trốn ra nước ngoài, tôi cũng có thể tìm được hắn." Khổng Nguyệt chắp tay trước ngực, nhắm mắt, sụp lạy xuống đất, nói một cách biết ơn: "Pháp sư Lư, tiểu nữ không biết lấy gì báo đáp, xin ghi nhớ suốt đời." "Cô định lấy được giấy thông hành rồi đi tìm hắn phải không?" "Đúng vậy." "Khoan đã!" - Tôi nói: "Thành Hoàng Bồ Tát ở đường Trung Hiếu là đạo hữu của tôi, cô có thể đến gặp Ngài trước, xin lấy bùa dịch bệnh, khiến hắn mắc bệnh dịch, da thịt lở loét trong hai năm, rồi mới lấy mạng hắn, hắn còn sống được hai năm nữa." Khổng Nguyệt vô cùng ngạc nhiên: "Pháp sư Lư, thầy đã biết tên Tôn còn sống được hai năm nữa sao?" "Tôi biết, tôi đã thầm tính toán rồi." Khổng Nguyệt nói: "Quả nhiên là bậc thần thông đại sư, việc gì cũng biết."

Ngoài ra, tôi còn giúp cô ấy: "Cô đến gặp Thành Hoàng Bồ Tát, xin thêm một viên thuốc trị đau đầu, nói là tôi Lư Thắng Ngạn yêu cầu, Ngài không dám không cho đâu!" "Để làm gì?" - Khổng Nguyệt ngạc nhiên hỏi. "Để cho em trai cô uống! Cô rất quan tâm đến em mà!" Khổng Nguyệt òa khóc: "Đại sư, tình cảm chị em chúng tôi rất sâu đậm, tôi luôn bảo vệ em trai, chỉ tiếc là em ấy bị chứng đau đầu nhiều năm nay mà tôi không giúp được gì. Giờ đây, có viên thuốc trị đau đầu, em trai tôi sẽ được cứu rồi, vô cùng cảm kích, vô cùng cảm kích."

🌟

Khoảng nửa tháng sau, một vị khách tên Khổng Huệ Minh đến gặp tôi, anh ta còn đưa vợ con cùng đi. Tôi bảo một đệ tử: "Hãy hỏi xem họ có phải đến để cầu siêu cho Khổng Nguyệt không." Đệ tử quay lại báo với tôi: "Đúng vậy."

Tôi bước ra ngoài, Khổng Huệ Minh nhìn thấy tôi, dùng ánh mắt nghi hoặc nhìn chằm chằm vào tôi và hỏi: "Pháp sư quen biết Khổng Nguyệt sao?" "Phải." - Tôi không giấu giếm. "Lúc còn sống?" "Không, sau khi chết!" "Sau khi chết, làm sao có thể được?" - Anh ta càng thêm nghi ngờ. "Người học Phật sao có thể nói dối!" - Tôi điềm tĩnh trả lời. Tôi nói thêm: "Tuy Khổng Nguyệt chết vì thắt cổ, nhưng còn có nỗi oan khuất khác!" Khổng Huệ Minh nghe xong, sững người.

Vợ của Khổng Huệ Minh quỳ xuống trước mặt tôi và nói: "Pháp sư quả thật thần thông, biết hết mọi chuyện. Lúc đầu tôi đã cảm thấy cái chết của Khổng Nguyệt không đơn giản như vậy, giờ nghĩ lại càng thấy kỳ lạ." Khổng Huệ Minh hỏi: "Có nỗi oan khuất gì vậy?" "Không tiện nói!" "Tại sao không tiện?" "Rồi sẽ biết." - Tôi đáp. "Bao lâu nữa sẽ biết?" "Hai năm." "Sẽ xảy ra với ai?" "Người họ Tôn." "Là anh họ của cô ấy." - Khổng Huệ Minh kinh ngạc vô cùng. "Đúng vậy."

Tôi nói với con trai của Khổng Huệ Minh: "Chứng đau đầu của cháu đã khỏi hẳn rồi phải không?" Em trai của Khổng Nguyệt trả lời: "Bị đau đầu nhiều năm, rất khổ sở, nhưng quả thật một tuần trước đã khỏi hẳn, thật kỳ lạ! Nhưng sao pháp sư biết được?" Tôi mỉm cười nhẹ, không đáp.

Lúc này Khổng Huệ Minh, vợ của Khổng Huệ Minh, và em trai Khổng Nguyệt đều quỳ xuống. "Lư Thắng Ngạn, không không, là Lư pháp sư, không không, là đại sư Lư, con nghe người ta nói về thầy, bảo rằng thầy như thần minh vậy, có thể biết trước mọi việc, là vị Phật sống, là bậc thần thông đệ nhất, hôm nay được gặp, quả nhiên danh bất hư truyền!" "Đại sư cái gì cũng biết!" "Đại sư nhất định phải cứu Khổng Nguyệt!" - Bà Khổng thất thanh nói, gần như rơi nước mắt. "Chuyện này nhất định rồi."

Tôi lên pháp tọa: "Nhất tâm triệu thỉnh, học tử Khổng Nguyệt, giai nhân khuê các, phấn son tô điểm tranh sắc, long diên hương xạ hương ganh hương thơm, mây tan mưa tạnh, hồn tiêu nơi vườn Kim Cốc, trăng khuyết hoa tàn, ruột đứt đoạn trong thư phòng đêm tối, than ôi! Dung nhan thuở trước nay còn đâu, dương liễu cỏ thơm lạnh xương đầu, như thị như thị, cô hồn Khổng Nguyệt mau đến đàn." Tôi nói: "Khổng Nguyệt Khổng Nguyệt, có duyên có phận, trên tòa Pháp Vương, không thiên không lệch, trực nhận lĩnh hội, chớ để lỡ qua, quy y Phật ta, vĩnh bất thoái đạo, thọ chính pháp ấn, mà được chính giác, trong cõi thanh lương, đều lên đài sen, nơi cõi Cực Lạc, cùng đến bỉ ngạn."

Tôi tụng: Bảy lỗ máu chảy vì bị sát hại, Bị xô lên xà nhà thắt cổ, Lưỡi thè dài chịu khổ đau, Tranh cãi giận dữ không ngừng nghỉ, Đêm nay đúng thời khắc này, Hãy đến thọ nhận vị cam lộ.

Khổng Nguyệt đột nhiên hiện thân và nói với tôi: "Đại sư, đọc mấy thứ này làm gì, cho tôi xin giấy thông hành đi khắp mười phương là cấp bách!" - Khổng Nguyệt mỉm cười duyên dáng, trông rất đẹp! (Cô ấy không còn chảy máu bảy lỗ và thè lưỡi dài nữa.) Tôi rút từ trong tay áo ra tờ giấy thông hành: "Ở đây!" Tờ giấy thông hành tự động bay về phía ngọn nến, trong chớp mắt hóa thành tro, rồi tro bụi bay lên không trung.

Tôi không quan tâm Khổng Nguyệt có muốn tôi tụng hay không! Tôi tụng: "Na-mô su-lu-ba-ya. Ta-tha-ga-ta-ya. Khổng Nguyệt Khổng Nguyệt, nếu nghe được danh hiệu Diệu Sắc Thân Như Lai, sẽ khiến cô không phải chịu xấu xí, các căn đầy đủ, tướng hảo viên mãn, thù thắng trang nghiêm, trên trời dưới đất, là bậc đệ nhất." Khổng Nguyệt từ xa đáp lại: "Cái này thì con muốn!" - Giọng nói dần xa dần.

🌟

Cả nhà của Khổng Huệ Minh hoàn toàn tin tưởng vào năng lực tâm linh của tôi, phát sinh niềm tin mãnh liệt. Họ đều đến quy y với tôi, theo tôi học Phật pháp. Tôi dạy họ tam quy y, giữ ngũ giới, niệm Phật và trì chú.

Khổng Huệ Minh vốn là người không tin vào điều gì cả, một kẻ "răng sắt", nhưng sau khi đến chỗ tôi và hỏi han vài lần, anh ta như biến thành một người khác, thay đổi hoàn toàn một trăm tám mươi độ. Gia đình anh ta thờ Tây phương Tam Thánh, sớm tối niệm Phật, thậm chí còn tụng kinh A Di Đà.

Người mới học Phật thường có một sự nhiệt tình khó che giấu. Họ thường xuyên đến Linh Tiên Tinh Xá, giúp việc này việc kia, có lúc chỉ cần rảnh rỗi là chạy đến chỗ tôi. Là người mới học Phật, đương nhiên họ cũng bắt đầu viếng thăm các chùa khác, từ những ngôi chùa gần nhà cho đến những ngôi chùa nổi tiếng, họ đều đi hết.

Một ngày nọ, Khổng Huệ Minh nói với tôi: "Con có một câu muốn hỏi sư phụ, không biết có được phép nói không?" "Cứ nói đi!" "Người bên ngoài nói thầy là tà đạo!" Tôi mỉm cười, không đáp không biện. Ngược lại hỏi anh ta: "Anh nghĩ sao?" Khổng Huệ Minh nói: "Thực ra ban đầu con quy y sư phụ là vì thầy nói gì cũng đúng, nên lòng tin không lay chuyển. Nhưng sau khi đến các chùa khác, nghe họ nói về thầy, ai cũng bảo thầy là người luyện tà pháp, là tà môn ngoại đạo, là kẻ thông đồng với ma quỷ, là yêu ma quỷ quái, có người còn nói thầy là thầy bói bịp bợm, lừa tiền lừa tình, toàn là chuyện không căn cứ. Chúng con nghe họ nói về thầy, càng nghe càng sợ, một thời gian không dám bước chân đến nhà thầy nữa. Sau đó, quan sát lâu ngày, phát hiện thầy vốn chẳng bao giờ đòi hỏi tiền bạc của ai, bản thân cũng cư xử đoan chính, không giống người luyện tà pháp, mọi hành vi đều như người bình thường, dần dần chúng con mới dám đến gần lại."

Tôi nói với Khổng Huệ Minh: "Có một vị đại tu hành từng nói với người khác rằng, Lư Thắng Ngạn đã bị ma nhập rồi, tất cả thần thông của ông ta đều là lời ma quỷ, ông ta đã thành yêu ma, không quá ba năm nữa, sau khi ma quỷ lợi dụng xong, ông ta sẽ bị hút kiệt mà chết." - Tôi nói tiếp: "Kết quả là, tôi vẫn sống bình thường, ngược lại, vị đại tu hành ấy mới là người đã qua đời." Khổng Huệ Minh bật cười. Tôi cũng mỉm cười rạng rỡ.

Qua Khổng Huệ Minh, tôi biết được đôi chút tin tức về họ Tôn. Mặc dù đã biết trước rằng toàn thân anh ta sẽ nổi nhọt, nhưng khi nghe tin họ Tôn quả nhiên bị nổi mụn nhọt khắp da, trong lòng tôi vẫn thầm kinh ngạc.

Tôi biết Khổng Nguyệt đã cầm "bùa dịch bệnh" của Thành Hoàng Bồ Tát đi tìm họ Tôn, họ Tôn chắc chắn sẽ bị trúng độc, toàn thân thối rữa, và sau đó quả nhiên toàn thân anh ta thối rữa. Tất cả đều nằm trong tính toán.

Điều không thể tính toán được đã xảy ra, thật không ngờ người nhà họ Tôn lại mang bát tự của họ Tôn đến nhờ tôi chữa bệnh ngoài da. Tôi bấm tay tính toán một hồi, rồi nói với giọng rất kiên quyết: "Nghiệp chướng quá nặng, không thể cứu được!" Người nhà họ Tôn ảm đạm ra về! Cả đời tôi rất hiếm khi nói những lời nặng nề như vậy, nhưng không thể không nói thế! Hai năm sau họ Tôn qua đời, nguyên nhân tử vong là: suy thận.

07. Pháp thuật úp hồn

Ông Cao Cảnh Học nhờ tôi siêu độ cho người vợ quá của ông ấy, người vợ quá cố là người Tân Trúc, Đài Loan, tên thường gọi là Tiểu Ngọc.

Khi siêu độ, tôi thường dùng thiền quán để quan sát tình trạng siêu độ, quan sát những luồng khí mờ ảo. Vì có khả năng thiền quán nên tôi không khiêm nhường, khí phách khá tự cao.

Tôi tự biết mình không phải hạng phước mỏng bát tự thấp mà có thể thấy thần thấy ma; mà là do tôi thực sự tu tập Phật pháp, có tu có chứng, tôi là Kim cương Thượng sư chân chính độ chúng sinh, là thầy của vạn vạn người.

Ngoài thiền quán ra, khi siêu độ, đôi khi tôi cũng tự nhiên xuất thần. Thế nào là tự nhiên xuất thần? Đó chính là thần thức của tôi sẽ xuất du, có một số người khi ngủ thì thần thức sẽ xuất du, còn tôi khi đang thiền quán, thần thức đôi khi cũng sẽ xuất du, điều này chỉ xảy ra trong những tình huống đặc biệt.

Tôi siêu độ cho Tiểu Ngọc. Đó chính là lúc xuất thần: Tôi đến một ngôi làng nhỏ, làng thật sự quá nhỏ, chỉ có một con đường, vài hộ gia đình, làng nằm lưng chừng núi. Khi đến ngôi làng nhỏ này, bất ngờ gặp phải trận mưa lớn, tôi muốn tránh mưa nên gõ cửa từng nhà một, gõ mãi mà không một nhà nào mở cửa, dường như chẳng có ai ở vậy.

Tôi đứng loanh quanh dưới mái hiên một căn nhà khác, nhìn tấm biển địa danh, trên đó viết hai chữ "Mông Ấp", tôi thầm nghĩ, đây là chốn quỷ quái gì vậy, hai chữ địa danh "Mông Ấp" này, nghe cũng chưa từng nghe qua.

Đang đi đi lại lại chán chường, bỗng nhiên cánh cửa mở ra, một cụ già bước ra, mời tôi vào trong. Nhà cụ già trông rất chật hẹp và xập xệ, phòng khách cũng không có ghế sofa, cụ già bê ra một cái ghế đẩu nhỏ mời tôi ngồi, rồi lấy ra vài thứ trái cây mời tôi ăn. Cụ già nói: "Mưa lớn trên núi, xin đừng chê bai." "Cảm ơn đã cho tá túc!" - Tôi chắp tay. "Đây là nơi nào vậy?" "Mông Ấp." "Dân làng đi đâu cả rồi?" "Dời đi rồi." "Sao cụ không dời đi?" "Chỉ vì một cô gái yếu đuối tên Tiểu Ngọc!"

Tiểu Ngọc! Cái tên vừa lọt vào tai, tôi giật mình kinh hãi, trời ơi! Hôm nay tôi xuất thần, mê mê mẩn mẩn, hồn bay phách tán, lang thang khắp nơi, lại quên mất mình đang ngồi trên pháp tọa để siêu độ. Thực ra việc xuất thần này có nguyên do, chính là vì đến đây để siêu độ cho Tiểu Ngọc! "Tiểu Ngọc làm sao vậy?" - Tôi hỏi. "Ngủ say rồi!" "Ngủ say rồi cũng có lúc tỉnh." "Tiểu Ngọc vĩnh viễn không tỉnh nữa." - Cụ già nói: "Chính vì cô ấy không bao giờ tỉnh lại, nên tôi phải ở đây trông nom cô ấy, không thể dời đi được." Tôi nói: "Để tôi xem Tiểu Ngọc, có cách nào không!"

Cụ già dẫn tôi vào xem Tiểu Ngọc, cô ấy khoảng 27, 28, dáng người mảnh mai yểu điệu, dung nhan kiều diễm, chỉ có điều mí mắt nhắm nghiền, ngủ say như chết, không hề cử động, đúng là một nàng công chúa ngủ trong rừng. "Phải làm sao đây?" - Tôi hỏi. "Phải làm sao đây?" - Cụ già hỏi lại: "Hôm nay, lão đã đợi ngài, đợi suốt hai năm rồi, Tiểu Ngọc đã ngủ say đúng hai năm, giờ chỉ có ngài mới đánh thức được cô ấy, ngài đến đây không phải để cứu cô ấy sao?" "Cụ già là ai?" - Tôi chợt giật mình kinh ngạc. Cụ già hóa thành một luồng gió, căn nhà biến mất, Tiểu Ngọc cũng biến mất, cả ngôi làng cũng biến mất, tất cả đều biến mất. Tôi ngồi trên pháp tọa....

🌟

Tôi hỏi ông Cao Cảnh Học: "Vợ ông an táng ở đâu?" "Mông Ấp!" "Mông Ấp là chỗ nào?" "Lưng chừng núi." Tôi viện cớ nói: "Thưa ông Cảnh Học, tôi nghĩ phong thủy nơi an táng của vợ ông có thể có vấn đề, tôi cần phải lên lưng chừng núi một chuyến để xem xét phong thủy cho vợ ông." "Vâng, dĩ nhiên rồi." - Ông Cao Cảnh Học nói.

Tôi cùng ông Cao Cảnh Học lên lưng chừng núi, vừa nhìn thấy, tôi thực sự kinh hãi, "Mông Ấp" mà tôi đã xuất thần đến không phải là một ngôi làng nhỏ, mà là một nghĩa địa nhỏ. Đó là: Hoàng hôn tháo lớp trang điểm tàn, Gió tây ngoài cửa sổ thổi lạnh qua màn the, Nghe tiếng chuối xào xạc, Từng cơn từng cơn mưa nhỏ rơi, Nơi nào cùng người tán gẫu đây?

Câu "Nơi nào cùng người tán gẫu đây?" khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Ông Cao Cảnh Học kể với tôi: Hai năm trước, Tiểu Ngọc được an táng tại đây, nơi này là nghĩa địa tư nhân khai thác, chỉ có hơn mười ngôi mộ, sau đó có một nhà máy chọn được mảnh đất này, muốn dời nhà máy đến đây, hai bên đã giao dịch xong.

Nhà máy trả chi phí di dời cho chủ nghĩa địa, hơn mười ngôi mộ đã được chuyển đến nghĩa địa khác, sau đó lại nghe nói chủ nhà máy có ý kiến khác, không xây dựng nhà máy nữa, vì vậy mảnh đất này cứ thế bị bỏ hoang, nhà máy không dời đến, những ngôi mộ chưa di dời thì vẫn ở nguyên đó, là như vậy đó.

Trong lòng tôi thầm nghĩ, thảo nào "mười nhà thì chín nhà trống". May mà không ai trả lời, nếu không tôi chẳng phải là đã vào mộ người khác để trú mưa sao, quả thật là người và ma ở chung một phòng.

Vậy thì, cụ già là ai? Ông ta cũng là ma ư? Tiểu Ngọc đương nhiên là ma, nhưng cụ già là người nào?

Ông Cao Cảnh Học dẫn tôi đến trước mộ Tiểu Ngọc, tôi lấy ra la bàn, cố ý đặt xuống một chút, thực ra long mạch ở đây không tệ, là nơi sinh ra người hiền tài! Người xinh đẹp, đỉnh núi cao nhọn Đá xếp hàng, hạ huyệt giữa trời; Thiên Ất, Thái Ất rồng hai bên, Đất này ắt sinh người tài.

Phía trước bên trái ngôi mộ Tiểu Ngọc không xa, có một cây bách được buộc dải vải đỏ, dưới gốc cây có một miếu thổ địa nhỏ. Tôi tiến lại gần xem, trên đó khắc "Thổ Địa Mông Ấp". Bên trong miếu có một pho tượng, dáng vẻ và y phục giản dị, chính là cụ già lúc nãy. Bên trong miếu cũng trống trải vắng vẻ, chỉ có vài tờ vàng mã và vài nén hương cắm nghiêng, lại thêm ít đồ cúng bị sóc gặm nhấm, khói hương tồi tàn. Tôi chắp tay. Cao Cảnh Học nói: "Nơi này vắng người, miếu thổ địa đương nhiên ít người đến cúng bái, giống như bỏ hoang vậy!" Tôi không đáp lời, cùng ông Cao Cảnh Học xuống núi.

🌟

Giờ vấn đề đặt ra là, cụ già rõ ràng chính là Thổ Địa Mông Ấp, vị thổ địa này thật tốt bụng, luôn chăm sóc cho Tiểu Ngọc, nhưng tại sao Tiểu Ngọc lại bị hồn phách tán loạn, hoàn toàn không thể tỉnh lại?

Thổ Địa Công Công còn nói ông ấy đã đợi tôi, đợi suốt hai năm rồi, lại nói chỉ có tôi mới có thể cứu Tiểu Ngọc tỉnh lại, việc cứu Tiểu Ngọc tỉnh lại dường như đã trở thành trách nhiệm của tôi vậy, đồng thời tôi cũng hiểu rằng, những việc liên quan đến dương gian âm phủ như thế này, chỉ có tôi mới làm được, người khác không thể làm, cũng làm không nổi.

Tôi nói thẳng với ông Cao Cảnh Học: "Hồn phách của Tiểu Ngọc đã mất tích!" "Sao lại mất tích được?" "Ông có biết không?" "Không biết." - Cao Cảnh Học đáp.

Cao Cảnh Học chỉ kể với tôi rằng, sau khi Tiểu Ngọc qua đời, để lại một đứa con, lúc còn sống cô ấy rất chăm lo việc nhà, làm việc gì cũng ngăn nắp có trật tự, việc gì cũng dặn đi dặn lại cẩn thận, nhưng sau khi chết thì thật sự không từng mơ thấy, cô ấy hoàn toàn không còn tỉ mỉ, chu đáo như lúc còn sống nữa. Cao Cảnh Học đã từng cầu nguyện ở đền thờ, xin vợ mình báo mộng, nhưng kết quả vẫn là con số không. Cao Cảnh Học nhờ người "gọi hồn". Gọi không được! Tìm không thấy hồn! Cao Cảnh Học chỉ nghi ngờ, cho đến hôm nay, tôi mới nói cho ông ấy biết, hồn phách thật sự đã mất tích rồi!

🌟

Để tìm kiếm hồn phách của Tiểu Ngọc, tôi khởi động dùng chú Linh Quan: "Linh Quan truyền tấu Tôn sứ giả, đốc đồng đương trực niên Nguyệt Quan, bản nhật bản thời thụ sự Công Tào, đương phương uy linh Thành Hoàng, cấp cước đẳng thần, văn ngô hiệu triệu, hỏa tốc đáo đàn, thính lệnh thư phù, hữu sự sai khiến. Cấp cấp luật lệnh." Tôi lại niệm: "Ôm ah hùm. Công Tào mau đến. Sô-ha." Tôi đốt một lá phù, phù này là "vân quỷ phi". Thủ ấn là: "Dùng tay trái bấm vào giờ của ngày hôm nay, vì là giờ Ngọ, nên bấm đốt trên cùng của ngón trỏ, dùng ngón cái tay trái ấn vào."

Trong chốc lát. Vị thần đến là Thành Hoàng Tân Trúc uy linh hiển hách. Thành Hoàng dẫn theo bốn vị tướng đến đàn, vị tướng thứ nhất chuyên trừ yêu tà, vị tướng thứ hai chuyên bảo vệ hồn phách, vị tướng thứ ba chuyên hộ trì tu đạo, vị tướng thứ tư chuyên bắt ma diệt tà. Bốn vị tướng này, mặt có màu vàng, trắng, xanh, đen. Thành Hoàng hỏi rõ nguyên do. Liền ra lệnh cho Bạch Diện Tướng Quân đi tra xét. Đi nhanh về nhanh.

"Không tìm thấy hồn phách của Tiểu Ngọc." - Bạch Diện Tướng Quân báo cáo. "Điều đó tôi biết rồi, hồn phách của Tiểu Ngọc thuộc loại gì?" "Loại mất tích." "Chính vì mất tích nên mới bảo ngài đi tìm chứ!" - Tôi kêu lên. Bạch Diện Tướng Quân đáp: "Chính vì đã tìm rồi mà không thấy, nên mới xếp vào loại mất tích." "Vậy hỏi cũng như không." - Tôi nổi giận. Bạch Diện Tướng Quân ung dung nói: "Điều tra cũng vô ích thôi." Tôi cho Bạch Diện Tướng Quân lui về.

Thẳng thắn mà nói, về phương diện triệu thỉnh thần tướng, công pháp của tôi là bậc nhất, hễ tôi triệu thỉnh, không vị nào là không đến đàn. Có khi, ngay cả kết ấn, vẽ phù cũng không cần. Chỉ cần niệm: "Thiên thanh, địa linh, tôi Liên Sinh gọi về, mau giáng lâm." Chỉ đơn giản vậy thôi, vạn thần trên trời dưới đất, hễ nghe tôi triệu thỉnh, nhất định sẽ đến đàn.

Uy thần của tôi, thần nào mà không phục! Ma nào dám cản! Chỉ là, có những vị thần quả thật thần thông rộng lớn, quá khứ hiện tại tương lai không gì là không biết. Nhưng các vị thần địa phương nhỏ, năng lực quả thật rất hạn chế, bảo họ đi điều tra chút việc nhỏ, họ cũng không làm được, điều tra rồi cũng như không, thật khiến tôi tức điên lên. Hỏi Cao Cảnh Học, không biết. Hỏi Thổ Địa Mông Ấp, không cần hỏi. Hỏi Thành Hoàng Tướng Quân, hỏi cũng như không.

🌟

Theo như tôi biết, hồn phách của người thường có rất nhiều nơi đến, có người vãng sinh về cõi Phật, có người lên thiên đàng, có người đầu thai chuyển thế, có người xuống ba đường ác đạo, có người dừng lại ở trạng thái linh hồn, không thể kể hết. Nhưng tất cả đều có thể tra cứu được.

Về trường hợp mất tích, hoàn toàn không có hồ sơ để tra cứu, có thể là do bậc cao nhân thu về, tức là những người có đạo hạnh cao thâm, dùng pháp thuật thu hồn phách, bắt hồn phách của người đó đi, để bí mật luyện công, việc bí mật luyện công này khiến họ hoàn toàn mất tự do, tự nhiên hồn phách sẽ mất tích.

Ngoài ra, còn có một trường hợp nữa là hồn phách bị người khác úp xuống, tự mình không thể thoát ra được. Phép này gọi là phép úp hồn. Phép úp hồn được thực hiện như sau: Lấy tóc và móng tay của người đó bỏ vào một cái bình sành. Bên trong bình sành dùng giấy vàng viết bát tự và địa chỉ của người đó. Chọn ngày trực Thu để làm phép. Bày hương án. Đọc: "Om hum hum. Pháp lực dạt dào, vạn dặm kim quang, thu hồn phách ngươi, vào trong bình ta, mệnh lệnh của ta, ai dám cản đường. Cấp cấp phụng mệnh Trung Thiên Tinh Chủ, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế luật lệnh cương." Đợi khi hồn phách người đó vào bình, rồi dùng phù "vũ tiệm nhĩ" vẽ lên vải đỏ, niêm phong miệng bình là xong.

Phép úp hồn có thể tốt hoặc xấu. Về mặt tốt, chỉ vì người đó đang gặp vận hạn không tốt, tạm thời úp hồn phách lại, đợi khi vận chuyển tốt rồi thả ra, có tác dụng tránh hung họa. Về mặt xấu, triệu hồn phách người khác về, úp vĩnh viễn không cho ra, sau thời gian bốn lần 49 ngày, tức là 196 ngày, hồn phách người đó sẽ vĩnh viễn chìm sâu, vận khí vĩnh viễn không thông!

🌟

Về việc bị cao nhân thu về, tôi ở trong thiền định quan sát, quan sát bầu trời ban đêm, nói một cách nghiêm túc, chỉ cần là bậc cao nhân, khi ngủ vào ban đêm, xung quanh họ sẽ "rực rỡ ánh sao", thân được ánh sao bảo hộ, còn người phàm thì không có điều này.

Trong tu Mật tông, đây gọi là "dạ tu" (dạ luân), cũng chính là pháp miên quang, ngủ trong đại quang minh. Theo Mật tông, đây là tu khí, an trụ tại Tâm luân và Mật luân của hành giả. Khi khí của toàn thân phần trên tập trung vào Tâm luân, và khí của toàn thân phần dưới tập trung vào Mật luân, sẽ sinh khởi giấc ngủ sâu, và lúc này, điểm sáng của tâm cũng đồng thời phát khởi quang minh. Ngủ sâu trong quang minh của tự tâm, chính là pháp miên quang.

Theo quan sát của tôi, những bậc cao nhân tu đến cảnh giới này rất hiếm gặp. Tuy vẫn có, nhưng quả thật là số ít trong số ít. Sau khi suy xét kĩ lưỡng, tôi thấy không có chuyện cao nhân thu về.

Ở đây, tôi muốn nói đôi điều về việc tu hành. Đối với một số vị đại sư ở Đài Loan hiện nay, thẳng thắn mà nói, những vị đại sư này có tổ chức lớn, danh tiếng lớn, địa vị lớn.

Tuy nhiên, theo quan sát của tôi, về mặt chứng đắc tu hành, họ hoàn toàn không có điểm nào. Không những không có "rực rỡ ánh sao", cũng chẳng ngủ trong "đám mây đại quang minh", hay ngủ trên "hoa sen", mà ngược lại còn ngủ trong "bóng tối đen kịt", thật là trời ơi! Tất cả đều là phàm tăng, phàm ni còn nhiều phiền não. Những vị đại sư này tuy được tiếng tăm vang dội thiên hạ, nhưng tôi biết, đó chỉ là chút phúc báo từ kiếp trước mà thôi, về mặt thực tu thì tuyệt đối chưa đủ tư cách. Tin hay không tin, cứ chạm vào lương tâm là biết.

Gọi là "Tinh Vân" thì thật ra là "mây đen" mới đúng. Gọi là "Thượng Nhân" thì thật ra là "hạ nhân" mới đúng. Nói là "Thánh Nhân", thực chất chỉ là "người thừa". Nói là "Hoạt Phật", thực chất chỉ là "con khỉ sống". "Đại sư" chính là "đại bại". "Thượng sư" chính là "thua nhất".

Thẳng thắn mà nói, đối với những nhân vật được gọi là lãnh đạo tinh thần của Phật giáo này, họ chẳng có thực tu gì cả, chỉ mượn danh Phật giáo mà thôi. Viết về họ, tôi cảm thấy ngòi bút của mình cũng trở nên ô uế, thật không đáng chút nào.

🌟

Hồn phách Tiểu Ngọc không tỉnh, tôi khẳng định đó là phép úp hồn. Tôi nói với Cao Cảnh Học: "Khi còn sống, Tiểu Ngọc có bị úp hồn không?" "Úp hồn là gì?" - Cao Cảnh Học không biết. "Là như thế này, như thế kia... thế này thế nọ..., không biết có không?" - Tôi giải thích cho Cao Cảnh Học. "A! Hình như có!" - Cao Cảnh Học kêu lên: "Khoan đã, để tôi nghĩ xem, đúng rồi, là ở điện Bắc Cực, nhờ một đạo sĩ làm." "Chính là vậy."

"Sau khi làm phép úp hồn, chúng tôi cứ bận rộn mãi nên quên bẵng chuyện úp hồn luôn. Thì ra Tiểu Ngọc hồn phách không tỉnh là vì bị úp hồn, sau khi úp hồn xong thì quên luôn, đã nhiều năm rồi." "Điện Bắc Cực còn không?" "Còn, ngay ở gần đây."

Tôi và ông Cao Cảnh Học đến điện Bắc Cực, tìm được người phụ trách. May mắn thay, họ còn lưu sổ ghi chép việc làm phép úp hồn, trong quyển sổ cũ tìm thấy tên Tiểu Ngọc. Chúng tôi vào phòng kho, nhìn thấy cảnh tượng làm chúng tôi đứng sững - bình úp hồn chất đống khắp nơi, trên tủ dưới tủ, chồng chất lên nhau. Mạng nhện và bụi bám đầy, phải mất mấy tiếng đồng hồ mới tìm được, nhưng lúc này người ngợm đã lấm lem bụi bẩn! Tìm được bình úp hồn. Tôi giải phóng hồn phách của Tiểu Ngọc. Vụ việc đến đây là kết thúc viên mãn!

08. Người phụ nữ có vết đen lớn

Một phụ nữ trẻ tìm đến tôi. Cô ấy tên là Ôn Mạn. Cô ấy để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc, bởi vì trên mặt cô ấy, quanh vùng mắt bên phải có một vết đen lớn. Cô ấy khiến tôi nhớ đến Phán Quan Đen Trắng trong đền Thành Hoàng, một nửa mặt trắng, một nửa mặt đen, cũng giống như biểu tượng thái cực trong Đạo giáo, một nửa trắng, một nửa đen. "Dấu của Bà Mụ." - Tôi đoán. (Theo phong tục của người Đài Loan chúng tôi, khi ai đó sinh ra mà trên người có một vết xanh đen nào đó, người ta thường nói đó là dấu của Bà Mụ.) Cô ấy nói: "Không phải bẩm sinh đâu."

Cô ấy lấy từ trong túi xách ra một tấm ảnh, đưa cho tôi, tôi vừa nhìn liền giật mình, trong ảnh là một mỹ nữ: Đường cong tuyệt mỹ đầy quyến rũ Dáng vẻ kiều diễm chuẩn Tây Thi Đôi mày cong cong như núi biếc Cặp mắt long lanh tựa nước thu. Khuôn mặt tựa như sen trắng nở Đôi môi chúm chím trái anh đào Da mịn như ngọc không tì vết.

Tôi hỏi: "Đây là...?" Cô ấy đáp: "Chính là tôi." "Chụp từ bao giờ?" "Một năm trước." "Chuyện gì xảy ra với khuôn mặt cô vậy?" "Chuyện dài lắm."

🌟

Ôn Mạn kể cho tôi, thời đại học cô ấy là hoa khôi trường, từ nhỏ đã rất xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, vừa biết hát, vừa biết múa, vừa biết đàn piano, vừa biết đàn tranh cổ, ai thấy cũng phải trầm trồ, vẻ đẹp của cô ấy nổi tiếng đã lâu!

Không những thế, Ôn Mạn còn học giỏi top đầu, biết vẽ tranh, tài năng nức tiếng. Sau khi tốt nghiệp, cô làm thư ký tại một công ty lớn, người theo đuổi rất nhiều. Nhưng vì gặp nhiều người quá nên Ôn Mạn trở nên kén chọn, chẳng ai vừa ý, gặp nhiều người quá nên nhân duyên cứ thế trì hoãn, và bản thân cô ấy cũng không vội.

Khoảng một năm trước, cô ấy đi chơi núi với đồng nghiệp và vào một ngôi miếu cổ. Trong miếu có một đạo sĩ già, người này theo truyền thuyết địa phương là truyền nhân của Trương Thiên Sư thuộc Chính Nhất Pháp Môn, có một số pháp thuật, bình thường không mặc áo đạo, chỉ khi làm phép mới mặc.

Vị đạo sĩ già này nhìn thấy Ôn Mạn, đối xử với cô ấy đặc biệt ân cần, họ cũng nhờ đạo sĩ xem tướng, ông nói rất chuẩn xác. Ôn Mạn cũng nhờ đạo sĩ xem tướng cho mình, ông nói rất nhiều điều, đều rất chính xác, khiến Ôn Mạn kinh ngạc về tài xem tướng của ông.

Sau đó vị đạo sĩ già nói có một chuyện bí mật, muốn nói riêng với Ôn Mạn. Ôn Mạn không nghi ngờ gì, liền đi theo ông ta vào phòng trong. Vào đến phòng trong, vị đạo sĩ già tỏ vẻ vô cùng phấn khích, định nói điều gì đó. Ôn Mạn hỏi: "Có chuyện bí mật gì vậy?" Đạo sĩ già đáp: "Nhìn kĩ dung nhan của cô, ta biết giữa chúng ta có một duyên phận từ kiếp trước." "Duyên phận gì vậy?" - Ôn Mạn không hiểu ý ông ta. "Kiếp trước chúng ta là vợ chồng." Mặt Ôn Mạn đỏ bừng lên.

Đạo sĩ già ngồi xích lại gần Ôn Mạn: "Có thể cùng ta chung đêm được không?" Ôn Mạn giật mình kinh hãi: "Là người tu đạo sao dám có những ý nghĩ như vậy!" "Chỉ muốn mơ một giấc mộng uyên ương thôi, thế là đủ rồi. Đây là để giải duyên kiếp trước, nếu không, tai họa sẽ đến, lời ta nói ra đều linh nghiệm."

Ôn Mạn nghe xong, lòng buồn bã không vui, trong lòng thật bất an, cảm thấy vị đạo sĩ già này tuy xem bói rất chuẩn, nhưng hóa ra lại là một "lão dê cụ", nếu không đồng ý với ông ta thì còn bị đe dọa là sẽ gặp tai họa, đúng là thủ đoạn của một gã lang băm! Ôn Mạn nói: "Đây là thủ đoạn của kẻ lang băm, xin lỗi tôi không thể đồng ý." Vị đạo sĩ già thoáng giận dữ. Lão đạo sĩ dùng một ngón tay ấn vào trán Ôn Mạn một cái, nói: "Đáng tiếc thay! Đáng tiếc thay!"

Ôn Mạn không thèm để ý đến ông ta nữa, vội vã rời khỏi miếu cổ cùng với các đồng nghiệp, cô không hề kể cho ai nghe về những lời lỗ mãng mà lão đạo sĩ đã nói với cô trong miếu.

Kể từ khi bị lão đạo sĩ ấn một cái vào trán, trên trán Ôn Mạn xuất hiện một chấm tím. Ban đầu cô nghĩ do bị ấn hơi mạnh nên sẽ tự biến mất, cũng chẳng để tâm, nhưng sau khi rửa mặt, nó không những không mất đi mà còn chuyển từ tím sang đen, như thể có giọt mực nhỏ lên mặt vậy. Càng rửa càng rõ, lau thế nào cũng không sạch, dường như nó ở ngay dưới da.

Vài ngày sau, vết đen dần dần lan rộng, lan đến vùng quanh mắt phải, rồi lan ra cả nửa mặt bên phải. Cô hoảng loạn, tìm đến tất cả các bác sĩ da liễu nhưng chẳng ai biết đó là triệu chứng gì, uống thuốc hay bôi thuốc đều không có tác dụng. Ai nhìn thấy cô cũng cười nhạo, một mỹ nữ đã trở thành xấu xí, những người trước đây theo đuổi cô, tặng hoa hồng cho cô, giờ đây bóng dáng cũng chẳng thấy đâu.

Nghĩ lại, đây cũng là tình cảm bình thường của con người, ai mà muốn cưới một người phụ nữ nửa mặt trắng nửa mặt đen về nhà? Ôn Mạn trước đây thích soi gương, trang điểm nhẹ nhàng. Giờ đây, không còn trang điểm nữa, tóc tai bù xù, mặc quần áo thô sơ, chân đi giày vải, bỏ hết đồ trang sức, tự biến mình thành như bóng ma, hoàn toàn sống trong tâm thế quay lưng với thế giới.

Cô ấy đến miếu cổ tìm vị đạo sĩ già. Đạo sĩ già không có ở đó, nhưng ông đã dặn đệ tử: "Sau này sẽ có một người khách là phụ nữ tên Ôn Mạn đến xin gặp, hãy nói với cô ấy là đạo sĩ không gặp." Ôn Mạn cứ khăng khăng đòi gặp. Đệ tử của đạo sĩ nói: "Sư phụ dặn rằng, mời cô đi tìm bậc cao minh khác!" Khi Ôn Mạn quay lưng định bước đi, đệ tử của đạo sĩ nói: "Sư phụ chúng tôi bảo rằng, trên đời này, ngoài người ra, không còn ai là bậc cao minh nữa đâu, cô đừng hy vọng nữa!" Ôn Mạn khóc.

🌟

Ôn Mạn bắt đầu đi tìm các cao nhân giang hồ, bị lừa mất không ít tiền. Tìm đến các đạo sĩ, đạo trưởng, toàn là một lũ bất tài vô dụng, rồi lại tìm đến các vị trưởng lão trong giới Phật giáo, nhưng các vị trưởng lão đều bó tay, đứng trơ ra như gỗ. Các đạo sĩ, đạo trưởng làm phép xong, cuối cùng nói: "Ma quỷ rất lợi hại!" Các vị trưởng lão nói: "Nghiệp chướng sâu nặng, phải sám hối!" Lễ bái Thủy Sám, lễ bái Lương Hoàng Sám, không lễ bái thì thôi, càng lễ bái càng đen!

Cuối cùng, có người bảo cô ấy đi tìm Lư Thắng Ngạn.

Tôi giúp cô ấy thiền định quan sát. Tôi chăm chú nhìn vết đen lớn trên mặt cô ấy, nhìn mãi, nhìn đến khi tâm bất động, bỗng thấy một con chó đen nhỏ nhảy ra từ mặt cô ấy, rồi lại nhảy vào, cứ như vậy ra vào vô số lần. Con chó đen khi thì nhảy vào trong mắt, khi thì nhảy lên sống mũi, khi thì nhảy ra từ miệng, từ tai, liên tục "gâu gâu gâu" sủa không ngừng.

Sau khi quan sát, tôi kinh ngạc vô cùng, pháp Cẩu Tinh đã tái xuất giang hồ, đây là "Bí Luyện Cẩu Hồn Thần Pháp", vốn là thuật Mao Sơn, không phải Chính Nhất Pháp Môn, xem ra pháp thuật của lão đạo sĩ không đơn thuần.

Phương pháp tu luyện pháp Cẩu Tinh được tóm tắt như sau: Bí quyết luyện Cẩu Tinh là trước tiên phải nuôi một con chó đen, cho nó ăn uống đầy đủ, huấn luyện cho nó hiểu ý người, bảo nó làm gì thì nó làm nấy. Cẩu Tinh có thể canh gác, lấy đồ vật, cắn người, chiếm giữ thân xác người...

Khi tu luyện, chọn một căn phòng vắng người, lập một đàn tràng nhỏ, dựng một bài vị "Cẩu Tinh Hành Giả", chuẩn bị năm bát thức ăn cho chó, ba chén rượu và nhang đèn.

Hành giả bí luyện cầu nguyện: Pháp luyện Cẩu Tinh, Khiến chó thông linh; Ra vào theo chủ, Lai vãng hữu tình. Cẩu tinh biến hình, Cẩu tinh nghe lệnh; Nhật nguyệt tinh quang, Nguyên hanh lợi trinh.

Sáng tối thay đổi cúng phẩm, còn phải niệm tên của con chó đen. Thông thường, chỉ cần cúng tế 49 ngày, con chó đen sẽ tự động tuyệt thực không ăn, sau khi tuyệt thực thì chết. Con chó đen phải được chôn ở hướng Tuất của đàn thành. Sau đó, sáng tối chuyển sang niệm chú hiện thần: "Đông phương cẩu tinh tốc giáng thần, Tây phương cẩu tinh tốc hiện hình, Nam phương cẩu tinh tốc đắc lệnh, Bắc phương cẩu tinh thông chân linh."

Kết quả, pháp Cẩu Tinh sẽ có hiệu nghiệm, cẩu tinh sẽ hiện ra chân hình trong 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 28 ngày.

Như vậy là có thể vận dụng Cẩu Tinh rồi!

🌟

Tôi nói với Ôn Mạn sự việc đúng là như vậy. Ôn Mạn nói: "Gặp phải chuyện này, nghiệp chướng thật nặng nề. Sư phụ Lư đã biết được sự việc này, không biết có giải được không?" "Giải được!" - Tôi đáp. "Bằng cách nào vậy?"

Tôi nói: "Khi xưa học Phật, Hòa thượng Liễu Minh đã dạy tôi pháp môn Lục Quan Âm. Pháp môn Lục Quan Âm, mỗi vị đều có đối tượng cứu độ riêng. Thánh Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi ngạ quỷ; Thiên Thủ Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi địa ngục; Mã Đầu Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi súc sinh; Thập Nhất Diện Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi atula; Chuẩn Đề Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi người; Như Ý Luân Quan Âm chuyên cứu độ chúng sinh cõi trời." "Vậy phải cầu Mã Đầu Quan Âm cứu độ phải không?" "Đúng vậy." - Tôi đáp. "Cầu Mã Đầu Quan Âm cứu độ cần bao nhiêu tiền?" - Ôn Mạn hỏi. "Tùy tâm!" - Tôi đáp. "Tùy tâm là bao nhiêu?" - Ôn Mạn hỏi lại. Tôi mỉm cười, nói với cô ấy: "Trong thế giới Ta Bà này vốn là thế giới của tiền, làm bất cứ việc gì cũng cần đến tiền. Ngay cả giới tôn giáo hay đoàn thể từ thiện cũng dùng tiền để phân chia đẳng cấp, sám hối, siêu độ, pháp hội, v.v…, mở miệng ra là bao nhiêu tiền, đến nhà thờ cũng vậy."

Tôi nói tiếp: "Nhưng ở chỗ tôi, mọi thứ đều tùy ý. Đây là lời dặn dò của Hòa thượng Liễu Minh - sư phụ của tôi năm xưa. Hòa thượng Liễu Minh nói rằng, khi đạt đến cảnh giới tu hành, khắp nơi đều là vàng. Lá rụng là vàng, mưa là vàng, núi là vàng, nước là vàng, đại địa là vàng, vậy tiền giấy của thế gian dùng để làm gì? Sư phụ bảo tôi, sau này Lư Thắng Ngạn xuống núi hành đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho người khác, mọi thứ đều tùy ý là được!" "Thầy không tham tiền sao?" "Đủ dùng là được, mọi thứ phải hợp tình hợp lý!" - Tôi nói: "Cô cứ đi hỏi thiên hạ, nếu Lư Thắng Ngạn mở miệng đòi tiền người ta, vi phạm lời thề năm xưa, tôi xin viết ngược ba chữ Lư Thắng Ngạn. Nếu tôi định giá, kiếp sau phạt tôi làm rùa!" Ôn Mạn cười: "Tại sao phải làm rùa?" "Vì ăn ít đó mà!"

Tôi mỉm cười, Ôn Mạn cũng cười, rất vui vẻ, cô ấy biết rằng tôi, Lư Thắng Ngạn, không phải là một pháp sư lừa tiền người khác. Lúc này Ôn Mạn mới nói với tôi rằng việc tôi đoán ra cẩu tinh đang bám trên mặt cô ấy là chính xác một trăm phần trăm. "Có ai nói cho cô biết không?" - Tôi hỏi. "Không ạ." "Vậy sao cô biết?" Ôn Mạn nói: "Ngay đêm xuống núi từ chỗ lão đạo sĩ, tôi nằm mơ thấy một con chó đen đuổi theo. Tôi chạy rất hoảng sợ nhưng không thoát được, khi nó đuổi kịp và nhảy lên thì biến mất ngay trước mắt tôi. Sau đó nhiều đêm liền tôi đều mơ thấy con chó đen ấy, lạ là lúc nào cũng là con chó đó. Nó rất nghịch ngợm, cắn nát nhiều đồ đạc trong nhà, có lúc còn biến thành một người đàn ông nho nhã, trong mơ còn cầu hôn tôi nữa!" Nghe xong, tôi càng chắc chắn quan sát của mình không hề sai.

🌟

Tôi thiết lập đàn thành Mã Đầu Minh Vương, treo thangka, một đầu hai tay, thân màu xanh đen, ba mắt tròn mở to, nanh nhọn lộ ra ngoài, tóc và râu đỏ vàng dựng đứng, trên đầu là đầu ngựa màu xanh lục. Tay phải cầm tích trượng đầu lâu, tay trái cầm dây thừng. Đầu đội vương miện năm đầu lâu, cổ đeo chuỗi năm mươi đầu người, thân khoác da người và da voi, mặc váy da hổ, trang sức bằng rắn để trang nghiêm, hai chân phải co trái duỗi, đạp lên nam nữ ma, lấy nhật luân hoa sen làm tòa ngồi, oai nghiêm đứng giữa ngọn lửa trí huệ bát nhã rực cháy.

Tôi kết ấn Mã Đầu Minh Vương. Trì chú Mã Đầu Minh Vương: "Ôm a-mi-li-tô na-pô hùm fa-cha." "Ôm sê pê-ma-ta-chi ha-ya-chi-wa sê hùm pây."

Mã Đầu Minh Vương có pháp phá độc, tất cả các linh động vật trên thế gian như hổ sói rắn rết làm hại hữu tình, thậm chí cả rồng độc Ca Xoa, nọc độc vô cùng mãnh liệt, nếu bị nhập thân hoặc cắn phải, khi mọi chân ngôn đều không thể cứu hộ, chỉ có tụng chân ngôn Mã Đầu Minh Vương này, gia trì lên sợi chỉ trắng, tụng 108 biến, cứ 108 biến thì thắt một nút, tổng cộng thắt 21 nút, sau đó buộc vào cánh tay trái, tức thì tà độc kia sẽ bị phá tan, mọi thứ đều được phục hồi.

Sau khi tu pháp xong, buộc sợi chỉ trắng vào cánh tay Ôn Mạn, đêm đó cô ấy mơ thấy con chó đen đang chạy, thần Kim Cang đuổi theo nó, thần Kim Cang bắt được con chó đen, một tay xách nó lên, ném đến chỗ Luân Vương, đi vào luân hồi lục đạo.

Ôn Mạn đến nói với tôi: "Vết đen lớn vẫn chưa hết sao?" "Đừng vội, nó sẽ tự nhiên phai dần thôi. Hồn con chó đen đã được siêu độ rồi." "Thật vậy sao?" "Thật đấy."

Quả nhiên, khoảng một tuần sau, vết đen lớn trên mặt Ôn Mạn nhạt dần từng chút một, đồng thời phạm vi cũng thu nhỏ lại. Sau khoảng hai tuần, vết đen lớn hoàn toàn biến mất, mọi thứ đều trở lại bình thường. Ôn Mạn vui mừng khôn xiết. Nhan sắc rực rỡ như xưa.

Một hôm, Ôn Mạn đang đi trên phố thì thấy lão đạo sĩ đi tới. Lão đạo sĩ cũng nhìn thấy Ôn Mạn, giật mình kinh ngạc, hỏi: "Ai có thể giải được?" Ôn Mạn nói với ông ta: "Là Lư Thắng Ngạn giải đấy!" Lão đạo sĩ tức giận: "Lại là hắn, hắn phá hỏng việc tốt của ta nhiều lắm rồi!"

09. Hồn ma tự cầu siêu độ

Một hôm, tôi ngồi tĩnh tọa tại đàn thành ở nhà mình. Khi ngồi đến lúc vô cùng tĩnh lặng thì nghe thấy tiếng thì thầm bên ngoài cửa sổ. Hỏi: "Từ trước đến giờ ở đâu?" Đáp: "Âm phủ địa ngục." Hỏi: "Đến đây làm gì?" Đáp: "Cầu xin Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn siêu độ!" Hỏi: "Sao không vào?" Đáp: "Đàn thành có kết giới, chúng ta là dị vật, không thể vào được."

"Ngươi hãy nói to lên, ngài sẽ nghe thấy! Liên Sinh Hoạt Phật từ bi với chúng sinh, ân huệ lan đến cả loài ma quỷ, ngài sẽ siêu độ cho ngươi." "Tôi không dám!" - Ma nói. "Sao lại không dám, chỉ cần một lòng cầu xin là được!" Lại hỏi: "Ngươi không dám, vậy tại sao lại đến?" Đáp: "Ở địa ngục chịu cực khổ, nghe danh Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là bậc chân tu hành duy nhất giữa trời đất, là bậc chân từ bi duy nhất giữa trời đất, vì vậy, không có suy nghĩ nào khác, tôi đến cầu xin ngài."

Tôi nghe hai người nói chuyện đến đó thì lên tiếng: "Ai đang nói chuyện bên ngoài vậy? Vào đi!" - Tôi lập tức gỡ bỏ "kết giới", cho hai người vào. Vừa nhìn thấy hai người này, tôi lập tức hiểu ra. Người đang hỏi kia không phải ai khác, chính là Thần Cửa nhà tôi. Thần Cửa cũng là một vị Hộ pháp, không ngờ Thần Cửa nhà tôi lại còn giúp tôi lôi kéo khách, còn bảo người ta lớn tiếng gọi chủ nhân. Tôi và Thần Cửa nhìn nhau mỉm cười.

Ngoài ra, vị khách không mời này cũng là người quen cũ của tôi, tạm thời tôi gọi anh ta bằng biệt danh là Bàng Phi. Nhìn thấy Bàng Phi, tôi thực sự giật mình. "Lâu quá không gặp!" - Tôi nói. "Vâng." "Ở chốn âm ty nơi nào?" "Không dám dối, ở trong địa ngục tối tăm." "Địa ngục tối tăm thế nào?" "Thân ở chín suối, không một tia sáng, chẳng biết ngày đêm, chỉ mong được thấy lại ánh mặt trời!" - Bàng Phi đáp.

Trước tiên, tôi phải nói với mọi người rằng Bàng Phi là một nhân vật, một nhân vật không tầm thường, khi còn sống, ông ta từng là đối thủ của tôi, sau đó trở thành bạn, và cuối cùng là đệ tử của tôi. Có lẽ mọi người sẽ rất tò mò, Bàng Phi - một nhân vật có ân oán với Lư Sư Tôn, thực sự là ai?

Tôi viết một bài kệ để giải thích:

Bàng Phi xuất thân chẳng tầm thường, một đời hành sự như mãnh sư Cũng là bá chủ khắp một phương, môn đồ dưới trướng ngày càng đông. Mọi việc trên đời đen với trắng, tranh đoạt hai chữ lợi với danh. Bàng Phi hét ra một hiệu lệnh, cũng là tranh giành chiếm địa bàn. Sòng bạc ca vũ là nghề nghiệp, vây thầu đoạt thầu càng cao siêu, Thỏa mãn thân tâm mọi nhu cầu, yêu hết tất cả những châu báu. Sắc đẹp chỉ là thân thụ dụng, tự nhiên mà đến không vướng bận, Sinh mệnh treo bên rìa mây trắng, hôm nay an vui cứ an vui. Có người đến xin giết Thắng Ngạn, nguyện dâng tiền bạc mua đầu thân, Bàng Phi vốn đã gật đầu rồi, Hộ pháp hiển hiện hộ thân tôi. Hai người gặp nhau duyên thật lạ, chuyển địch thành bạn lại quý nhau, Bàng Phi vốn là đại kỳ tài, sao lại lưu lạc chốn giang hồ. Sau này cũng muốn học Phật pháp, tu sửa sám hối nơi hiền đức Tôi cho quy y và thọ ký, nguyện xin từ bi được theo về. Tiếc thay nghiệp sát quả nặng nề, tham sân si báo tụ đầy thân, Có người lén đến giết Bàng Phi, nổ hai phát súng mạng về trời. Bàng Phi chết rồi đọa địa ngục, vốn ở trong chốn tối tăm kia, May còn chưa quên hạt giống Phật, mong chờ truyền thừa không đứt đoạn.

Bài kệ này viết về cuộc đời của Bàng Phi, tôi lại viết thêm một bài thơ cho ông ấy: Ai ngờ sóng gió đất đảo lộn Thân mạng bỗng chốc phải quy tiên; Nay đến cầu tôi đại siêu độ Mong thấy Hoạt Phật thoát ngục khổ.

🌟

Tôi thật sự tính toán cho Bàng Phi và thấy rằng việc siêu độ cho ông ta rất khó khăn, bởi vì nghiệp sát của ông ta quá nặng, mang theo hơn bốn mươi oan hồn, nếu những oan hồn này không được siêu sinh thì Bàng Phi cũng không thể siêu sinh được. Tôi hỏi: "Trong ngục tối, ngoài bóng tối ra còn gì nữa?" Bàng Phi đáp: "Trống rỗng không có thức ăn, trước sau trái phải đều là nước, khó đi một bước, chỉ có thể ngồi khô héo." "Còn gì nữa không?" "Chỉ thấy lửa ma trơi bay đến, khoảng hơn bốn mươi ngọn, trong đó đều là những oan hồn bị tôi giết, bay đến chỗ tôi liền cắn đầu cắn mặt tôi, đau đớn dị thường."

"Vậy làm sao ông đến được chỗ tôi?" Bàng Phi đáp: "Trong ngục tối, tôi ngồi khô héo, lúc nào cũng bị bốn mươi ngọn lửa ma trơi tấn công, không có việc gì làm, cuối cùng mới nhớ ra mình đã quy y theo ngài, liền niệm thần chú ngài dạy: 'A ha sa sa ma ha'. Khi niệm đủ 300.000 lần, có một vị Bồ Tát xuất hiện, ban thức ăn cho tôi, đây là lần đầu tiên sau nhiều năm." Bàng Phi lại nói: "Tôi hỏi Bồ Tát làm sao thoát khỏi ngục tối này? Bồ Tát bảo hãy đi cầu xin Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Tôi lại hỏi, thân đang ở trong ngục, làm sao đi cầu xin được? Thế là Bồ Tát đưa tôi đến đây, lát nữa, Bồ Tát sẽ đưa tôi về."

Lúc này, tôi nói với Bàng Phi phải tiếp tục niệm chú không được ngừng, niệm đủ 300.000 lần sẽ được ban thức ăn. Niệm đến 3 triệu lần thì còn tuyệt hơn nữa, tôi bảo Bàng Phi hãy về trước, rồi tôi mới nghĩ cách siêu độ cho ông ta. Thế là, Bàng Phi chắp tay cúi chào, rồi biến mất.

🌟

Tôi tu pháp, triệu thỉnh vị Bồ Tát đã đưa Bàng Phi đến chỗ tôi. Khi Bồ Tát vừa đến, tôi đã nhận ra, thì ra là Liêu Vương (Liêu Phủ Thiên Tuế). "Sao phải phiền đến tôi?" - Tôi hỏi. "Ngài có đại năng!" - Liêu Vương đáp. "Tại sao ngài lại cho ông ta thức ăn? Và tại sao lại chỉ dạy ông ta?" "Hắn là chắt của ta!" "Thì ra là vậy." Tôi chợt hiểu ra.

Tôi suy nghĩ, trong chuyện này hẳn có nhân quả nghiệp báo, Liêu Vương là trưởng bối của Bàng Phi, Bàng Phi là bá chủ một phương, nói cho cùng, Bàng Phi đã từng tha mạng cho tôi, sau này lại trở thành đệ tử của tôi, lại còn trì chú "A Ha Sa Sa Ma Ha", như vậy, tôi không thể không cứu Bàng Phi.

Tuy nhiên, việc cứu Bàng Phi ra khỏi ngục tối tuyệt đối không phải là chuyện siêu độ thông thường có thể làm được, không phải chỉ đơn giản là mua sắm đồ cúng, tế lễ các vong linh, tụng vài câu kinh chú, kết vài ấn quyết là xong. Bàng Phi đã tạo quá nhiều nghiệp sát, tự có sự quở phạt của cõi âm, không thể dễ mà độ thoát!

Trước tiên, tôi nghĩ đến việc tìm Bồ Tát Quan Thế Âm, vị Bồ Tát đầy lòng từ bi nhất. Trước đây tôi thường phiền đến Ngài, nay tôi quyết định tự mình đến Nam Hải. Chuyến đi Nam Hải này của tôi không phải bằng máy bay hay tàu thủy, mà tôi ngồi thiền định trên đàn thành của mình và đã đến nơi. Tôi xin thành thật nói với mọi người rằng tôi có phép "bay như mây", ra vào pháp giới tự tại vô cùng. Tu hành thật tuyệt vời, tôi có thể ra vào hai mươi tám cảnh giới, tôi là một tiên ông thật sự.

Thế giới Nam Hải này quả thật phi phàm: Mây lành khắp chốn tỏa hào quang Sương thiêng may mắn hương tỏa bay Phổ Đà Nam Hải ngoài nghìn dặm Tất cả đều từ một tâm sinh. Sen xanh thanh tịnh và đẹp đẽ, Đại địa càn khôn thật tự do. Nước tám công đức theo sóng dạt , Trong rừng trúc tím thọ nghìn thu. Sự nghiệp độ sinh khó bàn luận, Từ bi cứu khổ trọn vẹn nhất.

Quan Âm Bồ Tát vừa thấy tôi, rất ngạc nhiên! "Sao ngài lại đến đây?" "Để cứu Bàng Phi. Tôi đặc biệt đến bái kiến Bồ Tát, cúi xin từ bi, ban cho một phương cách!" "Là Bàng Phi à, việc này quá khó." - Bồ Tát nói.

Khi tôi nghe hai chữ "quá khó", cũng tự biết không ổn lắm. Quan Thế Âm Bồ Tát nói: "Nếu dùng pháp lực để cứu Bàng Phi thì rất dễ. Phải biết rằng nước cam lộ trong tịnh bình của ta có thể trị được nghiệp ác, chỉ cần rảy một giọt là độ được một ác linh. Rảy bốn mươi giọt thì độ được bốn mươi ác linh. Rảy thêm một giọt nữa, Bàng Phi sẽ thoát khỏi địa ngục tối tăm. Nước cam lộ trong tịnh bình của ta còn có thể tịnh hóa trời đất, tịnh thiên thì trời trong, tịnh địa thì đất linh. Nếu đem tất cả nước cam lộ trong tịnh bình rảy hết ra, thì tất cả u hồn trong địa ngục đều được độ thoát, như vậy cõi địa ngục sẽ hoàn toàn trống rỗng."

"Ồ! Tuyệt quá, vậy thì Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng có thể thành Phật, mười vị Diêm Vương cũng thất nghiệp hết, tôi cũng không cần phải siêu độ cho các vong linh nữa!" "Đừng vội mừng quá sớm." - Bồ Tát nói: "Liên Sinh Hoạt Phật, phương pháp cứu người độ đời có rất nhiều, nhưng tuyệt đối không thể không để ý đến một hai điều." "Một hai điều gì vậy?" "Pháp có thể trị được sinh linh trong thế gian, có thể độ được nỗi khổ của u minh, nhưng không thể lay chuyển được nhân quả nghiệp lực!" "Đã có thể làm địa ngục trống không, sao lại không thể lay chuyển?" - Tôi cảm thấy lời Bồ Tát có chút mâu thuẫn. Bồ Tát đáp: "Ngài chỉ biết một mà không biết hai, nơi này độ hết, nơi khác lại sinh, bên này sinh bên kia chết, bên này chết bên kia sinh." Nghe xong, tôi thực sự chấn động! Tôi nói: "Thảo nào Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về năm điều không thể nghĩ bàn. Thứ nhất, số lượng chúng sinh không thể nghĩ bàn. Thứ hai, nghiệp lực không thể nghĩ bàn. Thứ ba, long lực không thể nghĩ bàn. Thứ tư, thiền định lực không thể nghĩ bàn. Thứ năm, Phật pháp lực không thể nghĩ bàn." "Đúng vậy."

Sau khi trò chuyện đến đây với Bồ Tát, tôi nói: "Đã không có cách, tôi xin cáo từ." "Khoan đã, sao không uống chút ngọc dịch Nam Hải?" "Tôi có việc gấp, không dám ở lâu." Quan Thế Âm Bồ Tát thấy tôi vội vã như vậy, cũng không giữ lại, chỉ dặn dò tôi: "Việc này có thể tìm một vị Bồ Tát, nhất định sẽ có hiệu quả, ngài hãy đi tìm Liên Hoa Sinh Đại Sĩ! Đó là Guru Thượng sư của ngài, nhân duyên việc này nằm ở nơi Ngài ấy."

🌟

Tôi rất cảm tạ Quan Thế Âm Bồ Tát đã chỉ dẫn, để cứu Bàng Phi, cần phải tìm Guru Rinpoche (Liên Hoa Sinh Đại Sĩ). Tôi thành kính cầu nguyện đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. I-ma-hô. Con nhất tâm đảnh lễ Guru Rinpoche - bậc đã viên mãn thành tựu sự nghiệp vĩ đại của chư Phật. Chuli - Seh. Kính lễ một lạy đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, bậc quang minh thanh tịnh. Kính lễ hai lạy đến Padmasambhava, bậc có công đức như biển. Kính lễ ba lạy đến Thượng sư Thái Dương Quang, bậc trừ diệt tất cả nghiệp đen. Kính lễ bốn lạy đến Thích Ca Sư Tử, bậc điều phục và giải thoát chúng sinh. Kính lễ năm lạy đến Sư Tử Hống Thanh, bậc hàng phục ngoại đạo ma vương. Kính lễ sáu lạy đến Thượng sư Ái Tuệ, bậc trí tuệ vô biên. Kính lễ bảy lạy đến Thượng sư Liên Hoa Vương, bậc tự tại trong tam giới. Kính lễ tám lạy đến Bố Úy Kim Cang, bậc khiến yêu tà kinh hãi. Kính lễ chín lạy đến Thượng sư Hải Sinh, bậc sinh ra tôn quý. Con nhất tâm cầu nguyện, tán thán, đảnh lễ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ... (Những danh hiệu trên đều là tôn danh của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.)

Tôi vận khởi pháp thuật bay như mây, trên thân do ý sinh ra của tôi có ánh sáng đỏ, ánh sáng trắng, ánh sáng vàng và ánh sáng đa sắc, nâng đỡ cầu vồng tuyệt đẹp, bay lượn giữa hư không. Bay như mây lên đến thế giới Núi Đồng Orgyen. Thế giới Núi Đồng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ rốt cuộc ở đâu? Là ở nước Udyana, nước Ma Kiệt Đà, nước Shambhala, nước Đại Thực, nước Bengal, nước Ma La, nước La Sát, nước A Hạ, nước Châu Tây, nước Đại Hùng, Tây Tạng, Hán địa, nước Thát Ca Nhĩ, Bồ Đề Đạo Tràng, Kashmir... Thực ra có thể nói phải. Cũng có thể nói không phải.

Cho dù nói thế nào, phải hay không phải, tôi đã thực sự gặp được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, thấy được Thế giới Núi Đồng. Tôi thấy: "Tam thiên đại thiên thế giới hoàn toàn thấm đẫm trong ánh hào quang ngũ trí, nơi đây là biển hoa sen của không hành mật trí." "Ánh sáng của đàn thành nhật nguyệt là quang minh không lạc rốt ráo thanh tịnh, chiếu đến cung điện của ngũ phương Phật tổ." "Trong cung pháp giới của Bổn tôn trung ương chứa đựng tất cả chư thiên và chúng sinh hữu tình của thế gian." Đây thật là một thế giới kỳ diệu!

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thấy tôi đến, rất đỗi hoan hỷ: "Liên Sinh đến đây có việc gì?" Trước tiên tôi cúng dường chuông kim cang và chày kim cang làm bằng vàng, sau đó cúng dường mandala bằng vàng.

"Bậc Thượng sư tối thượng, xin gia trì cho con, với lòng đại bi vô thượng để cứu độ chúng sinh." "Là vì Bàng Phi phải không?" "Đại Sĩ đã biết rồi."

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ gật gật đầu, cười ha hả, tiếng cười trong không gian vừa sâu vừa rộng, đã ban cho tôi sự gia trì của chữ "Ha"! Đại Sĩ nói: "Quan Thế Âm Bồ Tát không cứu Bàng Phi, mà đẩy việc này sang cho ta, đây chính là lòng từ bi của Bồ Tát, bởi vì việc này chỉ có ta mới làm được, các vị Bồ Tát khác khó mà thực hiện được." "Tại sao vậy?" - Tôi hỏi "Mật pháp của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, có lúc từ bi dịu dàng, có lúc phẫn nộ hàng phục, lần lượt thị hiện đủ loại phương tiện không thể nghĩ bàn, không chỉ đầy đủ oai lực hàng ma, mà còn trong một sát-na có thể điều phục tất cả người ác, trong một cái búng tay có pháp bí mật tối thượng khiến người ác vãng sinh Phật quốc."

Tôi nhớ lại, trong "Liên Sư Ứng Hóa", Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ở Đồng Châu đã sử dụng thần chú phản hồi của Sư Diện Không Hành Mẫu, khiến năm trăm ngoại đạo kẻ chết người bị thương, thần chú phản hồi này quả thật lợi hại!

Còn nữa, ở thành Đồ Phu, thành Đồ Phu toàn là những kẻ hung ác. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ quyết định: "Muốn điều phục những chúng sinh nghiệp ác này, chỉ có cách hóa hiện thành đồng loại với họ, dùng đồng loại để điều phục đồng loại mới có khả năng thành công." Đây chính là: "Tâm thì cực kì từ bi, hành động thì cực kì độc."

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ phát nguyện muốn lập tức cứu độ những kẻ ác này, dùng chân ngôn mật chú phẫn nộ giết chết hết bọn chúng, chấm dứt hành vi tà ác của họ, khiến họ không thể làm ác được nữa.

Liên Sư tập hợp hồn phách của những kẻ ác, phóng quang chiếu sáng họ, khiến nghiệp ác được thanh tịnh, sau đó búng tay một cái, trực tiếp đưa họ về cõi Phật. Đây chính là: "Pháp sát sinh siêu độ."

"Bàng Phi đã giết bao nhiêu người?" "Bốn mươi người." "Hãy giết Bàng Phi bốn mươi lần, rồi siêu độ y." Tôi kinh hãi: "Đây là pháp sát sinh siêu độ!" "Đúng vậy." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Chỉ có giết Bàng Phi bốn mươi lần, trong một cái búng tay, con mới có thể cứu Bàng Phi ra khỏi địa ngục tối tăm." "Guru Rinpoche muốn con làm việc này sao?" "Đúng vậy." - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Con hãy nhận pháp chỉ của ta, tự mình xuống địa ngục tối tăm giết Bàng Phi, giết liên tiếp bốn mươi lần, Bàng Phi chết bốn mươi lần, nghiệp ác tiêu trừ, tự khắc sẽ được siêu độ vãng sinh Phật quốc." "Con không thể." - Tôi kinh hãi tột độ. "Giết chính là từ bi, vì từ bi mà giết! Nếu không giết, Bàng Phi không thể được cứu. Đây chính là lý do Quan Thế Âm Bồ Tát tìm ta, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, ra mặt."

Cuối cùng tôi đã hiểu tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát không trực tiếp cứu Bàng Phi! Tôi cũng hiểu được sự đáng sợ của nhân quả. Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ bảo tôi giết Bàng Phi, phải thể hiện tâm từ bi cứu độ, phải trì chú phản hồi của Sư Diện Không Hành Mẫu, sát sinh chính là cứu độ! Tôi vẫn còn do dự không quyết: "Có thể không cần giết không?" "Không thể." - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dứt khoát nói.

🌟

Tôi tiến vào địa ngục tối tăm. Bàng Phi thấy tôi, hét lên thảm thiết: "Cứu mạng!" Tôi giơ cao pháp chỉ của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, vừa giơ lên, thân thể tự nhiên biến đổi, trong từng sát-na, tôi hóa thành "một đầu hai tay ba mắt, thân màu nâu đỏ, diện mạo biến thành vị Heruka phẫn nộ, nanh vuốt nhe ra, tóc dựng đứng phẫn nộ, lông mày và râu như lửa cháy, tay phải nâng chày kim cang chín chấu được làm từ thép trời, tay trái cầm chày phổ ba đâm xuống, đầu ngón tay là bọ cạp đen, thân trên khoác áo gấm, thân dưới mặc váy nâu, tư thế đứng đạp lên một con hổ dữ tợn, an trú giữa ngọn lửa rực cháy".

Tôi hóa thành Guru Dorje Drolö (Phẫn Nộ Liên Sư). Tôi bắt đầu tụng: "Hùm hùm hùm. Ôm ah hùm. Pê-cha gu-ru chô-wo lưa-lua-ka. Sa-ơ-wa sit-đi hùm hùm." Tôi lại tụng thần chú Sư Diện Không Hành Mẫu: "Ah-ka-sa-ma la-sa-sa-ta la-sa-ma-la-yê. Pây."

Sư Diện Không Hành Mẫu hiện ra ở phía trên. Thân màu xanh lam. Một mặt hai tay, tay phải cầm dao phay kim cang, tay trái nâng chén sọ người. Mặt há miệng, nanh nhọn, lưỡi cuộn. Ba mắt trợn phẫn nộ, tóc đỏ xoăn lên. Đầu đội vương miện năm sọ người, cổ đeo chuỗi năm mươi mốt đầu người, mặc váy da hổ. Vai trái mang kachangka (thiên trượng). Đứng trên nhật luân hoa sen. Tôi lại tụng thần chú phản hồi.

Lúc này, Sư Diện Không Hành Mẫu dùng dao phay kim cang, từ trên xuống dưới, chém vào não của Bàng Phi. Còn Phẫn Nộ Liên Sư thì dùng chày kim cang đâm vào tim Bàng Phi. Bàng Phi thét lên một tiếng thảm thiết, ngã xuống đất chết. Chết rồi lại sống. Rồi lại chết. Rồi lại sống. Cứ như vậy chết bốn mươi lần. Và sống lại bốn mươi lần. Máu tươi và não, gan mật tràn lan, thảm cảnh không nỡ nhìn. Giết bằng tâm từ bi, hành động tuy độc ác nhất nhưng tâm lại từ bi nhất, người đời làm sao hiểu được?

Thật kỳ lạ, quanh Bàng Phi vốn có bốn mươi oan hồn lửa ma trơi ngày ngày cắn xé y, mỗi lần giết Bàng Phi thì một oan hồn biến mất, giết đủ bốn mươi lần, tất cả oan hồn đều tiêu tan.

Sau khi bị giết bốn mươi lần, "ý sinh thân" của Bàng Phi đã biến đổi, làn da chuyển thành màu vàng kim rất đẹp, diện mạo trở nên hiền hòa, tay phải còn cầm viên mani bảo châu, đầu đội mũ miện Ngũ Phật, thân khoác thiên y, chân đạp hoa sen trắng, trước ngực Bàng Phi đeo chuỗi hạt bồ đề. Bàng Phi tụng: "A ha sa sa ma ha". Bàng Phi từ từ bay lên. (Phật tính đã hiển lộ.) Trong khoảnh khắc, tôi đã đứng ngây người kinh ngạc.

Tôi nhớ đến Phật khẩu của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Ngài đã tự thân tuyên thuyết với tôi: "Chúng sinh là Phật, Phật là chúng sinh. Một khi nghiệp báo được giải thoát, thoát ra liền có pháp lực sâu, chuyển hóa từ đất lên trời, Phật tính tự nhiên bay lên, phải diệt trừ nghiệp chướng mới như ý." Lần này, tôi đã lĩnh ngộ sâu sắc. Thanh tịnh vốn dĩ chính là Phật. Nhân duyên quyết định che Pháp thân. Thấy được biển pháp tính ban sơ. Lần này siêu độ thù thắng nhất.

Khi Phật tính của Bàng Phi bay lên, y đã ba lần đảnh lễ cảm tạ tôi, cuối cùng y đã thoát khỏi "địa ngục tối tăm vĩnh viễn không được siêu sinh". Lạ thay! Pháp siêu độ này thật hiếm có!

10. Âm dương ẩn tình

Một đôi vợ chồng mang theo ảnh và tử vi của con gái đến gặp tôi để hỏi về hôn nhân của con. Khi tôi xem xét, thấy rất kỳ lạ. Con gái của họ tên là Thiệu Khanh, ba mươi tuổi, chưa kết hôn. Thiệu Khanh là cô gái có điều kiện rất tốt, học vấn cao, có thu nhập ổn định, ăn nói tao nhã, người cũng xinh đẹp. Không thiếu người cầu hôn Thiệu Khanh, nhưng cô luôn từ chối. Không phải cô vô tình như gỗ đá, cũng không phải muốn đi tu, chỉ là hễ nhắc đến chuyện hôn nhân là cô lắc đầu, tránh né không muốn bàn. Chuyện này khiến cha mẹ cô lo lắng không yên.

Khi tôi chiêm bói. Về cảm ứng tâm linh, tôi thấy có điều gì đó mơ hồ, nên hỏi cô gái có duyên phận hôn nhân không? Đáp "có". Hỏi khi nào, đáp "hiện tại". Hỏi đối tượng là ai? Đáp "không biết". Tôi ngạc nhiên sững sờ. Thế là tôi lại hỏi, đối tượng rốt cuộc là ai để tôi có thể trả lời cho người ta, câu trả lời là: "Vô hình." "Vô hình là gì?" Đáp: "Người đã khuất."

Điều tôi muốn nói với mọi người là, người hỏi tất nhiên là tôi, người trả lời chính là thần Phật mà tôi thờ phụng. Sau khi nhận được câu trả lời, tôi phải chuyển lại cho đôi vợ chồng đang hỏi chuyện.

Lần hỏi việc này, câu trả lời như đã nói trên, bản thân tôi cũng rất bối rối, không biết phải nói ra sao, nhưng không nói cũng không được, cuối cùng đành phải thành thật nói với đôi vợ chồng này. Tôi đáp: "Thiệu Khanh đã có duyên hôn nhân rồi, chính là hiện tại, đối tượng là vô hình, là người không ai biết, là người đã khuất."

Tôi đã chuẩn bị tinh thần để họ mắng tôi là "thần kinh". Tuy nhiên, vợ chồng họ Thiệu không mắng tôi, mà kéo tôi sang một bên, kể cho tôi nghe một chuyện kỳ lạ không thể tưởng tượng nổi.

🌟

Thiệu Khanh có một người anh họ, hơn cô bốn tuổi, từ nhỏ đã rất mến mộ Thiệu Khanh, thề sẽ cưới cô làm vợ. Sau đó, người anh họ này mắc bệnh và qua đời.

Khi Thiệu Khanh hai mươi lăm tuổi, một đêm trong giấc mơ, bỗng thấy một người đi vào từ cửa sổ. Nhìn kỹ lại, hóa ra là người anh họ đã mất, giờ đã là một người đàn ông phong độ. Trong mơ, anh họ nói với Thiệu Khanh: "Đừng sợ, anh là anh họ của em đây, anh yêu em, sẽ không mang đến tai họa gì cho em đâu, đêm nay anh sẽ kết hôn với em." Người anh họ này dáng vẻ tuấn tú. Trong mơ, Thiệu Khanh cũng không từ chối. Hai người quấn quýt bên nhau trong mơ, khiến Thiệu Khanh vô cùng sung sướng.

Sau khi tỉnh dậy, Thiệu Khanh cảm thấy không ổn, anh họ đã qua đời từ lâu, giấc mơ này thật hay giả, thật khó nói, lại cảm thấy vô cùng xấu hổ, cũng không dám kể cho cha mẹ nghe. Thế nhưng, đêm thứ hai anh họ lại đến, đêm thứ ba lại đến, đêm thứ tư lại đến... Đêm đêm cùng gối chung giường. Đây đã trở thành một "mối tình bí mật giữa âm dương".

Ban đầu, Thiệu Khanh cho rằng đây chỉ là một giấc mộng xuân, rồi sẽ không có chuyện gì, nhưng người anh họ đêm nào cũng đến, đêm nào cũng đòi hỏi, dần dần, Thiệu Khanh biết được anh họ là ma, là người âm, là linh hồn, nên tự nhiên cảm thấy sợ hãi. "Anh là ma sao?" - Thiệu Khanh hỏi. "Phải, anh là ma." "Ma không hại người sao?" "Anh không hại em đâu, ngược lại anh yêu em." "Gia đình muốn em kết hôn." - Thiệu Khanh nói với anh họ. "Chúng ta đã là vợ chồng rồi, em không được lấy ai khác." "Không được." - Thiệu Khanh nói. "Nếu em kết hôn, người đó chắc chắn sẽ chết." "Là do anh hại phải không?" "Đúng vậy."

Người anh họ ma này cũng rất quyết liệt, hễ Thiệu Khanh có bạn trai, chỉ cần thân mật một chút là đối phương hoặc bị ngã, hoặc gặp tai nạn xe, hoặc bị bệnh, gặp tai nạn các kiểu, khiến Thiệu Khanh không dám thở mạnh!

Thiệu Khanh ngay cả việc có bạn trai cũng không dám, huống chi là chuyện kết hôn. Chuyện này, ban đầu chỉ mình Thiệu Khanh biết, sau đó bị cha mẹ ép quá, cô đành phải kể lại toàn bộ sự việc cho cha mẹ nghe. Cha mẹ cô kinh ngạc vô cùng.

🌟

Gia đình Thiệu Khanh vốn là một gia đình theo đạo Cơ Đốc. Trong tình thế hoảng loạn, họ đành phải kể cho một mục sư nghe. Khi mục sư nghe chuyện này cũng rất kinh ngạc, liền triệu tập tất cả anh chị em trong nhà thờ, không nói cho họ biết nguyên nhân bệnh tình, chỉ bảo Thiệu Khanh bị bệnh, và mọi người cùng đến nhà cô cầu nguyện.

Ngày hôm đó, Thiệu Khanh mệt lả, mọi người vây quanh cô, do mục sư dẫn đầu cầu nguyện. Để thể hiện sự trang nghiêm, mục sư mặc áo thánh màu trắng, tất cả anh chị em trong nhà thờ cũng mặc áo thánh. Họ bắt đầu đọc "Kinh cầu nguyện", cầu xin Đức Chúa Cha trên trời, Đức Chúa Trời Jehovah, mong được Jehovah dẫn dắt... Rồi họ đọc tên Thiệu Khanh, cầu mong bệnh tình của cô mau chóng bình phục.

Chẳng bao lâu sau khi đọc kinh xong, Thiệu Khanh bỗng ngồi bật dậy, mắt trợn tròn, mọi người tưởng cô đã khỏi, đang định vỗ tay ngợi khen! Nào ngờ Thiệu Khanh lại quát to vào mặt mục sư: "Ta muốn ngươi chết!" Lúc đó, mục sư đứng sững người, không biết phải làm sao!

Mọi người đều liên tưởng đến cảnh trong phim "The Exorcist", chỉ khác là khuôn mặt Thiệu Khanh không biến dạng, thân thể cũng không bay lơ lửng trên giường, nhưng dù vậy, mục sư đã sợ gần chết, liên tục nói: "Xin Chúa dẫn dắt, xin Chúa dẫn dắt, xin..." Buổi cầu nguyện vội vàng kết thúc, mục sư chuồn mất, mọi người cũng chuồn theo.

Điều không ngờ hơn nữa là ngay trong ngày hôm đó, mục sư bỗng nhiên bị "đột quỵ", cả khuôn mặt méo xệch, mắt miệng lệch sang một bên, nửa người tê liệt, vợ mục sư thấy tình hình không ổn, không kịp cầu nguyện nữa, vội vàng đưa đi cấp cứu.

Tất cả những ai tham gia buổi cầu nguyện đều lo sợ rằng mình cũng sẽ gặp chuyện tương tự. Vợ mục sư đã đi thăm từng nhà một, dặn dò các anh chị em trong nhà thờ không được lan truyền chuyện này ra ngoài.

Thiệu Khanh từng nói chuyện với anh họ ma: "Anh không sợ mục sư sao!" "Không sợ." "Anh không sợ mục sư, vậy sợ gì?" "Thượng Đế, Phật Tổ." "Mục sư có thể cầu xin Thượng Đế trừng phạt anh mà?" "Ông mục sư đó cầu không được đâu, ông ta chỉ làm cho có việc thôi." "Vậy em sẽ tìm mục sư khác." "Đừng làm khó nhau, chúng ta đang sống rất tốt mà!" - Anh họ ma nói. "Chuyện này không bình thường." - Thiệu Khanh nói thật lòng. "Thời buổi này rất nhiều chuyện không bình thường, có người đồng tính, có người chuyển giới, có người lưỡng tính, thiếu gì." - Anh họ ma lý luận có lý. Thiệu Khanh nói: "Em vẫn thấy không ổn!" Anh họ ma nói: "Em mà mời họ đến nữa, anh sẽ xử lý từng người một."

🌟

Vợ chồng họ Thiệu bất đắc dĩ phải thỉnh một tượng Phật Tổ về nhà trấn trạch. Phật Tổ này đã được một vị đại sư khai quang, vị đại sư còn khẳng định rằng Phật Tổ sẽ linh vô cùng, bảo đảm vạn linh vạn nghiệm.

Ngay ngày đầu thỉnh về nhà, họ bỗng nghe tin vị đại sư nhập viện phẫu thuật, hóa ra là có vấn đề về tim. "Có phải anh làm không?" - Thiệu Khanh lại hỏi. "Không." "Không phải anh thì còn ai nữa?" "Đã bảo không phải là không phải, vị này là đại sư giả, còn không lo được cho bản thân, anh không cần phải trêu chọc ông ta, ông ta tự ngã thôi, hoàn toàn không cần phải đối đầu với ông ta." "Rốt cuộc có cách nào để mời anh đi không?" "Không có cách nào cả!" - Anh họ ma nói.

Anh họ ma còn phô trương thần thông của mình, ban ngày thì ở trong thân tượng Phật Tổ, nháy mắt đưa tình với Thiệu Khanh, tối đến thì ra ngoài ngủ với Thiệu Khanh, người khác đều không nhìn thấy, Thiệu Khanh đành bất lực với anh ta.

"Em lại phải nghĩ cách khác sao?" "Tùy em!" - Anh họ ma thờ ơ đáp. "Anh không phải sợ Phật Tổ sao?" "Phải, anh sợ Phật Tổ." "Nhà mình đã thỉnh Phật Tổ về rồi." "Đó đâu phải Phật Tổ, đó chỉ là khúc gỗ thôi!" - Anh họ ma cười ha hả không ngừng.

🌟

Cha mẹ Thiệu Khanh còn hỏi ý kiến rất nhiều bậc cao nhân, nhưng cuối cùng đều không đi đến đâu. Ban đầu các cao nhân đều nói: "Được." Kết quả là: Không được. Cuối cùng là: chuồn mất dạng.

Cha mẹ Thiệu Khanh hỏi tôi: "Thầy có thể không?" Tôi không trả lời trực tiếp, chỉ nói: "Anh họ ma đã đến." Cha mẹ cô hốt hoảng: "Ở đâu vậy?" "Ở ngoài cửa." "Sao lại ở ngoài cửa?" "Tệ xá có kết giới, cả nhà tôi là một mandala Mật giáo." - Tôi nói với cha mẹ cô: "Hai bác cứ ngồi đây, để tôi thiền định một chút rồi ra gặp anh ta."

Tôi ngồi xuống, nhắm mắt, thần thức bay ra ngoài. Tôi tìm thấy anh họ ma. Anh họ ma vừa thấy tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) xuất hiện bằng thần thức, cũng thực sự giật mình, biết rằng người đến không có ý tốt. Anh họ ma thổi một luồng khí vào đầu tôi, luồng khí này vô cùng lạnh lẽo, nếu bị thổi trúng, cả đầu sẽ đông cứng thành băng, tôi hiểu ra tại sao mục sư vừa về đến nhà đã bị đột quỵ.

Tôi kết ấn Hỏa Thiên, tay phải xòe năm ngón, ngón cái co vào lòng bàn tay, ấn vào đốt giữa của ngón lửa. Toàn thân tôi bốc lửa, khí lạnh lẽo không thể xâm nhập. Anh họ ma không biết lấy từ đâu ra một lưỡi dao cong, vung tay chém một nhát về phía chân tôi. Bây giờ tôi cũng hiểu ra tại sao những người hay can thiệp vào chuyện này lại lần lượt ngã bệnh.

Hai tay tôi kết ấn kim luân: trước tiên hai tay đan nội phộc, hai ngón giữa duỗi thẳng và dựng đứng, đầu ngón chạm vào nhau. Hai ngón cái và hai ngón trỏ cong thành hai vòng tròn.

Tôi hóa thành pháp luân vàng xoay tròn trong không trung, pháp luân này là kim cang bất hoại, không gì có thể phá vỡ, chỉ cần pháp luân xoay một vòng, bất cứ thứ gì chạm vào đều bị nghiền nát thành bụi. Lưỡi dao cong vừa chạm vào. Tiếng kim loại va chạm. Một tiếng "keng" vang dội. Lưỡi dao cong gãy nát.

Anh họ ma kinh hãi: "Ông là ai?" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." "Thì ra ông chính là Lư Thắng Ngạn." - Anh họ ma vốn đã biết tôi, dù không biết cũng chắc chắn đã từng nghe danh. "Thế nào?" - Tôi hỏi. "Xin thụ giáo!" - Anh họ ma nói: "Xin Hoạt Phật đừng can thiệp chuyện này, đây là duyên kiếp từ trước, do Thiệu Khanh nhớ thương tôi, không phải lỗi của tôi." Tôi nói: "Hôm nay dù thế nào đi nữa, đã rơi vào tay tôi thì tôi nhất định phải can thiệp. Huống chi anh vô cớ làm hại không ít người, lại chiếm đoạt người phụ nữ lương thiện. May mà anh chỉ chiếm đoạt Thiệu Khanh, nếu gặp phụ nữ đẹp nào cũng chiếm đoạt như vậy thì hậu quả còn nghiêm trọng hơn." Anh họ ma rất tức giận, nhưng có lẽ hắn cũng hiểu rằng tôi không phải dễ trêu chọc, nên không dám manh động gì.

Tôi khuyên anh ta: "Tôi là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, đã thấu tỏ trí huệ Như Lai, lại có bí quyết lớn để siêu độ linh hồn trung ấm, tôi có thể dẫn dắt anh đến thế giới mà anh hằng mong ước. Anh không nên tự tạo nghiệp chướng nơi cõi người, cảnh giới hiện tại của anh thật tầm thường và u tối, như đang tự tạo tội trong mộng, buông thả tâm mình, phóng túng dục vọng, nghiệp báo tương lai sẽ khổ không thể tả. Những điều này anh phải hiểu rõ, dục vọng là hư ảo không thật, hôm nay gặp được tôi, để tôi dẫn dắt anh, chẳng phải tốt hơn sao?" Anh họ ma nghe xong lời tôi, cúi đầu trầm ngâm nói: "Nhưng, tôi không thể xa Thiệu Khanh!" Tôi nói: "Dục vọng như con thú đuổi theo mặt trời, uổng công chạy nhọc trên đồng hoang."

Tôi lại hiển hiện "biển dục" cho anh họ ma xem, biển dục không có điểm dừng, nhiều người chìm đắm trong đó, mệt mỏi kiệt sức, sóng to gió lớn, khiến người ta khiếp sợ... "Tôi... " - Anh họ ma vẫn còn lưu luyến không rời. Tôi quát lớn một tiếng... "Nếu còn tiếp tục, sấm sét thiêu thân, một tiếng sét đánh, hồn phách đều tiêu!" Anh họ ma cúi đầu hổ thẹn.

Tôi đọc một bài kệ: "Tiếp dẫn anh về cõi diệu dục, Người như thiên thần cõi Dục giới Thời đại thanh bình như Hiền kiếp, Con đường dễ bước, hãy đi theo." Anh họ ma cuối cùng cũng gật đầu.

Tôi đưa thần thức quay về thân thể đang thiền định của mình. Phép mầu này chính là "xuất thần", là bước đầu tiên của pháp đoạt xá của Mật giáo. Tôi dùng Mật pháp giảng về Không, thân tôi thực ra là cái vỏ rỗng, lời tôi nói là pháp tự tại, tâm tôi chính là trí huệ Phật, đệ tử chỉ cần học pháp của tôi, chắc chắn sẽ chứng Bồ đề. Tôi xuất thiền.

Cha mẹ Thiệu Khanh hỏi: "Thầy gặp được anh ta không?" "Gặp rồi." - Tôi trả lời với giọng bình thản. "Anh ta có gây khó dễ gì với thầy không?" "Không." - Tôi đáp - "Tôi sẽ không sao đâu, con gái Thiệu Khanh của hai bác cũng sẽ không sao nữa, theo tôi thấy, mọi việc đã viên mãn rồi." "Còn phải làm gì nữa không?" "Không cần làm gì cả, hai bác cứ quan sát Thiệu Khanh mấy đêm nay xem có khá hơn không, hiện giờ tôi chỉ cần làm một buổi lễ siêu độ." Cha mẹ Thiệu Khanh cảm thấy phần nào an tâm.

🌟

Cha mẹ và bản thân Thiệu Khanh đến tham dự buổi lễ siêu độ của tôi. Họ kể rằng kể từ hôm đó về nhà, đêm đó Thiệu Khanh ngủ yên ổn suốt đêm, anh họ ma không xuất hiện, đây là chuyện chưa từng có. Những đêm tiếp theo, anh họ ma dường như đã biến mất, ra đi không một lời từ biệt, hoàn toàn không còn những giấc mơ ma quỷ nào nữa. Thiệu Khanh hỏi tôi: "Thầy thực sự gặp được anh ấy sao?" "Thật vậy." "Có bằng chứng gì không?" "Ở đuôi lông mày phải của anh ta có một nốt ruồi to!" "Ôi!" - Thiệu Khanh kinh ngạc đến sững sờ.

Tôi lên pháp tọa. "Nhất tâm triệu thỉnh, hỡi các bậc hiền tài xưa kia, những học trò nghèo nơi lều tranh, những danh sĩ từng đỗ Tam khoa, những người từng dạo bước nơi trường thi. Đom đóm trắng bay tán loạn, ba năm học hành công dã tràng nghiền mòn nghiên mực sắt, mười năm dài dằng dặc vất vả công trình. Than ôi, bảy thước lụa đỏ ghi tên họ, nay một nấm đất vàng phủ kín văn chương. Những văn nhân, cử tử như thế, xxx, mau đến bàn thờ." (Anh họ ma vốn là một người đi học.) "Học cổ học kim, văn chương gấm vóc, kẻ sĩ dưới ánh tuyết trộm chút ánh sáng học hành vất vả, chí hướng trong căn phòng lạnh lẽo, số phận trắc trở, bảng vàng không ghi tên. Hồn phách u uất, hãy đến thụ hưởng vị cam lộ."

Tôi tu Mật pháp. "Hô! Nương vào năng lực mandala của bậc Kim Cang Trì Thượng Sư thành tựu, Nguyện con cùng vô lượng chúng sinh trung ấm hữu tình, Tự nhiên vãng sinh, Và được giải thoát vào trong pháp thân quang minh Không tính." "Om ah hum! Hum hum hum! Tam thân như biển, chư Phật hiển hiện trong quang minh, Khiến trung ấm tịnh trừ tất cả chướng ngại, Trung ấm hiện ra trí tuệ thần thông, Wa-cha-la sa-ma-ya cha-cha sa-ơ-wa ka-na cha-ka-la pu-ta hô."

Tôi thấy trung ấm đi vào trong ánh sáng. .................

🌟

Sau khi tôi chữa khỏi bệnh cho Thiệu Khanh, cả nhà đã quy y Chân Phật Tông. Không chỉ gia đình Thiệu Khanh, mà cả họ hàng và bạn bè của họ, sau khi chứng kiến câu chuyện của Thiệu Khanh, cũng đều đến quy y. Lần quy y này có đến hơn trăm người, thật là chấn động. Tuy nhiên, chính vì thế mà khiến nhà thờ không hài lòng, mục sư và vợ căm ghét tôi đến mức nghiến răng nghiến lợi. Sau khi mục sư bị đột quỵ, trải qua phục hồi chức năng đã khỏi được bảy phần, chỉ là miệng hơi méo, không kiểm soát được dây thần kinh mặt. Mục sư và giáo dân đã từng cầu nguyện cho tôi, còn gửi đến nhiều "tờ rơi tuyên truyền".

Tôi đọc những tờ rơi tuyên truyền này thì cười ha hả. Thẳng thắn mà nói, khi học trung học, tôi đã tốt nghiệp lớp sư phạm trường Chủ nhật, từng làm giáo viên tại nhà thờ và cũng là giáo viên lớp học Kinh thánh. Tôi đã từng biên tập tờ rơi tuyên truyền, và lúc đó, tôi cũng là phóng viên thường trực của Báo Phúc Âm.

Nói về nhà thờ, có một chuyện đặc biệt cần nhắc đến, lúc đó có một vị trưởng lão, thấy tôi dạy học nghiêm túc ở nhà thờ, vừa học vừa hành đều tốt, vừa là giáo viên trường Chủ nhật, vừa tham gia đội thánh ca, vừa làm phóng viên báo chí, lại còn biên tập tờ rơi tuyên truyền, đến Giáng sinh thì tôi lại phụ trách chương trình "Đêm Giáng Sinh", vị trưởng lão này đặc biệt có thiện cảm với tôi, chủ động giới thiệu con gái ông ấy là Chiêm Thục Phân cho tôi, mời tôi đi ăn cơm. May mắn là lúc đó không phải do tôi định lực tốt, mà vì trong lòng tôi đã có người khác từ trước, đó chính là cô bé hàng xóm xinh xắn dễ thương - Cao Thuần Tâm. Thôi, trở lại việc chính. Thiệu Khanh thực sự đã khỏi bệnh. Nhà thờ tuyên truyền rằng tôi là ác quỷ. Nhưng ác quỷ như tôi thực sự có một số năng lực, thứ năng lực mà tín đồ Cơ Đốc giáo không bao giờ hiểu được. Sau khi tu luyện và chứng đắc Mật giáo, tôi có thể ra vào mười pháp giới, tôi đã gặp Chúa Jesus, tôi đã gặp Đức Chúa Trời Jehovah.

Trong cõi chư thiên. Chúa Jesus đang độ sinh, đang thương yêu nhân thế. Đức Chúa Trời Jehovah đang độ sinh, đang thương yêu thế nhân. Họ là Thiên Chúa. Jehovah, Jesus, Thánh Linh đều có cảnh giới Thiên Chúa.

11. Bồ Tát ma

Một đệ tử tên là Kim Ký đến quy y với tôi, là người Vân Nam, Trung Quốc. Vị đệ tử này rất thành tâm, đem hết của cải trong nhà ra bố thí, một lòng học pháp. Nhìn thấy tướng mạo trang nghiêm của vị đệ tử này, trong lòng tôi rất vui mừng. Thế là trước tiên tôi ban cho anh ấy quán đảnh kết duyên, vừa quán đảnh đã thấy điềm tương ứng. Tôi lại ban cho anh ấy quán đảnh Bổn tôn, anh ấy tu pháp cũng có cảm ứng. Tôi rất hoan hỷ, ta chuẩn bị truyền thụ cho anh ấy "Hỷ Kim Cang Bổn Tục" (Phật Thuyết Đại Bi Không Trí Kim Cang Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh) mà năm xưa Sakya Chứng Không Thượng Sư đã truyền cho tôi, và ban cho anh ấy bốn loại quán đảnh.

Đúng vào lúc này. Tôi nằm mộng: Trong mơ, tôi và các đệ tử đều hóa thành chim, bay tự do tự tại trên bầu trời, khi thì tôi bay trước, khi thì tôi bay sau, các đệ tử đều bay theo tôi. Chúng tôi đều có cánh hai bên sườn, xòe cánh bay lượn, rất là đắc ý. Khi quay lại nhìn xuống, thấy có một người đang cầm cung tên, đối diện với chúng tôi, đang chuẩn bị bắn tên. Tôi nhìn kĩ người này, chính là Kim Ký. Tôi hét: "Đừng bắn, đừng bắn!" Nhưng Kim Ký không nghe, đã bắn mũi tên ra rồi. Tôi hét lên một tiếng rồi tỉnh giấc. Tôi nhìn đồng hồ, đúng năm giờ sáng.

Ở đây, tôi cần phải giải thích rằng, thông thường, giấc mơ là do tập khí tạo thành, giấc mơ không nhất thiết là thật. Tuy nhiên, đối với một hành giả Mật tông, khi tu hành đến mức có chứng đắc, giấc mơ của họ là thật. Giấc mơ của Tổ sư phái Bạch giáo Milarepa đều linh nghiệm. Giấc mơ của tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cũng đều linh nghiệm. Vì vậy, tôi cân nhắc xem có nên tạm dừng bốn loại quán đảnh này để quan sát thêm không. Bốn loại quán đảnh đó là: 1. Bình quán 2. Mật quán 3. Tuệ quán 4. Danh quán (đại lạc trí tuệ quang minh quán đảnh)

🌟

Nói đến quan sát, đây là: Mắt thấy mới là thật, Cảnh mộng chưa hẳn đúng; Nếu tin vào cảnh mộng, Uổng phí kiếp nhân sinh.

Con người tôi là thế này: "Mua trâu học cày ruộng, dựng chòi hướng suối rừng; Biết đời không còn mấy, tạm lui về non xanh vài năm. Danh lợi rồi cũng là khách phù du, có thể làm thơ có thể nhập định giống thần tiên; Muôn vật trên đời đều giả tạm, chẳng cần bận tâm chuyện kim tiền."

Còn về con người Kim Ký thì: Thấy sắc mà vui cũng thường tình Cũng có duyên phận ở trong đó Chỉ vì không giả không thành thật Trong có cơ mưu không thể hỏi.

Quan sát kĩ Kim Ký, tôi phát hiện ra rằng việc anh ta dốc hết của cải để học pháp là vì sau này về sẽ kiếm được nhiều tài sản hơn. Kim Ký đối với chúng tôi thì hết sức cung kính, nghe lời răm rắp, hoàn toàn thuận theo vị Căn bản Thượng sư của mình, nhưng đối với người khác thì lại tỏ ra hung hăng, kiêu ngạo vô cùng. Tôi nhận ra Kim Ký: "Thiếu trung hậu, chỉ khôn ngoan xảo quyệt mà thôi!" "Chuyên tâm học pháp là có mục đích, tướng mạo tuy trang nghiêm, dù có duyên với Phật, e rằng tương lai sẽ đi vào cõi mờ mịt, chẳng phân biệt được đúng sai thiện ác."

Vậy nên duyên phận giữa người với người rất khó đoán. Có người trước thiện sau ác. Có người trước ác sau thiện. Có người thiện ác lẫn lộn. Có người trung tính. Không thể kể hết. Đối với Kim Ký, cuối cùng tôi đã hiểu rõ.

🌟

Tôi không ban bốn quán đảnh cho Kim Ký, cũng không truyền Hỷ Kim Cang Bổn tục. Chỉ truyền cho anh ấy: Pháp tùy hứa đặc biệt của Sắc Giới Tự Tại Thiên Nữ, pháp tùy hứa của các Hắc Diệu Âm, pháp quán đảnh ba mươi bảy vị của Bạch Tản Cái Phật Mẫu và các pháp khác. Kim Ký rất nỗ lực tinh tấn, quả nhiên cũng có tương ứng.

Sau đó anh ta cứ ở bên tôi, chờ đợi tôi truyền thụ Hỷ Kim Cang Bổn Tục, Mật Tập Kim Cang Bổn Tục (vua của Mật giáo phụ tục), Thắng Lạc Kim Cang Bổn Tục (vua của mẫu tục), Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, Thời Luân Kim Cang, Đại Uy Đức Kim Cang... Cũng chờ đợi tôi ban cho bốn loại quán đảnh. Nhưng tôi không làm vậy.

Sau đó anh ta cũng y theo cuốn sách Đạo Quả, nguyên tác của Virupa, Sakya Pandita giảng giải và Pháp Hộ dịch sang tiếng Hán. Anh ta tự tu luyện mà không theo khẩu truyền của Căn bản Thượng sư, cứ thế đui tu mù luyện. Anh ta tu đến mức: Giáng bất thiện xảo - minh điểm mất đi nhanh chóng. Đề bất thiện xảo - minh điểm trôi xuống dần dần. Trì bất thiện xảo - đại lạc biến mất trong chốc lát. Tán bất thiện xảo - ma bệnh từ đó sinh ra.

Ma và hiện tượng mê loạn đã xuất hiện. Kim Ký chưa được tôi quán đảnh, cũng không có cảnh giới quán đảnh mà đã tu, anh ta quá nóng vội và hoàn toàn không có nơi nương tựa, duyên phận của anh ta chỉ đến mức tùy hứa Bổn tôn, không thể kham nhận đại pháp, công đức của anh ta cũng chưa đến mức độ của đại pháp, đồng thời tịnh tín không đủ, nếu tôi mà truyền thụ hoặc quán đảnh một cách mù quáng, theo phán đoán về quán đảnh mà nói, cũng là vi phạm giới luật.

Kim Ký nói: "Đã đắc đạo rồi." (không ăn không ngủ) Tôi thấy: "Là bị ma nhập rồi."

Kim Ký thấy thần thấy quỷ, tự ý thay đổi thần chú lung tung, tụng niệm bừa bãi, tiên đoán bậy bạ, chẳng có gì đúng cả, lại còn chấp trước thần thông, tà thuyết giáo lý, hành sự lộn xộn, đúng là thành bệnh tâm thần, không ai hiểu nổi. Bản thân anh ta cũng biết mình đã rơi vào cảnh ma, nhưng không thể thoát ra được.

Than ôi, biết bao sinh mệnh linh thiêng, bị vạn ma quân chém đứt. Anh ta không theo giáo giới khẩu truyền của sư phụ. Không có nơi nương tựa. Làm sao dám thách thức ma thiên!

🌟

Trước tiên tôi vẽ phù, lệnh cho anh ta ăn uống ngủ nghỉ bình thường. Vô hiệu. Tôi dùng pháp đóng cọc kim cang để kết giới, kết ấn kim cang chỉ, hét lớn âm "Hum", từ tự tâm phóng hào quang chữ "Hum", bắn vào anh ta, để đuổi hết ma chướng trong mười phương. Anh ta vẫn bất động.

Tôi dùng hỏa cúng hàng phục, hàng phục nghĩa là tiêu diệt và xua đuổi, tôi biết khẩu quyết của hỏa cúng là: "Chú chân thật, lửa chân thật, ta chân thật, nghi quỹ chân thật, pháp này ắt thành tựu." Hỏa cúng hàng phục này có thể diệt trừ tử ma, diệt trừ bệnh ma, diệt trừ ngoại ma, diệt trừ chướng ngại ma, diệt trừ thiên ma, v.v... Sau khi làm hỏa cúng, anh ta vẫn không thay đổi. Tôi vô cùng kinh hãi, chuyện này chưa từng xảy ra bao giờ.

Bất đắc dĩ, tôi đành cầu nguyện Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. "Ôm ah hùm pê-cha gu-ru pê-ma sit-đi hùm sê. Ánh sáng trí huệ vĩ đại bất diệt, xin hiển hiện, nguyện pháp giới hiển hiện cầu vồng quang minh của bậc đại thánh, trong cung điện thiêng liêng vĩ đại của tịnh thổ Núi Đồng, hóa thân của tam thân, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ."

"Nhất tâm cầu thỉnh, quy y đảnh lễ, nương vào sự chứng ngộ của Ngài, ban cho con thành tựu, qua thần lực gia trì của Ngài, xin xua tan chướng ngại của con và chúng sinh khác, tịnh hóa chướng ngại bên ngoài, tịnh hóa chướng ngại bên trong, tịnh hóa chướng ngại bí mật. Cầu xin Ngài hiển hiện quang minh, thị hiện lòng từ bi."

Rồi trong lúc "chưa sinh" và "bản tịnh". Trong khoảnh khắc hiển hiện thân trang nghiêm đại lạc của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hỏi tôi: "Gọi ta có việc gì?" "Kim Ký." - Tôi đáp. "Đây là nghiệp lực của sự kiêu ngạo." "Vâng." - Tôi nói: "Con đã dùng hỏa cúng hàng phục và các pháp khác nhưng không thành. Con thật ngu xuẩn và mê muội." "Không phải ngu xuẩn, cũng không phải mê muội đâu, nếu con quan sát tương lai, đây ngược lại là các Hộ pháp Không hành đang chăm sóc con như từ mẫu vậy." "Con không hiểu." "Đến lúc thì sẽ hiểu." - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói. "Nếu con không đuổi ma trong người anh ta đi, làm sao gọi là hộ trì chúng sinh?" "Ma trong người Kim Ký, không cần đuổi, nó sẽ tự đi." "Giờ con phải làm sao?" "Cứ để mặc anh ta!" - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói.

🌟

Đối với ma trong người Kim Ký, tôi hoàn toàn bất lực, hỏi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Ngài chỉ bảo cứ để tự nhiên, tôi không cam tâm, dùng pháp nhiếp triệu siêu độ, dùng móc dùng cọc, vẫn không hiệu quả. Kim Ký vẫn trong trạng thái điên loạn!

Cuối cùng, tôi thực sự không còn cách nào khác, bèn hóa thành Hàng Tam Thế Minh Vương. Trong khoảnh khắc, tôi biến thành Trailokya Vajra. Ba mặt, mặt chính màu xanh, bên phải vàng, bên trái xanh lục, miệng há nanh nhọn, lưỡi cuộn. Mỗi mặt đều hiện lông mày dựng đứng, ba mắt tròn đỏ phẫn nộ. Trên trán đeo năm đầu lâu, cổ đeo tràng hoa đầu người máu tươi nhỏ giọt, các đầu người nối liền nhau, thắt lưng quấn váy da hổ.

Tóc đỏ rực cháy hướng lên, tám vị Long Vương vĩ đại trang nghiêm an tọa. Trong sáu cánh tay, hai tay đầu cầm chày và chuông, kết Kim Cang quyền, hai lưng dính vào nhau, hai ngón út móc vào nhau, hai ngón trỏ duỗi thẳng, tạo thành ấn Hàng Tam Thế Minh Vương, hai tay phải phía dưới cầm móc câu và dây thừng, hai tay trái phía dưới cầm đầu lâu và trượng. Hai chân phải duỗi trái co, đứng trên nhật luân.

Hàng Tam Thế Minh Vương phun ra ánh lửa, ánh sáng tụ lại bừng cháy như lửa kiếp tận, thiêu đốt về phía thân thể của Kim Ký.

Lúc này, ma trên người Kim Ký chạy ra, hét to: "Đừng đốt, đừng đốt, là ta đây, là ta đây." Tôi nhìn kĩ. Con ma xuất hiện này, không phải ai khác, chính là bản sao y hệt của hóa thân Hàng Tam Thế Minh Vương của tôi. Tôi đứng chết lặng, sững sờ. Tôi hóa thân thành Hàng Tam Thế Minh Vương để trừ ma, ma thì đã ra thật, nhưng lại cũng là Hàng Tam Thế Minh Vương. Thật là quá trùng hợp, quá kịch tính, quá không thể tin được.

Giờ đây, hai vị Hàng Tam Thế Minh Vương đối diện nhau. Hàng Tam Thế Minh Vương dẫn tôi đến nơi khác để nói chuyện. "Ngươi là yêu ma?" - Tôi rất kinh ngạc. "Không, là Kim Cang Bồ Tát." "Sao Kim Cang Bồ Tát lại nhập vào người Kim Ký?" - Tôi vô cùng bối rối. "Phụng chỉ hành sự." - Hàng Tam Thế Minh Vương nói. "Ngài làm tôi rối quá." "Xin lỗi! Trước đó không báo cho Hoạt Phật biết." "Bảo sao tôi dùng pháp gì cũng không linh, bảo vật hàng ma trong tay đều vô hiệu, tôi cứ tưởng đây là ma lợi hại, không ngờ lại là Minh Vương xuất hiện." "Không phải ma quỷ, là Minh Vương, nên dùng pháp tất nhiên vô hiệu." "Tôi muốn biết câu trả lời, vì sao ý trời lại như vậy?" - Tôi hỏi.

Vì Hàng Tam Thế Minh Vương đã hiện nguyên hình, biết chuyện này cũng không cần giấu giếm nữa, nên Minh Vương kể rõ đầu đuôi cho tôi: Trong vòng nhân quả tuần hoàn, Kim Ký là một thân phận rất đặc biệt, kiếp trước anh ta là một người tu hành, rất tinh tấn, nhưng đáng tiếc tâm thuật không ngay thẳng. Kiếp này theo đuổi Phật pháp, vẫn còn cuồng nhiệt, có thể thâm nhập, có cảnh giới ngộ. Tâm thuật không ngay thẳng vẫn y như cũ.

Người này lưu lại ở Chân Phật Tông, anh ta sẽ có được nhiều Mật pháp, sẽ trở thành A Xà Lê cao hơn rất nhiều Thượng sư. Nhưng càng có pháp lực cao, ma lực càng tinh xảo, về sau lòng tham quyền lực của anh ta tăng lên rất nhiều, chắc chắn sẽ dốc sức phá hoại toàn bộ Chân Phật Tông, cuối cùng tự lập tông phái riêng, tương lai thật đáng sợ. Chân Phật Tông không còn là tông phái tu hành nữa. Chân Phật Tông biến thành tông phái đấu tranh quyền lực. Chia năm xẻ bảy. Sụp đổ. (Nghe đến đây, tôi thầm kinh thán.)

Hàng Tam Thế Minh Vương nói tiếp: Vì Chân Phật Tông có các Mật pháp thực tu, từ Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn pháp, Ngũ Đại Kim Cang Minh Vương, Vô thượng mật, Đại viên mãn. Chính pháp tự nhiên có Hộ pháp thần bảo hộ, khi tất cả Hộ pháp Minh Vương hiểu rõ mọi nhân quả trước sau, đều rất lo lắng. Vì vậy trước tiên đã báo mộng cho Liên Sinh Hoạt Phật. Tất cả Hộ pháp Minh Vương cùng nhau nghĩ cách, cách đó chính là để Hàng Tam Thế Minh Vương nhập vào tâm của Kim Ký, giả dạng yêu ma, quấy nhiễu tâm của Kim Ký, khiến anh ta mê muội. Liên Sinh Hoạt Phật thi triển bất kì pháp nào cũng đều vô hiệu.

Vì vậy Kim Ký sẽ nghĩ rằng pháp lực của Liên Sinh Hoạt Phật không có gì đặc biệt, rất tầm thường, chi bằng rời khỏi Chân Phật Tông! Chỉ cần Kim Ký rời khỏi Chân Phật Tông, tương lai của Chân Phật Tông mới được bảo toàn. Đây chính là kế hoạch của tất cả Kim Cang Minh Vương Hộ pháp. Nghĩa là: Sau khi Kim Ký rời khỏi Chân Phật Tông, bệnh ma sẽ tự nhiên dần dần biến mất. Nếu Kim Ký không rời đi, Hàng Tam Thế Minh Vương sẽ mãi mãi quấn lấy anh ta, khiến anh ta không sống không chết.

🌟

Tôi đã hiểu rõ toàn bộ nguyên nhân kết quả. Bồ Tát là Bồ Tát, cũng là ma. Minh Vương là Minh Vương, cũng là ma. Tôi gọi Kim Ký đến: "Không còn cách nào nữa!" - Tôi nói. Kim Ký trả lời: "Pháp lực của tôi lớn, ma lực cũng lớn, sư phụ giờ đã vô dụng, không đáng để tôi quan tâm!" "Vậy anh hãy đi tìm bậc cao minh khác đi!" - Tôi nói. "Đúng vậy, tôi đã nhận được điềm báo, nếu tôi rời khỏi Chân Phật Tông, bệnh ma sẽ tự khỏi, điều này rất hợp ý tôi." "Phải, phải." - Tôi gật đầu. Kim Ký đã đi rồi. Từ đó về sau không còn tin tức gì về anh ta nữa.

12. Sơn trang thủy tử linh

Một đêm, khoảng 2 giờ. Bỗng nghe có người gõ nhẹ vào cửa sổ dài sát đất, tôi bò dậy, kéo rèm ra và hít một hơi lạnh. Bên ngoài cửa sổ, vô số linh hồn hài nhi chen chúc nhau, tôi thấy có đến hàng vạn, đủ các chủng tộc. Tôi mở cửa sổ, vội hỏi: "Có chuyện gì?" Đáp: "Cô quạnh đáng thương!" "Hãy mau đi đầu thai." - Tôi nói. "Đợi lâu quá rồi, trong lòng thật hoang mang."

Một linh hồn hài nhi nói: "Chúng con đông quá mà nhà cửa thì ít quá, khó tìm lắm! Khó tìm lắm!" (Nhà cửa tức là thân xác con người.) Tôi hỏi linh hồn hài nhi đang đối đáp: "Mẹ con là ai?" "Là cô Vân." "Là cô Vân sao, cô Vân là đệ tử của ta, ta đâu biết cô ấy phá thai, bỏ con!" - Tôi giật mình kinh ngạc. "Sư Tôn Lư còn nhiều điều chưa biết lắm!" - Linh hồn hài nhi nói - "Tất cả chúng con đây đều là con của cô Vân." "Bao nhiêu đứa? Có nhầm không?" "Không nhầm." Tôi đếm thử, linh hồn hài nhi của cô Vân có đến năm đứa, tôi thực sự rùng mình sởn gai ốc, cô Vân còn trẻ, chưa kết hôn mà đã bỏ đi năm đứa con. Tôi sững sờ.

Linh hồn hài nhi nói: "Chúng con biết Liên Sinh Hoạt Phật Lư Sư Tôn là bậc cao sĩ giác ngộ, độ dương độ âm, có pháp thí, tài thí, vô úy thí. Vì vậy, chúng con đã hẹn nhau, không sợ lộ mặt, đặc biệt đến cầu xin Lư Sư Tôn ban cho chúng con một nơi an trú cho linh hồn." Tôi nói: "Chùa Lôi Tạng ở Seattle có điện công đức!" "Quá nhỏ, không thích hợp cho linh hồn hài nhi." "Các con muốn nơi nào?" "Cầu Vồng sơn trang." - Linh hồn hài nhi nói: "Cầu Vồng sơn trang rộng bốn mươi mẫu, cây cối hoa lá sum suê, có chư vị Bồ Tát, đêm trăng thanh vắng, rất thích hợp để nghe kinh." "Làm sao an trí?" "Lập vô số tượng thủy tử linh." "Lập như thế nào?" "Bất cứ nơi đâu cũng được."

Linh hồn hài nhi nói: "Nếu hàng vạn linh hồn hài nhi được vào Cầu Vồng sơn trang, linh hồn sẽ không còn phiêu bạt, tâm thần sẽ không còn mê muội. Như vậy, sẽ không quấy nhiễu cha mẹ ở dương gian, không giáng họa giáng ương, điều này sẽ cứu được cha mẹ ở dương gian, cũng cứu được hàng vạn linh hồn hài nhi. Linh hồn hài nhi cũng có linh lực, có thể khiến Cầu Vồng sơn trang rực rỡ như một vương quốc." Tôi cười ha hả: "Vậy Cầu Vồng sơn trang chẳng phải thành vương quốc của linh hồn hài nhi sao?" "Đúng vậy." - Linh hồn hài nhi đồng thanh reo hò. "Từ từ đã, từ từ đã, ta còn chưa đồng ý!" - Tôi nói. Linh hồn hài nhi khóc: "Trong cô tịch, chúng con đã bàn bạc với nhau, cảm thấy con đường này nhất định thông suốt. Bởi vì Liên Sinh Hoạt Phật là người có lòng từ bi nhất, Liên Sinh Hoạt Phật cũng là thần nhân, không sợ thân xác đẫm máu của chúng con, cũng không sợ sự u mê của chúng con, tuyệt đối sẽ không xua đuổi chúng con - những linh hồn hài nhi, không từ chối khiến chúng con đứng ngoài cửa!"

Tôi trầm ngâm. Tôi nói: "Cầu Vồng sơn trang là địa thế 'thất tinh lạc địa', có Ngũ phương Phật, bát đại Bồ Tát, Kim Cang Hộ pháp, tứ đại Thiên vương, chư thiên hộ pháp. Có long thần, thổ địa, sư thần, làm sao có thể nói cho là cho được?" Linh hồn hài nhi nói: "Chuyện này không sao cả. Chúng con vào đó chính là để quy y Như Lai, thọ Bồ Tát giới, sám hối nghiệp chướng, nghe kinh tu hành, gột rửa tội nghiệp của mình. Tuyệt đối không dám làm bậy, nếu có làm bậy, Kim Cang Hộ pháp cũng không tha cho chúng con đâu, chúng con thật sự chỉ cầu xin một nơi an thân lập mệnh!" Linh hồn hài nhi khẩn thiết cầu xin.

"Thưa Sư Tôn Lư, nếu Ngài không mở cửa Cầu Vồng sơn trang, chúng con - những đứa con của cô Vân, do có duyên gần gũi với cô Vân đã lâu, khiến cô ấy thân thể suy yếu, tinh khí bị đoạt, đi đứng như ma mị, mọi việc không suôn sẻ, không ai có thể trừ khử được, đây là do nhân quả vậy. Lẽ nào Sư Tôn Lư thấy đệ tử như vậy mà không cứu giúp?" "Các con ghê thật, lời này nghe như đe dọa!" "Không phải đe dọa đâu, chúng con là linh hồn hài nhi, mỗi đứa đều có lãnh địa riêng, sự thật là như vậy." "Ta cũng biết đó là sự thật, trong kinh điển Phật môn có một bộ 'Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Kinh', kinh này nói rất rõ ràng." "Sư Tôn Lư có cứu cô Vân không?" "Cứu." "Vậy chúng con đã có chỗ nương thân rồi!" - Các linh hồn hài nhi reo hò. Tất cả bọn họ muốn đảnh lễ tôi.

Tôi nói: "Hãy khoan, ta còn phải thỉnh giáo ba Bổn tôn." Linh hồn hài nhi nói: "Lư Sư Tôn là chủ nhân của sơn trang, chủ nhân đã đồng ý thì ba Bổn tôn chắc chắn sẽ đồng ý." "Sao lại nói vậy?" "Chẳng phải đã nghe nói rằng Mật giáo Căn bản Thượng sư là tổng nhiếp của Tam Bảo Phật, pháp, tăng sao? Chư tôn đàn thành đều nương theo Căn bản Thượng sư mà sinh khởi." "Tuy nói vậy, cũng phải tôn trọng, tôn trọng."

Đúng lúc đó, tại một nơi không xa trong hư không, Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, và u minh giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện thân, gật đầu mỉm cười. Các linh hồn hài nhi đảnh lễ tôi. Đảnh lễ ba Bổn tôn. Hàng vạn vạn linh hồn hài nhi bay về phía Cầu Vồng sơn trang.

🌟

Tôi nói với Thượng sư Liên Ấn: "Hãy nhanh chóng đúc tượng thủy tử linh (linh hồn hài nhi)." Tượng thủy tử linh có hai dạng: tư thế đứng và tư thế ngồi. Rất trang nghiêm, rất đáng yêu. Được đúc đồng thời ở Đài Loan và Trung Quốc Đại Lục. Mỗi linh hồn một tượng, hoặc nhiều linh hồn một tượng, pháp sư Liên Vạn ở Cầu Vồng sơn trang cũng tự tay đúc, làm ra những tượng với diện mạo rất dễ thương, ai thấy cũng yêu thích. Việc cúng dường linh hồn hài nhi, tất cả tùy tâm.

Tại Cầu Vồng sơn trang, các linh hồn hài nhi sẽ được phân chia theo màu sắc trang phục thành các khu vực: khu trắng, khu đỏ, khu vàng, khu xanh lá, khu xanh dương, khu đen. Sau khi cúng dường, muốn tìm linh hồn hài nhi của mình sẽ rất dễ dàng.

Các Thượng sư và pháp sư ở Cầu Vồng sơn trang hàng ngày sớm tối tụng kinh, trì chú, niệm Phật, cúng thí thực, cúng dường, tu pháp, sám hối, hồi hướng... Linh hồn hài nhi an thân lập mệnh. Linh hồn hài nhi phúc huệ tăng trưởng. Linh hồn hài nhi thủ hộ bình an. Linh hồn hài nhi thành tựu Phật quả.

🌟

Tôi viết hai bài kệ: Hài linh tới tấp loạn thế gian Một khi quy y thấy thiên đường An định hồn phách tắm cam lộ Ngày ngày tu hành chứng Phật tiên.

Lại nữa: Phá thai đâu phải phá là xong Vốn có nhân quả khổ liên hoàn Cúng dường linh nhi hóa thái bình Tăng phúc tăng huệ thọ thêm dài.

Ghi chú: Cá nhân tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) cảm thấy rất vui mừng khi có thể cứu độ các linh hồn hài nhi trong thiên hạ và siêu độ thủy tử linh. Làm được như vậy, yêu ma không sinh, quỷ quái ngày càng ít, đây là pháp sự cầu an. Nếu không tin, hãy xem phần phụ lục của sách này: Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Kinh.

13. Khai thị trong buổi đại pháp hội Hộ Ma Đại Uy Đức Kim Cang

(Khai thị của Liên Sinh Hoạt Phật tại pháp hội tổ chức tại Meydenbauer, Seattle, Hoa Kỳ ngày 13 tháng 9 năm 1998.)

Các vị Thượng sư, pháp sư, xin chào mọi người! Trước tiên, chúng ta đảnh lễ chư vị tổ sư qua các đời - Liễu Minh Hòa Thượng, Thượng sư Thubten Dhargye, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Thượng sư Sakya Chứng Không, nhất tâm kính lễ chư Phật Bồ Tát và chư thiên hộ pháp.

Hôm nay chúng ta tu pháp Hộ Ma Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, sau đó sẽ truyền quán đảnh pháp Vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì nhanh nhất cho mọi người.

Thông thường, khi thực hiện Hộ Ma Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, chúng ta sẽ truyền quán đảnh Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương cho mọi người. Nhưng hôm nay chúng ta lại truyền pháp Vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì nhanh nhất. Tại sao vậy? Mọi người biết rằng, A Di Đà Phật là một Pháp thân Phật, hóa thân của Ngài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, và Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương là Hộ pháp của Ngài. Vì vậy, có thể nói A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Uy Đức Kim Cang và Liên Hoa Đồng Tử thuộc cùng một hệ thống. Cũng có thể nói rằng, Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật, và A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Uy Đức Kim Cang, ba thân hợp làm một thân, nên hôm nay truyền pháp Vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì nhanh nhất là phù hợp. Đây là điều tôi muốn giải thích rõ với mọi người, thứ tự quán đảnh này là có thể được.

Thông thường, làm Hộ Ma gì thì quán đảnh pháp đó, ví dụ sau này các bạn đừng làm Hộ Ma Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu mà lại truyền quán đảnh Lục Độ Mẫu; hoặc làm Hộ Ma Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà lại truyền quán đảnh Quan Thế Âm Bồ Tát, như vậy là không phù hợp.

Có lẽ có người sẽ hỏi, hôm nay pháp hội Hộ Ma thế nào? Mỗi lần làm Hộ Ma, tôi đều quán tưởng, trì chú, nhập Tam ma địa. Lần Hộ Ma này, khi chưa đbỏ cúng phẩm vào lò và chưa đốt lửa, Đại Uy Đức Kim Cang đã giáng xuống thân tôi. Tôi không nói dối, trước mặt chư Phật Bồ Tát, tôi cũng không dám nói dối, khi chưa đốt lửa, tôi đã nhập Tam ma địa, Đại Uy Đức Kim Cang đã giáng xuống thân tôi, hợp nhất với tôi. Điều này khác với việc bị quỷ thần nhập, quỷ thần nhập có khi còn gây phiền phức cho bạn, ở Hồng Kông có thể bạn sẽ lên Thanh Sơn, ở Mỹ bạn sẽ "bay qua tổ chim cúc cu". Khi Phật Bồ Tát hợp nhất với bạn, toàn thân bạn sẽ rất mát mẻ, trong lòng rất hoan hỷ, và cảm thấy tràn đầy pháp lực. Hộ Ma hôm nay rất tốt, thật là SO SPECIAL, SO NICE AND SO WONDERFUL. Thành thật mà nói, tôi rất ít khi làm Hộ Ma tốt như vậy, Hộ Ma hôm nay thật hoàn hảo.

Hôm nay tôi cũng muốn báo cáo với mọi người rằng, điện Hộ Ma ở Cầu Vồng sơn trang đã hoàn thành được một nửa. Ban đầu dự kiến sẽ hoàn thành vào dịp pháp hội này, nhưng ở các nước phương Tây, bạn không thể vội vàng được, chỉ riêng việc xin giấy phép đã kéo dài nửa năm. Tại sao lại lâu như vậy? Bởi vì còn phải lắp đặt thêm hệ thống thoát nước, sau khi thiết kế xong còn phải kiểm tra thẩm định, lúc thì người phụ trách bị ốm, lúc thì người phụ trách đi nghỉ phép, lúc thì vợ họ sắp sinh con, nên hồ sơ cứ bị trì hoãn, cuối cùng khi hồ sơ được duyệt thì công nhân lại thường xuyên nghỉ, vì thế mà kéo dài đến tận bây giờ. Tuy nhiên tôi tin rằng, với thời gian, mọi việc sẽ tốt đẹp và hoàn thành. Tôi hy vọng sẽ hoàn thành trước khi gió núi thổi đến, nếu không mái nhà sẽ bị thổi bay mất.

Có một vấn đề tôi thường xuyên nghĩ đến, Cầu Vồng sơn trang có rất nhiều đất trống, rất nhiều cây, khuôn viên rộng 40 mẫu Anh, quy đổi theo đơn vị Đài Loan là khoảng 30 giáp [khoảng 162.000 m2]. Tôi đang tự hỏi nên tận dụng như thế nào cho tốt? Chư Phật Bồ Tát đã chỉ dạy rằng, sau này sơn trang Cầu Vồng sẽ trở thành sơn trang Thủy Tử Linh, rừng cây và toàn bộ ngọn núi sẽ được dựng tượng các vong linh thai nhi (tượng hài linh), tức là tượng Địa Tạng Đồng Tử, khắp núi non.

Tôi nhận thấy vấn đề của các vong linh thai nhi rất nghiêm trọng. Có những cha mẹ chụp X-quang khiến thai nhi dị dạng, sinh ra đã khuyết tật hoặc thiểu năng trí tuệ, thậm chí tử vong hoặc gặp nhiều rắc rối, khiến trẻ không được bình an, người lớn cũng không thể an tâm. Theo lời Phật dạy, như vậy rất khó tu hành, đồng thời cũng sẽ gây ra nhiều tai ương, cơ thể bị ảnh hưởng, tâm hồn cũng bất an. Vì vậy, Sư Tôn cho rằng, việc biến sơn trang Cầu Vồng thành sơn trang Thủy Tử Linh cũng rất tốt, có thể chăm sóc tất cả các vong linh thai nhi, cúng dường, tụng kinh trì chú và phóng quang chiếu rọi cho các em, khiến các vong linh được bình an, có thể tu hành tốt. Mẹ tôi có thể trở thành người dẫn đầu của các vong linh thai nhi, là Bồ Tát của các vong linh thai nhi, là Quan Thế Âm Thủy Tử Linh Bồ Tát. Ý tưởng này đã nhận được sự gia hộ của chư Phật Bồ Tát và chư thiên hộ pháp.

Khi chúng được tụng kinh gia trì, được năng lượng trì chú, thậm chí được vãng sinh, điều này sẽ giúp người lớn được bình an trong tâm, tránh được tai ương và có thể tu hành tốt. Các vong linh thai nhi ở trong sơn trang, ở dương gian được Thượng sư Liên Ấn gia trì, còn ở cõi trung ấm có mẹ tôi chăm sóc, mẹ tôi giống như viện trưởng của một nhà trẻ vậy, như thế cũng tốt.

Sau này nếu ai muốn cúng dường vong linh thai nhi của mình, bao nhiêu tượng cũng được, hoàn toàn tùy ý! Thậm chí chỉ cúng một đồng, hoặc miễn phí, cũng đều được. Nếu bạn nói rằng một đồng cũng không có, cũng không sao cả, bạn muốn bao nhiêu tượng, chúng tôi sẽ cho bạn bấy nhiêu, tất cả đều miễn phí, do Sư Tôn cúng dường. Sư Tôn cho rằng trong cảnh giới của linh hồn trung ấm, điều quan trọng nhất là sự bình an và thanh thản của tâm hồn.

Tổ tiên của chúng ta, nếu được bình an và thanh thản trong cõi trung ấm, thì con cháu ở dương gian cũng sẽ được khỏe mạnh, tai ương cũng sẽ tiêu tan, tâm hồn cũng được bình an, đây là quy luật tương hỗ. Nếu họ không được bình an, họ sẽ tìm đến bạn, bởi vì nhân duyên giữa cha mẹ và con cái sâu đậm nhất, nên khi họ không được bình an, chắc chắn họ sẽ tìm đến người thân của mình, đây hoàn toàn là quan hệ nhân quả.

Qua con mắt pháp của tôi quan sát, cái chết không tự nhiên là điều đau khổ nhất, sinh mệnh không thể bị hủy hoại một cách tùy tiện. Nhưng nếu bạn có thể cúng dường họ, giúp họ được bình an trong tâm, đó là phúc báo vô thượng. Trong cõi trung ấm là như vậy, ở dương gian cũng vậy, tâm phải được bình an thì mới có thể tu hành, tâm mới có thể tỏa sáng. Chỉ có tâm an tịnh mới có thể phóng quang.

Ngoài ra, có người cũng đặt ra vấn đề hiến tặng nội tạng khi người chưa mất, như giác mạc, tim, thận... Có người cho rằng khi người chết, cần có ba ngày để thần thức hoàn toàn rời khỏi cơ thể, sau đó mới có thể động đến thi thể, nhưng điều này dường như không khả thi trong thời đại ngày nay. Ở bệnh viện, ngay khi người ta chết, họ lập tức động đến thi thể, đưa vào nhà xác hoặc xử lý thi thể. Trừ khi bạn ở nhà, sau ba ngày mới xử lý, để cho thần thức rời đi một cách an lành. Khi hiến tặng nội tạng, có trường hợp thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi, bác sĩ đã phải tiến hành lấy nội tạng.

Theo lời dạy của chư Phật Bồ Tát, khi bạn phát tâm bồ đề và muốn hiến tặng nội tạng lần cuối cùng, tất cả chư Phật Bồ Tát sẽ phóng quang gia hộ cho bạn. Lúc này tâm bạn sẽ rất an bình, sẵn sàng hiến tặng tim, thận, giác mạc của mình để lợi ích chúng sinh khác. Tâm nguyện này là một nghiệp trắng, sẽ tỏa ra một luồng ánh sáng cát tường màu trắng. Khi đó, chư Phật Bồ Tát sẽ đến hộ trì cho bạn, phóng quang tiêu trừ khổ đau của bạn và tiếp dẫn thần thức của bạn vãng sinh Tây phương. Vì vậy, phát tâm bồ đề và hiến tặng nội tạng của mình lần cuối cùng để lợi ích chúng sinh khác, đó chính là hạnh của Bồ Tát.

Vì vậy, nếu có người nói rằng không được hiến tặng nội tạng của mình cho người khác, vì cơ thể bạn bị động chạm, thậm chí bị mổ xẻ, bạn sẽ rất đau đớn, thần thức của bạn sẽ không được bình an, quan điểm này không phù hợp với Phật pháp. Khi bạn hiến tặng nội tạng lần cuối cùng, tâm bạn sẽ tỏa ra ánh sáng trắng, chư Phật Bồ Tát sẽ phóng quang gia hộ cho bạn, khiến bạn không phải chịu đau đớn và tiếp dẫn bạn vãng sinh Tây phương. Vì vậy, tôi khẳng định rằng, việc hiến tặng nội tạng là được phép!

Ngoài ra, về việc làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng? Trong cuộc đời con người, thực sự có quá nhiều khó khăn, có bệnh tật của bản thân, bệnh tật của con cái, khó khăn trong sự nghiệp... đủ loại phiền não đè nặng lên chúng ta. Nhưng tôi cảm thấy, chúng ta vẫn nên gánh chịu ở cõi người thì tốt hơn; nếu gánh chịu ở cõi súc sinh thì đau khổ hơn nhiều, vô minh quá nặng; còn nếu gánh chịu ở địa ngục, càng đau khổ hơn nữa. Vẫn là gánh chịu ở cõi người tốt hơn, khi nghiệp đã trả xong, tự nhiên sẽ tiêu tan. Còn về cách tiêu trừ nghiệp chướng thì sao? Theo Mật giáo, cần phải trì chú, niệm Phật, làm Hộ Ma, cúng dường, cầu nguyện chư Phật Bồ Tát phóng quang gia hộ cho mình, chư Phật Bồ Tát Kim Cang Hộ Pháp đến kết giới, bảo hộ. Ngoài ra, chúng ta cần phát tâm bồ đề, làm việc thiện, tạo nghiệp trắng, tránh để nghiệp đen càng ngày càng nhiều. Giống như tôi đã từng nói trước đây, có tám phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng, mọi người đọc xong sẽ hiểu rõ.

Vì vậy chúng ta cần làm nhiều việc thiện, mỗi ngày dành thời gian cố định để niệm Phật, trì chú, tụng kinh, siêu độ tiêu tai, làm Hộ Ma, cúng Phật, sám hối, làm liên tục không ngừng, và còn có pháp sám hối Bách tự minh chú của Kim Cang Tát Đỏa, giúp chuyển hóa nghiệp của bạn thành không. Tất nhiên không phải là hôm nay bạn trì chú xong thì nghiệp sẽ tiêu trừ ngay, có những nghiệp nặng, có những nghiệp từ đời trước đã thành định nghiệp, đã in dấu trên thân bạn. Định nghiệp rất khó thay đổi, là nghiệp mà đời này bạn nhất định phải gánh chịu, cần phải có năng lực pháp lực rất lớn, rất nhiều công đức mới có thể tiêu trừ được.

Kinh Phật cũng đề cập đến "định nghiệp không thể chuyển", ngay cả Như Lai cũng không thể chuyển. Nếu như vậy, mọi người chắc chắn sẽ rất nản lòng, vì thế chúng ta phải tìm cách chuyển định nghiệp thành bất định nghiệp. Cơ bản thì nghiệp vẫn phải gánh chịu, nên chúng sinh rất khổ.

Tôi cũng đang tìm cách để trong đời này độ được nhiều người hơn, nhiều chúng sinh hữu duyên hơn, đây là ước nguyện trong tâm tôi, mong rằng nghiệp của chúng sinh có thể nhanh chóng thanh tịnh, mong rằng nghiệp của chúng sinh nhanh chóng tiêu trừ, không còn đau khổ, chỉ có hạnh phúc, như Tứ vô lượng tâm đã dạy, phải đầy đủ niềm vui và nhân của niềm vui, cũng như thoát khỏi khổ đau và nhân của khổ đau.

Điều này khiến tôi nhớ ra rằng, mỗi khi mở Chân Phật Báo, trang 2 thường đăng bài viết của Sư Tôn, cuối cùng cũng có mục "Chân Phật Luận Kiếm" của tôi, đôi khi phía trước cũng đăng tải ý kiến của tôi, hoặc đăng những bức ảnh Sư Tôn thuyết pháp thường ngày.

Cá nhân tôi nghĩ rằng, có thể đăng ít bài viết của tôi hơn, bởi vì những bài viết đó đều sẽ được xuất bản thành sách, tốt nhất là đăng nhiều bài viết của các Thượng sư, pháp sư và đồng môn hơn. Về hình ảnh cũng vậy, không nên đăng quá nhiều. Khi mở Chân Phật Báo ra, phía trước, phía sau, ở giữa đều có rất nhiều ảnh, giống như một tập ảnh vậy, tôi nghĩ sau này tôi sẽ tự xuất bản tập ảnh riêng. Tốt nhất là chỉ cần một tấm ảnh, một hoặc hai bài viết là đủ, nên đăng nhiều bài viết của các Thượng sư, pháp sư và đồng môn hơn, như vậy mọi người đều công bằng, có cơ hội được đăng bài. Cũng nên đăng những tấm ảnh đẹp trai, xinh gái của các bạn, Sư Tôn ngày càng già, ngày càng khó nhìn, ngày càng xấu, các bạn đăng ảnh của Sư Tôn, Sư Tôn nhìn thấy sẽ đau đầu. Điều này rất quan trọng, phải bình đẳng, bởi vì mọi người đều là Phật mà! Không phải chỉ có Sư Tôn mới là Phật. Nếu chỉ có Sư Tôn mới là Phật thì Sư Tôn cũng không cần làm vị Phật này nữa.

Tất cả đều bình đẳng, tất cả mọi người đều có thể độ chúng sinh, đều có thể đăng bài, có thể đăng ảnh. Bài của tôi có thể đăng ít đi, một tấm ảnh một bài là đủ, nhiều nhất là hai bài. Thôi, hôm nay nói đến đây. Om mani padme hum.

14. Chân Phật Bảo Sám - Liên Sinh Hoạt Phật khai thị ngắn gọn ý nghĩa Chân Phật Kinh và bái sám

Sám hối (sám ma) là một phần rất quan trọng trong Phật pháp. Trong Phật pháp có các nghi quỹ lễ sám, đây chính là "sám pháp".

Trong Phật pháp có các pháp sám hối sau: 1. Lương Hoàng Bảo Sám - Pháp sám hối đạo tràng từ bi do Vua Lương Vũ Đế soạn sau khi đọc Đại Tạng để cầu siêu cho Hoàng hậu Hi Thị. 2. Thủy Sám Pháp - Pháp sám do pháp sư Ngộ Đạt nương theo vị thần tăng tu sám hối mà soạn ra pháp Từ Bi Thủy Sám. 3. Kim Quang Minh Sám Pháp - Pháp sám do đại sư Thiên Thai căn cứ vào kinh Kim Quang Minh mà sáng tác. 4. Quan Âm Sám Pháp - Pháp sám dựa theo kinh Quan Âm để tiêu trừ độc hại. 5. A Di Đà Sám Pháp - Pháp sám nương theo Phật A Di Đà, thần lực siêu việt thanh tịnh. 6. Pháp Hoa Sám Pháp - Do đại sư Thiên Thai căn cứ vào kinh Pháp Hoa mà soạn, còn gọi là Lục Căn Sám Pháp và Pháp Hoa Tam Muội Sám. 7. Dược Sư Sám Pháp - Sám văn được soạn dựa theo "Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức". 8. Phương Đẳng Sám Pháp - Sám văn do đại sư Thiên Thai căn cứ vào kinh Đại Phương Đẳng Đà-la-ni mà soạn.

Chân Phật Bảo Sám dựa theo pháp sám Chân Phật Kinh thanh tịnh ba nghiệp do tâm quang phát lộ, thấm nhuần mọi ý của Liên Sinh Hoạt Phật. Chân Phật Kinh là đại trí đại huệ, tức là Bát nhã. Bát nhã này thâm sâu như biển cả, rộng lớn như hư không, cũng là không có biên giới, phàm là chư Phật chân chính, trí huệ chân chính, đều là vô lượng vô biên. Chân Phật Kinh có hương vị thơm ngát, hoàn toàn là đức hạnh viên mãn, là trang nghiêm Tây phương Chân Phật, đầy đủ tất cả. Vì vậy, nếu thâm nhập được Chân Phật Kinh ắt sẽ đạt được trí huệ như biển.

Thế nào là "chân"? Cái gọi là chân tức là sự thật. Tôi đã từng nói với tất cả đệ tử và độc giả rộng khắp rằng, các vị quy y Chân Phật Tông, học tập Chân Phật Mật Pháp, nếu được một pháp tương ứng mà không thành Phật, tôi Lư Thắng Ngạn xin chịu trách nhiệm. Tôi viết và thuyết pháp một cách chân thật, điều này là sự thật nghìn lần, cảnh giới Ma Ha Song Liên Trì của Liên Hoa Đồng Tử cũng là sự thật nghìn lần, nếu có một câu không thật, tôi nguyện tan xương nát thịt. Vì độ chúng sinh, để mọi người thành tựu tịnh độ Liên Hoa Đồng Tử, tôi đã phát nguyện "tan xương nát thịt", như vậy không phải là "thật" hay sao?

Liên Hoa Đồng Tử độ chúng sinh cũng là dùng nguyện lực thật để độ chúng sinh, tôn chỉ này chính là "chân", tất cả đều là thật sự, không phải vọng tưởng, cũng không phải hư ảo. "Chân" chính là "tôn chỉ", là có công dụng, chính là chân lý.

Thế nào là Phật? Phật chính là bậc giác ngộ, là bậc thánh nhân tự giác và giác tha, giác hành viên mãn. Đạt được giác hành viên mãn này chính là Phật. Khi chứng ngộ vốn có hai trí huệ, một là vô thượng chính trí, tức là A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, hai là nhất thiết chủng trí, tức là Bồ Tát bát nhã. Từ chân tu hành mà đạt được Phật địa, đạt đến địa vị thành Phật.

Phật này có thể mở rộng ra: Phật nhật: phá trừ vô minh của chúng sinh, như mặt trời phá tan bóng tối. Ví như Phật pháp từ bi rộng lớn, độ sinh vô tư, như ánh mặt trời chiếu khắp đại địa. Phật ấn: là thật tướng các pháp, chính là pháp ấn quyết định bất biến của chư Phật. Phật thừa: là trí huệ minh tâm kiến tính của pháp Nhất thừa. Phật tính: là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, là bản tính giác ngộ bất biến bất cải, là thực thể bất sinh bất diệt, chính là chân như.

Thế nào là kinh? Kinh trong tiếng Phạn là sutra, còn gọi là chân lý mà chư Phật mười phương nói, trên khế hợp với pháp tính trí huệ mà chư Phật mười phương nói, dưới thuận hợp với chân lý mà chúng sinh mười phương cần đi theo, tức là lời giảng về đạo lý tu hành, đó chính là kinh. Kinh vốn là do Như Lai thuyết.

Thế nào là Chân Phật Kinh? Một bậc giác ngộ đã đạt được minh tâm kiến tính, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Lư Thắng Ngạn tôn giả, đã viết xuống trí huệ của Phật mà ngài đã thấm nhuần thông suốt. Đây là điều mà tất cả Như Lai đã thuyết, cho nên là Chân Phật Kinh đích thực.

Núi sông đất trời, vạn vật muôn loài, tất cả mọi thứ đều nằm trong Chân Phật Kinh. Đó là: Viên thông vô ngại, tức lý tức sự; Tức một tức nhiều, tức y tức chỉ.

Cần biết rằng, Liên Hoa Đồng Tử là một trong những hóa thân của Phật, là sự nương dựa đúng đắn, biến hóa vô cùng, thường hóa hiện sông núi đại địa để nuôi dưỡng chúng sinh, và Chân Phật Kinh là như ý bảo châu biến hóa, là ánh sáng chiếu rọi chúng sinh, không thể nghĩ bàn! Chúng sinh tin nhận phụng hành sẽ có công đức vô lượng vô tận.

Về ý nghĩa của sám hối, nó giống như việc rửa sạch nghiệp chướng của bạn. Bản thân việc sám hối chính là sự tẩy rửa, "tẩy" là dùng nước để rửa, "rửa" là lau đi nghiệp chướng, để nghiệp chướng được nước gột rửa và tan biến đi.

Trước đây thường dùng một ví dụ như thế này: giống như một chiếc áo dơ bẩn cả trăm năm, bẩn thỉu đã rất lâu rồi, gần như cả trăm năm, nhưng một khi đã sám hối, giống như đem chiếc áo đó đi giặt trong nước, vừa nhấc lên đã sạch sẽ, phơi khô xong, nó lại trở nên sạch sẽ, như một chiếc áo mới vậy.

Vì thế, khi bạn sám hối xong, giống như đã được tắm gội sạch sẽ một phen, tất cả sẽ trở thành vô cùng sạch sẽ. Dù quá khứ của bạn như thế nào, sau khi sám hối xong, khi bạn đã thấu hiểu ý nghĩa của việc sám hối, thân tâm bạn sẽ hoàn toàn trong sạch.

Trong con người chúng ta có hai loại nghiệp: hắc nghiệp và bạch nghiệp. Hắc nghiệp là gì? Đó là những nghiệp chướng do thân khẩu ý tạo ra. Bạch nghiệp là gì? Đó là tất cả những hành vi và ý niệm thiện lành của bạn.

Có một ví dụ như thế này, việc sám hối giống như điều gì? Giống như một căn phòng tối om, không có chút ánh sáng nào, nhưng khi bạn bước vào trong, cầm một que diêm hay một chiếc bật lửa, vừa đánh lửa lên, ánh sáng tỏa ra, bạn có thể nhìn thấy cả căn phòng. Chỉ một ngọn lửa nhỏ thôi mà căn phòng tối đen ban nãy, giờ đây bạn có thể nhìn thấy rất rõ ràng.

Sám hối là như vậy đó, chỉ cần có một chút ánh sáng đi vào, nghiệp đen của bạn sẽ tan biến, sẽ tiêu tan đi, nghiệp đen sẽ được tẩy sạch, đây cũng là một hình thức sám hối. Một ý nghĩa của việc sám hối của chúng ta là để xóa bỏ bóng tối.

Trong Mật giáo mà nói, đó chính là để một chút ánh sáng tỏa ra từ bên trong cơ thể bạn, ánh sáng này không phải đến từ bên ngoài, mà là một chút ánh sáng được sinh ra từ bên trong cơ thể bạn. Chỉ cần trong tâm bạn có ánh sáng tâm, một chút ánh sáng phát ra, thì tất cả nghiệp chướng đều sẽ không còn, đều sẽ được tiêu trừ.

Ngày nay chúng ta là những chúng sinh trong thế giới Ta Bà, bản thân chúng ta không ai biết rằng trong thân thể mình có ánh sáng, không một ai biết trong thân thể có ánh sáng, tất cả đều bị che lấp. Trong Mật giáo cũng có nói về cách làm cho ánh sáng của bạn phát lộ, tất nhiên là phải tiêu trừ nghiệp chướng của thân khẩu ý.

Nói về thân thể, thân thể của bạn phải ngay thẳng, tôi đã nói thân phải ngay thẳng, vậy làm sao để thân được ngay thẳng? Trong Hiển giáo nói rằng thân thể bạn không được tạo nghiệp chướng. Con người chúng ta có hai tay, bạn không thể mọc ra tay thứ ba, nếu mọc ra tay thứ ba thì tay đó để làm gì? Đây chính là nghiệp của thân thể. Tôi chỉ đưa ra một ví dụ thôi, bởi vì trên thân thể bạn có sáu giác quan, nghiệp do sáu giác quan tạo ra rất là ghê gớm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý, đây chính là lục giác, lục căn của chúng ta.

Sáu căn thanh tịnh thì đó là bạch nghiệp, còn nếu sáu căn phạm tội, tạo nghiệp chướng thì đó là hắc nghiệp, là nghiệp chướng đen tối. Người tu hành chúng ta phải chuyển hóa nghiệp chướng đen tối thành nghiệp chướng trong sáng. Thân phải ngay thẳng, nghĩa là thân thể không được tạo nghiệp.

Khẩu phải ngay thẳng, miệng lưỡi cũng phải chân chính, tức là không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô ác, không nói lời phù phiếm. Nói phù phiếm tức là nói chuyện vô bổ, những điều không cần thiết thì đừng nói, nói nhiều chuyện vô ích chính là nói phù phiếm. Không nói đâm thọc nghĩa là hay xúi giục, nói xấu người này người kia, cả ngày cứ đi nhà này sang nhà khác để bàn tán thị phi, khiến mọi thứ rối loạn lung tung, đó chính là nói đâm thọc. Ác khẩu là nói lời thô tục. Vọng ngữ là nói lời dối trá lừa gạt người khác, đây chính là khẩu nghiệp.

Theo kinh Phật đã nói, đừng nói những lời vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, như vậy thì sẽ không phạm khẩu nghiệp. Ngược lại bạn nên nói gì? Hãy nói lời thiện, những lời khuyên thiện, nói những điều tốt đẹp, nói những lời dịu dàng, những lời thấu hiểu lòng người, những lời thiện ngữ, nhu ngữ, quan tâm. Tất nhiên những lời này cần phải nói, nếu bạn không nói được những lời như vậy thì thà làm người câm, thà không nói gì còn hơn để tránh tạo ác nghiệp.

Vì vậy này các hành giả, người tu hành thường không nói những lời vô ích, mà phải nói những lời giúp ích cho người. Trí ngữ, tức là những lời có trí tuệ, những lời có trí tuệ và có ích cho người, những lời quan tâm đến người khác, những lời khuyên người làm việc thiện, đây là những lời cần phải nói, đây thuộc về bạch nghiệp.

Đây chính là về khẩu nghiệp, các con phải nhớ những lỗi lầm do miệng lưỡi gây ra.

Còn về ý niệm, những nghiệp do ý niệm tạo ra là vô hình, về mặt pháp luật thì đây là hợp pháp. Khi ý niệm của bạn phạm tội, người khác không thể thấy được, nhưng Phật nhãn của chư Phật Bồ Tát có thể thấy được, trong cõi vô hình đây cũng là một loại nghiệp.

Nói chung, ý nghiệp rất là lợi hại, bởi vì sau khi ý niệm sinh khởi, thân và miệng của bạn mới phạm nghiệp. Có thể nói ý nghiệp là nghiệp nguyên thủy, là loại nghiệp sinh ra sớm nhất, bởi vì sau khi có ý thức mới sinh ra hành động. Về ý nghiệp của con người, theo kinh Phật nói, nó giống như ngựa phi, không ngừng nghỉ, người học thiền định sẽ biết, vừa ngồi xuống là biết ngay, ôi, ý nghiệp cứ chạy đi chạy lại không ngừng, không lúc nào dừng lại.

Làm thế nào để thanh tịnh ý nghiệp? Trong Mật giáo có nói, phải đưa ý niệm, tâm của bạn quy về không, đặt nó lên trên hư không, trên bề mặt đó là ngoại không, thực ra cái hư không bên ngoài đó được thu nhiếp vào nội tâm, có cả ngoại không và nội không, thực ra ngoại không và nội không hòa hợp làm một.

Bạn dùng cái không bên ngoài để dẫn dắt cái bên trong, pháp tính không bên trong của bạn. Khi ý nghiệp của bạn, theo như trong "Phổ Thành Kinh Điển" có nói, khi bạn có được ngoại không rồi, sẽ dẫn phát nội không bên trong bạn, nội ngoại không hợp nhất, chính là pháp tính không, khi bạn sinh ra được pháp tính không, trong thân thể bạn sẽ sinh ra vòng hào quang, một loại ánh sáng hình tròn, sẽ được sinh ra, đây chính là điều chúng ta cần.

Hành giả Mật giáo quán chiếu ánh sáng, phải thấy được ánh sáng bên ngoài và ánh sáng trong tâm của mình, dùng ánh sáng bên ngoài để dẫn khởi ánh sáng trong tâm xuất hiện. Khi ánh sáng của bạn phát sinh, ngay khi ánh sáng hiển lộ, có thể nói đây chính là ý nghĩa của sám hối. Bên trong bạn sẽ hoàn toàn sáng suốt, tâm quang vừa lộ vừa hiện, thân tâm bạn sẽ hoàn toàn sáng suốt, bởi vì vốn dĩ bạn bị nghiệp chướng trói buộc từng lớp, không thể thấy được ánh sáng.

Khi ý niệm của bạn có thể nhập vào cảnh giới không, tâm quang phát lộ, đó cũng chính là ý nghĩa của sám hối được sinh khởi, đạt được trạng thái toàn thân quang minh hiển hiện. Trong Mật giáo sử dụng phương pháp này, về mặt lý thuyết là dùng phương pháp này để hiển lộ ánh sáng.

Ý niệm ở đâu? Quy về không, dừng lại ý niệm của bạn đến vô niệm, khi quy về trạng thái không, ánh sáng tâm bên trong bạn mới có thể hiển lộ, đây gọi là ý thanh tịnh.

Khi thân thể bạn ngay thẳng, thân thanh tịnh, khẩu vốn dĩ cũng thanh tịnh, thì khi ý niệm quy về không, đạt đến trạng thái vô niệm, trạng thái như cõi trời phi tưởng, đó chính là trạng thái ý thanh tịnh.

Khi thân khẩu ý được thanh tịnh rồi thì tâm quang sẽ tự nhiên hiển lộ, đây chính là phương pháp tu hành của Mật giáo. Nhưng để có được ý niệm thanh tịnh, bạn cần phải mượn phương pháp thiền định để đạt được ý niệm thanh tịnh, mượn cách tu khí mạch minh điểm để đạt được ý niệm thanh tịnh. Vì vậy khi chúng ta tu khí, thực ra là đang điều tâm, điều ý. Khi khí rất bình ổn, rất dài, thì khí không động, tâm của bạn cũng không động, khí vừa động thì tâm liền động. Cho nên Mật giáo tu khí chính là đang điều tâm, khi bạn tu cho khí được vi tế, chậm rãi, dài lâu, tâm của bạn sẽ dần dần quy về trạng thái tĩnh chỉ, liên tục trong trạng thái tĩnh chỉ, như vậy ý niệm không còn vọng động bay nhảy, tất cả đều được thu nhiếp về, trở thành trạng thái bất động.

Khí ngưng hẳn rồi, bất động rồi, thanh tịnh rồi, ý niệm của bạn cũng tiến vào trạng thái thanh tịnh, lúc này sẽ sinh ra trạng thái vô cùng thanh tịnh, trong thời khắc vô niệm này, ánh sáng của bạn sẽ hiển lộ, đây là điều được đề cập trong "Phổ Thành Kinh", rất quan trọng.

Vậy thiền định là tu cái gì? Là tu để tâm quang phát lộ. Khi thân khẩu ý thanh tịnh, thực sự thanh tịnh, tâm quang sẽ phát lộ, đây chính là bí quyết. Tại sao bảo bạn phải thanh tịnh thân khẩu ý? Bởi vì thanh tịnh thân khẩu ý là để tâm quang phát lộ, khi tâm quang vừa phát lộ, bạn liền khai ngộ. Tất cả ác nghiệp của bạn sẽ không còn nữa.

Tất cả đều trở nên thanh tịnh, điều này có thể nói là từ trong việc lễ sám hối, trong bất kì một bản sám văn nào, ý nghĩa quan trọng nhất đều nằm ở chỗ này. Từ sự thanh tịnh của thân khẩu ý mà sinh ra tâm quang phát lộ.

Chân Phật Bảo Sám chính là dựa vào lực truyền thừa gia trì của Căn bản Thượng sư, dựa vào lực bát nhã vô thượng viên mãn của Phật, mà chân thành phát lộ sám hối, nương nhờ vào uy lực gia trì của Phật để thanh tịnh những nghiệp đen tối từ vô thủy vô minh đến nay, khiến cho ánh sáng tự thân hiển lộ.

Om mani padme hum.

15. Sự linh nghiệm của Hoàng Mẫu

Pháp sư Bích Yến

Trong 4 năm qua tại Seattle Lôi Tạng Tự, mỗi thứ Bảy vào giờ đồng tu, trong thư viện có một người tình nguyện hy sinh không được nghe những lời khai thị quý báu nhất của Sư Tôn trong buổi đồng tu, phát tâm dạy tiếng Trung cho người dân vùng Seattle rộng lớn. Người âm thầm phát nguyện và thực hành hạnh Bồ Tát này chính là cô giáo trường Trung văn của Lôi Tạng Tự - sư tỷ Liên Hoa Chân Ngộ.

Ngày 18 tháng 10, như thường lệ trước khi đi ngủ, cô ấy thực hành một thời khóa tu Chân Phật Mật Pháp. Trong lúc trì chú, cô nhìn thấy rất rõ ràng một cảnh tượng: bầu trời xám xịt, một chiếc xe đang lao nhanh về phía cô. Trong lòng cô cảnh báo đó là tai nạn xe, nhưng sau đó cô không để tâm nhiều. Sáng sớm ngày 19 tháng 10, cô vẫn như mọi ngày cúng dường, lễ Phật, rồi lái xe vừa trì chú vừa đi làm. Lúc 7 giờ 25 phút, khi xe đến ngã tư đường 170 STREET NE và 15 AVE ở Seattle, có hai cụ bà nắm tay nhau định băng qua đường, nên cô dừng xe chờ đợi. Bất ngờ một tiếng động kinh hoàng vang lên bên tai, xe bị va chạm mạnh từ phía sau, phần đuôi xe hoàn toàn bị phá hủy, đầu xe của đối phương bị bẹp thành hình tam giác, nát bét. Cô hoảng hốt, thực sự đã xảy ra tai nạn xe, và bầu trời lúc đó cũng xám xịt y như trong cảnh tượng đã thấy đêm qua.

Xe cứu thương nhanh chóng đưa cô ấy đến bệnh viện. Do không có thương tích bên ngoài đặc biệt nên cô được xuất viện ngay. Tuy nhiên, trong cả tuần tiếp theo, từ cổ đến chân, toàn thân không chỗ nào là không đau. Nghỉ ngơi vài ngày, vết thương không những không thuyên giảm mà còn trở nên tệ hơn. Ngực gần như không thở được, đau từ ngực trước thẳng đến lưng sau, cả cột sống đau đến mức không thể duỗi thẳng. Mỗi ngày phải đi khám bác sĩ hai lần nhưng hoàn toàn không có chút tiến triển nào. Cột sống bị lệch đè lên dây thần kinh, thường xuyên khiến cô đau đến mức toát mồ hôi lạnh, nước mắt tuôn trào, hoàn toàn không thể tu pháp, trì chú, chứ đừng nói đến ngồi thiền.

Ngày 31 tháng 10, khi biết mình không thể đến Lôi Tạng Tự dạy trường Trung văn được nữa, cô mới lịch sự gọi điện đến chùa, trình bày tình trạng của mình và nhờ các pháp sư sắp xếp cho học sinh. Khi pháp sư biết được tình trạng thương tích của cô liền nhanh chóng báo lên Sư Tôn. Sư Tôn vì lòng từ bi mà nhíu mày, lập tức vào mật đàn, đích thân vẽ một lá phù dừng đau và một lá phù chỉnh xương. Khi Sư Tôn cầm bút chu sa chuyên chú ngưng thần nhập quán, trong khoảnh khắc hư không tràn ngập linh khí, hiện ra một vị Diêu Trì Hoàng Mẫu vô cùng đặc biệt, đầu đội mũ phượng bảy màu, dung mạo trang nghiêm tuyệt mỹ phi thường. Sau khi ra khỏi đàn, Sư Tôn nói: Uống phù này cô ấy sẽ khỏi. Bởi vì: 1. Cô ấy có lòng tôn kính và tin tưởng một trăm phần trăm đối với Căn bản Thượng sư của mình, 2. Rất coi trọng Phật pháp, thường làm việc tốt đẹp cho người khác, hy sinh bản thân để người khác có thể nghe được những lời khai thị quý báu của Sư Tôn, và âm thầm làm việc thiện không muốn người khác biết, 3. Tự mình ngày ngày tinh tấn thực tu. Đây là do tâm thiện tích tụ ánh sáng của cô cảm ứng, Diêu Trì Hoàng Mẫu thích giúp đỡ người có tâm địa thiện lương. Một lời nói của Sư Tôn khiến chúng tôi - những người bình thường tu trì chưa đủ thực chất - phải sững sờ.

Tối hôm đó, sư tỷ Chân Ngộ cố chịu đau đến Lôi Tạng Tự nhận hai lá phù. Với lòng thành kính, cô về nhà tắm rửa sạch sẽ rồi vào mật đàn. Điều kỳ diệu là: hai lá phù do Sư Tôn đích thân vẽ đã giúp cô có thể hoàn thành một thời khóa tu pháp Thượng sư tương ứng và trì tụng 1080 biến thần chú Thượng sư. Sau khi uống lá phù thứ nhất, đêm đó là đêm ngon giấc và yên bình nhất kể từ khi gặp tai nạn xe hai tuần trước.

Sáng sớm hôm sau, ngày 1 tháng 11, vừa thức dậy cô liền vào mật đàn, lại như pháp tu trì 1080 biến thần chú Thượng sư rồi uống lá phù còn lại. Ngay lập tức toàn thân mát mẻ, tất cả cơn đau nhức nơi cột sống kỳ diệu biến mất như lời Sư Tôn nói, hoàn toàn khỏi hẳn, tinh thần sảng khoái. Bác sĩ gia đình và bác sĩ chuyên khoa cột sống của cô đều kinh ngạc cho rằng điều này thật không thể tin được, bởi theo chẩn đoán chung của họ thì cần phải nghỉ ngơi và điều trị một thời gian dài mới có thể đi làm lại. Còn theo nguyên lý Đông y, thương tổn gân cốt phải mất một trăm ngày mới có thể phục hồi.

Ngày 1 tháng 11, cô đã gửi email đến phòng kế toán Đại học Washington báo với cấp trên rằng ngày 2 tháng 11 có thể đi làm lại.

Phép màu thần diệu như vậy khiến cô không thể diễn tả hết lòng biết ơn với Sư Tôn, Kim Mẫu và chư Phật Bồ Tát, những giọt nước mắt lăn trên khoé mắt. Cô nói: "Con nguyện đi khắp nơi làm chứng và kể về lòng đại từ đại bi, thần lực kỳ diệu và pháp môn Chân Phật thù thắng vĩ đại của Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật."

Chỉ vì cô hoàn toàn tin tưởng và nương tựa vào Căn bản Thượng sư, giữ tâm nguyện Bồ Tát, là hành giả Chân Phật, tinh tấn thực tu hàng ngày, nên trong khúc quanh không thể tránh khỏi của cuộc đời, cô đã cảm ứng được Sư Tôn, Kim Mẫu và chư Phật Bồ Tát đích thân đến cứu độ giải nạn.

Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật của Chân Phật Tông là hiện thân tổng thể của thân, khẩu, ý của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, đầy đủ tất cả thần thông diệu pháp cứu độ thế gian, với nguyện lực đại bi xem nỗi đau của chúng sinh như nỗi đau của chính mình, xem nỗi khổ của chúng sinh như nỗi khổ của chính mình. Dù bệnh khổ khó chịu đựng, đau đớn khó kham, nhưng trong trái tim đại bi của bậc thành tựu, tất cả đều trở thành lời nói nhẹ nhàng: "Có thể giúp được người khác thì bản thân chịu một chút khổ cũng không sao."

16. Sự thần kỳ của Bồ Tát Mẹ

Ngày 2 tháng 4 năm 1998, sau khi mẹ tôi Lư Ngọc Nữ Bồ Tát vãng sinh Phật quốc, ngoài việc để lại hạt xá lợi, hoa xá lợi, răng xá lợi, còn có rất nhiều hiện tượng thần kỳ xảy ra, điều này hiển nhiên chứng tỏ thần thông của Bồ Tát Mẹ không hề bị ngăn ngại. Vì số xá lợi mà mẹ tôi để lại (phần còn lại sau khi đã phân phát), tôi đã tìm được hai mảnh đất ở Cầu Vồng sơn trang để chôn cất bảo tồn kỷ niệm, một mảnh đất cao hơn, một mảnh đất thấp hơn, trong hai mảnh đất này, chọn một mảnh.

Hai mảnh đất có tên học thuật như sau: Địa lý trường thọ của mảnh đất cao: Càn phong sơn cao diệc thọ trường, Đinh sơn Đinh thủy sa nhược hoàn; Bính Đinh thủy lai triều chủ đa, Đồng nhan hạc phát hựu khang nhiên.

Địa lý hiền tăng của mảnh đất thấp: Lạp sơn tăng đạo chiêu tràng tràng, Bảo cái chung cổ chiếu phan kỳ; Hiền tăng xuất lai hoằng Phật pháp, Tốn Quý giao lưu ngộ Phật lý.

Cuối cùng tôi đã chọn mảnh đất thấp để an táng, nguyên nhân chủ yếu nhất là có hai chữ "hiền tăng". Khu đất này khá rộng rãi, phía sau gần với hồ Song Liên, phía trước nhìn về phía núi Thiên Mã, bên phải là núi Kỳ, bên trái là núi Cổ. Sau khi an táng, mọi việc đều yên ổn.

🌟

Tháng 10 năm 1998, thời tiết ở Seattle bước vào mùa thu, lá cây bắt đầu vàng, thời tiết dần trở lạnh, mưa thu cũng nhiều hơn. Đây là mùa nghe mưa rơi. Sáng sớm rửa núi xanh thêm, Gió Tây thổi càng thêm lạnh lẽo, Nghe tiếng chuối, Từng đợt từng đợt âm thanh mưa nhỏ. Mưa thu Seattle, so với mưa đông Seattle, mang đến một cảm xúc khác, một hương vị khác trong lòng.

🌟

Một buổi tối tôi nằm mơ. Mẹ Bồ Tát hiện ra ngồi trên bảo tọa, vẫn trong trang phục của Nam Hải Bồ Tát, mẹ chỉ xuống phía dưới bảo tọa cho tôi xem. Ôi! Tôi giật mình, thì ra nước đã ngấm vào dưới bảo tọa, nước đang dần dần dâng cao. Tôi cầm một quả trứng ốp la dâng cúng Mẹ Bồ Tát. Không ngờ trứng ốp la lập tức hóa thành nước. Tôi nghĩ trong lòng, có "thủy phạm" rồi.

Lúc này tôi tỉnh giấc, giấc mơ rất rõ ràng, nhìn đồng hồ thì đã năm giờ sáng, tôi nghĩ liệu có phải nơi chôn cất xá lợi của Mẹ đã bị ngập nước, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một giấc mơ thôi, mơ chưa chắc đã là thật, nghĩ vậy rồi tôi lại ngủ tiếp. Trong giấc ngủ, lần này không phải là mơ.

Mẹ Bồ Tát lớn tiếng gọi tôi: "Thắng Ngạn ơi! Mau gọi Thượng sư Liên Ấn đến lấy xá lợi lên! Nhanh lên! Nhanh lên!" Mẹ gọi liên tục nhiều lần, tôi lại bị đánh thức, nhìn đồng hồ thì đã sáu giờ sáng. Tôi thức dậy đánh răng rửa mặt thay quần áo.

Tôi nói với Thượng sư Liên Hương vừa mới thức dậy: "Đêm qua mẹ báo mộng, dưới xá lợi có nước, hai lần liên tiếp, tôi nghĩ chắc phải dời lên chỗ cao thôi." "Có nhầm không đấy, mới chôn có nửa năm." "Chắc chắn không nhầm đâu, Mẹ Bồ Tát linh lắm!"

Lúc bảy giờ, tôi gọi điện báo cho Thượng sư Liên Ấn, bảo thầy lập tức lấy xá lợi lên. Thượng sư Liên Ấn lấy xá lợi lên, kêu to: "Dưới này quả nhiên có nước, bình đựng xá lợi phía dưới đã bị ướt." Mọi người đều kinh ngạc, mẹ thật thiêng.

🌟

Vào lúc 1 giờ chiều ngày 16 tháng 10 năm 1998, Mẹ Bồ Tát được dời đến nơi ở mới cao hơn, là nơi có địa lý trường thọ. Tôi đã làm lễ an táng xá lợi theo nghi quỹ Mật giáo. Mẹ Bồ Tát cười rất vui vẻ. Tôi đặc biệt cầu nguyện với mẹ, xin mẹ phóng đại quang minh phổ chiếu gia trì tất cả đệ tử Chân Phật Tông, khiến mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Mẹ Bồ Tát gật đầu đồng ý. Ha ha! Tuyệt quá!

(Hết.)

Mục lục