Thần hành ký
🪷 Một kiểu biểu hiện kỳ diệu khác
Văn tập: 166 Xuất bản: 08/2003 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Lời mở đầu
Bế quan ẩn cư tại hồ Diệp Tử, cách biệt với thế giới bên ngoài nên tôi ít biết đến mọi việc. Nhưng ngược lại, tôi lại thần hành nhiều hơn. Hóa ra, pháp môn của "tâm" có rất nhiều, mười phương pháp giới muôn hình vạn trạng, nghìn vạn sự tích nói mãi không hết, viết mãi không cùng.
Như cuốn sách "Độ qua biển sinh tử" có thể nói là ghi chép về thần hành. Tôi tự cảm thấy cuốn sách này rất quan trọng, như trong sách đã nói, đây là "việc lớn nhất của đời người". Người có tu hành, sau khi chết biết được nơi mình đi về, người không tu hành sẽ trở thành phàm thân vô minh lang thang trong sinh tử.
Trong mấy năm bế quan này, trải qua nhiều bệnh khổ, tôi từng hỏi Phật: "Vì sao lại như vậy?" Đáp: "Tự nhiên thôi." "Sinh mệnh nhất định phải có bệnh khổ sao?" Đáp: "Càng đến gần đỉnh núi cao."
Do thân thể già bệnh là chuyện tự nhiên nên tôi không quá bận tâm. Ngược lại, tôi chuyên tâm công phu vào việc tĩnh tọa thần hành, phát hiện tâm tính vô lượng vô biên, mười phương rộng lớn, trong thần hành có rất nhiều đạo lý của Phật pháp có thể viết ra được, có thể chứng minh được.
Tôi kể cho mọi người một sự việc kỳ diệu: Khi tôi bị chứng rạn não, sinh mệnh vô cùng đau đớn, thân thể gần như không chịu nổi, rất khổ não. Nhưng chỉ cần ngồi yên lặng, quên đi thân tâm, cảnh giới vong ngã huyền bí xuất hiện, Phật liền hiện ra, phóng quang ba lần, ngay lúc đó pháp hỷ tràn đầy, mọi gánh nặng hoàn toàn tiêu tan. Đây là con đường giải thoát tự nhiên nhất, chân thật nhất, vui vẻ nhất và hiệu quả nhất.
Trong thần hành, tôi thực hiện những việc cứu độ kỳ diệu. Trong thần hành, tôi hiểu được tín - giải - hành - chứng. Trong thần hành, tôi thấu tỏ thế nào là tịch tĩnh.
Đây là tập văn tập thứ 166 của tôi, đặc biệt tập hợp những câu chuyện thần hành thành sách. Khi viết cuốn sách này, trong lòng tôi không khỏi dâng trào niềm hoan hỷ, trong này pháp vị đậm đà. Tôi tự cảm nhận, sinh mệnh của thần hành không trống rỗng, chỉ có thần hành mới có ý nghĩa.
Nguyện cầu: Những ai đọc sách này. Đều được đại cứu độ.
Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn:
Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U. S. A.
01. Đại lễ khai quang an tọa
Trong lúc thần hành: Tôi nhìn thấy một đám đông, thực ra gọi họ là người thì không đúng, gọi là "phi nhân" cũng không hẳn đúng, mà là một đám yêu ma quỷ quái, những linh hồn lang thang trong cõi hư không. Họ đi phía trước. Tôi đi theo phía sau. (Tôi che đi tam quang.)
Đi đến một nơi, bỗng thấy một ngôi chùa nguy nga tráng lệ, phía trên chùa có một tấm biển đề bốn chữ "Uy Linh Hiển Hách", ngôi chùa vừa mới xây xong. Đám yêu ma quỷ quái đều đi vào hết, tôi cũng theo sau đi vào. Thì ra ngôi chùa mới xây này đang tổ chức đại lễ khai quang an tọa, trong chùa có một vị pháp sư xuất gia đang làm lễ khai quang điểm nhãn tượng Phật, có cư sĩ tại gia mặc áo xanh đen đang tụng kinh.
Mỗi bức tượng Phật, tượng thần đều tỏa ánh vàng rực rỡ, đều là do tín đồ thành tâm thành ý cúng dường, bên trong tượng Phật, tượng thần rất nhiều, chật ních khác thường.
Đám yêu ma quỷ quái lên tiếng. "Ta muốn nhập vào thân Tam Thái Tử." - Một tiểu quỷ nói. "Ta muốn nhập vào thân Quan Thế Âm Bồ Tát." - Một nữ quỷ nói. "Ta muốn nhập vào thân Thổ Địa Công." - Một lão quỷ khác nói. "Ta muốn nhập vào thân Tế Công Hoạt Phật." - Một quỷ say nói. "Ta muốn nhập vào thân Lão Thành Hoàng." - Một dạ xoa nói. .....................
Tôi nhìn thấy vị pháp sư làm lễ khai quang vốn không phải là người có đạo hạnh tu hành, thân không có ánh sáng, như một đống bùn nhơ, làm sao có thể "dùng quang dẫn quang" được? Bảo sao mà thu hút một đám quỷ linh tranh nhau đến nhập thân như vậy, biết phải làm sao đây? Ngôi chùa trang nghiêm, tượng Phật Bồ Tát trang nghiêm, đại lễ khai quang an tọa trang nghiêm, vậy mà lại trở thành một đống hỗn độn như thế này.
Tôi định bỏ đi. Nhưng bị một lão hồ tiên chặn lại, ông ta nói: "Trên thân ngài có ánh sáng, đã trở về với bản chất thuần phác, thần thông tự tại, đã đạt đến cảnh giới phi thăng. Ngài đã tam nguyên quy nhất, tự do tự tại, cần gì phải thần hành trở về. Chi bằng nhập vào kim thân Phật Thích Ca Mâu Ni, hưởng khói lửa nhân gian. Có ngài ở ngôi chùa này, ít nhất có thể tránh được tà khí, tiêu trừ tam độc lục dục, cũng có thể tùy duyên độ chúng sinh. Ngài thấy thế nào?"
Tôi nghe xong hoảng hốt: "Không thể, không thể, nếu tôi hưởng khói lửa nhân gian thì công phu trước đây đều uổng phí, đó không phải là điều tôi mong muốn." Lão hồ tiên nói: "Tiên sinh không nhập vào thân Phật Thích Ca Mâu Ni, vậy đến đây làm gì?" - Lão hồ tiên ngạc nhiên. Tôi đáp: "Chỉ là thần hành tùy duyên thôi." Lão hồ tiên mừng rỡ: "Tiên sinh không nhập thân, chỉ đến tùy hỷ, vậy thì tôi đành phải nhập thân vậy!" - Lão hồ tiên lập tức nhập vào kim thân Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tôi lặng lẽ bước ra khỏi chùa, ngẩng đầu nhìn trời, thở dài một tiếng, cái gọi là đại lễ khai quang an tọa này toàn là hình thức phiền phức, chỉ có vẻ bề ngoài. Pháp sư ngày nay chỉ là những pháp sư "chạy kinh sám", không có công phu thực tu về ngũ giới thập thiện, lục độ ba la mật, định, huệ. Những hành giả hiện nay, người "chạy kinh sám" rất nhiều, điều này tất nhiên dễ kiếm sống, nhưng ngoài việc đi sâu vào kinh sám, cũng phải thực sự hiểu được nghĩa kinh, thực địa tu chứng, đó mới thực sự là pháp sư! (Tinh thông tam tạng, thực tu Phật pháp, lấy pháp làm thầy.)
Tôi cũng hiểu rằng: Nếu tôi nhập vào kim thân Phật Thích Ca Mâu Ni, tôi sẽ có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, được người người cung kính cúng dường, được những cảm thọ tôn quý, sẽ rất hạnh phúc. Nhưng như vậy, bản thân tôi đang thiền định tại hồ Diệp Tử sẽ thực sự "tọa hóa" mất. Tôi cũng nghĩ, làm sao tôi có thể nhập vào kim thân Phật Thích Ca Mâu Ni được, như vậy chẳng phải là mạo danh Đức Thích Ca Mâu Ni sao.
Tôi nhớ đến Hòa thượng Đỗ Thuận đời nhà Đường, ngài là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, mỗi khi Hòa thượng Đỗ Thuận đi ngang qua miếu thờ tà thần hay quỷ linh. Miếu thờ thần cây. Miếu thờ yêu long. Miếu trăm quỷ. Chỉ cần Hòa thượng Đỗ Thuận nhìn một cái, miếu liền bị thiêu rụi. Nay nếu tôi nhập thân, gặp Hòa thượng Đỗ Thuận hay các vị cao tăng khác đến, há chẳng phải thảm hại sao! Tu hành hôm nay của tôi là vô sở cầu, tu hành không phải để đạt được điều gì, mà là phát tâm bồ đề, chân thành dâng hiến, trên cầu quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh mà thôi.
May mắn thay tôi rất tỉnh táo sáng suốt, tuy tôi thần hành, nhưng tâm trong sáng thuần khiết, trong suốt vô cùng, không mê muội, không lạc lối giữa muôn lời bàn tán, tôi phải làm việc rõ ràng, trí tuệ viên mãn, ý thức chân chính, bước đi trên đại đạo chính pháp. Người đã buông xả tự tại, còn nhận sự cúng bái của người đời, còn hưởng khói hương làm gì?
Hơn nữa, trong chùa miếu, yêu ma quỷ quái quá nhiều, nhiều việc phàm tục quấn quanh, việc xem bói hỏi quẻ bận rộn không dứt, phiền não vô tận, những việc vụn vặt của thế gian, vĩnh viễn không thoát khỏi được, tôi há chẳng phải đang chìm đắm trong vòng nhân quả luân hồi và lục đạo sao? Đặc biệt là việc mạo danh Phật Thích Ca Mâu Ni.
Mồ hôi tôi chảy ròng ròng. Tôi lập tức rời khỏi chùa, thần hành đi nơi khác. Ánh sáng thần thông rất nhanh, trong chớp mắt đã nghìn dặm vạn dặm. Phía sau còn vọng tiếng lão hồ tiên gọi với theo: "Tiên sinh, xin ở lại vài ngày, làm khách một chút, làm khách một chút! Chúng tôi có đại pháp hội bảy ngày, ngài có thể ăn no nê." Tôi xua tay, tạ từ mà đi!
Khi đang thần hành giữa hư không. Bỗng nhiên thấy khắp nơi lấp lánh ánh lửa, như một đám đuốc lớn, chiếu sáng rực rỡ bốn phương trên dưới, tôi nhìn kĩ lại, trong ánh lửa nguyên là những con quạ giống như chim ó, chân và móng dài, lưng đen, bụng trắng, từng con phun lửa từ miệng.
Tôi kinh hãi kêu lên: "Đó là đội quân quạ lửa!" Đi cùng với đội quân quạ lửa là một vị thần cưỡi hai con rồng, ngồi trên xe mây, chính là Thần Lửa Chúc Dung. "Ngài đi đâu vậy?" - Tôi hỏi. Thần Lửa vừa thấy tôi, vốn là người quen cũ, nên không giấu giếm mà nói: "Dưới núi có một ngôi chùa mới, sau lễ khai quang an tọa đã bị yêu ma quỷ quái chiếm giữ, ta dẫn đội quân quạ lửa đi đốt chùa, để tránh nó trở thành ổ yêu quái, hại dân lành." Tôi nghe xong, không nói nên lời. Thầm nghĩ: "May mắn thay!"
Một hành giả tu hành, quả nhiên đâu đâu cũng là cạm bẫy, phải tránh xa mọi ham muốn, cũng phải tránh xa tà ma ngoại đạo. Dù có thần thông thần hành cũng phải giữ tâm tĩnh lặng tự tại, tịnh hóa tam độc, tương lai chỉ có một mục tiêu - Ma Ha Song Liên Trì.
Trách nhiệm của hành giả chính là hoằng pháp lợi sinh, có vậy mới có thể tỏa sáng cuộc đời tươi đẹp, kiên trì bền bỉ, tịnh niệm tương tục.
Tuy nhiên, tôi cũng nhớ đến bài thơ của Bạch Cư Dị: Cỏ trên thảo nguyên xa Mỗi năm úa lại mọc Lửa hoang đốt không hết Gió xuân thổi lại xanh.
02. Thiên biến vạn hóa vô cùng tận
Trong khi thần hành, tôi đã đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi đi nhiễu Phật ba vòng. Lễ Phật xong, tụng kệ: Cúi đầu lễ Phật Thích Ca Pháp Vương thuyết pháp Ta Bà Chúng con đều xin quy y Đạo sư trời người tôn kính.
Tôi nói: "Thưa Phật Tổ! Nay con nương theo thần lực của Phật mà đến nơi Phật Tổ ngự. Con có hai điều thắc mắc, là con hỏi, cũng là hỏi thay cho chúng sinh. Thứ nhất, con thật sự là ai? Thứ hai, thưa Phật Tổ, rốt cục Ngài ở đâu?"
Nơi Phật Thích Ca Mâu Ni ngự, không thể dùng văn tự để diễn tả, tôi chỉ có thể nói, "linh linh chiêu chiêu tịch tịch thường thường quang quang minh minh".
Phật nghe hai câu hỏi trong tâm tôi, mỉm cười đáp: "Câu hỏi thứ nhất, ta hỏi ngược lại con, con thật sự là ai?" - Phật lại nói: "Câu hỏi thứ hai, các con thường tụng niệm thanh tịnh pháp thân Phật, ta hỏi ngược lại con, Phật thật sự ở đâu?" Tôi nghe xong, sững sờ. "Rốt cuộc là tôi hỏi Phật Tổ? Hay Phật Tổ hỏi tôi?" Nhưng, tôi chợt hiểu ra.
Tôi nói: "Câu hỏi thứ nhất, không thể nói. Tự mình tu mà biết. Câu hỏi thứ hai, mười phương ba đời Phật, trăm nghìn ức hóa thân." Phật Tổ nghe tôi trả lời. Gật đầu mỉm cười.
Bây giờ tôi xin nói với mọi người, các vị Tổ sư Thiền tông Trung Hoa đều tham cứu câu hỏi thứ nhất này. "Đạt Ma Tổ sư Tây lai đại ý?" [Ý của Tổ sư Đạt Ma từ Ấn Độ đến.] "Diện mục vốn có trước khi cha mẹ sinh ra?" "Người niệm Phật là ai?" "Vạn pháp quy về một, một quy về đâu?" "Phật tính là gì?"
Còn có "bánh của Vân Môn", "trà của Triệu Châu", "tiếng hét của Lâm Tế", "gậy của Đức Sơn", "ngón tay của Thiên Long", "cảnh của Giáp Sơn", "mèo của Nam Tuyền"... Bây giờ tôi hỏi mọi người: "Rốt cuộc các bạn là ai?" Mọi người hãy tham cứu kĩ.
Còn về câu hỏi thứ hai: "Thưa Phật Tổ! Ngài thật sự ở đâu?"
Phật Tổ là Tam thân Như Lai, tức Pháp thân Như Lai, Báo thân Như Lai, Ứng thân Như Lai. Bất biến trùm khắp mọi nơi là Pháp thân Như Lai. Bất biến hòa hợp với trí tuệ của hành giả, thành tựu diệu công đức, là Báo thân Như Lai vậy. Chứng được lý này, tùy duyên ứng hóa, biến hóa vi diệu vô cùng, là Ứng thân Như Lai vậy. Cho nên, Pháp thân là thể. Báo thân là tướng. Ứng thân là dụng.
Ví dụ, Phật Lô Xá Na có trăm nghìn triệu hóa thân, mỗi hoa là một thế giới, mỗi hoa là một Phật Thích Ca. Tôi hỏi ngược lại mọi người: "Thưa Phật Tổ! Ngài thật sự ở đâu?" Nếu các bạn vẫn chưa hiểu thấu, tôi xin chỉ dẫn thêm: "Thể tính trong tâm của tất cả chúng sinh đều bình đẳng như chân như, không sinh không diệt, không tăng không giảm, vĩnh viễn thường tại. Các bạn tự quán chiếu nội tâm, chuyển hóa vọng tâm, bên ngoài có thể hiển hiện Báo thân và Ứng thân để giáo hóa chúng sinh khác, thường lạc ngã tịnh." Cho nên tôi nói: Tỳ Lô Giá Na Phật (Đại Nhật Như Lai) là Pháp thân của Liên Hoa Đồng Tử. A Di Đà Phật là Báo thân của Liên Hoa Đồng Tử. Liên Sinh Hoạt Phật là Ứng thân của Liên Hoa Đồng Tử.
Tôi (Lư Thắng Ngạn) truyền dạy Chân Phật Mật Pháp cho đệ tử, tôi muốn trao cho đệ tử tất cả những lời chân thật, những chứng nghiệm chân thật.
Tôi thật sự đã chứng nghiệm Ma Ha Song Liên Trì ở Tây phương Cực Lạc, tuyệt đối không phải lời nói dối. Tôi thần hành vào thái hư, đích thân gặp Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, tôi biết mình chính là Ứng hóa thân của Liên Hoa Đồng Tử. (Điều này đã được ghi lại trong sách từ hơn 30 năm trước.)
Có được sự truyền thừa từ Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, Liên Hoa Đồng Tử và Liên Sinh Hoạt Phật, chỉ cần tần số tương đồng là có thể tương ứng, có thể hiển hiện, có thể nhận được tin tức, đó chính là: Một trăng chiếu nghìn sông. Một âm diễn vạn pháp. Một tâm thăng cõi Phật. Thông qua Chân Phật Mật Pháp, thân khẩu ý được thanh tịnh, gia trì thanh tịnh thần biến, tín tâm cộng với tinh tấn, chính là thiên biến vạn hóa vô cùng tận.
Tôi xin nêu một ví dụ nhỏ: Tại một đạo tràng phân đường của Chân Phật Tông, sau khi tu pháp xong. Có một đệ tử đứng dậy nói: "Đêm qua trong mơ, tôi mơ thấy Sư Tôn ở Seattle nước Mỹ tặng cho tôi một món đồ..." Đệ tử này chưa nói hết lời, lại có hai đệ tử khác đứng lên, đồng thanh nói: "Đêm qua trong mơ, chúng tôi cũng mơ thấy Sư Tôn ở Seattle nước Mỹ tặng cho hai chúng tôi món đồ." Lúc này, vị đường chủ nói: "Thế này nhé! Tặng món đồ gì, tạm thời đừng nói, ba người viết ra giấy, đưa cho tôi, để chúng ta biết là món gì?"
Ba người viết giấy xong, tất cả đưa cho đường chủ. Đường chủ mở giấy ra xem trước mọi người, ngược lại chính mình giật mình, thật sự rất kỳ diệu. Bởi vì cả ba người đều viết hai chữ "Thọ Đào". Khi thông báo điều này, mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau. Hóa ra ngày hôm đó đúng là ngày vía Phật A Di Đà.
Tôi nói: Mỗi người, chỉ cần nhất tâm, nhất tâm này chính là tâm ý chuyên nhất không tán loạn. Hãy chuyên tâm niệm Sư Tôn hoặc tâm chú của Ngài "Om guru liansheng siddhi hum". Cần biết rằng khi trong tâm không còn vọng niệm tạp tưởng, đó đã là cảnh giới vượt qua "ý nghĩ".
Cần biết rằng, khi chúng ta ở trong nhất tâm, ba nghìn pháp giới đều đầy đủ, đây chính là pháp quán của Thiên Thai tông. Chỉ cần nhất tâm kiên định tin tưởng tương ứng với Liên Hoa Đồng Tử, liền có thể tương ứng, trong một sát-na tâm niệm, có thể trực tiếp thấy, thiền định thấy, trong mơ thấy Liên Hoa Đồng Tử.
Tôi thật sự chân thành nói với mọi người, tôi có thể thần hành, tôi có thể phân thân. Chỉ cần hành giả bước vào cánh cửa của nhất tâm, bạn có thể dễ dàng giao cảm với Sư Tôn Liên Hoa Đồng Tử, sẽ được quán đảnh, sẽ được gia trì, sẽ được hộ trì, sẽ tăng phước tăng huệ, thậm chí vãng sinh Phật quốc, đến bất kì thế giới Hoa Tạng nào cũng không có gì nghi ngờ.
Đó chính là: Nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất hoặc. Nhất tâm xưng danh. Nhất tâm trì chú. Nhất tâm quy mệnh.
03. Cứu độ người tự tử
Trong lúc thần hành. Tôi thấy một người đàn ông đứng trên nóc một tòa nhà cao tầng, muốn nhảy lầu tự tử. Kiểu sự việc này trong xã hội hiện đại đã xảy ra rất nhiều!
Người đàn ông trên nóc tòa nhà còn trẻ tuổi, những người bên dưới tòa nhà cũng phát hiện hành vi bất thường của anh ta. Xe cứu hỏa, xe thang, đệm khí cứu người đều được mang đến, tiếng người ồn ào. Có người khuyên giải, muốn đến gần để khuyên nhủ. Người khuyên giải vừa đến gần. Người đàn ông lập tức có động tác muốn nhảy xuống. Người bên dưới hét lên kinh hãi, người khuyên giải không dám manh động.
Tôi thần hành trong hư không, không chỉ nhìn thấy người đàn ông muốn nhảy lầu này, mà còn thấy trong tâm anh ta có ma (trầm cảm), xung quanh anh ta có: Thủy tử linh — những oan hồn thai nhi bị phá. Tinh linh — những oan hồn chết oan. Oán linh — những oan hồn của chủ nợ và người thân oán hận.
Thủy tử linh kêu: "Ngươi đoạt mạng ta, ngươi hãy chết đi!" Tinh linh kêu: "Chết một lần là hết khổ." Oán linh kêu: "Ta nguyền rủa ngươi chết đi, cùng chết hết!" Người đàn ông này dưới sự xúi giục của các vong linh vô hình, có vẻ ý chí quyết chết rất mạnh mẽ.
Tự sát là một hạt giống của đau khổ, cuộc đời có nhiều nỗi khổ: khổ vì sinh, khổ vì già, khổ vì bệnh, khổ vì chết, khổ vì sầu, khổ vì oán, khổ vì thọ khổ, khổ vì lo âu, khổ vì bệnh não, khổ vì sinh tử luân hồi, khổ vì oan gia trái chủ. Nỗi khổ thật vô tận.
Hạt giống tự sát này sinh ra từ nội tâm con người, theo khí trôi nổi trong hư không, dẫn dụ nhiều tinh linh đến, tinh linh thì tham lam, ích kỷ, oán hận, vô minh, chúng chỉ mong con người tự tử mà thôi.
Tôi đã hiểu: Tại sao Hemingway tự tử, tại sao Kawabata Yasunari tự tử, tại sao Mishima Yukio tự tử, tại sao Tam Mao tự tử........ Người sống chán chường! Nỗi đau không dứt! Dù có danh tiếng lẫy lừng, tiền tài dư dả, vì sao lại coi thường mạng sống? Đó là khi tâm cảnh của một người thay đổi, không thể giải tỏa, từ ý niệm sinh ra ý nghĩ quyên sinh, ma tâm từ đó mà sinh! Về điểm này, người tu hành cũng phải chú ý.
Tu Bạch cốt quán quá độ sẽ khiến cuộc đời trở nên vô nghĩa! Tu Bất tịnh quán quá độ sẽ khiến cuộc đời trở nên nhàm chán! Hành giả cần chú ý, "quá mức" và "chưa đạt" đều không tốt. Hành giả nên nghĩ rằng, một niệm tinh tấn có thể vượt qua khổ não trong cõi Ta Bà từ nhiều kiếp, đến thế gian này chính là đạo tràng tu hành, phải có pháp hỷ mới có thể đạt đến chín phẩm Cực Lạc. Tu hành là vàng ngọc. Tự vẫn là cát sỏi. Phải hiểu rõ sự hơn kém giữa hai điều này, đừng để một phút mê muội! Phật giáo dạy chúng ta tu hành để đạt pháp hỷ, lìa khổ được vui. Còn tự tử chỉ có khổ không có vui, tự tử chính là "giết Phật"!
Tu hành cần có sinh mệnh, sinh mệnh cần sự sống, sống thì phải sống cho tốt, cuộc sống không dễ dàng, ai cũng biết điều đó. Nhưng vì giá trị của tu hành, sự tồn tại của sinh mệnh phải do chính mình làm chủ, giá trị tồn tại hoàn toàn ở nơi mình chứ không phải ở người khác, cũng không phải ở hoàn cảnh, không phải ở trong lời phê bình của người khác, vì vậy hành giả phải nhận rõ: Giá trị sinh mệnh của chính mình. Nhận biết Phật tính của mình. Từ buông xả mà được tự tại. Từ tự tại mà được an vui.
Hãy luôn tô điểm thêm ánh sáng và màu sắc cho cuộc đời của chính mình.
Tôi nhìn người đàn ông đó lần nữa, anh ta thực sự muốn nhảy lầu, trong tôi chợt dấy lên lòng từ bi lớn lao, muốn cứu mạng người đàn ông này.
Tôi phóng ra Phật quang, linh quang, bạch quang, ba đạo tịnh quang. Thủy tử linh, tinh linh, oán linh vừa thấy ba đường ánh sáng này thì sợ đến vỡ mật, vội vàng chạy mất tăm mất tích.
Người đàn ông bỗng tỉnh ra. Tôi hóa hiện cho anh ta thấy vài cảnh rơi xuống chết thảm, anh ta cũng không nỡ nhìn. Tai anh ta chợt nghe tiếng cha mẹ gọi, lòng anh ta mềm lại, liền chùn chân. Người khuyên giải nhân cơ hội lao tới ôm chặt lấy anh ta, cứu được anh ta xuống.
Người đàn ông này đã được cứu. Khi tôi thần hành rời đi, nghĩ đến một bài thơ: Thoáng thấy có người nhảy lầu cao Dưới chân đã chẳng còn đường nào Đi hết núi sông tìm lại mình Trao cho Phật pháp bình tâm an.
04. Khúc tình ca buồn
Trong lúc thần hành. Tôi nghe thấy lời cầu nguyện của một nữ đệ tử trẻ: "Om guru liansheng siddhi hum. Sư Tôn, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, con đã làm tổng cộng 49 đàn Hộ Ma, cầu xin Kurukulle Phật Mẫu gia trì cho con được yêu thương, theo như lời thề, con nguyện được kết hôn với bạn trai." Nữ đệ tử cầu nguyện rất tha thiết: "Cầu xin Sư Tôn! Cầu xin Kurukulle Phật Mẫu!"
Hộ Ma của Mật giáo có năng lực rất mạnh, pháp lực rất cao, vì vậy, trong lúc thần hành, tôi cũng nghe được tiếng gọi mạnh mẽ của nữ đệ tử. Vì nữ đệ tử này, tôi đã đi tìm hiểu về bạn trai cô ấy. Không ngờ người bạn trai này cũng là đệ tử của tôi, thế nên, đây là chuyện nữ đệ tử yêu nam đệ tử, yêu đến chết đi sống lại.
Nữ đệ tử này chạy đến trước cửa nhà nam đệ tử, thường xuyên đợi anh ta tan làm, gặp nhau một chút, chào hỏi một chút, nói vài câu........ Còn nam đệ tử thì hơi tránh né.
Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn nữa là nam đệ tử này cũng thực hiện nghi lễ Hộ Ma, anh ta cúng dường Ái Nhiễm Minh Vương và thành tâm cầu nguyện: "Om guru lian sheng siddhi hum. Sư Tôn, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, con đã làm 49 đàn Hộ Ma Ái Nhiễm Minh Vương, xin gia trì cho con được kết hôn với bạn gái của con."
Vấn đề là như thế này: Nữ đệ tử yêu nam đệ tử. Nhưng người mà nam đệ tử yêu không phải nữ đệ tử này. Mà là một cô gái khác. Người anh ta yêu không phải là cô ấy.
Một ngày nọ. Nam đệ tử lái xe Mercedes chở bạn gái về nhà, hai người tình tứ nắm tay nhau, còn hôn lên má nhau nữa. Nữ đệ tử đứng sững người, nhìn đến ngẩn ngơ! Muốn khóc mà không còn nước mắt, cô lặng lẽ nhìn nam đệ tử tay đỡ eo cô gái bước vào nhà, "cạch" một tiếng, đóng cửa lại. Nữ đệ tử đau lòng, cuối cùng không kìm được nữa mà rơi lệ, cô ngốc nghếch đợi anh về, nhưng lại phải chứng kiến cảnh tượng này.
Nữ đệ tử không nản chí, về nhà, lại đốt lửa cúng Hộ Ma, lại cầu nguyện, lại kêu lớn: "Om guru lian sheng siddhi hum. Sư Tôn, Ngài có nghe thấy không?" "Om Kurukulle Phật Mẫu. Con chỉ lấy anh ấy làm chồng, anh ấy chỉ cưới con làm vợ. Ngài có nghe thấy không?" Lửa Hộ Ma cháy bừng bừng.
Thật không ngờ: Nam đệ tử này rất chung thủy với bạn gái hiện tại, còn đối với nữ đệ tử đang cúng Hộ Ma kia, trong lòng anh ta không hề xao động chút nào. Hơn nữa, nam đệ tử này tu pháp Ái Nhiễm Minh Vương rất tinh tấn, thuộc làu thần chú, đọc tụng đến hàng trăm nghìn vạn lần.
Trong lúc thần hành, tôi đã bàn bạc với Kurukulle Phật Mẫu và Ái Nhiễm Minh Vương về việc hai đệ tử này tu pháp Hộ Ma cầu tình ái.
Chúng tôi xem xét bốn điều lớn: Một, nhân duyên quả báo về tình yêu giữa ba người. Hai, kết quả như thế nào mới được xem là công bằng bình đẳng. Ba, liệu dưới sức mạnh của pháp lực họ có thể vẫn giữ được lòng tin tăng tiến. Bốn, liệu có thể đảm bảo cả ba người đều không bị tổn thương. Kết quả thảo luận là: Kurukulle Phật Mẫu lắc đầu. Ái Nhiễm Minh Vương lắc đầu. Tôi lắc đầu.
Thì ra, tình yêu là thứ mãi mãi vướng bận không thôi, không thể giải quyết được, người quá yêu chính mình tất sẽ phiền não đau khổ muôn vàn, lòng chiếm hữu quá mạnh đối với người mình yêu thì mãi mãi cứ luẩn quẩn không dứt, thuận ý ta thì vui, trái ý ta thì giận. Câu trả lời là "để mặc tự nhiên" vậy.
Tuy nhiên, tôi vẫn thương cảm cho nữ đệ tử cúng Hộ Ma kia, tôi biết lời cầu nguyện của cô ấy sẽ không thành, dù có cúng một trăm đàn hay nhiều hơn nữa, Kurukulle Phật Mẫu cũng không thể giúp được cô ấy, ngay cả tôi cũng không thể giúp được. Tôi lén nói bên tai cô ấy: "Đệ tử à! Cô cầu xin tôi, vậy tôi cầu xin ai?" Cô ấy nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy người, nhìn quanh bốn phía, lấy làm lạ lùng! Nhưng, cô ấy vẫn không hiểu ý của tôi. Tôi đành phải thần hành mà đi!
Mọi tình ái trong thế gian đều do nhân duyên mà khởi sinh, có duyên sâu, có duyên cạn, có duyên kết thành quả, có duyên không thể kết thành. Dù có cúng Hộ Ma cầu nguyện, tuy có được pháp lực gia trì, nhưng định nghiệp, duyên số cũng khó mà thay đổi. Tôi nói: Khi đủ điều kiện rồi Nhân duyên tự hội tụ Nếu chưa đủ điều kiện Cưỡng cầu cũng vô ích.
Tôi không phải nói Mật pháp không có pháp lực, mà là nói, chấp ngã, ngã kiến, thân kiến, lòng tham cầu dục vọng, tất cả pháp hữu vi, định nghiệp cũng khó chuyển.
Tôi đã cố gắng hết sức, đã nói với nữ đệ tử. Hy vọng cô ấy có thể buông bỏ, mới thực sự dứt được lửa phiền não.
Một ngày nọ, người cô ấy ngưỡng mộ đã kết hôn, cô dâu không phải là cô ấy. Sân hận trong nhân gian là điều đáng sợ nhất, lòng sân hận nảy sinh trong tâm cô ấy không chỉ hận nam đệ tử kia, mà còn hận cả cô dâu. Thậm chí cha mẹ anh em và tất cả mọi người.
Sân hận sẽ thay đổi tất cả, lúc này đạo lý, đạo đức, trí tuệ, tôn giáo, nhẫn nhục đều biến mất không còn, trong lòng mãi mãi chứa đầy oán khí và bất mãn, cô ấy không thể nào có được niềm vui và sự an tịnh hạnh phúc.
Cô ấy không thể cân bằng tâm thái. Căm ghét Sư Tôn không có cảm ứng. Căm ghét pháp Hộ Ma. Căm ghét Kurukulle Phật Mẫu không giúp đỡ cô ấy. Cô ấy quét sạch pháp tướng của Sư Tôn trên đàn thành, dẹp bỏ tất cả tượng chư Phật Bồ Tát, cả lò Hộ Ma cũng đem cho người khác, vứt bỏ hết pháp khí, đốt cả pháp y thường mặc, cô ấy hận, hận, hận, hận vô tận...... Dù tôi có rơi lệ cũng vô ích, không thể gọi được tâm cô ấy quay về. Cô ấy xé nát cả chứng thư quy y.
Tôi thấy xấu hổ với chính mình, không thể cứu độ được cô ấy, tôi tự trách, tôi hổ thẹn, tôi bất lực, lòng tôi đau xót, nhưng đành chịu bó tay!
Chúng sinh vì có dục vọng, vì muốn thỏa mãn dục vọng mà quy y rất nhiều, thực ra khi đã vào cửa quy y rồi, phải thực sự hiểu sâu về pháp nhân duyên, thường thì những người còn chấp trước không quên được dục vọng, đôi khi thật dễ mất đi niềm tin. Mọi người thử nghĩ xem: Muôn thứ không mang được Chỉ có nghiệp theo thân Dục vọng chồng chất mãi Học Phật hóa học ma.
Khi đã vào cửa quy y rồi, phải phát tâm bồ đề, trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sinh, đó là "vô tâm" không cầu gì cả. Nghĩa là phải "tam luân thể không", không nên chấp trước. Tâm bồ đề phát khởi như vậy mới không làm tổn thương người và mình, học Phật tu hành chân chính là vô sự, vô tâm, không vướng mắc, không phiền muộn, không khổ não, không lo lắng.
Chúng ta tu pháp Hộ Ma trong Mật giáo, chỉ cầu được chư Phật Bồ Tát gia trì, hết sức mình là được. Đồng thời, phải hiểu rằng, mọi biểu hiện trong nhân gian, thành bại thịnh suy thực ra chỉ là hiện tượng nhất thời, như nói thành, trụ, hoại, không; sinh, trụ, dị, diệt; vô thường, vô ngã, khổ, không, tất cả đều chỉ là nhân duyên mà thôi. (Tình ái toàn là nhân duyên.)
Chúng ta học Phật là: Hướng đến thiện. Hướng đến thanh tịnh. Hướng đến ánh sáng. Hướng đến giải thoát. Học Phật tu hành là học trí tuệ giải thoát và trí tuệ bồ đề, phải tràn đầy pháp hỷ, biết đủ mới thường vui, có thể khiến thân thể khỏe mạnh, tâm trạng hoan hỷ, thấy vạn vật trong thế gian đều đẹp, việc gì cũng biết ơn, hành giả cần lan tỏa pháp hỷ của mình như làn hương, để cảm động chúng sinh hữu tình.
Cuộc sống hạnh phúc cần phải trừ bỏ tham, sân, si, đây mới là cái nhìn đúng đắn về cuộc sống. Ghen tị và sân hận là không đúng, người học Phật chúng ta phải hiểu rằng Phật giáo được xây dựng trên chính kiến về nhân quả, người đầu tiên bị tổn thương bởi sân hận chính là bản thân mình.
Đệ tử quy y ơi! Tôi muốn nói rõ ràng với mọi người, bạn có hiểu được tâm của Sư Tôn không? Quy y phải đồng tâm với Sư Tôn. Bạn có hiểu được thề nguyện của Sư Tôn không? Quy y phải làm theo nguyện. Bạn có hiểu được giáo pháp Chân Phật Mật Pháp của Sư Tôn không? Quy y phải thấu hiểu giáo pháp. Đừng để tình ái chi phối bản thân.
Tôi mong rằng hành giả Mật giáo tu pháp Hộ Ma (Hỏa cúng) hãy thể hiện nhất tâm cúng dường, nhất tâm bố thí, nhất tâm tinh tấn, nhất tâm trì chú, nhất tâm tri ân, nhất tâm quy mệnh. Chứ không phải cầu xin, cầu xin, cầu xin... Làm sao có thể thỏa mãn được mọi sự thỉnh cầu?
05. Việc ăn của quỷ thần
Trong lúc thần hành. Tôi gặp một quỷ vương, quỷ vương cũng đang thần hành, tôi và quỷ vương kết bạn đồng hành, đúng thật là "hai người đồng hành". Tôi hỏi quỷ vương: "Khi Phật Đà còn tại thế, có người hỏi Phật về vấn đề cúng tế, Phật nói rằng có thể không cần cúng tế. Nhưng nếu người ta muốn cúng tế thì cũng có thể tùy duyên. Xin hỏi quỷ vương về vấn đề cúng tế hay không cúng tế này?" Quỷ vương đáp: "Ý Phật Đà là lấy tâm ý làm trọng, không phải ở hình thức siêu độ nhiều hay ít."
Tôi hỏi: "Quỷ thần có nhận được cúng tế gì không?" Quỷ vương đáp: "Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn là bốn cõi thánh, hoàn toàn chỉ ở tâm ý mà thôi. Cõi trời vốn rất hạnh phúc, cúng tế trời cũng chỉ là tâm ý mà thôi. Cõi người phần lớn không nhận cúng tế, còn đạo súc sinh do si mê mà thành, họ cũng không thể nhận cúng tế. Đạo địa ngục là nơi đau khổ nhất, người thường cúng tế không có nhiều tác dụng với họ, trừ phi là bậc đại cao tăng như ngài Mục Liên. Theo tôi biết, chỉ có đạo quỷ thần mới nhận được cúng tế. Quỷ thần thực sự mong mỏi người trần có thể cúng tế họ." "Họ ăn được thức ăn? Nhìn thấy hoa tươi?" Quỷ vương đáp: "Đúng vậy. Quỷ thần ăn bằng xúc chạm! Họ có thể thấy được tất cả!"
Quỷ vương lại nói: "Tinh thần con người lấy giấc ngủ làm thức ăn, thân xác lấy thức ăn làm thức ăn. Tất cả quỷ thần đều lấy sự tiếp xúc làm thức ăn." Tôi hỏi: "Thế nào là tiếp xúc thức ăn?" Quỷ vương cười, nói rằng: "Súc sinh cắn súc sinh, vật này khắc vật kia, cứ ăn qua ăn lại, đó là tiếp xúc. Người ăn cơm gạo bánh mì, đó cũng là tiếp xúc. Quỷ thần cũng vậy, quỷ thần cũng là tiếp xúc, không phải cấp cao." "Ăn cũng có phân chia cao thấp sao?" - Tôi hỏi. Quỷ vương đáp: "Cấp cao thì lấy tư tưởng làm thức ăn, lấy thức làm thức ăn, lấy thiền hỷ làm thức ăn. Cấp thấp thì như súc sinh cắn xé lẫn nhau, lấy thịt làm thức ăn, đạo quỷ lấy máu làm thức ăn, địa ngục lấy lửa làm thức ăn, còn đạo người cũng không phải là cấp cao."
Quỷ vương lại nói: "Thực ra trong giới quỷ thần, thức ăn cũng có nhiều phân loại, có loài ăn khí, có loài ăn nước, có loài ăn hương, có loài ăn giấc ngủ, có loài ăn tinh khí, những loài này là tốt hơn. Có những quỷ thần thấp kém hơn, có loài ăn phân, có loài ăn nước tiểu, có loài ăn máu tanh, có loài ăn thịt, có loài ăn tinh huyết, cũng có loài ăn chất độc." Tôi nghe xong rùng mình.
Quỷ vương nói: "Ngài cũng đã thấy nhiều rồi, có gì đáng sợ? Người trần lấy tiếp xúc làm thức ăn, chẳng phải cũng ăn uống lung tung sao, bây giờ còn có cả bộ tộc uống nước tiểu, bộ tộc ăn chất độc nữa kìa." Tôi gật đầu.
Tôi hỏi quỷ vương: "Trong việc cúng tế quỷ thần, ngài cho rằng điều gì là quan trọng nhất?" Quỷ vương đáp: "Tâm ý quan trọng nhất, phải thực sự tiếp nhận được. Thức ăn chín là thể hiện tâm ý, một hai món, số lượng nhiều ít không phải vấn đề. Người chủ tế phải hiểu được sự biến hóa của tâm ý, đó chính là pháp cúng dường của Mật giáo, đó chính là tâm ý." "Thức ăn chín? Tại sao phải là thức ăn chín?" - Tôi hỏi. "Phải nấu nóng, không phải đồ hộp đóng gói, nhiều quỷ thần thích như vậy. Bởi vì chứa đựng tâm ý." "Mông Sơn thí thực là gì?" Quỷ vương đáp: "Mông Sơn thí thực là phương pháp độ chúng sinh trong cõi ngạ quỷ, Mông Sơn là tên một địa phương, có một vị cao tăng tên là Cam Lộ lập ra pháp môn này để độ chúng sinh cõi ngạ quỷ, do đó gọi là Mông Sơn thí thực." "Du già diệm khẩu là gì?" "Là dùng sức gia trì của chư Phật Mật giáo để thí thực, có sức gia trì mạnh nhất." "Ngoài thí thực ra, siêu độ còn bố thí gì nữa?" "Pháp thí, tức là bố thí pháp. Lấy Lương Hoàng Bảo Sám làm ví dụ, đó chính là pháp thí, nguyên do là hoàng hậu của vua Lương do tâm đố kỵ quá nặng, không chỉ hãm hại các phi tần của vua Lương, mà ngay cả việc Lương Võ Đế bái Chí Công thiền sư làm thầy, quá thân cận với thầy, bà cũng đố kỵ. Sau khi mạng chung, đọa làm thân đại mãng xà, trong mỗi vảy trên thân đều có trùng độc cắn, đau đớn không thể tả xiết."
Quỷ vương lại nói: "Sau đó, Võ Đế nhớ hoàng hậu, một con đại mãng xà xuất hiện trong vườn cấm, thân rắn tanh hôi phun lưỡi. Võ Đế định đuổi đi, nhưng rắn thốt ra tiếng người, tự xưng là hoàng hậu, do tâm đố kỵ nên sau khi chết đọa làm thân rắn, cầu xin Lương Võ Đế siêu độ cứu vớt để thoát khỏi nỗi khổ này. Thế là, Võ Đế tập hợp chư tăng, vì Hy hậu cầu sám hối. Chí Công thiền sư mới tập hợp tất cả các pháp sám, tập thành một bộ đại sám văn, dùng sức mạnh của danh hiệu chư Phật, tập hợp năm trăm đại tăng cùng lúc vì Hy hậu cầu sám. Lúc lễ sám hối, đại mãng xà cuộn quanh cột pháp nghe pháp. Khi pháp sám viên mãn, trong cung điện có hương trời nhạc trời, Hy hậu được sinh làm thiên nhân, thăng lên cõi trời Đao Lợi. Đó chính là pháp lực của Lương Hoàng Bảo Sám, đó cũng là pháp thí vậy."
Tôi hỏi: "Bố thí pháp quan trọng hơn bố thí thực phẩm phải không?" Quỷ vương đáp: "Thí thực chỉ no được một lúc, còn thí pháp thì được sinh lên cõi trời, thí pháp mới là số một." Tôi hỏi: "Việc cúng thí thực có giờ giấc không?" Quỷ vương đáp: "Cúng Phật vào giờ Ngọ, cúng chư thiên vào sáng sớm, cúng quỷ thần vào đêm tối, cúng tinh linh vào hoàng hôn, đó gọi là bốn thời cúng thực." Tôi nói: "Tôi cúng dường không phân biệt thời điểm, có thức ăn là cúng!" Quỷ vương đáp: "Ngài là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tâm ý đến là thời điểm đến. Chư Phật, Bồ Tát, Kim cang, Hộ pháp, chư thiên, quỷ thần đều đến. Ngài là Đại Trì Minh Kim Cương A Xà Lê, đương nhiên là khác biệt."
Tôi lại nhớ ra một vấn đề, hỏi quỷ vương: "Còn việc đốt vàng mã thì sao?" Quỷ vương cười ha hả: "Cũng giống như thắp hương vậy." "Giống như thế nào?" "Tất cả đều ở tâm ý." "Tâm ý gì?" Quỷ vương đáp: "Tâm hiếu thảo, tâm biết ơn, tâm tôn kính, tâm thành kính, tâm hồi hướng, tâm siêu độ, nhất tâm nhất ý." "Tâm siêu độ thì dùng tâm ý gì?" "Cầu xin chư Phật gia trì thân khẩu ý được thanh tịnh để vãng sinh Phật quốc." "Có được không?" "Chí thành nhất tâm thì chắc chắn có cảm ứng!" Tôi và quỷ vương vừa thần hành vừa hỏi đáp.
Trên đường đi, toàn là tôi hỏi quỷ vương, bỗng nhiên quỷ vương quay lại hỏi tôi: "Liên Sinh Hoạt Phật, giờ đến lượt tôi hỏi ngài, tiến một bước là chết, lùi một bước là chết, nếu không tiến không lùi, cũng như nước đọng làm chết người, vậy phải làm thế nào mới là con đường thoát thân?" Tôi đáp: "Kinh Hoa Nghiêm có một bài kệ: Nếu người muốn biết rõ Hết thảy Phật ba đời Nên quán pháp giới tính Tất cả do tâm tạo."
Quỷ vương gật đầu, lại hỏi: "Phía trước có hổ, phía sau có sói, bên trái là vực sâu, bên phải là vách đá, Liên Sinh Hoạt Phật đến đây, xem phải làm sao để qua?" Tôi đáp: Không chấp có không. Tình giải đều quên. Ba đời như một. Trải khắp hư không.
Quỷ vương vừa nghe xong, trong khoảnh khắc bay vút lên hư không, lúc này quỷ vương đã biến mất, trên không trung xuất hiện mặt đất kim cang kiên cố, có bánh xe báu trang nghiêm và ngọc mani thanh tịnh, phía trên có tràng phan báu tỏa ánh sáng, luôn phát ra âm thanh vi diệu, chuỗi vòng ngọc tỏa hương thơm mầu nhiệm, dưới tràng phan báu là một vị Bồ Tát, thân kim cang, y phục lưu ly, cưỡi voi trắng, toàn thân đều tỏa ánh sáng. Tôi cung kính chắp tay: "Là Phổ Hiền Vương Bồ Tát!" "Đúng vậy." "Bồ Tát hóa thân làm quỷ vương để độ chúng sinh!" "Hóa thân vô cùng vô tận, muốn mượn vấn đáp để nói các loại pháp vậy."
Trong lúc thần hành, tôi cũng nghĩ rằng, những điều quỷ vương này biết thật thấu trời đạt đất, không gì không biết, làm sao chỉ là một quỷ vương nhỏ bé, chắc chắn là hóa thân của một vị đại Bồ Tát, thần thông tự tại của Bồ Tát quả thật phi phàm. Tôi cung kính đảnh lễ Phổ Hiền Vương Bồ Tát. Bồ Tát nói: "Nguyện Liên Sinh Hoạt Phật diễn thuyết cảnh giới vi diệu rộng lớn, âm thanh vi diệu vang vọng khắp nơi."
06. Đừng quên thề ước
Trong lúc thần hành. Tôi gặp một vị Không hành mẫu, tay cầm hoa tươi, đón tiếp tôi giữa không trung. Nhìn kĩ mới biết vị Không hành mẫu này chính là đệ tử của tôi. Do bà ấy đã từng giúp tôi độ chúng sinh ở cõi trần, nên nhanh chóng được sinh làm thiên nhân.
Tôi kinh ngạc: "Bà đã viên tịch rồi sao!" Không hành mẫu khóc đỏ hoe đôi mắt: "Vâng ạ." "Viên tịch thế nào?" - Tôi đau lòng. "Hôm trước còn khỏe mạnh bình thường, tối đi vật lý trị liệu, đêm đó đã ra đi!" Nước mắt tôi không kìm được mà tuôn rơi. Bà ấy là đệ tử tốt của tôi!
Tôi hỏi: "Hôm nay bà đi đâu vậy?" Không hành mẫu đáp: "Sự nghiệp ở thế giới Ta Bà này vốn do tôi một tay điều hành. Sau khi tôi ra đi, họ bối rối không biết phải làm sao. Hôm nay đến gặp Sư Tôn là vì tôi muốn quay lại Ta Bà, tiếp tục giúp đỡ sự nghiệp của mình. Tôi sẽ đầu thai vào gia tộc đó để phụ giúp sự nghiệp." "Tôi thấy việc này quá là hoang đường, việc đời ở Ta Bà là việc đời ở Ta Bà, chết là kết thúc tất cả, nếu bà đầu thai trở lại sẽ khiến thiên hạ cười chê." "Nhưng, tôi quá nặng lòng với sự nghiệp!"
Tôi ngăn bà ấy lại: "Hãy về Ma Ha Song Liên Trì đi! Vì một khi trở lại nhân gian, e rằng khó về được Cực Lạc." "Đệ tử không muốn về." - Không hành mẫu nói, rất kiên quyết, bà ấy muốn trở về nhân gian. "Bà đã quên lời thề rồi sao!" "Đệ tử đã thề gì với Sư Tôn?" - Không hành mẫu đã quên mất.
Tôi hóa ra một cảnh tượng cho bà ấy xem: Thuở xưa, bà vốn là người ở Ma Ha Song Liên Trì, theo lời thề là như thế này, tôi (Liên Sinh Hoạt Phật) xuống cõi Ta Bà, hẹn bà giúp đỡ, ban đầu bà không chịu, vì Ta Bà là ngũ trược ác thế quá khổ, không muốn xuống phàm trần, bởi vì: Cành san hô treo sừng tê non. Biển khổ sóng dồn khó thấy bờ.
Tôi nói: Cực Lạc lúc này đáng dừng chân. Phàm thánh chỉ cách một sợi tơ. Tôi khuyên hết lời mới thuyết phục được bà ấy xuống cõi Ta Bà. Bà ấy sinh ra trước, sau đó tôi mới sinh ra, bà ấy hơn tôi vài tuổi, về mặt tuổi tác. Tôi hứa với bà ấy: Có A Di Đà trong tự tâm. Vừa khởi một niệm cách nghìn núi. Trong đó tự có ánh hồi quang. Chớ quên lời hẹn tìm bên ngoài. Tôi hứa với bà ấy: Chỉ một lần này về Cực Lạc. Trở lại Liên Trì là Quan Âm.
Đây chính là lời thề ước giữa tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn với vị Không hành mẫu này, nhưng bây giờ, bà ấy đã quên hết lời thề, chỉ muốn quay về nhân gian để gây dựng lại sự nghiệp.
Khi tôi ẩn cư bế quan tại hồ Diệp Tử đã giác ngộ rằng, đường đời khó đi, đường đời quá nhiều cạm bẫy, đường đời quá nhiều ràng buộc, đường đời quá nhiều khổ nạn, đường đời khó gặp Phật pháp, dù có gặp được Phật pháp cũng chưa chắc đã tin hiểu, càng không thể hành trì chứng đắc.
Không hành mẫu ơi! Khi bà xuống cõi trần, muốn gây dựng lại sự nghiệp, sao không biết khổ, không, vô thường, liệu bà có thể không bị cảnh chuyển tâm? Không bị cảnh tướng chi phối? Không bị cảnh làm rối loạn?
Không hành mẫu ơi! Đời này bà quy y nơi tôi, tôi nhận ra bà, bà cũng từng nói: chính thầy là người muốn tôi xuống trần gian trợ giúp Chân Phật. Nay tôi đang ở hồ Diệp Tử, vì sao bà lại muốn xuống trần gian? Không hành mẫu ơi! Liệu bà có thể thanh tịnh hoan hỷ? Liệu bà có thể không quên đạo tâm? Liệu bà có thể lìa khổ được vui? Liệu bà có thể tịnh hóa tự tâm? Liệu bà có thể trở về Ma Ha Song Liên Trì? Thành tựu chân chính của đời người nằm ở sự thanh tịnh của tự tâm, ở sự nhạt nhòa với danh lợi, thành tựu lớn nhất là độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ, chỉ có thanh tịnh vô nhiễm mới không rơi vào luân hồi lục đạo. Không hành mẫu ơi! Bà trở lại nhân gian, có tự tin, có nắm chắc không?
Tôi vừa nói xong. Không hành mẫu hai mắt rơi lệ, toàn thân run rẩy, tôi biết, bà ấy hoàn toàn không đoan chắc có thể quay lại cõi trời được nữa. Đây cũng chính là điều tôi lo lắng. Không hành mẫu nói: "Thưa Sư Tôn! Tôi phải làm sao đây?" Không hành mẫu trong lòng đang giằng xé mâu thuẫn. Tôi lại nói với Không hành mẫu: "Tất cả phàm phu vì tự trói buộc mình nên thân chìm trong biển khổ, như đang ở trong nhà lửa, người đời nóng lạnh hành hạ giày vò, ai cũng nói khổ nhiều vui ít. Người đời nay tuy đang ở trong biển khổ, nhưng có mấy ai nhìn thấu buông bỏ được, như đang trong mộng, không thể thoát ra."
Tôi lại nói: "Hiện nay ở cõi Tây phương Cực Lạc, mọi âm thanh đều diễn tả diệu pháp, nước mani chảy giữa các đóa hoa, chư Như Lai thánh hiền tướng đẹp không gì sánh bằng, ngọc như ý tỏa ánh vàng kim, lầu gác trăm báu, vàng rải khắp đất. Cõi Phật tuyệt diệu như vậy mà bà không đến, biết rõ việc đời như mộng mà còn tìm mộng, biết rõ có thể rơi vào ba đường ác, lại mê mờ con đường về quê hương, bà vẫn chưa tỉnh giấc mộng lớn sao?" Không hành mẫu nói: "Con cháu phải làm sao?" Tôi mỉm cười: "Con cháu tự có phúc của con cháu, không vì con cháu mà làm thân trâu ngựa." Không hành mẫu hỏi: "Con đường về Tây phương phải đi thế nào?" Tôi nói: Buông gánh nặng xuống sẽ nhẹ nhàng. Dưới chân tự nhiên hoa sen nở. Nếu một lòng thành tâm niệm Phật. Đài sen không cần phải sắp bày.
Không hành mẫu tụng: "Nam mô ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật."
Ngay lập tức, tôi từ Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sư Tôn biến hóa thành một vị A Di Đà Phật Vô Lượng Thọ trang nghiêm pháp giới hư không với ba mươi hai tướng tốt, toàn thân phóng hào quang rực rỡ, tay nâng một đài sen, đầy đủ tất cả. Tôi phóng đài sen ra, Không hành mẫu lập tức bước lên đài sen.
Không hành mẫu hỏi: "Đây là tôi đang niệm Phật kiểu gì vậy?" "Niệm Phật có mười loại: niệm tịch tĩnh, niệm thanh tịnh, niệm không đục, niệm minh triệt, niệm ly trần, niệm ly vạn tượng, niệm ly cấu, niệm quang diệu, niệm khả ái lạc, niệm vô năng chướng ngại. Vừa rồi bà niệm Phật đã đầy đủ cả mười niệm rồi." "Làm sao để đến?" - Không hành mẫu hỏi. "Một niệm là đến. Một sát-na đều được vãng sinh." Trong chốc lát, Không hành mẫu đã đến Ma Ha Song Liên Trì, hóa sinh từ hoa sen!
07. Ấn tượng về rước xá lợi ngón tay Phật
Trong lúc thần hành. Tôi thấy trong pháp hội cầu phúc rước xá lợi "ngón tay Phật", các vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo địa phương, các vị trưởng lão, đại pháp sư, Hoạt Phật trong giới Phật giáo và vô số tín đồ, tất cả đều đảnh lễ "ngón tay Phật". Có những phụ nữ xõa tóc, để "ngón tay Phật" chạm qua. Có người cởi áo, rải hoa, để "ngón tay Phật" chạm qua. Có người đảnh lễ, chạm trán xuống đất, hướng về "ngón tay Phật" lạy hàng trăm nghìn vạn lần. Việc rước xá lợi "ngón tay Phật" này quả thật là đại sự của thiên hạ, cũng là đại sự của quốc gia, đại sự của tôn giáo xã hội, đại sự của tín đồ. "Ngón tay Phật" được thỉnh đi thờ cúng khắp nơi, dòng người đảnh lễ không ngớt, nhìn thấy dòng người như thế này, chúng sinh tôn kính xá lợi của Phật Thích Ca Mâu Ni như vậy, tôi vô cùng xúc động. Tất nhiên tôi cũng thấy có người tranh luận về tính chân thực của "ngón tay Phật" này.
Điều này khiến tôi nhớ đến một chuyện: Vào thời nhà Đường, Luật sư Đạo Tuyên đang đi trong đêm tại chùa Tây Minh, bất cẩn trượt chân ngã khi bước lên bậc thang. Có ai đó đã đỡ lấy ngài Đạo Tuyên, khiến ngài không bị thương. Sau khi đứng vững, nhìn người vừa đỡ mình, thì đó là một chàng trai trẻ.
Đạo Tuyên hỏi: "Ngươi là ai? Sao lại ở đây giữa đêm?" Chàng trai đáp: "Ta không phải người nào khác, chính là Na Tra Tam Thái Tử, con của Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Ta đã là Hộ pháp của pháp sư từ lâu, bảo hộ hòa thượng đã rất nhiều năm rồi!" Luật sư Đạo Tuyên nói: "Bần tăng tu hành, không có việc thì không dám phiền Tam Thái Tử. Thái Tử thần thông tự tại, hiện giờ ở Tây Vực Thiên Trúc có Phật sự gì không?" Thái Tử đáp: "Ta có một viên xá lợi răng Phật, đã bảo hộ ở chỗ ta rất lâu rồi, để ta dâng tặng cho Đạo Tuyên luật sư vậy!" (Xá lợi răng Phật Thích Ca Mâu Ni của Luật sư Đạo Tuyên là do Na Tra Tam Thái Tử cúng dường, việc này giới Phật giáo đều biết. Cần biết rằng Luật sư Đạo Tuyên là tông chủ của Nam Sơn tông, giới luật là một trong Tam tạng Tam học, thông suốt các tông phái. Nam Sơn Đạo Tuyên dựa vào Tứ Phần Luật trong Ngũ Bộ Luật để hoằng dương giới luật, Tứ Phần Luật chính là Luật tông vậy.)
Cũng có người phê bình rằng xá lợi răng Phật của Luật sư Đạo Tuyên là giả, làm gì có chuyện Na Tra Tam Thái Tử tặng xá lợi răng Phật cho Luật sư Đạo Tuyên? Khiến người ta nghi ngờ. Nhưng, tôi cho rằng, người đời không nên phê phán Luật sư Đạo Tuyên, bởi vì: Phật diệt độ rồi. Tượng pháp trụ thế. Hưng phát Tỳ-ni. Chỉ có một mình Ngài. (Luật sư Đạo Tuyên giữ giới rất nghiêm, ba y không rời thân, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, đi thì chống gậy, ngồi không tựa giường, rận rệp theo người.)
Ngày xưa: Có người hỏi tôi: "Xá lợi của Phật, xá lợi răng Phật, xá lợi ngón tay Phật, cái nào thật? Cái nào giả?" Tôi đáp: "Lấy ví dụ của Luật sư Đạo Tuyên mà nói, tin thì tin, không tin thì thôi, tin hay không là tùy mỗi người. Lịch sử đã trải qua hai nghìn sáu trăm năm rồi, làm sao mà phân biệt được? Ngay cả ngày đản sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật tử cũng không thể chỉ ra được một ngày chính xác. Nói đến hình tượng của Đức Phật, ngoại trừ một bức của Phú Lâu Na, hầu như không còn gì cả, tất cả đều là tưởng tượng. Thực ra xá lợi thật giả đều không quan trọng, cá nhân tôi cho rằng xá lợi Phật, răng Phật, ngón tay Phật đều có giá trị kỷ niệm. Điều quan trọng hơn là giáo pháp của Phật Đà! Đó mới chính là giá trị của cuộc đời."
Tôi nói: Chỉ bàn về thật giả thì có ích gì, nếu không quy y thọ giới? Không có giới thể thì không thể tích lũy giới đức để thành Phật. Chỉ bàn về thật giả thì có ích gì, nếu không nghe kinh học pháp? Không có nghe pháp thì làm sao thực tu để thành Phật. Chỉ bàn về thật giả thì có ích gì, nếu không giữ thân khẩu ý thanh tịnh? Không có thanh tịnh thì dù có lạy đến vỡ đầu cũng không thể thành Phật. Chúng ta dùng trì giới để đối trị tham. Dùng thiền định để đối trị sân. Dùng trí tuệ để đối trị si. (Siêng tu giới, định, huệ để dập tắt tham, sân, si.)
Người thọ giới phải tiếp tục giữ giới, người niệm Phật trì chú cần giữ cho niệm được thanh tịnh liên tục, tu định tu huệ cần để tâm tính tự nhiên thì Phật tính mới có thể hiển lộ. Tu giải thoát đạo hay bồ đề đạo mới có thể tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính! Những điều này quan trọng hơn việc "rước xá lợi ngón tay Phật" nhiều!
Cá nhân tôi không phản đối việc rước xá lợi Phật, "xá lợi răng Phật", "xá lợi ngón tay Phật" hoặc cầu phúc cho quốc gia, cầu phúc cho xã hội, cầu phúc cho chúng sinh; cũng không phản đối việc đại chúng chạm và lạy đầu với "ngón tay Phật". Tôi chỉ muốn Phật tử nhớ rằng, thực ra sự tu tập nội tâm, Phật tính tự nhiên lưu lộ từ tâm mới quan trọng hơn việc lễ bái bên ngoài.
Có lần người ta hỏi tôi: "Ngài nghĩ gì về bài văn 'Can ngăn rước Phật cốt' của Hàn Dũ?" Bài văn này, khi tôi còn là học sinh, rất nhiều người đã từng đọc qua. Hàn Dũ là bậc danh gia về văn chương, bài này là một tác phẩm nổi tiếng. Hàn Dũ viết để khuyên can hoàng đế đương thời là Lý Thuần đừng nên nghênh đón xá lợi Phật, đại ý như sau:
1. Phật giáo truyền vào Trung Quốc vào thời Đông Hán, trước thời Đông Hán ở Trung Quốc chưa có Phật giáo. 2. Vào thời kỳ chưa có Phật giáo, các vị đế vương trị vì lâu dài, thiên hạ thái bình, bách tính an lạc. Ví dụ như Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Vũ, Thương Thang, Vũ Đinh, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, Chu Mục Vương. Những vị hoàng đế này trị vì rất lâu, dài nhất đến cả trăm năm, chỉ có Vũ Đinh trị vì năm mươi chín năm, tuy nhiên, những vị hoàng đế này đều thọ, phần lớn sống trên trăm tuổi, chỉ có Chu Vũ Vương là ngắn nhất cũng sống đến chín mươi ba tuổi. Nhân dân đều sống rất tốt. 3. Vào thời Hán Minh Đế, Phật giáo truyền vào Trung Quốc, kết quả là Minh Đế chỉ trị vì được mười tám năm. Các vị vua thời Nam Bắc triều tin Phật, nhưng đều không trị vì lâu và thọ mệnh cũng ngắn. Nhân dân liên tiếp gặp chiến loạn, thiên hạ không được yên bình. (Chỉ có Lương Vũ Đế là trị vì lâu nhất - bốn mươi tám năm, thọ nhất - trên tám mươi tuổi. Ông là vị hoàng đế mộ Phật nhất, ba lần xả thân cúng Phật. Nhưng cuối đời không tốt, bị tướng phản loạn Hầu Cảnh vây hãm, chết đói ở đài thành, tám năm sau khi ông mất, quốc gia cũng diệt vong.) 4. Đường Cao Tổ Lý Uyên từng ban lệnh loại bỏ tăng ni trong thiên hạ. 5. Khổng Tử nói: "Kính quỷ thần nhưng nên giữ khoảng cách." 6. Hàn Dũ khuyên Lý Thuần nên "ném xá lợi xuống nước hay vào lửa, vĩnh viễn diệt tận gốc rễ, dứt mối nghi ngờ trong thiên hạ, chấm dứt họa cho đời sau."
Đối với những điểm này, tôi xin giải thích như sau: 1. Trước thời Đông Hán, Trung Quốc chưa có Phật giáo. (Điểm này không cần giải thích.) 2. Trước khi có Phật giáo ở Trung Quốc, từ Hoàng Đế đến Chu Mục Vương... Những vị đế vương này là ai? Người đời làm sao biết được, bởi vì những vị đế vương này thực sự là những vị thiên nhân nửa người nửa thần. Theo tôi được biết, Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế chính là Nghiêu, Thuấn, Vũ, những vị khác càng không cần phải nói. Thọ mệnh dài, trị vì lâu đều có lý do cả. Dân chúng dưới sự cai trị của các vị thần tự nhiên được bình an. Hơn nữa người xưa tâm thanh tịnh, ít ham muốn, thiên hạ thái bình. 3. Những vị hoàng đế về sau tham dục nhiều, càng ngày càng hoang đường, chiến loạn cũng nhiều, như người ta thường nói "lòng người không còn như xưa", không còn thanh tịnh ít ham muốn, vì thế những vị hoàng đế này tại vị không lâu, thọ mệnh cũng ngắn ngủi. Những vị hoàng đế này đều là phàm phu tục tử, không còn là thần nhân đại đế nữa. Dân chúng đương nhiên gặp nạn! (Về việc Lương Vũ Đế chết đói ở đài thành, thiền sư Chí Công đã giải thích rõ nhân quả của Lương Vũ Đế rồi, ở đây không cần nhắc lại.) 4. Đường Cao Tông Lý Uyên từng bức hại tăng ni khắp thiên hạ. Thực ra không chỉ riêng Lý Uyên, trong lịch sử Trung Quốc, Phật giáo đã trải qua "Tam Võ Nhất Tông pháp nạn". Chỉ cần hoàng đế sùng tín một tôn giáo nào đó là Phật giáo liền bị đàn áp, chùa chiền bị phá hủy, tăng ni bị giải tán, pháp nạn xảy ra rất nhiều. Tôi nói: Phật giáo bị tiêu diệt ở Ấn Độ, nhưng quốc gia Ấn Độ thế nào? Vẫn cứ y như vậy, chẳng phải giàu có thái bình gì. Phật giáo bị tiêu diệt ở Afghanistan, ngay cả di sản văn hóa cổ đại là tượng Phật khổng lồ cũng bị phá hủy, vậy quốc gia Afghanistan thế nào? Vẫn cứ lầm than khốn khổ! 5. Khổng Tử nói "Kính quỷ thần nhưng nên giữ khoảng cách". So sánh của Hàn Dũ không hợp logic, thứ nhất xá lợi Phật không phải là quỷ thần, Phật và Phật giáo không phải là quỷ thần, điều này khác với mê tín quỷ thần. Phật là bậc giác ngộ, tự giác và giác tha, là bậc đại thánh nhân có giác hành viên mãn. Giáo hóa của Phật là chân lý nhập thế và xuất thế, không phải mê tín quỷ thần. Phật đề xướng từ bi bình đẳng. Phật pháp rộng lớn như biển, không phải chỉ là quỷ thần đơn thuần. Trí tuệ của Phật là vô thượng chính đẳng chính giác, gọi là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Còn có nhất thiết chủng trí, đó chính là bát nhã. 6. "Ném xuống nước hay vào lửa, vĩnh viễn diệt tận gốc rễ, dứt mối nghi ngờ trong thiên hạ, chấm dứt họa cho đời sau." Tôi nói: Xá lợi Phật là một loại vật kỷ niệm, tỏ lòng tôn kính và biết ơn là được, việc ném xuống nước hay vào lửa chỉ là thổi phồng vấn đề lên thôi. Tin Phật không có gì phải nghi ngờ. Tin Phật không có tai họa gì. Há chẳng nghe Thái Thượng có nói: "Họa phúc không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy."
Trong thế giới Ta Bà này, trí tuệ chân thật của Đức Phật là sự thấu hiểu thấu đáo nhất về thực tướng các pháp. Nếu người đời không tu trì "con đường giải thoát" hay "con đường bồ đề" của Phật pháp, dù có sống đến trăm tuổi, tôi cũng không biết ý nghĩa là gì?
Trong lúc thần hành, tôi thấy chúng sinh đảnh lễ "xá lợi ngón tay Phật" một cách thành kính, trong lòng vô cùng xúc động. Thậm chí có người đảnh lễ đến tận đêm khuya, từ đêm khuya đến sáng sớm, rồi từ sáng sớm đến đêm khuya, khi cổng chùa đóng lại, họ vẫn quỳ ngoài cổng chùa, hướng vào bên trong đảnh lễ.
Tôi còn thấy các âm hồn quỷ thần cũng đến lễ bái, có kẻ thật lòng lễ bái, có kẻ đến tham gia cho vui, thậm chí còn ồn ào náo động. Nhìn kỹ mới biết, họ đang tranh giành, tranh thứ bậc, tranh cúng phẩm, giành giật thức ăn. Thờ phụng "xá lợi ngón tay Phật" tất nhiên có rất nhiều cúng phẩm: hương, hoa, đèn, trà, quả... Đám quỷ thần cũng đến tranh giành cúng phẩm. Nhìn thấy cảnh này, tôi không khỏi thở dài!
Thấy một vị tiên cổ cũng đến. Tôi hỏi: "Hàn Dũ đâu?" "Ông ta vẫn còn ở Triều Châu!" "Lịch sử đã trôi qua lâu như vậy, sao ông ấy vẫn còn ở Triều Châu?" Vị tiên cổ nói: "Năm đó Hoàng đế Lý Thuần xem tấu chương phản đối xá lợi Phật, nổi giận lôi đình, định giết Hàn Dũ, may nhờ các đại thần Bùi Độ, Thôi Quần và những người khác bảo vệ, nên ông ta chỉ bị đày đến làm Thứ sử ở vùng biên viễn Triều Châu thuộc Quảng Đông, cả đời không được toại nguyện. Hàn Dũ là mẫu người trung thành một cách mù quáng, nếu hoàng đế không cho về, ông ta sẽ ở mãi nơi đó, chết cũng ở đó!" "Lâu đến thế sao?" "Một niệm ba nghìn, thời gian trôi nhanh, cũng chỉ là trong chớp mắt!" "Con người làm sao được độ hóa?" Vị tiên cổ đáp: "Muốn được giải thoát, chứng bồ đề, tôi cho rằng có ba nguyên tắc lớn." "Ba nguyên tắc gì?" - Tôi hỏi. "Thứ nhất phải thật sự có duyên gặp được bậc thiện tri thức. Thứ hai phải lấy việc thoát khỏi sinh tử làm tâm niệm. Thứ ba phải buông bỏ hoàn toàn mọi danh lợi hư ảo của thế gian. Như vậy mới được coi là người học Phật chân chính." Tôi hỏi: "Ai là bậc thiện tri thức?" Vị tiên cổ cười lớn: "Xa tận chân trời, gần ngay trước mắt."
08. Tam muội "nửa chết"
Ở phần đầu của bài viết, một số chương trước đều được viết là "trong thần hành". Thần hành của tôi quả thật rất kỳ diệu, tôi tự gọi đó là "tam muội nửa chết". Tôi cho rằng: Chết hoàn toàn - là thật sự nhập niết bàn viên tịch, thân xác tiêu diệt. Chết nhỏ - là giấc ngủ (ngủ say không còn nhận thức). Chết một nửa - là thần hành.
Tôi thể nghiệm được hương vị của "tam muội nửa chết", rất giống như một trạng thái hấp hối, khi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xung quanh đột ngột thu nhỏ lại, pháp giới nơi mình đang hiện hữu chỉ một niệm là đến.
Tôi hoàn toàn an trú giữa "hữu niệm" và "vô niệm", nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với "pháp giới". Những gì không có duyên đều trốn tránh xa lánh, còn những gì hữu duyên dù xa nghìn dặm vạn dặm cũng chỉ một niệm là đến được, niệm này tùy theo tự nhiên biến hóa.
Niệm chính là ta, ta chính là niệm, đối diện với nhiều hiện tượng, vừa chân thật vừa hư ảo, chẳng phải có cũng chẳng phải không.
Có người nói, đây có thể là hiện tượng của thân trung ấm, có người nói đây là hiện tượng xuất nguyên thần, có người nói đây là hiện tượng của thần thức. Dù nói thế nào đi nữa, có lúc thì sinh lực dồi dào, có lúc lại cảm thấy nặng nề bất lực. Cảm giác bất lực này xuất hiện khi tôi không thể độ được chúng sinh, những huyễn tượng kinh hoàng, những nỗi kinh sợ vây quanh.
Khi tôi kiệt sức, khi tôi bị hiểu lầm, khi tôi cảm thấy cuộc đời quá hư ảo, khi tôi đánh mất cảm giác về giá trị bản thân và những thành tựu rực rỡ, khi người đời không còn hiểu đúng về mình, trong thần hành tôi cũng cảm thấy mất mát như vậy.
Thần hành là một trải nghiệm tâm linh đặc biệt, rất gần với trạng thái thiền định. Trong thần hành tôi đã viết nên "Độ qua biển sinh tử", sắc thân tôi bất đắc dĩ trở nên mơ hồ, nửa sống nửa chết, chốc lát không thể thích ứng được.
Cả đời này, tôi tu hành thực sự, nhưng không phải là hành giả cứng nhắc, tôi tu trì Mật pháp rộng lớn, không giới hạn trong một tông một phái, tôi thật sự không nói dối, tôi có nội hàm thực tu, lòng tin của tôi không phải là mù quáng.
Tu tập đến mức tài, sắc, danh, ăn, ngủ - năm dục đều hóa thành không. Thân không. Tâm không. Pháp không. Tính không. Thần hành của tôi đạt đến mười pháp giới, vô lượng cõi Phật tịnh thổ........
Trang Tử nói: "Không ăn ngũ cốc, hít gió uống sương, cưỡi mây khí, lái rồng bay, mà du ngoạn ngoài bốn biển." Khuất Nguyên nói: "Ăn khí trời uống sương đêm, súc miệng bằng dương khí ngậm ánh bình minh, giữ thần minh trong sạch, tinh khí vào thô trược ra, hút nước suối tinh khiết, ôm ấp ngọc quý tinh anh, dung nhan như ngọc tươi tắn, tinh thuần khởi sắc." Thần hành của tôi cũng là: Vô vi. Thanh tịnh. Thành tựu.
Nếu nói đến vô vi, đúng vậy, ẩn cư bế quan ở hồ Diệp Tử, chỉ thấy màu xanh rồi vàng, vàng rồi xanh trên núi, năm tháng trôi qua, đó thật sự là vô vi. Nếu nói đến thanh tịnh, cũng đúng vậy, không qua lại với người đời, phải trái thành bại đều trở thành không, quả thật đã đạt đến cực điểm của thanh tịnh. Còn về thành tựu thì chỉ được chút ít, có cảm giác bất lực.
Ví dụ: Trong thần hành, tôi vào thành Chết Oan, du hóa trong thành, thấy trong đám ma chết oan có một đệ tử ngày xưa, trông rất đáng thương. Tôi muốn đến gần để độ hóa anh ta, nào ngờ khi tôi đến bên cạnh, anh ta hoàn toàn không đếm xỉa gì đến tôi. Tôi đến từ phía Đông, anh ta quay về phía Tây. Tôi đến từ phía Nam, anh ta quay về phía Bắc. Tôi bay lên không trung, anh ta cúi đầu xuống, không thèm để ý. Tôi chui lên từ dưới đất. Anh ta mắng tôi: "Lư Thắng Ngạn, ông có thành tựu gì mà dám đến đây nhục mạ tôi!" "Sao anh không niệm Phật trì chú?" "Lư Thắng Ngạn, tôi không cần sự thương hại của ông, cũng chẳng màng đến việc độ hóa của ông, mấy trò tiểu xảo của ông tôi đã thấy nhiều rồi, chẳng có gì!" "Anh không về Maha Song Liên Trì sao?" "Không, thành Chết Oan còn tốt hơn bất kì cảnh giới nào, ở đây ai cũng như ai, chẳng lẽ không phải bình đẳng, đây mới là bình đẳng thật." "Ông không tin Phật độ chúng sinh sao?" "Không tin."
Tôi thở dài: "Dù cửa Phật rộng mở, cũng không độ được người vô duyên!" Tôi định đưa tay gia trì cho anh ta, anh ta nhổ nước bọt. Tôi lặng lẽ rời đi, lòng vô cùng đau buồn.
Viết một bài kệ: Pháp giới mười phương như lòng bàn tay. Nói là thành tựu chưa hẳn đã thành. Nhìn lại khách trong thành phố Chết Oan. Vô duyên muốn độ chỉ là lời suông.
Lại một ví dụ nữa: Tôi thần hành đến một pháp giới tên là nước Hắc Tử. Vì sao gọi là Hắc Tử? Chỉ vì nơi này tối đen một màu, có thể nói là giơ tay không thấy ngón, nên gọi là Hắc. Còn vì sao gọi là Tử? Vì người ở cõi này, một khi chết là dứt hẳn, tất cả đều nằm như xác chết, không một ai còn sống, không còn ý thức, nên gọi là Tử.
Lòng bàn tay tôi tỏa sáng, soi thấy chúng sinh ở nước Hắc Tử nằm la liệt khắp nơi. Tôi vô cùng kinh hãi. Tôi nghĩ, bàn tay tôi có thể phóng ra ánh sáng, đưa tay ra có thể gia trì cho chúng sinh ở nước Hắc Tử, ánh sáng từ lòng bàn tay tôi rất mạnh mẽ, có thể chiếu vào tâm chúng sinh, tạo nên pháp lực vĩnh hằng, đây là quán đảnh của Mật giáo, cũng là gia trì của Mật giáo.
Tôi hy vọng sức mạnh gia trì có thể hòa hợp với chúng sinh được gia trì. Ánh sáng từ lòng bàn tay tôi đã gia trì cho vài người, nhưng phát hiện chúng sinh ở nước Hắc Tử vẫn không hề cử động, vẫn nằm như xác chết, không có một chút dấu hiệu siêu thoát nào. Tôi khóc.
Một vị Như Lai hiện thân nói với tôi: "Chúng sinh ở nước Hắc Tử là những kẻ thật sự đã chết đen. Sau khi con người mất đi, nơi họ đến sẽ được quyết định bởi ba yếu tố: 'Tùy nghiệp, tùy tập, tùy niệm'. Nhưng chúng sinh ở nước Hắc Tử đã đoạn nghiệp, lại đoạn tập, đồng thời cũng đoạn mất niệm vãng sinh, cho nên giữa sống chết như tơ đứt, thật sự một chết là hết, lập tức đến nước Hắc Tử, vĩnh viễn không sinh. Đây cũng là một trong lục sư ngoại đạo, không nghiệp, không tập, không niệm, không bồ đề tâm, đó chính là nước Hắc Tử vậy." "Có cứu được không?" "Không." - Như Lai ẩn đi.
Đến đây tôi tuyệt vọng, cảm thấy bất lực, vì vậy, tôi khuyên các hành giả, phải phát bồ đề tâm, chỉ có bồ đề tâm mới có thể được cứu độ.
09. Năm suy hoại của thiên nhân
Trong thần hành. Tôi thấy hai thiên nữ đến gần, dù họ có dung mạo tuyệt trần nhưng vẻ mặt lại rất hoảng sợ, cả giọng nói cũng run rẩy: "Thưa người thần hành, xin dừng bước, cho phép chúng tôi hỏi." Tôi dừng lại: "Có chuyện gì?" "Xin hỏi có phải ngài là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn?" "Đúng vậy." "Chủ nhân chúng tôi kính mời Hoạt Phật quang lâm!" - Hai vị thiên nữ lúc này mới hơi mỉm cười. Tôi hỏi: "Chủ nhân các người là ai? Sao biết tôi là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn?" Hai vị thiên nữ đáp: "Chủ nhân chúng tôi được cổ Phật báo mộng, nói rằng những ngày này sẽ có Liên Sinh Hoạt Phật đi qua đây, người cần giữ ngài lại, nhờ ánh sáng từ lòng bàn tay của ngài gia trì quán đảnh thì sẽ được cứu độ. Vì thế chủ nhân sai chúng tôi đến đây chờ đón thánh giá." "Ồ! Thì ra là vậy!"
Tôi theo hai thiên nữ đến một nơi, có lầu rồng gác phượng, có hạc trắng chim tiên, có hoa lạ cỏ quý, đúng là cảnh đẹp trên thiên giới. Hai vị thiên nữ dẫn tôi đến gặp chủ nhân của họ. Nhìn thấy chủ nhân, tôi vô cùng kinh ngạc.
Hóa ra đó chính là năm suy hoại của thiên nhân, ánh hào quang trên thân đã mất, mùi hương trên thân đã mất, hoa trên thân đã héo tàn, thiên y đã bị ố bẩn, pháp tòa giường vàng không thể ngồi nằm được nữa, toàn thân hoàn toàn không ổn.
Vị thiên chủ trước mặt, tóc bạc xơ xác, mồ hôi hôi thối tuôn ra, toàn thân uể oải không còn sức lực, nước mắt chảy dài, không còn chút sinh khí. Ôi! Phúc báo đã hết, nghiệp chướng hiện tiền, năm suy hoại của thiên nhân, thật chẳng khác gì kẻ bệnh hoạn! Tôi nói: "Ngài bị bệnh rồi!" "Vâng." - Thiên chủ đáp, giọng nói không còn êm tai nữa, thật là đau khổ trùng trùng.
Từ lâu tôi đã biết khi phúc báo của thiên nhân hưởng hết, năm tướng suy hoại sẽ hiện ra. Giờ đây tận mắt chứng kiến, quả thật giống như người bệnh, da nhăn tóc bạc, ngồi đứng không yên, sắc mặt xanh xao ảm đạm, không biết phải làm sao?
Gió trời rõ ràng dễ chịu, vậy mà lại thấu xương thê lương! Gió trời chỉ hơi ấm, nhưng lại nóng bức kêu khổ! Tôi nhìn thấy thật vô cùng kinh ngạc.
Thiên chủ nói: "Cầu xin Hoạt Phật cứu tôi! Tôi hoàn toàn kiệt sức rồi." "Cứu bằng cách nào?" "Quán đảnh gia trì, đó là lời cổ Phật dạy." Tôi nói: "Ông hãy quy y Kim cương Thượng sư, quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng. Ông hãy sám hối vì ở cõi trời chỉ biết hưởng lạc, không phát bồ đề tâm, ông phải tinh tấn cầu giải thoát, đạt được Pháp thân rốt ráo." "Làm như thế nào?" "Không rời một niệm. Thực hành sáu ba la mật, nhập Bồ Tát địa." Thiên chủ khẩn khoản: "Nhất định tuân theo!"
Các thị giả của thiên chủ, cùng nhiều thiên nữ đồng thời quỳ xuống, khẩn cầu: "Kính thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn mau cứu chủ nhân chúng tôi."
Tôi đưa bàn tay phải ra, trong lòng bàn tay có ánh sáng của chư Phật mười phương ba đời, chư Bồ Tát Ma Ha Tát tụ lại, ánh sáng từ bàn tay tôi là chữ "Om" (chữ Phạn), lực quán đảnh gia trì dẫn vào trong thân thiên sắc của thiên chủ, lan tỏa khắp thân.
Một niệm của thiên chủ cũng rất phối hợp, mỗi niệm đều thấu suốt, dung nhiếp, giao thoa lẫn nhau, không hề chướng ngại. Hóa ra thiên chủ vốn có phúc báo lớn, chỉ vì phúc báo đã hết, năm tướng suy của thiên nhân hiện ra, nếu không có người cứu độ, ắt sẽ đọa lạc.
May mắn thay, nhờ cổ Phật chỉ điểm, tôi lại quán đảnh gia trì, thiên chủ vốn có duyên với Bà Tu Mật Nữ, Vô Yếm Túc Thiên Vương, Thắng Nhiệt Bà La Môn, nên vừa điểm liền thông. Điều thật không thể nghĩ bàn là: Vòng hoa héo úa sống lại. Thân ánh sáng rực rỡ. Thiên y tự khử sạch bụi bẩn. Hương thơm lan tỏa. Pháp tòa giường vàng có thể tự tại ngồi nằm. Tôi nói: "Phật pháp trước tiên hiển thị tạng tính, làm sáng tỏ nhân thật của thành Phật, kế đến chọn lựa viên thông, chỉ ra diệu hạnh của thành Phật, sau đó trải qua sáu mươi thánh vị, viên mãn bồ đề, quy về vô sở đắc, chứng quả tột cùng của Phật địa. Ngược lại thì bảy nẻo trầm luân, nếu hướng đến đây thì thấy rõ năm ma quấy nhiễu." Thiên chủ và thị nữ đều tán thành.
Tôi nói: "Quán đảnh gia trì chỉ là tạm thời, ngài cần phải tự mình nhất tâm tu trì, tích tụ vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức, như vậy mới là đúng đắn, để cho sức mạnh của mình có thể thu phát tự tại, những năng lực này vốn đã tồn tại sẵn." Thiên chủ và các thị nữ thiên nữ, ai ai cũng đều tán thành.
Hào quang của thiên chủ, trong một sát-na, trong một niệm, hoàn toàn phục hồi. Cõi trời này trở nên rực rỡ chói lọi, vàng ngọc huy hoàng đến tột đỉnh. Trong hư không như đế võng minh châu, cũng như những chuỗi pháo hoa nối tiếp, từng tầng từng tầng, tỏa ra khắp tám phương, vô số sắc màu như cầu vồng, rực rỡ tràn ngập bầu trời, khắp nơi kỳ hoa dị thảo đều nở rộ, đua nhau khoe sắc.
Cõi trời này tràn ngập niềm vui, âm nhạc thiên giới vang vọng khắp nơi, hương thơm lan tỏa, cam lộ tiên tương từ cõi trời tuôn chảy vô tận, loại cam lộ tiên tương này lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn, như dòng suối chảy mãi không ngừng.
Phúc báo của thiên chủ vốn đã được tích lũy, ông ấy đã làm thiên chủ một nghìn năm, chỉ vì nghiệp chướng hiện tiền nên mới xuất hiện tướng suy. Giờ đây chư Phật mười phương ba đời, chư Bồ Tát Ma Ha Tát, lại khai mở kho tàng của ông ấy, vốn dĩ đó là năng lực của chính ông ấy, tôi chỉ dùng bàn tay mở khóa mà thôi. Chỉ cần ông ấy phát tâm bồ đề, ý thức tỉnh giác, là có thể tu trì quả vị Bồ Tát, thành tựu mười ba la mật.
Tôi lặng lẽ một mình rời khỏi cõi trời này. Nhưng, một thiên nữ phát hiện ra, thiên nữ nói: "Thánh giả Hoạt Phật, chúng con vô cùng cảm ơn, sao ngài không ở lại cõi trời này, hưởng thụ tất cả?" Lòng tôi buồn bã, đáp: "Tôi còn việc khác chưa xong." "Ngài đi rồi, có lời dạy gì cho thiên chủ và mọi người không?"
Tôi ngâm một bài kệ: Khai ngộ rồi chớ bảo thôi thấy Phật Phải biết khai ngộ rồi thì mới vãng sinh Trẻ thơ không thể rời thầy học Con nhỏ cần có mẹ ở bên Phải nên khổ nhiều mới biết tu Nếu chỉ hưởng lạc sao thành tựu Vô sinh, chân như chứng đắc rồi Quay về Ta Bà độ hữu tình.
Thiên nữ nghe xong bài kệ này, ghi nhớ thật kỹ, quay về báo lại với thiên chủ. Tôi một mình thần hành đi nơi khác.
10. Thần hành nơi sơn hà đại địa
Trong thần hành. Lần này không phải đến một pháp giới nào, mà là ở trên sơn hà đại địa của thế giới Ta Bà. Nghề nghiệp ban đầu của tôi là nhân viên đo đạc, tôi học ngành Trắc lượng ở đại học, nên đã từng thấy và đo đạc rất nhiều danh sơn đại xuyên. Thực ra sơn hà đại địa của thế giới Ta Bà thật sự rất đẹp, nếu không đẹp thì thuở ban đầu, Quang Âm thiên nhân đã không hạ giới xuống nhân gian. Sông ngòi nhân gian tự nhiên uốn khúc chín khúc. Núi non nhân gian tự nhiên trập trùng nhấp nhô.
Từ Nam cực đến Bắc cực, mặt trời mặt trăng và các vì sao, thủy triều lên xuống, bốn mùa thay đổi, mây trời biến hóa, các luồng khí - tất cả đều vô cùng huyền diệu. Tôi nhận ra rằng hiện tượng vật chất thể hiện ra bên ngoài, nhưng bên trong là trường năng lượng. Ví dụ: Trái đất tự quay và di chuyển theo quỹ đạo xung quanh mặt trời. Từ trường của mặt trăng ảnh hưởng đến trái đất. Núi sông nuôi dưỡng con người. Trong sơn hà đại địa cũng có từ trường.
Bản thân tôi ngoài là nhân viên đo đạc, còn nghiên cứu về phong thủy. Cần biết rằng trái đất được tạo thành từ địa luân, thủy luân, hỏa luân, phong luân. Con người cũng được tạo thành từ đất, nước, lửa, gió. Con người và trái đất có mối liên hệ mật thiết, con người và phong thủy có mối liên hệ mật thiết. Tôi biết rằng hang động tu hành của Tổ sư Naropa và hang động tu hành của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đều không tách rời khỏi phong thủy. Tất nhiên phong thủy và tu hành không thể tách rời, nhưng "đất phúc người phúc ở", chắc chắn có liên quan đến phúc báo.
Tôi nói: Ở những nơi nắng nóng oi bức sẽ có cây dừa. Ở những vùng sa mạc hoang vu sẽ có dầu mỏ. Khi tôi thần hành trên sơn hà đại địa tươi đẹp, có rất nhiều cảm xúc dâng trào. Trái đất vốn là một đạo tràng rất tốt để tu hành, có thể tu tập để đạt được chân như, từ bi, bồ đề và hạnh phúc. Nhưng con người không biết trân quý, lại để xảy ra bạo lực, tham lam, lừa đảo và tội ác. Vi phạm lời dạy chính pháp của Đức Phật: Không làm các điều ác. Làm tất cả việc lành. Giữ tâm ý trong sạch. Đó là lời Phật dạy. Sơn hà đại địa tươi đẹp thế này, vậy mà lại có chiến tranh, kiếp đao binh, kiếp thủy hỏa, kiếp phong thổ, kiếp dịch bệnh, đại tam tai, tiểu tam tai...
Sơn hà đại địa này đã phủ đầy bụi bặm! Linh khí đã không còn, sơn hà đại địa bị tổn hại nghiêm trọng, thiên nhiên đã thay đổi, khắp nơi đều lỗ chỗ thương tích, khiến người tu hành tràn ngập cảm giác thất vọng, phải chịu nhiều thử thách hơn. Con người với nhau lẽ nào phải như vậy sao?
Trong quá trình hoằng pháp thời kỳ đầu, những tổn thương và phỉ báng từ người khác rất nặng nề, lúc đó tôi còn trẻ, cũng từng nhất nhất phản bác lại. Sau này trải qua một thời gian tu trì, dù người khác có làm tổn thương tôi thế nào, tôi vẫn tu nhẫn nhục, không nỡ làm tổn thương người khác nữa, tâm đã trở nên nhu hòa, tràn đầy từ bi và quan tâm, tự nhiên nhập vào vô tranh tam muội, không dám nói lời thô lỗ, ác độc, cay nghiệt. Tôi một lòng chỉ muốn hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, gieo rắc hạt giống Phật pháp trong nhân gian. Tôi xuất gia là để cứu chúng sinh thoát khổ được vui, vì không nỡ thấy chúng sinh khổ, làm sao tôi có thể sân hận với chúng sinh được?
Khi đang thần hành trên sơn hà đại địa. Tôi thấy ở phương Đông Nam có yêu khí. Tôi biết rằng sơn hà đại địa ở phương Đông Nam sẽ có tai kiếp! Với tâm từ bi, tại phương Tốn của "thiên địa lôi phong trạch thủy hỏa sơn", tôi hít một hơi, muốn thổi lên một cơn gió thần để xua tan yêu khí.
Ngay khi đang hít vào. Từ phương Đông Nam xuất hiện ba vị thánh: "Không được, không được, Liên Sinh, Liên Sinh, không được đâu!" Tôi cúi đầu làm lễ với ba vị thánh: "Tại sao vậy?" "Đó là kiếp số!" "Tôi là hành giả, chính vì không nỡ thấy chúng sinh khổ, muốn trừ kiếp số cho chúng sinh! Đó mới là lòng từ bi." - Tôi nói: "Chúng sinh gặp khổ nạn, ba vị thánh không cứu, liệu có hợp lý không? Không trái với việc tu hành sao?" Ba vị thánh nói: "Đó là cộng nghiệp!" Ba vị thánh chỉ cho tôi thấy, trên sơn hà đại địa cắm đầy cờ hiệu, ý chỉ rằng đây là "ý trời". Tôi vô cùng kinh hãi.
Trên thế gian này, có quá nhiều người vi phạm lương tâm, quá nhiều kẻ giết chóc cướp bóc lừa gạt, quá nhiều người mang lòng xấu xa, tạo nên nghiệp chướng chung, thiên tai nhân họa sắp giáng xuống, mà người đời vẫn còn đang mơ mộng!
Đa số mọi người chẳng bao giờ tu hành, chỉ biết ăn uống và sống, cơm áo nhà cửa đi lại giáo dục giải trí, tranh giành lẫn nhau. Khiến xã hội rối loạn, quốc gia xung đột, gia đình tan vỡ, dục vọng vô tận, quay lưng với giác ngộ, hòa mình vào trần tục, thiên tai nhân họa ắt đến!
Tôi thở dài! Nước mắt tôi tuôn trào không ngừng! Rơi đẫm mặt. Tôi chắp tay vái chào ba vị thánh. Ba vị thánh ẩn đi.
Tôi nhớ rằng năm xưa, Diêu Trì Kim Mẫu đã dẫn tôi đến xem một hồ nước, trong hồ hiện ra tương lai của tôi và tương lai của sơn hà đại địa. Điều khiến tôi kinh hãi là tương lai của tôi đầy rẫy ma chướng, tương lai của sơn hà đại địa cũng đầy rẫy ma chướng, thiên tai nhân họa chỉ là một phần trong đó, nhưng đã khiến tôi vô cùng đau khổ. Tai họa của nhân gian, sao mà bất hạnh đến thế! Biết bao nhiêu người chết trong bàn tay tử thần.
Đây thật là một đại họa! Sống chết có mệnh. Phú quý tại trời.
Chúng sinh trên thế gian nên sám hối rồi, cần phát khởi tâm hổ thẹn lớn, tâm kinh sợ, tâm chán lìa, tâm bồ đề, tâm oán thân bình đẳng, tâm niệm Phật báo ân, tâm quán tội tính Không.
Chúng sinh trên thế gian không nên tích lũy của cải thế gian nữa, được thứ ở dưới đất ắt mất thứ ở trên trời, thứ thực sự cần tích lũy là "của cải thánh giới": Của cải đức tin. Của cải tinh tấn. Của cải giữ giới. Của cải hổ thẹn. Của cải học pháp xả ly. Của cải nhẫn nhục. Của cải định huệ.Phải tin tưởng vào Chân Phật Mật Pháp, nếu nghi ngờ thì không thể tu trì được, Chân Phật Mật Pháp thực sự có thể đưa bạn đến bờ bên kia, đó là điều tôi đã chứng đắc, tôi có thể đảm bảo chắc chắn, tất cả đều rất hoàn thiện. Nếu bạn có hoài nghi, nhất định không thể thành việc, đương nhiên sẽ cản trở việc tu hành của bạn.
Nếu bạn không tin lời tôi nói, vậy hãy tu Tịnh độ đi! Bạn không tin tôi, ít nhất cũng hãy tin lời Đức Phật đã dạy, nương theo việc nhất tâm niệm Phật, thân tâm về Cực Lạc, chân không diệu hữu chứng vô sinh!
11. Công đức thần hành
Trong lúc thần hành. Tôi gặp một người cũng đang thần hành, thế là tôi có thêm bạn đồng hành. Trên đầu người này có ba ngọn đèn, nhờ những ngọn đèn thần này mà trong lúc thần hành, ánh sáng chiếu khắp nơi, ánh sáng này có thể phá tan bóng tối, thật kỳ diệu vô cùng. Tôi hỏi người đó: "Tại sao trên đầu có ba ngọn đèn thần?" Đáp: "Là thiện trụ công đức." Tôi lại hỏi: "Ngài thiện trụ công đức như thế nào?" Vị thánh đáp: "Tôi có thể khiến người đói được no, người bệnh được lành, chúng sinh tăng trưởng phúc huệ, vì vậy mới có ba ngọn đèn thần này." Nghe xong tôi vô cùng khâm phục. Có được ba điều này đã quá đủ rồi.
Vị thánh nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, công đức thần hành của ngài cũng rất vĩ đại! Tại sao ngài còn phải ngưỡng mộ tôi?" Tôi nói: "Thật sự tôi chẳng có công đức gì! Trong lòng tôi vô cùng hổ thẹn. Tôi đến cõi Ta Bà này, như lời Phật dạy, chỉ là để trả nghiệp, đền nghiệp mà thôi. Tôi tự thấy nghiệp chướng rất nặng, tai kiếp chồng chất, bản thân sắp chìm đắm không ngoi lên được, chẳng có khả năng độ hóa chúng sinh, làm gì có công đức gì? Xấu hổ đến chết đi được."
Nghĩ đến rất nhiều hội công đức ở thế gian, những việc thiện và nghĩa cử của họ được mọi người ca ngợi, người có phúc báu càng lớn thì công đức càng lớn, người có phúc báu nhỏ thì công đức càng nhỏ. So sánh như vậy, công đức chẳng phải là phúc báu sao? Đây lại là nhân quả.
Người như tôi, cả đời đi lảo đảo vấp ngã, va vấp đến thâm tím mặt mày, lo cho bản thân còn chưa xong, nghiệp đời trước, nghiệp hiện tại, nghiệp tương lai của tôi, lý giải còn chưa xong, làm sao có thể chấp trước vào công đức? Tôi chỉ có thể tự vấn lương tâm, bản thân đã tạo bao nhiêu nghiệp chướng, làm sao còn nghĩ đến chuyện có công đức gì?
Tôi cũng đã nghĩ: Kinh Kim Cang dạy: "Người tự nói có công đức chính là không có công đức. Bởi vì không có công đức mới thực sự là công đức." Tôi cười gượng với vị thánh.
Bất chợt, trên đỉnh đầu tôi cũng hiện ra ba ngọn đèn thần. Vị thánh nói: "Một ngọn là chân thật, một ngọn là thành tâm, ngọn còn lại là tinh tấn. Công đức là thứ cầu cũng không cầu được, chỉ ở trong tâm mà thôi!" "Sao tôi cũng có ba ngọn đèn thần?" - Tôi tự thấy kinh ngạc. Vị thánh nói: "Hành vi của ngài thể hiện tâm niệm của chính mình, tâm niệm của ngài rất chân thật, không phải tâm xấu xa, ngài luôn ôm lòng từ bi chân thật, vì vậy có được một ngọn đèn thần, ngọn đèn thần thứ nhất này chính là chân thật." Vị thánh lại nói: "Khi ngài gặp người ác hay người tâm niệm không tốt, họ tạo nghiệp ác, nhận quả báo xấu, ngài vẫn luôn bình đẳng cứu độ, không phân biệt người có thể độ hay không thể độ. Phát nguyện không bỏ một chúng sinh nào, ngay cả súc sinh đang chịu nghiệp báo, ngài cũng gấp rút niệm chú vãng sinh, hoặc niệm vãng sinh tịnh thổ, siêu sinh tịnh thổ, Nam Mô A Di Đà Phật. Đối với bất kì chúng sinh nào, ngài đều bình đẳng cứu độ, ngọn đèn thần thứ hai này của ngài, chính là ngọn đèn của lòng thành." Sau cùng, vị thánh nói: "Ngọn đèn thần thứ ba chính là ngọn đèn tinh tấn. Ngài tu pháp vĩnh hằng vô tận, ngài viết sách độ chúng sinh cũng vĩnh hằng vô tận, chưa từng thay đổi, cũng không ngừng nghỉ, người có nghị lực như vậy trên đời đã hiếm thấy rồi. Người chân tu, người nguyện hành chân thành, người tinh tấn tu hành, trong ma kiếp trùng trùng, tâm chí như vậy rất hiếm thấy, hơn nữa đã từ bỏ hết mọi hưởng thụ vật chất, tài, sắc, danh, ăn, ngủ, hoàn toàn cắt bỏ, càng nhiều khó khăn càng tinh tấn, đây mới thực sự là học Phật tu hành, đây chính là ngọn đèn thần thứ ba."
Tôi nói với vị thánh: "Tôi nghe rằng, công đức chính là hành thiện, từ bi cứu thế, bố thí tài vật, xây chùa cúng dường. Ruộng công đức là một trong ba ruộng phúc, cung kính cúng dường Tam Bảo Phật pháp tăng sẽ được vô lượng phúc báo. Lại nữa, hương công đức chính là giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương, năm hương công đức này có thể hiển hiện Pháp thân." Vị thánh nói: "Đúng vậy. Thần hành của ngài cũng có công đức!" "Thần hành thì có công đức gì?" - Tôi hỏi. Vị thánh nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài đã chịu đựng thuận nghịch cảnh, điều phục được tâm tính của mình. Khi gặp cảnh hay gặp duyên, đều chìa tay cứu đời độ người, lúc này tâm người nhu hòa thiện thuận, đồng trần hợp quang. Không phân biệt hữu tình hay vô tình, hữu duyên hay vô duyên, đồng thể bi tâm, động tĩnh hai tướng, khế hợp như như, đó chính là công đức thần hành." Nghe xong, tôi liền nói: "Hổ thẹn! Hổ thẹn! Tôi vô đức vô năng!"
Hai người. Sáu ngọn đèn thần. Thần hành trong hư không, thật đẹp biết bao.
Hai chúng tôi bay qua Đông Thắng Thần Châu (hình bán nguyệt), bay qua Nam Thiệm Bộ Châu (hình mặt người), bay qua Tây Ngưu Hạ Châu (hình tròn), bay qua Bắc Câu Lư Châu (hình vuông).
Hai người thần hành qua núi Tu Di, chính là núi Diệu Cao vậy. Núi được tạo thành từ bốn báu vật là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, nên gọi là "diệu". Tất cả các ngọn núi đều thấp hơn núi Diệu Cao, nên gọi là "cao". Núi cao tám vạn bốn nghìn do tuần, rộng tám vạn bốn nghìn do tuần, là vua của các núi.
Núi Tu Di này là trung tâm của một tiểu thế giới, hình núi trên dưới đều to, chỉ riêng phần giữa nhỏ. Tứ Thiên Vương ngự ở bốn mặt sườn núi, cõi trời Đao Lợi ở đỉnh núi, dưới chân núi có bảy lớp núi vàng, bảy lớp biển nước thơm bao quanh, bên ngoài bảy núi vàng là biển nước mặn, bên ngoài biển nước mặn là núi Đại Thiết Vi, bốn đại bộ châu nằm ở bốn phương của biển nước mặn.
Trên cõi trời Đao Lợi, chúng tôi không gặp Đao Lợi Thiên Chủ, mà là một người khác. Trên đỉnh đầu người này có hàng nghìn hàng vạn ngọn đèn thần, hai chúng tôi chỉ có sáu ngọn, vậy mà người này có vô số ngọn đèn không đếm xuể. Tôi kinh ngạc thốt lên: "Đế võng minh châu!" Vị thánh đáp: "Không phải, đó là sư phụ của tôi đến!" "Sư phụ ngài là ai?" "Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật."
Tôi rất ngạc nhiên, Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật này sao lại hiện thân ở cõi trời Đao Lợi? Vị thánh nói: "Không cần ngạc nhiên, tôi chính là hóa thân của Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật." - Vị thánh bay vào trong tâm của Bảo Vương Phật.
Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật bảo tôi ghi nhớ một bài kệ: Chí nhân dụng tâm. Thanh tịnh an nhiên. Dứt hết các duyên. Nay nói buông tâm. Duyên khắp tất cả. Nơi nào có duyên. Đều thấy Như Lai.
Trong thần hành, tại cõi trời Đao Lợi gặp được Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật, vì vậy tôi hết sức cẩn trọng, bởi bất kì một người thần hành, một thiện hữu nào, cũng có thể là đại Bồ Tát, là Phật chính giác, không thể khinh thường!
Trong Bảo Tính Luận có kệ rằng: Chư Phật trong hoa tàn. Vàng ròng trong phân uế. Kho báu trong lòng đất. Mầm non trong các quả. Áo rách cũ tơi tả. Bọc lấy tướng vàng ròng. Gái nghèo hèn xấu xí. Mang thai Chuyển Luân Vương. Trong khuôn đất cháy đen. Có tượng báu tuyệt diệu. Chúng sinh tham sân si. Và vọng tưởng phiền não. Trong cảnh trần lao ấy. Đều có ẩn Như Lai. Xuống tận ngục A Tỳ. Đều có thân Như Lai. Pháp chân như thanh tịnh. Gọi là thể Như Lai.
Có một lần tôi gặp một bà lão, trông rất xấu xí, mắt lồi tai dị dạng, miệng méo lưng gù, khi thần hành thì nhảy chân sáo, chỉ cách mặt cỏ khoảng một thước.
Tôi để ý quan sát bà lão, nhìn dáng vẻ nhiều nhất cũng chỉ là một tiểu thổ địa bà, mà thổ địa bà còn là tốt, có khi là dạ xoa, hoặc la sát nữ già, thậm chí có thể là ma quỷ. Tôi để ý bà ta, bà ta cũng để ý tôi. Bà lão trợn mắt quái dị cười "hì hì". Toàn thân dơ bẩn khác thường. Bà lão bỗng nhận ra tôi: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, chào ngài! Có dịp thì trò chuyện nhiều nhé!" Tôi không thèm để ý đến bà ta, trong lòng hơi khinh thường, chẳng muốn nói chuyện với bà lão chút nào.
Bà lão không để ý, cứ đi từng nhà từng nhà phát thuốc cho những người đang ngủ. Việc này là sao chứ, tại sao lại phát thuốc cho từng nhà trong làng vào lúc đêm khuya thế này, là làm việc thiện? Hay việc ác? Bà lão phát xong. Bay vút lên không trung, bỗng nhiên biến thành Quan Thế Âm Bồ Tát, một vị đại Bồ Tát. Ngài thường xuyên quan sát thế gian để tự do cứu khổ ban vui, người đời chỉ cần gọi danh hiệu Ngài là Ngài sẽ tìm theo âm thanh mà cứu khổ, địa vị vốn có của Ngài chính là Chính Pháp Minh Như Lai. Ngài cưỡi thiên long, toàn thân tỏa hào quang, trang nghiêm như Phật. Tôi thật xấu hổ! Tôi tán thán tướng đẹp trang nghiêm và công lao cứu độ chúng sinh của Quan Thế Âm Bồ Tát! Bồ Tát nói: "Trong làng này, ta hiện thân này." Trong lòng tôi thầm nghĩ: "Hổ thẹn! Hổ thẹn!"
12. Đau xót
Thần hành đến địa ngục Đại Gào Thét. Địa ngục Đại Gào Thét được gọi như vậy vì trong ngục quá khổ sở, những chúng sinh không chịu nổi muôn vàn cực hình trong địa ngục "kêu cha gọi mẹ", thảm thiết kêu gào, nên mới có tên là địa ngục Đại Gào Thét".
Nghe tiếng kêu thảm thiết, lòng tôi đau xót không nguôi! Địa ngục Đại Gào Thét là một cơn ác mộng khủng khiếp. Than ôi! Chúng sinh! Bụi về bụi, đất về đất. Nhưng thần thức về thần thức. Linh về linh.
Sinh tử luân hồi, không có điểm khởi đầu cũng chẳng có điểm kết thúc, nhân sinh quả, quả lại thành nhân, nghiệp báo này làm sao tính cho hết được? Làm sao tính? Ngay cả bậc thánh có túc mệnh thông cũng khó hiểu tường tận.
Tại địa ngục Đại Gào Thét, tôi thấy một đệ tử trẻ, mới hai mươi lăm tuổi, vừa tốt nghiệp đại học, phong độ tuấn tú, đã qua đời. Sau khi chết, không được vãng sinh Tây phương Cực Lạc, không được sinh lên các cõi trời, ngược lại, lại đọa vào tam đồ địa ngục, lòng tôi vô cùng đau xót! "Chết như thế nào?" - Tôi hỏi. "Ung thư máu." "Sao lại đọa vào địa ngục Đại Gào Thét? Anh là hành giả Chân Phật mà!" - Tôi nhận ra anh ta. "Mới quy y thôi." "Chú Tứ quy y có trì tụng chưa?" - Tôi hỏi. "Chưa ạ." "Tu pháp không?" "Chưa ạ."
Tôi biết rằng, thần thức chưa hề được nhận lực gia trì của quán đảnh, quy y chỉ là hư danh, thần thức chỉ bắt đầu nương tựa và nhận được sự gia trì của chư tôn khi bắt đầu tu trì, phải tự mình tu hành mới tạo được phúc báo và tiêu trừ nghiệp chướng. Giờ đây, không tu trì nên đọa vào địa ngục Đại Gào Thét, thật đáng thương thay! Đó là: Đạo vốn là đạo. Sinh tử giữa trời đất. Nuôi dưỡng vạn vật. Sinh không thể tránh. Tử cũng không thể tránh. Thánh nhân không thể đặt tên. ...............
Tôi hỏi: "Vì sao có nghiệp quả này?" Anh ta đáp: "Kiếp trước giết bậc thánh." Tôi vô cùng đau xót, thế thì thảm rồi. Đây là tội nặng nhất trong bảy nghịch tội. Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết hòa thượng, giết A Xà Lê. Anh ta nói: "Vị thánh đó là một vị A Xà Lê, con hiểu lầm ngài nên đã giết ngài. Lẽ ra con phải vào địa ngục Vô Gián, nhưng sau đó, nhờ quy y nên mới được chuyển xuống địa ngục Đại Gào Thét, dù vậy ở đây vẫn không chịu nổi." Anh ta nói thêm: "Đây là ngục thứ tư trong tám địa ngục nóng, những chúng sinh chịu khổ ở đây, khi không thể chịu đựng nổi, đều gào thét thảm thiết."
Tôi nhìn thấy: Viên sắt nóng bỏng bị ép nuốt vào. Khát cháy bị lửa thiêu đốt. Vạc đồng đun nóng thiêu thân. Khói lửa xộc thẳng vào mũi. Lòng tôi vô cùng đau xót! Quá khổ sở!
Đệ tử quỳ xuống, đảnh lễ tôi và cầu xin: "Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật đã thần hành đến đây, xin hãy cứu độ con thoát khỏi đại địa ngục này." Tôi hỏi anh ta: "Anh có biết không, nếu người muốn hiểu rõ, tam thế nhất thiết Phật, nên quán tính pháp giới, tất cả do tâm tạo." "Con không hiểu bài kệ này." - Anh ta đáp.
Tôi nói tiếp: "Anh có biết không, vãng sinh tịnh thổ, siêu sinh thoát khổ, tín nguyện mà làm, Nam Mô A Di Đà Phật." "Làm sao để tin tưởng và phát nguyện mà hành trì?" (Anh ta thậm chí không biết tin vào A Di Đà Phật và nguyện sinh về Tây phương.) Tôi lại nói: "Địa ngục Đại Gào Thét thuộc về hỏa ngục, anh phải học cách dùng lửa để tịnh tâm, dùng lửa để điều tính, dùng lửa để định không, dùng lửa để đạt chân tam muội." Anh ta đáp: "Con không biết."
Tôi lại dạy anh ta: "Chân đế của thần thức chính là phải liễu ngộ được đặc tính của tâm linh, dựa vào bản chất của địa, thủy, hỏa, phong để trừ bỏ tất cả phiền não và khổ đau. Chỉ cần tâm linh ngộ được tính không giải thoát, hòa nhập vào niềm hỷ lạc vô biên, thì có thể thoát khỏi mọi ràng buộc từ địa ngục lửa và đạt được tất cả sự giải thoát." "Con không hiểu được." Tôi dạy đệ tử: "Trừ bỏ dục vọng thì lửa sẽ tự kiểm soát. Giữ thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh thì lửa sẽ hóa thành mát mẻ. Cầu xin lực gia trì của A Di Đà Phật, tâm thức hướng về Tây phương, đạt được niềm hỷ lạc vãng sinh. Đạt được giải thoát rốt ráo để hồi hướng cứu độ chúng sinh, thành tựu đạo bồ đề. Tự tại không chấp trước vào sự vật thế gian, tự mình trở thành chủ tể của tam thân." (Những điều tôi nói đã đủ rõ ràng.)
Thật đáng tiếc, người đệ tử này vẫn còn ngọn lửa sân hận, anh ta tức giận vì tuổi còn quá trẻ đã mất mạng, tức giận về nghiệp báo, tức giận vị A Xà Lê, tức giận vì mất đi người yêu, tức giận... Anh ta không thể quán không, không thể thanh tịnh thân, khẩu, ý.
Tôi đặc biệt xin diện kiến Diêm Vương. Muốn cứu người đệ tử mới quy y này. Diêm Vương hỏi tôi: "Ông có biết nhân duyên của người đệ tử này không?" "Không biết, tôi chưa từng quán xét nhân duyên của anh ta." - Tôi thành thật đáp. Diêm Vương nói: "Anh ta đã phạm vào tội nặng nhất trong bảy nghịch tội, giết hại bậc thánh A Xà Lê, và vị thánh A Xà Lê kiếp trước không phải ai khác, chính là ngài, Liên Sinh Hoạt Phật!" Nghe xong, tôi suýt ngất đi.
Diêm Vương nói: "Ngài phát nguyện không bỏ một chúng sinh nào, hoàn toàn không có tâm phân biệt, bình đẳng cứu độ tất cả, đây cũng chính là nhân duyên khiến ngài đời đời kiếp kiếp gặp tai kiếp, duyên khởi là như vậy, biết làm sao đây!" Tôi lặng người. Tôi nói: "Đợi đến khi hết kiếp, tôi vẫn sẽ độ hóa anh ta!"
Tôi ngâm một bài kệ: Cùng tu tam muội độ người mê. Sáu thời hành đạo chẳng nghĩ khác. Ân cần độ hóa không phân biệt. Bên hồ thất bảo nắm tay chơi.
13. Nhập thân thần hành
Trong "Tạp Thí Dụ Kinh", tôi thấy có ghi chép một câu chuyện về thần hành, tuy nhiên đây không phải là thần hành thực sự, mà là thần hành do bị nhập thân. Tôi đặc biệt ghi lại câu chuyện này như sau để làm bài học răn dạy:
Ngày xưa có một vị tì kheo, do phạm giới nặng trong chùa nên bị đuổi ra khỏi chùa. Không những thế, tất cả tín đồ đều tẩy chay vị tì kheo này, khiến vị tì kheo vô cùng hối hận và không biết đi đâu về đâu. Trong lúc vị tì kheo vừa đi vừa than khóc thảm thiết. Có một con ma, con ma này cũng vì phạm giới nên bị Đa Văn Thiên Vương trong Tứ Thiên Vương đuổi đi, ma đang đi nhanh thì nhìn thấy vị tì kheo đang khóc.
Ma hỏi tì kheo: "Vì sao khóc?"
Vị tì kheo đáp: "Tôi đã phạm giới nặng trong chùa nên bị đuổi ra, đồng thời tín đồ cũng xa lánh tôi. Tất cả phẩm vật cúng dường đều mất hết, những gì vốn có cũng không còn. Giờ đây, thân không một xu, tiếng xấu lan truyền khắp nơi, không có chỗ nào dung thân." Con ma nói: "Tôi là một con ma có thần lực, có khả năng thần hành. Tôi có thể giúp ông xóa bỏ tiếng xấu, đồng thời có được danh tiếng tốt và nhận lại được nhiều cúng dường." "Làm cách nào?" - Vị tì kheo hỏi. Con ma nói: "Ông có thể đứng trên vai trái của tôi, tôi sẽ cho ông thần hành trong không trung, như đi trên không vậy. Mắt người phàm chỉ thấy ông bay lượn trên không mà không thấy được tôi, cho thấy đạo hạnh của ông. Nhờ đó, danh tiếng của ông ắt sẽ phục hồi và lại được chúng sinh cúng dường, nhưng cúng phẩm chúng ta sẽ chia nhau." Vị tì kheo nói: "Được!"
Thế là, con ma khỏe mạnh cõng vị tì kheo đó, trước tiên bay một vòng lớn trên không trung quanh chùa, khiến các tăng ni kinh ngạc không thôi. Thật là kỳ diệu!
Rồi lại bay đến không trung trên thành thị, thần hành qua lại, đi trên không như đi trên đất bằng. Lúc này tin đồn lan truyền, một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền nghìn, mọi người tranh nhau chạy ra ngoài xem vị tì kheo bay lượn trên không trung, ai nấy đều vô cùng kinh ngạc. Chúng sinh đều cho rằng: Vị tì kheo không hề phạm giới nặng. Vị tì kheo là bậc thánh đắc đạo. Vị tì kheo hoàn toàn bị oan.
Thế rồi tín đồ trong thành lại đồng thanh trách mắng chư tăng trong chùa, nói rằng họ đã đổ oan cho một vị tì kheo tốt. Tín đồ cung kính thỉnh vị tì kheo trở về chùa, được ở trong chùa, được địa vị tôn quý, đồng thời cúng dường như núi như biển ào ạt đến, nhiều gấp mấy lần so với thường ngày. Vị tì kheo rất vui mừng, không quên lời thề ước, đem một nửa phẩm vật cúng dường cho ma đại lực. Ma đại lực vô cùng hân hoan, tì kheo và ma đại lực hợp tác vô cùng ăn ý.
Cho đến một ngày. Trên trời vốn có sáu ngày trai: Mồng 8 và 23 là ngày thần giám sát. 14 và 30 là ngày thái tử". Mồng 1 và 15 là ngày Tứ Thiên Vương.
Ma đại lực quên mất hôm đó là ngày rằm, lại cõng vị tì kheo thần hành thong dong trên không trung. Đúng lúc Tỳ Sa Môn Thiên Vương đi tuần tra, ma đại lực vừa thấy chủ nhân tuần hành, vô cùng kinh hãi, sợ đến nỗi vãi cả đại tiểu, lập tức vứt bỏ vị tì kheo trên vai, vội vã cắm đầu chạy trốn, không dám ngoái đầu lại.
Vị tì kheo vốn đang vui vẻ tự tại trên không trung, đột nhiên bị ma đại lực ném xuống, không kịp phản ứng, từ trên không rơi xuống đất, dưới đất có một tảng đá lớn, vị tì kheo rơi xuống, đầu vỡ nát, thân thể cũng nát bấy, chết thảm trong chớp mắt, linh hồn lập tức đọa vào tam đồ ác đạo, chịu luân hồi. (Trên đây là ví dụ về nhập thân thần hành.)
Theo như tôi biết, thân thể con người có thể bị nhập thân, có người thậm chí không chỉ bị một linh nhập mà có thể có nhiều linh cùng lúc nhập vào một thân. Người bị nhập thân, do tác động của âm linh, sắc mặt sẽ có khí đen, khói xám, ánh sáng u ám. Khi bị quỷ thần cõi âm và địa ngục nhập, họ sẽ bị kéo xuống cõi âm.
Khi bị động vật nhập, sẽ có mùi tanh hôi. Khi bị tinh linh nhập, sẽ có một số hiện tượng kỳ lạ.
Khi một người bị nhập thân, thần thức cũng sẽ bị đưa đi thần hành, phần lớn xảy ra trong giấc ngủ, thần hành ban đêm, thức dậy vào ban ngày sẽ rất mệt mỏi kiệt sức, nhưng thường không thể tự chủ, bị đưa đi bay lung tung, đi lung tung, mơ lung tung.
Nhập thân thần hành không chỉ có quỷ thần, động vật, tinh linh. Còn có người thân đã mất đến nhập, oan hồn đến nhập, quỷ ma đến nhập, thậm chí cả linh con nít của chính mình cũng đến nhập. Nhiều người thần hành trong mơ chính là nhập thân thần hành.
Nhập thân thần hành phần lớn không thể đến được thần giới, thiên giới, thánh giới. Nhiều nhất chỉ có thể dạo qua thần giới, hoặc là hạ giới, địa phủ, âm giới, hoàn toàn bị linh nhập dẫn dắt như kéo mũi đi, không thể tự chủ được. (Đến được thần giới hay thiên giới đã là trường hợp đặc biệt.) Nếu ngày lẫn đêm đều bị nhập thân, thì đó chính là bệnh tâm thần.
Tôi thấy rất nhiều người, trong giấc mơ ban đêm, bị vô số linh động vật, sơn tinh thủy quái, oan hồn nhập thân mà thần hành, không đếm xuể. Loại nhập thân thần hành này thực ra không tốt, có khi là do oan gia trái chủ đến quấn thân, quấn quýt không thôi, những giấc mơ tham lam vô tận, tinh linh khắp nơi, nghiệp chướng bao trùm, thế giới này sớm đã mù mịt khói độc, người tu hành muốn thực hành bát chính đạo cũng gặp nhiều chướng ngại.
Tôi thật lòng nói với mọi người rằng, tham dục chính là gốc rễ của lục đạo luân hồi. Dù là người hay ma quỷ, vì quá nhiều tham dục, quá nhiều điều không buông được, nên sự chấp trước vào ái dục và oán hận, một lòng muốn nối lại duyên xưa hoặc một lòng muốn báo thù, chính là nguyên nhân của luân hồi, là quả của chuyển sinh, do đó: Chua ngọt đắng cay. Buồn vui hợp tan. Sinh ly tử biệt. Mọi khổ dồn về. Ai cũng biết rằng nhiều dục là nguồn gốc của khổ đau, ít dục vô vi mới được tự tại. Chúng sinh vì có tình nên mới sinh ra mọi nỗi khổ, người và ma quỷ đều như nhau, tuy biết vậy, nhưng không dễ gì nhìn thấu, ai ai cũng bị trói buộc. (Bồ Tát hữu tình phải chuyển niệm khi gặp cảnh mới có thể thoát ly.)
Người tu hành muốn tránh bị nhập thân thần hành cần phải: Ít ham muốn, vô vi. Buông bỏ tình dục. Vô sự vô tâm. Buông bỏ tiền tài danh vọng. Tùy ngộ an nhiên. Tri túc tùy duyên. Như như bất động. Hành bát chính đạo. Pháp giới rộng lớn. Biển rộng trời cao.
Trong lúc thần hành. Tôi gặp một đệ tử cũng đang thần hành, nhưng anh ta bị nhập thân thần hành, anh ta bị một vị linh cao cấp từ ma giới nhập vào mà thần hành. Vị linh cao cấp này mặc áo đen, đạo hạnh không nhỏ, đã dẫn dắt đệ tử này vào con đường tà vạy, gần như không thể thoát ra được nữa. Đệ tử này ban ngày bị nhập thân, ban đêm cũng bị nhập thân, gia đình thấy kỳ lạ, đưa vào bệnh viện tâm thần, vì anh ta bị ảo giác, ảo thính, ảo tưởng nghiêm trọng, nói năng lộn xộn, khi thì cầu cơ, khi thì bị nhập, khi thì nhảy nhót lung tung, lúc thì ồn ào, lúc thì khóc la, khi thì bay lên trời xuống đất, lúc lại đòi làm việc này việc kia... Mọi sinh hoạt bình thường đều rối loạn hết. Anh ta còn cho rằng mình có thể xuống nước không ướt, vào lửa không cháy, dao kiếm không thể xuyên thủng, tự cho mình còn vĩ đại hơn cả Phật Tổ!
Trong lúc thần hành, tôi thấy anh ta bị nhập thân. Tôi quát lớn một tiếng: "Này! Đừng có đùa giỡn với đệ tử của tôi!" "Ngươi có biết ta là ai không?" - Ma hỏi ngược lại tôi. "Sao tôi lại không biết, ngươi là Ma Đa Trí Thiền Định, chính là Ma Tam Muội, kẻ đắm chìm trong thiền định của chính mình."
Con ma này vừa nghe xong, biết là tôi đã rõ lai lịch của nó, liền bỏ chạy thục mạng, tôi cứu lấy thần thức của đệ tử, đưa về nhập vào thân xác, khiến thân xác và thần thức hợp nhất, rồi phong ấn lối ra của linh hồn lại. (kết giới)
Sau sự việc đó, đệ tử này đã được tịnh hóa thân thể, mọi cảm giác đều trở lại bình thường, không còn mê lạc nữa, từ bỏ hết mọi con đường tà vạy, và đã hồi phục trở thành một hành giả chân chính. Sau khi tỉnh lại, anh ta nói với mọi người: "Con bị ma bắt giữ, là Sư Tôn đã đến cứu con." "Cứu bằng cách nào?" "Ma bị Sư Tôn đuổi đi, Sư Tôn đã đưa thần thức của con trở về." "Cảm ơn Sư Tôn." - Cả gia đình đều nói như vậy.
Tôi nói: Khi bị nhập thân thần hành, có người cho rằng đó là thần thông, thực ra đây chỉ là một dạng của "dựa nhờ". Nếu không quá nghiêm trọng thì cũng được xem là ẩn chứa điều kỳ diệu, trong đó có sự biến chuyển của không gian, có thể nghiên cứu được, nhưng, cần phải có chính niệm mới tốt!
14. Ma giới
Trong thần hành, tôi cũng đã từng vào ma giới. Mười loại ma là: Uẩn ma — Sắc thọ tưởng hành thức, năm uẩn biến hóa, là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Phiền não ma — Quấy nhiễu tâm tư, làm rối loạn chính lý. Nghiệp ma — Do nghiệp sát đạo dâm vọng mà thành ma. Tâm ma — Do nghi ngờ, kiêu mạn, ngạo mạn mà thành ma. Tử ma — Cướp đoạt sinh mệnh và huệ mệnh của người. Thiên ma — Chủ tể của cõi trời thứ sáu dục giới, ngăn cản thiện niệm của người. Thiện căn ma — Chấp trước vào thiện căn, không cầu tinh tấn. Tam muội ma — Chấp trước vào thiền định, không cầu bồ đề. Thiện tri thức ma — Keo kiệt về pháp, không độ hóa chúng sinh. Bồ đề pháp trí ma — Chấp trước vào pháp bồ đề, tuy có trí tuệ nhưng ngăn che chính đạo giải thoát. (Phật và ma, đôi khi chỉ cách nhau một niệm, một sợi tơ.)
Tôi thấy bốn vị ma ngồi ngâm thơ: "Ta Bà rối ren việc ngang dọc, không bằng cõi này - thành an dưỡng, khổ lạc hoàn toàn không xâm phạm, mới gọi là bậc thường tự tại." "Sống chết đều thoát gọi vô sinh, vãng sinh không bằng ta vô sinh, Phật ma đôi bên đều cùng thể, nếu chia đôi bên đạo sao thành." "Văn Thù trí tuệ chỉ hư vô, Long Thụ biện tài cũng vụng về, nhắn gửi hành giả bậc chân tu, thế gian nào có kẻ không ngu." "Nói thật nào có mấy ai thật, nói lý không đúng càng phi lý, tịnh uế vốn dĩ đều là bụi, vào cõi tam muội mới mơ màng."
Bốn bài thơ này, nghe qua dường như có ý vị, chỉ thiếu một chút xíu, bốn vị ma đã thấy tôi thần hành mà đến.
Một con ma nói: "Vị Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn này, lần trước đã nhìn thấu ta, nên ta đã bỏ chạy." Ba con ma khác tức giận nói: "Có nên trói hắn lại không?" "Trói hắn thì rất dễ." - Ma tam muội nói. "Dễ như thế nào?" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là người đa tình nhất, dùng 'tơ tình' mà trói hắn thì dĩ nhiên là dễ nhất rồi." Thế là, bốn con ma, mỗi đứa từ trong lòng bàn tay phóng ra một sợi dây, tôi bị trói chặt tứ phía, lập tức không thể cử động, trí tuệ hoàn toàn mất hết.
Bốn sợi dây này trói tôi lại rất hiệu nghiệm, đây chính là điểm yếu của tôi: Thứ nhất gọi là dây tình thân. Thứ hai gọi là dây tình cảm. Thứ ba gọi là dây tình thầy trò. Thứ tư gọi là dây tình chúng sinh.
Ma tam muội cười ha hả: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn không thể thoát khỏi tình thân, tình cảm, tình thầy trò, tình chúng sinh, dùng bốn sợi dây này trói ông ta là dễ nhất, người này bị tình cảm ràng buộc, thường xuyên sinh lòng bi ai, tự trách tự than, rơi lệ đau khổ, bọn ta bốn ma xem ông ta làm sao thoát khỏi lưới tình đây." Ba con ma kia cũng cười lớn: "Kẻ có tình có nghĩa, bị kẻ vô tình vô nghĩa trói chặt, ha ha!" Ma tam muội chế giễu tôi: "Lạm dụng tình cảm." Ba con ma cũng nói: "Thật là kẻ si tình."
Tôi bị mắc kẹt trong lưới ma, có lẽ đây cũng là nhân duyên quả báo của mình! Nguyện của tôi vẫn chưa thể viên mãn, tình duyên với chúng sinh quá nặng, cứ mãi đầu thai chuyển thế, đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh, khi cõi chúng sinh chưa trống, làm sao tôi có thể không có tình với chúng sinh?
Tình thầy trò sâu nặng, tôi có năm triệu đệ tử, những lỗi lầm sai phạm của năm triệu đệ tử này đều đổ lên vai tôi, mà công đức phúc báo của tôi lại không đủ để bù đắp. Những lỗi lầm của đệ tử, làm sao tôi có thể nhắm mắt làm ngơ, bịt tai không nghe. Là người như tôi, làm sao có thể quên được tình thầy trò?
Nói về tình thân, đó là tình cảm ở mức độ căn bản nhất, cha mẹ ruột đời này, Thượng sư Liên Hương người đã trợ giúp độ sinh, tình cảm với con cái, đây là điều bẩm sinh, cũng là duyên phận nhiều đời, làm sao có thể từ bỏ? Chỉ riêng ba điều này đã khiến tôi không thở nổi rồi.
Cuối cùng nói về tình cảm, tôi là Bồ Tát hữu tình, thứ này không thể thấy, không thể nghe, không thể chạm vào, nhưng có cảm ứng. Một, có điện. Hai, có niệm. Ba, có giác.
Khi còn trẻ, tôi không thể thoát ra được, tôi biết rất khó để thoát ra, nhưng, một người tu hành, nhất định phải thoát ra, không thoát ra ắt sẽ chìm đắm, đây cũng là điều rất khó xử lý, cảm giác đó tê tê dại dại, không thể nghĩ bàn.
Bốn sợi dây này trói buộc tôi thật chặt, tôi rơi vào tình trạng tuyệt vọng, ngay cả thần hành cũng không thể đột phá được lưới ma. Trên dưới trái phải đều bị trói chặt.
Lưới ma càng lúc càng thít chặt, tôi đau đớn không thể chịu nổi. Tôi nghĩ, bốn loại tình này, vốn dĩ do chính tôi tạo ra từ nhân duyên của mình, người tu hành phải làm chủ nhân quả, chứ không phải để nhân duyên khống chế mình.
Muốn giải trừ nỗi đau khổ của bốn loại tình này, nhất định phải có tâm trí thật sáng suốt. Thân, khẩu, ý phải thật thanh tịnh, phải biết chuyển hóa. Về mặt cảm xúc phải luôn hoan hỷ.
Biến tình yêu nhỏ thành tình yêu lớn, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Những thứ như tình thân, tình cảm, tình thầy trò, đều nên chuyển hóa thành tình chúng sinh. Nỗ lực độ hóa chúng sinh, nhưng không chấp trước vào số lượng độ được bao nhiêu, đó mới là tinh hoa của trí tuệ. Có thể cầm lên. Có thể buông bỏ. Đó mới là bậc làm chủ. (Hành giả tự chủ được.)
Khi tôi lĩnh ngộ được điều này, tôi cảm nhận được sức mạnh tâm linh vô cùng lớn phát ra từ trong tâm, sức mạnh này tỏa ra ánh hào quang rực rỡ, phóng ra ánh sáng trí tuệ bát nhã vô song, không phải tiểu bát nhã mà là đại bát nhã. "Om Ah Hum", bốn sợi dây đồng thời đứt đoạn, năng lượng căn bản mà tôi tu trì hoàn toàn hiển hiện, ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu bốn phương.
Bốn con ma đứng sững kinh ngạc. "Nam mô ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn năm trăm, đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật" - Tôi đứng dậy, niệm một câu. Tôi đã hiểu ra: Huyễn hóa. Nắm lấy. Buông bỏ. Không chấp. Ma tam muội nói: "Có vẻ lần này ta lại phải chạy rồi." Ba con ma kia nói: "Người này có ánh sáng màu xanh lục, màu đỏ, màu tím, màu vàng, màu vàng kim, màu cam, màu trắng, là hóa thân của cầu vồng ánh sáng, chúng ta chuồn thôi!" Bốn con ma bay vút đi............
Đây là: Tâm ta cảm Phật ta Phật ta liền ứng ta Cảm ứng không sau trước Tâm, Phật là một thể.
Tôi biết trong "Kinh Bồ Tát Ha Sắc Dục" có nói: Sắc đẹp của nữ nhân là gông cùm của thế gian, phàm phu đắm nhiễm, không thể tự thoát. Sắc đẹp của nữ nhân là tai họa lớn của thế gian, phàm phu vướng vào, đến chết không thoát. Sắc đẹp của nữ nhân là mối họa suy tàn của thế gian, phàm phu gặp phải, không tai ương nào không đến.
Hành giả đã từ bỏ được rồi mà còn nhớ nghĩ lại, như người được thoát khỏi ngục tù lại muốn quay vào, như người điên đã tỉnh lại thích điên tiếp, như người bệnh đã khỏi lại muốn bị bệnh, bậc trí thương xót, biết kẻ ấy điên đảo, chẳng còn sống được bao lâu!
Phàm phu xem trọng nữ sắc, cam tâm làm tôi tớ, cả đời bon chen, vì đó mà khổ nhọc, dù có nghìn mũi khoan sắt, vạn mũi tên nhọn cùng đâm vào thân, vẫn cam tâm chịu đựng, không cho là khổ, kẻ điên vui trong cơn điên, chìm đắm trong đó.
Nếu hành giả có thể buông bỏ không màng đến, tức là phá tan gông cùm xiềng xích, hết điên cuồng bệnh hoạn, thoát khỏi tai ương suy họa, được an ổn tốt lành, thoát khỏi ngục tù, vĩnh viễn không còn hoạn nạn.
Người phụ nữ có lời nói ngọt như mật, nhưng tâm địa như thuốc độc. Giống như dòng suối trong vắt, nhưng có thuồng luồng ẩn nấp. Núi vàng hang báu, nhưng có sư tử trú ngụ. Nên biết đây là mối họa, không thể đến gần. Gia đình bất hòa, do bởi phụ nữ, phá hoại tông tộc, là tội của phụ nữ, thật sự là kẻ thù âm thầm, dập tắt ánh sáng trí tuệ của người. Cũng như lưới săn vây bắt, ít ai thoát được, như lưới cao chụp xuống, bầy chim rơi vào, không thể bay lên, lại như lưới dày, đàn cá sa vào, bị mổ bụng lột da, cũng như hố sâu tăm tối, kẻ mù rơi xuống, như thiêu thân lao vào lửa. Vì vậy người trí, biết mà tránh xa, không để bị hại, ghét bỏ và coi là ô uế, không để bị mê hoặc bởi thứ này.
Trong "Kinh Đại Bảo Tích", Đức Phật nói một bài kệ: Núi đao rừng kiếm, tên độc khổ đau, Nữ nhân tụ tập, vô vàn điều khổ. Giả dối phấn son, trang điểm xinh đẹp, Kẻ ngu ở đời, vọng khởi tham cầu. Như chim mỏi cánh, lạc giữa biển khơi, Chết ắt sẽ đọa, địa ngục A Tỳ. Hiện thấy muôn khổ, đều đến với thân, Bạn lành xa cách, cung trời mãi mất. Thà nhảy vào ngục, chạy trên núi đao, Nằm trên lò lửa, chẳng gần nữ sắc.
Đọc bài kệ đến đây. Trong tâm đại ngộ. Sắc đẹp nữ nhân thật đáng sợ thay! Tình dục thật đáng sợ thay! Sợi dây tình cảm tự nhiên đứt đoạn, không còn dấu vết!
Từ bài kệ của Phật Đà, tôi chợt nhớ đến tổ tiên đầu tiên của họ Lư là Khương Tử Nha, ông cũng có một bài kệ: Miệng rắn tre xanh Ong vàng đuôi nhọn Đều chẳng độc bằng Lòng người phụ nữ.
Đối với bài kệ của Phật Đà và kệ của Khương Tử Nha (Khương Thượng), tôi thực sự không biết nói gì. Có lẽ những đánh giá cổ xưa này đối với nữ giới là không công bằng, nhưng chính bản thân tôi cũng không biết làm sao để biện hộ cho người khác giới, gần như tôi cũng không thể nói nên lời.
Khi tôi ở trong lưới ma, tôi đã giác ngộ rằng tình thân, tình cảm, tình thầy trò, tình chúng sinh, tất cả đều chỉ là ảo ảnh nhất thời. Tình thân là ảo ảnh nhất thời, tình cảm là ảo ảnh nhất thời, tình thầy trò là ảo ảnh nhất thời, tình chúng sinh là ảo ảnh nhất thời, đây thực chất là thế giới huyễn. Mọi người đều đang chấp trước vào duyên tình, bóng đuổi theo bóng, sau khi sinh tử, mọi tình đều trở về biển nghiệp.
Chỉ có chư Phật Bồ Tát: Dùng tình để hóa độ. Bi trí vô biên. Thị hiện độ sinh. Sắc tâm đều tịch diệt.
Tôi xin khuyên những hành giả có chí tu hành, hãy tránh xa: 1. Nhân dâm - Đây là một niệm tâm ô nhiễm, nam nữ đều như nhau, đừng khởi một niệm ô nhiễm. 2. Duyên dâm - Đây là tránh xa những nơi không thích hợp, nhiều loại duyên trợ giúp cho dâm dục, như nam nữ nhìn ngắm theo đuổi nhau đều là vậy. Nên tránh xa. 3. Pháp dâm - Đối với sách dâm, tranh dâm, vuốt ve khen ngợi, dụng cụ dâm, nhà chứa, phương pháp và vật dụng, đều phải tránh xa. 4. Nghiệp dâm - Không vướng vào nghiệp dâm, hai căn giao hợp, thành tựu sự nghiệp dâm dục, đều không được làm.
Hôm nay giờ đây, tôi viết "Sống từng phút giây trong sáng", "Sống từng phút giây rực rỡ", "Tâm sự của ông lão ấy" là để khuyên người mê, mộng huyễn hãy sớm tỉnh, kịp thời quay đầu, người thường quay đầu có thể kéo dài tuổi thọ bảo toàn tính mạng, có thể tu dưỡng phẩm hạnh, có thể phú quý lâu dài. Còn hành giả có thể giác ngộ chân tu, thanh tịnh tự tại, giải thoát phiền não. Gắng lên, gắng lên.
15. Đám đông thỉnh cầu cam lộ
Tham thoại đầu của Thiền tông có một pháp như thế này: Đầu tiên nghĩ về thân thể của chính mình đã mắc một căn bệnh nặng, hơn nữa cũng đã chết rồi. Sau đó nghĩ về xác chết được đưa đến lò hỏa thiêu, dùng lửa thiêu đốt, trở thành một đống tro tàn, đống tro cốt này trở thành bụi, bị gió thổi bay, tan biến hết. Cuối cùng nghĩ về hiện tại không còn gì cả, không có một vật nào tồn tại, lông tóc xương cốt đều không thể có được. Lúc này, niệm một câu A Di Đà Phật! Lập tức hồi quang phản chiếu! Hãy nhìn người niệm Phật này là ai? Lúc này cứ thế nghiền ngẫm "Người niệm Phật là ai?", cứ thế mà suy đoán, cho đến khi quên luôn cả thân tâm, "póc" một tiếng, minh tâm kiến tính.
Dựa theo tham thoại đầu của Thiền tông, Mật giáo cũng có một pháp: 1. Ram — thân thể bốc cháy, lửa thiêu thân thể thành tro. 2. Yam — gió lớn thổi tới, thổi bay sạch tro tàn. 3. Kham — tất cả đều trống rỗng không còn. Ram Yam Kham tức là Hỏa, Phong, Không. Thế rồi ánh sáng hiện lên, tự tính ở trong pháp giới Đại Tỳ Lô Giá Na quang minh mà thành tựu. Xin hãy xem tu trì Thiền và Mật, đâu có gì khác nhau?
Tôi nêu ra điều này trước, sau đó dẫn nhập vào phần chính, đó là trong khi thần hành, tôi đã đi qua vùng trời của khu hỏa thiêu, khu hỏa thiêu này có chín lò thiêu, cùng một lúc có thể thiêu được chín xác chết.
Lò hỏa thiêu thời kỳ đầu dùng gỗ để dẫn lửa, nghe nói để thiêu một xác chết cần một trăm cân Đài Loan củi gỗ [1 cân Đài Loan khoảng 600g]. Thời nay không dùng gỗ nữa, mà dùng gas hoặc điện nên lửa càng mạnh càng dữ hơn, buổi sáng hỏa thiêu, buổi chiều đã có thể nhặt "kim" rồi. Theo tập tục là bốn điểm kim, đầu, tứ chi cho vào bình tro cốt, sau đó lại cho vào tháp.
Khi tôi thần hành đến vùng trời bên trên khu hỏa thiêu thì niệm một câu: Vãng sinh tịnh thổ. Siêu sinh xuất khổ. Nam Mô A Di Đà Phật. Nhìn thấy vùng trời phía trên khu hỏa thiêu có những đốm lửa nhỏ đều là các linh quang tập trung lại, tôi biết đám người này đều ở trong khu hỏa thiêu, lửa vừa thiêu thì họ mới chạy ra. Nhưng họ tụ tập ở đây để làm gì chứ? Tôi rất tò mò: "Các người ở đây làm gì vậy?" "Chúng tôi muốn đi thỉnh cầu cam lộ!" - Trai gái già trẻ cùng đồng thanh nói. "Cam lộ ở chỗ nào?" "Hồ Diệp Tử." "Hồ Diệp Tử?" - Lòng tôi càng ngờ vực, đó là nơi tôi ẩn cư, đồng thời hồ Diệp Tử là cái tên mà tôi tự đặt, không phải một địa danh, người khác không biết. Đám người nói: "Người ẩn cư đó là một vị Hoạt Phật, ông ấy tự xưng hồ mà mình ẩn cư như lá cây nên mới gọi là hồ Diệp Tử, người đời không biết, chúng tôi thì biết, ma có năng lực của ngũ thông, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn vạn, chúng tôi tụ tập để đi cầu cam lộ đó!" Trong lòng tôi đã hiểu, tôi im lặng không nói gì, thần hành bỏ đi.
Ai là Cam Lộ Vương Như Lai, tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, không phải là ai khác, chính là A Di Đà Như Lai đó. Cam lộ thủy, cam lộ pháp có thể nói là chân lý mà Như Lai dạy dỗ, có thể khiến chúng sinh giải thoát buồn bực, như được uống sương ngọt, pháp môn này có thể niết bàn Cực Lạc, mát mẻ vui vẻ. Nước cam lộ mà tôi hóa ra: Là Tam Hùm Thủy - Om Ah Hum, đây là viết ba chữ Hum (chữ Phạn) ở trên nước, là linh tính nội tại, có linh lực, có thể tịnh hóa chướng ngại nghiệp lực của chúng sinh, có tác dụng thần tính, có thể tụ hợp sức mạnh tâm linh trong vũ trụ rộng lớn, đạt đến lĩnh ngộ, tịnh hóa, trừ nghiệp, trừ não, phát huy linh tính đến mức độ cao nhất.
Linh hồn uống cam lộ mà tôi hóa ra sẽ mở ra cánh cửa của Phật tính, dung nhập vào trong tự tính, chìm đắm trong ánh sáng. Linh hồn uống cam lộ mà tôi hóa ra có thể ngao du trong thời gian không gian, trong giới trung ấm, không còn phải chịu khổ đói khát, không phải chịu đủ loại ràng buộc, thậm chí vì đã tịnh hóa rồi, có thể thăng vào thiên thượng giới.
Trong lý tưởng của tôi, tôi không chỉ độ chúng sinh hữu hình, tôi cũng muốn độ chúng sinh vô hình (minh giới), đây là điều mong mỏi của tôi, tôi không chỉ muốn cho chúng sinh hữu hình mãn nguyện mà cũng muốn cho chúng sinh vô hình mãn nguyện.
Nước cam lộ có thể khiến chúng sinh minh giới buông bỏ tự ngã, buông bỏ đau khổ của sự bám chấp, tâm linh và Phật tính kết hợp với nhau, như thế có thể tiến vào thế giới Cực Lạc ở tầng sâu nhất, không còn ràng buộc, tràn ngập niềm vui. Cho nên Mật giáo nói: Chim ăn nước hoặc gạo mà hành giả hóa cho. Cũng có thể vãng sinh. Thế nên tôi ở hồ Diệp Tử, dùng chú cầu nguyện chính pháp, gia trì nước cúng, hóa thành nước cam lộ từ bi, tôi thật sự thành tâm kết hợp với ý thức vũ trụ cùng hóa thành một dạng năng lượng, năng lượng này có ích với hữu hình và giúp ích cho vô hình.
Việc hóa thực bằng cam lộ thủy của tôi không dừng lại, ở Seattle chưa từng dừng lại, khi mới đến Hồ Diệp Tử, vì hoàn cảnh nên tôi có tạm dừng một chút rồi lại tiếp tục. Tôi cho rằng đây là một trong những cách bố thí, vì thế ngày ngày hóa nước cam lộ, cho nên minh giới càng truyền càng rộng, càng truyền càng nhiều, đây là tôi vừa độ người vừa độ mình, tôi không hề nghĩ đến thân thể mình đã hư nhược, vẫn ngày ngày hóa nước cam lộ. Đại bàng kim sí điểu Hoang dã quỷ thần chúng La Sát quỷ tử mẫu Cam lộ đều tràn trề. Ôm mu-ti sô-ha. Ôm mu-ti sô-ha. Ôm mu-ti sô-ha. Ôm ah hùm. Hùm hùm hùm.
Nước cam lộ này không phải là lực của một mình tôi. Tôi phụng thỉnh bậc trí huệ đệ nhất - tôn giả Xá Lợi Phất, thần thông đệ nhất - tôn giả Mục Kiền Liên, đầu đà đệ nhất - tôn giả Ẩm Quang, luận nghị đệ nhất - tôn giả Văn Sức, vấn đáp đệ nhất - tôn giả Đại Tất, vô đảo loạn đệ nhất - tôn giả Tinh Tú, nghĩa trì đệ nhất - tôn giả Kế Đạo, nghi dung đệ nhất - tôn giả Hỷ, đa văn đệ nhất - tôn giả Trần Hỷ, mật hành đệ nhất - tôn giả Phúc Chướng, cúng dường đệ nhất - tôn giả Ngưu, phúc điền đệ nhất - tôn giả Bất Động, giáo hóa đệ nhất - tôn giả Hắc Quang, tinh tú đệ nhất - tôn giả Phòng Túc, thọ mệnh đệ nhất - tôn giả Thiện Dung, thiên nhãn đệ nhất - tôn giả Vô Bần. (Mười sáu vị đại A La Hán này là bậc đại sĩ của pháp này, thị hiện như Thanh Văn.) Nước cam lộ này cũng là các vị gia trì. Nước cam lộ mà tôi hóa ở đây là: Chúng sinh là người năng được lợi Minh giới sau này đều biết tên Nay dùng nước này để độ chúng Hạ hạ nhân thành thượng thượng nhân.
Phật từng bảo tôi: "Liên Sinh, hãy dùng sức mạnh phương tiện hành bát nhã ba la mật trong nước gia trì, khiến tâm duyên chúng sinh tự tại, có thể đắc Phật sắc, đắc Phật vi diệu âm, đắc thanh tịnh giới hương, đắc tất cả pháp vị, đắc tâm nhu nhuyễn, đắc tâm thanh tịnh, đắc pháp ngữ, đó là Như Lai bình đẳng đại ý, Liên Sinh dùng cái này để độ chúng sinh là pháp Chân Như thanh tịnh, vì thế có thể gọi là Cam Lộ Vương Đệ Nhất." Trong lòng tôi thầm than: "Hổ thẹn! Hổ thẹn!"
Có một hôm, tôi đang bố thí nước cam lộ, vẩy nước vào hư không, trong hư không có đám người lần lượt đón lấy. Tôi nghe có người nói: "Ơ! Đó chẳng phải là người thần hành phía trên khu hỏa thiêu sao?" - Có người nhận ra tôi. "Đúng là ông ấy rồi!" "Bậc Thánh mà bình phàm như phàm phu vậy." - Một người nói. "Đó mới là không thể đánh giá con người qua diện mạo, nước biển không thể dùng đấu mà đong." "Ngày nay muốn tìm được một hành giả bố thí nước cam lộ thật là khó lắm!" "Người có đạo đều ẩn cư hết rồi." Trong số đó có một người cũng khá biết về Phật pháp, người đó nói: "Tôn giả Mục Liên bị ngoại đạo dùng gậy đánh chết, tổ sư Đạt Ma cũng phải đến Tung Sơn quay mặt vào tường chín năm, Tế Công Hoạt Phật cũng bị đuổi ra khỏi chùa Linh Ẩn, đại sư Lục Tổ Huệ Năng cũng phải trốn trong đám thợ săn, hễ là bậc Thánh đều gặp phải những chuyện khó tránh." "Đó là vì sao?" "Phàm phu mắt thịt sao biết được!" "Một số người chẳng hiểu gì cả, chỉ giả vờ hiểu thôi."
Đám người này đều là đến cầu nước cam lộ, có đến hàng trăm hàng nghìn người, nguyên thần (trung ấm) và nhục thân tuy khác nhau, nhưng, nhục thân chỉ là kéo theo một cái xác thịt mà thôi. Những thần thức này lần lượt bỏ đi. Cuối cùng còn lại một người già quỳ xuống không đi, tôi hết sức kinh ngạc: "Chẳng phải ông đã lấy được nước cam lộ rồi sao?" Người già trào nước mắt nói: "Tôi cũng muốn thỉnh cầu một phần cho chủ nhân." "Cần tự đến mới ban cho." - Tôi nói. "Ông ấy không thể đến, ông ấy là người nhảy lầu tự sát, bị hạn chế, miệng méo tứ chi đứt, ông ấy là…" Tôi cực kinh hãi, người nhảy lầu này danh tiếng lẫy lừng, đáng thương! Đáng thương! Tôi đưa thêm một phần nước cam lộ cho người già. Người già cảm ơn rối rít rồi đi.
Viết một bài kệ: Tự sát mà chết khó vực dậy Đâu có cái lý được vãng sinh Cam lộ vẩy thân gột bùn đất Chỉ mong kiếp sau tỏ Phật địa.
16. Ngôn ngữ trên trời
Trong thần hành. Bỗng nhiên tôi gặp một người cũng đang thần hành, anh ta mở lời nói chuyện với tôi trước, nhưng giọng nói của anh ta rất đặc biệt, líu lo ríu rít, tuy nhiên hơi dịu dàng, tôi lắng nghe kĩ, biết đó là ngôn ngữ từ nơi khác, nghe một lúc lâu, tự nhiên hiểu được ý trong lời nói của anh ta. Anh ta nói: "Phổ hỷ! Phổ hỷ!" (có nghĩa là chào hỏi "Hi") Anh ta nói: "Khích! Khích!" (có nghĩa là "Bạn khỏe không?") Tôi hỏi: "Anh từ đâu đến?" Anh ta đáp: "Từ Nguyệt Ma Thiên (Dạ Ma) đến."
Tôi lập tức hiểu ra, hóa ra đó là thiên nhân từ cõi Dục giới. Dục giới là nơi cư trú của chúng sinh có dâm dục và thực dục, phía trên có sáu cõi trời Dục giới, ở giữa có bốn đại châu nơi người và súc sinh ở, cho đến địa ngục A Tỳ ở dưới, đều thuộc về Dục giới.
Ngôn ngữ của Dục giới vô cùng phức tạp, chỉ riêng ở cõi người đã có Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật, Ả Rập, Brazil, Mexico... Các quốc gia trên thế giới đều có ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau. Nghĩ xem, ngôn ngữ của Dục giới có bao nhiêu, thật sự là không thể đếm, không thể nói, ngôn ngữ vô lượng vậy. Theo tôi biết: Súc sinh giới, mỗi loài đều có ngôn ngữ riêng. Địa ngục giới cũng vậy. Ngạ quỷ giới cũng thế. Khó nghe nhất là ngôn ngữ của Atula giới, toàn là âm thanh sát phạt, cực kì cứng rắn, như tiếng sắt đá va chạm vậy.
Lên đến cõi trời, từ cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên, ngôn ngữ ở các cõi trời đều khác nhau, có cái giống nhau, có cái khác nhau. Từ cõi trời Dục giới cho đến Sơ thiền của Phạm Chúng thiên, Phạm Phụ thiên, Đại Phạm thiên, đều có ngôn ngữ. Từ Nhị thiền trở lên, ngôn ngữ càng ít đi. Theo tôi phân chia, ngôn ngữ của cõi trời có ba loại chính: 1. Ngôn ngữ. 2. Ánh sáng. 3. Thức.
Như linh giới, nếu dùng ngôn ngữ để diễn đạt, thì đó vẫn còn là linh giới bậc thấp, ở bậc trung chỉ dùng tịnh quang, còn bậc cao thì chỉ còn lại thức. Thật ra những nhận thức này chỉ có người có tha tâm thông hoặc Phật mới biết được, nếu không có tha tâm thông thì hoàn toàn không thể hiểu nổi.
Thiên nhân ở cõi trời Dạ Ma, ngôn ngữ của họ rất mềm mại, âm thanh rất nhỏ, nhưng không chói tai. Anh ta nói với tôi: "Người có tâm sân nặng thì âm thanh thô, người có tâm bi nặng thì âm thanh mềm, đây là bản tính tự nhiên, là công năng nguyên thủy. Người thật sự siêu việt không dùng ngôn ngữ, dùng ánh sáng thay cho âm thanh, dùng thức thay cho âm thanh, thậm chí không cần nói gì, không cần thay thế, chỉ cần ấn tâm mà thôi."
Tôi nói: "Hóa ra đó là lý do Như Lai có ba loại ngôn ngữ: tùy tự ý ngữ, tùy tha ý ngữ và tùy tự tha ý ngữ. Như Lai có thể tùy theo ý mình để diễn đạt pháp thực tướng mà mình đã chứng ngộ. Phật có thể tùy theo căn cơ của chúng sinh mà thuyết các pháp phương tiện. Khi Phật thuyết pháp cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một âm diễn thuyết vạn pháp, hoàn toàn tùy ý mình và chúng sinh." Thiên nhân cõi Dạ Ma nói: "Tuy Phật Như Lai đã thuyết tám vạn bốn nghìn pháp môn cho người đời. Nhưng những gì Ngài thuyết đều là cảnh giới chứng ngộ, không thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn đạt. Hơn nữa, pháp Ngài thuyết vốn là như vậy, không phải do Phật sáng tạo, cũng không phải có sau khi thuyết, thuyết cũng như không thuyết, vì vậy Phật Như Lai mới nói chưa từng nói một chữ." "Đúng vậy, đúng vậy." - Tôi gật đầu.
Trong thần hành lại gặp ba vị thần hành. Một vị nói: "Tiêu tiêu." Vị khác nói: "Sơ sơ." Vị thứ ba nói: "Hốt hốt." Thiên nhân cõi Dạ Ma nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tôi không hiểu ngôn ngữ của họ, rốt cuộc đây là ngôn ngữ của cõi trời nào vậy?" Tôi đáp: "Ba vị này là thần cây!" Ba vị gật đầu. Thiên nhân cõi Dạ Ma vô cùng khâm phục kiến thức uyên bác của tôi.
Ba vị thần cây lại nói với tôi một tràng "cạp cạp chí chí", vị thiên nhân cõi Dạ Ma hỏi tôi, họ nói gì vậy? Tôi đáp: "Họ nấu mì, mời chúng ta đi ăn mì!" Không ngờ rằng, vị thiên nhân cõi Dạ Ma rất thích ăn mì, khi tu hành ở thế gian, không ăn gì khác, chỉ ăn mì thôi, nghe vậy anh ta vui mừng khôn xiết, liền cùng nhau thần hành đến nhà thần cây.
Trong nhà đã bày sẵn năm bát mì nóng hổi. Vị thiên nhân cõi Dạ Ma đói đến nỗi chẳng kịp phân biệt, cầm đũa định ăn. Tôi vận thiên nhãn nhìn, vội vàng ngăn lại. Thiên nhân hỏi: "Sao không được ăn?" "Anh nhìn kĩ xem, đây là mì gì?" Vị thiên nhân cõi Dạ Ma cũng vận "thiên mục" nhìn, giật mình hoảng hốt, kêu lớn: "Đây không phải mì, mà là giun đất!" Tôi nói: "Đúng là giun đất!" Vị thiên nhân cõi Dạ Ma lập tức định trách mắng thần cây.
Tôi nói: "Không cần trách mắng các thần cây, mỗi tầng thức có cách nhìn khác nhau. Đối với thần cây thì giun đất chính là mì của họ. Tầng thức thấp và tầng thức cao hoàn toàn khác nhau, xin đừng tức giận." Tôi lấy một ví dụ về một ly nước: Người nhìn một ly nước, thấy đó là một ly nước. Ngạ quỷ nhìn một ly nước, thấy đó là một quả cầu lửa. Quỷ địa ngục nhìn một ly nước, thấy đó là một ly máu. Phật nhìn một ly nước, thấy tám vạn bốn nghìn sinh vật nhỏ.
Tôi nói: "Trong tam giới, Dục giới có hành dâm và ăn uống, Sắc giới thì không có hành dâm và ăn uống nữa, chỉ có tịnh quang sắc tướng, Vô sắc giới chỉ còn tâm thức mà thôi. Vì vậy, Dục giới dùng miệng để nói, Sắc giới dùng ánh sáng làm ngôn ngữ, Vô sắc giới thì tâm thức chính là ngôn ngữ. Hôm nay, nếu dùng cái nhìn của cõi trời Dạ Ma để phê phán món mì của thần cây, thì đó chính là một sự chấp trước và thiên kiến, những con giun đất vốn là mì của họ, là món ngon của họ!" Họ mời hai chúng tôi ăn mì. Chúng tôi kính cẩn từ chối.
Tôi luôn nghĩ về một vấn đề, tu hành là từ tầng thấp tiến lên tầng cao, là hành vi tiêu trừ nghiệp chướng tăng trưởng phúc huệ, nhưng hiện nay con người đang sống trong thế giới hưởng thụ vật chất, ăn tất cả các loài động vật, vậy đó là tầng cao hay tầng thấp?
Chiến tranh giữa loài người, người giết người, là tầng cao hay tầng thấp? Đó được gọi là tôn giáo gì?
17. Thần hành ở nước Huyết Quang
Trong thần hành. Tôi đến một vùng hoang dã, nhìn khắp bốn phương, vô biên vô tận, khắp không gian đều một màu đỏ, mặt đất cũng đỏ rực, nhìn kĩ màu đỏ trên mặt đất, chảy róc rách, hóa ra là máu. Tôi kinh hãi vô cùng! Mũi ngửi thấy toàn mùi tanh nồng của máu, khó ngửi vô cùng.
Vùng hoang dã này cũng có "người ở", toàn là những hồn ma đầu lìa khỏi cổ, thân thể đứt đoạn, tay chân rời rạc, máu me đầm đìa. Nơi họ ở cũng chia thành bộ lạc, mỗi tộc một bộ lạc, cũng vô tận vô biên, tất cả đều là cảnh tượng như vậy, máu chảy, tràn ngập trời đất. Khổ thay! Khổ thay!
Viết một bài kệ: Da mỏng bọc máu mỡ. Thịt thối xương như canh. Máu mủ từ trong vỡ. Xưa nay đao binh tranh.
Những bộ tộc này đều là nơi tụ tập của các oan hồn sau thảm họa binh đao, bộ tộc này nối tiếp bộ tộc kia, vô tận vô biên. Tiếng than khóc oán hận của họ, tiếng gọi cha mẹ thảm thiết khiến trời đất cũng nhuốm đỏ, thật đáng thương! Thật đáng buồn!
Tôi thần hành đến một nơi, thấy có một lớp ánh sáng bát nhã mỏng manh bao phủ một bộ tộc, trong lòng vô cùng ngạc nhiên. "Nơi này cũng có ánh sáng bát nhã, thật kỳ lạ!" - Tôi tự nhủ.
Bước vào trong ánh sáng bát nhã, gặp một cụ già chân què, máu chảy ra, tôi hỏi: "Đây là nước nào?" Đáp: "Nước Huyết Quang." "Trong nước Huyết Quang, sao lại có một bộ tộc được ánh sáng bát nhã bao phủ?" "Nhờ oai thần của Phật, bộ tộc này hơi khác với các bộ tộc khác, đây chính là tộc Thích Ca đã bị diệt vong." "Ah!" - Tôi giật mình kinh hãi.
Tôi nói: "Tộc Thích Ca vẫn còn trong nước Huyết Quang sao?" Cụ già đáp: "Từ xưa đến nay, các quốc gia, bộ tộc bị diệt vong, có quốc gia, bộ tộc nào mà không ở trong nước Huyết Quang, số lượng không thể đếm xuể!"
Về việc tộc Thích Ca - họ tộc của Phật Thích Ca Mâu Ni bị diệt vong, tin rằng những người học Phật đều đã rất quen thuộc. Chúng ta là những người học Phật, khi xuất gia đều đổi họ thành "Thích", chỉ vì trong "Kinh A Hàm" có nói: Bốn sông đổ về biển. Không còn tên sông nữa. Bốn họ xuất gia rồi. Đều gọi là họ Thích.
Năm xưa, Đức Thích Ca Mâu Ni (Năng Nhân Tịch Mặc) vốn là Thái tử của nước Ca Tỳ La Vệ ở Ấn Độ cổ đại, phụ thân tên là Tịnh Phạn, mẫu thân tên là Ma Da. Hai chữ "Thích Ca" chính là tên của bộ tộc.
Thuở ấy, vua Ba Tư Nặc của nước Kiều Tát Di La đến cầu hôn với tộc Thích Ca, nhưng tộc Thích Ca vì có tâm tự tôn về chủng tộc nên không muốn gả công chúa. Nhưng họ cũng không tiện từ chối, vì vua Ba Tư Nặc binh hùng tướng mạnh. Vị vương tộc Thích Ca là Ma Ha Nam nghĩ ra một kế, đem một tì nữ tên là Mạc Lệ giả làm công chúa để gả đi. Mạc Lệ sinh hạ một con trai, chính là Thái tử Lưu Ly Vương.
Khi Lưu Ly Vương lên 8 tuổi, vâng lệnh phụ vương đến nước Ca Tỳ La để học bắn cung. Lúc đó, thấy giảng đường của Đức Phật, ngài bước vào. Sau đó, người tộc Thích Ca biết được việc này, cho rằng con của tì nữ đã xúc phạm thánh địa, liền đào sâu bảy thước đất vứt bỏ, thay đất mới để thanh tịnh! (Nạn phân biệt chủng tộc ở Ấn Độ từ xưa đã rất nghiêm trọng.)
Thái tử Lưu Ly biết được việc này, cảm thấy vô cùng nhục nhã. Trong lòng thề rằng: "Khi lên ngôi vua, nhất định sẽ diệt tộc Thích Ca, diệt nước Ca Tỳ La." Về sau, quả nhiên đã diệt tộc Thích Ca. Đức Phật vì muốn cứu người tộc Thích Ca, đã nhiều lần khuyên Lưu Ly Vương rút quân, nhưng do nhân duyên quả báo, tộc Thích Ca vẫn bị diệt.
Có một thuyết khác: Vua Lưu Ly trong kiếp trước từng là một con cá lớn. Bị người tộc Thích Ca bắt được, toàn bộ tộc chia nhau nấu ăn con cá lớn này. Chỉ có một đứa trẻ không ăn, nhưng vì tò mò đã đánh vào đầu con cá ba cái, đứa trẻ này không phải ai khác chính là Phật Thích Ca Mâu Ni trong đời sau. Do Phật đánh vào đầu con cá ba cái, nên bị chứng đau nửa đầu. ("Kinh Tăng Nhất A Hàm" quyển 26 phẩm "Đẳng Kiến" có ghi chép về việc Phật Đà bị đau đầu.)
Nay bị đau đầu như đá đè. Như đội núi Tu Di trên đầu vậy. Đau đớn biết nhường nào! Đau đớn thay!
Phật giáo giảng về nhân duyên quả báo, việc báo ứng có hiện báo, sinh báo, hậu báo: Hiện báo là tạo nghiệp hiện tại liền nhận quả báo hiện tại. Sinh báo là tạo nghiệp hiện tại đợi đến đời sau mới nhận quả báo. Hậu báo là tạo nghiệp hiện tại phải đợi hai đời hoặc nhiều đời sau mới nhận quả báo. (Không phải không báo, chỉ là chưa đến lúc.)
Ngay cả Đức Phật đã giác ngộ viên mãn cũng không thể cứu được tổ quốc, người trong tộc và huynh đệ của mình vì nghiệp báo đã định. Nghiệp do chính mình tạo ra từ kiếp trước, dù là bậc đại giác ngộ như Phật cũng phải chịu quả báo. Nhân duyên quả báo, không sai chạy một mảy may.
Tôi hỏi cụ già: "Vì sao bộ tộc này lại có riêng ánh sáng bát nhã?" Đáp: "Cũng là nhân duyên quả báo. Đức Phật xuất thân từ tộc Thích Ca này, nên dù ở trong nước Huyết Quang, Ngài thương xót tộc người chịu khổ nạn này, bèn phóng ra ánh sáng bát nhã do tu chứng của mình để bao phủ bộ tộc. Hễ người trong tộc than khổ vì máu chảy quá nhiều thì máu sẽ ngừng chảy đôi phần, hoa màu héo úa sẽ hồi sinh đôi chút, thiếu nước tưới thì có nước về, hạn hán không mưa thì trời đổ mưa, lũ lụt tràn lan thì nước rút. Đức Phật cũng tự hy sinh, thành tâm thành ý cứu độ tộc ta, cố gắng giảm bớt nỗi thống khổ mà tộc ta phải chịu đựng trong cõi u minh nước Huyết Quang này."
"Tại sao Phật không độ hóa toàn bộ tộc người về cõi Cực Lạc?" - Tôi hỏi. "Ha ha!" - Cụ già cười lớn. Cụ già nói: "Chẳng phải đã nghe rằng nghiệp lực của ai người đó phải tự gánh chịu sao?" "Vâng." - Tôi gật đầu. "Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, muốn thành tựu, mỗi người phải tự mình thực hành tu tập mới chứng đắc được." - Cụ già nói. "Xin hỏi cụ già là ai?" - Tôi hỏi. Cụ già hỏi ngược lại tôi: "Vậy ngài là ai?" Cụ già hóa thành một cơn gió, biến mất!
18. Thần hộ pháp trong lỗ chân lông
Tôi tin rằng pháp tôi tu là chính pháp. Phật giáo về sau, tuy phân Tiểu thừa, Đại thừa, Kim Cương thừa. Lại chia thành Luật tông, Câu Xá tông, Thành Thật tông, Tam Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Từ Ân tông, Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông... v.v.
Nhưng tôi cho rằng, đây là do Phật Đà tùy theo túc duyên và căn cơ lớn nhỏ khác nhau mà thuyết giảng, tất cả đều là chiếc bè báu đệ nhất để vượt biển sinh tử, đến bờ Niết bàn.
Tôi tu Mật kiêm tu Tịnh độ, những gì tu tập đều là chính pháp. Về sự khác biệt giữa các pháp môn, tôi nhận định: Thấy nhân thấy trí. Thấy nông thấy sâu. Ví dụ: Giữ năm giới — nhân đạo. Hành mười thiện — thiên đạo. Tu bốn niệm xứ — giải thoát đạo. Tu mười ba la mật — Bồ Tát đạo. Đẳng giác diệu giác — Phật đạo.
Tôi có chính kiến đúng đắn, tư duy đúng đắn, ngôn thuyết đúng đắn, hành vi đúng đắn, pháp vụ đúng đắn, tinh tấn đúng đắn, chính niệm đúng đắn, thiền định đúng đắn. Tôi tu tập là chính pháp đó!
Tôi tu giới, thanh tịnh và thận trọng trong hành động. Tôi tu định, tâm an trụ trong tam muội. Tôi tu huệ, huệ giải thoát, huệ bồ đề.
Tôi biết chắc chắn rằng chính pháp là chân lý của vũ trụ. Còn tà môn là những gì đi lệch khỏi chân lý vũ trụ. Lại có tà pháp là những năng lực thuộc về thế giới tinh linh, những ai tu tập theo năng lực tinh linh này chính là hành tà pháp vậy. (Tôi nhận thấy hiện nay có rất nhiều tông phái, bề ngoài đều tự xưng là chính pháp, nhưng họ không biết rằng mình chỉ đang mượn hình tướng của chính pháp, thực chất bên trong toàn là pháp lực tinh linh. Muốn tu chính pháp, nhất định phải nương theo bát chính đạo.)
Đó là: Chân như, Bát nhã, Duy thức, Du già, Tâm ấn, Nhất thiết trí, Căn bản trí, Niết bàn, Bỉ ngạn, chính là kinh được chư Phật hộ niệm, là pháp bí tạng của chư Phật, là Phật pháp được Phật Đà thuyết giảng qua năm thời kỳ trong đời mình, là pháp môn đốn ngộ trực nhập. Đó là:
Trong một lỗ chân lông thông tin tức. Trong khắp pháp giới không che giấu.
Trong thần hành. Tôi đến một thế giới tinh linh, thấy một người tu tà pháp ngồi trên pháp tọa cao, trong lỗ chân lông của người này ẩn chứa tám vạn bốn nghìn tinh linh, mỗi tinh linh đều có màu vàng diêm-phù-đàn, tất cả tinh linh hóa thành Như Lai, bay ra và trụ giữa hư không.
Ở chính giữa hiện ra Tỳ Lô Giá Na Phật, xung quanh có nghìn vị Phật vây quanh, trăm triệu Bồ Tát và hoa sen cùng lúc xuất hiện.
Lúc này, mười phương sơn hà đại địa đều hóa thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu, ánh sáng chiếu khắp, lại thấy lầu gác tráng lệ, cảnh đẹp thiên cung, đẹp không thể tả.
Kẻ tu tà pháp tự xưng đã đắc vô thượng chính đẳng chính giác, miệng tụng kinh văn, ngồi trên pháp tọa thuyết pháp. Kẻ tu tà pháp có vô số người ngồi dưới pháp tọa nghe pháp, tất cả đều bị mê hoặc bởi thần lực và linh lực của y.
Kẻ tu tà pháp phóng hào quang từ bàn tay, từng tia hào quang bay đến đỉnh đầu các tín chúng, trên đầu tín chúng cũng hiện ra hào quang, tất cả đều cúi đầu đảnh lễ.
Kẻ tu tà pháp nói công lực của y đã phi phàm, có thể hóa vào lửa mà biến mất, có thể vào nước không chìm, có thể trụ giữa hư không, có thể xuyên núi xuyên tường, hoàn toàn không gặp chướng ngại.
Kẻ tu tà pháp có thể thông với tinh linh, biết được nhân quả ba đời của người thường, những gì nói ra đều linh nghiệm, mê hoặc tín chúng, không ai không tin phục. Kẻ tu tà pháp còn được các vị xuất gia lễ bái, thu nhận các vị xuất gia làm đệ tử.
Y còn phỉ báng các bậc đại đức xuất gia, phỉ báng Phật pháp Đại thừa, Tiểu thừa, Kim Cương thừa, tự tán dương mình chê bai người khác, tự xưng chỉ có mình là người duy nhất trên thế gian đắc vô thượng đạo, những người khác đều là tà pháp.
Trong thần hành, khi thấy những người như vậy, tôi vô cùng kinh hãi, rõ ràng là tám vạn bốn nghìn tinh linh, vậy mà từng cái một biến thành tám vạn bốn nghìn Như Lai. Thật là đáng sợ biết bao. Khi thấy những người như vậy, tôi liền biết ma tinh, đại lực tinh quỷ có sức mạnh quấy nhiễu người tu hành rất lớn, quá khủng khiếp. Cho nên người xưa nói: "Thà nghìn ngày không ngộ, không để một phút vướng ma." Người xưa nói: "Đạo cao một thước, ma cao một trượng." Lại nói: "Dù công phu của ngươi cao thâm đến đâu, Ma Vương cũng cao thâm đến đó."
Thấy vậy, trong lòng tôi vô cùng kinh hãi, vội vàng muốn thần hành đi nơi khác, không dám lưu lại lâu trong thế giới tinh linh, cảnh giới tà pháp này chỉ là tạm thời, không thể tham đắm.
Đúng lúc định rời đi thì tôi bị phát hiện, vị hành giả tà pháp này nói: "Nhìn kìa! Người đó chính là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, vội vàng muốn trốn chạy, không dám diện kiến bậc thánh, ta muốn gặp y để so tài, vậy mà y đã bỏ chạy mất dạng, đủ thấy y không phải là bậc thánh chứng, không có tâm thánh, chỉ là kẻ ưa thích tiểu pháp mà thôi." Hành giả tà pháp nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn chẳng qua chỉ là kẻ bị tinh linh nhập thân, không có gì đặc biệt! Y là kẻ ngoại đạo mượn danh Phật!" Mọi người nghe xong, vỗ tay tán thành.
Do một đời gặp quá nhiều hoàn cảnh và sự việc không như ý, từ lâu tôi đã không còn sinh tâm sân hận, có thể an trụ trong chính pháp mà không động tâm, cõi này còn gọi là cõi Nhẫn.
Tôi đã đạt được: Cảnh giới vô sinh pháp nhẫn. Pháp nhẫn của "thất hiền vị". Trí huệ nhẫn như kim cương. Trải qua đủ loại sỉ nhục, tu thành nhẫn nhục ba-la-mật. Tôi đã tu pháp vô vi, đó là hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi, bất động diệt vô vi, tưởng thọ diệt vô vi, chân như vô vi.
Tôi không màng đến hành giả tà pháp tinh linh. Tuy nhiên, y lại mắng: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, không có tinh hoàn!" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, không phải là đàn ông!" "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, kẻ ngoại đạo mượn danh Phật, nên đến bái ta làm thầy, muốn bái ta làm thầy, ta còn không thèm nhận, làm đồ đệ của đệ tử ta, ta cũng khinh thường, tông phái của ta không cần loại đồ bỏ hạ tiện như vậy." "Cái gì mà Hoạt Phật, là khỉ đột thì có!" Ha! Ha! Ha! Tiếng cười nhạo vang lên khắp nơi.
Các lỗ chân lông trên thân thể của kẻ hành giả tà pháp ấy thật không ngờ ẩn chứa tám vạn bốn nghìn tinh linh động vật, tất cả đều chạy ra. Tôi dùng thiên nhãn nhìn thấy, chẳng qua chỉ là hồ tinh, mị tinh, hổ tinh, tượng tinh, ngưu tinh, xà tinh, chu tước tinh, sư tinh, hà mô tinh, quy tinh, v.v... Nhưng trong mắt người phàm tục nhìn vào, chúng khoác lên một lớp ngụy trang bên ngoài, thế mà biến thành nghìn Phật vạn Phật, vây quanh tôi.
Các tinh linh (linh động vật) đều phun sương độc, ánh sáng độc, muốn giết chết tôi đang thần hành, tôi muốn trốn chạy nhưng không còn đường thoát.
Những tinh linh này đều bị ô nhiễm và tham đắm, đều sân hận không nhẫn nhục, thấy sắc liền yêu, cũng chính là ngạo mạn tự cao, hoàn toàn không hiểu đạo lý, tụ tập đủ loại tà kiến, nghi ngờ chính pháp. Chúng há miệng to, muốn xé tôi ra để ăn. (Cắn xé nuốt vào bụng.) Không chỉ vị sư phụ kia có tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông chứa vô số tinh linh, mà ngay cả đệ tử của y cũng đều bị tinh linh nhập thân. (Nhảy nhót lung tung.)
Tôi không đành lòng nhìn, nhắm mắt chờ chết vậy! Đây là tự làm tự chịu, thần hành đến thế giới tinh linh để tự tìm cái chết. Tôi ngâm thơ: Thần hành u tối, nước thu lạnh Cô độc không bạn, càng thêm buồn Kinh hãi thế gian vốn như thế Chỉ còn một niệm hướng Tây hành.
Nước mắt tôi tuôn rơi, nghĩ về cuộc sống nửa sống nửa chết khi ẩn cư tại hồ Diệp Tử, thiền định thần hành là ý nghĩa của đời tu hành, vậy mà giờ đây, lại rơi vào miệng của đám tinh linh, rơi vào tình cảnh hình thần đều diệt, sao không thê thảm cho được!
Vào lúc nguy cấp, tôi khóc lóc, lông tóc dựng đứng, các lỗ chân lông trên cơ thể mở ra, từ mỗi lỗ chân lông hiện ra từng vị hộ pháp thần, hộ pháp thần nhiều vô kể, có lẽ cũng đến tám vạn bốn nghìn vị!
Hộ pháp thần màu đen tỏa ánh sáng đen, màu xanh lục tỏa ánh sáng xanh lá, màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, màu xanh lam tỏa ánh sáng xanh dương, màu vàng tỏa ánh sáng vàng, màu vàng kim tỏa ánh sáng vàng kim, tất cả đều phát ra từ các lỗ chân lông của tôi.
Ngay cả Tiếu Diện Quỷ Vương trong ngón cái của tôi cũng cười ha hả mà xuất hiện.
Hộ pháp thần nói với tôi: "Đừng kinh hoàng, đừng sợ hãi, đã có chúng tôi - các vị hộ pháp thần đây!" "Bình thường các vị ở đâu?" - Tôi hỏi. "Ẩn mình trong tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông." "Còn ai nữa?" "Vi Đà Tôn Giả, Già Lam Tôn Giả,..." "Còn Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương?" - Tôi hỏi. (Vị này là hộ pháp tối cao của tôi.) "Hãy trì chú đi!"
Tôi niệm: "Ôm tua-li ka-la-nu-pa hùm khan sô-ha." Chỉ trong một sát-na, Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương quả nhiên hiện ra như một vị khổng lồ, với nhiều tay nhiều chân, đầu hiện đầu trâu, mắt trợn miệng nứt, nanh nhọn thè lưỡi, miệng gầm lên: "Hum. Hum. Hum." Như tiếng sấm nổ, xoay mình một cái, ánh sáng xanh bắn tóe ra.
Đám tinh linh đông đảo kia, vừa thấy cảnh tượng như vậy, sợ đến tè ra quần, tất cả đều co rút thân hình, trở thành như những con sâu bé tí. Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương cũng không khách sáo, hít một hơi mạnh, "hùm tra tra", những con sâu kia đều bị cuốn vào lưỡi, nuốt hết trong một miếng.
Hành giả tà pháp thấy vậy, trốn xuống dưới pháp tọa, toàn thân run rẩy. Tất cả đệ tử đều nhìn ngây người, tán loạn bỏ chạy. Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương định dùng chân giẫm họ. Tôi khởi tâm từ bi, nói: "Tu hành không phải là chuyện dễ dàng, họ đều có nguyên thần, chỉ là họ nhận lầm sư phụ lầm chủ, họ chưa từng làm việc xấu, chưa từng sát sinh, chưa từng hại người, chưa từng làm điều trái đạo lý, chỉ cần thành tâm sám hối, hãy tha cho họ đi!" Đại Uy Đức Kim Cang Minh Vương giơ chân lên, nhưng không hạ xuống, thả họ đi.
Tôi nói: "Phật pháp vô biên, quay đầu là bờ, mọi người hãy dùng tâm mà thực tu, quy y chính pháp! Đừng đi tìm cầu thần thông kỳ dị, hãy diệt trừ tam độc ngũ dục, tinh tấn nỗ lực, có vậy công đức mới tăng trưởng được, hãy nương theo chính pháp mà tu trì!" Nói xong, tôi liền thần hành mà đi.
Tám vạn bốn nghìn hộ pháp thần, lần lượt thu về trong các lỗ chân lông, hóa ra có nhiều hộ pháp thần như vậy bảo hộ tôi, họ có những trách nhiệm: Một, hộ trì sinh mạng của hành giả chính pháp. Hai, bảo vệ hành giả chính pháp khỏi tai ương bất ngờ. Ba, kịp thời ngăn chặn tà ma quỷ quái xâm hại. Bốn, giám sát hành giả chính pháp. Năm, quả vị của hành giả chính pháp dần tăng, quả vị của hộ pháp cũng tăng. Sáu, thứ bậc công đức tùy theo hành giả mà tăng trưởng. Bảy, cùng thành tựu quả vị Phật Bồ Tát.
19. Chần chừ nơi cửa thai
Trong lúc thần hành. Tôi gặp một thiện nữ, vị thiện nữ này khiến lòng tôi xúc động, biết rằng đây là "người có duyên", trong lòng tôi không khỏi buồn thương..........
Thiện nữ này đã mang thai, là một bào thai nam, đứa bé trai này là một đứa trẻ ngoan được nuôi dạy tốt, vừa thông minh vừa dũng cảm, tương lai sẽ nổi danh. Thiện nữ có cha mẹ hiền lành, tin theo Phật pháp, người chồng mà thiện nữ kết duyên cùng cũng ôn hòa lễ độ, được giáo dưỡng tốt, gia đình khá giàu có, thuộc dòng quý tộc. Thiện nữ có tấm lòng thiện lành, thường xuyên cứu giúp người nghèo khó hoạn nạn, từ bi hỷ xả, tinh tấn tu tập pháp môn niệm Phật, tâm địa thuần khiết lương thiện.
Nhìn tổ tiên của họ, vốn đều là những danh nhân, học giả, chuyên gia trong xã hội, các đời đều truyền thống trọng đức. Một gia tộc như vậy quả thật hiếm có, không trách được lòng tôi xúc động khôn xiết.
Thành thật mà nói, lần bế quan ở hồ Diệp Tử này không giống như những lần bế quan trước đây, lần này ở hồ Diệp Tử, có lẽ tôi đã sống được một giáp rồi nên thời gian quả không tha người, tôi vốn ít khi đau ốm cũng bắt đầu sinh bệnh.
Tôi quan sát bệnh nghiệp của mình, thực ra cũng là một loại nghiệp lực trong vòng luân hồi nghiệp chướng, không nhất định là đời này kiếp này, hay đời trước kiếp trước, bản thân cũng đã tạo nghiệp, những lỗi lầm trong hành vi, nên khi bế quan tại hồ Diệp Tử, từng việc một hiện ra. (Chỉ cần là người, đều có nghiệp lực.) Tôi thê lương tự nhủ: Phúc báo đã hết rồi! Nghiệp chướng hiện tiền rồi!
Mặc dù tôi tu hành nhiều năm, cũng đã khai ngộ minh tâm, tự biết nhân quả tiền kiếp đời đời kiếp kiếp, bản thân vẫn còn nghiệp lực chưa được thanh tịnh, vẫn đang luân chuyển, bệnh nghiệp ở hồ Diệp Tử này chính là để tiêu trừ nghiệp chướng vậy. Già và bệnh hoàn toàn phù hợp với quy luật tự nhiên của thế giới vật chất, ngay cả Đức Phật đại giác đại ngộ cũng không ngoại lệ!
Khi còn trai tráng, tôi rất ít khi mắc bệnh nghiệp, có thể nói là không biết đến bệnh khổ, giờ đây nếm trải bệnh khổ mới biết bệnh khổ lợi hại, trong lúc bế quan có khổ có đau, tôi gắng chịu đựng, nghĩ đến tứ niệm xứ: Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Khổ thay! Khổ thay! Khổ thay! Tiếng kêu khổ của tôi thấu đến trời, chư Phật Bồ Tát đều biết.
Trong trạng thái nửa sống nửa chết, tôi thần hành ra ngoài, chỉ có thần hành mới có thể tránh được sự trói buộc của nỗi đau thể xác. Lúc này đây, thật sự vô dục, vô cầu. Tất cả mọi thứ trên đời chỉ là một giấc mộng huyễn ảo, thân xác đã không thể nắm bắt được, thì còn đâu da lông?
Tôi là người đã khai ngộ minh tâm, chỉ cần thoát ly khỏi thể xác, lập tức có thể thấy được bản địa toàn thể phong quang, có thể trở về Tây phương Cực Lạc Ma Ha Song Liên Trì. Ta chính là Phật của ta, không chút nghi ngờ gì.
Nhưng, hễ thần hành xong, trở về thể xác, cuộc sống lại có khổ có nạn, con người làm sao có thể không già không bệnh, cái chết không đáng sợ, đáng sợ là già và bệnh. Tôi đã buông bỏ hoàn toàn rồi, nhưng, thể xác không thể thay đổi được, thể xác là do nghiệp lực và thời gian tạo thành, tôi vốn tự cho mình là người mạnh mẽ nhất, chưa từng suy nghĩ, thể xác không thể lay chuyển, vậy mà giờ đây lại lung lay sắp đổ!
Tôi nhớ đến kệ của Phổ Hiền Bồ Tát: Mỗi ngày trôi qua Mạng lại giảm bớt Như cá thiếu nước Nào có gì vui.
Lại nữa: Mênh mang quên mất sen trong lửa Bế quan bệnh khổ đã bao năm Nỗi đau thể xác không nơi tránh Chỉ có thần hành đến trước Phật.
Lại nữa: Già bệnh vẫn luôn là chướng đạo Ai hay già bệnh mới chán chường Tịnh nghiệp công đức nay hội tụ Ham thích quá sâu khó vãng sinh.
Phật dạy: "Có bệnh mới tốt, có già mới tốt, có tám khổ dằn vặt mới tốt, có đầy đủ khổ nạn mới tốt. Bởi vì có những điều này mới biết tu hành, mới hiểu được cách thoát khỏi nhà lửa, tình ái quá sâu đậm thì khó vãng sinh!"
Trong bài viết này, tôi viết lan man dài dòng, chủ yếu là vì đột nhiên xúc động không tả xiết, chợt muốn từ bỏ sắc thân đời này, từ bỏ sắc thân để đi vào thai môn của thiện nữ, thay đổi một sắc thân mới, việc tôi đầu thai chuyển thế này chính là pháp "chiếm nhà" của Mật giáo.
Tương lai tôi sẽ là Hoạt Phật tái thế, có thể tái xuất độ chúng sinh, tôi muốn đầu thai chuyển thế là vì độ chúng sinh, điều này đúng với thệ nguyện của tôi, đại nguyện lực độ sinh đời đời kiếp kiếp, tôi không hề tự sa ngã.
Luân hồi chuyển thế đời này sang đời khác vốn là đặc tính của Rinpoche (Hoạt Phật), cũng là nhân tố lớn để Phật pháp trụ thế, là chân lý tuần hoàn luân hồi của vũ trụ. Sự truyền thừa của Mật giáo thực ra là một loại trí tuệ, chỉ cần tự tính (Phật tính) không bị thời gian tẩy xóa, không bị vật chất cám dỗ, không bị dục vọng vùi lấp, thì tự tính sẽ không thay đổi.
Bởi vì tôi là một hành giả, trí tuệ vốn đầy đủ, chỉ cần có cơ duyên, được khai phát, tôi sẽ có thể khởi phát chính pháp, ra hoằng pháp độ chúng sinh, tôi lại có thể ngồi trên pháp tọa cao, giúp đỡ những người mê lạc quên gốc, đây là trách nhiệm của tôi. Tôi do dự phân vân, vấn đề của tôi là: Thiện nữ khó gặp, chuyển thế tốt hơn chăng? Hay là vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì tốt hơn?
Trong thần hành, tôi bị vấn đề này làm phiền não, nếu tôi tiếp tục sống ở hồ Diệp Tử, liệu có thể sống được bao lâu nữa? Cuộc sống ẩn cư cô độc này chỉ có viết lách và tu pháp, cuộc đời đã là như vậy rồi, tôi sẽ càng ngày càng già, càng ngày càng bệnh, cuối cùng, vẫn phải từ bỏ thân xác này mà ra đi. Tôi sống ở hồ Diệp Tử còn có hy vọng gì nữa không? Còn có điều gì chưa buông bỏ được không? Còn có tâm nguyện nào chưa hoàn thành không?
Về phương diện này, phương diện suy nghĩ về vấn đề, tôi đã buông bỏ tất cả mọi thứ thế gian rồi, tôi đã quen với cuộc sống thường nhật, tôi có thể kiên trì đến già đến chết, cũng không bước ra khỏi hồ Diệp Tử một bước, giờ đây tôi chỉ đang chờ đợi, chờ đợi chư tôn cho tôi biết, khi nào tôi có thể viên tịch! Đây chính là: Cõi biển vô biên biển là không Hiện ra cung sen vốn có sẵn Sinh tử vòng quanh đều tịnh thổ Di Đà dung nạp cõi riêng này.
Tôi đợi thiện thệ vãng sinh tại hồ Diệp Tử, về cõi tịnh thổ, gặp Phật A Di Đà, gặp các bậc thượng thiện nhân có tốt hơn không? Hay là? Tôi đầu thai vào thai của một thiện nữ. Tôi lại trở thành một đứa trẻ thông minh trí tuệ. Lớn lên trong một gia đình giàu có, học hành, lập nghiệp, kết hôn. Thậm chí phấn đấu cả đời, vất vả đến già. Bản chất ban đầu tôi là Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Nhưng, cũng có thể, môi trường về sau sẽ thay đổi quan niệm của tôi, Bồ Tát cũng có mê hoặc kiếp trước, không biết tôi có lạc vào đường khác không? Quên mất diện mục vốn có của mình.
Liệu tôi còn có thể thông linh không? Liệu tôi còn có tư chất trời ban không? Thông hiểu Tam Tạng kinh điển, sinh ra đã biết được chính pháp và thực tu chính pháp không? Có thể độ chúng sinh không? Liệu tôi có dần dần thoái hóa mất đi công năng vốn có không, Phật tính vốn có có tự hiển lộ không?
Tôi sợ rằng một khi chuyển thế, lại trở thành phàm phu thế tục. Về phương diện giàu có, trở thành chủ tịch của một công ty lớn, về phương diện quyền quý, trở thành quan chức cao cấp. Liệu tôi còn là Liên Sinh Hoạt Phật không?
Tôi chuyển thế chỉ để tu hành, để xuất gia làm hòa thượng, tu hành độ chúng sinh mới là ý nghĩa của cuộc đời, là điều đương nhiên phải làm, cống hiến năng lực của mình, giảng pháp, mở rộng ra khắp thế giới, có đóng góp cho chúng sinh. Tu hành để hiểu rõ chân lý của vũ trụ: Chư hành vô thường. Chư pháp vô ngã. Niết bàn tịch tĩnh.
Tôi muốn dạy cho người đời về thật tướng, về tự tính thanh tịnh tâm của tất cả chúng sinh, tôi dạy về Pháp thân, Pháp tính, Như Lai tạng, Chân Phật. Tôi có thể từ tướng sinh diệt từ nhân duyên khởi dụng không?
Tôi phân vân rồi lại phân vân, rất muốn liều mình lao vào cửa thai, kết thúc kiếp này. Đã làm thì làm cho đến cùng, không nghĩ ngợi gì nữa, thu nhỏ thân thể nguyên thần lại, lao vào rốn của thiện nữ. Nhưng, nghe một tiếng quát từ hư không: "Liên Sinh, chớ có làm bừa, mau dừng lại! Mau dừng lại! Không được! Không được!" Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Đúng là Vô Cực Diêu Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, đầu đội mũ phượng, tay trái cầm đào tiên, tay phải cầm phất trần! Kim Mẫu nói: "Tại sao con vào thai này?" Nước mắt tôi chảy dài, đáp: "Sống chưa hẳn vui, chết có gì phải lo, con muốn đi!" Kim Mẫu hỏi: "Con có biết đây là thai nào không?" "Là thai của thiện nữ." "Tuy đúng là thai của thiện nữ, nhận xét của con không sai, nhưng sao Tử Vi chiếu mệnh, đây là thai của nhân vương, không phải thai của Pháp vương. Một khi con vào thai này, sẽ sống trong dinh thự nguy nga, ăn toàn sơn hào hải vị, ra ngoài có tài xế lái xe sang, người hầu vây quanh phục dịch, sinh ra là hoàng tử, tương lai là nhân vương." "Thật vậy sao?" - Tôi giật mình kinh hãi. "Một khi con làm nhân vương, con sẽ phải cai quản trăm họ của một quốc gia, nhưng con sẽ không được nghỉ ngơi, trong cuộc sống phải gánh vác vô số việc lớn nhỏ, dù có nhiều tinh thần đến đâu cũng sẽ bị thiêu đốt hết, thân mang phú quý, nhưng việc tu hành không thể xuất hiện trở lại, kiếp sau này của con, từ bỏ cuộc đời tu sĩ, nếm trải cảm giác phú quý, nhưng lại không còn thời gian cho bản thân, và kết cục là hưởng hết phú quý, tất cả trí huệ Phật trong kiếp sau đều tiêu tan." "Ôi!" - Tôi há hốc mồm. "Con có muốn nhập thai không?" Tôi lùi lại: "Không muốn!" Tôi hỏi Kim Mẫu: "Cuộc sống ở hồ Diệp Tử khi nào kết thúc?" Kim Mẫu nói: "Buông bỏ danh hiệu Liên Sinh Hoạt Phật tôn quý, cảm nhận cảm giác về không, thần hành và trí tuệ của con chẳng phải đã giải thoát rồi sao? Không còn giả dối, không còn nhút nhát, cũng không còn bản ngã, tất cả tự nhiên vô vi, rời xa thế tục đầy ganh ghét, oán hận, xảo trá, trở về với tự nhiên, đáng lẽ phải vui mừng chứ." "Thân con có bệnh tật." "Bệnh tật là bồ đề." - Kim Mẫu nói. "Con khi nào rời khỏi cõi đời này?" - Tôi hỏi tiếp. "Đến lúc sẽ biết." - Kim Mẫu đáp. Diêu Trì Kim Mẫu dẫn tôi thần hành đến một nơi, Kim Mẫu bảo tôi: "Để con xem thử tâm của đệ tử mà con nhớ nhung. Đây là người con nhớ nhất."
Tôi nhìn thấy cảnh này, thở hắt ra một hơi lạnh. Lòng vô cùng đau xót, người đệ tử mà tôi nhớ thương đã thay đổi. Thấy anh ta chặt nát pháp tướng Liên Hoa Đồng Tử, tháo bức ảnh lớn của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn xuống, thay bằng ảnh của một vị pháp sư khác. Hóa ra tất cả chư tôn Mật giáo trong đàn thành đều bị quét sạch. Anh ta nghe theo lời phỉ báng của người khác, liền ngưng tu tập Chân Phật Mật Pháp. Sách quy y, thọ giới, đốt hết thành tro, sạch sẽ không còn gì.
Sư phụ của anh ta giờ đã là người khác, không còn là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn nữa. Trước đây, tôi luôn ân cần dạy dỗ anh ta, tôi tin rằng anh ta sẽ là một người mạnh mẽ. Trí tuệ Như Lai vốn không phải người yếu đuối có thể kiên trì được, vì thế mà tôi bị người đời chê trách, nhưng, người mà tôi đích thân phó thác cũng không thể chịu đựng được sự rèn giũa của triết lý tự nhiên, kẻ yếu đuối không có tịnh tín, trong cảm xúc ẩn chứa nghi ngờ, sợ hãi, giả dối... Đã thay đổi rồi. Tâm vô thường.
Anh ta đi theo các pháp sư khác, trong xã hội này, pháp sư tràn lan, ai cũng có một bộ giáo lý riêng, chỉ có ai là người tinh tường mới có thể phân biệt được: Chính pháp. Bàng môn. Tà pháp. Anh ta xem tôi là "kẻ mượn danh Phật", đã coi vị sư phụ hiện tại là biểu tượng của chính pháp, tôi thấy tâm của anh ta đã suy đồi và hư hoại từ lâu, anh ta đã ảnh hưởng đến các hành giả Chân Phật khác, họ đi theo anh ta, nhiều đệ tử trong lòng yếu đuối.
Vốn dĩ tôi là hành giả dũng cảm nhất, nghị lực của tôi phi thường, nhưng khi thấy đệ tử mà mình nhớ thương đã thay lòng đổi dạ, tôi không thể kiềm chế nỗi đau trong lòng, gánh nặng quá lớn, trong thoáng chốc, suýt chút nữa thì suy sụp, không muốn độ chúng sinh nữa. Kim Mẫu an ủi tôi rằng vẫn còn rất nhiều đệ tử tốt. Kim Mẫu bảo tôi: "Vô vi." Kim Mẫu bảo tôi: "Tùy thuận." Kim Mẫu bảo tôi: "Tùy duyên an trú. Mọi khúc mắc rồi sẽ tan biến, mọi gánh nặng sẽ không còn tồn tại."
20. Tộc người lắc đầu trong hư không
Trong thần hành. Tôi thấy một nhóm "thân trung ấm" tụ tập trên không trung, họ dường như không biết đi đâu về đâu, trí tuệ chưa khai mở, không thể phân biệt đây là tình huống gì. Họ chỉ biết lắc đầu lay động, không có khả năng phán đoán, hoang mang giữa hư không mênh mông, hoàn toàn lạc lối, tôi gọi những người này là "tộc người lắc đầu" trong hư không.
Ở cõi Ta Bà, tôi biết có "tộc người lắc đầu", vậy "tộc người lắc đầu" là gì? 1. Chỉ biết theo đuổi niềm vui ảo. 2. Dùng thuốc lắc. 3. Sống theo cảm tính. 4. Ham cao chuộng xa, không thực tế. 5. Tâm lý thích náo nhiệt. Tôi thấy rằng, những người này chưa từng trải qua rèn luyện, cũng chưa từng chuyển hóa tâm tính, hoàn toàn không có tu hành, họ không biết sống để làm gì? Cũng không biết chết để làm gì? Chỉ thể hiện cái tâm chấp trước tìm kiếm khoái lạc kích thích mà thôi.
Giới trẻ ngày nay đã sa đọa và hoang mang hơn, không ai dẫn dắt họ nên cuộc đời trôi qua vô ích. Cả đời chỉ biết theo dòng người và trôi qua các giai đoạn: Học hành. Sự nghiệp. Hôn nhân. Sinh con đẻ cái. Bệnh tật tuổi già. Cái chết. Đây là quá trình sống của mỗi người, ai cũng giống nhau cả, vì thế mà giới trẻ cảm thấy vô vị, rồi tự đánh lừa bản thân, trở thành một phần của tộc người lắc đầu đi tìm khoái cảm kích thích.
Tôi tìm thấy một người trong tộc người lắc đầu giữa hư không và hỏi: "Các người đang làm gì ở đây?" Tộc người lắc đầu trả lời: "Không biết." "Tụ tập để làm gì?" Đáp: "Chán quá." "Có biết tâm không?" Đáp: "Tâm là gì?" Tôi hỏi tiếp: "Thể xác của các người đâu?" Đáp: "Biến mất rồi!" "Các người có hiểu thế nào là tịnh hóa, chuyển hóa, độ hóa bản thân không?" Đáp: "Không biết."
Tôi không thể hỏi thêm được nữa, hỏi cũng vô ích thôi, những "tộc người lắc đầu" trong hư không này quả thật mang đầy đủ tướng phàm phu. Cả đời họ chỉ biết ham muốn xác thịt, không bao giờ tự nhận biết tâm tính của mình hay sự giác ngộ bên trong, họ chưa từng gặp được pháp duyên, dù có gặp pháp duyên cũng bỏ lỡ, chưa từng giác ngộ, chưa từng tu hành. Quả thật là: Phàm phu không biết tâm đầy đủ. Lục thông vô ngại khác người thường. Chưa từng dùng tâm để tu trì. Không đổi thân Phật mãi phàm phu.
Tôi xúc động nói với tộc người lắc đầu rằng, đời người có một nhân duyên lớn, đó chính là tu hành. Nếu không tu hành, linh hồn sẽ thoái hóa, nhân loại sẽ hư hoại, vậy thì có gì khác với những loài động vật vô kỷ luật kia?
Thánh nhân nói: "Ăn uống, sắc dục, là bản tính!" - đó chính là nói về bản tính con người thông thường. Nhưng con người sống không phải chỉ vì ăn uống, sắc dục mà thôi. Nếu chỉ có ăn uống sắc dục, thì người với thú có gì khác nhau? Tộc người lắc đầu dùng thuốc lắc, chỉ tạo ra đám đông tò mò và cảm giác khoái lạc nhất thời, thật vô nghĩa, phụ phàng cả một kiếp người.
Chỉ có sự giác ngộ vĩ đại mới có thể tạo ra ánh sáng thanh tịnh của trí tuệ, vượt qua tứ sinh lục đạo luân hồi, vượt qua u tối của tam đồ.
Lắc đầu là sự hủy hoại tâm hồn, là sự giết chết thời gian một cách vô vị, những bài học đau thương là do chính con người tự chuốc lấy, không bao giờ tìm thấy ánh sáng trong tâm. Các người đã tìm thấy chính mình chưa? Chính mình là gì?
Có người hỏi tôi: "Ông là ai? Ông là thánh nhân phải không?" Tôi đáp: "Tôi không phải thánh nhân, tôi chỉ là một người ở ẩn, một người ở ẩn đã tìm thấy chính mình." "Vậy ông tìm thấy chính mình là gì?" "A Di Đà Phật." "Ông là A Di Đà Phật sao?" Có người nghi ngờ, có người bật cười.
"Sao không quy y A Di Đà Phật và về Tây phương tịnh thổ?" Có người xúi giục: "Cuộc đời này vừa nhàm chán vừa vô giá trị, văn minh khoa học mang đến tai họa, con người ngày càng man rợ, giết người, đốt phá, cướp bóc, xã hội đầy bạo lực. Chỉ có tộc người lắc đầu chúng tôi mới hiểu được cái không, cái vô, chúng tôi tìm kiếm không gian sống cho riêng mình, chỉ cần vui vẻ ở hiện tại là được, mặc kệ Tây phương Cực Lạc hay thanh tịnh quang minh gì đó." "Đúng vậy!" - Có người phụ họa. "Chuẩn luôn, đây mới là hiện tại!" Những đạo lý tôi giảng giải đều trở nên vô ích.
Tôi kêu lớn: "Nếu biết mộng ảo không thật, hãy tìm thân tâm an lạc!" "Làm sao để thân tâm được an?" Tôi ngâm kệ: Tự thân vốn là Di Đà Phật Chẳng cần tu trì đã hiển bày Hướng vào nội tâm mà tìm cầu Di Đà xuất thế chính lúc này.
Một người trong số họ đã nghe và từ bỏ tộc người lắc đầu, theo tôi niệm Phật mà đi! Chúng tôi thần hành được một đoạn đường thì gặp sứ giả bắt hồn. Sứ giả bắt hồn nói với tôi: "Tôi đang định đi bắt tộc người lắc đầu đây!" "Tộc người lắc đầu sẽ bị đưa đến cảnh giới nào?" - Tôi hỏi. Sứ giả bắt hồn đáp: "Theo nhân duyên mà nói, vì họ lắc đầu lắc đuôi, vì đánh mất chính mình, không biết nhìn trước ngó sau, nên sẽ bị đưa về thế giới côn trùng." "Thế giới côn trùng!" - Tôi kinh hãi.
Người đi theo tôi nghe xong thè lưỡi, cảm thấy may mắn vì mình không có gì phải hối tiếc. Chỉ có tìm ra bản tính của chính mình, khai mở trí tuệ nội tại để nỗ lực, trải qua rèn luyện, tinh tấn, đó mới là giá trị của cuộc đời. Nếu chỉ tìm kiếm kích thích trong đời, chính là tự mình chà đạp thời gian năm tháng, đánh mất phương hướng sáng tỏ của chân tướng.
21. Thần hành đến nhà của đệ tử
Trong lúc thần hành. Tôi nghe thấy tiếng kêu thảm thiết: "Om guru liansheng siddhi hum. Sư Tôn cứu con với! Sư Tôn cứu con với!" Tôi dừng chân, bước vào nhà một đệ tử, ban đầu tưởng chẳng có chuyện gì nghiêm trọng, chắc là có người sắp chết nên mới khóc than thảm thiết như vậy. Đệ tử này chắc chắn đã từng nghe tôi thuyết pháp, vì anh ta đốt "hương hai đầu", tức là hương cầu cứu khẩn cấp. Bình thường chỉ cần đốt một đầu là đủ, nhưng anh ta đốt cả hai đầu, đặt trong lư hương nằm, nên rất dễ cảm ứng.
Khi đến nhà anh ta, tôi giật mình kinh ngạc, hóa ra trong nhà chỉ có vợ chồng và một đứa con, tổng cộng ba người mà thôi. Nhưng, trong nhà lại có ba mươi con ma vô hình đang cư ngụ.
Người đệ tử này mua một căn nhà có âm khí nặng, mới dọn vào không lâu, đã lập đàn thành, mặc dù đàn thành cũng được kết giới, nhưng do âm quỷ quá mạnh nên đã xâm nhập cả vào đàn thành. Ba mươi con ma này vốn đã cư ngụ trong căn nhà. Sau khi kết giới, ngược lại khiến chúng khó chịu. Ba mươi con ma này rất giỏi quấy phá. Chúng hiện hình cho đứa trẻ thấy, khiến nó kêu thét, sợ đến sinh bệnh, ngày đêm không ngủ được, trở thành trẻ tăng động.
Vợ chồng hai người cũng liên tiếp mắc bệnh lạ. Tỉnh dậy thấy da thịt chỗ thì bầm tím, chỗ thì đỏ ửng, trong mơ bị ma đánh rất đau. Tường có tiếng kỳ lạ, đồ đạc tự dịch chuyển, ống nước vỡ, gas rò rỉ không rõ nguyên nhân, đèn điện lúc sáng lúc tắt, nghiêm trọng hơn là trên mái nhà có tiếng bước chân, hai, ba mươi người, xếp hàng tiến bước, trong nhà thoang thoảng mùi tử khí. Còn nữa...........
Một ngày nọ, vợ chồng đang cùng tu trước đàn thành, sau khi tu pháp xong, nhìn về phía đàn thành, bỗng thấy các vị tôn trên đàn thành đều nhe răng, le lưỡi dài ra, cười khúc khích điên dại, khiến hai vợ chồng hoảng sợ la lên có ma. "Viết thư đến Chân Phật Mật Uyển ở Seattle ở Mỹ đi." "Sư Tôn đã ẩn cư rồi." "Nhưng Không Hành Mẫu sẽ chuyển tin đến Sư Tôn, Sư Tôn nhất định sẽ tu pháp." "Thư thì tôi sẽ viết, nhưng tôi phải đốt hương hai đầu." "Hương hai đầu là gì?" "Sư Tôn dạy rằng, khi khẩn cấp thì đốt hương hai đầu để cầu cứu."
Khi tôi thần hành đến nhà đệ tử và thấy hơn ba mươi âm linh này, thật ra việc trong nhà có âm linh (linh hồn) là chuyện bình thường. Có nhà thì có linh hồn tổ tiên, linh hồn trẻ thơ. Có nhà thì có linh địa chủ, linh thổ địa. Có nhà thì có linh khách viếng thăm, linh người thân. Có nhà thì có linh thần, linh cư ngụ. Miễn là mọi việc bình an, ai sống cuộc đời của người nấy, không làm phiền nhau, thì đó là chuyện bình thường.
Khi tôi vừa đến nhà đệ tử, đám quỷ giật mình kinh ngạc: "Ngươi là ai?" Tôi đáp: "Quỷ Vương." "Quỷ Vương ư? Không giống?"- Đám quỷ nghi ngờ.
Trong dịp Trung Nguyên phổ độ, tôi đã từng gặp hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát là Tiêu Diện Quỷ Vương, nên tôi liền biến thành Tiêu Diện Quỷ Vương. Quỷ Vương đầu đội mũ Quỷ Vương, phía trên có chủ tôn Quan Âm, tóc vàng xõa rủ bay phất phơ bốn phía, mặt mũi đen nhẻm như cháy, mắt trợn trừng hung dữ, răng trắng ởn nhô ra ngoài, lưỡi đỏ như máu thè ra, tay phải cầm gông xiềng trói quỷ, tay trái cầm gậy đánh quỷ. Đám quỷ vừa thấy, hoảng hốt kinh hãi. Tán loạn bỏ chạy tứ phía.
Nhưng tất cả đều bị thiên la địa võng bắn trở lại, hơn ba mươi con quỷ không một con nào thoát được, chúng rất ngạc nhiên, không biết ta sẽ xử trí chúng thế nào, chúng run rẩy sợ hãi, từng con một toàn thân phát run. Đám quỷ cầu xin tôi: "Chúng tôi không muốn đầu thai!" Tôi nói: "Các ngươi quấy phá quá đáng rồi." Chúng cúi đầu không nói. Tôi hỏi: "Các ngươi còn chỗ nào để đi không?" Chúng đáp: "Chúng tôi vốn sống ở cây đa lớn, sau đó cây đa bị đốn đi, trở thành một con đường, vì không có chỗ nương thân nên mới đến ở căn nhà này, giờ đây, Tiêu Diện Quỷ Vương đã đến, chúng tôi không biết phải làm sao." Tôi hỏi: "Có muốn về Tây phương không?"
Chúng mở to mắt: "Chúng tôi đã trêu chọc đứa trẻ, khiến nó khóc lóc làm loạn, quấy phá vợ chồng họ, không bị đọa địa ngục đã là may lắm rồi, vậy mà Tiêu Diện Quỷ Vương còn muốn đưa chúng tôi về Tây phương, có phải nhầm phương hướng không?" Tôi nói: "Tôi sẽ đưa các người về hồ Diệp Tử của tôi trước, tôi sẽ dạy các người Phật pháp, cùng nhau học Phật pháp, tự nhiên sẽ được vãng sinh Tây phương."
Cuối cùng tất cả bọn chúng đều gật đầu, theo tôi về hồ Diệp Tử. Tại hồ Diệp Tử còn có rất nhiều quỷ vật đang theo tôi học Phật pháp đấy! Tôi tùy theo căn cơ, từ nông đến sâu. Niệm Phật tam muội. Ban chu tam muội. Tiểu thừa thiền. (Ngã không) Đại thừa thiền. (Ngã pháp đều không) Nhất hạnh tam muội. Chân như tam muội. Dạy họ trì minh, Hộ Ma, Tam ma địa.
Đây chính là: "Về nguồn tính bất nhị, phương tiện có nhiều cửa, thánh tính thông tất cả, thuận nghịch đều tiện lợi."
Tôi cũng dạy họ rộng tu phúc huệ, tích lũy công đức. Từ tư lương vị đến gia hành vị, từ gia hành vị đến kiến đạo vị, trong một sát-na lên sơ địa, tức được căn bản trí, rồi từ căn bản trí đến nhất thiết chủng trí, chứng ngộ thật tướng các pháp.
Một ngày nọ, tôi làm cúng dường cơm trắng, từng bát cơm trắng một, bày thành một hàng, thành một mặt, thành cả một khoảng không gian rộng lớn đầy ắp cơm trắng. Khiến các quỷ thần được no đủ. Khi các quỷ thần đang ăn cơm trắng. Một con quỷ đứng dậy nói với tôi: "Năm ngoái Sư Tôn nói sẽ đưa chúng con về Tây phương, nhưng chưa về được Tây phương, nay đến hồ Diệp Tử đã tròn một năm, mới biết đây chỉ là hồ Diệp Tử, chứ không phải Tây phương Cực Lạc thế giới!" Nghe xong, tôi lặng thinh không đáp.
Lại có một con quỷ đứng dậy nói: "Nay tôi đã hiểu được một pháp, chỉ cần nhắm mắt rồi mở mắt ra, đã là Tây phương Cực Lạc thế giới, nếu không hiểu được điều này, thì không phải là đệ tử của Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." Con quỷ thứ ba đứng dậy nói: "Cuối cùng tôi đã hiểu, tôi đã được diện kiến A Di Đà Phật!" Con quỷ thứ tư đứng dậy nói: "Khi Phật Đà ngày xưa thuyết giáo, là tùy theo căn cơ chúng sinh, có người dần dần minh tâm kiến tính, có người đốn ngộ tức thời minh tâm kiến tính. Có Tiểu thừa, Đại thừa, Kim Cương thừa, có không có có. Có tiểu, thủy, chung, đốn, viên. Có tạng, thông, biệt, viên. Tất cả đều rõ ràng minh bạch."
Lúc này, trong không trung hiện ra ánh sáng, mỗi luồng sáng khác nhau, đám quỷ vô cùng kinh ngạc và vui mừng. Có kẻ thấy ánh cầu vồng, có kẻ thấy ánh sáng đơn sắc, có kẻ thấy ánh sáng tràn ngập, có kẻ thấy ánh sáng nhỏ như hạt đậu, có kẻ thấy ánh sáng như mưa rơi, có kẻ thấy ánh sáng như một ngón tay, có kẻ thấy ánh sáng to như đấu, mỗi người thấy một khác. Lại có mây lành sáng rực, bay lên, khi chìm khi nổi, khi to khi nhỏ.
Trong đám mây lành, một Quỷ Vương xuất hiện, chính là Tiêu Diện Quỷ Vương hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Tuy hình dáng Quỷ Vương khiến người ta khiếp sợ, nhưng ánh sáng rực rỡ tỏa ra khiến người nhìn thấy cảm thấy mát lành trong tâm. Đây chính là tướng bất khả tư nghì của Như Lai, là bản tâm từ bi cứu độ chúng sinh vậy.
Tiêu Diện Quỷ Vương nói: Hư không vô phân biệt. Thiên nhân bất động chúng. Thanh tịnh trí hải sinh. Như Tu Di sơn vương. Thắng diệu vô quá giả. Thiên nhân trượng phu chúng. Cung kính nhiễu Liên Sinh. Hoạt Phật bản nguyện lực. Tuyệt vô không quá giả. Năng linh tốc mãn túc. Công đức đại bảo hải. Như Di Đà trụ trì.
Tôi chắp tay. Đám quỷ chắp tay. Tiêu Diện Quỷ Vương nói: "Thế giới Cực Lạc có cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cõi Phàm Thánh Đồng Cư này cũng chia làm hai loại: đầu tiên gọi là Đồng Cư Uế, tiếp theo gọi là Đồng Cư Tịnh. Đồng Cư Uế đầu tiên chính là loại như Ta Bà này, những người ở trong đó có cả phàm lẫn thánh. Hôm nay Liên Sinh Hoạt Phật không hề nói dối, hồ Diệp Tử có cả phàm lẫn thánh, đây chính là Đồng Cư Uế vậy. Ta nay hiện thân, là thấy các ngươi đã dần dần đốn ngộ được thanh tịnh, nên lời hứa không mất, sẽ đưa mọi người đến cõi Phật Cực Lạc Đồng Cư Tịnh, quả báo thù thắng, không gì có thể sánh được." Đám quỷ vui mừng nhảy nhót. Tôi liền chắp tay lễ kính: "Nam mô ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật, chỉ mong chúng sinh, thường niệm danh Phật, đều được cứu độ."
22. Sơn Đại Vương mời khách
Trong thần hành. Tôi bay qua một đỉnh núi cao, ngọn núi này không phải tầm thường, tuy không sánh được với năm ngọn núi nổi tiếng là Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn, Tung Sơn, cũng không phải là Côn Lôn Sơn. Nhưng, ngọn núi này hội đủ "lý khí". Chấn sơn tầm long thuộc quẻ khí, Chấn cần quẻ khí chính cư đông, Chấn sơn mười lăm ba mươi bước, Trâu dê phú quý càng anh hùng. Khảm chiết thủy khí bước lên non, Đo non bước nước biết huyền bí, Phụ mẫu càn khôn huyệt cần tri, Mão dậu sớm chiều định tiết khí.
Ngọn núi này, cây cối xanh tươi đẹp đẽ, dòng nước uốn lượn bao quanh, núi đá hình thù kỳ lạ, tự nhiên hòa quyện, giữa gió mây, như một chốn động thiên phủ địa của thần tiên vậy.
Ngọn núi này, thực ra cũng có động tĩnh, động là mây nước, tĩnh là cây đá, cái gọi là âm dương động tĩnh, chính là nguồn gốc tu luyện của thần tiên vậy, thần tiên thành tựu tính mệnh, tu công luyện khí, trời đất người hợp nhất, tự nhiên với thần tiên là một thể.
Cái gọi là: Đạo ở trong ta. Ta ở trong Đạo. Không trong không ngoài. Hoàn toàn là một.
Khi tôi thần hành qua ngọn núi này, không khỏi nhớ lại, ngày xưa, khi xem thiên văn quan sát địa lý, ngọn núi này quả thật là một ngọn núi đẹp.
Bất chợt, tôi thấy trên đỉnh núi, có rất nhiều người đứng, thực ra họ đều không phải là người, nhìn hình dáng khí chất, không giống thần tiên, cũng không phải là yêu tinh thủy quái, có lẽ là những vị thần nhân được hình thành nhờ địa linh. Tôi chắp tay. Họ cũng chắp tay.
Một người trong số họ nói: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, Sơn Đại Vương của chúng tôi mời ngài tham dự đại tiệc." "Ồ! Ngươi biết ta sao?" - Tôi rất ngạc nhiên. "Ẩn sĩ hồ Diệp Tử, ai mà không biết!" Tôi thầm nghĩ: "Hội không phải hội tốt, tiệc không phải tiệc lành, người thiện không đến, kẻ đến không thiện." (Tuy nghĩ vậy, nhưng không tiện nói ra.) Tôi hỏi: "Sơn Đại Vương là ai?" Đáp: "Gặp mặt sẽ biết."
Tôi cũng không khách sáo, đi theo đám đông, bước vào một động thiên phủ địa, động thiên phủ địa này toàn được làm bằng ngọc thạch, tỏa ánh sáng u tối, chính giữa là Bạch Ngọc Đường, lầu gác khắp nơi, đài trang hoàng bảy báu, lan can làm bằng san hô, vườn tược gấm hoa, quả thực chẳng thua kém gì cung điện của vua chúa trần gian.
Trong đại sảnh, những chiếc ghế sang trọng đã được bày biện. Nhiều người đã an tọa trên ghế. Một chỗ ngồi được dành cho Sơn Đại Vương, và một vị trí chủ tọa khác, không ngờ lại dành cho tôi. Trong lòng tôi nghĩ, rõ ràng đây là việc đã được sắp đặt từ trước. Sơn Đại Vương bước ra, mặc áo lông vũ thông thiên. Vừa nhìn thấy, tôi vô cùng kinh ngạc, hóa ra đó là một người bạn tu đạo từ nhiều năm trước, họ Thái. Ông ta chủ trương trong thân người có ba vạn sáu nghìn vị thần, trấn giữ các bộ phận trong cơ thể, người tu đạo cần điều khí sinh tân, giữ gìn tinh khí thần, tồn tưởng niệm chân, tĩnh tọa thủ nhất.
Đạo sĩ họ Thái trì tụng "Hoàng Đình Kinh", niệm chú kim quang, phục khí, nuốt nước miếng, tu thanh tịnh. Ông ta thích: Quan sát ánh sáng của nhật nguyệt tinh. Nhắm mắt lắng tâm thông thiên giới. Tu tập tồn tưởng. Hóa ra ông chính là Sơn Đại Vương.
Chúng tôi gặp nhau rất vui mừng, ông ấy mời tôi dùng cơm và giới thiệu cho tôi gặp mọi người, có người quen, có người không quen. Sơn Đại Vương họ Thái quả thật có tấm lòng thành, những món ăn được bày ra không chỉ là sơn hào hải vị, mà gần như toàn là những món quý hiếm trong động phủ thần tiên, thường ngày không thể nào được thưởng thức. Những món ngon này được chuẩn bị đặc biệt: Sen nở rực rỡ. Tâm đài hoa. Bột ngọc trai long lanh. Nhân sâm ngọt như mật. Hoa nghìn cánh kỳ lạ. Rượu tiên tự nhiên. Tôi ăn uống thật vui sướng, những món này ở nhân gian hoàn toàn không thể nào được thưởng thức. Không ngờ chúng tôi đã lâu không gặp, hôm nay tái ngộ lại có một phen thịnh tình như vậy, tôi dường như không còn gì tiếc nuối, nhân duyên như thế này quả thật là nghìn năm một thuở, không phải ngẫu nhiên. Cơm ngon rượu say.
Sơn Đại Vương nói: "A Di Đà Phật và phàm phu, tuy có khác biệt giữa mê và ngộ, nhưng tâm Phật và tâm chúng sinh, rốt cuộc không hai." Tôi nói: "Cõi Tây phương An Lạc, cách đây mười vạn ức, với tâm nhỏ bé của tôi, vốn không có gì khác biệt." Sơn Đại Vương nói: "Thế này thì tốt rồi, vốn không có gì khác biệt, lần này, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn nhất định phải giúp một tay!" Tôi nghe xong, sững người. "Giúp việc gì?" Sơn Đại Vương nói: "Lần này mời ngài đến, không có việc gì khác, chỉ vì ở ngọn núi này của tôi có rất nhiều kỳ nhân tu đạo, có người tu 'thiên nguyên', có người tu 'cổ kính', có người tu 'thoát xác', có người tu 'nội cảnh', có người tu 'bản chân', có người tu 'đan hỏa', có người tu 'phi kiếm', có người tu 'âm dương'... Những người tu đạo này trình độ không đồng đều, có mấy vị đạo sĩ đã lên thiên giới, trộm sách quý của thiên giới, lại trộm cả rượu tiên tự nhiên, vì thế đã phạm thiên điều..." "Á!" - Tôi vô cùng kinh hãi.
Hóa ra những món ăn tôi vừa dùng không phải là cao lương mỹ vị của trần gian, cũng không phải là thức ăn thông thường của địa cư thiên, mà là đồ trộm được từ thiên giới, lần này tôi ăn trộm của ngon trên thiên giới, chẳng phải cũng đã phạm thiên điều rồi sao, phải làm sao đây, lẽ ra tôi không nên tham ăn như vậy.
Sơn Đại Vương nói với tôi: "Mời ngài đến đây là bất đắc dĩ, xin hãy tha thứ. Bởi vì chúng tôi có đạo sĩ giỏi về bói toán, chuyên tinh nghiên cứu, biết phép xem đèn, thuật Hoàng Cực Dịch, phép tính phúc lộc của bốn dân [sĩ, nông, công, thương], phép Ất Kỷ, phép chiêm tinh và các thuật khác. Họ biết được ngọn núi quý này sẽ bị lửa trời thiêu rụi." "Núi bị thiêu rụi thì sao?" - Tôi hỏi. "Khi núi này bị thiêu, các đạo sĩ tu hành trong núi không còn chỗ để đi, động phủ của tôi sẽ hóa thành tro tàn, cỏ cây muông thú trên núi đều hóa thành tro bụi! Tất cả đều trở về hư không." "Sao lại ghê gớm đến thế?" "Đó là Hỏa Nha Trận." Sơn Đại Vương và các đạo sĩ đều nhìn tôi, tôi sững người.
Sơn Đại Vương và các đạo sĩ cùng chắp tay hướng về phía tôi: "Chúng tôi biết Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn và Thần Chúc Dung (Thần Lửa) là chỗ thâm giao, xin nhờ Hoạt Phật nói giúp một tiếng với Thần Chúc Dung." "Đã phạm thiên điều, làm sao còn thương lượng được!" - Tôi gãi đầu. "Mạng sống của chúng tôi đều trông cậy vào Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, mong ngài ra tay cứu giúp, ra tay cứu giúp!"
Một đạo sĩ bỗng quỳ xuống. Có người nghẹn ngào ngâm thơ: Công án đã thành không thương lượng. Đã phạm thiên điều phải đốt núi. Chỉ cầu Di Đà đại bi độ. Xin chiếu một tia bạch liên quang.
Tôi thở dài, biết rằng Sơn Đại Vương và các đạo sĩ, tuy chưa tu thành tiên, nhưng cũng không phải yêu ma quỷ quái, trong lòng tôi đã nảy sinh lòng từ bi thương xót, tôi nghiến răng, gật đầu, quyết định không thể không giúp việc này. Sơn Đại Vương họ Thái và các đạo sĩ nói: "Quả nhiên nghĩa khí!" Tôi nói: "Dù có linh đơn trường sinh, dù có vạn phép tu luyện, không bằng gấp tu chính pháp, tịnh thổ mới là an lạc." Mọi người gật đầu. Lần thần hành này của tôi, quả thật là để ngăn cản đường đi của Thần Chúc Dung trong Hỏa Nha Trận. Tôi cố ý hỏi: "Đi đâu đây?" Chúc Dung đáp: "Đốt núi." "Đốt núi, nhưng núi rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu, lớn cỡ nào?"" Chúc Dung lúc này bị tôi hỏi đến cứng họng. Theo tôi biết, Thần Chúc Dung là hậu duệ của Thần Mặt Trời Viêm Đế, Thủy Thần Cộng Công cũng vậy, Thổ Thần Hậu Thổ cũng thế, Thần Thời Gian Ế Minh cũng vậy, Viêm Đế có một người con gái, chính là Diêu Cơ, cũng chính là Vân Hoa phu nhân ở Vu Sơn/
Theo như Vân Hoa phu nhân kể với tôi: "Tận cùng phương Nam, Xích Đế Chúc Dung cai quản một vùng rộng một vạn hai nghìn dặm. Vợ của Viêm Đế sinh ra Viêm Cư, Viêm Cư sinh ra Tiết, Tiết sinh ra Hí Khí, Hí Khí mới sinh ra Chúc Dung, vị Chúc Dung này không hiểu về con số, chỉ biết đốt lửa, chẳng quan tâm lớn nhỏ." Vì thế tôi mới hỏi Chúc Dung rộng bao nhiêu dài bao nhiêu lớn cỡ nào? Chúc Dung lập tức cứng họng.
Tôi nói: "Hãy đốt một cây ở Nam Sơn đi!" "Như thế sao gọi là đốt núi được?" - Chúc Dung nói. Tôi nói: "Chẳng phải ngươi đã nghe, một đốm lửa nhỏ có thể thiêu rụi cả đồng hoang. Đốt một cây ở Nam Sơn, từ một cây sẽ lan sang nhiều cây, rồi cả núi sẽ cháy, như vậy chẳng phải là đốt núi sao?" Thần Chúc Dung cười ha hả: "Nói cũng phải."
Thần Chúc Dung dẫn Hỏa Nha Trận chỉ đi đốt một cây ở Nam Sơn. Lần này, tất cả các con quạ lửa đều thong dong, chỉ một con quạ phun lửa rồi rút quân về, coi như xong việc.
Tôi đã mời Thần Thủy Ngọc canh giữ bên cạnh cây ở Nam Sơn. Khi quạ lửa vừa phun lửa xong và quay đi, Thần Thủy Ngọc liền phun nước dập tắt ngọn lửa. Nếu không dập tắt thì quả thật sẽ cháy núi. Có thể thấy lửa rất lợi hại, giống như nơi ở của Diêu Trì Kim Mẫu, bên ngoài được bao bọc bởi nước, xung quanh là núi lửa, trong núi đều sinh trưởng giữa lửa cháy, mưa to cũng không dập tắt được, vì thế phong cảnh tuyệt đẹp ở Diêu Trì thật khó mà đến được!
Nghe nói: Sơn Đại Vương họ Thái và các đạo sĩ vô cùng cảm kích tôi. Sau này, nhiều người trong số họ tu tập pháp môn Di Đà, phát nguyện hành trì và vãng sinh về cõi tịnh thổ Tây phương Cực Lạc. Thiên Đế (Đao Lợi Thiên Chủ) cũng biết chuyện này. Ngài đã quở trách Thần Chúc Dung. Thiên Đế rất bao dung với Thần Chúc Dung, có lẽ vì hai vị là họ hàng xa, hoặc có lẽ vì từ lâu đã biết bản tính của Thần Chúc Dung là như vậy.
Thiên Đế cũng biết việc này do tôi làm, biết thần hành của tôi cũng lấy lòng từ bi cứu độ chúng sinh làm khởi điểm, có thể nói là nương nhờ Phật lực từ bi, thống nhiếp các căn cơ, không sót một ai, ngay cả những phàm phu nghịch ác cũng không để sót một người, đây gọi là che chở hết người thượng-trung-hạ căn, thu nạp hết cả người giỏi lẫn người kém.
Thời kỳ mạt pháp, căn cơ con người thấp kém, có đạo sĩ tu tiên tất nhiên phải độ, lại càng không bỏ những phàm phu bị trói buộc, cứ thế mà làm thôi!
Nhân việc này, viết một bài kệ: Người bảo Cực Lạc là nhà ta Tự cười thần hành núi nước xa Một điểm từ tâm treo ánh tà Việc đời huyễn ảo gửi không hoa.
23. Cũng là thần hành
Trong thần hành. Tôi thấy một người đang thần hành rất kém cỏi. Tại sao gọi là kém cỏi? Thứ nhất, anh ta bay rất thấp; thứ hai, phong thái thô thiển, không tự chủ được; thứ ba, anh ta phát ra ánh sáng mờ.
Tôi đặc biệt chú ý người này. Tại sao phải chú ý? Anh ta không giống Phật Bồ Tát, cũng không phải tiên, không phải thần, không phải thân trung ấm (linh hồn), cũng không phải tinh linh (sơn tinh thủy quái). Rõ ràng đây chỉ là một người, sao lại có thể thần hành được?
Tôi đành phải đi theo anh ta, vì tôi cảm thấy người này khá nguy hiểm, thần hành của anh ta lảo đảo chao đảo, như người say rượu lái xe vậy. Tôi đi theo anh ta, may mắn là không xảy ra chuyện gì, sau khi theo dõi một lúc, anh ta cuối cùng cũng tìm được đường về chỗ của mình, tôi để ý nơi này và giật mình, hóa ra là bệnh viện tâm thần.
Thì ra người thần hành này là bệnh nhân tâm thần, anh ta đang mơ, linh hồn chạy ra ngoài, đi lang thang khắp nơi. Tôi không nhịn được cười. Hóa ra đó là một người "vô gia cư" về mặt tinh thần. Ban đầu tôi không muốn để ý đến người này, nhưng tôi phát hiện ra một điều kỳ lạ, hóa ra trên người anh ta phát ra ánh sáng lờ mờ, khi tôi nhìn kĩ ánh sáng đó, thì đó là một lá bùa hộ thân, một lá bùa hộ thân của Chân Phật Tông, chính nhờ ánh sáng của lá bùa hộ thân này mà anh ta mới tránh được sự nhập thân của sơn tinh thủy quái và các loại yêu ma quỷ quái. Lá bùa hộ thân này là ai cho vậy? Tôi kiểm tra thì mới biết hóa ra người dì của anh ta là đệ tử Chân Phật Tông.
Người này khi phát bệnh, ban đầu là mộng du, sau đó nằm xuất thần, tỉnh dậy nói toàn những câu chuyện thần thoại kỳ quặc. Lúc thì nói mình là Ôn Phủ Thiên Tuế. Lúc thì nói mình là Hồng Hài Nhi. Lúc thì nói mình đánh nhau với Tôn Ngộ Không. Lúc thì nói mình đã ăn trộm đào tiên của Diêu Trì Kim Mẫu, rồi đánh nhau với mười hai tiên cô, và các tiên cô đều thua. Rồi lại nói Tế Công Hoạt Phật phái mình xuống trần gian để cứu độ chúng sinh, còn uống rượu tiên của Tế Công Hoạt Phật nữa. Tóm lại, những câu chuyện kiểu này nhiều vô kể........
Do anh ta đeo bùa hộ mệnh của tôi, sau nhiều ngày quan sát thần hành, tôi phát hiện tâm thần anh ta rối loạn, nguyên thần bất ổn, độ nhạy cảm cao, ảo giác và ảo tưởng xuất hiện đầy rẫy, nghiệp chướng chất chồng.
Vì anh ta thờ cúng Ôn Phủ Thiên Tuế, nên hiểu lầm mình là hóa thân của Ôn Phủ Thiên Tuế, thay trời tuần tra, nghênh ngang tự đắc. Khi anh ta thần hành vào rừng, bị khỉ vây đánh, anh ta tự cho mình là Hồng Hài Nhi đánh nhau với Tôn Ngộ Không. Khi thần hành, anh ta ăn trộm táo trong vườn, có mười hai con bướm bay quanh, anh ta lại bảo mình ăn trộm đào tiên của Diêu Trì Kim Mẫu, đánh nhau với mười hai tiên cô, các tiên cô đều thua chạy, thực ra không phải tiên cô mà là bướm. Anh ta uống nước bẩn ở nghĩa địa, lại bảo đó là rượu tiên. Tự mình điên điên khùng khùng, lại bảo Tế Công Hoạt Phật sai xuống trần gian cứu đời. Tự ăn một con sâu róm, rồi bảo đã đánh bại Bạch Nương Nương. Đó chính là hành vi của vị huynh đệ bệnh tâm thần này.
Điều khiến tôi kinh ngạc nhất là anh ta kể đã từng đến Tây phương Cực Lạc, quả nhiên có làn gió vi diệu nhẹ nhàng, quả nhiên có tiếng chim hót, quả nhiên muốn ăn gì được nấy, quả nhiên muốn mặc gì được nấy, nơi ở rất tự tại tiêu dao, có thể tùy ý du hành đến bất kì thế giới nào, không phải lo lắng gì cả, không cần làm việc, đất đai tự nhiên sinh ra mọi thứ.
Tôi kiểm tra một lúc mới phát hiện ra. Anh ta thần hành đến nước Cây Dâu. Cây dâu rất lớn, quả thật có gió nhẹ thổi. Có tiếng chim hót. Trên cây dâu có tằm, chuyên ăn lá dâu, ăn hết lại mọc, ăn mãi không hết. Tằm tự nhả tơ, như y phục trên trời, quả nhiên mặc áo như kén. Tằm ở trên lá dâu, tự tại tiêu dao. Tằm đi dạo trong cây dâu, mười phương thế giới đi không hết. Cây dâu tự nhiên sinh ra lá, đương nhiên không cần làm việc, ăn, mặc, ở, đi lại hoàn toàn không phải lo. Anh ta lại xem nước Cây Dâu như Tây hương Cực Lạc, đây là điều tôi không thể ngờ tới.
Trong kinh "Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác", phẩm hai mươi "Đức phong hoa vũ" có nói rằng:
Ở cõi Phật ấy, mỗi khi đến giờ thọ trai, tự nhiên gió đức nhẹ nhàng thổi qua các lưới báu và cây báu, phát ra âm thanh vi diệu, diễn thuyết về khổ không, vô thường, vô ngã và các ba-la-mật, lan tỏa muôn loại hương thơm thanh nhã.
Những ai nghe được, tập tính trần tục tự nhiên không khởi, gió chạm vào thân an hòa thích ý, như tì kheo chứng diệt tận định. Gió lại thổi qua rừng bảy báu, hoa bay tụ lại, muôn màu ánh sáng tràn ngập cõi Phật, theo thứ tự các màu mà không xen tạp. Mềm mại sáng bóng như bông, bước chân lên lún sâu bốn tấc, nhấc chân lên rồi lại phục hồi như cũ.
Sau giờ thọ trai, những hoa ấy tự chìm xuống, đại địa thanh tịnh, lại mưa hoa mới, tùy theo thời tiết, trở lại khắp nơi, không khác gì trước, như vậy sáu lần. (Đoạn kinh văn này khiến anh ta lầm tưởng nước Cây Dâu là Tây phương Cực Lạc.)
Cần biết rằng, Tây phương Cực Lạc thế giới là: Tất cả chúng sinh, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được thân tướng vi diệu như vậy, hình mạo trang nghiêm, phúc đức vô lượng, trí tuệ sáng suốt, thần thông tự tại. Thọ dụng đủ loại, tất cả sung túc, cung điện, y phục, hương hoa, tràng phan bảo cái, vật dụng trang nghiêm, tùy ý cần gì đều như ý nghĩ. Lại nữa, ánh sáng của hoa có vô lượng màu sắc. Cũng không có tên gọi của năm tháng kiếp số, thọ mạng vô lượng. (Tuyệt đối không phải là nước Cây Dâu.)
Ban đầu tôi không muốn can thiệp vào trường hợp của vị huynh đệ bệnh tâm thần này. Loại bệnh tâm thần này dường như có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt là những người bị tinh linh nhập. Nhưng khi thấy anh ta đeo bùa hộ mệnh của Chân Phật Tông, tôi không thể làm ngơ được. Có lẽ đây cũng là một cái duyên! Trên bùa còn có pháp tướng của Liên Hoa Đồng Tử!
Tôi đưa tay, nắm lấy nguyên thần thần hành của anh ta, đưa anh ta trở về thân xác, sau đó phong ấn huyệt bách hội - trục chính yếu của cơ thể anh ta. Từ đó về sau, anh ta không thể thần hành ra ngoài được nữa.
Vị bệnh nhân tâm thần này tuổi còn trẻ, nhưng vì thần hành quá nhiều nên thân thể rất suy nhược, mê man không tỉnh táo, sắc mặt cũng rất tái nhợt. Tôi mời Thổ Địa đến giúp đỡ, để anh ta được nghỉ ngơi yên giấc trong hai ngày. Khi tỉnh dậy, tinh thần đã khá hơn nhiều, ăn uống trở lại bình thường, không còn biểu hiện suy nhược nữa. Bác sĩ tâm thần chẩn đoán anh ta đã bình thường. Gia đình cũng thấy anh ta đột nhiên khỏi bệnh. Vui mừng nhất là người dì, cho rằng bùa hộ mệnh có tác dụng.
Chỉ có tôi biết rằng, bệnh của anh ta có thể khỏi không phải là kỳ tích, mà là tùy duyên cứu độ. Trên thế gian này, người cần được cứu độ quá nhiều, nếu lần nào cũng phải cứu thì thực sự cũng không cứu hết được, việc cứu độ này hoàn toàn do duyên phận, khi duyên đến thì tôi cứu, không có duyên thì để dịp sau vậy!
24. Tiễn người thân đến Tây phương
Có một người thân của tôi từ khi còn trẻ đã tin theo pháp môn Tịnh độ niệm Phật. Tôi thường khuyến khích người ấy phải niệm Phật không ngừng trong từng giây phút.
Ở đây, tôi xin giới thiệu sơ lược về nguồn gốc tông phái Tịnh Độ: Nguồn gốc Tịnh Độ tông - Đại sư Huệ Viễn ở Lư Sơn đã sáng lập tông phái này dựa trên ba kinh Tịnh Độ, đó là "Thập Lục Quán Kinh", "Vô Lượng Thọ Kinh", "A Di Đà Kinh", và thêm một luận là "Vãng Sinh Luận". Tông phái chủ trương mọi người niệm Phật cầu sinh về Tây phương tịnh thổ, vì vậy được gọi là Tịnh Độ tông. Đại sư Huệ Viễn là vị sơ tổ của Tịnh Độ tông Trung Quốc. Do pháp môn Tịnh Độ niệm Phật đơn giản dễ thực hành, nên cho đến nay vẫn hưng thịnh không suy, được đa số hành giả rất hoan hỷ phụng hành.
Nguyên lý của Tịnh Độ tông - Phật A Di Đà đã phát bốn mươi tám đại nguyện, chỉ cần trì danh hiệu của Ngài thì nhất định được cứu độ. Bởi vì chúng sinh cõi Ta Bà chìm đắm trong biển khổ, sinh tử luân hồi không dứt, mê hoặc tạo nghiệp, không thể tự độ, nên chư Phật thương xót, đặc biệt nói pháp môn Tịnh Độ, khiến họ chán lìa cõi Ta Bà, vui thích hướng về Cực Lạc, phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ. Đây là pháp môn vi diệu và dễ thực hành nhất trong các pháp môn của Đức Phật.
Pháp tu của Tịnh Độ tông - phải bắt đầu từ "tín, nguyện, hành", tin vào tịnh thổ, sinh về tịnh thổ, hành trì tịnh thổ, nương theo bốn loại pháp môn niệm Phật để tu hành trì danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, quán tướng niệm Phật, thực tướng niệm Phật hoặc Thập lục quán hoặc Vô tướng niệm Phật. Bởi vì Phật A Di Đà có thệ nguyện rộng lớn, vạn đức đầy đủ, các nghiệp đều tu tập, nhất tâm thọ trì, lâm chung vãng sinh, hoa nở thấy Phật.
Chứng minh của Tịnh Độ tông - Kinh A Di Đà nói rằng, nếu có người bảy ngày bảy đêm, nhất tâm bất loạn, khi lâm chung, Tây phương Tam Thánh đến tiếp dẫn, liền được vãng sinh Cực Lạc thế giới, hóa sinh trong hoa sen, vào địa vị bất thoái. Ở thế giới Cực Lạc, hoan hỷ nghe Phật pháp, chứng ngộ vô sinh nhẫn, các bậc thượng thiện nhân, tụ hội một nơi, cũng có thể đến mười phương thế giới cúng dường chư Phật, cũng có thể trở về cõi Ta Bà giáo hóa chúng sinh. Tin vào thế giới Cực Lạc, trang nghiêm tột bậc. Nguyện cầu sinh Tây phương, lìa khổ được vui. Hành trì pháp môn niệm Phật, tịnh niệm tương tục. Quả vị thấy Di Đà, nghe pháp ngộ đạo.
Tôi nói: "Tu hành Mật giáo cũng cần có ba tư lương tín-nguyện-hành, chỉ cần tu đến khi tương ứng với pháp Thượng sư, tương ứng với pháp Bổn tôn, Thượng sư và Bổn tôn sẽ không từ bỏ, khi tương ứng thì có thể đến được tịnh thổ của Bổn tôn." Tôi nói: "Mật giáo có Trí huệ Bổn tôn (tha lực), Tự tính Bổn tôn (tự lực), Pháp giới chư tôn (pháp giới lực), vì vậy, tu hành Mật giáo từ nông vào sâu, nếu không phải căn cơ lớn thì không thể tu trì, đạo lý tức thân thành Phật cũng ở đây."
Được rồi, ở đây, tôi muốn nói về người thân tin theo Tịnh Độ niệm Phật kia. Người ấy già và bệnh. (Già và bệnh là không thể tách rời.) Lúc đó tôi đang bế quan ở hồ Diệp Tử, không thể trực tiếp đến thăm người ấy, nhưng trong thần hành, tôi biết người ấy bệnh rất nặng. Đặt ống. Mở khí quản. Đây là: Già bệnh sao không biết ngơi nghỉ Đừng mơ hồ nữa mau quay đầu Bệnh độc đều là do nghiệp tạo Thanh tịnh nghiệp lực mới đi được.
Khi vô thường đến, tôi thần hành đến bên người thân. Tôi rất kinh ngạc, vì người ấy hồi quang phản chiếu, trong tâm thức của họ, hiện ra hình ảnh tất cả tổ tiên đã khuất vây quanh giường bệnh, chồng của họ, con trai cả, và tất cả người thân đã mất đều xuất hiện, muốn đến đón họ về cõi âm. Xin mọi người hãy nhớ, tuyệt đối không được đi theo, khi tổ tiên người thân đến đón mình, thường là do tình thân không thể cắt đứt, đó là con đường luân hồi.
Tôi lập tức dùng pháp kết giới, thả xuống lưới kim cang, ngăn cách người ấy với tổ tiên đời trước. Những tổ tiên đời trước này không thể dẫn người ấy đi được, nên lần lượt rời đi, không còn xuất hiện bên giường bệnh nữa. Có lưới kim cang rồi, tôi yên tâm hơn nhiều.
Trước đó, tôi đã tặng cho người ấy một chuỗi hạt mà tôi đã từng trì niệm Phật hiệu và thần chú, rồi tôi ghé sát tai người ấy, ân cần dặn dò: "Phải niệm Phật! Phải niệm Phật!" "Miệng không niệm được thì tâm phải niệm." "Đợi Phật đến tiếp dẫn mới được đi!" Chuỗi hạt tôi tặng, người ấy nắm chặt trong tay, trong tâm niệm Phật, hồng danh bốn chữ A Di Đà Phật này chưa từng quên, đã học từ niệm Phật đường từ khi còn trẻ, đã nhiều năm nhiều năm rồi, cả đời người ấy, tuy không học được nhiều chữ, nhưng, nhớ niệm A Di Đà Phật, đây cũng là thiện nhân duyên của người ấy vậy.
Tôi cảm thấy, cuộc đời không nhất thiết phải cao quý giàu sang, những phú quý vinh hoa này cần phải gieo trồng thiện nhân từ kiếp trước. Có người rất quý phái, có người rất giàu có, như gấm thêm hoa, phúc lộc vô tận. Nhưng khi tôi quan sát kĩ, những phú quý này đều không phải thiện nhân duyên chân chính, chỉ là ảo hóa nhất thời, tháng năm ngắn ngủi thoáng qua, tinh hoa cuộc đời không còn bao nhiêu năm, rốt cuộc không phải là nhân chính của giải thoát. Chi bằng như người thân của tôi đây, vất vả cả đời, phúc phần không nhiều, nhưng học được một câu "A Di Đà Phật", chỉ cần nhất tâm niệm Phật, niệm đến khi tâm thanh tịnh, tâm tịnh thì đất cũng tịnh, đài sen sẽ đến, được sinh trong hoa sen, tương lai gặp Phật ngộ vô sinh, cuối cùng đến cõi Phật Cực Lạc, so với những người cao quý kia còn cao quý hơn, so với những người giàu có kia còn giàu có hơn.
Người đời làm sao biết được niệm Phật tốt đẹp như thế, làm sao biết được niệm Phật đến khi tâm thanh tịnh tốt đẹp như thế, làm sao biết được từ niệm Phật nhập môn đến nhất tâm bất loạn, có thể không còn lo âu phiền não.
Có một bài kệ: Tây phương Cực Lạc thường tôn xưng. Khuyên khắp thế nhân vào cửa này. Có miệng đừng nên bàn chuyện phiếm. Chỉ niệm Phật hiệu suốt đêm ngày.
Tôi thường nói, tôi tu Mật pháp, nhưng cũng đề xướng niệm Phật, tôi tu Mật pháp lấy A Di Đà Phật làm Bổn tôn, niệm Phật cũng niệm A Di Đà Phật, tôi là hóa thân của Liên Hoa Đồng Tử, cõi nước Liên Hoa này chẳng phải là thế giới Cực Lạc thì là gì?
Lời thề hoằng pháp khắp Tây phương Phật giáo niệm Phật dễ hoằng dương. Tịnh niệm tiếp nối không gián đoạn. Pháp thanh tịnh thông các tông môn.
Mật giáo dạy thân khẩu ý thanh tịnh, Bổn tôn gia trì, tự tính Bổn tôn xuất hiện, minh tâm kiến tính, tức thân thành Phật, cũng cần phải tịnh niệm tương tục không gián đoạn!
Ngày người thân của tôi sắp lâm chung, điều kỳ diệu nhất là họ hoàn toàn biết mình sắp ra đi, họ nhìn thấy Tây phương Tam Thánh đứng giữa hư không: A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Các ngài cầm đài sen đến tiếp dẫn, họ hoan hỷ nở nụ cười.
Họ tự biết mình sắp ra đi, dùng tay chỉ lên trời, muốn báo cho mọi người biết Tây phương Tam Thánh đã hiện thân! Họ dùng tay chỉ lên trời, chỉ cho mọi người xem. Họ tắm rửa thân thể thanh tịnh. Tối hôm đó họ đã lìa khổ được vui, vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, lúc lâm chung, tay vẫn còn nắm chặt chuỗi hạt tôi tặng!
Còn tôi ư? Ẩn cư tại hồ Diệp Tử, thần hành giữa non xanh, chia nửa vầng trăng trên trời, gối đầu bên một góc núi, nhìn năm tháng vội vã trôi qua, thấy biển người chìm nổi, cảm thán thay!
25. Tôi sẽ viết "Lắng nghe tiếng thầm thì trong tim"
Sau khi viết xong cuốn "Thần hành ký" thứ 166, lòng tôi tràn ngập cảm xúc, có rất nhiều điều muốn nói, vì vậy, tôi muốn viết một cuốn "lời tự đáy lòng", đó chính là cuốn thứ 167 "Lắng nghe tiếng thầm thì trong tim", với tiêu đề phụ: "Để ước mơ cuộc đời thêm rạng rỡ."
Tôi sống rất bình yên tại hồ Diệp Tử, mỗi ngày ngắm ánh bình minh rạng đông, hoàng hôn chiều tà, thật lòng mà nói, ánh hào quang của cuộc đời từng rực rỡ, vinh hoa phú quý cũng đã nếm trải, hàng triệu người ra đón, hàng triệu người dự pháp hội, hàng triệu tiếng vỗ tay.... Giờ đây, chỉ còn một mình tôi ẩn cư. Từ trước đến nay, tôi chưa từng nghĩ, tương lai mình sẽ ra sao ra sao, ví dụ, liệu tôi có quay về không? Từ hồ Diệp Tử trở về Seattle, hay từ hồ Diệp Tử trở về Cao Hùng - nơi tuổi thơ, Đài Trung - nơi trưởng thành, hay là về già nơi hồ Diệp Tử?
Sau khi viết xong "Thần hành ký", vào một đêm trăng tròn, trong lúc kinh hành trên núi, tôi nhìn về phương xa, giữa thế giới sương mù mỏng manh, bỗng nhiên, như thể cánh cửa trong tâm mở ra, tôi tạm thời nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng thầm thì trong tim mình.
Tiếng thầm thì ấy, có thể nói là hoan hỷ, cũng có thể nói là bi thương. Rốt cuộc là hoan hỷ? Rốt cuộc là bi thương? Ngay cả tôi cũng không phân biệt được, tóm lại, như thể đã lên đến đỉnh cao nhất, nhìn ngắm biển mây cuộn trào.
Giống như tôi rời xa Cao Hùng - nơi tuổi thơ, Đài Trung - nơi trưởng thành, Seattle - nơi tinh hoa cuộc đời, hồ Diệp Tử - nơi ẩn cư. Tôi nên hoan hỷ? Hay là bi thương?
Giả như một ngày nào đó, Tây phương Tam Thánh A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và chư Thánh chúng, dùng tất cả châu báu tạo thành thuyền pháp lớn, thuyền pháp tỏa sáng khắp nơi, dùng chuỗi vòng ngọc đeo vào cổ tôi, trang sức cho tôi bằng các báu vật.
Dùng vô số lọng báu đủ màu sắc đón tiếp tôi, chư thiên quý báu, ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau, tỏa sáng vô cực, tất cả trang nghiêm, để đón tôi về bờ bên kia Ma Ha Song Liên Trì, tôi được sáu căn thanh tịnh, không còn phiền não, trụ vào địa vị không còn thối chuyển, thành tựu Phật đạo.
Xin hỏi: "Liệu tôi có thể bình thản từ bờ này đến bờ kia, từ đây, quên hết tất cả đệ tử thương nhớ, mà trong lòng không còn chút vấn vương?" Tôi sẽ không đau buồn sao? Tôi sẽ không nhớ nhung sao? Còn năm triệu đệ tử của tôi ở cõi Ta Bà này nữa! Tôi nhận ra, rời khỏi cõi người, không thể nào không nhớ nhung. Nhưng, ở lại cõi người, cũng không thể tránh khỏi đau thương, đi cũng khổ, không đi cũng khổ, trong lòng tôi thầm nghĩ: "Ai mà không tiếc nuối?"
Có lẽ tôi đã để lại quá nhiều mảnh vỡ của tình cảm tâm linh ở cõi người này, tôi không thể thu nhặt hết được, vì vậy, lòng tôi quá nặng nề, dù thuyền pháp rực rỡ cũng không thể chở nổi! Hãy để tôi viết một bài thơ "Lắng nghe tiếng thầm thì trong tim":
Không ai có thể sở hữu tháng năm vĩnh hằng Nơi cõi người dừng chân mấy mươi năm Khi thuyền pháp quay về đón Làm sao tôi không rơi lệ
Chỉ vì gánh nặng tình nghĩa quá sâu đậm Những lời dặn dò luyến lưu Nói đi nói lại Nỗi buồn chợt dâng lên trong tim Tôi bỗng hóa thành đứa trẻ trần trụi
Rồi sẽ có một ngày Rồi sẽ có một trang Trang cuối cùng tôi viết Các bạn hãy nghĩ xem Xin lắng nghe lời nguyện của tôi Tôi nguyện sẽ đưa tất cả các bạn Tất cả cùng về.
(Hết.)