📗

147. Đừng đánh mất tâm

image

Đừng đánh mất tâm

🪷 Lời thổ lộ của người tu hành

Văn tập: 147 Xuất bản: 07/2001 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời tựa

Thần Suối ở suối Đại Giáp

Có một năm, tôi sống bên bờ suối Đại Giáp. Khi mùa thu đến, nhiều dòng suối lớn nhỏ đều đổ vào suối Đại Giáp, khiến thung lũng vốn trông hoang vu giờ đây trở nên mênh mông với dòng nước chảy, nhiều tảng đá từng nhô lên mặt nước giờ đều đã chìm hết.

Tôi đứng bên bờ suối, ngắm nhìn dòng nước róc rách. Trong khoảnh khắc ấy. Dòng nước róc rách tỏa ánh sáng, khiến thân tâm tôi vô cùng xúc động.

Thần Suối suối Đại Giáp hiện thân, trong tất cả các vị thần, Thần Suối có dung mạo đoan trang nhất, thần thái sáng ngời nhất, đồ trang sức trên đầu trang nghiêm nhất, ánh sáng toả ra từ thân Thần Suối như mây trôi nước chảy, rực rỡ muôn màu, thật tuyệt diệu làm sao!

Thần Suối hỏi tôi: "Ngươi là ai? Vì sao thân có ánh sáng?" "Tôi là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." - Tôi xưng danh. "Ta có nghe qua." Tôi ca ngợi Thần Suối: "Ánh sáng trên thân Người đẹp quá!" Thần Suối đáp: "Ánh sáng trên thân ta có thể chiếu từ ngọn núi này sang ngọn núi kia, khiến cả hai ngọn núi đều hóa thành sắc vàng kim, đây là sắc màu đẹp nhất thiên hạ, trần gian không thể sánh được." "Vâng, tôi biết." - Tôi phụ họa theo. Thần Suối nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngươi cũng có chút danh tiếng, nhưng chỉ là ánh sáng đom đóm nhỏ nhoi mà thôi!" "Thật vậy sao?" Thần Suối lắc đầu: "Danh không xứng với thực!" Tôi nói với Thần Suối: "Đừng nhìn vẻ bề ngoài của tôi, hãy nhìn vào tâm tôi." Thần Suối nhìn vào tâm tôi, chỉ thấy một vùng sáng rực rỡ, trắng đến chói mắt, hoàn toàn không có điểm tận cùng. Trời không còn nữa, đất không còn nữa, núi không còn nữa, sông không còn nữa, đó đích thực là một đại dương ánh sáng. Thần Suối vô cùng kinh ngạc: "Đây là gì vậy?"

Tôi đáp: "Đại dương ánh sáng Tỳ Lô Giá Na." Thần Suối thè lưỡi ra, không thể rụt lại được nữa: "Tục ngữ có câu, chỉ cần có được một chút ánh sáng đã tưởng mình là số một thiên hạ, đó chính là nói về ta đấy. Ta nghe nói, ánh sáng lớn nhất là của Đại Phạm Thiên Vương và thiên thần cõi Sắc Cứu Cánh, cứ nghĩ họ mới là những bậc phi thường nhất. Giờ được thấy đại dương ánh sáng Tỳ Lô Giá Na mới biết thế giới rộng lớn, mình giỏi vẫn còn có người giỏi hơn, đây mới thực sự là vô lượng vô tận, và mới nhận ra sự nhỏ bé vô minh của bản thân, nếu không gặp được Ngài, ta đã tự làm trò cười cho thiên hạ rồi." Tôi nói với Thần Suối: "Đây là pháp vô thượng!" "Pháp vô thượng là gì?" - Thần Suối hỏi. Tôi đáp: "Tâm." "Tâm ư? Tất cả sự tu hành đều là tâm." "Đúng vậy. Chính là tâm đấy, tâm này vốn là Phật tính kim cương, giống như mặt trời vậy, quang minh vô tận, rộng lớn vô biên. Tự tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, chỉ cần vọng niệm không sinh, thì tất cả quang minh sẽ tự nhiên hiển hiện trong đó."

"Vì sao ánh sáng có lớn có nhỏ, có mạnh có yếu, thậm chí có những nơi không có ánh sáng?" Tôi đáp: "Tâm Phật tính kim cương chỉ vì bị mây đen ngũ uẩn che phủ, giống như mặt trời bị mây che, không thể chiếu sáng. Chỗ tối tăm thì không có ánh sáng, mây dày hay mỏng quyết định sự mạnh yếu, lớn nhỏ của ánh sáng. Những đám mây đen ấy chính là vọng niệm, phàm duyên, phiền não và các tà kiến vậy!" Thần Suối đã hiểu ra: "Tất cả đều do tâm tạo." Cuối cùng Thần Suối xin tôi viết một cuốn sách về "tâm"! Tôi nhận lời Thần Suối, và đó chính là cuốn sách này: "Đừng đánh mất tâm."

Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn:

Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U. S. A.

01. Cảm giác hợp nhất thật tuyệt

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, Ngài đã suy nghĩ rằng, xa lìa tất cả dục vọng, đi vào trạng thái tịch tĩnh, đó là điều thù thắng nhất. Thêm nữa, khi nhập vào thiền định, có thể hàng phục các ma.

Nhiều người hỏi tôi về vấn đề thiền định. Tôi thích trả lời: "Vô trụ. Vô niệm." Vấn đề thiền định này, phạm vi quá rộng lớn, từ xưa đến nay các bậc thánh giả đều đang tìm kiếm pháp môn thiền định này.

Tôi rất thích đoạn văn dưới đây, xin hãy suy ngẫm về nó: "Chân lý sâu sắc nhất của Phật là pháp "vô vi nhi vô bất vi" [nghĩa là không làm gì nhưng không có gì không làm], hướng vào trong không trí cũng không đắc, hướng ra ngoài cũng không mong cầu, bên trong không chỗ đắc là pháp vô vi, bên ngoài không mong cầu cũng là pháp vô vi. Như người xưa nói: 'Biết việc ít thì phiền não ít, đến chỗ không mong cầu thì không lo âu.' Khi tu đến cảnh giới bên trong không chỗ đắc, bên ngoài không mong cầu, tâm không còn chấp trước, trong việc tu hành không tạo các nghiệp ác, lúc đó không còn vọng niệm nào, gọi là 'vô niệm'."

Vô trụ chính là pháp vô vi. Vô niệm chính là không còn bất kì vọng niệm nào. Thiền định chính là không chấp trước, buông bỏ tất cả.

🌟

Tôi đã nhập vào thiền định theo phương pháp vô trụ, vô niệm. Có một lần, tôi an trú trong thiền định. Cửa trời mở ra, ánh sáng lưu ly vô tận tỏa chiếu về phía tôi, từ trong ánh sáng lưu ly hiện ra một vị Đại Hộ Pháp Kim Cang Minh Vương, chính là Đại Uy Đức Kim Cang.

Kim Cang Thần cất tiếng nói lớn: "Ta là Hộ pháp thần của ngài." "Con xin cảm tạ Đại Uy Đức tôn quý." - Tôi thành tâm biết ơn.

Đại Uy Đức Kim Cang quả nhiên là Bố Úy Kim Cang, vị Hộ pháp thần có nhiều đầu, nhiều tay, nhiều chân, đầu như đầu trâu, sừng dài, mắt phẫn nộ, nanh vuốt, oai mãnh phi thường, ma quỷ vừa thấy đã bỏ chạy tán loạn, Đại Uy Đức Kim Cang có thân màu xanh.

Tôi cầu nguyện Đại Uy Đức Kim Cang nhập vào thân tôi.

Chỉ trong một sát-na. Dòng chảy pháp nhanh như ánh sáng lập tức nhập vào. Thân thể tôi kiên cố như thép. Đầu tôi mọc sừng, mắt tỏa sáng rực rỡ, miệng nhe nanh vuốt, phun ra ngọn lửa. Những chiếc sừng cũng phóng ra tia chớp. Đầu hóa thành nhiều đầu, thân mọc nhiều tay, chân mọc thêm nhiều chân, tay cầm đủ loại pháp khí. Thân hình càng lúc càng cao lớn, cao đến mức đứng trên mặt đất mà thân và đầu vươn tận mây xanh.

Lúc này Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương chính là tôi, tôi chính là Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương, hai là một, một là hai, hai hợp thành một. Tôi bước đi, mặt đất rung chuyển. Tôi phun lửa, hư không hóa tro tàn. Thân tôi lay động, biển cả đảo lộn.

Tôi đi vào trong biển lớn. Long cung rung chuyển dữ dội sáu lần. Long Vương hiện thân quỳ xuống cầu xin: "Xin đừng lay, đừng lắc, Liên Sinh, xin đừng lay, đừng lắc."

Tôi vút thân lên không trung. Hư không cũng nổi gió xoáy. Tôi xin nói với mọi người, đây là sự thật. Cảm giác thiền định thật tuyệt, cảm giác hợp nhất thật tuyệt. Đây chính là sự tương ứng của Mật giáo. Trong thiền định là sự thanh tịnh của tâm. Trong hợp nhất chính là pháp vô vi nhi vô bất vi.

🌟

Tôi xin thật lòng nói với mọi người rằng, "thiền định hợp nhất" là sự tương ứng vĩ đại của Mật giáo, là sự dung hợp làm một của dòng chảy pháp vũ trụ, cảm giác ấy tràn đầy thanh tịnh quang minh, là niềm đại lạc vô tận. Nếu bạn không tin, tôi cũng không ép. Không nói chuyện biển với ếch ngồi đáy giếng, bởi vì chưa từng thấy biển. Không nói chuyện băng với côn trùng mùa hạ, bởi vì côn trùng mùa hạ chưa từng thấy băng. Không bàn cảnh giới tu hành với người nông cạn, bởi vì không có duyên.

Tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, biết mình nhỏ bé, nên tu hành tu tâm, giờ đây cuối cùng đã hiểu được hư không, đại hải. Đã thấy được dòng chảy pháp chân thật của vũ trụ, thấu hiểu được đạo lý thâm sâu, những điều tôi nói ở đây chính là pháp môn vô thượng, và pháp môn vô thượng này chính là "tâm".

02. Thái Dương Tinh Quân và Thái Âm Tinh Quân

Tôi ở Cung Từ Tế, điện phụ bên phải thờ Thái Dương Tinh Quân và Thái Âm Tinh Quân, tôi bước lên trước chắp tay cung kính. Thái Dương Tinh Quân là Nhật Thiên. Thái Âm Tinh Quân là Nguyệt Thiên. Tôi thành kính đảnh lễ. Nghĩ về công đức vô lượng vô biên của nhật nguyệt.

Bỗng nhiên, Thái Dương Tinh Quân và Thái Âm Tinh Quân cùng giáng xuống, hai vị đại thần đều hiện thân Phật, một vị có danh hiệu là Thái Dương Minh Minh Châu Quang Phật, vị kia có danh hiệu là Thái Âm Linh Long Bảo Quang Phật. Hai vị Phật vô cùng hoan hỷ, chắp tay chào hỏi. Phật thăm hỏi tôi: "Liên Sinh, lâu không gặp, có khỏe không?" Lòng tôi xúc động, không nói nên lời: "Con..." Hai vị Phật gật đầu, chỉ nói: "Ta biết, ta biết..."

Từ hư không truyền đến tiếng lòng của hai vị Phật: "Này hành giả! Nếu phải chịu rất nhiều khổ sở, hãy tự nghĩ như thế này, trong vô số kiếp quá khứ, chắc hẳn đã có nhiều mối nhân duyên oán hận, những nỗi khổ trong đời này chính là nghiệp báo từ đời trước, quả của ác nghiệp đã chín muồi. Điều này ngay cả chư thiên có túc mệnh thông cũng chưa chắc hiểu rõ hoàn toàn, vì vậy, hành giả phải cam tâm chịu đựng, không chỉ thế, còn phải hoan hỷ chấp nhận, đừng oán than kêu oan, phải có thể gặp khổ mà không lo âu, vì sao phải như vậy? Bởi vì hiểu rõ nhân quả, như thế mới càng gần với Phật đạo." Tôi chân thành cảm tạ lời chỉ dạy của hai vị Phật.

Khi hai vị Phật bay lên không trung, cùng đọc một bài kệ: Không ta không người. Phàm thánh như một. Kiên định bất di. Nhật nguyệt vận hành.

Nghe được bài kệ này, tôi bừng tỉnh ngộ. Mặt trời và mặt trăng vận hành trong hư không, ánh sáng chiếu rọi khắp nơi, tự nhiên không có cái tôi. Đối tượng được chiếu rọi, không phân biệt người tốt, người xấu, người ác, người thiện, phàm thánh đều được chiếu sáng bình đẳng như nhau. Đây chính là chư Phật Bồ Tát, không phân biệt, tĩnh lặng vô vi mà chiếu sáng khắp nơi. Nhật nguyệt vận hành, tự nhiên vĩ đại, vạn cổ không tịch.

Lời dạy của hai vị Phật Thái Dương Minh Minh Châu Quang Phật và Thái Âm Linh Long Bảo Quang Phật khiến tôi liên tưởng đến: Chuyện xưa kia khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tu hạnh Bồ Tát, có xả thân cho hổ và cắt thịt cho diều hâu ăn.

Có người thắc mắc: Khi cho hổ ăn, tâm Phật có oán hận không? Khi cho diều hâu ăn, tâm Phật có oán hận không? Khi Phật xả thân, tâm có oán hận không? Câu trả lời là tâm hoàn toàn tĩnh lặng, không lo không khổ! Câu trả lời này khiến phàm phu khó hiểu và vô cùng kinh ngạc, làm sao có thể như vậy được!

Gần đây, có một triết lý tôi muốn mọi người cùng suy ngẫm. Có một người rất thích bơi lội, thường xuyên bơi ở biển. Một ngày nọ, anh ta gặp phải một con cá mập ăn thịt người, và con cá mập này đang rất đói. Người bơi giỏi kia vừa thấy cá mập thì hoảng hốt bỏ chạy. Nhưng dù có giỏi bơi đến đâu, làm sao bơi nhanh hơn được cá mập? Một tiếng kêu thảm thiết! Chìm xuống đáy biển! Cá mập ăn thịt người đã cắn nát và nuốt chửng người bơi giỏi kia. Giờ đây câu hỏi đặt ra là: "Cá mập ăn thịt người có tội không?" "Người kia có oán hận cá mập trong lòng không?"

Câu trả lời là như thế này: "Trong mắt cá mập, con người chỉ là thức ăn của nó, ăn thức ăn thì có tội gì?" "Người bị ăn thịt kia chỉ là thức ăn, làm sao thức ăn có thể oán hận cá mập được?" Mọi người hãy suy ngẫm về triết lý này, rồi đối chiếu với việc Phật Thích Ca Mâu Ni xả thân cho hổ và cắt thịt cho diều hâu.

Dường như trong đó có điều huyền diệu, nếu bạn hiểu được, thì đại triệt đại ngộ đã không còn xa.

03. Tôi mặc bộ đồ jean

Một ngày nọ, tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Vì thời tiết quá nóng nực, nên tôi cởi bỏ y phục Lama, cởi long bào, thay vào đó là bộ quần áo jean ngày xưa.

Soi gương, thấy cái đầu trọc lóc không hợp chút nào, tôi liền tìm một chiếc mũ đội lên, vừa hay che được nắng. Khi đội mũ lên, như thể nhìn thấy bóng dáng ngày xưa của mình, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đã biến mất.

Tôi bước ra ngoài, gặp người quen, họ dường như không nhận ra tôi. Tôi chào hỏi mọi người. Người ta ngước nhìn tôi, không nhận ra tôi là ai, rồi đi qua bên cạnh, họ không thể nhận ra tôi ngay được. Tôi đi qua đám đông. Đám đông cũng chẳng có phản ứng gì.

Cuối cùng, có một người cứ nhìn chăm chú vào mặt tôi, dường như đã nhận ra tôi, anh ta chắp tay chào tôi.

Thật kỳ lạ! Mặc quần áo jean, đội thêm mũ vào, trông như thành một người khác vậy, trang phục Lama và quần áo jean khác nhau quá nhiều.

Lúc này, tôi chợt nhớ ra, trước đây tôi từng viết về việc tôi và Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi trong một quán cà phê ở Đài Bắc. Phật Thích Ca mặc vest thắt cà vạt. Phật Thích Ca uống cà phê. Tôi trò chuyện với Phật Thích Ca, Ngài ấn chứng cho tôi là Hoa Quang Tự Tại Phật, chúng tôi nói chuyện về những chuyện xưa.

Khi bài viết này được đăng tải. Giới Phật giáo náo loạn! Làm sao Phật Thích Ca có thể mặc vest được? Làm sao Phật Thích Ca có thể uống cà phê? Ngài uống cà phê hiệu gì? Có cafein hay không cafein? Tôi bị chỉ trích thậm tệ! Giờ đây tôi đã hiểu ra: "Tôi không thể trách móc mọi người, bởi vì trong ấn tượng của họ, Đức Phật phải có búi tóc trên đầu, khoác y ca sa, ngồi tòa kim cương, có đủ 32 tướng tốt. Vậy mà giờ đây, Đức Phật trong bút pháp của tôi lại mặc vest, uống cà phê, không biết có đi giày da hay đi chân trần nữa? Một Phật Thích Ca như vậy, làm sao Phật tử có thể chấp nhận được!" Tôi hiểu chúng sinh chỉ nhìn "hình tướng bên ngoài". Tôi khó tránh khỏi bị chỉ trích. Nhưng điều tôi nhấn mạnh là phải nhìn vào "tâm".

Tôi hiểu rõ ràng rằng, dù Phật Thích Ca có hóa thân thành thương nhân giàu có, thành tổng thống quan chức, thành người buôn gánh bán bưng, hay thành kẻ hành khất lang thang, tôi vẫn luôn cảm nhận được tâm Phật, khí chất của Phật. Tôi nhận biết tâm Phật, tâm ấy không đổi dù hình tướng bên ngoài có thay đổi thế nào. Khi ở Hawaii, Tahiti, tôi từng mặc áo Hawaii! Khi ở Nhật Bản, tôi từng mặc quần đùi! Phật tâm bất biến! Người tu học Phật, điều quan trọng là "tâm", không phải hình tướng bên ngoài. Dù hình tướng bên ngoài có trang nghiêm đến đâu, nếu nội tâm xảo trá, thì người như vậy có ích gì? Chúng ta không thể bị mê hoặc bởi hình tướng bên ngoài!

Các vị Tổ sư của Mật giáo. Có vị sống trong nghĩa địa (thi đà lâm). Có vị lẩn quẩn ở chợ cá, ăn ruột cá. Có vị bị giam trong ngục tù. Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông còn giã gạo trong bếp!

Tôi muốn nói với mọi người rằng, một vị Phật chân chính là người tùy duyên, người ấy có thể chịu đựng cả khổ lẫn vui, có thể cao quý, cũng có thể thấp hèn, có thể ở những nơi dơ bẩn nhất, có thể ở trong tù ngục, có thể nhận lời khen ngợi, cũng có thể chịu đựng sự phỉ báng. Chỉ có Phật tính là không đổi!

04. Hương Tích Bồ Tát nói như vầy

Hương Tích Bồ Tát, vị Bồ Tát này ít người biết đến! Khi gặp vị Bồ Tát này, tôi thấy Ngài ăn mặc rất giản dị, vóc dáng trung bình, dung mạo bình thường, phong thái nhã nhặn, không kiêu ngạo cũng không tự ti. Hào quang tỏa ra từ thân Bồ Tát vô cùng dịu dàng. Tôi hỏi: "Bồ Tát chưởng quản cửa nào?" Hương Tích Bồ Tát đáp: "Cửa giới." (Quan Âm Bồ Tát - cửa từ bi, Văn Thù Bồ Tát - cửa trí huệ, Phổ Hiền Bồ Tát - cửa đại hạnh, Địa Tạng Bồ Tát - cửa đại nguyện.) "Thì ra Hương Tích Bồ Tát là vị Bồ Tát của trì giới." "Đúng vậy." Tôi thỉnh giáo Hương Tích Bồ Tát về vấn đề trì giới và giữ giới.

Hương Tích Bồ Tát kể cho tôi một câu chuyện: Có một cụ già ăn chay từ trong bụng mẹ, bởi vì khi mẹ cụ mang thai, hễ ăn đồ mặn là nôn, nên gọi là ăn chay từ trong thai. Từ khi sinh ra, cụ đã tự động ăn chay. Đồ mặn là không thể đụng vào. Cụ ăn chay suốt hơn sáu mươi năm.

Năm ấy cụ bị bệnh, bác sĩ khuyên nhất định phải phẫu thuật và truyền máu. Cụ già kiên quyết không chịu: "Máu là đồ mặn." Người nhà không biết làm sao, bèn nói: "Vậy tìm máu của người ăn chay để truyền." Cụ già vẫn kiên quyết: "Máu nào cũng là đồ mặn cả." Người nhà giảng giải: "Máu của người ăn chay là đồ chay." Cụ già biện giải: "Vậy thì máu của cừu cũng là đồ chay, máu của bò cũng là đồ chay rồi!" Người nhà bó tay.

Cuối cùng bác sĩ thật sự không còn cách nào khác, đành phải dùng thuốc mê, để cụ già ngủ mê rồi mới truyền máu. Tôi hỏi Hương Tích Bồ Tát: "Cụ già có phá giới không?" "Là giữ giới!" "Tại sao?" - Tôi hỏi: "Rõ ràng cụ già đã bị truyền máu mặn." "Cụ già giữ giới trong tâm, tâm đã giữ giới thì chính là giữ giới. Những điều khác, có thể không bàn tới, có thể bỏ qua được." "Nói về giữ giới, giữ giới trong tâm là điều quan trọng nhất." - Tôi nói. "Đúng vậy." - Hương Tích Bồ Tát đáp.

Tôi hỏi: "Khi hành giả Mật giáo uống rượu, họ chuyển hóa rượu thành cam lộ, uống rượu nhưng không say, không bị rượu khống chế. Khi ăn thịt, họ dùng thần chú độ cho thần thức của động vật, dùng hơi thở thanh tịnh hóa. Như vậy có phạm giới không?" Hương Tích Bồ Tát đáp: "Vẫn là giữ giới!" "Tại sao vậy?" "Rượu đã không còn là rượu, thịt đã không còn là thịt, đã không phải rượu thịt thì làm gì có phạm giới!" Hương Tích Bồ Tát nói với tôi: "Trong giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài thường dạy về định pháp và bất định pháp, nghĩa là Phật pháp là sống động, không phải chết cứng. Thái quá hay bất cập đều không tốt, quan trọng nhất là tâm. Phật dạy rõ ràng rằng, quá gắt không tốt, quá lỏng cũng không tốt, không gắt không lỏng mới là tuyệt diệu nhất!"

Trong bài này, tôi muốn nói với mọi người rằng: Một hành giả tùy duyên có ba phương thức tu tập: 1. Tu khổ hạnh (không khổ) 2. Tu lạc hạnh (không vui) 3. Khổ lạc đều nhận (không khổ không vui)

Dù tu theo cách nào trong ba cách này, phải giữ được trong khổ mà không thấy khổ, trong vui mà không thấy vui. Hiểu rằng tất cả đều do duyên sinh, đều do nghiệp nhân đời trước cảm ứng, khi duyên hết thì cũng thành không. Thuận cảnh không mừng. Tâm bất động, vui cũng là không. Nghịch cảnh không lo. Tâm bất động, khổ cũng là không. Tùy duyên hành đạo, thanh tịnh không nhiễm, chính là giữ giới!

05. Thật là kỳ diệu

"Quân tử giao tình, thanh nhạt như nước Chấp tướng tìm cầu, gần xa nghìn trùng Hỏi ta thấy sao, lặng lẽ quên lời Xuân đến hoa nở, bầu trời sáng trăng." ~ Đại sư Hoằng Nhất

Cá nhân tôi rất ngưỡng mộ cuộc đời phong phú tuyệt vời của Đại sư Hoằng Nhất (tiên sinh Lý Thúc Đồng). Ngài đa tài đa nghệ, từ âm nhạc đến kịch nghệ, từ kim thạch đến hội họa, từ thi từ đến thư pháp.

Tài nghệ của Đại sư Hoằng Nhất xuất chúng, tác phẩm có phong cách riêng, dù là âm nhạc, kịch nghệ, kim thạch, hội họa, thơ ca hay thư pháp, đều mang dấu ấn của riêng ngài, khiến người ta thán phục!

Sau này, vào năm 39 tuổi, ngài xuất gia làm tăng. Học tập tông phái nghiêm khắc nhất là Luật tông. Thật không ngờ: Phi Phật thư bất thư [không viết gì ngoài sách Phật]. Phi Phật ngữ bất ngữ [không nói gì ngoài lời Phật].

Đôi khi, khi nghĩ về Đại sư Hoằng Nhất với phong cách độc đáo của ngài, tôi càng cảm thấy cuộc đời như một giấc mộng đẹp mà buồn, có những giấc mộng lãng mạn tuyệt vời, cũng có sự thanh tịnh tâm hồn của Phật pháp, cuộc đời như mộng này, bao nhiêu điều kỳ diệu đang chờ được kể ra....

Mỹ học của Đại sư Hoằng Nhất bao gồm: Cõi người. Cõi trời. Đan xen thành cõi đào nguyên.

Bản thân tôi cũng thích hội họa, như mọi người đã biết, tôi đã xuất bản nhiều tập tranh. Một ngày nọ, vị thiên nữ nghệ thuật từ cõi trời cũng xuống chỉ dạy tôi vẽ tranh, thiên nữ là tiên nữ, sự chỉ dạy của thiên nữ không chỉ tinh xảo, không chỉ tự nhiên tuôn chảy, không chỉ dạt dào rực rỡ, không chỉ siêu phàm, không chỉ tinh tế, không chỉ lung linh,.... Tôi không thể dùng bút mực để diễn tả hết tài hoa của thiên nữ nghệ thuật.

Một ngày nọ. Tôi hỏi thiên nữ nghệ thuật: "Tranh của tôi có thú vị không?" "Thua Bát Đại Sơn Nhân." Tôi lại hỏi: "Tranh của tôi có hình tướng không?" "Thua Tề Bạch Thạch." Tôi hỏi tiếp: "Tranh của tôi có đẹp không?" "Thua Đại sư Hoằng Nhất." Dù tôi hỏi thế nào. Thiên nữ nghệ thuật đều trả lời rằng người khác hơn tôi. Tôi nản lòng, muốn ném bút vẽ, không bao giờ vẽ nữa! Tôi nói với thiên nữ nghệ thuật: "Thế này nhé! Tôi sẽ để tâm hồn hoàn toàn trống rỗng, người hãy nhập vào thân tâm tôi, tay tôi sẽ là tay người, rồi tôi chuẩn bị sẵn bút, mực, giấy, tất cả mọi thứ, chúng ta hợp nhất để vẽ, tranh vẽ như thế sẽ thần kỳ tuyệt diệu, trở thành kiệt tác của trời người!" Thiên nữ nghệ thuật cười lớn.

Thiên nữ nghệ thuật nói với tôi: Nếu có tâm. Sẽ có tranh. Tâm nếu thuần tịnh. Tranh sẽ thành chân.

Thiên nữ nghệ thuật chỉ dạy tôi: "Hãy nghe ta từ từ nói cho ngài biết, Bát Đại Sơn Nhân có nét mạnh mẽ nhưng thiếu linh hoạt biến hóa; Tề Bạch Thạch có hình tướng nhưng thiếu đi sự mềm mại; Đại sư Hoằng Nhất có vẻ đẹp nhưng chưa đạt đến sự dung hòa. Mỗi người đều có điểm mạnh, cũng có điểm yếu. Tuy nhiên, trong tranh của ngài có phong cách riêng, cũng có điểm mạnh điểm yếu, đặc biệt trong tranh của ngài, một bông hoa là cả thế giới, một hạt cát là thiên đường, có cảnh giới mà từ nghìn xưa các nhà triết học, nghệ sĩ đều theo đuổi. Nghệ thuật chính là cảm xúc trong tâm, có tâm thì có thần trong đó. Ngược lại, về mặt này, Bát Đại Sơn Nhân, Tề Bạch Thạch, Đại sư Hoằng Nhất đều phải bái ngài làm thầy." Tôi há hốc mồm, không dám tin. Thiên nữ nghệ thuật nói với tôi: Hãy tiếp tục không ngừng vun đắp khu vườn bí mật trong tâm hồn! Vẽ tranh chính là vẽ tâm. Có tâm ắt có thần!

06. Mỹ nữ quốc sắc thiên hương

Một lần nọ, khi tôi đang ngồi trên pháp tọa thuyết pháp, vào lúc kết thúc buổi thuyết pháp, trong đám đông có một người phụ nữ xinh đẹp tên là Lại Mặc Hương. Cô ấy nói: "Tối nay tôi chưa ăn cơm, đói bụng quá!" Mấy người đàn ông xung quanh vội vàng nói: "Để tôi mời cô đi ăn!"

Trong đám đông, cũng có một phụ nữ trung niên có biệt danh là Đại Thẩm, với khuôn mặt tất nhiên là bình thường, bà ta lớn tiếng: "Tối nay tôi cũng chưa ăn cơm, đói muốn chết!" Mấy người đàn ông nhìn nhau, không ai nói gì. Đại Thẩm kêu lên: "Sao không ai mời tôi đi ăn vậy?" Mọi người nghe xong cười ồ.

Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến vấn đề ngoại hình của con người. Thực tế, người hiện đại khi cưới vợ, trẻ đẹp là một yếu tố rất quan trọng, phụ nữ xấu xí thì việc lấy chồng sẽ khó khăn hơn. Có người đàn ông nào không muốn cưới vợ đẹp? Có người đàn ông nào không bị gương mặt xinh đẹp thu hút?

Tôi nhớ trong kinh Phật có nói: "Thiên thần dâng ngọc nữ lên Phật, muốn phá hoại tâm ý Phật. Phật dạy: Túi da chứa đầy uế tạp, ngươi đến đây làm gì. Đi đi, ta không cần. Thiên thần càng kính ngưỡng, bèn hỏi về đạo ý. Phật giảng giải cho, liền chứng quả Tu Đà Hoàn."

Đoạn kinh văn này kể rằng, thiên thần dâng các ngọc nữ lên Phật, những ngọc nữ này đều là tuyệt sắc giai nhân, đẹp đẽ phi thường, như ngọc quý vậy, khiến người ta vừa nhìn đã phải mê mẩn tâm thần. Ý đồ của thiên thần là muốn Phật khởi tâm dâm dục.

Tuy nhiên, Phật dạy: thân người chỉ là một lớp da bọc bên ngoài, tức là cái túi da, cái bao da. Bên trong túi da này chứa toàn phân, nước tiểu, thịt, máu, toàn là những thứ tanh hôi, chẳng có gì quý báu.

Mỹ nữ có đôi mắt đẹp, chiếc mũi đẹp, đôi tai đẹp, cả gương mặt đều đẹp. Nhưng nếu tách rời từng bộ phận ra, đẹp ở chỗ nào?

Phật Đà nói với thiên thần: "Đi đi. Ta không cần." Trong tư tưởng của Phật, Ngài hiểu rằng cuộc đời là vô thường, những biến đổi như sinh lão bệnh tử là bất tận. Những ngọc nữ này tuy đẹp, nhưng một khi đau ốm thì sao? Sau khi bệnh sẽ trở nên xấu xí. Rồi khi già thì sao? Già rồi tóc bạc mặt nhăn, già nua lụ khụ. Nhan sắc thanh xuân được bao lâu?

Trong kinh điển còn nói: "Phật dạy: Không có gì mạnh bằng ái dục về sắc, sắc dục là tham vọng lớn nhất." Nghĩa là, không có gì mãnh liệt hơn sắc dục, lòng tham đắm nữ sắc là tai họa vô biên, bất tận. Nhiều người càng già càng ham mê sắc dục, nên nói rằng, đó là tham vọng không bờ bến!

Tôi rất thích hai bài thơ: Ái dục quấn quanh chẳng dứt rời, Phiền não theo cùng mãi nổi trôi, Ngục tù quan lại còn ân xá, Gia nghiệp trói người chẳng thứ thôi.

Lại:

Năm này qua năm khác Việc cứ mãi dây dưa Da nhăn màu héo úa, Tóc bạc tủy khô già.

Gió lạnh nổi da gà Xương cũng hao mòn hết. Thiếu nước sao chịu nhiệt Thiếu lửa sao chịu lạnh. Thân ảo như bọt nước, Tứ đại chẳng bền lâu.

Tôi thường suy ngẫm về hai bài thơ này. Có người hỏi tôi: "Sắc đẹp có đáng yêu không?" Tôi đáp: "Vừa đáng yêu vừa đáng sợ!" "Tại sao vậy?" "Nếu yêu thích nó, ắt bị nó trói buộc. Nếu xa lánh nó, ắt bị nó oán hận!" "Vậy phải đối phó thế nào?" Tôi đáp: "Cần dùng tâm quán chiếu thấu suốt, giữ tâm thanh tịnh vô vi để tránh thị phi."

Đây chính là: Trên nền lưu ly không chút bụi, Tĩnh tọa kinh hành thật thảnh thơi, Gấm vóc dệt thành hàng cây lá, Son phấn vẽ nên những lầu đài, Mưa hoa rơi rắc khắp thiên hạ, Mây thơm lan tỏa Bồ Tát về, Chốn nào chợt sinh Phật tử mới, Sen hồng lại thấy một đóa khai. Tâm ta ở nơi đâu? Tâm chính là Phật.

07. Bay trên đầu ba tiên nhân

Tôi tu thiền định, ngồi thẳng lưng vô niệm. Đỉnh đầu mở ra, hiện lên ba luồng ánh sáng, chính là Phật quang, linh quang và kim quang. Ba luồng ánh sáng này phóng ra thu vào, thẳng tắp xuyên lên tận mây xanh.

Đây là một bài thơ: Điểm đầu sợi tóc thông tin tức Khắp cõi rõ ràng không ẩn che Cực tĩnh đỉnh nhãn chợt lấp lánh Trong cửa trần lao ngập ánh vàng. Tự mình thấu suốt tự mình biết Tám vạn hào quang hỏi được ai. Mình ta đảm đương mình ta hiện Trên đỉnh Tu Di đội Tu Di.

Vào lúc đó, có ba vị tiên nhân từ xa đến, định bay qua đỉnh đầu của tôi. Do ba luồng ánh sáng hình thành, chiếu khắp trời đất, uy quang tràn ngập hư không, thật không thể tưởng tượng, khiến thần thông bay lượn của ba vị tiên nhân không thể tiến lên được.

Ba vị tiên nhân này, một vị là La Thông tiên nhân, hai vị còn lại là Tĩnh Hàm tiên nhân và Tĩnh Bích tiên nhân, cả ba vị đều vô cùng kinh ngạc. Tĩnh Hàm tiên nhân nói: "Ta Bà thế giới vốn đục ngầu không trong, đây là người nào vậy?" Tĩnh Bích tiên nhân nói: "La Thông tiên nhân, ngài đã tu được thiên nhãn thông, sao không nhìn thử xem?"

Thế là, La Thông tiên nhân liền dùng thiên nhãn quan sát, sau khi nhìn xong, vô cùng kinh ngạc: "Ôi! Trên đời sao có chuyện như thế này! Sao lại có người như thế này! Tôi dùng thiên nhãn quan sát mà không biết người này là ai!" Ba vị tiên nhân đều sững sờ. Tĩnh Hàm tiên nhân hỏi: "La Thông tiên nhân, thiên nhãn không thể đo lường được, vậy đó là ai?" La Thông tiên nhân đáp: "Thiên nhãn của tôi có thể thấy được tâm người ác, cũng có thể thấy được tâm người thiện, một người giữ năm giới, tôi chỉ cần nhìn là biết. Còn có các vị tiên nhân trên trời, tôi đều có thể quan sát rõ ràng. Thậm chí ánh sáng trên thân Tu Đà Hoàn, ánh sáng trên thân Tư Đà Hàm, ánh sáng trên thân A N Hàm, ánh sáng trên thân A La Hán, tôi đều có thể phân biệt được. Còn có các vị Bồ Tát, Bích Chi Phật, tôi cũng có thể phân biệt. Cho dù là chư Phật ba đời, tôi cũng có thể biết đó là chư Phật ba đời!"

"Vậy người này là ai?" - Tĩnh Hàm tiên nhân hỏi. La Thông tiên nhân đáp: "Trừ phi người này đang nhập vào đại thiền định vô thượng của vô thượng thượng 'vô niệm vô trụ vô tu vô chứng', nếu không thì tôi không thể nào không thấy được!"

Hai vị Tĩnh Hàm và Tĩnh Bích nghe xong, đều không thể tưởng tượng nổi, vẻ mặt vô cùng kinh ngạc. Ba vị tiên nhân chắp tay, cùng nhau cầu xin tôi xuất thiền định. "Xin hãy xuất thiền định! Chúng tôi tuy là ba vị tiên nhân thông minh trí tuệ, tuy tinh tấn dũng mãnh vô song, tuy tu hành đã mười kiếp, nhưng vẫn hết sức ngưỡng mộ bậc thánh nhân đang trong thiền định vô thượng!"

Tôi xuất thiền định, chắp tay chào ba vị tiên nhân. Ba vị tiên nhân hỏi tôi: "Ông là ai?" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." "Ôi!" - Ba vị tiên nhân kinh ngạc. "Thế gian Ta Bà đồn ông là tà đạo!" - La Thông tiên nhân nói. Tôi đáp: "Lời đồn sao có thể dễ dàng tin được, điều đáng tin nhất chính là sự thật." Ba vị tiên nhân hỏi tôi: "Làm sao nhập vào đại định 'vô niệm vô trụ vô tu vô chứng'?"

Tôi đáp: "Thế giới Ta Bà này hay ba cõi trời, vốn là thế giới của ham cầu, vì có ham cầu nên mới có trời và người. Người thực sự có trí tuệ, hiểu được tâm vô vi, chỉ thuận theo duyên mà chuyển, sinh ra khổ lạc không hữu. Chỉ cần người thực sự giác ngộ, khi vào cảnh giới tịch tĩnh niết bàn, hiểu rằng có cầu ắt khổ, vô cầu tất lạc, đạt đến trạng thái vô tham không còn mong cầu, lúc ấy vạn hữu đều không, không vô sở không, lạc vô sở lạc. Đó chính là đại thiền định 'vô niệm vô trụ vô tu vô chứng'." Ba vị tiên thốt lên thật không thể nghĩ bàn. Ba vị tiên nhân nói với tôi: "Sao không truyền pháp cho người?" "Đã truyền rồi!" - Tôi đáp. "Vậy thì người đời sẽ thành Phật." - Ba vị tiên rất mừng. "Không dễ đâu." "Tại sao vậy?"

Tôi thở dài: "Người tu hành hiểu rõ rằng có cầu ắt khổ, không cầu sẽ được vui. Nhưng, người đời mãi mê muội, biết thì biết vậy, nhưng làm không được." Ba vị tiên cũng than thở: "Người đời ai cũng biết thần tiên tốt đẹp, chỉ là danh lợi không thể quên!" Tôi hỏi lại ba vị tiên: "Các vị tu pháp gì mà thành tiên được?" Ba vị tiên đáp: "Chúng tôi dùng pháp điều tức, tức là điều dưỡng chân khí tiên thiên, cho đến khi xuất huyền nhập tẫn, đạt được thiên nhất thần thủy, thấm nhuần trăm nghìn kinh mạch toàn thân. Lúc này, mầm thuốc tự nhiên sinh ra, chân dương nguyên thần bắt đầu vận chuyển, xuyên qua tam quan, chuyển đến ngũ đỉnh. Đến được ngũ đỉnh, thật ngọt ngào miên man, kỳ diệu khó tả, vô hạn cảnh vui sinh khởi, kết thành một hạt thánh thai. Thánh thai này chính là cửu khúc châu, hào quang rực rỡ, một điểm linh tính thành tựu tiên đạo."

La Thông tiên nhân đặc biệt chỉ rõ: "Chúng tôi tu pháp Tam gia quy nhất, trong thân người có tinh khí thần, tinh khí thần quy về trong một tính, luyện thành công phu Tam hoa tụ đỉnh. Còn Ngũ khí triều nguyên, tức là tâm can tỳ phế thận trong thân người, thiên ngũ sinh thổ, là trung ương Ất Mậu, sau khi thông suốt một khiếu, điều chuyển hô hấp, liền đưa Ất sang Mậu, khiến Ất Mậu nhị thổ trở về tiên thiên, thu lấy tinh hoa ngũ tạng, quy về tiên thiên nhất tính, luyện thành Ngũ khí triều nguyên." Tĩnh Bích tiên nhân nói: "Tam hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều nguyên, đợi khi thời khắc đến, chính là người tu tĩnh mấy xuân thu, vô cùng vô tận biết bao giờ nghỉ, một tiếng hống vang kinh động trời đất, chấn vỡ càn khôn bốn cõi châu."

Ba vị tiên nhân hỏi tôi: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, hiện giờ tu hành thế nào?" Tôi đáp: "Quét nhà." "Quét nhà?" - Ba vị tiên cười. "Quét nhà chẳng phải là Thổ ở trung ương Ất Mậu sao?" Ba vị tiên chợt tỏ ngộ. Lại hỏi: "Ngoài quét nhà ra, còn tu như thế nào?" Tôi đáp: "Giặt quần áo." "Giặt quần áo ư? Có nhầm không vậy?" Tôi đáp: "Giặt quần áo chính là thanh lọc khí của ngũ tạng đó!" Ba vị tiên lại chợt tỏ ngộ. Lại hỏi: "Vậy còn tu pháp gì nữa?" Tôi đáp: "Lau nhà." "Lau nhà là sao?" - Ba vị tiên lúng túng. Tôi nói: "Khi tôi lau sàn nhà, tôi là hành giả thanh tịnh. Tôi biết chúng sinh có nhiều ô uế, vì muốn tẩy trừ những nhơ bẩn của chúng sinh mà ngày ngày tôi lau sàn. Hạnh thanh tịnh này của tôi, trước hết là xa lìa ô uế của chính mình, sau đó mới xa lìa ô uế của chúng sinh. Không chỉ tự độ mà còn độ người, không chỉ tự lợi mà còn lợi người. Lau sàn nhà chính là đạo bồ đề trang nghiêm vậy." "Quét nhà, giặt quần áo, lau sàn là tu hành sao?" "Đúng vậy." - Tôi nghiêm trang đáp. "Đây là pháp tu gì vậy?" "Vô tướng tu hành." "Vô tướng tu hành tu như thế nào?"

Tôi đáp: "Tâm của Chân Phật."

Tôi ngâm một bài kệ, đó là "Bài tụng của Đạt Ma Đại sư", dần dần vang xa:

Trên đỉnh Lăng Già ngồi bảo nhật Giữa có kim nhân khoác áo vải Hình như đại địa thể như không Tâm tựa lưu ly sắc như tuyết Không mài không đánh vẫn sáng trong Vén mây cuốn sương tâm thấu suốt Dùng đóa sen thơm trang nghiêm thân Tùy duyên xúc cảnh luôn hoan hỷ. ...

Ở đâu đi đâu cũng quy tịch. Chưa từng nghẹn ngào trong tịch tĩnh. Dùng cánh tay này để truyền đèn. Sinh tử đến đi như ánh chớp. Nếu ai chí thành tâm không nghi Lửa kiếp thiêu đốt đèn chẳng tắt. Một pháp chân như luôn tồn tại Chưa ngộ cứ mê sẽ tắt thôi.

Ba vị tiên chắp tay tiễn tôi. Pháp tu của tôi chính là: "Quét nhà, giặt quần áo, lau sàn nhà vậy!" (Dạy bằng thân còn hơn dạy bằng lời.)

08. Tìm người yêu

Có một người đàn ông tên là Du Câu đến hỏi tôi về duyên phận hôn nhân. Tôi hỏi: "Có bạn gái không?" Anh ta đáp: "Không." Tôi khép hờ mắt rồi mở ra và nói: "Không phải là không có, mà là có đến ba người mới đúng, phải không?" Du Câu ngỡ ngàng, ấp úng không thốt nên lời.

Cuối cùng anh ta nói: "Vì có đến ba người, nên chẳng thể quyết định được nên cưới ai, vì vậy, vì vậy, mới nói là không có." Tôi bảo anh ta: "Tuyệt vời thay! Tiếng đàn tuyệt vời, mênh mông vô bờ, khúc nhạc như dòng nước chảy trên non cao ấy, người phụ nữ đó mới chính là có duyên với anh." Du Câu hỏi: "Thầy nói vậy là sao?" Tôi đáp: "Tôi thấy một thiếu nữ trẻ trung đang gảy đàn cổ tranh, tiếng đàn của cô ấy như núi non hùng vĩ, như nước chảy mênh mang, người này mới chính là vợ tương lai của anh." Du Câu kinh ngạc: "Sao thầy biết được trong ba người có một người là giáo viên dạy đàn cổ tranh?" Tôi trả lời: "Đó chính là thần tướng." Tôi nói thật với Du Câu: Trong tâm có người. Trên tướng có người. Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu.

Ý tôi là, anh có ba người bạn gái, nhưng thực ra trong lòng anh đã có sự cân nhắc rồi. Trong tâm anh hiện ra ba người, trên tướng mạo cũng hiện ra ba người. Trong số đó, có một người gảy đàn cổ tranh, phát ra âm thanh tuyệt diệu, âm thanh này hòa hợp với tai nghe, lòng anh đã tràn ngập những khúc nhạc tuyệt vời, và trong ba người, người này chính là người đồng điệu với anh! Du Câu hỏi: "Thầy nhìn thấy được sao?" "Phải." "Thầy cũng nghe được sao?" "Phải." Du Câu kính phục nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn quả nhiên là bậc thần tướng." Về sau Du Câu quả nhiên cưới cô gái dạy đàn cổ tranh làm vợ.

🌟

Tôi nêu ví dụ này để giải thích rằng "tướng do tâm sinh". Trình độ cao nhất của việc xem tướng chính là nhìn thấu tâm của người đó, thấy được họ đang nghĩ gì. Những gì người ta nghĩ trong tâm sẽ hiện lên phía trên đầu, có thể hiện ra hình tướng của những suy nghĩ trong tâm, hoặc trên đỉnh đầu, hoặc ở giữa trán, hoặc ở thái dương. Điều còn vi diệu hơn nữa là không chỉ thấy được hình tướng mà còn nghe được cả âm thanh. Vì vậy tôi nói: "Tu hành ở tâm, không phải ở hình thức." Nghĩa là, tu hành trước tiên phải nhiếp phục tâm mình. Bề ngoài bạn có tỏ vẻ giữ giới nghiêm túc, không biểu hiện qua hành vi, vẻ ngoài trang nghiêm thiêng liêng, nhưng trong tâm đã lén lút nuôi dưỡng những vọng tưởng dâm dục từ lâu. Trong mắt tôi, chỉ cần nhìn là thấy ngay.

Có một vị đại hòa thượng, tướng mạo rất tốt. Tôi chỉ khẽ cười khinh thường. Người ta hỏi tôi "tại sao". Tôi nói: "Tâm ý ông ấy rối như tơ vò, ngay cả một niệm cũng không đạt được, huống chi là vô niệm!"

Người học Phật, Phật do tự tâm tạo thành, rời khỏi cái tâm này thì tất cả chỉ là hình thức bề ngoài mà thôi, tâm chính là Phật, Phật chính là tâm! Ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm, nhưng chúng sinh điên đảo, không biết tự tâm là Phật.

Nói một cách nghiêm túc: Niệm Phật là để đạt nhất tâm, tụng kinh là để được trí tuệ, giữ giới là để được sinh về trời, bố thí là để được phúc báo. Nếu không minh tâm kiến tính, muốn tu hành thành Phật là không thể đạt được. Hãy suy nghĩ kĩ! Hãy suy nghĩ kĩ!

09. Bi tình ở Cố Cung

Tôi viết vài câu về Cố Cung (Tử Cấm Thành), những gì tôi viết khác với cái nhìn của người thường:

Thăm Tử Cấm Thành, vốn là ngắm hoàng cung thuở xưa Đây là niềm vui, nhưng cũng là nỗi bi thương Hoàng thành kín cổng cao tường, ai người lộ mặt Chẳng thấy được mặt vua Minh Thanh Cũng chẳng thấy được mặt hoàng thân quốc thích Mái ngói thành nối tiếp mái ngói thành Nỗi bi thương nối tiếp nỗi bi thương Tôi có điều muốn nói Sao Sùng Trinh Trân Phi Và cả Phổ Nghi Chỉ còn lại ba dãy bảy tòa trống trải Treo lên vầng trăng cô độc sáng vằng vặc. ...

Khi tôi đi trong Cố Cung, cảm xúc dâng trào vô hạn. Tòa hoàng thành còn lại từ lịch sử này chứa đựng vô vàn câu chuyện kể không hết, nơi đây hiển nhiên là nơi tráng lệ, hùng vĩ, khiến người ta xúc động dạt dào, bản thân tôi cũng đắm chìm trong không khí uy nghi của Cố Cung như một thực tại ảo.

Thế nhưng, trong hoàng thành, nghĩ đến những cuộc tranh giành quyền lực khốc liệt nơi cung đình, đủ loại thủ đoạn độc ác, cay nghiệt, hèn hạ, không từ thủ đoạn nào để tiêu diệt đối thủ, nơi đây có kẻ nói dối, trộm cắp, lừa đảo, cướp bóc...

Nhưng dưới dòng chảy của lịch sử: Hoàng đế. Văn võ bá quan. Hoàng thân quốc thích. Hoàng hậu phi tần. Trong những tình tiết nhạt nhẽo, tẻ nhạt, hay cao trào, tất cả đều trôi vào cõi vô thường kỳ diệu của "đời người ngắn ngủi". Để lại những câu chuyện lịch sử "đa dạng muôn màu", hoàng thành thuở xưa, tiếng người ồn ã, vang mãi không thôi. Cố Cung ngày nay cũng vẫn ồn ã tiếng người như vậy, vang mãi không thôi, đó chính là nỗi bi thương của Cố Cung.

🌟

Trong cõi u minh, tôi đã từng gặp Hoàng đế Sùng Trinh, tôi hỏi ông một câu hỏi rất ngớ ngẩn. "Tại sao bệ hạ lại tự vẫn?" "Ta đau khổ tột cùng!" "Dù có đau khổ đến đâu, cũng phải sống một cách có ý nghĩa." - Tôi nói. "Chỉ còn hai con đường." "Hai con đường nào?" "Tự sát hoặc bị giết." "Bệ hạ chọn…" "Tự vẫn còn giữ được chút tôn nghiêm!" - Hoàng đế Sùng Trinh nói: "Không phải ta hèn nhát, không phải ta sợ hãi, không phải ta phiền não, đây là định mệnh, là định mệnh đau khổ của đế vương, khi định mệnh đã đến, ta chọn cách từ bỏ cuộc sống một cách trang nghiêm." Nghe xong, lòng tôi không khỏi run rẩy.

Trong cõi u minh, tôi cũng gặp một người dân thường tự tử. Tôi cũng hỏi anh ta: "Tại sao anh lại tự vẫn?" Đáp: "Sống quá phiền não." "Phiền não chuyện gì?" "Tiền!" "Tiền thì kiếm là có mà!" - Tôi nói. "Số tiền tôi nợ không phải là có thể kiếm để trả được. Chủ nợ kéo đến tận cửa, người đòi nợ bức bách, trước khó khăn này, chỉ còn cách từ bỏ cuộc sống, lúc này chết là dễ nhất, nhắm mắt một cái là xong hết, còn sống thì quá khó khăn." Tôi nghe xong mà bàng hoàng. Tôi lẩm bẩm: "Lẽ nào không còn con đường thứ hai sao?" Anh ta hỏi lại: "Còn đường nào nữa?" Tôi nhất thời không trả lời được.

🌟

Gần đây tôi nghiên cứu về vấn đề tự tử, và nhận ra một sự thật không thể tránh khỏi: trước đây tôi cho rằng phần lớn những người tự tử đều là kẻ ngu ngốc, hoặc không có lý do rõ ràng, hoặc hành động trong mơ hồ. Nhưng thực tế, không hoàn toàn như vậy.

Ví dụ: Hoàng đế Sùng Trinh. Tôi hỏi mọi người: "Nếu bạn là Sùng Trinh, bạn sẽ làm gì?" Không tự vẫn cũng khó. Ngược lại, tự vẫn lại dễ. Bỏ khó chọn dễ, đó là lẽ thường tình.

Tất nhiên, những người phản đối tự tử sẽ nói "sống thật tốt", "sống thì vẫn còn hy vọng". Nhưng, đứng ở vị thế của Hoàng đế Sùng Trinh, quân địch đã đến chân thành, người thân đều mất, văn võ bá quan, kẻ đầu hàng đã đầu hàng, người chết đã chết, không còn đường lui. Sống có thật sự tốt không? Sống có còn hy vọng không?

Trong tình huống này, tôi thử đặt mình vào vị trí của Hoàng đế Sùng Trinh để tìm lối thoát:

Tôi sẽ vỗ tay cười lớn: "Có duyên thì ở, vô duyên thì đi, mặc cho gió nhẹ đưa mây trắng trôi." Mọi sự mọi vật trong thế gian này đều do duyên số định sẵn, Hoàng đế Sùng Trinh lên ngôi từ năm 16 tuổi, cũng đã từng nỗ lực chấn hưng đất nước.

Đáng tiếc quốc lực đã suy, tệ nạn quá sâu, muốn vực dậy mà không còn sức. Sùng Trinh đã làm hết những gì có thể làm, nhà Minh đến tay ông, đó là vận số của quốc gia. Riêng cá nhân ông hối tiếc vì sinh ra trong hoàng tộc, nhưng sinh ra là hoàng tử, đi đến bước này cũng là do số mệnh sắp đặt. Muốn oán trách ai cũng không thể oán trách được ai, như lời Phật dạy, một miếng ăn miếng uống đều có định số, đã là định số thì chi bằng vỗ tay cười lớn.

Phật dạy tùy duyên, đây chính là tùy duyên. Khi một người sắp chết, khó lòng giữ được tâm bình thản, tuy nhiên, nếu một người lấy thái độ nhập thế để vun đắp cuộc đời, rồi lại dùng thái độ xuất thế, không còn ham muốn với thế sự, thì quả thật có thể siêu thoát trần thế, có thể tùy duyên với khổ vui, có thể tùy duyên với được mất. Cảnh giới tùy duyên, tuyệt diệu biết bao!

Lúc này: Một lòng quyết tử, cất tiếng cười vang! Một lòng chịu chết, ha ha cười lớn! Đó chính là cảnh giới tùy duyên của gặp gỡ, thích nghi, thuận theo và an vui. Vấn đề của duyên, thật không thể tưởng tượng được. Vấn đề của nhân quả, thật không thể tưởng tượng được.

Ai cũng biết vận mệnh là vô thường, thường khi con người đạt đến đỉnh cao của cuộc đời, tai ương liền âm thầm giáng xuống, phúc chính là họa, họa chính là phúc, phúc họa vốn tương sinh.

Khi tai họa ập đến, hãy cắn răng chịu đựng! Hãy nuốt nước mắt vào trong! Hãy cố gắng rút con dao găm trên lưng ra, hãy cố gắng vượt qua thung lũng tử thần, hãy cố gắng tái sinh từ ngọn lửa, hãy cố gắng thoát khỏi nỗi sợ hãi kinh hoàng. Nước mất, nhà tan, danh tàn, tiền cạn...

Khi mọi hy vọng trong cuộc đời đều bị chôn vùi, một người giác ngộ phải nghĩ như thế này: đây là số mệnh do trời định sẵn, vận số của bản thân, chính là phải đi đến bước này mới có ý nghĩa, mới có hàm ý sâu xa, mới có thể cảnh tỉnh người đời. Khi mọi nỗ lực đều trở nên vô ích, tất cả hóa thành tro bụi, rơi xuống vũng bùn sâu thẳm, lúc này mới thực sự lĩnh ngộ. Bình tâm tĩnh khí đón nhận vô thường. Vô ngã tất yếu của cuộc đời. Mơ hồ, mơ hồ, có và không, được và mất đều như nhau, đó là Niết bàn.

🌟

Khi tôi đi ngang qua Cố Cung, tôi cũng nhớ đến nỗi bi thương của một vị cao tăng. Vị cao tăng này đã đắc đạo, ngài có thần thông tự tại, thấu suốt được núi ngũ uẩn, vượt qua sông sinh tử, mọi nghiệp lực không còn trói buộc được Pháp thân của ngài. Pháp thân này không sinh không diệt, không tăng không giảm, không nhơ không sạch, không tốt không xấu, không đến không đi, không đúng không sai...

Cao tăng quán xét, trong nhân duyên của mình, còn một sát nghiệp chưa giải. Thế nên, cao tăng từ biệt các đệ tử! Cao tăng rời khỏi tự viện của mình! Cao tăng dặn dò mọi việc, không đem theo thị giả! Ngài đi đến một thành phố xa xăm khác, tại nơi đó, ngài bị một kẻ vô lại xa lạ giết hại! Nghiệp duyên đã trọn! Có thể mỉm cười chấp nhận bị giết!

Tôi chợt hiểu ra ý nghĩa sâu xa trong cái chết của Hoàng đế Sùng Trinh! Tôi chợt hiểu được sự cam tâm tình nguyện của vị cao tăng khi bị giết!

10. Biến và bất biến

Có một đệ tử đến hỏi tôi: "Thưa Sư Tôn, Phật tính là bất biến hay biến đổi?" (Đây là một vấn đề lớn.) Tôi không trả lời, im lặng. Đệ tử lại hỏi: "Sư Tôn biết hay không biết?" Tôi nói: "Bạn hãy đọc một công án thiền, đó là cuộc đối thoại giữa Thiền sư Tam Tạng và Thiền sư Huệ Hải, rồi sẽ hiểu." Người đệ tử gãi đầu, tự mình đi đọc sách.

Công án này như sau: Thiền sư Tam Tạng hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Xin thầy cho biết, Phật tính rốt cuộc có biến đổi hay không?" Thiền sư Huệ Hải đáp: "Có biến đổi." Thiền sư Tam Tạng nói: "Thầy nói sai rồi, Phật tính là bất động." "Tôi không sai, chẳng qua ông không có Phật tính mà thôi!" - Huệ Hải nói. "Ai bảo tôi không có Phật tính, tất cả chúng sinh đều có Phật tính." - Tam Tạng không hiểu hỏi. Thiền sư Huệ Hải đáp: "Nếu nói Phật tính không biến động, vậy làm sao chuyển tham sân si thành giới định huệ, làm sao chuyển lục thức thành lục thông, làm sao chuyển phiền não thành bồ đề, chuyển vô minh thành trí huệ bát nhã. Nếu chân như bất biến, thì tất cả đều không thể chuyển, phải không?" Thiền sư Tam Tạng không nói được gì. Rồi Thiền sư Tam Tạng nói: "Như vậy xem ra, chân như Phật tính là có thể biến đổi."

Thiền sư Huệ Hải chuyển hướng câu chuyện: "Phật tính là bất biến, nếu Phật tính có thể biến, vậy còn là Phật tính nữa không?" Thiền sư Tam Tạng không nhịn được nữa: "Sao lúc thầy nói biến, lúc nói bất biến, là đạo lý gì vậy?" Thiền sư Huệ Hải đáp: "Cần biết rằng một người giác ngộ, sau khi thấy được Phật tính, sẽ hiểu được mối quan hệ giữa Phật tính và vạn vật. Dù biến hay bất biến, tất cả đều là Phật tính. Ngược lại, nếu chưa thấy được Phật tính, biến cũng không phải, không biến cũng không phải." Thiền sư Tam Tạng trầm ngâm suy nghĩ, vô cùng kinh ngạc!

🌟

Từ "biến" và "bất biến", tôi liên tưởng đến ba vấn đề:

Có vị pháp sư xuất gia đến thỉnh giáo tôi: "Chúng tôi là người xuất gia, sống ở Lôi Tạng Tự, hàng ngày quét dọn chùa, tiếp đón khách thăm, mua sắm cho nhà bếp các thứ, bận rộn không ngớt, đến thời gian tự tu tập cũng không có, như vậy có đúng không?"

Lại có vị pháp sư khác nói: "Thầy xem vị pháp sư kia, ở Lôi Tạng Tự, suốt ngày ngồi trong thiền phòng của mình, không quét dọn sân chùa, cũng chẳng tụng kinh lễ sám, chẳng làm việc gì cả, ai gọi cũng không nhúc nhích, nói rằng đang tham thiền, người ngoài không được quấy rầy, vị pháp sư như vậy, ngoài ăn cơm ra thì chỉ tham thiền, như thế có đúng không?"

Lại có các pháp sư tranh luận với nhau: Một vị nói: "Ẩn cư phải vào núi sâu!" Vị khác nói: "Ẩn cư phải ở chốn thị thành!" Lại có người bảo: "Phải ở giữa trần thế chuyển đại pháp luân độ chúng sinh mới đúng?" Hoặc là: "Ẩn cư vĩnh viễn không ra đời mới đúng?"

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng, những nghi hoặc này chính là vấn đề của "tâm". Một người có tâm tự tại và tâm giải thoát, dù làm bất cứ việc gì, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều có sự tu dưỡng và kiến giải xuất chúng. Người như vậy, làm gì cũng đều đúng.

Nói cách khác, một người có tâm không tự tại, tâm chưa giải thoát, dù họ làm gì đi nữa, đều điên đảo khắp nơi, chướng ngại khắp chốn, phiền não khắp chỗ. Những người như vậy, hoàn toàn không thể chuyển hóa, chưa thấy được Phật tính!

Tôi nói với mọi người: Những nghi hoặc lớn, vấn đề lớn của thế gian này, biến và bất biến, động và tĩnh... Câu trả lời đều nằm ở chỗ: "Tâm của bạn có tự tại không? Tâm của bạn có giải thoát không? Tâm thống nhất tất cả, tâm sinh thì vạn pháp sinh."

11. Tì kheo thanh tịnh

Trong đạo Phật, người xuất gia nam gọi là tì kheo, nữ gọi là tì kheo ni, hai chữ "tì kheo" này vốn là từ tiếng Phạn.

Tì kheo có ba nghĩa: Thứ nhất, phá ác - không làm các điều ác, làm tất cả điều thiện. Thanh tịnh thân, khẩu, ý của mình. Thứ hai, khất sĩ - trên cầu quả Phật, mong đạt được trí huệ Như Lai, dưới hóa độ chúng sinh, mong mọi chúng sinh đều thành tựu quả Phật. Thứ ba, trừ ma - nếu thật sự xuất gia, thiên ma ngoại đạo đều sẽ khiếp sợ, việc trừ ma này không nhất thiết là trừ ma bên ngoài, đôi khi là trừ ma ngũ uẩn trong tâm mình.

Cá nhân tôi cảm thấy, người đời nay, vì tu hành mà hoàn toàn từ bỏ nhập thế, chọn con đường xuất thế để trở thành tì kheo thanh tịnh, điều này đương nhiên rất tốt. Bởi vì: "Đời người ngắn ngủi, phiền não chất chồng." "Ba cõi không an, tựa như nhà lửa." "Thế giới con người tràn ngập khổ, không, vô thường." "Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng, mỗi ngày ta sống là mỗi ngày sinh mệnh giảm bớt đi, như nước cạn dần mỗi ngày, cá sống trong đó có gì vui?" "Cuộc đời như điện chớp, tựa đá lửa." "Đời người như mộng huyễn bọt ảnh."

Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: "Phật dạy, từ biệt cha mẹ xuất gia, nhận biết tâm, đạt đến cái gốc, hiểu rõ pháp vô vi, gọi là sa môn. Thường hành trì hai trăm năm mươi giới, đi đứng thanh tịnh, tu tập bốn đạo chân thật, thành tựu A La Hán. Bậc A La Hán có thể phi hành biến hóa, thọ mệnh lâu dài nhiều kiếp, làm chấn động cả trời đất."

Người xuất gia trong đạo Phật là người rời bỏ gia đình thế tục, đến đạo tràng của Phật pháp tăng, vĩnh viễn không còn tham gia vào những việc thế tục nữa.

Tại sao không còn tham gia vào những việc thế tục nữa, những việc thế tục đó là: Một là gia đình. Hai là quyến thuộc con cái. Ba là sự nghiệp. Ba việc này, mỗi việc đều có phiền não tranh chấp, có rất nhiều nỗi khổ não xảy ra. Vì vậy, để đoạn trừ phiền não, để phát tâm bồ đề, để hiểu rõ Phật tính của mình, mới chọn con đường xuất gia.

Tôi nghĩ rằng: Người tại gia, dễ đánh mất "tâm". Người xuất gia, siêng tu giới định huệ, dập tắt tham sân si, chính là tu tâm pháp.

🌟

Có người hỏi tôi: "Tu hành tu tâm, nhất định phải xuất gia sao?" Tôi trả lời: "Xuất gia tất nhiên tốt. Nhưng nếu vì nhiều lý do không thể xuất gia, chỉ cần tâm xuất gia là được." "Thế nào là tâm xuất gia?" "Tuy thân chưa xuất gia, nhưng tâm thanh tịnh, đó chính là tâm xuất gia." "Làm sao để tâm thanh tịnh?" Tôi đáp: "Pháp tâm vô vi." "Thế nào là pháp vô vi?" "Vô vi nhi vi chính là pháp vô vi." - Tôi nói. "Vô vi nhi vi, nói đơn giản, là nghiêm túc làm mọi việc, nhưng không chấp trước vào thành quả được mất, không đặt trong tâm." - Tôi nhấn mạnh.

Tôi nói tiếp: "Nếu muốn đạt được trí huệ Như Lai, cần trực tiếp thấy được bản tính của chính mình. Bản tính này chính là người tự tại, là người vô sự, và là người vô tác. Sự tự tại, vô sự, vô tác, vô vi này chính là tâm xuất gia của tâm thanh tịnh." "Điều này thật thâm sâu khó lường!" Tôi đáp: "Đây chính là tâm pháp vậy."

Thành thật mà nói, thần thức (nguyên thần) của tôi có thể đi đến bất cứ nơi đâu, có thể tự tại phi hành trong mười pháp giới hư không, nhiều việc có thể tùy tâm như ý, có thể làm chủ sinh tử, có thể tự chủ sinh, tự chủ chết, khi thân này hư hoại có thể đổi sang thân khác, đây mới thực sự là Hoạt Phật.

Danh hiệu của tôi là Liên Sinh Hoạt Phật, ý nghĩa chân thật là: Liên - hành giả thanh tịnh như hoa sen. Sinh - hóa sinh trong thế giới Ta Bà. Hoạt - tất cả đều là tâm tự tại, tâm tự chủ. Phật - tượng trưng cho trí huệ Như Lai. Om mani padme hum.

12. Chân Phật Kinh phóng quang

Có một người lạ tên là Tống Viên. Anh đến kể cho tôi nghe một chuyện kỳ lạ. Anh theo một người bạn đến tham dự buổi pháp hội Chân Phật Bảo Sám ở Lôi Tạng Tự. Bản thân Tống Viên từ trước tới nay chẳng theo tín ngưỡng tôn giáo nào, anh ngẫu nhiên đến thăm bạn, vừa hay người bạn chuẩn bị đi ra ngoài. Anh hỏi bạn đi đâu, bạn nói đi tham gia pháp hội, anh ta cũng tiện và rảnh nên đi theo bạn tới pháp hội luôn. Người tham dự pháp hội cũng không ít, mỗi người được phát một cuốn Chân Phật Kinh. Anh lật lật sách, đọc một chút, thấy một câu chú: "Om guru liansheng siddhi hum.", Tống Viên cũng tò mò mà niệm mấy tiếng rồi ngáp một cái.

Tống Viên tìm một góc tường ngồi xuống, ngao ngán nhìn một đám đông người hát hát niệm niệm, quỳ quỳ lạy lạy. Thế rồi Tống Viên ngủ gật luôn. Trong giấc mơ, bỗng nhiên anh nghe thấy có người nói ngay bên tai anh: "Chân Phật Kinh này hay lắm!" "Chân Phật Kinh là bộ kinh quý cực linh nghiệm." "Chân Phật Kinh đem theo người có thể bảo vệ anh đó!"

Tống Viên tỉnh dậy, nhìn trái nhìn phải, chẳng có ai đang nói chuyện với anh cả, mọi người khác đều đang bái sám, chẳng có ai để ý đến anh cả. Tống Viên cảm thấy rất khó hiểu, đưa tay xoa xoa đầu, nhưng cũng không bận tâm.

Cuối cùng pháp hội Chân Phật Bảo Sám cũng kết thúc. Trước khi ra về, Tống Viên hỏi pháp sư của chùa: "Cuốn Chân Phật Kinh này thì sao?" Pháp sư trả lời: "Có thể tặng cho anh đó!"

Người bạn trước khi đi về còn cười với anh rằng: "Kinh sách miễn phí, cậu có thể lấy thêm mấy cuốn. Nhưng cậu lấy Chân Phật Kinh làm gì? Lẽ nào cậu về nhà niệm kinh sao?" Tống Viên mặt đỏ bừng: "Thì... cái này là mở sách ra là có lợi ích mà!"

Sau khi Tống Viên lấy Chân Phật Kinh về thì tiện tay cất Chân Phật Kinh trong chiếc tủ đầu giường ngủ. Một hôm, anh đột nhiên thấy chiếc tủ đầu giường của mình phát sáng, anh liên tiếp vài lần nhìn thấy những tia sáng kỳ lạ. Anh tìm trong tủ đầu giường. Chẳng có vật gì phát ra ánh sáng cả, chỉ có một cuốn Chân Phật Kinh.

🌟

Năm đó, đoàn thể công ty anh đi du lịch, thuê nguyên một chiếc xe du lịch loại lớn. Trước khi Tống Viên rời nhà đi thì anh lại một lần nữa nhìn thấy cuốn Chân Phật Kinh phát sáng. Tiện tay anh cầm lấy cuốn Chân Phật Kinh đặt vào trong ba lô hành lý, khoác ba lô trên lưng.

Đây là chuyến du lịch kéo dài 3 ngày 2 đêm. Vào ngày thứ hai, xe đi tới vùng núi, vùng núi này vừa mới trải qua một trận mưa lớn. Đường núi ngoằn ngoèo uốn khúc, hết khúc cua này lại tới khúc cua khác, nhưng tài xế vẫn không hề giảm tốc độ. Một vài đồng nghiệp nữ sức khỏe tương đối yếu mau chóng bị say xe, có một người còn bị nôn nữa. Tống Viên vẫn khỏe nên mau mắn lấy lọ "cao Con Hổ" đưa cho đồng nghiệp nữ kia. Tay anh cầm chiếc ba lô lên.

Thế rồi, chuyện xảy ra trong tích tắc. Chiếc xe du lịch loại lớn dường như mất điều khiển, từ trên đường bay lên không trung rồi rơi xuống vách đá vực sâu. Bởi vì khoảng cách giữa đường núi và thung lũng rất rộng nên toàn bộ người trên xe không còn ai sống sót. Chỉ có Tống Viên trên tay ôm ba lô, dường như có một sức mạnh rất lớn kéo anh ta, chiếc ba lô văng ra ngoài cửa sổ, còn cả người anh cũng bất ngờ bị kéo văng ra ngoài cửa sổ xe, dường như Tống Viên và chiếc ba lô đều cùng bị một lực kéo văng ra ngoài cửa sổ xe. Trước khi cả chiếc xe rơi xuống vực thì Tống Viên đã bị kéo văng ra ngoài xe rồi, anh ngã lên bãi cỏ bên đường, cánh tay chỉ bị trầy xước mà thôi.

Khi Tống Viên tỉnh táo lại thì chiếc xe du lịch đã lộn nhào mấy vòng và nằm im lìm bất động dưới thung lũng sâu. Toàn bộ người trên xe đều bất động, đồ đạc văng tán loạn tứ phía. Đây là một vụ tai nạn xe khách thảm khốc.

Mặc dù Tống Viên bị một phen vô cùng sợ hãi, nhưng anh là người duy nhất còn sống sót. Sau sự việc anh hồi tưởng lại, việc này nhất định là do cuốn Chân Phật Kinh đã cứu anh. Anh nghĩ lại buổi pháp hội Chân Phật Bảo Sám có người nói bên tai mình rằng: "Chân Phật Kinh đem theo người có thể bảo vệ anh đó!", rồi liên tiếp mấy lần anh nhìn thấy cuốn Chân Phật Kinh phát sáng, thế là Tống Viên bắt đầu niệm Chân Phật Kinh. Anh đã quy y Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Bất kể bên ngoài người ta chỉ trích Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn ra sao, anh từ đầu tới cuối vẫn vững chắc đạo tâm, không hề dao động. Anh thực sự cho rằng Chân Phật Kinh đã cứu anh một mạng.

🌟

Câu chuyện của Tống Viên khiến tôi chú ý. Đương nhiên tôi tin cuốn Chân Phật Kinh đã cứu mạng sống của Tống Viên, nhưng tôi lại có một suy nghĩ khác. Vì sao Chân Phật Kinh lại không thể cứu sinh mạng của tất cả mọi người trong xe, mà chỉ cứu mạng sống của mỗi một người chứ?

Đúng vào lúc tôi đang suy nghĩ như vậy, tôi phát hiện ra có một vầng hào quang đến gần, bên trong hào quang là một vùng núi rừng xanh biếc, trong rừng xuất hiện một vị thần, vị thần này nói với tôi: "Liên Sinh, thấy ngài có thắc mắc nên tôi đặc biệt tới đây nói cho ngài biết." "Ông là thần gì?" "Phúc Đức Chính Thần."

Phúc Đức Chính Thần nói với tôi, ông là vị Phúc Đức Chính Thần bảo hộ vùng rừng núi đó, là thần thổ địa của nơi xảy ra sự việc tai nạn xe du lịch. Phúc Đức Chính Thần nói, buổi tối trước ngày xảy ra vụ tai nạn xe, Phúc Đức Chính Thần vẫn như thường lệ, ông thắp một ngọn đèn thần. Cầm đèn trên tay, ông đi tuần cả vùng núi rừng, đi đến nơi có dòng chảy xiết của thung lũng, bỗng nhiên ông phát hiện ra Thất Gia tướng quân và Bát Gia tướng quân của miếu Thành Hoàng cầm theo khoảng một trăm lính quỷ hừng hực khí thế chiếm đóng khu thung lũng, trên tay mỗi quỷ đều cầm theo dụng cụ hình phạt, bộ dạng giống như muốn bắt người vậy.

Phúc Đức Chính Thần trông thấy Thất Gia, Bát Gia và lính quỷ có mặt tại đây liền biết là sắp có chuyện xảy ra, có tới cả trăm lính quỷ thì sự việc nhất định không hề nhỏ. Còn Thất Gia, Bát Gia cũng trông thấy Phúc Đức Chính Thần.

Phúc Đức Chính Thần tiến tới hỏi: "Tướng quân vất vả rồi, có chuyện gì mà tới đây?" Bát Gia tướng quân đáp: "Ở đây không có việc của ông, tiểu thổ địa ạ, ông mau về đi ngủ đi!" "Việc này…"

Bát Gia tướng quân nói: "Theo luật âm của miếu Thành Hoàng thì miếu thổ địa không được can dự." Phúc Đức Chính Thần lắp bắp nói: "Nhưng mà vùng núi non thung lũng này tôi vẫn luôn bảo vệ cẩn thận."

Thất Gia tướng quân nghe xong cảm thấy cũng có lý, ông không nói gì, từ trong áo lấy ra văn kiện truy nã. Phúc Đức Chính Thần vừa đọc xong thì kinh hãi, hóa ra là sẽ có tai nạn xe lớn, tổng cộng cần bắt 50 người, trong danh sách ghi rõ tên từng người một, tổng cộng là 50 người cả nam cả nữ.

Trong số đó có một người tương đối đặc biệt, đó là người cuối cùng trong danh sách 50 người, tên của người này chính là Tống Viên. Vì sao người này tương đối đặc biệt, bởi vì 50 cái tên khác đều có màu xám tro, chỉ có tên của người này là có một điểm ánh sáng. Phúc Đức Chính Thần hỏi: "Có cửa sống ư?" "Không sai." "Vì sao Tống Viên lại được sống tiếp?" "Người này có một cuốn kinh điển phòng thân bảo vệ." "Là kinh gì?" "Chân Phật Kinh."

Phúc Đức Chính Thần trong lòng đầy từ bi, nên ông cũng hỏi một vấn đề tương tự: "Kỳ lạ, trên xe có Chân Phật Kinh, vì sao không thể bảo vệ sinh mạng của mọi người trong xe, mà lại chỉ bảo vệ mạng sống của mỗi một người?" Bát Gia trả lời: "Tống Viên này đã đọc Chân Phật Kinh, cũng niệm tâm chú Liên Hoa Đồng Tử. Còn những người khác vẫn chưa biết Chân Phật Kinh, cũng chưa từng niệm tâm chú. Tất cả sinh tử đều có định số, giữa trời đất này, tất cả họa phúc, lành dữ đều có nghiệp tồn tại. Trời đất quỷ thần chỉ là người chấp hành, khi nào bắt chỉ là vấn đề thời gian mà thôi."

Phúc Đức Chính Thần nghe xong, trong lòng buồn bã, lê thê trở về miếu thổ địa nhỏ của mình.

🌟

Phúc Đức Chính Thần nói: "Bởi vì Liên Sinh Hoạt Phật thương tiếc cho vụ tai nạn xe này, cũng nghĩ tới câu hỏi tương tự, do vậy tôi mới hiện thân để nói cho ngài hay." Tôi chắp tay cảm tạ Phúc Đức Chính Thần. Phúc Đức Chính Thần rất hoan hỷ rời đi. Tôi đau lòng thay!

Thượng Thiên vốn rất ưu ái con người, do vậy mới đưa xuống rất nhiều kinh điển tu hành để cứu người. Những kinh chú này vốn đều là những lời dạy bảo chân thành, cũng là tấm lòng của Phật Bồ Tát, có thể nói giống như một sợi sinh cơ. Con người chỉ cần bám chắc lấy sợi sinh cơ này là có thể giữ được mạng sống, chỉ cần chăm chỉ đọc kinh niệm chú, mọi việc ác đừng làm, mọi việc thiện đều làm, thanh tịnh thân, khẩu, ý của chính mình, đưa vào thực hành trong cuộc sống hàng ngày, đây chính là con đường trở về cõi trời, cũng chính là con đường hóa giải tai họa, gia tăng phúc huệ.

13. Tượng Liên Hoa Đồng Tử uy linh hiển hách

Đệ tử Chân Phật Tông Trương Sâm tu trì pháp tương ứng Thượng sư đã có cảm ứng, trong giấc mơ, ông được đích thân được Căn bản Thượng sư ban cho nước quán đảnh.

Sau khi được ban nước quán đảnh trong mơ, ông tự nói rằng bản thân thực sự đã thay đổi. Khi đọc kinh điển, ông có thể ghi nhớ được. Đối với những câu chữ trong kinh Phật có ý nghĩa sâu xa mà trước đây không hiểu, từ đó về sau ông đều có thể lĩnh hội, vừa đọc là hiểu ngay. Trước đây ở nách ông có một cục u thịt to bằng viên bi, sau khi được nước quán đảnh, cục u thịt này tự động thu nhỏ lại, ngày càng nhỏ đi, nhỏ đến mức không thể nhìn thấy nữa, thực sự đã biến mất. Còn có một điều quan trọng nhất: Trương Sâm hỏi Căn bản Thượng sư: "Con có được vãng sinh không?" Căn bản Thượng sư trả lời: "Nhất định vãng sinh!"

Đêm đó, Trương Sâm đích thân đến cõi tịnh thổ của Liên Hoa Đồng Tử, tận mắt thấy được Ma Ha Song Liên Trì, được hưởng niềm vui thù thắng, pháp duyên thật đặc biệt!

Việc đích thân đến cõi tịnh thổ của Liên Hoa Đồng Tử, tận mắt thấy được Ma Ha Song Liên Trì này, theo lời Trương Sâm thì không phải là mơ, mà còn chân thật hơn cả mơ, rõ ràng từng chi tiết!

Những sự việc này được bố của Trương Sâm là Trương Truyền biết được, đáng tiếc Trương Truyền là người nổi tiếng "răng sắt". Trương Sâm mô tả quan điểm sống của bố mình: Một, chỉ tin vào tiền. Hai, không có quỷ thần. Ba, không có thiên đường địa ngục. Bốn, tôn giáo toàn là lừa đảo. Năm, con người cũng như các loài động vật khác, chết là hết, chẳng còn gì.

Trương Sâm hy vọng dùng sự cảm ứng của mình để tác động đến bố là Trương Truyền quy y theo Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích, Trương Truyền ngược lại còn khinh thường con trai, cho rằng Trương Sâm đã bị thôi miên. Trương Sâm tranh luận: "Cục u thịt nhỏ đi là sự thật!" Trương Truyền nói: "Là trùng hợp thôi." "Con hiểu được hết kinh Phật!" - Trương Sâm lại nói. Trương Truyền trả lời: "Đọc lâu thì tự nhiên hiểu." "Con đã đích thân đến Ma Ha Song Liên Trì!" "Ngày nghĩ gì thì đêm mơ thấy cái đó." - Trương Truyền trả lời. "Không phải mơ!" "Làm sao chứng minh?" Bố con cãi qua cãi lại, hai người tranh cãi đến đỏ mặt tía tai rồi giận dỗi bỏ đi.

Một ngày nọ, khi Trương Sâm vắng nhà, lúc trở về, anh phát hiện tượng Liên Hoa Đồng Tử trong mật đàn của mình đã biến mất. Anh nghĩ chắc chắn là bố đã lén lấy đi khi anh vắng nhà. Anh đi tìm bố, và bố quả thật đã thừa nhận. Anh yêu cầu bố trả lại tượng Sư Tôn Liên Hoa Đồng Tử. Bố Trương Truyền nói: "Tao đã đập vỡ nó trong cơn giận dữ." "Sao bố có thể làm vậy!" "Phá bỏ mê tín thôi." - Bố anh nghiêm giọng đáp. "Nghiệp tội đó!" "Tao không sợ." - Bố anh nói.

Trương Sâm rất đau lòng, bức tượng Liên Hoa Đồng Tử này đã được thờ phụng suốt mười năm, sớm tối anh đều thành kính cúng dường, đảnh lễ, tụng kinh, cầu nguyện, tu pháp... Bức tượng Liên Hoa Đồng Tử mà anh một lòng yêu kính, giờ đây đã bị bố đập vỡ, nhưng, đó là bố mình, anh vẫn phải thuận phục, đành phải nhẫn nhịn nuốt giận, rồi đi thỉnh về một bức tượng Liên Hoa Đồng Tử bằng đồng khác để thờ phụng.

Trương Sâm lo sợ việc bố mình đập vỡ tượng Liên Hoa Đồng Tử sẽ có báo ứng. Thế nhưng, chẳng có chuyện gì xảy ra. Trương Truyền vẫn bình an vô sự. Cứ mỗi lần gặp Trương Sâm, Trương Truyền lại nói: "Anh thấy chưa, phá bỏ mê tín là đúng đắn." Trương Sâm không nói gì.

Khoảng một năm sau sự việc đó, Trương Truyền do huyết áp cao, bị đột quỵ não và hôn mê nhập viện, bất tỉnh nhân sự. Hồn phách của Trương Truyền đến được âm phủ, bị quỷ sứ áp giải quỳ trước mặt Diêm La Vương, Diêm La Vương vô cùng nghiêm khắc. "Kẻ phá hoại tượng thánh, đưa vào đại ngục!" "Thật sự có địa ngục sao?" - Trương Truyền kinh hãi. "Sao lại không có, tất cả chúng sinh do lục thức tạo nghiệp, cảm ứng ác báo từ lục căn mà ra, đó chính là địa ngục. Kẻ ác nghiệp tràn đầy vào địa ngục A Tỳ, kẻ tạo đủ nghiệp từ lục căn vào địa ngục Vô Gián. Kẻ thân khẩu ý tạo sát đạo dâm vào mười tám đại địa ngục. Kẻ chỉ tạo một nghiệp vào ba mươi sáu ngục. Kẻ lục căn chỉ phạm một căn vào trăm lẻ tám ngục." "Thời gian ở địa ngục tính như thế nào?" Diêm Vương đáp: "Một ngày đêm ở địa ngục bằng một vạn sáu nghìn hai trăm câu-chi năm ở nhân gian." Trương Truyền lè lưỡi kinh hãi. "Một khi vào địa ngục, không có ngày thoát ra!"

Khi Trương Truyền sắp bị áp giải xuống địa ngục, bỗng thấy một người bước vào điện. Vừa nhìn thấy người này, Diêm La Vương lập tức bước xuống khỏi ngai để nghênh đón.

Trương Truyền nhìn thấy mà giật mình kinh hãi! Bởi vì người này không phải ai xa lạ, chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Hoạt Phật nói với Diêm La Vương rằng, người này là cha của đệ tử của ngài, tuy ông ấy không thích pháp tượng của ngài và đã phá hủy pháp tượng, nhưng bình thường ông không làm điều ác lớn nào, chỉ là do không hiểu biết mà thôi. Ngài không muốn bỏ rơi người này, mong Diêm Vương có thể tha thứ và cho ông ấy được hoàn dương.

Diêm Vương trả lời: "Vì hắn đã phá hủy tượng của ngài, nhưng ngài lại xin tha cho hắn, tất nhiên ta sẽ làm theo ý Hoạt Phật." Trương Truyền vừa nghe xong, trong lòng vô cùng vui mừng, không kìm được buột miệng hô to: "Om guru liansheng siddhi hum."

Thần chú này Trương Truyền đã nghe Trương Sâm tụng niệm không ngớt, trong lòng Trương Truyền thuộc nằm lòng, chỉ là miệng không chịu tụng mà thôi! Vừa niệm thần chú! Ầm một tiếng vang lớn! Trương Truyền tỉnh lại từ cơn hôn mê. Từ đó Trương Truyền quy y theo tôi.

Ngày quy y, Trương Truyền hỏi tôi: "Ngài đã xuống âm phủ cứu tôi phải không?" "Tôi không biết." - Tôi đáp. "Sao ngài lại không biết, rõ ràng là ngài mà."

Tôi mỉm cười, viết tặng Trương Truyền một bài thơ: Cảnh giới u minh thường hiện thân Khắp cõi đi về là lẽ thường Sóng ấm hoa đào, cá nhớ con Vô duyên độ thành người hữu duyên.

🌟

Có người hỏi tôi, tất cả tượng Phật đều được làm từ đất đá, keo sơn, vàng bạc đồng sắt, vốn dĩ chỉ là hình tượng giả, tại sao phải cung kính? Tôi trả lời: Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng, chúng sinh xây dựng già lam (chùa chiền), đúc tạc hình tượng, thắp hương rải hoa đốt đèn, ngày đêm sáu thời đi nhiễu tháp, giữ trai giới lễ bái, tất cả công đức ấy, đều thành Phật đạo.

Tại sao những việc này là công đức? Bởi vì những hành vi này có thể "nhiếp tâm", có được "nhất niệm nhiếp tâm" chính là tu tập nội tâm.

Tu hành cần đoạn trừ tam độc (tham, sân, si), phải luôn giữ thanh tịnh lục căn, thân tâm an định, trong ngoài thanh tịnh, đây không phải chuyện dễ dàng, cũng không phải ai cũng có thể lập tức thấu hiểu được Phật lý thâm sâu.

Do chúng sinh căn cơ chậm chạp, trí tuệ kém cỏi, không thể hiểu được Phật trí, nên phải bắt đầu tu từ "nhiếp tâm một niệm", tất cả tượng Phật đều như chân dung diệu tướng của Như Lai, chùa chiền như cõi Phật thanh tịnh.

Do đó: Lấy thân mình làm lò lửa. Lấy pháp làm lửa. Lấy trí tuệ làm người thợ khéo. Lấy lục độ ba la mật làm hình tướng. Rèn luyện chính mình thành Chân Phật.

Sau khi ngộ nhập Chân Phật mới có thể hiểu được ý nghĩa của sắc thân vi diệu thường trụ rốt ráo. Vì vậy tôi cho rằng, một người tu hành chân chính phải tu cả bên ngoài lẫn bên trong, nếu không sẽ dễ đi lạc đường.

Lại có người hỏi, tượng Phật vốn là tướng giả, tu hành là "mượn giả tu thật". Vậy thì việc thắp hương, rải hoa, thắp đèn, cúng trà, cúng quả là để làm gì? Tôi trả lời: Tuy tượng Phật là giả, nhưng ý nghĩa là để "nhiếp tâm một niệm". Ý nghĩa của việc thắp hương là để xông ướp các nghiệp ác vô minh hôi tanh, khiến tất cả đều tiêu tan, hương được thắp lên chính là hương của chính pháp vô vi.

Hương có năm ý nghĩa: 1. Hương giới - bỏ ác tu thiện. 2. Hương định - đạo tâm không thoái chuyển. 3. Hương tuệ - tự thanh tịnh nội quán. 4. Hương giải thoát - có thể đoạn trừ vô minh. 5. Hương giải thoát tri kiến - thông đạt vô ngại.

Ý nghĩa của việc thắp hương là thắp lên hương của thế gian để tiếp dẫn ý nghĩa chân thật của Như Lai! Nói về việc rải hoa, đó là thường nói chính pháp, những đóa hoa công đức, lợi lạc chúng sinh, ban rải khắp nơi, nơi chân như tính, trang nghiêm phổ thí, những đóa hoa công đức này được chư Phật tán thán!

Lại nói về việc thắp đèn: Lấy thân làm đế đèn. Lấy tâm làm tim đèn. Lấy hạnh làm dầu đèn. Lấy sáng làm lửa đèn. Đây gọi là đèn chính giác, chiếu phá tất cả vô minh tăm tối.

Tôi đã nói về ý nghĩa của thắp hương, rải hoa, thắp đèn, đó chính là khi người tu hành làm những việc này phải quán tưởng như vậy. Vốn dĩ hương, hoa, đèn... đều là những việc bình thường, nhưng một khi thâm nhập Phật pháp thì trở nên rất thâm sâu.

Ngoài ra, cúng trà, cúng quả cũng như vậy.

Lấy một ví dụ, khi chúng ta đảnh lễ tượng Phật, tuy đang lạy Phật giả, nhưng với "nhiếp tâm nhất niệm", thì cung kính Phật như Phật đang hiện diện. Lễ là cung kính, lạy là phủ phục, đó gọi là cung kính chân tính, khuất phục vô minh, đây chính là lễ bái. Không dùng tâm, tất cả đều là giả. Một khi dùng tâm, tất cả đều là thật. Chỉ đơn giản vậy thôi!

Lại có người thắc mắc hỏi: "Người đời nay đốt vàng mã thì sao?" Tôi đáp: "Trong kinh Phật không có việc này." "Đốt vàng mã không có trong kinh Phật, vậy có nên bỏ không?" Tôi đáp: "Đốt vàng mã, ai cũng hiểu đó là giả, nhưng tượng Phật cũng là giả, cúng hương, cúng hoa, cúng đèn, cúng trà quả đều là giả, tất cả đều là tác dụng của tâm. Đương nhiên đốt vàng mã cũng có tác dụng của tâm." "Liên Sinh Hoạt Phật tán thành hay không tán thành việc đốt vàng mã?" Tôi trả lời: "Không đốt vàng mã mà tâm an thì có thể không đốt, không đốt vàng mã mà tâm không an thì vẫn có thể đốt." "Vậy thì..." Tôi nói: "Chỉ là hai chữ ‘an tâm’ mà thôi!"

Nghi vấn cuối cùng là, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tại sao thầy lại để hình tượng còn sống của mình cho người đời lễ bái? Tôi trả lời: Đây là chuyện chúng sinh thời nay không thể hiểu được. Họ đem những nghi hoặc của thế gian áp dụng vào trí tuệ xuất thế gian. Một người đã giác ngộ, không còn sinh tử nữa, nghĩa là không sinh không diệt, tuy thân xác tôi còn sống nhưng tâm linh đã thành Phật từ lâu. Chân như Phật tính vốn không phải hình tướng phàm phu, vốn dĩ là vô tướng, dùng hình tượng của tôi chỉ để cầu một sự tương ứng, tương ứng với Căn bản Thượng sư mà thôi. Nói cho cùng, hình tượng này cũng chỉ là tạm thời, thân xác tôi rồi cũng già đi, vậy thì hình tượng này đâu phải là "tôi"!

Tượng Liên Hoa Đồng Tử tượng trưng cho bậc giác ngộ, người thờ phụng tượng tự quán chiếu: 1. Luôn nhớ nghĩ đến Căn bản Thượng sư không ngừng. 2. Tinh tấn trì giới tu hành không dứt. 3. Nhiếp tâm nhất niệm, đoạn ác hành thiện. 4. Minh tâm kiến tính, giác ngộ thành Phật.

14. Cứu người tốt khỏi khổ luân

Lý Đức là một doanh nhân lớn, đồng thời cũng là một nhà hảo tâm. Nói đến những việc thiện của ông, ai ai cũng biết đến. Ông là một tấm gương điển hình của phong trào "Người tốt việc tốt" toàn quốc. Hễ có thiên tai là ông quyên góp tiền cứu trợ, không bao giờ chậm trễ. Cứu giúp người nghèo khó, chỉ cần ông biết được là nhất định sẽ ra tay. Cúng dường tiền bạc, quan tài, thuốc men, xây trường học, phát học bổng, xây dựng viện mồ côi, viện dưỡng lão, giúp đỡ người khuyết tật, ông không bao giờ nề hà. Bắc cầu, làm đường cũng là do ông.

Khi vị đại thiện nhân này qua đời, tang lễ vô cùng long trọng! Một ngày nọ, có người tên Lý Ứng đến tìm tôi, viết tên một người lên giấy, nhờ tôi quan sát xem người này sau khi mất đã đi về đâu. Trên tờ giấy là hai chữ: "Lý Đức." Tôi hỏi: "Có phải đại thiện nhân Lý Đức không?" Lý Ứng trả lời: "Vâng đúng vậy. Ông ấy là bố tôi."

Trong lòng tôi nghĩ, Lý Đức là người mà tôi đương nhiên biết rõ, ai cũng biết ông ấy, ông là người làm việc thiện nổi tiếng nhất cả nước, thậm chí là người làm việc thiện nổi tiếng trên toàn thế giới, một người thiện như vậy chắc chắn sẽ được vãng sinh lên cõi trời, điều này không cần phải hỏi nữa.

Nhưng, tôi vẫn nhắm mắt lại. Tôi bỗng giật mình kinh ngạc, bởi vì câu trả lời của tôi, ngay cả bản thân tôi cũng không dám tin, tôi kéo Lý Ứng sang một bên. "Không xong rồi! Ông ấy đang ở địa ngục!" Lý Ứng tỏ ra khá bình thản, trả lời: "Chúng tôi biết." "Sao các người biết?" - Tôi hỏi. "Sau khi bố mất, mẹ tôi cảm nhận được, ông thường về nhà, tay đeo còng, chân mang xiềng xích, mặc quần áo rách rưới, đi tới đi lui trong phòng khách, thường làm mẹ tôi tỉnh giấc."

Lý Ứng nói: "Ban đầu chúng tôi hoàn toàn không tin lời mẹ nói, cho rằng vì bố vừa mới mất không lâu nên mẹ tinh thần hoảng hốt, ngày nghĩ gì đêm mơ thấy đó, suy nghĩ lung tung nên mới xuất hiện tình trạng này."

Lý Ứng nói tiếp: "Sau đó, hai em gái cũng mơ thấy tình trạng của bố không được tốt, như đang đối chất với ai đó trong địa ngục, rồi còn thấy một kẻ thù rút dao định giết bố, ngay thời khắc nghìn cân treo sợi tóc thì tỉnh giấc. Kỳ lạ nhất là giấc mơ của hai em gái giống hệt nhau, cùng một ngày, cùng một giấc mơ."

Tôi nghe xong, không nói gì, chỉ viết vài chữ lên một tờ giấy trắng: "Ông Lý Đức, chuyện năm 25 tuổi."

Tôi đưa mảnh giấy cho Lý Ứng, để anh ta mang về cho mẹ xem. Mẹ của Lý Ứng vừa nhìn thấy thì giật mình: "Mau tìm Lư Thắng Ngạn!" "Tại sao?" "Người này có năng lực lớn, chắc chắn có thể cứu được Lý Đức." "Chuyện năm 25 tuổi này là chuyện gì vậy?" - Lý Ứng hỏi.

Lúc này mẹ của Lý Ứng mới kể lại đầu đuôi câu chuyện: Khi Lý Đức còn trẻ, sống không đàng hoàng. Điên rồ yêu một ni cô trẻ tuổi. Kết quả là ni cô có thai. Ni cô sẵn lòng hoàn tục để lấy ông. Lúc đó Lý Đức lại đem lòng yêu mẹ của Lý Ứng, hai người đã quyết định kết hôn. Lý Đức rơi vào tình thế khó xử. Lý Đức nói với ni cô rằng không thể cưới cô ấy về nhà nữa. Ni cô trong cơn tức giận đã tự vẫn, một lúc chết hai mạng. Đó là chuyện năm 25 tuổi. Đúng như một bài thơ đã viết rằng: "Người đã tu hành xuất thế, sao còn tìm kiếm tình duyên, phá giới hạnh hủy danh tiếng, chẳng giữ Phật môn thanh tịnh. Mắt thần sáng như điện, sau khi chết ắt đền, u minh hình phạt nặng, đúng tự mình sa bẫy."

🌟

Lý Ứng quay lại tìm tôi. "Xin thầy nhất định phải cứu bố tôi!" "Xin lỗi, tôi không có khả năng." - Tôi thành thật nói. "Tại sao vậy?" "Vì nhân quả." - Tôi thở dài. "Hơn 50 năm làm việc thiện, không thể lấy công chuộc tội sao?" - Lý Ứng nói: "Hoa nở trước kết trái trước, hoa nở sau kết trái sau, việc trước được trước, việc sau được sau." "Mẹ con nói nhất định phải cầu xin thầy, thầy chắc chắn có năng lực." "Tôi..." "Thầy đã đồng ý rồi!" "Cái này..." Lý Ứng cứ mãi van nài, cuối cùng tôi đành phải nói: "Tôi sẽ cố gắng hết sức."

Tôi ngồi thiền trong mật đàn, vận chuyển thanh khí từ hư không, đưa thanh khí lên cầu Thước, rồi xuống lầu trọng, từ cung giáng, qua phòng đan, chuyển vào phương thốn rồi nhập vào cửa vĩ lư, lên dọc sống lưng, xuyên qua gối ngọc, rồi thông lên trời.

Tôi gặp được Diêm La Vương, trình bày lời thỉnh cầu của Lý Ứng. Diêm La Vương cười: "Liên Sinh, ông cũng đến âm phủ để nhờ vả à!" "Không, không phải ý đó!" - Mặt tôi đỏ bừng. "Không phải ý đó thì là ý gì?" Tôi không trả lời được.

Diêm La Vương nói: "Trời đất vô tư." Tôi hỏi: "Hiện giờ Lý Đức thế nào?" Diêm La Vương trả lời: "Lý Đức là người thiện, khi mới đến âm phủ, gặp người có thù oán, người đó rút dao chém ông ấy, đã giết chết Lý Đức. Nhờ vậy, mối thù oán cũng tan, nhân quả giữa hai người đã cân bằng. Sau khi Lý Đức chết, oan hồn tỉnh lại, các vị Diêm La cùng xét xử. Dù bị giết hại nhưng Lý Đức vẫn bình tâm, ông tự nói rằng đây là báo ứng của mình, không có nhân xấu sao có quả xấu. Ông cầu xin tha thứ cho kẻ thù, đồng thời cũng nhận tội lỗi của mình, nguyện từ nay tích đức tu hành." Các vị Diêm La thấy được tâm của Lý Đức. Tâm rất bình an. Tâm sáng như đèn vàng. Tâm hiện hoa sen. Tâm thanh tịnh hiển bày. Các vị Diêm La đều kính phục công đức tu hành của Lý Đức.

Chỉ thấy trên núi Tây Nam có một vầng trăng sáng, một luồng ánh sáng trắng hóa thành một chiếc áo cà sa trắng, đưa linh hồn của Lý Đức lên thiên giới. "Ah! Lý Đức đã lên thiên giới rồi!" - Tôi kinh ngạc thốt lên. "Đúng vậy." - Diêm La Vương nói. "Vậy là tôi đã đến đây vô ích rồi." Diêm La Vương đáp: "Cũng không phải vô ích đâu, để cho người đời biết rằng, tất cả nhân quả đều có ý nghĩa tốt đẹp, một bậc chân tu chính là người có tâm bình đẳng, họ hiểu rằng mọi điều xảy ra đều có nhân duyên quả báo. Muốn biết nhân kiếp này, xem việc làm kiếp trước, muốn biết quả kiếp sau, xem việc làm kiếp này. Lý Đức không phải được ông cứu, cũng không phải được chư vị Diêm La cứu, mà chính sự sám hối sâu sắc đã cứu ông ấy."

Tôi nhớ đến lời Phật Thích Ca Mâu Ni: Phật dạy, chúng sinh có mười điều thiện, cũng có mười điều ác. Thế nào là mười? Ba điều về thân, bốn điều về miệng, ba điều về ý. Ba điều về thân là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều về miệng là: nói đâm thọc, nói ác độc, nói dối, nói thêu dệt. Ba điều về ý là: ganh ghét, sân hận, si mê. Mười điều này không thuận theo đạo thánh, gọi là mười nghiệp ác. Nếu dừng được những điều ác này thì gọi là mười nghiệp thiện.

Ngài cũng dạy về tầm quan trọng của sám hối: Phật dạy, người có nhiều lỗi lầm mà không tự sám hối, để tâm buông lung, tội lỗi sẽ đến với thân như nước chảy về biển, dần dần trở nên sâu rộng. Nếu người có lỗi, tự biết mình sai, sửa ác làm thiện, tội sẽ tự tiêu tan, như bệnh được đổ mồ hôi, dần dần sẽ thuyên giảm.

🌟

Sau khi Lý Đức lên thiên giới, trong nhà có hiện tượng kỳ lạ: Vợ của Lý Đức mơ thấy chồng mình, mặc thiên y, toả ánh sáng rực rỡ, bay lượn trên không trung. Bà hỏi ông đang ở đâu? Ông đáp tầng trời thứ ba. Ở tầng trời thứ ba, tất cả đều là những vị chủ công đức, là thiên chủ công đức. Bà hỏi có gặp Lư Thắng Ngạn không? Ông đáp có gặp. Ngài ấy đang thuyết kinh ở tầng trời thứ ba. Nói xong thì biến mất. Vợ Lý Đức cảm thấy rất lạ.

Sau khi tỉnh giấc, sáng sớm hôm đó, lại xảy ra một chuyện kỳ lạ nữa, trong khu vườn nhà họ Lý có một hồ sen lớn và vườn hoa, tất cả hoa sen, chỉ trong một đêm, đủ loại lớn nhỏ đủ màu, bỗng nhiên đồng loạt nở rộ. Trong vườn trồng nhiều loại hoa, kỳ lạ thay, cũng cùng lúc đồng loạt nở rộ, rực rỡ năm sắc, đẹp tuyệt trần, hương thơm ngào ngạt. Phu nhân họ Lý cho rằng đây là điềm lành.

Chưa hết, trong vườn nhà họ Lý có một cây bách, ban đầu cành lá đều khô héo, thân cây cũng trong tình trạng chết khô, đang định đào lên vứt đi, bỗng nhiên phát hiện mọc ra cành lá mới và phục hồi sức sống, cành lá sum suê.

Tất cả đều là phép màu, là chuyện không thể tưởng tượng được, phu nhân họ Lý cho rằng điều này có liên quan đến việc Lý Đức lên thiên giới. Sự việc kỳ lạ xảy ra trong vườn nhà họ Lý, có cả trăm người cùng chứng kiến.

Phu nhân Lý Đức đích thân mang theo một xe tải quà lớn nhỏ đến tệ xá để cảm ơn tôi đã cứu Lý Đức lên thiên giới. Tôi lắc đầu: "Không phải tôi." "Không phải thầy thì là ai?" "Là chính Lý Đức." - Tôi nói. "Ở âm phủ, làm gì có chuyện tự cứu mình chứ!" Tôi nói: "Lý Đức vốn là người có tâm thiện lương, ở âm phủ ông ấy một lòng sám hối tội lỗi, tội từ tâm khởi thì dùng tâm mà sám hối. Khi tự tính của Lý Đức được thanh tịnh, tất cả đều thanh tịnh, ngay cả tự tính rộng lớn cũng thanh tịnh, vạn pháp đều thanh tịnh, tự nhiên nghiệp chướng tiêu trừ, từ âm phủ trực tiếp siêu thăng lên cõi trời, bởi ở âm phủ có một con đường trực tiếp dẫn lên thiên giới." "Thật vậy sao?" "Đúng vậy." - Tôi đáp. Lý phu nhân lại nói: "Trong mơ Lý Đức nói với tôi rằng thầy đang thuyết pháp ở tầng trời thứ ba, chuyện đó là thế nào?" "Có thật vậy sao?" - Tôi hỏi lại. "Rõ ràng lắm." "Lần sau nếu mơ thấy ông ấy thì hỏi kĩ lại nhé!" - Tôi cười ha ha. "Những món quà này vẫn để lại đây!" - Lý phu nhân nói. "Tôi không thể nhận, không công không dám nhận lộc." "Đã mua rồi." "Vậy để tôi giúp chuyển đến viện cứu trợ nhé!"

🌟

Việc Lý Đức được lên thiên giới khiến tôi cảm động sâu sắc. Ông ấy đã một lòng làm việc thiện suốt 50 năm, nhưng chỉ vì khi còn trẻ phạm phải một lỗi nhỏ về dục vọng mà phải xuống âm phủ chịu quả báo nhân quả. Qua đó có thể thấy sự tai hại của những ý niệm tình dục còn đáng sợ hơn bất cứ điều gì. Kinh Phật dạy chúng ta, muốn đoạn trừ tình dục phải đoạn từ trong tâm, phải hiểu rằng tình dục này sinh ra từ ý niệm. Dục sinh ra từ ý. Ý do tư tưởng sinh. Hai tâm đều tịch tĩnh. Không sắc cũng không hành.

Phàm là chuyện tình dục đều sinh ra đủ loại khổ não, cũng sinh ra nhiều rắc rối theo sau, khi rắc rối đã sinh ra, lại còn có nhiều lo âu phiền não. Không những thế, còn sinh ra đủ loại chuyện đáng sợ. Như việc Lý Đức nảy sinh tình dục với ni cô, ni cô mang thai rồi tự vẫn, tất cả những ân oán tình thù này đều do tình dục gây ra.

Tôi thường khuyên mọi người hãy suy nghĩ: Niềm khoái lạc của tình dục rất ngắn ngủi. Khoái lạc cũng là không. Lục trần duyên ảnh đều là không. Chỉ có thanh tịnh mới là đại lạc. Không có phiền não, mãi mãi tự tại. Lo âu và sợ hãi chỉ vì không buông được sự chấp trước vào niềm vui tạm bợ.

Phật Thích Ca Mâu Ni cảnh báo các vị tì kheo và tì kheo ni xuất gia rằng, phải quán tưởng tình dục như bùn lắng ở đầm lầy, một khi đã sa vào thì sẽ chìm xuống, rất khó thoát ra khỏi vũng bùn này.

Điều quan trọng nhất của người tu hành là tu tâm, phải biết rằng niềm vui của tình dục chỉ là niềm vui nhỏ nhoi, là quả khổ, là phiền não đáng sợ, và cuối cùng cũng chỉ là không. Hiểu được đạo lý này mới có thể thoát khỏi nỗi khổ sa lầy.

15. Người kết liễu ác quỷ

Tôi nhớ thời Đức Phật. Tại nước Ma-kiệt-đà, dưới chân núi Tỳ-phú-la, có một trưởng giả tên Kiều-đề, nhà ông là một trang viên lớn, có khoảng hơn 500 người cùng sinh sống. Trang viên này xảy ra chuyện kỳ lạ, trong vòng một năm, vô cớ có rất nhiều người thân lần lượt chết trong khi đang ngủ trên giường. Nghĩa là tối hôm trước đi ngủ vẫn bình thường, sáng hôm sau đã thấy chết trên giường, không còn cử động.

Nếu chỉ xảy ra thỉnh thoảng thì không có gì lạ. Điều kỳ lạ là trong vòng một năm đã có hơn 300 người chết, ngày nào cũng có người chết một cách bí ẩn. Những người còn lại vô cùng hoảng sợ, lần lượt bỏ trốn. Trang viên này trở thành ngôi nhà ma nổi tiếng. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni du hóa, Ngài đã ghé thăm trang viên này, thấy được tình cảnh thê thảm của nó, trong lòng sinh khởi tâm từ bi cứu độ. Phật Đà chủ động vào ở trong trang viên.

Đêm đó. Phật thấy trong sân vườn bừng lên ngọn lửa lớn, trong ánh lửa có một con ác quỷ ăn thịt người, trông rất dữ tợn đáng sợ. Con ác quỷ đó vươn cánh tay khổng lồ ra, cánh tay có thể duỗi dài, năm ngón tay của nó như móng vuốt thép, vươn vào tận phòng ngủ của Phật. Móng vuốt thép của ác quỷ nhắm thẳng vào tim Phật. Phật bị mổ bụng. Tim bị móc ra. Ác quỷ định nuốt trái tim vào bụng, không ngờ rằng, tim của Đức Phật không phải là tim, mà là một vị Địa Tạng Vương Bồ Tát tỏa ánh sáng rực rỡ, đứng trước mặt ác quỷ. Ác quỷ vừa nhìn thấy, lập tức co rúm người lại! Bởi ai cũng biết, Địa Tạng Vương Bồ Tát là giáo chủ cõi u minh, chủ yếu cai quản địa ngục, ác quỷ làm sao là đối thủ, lập tức bị Địa Tạng Vương Bồ Tát đưa về giam giữ ở thế giới u minh.

Ngày hôm sau, Phật bước ra khỏi trang viên, mọi người đều rất kinh ngạc. Từ đó trang viên lớn được bình an vô sự. Phật được người dân dưới chân núi Tỳ-phú-la tôn xưng là Đức Thích Ca Mâu Ni "người kết liễu ác quỷ".

🌟

Tôi cũng có một câu chuyện tương tự. Nhà ông Đặng Tín có bảy người, cũng xảy ra chuyện kỳ lạ tương tự, tối đi ngủ vẫn bình thường, sáng ra đã chết. Liên tiếp ba người. Đặng Tín hoảng sợ vô cùng. Đi hỏi thần. Thần nói là do ác quỷ.

Đặng Tín thỉnh thần trừ ác quỷ, đồng cốt và kiệu thần cùng đến nhà ông. Kiệu thần vừa tới liền lao thẳng vào phòng ngủ, từ phòng ngủ đuổi sang bếp, từ bếp đuổi ra phòng khách, rồi ra khỏi cổng chính, chạy vòng quanh nhà nhiều vòng, cuối cùng đuổi đến một cái ao lớn. Nghe nói ác quỷ chạy xuống ao, đồng cốt cầm kiếm và kiệu thần đều nhảy xuống ao, đánh nhau dưới nước. Chẳng bao lâu sau, đồng cốt và kiệu thần nổi lên mặt nước, lên bờ. Cắm lá cờ lệnh bên ao. Nói rằng đã nhốt được ác quỷ dưới ao, ác quỷ đã bị thương nặng, không thể hại người nhà nữa, nhà cửa từ nay bình an vô sự. Đồng cốt trở về đền.

Ngày hôm sau, truyền đến tin không may, đêm đó đồng cốt lên giường ngủ ngon lành, nhưng chẳng bao giờ xuống giường nữa, đã chết. Đặng Tín và những người nghe tin đều hoảng sợ. Đặng Tín không dám ở trong nhà nữa, cả nhà dọn đi! Căn nhà này trở thành ngôi nhà ma nổi tiếng.

Có người không tin điều tà, thuê lại ngôi nhà ma này từ Đặng Tín với giá rất rẻ, cả gia đình dọn vào ở. Đêm đó không có chuyện gì. Nhưng sáng hôm sau tỉnh dậy, cả nhà đều nằm ngủ bên ngoài, không biết tại sao? Người không tin điều tà đó lập tức bỏ chạy.

Còn có tin đồn kỳ lạ hơn là, một người vô gia cư vào ở trong nhà ma, sáng hôm sau, toàn thân trần truồng, quần áo trên người đều biến mất, bị ném vào bụi cỏ, người vô gia cư này cũng không dám ở nữa.

Có người theo đạo Thiên Chúa thuê làm nơi tụ họp, vì giá thuê thực sự quá rẻ, nhất là họ tin vào Chúa Trời, Chúa Jesus. Vị trí nhà ở trung tâm, nên họ đã thuê, sửa sang bên trong một thời gian, rồi cắm thập tự giá lên mái nhà.

Ba tháng trôi qua. Tại nhà thờ, mỗi Chủ nhật đều có lễ cầu nguyện, hát thánh ca, giảng đạo, và không có chuyện gì xảy ra. Trong một buổi giảng, mục sư kể câu chuyện Chúa Jesus trừ tà, nói về việc Chúa đuổi quỷ, quỷ nhập vào một đàn lợn, và cả đàn lợn đã nhảy xuống vực chết hết. Mục sư giảng đến phần hứng khởi, tiện thể nhắc đến việc nhà thờ này vốn là nhà ma, nhưng người theo đạo Chúa không sợ ma, ma mới là kẻ sợ Chúa Jesus, rồi mắng nhiếc ma quỷ một trận. Tối hôm đó, mục sư lên giường đi ngủ. Đến nửa đêm, mục sư đã được "Chúa gọi về".

🌟

Đặng Tín tìm đến tôi. "Nghe nói thầy chuyên bắt ma!" "Đúng vậy." "Con ma nhà tôi rất hung dữ!" "Không sợ." "Sao thầy không sợ?" "Tôi là tổ tiên của ma." "Sao lại là tổ tiên?" "Tôi hiểu bản tính của ma." Đặng Tín hỏi: "Thầy bắt nó thế nào?" "Không vào hang cọp sao bắt được cọp con, tôi sẽ đến ở." Đặng Tín hoảng sợ: "Sẽ chết mất!" Tôi vỗ tay cười lớn: "Chết thì đáng tiếc, nhưng sống thì cũng phiền não chán ngắt!" Đặng Tín không hiểu ý nghĩa trong lời nói của tôi. Tôi nói với anh ta: "Tôi đùa đấy."

Tôi chỉ mang theo một bình sứ đựng nước rất nhỏ, đến ở nhà ông Đặng Tín. Thật lòng mà nói, vừa vào nhà tôi đã thấy ma. Con ma này cầm một sợi dây thừng to, chuyên siết cổ người, hóa ra là một con ác quỷ chết treo! Tôi chào ma: "Chào!" Ma ngạc nhiên: "Chưa từng có ai chào tôi cả!" "Anh là ác quỷ à?" - Tôi hỏi. "Tôi không thích người ta quấy rầy tôi." "Đặng Tín quấy rầy anh?" "Hắn vừa dọn vào đã rảy nước thánh, dán bùa chú, muốn đuổi tôi đi!" "Còn đồng cốt thì sao!" "Hắn đến bắt tôi." "Còn mục sư?" "Hắn chế giễu tôi." - Ma phẫn nộ: "Hầu như tất cả mọi người đều không có thiện ý với tôi, nên tôi lấy mạng họ!" "Anh đi với tôi đi!" - Tôi nói. "Ông có bản lĩnh gì?" - Ma cười nhạo.

Tôi không nói gì, chỉ nghiêng bình sứ ra, từ trong bình bước ra khoảng trăm con ma treo cổ, có nam có nữ, có già có trẻ. Con ma đờ người ra, vẻ mặt ngây dại. "Chuyện gì vậy?" "Về nhà thôi!" - Tôi nói.

Cả trăm con ma treo cổ đó rất thân thiện nắm tay con ma treo cổ kia, người nói câu này, kẻ nói câu kia, họ kể cho con ma mới về việc Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đối xử với ma rất tốt, trong đoàn ma của Hoạt Phật. Ma gặp nhau. Ma theo nhau. Ma hợp nhau. Ma vui với nhau. Thế giới của ma rất tuyệt vời, những con ma có duyên còn có thể tu hành, đúng là thiên đường của ma! Con ma treo cổ mới động lòng. "Làm sao đi theo?" "Hãy vào trong bình sứ." "Bình sứ nhỏ như vậy sao?" Đám ma cười lớn: "Không nhỏ đâu, không nhỏ đâu, bên trong là một thế giới mới, đẹp đẽ bao la, đẹp đẽ mênh mông, đúng là Shangri-La thực sự!" "Sao lại như vậy được?" - Con ma treo cổ mới ngạc nhiên. "Đó là tâm của Liên Sinh Hoạt Phật." Đám ma dẫn con ma treo cổ mới vào trong bình sứ.

Vừa bước vào, như một bài thơ: Như Lai kim khẩu nói, tán thán cõi Liên Sinh. Như vào thành Trường An, cửa Đông Tây Nam Bắc. Vào rồi một thành lớn, không khác đế đô nào. Liên Sinh Phật trưởng tử, Văn Thù thầy bảy Phật. Thọ ký và hồi hướng, quả vị được vãng sinh.

Khi bước vào: Gió hòa nắng đẹp, thành lớn vô biên, con người và chư thiên đều an lạc, đầy đủ mọi thứ, có thể tùy tâm biến hóa hình dạng, thân thể tỏa sáng, thân có hương thơm. Nơi này thanh tịnh, không có tạp nhiễm, có nước công đức, cây báu, nhà bảy báu, ao sen, âm nhạc vi diệu, tất cả đều đầy đủ. Những bài ca ở đây là tịch tĩnh, thanh tịnh, trong sạch, sáng tỏ, ly trần, ly cấu, rạng rỡ, đáng yêu, không chướng ngại, không phiền não. Nơi này: Tùy theo tâm nguyện của chúng sinh. Khiến tất cả được thấy Phật, đạt tâm thanh tịnh. Có người hỏi tôi: "Chuyện gì vậy?" Tôi đáp: "Hồi tâm tức là Phật!"

🌟

Tôi là một hành giả tu pháp, một hành giả không còn phiền não sân hận, có thể khiến địa ngục không còn tội lỗi ô uế, trong đường súc sinh không còn vô minh kiêu mạn. Có thể khiến chúng sinh cõi ma trong khoảnh khắc được vãng sinh tịnh thổ.

Hành giả tu pháp ở giữa chúng sinh cõi ma nhỏ bé, chuyển bánh xe pháp lớn nhất, thắp ngọn đuốc pháp sáng nhất, đánh trống pháp vang nhất, hướng tâm ma quỷ về tâm Phật, lập tức thanh tịnh tâm ma quỷ, độ vô lượng vô biên ác quỷ.

Những ác quỷ này trong vô thức, tâm không còn sân hận, tâm linh tĩnh lặng, đi vào bình nhỏ, hòa vào nước thanh tịnh, liền được chuyển hóa.

Hành giả tu pháp trong cõi Ta Bà có thể trong một niệm kéo dài thành vô lượng vô số trăm nghìn ức na do tha kiếp. Cũng có thể đem vô lượng vô số trăm nghìn ức na do tha kiếp thu gọn lại thành một niệm.

Hành giả tu pháp có thể trong một niệm, đem tịnh độ của chư Phật ba đời thu vào trong một bình sứ nhỏ, huống chi là kinh đô của thiên tử, thành Trường An. Hành giả tu pháp là hạnh trang nghiêm tịnh thổ của Bồ Tát, không phải trí tuệ của người thường có thể đo lường được. Vì sao vậy? Vì tâm của hành giả tu pháp vượt trên tất cả đo lường! Biển pháp giới vô lượng vô biên! Biển hạnh Bồ Tát cũng vô lượng vô biên!

🌟

Nhà ma ám của Đặng Tín không còn ác quỷ nữa. Nhà ma đã trở thành nhà cát tường. Người ta đồn rằng Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đã đấu pháp với ác quỷ ba ngày ba đêm, ngói nhà bay tung hết, Hoạt Phật phóng sấm sét liên hồi, trời long đất lở, ác quỷ bị đánh nát thành từng mảnh. Đó chỉ là lời đồn thôi! Thực ra con ác quỷ này đã được đồng loại dẫn dắt vào trong bình sứ, được tịnh hóa bằng nước thanh tịnh, và trong tích tắc đã được vãng sinh về tịnh thổ.

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Một người giác ngộ, sau khi cảm ứng đạo giao, tâm địa rộng mở, linh quang tỏa chiếu, mới biết rằng linh quang của ta và linh quang của ác quỷ vốn bình đẳng không khác, không thể không tôn trọng ác quỷ. Chỉ cần ác quỷ một lần hồi tâm, một lần thanh tịnh. Ác quỷ cũng được vãng sinh!

16. Tâm không lo lắng

Có một vị xuất gia tên Thích Thưởng Thiên, khi giảng kinh thuyết pháp, thường hay nhắc đến Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Ông ta không gọi pháp hiệu của tôi là Thích Liên Sinh, cũng không gọi tôi là Liên Sinh Hoạt Phật, càng không nhắc đến Hoa Quang Tự Tại Phật, mà thẳng thừng gọi tôi là "thằng nhóc họ Lư".

Khi Thích Thưởng Thiên phê bình tôi, cảm xúc rất kích động, giọng điệu cao ngạo, nói năng gấp gáp, như nước chảy ào ào không ngừng. Ông ta nói: "Hiện nay trong giới Phật giáo có một con đại thiên ma đang quấy phá, chính là thằng nhóc họ Lư đó." "Không giống Phật, không giống Đạo, không giống Thần, loại người này chỉ cần nhìn một cái là biết ngay đó là tà." "Đức Phật đã quở trách thần thông, vậy mà thằng nhóc họ Lư này chuyên giảng về thần thông, việc giảng thần thông hoàn toàn trái ngược với trí tuệ Phật. Đại thiên ma đương nhiên có thần thông, tà ma quỷ quái cũng có tiểu thần thông, có thần thông chẳng có gì là hiếm lạ, không thể tin vào thần thông, không thể quy y theo thằng nhóc họ Lư." "Thằng nhóc họ Lư nói rằng nó uống cà phê với Phật Thích Ca Mâu Ni, trong khi Phật đã nhập diệt hơn hai nghìn năm trăm năm rồi, trong giới Phật giáo có vô số trưởng lão đại đức tu hành chứng đạo, chưa từng có ai uống cà phê với Phật, vậy mà thằng nhóc họ Lư bịa ra câu chuyện như thế, lại có người tin theo nó, nó không phải là Hoạt Phật, mà là trò hề." "Thằng nhóc họ Lư muốn nổi tiếng đến phát điên rồi, cách tốt nhất là nói rằng nó thấy được tiền kiếp của mình là Liên Hoa Đồng Tử, lại còn có thể lên đến hai mươi tám tầng trời, xuống đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đến được mười phương pháp giới, cảnh giới tu hành cao không thể tưởng, như vậy là có thể lừa được chúng sinh thiên hạ, muốn lừa gạt điều gì, mọi người đều hiểu rõ." "Kẻ này chắc chắn là nói dối bịa đặt, là nằm mơ, thằng nhóc họ Lư này đem cả giấc mơ ra nói thành thật, thích dùng trí tưởng tượng đáng sợ để dọa mình và nạt chúng sinh thiên hạ." "Lôi thằng nhóc họ Lư thầy bói này ra đây!" "Lôi thằng nhóc họ Lư gian ác này ra đây!" "Lôi đại thiên ma tà thần này ra đây!" "Chân Phật Tông, thằng nhóc họ Lư tự so sánh mình với Chân Phật, vậy các tông phái khác chẳng lẽ là Giả Phật Tông sao, hắn là kẻ thù của Phật giáo, lôi hắn ra đây!"

Thích Thưởng Thiên nói đến đây, thở hổn hển, hận không thể chặt Lư Thắng Ngạn thành vạn mảnh, nuốt chửng Lư Thắng Ngạn trong một hơi, biến Lư Thắng Ngạn thành tro, căm ghét đến nghiến răng ken két. Tôi nghe đệ tử kể lại.

Tôi chỉ mỉm cười: "Không sao đâu, không có gì đáng để ý." Đệ tử nói: "Sư Tôn không để ý, nhưng chúng con thì có." Tôi nói: "Mọi chuyện rồi sẽ qua đi thôi." "Tuy mọi chuyện sẽ qua đi, nhưng hiện tại thật khó chịu đựng!" Tôi đáp: "Tranh chấp trên sừng ốc sên có ích gì, cuộc đời như ánh chớp thoáng qua." "Thưa Sư Tôn, phải xử lý thế nào ạ?" "Không cần xử lý, cứ để mọi việc tự nhiên." "Sư Tôn không phản bác ông ta sao?" "Lòng như biển cả, dung chứa được vạn sông."

Tôi viết một bài kệ cho đệ tử này, đây là bài kệ của Bạch Vân thời nhà Nguyên: Ta Bà khổ, đời như mảnh bèo trôi, Muỗi mòng trong mi tranh lợi nhỏ, Trên sừng ốc sên danh hão huyền, Một chút hòa khí khó có được.

Ta Bà khổ, ánh sáng lại bóng tối Vinh nhục buồn vui bao giờ dứt, Đúng sai ta người khi nào thôi, Con đường sinh tử thật xa xôi.

Tôi nói với đệ tử: "Hãy đi tu hành đi, những việc khác không cần để ý đến." "Sư Tôn, thầy có an tâm không?" "Tôi an tâm." - Tôi đáp. "Sư Tôn, thầy có phiền não không?" "Tâm không vướng bận." - Tôi đáp. Tôi cũng nói với đệ tử này: "Thật ra tất cả chúng sinh trong thế gian này đều có Phật tính, Chân Phật chính là Phật thật trong mỗi người. Vì vậy chư Phật tổ sư thuyết pháp là để người ta tỉnh ngộ ra Chân Phật vốn có trong mình, không cần phải tìm cầu bên ngoài, đó chính là ý nghĩa của Chân Phật Tông. Người ngoài lại cho rằng Chân Phật Tông tôn sùng mình mà hạ thấp tông phái khác, đó là một sự hiểu lầm. Chỉ cần tu đến khi tâm quang hiển lộ, tự nhiên sẽ hiểu được ý nghĩa của Chân Phật, đến lúc tâm quang tỏa chiếu, Chân Phật tự hiển bày!"

🌟

Khoảng nửa năm sau sự việc đó. Thích Thưởng Thiên bất ngờ đến tìm tôi. Vì không biết trước ý định của vị pháp sư này nên tôi cảm thấy lo lắng, chỉ còn cách thận trọng đối phó.

Khi gặp Thích Thưởng Thiên, tôi thấy vị pháp sư này có diện mạo đoan chính, phong thái khá điềm đạm, lời nói rất lịch sự, vẻ khiêm nhường, khiến tôi nhớ đến câu "Nghe có thể là giả, thấy mới là thật". Thích Thưởng Thiên nói: "Hôm nay đến thăm đột ngột, thật đường đột, mong ngài thứ lỗi!" "Không biết thầy có điều chi chỉ giáo?" "Nghe nói ngài chữa khỏi nhiều bệnh nhân tâm thần phải không?" "Vâng." - Tôi gật đầu. Thích Thưởng Thiên nói: "Sự việc là như thế này, mẹ tôi mắc chứng suy nhược thần kinh đã nhiều năm, từng phải nằm viện, thăm khám nhiều bác sĩ nhưng tình trạng vẫn không khá hơn. Bản thân tôi là pháp sư, đã làm lễ sám hối, cầu nguyện chư Phật Bồ Tát, uống nước chú Đại Bi nhiều năm rồi, bệnh tình của mẹ tôi là nỗi đau trong lòng tôi. Khoảng một tháng trước, mẹ tôi bỗng nhiên bị nhập, tự xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát nhập, nói chắc như đinh đóng cột rằng phải tìm Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Bản thân tôi không mấy tin vào chuyện nhập hồn, nhưng Quan Thế Âm Bồ Tát liên tục nhập nhiều lần, lần nào cũng nói như vậy. Sau đó tôi hỏi mẹ tôi có biết Lư Thắng Ngạn không, thực ra bà không biết chữ, hoàn toàn không biết ngài..."

Nghe xong câu chuyện này, tôi chỉ cười ngây ngô. Thích Thưởng Thiên nói: "Bây giờ, theo lời Quan Thế Âm Bồ Tát mà tôi đặc biệt tìm đến ngài, không biết ngài có cách gì không?" Tôi nói: "Thầy có tin tôi không?" "Cái này..." - Thích Thưởng Thiên không trả lời. "Thế này nhé! Sư phụ tôi truyền cho tôi ba lá phù, chuyên trị bệnh tâm thần, đây là phù 'thượng yểm', đốt phù thành tro, chia làm ba lần. Nhiều người chỉ cần uống ba lần nước bùa này, tự nhiên ngủ say, sau khi tỉnh dậy, bệnh tâm thần sẽ khỏi." "Thần diệu vậy sao!" - Thích Thưởng Thiên ngạc nhiên. "Thần diệu hay không còn chưa biết, nhưng cứ mười người thì chín người chỉ cần ba lá phù là khỏi hẳn bệnh, dễ như trở bàn tay vậy!" "Dễ như trở bàn tay?" "Nghĩa là rất dễ dàng!" - Tôi nói. Thích Thưởng Thiên cười. Tôi cũng cười.

Tại đàn thành, tôi rất nghiêm túc vẽ ba lá phù này, tôi đặc biệt cầu nguyện, đây là do Bồ Tát chỉ dẫn mà đến, nhất định không thể thất bại, phải linh nghiệm mới được. Tôi một lòng thành kính, Bồ Tát nhất định sẽ cảm ứng.

Trị bệnh chỉ dùng phép thần tiên. Cứu cấp phải nhờ cách của trời. Nương nhờ Bồ Tát vô lượng thọ. Cấp cấp luật lệnh khó nghĩ bàn.

Tôi tụng: "Ma ha bát nhã ba-la-mật. Cấp cấp như luật lệnh." (ba lần)

Thật kỳ lạ thay: Mẹ của Thích Thưởng Thiên đã khỏi hẳn bệnh tâm thần, hoàn toàn bình thường, không còn chút dấu hiệu bất thường nào, và cũng không còn lúc khỏe lúc yếu nữa. Thích Thưởng Thiên vô cùng kinh ngạc. Bởi vì chỉ với ba tờ giấy vàng bình thường mà lại hiệu nghiệm hơn cả thuốc Đông y lẫn Tây y uống nhiều năm. Thật không thể nghĩ bàn!

🌟

Thích Thưởng Thiên lại đến tìm tôi. Lần này không phải vì bệnh của mẹ mà đến tìm tôi. Thích Thưởng Thiên nghiêm túc nói: "Tôi muốn quy y với thầy!" "Không được! Không thể được!" - Tôi xua tay. "Tại sao ạ?" "Vì thầy đã xuất gia, đã có sư phụ rồi!" - Tôi đáp. "Tôi muốn nhận thêm một sư phụ nữa!" - Ông ấy tỏ vẻ thành kính, định quỳ xuống ngay lập tức. Tôi nói: "Không thể vì tôi chữa khỏi bệnh cho mẹ thầy mà thầy muốn quy y với tôi!" Thích Thưởng Thiên trả lời: "Không phải vì bệnh của mẹ, mà là có nhân duyên khác." "Nhân duyên khác?" - Tôi tò mò. "Vâng. Có nhân duyên khác!"

Thích Thưởng Thiên kể lại chi tiết như sau: Thích Thưởng Thiên ngồi thiền trong tịnh thất của mình, suy ngẫm về vấn đề ba lá phù của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, về nguyên lý của phù chú và nước Đại Bi. Cứ nghĩ cứ nghĩ, bỗng bất tri bất giác, ông dần rơi vào trạng thái mơ màng.

Đột nhiên ông nghe thấy hai vị quan mặc đồ đen gọi ông: "Pháp sư, mời đi lối này!" Thích Thưởng Thiên đi theo hai vị quan về phía Nam được một đoạn đường, thấy một tòa thành bằng sắt lớn. Tòa thành sắt này, lửa trên cháy xuống, lửa dưới cháy lên, cả tòa thành ngùn ngụt lửa cháy, ánh lửa bùng phát, vô số tội nhân trong thành kêu gào thảm thiết, âm thanh vô cùng khủng khiếp, Thích Thưởng Thiên nghe mà run sợ. Ông hỏi các vị quan: "Đây không phải là thành Đại Thiết Vi của địa ngục sao?" Các vị quan đáp: "Đúng vậy." "Tại sao tôi lại đến đây?" - Thích Thưởng Thiên hỏi. "Một lát nữa ngài sẽ hiểu rõ." - Hai vị quan trả lời.

Các vị quan dẫn Thích Thưởng Thiên vào thành Đại Thiết Vi, họ chứng kiến cảnh người chịu hình phạt trong địa ngục, cảnh tượng thống khổ, giống như những gì được mô tả trong "Kinh Địa Tạng", Thích Thưởng Thiên tận mắt nhìn thấy cảnh địa ngục, sợ đến há hốc mồm, không nói nên lời.

Sau đó, Thích Thưởng Thiên diện kiến Diêm La Vương. Diêm La Vương đối với Thích Thưởng Thiên khá lịch sự, không có vẻ nghiêm khắc lắm, chỉ lấy ra một cuốn sổ và lật xem. "Sổ gì vậy?" - Thích Thưởng Thiên hỏi. "Sổ thiện ác." "Của ai vậy?" "Của ngươi." "Thiện ác gì?" Diêm La Vương nói: "Đời này của ngươi, thiện công ghi chép không ít, nhưng theo sổ này thì sau khi chết ngươi sẽ phải vào địa ngục móc mắt và cắt lưỡi đấy!" Thích Thưởng Thiên kinh hoàng: "Tôi có tội gì?" "Tuy ngươi có đôi mắt, nhưng xem ra đôi mắt này cũng không đáng tin, vì đôi mắt của ngươi không đáng tin nên một số suy nghĩ cũng không đáng tin, trong khi thuyết pháp, ngươi đã nói ra hết những suy nghĩ không đáng tin đó, điều này đã tạo thành nghiệp tội. Ngươi phải nhớ kĩ một điều, hiểu đúng về một người thật không dễ dàng!" "Tôi đã phỉ báng bậc thánh hiền?" "Đúng vậy." "Ai vậy?" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." "Mọi người đều nói vậy, tôi chỉ nghe theo thôi." "Tam sao thất bản." Diêm La Vương hỏi Thích Thưởng Thiên: "Theo ngươi biết, trong cõi chúng sinh, người lên thiên đường nhiều hay xuống địa ngục nhiều?" Thích Thưởng Thiên đáp: "Người được vãng sinh lên trời hiếm như lông phượng sừng lân, kẻ đọa ba đường địa ngục nhiều như cá vượt sông!" "Đúng vậy, đúng vậy, cho nên cõi chúng sinh thường không phân biệt được đen trắng, đảo lộn phải trái, lẫn lộn thật giả, không rõ thiện ác, tùy tiện phê phán người khác, há chẳng phải sai lầm lớn sao!" Thích Thưởng Thiên không lời đối đáp.

Diêm La Vương nói với Thích Thưởng Thiên: "Ở thế giới Ta Bà ngày nay, trong số các bậc cao tăng đại đức thực sự đạt được tâm ấn của Phật Thích Ca Mâu Ni, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là một trong số đó. Sự chứng ngộ của ngài đã đạt đến vô thượng, là bậc Mật chủ của thời nay. Thế nhưng lời đồn đại ở thế giới Ta Bà lại đi ngược chiều, tạo ra những sai lầm đáng cười. Có thể thấy chúng sinh phần lớn đều mù quáng, không lạ gì người sinh về trời ít mà kẻ đọa địa ngục lại nhiều!" Thích Thưởng Thiên kinh hãi: "Giờ phải làm sao?" "Hãy quy y đi!" - Diêm La Vương nói. "Tôi..." "Hãy đi nhận truyền thừa, tâm ấn Như Lai."

Ta muốn đời này được gặp Phật. Phật với ta nay đâu xa xôi. Chỉ cần một niệm tâm quy thuận. Không cần ba (a-tăng) kỳ mắt liền khai.

Thích Thưởng Thiên cảm thấy việc quy y với Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là một sự đấu tranh tâm lý rất lớn. Giới Phật giáo đều nói ngài là đại ma vương, là đại ngoại đạo. Giờ đây ông tự mình đi quy y, chắc chắn sẽ bị giới Phật giáo chỉ trích, sau này ông sẽ phải gánh chịu áp lực nghìn cân hữu hình lẫn vô hình.

Thích Thưởng Thiên cũng cảm nhận rằng, vạn vật đều đang trong trạng thái biến động, mọi thứ thay đổi trong từng khoảnh khắc, không thể nắm bắt được. Trước đây sư phụ từng dạy ông rằng, Phật học là sự bất biến tương đối trong biến động, và trong cái bất biến tương đối đó lại có biến động, giờ đây ông đã thấu hiểu được điều này.

Căn bệnh của mẹ. Lời của Diêm La Vương.

Thích Thưởng Thiên từ biệt Diêm La Vương, lại đi đến một tòa thành sắt khác. Trong thành sắt, ông thấy một vị hòa thượng đang thuyết pháp giáo hóa tội nhân, tội nhân nghe pháp rất đông, người đông như nước. Vị hòa thượng này thuyết pháp, trời rải hoa mưa xuống, tội nhân cảm động sám hối, ai nấy đều được thanh tịnh, phát tâm bồ đề.

Thích Thưởng Thiên chen đến trước pháp tòa, ngước nhìn lên, vị hòa thượng này không phải ai khác, chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Thích Thưởng Thiên nói: "Ngài có biết tôi không?" "Ông là Thích Thưởng Thiên." "Tại sao ngài đến địa ngục thuyết pháp?" - Thích Thưởng Thiên tò mò hỏi. "Thế còn ông, tại sao ông lại đến địa ngục?" - Hoạt Phật hỏi lại. Thích Thưởng Thiên đáp: "Tôi bị nghiệp lực dẫn dắt đến đây!"

Hoạt Phật nói: "Trong chúng sinh ở đường ác, cũng có người từng gieo thiện căn trong quá khứ, thiện lực khá mạnh, chỉ vì nhất thời phạm phải ác nghiệp mà thôi. Chỉ cần một niệm phát tâm là có thể thoát khỏi tội khổ. Tôi dùng Phật lực cứu độ, có thể khiến họ thoát khỏi tội khổ địa ngục, sớm được ra khỏi địa ngục, sớm thoát ba đường ác, trở về cõi người cõi trời."

Thích Thưởng Thiên nhìn lại Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, Hoạt Phật đã hiện ra kim thân trượng sáu, hào quang tỏa sáng nơi đầu, sau lưng và toàn thân rực rỡ. Vàng ròng trăm luyện hiện toàn công. Giải hành tương ứng cùng chư Phật. Lạ thay mười phương đều trải việc. Chỉ trong nháy mắt thấy rồng bay.

Thích Thưởng Thiên xuất định sau thời tọa thiền, liền quyết định quy y với Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Không chỉ riêng ông, toàn bộ chư tăng ni và cư sĩ trong chùa đều đến quy y, việc này gây chấn động khắp nơi. Dĩ nhiên, trong chùa cũng có người không phục, những người không phục tự động rút lui. Cũng có người phê phán rằng Thích Thưởng Thiên đã tẩu hỏa nhập ma. Có cao tăng chỉ trích Thích Thưởng Thiên tu tà pháp. Tuy nhiên, điều kỳ diệu là Thích Thưởng Thiên xuất gia học Phật nhiều năm, tu hành ít có cảm ứng, nhưng khi vừa tu Chân Phật Mật Pháp, thiên nhãn lập tức khai mở, từ đó tu hành tiến bộ nhanh chóng, có nhiều tâm đắc. Những người theo Thích Thưởng Thiên tu Chân Phật Mật Pháp đều hoan hỷ tán thán, bởi vì sự tương ứng đến rất nhanh chóng!

Tại ngôi chùa của Thích Thưởng Thiên cũng xảy ra một sự việc kỳ lạ tương tự. Có một vị tăng tên Thích Hằng Thuận, ông không phục việc Thích Thưởng Thiên quy y. Thích Hằng Thuận do bệnh phải nhập viện mổ, trong quá trình phẫu thuật, khi đang mê man vì gây mê, ông cũng được đưa xuống địa ngục. Trong địa ngục, ông bị hành hình. Đúng lúc nguy cấp, có một người hiện thân đến cứu ông, và người hiện thân đó chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Thích Hằng Thuận lần này trong lúc gây mê phẫu thuật, đã thấy mọi việc rõ ràng. Vừa xuất viện, ông lập tức trở về chùa, sám hối với Thích Thưởng Thiên, và ngay lập tức đăng ký quy y, tu tập Tứ gia hành của Chân Phật Mật Pháp. Hai sự việc này, gần như giống hệt nhau.

Đây chính là: Chẳng phải do căn lành huân tập Sao đạt công đức lập đại danh Chợt thấy gió mát thổi lửa nghiệp Trong hào quang ngọc hiện kim dung.

17. Tác dụng của thẻ hộ mệnh

Có một viên chức tên là Ngô Khoan, trên đường về nhà nhặt được một thẻ hộ mệnh bằng đồng, lúc đó thẻ rất bẩn và đã bị gỉ sét. Ngô Khoan đã dùng nước rửa thẻ hộ mệnh, rồi dùng dầu đồng đánh bóng, trông như mới vậy. Anh quan sát thẻ rất kĩ, trên thẻ có chú luân, được sắp xếp bằng chữ Tạng.

Ngô Khoan không hiểu chữ chú Tạng. Anh mang thẻ đi hỏi một vị Rinpoche (Hoạt Phật) Tây Tạng. Vị Rinpoche Tây Tạng nói với Ngô Khoan: Chú luân trên thẻ hộ mệnh thuộc về Mật giáo Kim cương thừa, được tạo thành bằng cách sắp xếp tâm chú của chư tôn xung quanh, làm thành thẻ hộ mệnh, tương đương với một mandala pháp, dùng để hộ trì. Vị Rinpoche nói: 1. Hình tròn tượng trưng cho nguyệt luân. 2. Chữ chú ở trung tâm tượng trưng cho chủng tử tự. 3. Các chữ chú bao quanh là thần chú.

Cuối cùng Rinpoche (Hoạt Phật) nói với Ngô Khoan rằng thần chú trên thẻ hộ mệnh này rất đặc biệt, hiếm thấy ở Tây Tạng, nhưng bên trong chứa đựng đại đà-la-ni của Đại Nhật Như Lai, không thể xem thường. Ngô Khoan nghe xong rất vui, tuy không hiểu đây là thần chú gì nhưng vẫn chắp tay lễ bái thẻ hộ mệnh rồi treo nó ở cửa phòng ngủ. Chỉ một lòng thành kính chắp tay này đã sinh ra điều kỳ lạ.

Có lần Ngô Khoan bị ốm sốt cao. Trong cơn mê sảng, anh thấy có hai người muốn vào phòng ngủ, hai người này anh không quen biết, mặt xanh nanh nhọn trông như quỷ, khiến Ngô Khoan trong lòng rất sợ hãi.

Một con quỷ nói: "Vào ăn thịt hắn đi." Con quỷ kia nói: "Ta sẽ ăn gan trước, ngươi ăn thận." Bệnh của Ngô Khoan đúng là viêm gan và có chút nước ở thận. Ngô Khoan nghe vậy, sợ đến thất kinh!

Hai con quỷ đang định bước vào. Chợt thấy trên tường cửa phòng ngủ, tấm thẻ hộ mệnh bỗng tỏa ra vầng sáng trắng, chắn ngay cửa ra vào. Hai con quỷ lao vào. Bị lưới ánh sáng co giãn, hất văng ngã ngửa, đầu sưng mặt bầm. Hai con quỷ không phục. Thò tay vào lưới sáng, tay lập tức bốc cháy, kêu lên xèo xèo. Một con quỷ nói: "Thẻ hộ mệnh ghê gớm quá!" Con quỷ kia nói: "Xem thử là thẻ hộ mệnh gì!"

Hai con quỷ nhìn kĩ, la lớn: "Đây là thẻ hộ mệnh của Bạch Liên Hoa Đồng Tử, là thẻ chú của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, thẻ hộ mệnh này có đại thần thông, có ánh sáng mười phương, có cứu độ bình đẳng, có cõi Phật tịnh thổ." Hai con quỷ thất vọng bỏ đi, chớp mắt đã không còn tăm tích.

Ngô Khoan nhìn thấy rõ ràng, nghe rành mạch, ghi nhớ trong lòng, sau đó Ngô Khoan dưỡng bệnh nhiều ngày rồi cũng khỏi hẳn. Ngô Khoan cầm thẻ hộ mệnh đến hỏi pháp sư trong chùa, pháp sư không biết đó là thẻ chú gì. Nhưng vừa hỏi đến Liên Hoa Đồng Tử, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, mặt pháp sư liền biến sắc. "Đừng hỏi, đừng hỏi." "Tại sao vậy?" "Đó là đại tà ma!" - Pháp sư vội vàng bước đi. Ngô Khoan đuổi theo. Pháp sư quay đầu nói: "Vị Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn này, tốt nhất đừng dính dáng!"

Ngô Khoan trở về suy nghĩ kĩ về vấn đề này, thẻ hộ mệnh rõ ràng đã cứu anh, lại nói có đại thần thông, lại nói có ánh sáng mười phương, lại nói có cứu độ bình đẳng, lại nói có cõi Phật tịnh thổ, sao lại là đại tà ma được?

Ngô Khoan là một người thích tìm tòi nghiên cứu, đồng thời cũng là người khá sáng suốt. Anh hiểu rằng những điều nghe được thật ra không đáng tin cậy, nhiều khi tin tức truyền hình cũng không phản ánh sự thật. Hơn nữa, nếu bạn dựa vào những điều nghe được để tin tưởng, thường đó chỉ là niềm tin mù quáng, như vậy cuộc đời này thật uổng phí. Ngô Khoan quyết định đi thăm Lư Thắng Ngạn. Để nghe thử người này thuyết pháp nói những gì.

Ngô Khoan đã có nhiều dịp trò chuyện với Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, mua về nghiên cứu hàng trăm cuốn sách của ngài, tham dự nhiều buổi pháp hội và lắng nghe cẩn thận những lời giảng dạy của ngài. Có lần trong chuyến đi Canada, tình cờ được ngồi phía sau Hoạt Phật, theo sau ngài ba ngày theo cách độc đáo và thu thập được không ít tư liệu. Điều khiến người ta phải thán phục là vị này có một nền tảng văn hóa vô cùng phong phú, có ý chí kiên định như núi kim cang, tông phái Chân Phật do ngài sáng lập với hơn 30 tòa Lôi Tạng Tự và hơn 300 chi nhánh cùng trung tâm hoằng pháp trên toàn thế giới, không thể nào một sớm một chiều mà có thể có được.

Ngô Khoan nhận thấy ý chí và tư tưởng triết học của Liên Sinh Hoạt Phật đã đạt được thành tựu rất lớn. Từ khi còn trẻ, ngài đã bị kìm hãm, bị giới tôn giáo đàn áp, lớn lên trong sự phỉ báng, sớm bị quy chụp thành "ma", thành "tà", thành "đại ngoại đạo" trong giới Phật giáo. Nhưng ngài vẫn luôn bình thản, chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là "thực tu Mật pháp". Những lời xấu, những tin tức tiêu cực đổ lên người ngài, tất cả đều trở thành nguồn động lực cho sức sống của ngài.

Ngô Khoan cho rằng, Lư Thắng Ngạn là người có sức sống mãnh liệt nhất, hơn nữa sức sống của người này vẫn đang không ngừng dâng cao, tiềm năng của ngài không thể đánh giá thấp. Ngay cả trong những thời điểm bị phỉ báng và đả kích dữ dội nhất, Chân Phật Tông do ngài sáng lập vẫn không hề có dấu hiệu suy thoái, như thể được "thần thông" truyền thừa của ngài bảo hộ.

Điều khiến Ngô Khoan kinh ngạc là, anh nhận ra: Về mặt thực tu Mật giáo Hộ Ma hỏa cúng. Nhiều người tự xưng là người theo phái Mật giáo, đối với phương diện tu hành này, chỉ là "ảo ảnh trong sa mạc" và "lời nói suông giữa hoang dã". Nói suông rốt cuộc chẳng ích gì. Nhưng việc Chân Phật Tông thực tu Mật giáo Hộ Ma là một sự thật hiển nhiên trước mắt. Hơn nữa, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thực sự rất nhiệt thành cứu độ chúng sinh, pháp tu và sự cứu độ của ngài chưa từng gián đoạn một ngày nào, vẫn tiếp diễn đến tận hôm nay. Khi có thời gian, bản thân ngài thích ẩn tu để có đủ không gian và thời gian tĩnh tu, khai phát tri thức mới, sáng tạo ra những lý luận Phật học mới.

Ngô Khoan chỉ ra: 1. Tư tưởng của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn quá mới mẻ và tiên phong, nên bị bên ngoài hiểu lầm là "tà". 2. "Thần thông" của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn bị giới Phật giáo kìm hãm, họ cho rằng ngài đã lạc vào tà đạo và là người bệnh tâm thần. 3. Việc Liên Sinh Hoạt Phật thấy được thần linh, thấy được ma quỷ, làm sao giống một người bình thường được, đối với những lời chỉ trích từ người ngoài mà vẫn thản nhiên, nếu không phải bệnh tâm thần thì là gì? 4. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cho rằng, các tôn giáo trên thế giới đều có tầng bậc riêng, đều có lý do hình thành và cảnh giới riêng của mình, vì thế bị giới Phật giáo phê phán là "đại ngoại đạo". 5. Lối sống chân thật của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn bị giới Phật giáo xem là phi lý, không phải cách tu hành truyền thống của đạo Phật. 6. Truyền thông liên tục đưa tin sai lệch, tam sao thất bản, càng truyền càng tệ. 7. Công tác truyền thông của Chân Phật Tông còn quá yếu.

Ngô Khoan cho rằng, do thời gian đã quá lâu, cùng với nhiều yếu tố bên ngoài và thành kiến, việc xây dựng lại hình ảnh của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn và Chân Phật Tông là vô cùng khó khăn, việc bác bỏ những lời đàm tiếu từ bên ngoài cũng tốn rất nhiều công sức. Tuy nhiên, công tác truyền thông của Chân Phật Tông vẫn phải nỗ lực, phải tích cực hơn nữa, bởi chỉ cần cố gắng, Chân Phật Tông nhất định sẽ có ngày thoát khỏi những kết luận sai lầm về "ma", "tà", "ngoại đạo". Ngô Khoan đã viết một bản báo cáo quan sát và gửi cho tôi.

🌟

Một ngày nọ, Ngô Khoan đến tìm tôi. "Con muốn quy y với Sư Tôn!" "Con chưa quy y sao? Ta biết con là Ngô Khoan mà." "Đúng vậy, con đã quan sát Sư Tôn được ba năm rồi." "Lâu thế." "Theo quy định của Mật giáo, chẳng phải phải quan sát thầy ba năm sao?" "Phải." "Sư Tôn thấy cách quan sát của con thế nào?" "Rất chính xác." - Tôi kính phục anh ấy. Ngô Khoan nói: "Con thấy có một điều Sư Tôn làm mà con vẫn chưa hiểu. Sư Tôn quản lý Chân Phật Tông theo cách vô vi, sao không từ bỏ vô vi mà chuyển sang tích cực điều hành?" Tôi đáp: "Tôi không chú trọng đến sự phát triển của tông phái, mà chỉ quan tâm đến việc tu tập của cá nhân." Ngô Khoan suy nghĩ một lúc rồi nói: "Cuối cùng con đã hiểu!"

Ngô Khoan hiểu rằng tôi muốn mọi người đều thành Phật chứng quả, chứ không phải muốn Chân Phật Tông trở nên lớn mạnh để trở thành tổ chức tôn giáo số một thế giới. Cuối cùng Ngô Khoan lại hỏi một câu: "Sư Tôn biết rõ nhiều người có căn tính xấu, nghiệp chướng nặng nề, là những kẻ phá hoại Phật pháp, nếu cho họ quy y, có thể sẽ làm tổn hại đến uy tín của Chân Phật Tông, biết rõ như vậy, tại sao vẫn cho họ quy y?"

Tôi trả lời: "Tôi độ hóa chúng sinh, từng phát đại nguyện rộng lớn, dù thịt nát xương tan cũng độ chúng sinh, không bỏ một chúng sinh nào. Bởi vì không bỏ một chúng sinh nào, nên chỉ cần tự nguyện đến quy y, có duyên đến quy y, tôi đều tiếp nhận tất cả." Tôi nói tiếp: "Tôi tất nhiên đem hết sức mình làm công việc độ hóa, chỉ cần đã tận lực thì trong lòng an nhiên. Còn kết quả thế nào, đó là chuyện khác, tôi không tính toán hậu quả. Trong tông phái có người tốt kẻ xấu, tôi hiểu rõ, tôi hy vọng có thể chuyển hóa họ." Ngô Khoan đề nghị: "Sao không loại bỏ cái xấu, giữ lại cái tốt?" Tôi nói: "Cho dù là cỏ dại cũng có Phật tính, tất cả đều bình đẳng." Ngô Khoan nóng vội: "Nhưng, họ phá hoại cả tông phái?" Tôi đáp: "Sự thành bại của tông phái, tùy duyên mà đến. Nhưng, đời này độ không được họ, còn có đời sau, còn có đời sau nữa, còn có vô số đời, tôi có niềm tin." Ngô Khoan lắc đầu: "Hy sinh như vậy quá lớn!"

Tôi viết cho Ngô Khoan một bài kệ: Ta Bà vốn là Cực Lạc quốc Cỏ dại cũng hiện thân tịnh diệu Vốn cùng nguồn gốc một Phật tính Mầm thiêng nảy nở chẳng hay xuân.

🌟

Một lần khác. Ngô Khoan đi dự đại pháp hội tại một ngôi chùa lớn, hôm đó có rất đông người, Đại Hùng Bảo Điện chật kín người. Bởi vì chùa tổ chức truyền Ngũ giới, Bồ Tát giới và Xuất gia tam đàn đại giới, cũng có các bài giảng pháp của các vị đại hòa thượng.

Trong Đại Hùng Bảo Điện, mọi người xếp hàng để cúng dường trước Phật. Đại hòa thượng lên tòa. Đại chúng tụng kệ. Các thí chủ lần lượt xếp hàng lên cúng dường. Ngay lúc đó, một người phụ nữ bỗng run rẩy toàn thân, như một đồng cốt lên đồng vậy, đứng giữa Đại Hùng Bảo Điện múa tay và bước đi như điệu bộ của đồng cốt, cử chỉ vô cùng kỳ quặc.

Sau đó, người phụ nữ lên đồng lẩm bẩm niệm thần chú gì đó không rõ, cầm một ly nước trong, nhấp một ngụm rồi phun vào vị đại hòa thượng chủ trì. Mọi người thấy không ổn, vội chạy đến kéo cô ta lại. Người phụ nữ lên đồng miệng thì chửi bới đại hòa thượng, tuôn ra đủ thứ lời tục tĩu, không hề kiêng dè, trông như một kẻ điên, sức mạnh phi thường, hai người tiến lên kéo cô ta lại thì bị giật ngược, y phục rách bươm, mặt bị cào xước, rồi còn bị cô ta đánh ngã xuống đất.Mọi người đứng ngây ra, không biết phải làm sao! Tình cảnh vô cùng hỗn loạn.

Lúc này, một vị pháp sư đã từng học Kim cương thừa, tự xưng là có thể hàng ma bước ra, tay phải kết ấn kim cang chỉ, chỉ vào người phụ nữ lên đồng, miệng niệm: "Hùm hùm hùm fa-cha sô-ha." Vị pháp sư hy vọng người phụ nữ lên đồng sẽ ngã xuống và dừng lại. Nào ngờ người phụ nữ lên đồng cười lớn: "Ngươi muốn hàng phục ta sao, ngươi là giả mạo, đừng có giả bộ, lừa gạt chúng sinh, ngươi chỉ là kẻ học đòi." Vị pháp sư này rất lúng túng, tiến lên định ra tay. "Ngươi dám!" - Người phụ nữ lên đồng trừng mắt giận dữ. Người phụ nữ lên đồng hét lớn: "Trong này chỉ có một người là tu hành chân chính, người đó mới là hành giả thật sự."

Người phụ nữ lên đồng chỉ thẳng vào Ngô Khoan. Ngô Khoan không hiểu vì sao người phụ nữ lên đồng lại tìm đến mình, anh hoang mang, bối rối, chỉ biết thầm niệm trong lòng: "Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, xin thầy phóng quang gia trì cho người phụ nữ lên đồng này, để cô ấy bình tĩnh lại, đừng náo loạn nữa. Trước Phật cúng dường, cần giữ trang nghiêm thanh tịnh, om guru liansheng siddhi hum." Ngô Khoan niệm thần chú của Sư Tôn: "Om guru liansheng siddhi hum." Tay giơ cao bùa hộ thân của Liên Sinh Hoạt Phật, bước tới phía trước. Ấn một cái vào hư không.

Lập tức người phụ nữ lên đồng trở nên vô cùng cung kính, chắp tay lại, quỳ xuống trước bùa hộ thân và đảnh lễ ba lần. Sau đó ngã người ra phía sau và tỉnh lại.

Mọi người thấy Ngô Khoan bước ra, tay giơ cao một vật, miệng niệm thần chú, chỉ trong chốc lát đã hàng phục được người phụ nữ lên đồng điên loạn, ai nấy đều vô cùng ngưỡng mộ và kính phục Ngô Khoan, cho rằng anh có pháp lực cao cường. Có người hỏi: "Trong tay là vật gì vậy?" Ngô Khoan đáp: "Bùa hộ thân của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." "Anh còn không?" "Còn vài cái, tôi sẽ chia cho mọi người!"

Ngô Khoan kể cho mọi người về công năng của bùa hộ thân và những trải nghiệm của mình, ai nấy đều thán phục không thể tin nổi, tất cả đều muốn có bùa hộ thân, Ngô Khoan hứa ngày mai sẽ mang nhiều bùa đến tặng mọi người kết duyên.

Ngô Khoan cũng chỉ dạy cách sử dụng bùa hộ thân, cứ nửa tháng một lần, phải quán tưởng Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đứng trước mặt, phóng quang gia trì bùa hộ thân, sau đó trì tụng Liên Hoa Đồng Tử tâm chú: "Om guru liansheng siddhi hum" (108 biến), như vậy bùa hộ thân sẽ luôn linh nghiệm.

Có người chạy đến hỏi cô đồng: "Vừa rồi là chuyện gì vậy?" Cô đồng đáp: "Tôi không biết gì cả." "Cuối cùng sao cô tỉnh lại được?" Cô đồng trả lời: "Tôi chỉ thấy một vị Phật, cao như núi kim cương, phóng ra ánh sáng rất mạnh, chiếu vào tôi một cái, tôi liền tỉnh lại. Còn về những gì vừa xảy ra trong điện, tôi hoàn toàn không biết."

Sau sự việc này, Ngô Khoan càng thêm tin tưởng vào Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, anh nghiêm túc tu tập Chân Phật Mật Pháp và nhận ra rằng việc tu tập quả thật đã mang lại những chứng lượng tương ứng.

Anh nhận ra rằng chỉ cần "dốc lòng" hòa nhập, dòng chảy pháp ánh sáng giữa vũ trụ sẽ từ đỉnh đầu rót xuống, khiến toàn thân cảm thấy vô cùng mát mẻ, rất vững chãi, rất thoải mái, rất an nhiên, như đang tắm trong biển ánh sáng lớn. Tu pháp rất hoan hỷ. Tu pháp rất quang minh. Tu pháp rất thanh tịnh.

Ngô Khoan có một chuyện linh ứng trong lúc tu pháp, anh kể lại rằng: Có một lần, sau khi tu pháp xong, tinh thần sảng khoái, anh ngồi nghỉ một chút, không ngờ nhập định.

Anh cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, như chim bay lượn, nhìn thấy núi non, đồng bằng, thành phố và làng mạc bên dưới càng lúc càng nhỏ dần. Bay đến một nơi, vùng đất này vô cùng bằng phẳng, mặt đất không phải cát đá mà tỏa ánh sáng mềm mại, có hồ sen ngũ sắc, có cầu vàng, trong cảnh giới có lâu đài điện các đan xen, vô cùng tráng lệ, lại còn có cây báu với cành lá lung linh rực rỡ. Gió hòa dịu nhất. Thiên âm hòa nhã nhất. Tất cả đều tinh khiết tuyệt mỹ.

Ngô Khoan thấy trên cầu vàng có một người, trông giống như người bố đã khuất của mình, lại đến gần hơn nữa, quả nhiên là bố anh. Gương mặt của bố anh trông đẹp hơn lúc sinh thời, mặt như ngọc, y phục như mây sương, thấy con thì vô cùng vui mừng. "Bố đến đón con đây!" - Bố của Ngô Khoan nói. "Đây là nơi nào?" "Chính là cõi Tây phương! Vì con tu học Chân Phật Mật Pháp, hồi hướng cho bố, nên bố đã đến được cõi Tây phương!"

Ngô Khoan nghe xong vô cùng xúc động, anh theo bố tham quan lâu đài bảy báu, hàng nghìn cây tiên, lá ngọc bích, hoa cánh vàng, hồ sen... Cuối cùng Ngô Khoan từ biệt bố, tự nhiên tỉnh khỏi định, thở dài, thật không thể nghĩ bàn! Từ đó Ngô Khoan lập chí nguyện, nhất định phải vãng sinh Tây phương. Tu pháp càng thêm kiên định, đạo tâm càng vững vàng, đã chứng được "thần túc thông" rồi!

18. Truyền kỳ Lôi Tạng Tự

Khi tôi 26 tuổi đã khai mở thiên nhãn, đó là pháp do Diêu Trì Kim Mẫu ban cho. Lúc đó trong lòng vô cùng biết ơn, tôi đã viết một bài kệ ghi lại: Thân gánh trọng trách tuổi còn xanh Siêu việt thế gian rạng công danh Tịnh hóa Ta Bà là sứ mệnh Chỉ Phật mới chống được vô thường.

Diêu Trì Kim Mẫu cũng nói với tôi: "Liên Sinh, trong tương lai con sẽ có chùa, đặt tên là Lôi Tạng Tự. Lôi - tiếng sấm vang vọng mười pháp giới; Tạng - tàng chứa Như Lai hiển chân như." Tôi nói: "Con không có tiền, làm sao xây chùa được?" "Sẽ có Lôi Tạng Tự, và không chỉ một ngôi đâu!" "Sao, không chỉ một ngôi, đừng đùa con chứ!" Lúc đó tôi thật sự nghĩ vậy, khi ấy tôi đang phục vụ trong đơn vị đo đạc quân đội, mới chỉ là một sĩ quan cấp úy (sau này thăng lên cấp tá), lương tháng còn không đủ ăn, làm sao có thể xây chùa được, chẳng phải là mơ giữa ban ngày là gì.

Nhưng dù là giấc mơ, tôi vẫn ghi nhớ trong lòng. Bỗng nhiên tôi nảy ra ý tưởng, không xây được ngôi chùa lớn thì xây một Lôi Tạng Tự nhỏ bằng gỗ cũng được mà! Tôi đem ý tưởng của mình kể cho người thợ mộc nghe.

Người thợ mộc hỏi: "Lôi Tạng Tự lớn cỡ nào?" "Một thước vuông." "Nhỏ vậy sao!" "Nhỏ trước lớn sau." - Tôi nói. "Mái hiên?" "Chạm khắc thành hình chùa." "Hai cánh cửa?" "Dùng thần cửa, Uất Trì Cung và Tần Thúc Bảo."

Lôi Tạng Tự nhỏ bằng gỗ này có lẽ là ngôi chùa nhỏ nhất thế giới, cũng là tòa Lôi Tạng Tự đầu tiên trên thế giới. Chiều cao của nó không đến đầu gối người, tôi đặt ngôi chùa nhỏ này trên bàn thờ trong nhà mình. Bên trong thờ một tượng Phật A Di Đà cao tám tấc. Tôi hết lòng cúng dường Lôi Tạng Tự. Kính lễ Lôi Tạng Tự. Chiêm ngưỡng Lôi Tạng Tự. Tôi bất ngờ thấy ngôi Lôi Tạng Tự nhỏ nhất thế giới này thường xuyên tỏa sáng, trong lòng vô cùng kinh ngạc, phải chăng ngay cả ngôi chùa nhỏ bé này cũng có thần linh.

🌟

Năm đó, có một ông Lữ Gia là chủ tịch hội đồng quản trị của một công ty. Một hôm, ông Lữ Gia lái xe Mercedes về nhà vào ban đêm, đi qua chân núi, lúc đó khu vực chân núi rất hoang vắng, đặc biệt là vào ban đêm. Trên đường đi qua chân núi, ông gặp phải năm tên côn đồ, mỗi tên cưỡi một chiếc xe máy đuổi theo ông. Lữ Gia biết bọn chúng không có ý tốt. Hoảng sợ lái xe. Trong khi những chiếc xe máy phía sau đuổi theo gấp gáp.

Do quá căng thẳng, Lữ Gia đã đâm vào một cái cây bên đường, xe không thể di chuyển được nữa, phần đầu xe hư hỏng nặng. May mắn là ông vẫn còn tỉnh táo, sau khi kiểm tra cơ thể thì thấy không bị thương nặng, quả là trong cái rủi có cái may. Lữ Gia hoảng hốt chạy khỏi xe, đầu óc mơ hồ, lảo đảo bước đi trong bụi cây rừng rậm mà không biết phương hướng.

Năm tên côn đồ cũng xuống xe máy, vẫn không từ bỏ ý định bắt ông để gây rắc rối. Lữ Gia bỏ xe chạy trốn, năm tên kia bám riết không tha. Ông tự nhủ mình chắc chắn sẽ bị bắt, có thể bị bắt cóc để đòi tiền chuộc, điều này không thể tránh khỏi. Thậm chí tính mạng cũng khó bảo toàn, có thể bị thủ tiêu, chuyện này vẫn thường thấy trên báo chí.

Lữ Gia càng nghĩ càng sợ, trong lúc hoang mang, bỗng nhiên nhìn thấy phía trước có một ngôi miếu nhỏ, ngôi miếu cũng tỏa ánh sáng. Lữ Gia vội vã chạy vào miếu. Trong miếu có một vị sư thấp người và mập mạp. Lữ Gia thở hổn hển, nói: "Có người đuổi theo tôi, cho tôi trốn một lúc!" Vị sư đáp: "Ông cứ ẩn náu ở đây, sẽ không ai biết đâu, cứ yên tâm."

Một lúc sau, năm tên kia đã đuổi đến gần miếu, nhưng không hề bước vào bên trong, chúng đứng nói chuyện ở ngoài, Lữ Gia nghe rõ từng câu từng chữ, trong lòng càng thêm kinh hoàng!

Chỉ nghe năm người nói: "Chúng ta đã đợi nhiều ngày rồi, lần này không thể để hắn thoát được!" "Mạng của hắn đáng giá hàng triệu." "Nếu không chịu trả tiền, giết phăng hắn đi!" "Lạ thật, chạy đi đâu rồi?" "Nơi này trống trải, chẳng có gì cả, vậy mà người lại biến mất không dấu vết!"

Lữ Gia nơm nớp lo sợ trốn trong miếu nhỏ, nghe tiếng bọn côn đồ nói chuyện ồn ào, biết chúng đang ở gần đó, nhưng điều khó hiểu là bọn chúng không hề vào miếu, chỉ đi vòng quanh miếu, một lúc sau, tiếng người xa dần, rõ ràng đã bỏ đi.

Lữ Gia hỏi vị sư thấp người và mập mạp: "Pháp hiệu của Đại sư là gì? Để sau này tôi báo đáp ơn cứu mạng." Vị sư đáp: "Khi đến lúc ông sẽ biết." "Đây là chùa gì vậy?" "Lôi Tạng Tự." "Tôi chưa từng biết ở đây có Lôi Tạng Tự!" Vị sư chỉ mỉm cười không đáp.

Lữ Gia bối rối nói: "Giọng nói của những người này, tôi không quen một ai cả, tại sao họ lại muốn bắt cóc tôi?" Vị sư nói: "Họ bị lòng tham chi phối, cố gắng theo đuổi những thứ mình không có và mong muốn có được." "Họ mong muốn có được gì?" "Tiền bạc." Vị sư bảo Lữ Gia: "Lòng tham của con người là vô tận, một ham muốn được thỏa mãn lại nảy sinh ham muốn mới, cuộc đời chính là sự theo đuổi những ham muốn như vậy, chỉ có người nhìn thấu được lòng tham mới thực sự có thể an tâm." Lữ Gia nói: "Cảm ơn lời chỉ dạy của Đại sư! Sau này có duyên, tôi sẽ xây dựng Lôi Tạng Tự, tạc tượng Phật." Vị sư cười lớn.

Lữ Gia rời khỏi Lôi Tạng Tự, mới đi được vài chục bước, quay đầu lại, ông sững sờ, ngẩn người. Ngôi Lôi Tạng Tự sừng sững đã biến mất. Lữ Gia không tin Lôi Tạng Tự có thể biến mất, quay lại tìm, chỉ thấy một mảnh đất trống, chẳng có gì cả, nhìn quanh một vòng, chẳng thấy chùa đâu, trống trải hoàn toàn, đi thêm về phía trước thì thấy một cái hố sâu. Ma ư? Gặp ma rồi sao? Lữ Gia nổi da gà, vội vã bước nhanh rời đi!

Sau sự việc đó, Lữ Gia hỏi người dân địa phương xem có ngôi chùa nào ở gần đây không, họ trả lời rằng khu vực đó chỉ là một rừng keo lớn, chưa hề được khai phá, làm gì có chùa chiền gì? Lữ Gia lại hỏi các viên chức quản lý chùa, hoàn toàn không có Lôi Tạng Tự nào cả. Lữ Gia cảm thấy như mình đang mơ!

Một ngày nọ, Lữ Gia cùng bạn đến thăm nhà tôi, người bạn đến để hỏi về vận may trong kinh doanh. Lữ Gia nhìn thoáng qua ngôi miếu nhỏ trên bàn thờ của tôi, sững sờ. Trên đỉnh ngôi miếu cao một thước của tôi có ba chữ: "Lôi Tạng Tự".

Lữ Gia quỳ xuống đảnh lễ Lôi Tạng Tự. Lữ Gia thỉnh cầu: "Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài có thể mở cửa chùa cho tôi xem được không?" "Được." - Tôi nói. Tôi mở cửa chùa. Bên trong thờ một tượng A Di Đà Phật thấp người và mập mạp. Lữ Gia vừa thấy liền chỉ vào tượng A Di Đà Phật, nói: "Chính là ngài, chính là ngài, chính là ngài, đúng rồi, chính là ngài." Mọi người không hiểu ý của Lữ Gia, sau đó Lữ Gia mới kể lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối. Người nghe đều xúc động.

Sau đó, Lữ Gia quy y Chân Phật Tông, theo tôi học Chân Phật Mật Pháp, và ông cũng tích cực xây dựng Lôi Tạng Tự. Lữ Gia tu hành chỉ nguyện vãng sinh Tây phương Cực Lạc, tôi dạy ông rằng, hãy nhất tâm tinh tấn niệm danh hiệu A Di Đà Phật, tất sẽ được vãng sinh. Đúng là: Tây phương có duyên tự đạt được. Một câu Di Đà tối thượng thừa. Hóa miếu hóa Phật đều đã thấy. Nhất tâm chuyên chí tự nhiên thành.

🌟

Đây là một câu chuyện kỳ lạ khác về Lôi Tạng Tự mà tôi đã trải qua: Trong năm tôi khảo sát phong thủy địa lý, có lần tôi leo lên một ngọn núi lớn, ngọn núi toàn là những đỉnh nhọn chót vót, vách đá dựng đứng.

Để tìm long điểm huyệt, thực tế thường không có đường đi, có lúc không chỉ hoang vắng không bóng người, tất nhiên cũng chẳng có lối mòn, tôi cầm chiếc la bàn trên tay, chỉ dựa vào niềm tin mà tiến bước.

Nhìn ra xa, là những đỉnh núi uốn lượn trập trùng, và từng mảng rừng rậm bạt ngàn, khi thì vượt qua suối, khi thì xuyên qua rừng, lúc bất đắc dĩ còn phải leo những vách đá nguy hiểm, thật ra việc xem phong thủy địa lý cũng có thể nói là vô cùng vất vả. Cuối cùng, tôi đã tìm được một long huyệt vô cùng quý giá. Long - là rồng sống. Huyệt - là nơi khí tụ tán.

Toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi, vô cùng mệt mỏi. Nhìn quanh, bỗng thấy một căn chòi tranh nghiêng nghiêng như một điều kỳ diệu. Lúc đó tôi nghĩ, nơi đỉnh núi cao này, chắc không thể có người đến khai hoang trồng trọt, nên đây không phải nhà nông.

Rất có thể là căn chòi nghỉ do những công nhân lâm nghiệp thời trước dựng lên khi đốn gỗ, vì nhìn quanh có thể thấy dấu vết đốn cây, cây cối ở đây chỉ cao ngang thắt lưng, là những cây được trồng lại sau khi đốn hạ.

Tôi bước vào chòi, bên trong che được nắng, mát rượi, lập tức cảm thấy rất dễ chịu. Trong chòi mọc đầy cỏ dại, có vài bao thuốc lá đã ẩm mục, bên trong có một chiếc áo mưa cũ, mở ra vẫn có thể trải xuống đất được, ngoài ra chẳng có gì khác.

Tôi gần như không chút do dự nằm xuống chiếc áo mưa, có lẽ vì đã đi bộ nửa ngày trên núi, tiêu hao quá nhiều thể lực, mệt mỏi khiến mí mắt không còn nghe lời, cứ thế díp lại, vừa gục đầu xuống thì đã ngủ thiếp đi. Không biết đã ngủ bao lâu. Có cảm giác hai bóng người to lớn đang tiến đến gần tôi, đứng nhìn tôi, rồi từ từ quỳ xuống, hai người chắp tay nói với tôi: "Liên Sinh Sư Tôn, xin ngài thu nhận chúng tôi!" "Các người là ai?" - Tôi hơi giật mình. "Chúng tôi là ma!"

Ma ư? Giữa ban ngày, đang buổi chiều, sao lại gặp ma giữa ban ngày thế này! Tôi nghĩ vậy, không ngờ hai người họ cũng biết được, liền nói: "Chúng tôi là hai con ma được địa khí, có chút thần lực, nên có thể hiện thân giữa ban ngày, chúng tôi được địa khí chính là từ long huyệt mà ngài vừa xem đó." "Đã là địa lý ma, có chút thần lực, sao còn cần tôi thu nhận?" - Tôi hỏi ngược lại họ. Hai người đáp: "Ma đạo vẫn là ma đạo." Con ma kia nói rõ hơn: "Ma đạo là hạ phẩm, giữa núi non hiểm trở này, không có người qua lại, kiếm ăn rất khó khăn." "Ha!" - Tôi cũng đang nghĩ vậy. Tôi hỏi: "Vậy theo tôi thì sao..." "Có thể thăng tiên phẩm." - Hai con ma đáp. "Ai nói vậy?" - Tôi thấy lạ vì sao họ lại biết trả lời như thế.

Một trong hai vị địa lý ma đứng dậy đảnh lễ tôi lần nữa, rồi kể lại một đoạn nhân duyên. Hai người họ là thổ dân, sức mạnh vô song. Được chôn gần long huyệt, được địa khí, nên trở thành địa lý ma.

Một ngày nọ, có một vị thần tiên đi ngang qua nơi này. Hai con ma bị bắt quả tang khi trộm túi của thần tiên, họ khẩn khoản van xin, thần tiên động lòng thương xót mới bảo với họ: "Một thời gian nữa, sẽ có một bậc đại tu hành là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đến núi này tìm long huyệt. Vị Hoạt Phật này vừa xây xong một ngôi Lôi Tạng Tự nhỏ, đang thiếu hai vị thần cổng. Các ngươi làm ma đất ở đây sống cũng chẳng sung sướng gì, chi bằng theo Hoạt Phật tu hành. Ngôi Lôi Tạng Tự này có người cúng dường, ăn mặc không lo, lại được theo Hoạt Phật tu học Phật pháp, tương lai có thể thành tiên thành Phật, mau đi! Mau đi!" Hai con ma nghe xong, trong lòng vô cùng hoan hỷ.

Tôi hỏi: "Vị thần tiên đó là ai?" Hai con ma đáp: "Huyền Thiên Thượng Đế." Tôi "À" một tiếng, lúc này đã hiểu ra tất cả!

Sự việc là như thế này, ngôi Lôi Tạng Tự làm bằng gỗ cao một thước, bên trong thờ tượng A Di Đà Phật cao tám tấc.

Ngày khai quang, thiếu hai vị thần cổng là Uất Trì Cung và Tần Thúc Bảo. Tôi thỉnh hai vị thần cổng đến, khi hai vị vừa đến, trên mặt có vẻ khó xử. Tôi đương nhiên biết ngôi miếu quá nhỏ, không thể chứa được thần lớn, nên đành thỉnh hai vị trở về.

Tôi thỉnh Huyền Thiên Thượng Đế, vì Huyền Thiên Thượng Đế có hai vị tướng hộ pháp là Quy và Xà. Vì vậy, Huyền Thiên Thượng Đế mới giới thiệu hai vị địa lý ma đến bảo hộ ngôi Lôi Tạng Tự nhỏ bé này.

Hai vị hộ pháp là địa lý ma này không thể xem thường vì họ là chúng sinh ma đạo, vốn là những người có sức chịu đựng bền bỉ. Họ không chỉ từ bỏ mọi việc ác, theo A Di Đà Phật, thực tu bát nhã ba-la-mật một cách chắc chắn, mà còn ngày đêm không rời A Di Đà Phật. Hai vị địa lý ma không rời Phật, nên không hoại các căn lành. Vì bảo hộ, lại còn hóa độ chúng sinh. Không có phiền não, có thể tự độ, lại có thể độ người. Cuối cùng, hai vị địa lý ma không chỉ thoát khỏi ma đạo, mà còn thành tựu quả vị Bồ Tát. Đó chính là: Mắt ma mù lòa, nếu không được Phật dẫn dắt, ắt sẽ vào đường khác, không thể thành tựu. Ma nếu thấy Phật, mắt thấy thì tâm thanh tịnh, nghe Phật thuyết pháp thì hoan hỷ, nhờ pháp mà được đại trí tuệ, theo pháp tu hành mà được giải thoát.

Có bài kệ: Hồ sen mỗi ngày hoa đều nở Ánh sáng tứ sắc chiếu bảo đài Tay vàng từ bi vươn xa tới Chúng sinh bận chi không nghĩ về.

Và: Nơi hồ máu khô, hồ sen nở Khi cây kiếm héo, cây báu xanh Phật ma xưa nay không tướng trụ Ở chốn vô trụ tự viên thành

Tôi thường nói rằng, cho dù là đạo địa ngục, đạo ngạ quỷ hay đạo súc sinh, cũng đều có thể tu hành và thành tựu giải thoát. Chỉ cần nhổ sạch cội rễ của nghiệp chướng, buông bỏ hết những duyên trong ngoài nơi tâm, khi ngọn lửa trí tuệ vừa được thắp lên, trong khoảnh khắc, tất cả nghiệp chướng đều hóa thành tro bụi.

19. Địa ngục thiêu đốt

Có một đệ tử nữ tên là Trần Hương đến để hỏi việc sau khi mẹ cô ấy qua đời thì linh hồn đã đi đến nơi nào. Tôi thiền định quan sát, rất thương xót nói: "Ở trong địa ngục thiêu đốt!" Trần Hương không tin: "Mẹ tôi sao có thể xuống địa ngục! Tôi không tin." Tôi nói: "Mẹ cô khi còn sống là người nóng giận quá mức nên mới xuống địa ngục thiêu đốt!"

Sau khi Trần Hương trở về nhà thì hỏi thăm bố về cuộc đời của mẹ mình, bởi vì khi Trần Hương còn nhỏ xíu thì mẹ cô ấy đã qua đời rồi. Bố cô trả lời: "Mẹ con bản tính lương thiện, chỉ là tính khí quá nóng nảy, rất dễ tức giận, lúc còn sống, hao tâm tổn sức chăm sóc gia đình này, bởi vì tâm quá nhỏ hẹp, đòi hỏi quá cao, sống không hòa hợp với hàng xóm, không dễ chung sống với người làm và người nhà, có xung đột với bạn bè, với người ngoài thì kiện tụng, chỗ nào cũng tranh giành phần thắng." "Là sân nộ ư?" "Hễ gặp chuyện bất bình là sôi gan phẫn nộ." - Bố Trần Hương nói. Trần Hương lại quay trở lại tìm tôi. "Sư phụ Liên Sinh, làm sao cứu mẹ?"

Tôi lại thiền định, sau khi xuất định nói: "Khó cứu!" "Vì sao?" "Ngọn lửa mãnh liệt cháy hừng hực, khó đi vào!" "Dập tắt lửa luôn đi!" "Ngọn lủa này không phải lửa thường." - Tôi nói. Trần Hương trong lòng bất an: "Nhất định phải cứu. Sư phụ Liên Sinh, ngài nhất định phải nghĩ cách, tôi không tiếc mọi thứ để cứu mẹ thoát khỏi khổ sở." Tôi nói: "Có thể thỉnh Thủy Thần đi cứu!" "Thủy Thần nào?" "Đại Vũ." Tôi niệm chân ngôn: "Hạ Nguyên Đại Vũ Thủy Quan Đế, khai đê dẫn thủy tác trường hà, trực tu tự tự phân minh niệm, hạ giáng hiện thân độ địa ngục." Thế là Đại Vũ hiện thân.

Đại Vũ nhận lệnh đến địa ngục thiêu đốt, không lâu đã trở về, cũng chỉ có Đại Vũ trở về mà thôi, toàn thân Đại Vũ bị cháy đen, vô cùng thảm hại. Tôi hỏi Đại Vũ: "Vì duyên cớ gì?" Đại Vũ nói: "Khi tôi đi vào địa ngục thiêu đốt, lửa cháy bừng bừng, quần áo và mặt đều bị cháy xém." "Ngài không biết niệm bài vè tránh lửa à?" "Đương nhiên không biết, Đại Vũ tôi chỉ trị thủy, biết tính chất của nước, biết bài vè tránh nước, tôi không phải trị lửa. Liên Sinh Hoạt Phật, ngài làm sai rồi."

Tôi xoa đầu nghĩ: "Tôi chỉ nghĩ đến dùng nước để khắc lửa, không ngờ Thủy Thần Đại Vũ chỉ biết trị nước, không biết trị lửa, tôi thật sự sai rồi!" Tôi nói với Đại Vũ: "Xin lỗi! Ngài về đi!" - Tôi dùng ấn giải tán. Thủy Đế Đại Vũ liền trở về trời.

Sau đó, tôi nghĩ đến Hỏa Đầu Kim Cang có thể đi vào địa ngục thiêu đốt, bản thân Hỏa Đầu Kim Cang tức là tụ tập lửa lớn, là lửa kim cang, có thể thiêu hủy tất cả uế khí, mẹ của Trần Hương chỉ cần gặp được Hỏa Đầu Kim Cang thì tất cả nghiệp chướng cũng tự nhiên biến thành tro tàn, như vậy thì có thể thoát khỏi khổ sở của địa ngục thiêu đốt.

Tôi niệm: "Nhất hỏa đông chiếu. Thập giới viên chương. Thích Ca ứng hóa. Đại Quyền Thần Vương. Tu-lan tu-lan tu-lan rưa rưa rưa." (chú ngữ) Chỉ trong giây lát, hỏa quang tam muội, đủ loại tướng tốt lành linh dị, Hỏa Đầu Kim Cang liền xuất hiện. Trên đầu có lửa, xung quanh có lửa, chân cũng dẫm trên mây lửa. Hỏa Đầu Kim Cang nhận lệnh đi làm. Lần này, lửa đi vào địa ngục thiêu đốt, đương nhiên là có thể đi, lửa tan vào lửa mà.

Nhưng cũng chỉ có một mình Hỏa Đầu Kim Cang trở về, vẫn không có cách nào cứu được mẹ của Trần Hương ra khỏi địa ngục thiêu đốt. Hỏi Hỏa Đầu Kim Cang chuyện này là sao. Kim Cang trả lời: "Lửa thêm vào lửa, cũng như lửa được thêm dầu, càng cháy hừng hực!" "Cứu bà ấy thôi!" "Hễ chạm vào bà ấy là cháy khét, kêu xèo xèo!" "Thế nào mới được?" "Hết cách." Hổ Đầu Kim Cang cũng trở về trời rồi.

Cuối cùng, tôi nghĩ đến U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát là đại ca của tôi, địa ngục do đại ca quản lý, nhất định sẽ có cách cứu mẹ của Trần Hương mới phải. Tôi đi thỉnh giáo Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát trả lời dứt khoát: "Nhất tâm bất loạn thì có thể cứu!" "Làm sao để cho mẹ Trần Hương nhất tâm bất loạn chứ?" "Yêu cầu bà ấy niệm Phật trì chú, niệm Phật nhất tâm bất loạn chính là kết quả của tịnh nghiệp, là cảnh cửa lớn của tịnh thổ." "Bà ấy không chịu niệm Phật thì phải làm sao?" Địa Tạng Vương Bồ Tát cảm thán: "Chúng sinh ngu si, chỉ một câu Phật mà cũng không chịu niệm, làm sao mà cứu chứ?"

Địa Tạng Vương Bồ Tát nói tiếp: "Một câu A Di Đà Phật là thuốc a-già-đà, không có bệnh gì là không chữa được, là vua ngọc như ý, không có nguyện ước gì không thỏa mãn được, là con thuyền từ bi chở qua biển khổ sinh tử, không có khổ nào mà không độ được, là ngọn đèn trí huệ của đêm dài vô minh, không có bóng tối nào không xua tan được, chỉ một lần nghe qua tai cũng đã có duyên, chỉ một lần có lòng tin và niệm là đã có thể tương ứng, chỉ niệm một câu, câu này liền hóa hoa sen, ra khỏi hố lửa, thăng vào các cõi trời." Tôi nói với Trần Hương phải làm thế này thế nọ mới có thể cứu. Trần Hương lắc đầu, mẹ cô ấy căn bản là không biết có Phật. Tôi đã nghĩ rất lâu, cuối cùng nghĩ ra một diệu kế. Tôi phải đích thân đi vào địa ngục thiêu đốt một chuyến.

Tôi đã đi đến địa ngục thiêu đốt, tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) là loại người gì mà chỉ niệm bài vè tránh lửa là đi vào được! Tôi niệm: "Tứ đại thường điều. Bất phiền bất nhiệt. Phục hà tu hỏa. Bất tu hà hữu. Rang. Yang. Kang." [Ram. Yam. Kham.]

Tôi hiện ra pháp thân ánh sáng tướng đẹp trang nghiêm đi vào trong địa ngục thiêu đốt, quanh thân tôi có ánh sáng bao quanh, lửa độc không thể đến gần. Tôi nhìn thấy mẹ của Trần Hương ở trong lửa độc, cảnh ngộ của bà ấy thật sự là không thể hình dung nổi, cái khổ này không ai có thể chịu đựng được, giống như: Lửa độc như rắn độc, quấn quanh thân thể, miệng thè lưỡi, khiến bà ấy khó thoát. Lửa độc như mùi xác chết, như thịt tanh hôi xộc lên mũi, khiến bà ấy khó thoát. Lửa độc như chôn sống, người ở trong hố, đất cát chôn xuống, hít thở khó khăn, khiến bà ấy khó thoát. Lửa độc như giun dế đói bụng, nghìn vạn con bò lên người, cắn vào da thịt, khiến bà ấy khó thoát. Lửa độc như nham thạch núi lửa, cuồn cuộn chảy đến, hễ chạm vào người là ngũ tạng nát bấy, xương trắng hóa tro, khiến bà ấy khó thoát. ………….

Tôi nhìn thấy thảm cảnh ấy thì trong lòng không chịu nổi, chỉ mong chúng sinh đều phát tâm, bi tâm, huệ tâm, tinh tấn tâm, tín tâm, định tâm, nhu nhuyễn tâm. Tôi nói với mẹ của Trần Hương: "Tôi là Liên Sinh." Mẹ của Trần Hương nói: "Ông là Liên Sinh!" "Xung quanh đây là cái gì?" Mẹ Trần Hương đáp: "Lửa (Phật)." [Trong tiếng Trung, phát âm chữ "lửa" ("hỏa" gần giống âm Phật.] Hợp lại câu nói của mẹ Trần Hương tức là: "Ông là Liên Sinh Hỏa (Phật)!" Chính là một câu Phật hiệu: Giống như Đại Thế Chí Bồ Tát nói: "Ta nhớ xưa kia hằng hà sa kiếp, có Phật xuất thế, tên gọi Vô Lượng Quang, mười hai Như Lai nối tiếp nhau từng kiếp, vị Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Vị Phật ấy dạy tôi niệm Phật tam muội, ví dụ có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như vậy, gặp như không gặp, thấy như không thấy. Còn như hai người nhớ nhau, nỗi nhớ sâu đậm, như vậy cho dù đời này đến đời khác, cùng một hình ảnh, chẳng lạ lẫm nhau. Thập phương Như Lai nhớ thương chúng sinh, như mẹ nhớ con, nếu con đi mất, dù nhớ thì sao, nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con bao đời, cũng không xa cách. Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm Phật, Phật đến hiện tiền, nhất định thấy Phật, không đi xa Phật, phương tiện không giả, tự đắc tâm khai, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm, như vậy gọi là hương quang trang nghiêm. Nhân địa của ta, dùng tâm niệm Phật, nhập vô sinh nhẫn, nay ở cõi này, gom người niệm Phật, quy về tịnh thổ, Phật hỏi khéo léo, ta không lựa chọn, đều thu lục căn, tịnh niệm liên tục, đắc tam ma địa, ấy là đệ nhất."

Tôi liền dạy mẹ Trần Hương niệm một câu: "Tôi là Liên Sinh Phật." Sinh tử mênh mông bến đò xưa. Di Dà khơi động con thuyền chở. Cuộc đời có duyên nay được gặp. Mau lên thuyền ấy về nghỉ ngơi. Chỉ một câu Phật này đã bất khả tư nghì, chỉ thấy một đóa hoa sen thanh tịnh trang nghiêm, xoay tròn xung quanh, ánh sáng rực rỡ của nó đã phá vỡ không gian mà đi. Mẹ Trần Hương vãng sinh rồi. Mẹ Trần Hương thăng thiên rồi.

🌟

Sau khi mẹ Trần Hương vãng sinh, bố Trần Hương cũng có cảm ứng. Bệnh dạ dày của bố Trần Hương rất nghiêm trọng. Trong một lần nằm mơ, mẹ Trần Hương đến bảo ông ấy: "Bệnh dạ dày của ông là do một loại quả báo của nghiệp sát kiếp trước, nếu muốn khỏi bệnh thì đi quy y Liên Sinh Hoạt Phật đi! Ông ấy là Liên Hoa Đồng Tử, cũng chính là ứng hóa của A Di Đà Phật, quy y rồi thì túc nghiệp sẽ sạch, sau đó chịu đau khổ chỉ khoảng một tháng là sẽ khỏi hoàn toàn." Trần Hương đưa bố đến quy y. Quả nhiên một tháng sau, bệnh dạ dày đã khỏi hẳn! Bệnh dạ dày của bố Trần Hương là căn bệnh nhiều năm, tất cả cảm ứng thật sự là bất khả tư nghì!

Bản thân Trần Hương thờ cúng pháp tướng Liên Hoa Đồng Tử, hoan hỷ lễ bái, sớm tối cô ấy tu Thượng sư tương ứng pháp. Cô cảm ứng thấy mẹ thăng thiên, có được tướng thiên nhân, từng nhìn thấy mẹ mình hiện thân hai lần, trên người có mùi thơm, mặc thiên y, đội mũ miện, trên người có ánh sáng, cưỡi bạch mã bay qua bay lại ở trên trời.

20. Quỷ Mặt Xanh

Có một đệ tử Chân Phật Tông tên là Trang Trụ làm nghề chăn nuôi đến xin phù chống dịch, tôi vẽ cho anh ấy nhiều lá phù, anh ấy rất vui. Trang Trụ xin phù chống dịch, không phải một hai lá, cũng không phải năm mười lá, mà là một lúc bốn mươi lá, vẽ đến đau nhức cả tay. "Tại sao lại cần đến bốn mươi lá?" - Tôi thắc mắc. "Mình cần, họ hàng cũng cần, bạn bè cũng cần." "Họ hàng, bạn bè có nhiều người làm nghề chăn nuôi đến thế sao?" "Nếu dư thì để dành sang năm dùng." "Sang năm đến xin nữa là được mà!" - Tôi nói. Trang Trụ nói: "Sư Tôn là người rất bận rộn, sang năm không biết có gặp được Sư Tôn hay không, thôi thì xin trước cho chắc ăn."

Câu chuyện về việc Trang Trụ xin phù chống dịch: Có một năm, dịch gà bùng phát. Rất nhiều trại gà đều gặp tai ương, dịch gà rất nguy hiểm, những con gà vốn khỏe mạnh, hoạt bát, chỉ cần nhiễm bệnh, không phải một hai con, mà là hàng nghìn hàng vạn con, tất cả đều kiệt sức, chỉ trong vòng hai, ba ngày, tất cả đều gục ngã, đào đất chôn còn không kịp. Xác gà chất cao như núi. Ngay cả những con sống sót cũng khó tránh khỏi phát bệnh. Chủ trại câm lặng nhìn trời, muốn khóc mà không còn nước mắt. Tất cả vốn liếng đều tiêu tan, ngành chăn nuôi sợ nhất là dịch bệnh. Như người nuôi bò gặp bệnh bò điên, người nuôi lợn gặp bệnh lở mồm long móng, người nuôi gà gặp cúm gà, thật sự là thảm khốc.

Trang Trụ rất chú trọng vệ sinh môi trường. Anh ấy cũng dán những lá phù chống dịch mà tôi đã cho. Một đêm nọ, Trang Trụ ngủ ở căn nhà trong trại gà, anh ấy có hai nhà, một căn trong thành phố, một căn ở chân núi nơi có trại gà. Anh ấy ngủ đến nửa đêm. Nghe thấy bên ngoài nhà có tiếng người ồn ào đi lại, anh ấy thắc mắc, giữa đêm hôm khuya khoắt sao lại có nhiều người đi lại bên ngoài trại gà thế này. Anh ấy mở cửa sổ nhìn ra, quả nhiên thấy nhiều cái đầu người đang lắc lư bên ngoài.

Anh ấy nghe thấy họ nói chuyện: "Quỷ Mặt Xanh! Trại gà này của ai vậy?" "Trang Trụ." "Quỷ Mặt Xanh, sao chúng ta không vào trong?" Quỷ Mặt Xanh này có vẻ là đại ca, Quỷ Mặt Xanh nói: "Ngươi không thấy sao? Trại gà này có ánh sáng của bùa phép!" "Bùa phép! Mặc kệ bùa gì, cứ xông vào thôi!" "Bùa này không giống bình thường." "Của ai vậy?" Quỷ Mặt Xanh nói: "Là bùa chống dịch do chính tay Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn vẽ, bên trong bùa này là nơi ở của Chung Quỳ Thiên Sư, chúng ta mà vào trong đó là sẽ bị Chung Quỳ nuốt chửng." Đám quỷ nghe xong, tất cả đều khiếp sợ. "Vậy phải làm sao?" Quỷ Mặt Xanh vẫy tay: "Đến nhà khác thôi!" Như một cơn gió, Quỷ Mặt Xanh và tất cả các quỷ dịch bệnh đều hoảng sợ bỏ chạy. Trăng đã lên, sao cũng đã mọc, Trang Trụ nghe rõ mọi chuyện, trong lòng đã hiểu rõ.

Kết quả: Vài trại gà xung quanh nhà Trang Trụ đều bị dịch gà, chỉ trong vài ngày, dù là gà đẻ trứng, gà lai hay gà ác (gà thịt), tất cả đều chết hết! Chỉ có trại gà nhà Trang Trụ thoát khỏi dịch bệnh, không một con nào chết, Trang Trụ vui mừng khôn xiết.

Những chủ trại khác đến tìm Trang Trụ: "Sao anh không sao cả vậy?" "Tôi có dán phù." "Tôi cũng có dán mà." - Người chủ trại nói. "Phù có khác nhau, công lực cũng khác nhau." - Trang Trụ nói. "Phù của ai vậy?" Trang Trụ nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." "Ban đầu tôi cũng định xin phù của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, nhưng có một pháp sư nói đó là tà, nên tôi không dám xin nữa. Thế là xin phù của vị pháp sư đó, chết tiệt! Chẳng có tác dụng gì cả!" Trang Trụ nói: "Chỉ cần thử một lần là biết ngay chính tà, không cần nói suông!" Trang Trụ nhấn mạnh: "Lời đồn dừng lại ở người trí."

🌟

Một lần khác. Bệnh lở mồm long móng trở nên nghiêm trọng, chân của lợn nổi các mụn nước, sau đó thì bị thối rữa, toàn thân lợn phù nề, thật kinh khủng! Xác lợn chết thả trôi sông, gây ô nhiễm nguồn nước! Xác lợn đem đốt, ảnh hưởng không khí, ai nấy đều phải bịt mũi! Xác lợn chôn xuống đất, nước ngầm cũng không thể uống được! Thịt lợn bị bệnh lở mồm long móng, không ai dám ăn! Dịch bệnh thật đáng sợ. Nhiều trại chăn nuôi lớn đều gặp tai ương, ngành chăn nuôi kêu than thảm thiết, chỉ có Trang Trụ là bình an vô sự, thảnh thơi tự tại! Trang Trụ đến tham dự pháp hội Kim Cang Mật giáo của tôi, nói với tôi rằng chỉ có trại của anh ấy là không sao.

Theo như tôi biết, là như thế này: Những năm gần đây dịch bệnh hoành hành, đều có ý trời! Bởi vì lòng người đã thay đổi! Kẻ xấu giả dạng người tốt, người tốt thật sự lại gặp họa! Ngay cả tư pháp cũng không còn công bằng! Xã hội đại loạn! Trong giới tôn giáo, "tôn giáo hình thức" nở rộ, còn người tu thật thì bị chôn vùi! Chạy đua vũ khí, tất cả đều ganh đua trong việc giết hại đồng loại, vũ khí càng tinh vi, càng chính xác, càng lợi hại, hại càng nhiều người, thì lại được gọi là siêu cường! Trời nổi giận! Thế nên dịch bệnh lan tràn khắp thế giới!

Quỷ Mặt Xanh nhận chỉ thị từ thiên đình, hoành hành khắp cõi Ta Bà, đội quân ma của Quỷ Mặt Xanh đi đến đâu đều không ai có thể cản được cờ lệnh xanh trong tay hắn.

Chỉ có tôi - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn biết chuyện này, nên cũng chỉ có tôi mới có thể phá giải dịch bệnh lở mồm long móng, cứu giúp trâu, dê, lợn thoát khỏi tai ương. Tôi biết trong tay Quỷ Mặt Xanh có cờ lệnh xanh từ thiên đình. Tất cả bùa chú đều không thể chống đỡ! "Phải làm sao đây?"

Ngày hôm đó, Quỷ Mặt Xanh tay cầm cờ lệnh xanh, dẫn theo một đội quỷ binh quỷ tốt đông đảo, đi ngang qua trại chăn nuôi của Trang Trụ. Một đám quỷ dịch bệnh chuẩn bị xông vào, chuẩn bị ăn uống no say, gặm nhấm thỏa thích, chờ đợi mệnh lệnh của Quỷ Mặt Xanh. Phó tướng nói: "Lần trước có dịch bệnh, chúng ta đã tha cho hắn, lần này trong tay có cờ lệnh xanh, mọi ánh sáng bùa phép đều lu mờ, pháp lực bùa chú đều mất hết hiệu lực, có thể vào được rồi chứ!" Quỷ Mặt Xanh đáp: "Khoan đã, ta nhận thấy phù của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn lần này khác với mọi khi, ánh sáng phù có điều khác lạ!" "Mặc xác ánh sáng phù với không ánh sáng phù, có cờ lệnh xanh là chỉ thị của thiên đình, ánh sáng phù cũng vô dụng thôi!" Đám quỷ xoa tay chờ đợi.

Quỷ Mặt Xanh đang chuẩn bị ra lệnh, chợt thấy bên trong trại chăn nuôi phát ra ánh sáng xanh từ phù chú, từ trong ánh sáng xanh hiện ra vị thần tướng của phù chú, vị thần tướng này không phải ai khác, chính là thần dịch bệnh Quỷ Mặt Xanh.

Đây chính là: Kẻ gây dịch bệnh là Quỷ Mặt Xanh. Kẻ ngăn dịch bệnh cũng là Quỷ Mặt Xanh.

Quỷ Mặt Xanh đang gây dịch bệnh hét lên: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thật lợi hại, đây là bí mật trong bí mật, pháp trong pháp, ngài đã biết được thiên cơ, ta không thể tự giết mình, Quỷ Mặt Xanh đánh Quỷ Mặt Xanh, chúng ta rút lui thôi!" Đám quỷ lại hoảng sợ rút lui!

Trại chăn nuôi của Trang Trụ, không có một con lợn nào mắc bệnh lở mồm long móng. Đó chính là vì Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là một vị cao tăng đắc đạo, người thực sự hiểu được "tâm trời".

21. Liên Hoa Đồng Tử trụ đỉnh

Phương Hoằng là đệ tử Chân Phật Tông, cô là nữ quản lý của một câu lạc bộ. Có một lần, cô đến gặp tôi. Cô nói với tôi: "Thưa Sư Tôn, con nghe thầy thuyết pháp, con rất xúc động. Thầy dạy phải thường xuyên quán tưởng Bổn tôn trụ đỉnh phải không ạ?" "Đúng vậy." "Nhưng con làm việc bận rộn quá, cứ bận là con dễ quên mất Bổn tôn! Phải làm sao đây ạ?" "Cái này..." - Tôi nhất thời cũng không nghĩ ra cách đặc biệt nào.

Ngược lại, Phương Hoằng có vẻ rất vui, cô tháo một cái kẹp tóc ra khỏi mái tóc buộc của mình, ở giữa kẹp tóc, cô lấy ra một tượng Phật rất nhỏ, tượng Phật này chỉ lớn bằng một phân, như hạt đậu Hà Lan vậy, đem ra gần xem mới biết là tượng Liên Hoa Đồng Tử được chạm khắc bằng gỗ đàn hương.

Phương Hoằng nói: "Xin Sư Tôn khai quang." Tôi theo nghi quỹ, gia trì và khai quang cho Liên Hoa Đồng Tử. Thỉnh Liên Hoa Đồng Tử trụ nơi tượng gỗ đàn hương, hộ trì cho Phương Hoằng.

Phương Hoằng nói: "Con nghĩ tới việc Chân Phật Tông có tám vị Bổn tôn, lại có chư Phật Bồ Tát, lại có Kim cang Hộ pháp, lại có các thiên thần, trong một lúc, con cũng không biết nên chọn vị Bổn tôn nào. Suy nghĩ một hồi, con thấy Liên Hoa Đồng Tử là tốt nhất, bởi vì một vị Liên Hoa Đồng Tử tương đương với ba vị, Liên Hoa Đồng Tử tức là A Di Đà Phật, lại là hóa thân của Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, đây chẳng phải là một hóa ba, ba hóa một sao! Lại thêm vì Căn bản Thượng sư từng được Phật dặn dò, Căn bản Thượng sư sẽ không từ bỏ chúng con, nên con đã chạm khắc tượng Liên Hoa Đồng Tử nhỏ nhất, trang trí trên kẹp tóc."

Phương Hoằng nói tiếp: "Đeo trên tóc, trên kẹp tóc, khi đi đứng nằm ngồi, xưng niệm trì chú 'Om guru liansheng siddhi hum', là thật sự trụ đỉnh rồi!" "Ha ha!" - Tôi cười lớn. Phương Hoằng hỏi: "Từ nay về sau, làm sao để Liên Hoa Đồng Tử thường xuyên phóng quang gia trì?" Tôi đáp: "Cứ hai tuần một lần, con quán tưởng Liên Hoa Đồng Tử trong hư không phóng quang, gia trì tượng Liên Hoa Đồng Tử gỗ đàn hương nhỏ của con, hai tay kết ấn Liên Hoa Đồng Tử, miệng tụng thần chú Liên Hoa Đồng Tử 108 biến, đó chính là phóng quang gia trì." "Còn bình thường thì sao ạ?" "Khi nào nhớ tới thì xưng danh trì chú là được!" "Có điều cấm kỵ gì không ạ?" "Hoàn toàn không có điều cấm kỵ nào."

🌟

Sau khi Phương Hoằng đeo tượng Liên Hoa Đồng Tử trụ đỉnh, đã có nhiều điều kỳ lạ xảy ra: Một đêm nọ, trong giấc mơ. Liên Hoa Đồng Tử hiện thân bảo cô: "Ngày mai xin nghỉ, đừng đi làm." "Không được, ngày mai là ngày nghỉ, công việc bận rộn lắm." "Nhất định đừng đi làm." "Không được!" "Tuyệt đối không được đi làm."

Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô nhớ rõ mồn một giấc mơ Liên Hoa Đồng Tử đã nhiều lần căn dặn không được đi làm. Trong lòng cô có linh cảm chẳng lành, muốn xin nghỉ, nhưng vì trách nhiệm công việc, định không xin nghỉ, nhưng lời chỉ dạy của Liên Hoa Đồng Tử vẫn còn văng vẳng bên tai! Cô vẫn đến câu lạc bộ, không xin nghỉ. Chỉ là tối hôm đó, cô liên tục trì chú: "Om guru liansheng siddhi hum. Cầu mong bình an vô sự."

Quả nhiên, tối hôm đó, tại câu lạc bộ có hai nhóm xã hội đen xảy ra cãi vã, dẫn đến ẩu đả, trong đó có người mang súng, bắn thủng vài lỗ trên trần nhà, đồng thời làm đổ tủ rượu, tình hình rất hỗn loạn. Tất cả khách hàng hoảng sợ tháo chạy.

Bản thân Phương Hoằng lại khá bình tĩnh, xử lý mọi việc cho đến khi cảnh sát đến. Có một viên đạn lạc bay sượt qua người cô, quả thật rất nguy hiểm, may mắn là tất cả mọi người đều bình an vô sự, không ai bị thương vong.

Phương Hoằng kể lại trải nghiệm này. Cô cho rằng Liên Hoa Đồng Tử đã bảo hộ cho cô, đã nhiều lần khuyên răn không nên đi làm, khi thật sự đi làm thì biến việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không. Khi Phương Hoằng kể về giấc mơ, không ai nghe mà không trầm trồ thán phục! Nhờ đó độ được không ít người quy y.

🌟

Phương Hoằng dần tiến bộ trong việc tu pháp, cô tuân theo nghi quỹ Chân Phật Mật Pháp một cách nghiêm túc, không chút qua loa trong việc quán tưởng theo thứ tự, kết ấn, trì chú, nhập Tam ma địa. Dần dần cô cảm nhận được Liên Hoa Đồng Tử đang hộ trì cô trong hư không, và khi nhập Tam ma địa, cô đã có được cảm ứng. Đúng là: Tĩnh lặng chớ để tạp niệm sinh Nguồn cội rõ ràng phải phân minh Sát-na cảm ứng không hư vọng Gặp lành tránh dữ hiện rõ ràng.

Trong một lần nhập Tam ma địa, Phương Hoằng bỗng thấy một tia sáng trắng lóe lên trước mắt, trong ý thức, cô thấy nhiều bạn học đang nằm trong bệnh viện. Tia sáng trắng chỉ lóe lên trong chốc lát, hình ảnh các bạn học nằm viện cũng chỉ thoáng hiện trong ý thức vài giây.

Sau khi tu pháp xong, trong lòng cô thấp thỏm không yên. Cô nói với mẹ: "Vừa rồi khi tu pháp, con thấy nhiều bạn học nằm viện!" Mẹ cô cười: "Con lo lắng quá rồi, đừng để ý làm gì, vì trong lòng con đang nghĩ tới hôm nay là buổi họp mặt hội cựu học sinh, con sẽ đi tham dự, nên mới hiện lên cảnh tượng như vậy thôi." "Tuy chỉ trong thoáng chốc, nhưng rất rõ ràng." "Đã vậy thì con hãy niệm thần chú Liên Hoa Đồng Tử, cầu xin Liên Hoa Đồng Tử bảo hộ con đi." - Mẹ cô đề nghị. "Vâng." - Phương Hoằng đáp.

Phương Hoằng tụng thêm hai chuỗi thần chú Liên Hoa Đồng Tử, cầu xin Liên Hoa Đồng Tử bảo hộ mọi sự bình an, gặp hung hóa cát.

Nhà hàng nơi tổ chức họp mặt hội cựu học sinh cách nhà Phương Hoằng một đoạn đường, cô phải đi xe máy tới đó. Đang đi được nửa đường thì xe bỗng dưng chết máy. Phương Hoằng trong lòng rất sốt ruột, bởi bình thường chiếc xe chẳng có vấn đề gì, vậy mà hôm nay có buổi họp mặt hiếm hoi thì xe lại hỏng. Trời nắng nóng, hơi nước bốc lên từ mặt đường nhựa. Cô lẩm bẩm trong miệng: "Tức chết mất!"

Cô đẩy xe máy vào lề đường, tự kiểm tra sửa chữa, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, nhưng xe vẫn không chạy được. Cuối cùng, không còn cách nào khác, cô phải gọi thợ sửa xe đến, nhờ xe cứu hộ kéo về tiệm sửa. Hóa ra là do nhiều chỗ tiếp xúc dây điện bị hỏng và bugi bị tắc nghẽn. Đến khi sửa xong và cô chạy xe đến nhà hàng thì đã trễ một tiếng rưỡi, bữa tiệc đã kết thúc. Dù buổi họp mặt đã kết thúc, nhưng mọi người vẫn chưa về, đang trò chuyện rất sôi nổi. Phương Hoằng đến muộn, vội vàng giải thích và mọi người cũng không trách cô.

Khoảng mười, hai mươi phút sau, một số bạn học bắt đầu đau bụng, vài người mặt tái nhợt, chân đứng không vững. Có người ngã xuống bất tỉnh, sùi bọt mép. Tất cả những người tham dự bữa tiệc đều có triệu chứng như vậy. "Ngộ độc thực phẩm!" - Phương Hoằng kinh hoàng kêu lên. Thế là cô vội gọi xe cấp cứu.

Xe cấp cứu nhanh chóng đến nơi, tất cả được đưa đến bệnh viện cấp cứu, truyền nước. Toàn bộ bạn học nằm trong phòng bệnh, xếp thành một hàng dài, cảnh tượng này chính xác là những gì Phương Hoằng đã thấy trong lúc tu pháp sáng nay, trời ơi! Quả nhiên đã ứng nghiệm! Những người nhẹ hơn, đã an toàn và có thể về nhà vào buổi tối. Những người nặng hơn, phải nằm viện theo dõi hai ngày.

Sau khi kiểm tra nguyên nhân, là do hải sản không tươi, nhà hàng chịu trách nhiệm toàn bộ chi phí y tế, còn tặng mỗi người một phong bao lì xì. Sự việc này đã được đưa tin trên báo chí và truyền hình.

Trong vụ ngộ độc thực phẩm tập thể này, người duy nhất không sao chính là Phương Hoằng, bởi vì xe máy của cô hỏng giữa đường, không kịp đến dự tiệc. Nghĩ lại, Liên Hoa Đồng Tử đã cảnh báo trong lúc tu pháp, và việc xe máy hỏng cũng không phải ngẫu nhiên, mà là sự sắp đặt của số mệnh. Phương Hoằng kể chuyện này với mẹ. Mẹ cô nói: "Lạ thật! Chuyện chưa xảy ra, thần linh sao biết được!"

🌟

Trong lúc tu pháp, có một lần, trời bên ngoài tối đen, mưa lớn không ngớt, và thật trùng hợp là điện lại bị cắt, trong nhà hoàn toàn không có ánh sáng. Lúc này, tượng Liên Hoa Đồng Tử trên kẹp tóc của Phương Hoằng bỗng tỏa ra ánh sáng, chiếu sáng cả căn phòng như ban ngày. Phương Hoằng chứng kiến điều kỳ diệu như vậy, vô cùng xúc động, đạo tâm càng thêm kiên cố. Đúng là: Ánh sáng tịch chiếu thật kỳ diệu Chiếu khắp trời đất khó nghĩ bàn Tượng gỗ cũng tỏa hào quang sáng Đáng ghi vào sách câu chuyện này.

Trong những ngày ấy, cũng là lúc bên ngoài sóng gió dồn dập, Căn bản Thượng sư Lư Thắng Ngạn giáng sinh vào thời mạt pháp, đề xướng thực tu Chân Phật Mật Pháp, bị một số người theo Phật giáo hình tướng nhận lầm là tà ma ngoại đạo, chỉ trích rất nhiều. Ngoài ra, một số người gây phong ba bão táp đối với Căn bản Thượng sư, tin đồn thất thiệt lan truyền, tạo nên áp lực chồng chất, mọi việc đều rất bất đắc dĩ.

Nhưng Liên Sinh Hoạt Phật không giải thích, cũng không biện bạch, Ngài chỉ dùng một bài kệ đáp lại: Lều tranh của ta là vũ trụ Sớm tối thường treo một ngọn đèn Chứa hết thị phi không phân biệt Dạy hết vạn tượng cùng tham thiền.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cho rằng, tất cả những lời chỉ trích từ bên ngoài, Ngài hoàn toàn không quan tâm, cũng chẳng để ý gì cả!

Phương Hoằng gặp một người tu hành khuyên cô: "Chân Phật Tông là tà giáo!" "Lư Thắng Ngạn là đại thiên ma!" "Tiếng tăm rất xấu!" "Đừng có tin bừa!" "Tôi dẫn cô đi gặp sư phụ của tôi, sư phụ tôi mới là Phật giáo chân chính, sư phụ tôi đã cao tuổi lắm rồi, có thiên nhãn, người tu khổ hạnh đã chứng đắc, tôi dẫn cô đi quy y với người, cô gặp là hiểu ngay." Phương Hoằng không từ chối được, đành phải đi theo xem sao.

Vị lão hòa thượng mà Phương Hoằng gặp, tướng mạo rất trang nghiêm, cũng rất hiền từ hòa nhã, nam nữ đến bái kiến lão hòa thượng rất đông, lần lượt đảnh lễ lão hòa thượng và dâng lên cúng dường, Phương Hoằng ở trong đám đông, hướng về phía lão hòa thượng đảnh lễ.

Lão hòa thượng vừa thấy Phương Hoằng, lập tức ngăn cản không cho cô đảnh lễ. "Cô không cần đảnh lễ." "Tại sao vậy?" - Phương Hoằng ngạc nhiên. Lão hòa thượng chắp tay: "Trên đỉnh đầu cô có Phật, hiện ra tám vạn bốn nghìn tướng; từ tám vạn bốn nghìn tướng lại tỏa ra tám vạn bốn nghìn hào quang, khi cô vừa bước vào cổng chùa, tĩnh lặng tột cùng khiến thiên nhãn trên đỉnh đầu khai mở, trong cõi trần lao tràn ngập ánh kim quang!" "Sư phụ đã thấy rồi!" - Phương Hoằng dùng tóc che chiếc kẹp tóc. "Trong một sợi lông thông suốt tin tức." - Lão hòa thượng nói. Phương Hoằng hỏi: "Vị Phật trên đỉnh đầu là Phật nào?" Lão hòa thượng cười hì hì: "Di Đà dạy ta niệm Di Đà, làm sao ta lại không biết Ngài, chính là A Di Đà Phật!" Phương Hoằng rất kinh ngạc. Lão hòa thượng hỏi: "Sư phụ cô là ai?" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn."

Lão hòa thượng giật mình, rồi hỏi tiếp: "Ngài dạy cô tu pháp gì? Có dạy cô niệm Phật không?" "Con tu Chân Phật Mật Pháp, Ngài cũng dạy chúng con niệm Phật, Ngài tự mình cũng niệm Phật, Ngài nói, trong đi đứng nằm ngồi, một câu Di Đà không dứt, thật thà niệm Phật!" "Ồ!" - Lão hòa thượng im lặng không nói. Lão hòa thượng nói với Phương Hoằng lời cuối: "Trên đỉnh đầu cô có ánh sáng, toàn thân có ánh sáng, đã có tương ứng, tu hành không tệ!" Phương Hoằng rất vui mừng.

Lão hòa thượng nói với thị giả của mình: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ta thật sự không hiểu được Ngài, ta không biết nói gì. Nhưng, đệ tử Phương Hoằng của Ngài, quả thật toàn thân tỏa ánh sáng, không thể nghĩ bàn, đệ tử không thể nghĩ bàn, xem ra, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn mới thật là vô cùng không thể nghĩ bàn!"

22. Thông báo trước kia

Tôi đang tĩnh tọa ở nhà. Thần Hộ pháp trong nhà dẫn một hồn ma nữ đến gặp tôi, tôi không biết vì duyên cớ gì? Hồn ma nữ nói với tôi: "Sư Tôn từ bi!" Tôi hỏi thần Hộ pháp: "Chuyện gì vậy?" Thần Hộ pháp đáp: "Hồn ma nữ này tên là Triệu Tiêu Huệ, bà có một người con gái tên là Triệu Tình. Triệu Tình học Phật, ngày đêm nhớ thương mẹ không biết đã vãng sinh nơi nào. Triệu Tình học theo Bà-la-môn nữ, cúng dường chư Phật, tụng Kinh Địa Tạng, niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, mong được gặp mẹ một lần." "Việc này liên quan gì đến tôi!" "Triệu Tình đã tìm đến các vị trụ trì ở chùa, các pháp sư đều cười cô ấy, nói âm dương cách biệt, làm sao gặp được, ngược lại còn bảo cô đừng phí tâm sức. Triệu Tình tìm đến các thuật sĩ giang hồ, thuật sĩ dùng phép, nói có thể du hành địa phủ, nhưng cô ấy chỉ thấy vài ảo ảnh, cũng chẳng có câu trả lời. Giờ đây, Triệu Tình nghe danh Ngài, muốn đến gặp Ngài." Nghe xong, tôi mới hiểu rõ sự tình.

Triệu Tiêu Huệ nói: "Triệu Tình nhớ thương tôi quá đỗi, còn tôi thì đang ở âm phủ, âm dương cách biệt, vốn không dễ gặp nhau, cũng không thể gặp được, xin Sư Tôn khai thị cho con gái!" "Sao bà lại ở âm phủ?" - Tôi hỏi. "Vì đã sát sinh quá nhiều." "Việc này dễ giải quyết, bà có thể khuyên con cháu in một vạn cuốn Chân Phật Kinh, nhờ công đức in kinh, hồn phách bà có thể sinh lên cung điện Mani ở cõi trời ba mươi ba." "Nhưng làm sao con báo cho con cháu biết được!"

Đúng vậy! Triệu Tiêu Huệ đã chết, làm sao báo cho con cháu được, nghĩ đến tôi cũng thấy buồn cười. Triệu Tiêu Huệ nói: "Xin Sư Tôn chuyển lời giúp." "Tôi có thể chuyển lời, nhưng Triệu Tình làm sao tin được tôi!"

Triệu Tiêu Huệ kể cho tôi nghe tất cả mọi chuyện, tôi nhớ rõ từng điều, cuối cùng, Triệu Tiêu Huệ vui vẻ theo thần Hộ pháp ra về. Trước khi đi, Triệu Tiêu Huệ còn quy y với tôi, xin tôi quán đảnh để bà trở thành một đệ tử cõi âm của tôi.

🌟

Quả nhiên Triệu Tình đến tìm tôi: "Nghe nói thầy thông thiên đạt địa, pháp lực cao cường, là bậc kỳ nhân trong thiên hạ, tôi có một nguyện cầu, xin thầy làm phép cho tôi được gặp mẹ một lần!" "Tôi thấy được, cô không thấy được.""Tại sao vậy?" "Mắt thịt phàm phu, làm sao thấy được!" "Vậy tại sao thầy thấy được?" "Tôi có thiên nhãn. Tôi đã gặp mẹ cô rồi!" "Khi nào vậy?" "Đêm qua." Triệu Tình lắc đầu, dường như không dám tin: "Nói suông không đủ, thầy có bằng chứng gì không?" Tôi cười ha hả, lấy giấy bút viết vài chữ đưa cho cô ấy, trên giấy tôi chỉ viết: "Con yêu! Con đã giấu mảnh giấy trong túi áo của mẹ, mẹ đã thấy rồi, mẹ cũng nhớ con lắm!" Triệu Tình vừa đọc mảnh giấy của tôi, lập tức quỳ xuống, nước mắt tuôn trào, kêu lớn: "Đúng rồi, đúng rồi, thật rồi, thật rồi, thật không thể tin được, thật không thể nào!"

Thì ra sự việc là như thế này: Hằng ngày Triệu Tiêu Huệ gọi Triệu Tình là "búp bê"! Triệu Tình đã lén bỏ một mảnh giấy vào túi áo của mẹ, viết bốn chữ "Mãi mãi nhớ mẹ". Chỉ có cô ấy biết điều này, cô không nói ra, không ai có thể biết được.

Tôi nói: "Cô còn lén đổi tất cho mẹ, từ đôi tất trắng thành đôi tất đỏ, đôi tất mà mẹ cô thích mang lúc còn sống." Triệu Tình nói: "Đúng là như vậy." Tôi hỏi: "Cô còn điều gì thắc mắc nữa không?" Triệu Tình khóc không nói nên lời.

Vì vậy, tôi bảo Triệu Tình chuẩn bị in ấn một vạn cuốn Chân Phật Kinh, nhờ công đức in kinh, mẹ của Triệu Tình có thể sinh lên cung điện Mani ở cõi trời ba mươi ba. Triệu Tình rất mừng rỡ, gật đầu đồng ý.

Đây là: Một quyển chân kinh chứa tâm Phật Người in người tụng công đức lớn Nếu cực thấu tỏ tôn chỉ này Nhận ra trong sách ẩn ngọc quý.

🌟

Nhưng, khi Triệu Tình kể chuyện này cho vị ni trụ trì ở chùa, vừa nghe đến tên Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ni sư liền lắc đầu. Triệu Tình nói: "Tất cả đều là sự thật." Ni sư hỏi: "Ông ta không điều tra trước sao?" "Không thể nào, vì chuyện này chỉ mình con biết mà thôi!" Mặc dù ni sư lắc đầu, tuy còn nghi ngờ, nhưng cũng đành chịu!

Triệu Tình muốn đến quy y theo tôi học Mật giáo. Ni sư ngăn cản cô: "Dễ bị người ngoài chỉ trích lắm!" Triệu Tình nói: "Miễn là sự thật, con sẽ đi quy y, không sợ gì cả!" Ni sư cuối cùng nói: "Ông Lư Thắng Ngạn này có lẽ tài năng quá lộ liễu, sớm bị người khác ganh ghét, phỉ báng. Có thể ông ấy chưa biết cách bảo vệ mình tốt, để tài năng của mình phát huy đúng lúc thích hợp. Thế này đi! Nếu khả năng tiên tri và thiên nhãn của Lư Thắng Ngạn là thật, ta cũng sẵn sàng quy y theo ông ấy. Con hãy đi nói với Lư Thắng Ngạn rằng, nếu ông ấy có thể khiến con thực sự tin phục, cũng hãy khiến ta thực sự tin phục một lần."

Triệu Tình thọ nhận quy y quán đảnh, tôi dạy cô ấy trước hết phải tu tập pháp Tứ gia hành.

Triệu Tình hỏi: "Mẹ còn nói gì với thầy nữa không?" "Nhiều lắm." "Chắc hẳn còn điều gì quan trọng hơn." Tôi đáp: "Nhờ công đức in kinh của cô, mẹ cô đã được sinh lên cung điện Mani thành người trời rồi. Mẹ muốn cô tinh tấn tu tập Mật pháp, cuộc đời quý báu, thời gian quý báu, hãy phát huy hết trí tuệ tài năng của mình, phát huy tối đa tiềm năng của mình, coi trọng việc thực tu mới là điều quan trọng nhất." "Bản thân con còn điều bí mật nào nữa không?" "Có." "Bí mật gì vậy?" "Dưới lòng bàn chân cô có một nốt ruồi đỏ đấy!" "Ồ! Đúng thật."

Triệu Tình nói với tôi rằng ni sư trụ trì cũng muốn quy y học Mật pháp, tôi liền viết một bức mật thư gửi cho ni sư. Ni sư vừa mở thư ra xem, sững người, nhưng rồi nhanh chóng thông suốt, lập tức âm thầm đến quy y thọ quán đảnh.

Trong mật thư tôi chỉ viết vỏn vẹn một câu: "Đã xuất gia rồi, vạn pháp đều không, xin hãy lấy tấm ảnh chụp chung năm xưa dưới đáy rương, đốt đi!" Ni sư vừa đọc xong, lấy chiếc rương cũ ra, quả nhiên trong ngăn đáy còn một tấm ảnh, đó là tấm ảnh chụp chung với người yêu trước khi xuất gia, kỷ vật duy nhất mà bà không nỡ vứt bỏ. Ni sư làm theo lời tôi, đốt tấm ảnh! Sau đó, thật sự đến quy y!

🌟

Tuy Triệu Tình không thể trực tiếp gặp mẹ mình, nhưng vẫn có cảm ứng. Một lần nọ, bên ngoài cửa sổ của cô xuất hiện một con chim rất lạ, trông giống như một con công nhỏ, vô cùng đẹp. Con chim nhỏ kêu ríu rít, âm thanh rất dễ nghe, nghe như đang hát vậy! Con chim không chịu bay đi, cứ nhìn chằm chằm vào Triệu Tình, còn chớp chớp mắt nữa! Triệu Tình rất ngạc nhiên!

Con chim bay vào trong, không đậu chỗ nào khác mà chỉ đậu trên một quyển Chân Phật Kinh, rồi dang cánh bay lên, lại hạ xuống, rồi lại dang cánh bay lên, làm như vậy ba lần liền, như thể đang muốn chỉ điều gì đó cho cô. Cuối cùng, con chim xinh đẹp bay ra ngoài cửa sổ, bay đi mất, từ đó không thấy nữa....

Triệu Tình cho rằng: Ở cõi tịnh thổ có những con chim đủ màu sắc kỳ diệu, có thể phát ra âm thanh hài hòa, trang nhã, đó là do Phật A Di Đà hóa hiện. Còn hôm nay, con công nhỏ xinh đẹp này chưa từng thấy bao giờ, bay vào nhà như thế, có lẽ là do mẹ cô hóa hiện ra. Đặc biệt là chim nhỏ đậu trên quyển Chân Phật Kinh, dang cánh bay lên ba lần liên tiếp, có thể đó chính là điềm báo cho Triệu Tình. Công đức in Chân Phật Kinh đã giúp mẹ được sinh về cung điện Mani ở cõi trời ba mươi ba, ba lần chính là ám chỉ cõi trời ba mươi ba vậy.

Triệu Tình trong lúc tu tập Chân Phật Mật Pháp đã từng có trải nghiệm như vậy, đây chính là "trang nghiêm xúc tam muội". Triệu Tình quán tưởng mẹ mình đứng giữa hư không. Từ hư không di chuyển đến đỉnh đầu. Từ đỉnh đầu đi vào tâm. Hợp nhất.

Lúc này chính là: Bảo tính công đức tâm Nhẹ nhàng xoay trái phải Chạm tới sinh thắng lạc Hoan hỷ hiện dung nhan.

Triệu Tình cho rằng, mẹ của cô là một vị thiên nhân, giáng xuống thăm Triệu Tình, đi vào tâm của Triệu Tình, khiến cô cảm nhận được cảm giác chạm xúc không thể nghĩ bàn, như thể nhẫn nhục đạt được đoan chính, tướng mạo thiên nhân bình đẳng tuyệt diệu.

Có ánh sáng thanh tịnh xuất hiện, không phải ánh sáng của thiên nhân, cũng không phải ánh sáng của chính mình, không phải của họ không phải của ta, tự nhiên hiện hữu, rốt ráo như hư không, rộng lớn vô biên tế.

Triệu Tình tương lai sẽ thành tựu: Ánh sáng trang nghiêm thanh tịnh. Một niệm trong một thời. Mẹ con sẽ hội hợp. Cũng độ được chúng sinh.

23. Chân thực Phật pháp tiêu tai ban phúc kinh

Đại lễ bái Một lễ bái chư Phật mười phương. Hai lễ bái chư Bồ Tát. Ba lễ bái Hộ Pháp Kim Cang. Bốn bái Bình đẳng một cúi đầu.

Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn: Ôm xiêu-li xiêu-li ma-ha xiêu-li xiêu-xiêu-li sô-ha. Tịnh thân nghiệp chân ngôn: Ôm xiêu-tô-li xiêu-tô-li xiêu-mô-li xiêu-mô-li sô-ha.

Tịnh ý nghiệp chân ngôn: Ôm wa-zư-la đam hơ-hơ hùm.

Niệm văn cầu thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật gia trì Ôm A Hùm [Om Ah Hum] Kính đem thân khẩu ý thanh tịnh. Cúng dường Tỳ Lô Giá Na Tôn.

Pháp thân Phật Nhãn Phật Mẫu Thánh. Báo thân Liên Hoa Đồng Tử thân. Ứng Thân giáo chủ Liên Sinh Phật. Ba thân không khác, đại Phật ân.

Cung kính Chân Phật đại truyền thừa. Thần thông ban trải đầy thế giới. Phóng quang chiếu rọi khắp ba thời. Hóa hiện không ngừng chứng nhất như. Đệ tử tha thiết thường cầu tới. Soi chiếu quang minh, phúc huệ tăng.

Xưa đến thọ ký, Phật Thích Ca. Phó thác ân cần, A Di Đà. Di Lặc Bồ Tát ban hồng quán. Liên Hoa Đại Sĩ mật pháp truyền. Thánh Tôn xin thỉnh đừng quên nguyện. Cứu độ chúng sinh chúng con đây. Hộ niệm như thế xin nhiếp thọ. Thành tựu nhanh nhanh thỉnh gia trì.

Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam mô Phật Nhãn Phật Mẫu. Nam mô Liên Hoa Đồng Tử. Nam mô Liên Sinh Hoạt Phật. Nam mô Chân Phật hải hội thập phương tam thế chư Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.

Niệm thánh cáo (3 lần) Tây phương Liên Trì hải hội, Ma Ha Song Liên Trì, thập bát đại Liên Hoa Đồng Tử, Bạch Y Thánh Tôn, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng sư, Chủ Kim Cương Chân Ngôn Giới Bí Mật Chủ, Đại Trì Minh Đệ Nhất Thế Linh Tiên Chân Phật Tông. Lư Thắng Ngạn mật hành tôn giả.

Hương tán Lư hương sạ nhiệt. Pháp giới mông huân. Chân Phật hải hội tất diêu văn. Tùy xứ kết tường vân. Thành ý phương ân. Chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) Nam mô Chân Phật hội thượng chư Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

Phụng thỉnh hai Phật tám Bồ Tát Nam mô Pháp Giới Tối Thắng Cung Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật. Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Khai kinh kệ Phật pháp rộng sâu rất nhiệm màu. Trăm nghìn vạn kiếp khó tìm cầu. Nay con nghe thấy chuyên trì tụng. Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm sâu.

Chân thực Phật pháp tiêu tai ban phúc kinh Tôi nghe như vầy. Một thời, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử tại Ma Ha Song Liên Trì, ngồi trên pháp tọa hoa sen lớn màu trắng, xung quanh là mười bảy đóa hoa sen lớn khác.

Hoa màu xanh phát ánh sáng xanh. Hoa màu vàng phát ánh sáng vàng. Hoa màu đỏ phát ánh sáng đỏ. Hoa màu tím phát ánh sáng tím. Mỗi đóa hoa sen tỏa ra hương thơm tinh khiết vi diệu.

Bạch Liên Hoa Đồng Tử âm thầm vận thần thông làm Ma Ha Song Liên Trì biến hóa thành ánh sáng vàng kim chói lọi. Tất cả hương hoa tỏa mạnh ra thơm ngát. Tiên thảo cũng tỏa ngát hương thơm. Chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, chim Ca lăng tần già, chim Cộng mạng, đều hóa màu vàng kim, cùng hót lên âm thanh hòa nhã của cõi trời.

Trong hư không xuất hiện ánh sáng vàng kim cùng âm thanh cõi trời thanh tịnh vi diệu. Có hương thơm nồng tỏa trong các thế giới, có tầng các bằng vàng trên không trung, tất cả cùng phát hào quang hoa rực rỡ. Mọi chốn nở đầy hoa sen vàng kim và hoa trời bay phấp phới khắp hư không.

Lúc bấy giờ, Ma Ha Song Liên Trì chấn động mạnh mẽ. Vô lượng chư Thiên đều cảm nhận được, chư Phật, chư Bồ Tát cùng chư Thanh Văn cũng đều cảm nhận được, tất cả liền đi đến Ma Ha Song Liên Trì. Ba mươi ba vị thiên chủ cõi trời cũng vội đến Ma Ha Song Liên Trì. Tập hợp liền hai mươi tám loại thiên chúng, Đế Thích, Phạm Vương, bát bộ, tứ chúng. Rộng giảng nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ: Kim Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Đại trí huệ. Bạch Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Pháp giới. Lục Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Vạn bảo. Hắc Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Hàng phục. Hồng Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Hạnh nguyện. Tử Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Đoan nghiêm. Lam Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Quả đức. Hoàng Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Phúc túc. Tranh Liên Hoa Đồng Tử hóa hiện ra ánh sáng Đồng chân.

Chư Thiên thấy vậy cảm thấy kinh ngạc lạ kỳ. Thế là Đế Thích từ trong chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu hướng về Bạch Liên Hoa Đồng Tử mà thưa rằng: "Thánh Tôn, thật hy hữu hiếm có. Ma Ha Song Liên Trì do nhân duyên nào mà xuất hiện ánh sáng đại quang hoa rực rỡ này?"

Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói: "Đó là vì để thuyết giảng cho các ông vậy." Đế Thích nói: "Thánh Tôn uy quyền tối tôn. Chỉ mong Thánh Tôn vì chúng sinh mà tuyên thuyết. Tất cả trời người sẽ đều biết phải hướng quay về."

Lúc bấy giờ Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói với Đế Thích cùng các đại chúng: "Lành thay lành thay. Nay ta vì các ông và chúng sinh đời mạt thế, cùng những người hữu duyên trong đời tương lai, giảng cho tất cả đều biết đạo lý chân thực Phật pháp và tiêu tai ban phúc."

Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử liền nói tiếp: "Chư Phật, Bồ Tát cứu độ chúng sinh.

Có: Tối Thắng thế giới, Diệu Bảo thế giới, Viên Châu thế giới, Vô Ưu thế giới, Tịnh Trú thế giới, Pháp Ý thế giới, Mãn Nguyệt thế giới, Diệu Hỷ thế giới, Diệu Viên thế giới, Hoa Tạng thế giới, Chân Như thế giới, Viên Thông thế giới. Bây giờ sẽ có Chân Phật thế giới."

Thế là Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác cùng chư Thánh chúng nghe Thánh Tôn khai diễn Chân Phật thế giới. Biết được sự cát tường, thiện thệ, đại bi, nhân quả của quá khứ - hiện tại - vị lai, là do Thánh Tôn vì chúng sinh hóa thân thị hiện, ai nấy hoan hỷ chưa từng có, cúi đầu tán thán mà hát lên bài kệ:

Thánh Tôn đại từ bi. Vô thượng bí mật tôn. Quá khứ sớm tu chứng. Giới siêu phàm thoát tục. Nay lập Chân Phật giới. Xót thương chư chúng sinh. Hóa thân làm giáo chủ. Hạ giáng cõi Ta Bà. Lành thay hiệu Liên Sinh. Vì chúng sinh quảng thuyết. Chúng con đều đã nghe. Nguyện sẽ đại hộ trì.

Lúc bấy giờ, Thánh Tôn Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói với đại chúng: "Tu hành lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo. Lấy thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh làm Pháp bảo. Lấy Chân Phật Thượng sư làm Tăng bảo."

Thánh Tôn nói với đại chúng: "Nếu có thiện nam tử, tín nữ tử vào ngày 18 tháng 5 hàng năm, tắm rửa trai giới, mặc y phục sạch sẽ, hoặc vào ngày 18 hàng tháng, hoặc ngày sinh thần của mình ở trước mật đàn, phụng thỉnh hai Phật tám Bồ Tát, tụng "Chân Thực Phật Pháp Tiêu Tai Ban Phúc Kinh" thì cầu gì tùy tâm, sẽ có cảm ứng. Có thể cúng dường hương, hoa, đèn, trà, quả, chí thành cầu nguyện, đều được như ý."

Thánh Tôn nói với đại chúng: "Những vị quan chức, quý nhân, sa môn, cư sĩ, người tu đạo, phàm tục trong thế gian, nếu nghe kinh này, thêm thọ trì tụng niệm thì những người này bổng lộc chức vị tối thắng, thọ mệnh kéo dài, cầu trai được trai, cầu gái được gái, có được phúc nhiều vô lượng, là đại phúc bảo kinh tăng ích. Những vong linh, oan thân trái chủ chưa được cứu độ mà còn ở trong chốn u minh, nếu có thể trì tụng kinh này, ấn tống kinh này thì người chết sẽ được lên trời, oan gia trái chủ sẽ bỏ đi, hiện tại còn gặt hái được phúc đức. Những người nam, người nữ nào hoặc bị tà ma xâm phạm, hoặc bị quỷ thần hãm hại, hoặc có ác mộng hỗn loạn, nếu thọ trì kinh này, ấn tống kinh này thì tà ma sẽ bỏ chạy. Họ lập tức sẽ được an lạc. Những ai có bệnh tật đeo bám, phải trả nhân quả nghiệp báo của kiếp trước hoặc có các bệnh do quỷ thần, nếu thọ trì kinh này, ấn tống kinh này thì tai ương sẽ được cứu, bệnh tật sẽ tiêu trừ. Những ai có ác vận, dính phải kiện tụng, bị giam cầm tù tội nhưng có thể trì tụng kinh này, ấn tống kinh này thì tai họa sẽ được giải trừ, điều hung sẽ hóa thành cát tường. Nếu hai nước xảy ra chiến tranh, có thể trì tụng kinh này, lập tượng cúng dường, sẽ được gia tăng uy lực, chiến thắng chắc chắn. Người đọc tụng, người ấn tống, người bố thí, tất cả sẽ được cát tường như ý viên mãn, tiêu trừ các độc hại, có thể diệt sinh tử khổ."

Tây phương Chân Phật hải hội, tại Ma Ha Song Liên Trì, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử đều ở trong đó mà nói chú rằng: “Ôm, gu-ru, lién-sâng, sít-đi, hum” [Om guru liansheng siddhi hum] (vô số lần)

Thánh Tôn khi giảng xong kinh này, Đế Thích cùng chư đại chúng, Thiên long, Bát bộ, Tứ chúng cung kính hành lễ, tín thọ phụng hành. Chân Thực Phật Pháp Tiêu Tai Ban Phúc Kinh (Hết!)

Hồi hướng kệ Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật tịnh độ. Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ. Nếu có kẻ thấy nghe, đều phát lòng bồ đề. Hết một báo thân này, đồng sinh cõi Cực Lạc.

(Hết.)

Mục lục