📗

173. Một giấc mộng một thế giới

image

Một giấc mộng một thế giới

Văn tập số: 173 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Trong cuốn sách "Seattle - Nhìn lại những mùa mưa" [ ND: văn tập số 170 của Sư Tôn ] là cuốn bút kí kể chi tiết tường tận về cuộc di cư của tôi từ Đài Loan đến Seattle nước Mỹ. Tôi di cư đến Seattle đã được 20 năm, từ năm tôi 37 tuổi đến 57 tuổi. Trong cuốn sách này, tôi đã hồi tưởng lại tất cả những nhân duyên buồn vui khi thành lập Chân Phật Tông, chớp mắt một cái đã 20 năm qua rồi, thật giống như một giấc mộng.

Không chỉ như vậy, bạn thử nghĩ mà xem: Thời học tiểu học cũng giống như một giấc mộng. Thời học cấp hai giống như một giấc mộng. Thời học trung học giống như một giấc mộng. Thời đại học giống như một giấc mộng. Sau khi tốt nghiệp, sự nghiệp làm một kĩ sư trắc lượng cũng giống như một giấc mộng. Sự nghiệp hôn nhân cũng giống như một giấc mộng. Nuôi dạy con trai Phật Kì, con gái Phật Thanh giống như một giấc mộng. Thấy Phật Thanh đạt được học vị Tiến sĩ cũng giống như một giấc mộng. Thấy Phật Kì được vào học trường Đại học Seattle cũng giống như một giấc mộng.

Tại Ngọc Hoàng Cung, tôi đã được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, rồi tôi đã chu du khắp huyễn cảnh hư không, chẳng phải là một giấc mộng huyễn hay sao?

Từ đó, tôi học Đạo, học Hiển giáo, học Mật giáo, đều là một giấc mộng huyễn. Tôi đưa ra một lời thề nguyện vĩ đại: "Đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh, phân thân xả cốt độ chúng sinh, không từ bỏ một chúng sinh nào." Đây cũng là một giấc mộng.

Cuộc đời này, tôi đã kinh qua thời kì học pháp, thời kì hoằng pháp, thời kì chu du khắp nơi, thời kì ẩn cư. Hôm nay, vừa hay tôi đã 60 tuổi. Quay đầu nhìn lại thời học pháp, hoằng pháp, chu du, ẩn cư, đều là những giấc mộng lớn.

Có bài thơ như sau: Đâu có pháp nào trong ngôi nhà giấc mộng Trong Vô pháp kia khác biệt lại bạt ngàn Quán ngộ tính Không ta rời xa phân biệt Từng niệm từng niệm hé nở bạch liên hoa

Bây giờ tôi đang ẩn cư ở hồ Diệp Tử, sống một ngày, cảm ơn một ngày, sống một ngày, vui vẻ một ngày, sống một ngày, tu hành một ngày. Hỏi tôi tu hành cái gì ư? Tôi trả lời: "Tam muội." [ ND: Samadhi ]

Ở trong tam muội, tôi cứu độ chúng sinh đang ngày ngày chìm trong hoạn nạn. Ở trong tam muội, tôi cũng tu trì tịnh niệm tương tục [ ND: niệm Phật thanh tịnh không gián đoạn ], xuất ly khỏi ngũ trược ác thế này, tiến đến Liên Trì Hải Hội, vĩnh viễn rời xa mọi đau khổ để nhận lấy mọi niềm vui.

Cuốn sách "Một giấc mộng một thế giới" này cũng tương đương với một "tam muội", một "thế giới", sự tương ứng thần kì của nó là vô cùng thù thắng. Mong rằng bạn có duyên đọc được cuốn sách này.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Bà lão rửa ruột

Thời gian ẩn cư ở hồ Diệp Tử, hễ có thời gian rảnh là tôi thiền định nhập tam ma địa.

Có một lần, tôi tự cảm thấy mình đi vào trong một ngọn núi lớn, ngọn núi này không phải là núi bình thường, bởi vì chỗ nào có gió thổi là có hương thơm, có gỗ đàn hương. Ngọn núi này có những đốm ánh sáng kì lạ, có đốm thì to như bánh xe, có đốm thì to như bông hoa sen, cũng có đốm thì nhỏ như hạt đậu, những đốm ánh sáng trong núi cứ bay tới bay lui. Trong khi tôi thần hành, hòa nhập vào trong sự trang nghiêm rộng lớn, thân tâm thư thái, sảng khoái không gì sánh bằng.

Ở chân núi, tôi nhìn thấy có một dòng nước sạch uốn quanh ngọn núi. Nước này cũng không phải nước bình thường, mà là "thiên nhất thần thủy", chảy vòng quanh ngọn núi lớn này.

Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một bà lão cầm cái bàn giặt đem đi giặt quần áo. Trong lòng tôi rất hiếu kì, địa giới này là Thiên tiên cảnh giới, thiên nhân mặc thiên y, không nhiễm bụi trần, sao lại phải giặt quần áo?

Tôi vội vã tiến đến xem bà lão làm cái gì. Vừa nhìn thì tôi giật thót mình, thứ bà lão đang rửa không ngờ lại là ruột người. Ruột rất nhiều, kết lại thành những đống bẩn thỉu, mùi hôi tanh hoàn toàn khác xa mùi thơm của gỗ đàn hương. Tôi ngửi thấy mà muốn nôn ọe.

Bà lão quay đầu lại nhìn tôi, cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, đếm những thứ đã cạo rửa, nói: "Cái đống này là ngã mạn." "Cái đống này là đố kị." "Cái đống này là phỉ báng." "Cái đống này là…"

Tôi bịt mũi lại, hỏi: "Bà ơi, ruột mà bà rửa là của ai đấy?" Bà lão trừng mắt với tôi một cái, cũng chẳng trả lời tôi, bà lão chỉ chỉ sang bên cạnh tôi. Tôi quay sang bên cạnh mình nhìn thì mồm miệng há hốc, không ngờ một đệ tử mà tôi khá quen biết đã hiện thân, đã bị mở ngực phanh bụng, ruột tuôn ra ngoài. Ruột mà bà lão này đang cạo rửa chính là ruột của đệ tử của tôi. Xém chút nữa là tôi ngất xỉu.

Bà lão nói: "Muốn tức thân thành Phật thì những nghiệp tội đã tạo trong quá khứ cần phải được tẩy rửa sạch sẽ, bằng không, tập tính vẫn chưa được trừ hết, vẫn có ô uế, từ đầu tới chân bốc mùi hôi thối thì thành Phật cái gì? Phật Xú Uế sao? Ngài hãy cảnh tỉnh chính mình và cảnh cáo các đệ tử đi." "Bà lão là ai vậy?" - Tôi hỏi. Bà lão biến hóa thân đi về hướng hư không, đầu đội mũ phượng hoàng, thân khoác áo đỏ, tay trái cầm quả đào tiên, tay phải cầm phất trần của Tiên, chính là Diêu Trì Kim Mẫu (Tiên Vương) một trăm phần trăm.

Tôi đảnh lễ Kim Mẫu, nước mắt chảy như mưa. Kim Mẫu nói: "Sạch sẽ là được rồi, khóc cái gì mà khóc!"

Tôi giật mình, từ trong tam muội mà xuất định. Trong mắt tôi vẫn còn những giọt nước mắt cảm kích. Từ đó, tôi đã biết tôi là kẻ thấp hèn nhất.

02. Dẫm phải bãi phân chó

Ngày hôm đó, tôi rời khỏi nhà tôi ở hồ Diệp Tử để đi bộ trong rừng trên núi, niệm Phật trì chú. Chẳng ngờ, bản thân tôi không cẩn thận đã dẫm phải một bãi phân chó. Trong lòng tôi nghĩ, hôm nay thật là xui xẻo, người khi gặp vận xui như phân chó, kiểu gì thì cũng sẽ dẫm phải phân chó.

Trở về căn nhà, tôi cởi dép, đầu tiên tôi rửa sạch phân chó, cái mùi thối khủng khiếp. Tôi dùng đũa để cạy, dùng vải để lau, dùng nước để rửa, chẳng gì thì cũng vui làm sao!

Hôm đó, tôi nhập tam muội. Tôi hiển hiện hình tướng Đại Hoạt Phật, ngồi trên pháp tọa cao nhất, hướng xuống chúng sinh thuyết pháp. Tôi giảng: "Oan thân trái chủ là người bạn hỗ trợ cho chúng ta tu hành, hành giả chúng ta cần từ bi với oan thân trái chủ. Ngược lại, họ sẽ gia trì cho chúng ta đắc bồ đề, gia trì cho chúng ta thành đạo quả, ân này rất lớn, nên cảm ơn họ, đồng thời, mong ước cho họ được độ hóa, từ trong đau khổ đạt được giải thoát."

Tôi thuyết pháp xong, chúng sinh xếp hàng cầu xin tôi gia trì, tôi sờ đầu cho từng người một, từng người một đều được sờ đầu. Nhưng tôi nghe thấy có mấy người nói thì thầm: "Tôi chẳng tin vị Hoạt Phật này, oan thân trái chủ mà còn cần phải cảm ơn sao?" "Ăn miếng trả miếng, hiện thực là thế." "Hoạt Phật mà nói nhảm." "Chúng ta đừng đi cho ông ta sờ đầu. Chúng ta lên kế hoạch hại ông ta, hại cho cái ông Hoạt Phật này chết đi sống lại, ha ha!"

Tôi nghe mấy lời này, trong lòng buồn muốn chết, cảm thấy chúng sinh khó độ, chi bằng tự mình sống đến già, nhập niết bàn là xong, tâm đã thành tro, ý cũng nguội lạnh, còn phát bồ đề tâm cái gì, không từ bỏ một chúng sinh nào cái gì chứ.

Đúng vào lúc này, Quan thế Âm Bồ Tát ở trong tam muội của tôi đã hiện thân, nói với tôi rằng: "Liên Sinh, ngài lại dẫm phải một bãi phân chó rồi, nhân gian đâu đâu cũng có phân chó, ngài cần nhẫn nhục đi! Cần tinh tấn hơn nữa!" Bồ Tát lại nói: "Cho dù là Phật Đà cũng gặp phải Đề Bà Đạt Đa, gặp những người không muốn được độ hóa." Tôi thở phào, chắp tay kính lễ Bồ Tát.

Trong tam muội, tôi xem xét đôi dép của mình. Ha! Quả nhiên lại dẫm phải phân chó rồi, lại phải đi rửa rồi.

Thế là, tôi không khi nào lười biếng, không phân biệt ngày đêm chân thành chăm chỉ nhập vào tam muội để cứu độ chúng sinh và thuyết pháp. Phải thừa nhận rằng chúng sinh càng ngày càng nhiều lên, những người được cứu cũng rất nhiều, nhưng cũng có những người không muốn được độ hóa. Nhưng, tôi chẳng quan tâm!

03. Ghẻ lở trên mặt

Tôi ở hồ Diệp Tử thiền định tam muội, khi nhập vào tam muội, tôi thấy mình đến một nơi, nơi này là nhân gian của thế giới Ta Bà, chẳng có gì lạ cả.

Tôi bước vào một ngôi nhà, hóa ra trong nhà này có một đàn thành, là nhà của một hành giả Mật giáo. Tôi lại quan sát thêm, thấy một đệ tử Chân Phật Tông mặt mày nhăn nhó khổ sở đang tận lực niệm: "Om guru liansheng siddhi hum. Om guru liansheng siddhi hum. Om guru liansheng siddhi hum. Om…"

Tôi nhìn người đệ tử ngày thì giật thót mình. Thì ra, trên mặt anh ta mọc đầy ghẻ lở, giống như bị nhiễm bệnh phấn trắng vậy, nhưng lem nhem hơn, bên này bị một đám, bên kia bị một đám, giống như tấm bản đồ vậy, ngay cả trên mũi cũng có, trên trán lại càng nhiều. Tôi thấy thế thì rất sợ, tôi tin rằng bản thân anh ta cũng không dám đi ra ngoài, người ngoài trông thấy sẽ đều chết khiếp. Bệnh ghẻ lở này khả năng có tính truyền nhiễm, ai ai cũng sợ hãi mà tránh xa.

Tôi chỉ nghe thấy đệ tử này nói: "Kể từ khi quy y Liên Sinh Hoạt Phật thì ghẻ lở mới xuất hiện. Lúc trước chẳng quy y chẳng tu pháp thì chẳng bị ghẻ lở." Tôi nghe xong, xém chút nữa thì tức hộc ra máu. Con người thông thường hễ mắc bệnh thì luôn trách đủ thứ, nghiệp chướng của bản thân đến rồi nhưng họ đều không thừa nhận. Bây giờ lại đổ thừa lên đầu tôi. Anh quy y tôi thì mắc bệnh ghẻ lở, vậy lẽ nào tôi là Đại Vương Ghẻ Lở sao, tôi đâu có bị ghẻ lở.

Thật tức ghê, nhưng, đệ tử này đã trì tụng được cả vạn vạn biến Căn bản Thượng sư tâm chú rồi, không cứu anh ta thì cũng rõ ràng là tôi chẳng có năng lực gì, không có pháp lực.

Chờ đến buổi đêm, tôi nhập vào trong giấc mơ của anh ta. Tôi dùng tay của tôi để bắt những con sâu màu trắng trên mặt anh ta, những con sâu nhỏ màu trắng trên mặt anh ta quả thực đã quá nhiều, bắt mãi không hết. Rồi tôi dùng cái cạo, từng đám sâu nhỏ đều bị cạo rơi xuống đất.

Trong giấc mơ, tôi nói với đệ tử: "Ghẻ lở đã khỏi rồi, hãy độ nhiều người hơn đến quy y, quy y ta thì sẽ không mắc bệnh ghẻ lở nữa, ta sẽ không để người ta bị ghẻ lở đâu. Hễ có bệnh thì đều là nghiệp chướng, cần phải biết là như vậy. Có bệnh thì khám bác sĩ để chữa, cũng cần có tín tâm niệm Phật trì chú, chính vì anh niệm Căn bản Thượng sư tâm chú đã đủ nên ta mới đến đây."

Tôi nói xong thì thần hành đi mất. Theo như tôi biết: Chỉ nhờ công phu của một đêm mà ghẻ lở trên mặt anh ta đã khỏi rồi! Anh ta vừa mừng vừa tủi! Anh mơ thấy Lư Sư Tôn giúp anh bắt bao nhiêu là sâu trắng trên mặt anh, anh đã khởi lên lòng tin lớn lao, đã giới thiệu rất nhiều người đến quy y Chân Phật Tông.

Giấc mơ của anh lan truyền khắp xa gần. Kể từ đó, anh càng tinh tấn, chăm chỉ trì chú không mệt mỏi, trì chú đến khi một bông hoa sen ở Ma Ha Song Liên Trì cũng bung nở luôn rồi.

04. Bị câm bẩm sinh

Trong lúc thần hành trong tam muội, tôi trông thấy một cặp vợ chồng rất thành khẩn cầu xin Phật Bồ Tát ban cho họ một đứa con trai. Họ đã cầu xin nhiều năm, rốt cục cũng có cảm ứng, hạ sinh được một đứa con trai. Đứa bé lớn lên nhưng lại có một khiếm khuyết, đó là bị câm bẩm sinh. Họ nghe người ta nói thờ cúng tượng sứ của Thượng sư thì sẽ có được nhiều cảm ứng, thế là họ liền thờ cúng một bức tượng sứ Liên Hoa Đồng Tử. Chính bởi vì nhân duyên đó mà trong lúc tôi thần hành trong tam muội đã thấy được đôi vợ chồng rất thành tâm tín Phật này. Tôi cũng trông thấy đứa con bị câm bẩm sinh của họ.

Họ hướng về tượng sứ Liên Hoa Đồng Tử cầu nguyện, đau đớn rơi nước mắt, tôi trông thấy cũng không cầm lòng được.

Tôi kiểm tra lưỡi đứa bé, không có vấn đề. Tôi kiểm tra thanh đới của đứa bé, không có vấn đề. Tôi kiểm tra họng của đứa bé, không có vấn đề.

Tôi vẽ một tấm phù "Mở miệng phát âm", rồi đi vào trong giấc mơ của cậu bé, cho cậu uống phù, chẳng ngờ không có hiệu lực. Tôi không hiểu tại sao, nghĩ suốt cả nửa ngày, rồi bèn đi tìm thần chim Ca Lăng Tần Già, là thần chim phát ra âm thanh tuyệt mĩ nhất. Các thần chim rất thương xót nhưng cũng không có cách nào giúp.

Tôi đã muốn từ bỏ, nhưng sau đó, tôi nghĩ có thể là vấn đề nhân quả. Nhân quả thực sự phức tạp, phải kiểm tra rất lâu, thế rồi tôi thấy được kiếp trước đứa bé khi là pháp sư, đã phạm phải ba lỗi nghiêm trọng:

  1. Đánh mất lòng tôn kính với sư phụ của mình.
  2. Đánh mất bồ đề tâm.
  3. Đánh mất giới luật.

Còn kiếp trước của cặp vợ chồng này, không ngờ họ cũng là cha mẹ thân sinh kiếp trước của pháp sư. (Nhân quả nhiều kiếp ràng buộc với nhau.) Tôi nhìn thấy nhân quả như thế cũng thấy thật đáng sợ.

Đến đây tôi muốn bỏ cuộc nhưng rồi lại không đành lòng. Tôi đi vào trong giấc mơ của cặp vợ chồng, khuyên họ niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh đủ 1000 biến. Quả nhiên cặp vợ chồng đó phát nguyện sẽ trì Cao Vương Kinh cả đời, sám hối tất cả, hồi hướng cho đứa con trai, không chỉ là 1000 biến mà họ đọc cả vạn biến, vạn vạn biến. (Đọc tụng tròn nghìn biến, trọng tội đều tiêu diệt.)

Theo như tôi biết, đứa con trai đã có cảm ứng. Một ngày nọ, cậu bé trượt chân ngã xuống nước, được người ta cứu lên, cậu bé nôn ra rất nhiều nước. Điều khiến người ta kinh ngạc tán thán là cậu bé bỗng nhiên mở miệng phát ra âm thanh. Sau khi bị rơi xuống nước thì bệnh câm bẩm sinh không ngờ biến mất, cậu mở miệng nói được rồi.

Cặp vợ chồng cảm kích không ngừng. Đây chính là cảm ứng rất lớn của Cao Vương Kinh!

05. Ẩn cư phi ẩn cư là ẩn cư

Tôi đã đóng cửa ẩn cư ở hồ Diệp Tử nhiều năm, đã lâu không biết đến chuyện thế sự rồi! Tôi đã rời xa mọi việc của thế gian. Có thể nói rằng tôi chẳng muốn nghe, chẳng muốn hỏi, chẳng muốn tìm hiểu.

Nhưng mỗi lần tôi thiền định tam muội thần hành đều xuất hiện nhiều cảnh giới, khiến tôi trong lúc thần hành lại cũng vẫn đi độ chúng sinh. Nói là lui về ở ẩn nhưng kì thực cũng chẳng giống như ở ẩn, nói là không phải lui về ở ẩn thì rõ ràng là tôi đã lui về sống ẩn dật rồi mà, thật sự là ở ẩn rồi. Điều này thật khó nói.

Xem ra tôi đã quá yêu chúng sinh rồi. Chúng sinh không bỏ tôi, tôi không bỏ chúng sinh. Sắc thân của tôi thì thật sự là ẩn rồi. Nhưng cái tâm thường hằng của tôi thì vẫn nhớ đến tình nghĩa của các thánh đệ tử, những tình nghĩa này làm sao quên?

Chúng sinh rất đáng kính, họ đã đồng hành cùng tôi những lúc vui vẻ nhất. Bản thân tôi quá thấp hèn, tôi có thể thành tựu tất cả đều là nhờ vào chúng sinh. Chúng sinh có phiền não, còn bản thân tôi lại thanh tịnh tự tại, đương nhiên tôi cần tiêu trừ phiền não của họ, có thể nào phớt lờ không quan tâm được sao?

Đương nhiên tôi biết, trong số các đệ tử cũng có những người xấu, không biết phân biệt đúng sai, đã đánh mất cái tâm ban đầu, nhưng họ cũng phải chịu tội, phải chịu đau khổ dày vò, tôi lại càng cần phải quan tâm đến họ. Càng là người căm hận tôi, người nhục mạ phỉ báng tôi một cách phi lý, người tìm cách hãm hại tôi, tôi càng không thể quên lời thề của mình, càng cần đi độ hóa cho họ.

Ngày xưa, tôi từng kì vọng ra mặt để độ chúng sinh, trong thâm tâm tôi cứ luôn mong ngóng như vậy. Chẳng ngờ, ngược lại tôi còn bị người ta bày kế hãm hại. Nhưng đây là sự gia trì ngược, khiến tôi càng thành tựu với vai trò là một đại thiện tri thức, tôi càng phải cảm kích họ, cảm ơn họ.

Tóm lại, bất kể là thuận cảnh hay nghịch cảnh thì đều giúp tôi tinh tấn thành đạo. Tôi nguyện cống hiến sinh mạng của mình, chúng sinh chịu bao nhiêu gian khổ như vậy, tôi không cứu không được.

Trong thiền định, tôi có tình. Trong tam muội, tôi có nghĩa. Trong thần hành, tôi có pháp.

Tôi xem tất cả chúng sinh hữu tình giống như người thân cha mẹ anh chị em của tôi, xem họ như những viên "ngọc như ý", nguyện cho họ được ngày cát tường, đêm cát tường, từng giờ từng phút đều cát tường. Nhưng cũng mong trong khi tôi thần hành, tôi có thể giúp thành tựu lợi lạc cuối cùng cho họ.

Tôi đã ẩn cư rồi. Nhưng tâm thì vẫn không ẩn cư. Do thế, ẩn cư phi ẩn cư ấy là ẩn cư.

Mọi người hãy theo tôi tu tam muội, để nhận thức được thế gian như mộng huyễn, đừng bám chấp mà cần xả bỏ, giải thoát thành tựu để đến được cõi Tịnh độ.

06. Giúp đỡ một thí sinh

Có một học sinh rất ưu tú, thuộc tốp học sinh đứng đầu. Sự nghiệp học hành của cậu luôn đứng thứ nhất thứ hai, có chí hướng và tham vọng lớn.

Vào năm nọ, cậu tham dự một kì thi quan trọng nhất trong cuộc đời. Đề thi toán đưa ra, có thể nói là cậu đều hiểu hết, chắc chắn có thể được điểm tuyệt đối. Cậu hoàn toàn tin chắc như vậy.

Cậu tính toán và lần lượt hoàn thành các câu hỏi, rất dễ dàng. Trong số đó có một câu hỏi, hoàn toàn không phải là khó, cũng là vấn đề cậu đã từng làm qua, theo lý mà nói thì có thể giải được. Nhưng kì lạ thay, đột nhiên có chướng ngại, cậu chẳng ngờ không nghĩ ra được mối liên kết nằm ở đâu. Mồ hôi cậu túa ra. Nếu không trả lời được câu này thì sẽ bị mất 10 điểm.

Đầu óc thoải mái và tỉnh táo lúc ban đầu bỗng nhiên như bị bóp chặt lại. Tình huống này cũng giống như khi tôi viết sách vậy, gặp một chữ bình thường, bình thường vẫn biết viết chữ này, cũng đã từng viết rồi, nhưng nhất thời lại không nhớ ra được, thử viết trên giấy nháp nhưng nhìn trái cũng không giống, nhìn phải cũng không giống. Cuối cùng phải đi tra từ điển, mới "ồ" lên một tiếng, thế là viết được!

Hôm nay, cậu học sinh đó cũng chính là bị như vậy, bình thường những bài toán đã từng làm qua rồi nên cảm thấy không có vấn đề gì cả. Bây giờ thì đột nhiên lại không tính ra. Loay hoay ngẫm nghĩ, vẫn không nghĩ ra là không nghĩ ra. Càng vội càng hoảng, càng bấn loạn. Cậu lo đến muốn khóc.

Đột nhiên, cậu nhớ ra có đeo trên người một tấm phù hộ thân của Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật. Cậu đưa tay xoa xoa lên tấm phù hộ thân, niệm một câu: "Om guru liansheng siddhi hum." Trong chốc lát, điểm mấu chốt của câu hỏi toán học kia đột nhiên như được mở ra. Trong lòng cậu nghĩ đã có cảm ứng rồi, lập tức nhớ lại những gì đã học, nhanh chóng tính ra kết quả, hóa ra lại đơn giản dễ dàng như vậy. Cậu biết cậu đã được điểm tuyệt đối rồi.

Trong lòng cậu thí sinh này mãi mãi có Sư Tôn. Không Hành Mẫu vừa nghe tiếng kêu cứu đã liền cứu cậu rồi. Tôi cảm thấy một người chỉ cần thành tâm thành ý, nhất tâm bất loạn, hoặc khẩn thiết cầu nguyện, thì đều là những yếu tố vô cùng quan trọng. Đặc biệt là một hành giả, sự phát tâm ban đầu và tâm lâu dài vĩnh cửu là vô cùng quan trọng. Tu hành là khổ, nhưng không cũng là một huyễn mộng. (Coi như mơ một giấc mơ.) Ngẫm xem, ngẫm xem. Hãy hiểu, hãy hiểu.

07. Viên thuốc năng lượng

Ngày xưa có một người chơi đàn (làm nghề hát dạo) đi khắp nơi để hát, anh là đệ tử của tôi. Lưng anh hơi gù, không đứng thẳng được, cột sống cong cong.

Mỗi lần gặp Sư Tôn, anh đều gọi: "Sư Tôn, xin giúp con vỗ vào cái lưng một chút." Tôi liền vận khởi tâm lực, đồng thời niệm chú "Hum hum hum", dùng sức mạnh để vỗ vào lưng của anh chơi đàn. Nói ra kể cũng kì lạ, vỗ một hồi thì cái cột sống của anh chơi đàn đã thẳng lại, lưng cũng không gù nữa, anh hét lớn: "Kì tích! Kì tích!"

Về sau, bất kể là tôi đến nơi nào hoằng pháp, chỉ cần anh chơi đàn có mặt ở đó là anh nhất định sẽ gọi tôi: "Sư Tôn! Xin lại giúp con đánh vào lưng một lát." (Tôi đã thành sư phụ chỉnh xương sống rồi.) Tôi cười: "Chẳng phải là đã thẳng rồi sao?" Anh chơi đàn nói: "Phòng bệnh hơn chữa bệnh."

Lần này tôi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, chính tôi cũng bị mắc bệnh nặng "não phân tám mảnh, tứ đại phân tán", nhưng tôi cố gắng chịu đựng nỗi đau khổ này! Nhẫn nại!

Thật may, trong tam muội, tôi vẫn có thể thần hành đi lại, thoát khỏi cái khổ của sắc thân. Khi thần hành thì tôi tự do mạnh mẽ giống như rồng như hổ, bình thường thì sắc thân này giống như một gánh nặng.

Trong khi thần hành, tôi lại gặp anh chơi đàn, thật là có duyên. Anh ta cũng tràn đầy hứng thú, gặp ai là liền kể về kì tích Sư Tôn vỗ vào lưng anh, khiến cho cái lưng gù của anh có thể thẳng lại. Tôi thấy anh có đạo tâm kiên cố, trong lúc thần hành, tôi cũng vỗ vào lưng anh. Anh có biết hay không, tôi cũng không bận tâm, tôi cứ biết tôi làm là được.

Có một lần, anh chơi đàn bận đến mệt nhoài, ngủ say đến mức trời sập không biết. Cũng vì lo toan cuộc sống mà!

Tôi nhập vào giấc mộng của anh. Trên tay tôi cầm một chiếc đĩa, trên chiếc đĩa có mấy viên thuốc, tôi toan đưa mấy viên thuốc cho anh chơi đàn uống. "Là thuốc gì?" - Anh hỏi. "Thuốc năng lượng." - Tôi đáp. Tôi nói: "Anh cũng già rồi, cuộc sống khó khăn, cái này để tăng cho anh một ít năng lượng!" "Sư Tôn từ đâu đến đây?" "Hồ Diệp Tử." "Sư Tôn vất vả quá rồi." "Chúng sinh đều khổ, ta có thể không khổ sao?"

Anh chơi đàn uống thuốc năng lượng xong, cái lưng dưới cong cong liền thẳng lại, thể lực mạnh mẽ tráng kiện, da thịt sáng ra và dẻo dai, tiếng nói cũng vang to hơn. Anh đi hát dạo đến nơi nào thì đều tuyên truyền về thần lực của tôi, ha ha!

08. Chuyển nghề khỏi ung nhọt

Tôi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, biết đến trong Mật giáo có ba sự chuyển đổi lớn:

  1. Chuyển nghiệp khí (khí hậu thiên) thành khí tiên thiên.
  2. Chuyển khí thành quang, tịnh quang xuất hiện.
  3. Chuyển tịnh quang thành tính Không.

Trong tính Không thì không có sự nắm lấy hay buông bỏ, không chấp tướng, không chấp Không, như vậy tức là tam muội. Việc tu trì Mật giáo chính là dựa vào ba sự chuyển đổi này.

Tôi có một đệ tử, vì gặp thời cơ không may nên đã chuyển sang làm kinh doanh vườn câu tôm. Anh sử dụng một cái ao lớn, thả tôm xuống nuôi rồi cho người ta đến câu tôm, tôm tươi câu lên thì nướng ăn ngay tại chỗ. Việc kinh doanh vườn câu tôm cũng không tệ, anh còn tuyển mấy cô gái trẻ xinh đẹp để tiếp khách, kinh doanh rất tốt.

Vườn câu tôm của anh cũng mời người đến xem phong thủy, cúng Thổ Địa Công, rồi lại vì anh là đệ tử của tôi nên ở sau lưng Thổ Địa Công, anh cũng đặt bức tượng thờ Liên Hoa Đồng Tử.

Vấn đề là công việc kinh doanh thì tốt, nhưng bản thân đệ tử thì từ khi kinh doanh vườn câu tôm, trên da xuất hiện nhiều ung nhọt, đầu ngón tay, đầu ngón chân, bụng, lưng, cổ, chỗ nào cũng có, đi khám da liễu thì chẳng thấy có hiệu quả gì. Khi bệnh của đệ tử đã nặng, ngay cả ở lông mày cũng ngứa, gót chân đều nổi hạch, anh không ngừng than trời trách đất.

Anh cầm hương lạy Thổ Địa Công và Liên Hoa Đồng Tử, niệm An Thổ Địa chân ngôn: "Namo samanto motonam, om duru duru devi soha", niệm "Om guru liansheng siddhi hum".

Tôi nhập mộng nói với anh: "Anh phải hồi tâm chuyển ý, câu tôm là nghề sát sinh, hành giả không được làm. Đưa gái trẻ đẹp về, mặc váy ngắn, là nghề sắc tình, hành giả cũng không được làm. Anh nên đổi nghề đi! Làm công việc đàng hoàng mới tốt, nếu như đổi nghề, những ung nhọt trên da anh tự nhiên sẽ khỏi thôi." "Vậy thì đệ tử làm kinh doanh pachinko được không?" [ Pachinko là kinh doanh trò chơi điện tử. ] "Đó là trò cờ bạc, không phải là chính nghiệp." "Vậy đệ tử mở nhà hàng chay." "Tốt!" - Tôi nói.

Người đệ tử này nghe theo lời khuyên trong mơ của tôi, quả nhiên nhanh chóng chuyển nghề, một lòng một ý trì tụng kinh Quan Thế Âm. Kể từ đó, da anh từ từ hồi phục, cuối cùng đã khỏi bệnh hẳn, việc kinh doanh nhà hàng của anh cũng rất tốt.

Tôi nhập vào trong mộng của anh. Là do anh niệm Liên Hoa Đồng Tử tâm chú cũng đã có cảm ứng rồi.

09. Ba người luyện công phu

Ở hồ Diệp Tử, tôi rất nhớ các đệ tử trước đây. Thời kì đầu, tôi có ba đệ tử cũ luyện công phu quyền thuật.

Một người là Hứa Thủy Vượng, người cao to tráng kiện, luyện công phu "kim chung tráo", mười người đẩy anh ta cũng không dịch chuyển, công phu này chính là "lạc địa sinh căn". Để cho người ta đấm đá lên thân thể anh, anh ta cũng vẫn bất động, không một tiếng kêu, người đầy bản lĩnh.

Còn nhớ lần đầu tiên tôi trở về Đài Loan, Hứa Thủy Vượng đột nhiên mắc bệnh, không ngờ anh chỉ gặp tôi một lần cuối rồi qua đời, tuổi cũng còn khá trẻ. Trong lòng tôi rất thương tiếc!

Đệ tử thứ hai chính là Trương Hoàng Minh. Anh theo tôi đã lâu, để râu dài, râu vừa đen vừa dài bay bay, dáng người cao lớn, cũng là một người đầy bản lĩnh, từ nhỏ đã luyện công phu. Trương Hoàng Minh tâm địa thiện lành, đôi mắt sáng. Thế nhưng anh cũng đã mất rồi, tuổi cũng còn trẻ. Mọi người đều biết Trương Hoàng Minh là ai, tôi nhớ anh, trong lòng cũng buồn thương đến chảy nước mắt.

Đệ tử thứ ba chính là Trịnh Dụ Tín. Dáng người anh thô ráp, cũng là một người đầy bản lĩnh, đã từng lên võ đài, công phu đẳng cấp ichiban [ ND: tiếng Nhật, nghĩa là số một ], lư hỏa thuần thanh "bát quái du thân chưởng". Lúc 50, 60 tuổi thì vẫn khỏe như ngựa, thân thể dẻo dai mềm mại ai nấy kinh thán.

Trịnh Dụ Tín biểu diễn công phu ở biệt thự nhà anh, anh ta có "thiết sa chưởng", bản lĩnh phi phàm. Điều không ngờ là anh cũng đã qua đời rồi. Khi anh mất, tôi ở hồ Diệp Tử, nhìn thấy thân trung ấm của anh đến, phía sau anh có không ít người đi theo.

Tôi tiễn anh một đoạn, trong lòng không chịu nổi nỗi đau buồn thương tiếc!

Tôi viết về ba đệ tử luyện công phu này là muốn mọi người hiểu rõ về "mộng huyễn bào ảnh", nhớ rằng: "Thế gian vô thường, quốc đại nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ uẩn vô ngã, sinh diệt biến dị, thành trụ hoại không." Có mạnh thì có suy. Có sinh thì có tử. Có gặp thì có tan.

Vô thường cấp tốc, quả nhiên vô thường rất nhanh. Tôi là một hành giả giàu tình cảm, sao tôi có thể không nhớ tiếc ba đệ tử luyện công phu này. Đời người như một giấc mộng, sự gặp gỡ cũng ngắn ngủi tạm thời. Một giấc mộng một thế giới.

Tôi tu quang minh, cúng thập phương Phật, ánh sáng nhập vào Phật tâm, trở về nhập vào tự tâm, rồi lại phóng quang đến khắp thập phương lục đạo hữu tình, quảng độ chúng sinh đều được xuất ly khỏi biển khổ, trực tiếp đến Tây phương cực lạc tịnh thổ, đến được tịnh thổ là quan trọng nhất.

Tôi nói, cho dù luyện thân thể cường tráng thế nào thì cũng suy bại thôi, thời gian chẳng tha người nào hết!

10. Xin đừng buồn phiền quá mức

Nghe nói rằng vào những năm cuối đời, Phật Thích Ca Mâu Ni đã xuất hiện những triệu chứng tuổi già, vô cùng tiều tụy. Phật Đà cũng mắc bệnh như thường, sắc thân suy yếu, hoạt động khó khăn.

Trong nhân duyên của Phật Đà, mặc dù đã đại giác ngộ, nhưng Phật cũng phải chịu bệnh: Đau nửa đầu. Đau lưng nhức mỏi.

Phật Đà nhập niết bàn là vì nhận cúng dường của người thợ rèn, ăn phải thực phẩm không sạch, bệnh viêm dạ dày phát tác, thế rồi Ngài cũng nhập niết bàn tại gốc cây sala.

Ngày trước, tôi đến Thiên Trúc, Ấn Độ, đã đi qua 8 đại thánh địa, đến nơi Phật niết bàn, trông thấy rất nhiều đệ tử nhiễu vòng quanh, nét mặt họ đều đầy vẻ ưu phiền.

Thượng sư của tôi, Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 Kamarpa mắc bệnh ung thư dạ dày, sống đến ngoài 50 tuổi thì thầy cũng nhập niết bàn tại Chicago, Mỹ. Đạo An pháp sư, vị thầy quy y của tôi, chỉ vì trượt chân trong nhà tắm mà cũng đã nhập niết bàn khi hơn 50 tuổi.

Từng có đệ tử hỏi tôi: "Sư Tôn! Thầy có mong trường thọ không?" Tôi đáp: "Tôi chẳng mong trường thọ." "Vì sao vậy?" "Tục ngữ có câu, sống chết có số, phú quý nhờ trời. Sống chết là việc của tự nhiên, như lúc mơ lúc tỉnh, sống chết như nhau, xin đừng buồn phiền quá mức."

Tôi từng có một đệ tử già là bà Lâm Ngọc Liễu, tôi quen bà tại Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung. Khi tôi đi Mỹ, chúng tôi cũng từng thư từ qua lại. Em gái của bà chính là Lâm Ngọc Tần, người đã cúng dường tấm phướn hình Phật cho Seattle Lôi Tạng Tự. Họ đều là những đệ tử già quy y tôi từ hồi đầu.

Tôi sống ẩn tại hồ Diệp Tử, biết Lâm Ngọc Liễu sắp viên tịch. Trong lòng tôi không nỡ. Bà ấy cùng thế hệ với mẹ tôi. Tôi đã đặc biệt biến hóa ra "nước trường sinh" gửi cho bà ấy uống. Bà ấy không uống, ngược lại còn tức giận. [ ND: Vì bà không thấy cần phải sống lâu làm gì ]

Bà nói: "Nếu có vô lượng trăm nghìn vạn tỉ chúng sinh phải chịu mọi khổ não, biết đến Quan Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh hiệu ngài, Quan Thế Âm Bồ Tát lập tức sẽ nghe thấy âm thanh này mà những chúng sinh đó đều được giải thoát."

Lâm Ngọc Liễu nói: "Chỉ cần nhất tâm xưng danh nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát thôi!" Đàn thành có Thánh Hiền. Bảo vật đều thanh tịnh. Hoa quả chứng vô sinh. Hết thảy đều viên mãn. Lâm Ngọc Liễu nói: "Tôi ở lại trên thế gian có lợi ích gì chứ?"

Cuối cùng, tôi chỉ gửi tặng bà một đóa hoa sen.

11. Trăm quỷ đến cướp khí

Ở hồ Diệp Tử, tôi làm thí thực: Đại bàng Kim Sí Điểu. Hoang dã quỷ thần chúng. La sát quỷ tử mẫu. Cam lộ đều tràn đầy. Om mutili soha. Om mutili soha. Om mutili soha.

Đúng lúc này, những lá cây ở khu rừng sam đều hóa thành ác quỷ. Cam lộ của tôi vẫn còn chưa vẩy ra thì chân khí của toàn thân tôi đã bị chúng hút hết sạch.

Trong một chốc, tôi giống như quả bóng bị xẹp hết khí, tinh thần cực kì suy sụp, cả người uể oải mệt mỏi, dường như đến cả việc đi dạo bộ cũng khó khăn, mỗi bước đi đều cảm thấy kiệt sức.

Tôi toi rồi, tôi tự thấy trăm nghìn vạn quỷ lợi dụng lúc tôi chưa chuẩn bị xong đã lao đến cướp khí của tôi, thật quá đáng. Tuy nhiên, tôi là một hành giả, vốn dĩ chính là cần cống hiến thân thể và sinh mạng của mình cho chúng sinh, chân khí tản mát của tôi nếu như có ích cho trăm nghìn vạn quỷ thì tôi cũng mãn nguyện.

Tôi cực kì đau đớn. Ăn không ngon miệng. Quần áo rách nát. Nằm co quắp một chỗ. Kiệt sức toàn thân.

Tôi liên tục mất ngủ, tóc chẳng chải, râu chẳng cạo. Tóc bạc trắng, râu bạc trắng, khi tôi soi gương thì giật nảy mình. Tôi chính là một kẻ lang thang một trăm phần trăm, khí lực cạn kiệt, nhìn như chết hơn là sống, sự hùng dũng, khí thế của quá khứ chẳng biết đã biến đi đâu mất, thật đáng thương làm sao! Tôi cũng chẳng khác gì kéo lê một xác chết.

Thôi kệ đi! Chỉ cần đám quỷ có được lợi ích thì cho dù tôi chết cũng được, thân thể xương thịt này của tôi không cần cũng được, tất cả đều cống hiến hết.

Có một hôm, Thiện Quang Phật thị hiện pháp thân, nói: "Ta dạy ngài một câu chú! Nếu không ngài sẽ chết mất!" Chú rằng: “Bồ đề phát ư tâm. Ư tâm vô sở tầm. Thành tựu ư nhất thiết. Vô cổ diệc vô kim” [ ND: Có thể đọc câu chú như sau: Bồ đề phát tại tâm. Tại tâm chẳng cần tìm. Thành tựu được hết thảy. Chẳng xưa cũng chẳng nay. ]

Tôi có được câu chú này thì cứ thế tụng niệm. Tôi niệm hàng ngày, niệm đến trăm, nghìn, vạn quỷ không ngờ đều có được cảm ứng. Những lá cây trong khu rừng sam vốn dĩ là ma quỷ, không ngờ đã biến hóa thành Phật. Lũ ma quỷ đều nhờ bài kệ này mà khai ngộ.

Ha ha! Hóa ra là Phật đến để khảo nghiệm tôi à! Thể lực của tôi đã phục hồi rồi! Khí đã từ từ khôi phục.

12. Niệm chú Phát bồ đề tâm

Có một người không phải là đệ tử của tôi. Tuy nhiên, tại một quầy hàng nhỏ tại chợ đêm, người này trông thấy một bức tượng Bồ Tát, anh ta cho rằng đó là Địa Tạng Vương Bồ Tát, tướng mạo cũng khá đẹp, bèn thỉnh về nhà để thờ cúng.

Khi trở về nhìn kĩ lại thì Bồ Tát này không phải là Địa Tạng Vương Bồ Tát, bởi vì hai tay ngài không cầm bảo ngọc, cũng không cầm cây trượng, nên không phải là Địa Tạng Bồ Tát.

Anh mời chuyên gia đến xem, chuyên gia nói, đội mũ Ngũ Phật, tay phải cầm chày kim cang, tay trái cầm chuông kim cang, rõ ràng là Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, nhưng cách cầm thì lại không giống, là bị ngược, vậy thì lại không giống Kim Cang Tát Đỏa. Chuyên gia lắc đầu chịu thua.

Lúc này không còn cách nào khác. Anh này mỗi ngày đều thắp hương, cúng trà quả, luôn miệng gọi: "Bồ Tát. Bồ Tát. Vô danh Bồ Tát." Cứ thế nhiều năm trôi qua.

Có một năm nọ, anh bị mắc bệnh mắt, mắt bị viêm đỏ, chảy máu, đi khám không có hiệu quả, mắt vừa đau vừa mờ, anh không ngừng rên rỉ, khổ không lời nào kể xiết.

Tôi nhập vào giấc mơ của anh. Anh hỏi: "Ngài là ai?" "Tôi và anh có duyên, tôi đã ở trong nhà anh lâu rồi! Tôi chính là Bồ Tát, nếu tôi không đến đây thì anh sẽ bị mù đó. Tôi dạy anh một câu chú, anh nhớ kĩ, khi trì chú hãy tưởng tượng mặt trăng tròn phóng quang chiếu đến anh, chú rằng: "Om bodichita benza samaya ah hum."

Anh tỉnh dậy, quên luôn câu chú này. Tôi lại nhập mộng một lần nữa: "Om bodichita benza samaya ah hum." Lần này thì anh đã nhớ được rồi.

Câu chú này mang sức mạnh đại uy đức, có thể khiến người trì chú thân tâm thanh tịnh, trì lâu thì tâm sẽ không thoái chuyển. Tất cả Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại, vị lai khi mới phát bồ đề tâm đều trì câu chú này, sẽ nhập vào bất thoái địa tốc viên chứng giác. Câu chú này đến từ "Đại Thừa bản sinh tâm địa quán kinh".

Trong giấc mơ, anh kia có được câu chú này, lại là hai giấc mơ liên tiếp, nên đã tin tưởng, cũng tưởng tượng ánh sáng trăng tròn chiếu lên mắt, rồi cật lực mỗi sáng sớm đều trì câu chú này. Mới được một tuần, mắt anh đã không còn đau nữa, máu tụ đã tan, đôi mắt quả nhiên sáng lấp lánh như hồi đầu.

Anh kể với người nhà, người nhà không tin lắm. Anh lại mời chuyên gia, mời thợ tạc tượng giỏi đến để xem là Bồ Tát nơi nào. Mọi người đều chẳng nhận ra. Ha ha! Là Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử đó mà.

13. Ngày xưa và ngày nay

Nhớ thời đại học, tôi học khoa đo đạc địa chất, sống tại kí túc xá, bị mắc bệnh mắt, là bệnh đau mắt đỏ, trong người luôn mang theo lọ nước nhỏ mắt. Khi mắt tôi khô rát và khó chịu thì mọi lúc mọi nơi sẽ đều có thể nhỏ nước nhỏ mắt.

Sau này, tôi mơ thấy một bà lão lấy ra một gói thuốc bột đắp lên hai mắt của tôi. Trong giấc mơ, tôi cảm thấy mát lạnh rất dễ chịu, cực kì sảng khoái. Kì lạ là, từ sau giấc mơ đó, bệnh mắt của tôi đã khỏi. Bà lão chính là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. (Câu chuyện này đã từng được đăng trong sách thời kì đầu.)

Ngày nay, tôi đắc tam muội, trong tam muội tôi đã đi thăm Tiên Sơn của Quan Thế Âm Bồ Tát, tự mình cảm tạ ơn chữa lành bệnh mắt của Quan Thế Âm Bồ Tát năm xưa. Trước tiên tôi đến động Thiện Tài. Thiện Tài Đồng Tử bảo tôi: "Bồ Tát đang ở động Triều Âm."

Tôi vội vã đến động Triều Âm, thấy Quan Âm Đại Sĩ hiện toàn thân, mặc thiên y bằng tơ trắng và thắt lưng màu xanh nhạt, đeo trang sức trang nghiêm. Tôi cảm tạ Đại Sĩ ngày xưa đã chữa bệnh mắt cho tôi.

Quan Âm Đại Sĩ nói với tôi: "Ngày xưa ta chữa bệnh mắt cho ngài, ngày nay ngài đi chữa bệnh mắt cho người, đây cũng đều là nhân duyên. Tôi có một cách chữa bệnh mắt truyền đến thế gian, rất có hiệu nghiệm, ngài có thể ghi vào trong sách để truyền cho người đời sau, có tác dụng cứu thế."

Mỗi ngày vào buổi sáng, lấy một cốc nước sạch, thắp hương niệm bài kệ này bảy lần: “Cứu khổ quan thế âm. Tứ ngã đại an lạc. Dữ ngã đại phương tiện. Diệt ngã ngu si ám. Hiền kiếp chư chướng ngại. Vô minh chư tội ác. Xuất ngã ám thất trung. Sử ngã thị vật quang. Ngã kim thuyết tẩy pháp. Sám nhãn thích tội trạng. Phổ phóng tịnh quang minh. Nguyện đổ vy diệu tương.”

Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: "Vì sao người đời mắc bệnh mắt lại nhiều như vậy?" Bồ Tát đáp: "Vì có mắt như mù, không mắt cũng như mù, ai trên đời có được con mắt thanh tịnh?" Tôi nghe xong thì kinh hãi.

Nghĩ xem, đúng thật, cuộc đời con người từ nhỏ đến lớn, mấy người có thể không có phiền não? Có mấy người không vội vàng tất bật? Có mấy người có thể gặp được đại thiện tri thức để dạy chính pháp cho họ? Có mắt cũng như mù, không mắt cũng như mù, con người đúng là quá mù mắt.

14. Linh rắn ám thân

Một đệ tử nọ trồng nho ở trên núi, có một con trăn lớn trốn trong vườn nho nhưng đã bị đệ tử đó phát hiện ra và anh ta đã dùng rìu chém nó.

Đệ tử đó nằm mơ, mơ thấy con trăn bò vào trong bụng anh. Kể từ hôm đó anh sinh bệnh, sắc mặt xanh xám, khi không nói gì cũng thường xuyên thè thụt lưỡi. Bệnh càng ngày càng nặng, anh ta vừa khóc vừa la, thích nằm bò uốn éo trên mặt đất, hễ đói bụng thì đi kiếm đồ ăn, ăn một miếng to bằng cả cái nồi.

Cuối cùng, người nhà không còn cách nào, đành phải đưa đệ tử này vào bệnh viện tâm thần.

Trước đàn thành, người nhà phát nguyện: "Niệm Chân Phật Kinh 1000 biến, niệm Cao Vương Kinh 1000 biến."

Thế là, trong tam muội, tôi thần thành đến gặp đệ tử ở trong bệnh viện tâm thần. Vừa trông thấy anh, tôi đã biết anh đã bị linh rắn ám thân. Con trăn này rất thích ăn chuột đất. Thế là, tôi dùng một cái lồng to, trong lồng chứa rất nhiều chuột, đi đến trước mặt đệ tử.

Đệ tử bị linh rắn ám vừa nhìn thấy cả một đám chuột đất thì thích lắm, liền từ trong miệng của đệ tử này trườn ra ngoài để săn chuột. Cái lồng đó của tôi có hai cánh cửa. Một cửa vào. Một cửa ra.

Linh rắn từ cửa trước đi vào, chuột từ cửa sau chạy ra, chúng chạy tán loạn khắp mọi hướng. Tôi rất lanh lẹ đóng cửa sau lại, chuột chạy hết sạch. Tôi lại nhanh chóng đóng cửa trước lại, thế là trong lồng chỉ còn lại linh rắn. Tôi xách cái lồng lên, trở về hồ Diệp Tử. Tôi theo gió mà bay mất hút về nơi xa xăm.

Tôi ra khỏi thiền định tam muội, cũng giống như vừa có một giấc mơ. Lồng sắt nào, căn bản chẳng có. Linh rắn nào, căn bản chẳng có. Chuột đất nào, căn bản chẳng có.

Tuy nhiên, theo tôi được biết, đệ tử ở bệnh viện tâm thần không ngờ đột nhiên tinh thần tốt lên, cuộc sống mỗi ngày một bình thường, nhãn thần cũng bình thường, các biểu hiện cũng bình thường. Anh không cần uống thuốc, cũng không nằm bò ra đất uốn éo, cũng không thò thụt lưỡi ra ngoài nữa. Ăn uống lại như người bình thường. Không lâu sau thì anh ta được xuất viện.

Người nhà cảm thấy Chân Phật Kinh, Cao Vương Kinh có linh có nghiệm, niệm hết 1000 biến thì tội chướng đều tiêu diệt, tiêu trừ mọi độc hại, có thể diệt được khổ sinh tử. Lành thay! Lành thay!

15. Cua lông

Có một người rất thích ăn cua lông. Hễ đến mùa thu, khi những con cua lông ở hồ Hồng Trạch [ ND: thuộc tỉnh Giang Tô, ,Trung Quốc ] sinh trưởng đông đúc, anh ta bữa nào cũng ăn cua, gạch cua đo đỏ, lớp cao vàng vàng, thưởng thức vị ngon của nó thật sự khiến anh ta nghĩ đến đã thèm. Những con cua lông này là món anh thích nhất.

Một đêm nọ, khi vừa ngủ anh đã nằm mơ (thực tế là anh bị lên cơn đau tim đột ngột, suýt mất mạng), thấy người bay bay đi ra khỏi nhà, đến một vùng trời đất trong suốt. Anh men theo con đường mà đi tiếp thì nhìn thấy bên cạnh một bờ sông có một đám người cả nam cả nữ đang khênh một chiếc kiệu. Đám người điên cuồng múa bụng, chiếc kiệu xoay bên này xoay bên kia, lên lên xuống xuống, cứ xoay không ngừng, cảnh tượng như đang nghênh tiếp anh ta vậy.

Cửa chiếc kiệu bất ngờ mở ra, đám người muốn anh đi vào. Lúc này, anh bỗng nhớ đến cuốn sách "Vượt qua biển sinh tử" của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. [ ND: Văn tập số 163 của Sư Tôn ] Chiếc kiệu - là con cua lông. Nam nam nữ nữ - là cá tôm. Trời đất trong suốt - là sông hồ. Anh giật thót mình! Hét lên một tiếng lớn: "A Di Đà Phật!"

Chiếc kiệu biến mất, nam nam nữ nữ biến mất, trời đất trong suốt cũng biến mất. Có một Bồ Tát nói với anh: "Anh vốn là người có thiện căn, bình thường cũng đọc kinh lạy Phật, nhưng anh nghiện ăn cua lông quá, hiện nay anh đang bị đau tim, ta đặc biệt đến đây cứu anh, anh từ bỏ ăn cua lông đi, đây là từ bỏ việc sát sinh, có được không?" Đương nhiên là anh ta gật đầu.

Bồ Tát cũng không nói gì, rồi giống như dùng cây kim nóng cắm vào trong ống tim của anh cho thông. Anh hét lên một tiếng rồi bừng tỉnh dậy, một nửa thân người anh cứng đờ, phải từ từ anh mới có thể cử động, toàn thân vã mồ hôi như tắm. Anh tự cảm thấy hơi thở dần dần bình thường trở lại.

Anh tự biết bản thân đã chết qua một lần rồi, hoảng hốt khi mơ hồ cảm thấy chỗ đau ở tim do bị kim nóng châm vào. Kể từ sau khi có giấc mơ bị chết một lần này, anh liền quy y Chân Phật Tông, thọ Bồ Tát giới. Không sát sinh, không ăn cua lông. Vĩnh viễn ăn chay.

Những người bạn trước đây biết anh nghiện cua lông thì cố ý mua những con cua lông đem tặng anh, anh đều đem phóng sinh hết, niệm chú Vãng Sinh. Anh nói với bạn bè, bây giờ tôi ăn nó, sau này nó ăn tôi, tôi sẽ đầu thai thành cua lông, đáng sợ lắm!

16. Người bán hàng trên vỉa hè

Có một đệ tử làm nghề bán những đồ lặt vặt trên vỉa hè, nhưng không gặp vận may, công việc buôn bán rất kém, tiền kiếm được không đủ để nuôi miệng ăn của gia đình, cơm không đủ bữa.

Có một lần đến một cửa hàng đồ ăn tự phục vụ, người nhà chỉ có thể được mỗi người một bát cơm trắng. (Canh của cửa hàng đồ ăn tự phục vụ được nấu trong nồi lớn, khách có thể tự lấy để ăn, không phải trả thêm tiền.) Thế là, cả nhà anh ta ra sức uống nước canh cùng với cơm trắng.

Chủ cửa hàng để ý thấy. Những người khách khác cũng lấy làm ngạc nhiên. Đệ tử và người nhà ăn đến mức nước mắt chảy ròng ròng, cũng vô cùng xấu hổ, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác, không có tiền, khổ lắm! Anh gọi to Sư Tôn cứu mạng!

Tôi ở trong tam muội biết được chuyện này, trong lòng rất buồn, bèn nhập vào trong mơ của đệ tử, dạy cho anh một pháp niệm tụng đơn giản, bởi vì pháp sâu hơn một chút thì anh không hiểu. Anh không đi học, không biết chữ.

Pháp niệm tụng này như sau: "Kinh ra ngoài buôn bán" “Nhất mại tựu ngộ đáo quan thế âm. Đông dã nhất quần phật. Tây dã nhất quần phật. Nam dã nhất quần phật. Bắc dã nhất quần phật. Phật. Phật. Phật. Nhất thiết cát tường. Hoá phẩm toàn mại thanh”

Đệ tử này mặc dù đã quy y nhưng kinh nào cũng không biết, pháp nào cũng không tu, chú nào cũng không biết trì. Nhưng gia cảnh thực tế đã sắp không thể trụ được nữa, trong nhà chẳng còn nổi một hạt gạo, đã ở vào tình cảnh ngày không đủ ba bữa ăn rồi. Tôi nhập mộng, dạy cho anh bài kinh buôn bán thuận lợi.

Đệ tử bán hàng trên vỉa hè tỉnh dậy, vẫn nhớ được pháp niệm tụng này, thắp một nén hương, trước khi ra khỏi nhà buôn bán đã niệm bảy biến.

Ha ha! Từng đám người đi qua sạp hàng của anh đều dừng chân, không nỡ rời đi, tiện tay mua một, hai món đồ.

Việc buôn bán quả nhiên đã thay đổi, tốt hơn trước đây vài lần. Anh càng chăm niệm thì việc buôn bán càng tốt. "Kinh ra ngoài buôn bán" đơn giản này rất dễ nhớ, dễ đọc, anh rất thích, Bồ Tát và Phật chính là tiện lợi như vậy. Là tùy duyên cứu chúng sinh đó!

17. Chế độ xuất gia Chân Phật Tông

Trong tam muội, tôi có được những khai sáng về việc cạo đầu xuất gia. Trong tương lai, nhằm để sự truyền thừa của chế độ xuất gia của Chân Phật Tông không bị gián đoạn, tôi ghi lại những khai sáng này như sau: Sau khi tôi rời khỏi thế gian này:

  1. Thượng sư nam đều có thể cạo đầu cho nam nữ xuất gia.
  2. Thượng sư nữ chỉ có thể cạo đầu cho người nữ xuất gia.
  3. Pháp sư nam sau khi xuất gia 10 năm có thể cạo đầu cho nam nữ xuất gia.
  4. Pháp sư nữ sau khi xuất gia 10 năm có thể cạo đầu cho người nữ xuất gia. (Hiện tại chỉ có Thượng sư Liên Hàn và Thượng sư Liên Ninh cạo đầu cho nam nữ xuất gia, những năm sau này sẽ thay đổi, sẽ theo như bốn điều trên mà thực hiện.)

Còn đối với việc trong tương lai, làm sao để công nhận một Thượng sư:

  1. Do Tông ủy hội công nhận.
  2. Do Thượng sư thật sự chứng đắc công nhận. (Thượng sư thật sự chứng đắc là người đã minh tâm kiến tính, đã tự chủ sinh tử, thân khẩu ý thanh tịnh.)

Vì sao cần có những chế độ này? Trả lời: "Không có, tất sẽ loạn!" Kì thực, hành giả thật sự chứng đắc giống như trăng sáng ngày đẹp, vạn hồ soi bóng, không chỉ là hồ nước mà mọi vũng nước nhỏ đều có thể soi rõ bóng trăng.

Hành giả thật sự chứng đắc là cũng Thượng sư chân chính, có tâm tính chỉ dạy chúng sinh như nước trong, như nước bất động, nhất tâm chuyên chú trong tam muội tịnh thổ, có thể khiến âm dương đều đạt được lợi ích.

Thượng sư chỉ là một danh từ. Pháp sư cũng chỉ là một danh từ. Nếu như tâm của chính mình không chí thành, chính mình không thể chuyên nhất, không thể nhập vào tam muội, cũng không có cách nào đến được bỉ ngạn tịnh thổ, thì Thượng sư hay pháp sư cũng đều là giả danh mà thôi.

Tôi từng nói: Tu khí đắc tịnh quang. Tu tịnh quang đắc Không tính. Chứng Không tính biết tính Không. Xa rời cái huyễn tức là giác ngộ.

Tôi hy vọng, các Thượng sư tương lai của Chân Phật Tông ai nấy đều là Thượng sư thật sự. Pháp sư của Chân Phật Tông ai nấy đều là pháp sư thật sự.

Lấy lục độ vạn hành của Bồ Tát để tùy theo căn tính của tất cả chúng sinh khắp mọi nơi mà đưa họ trở về Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ. Tương lai không chỉ Thượng sư pháp sư có được chứng ngộ "diệu giác" mà chỉ cần là hành giả Chân Phật thì đều chứng ngộ được "diệu giác". Đây cũng vẫn là không từ bỏ một chúng sinh nào!

18. Nguy cơ

Trong tam muội: Tôi phát hiện thấy mình đã đến vùng biển nước sâu, mặc dù ở nơi biển sâu nhưng việc hít thở cũng chẳng có vấn đề gì, giống như đi trên mặt đất vậy. Hóa ra cảnh giới được nói đến trong kinh điển là chỉ cảnh giới trong tam muội. Lửa không thể đốt cháy. Nước không thể nhấn chìm. Dao không thể chém thương. Đất không thể vùi lấp.

10 câu trong "Quan Âm cứu sinh kinh" là: "Quan Thế Âm, nam mô Phật, có duyên cùng Phật, có duyên cùng Phật, duyên Phật pháp tăng, thường lạc ngã tịnh, sớm niệm Quan Thế Âm, tối niệm Quan Thế Âm, suy nghĩ từ tâm khởi, suy nghĩ không rời tâm." Suy nghĩ không rời tâm ở đây chính là "nhất tâm", chính là "tam muội"!

Tôi ở trong biển sâu gặp một cảnh tượng rất kinh khủng. Vốn là có một chiếc máy bay chở khách không biết vì nguyên nhân gì mà rơi xuống biển, nhân viên trên máy bay đều chết hết, đây là một thảm kịch lớn của con người. Nguy cơ đến tính mạng ở khắp nơi, con người như ngọn nến trong gió. Con người ở vào hoàn cảnh nào mới được coi là an toàn đây?

Tôi tìm gặp thần Biển, nói thần Biển hãy thu nhận các cô hồn. Tôi chắp tay với thần Biển. Thần Biển nói: "Có một cô hồn chúng tôi không thể tiếp nhận, do vậy ngài đã đến đây rồi thì xin ngài hãy tiếp nhận cô hồn này đi!" "Vì sao lại là tôi tiếp nhận?" - Tôi rất kinh ngạc. "Là đệ tử mà ngài quán đảnh từ xa." "Đệ tử quán đảnh từ xa ở trên máy bay vì sao không nhận được sự bảo vệ của Phật Bồ Tát?" - Trong lòng tôi đau đớn. Thần Biển đáp: "Cộng nghiệp."

Tôi vô cùng đau lòng, dẫn theo đệ tử này rời khỏi biển, trở về Ma Ha Song Liên Trì, tạm thời để ở trong nụ hoa sen. Vì sao lại là ở trong nụ hoa, bởi vì đệ tử này mặc dù đã nhận quán đảnh từ xa, nhưng vẫn chưa chính thức tu pháp, nghiệp chướng rất nặng, vẫn chưa thể "hoa khai kiến Phật".

Tôi dạy anh ở trong nụ hoa sen thì hãy niệm "Quan Âm cứu sinh kinh", những thứ khác không cần tu nhiều, cần đợi đến khi mọi suy nghĩ của anh không rời tâm, tự nhập vào tam muội rồi thì có thể "hoa khai kiến Phật" được.

Sau khi tôi xuất khỏi thiền định, nhớ đến một trong Tứ niệm xứ - "Quán thọ là khổ", đúng vậy, đời người quả nhiên là khổ, vui vẻ thì rất ngắn ngủi tạm thời, đau khổ thì nhiều hơn, cuộc đời này đầy buồn đau. Tôi thật sự đã thấy quá nhiều rồi.

19. Thoát khỏi tai nạn xe

Còn nhớ lúc trước khi ở Seattle nước Mỹ, buổi sáng sớm tôi thường xem tin tức về tình hình giao thông trên ti vi, gần như luôn thấy trên ti vi có sự việc kiểu như hai chiếc xe ô tô, một xe màu xanh lam, một xe màu đỏ, hai xe đâm vào nhau khiến đường xá tắc nghẽn.

Tôi thì luôn thở dài một hơi: "Lại tai nạn xe, lại là tai nạn xe, chà! Sao ngày nào cũng có tai nạn xe?"

Kì thực, khi còn sống tại Seattle, nước Mỹ đã được xem như là một quốc gia tuân thủ luật giao thông, đặc biệt là trên đường không có xe máy, không có xe đạp, nhưng xe buýt và ô tô vẫn khá nhiều, giờ đi làm và tan làm giao thông thường tắc nghẽn, ngay cả đường cao tốc cũng trở thành bãi đậu xe lớn.

Những vụ va chạm giữa xe ô tô ngày nào cũng có, chà! Thật quá bất cẩn! Lái xe quá nhanh mà. Mỗi lần trông thấy tai nạn xe cộ, tôi đều định tâm và chắp tay lại, niệm một câu: "Nam mô A Di Đà Phật!" Tai nạn nhỏ thì cũng không có vấn đề gì. Tai nạn lớn, người bị thương, người chết, sao có thể không đau lòng. Người chết rồi thì thôi, nhưng người sống thì sao có thể chịu đựng nổi nỗi đau!

Tôi ở hồ Diệp Tử ẩn cư, khi nhập tam muội, tôi bất ngờ nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng. Có ba tăng nhân (người xuất gia) lái xe đến một ngôi chùa nọ để thuyết pháp. Phía bắc của chùa có một con sông lớn, phía nam là núi cao vực sâu, trên đường có nhiều vòng xoay cong phức tạp, đường lại hẹp. Vì lái xe quá nhanh. Phía trước bất ngờ có xe chạy đến. Xe của tăng nhân vì tránh chiếc xe chạy từ phía trước đến nên lao ra khỏi đường chính, rơi xuống con sông dưới vách núi, xe lộn hai vòng ở trên không.

Ở trong tam muội, tôi hét lên một tiếng lớn đầy kinh hãi: "Nam mô A Di Đà Phật!"

Đột nhiên, tôi nhìn thấy trong hư không xuất hiện đôi bàn tay to lớn tóm chặt lấy chiếc xe, nhẹ nhàng đặt nó ngay ngắn trên bãi cát bên bờ sông lớn. Thế rồi, đôi bàn tay to lớn lại rút vào trong hư không.

Ba tăng nhân này chẳng ngờ chỉ bị thương nhẹ, vết thương ngoài da. Chiếc xe của tăng nhân lẽ ra đã rơi xuống dòng sông mà chết chìm, nhưng lại không hề. Lẽ ra họ đã bị chết vì cú va đập, nhưng kết quả là bình an vô sự. Ba vị tăng nhân đều mang tâm lý sợ hãi trước sự nguy hiểm lần này, chắp tay cảm tạ Bồ Tát đã cứu mạng.

Tôi trông thấy cảnh này cảm thấy rất kì lạ. Ba tăng nhân này tôi chẳng quen biết ai, nhưng vì sao họ lại xuất hiện trong tam muội của tôi? Việc này là nhân duyên gì đây? Hồi sau, trong tam muội, tôi nhìn thấy ở ghế sau xe của họ có để một vài tờ báo, không ngờ lại là Tạp chí Nhiên Đăng của Chân Phật Tông. Ra là ba tăng nhân này đã đọc Tạp chí Nhiên Đăng!

20. Nỗi đau vĩnh hằng

Một cặp vợ chồng quy y tôi có một đứa con trai tướng mạo thanh tịnh ưu tú, khiến ai gặp cũng đều yêu quý. Tuy nhiên, đứa bé trai này lại mắc một căn bệnh nặng, khi mọi thuốc thang và chữa trị y học đều vô hiệu thì cậu bé đã qua đời rồi!

Cặp vợ chồng đứng trước đàn thành, ngửa mặt lên trời than khóc: "Con trai đi rồi, hai người chúng tôi cũng không muốn sống nữa, trời ơi…" Người vợ khóc tới mức ngất xỉu ngã ra đất, phải đưa đi bệnh viện cấp cứu, phải truyền tĩnh mạch! Người chồng cũng đau đớn tột cùng, đột ngột cảm thấy cuộc đời mất hoàn toàn ý nghĩa.

Họ vốn có một cuộc sống đầy màu sắc, bây giờ tất cả đã trở thành toàn màu đen trắng, thậm chí là màu xám xịt, toàn thân kiệt sức. Hai người chỉ có nhìn nhau, nước mắt đầm đìa.

Cảm giác sinh ly tử biệt này, tôi có thể đồng cảm sâu sắc. Khi mẹ tôi rời khỏi chốn nhân gian, cảnh tượng lúc bà lâm chung còn sống động trong tâm trí tôi. Tôi biết không thể khóc, trong thâm tâm tôi cật lực niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng thật sự không thể nén nhịn được, bèn chạy ra bên ngoài, ngửa mặt lên trời mà khóc một hồi, ôi! Bảo tôi không khóc, thật khó! Cái chết của mẹ tôi là nỗi đau vĩnh hằng trong lòng tôi.

Cặp vợ chồng này đã mất đi người con trai họ thương yêu nhất, tôi có thể hiểu rõ điều này. Tuy nhiên, trong sự quá đau lòng, hai vợ chồng đã xé chứng thư quy y, dẹp bỏ đàn thành, không tham gia đồng tu, không tu pháp, không niệm Phật nữa. Họ tự mình đóng cửa chính mình, không gặp đồng môn.

Tôi nhập mộng, nói: "Người đó không phải là con trai của hai người!" Họ đều mơ thấy Sư Tôn nói cùng một câu nói. Tuy mơ thấy Sư Tôn nhưng họ lại chẳng vui. Họ lạnh nhạt hỏi nhau: "Không phải con trai của chúng ta, thế là con trai của ai? Sư Tôn đâu có bảo vệ chúng ta."

Tôi ở hồ Diệp Tử biết được sự việc này, trong lòng buồn vô cùng. Nhưng tôi cũng bất lực. Tôi bất lực trước cái chết của mẹ tôi. Tôi bất lực trước cái chết của con trai đệ tử của tôi. Biết rõ là vô thường, nhưng tôi là Sư Tôn làm cái gì chứ, chi bằng bỏ đi cho xong! Thân thể của chính tôi cũng bất lực rồi.

Về sau, tôi lại đến trong giấc mơ của họ. "Ta tặng một đứa con trai cho hai người, không kém gì đứa con trai trước! Đứa bé này mới là con của hai người." Hai vợ chồng này đã xấp xỉ 40 tuổi rồi, thế nhưng bất ngờ vẫn mang thai được. Là một bé trai cực kì xinh đẹp.

Hai vợ chồng như rừng hạn lâu ngày gặp nước, như người đã chịu cay đắng quá lâu bất ngờ ăn được mật ngọt, cuối cùng họ đã như sống lại. Họ bắt đầu tu pháp trở lại, niệm "Om guru liansheng siddhi hum." Họ xin quy y lại từ đầu. Họ sắp đặt lại đàn thành, mọi thứ mới hoàn toàn.

21. Người muốn chết mà không thể chết

Có một đệ tử sùng tín Tam Bảo, quy y Chân Phật Tông, mắc một căn bệnh không thể chữa được, đã đến giai đoạn cuối. Ngực anh luôn bị đau như dao cắt, đã trải qua vài lần hóa liệu, nên từ lâu anh nhìn đã không còn ra hình người, bệnh trạng vô cùng nghiêm trọng, không còn cách nào cứu chữa được. Ngay cả bụng anh cũng trương phồng lên.

Anh than khóc liên miên, khóc rồi lại dừng, dừng rồi lại khóc. Anh muốn chết, không muốn tiếp tục sống nữa. Cuộc chiến với cơn đau này khổ không lời nào kể xiết.

Y tá bảo anh: "Đau nhẹ thì ấn vào nút số 1. Đau bình thường thì ấn nút số 2. Đau nhiều thì ấn nút số 3." Hễ ấn nút thì thuốc giảm đau sẽ được đưa tới. Cơn đau sẽ đỡ đi một chút.

Giường bệnh của anh ở cách cửa sổ không xa. Anh muốn lại gần cửa sổ, sau đó sẽ nhảy xuống, thế là tất cả mọi việc sẽ được giải quyết xong. Bởi vì cơn đau bệnh dường như vĩnh viễn sẽ không có hồi kết, đau càng ngày càng nặng, anh chỉ muốn chết, đây là con đường duy nhất. Rất nhiều người tự sát đã nghĩ đến lối thoát duy nhất này.

Thế là tôi nhập vào trong giấc mơ của anh: "Không được tự sát." - Tôi nói. "Sống chẳng bằng chết, muốn sống chẳng được, muốn chết chẳng xong." - Anh nói. Tôi nói: "Tôi đưa anh đi xem nghiệp chướng mà anh đã tạo ra." Tôi đưa anh ta đi xem một vài nghiệp chướng do anh tạo, anh xem xong thì lo lắng và sợ hãi, nghiệp chướng quả nhiên quá nặng. Tôi nói: "Nếu anh tự sát thì nghiệp càng nặng thêm, đừng hy vọng có ngày thoát!" Anh nói: "Đúng vậy, đúng vậy." Tôi nói: "Đợi đến lúc mạng số anh hết, tôi sẽ đến đưa anh đi."

Tôi lại đưa anh đi xem Ma Ha Song Liên Trì, nơi tương lai anh cần chuyển thế đến đó. Thân ta trong một đóa hoa sen Hào quang chiếu rọi ánh mặt trời Trời xanh Thánh chúng thỏa thuê ngắm Diệu pháp thì thầm từ lũ chim Kinh văn tỏa sáng muôn ngàn nghĩa Đạo là cao xa, ai nói đây? Khởi được lòng tin, tâm sẽ hiểu Tâm chú của ta lớn nhường nào.

Đệ tử kia, người muốn chết mà không thể chết, mơ thấy hai cảnh tượng này bèn kiền thành tụng tâm chú, chịu đựng đau khổ thêm ba tháng, đến khi thuốc thang cũng không còn tác dụng nữa thì anh cũng tự đi. Tôi ở trong tam muội đã đưa thân trung ấm của anh bay thẳng đến Ma Ha Song Liên Trì.

22. Tàu du lịch bị chìm

Ở trong tam muội, tôi trông thấy một chiếc tàu du lịch không quá lớn cũng không quá nhỏ, đang chở khách tham quan tại một hồ nước lớn. Chiếc tàu chở khoảng 100 khách du lịch.

Cái hồ đó là một di tích danh lam thắng cảnh. Âm nhạc trên tàu rất to, chiếc tàu cưỡi gió đạp sóng lao đi băng băng. Hướng dẫn viên giới thiệu cảnh sắc hai bên bờ hồ, quả nhiên cảnh đẹp say đắm lòng người. Phong cảnh hai bên hồ rất quyến rũ, núi cao vực sâu tạo nên cảnh quan đặc thù của giới tự nhiên.

Người hướng dẫn du lịch bất ngờ hỏi: "Núi đá khổng lồ ở bờ bên trái kia nhìn giống cái gì?" Khách tham quan đều dồn sang mạn thuyền bên trái để nhìn núi đá khổng lồ kia, dòng người đổ xô về phía cửa sổ bên trái, phía bên ngoài cửa sổ vốn cũng đã có đầy người đứng ở đó rồi. Có người nói: "Giống con rùa!" Có người nói: "Giống khủng long!" Có người nói: "Giống bàn tay!" Những tiếng nói còn chưa dứt thì chiếc tàu du lịch đã lật nhào về bên trái, một âm thanh lớn vang dội, thân tàu bất ngờ gãy vỡ. Tàu không những bị lật nhào mà còn vỡ thành nhiều mảnh. Toàn bộ người trên tàu đều rơi xuống nước. Người biết bơi thì lập tức bơi về bờ, người không biết bơi thì đành chịu chết.

Ở trong tam muội, tôi trông thấy cảnh này thì cực kì hoảng hốt, một vụ tai nạn tàu thủy, thật thảm thương! Thảm quá! Tôi cật lực giúp họ niệm: "Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát,…….."

Tôi phẩy tay một cái, trên mặt hồ xuất hiện những miếng gỗ nổi, rất nhiều người đã bám chặt vào những miếng gỗ nổi này. Bỗng nhiên có một chiếc tàu du lịch lớn phát hiện ra tình huống lật tàu này, đã lập tức nhanh chóng lao đến cứu trợ, cứu những người bám vào những miếng gỗ nổi, những người biết bơi cũng được kéo cả lên tàu. Trong chốc lát nhiều người đã được cứu.

Cứu người xong. Người trên chiếc tàu du lịch cảm thấy rất kì lạ. Những mảnh gỗ nổi đều biến mất, chỉ có thể giải thích chắc là đã trôi đi theo sóng rồi. Càng kì lạ hơn là chiếc tàu tham quan lớn kia vốn không đi qua đường này, đó là do người lái tàu đã lái nhầm đường nên không ngờ đã đi vào đường này. Thật sự là chẳng hiểu vì sao đã cứu được nhiều người như vậy.

Nhắc lại sự việc này, ai ai cũng tặc lưỡi kêu lạ! Những người trên thuyền đều nói là cảm ứng thần kì. Đặc biệt là người lái chiếc tàu du lịch lớn kia, trong giang hồ ông ta đã lái tàu hơn 10 năm rồi, chưa từng lần nào lái nhầm đường cả.

Còn một việc nữa, khách tham quan trên tàu có hai người là đệ tử Chân Phật Tông.

23. Hóa hiện ánh sáng đỏ

Có một đệ tử tham gia hoạt động leo núi, là đi thẳng, dọc theo sườn núi lớn mà đi, trên đường đi mọi người vừa nói vừa cười. Khi chập choạng tối, họ bèn tìm một chỗ rộng rãi để cắm trại, nghỉ ngơi một đêm rồi hôm sau lại đi tiếp.

Đêm đó, đệ tử này cảm thấy ánh trăng rất đẹp, thơ tình họa ý, bèn một mình đi vào trong rừng sâu. Anh cũng chẳng để ý đã đi được bao lâu thì mất cảm giác về phương hướng, không biết chỗ cắm trại rốt cục ở hướng nào. Ở trong rừng sâu núi lớn, ban ngày cũng dễ lạc đường, huống hồ ban đêm.

Lúc này, mặt trăng đã ẩn sau những đám mây. Sắc trời u tối. Gió cũng thổi mạnh hơn. Đệ tử này không biết mình đã đi đến nơi nào, nên khó tránh khỏi cảm thấy lo lắng. Anh rất sợ, bán mạng hét gọi, nhưng bốn xung quanh đen như quạ, không hề có âm thanh hồi đáp. Anh biết mình đã hoàn toàn mất phương hướng rồi, cầu cứu chắc cũng sẽ chẳng có ai biết được. Nói không chừng mọi người đều ngủ cả rồi, đêm càng ngày càng khuya, chẳng có ai phát hiện ra là anh đã mất tích rồi.

Anh muốn khóc, nhưng cũng chẳng ích gì. Gọi, chẳng ai nghe thấy. Anh thực sự đã tâm hoảng ý loạn, không biết phải làm sao, hối hận vì đã một thân một mình đi theo ánh trăng vào sâu trong rừng, cho rằng việc này là lãng mạn lắm. Anh ổn định tâm lại, rồi lại hướng về phía trước mà đi, càng đi càng phát hiện ra đỉnh núi càng không phải, căn bản không phải là con đường lúc trước. Rồi đi mãi mà lại trở về chỗ ban đầu.

Cuối cùng, anh nghĩ đến Sư Tôn, niệm: "Om guru liansheng siddhi hum." (7 biến) Bảy câu tâm chú này quả nhiên là những lời niệm tụng khẩn thiết nhất. Bất ngờ, anh nhìn thấy một tia sáng đỏ lóe lên ở phía phải, giống như có người đang cầm một ngọn lửa vậy, cứ lấp loáng ở phía bên phải khu rừng. Thế là anh bèn đi theo ánh sáng đỏ, cứ theo ánh sáng đỏ mà đi. Ánh sáng đỏ lóe lên ở đâu thì anh liền đi về hướng đó. Ánh sáng đỏ lóe trái lóe phải thì anh cũng đi qua trái qua phải. Cứ như thế anh đi bộ khoảng một canh giờ thì không ngờ đã ra khỏi rừng, an nhiên nhìn thấy nơi cắm trại. Anh thấy nơi cắm trại, mọi người đã ngủ say từ lâu, một đốm lửa cũng không có. Anh nhìn xung quanh khu cắm trại, làm gì có chỗ nào có ánh sáng đỏ?

Sáng sớm hôm sau. Anh hỏi nhóm người xem tối hôm qua, trong trại có ai nhóm lửa không? Mọi người rất ngạc nhiên nói: "Tối qua mọi người đều mệt nên đi ngủ sớm hết, chẳng có ai nhóm lửa cả."

Anh không hỏi nữa, biết rằng sức mạnh của câu thần chú đã âm thầm bảo vệ anh. Anh là một người thật thà cẩn thận, biết được sức mạnh trong tam muội của Sư Tôn. Nếu không phải là sức mạnh của tam muội thì trong rừng sâu sao có thể có ánh sáng đỏ. Ánh sáng đỏ này đã dẫn anh thoát khỏi lạc đường!

24. Khi mạng sống như chỉ mành treo chuông

Tôi ở hồ Diệp Tử đóng cửa ẩn cư, gặp phải một trận ốm nặng, não phân tám mảnh, tứ đại phân tán, mạng sống như đi trên sợi tơ vậy.

Người trước khi chết thì trên đỉnh đầu giống như bị núi đè. Hơi thở gấp gáp, giống như bị nước lấp đầy trong mũi. Toàn thân như bị lửa đốt, bị dày vò không ngừng. Mọi bộ phận đều cảm thấy đau đớn, giống như bị gió lạnh buốt thổi run cầm cập không ngừng.

Cảm giác đau trước khi chết, nếu như không có định lực lớn thì rất khó giữ ổn định được, muốn nhất tâm bất loạn niệm Phật cũng chẳng phải việc dễ dàng. Việc này cần phải dựa vào sức mạnh của tam muội lúc bình thường mới có thể định tâm lại được, để mà thoát ra khỏi cái vỏ cơ thể này.

Trong lúc đau đớn cùng cực, khi mạng sống của tôi chỉ còn như chỉ mành treo chuông, tôi gấp gáp niệm A Di Đà Phật, tự cảm thấy mình sắp chết rồi, thì lập tức thấy trước mắt có ánh sáng lạ. Tôi chăm chú nhìn vào đó thì thấy trong ánh sáng có A Di Đà Phật đang ngồi, phóng ba lần ánh sáng khiến tôi dễ chịu được một chút.

Tuy nhiên, dễ chịu không được lâu thì cái đau của đất nước lửa gió lại ào đến. Cái đau này thật sự khiến tôi kêu cha kêu mẹ. Cái đau này thật sự người thường không thể chịu đựng nổi. Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, cái đau trước khi chết này thật sự không phải là thứ con người có thể chịu đựng được, chẳng trách mà Phật cũng nói về "chết khổ"!

Chính vào lúc mạng sống của tôi như đi trên sợi tơ này, tôi đã nhập vào tam muội, xuất ra khỏi thân trung ấm, để rồi viết ra cuốn sách "Vượt qua biển sinh tử".

Tôi nhập vào tam muội, xuất ra thân trung ấm, gặp được tám vị đại Bồ Tát: Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát.

Bát đại Bồ Tát cùng đến để giúp đỡ tôi hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Kể từ sau khi tôi trải qua kiếp nạn ốm nặng này, sắc thân của tôi đã yếu đi một chút, nhưng, tuy sắc thân yếu đi nhưng sức mạnh tam muội lại tăng trưởng. Tôi phát hiện ra lớp vỏ cơ thể người này giống như một chướng ngại, nếu như không có lớp vỏ cơ thể người này thì càng tự do tự tại hơn, thập phương tam thế đều có thể đi tới được, càng tự chủ, càng tự ý thức được, càng hiểu rõ hơn, càng có thể độ hóa chúng sinh. Đây cũng chính là nguyên nhân tôi muốn vứt bỏ cái vỏ cơ thể người này.

Có giữ vỏ cơ thể người hay không? Không giữ vỏ cơ thể người hay giữ? Tôi suy nghĩ rất nghiêm túc. Đương nhiên tôi biết các đệ tử đều hy vọng tôi thường trụ thế gian (thỉnh Phật trụ thế). Nhưng tôi lưu lại thế gian để làm cái gì?

25. Cây dâu lớn

Trong tam muội, tôi thần hành đến Địa Cư Thiên. Tôi trông thấy một động phủ thần tiên, trước động phủ có những hoa cỏ rất lạ, hương thơm nồng đượm miên man, từng đợt từng đợt mùi thơm đưa đến khiến người ta ngây ngất sảng khoái.

Một tiên ông đi ra, ngẩng đầu nhìn tôi, biểu hiện có thiện cảm với tôi. Tiên ông gọi tôi: "Liên Sinh, ngài đến rồi, cây dâu của tôi được cứu rồi!" Tiên ông đưa tôi đến sân sau xem một cây dâu lớn, tiên ông nói: "Cây dâu này có rất nhiều sâu, sâu ăn lá dâu, lá dâu đã ăn hết sạch, bây giờ chúng ăn đến gốc dâu, khi gốc dâu bị ăn thì cây sẽ chết, cái cây dâu đáng thương này."

Trong lòng tôi rất ngạc nhiên hỏi: "Tiên ông có pháp, sao không đuổi sâu?" Tiên ông nói: "Việc này có nhân duyên, nhân duyên chính là ở trên người ngài." Tôi hỏi: "Nhân duyên gì?" Tiên ông nói: "Cây dâu này có linh tính, nó đã xuống thế giới Ta Bà, bây giờ nó đang tu trì Chân Phật Mật Pháp, chẳng phải là nhân duyên của ngài hay sao. Ngày xưa, thầy ngài Liễu Minh Hòa Thượng có truyền cho ngài phù đuổi sâu, dán lên cây thì sâu sẽ bỏ đi, chẳng phải là nhân duyên sao."

Tôi nghe xong, không nói nhiều, lập tức vẽ phù đuổi sâu, dán lên cây dâu. Lá phù vừa dán lên cây một cái thì tất cả sâu trắng đều từ trên lá cây, cành cây, gốc cây rơi hết xuống đất, vừa rơi xuống đất thì cũng biến mất, con này đến con khác lần lượt biến mất tăm. Tiên ông cười nói: "Thế đấy, bảy năm ngứa ngáy, giờ thì tốt rồi."

Rất nhanh chóng cây dâu lại ra cành lá xum xuê, xanh mướt mắt, có thêm Phật lực nên nó càng hân hoan sinh trưởng.

Theo như tôi biết, tôi có một đệ tử ở Trung Quốc Đại Lục, họ Tang. [ ND: Tang tiếng Hán Việt nghĩa là cây dâu, cây dâu trong tiếng Hán Việt là tang thụ. ] Người mang họ Tang rất hiếm. Đệ tử họ Tang người cũng giống như cái cây vậy, rất cao. Anh được cơ trưởng của một hãng hàng không giới thiệu đến quy y và tu Chân Phật Mật Pháp.

Bảy năm trước, anh mắc bệnh dị ứng da, da nổi từng đám từng đám đo đỏ, từ chân tóc đến gót chân, bệnh lạ khó chữa. Anh một lòng hướng về Quan Thế Âm, xem Quan Thế Âm là Bổn tôn, niệm lục tự đại minh chân ngôn 8 triệu biến, thỉnh cầu chữa khỏi bệnh ngoài da.

Bỗng nhiên có một ngày, anh mơ thấy Sư Tôn cho anh một lá phù để đốt uống. Đệ tử họ Tang trong mơ giống như được uống cam lộ. Sau đó, những chỗ ngứa, sưng đỏ, lở loét trên da tự nhiên khỏi hẳn. Đệ tử họ Tang mắc bệnh này vừa đúng bảy năm.

26. Lý Bạch trong mơ

Tam muội là gì? Là định. Định là gì? Định cũng chính là không nghĩ lung tung, không tán loạn, là cân bằng ở giữa trạng thái hôn trầm và tán loạn.

Tam muội có phải là mơ không? Không phải, đương nhiên không phải là mơ, nếu là mơ thì ai ai cũng có thể tam muội hết. Tam muội chỉ là giống như mơ, đây là trạng thái "ly huyễn tức giác", nếu dùng ngôn ngữ văn tự để giải thích về tam muội thì giải thích thế nào cũng đều rất khó.

Tôi gặp Lý Bạch trong tam muội. Tôi hỏi: "Bỏ rượu rồi?" Lý Bạch đáp: "Uống rượu mà mất hết nhân cách thì tức là có tội. Năm giới của Phật giáo, giết người, cướp của, dâm dục, vọng ngữ đều là những tội nặng, duy chỉ có uống rượu là giới khinh, nấu ăn hoặc uống thuốc mà thêm rượu, không uống rượu say thì thực tế trong ẩm thực đều không phải là mắc tội."

Tôi nghe xong, cười lớn ha ha. Tôi nói: "Ông lắm chuyện quá đấy!" Lý Bạch đáp: "Trò chơi thôi mà!" Tôi hỏi Lý Bạch: "Ông uống rượu, câu trăng trên sông, là thật chứ?" Lý Bạch đáp: "Pháp trốn." "Pháp trốn cái gì chứ?" "Nhảy xuống lòng sông, trốn vào trong nước!" "Ông trốn đến chỗ nào?" "Sao trên trời hiển thị dấu vết linh giới tại thế gian, trốn đi thì cũng là trở về trời, trên trời mới là quê hương cũ." (Thiên thượng giới hoặc Tứ Thánh giới.)

Tôi hỏi Lý Bạch: "Thế còn tôi?" Lý Bạch đáp: "Ông tự mình nghĩ cách mà trở về, hoặc A Di Đà Phật dẫn ông đi, đều chẳng phải là được hay sao?" "Tôi cũng có thể câu trăng trên sông đó!" "Ông đâu có biết say rượu." - Lý Bạch cười lớn ha ha.

Lý Bạch nói thêm: "Ông có thể vĩnh viễn ẩn cư ở hồ Diệp Tử, thời gian cứ thế trôi, ông cũng dần dần già đi! Thậm chí, ông cũng chẳng cần phải chờ đến già, cứ đi bộ đi, kinh hành thẳng phía trước mà đi, thì sẽ trở về trời đấy." "Thế chẳng phải là Lão Tử sao?" - Tôi hỏi. "Tôi cũng giống như Lão Tử rời khỏi Hàm Cốc quan, chính là như thế, cứ thế đi thôi." "Tôi phải làm sao?" Lý Bạch nói: "Cứ thế đi thôi."

27. Ma chết thảm khóc lóc

Có một hôm. Vừa mới nhập vào tam muội, tôi nhìn thấy một cái bóng đang quỳ khóc lóc, khóc hu hu hu rất thê thảm. Tôi giật nảy mình, sao lại có một con ma chết thảm đến đây. Tôi hỏi: "Có chuyện gì?" "Oan ức quá!" "Có gì oan ức? Rồi sao lại tìm đến tôi?"

Con ma chết thảm giải thích: "Bình thường tôi thờ cúng Thổ Địa Công. Tôi đơn thân ly hôn, đem theo hai đứa con, kiếm cơm nuôi cả nhà rất khổ sở. Buổi sáng hôm đó, vừa ra ngoài đi làm, lúc đi bộ qua đường thì gặp một chiếc xe buýt vượt đèn đỏ đâm trúng. Tôi bị chết ngay tại chỗ. Chiếc xe buýt nhỏ vừa thấy người bị đâm chết thì cũng không dừng lại, lại mau tháo chạy. Linh hồn tôi không có chỗ nương tựa, chỉ còn cách tạm ở nhờ miếu Thổ Địa Công, rồi theo lời của Thổ Địa Công bảo mà đến đây tìm ông." Tôi ngây ngô: "Cần tôi giúp gì?" "Tôi muốn bắt tên hung thủ lái xe buýt đó." "Việc này…" - Tôi nói: "Thật sự tôi không làm được."

Con ma chết thảm nói: "Tôi biết ông không làm được, nhưng con đường đó có camera ghi hình, có ghi lại được chiếc xe nhỏ màu trắng đâm chết tôi, hơn nữa biển số xe trong băng ghi hình khá mờ, do đó cảnh sát không có cách nào tìm ra." "Cảnh sát không có cách thì tôi có cách gì?" - Tôi hỏi. "Tôi bị chết thảm, tôi biết biển số xe, là XX-XXX, tôi đến tìm ông là hy vọng ông ở trong tam muội, cầm bút tô lại cho rõ một chút biển số xe trong băng ghi hình là XX-XXX, để cho cảnh sát xem băng ghi hình thì có thể tìm được hung thủ." "Ra thế, để tôi thử xem." Không chần chừ, tôi cầm bút, tô lại biển số xe thật rõ ràng.

Cảnh sát xem lại băng ghi hình, lần đầu, biển số xe bị mờ, lần hai, biển số xe lại rõ ràng. Chà! Cả đôi bên đều cảm thán là quái dị, đúng là chuyện linh dị, rõ ràng là biển số bị mờ, nhưng một lát sau thì lại hiện lên rõ ràng!

Nhân đây, tôi khuyên thế nhân, 10 vụ tại nạn xe thì đến 9 vụ là do chạy nhanh, người người cần phải tuân thủ quy tắc giao thông. Tôi khá lo lắng về tai nạn giao thông, nếu người người đều không tuân thủ quy tắc giao thông, xe vượt đèn đỏ thì người dân trong thành phố bất kể là lái xe hay đi bộ thì đều lo lắng kinh sợ.

Thành phố chứa người chết do tai nạn giao thông sắp chật rồi.

28. Gia đình tan vỡ thì không gượng dậy được

Tôi đóng cửa ẩn cư tại hồ Diệp Tử, nhưng trong tam muội, tôi vẫn du hành khắp thập phương tam thế đến tất cả mọi pháp giới. Tôi vận dụng: Nhất thiết trí -- tam minh lục thông, chứng vô sinh nhẫn, xuất thế gian làm A La Hán. Đạo chủng trí -- đoạn tam giới ngoại biến dị sinh tử, thành tựu vô sinh pháp nhẫn, thị hiện vô lượng ý sinh thân, cứu độ chúng sinh. Nhất thiết chủng trí -- thành tựu tam thân tứ thân, tu hoàn toàn dứt bỏ tập tính vô minh cơ bản vi tế nhất, chứng diệu giác, vô thượng chính đẳng chính giác.

Tam muội của tôi xuất hiện trong mọi lúc, mọi thế giới, mọi sự việc, mọi chủng loại, tôi biết hết tận cùng, trong tất cả mọi pháp đều tự nhiên không gặp chướng ngại, bao gồm tất cả pháp hữu vi và pháp vô vi, mọi việc đều vô ngại.

Mặc dù tôi hiểu đạo lý "sinh, trụ, dị, diệt", nhưng đối với tương lai của Chân Phật Tông, tôi cũng khá quan tâm lo lắng. Truyền pháp độ chúng, cố nhiên là pháp hữu vi, nhưng trong pháp hữu vi không đánh mất bồ đề tâm, làm tất cả pháp thiện mà không chấp vào tâm, tức là bồ đề.

Tôi đi ẩn cư. Biết rằng có một số pháp sư muốn tự mình đứng ra hoằng pháp độ chúng, tự tách riêng ra, đạo lý này tôi có thể hiểu được.

Khi Phật Đà nhập niết bàn. Có tỳ kheo hô lớn: "Phật Đà đi rồi, chúng ta tự do rồi." Tình huống này cũng giống như thế.

Tuy nhiên, tôi nói cho mọi người biết, Tông Ủy Hội của chúng ta vẫn còn, Tông Ủy Hội duy trì mạch sống của tông phái, có đoàn kết hợp tác, tinh tấn tu pháp, nghiêm giữ giới luật, có đầy đủ chức năng độ hóa chúng sinh. Tôi nghĩ, tôi ẩn đi hoặc nhập diệt, Chân Phật Tông cần tiếp tục bay, tiếp tục huệ mệnh của Phật, cứu độ chúng sinh, như vậy thì nguyện lực không từ bỏ một chúng sinh nào mới có ngày đạt được.

Khi tự tách ra thì cành cành lá lá đều nhỏ bé. Sự phát triển sẽ rất hạn chế. Đương nhiên, trong suy nghĩ của tôi đối với sự phát triển phái Chân Phật Tông, phồn vinh cũng tốt, khô héo cũng tốt, phồn vinh hay khô héo đều là hiện tượng tự nhiên, hợp và tan cũng là hiện tượng tự nhiên, không vấn đề gì cả.

Nhưng tôi sẽ nhập mộng, nói: "Gia đình tan vỡ thì không gượng dậy được đâu."

29. Công đức sửa tượng Phật

Một hôm, tôi nhập vào tam muội. Trông thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện, Bồ Tát đưa ẩn ý rằng muốn đưa tôi đi thật xa. Tôi không biết chuyện gì, cứ chỉ đi theo Bồ Tát. Bồ Tát bay đi rất nhanh, chẳng nói một lời. Bồ Tát bay qua núi sông đại địa, nhanh như sao băng. Tôi bay qua núi sông đại địa, nhanh như sao băng.

Đến một nông trại, tôi và Bồ Tát đều xuyên qua cổng mà vào. Vừa vào trong nhà, hóa ra trong nhà có một đôi vợ chồng lão nông dân đang quỳ trước một tượng thần, cầu nguyện cho bệnh của đứa con trai.

Còn trên giường bệnh, cậu con trai của đôi vợ chồng lão nông dân đang nằm, lúc này xem ra cậu con trai đang hấp hối rồi. Bác sĩ vừa đi khỏi, cậu con trai bị bệnh đau tim phát tác. Có bốn con quỷ, hai con kéo tay, hai con kéo chân muốn kéo thần thức của cậu đi. Cậu con trai của vợ chồng lão nông dân, thượng khí không kết nối được với hạ khí, mắt sắp không nhìn thấy gì rồi. Quan Âm ra ý, muốn tôi mau cứu con trai của vợ chồng người nông dân.

Tôi nhìn vợ chồng người nông dân, họ chỉ là cặp vợ chồng bình thường không phải đệ tử của tôi. Còn người con trai trên mặt lộ ra đầy khí đen, không nghề nghiệp, nghiện rượu, vô công rồi nghề. Vì sao đi một quãng đường xa như vậy để cứu loại người này? Tôi có hơi nghi hoặc.

Nhưng Bồ Tát ra hiệu cho tôi cứu, tôi chỉ có thể cứu. Tôi sử dụng "Tiên thiên vô cực chính pháp", phóng ra lưới ánh sáng, lưới ánh sáng rất rộng, trước hết là bao trùm lấy người con trai của vợ chồng nông dân. Bốn con quỷ kia vừa nhìn thấy lưới ánh sáng, biết sự lợi hại của nó, không dám chạm vào, bèn tháo chạy mất.

Còn lưới ánh sáng vừa che phủ thì cơn đau tim cũng hết. Đúng là tôi cấp cấp như luật lệnh mà cứu người con trai của vợ chồng lão nông dân.

Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: "Vì sao là tôi phải cứu cậu ta? Vì sao Bồ Tát không cứu cậu ấy?" Bồ Tát đáp: "Họ đã cứu ngài, đương nhiên ngài cần cứu cậu ta rồi!"

Tôi không hiểu, bọn họ đã cứu tôi thế nào? Về sau tôi mới biết, có một bức tượng thần Liên Hoa Đồng Tử (đẽo bằng gỗ) bị ném trôi trên dòng suối, lúc nổi lúc chìm, đã được vợ chồng lão nông dân vớt lên. Bức tượng thần đã bị hỏng nhiều, mũ Ngũ Phật cũng bị hỏng, nhưng vợ chồng lão nông dân đã sửa lại, con trai của họ sơn lại bức tượng thành màu vàng, họ để ở nhà thờ cúng lại từ đầu. Mặc dù họ chỉ đơn thuần ngô nghê nhưng đúng là đã cứu bức tượng thần Liên Hoa Đồng Tử một mạng.

Còn nay, họ cầu nguyện tượng thần: "Tôi từng cứu ngài, sao ngài không cứu con trai tôi!" Tôi nhìn bức tượng trên bàn thờ của họ. Quả nhiên là một vị Liên Hoa Đồng Tử 100%. Ha! Hóa ra là như vậy.

30. Tài Bảo Thiên Vương quốc

Trong kinh điển Phật có ghi chép lại: Phật từng gặp một hòm châu báu vàng bạc, liền gọi đó là: "Rắn độc." Sau đó, có người đã lấy đi. Người này về sau đã bị bắt vì tội ăn trộm, kết cục rất thê lương.

Trong tam muội, tôi từng thần hành đến Tài Bảo Thiên Vương quốc, ở đó toàn là vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, hồng ngọc, v.v… có thể nói khắp nơi đều là ngọc ngà châu báu, đều là những bảo vật quý giá nhất trong thiên hạ. Nhìn cũng hoa hết cả mắt!

Tôi nói: "Trên trời, giàu có nhất là Tứ Đại Thiên Vương. Dưới đất, giàu có nhất là Sơn Thần. Dưới biển, giàu có nhất là Long Vương." Còn tôi ở Tài Bảo Thiên Vương quốc giàu có nhất, hỏi Thiên Vương: "Nơi này có trộm cắp không?" Đáp: "Chẳng cần trộm cắp." "Vì sao?" "Nhặt đâu cũng có. Ha ha!" "Thế những vàng bạc châu báu này còn có công dụng gì?" Thiên Vương nói: "Phật bảo chúng là rắn độc, tôi bảo chúng là rác rưởi."

Tôi đột nhiên nhớ đến, ở nhân gian Ta Bà, người người bán mạng để kiếm những thứ này, kiếm vàng bạc châu báu về, rồi chôn giấu tại đông phương quốc, tây phương quốc, nam phương quốc, bắc phương quốc, ở mọi nước trên thế giới, rồi còn muốn bòn rút, muốn ủy thác, muốn né thuế.

Tôi ở Tài Bảo Thiên Vương quốc, bỗng chốc ngộ ra: "Người ta đang bận rộn vô ích! Rất nhiều người đang bận rộn vô ích!"

Tôi chẳng ngưỡng mộ những người giàu có nhất thế giới nữa, chẳng ngưỡng mộ những doanh nhân lớn trên toàn thế giới nữa, chẳng ngưỡng mộ những đại gia giàu xếp hạng bậc nhất trên thế giới nữa, hoàn toàn không còn ngưỡng mộ những danh lợi nữa. Thật sự, nếu bạn đã đến Tài Bảo Thiên Vương quốc rồi, những gì bạn ngưỡng mộ đều chỉ là một loại gánh nặng. Cuộc sống về cơ bản đã đủ rồi thì nên hài lòng. Cười những kẻ đáng cười trong thiên hạ. Cười những việc đáng cười trong thiên hạ.

Phật nói, tài sản chân chính là: "Tín tài, giới tài, văn tài, tàm tài, quý tài, xả tài, tuệ tài, định tài, nhẫn tài." (Những điều này chỉ lấy chữ đầu tiên.) [ ND: tài sản chân chính được nói đến ở đây gồm: lòng tin, giới luật, hiểu biết, xấu hổ, hổ thẹn, xả bỏ, trí huệ, thiền định, nhẫn nhịn. ]

Tôi thần hành đến Tài Bảo Thiên Vương quốc, bỗng dưng cảm thấy tất cả đều thừa thãi, nhiều quá cũng không tốt, ít quá cũng không tốt, quá nhiều quá ít đều không tốt, có vừa đủ dùng là tốt nhất. Hóa ra Tài Bảo Thiên Vương quốc muốn để cho tôi: "Khám phá tài bảo."

31. Gặp bạn cũ ở âm phủ

Ở chốn âm phủ, khi tôi đang đi bộ một mình, thẳng trước mặt tôi có một bà lão đi đến. Bà lão này chống gậy, khuôn mặt nhăn nheo, mũi vẹo mắt hếch, cái miệng vừa bẹt vừa khô, đến cả lưng cũng bị gù nặng. Vì đường hẹp nên tôi nhường đường, để cho bà lão đi qua trước.

Thế nhưng bà lão lại dừng lại, nhìn tôi chăm chú một lúc rồi bất ngờ kêu lên: "Chẳng phải ngài là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn sao? Tôi từng thấy ngài trên ti vi rồi, tôi là Tú Tú." "Tú Tú nào nhỉ?" - Tôi thực sự quên rồi. "Tú Tú hồi tiểu học, Tú Tú ngồi cùng bàn với ngài đấy." "Hồi lớp một, nam nữ ngồi chung bàn, bà chính là Tú Tú sao?" - Tôi hơi có chút ấn tượng.

Thời đó bạn bè ngây thơ ngồi chung bàn chung ghế, tôi còn nhớ, Tú Tú người cũng như tên, là một bạn học nữ có nước da trắng trẻo, mái tóc dài mượt như sợi mì, đôi mắt bồ câu đen láy, ngũ quan thanh tú đáng yêu, tôi cũng có chút ngưỡng mộ.

Ấn tượng sâu sắc nhất là mỗi khi tan học, bố của bạn học này đều chở bạn về nhà bằng xe đạp. Bạn ngồi trên thanh dọc ở trước xe, bộ dạng như chú chim nhỏ ngồi vắt vẻo, vẫy vẫy bàn tay nhỏ. "Tú Tú, đúng bà là Tú Tú rồi! - Tôi kinh ngạc. Bà nói: "Năm tháng chẳng tha ai, cuộc đời tôi bấp bênh, rồi lại mắc bệnh nặng, đã chết rồi, trở thành bộ dạng như thế này, chẳng trách ngài không nhận ra tôi." "Tôi…." - Tôi chẳng biết nói gì cho hay. Tôi thật sự sững sờ. Bà nói: "Khi còn sống, tôi vẫn xem chương trình ti vi của ngài, do vậy tôi mới nhận ra ngài, ngài cũng đã thay đổi nhiều rồi!" Cả hai chúng tôi đều thở dài.

Tôi muốn truyền Phật pháp cho bà, nhưng từ nhỏ bà đã là tín đồ theo tôn giáo khác, nên tôi không biết phải nói từ đâu. Cuối cùng, tôi thấy người bạn học cùng chung bàn chung ghế thời tiểu học Tú Tú đã dần đi xa rồi.

Tôi nhớ đến một bài thơ: Lúc chết chớ để mình kinh hoảng, Bám níu nghĩ suy về chốn nao. Máu mủ đã chảy vào trong túi, Mùi tanh đã bám lên áo quần. Càng sinh phiền não càng đau khổ, Cầu tới Dược vương, câu Di Đà Biển khổ rộng sâu, mong siêu thoát. Thuyền Từ Bi kia, Phật chẳng quên.

Trong lòng tôi cảm thương cho Tú Tú đã trở thành bộ dạng như vậy. Bản thân tôi cũng cảm thương cho chính mình đã trở nên ốm yếu lắm bệnh. Đúng là năm tháng chẳng tha một ai! “Hãy nghiền ngẫm nghiền ngẫm về sự vô thường của sắc tướng đi thôi”

32. Cuộc bạo động lớn

Trong tam muội, tôi đã biết trước được ở một nơi nọ sẽ có cuộc bạo động lớn. Bởi vì mọi ác quỷ tử thần đều chờ cơ hội này mà hành động.

Ác quỷ xông ra, chẳng phải là số ít, mà là cả một bầy đông như quạ đen không đếm xuể. Thần chết xông ra, chẳng phải là số ít, mà cũng là cả một bầy đông như quạ đen không đếm xuể.

Tôi kinh hãi. Bởi vì tôi biết, trong cõi vô hình đã có định số, có rất nhiều người dân khi tìm cách tháo chạy khỏi tai họa của bạo động thì sẽ bị hy sinh, sẽ bị đánh chết, bị dẫm chết, bị chèn ép chết, bị ngạt thở mà chết. Trong cơn bạo động thì người người đều không biết ý thức là cái gì nữa.

Kì thực, bạo động là một trong những "ý thức quần chúng". Lúc này, quần chúng đầu óc trống rỗng, đã đánh mấy lý trí vốn có, giống như cả một tập thể bị thôi miên vậy, nghe mệnh lệnh từ một âm thanh đặc thù, màu sắc đặc thù rồi nhập vào một trạng thái điên cuồng.

Lúc này, ác quỷ sẽ thừa cơ để tóm gọn con người. Thần chết, thừa cơ để tóm gọn con người. Khi những cuộc vận động quần chúng đã mất đi lý trí, ác quỷ và thần chết lợi dụng sự mất kiểm soát này mà tiến vào, các sự kiện đổ máu sẽ xảy ra. Đó là khủng bố, bất lực, tàn nhẫn, không kiểm soát được. Cho dù là phần tử tri thức thì cũng bị nhấn chìm trong đó, không phát huy được tác dụng gì.

Tôi nghe tử thần ác quỷ nói: "Lần này là thiên hạ của chúng ta rồi." "Tao sẽ tóm rất nhiều người." "Tao sẽ uống rất nhiều máu." "Tao muốn người nào người nấy mất sạch lí trí." …

Tôi vì người trong thiên hạ mà thương, vì người trong thiên hạ mà khóc, vì người trong thiên hạ mà đau lòng. Tuy nhiên, đúng vào lúc đám đông tụ tập, trong hư không có ngũ sắc rực rỡ, xuất hiện một vị đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát, cưỡi rồng thần, ánh sáng tỏa ra vạn trượng. Quan Thế Âm vẩy cam lộ lên khắp đầu quần chúng. Giống như quán đảnh vậy!

"Định, định, định", tâm trí con người ổn định xuống. Ác quỷ thấy Quan Âm đến, bèn tháo chạy. Tử thần thấy Quan Âm đến, bèn tháo chạy. Cuộc bạo động lớn đã không xảy ra.

Về sau, tôi biết có người vì đám quần chúng này mà cung kính niệm 1000 biến Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, hồi hướng cho tất cả mọi người được bình an.

33. Phượng hoàng hồi sinh từ trong lửa

Có hai bài thơ: Câu Di Đà quý như hoa sen trong lửa. Ngũ tông tứ phái không thể nào khen hết. Thanh âm liên tục ngăn chướng ma tiếp cận. Niệm chẳng sờn lòng, đức Phật sẽ hiện lên.

Còn nữa: Từ khi nửa đêm lòng an định, Đã chẳng còn tâm khởi nghi ngờ Mắt sáng lướt qua trời đất rộng, Thái bình vô tướng tận đến giờ.

[ ND: Bài thơ thứ hai này vốn được ST trích dẫn từ bài tụng Không tán loạn hôn trầm của Diệu Y đời Minh, trích trong Tịnh thổ thập yếu, chia sẻ về việc nhất tâm niệm Phật. Ý rằng kể từ sau khi có được tâm an lúc nửa đêm (do niệm Phật bất loạn mà giác ngộ), từ đó lại càng không nghi ngờ nữa. Đôi mắt sáng nhìn khắp trời đất rộng lớn. Bên ngoài không có biểu hiện gì (vô tướng), nhưng bên trong đã bình an vô cùng (thái bình) rồi. ]

Hai bài thơ này đều nói đến một việc. Có một nữ hành giả Chân Phật Tông, đêm nào trước khi đi ngủ cũng đều niệm một biến Chân Phật Kinh, mười năm như một ngày. Cô không có một chút suy nghĩ nghi hoặc nào.

Nửa đêm, cô mơ thấy Sư Tôn nhập mộng, bảo cô thu dọn quần áo đồ đạc tiền bạc quý giá, bởi vì khu đó sắp có Hỏa Thần viếng thăm. (Khoảng 3 ngày sau.)

Cô tin tưởng không chút nghi ngờ, bèn làm theo, rồi bảo tất cả người nhà trong vòng ba ngày, tạm thời chuyển đến nhà bạn thân ở. Người nhà chửi cô: "Tâm thần!" (Thần kinh bất thường.) Cô có lòng tốt nói với hàng xóm, hàng xóm lại chửi cô: "Đồ mê tín!"

Nhưng mặc dù chửi cô, người nhà cũng làm theo lời cô, dù sao cũng chỉ có ba ngày, không có việc gì xảy ra thì lại quay về là được rồi. Chính xác ba ngày sau, khu vực đó quả nhiên đã bị cháy, cả một dãy nhà cửa liên tiếp bị lửa thiêu hủy.

Người nhà không còn chửi cô là "tâm thần" nữa. Hàng xóm cũng không nói cô là mê tín nữa. Họ chỉ thấy là Chân Phật Kinh quả nhiên có linh có nghiệm.

Sau đó, cũng lại có một lần, Sư Tôn nhập mộng bảo cô: "Cô vẫn còn một kiếp nạn với lửa nữa, nhưng không cần chuyển đi, đám cháy lần này chỉ đốt đến nhà hàng xóm của cô thôi." Cô nói với hàng xóm: "Sẽ có cháy, cần sớm lo chuẩn bị." Hàng xóm lần này đã tin lời cô.

Quả nhiên lại có đám cháy. Đường dây điện bắt lửa, đốt cháy mấy căn nhà, nhưng cháy đến nhà hàng xóm của cô thì bị dập tắt. Nhà cô không hề bị tổn thất. Hàng xóm nhờ tin vào năng lực của cô lần này mà đã có sự chuẩn bị từ sớm, do vậy tổn thất không lớn lắm. Thay vào đó, mọi người cũng học theo cô tụng Chân Phật Kinh. Số người nhờ cô chỉ dẫn mà quy y Chân Phật Tông không ít. Cô nói với người ta rằng: "Tôi chẳng hề có năng lực dự đoán gì hết, chỉ là mỗi đêm niệm một biến Chân Phật Kinh, liền được Sư Tôn nhập mộng bảo vệ. Nếu không có Sư Tôn nhập mộng chỉ thị cho biết thì cũng sẽ khó tránh khỏi tai nạn." Cô còn được mọi người gọi bằng biệt hiệu là "Phượng hoàng lửa".

34. Không muốn làm danh nhân

Trong thập pháp giới, ở chốn khổ sở nhất là địa ngục, tôi đã gặp một nhân vật nổi tiếng bậc nhất thế giới. Mặc dù đã sớm qua đời tại thế giới Ta Bà, nhưng người này vẫn được người đời nhớ đến. Trong số những bức tượng sáp danh nhân, người này cũng là tiêu điểm được mọi người luôn chú ý.

Vị danh nhân siêu đẳng cấp thế giới này không ngờ lại ở trong địa ngục chịu khổ vô tận, chẳng biết ngày nào thoát ra được. Tôi không muốn viết ra đại danh của ông, bởi vì ai ai cũng biết ông cả. Hơn nữa, tôi cũng từng tham gia bảo tàng tượng sáp tại nước Anh, bên trong khắp nơi là những người nổi tiếng, khiến ai nấy tán thán, nhưng điều khiến tôi kinh ngạc là: "Trong địa ngục cũng đầy danh nhân!"

Vì sao như vậy: Bởi danh nhân đều là những người đại phú đại quý, quyền lực rất cao, làm nhiều người vô tội bị chết oan uổng, rồi phạm tội sát sinh, phạm tội tà dâm, phạm tội tranh đấu trộm cướp, lừa đời để có được tên tuổi. Còn có những người phạm vào tội làm liều, phạm vào tham sân si, v.v… Do vậy, trong địa ngục có nhiều danh nhân! Tôi đều không nỡ thấy họ.

Nghĩ mà xem. Tu hành vẫn là tốt, ví dụ, tôi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, tu tam muội, bản tướng của tam muội vốn có ba đặc tính lớn:

  1. Lạc -- tự tại.
  2. Minh -- thanh tịnh.
  3. Không -- vô niệm.

Dù cho thân thể của tôi có già, bệnh, chết, nhưng tam muội có thể đến được tịnh thổ, không giống như những đại tổng thống, thủ thướng, hoàng đế, thiên tử đẳng cấp thế giới kia.

Những tỉ phú, đại gia, địa chủ, tài phiệt đẳng cấp thế giới, những nhà văn lớn, nhà tôn giáo lớn, nhà phát minh lớn, nhà triết học lớn, nghệ sĩ lớn đẳng cấp thế lớn,… có một số đại danh nhân đều rơi xuống địa ngục, chịu khổ vô tận, không có ngày thoát ra. Bọn họ sẽ đột nhiên gặp lửa thiêu mà co rút lại, đột nhiên gặp lạnh mà đóng băng lại, đột nhiên rơi vào rừng gươm đao, đột nhiên rơi vào giữa đám thú dữ, bị ăn thịt sạch sẽ….

Thấy danh nhân chịu khổ hình, tôi thấy cũng tương đối sốc và ghê sợ. Tôi nghĩ, vẫn là tu hành tốt, vẫn là sống thanh đạm tốt, vẫn là sống an tịnh tốt, vẫn là tự nhiên tốt, vẫn là khoan dung tốt, vẫn là chân thành hồn hậu tốt.

Tôi hét to: "Đừng làm danh nhân!"

35. Ngọn cờ của lòng tin

Còn nhớ có một hôm, ở trong tam muội, tôi đi qua một nơi, đó là khu chăn nuôi, xung quanh của khu chăn nuôi này cắm đầy cờ, trên mỗi lá cờ đều thêu dòng chữ "Om guru liansheng siddhi hum". Tôi rất lấy làm ngạc nhiên. Sao lại lấy tâm chú của tôi để thêu lên cờ, xong rồi còn cắm bốn lá cờ xung quanh khu chăn nuôi nữa chứ. Sau đó tôi xem xét thêm một chút thì hóa ra sự tình là thế này.

Gần đây xảy ra dịch cúm gà, các nước trên thế giới đều bị nhiễm, dịch cúm gà nghiêm trọng, mỗi lần giết chết tới hàng vạn hàng nghìn con gà.

Có đệ tử của tôi nghĩ ra một cách thông minh, đó là dùng tâm chú Liên Hoa Đồng Tử để làm thành cờ rồi cắm bốn phía xung quanh khu chăn nuôi. Đệ tử này có niềm tin rằng những trại gà khác bị nhiễm bệnh, nhưng gà của mình chắc chắn sẽ không sao. Anh đủng đỉnh không lo lắng gì.

Thực tế là trại gà ở đối diện đã bị nhiễm bệnh rồi, tổn thất nghiêm trọng, lũ gà đều chết sạch. Trại gà ở phía sau cũng đã mắc bệnh rồi, nhân viên kiểm dịch đến vừa đào hố chôn vừa khử độc, cũng giết hết lũ gà bệnh rồi. Rồi quan sát xung quanh tất cả mọi trại gà, mười trại thì đến chín trại đều bị trúng bệnh, những người nuôi gà kêu than: "Khổ quá! Khổ quá"!

Chỉ có trại gà của đệ tử này, những con gà đều vô sự, sống rất khỏe. Không phải là đàn gà này sẽ chẳng bị sao, mà là vì tôi đã ở đó! Quỷ bệnh hét lên với tôi: "Trại gà nhà này cũng có tên trong danh sách." "Ông không có cách nào ngăn chặn được đâu." "Cho dù là đệ tử của ông, khắp nơi cắm tâm chú của ông, lũ gà cũng không thoát khỏi kiếp nạn."

Cả một bầy quỷ bệnh muốn xông vào trong trại gà. Tôi trông thấy thì cuống quýt, vội vội vàng vàng niệm "Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp chú".

Diêu Trì Kim Mẫu đội mũ phượng hoàng, tay phải cầm phất trần của Thần Tiên, tay trái cầm quả đào tiên, ngồi trên cỗ xe chín con rồng, ở trong hư không phóng quang. Tất cả những lá cờ đều phóng quang, quỷ bệnh con nào con nấy lảo đảo loạng choạng, bỏ chạy không để lại vết tích. Ánh sáng quá mạnh mà!

Vốn dĩ lũ quỷ bệnh la hét rất ghê gớm, nhưng vừa gặp Diêu Trì Kim Mẫu thì đều hết cách, bởi vì rốt cục thì nguồn gốc trước đây của Diêu Trì Kim Mẫu chính là lão tổ tông của thần dịch bệnh, quỷ bệnh chỉ còn đường tháo chạy thôi. Đệ tử có lòng tin. Tự sẽ được bảo vệ. Khi dịch bệnh lớn xảy đến, trừ khoa học công nghệ và y học ra thì điều quan trọng nhất là bạn cần dựng lên ngọn cờ của lòng tin.

36. Đồng tình với tội phạm tử hình

Một đệ tử là tội phạm tử hình, bị giam ở một đất nước xa xôi. Người nhà anh này rất nghèo, chẳng có cách nào bay qua nghìn vạn dặm đến thăm anh. Ngày hành hình của anh đã đến gần.

Tôi nghĩ đến một bài thơ: Gặp nhau đã khó, xa càng khó. Gió đông bất lực trăm hoa tàn. Tằm chết hết tơ vẫn cố nhả Nến cháy thành tro lệ cũng tan

Người tội phạm tử hình ở trong ngục quy y, nhận quán đảnh từ xa. Anh chỉ có một tấm ảnh pháp tướng của Sư Tôn và tâm chú. Vì nhớ người nhà, anh liền dán ảnh của Sư Tôn lên tường của nhà tù, quỳ xuống trước Sư Tôn, khóc lóc sám hối cả cuộc đời mình. Sau đó, anh niệm Thượng sư tâm chú ba ngày ba đêm: "Om guru liansheng siddhi hum." Tội phạm tử hình chỉ cầu xin một chuyện, đó là trước khi bị xử tử thì có thể gặp mặt người thân mà mình muốn gặp một lần, thế là thỏa ước nguyện rồi!

Sau khi niệm xong tâm chú ba ngày ba đêm, trong giấc ngủ, anh thấy những song sắt rơi xuống, cửa nhà tù mở ra, anh ta theo ánh sáng mà bay đi. Chỉ một lát sau, anh đã trở về ngôi nhà của mình, nhìn thấy cha, mẹ, vợ, con trai, con gái. Tội phạm tử hình lần lượt ôm hôn họ. Anh trông thấy những lá thư do chính mình viết gửi về nhà đã được gom lại và cất đi, anh cầm chúng lên, đặt lên bàn ăn, đây là vật kỉ niệm cuối cùng mà cũng là mãi mãi của anh với gia đình.

Sau đó, tội phạm tử hình tỉnh lại, thấy chấn song sắt nhà tù vẫn khóa chặt. Cửa nhà tù vẫn đóng chặt. Cảnh vừa gặp chỉ là một giấc mơ.

Tội phạm tử hình sau đó đã bị hỏa thiêu, sau khi thiêu xong tạo thành rất nhiều hạt xá lợi, hoa xá lợi. Người nhà của tội phạm tử hình vĩnh viễn không hiểu vì sao trong cùng một đêm, mọi người trong nhà đều mơ thấy anh trở về nhà. Giấc mơ của mọi người đều giống nhau, thấy anh hôn từng người một chút, khẽ cười và nói: "Sắp đi đến một nơi tốt đẹp hơn rồi."

Người nhà của tội phạm tử hình cũng vĩnh viễn không biết được, vì sao thư anh gửi về nhà, vốn đã được cất cẩn thận rồi, nay lại xuất hiện trên bàn ăn, bày ra đầy cả một bàn.

Họ, hoặc những con người thế gian khác, vĩnh viễn cũng không hiểu được rằng, cuộc đời ngày hôm nay có thể kéo dài tiếp đến kiếp sau. Tâm là bất sinh bất diệt, mặc dù cơ thể xương thịt đã chết, nhưng tâm vẫn còn tồn tại. Chỉ cần tâm có nơi để quay về thì có thể đến được thế giới tốt đẹp hơn. Tội phạm tử hình lại có được hạt xá lợi, chuyện này Chân Phật Tông có nhiều lắm.

37. Bài thơ: Cuộc đời như kịch

Những người đứng bên kia bờ vẫy tay gọi Gọi tôi, người lái con thuyền pháp độ Để họ lên thuyền chẳng phân biệt tốt xấu Tôi cứ chở họ đi về chốn Tây Phương.

Chẳng đâu ngờ trong số đó có con sâu Tâm xấu muốn cướp lấy chiếc thuyền pháp độ Đoạt lấy nghề độ chúng - tôi đang làm đó Đạp thẳng tôi xuống nước lạnh bao nhẫn tâm.

Thật may mắn thay tôi vẫn còn bơi được Ví như người khác ư, đã chết lâu rồi Tới lúc cuối cùng tôi vẫn còn thở được Trôi dạt đến đảo nhỏ tựa Robinson xưa.

Cuộc sống của tôi chợt mất đi ý nghĩa Chỉ còn lục kí ức mà tìm kiếm bản thân Hóa ra cuộc đời chẳng đẹp như tôi tưởng Ai là người quản sự sống chết đời tôi.

Đồng thể đại bi vô duyên đại từ có được nữa chăng Phát bồ đề tâm quảng độ chúng sinh có được nữa chăng Rơi nước mắt ngước lên nhìn trời cao xanh. Giờ tôi chỉ hy vọng ông trời đến độ mình.

Tôi muốn cứu người, Nhưng lại bị đạp xuống biển toàn thân ướt sũng Ngay cả thuyền pháp kia cũng mất Ôm nỗi hổ thẹn sống qua cuộc đời. Những cảnh tượng, Cũng đã sắp hạ màn. Hại con tim này đau buồn thay, đau buồn thay.

38. Ung thư thực sự biến mất

Chuyện xảy ra ở khoa Ung Thư tại một bệnh viện lớn. Có hai bệnh nhân mắc ung thư, sau khi làm hóa trị xong cùng nói chuyện với nhau: "Anh và tôi hôm nay sinh mệnh chỉ còn tính bằng giờ khắc, có cách nào có thể cứu được ta không nhỉ?" Người kia cười khổ: "Phép thần." Người hỏi thản nhiên nói: "Trên thế gian này làm gì có phép thần." Người cười khổ nói: "Có người chuyên tâm niệm A Di Đà Phật, cũng có người chuyên tâm niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng có người chuyên tâm đọc kinh, đều là hy vọng vào phép thần. Phật pháp hiển hóa, thiên chủ cứu độ." "Được sao?" "Có người được có người không." "Vì sao thế?" "Tất cả đều là duyên phận."

Người cười khổ nói: "Có người mắc bệnh ung thư, sau khi làm hóa trị thì khỏi bệnh. Nhưng cũng có người chữa mà không khỏi, chẳng phải là duyên phận sao?" "Nói cũng phải." Người cười khổ nói: "Có người tặng tôi một cuốn kinh, là Chân Phật Kinh, tôi muốn tùy duyên tặng cho anh. Anh niệm đi! Nói không chừng anh lại có duyên. Cần có tín tâm, tín tâm rất quan trọng đó."

Người hỏi cầm lấy cuốn Chân Phật Kinh, niệm một biến, trì tâm chú. Trong giấc mơ anh lập tức nhìn thấy một người vươn tay vào trong phổi anh, lấy ra một thứ bẩn ở trong phổi, anh cảm giác như được giải thoát, tất cả đau đớn của bệnh đột nhiên nhẹ nhõm hẳn, thậm chí chẳng còn thấy gì nữa. Người trong mơ nói với anh: "Anh có duyên, bệnh của anh sẽ khỏi, sống đến 99 tuổi."

Sáng hôm sau tỉnh lại, kể cũng kì lạ, bệnh nhân mắc ung thư này kiểm tra toàn thân thì không thấy các tế bào ung thư đâu nữa, thực sự bệnh đã hoàn toàn biến mất. Nhưng người cười khổ, người tặng cho anh cuốn Chân Phật Kinh thì đã chết rồi, cũng đã được giải thoát khỏi bệnh khổ rồi.

Bệnh nhân mắc ung thư này cầm cuốn Chân Phật Kinh đi đến vài ngôi chùa hỏi những người xuất gia và cư sĩ tại gia, tất cả đều nói "không biết kinh này". Anh tìm kiếm rất lâu, sau đó mới biết kinh điển này là do Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tuôn chảy ra từ tâm mình. Anh muốn tìm tôi để cảm ơn, nhưng cũng không gặp được, bởi vì tôi đã bế quan, không gặp người ngoài nữa. Anh đến Lôi Tạng tự xin quy y và quán đảnh. Anh nói: "Trong giấc mơ anh nhìn thấy một người vươn tay lấy ra thứ gì đó bẩn từ trong phổi anh, người này thực sự là Lư Thắng Ngạn Sư Tôn."

39. Uống nước ép dưa hấu sống qua ngày

Ngày xưa. Tôi từng tổ chức một pháp hội Hộ Ma (hỏa cúng) trị bệnh cực kì hoành tráng tại sân vận động Đại Túc ở Hongkong, từng mời cao tăng của cả bốn phái Tạng Mật là Hồng giáo, Hoàng giáo, Bạch giáo, Hoa giáo tham dự.

Lần pháp hội đó. Không hiểu vì sao tôi lại bị ốm ba ngày ba đêm, cứ ngủ li bì suốt. Trong lúc ngủ, tôi bị xe đâm gãy xương, bị trói tay trói chân, bị lửa đốt, bị đóng băng, bị dao cắt vào da thịt, miệng không nói được, mắt cũng không nhìn thấy, lục phủ ngũ tạng toàn thân đều đau ghê gớm, giống như tôi đã rơi vào 18 đại địa ngục vậy, chịu khổ chịu nạn. Sự đau đớn này người ngoài không thể hiểu được, đau vô cùng, đau cực kì.

Tôi biết đây là sự chịu thay cho bệnh khổ của chúng sinh, nhưng tôi cũng không ăn nổi ba bữa cơm, chỉ có uống nước ép dưa hấu cho qua ngày. Đồng môn mời cơm. Tôi như ở trong mộng. Chỉ có thể uống nước ép dưa hấu. Nước ép dưa hấu là thực phẩm duy nhất. Những đồ ăn khác dù một miếng tôi cũng không ăn nổi.

Tôi thật sự không chịu nổi sự khổ sở của ba ngày ba đêm này, rất muốn không làm pháp hội nữa. Thế thân chịu thay kiểu này làm sao chịu nổi, ngay cả việc đi lại, tôi gần như cũng không nhấc nổi bước chân, ngay cả đi vào hội trường cũng ngã lăn trên bậc thang, toàn thân suy sụp như cái vỏ rỗng.

Thật may, có một vị Phật hiện thân, viết lên đỉnh đầu tôi bốn chữ: "Quang minh an hành." Tôi mới kiên trì tiếp tục. Tôi cứ liên tục kiên trì cho đến khi pháp hội kết thúc. Kết quả là có người bệnh ngồi xe lăn tự nhiên đứng dậy được, có người câm lại nói được, có người mù lại nhìn thấy được, có người vẹo xương đột nhiên lại thẳng lại, có người bị bệnh lâu ngày đã khỏi. Rất nhiều người đã khỏi bệnh, thực sự không thể đếm xuể…

Trong hư không bay đến ba vầng cầu vồng. Sân vận động Đại Túc lấp lánh những vòng tròn ánh sáng bát nhã. Rất nhiều những tấm ảnh phóng quang thần kì đã được chụp. Sau khi tôi làm pháp hội trị bệnh xong (hỏa cúng), tôi yếu ớt đi xuống khỏi pháp tọa, các đệ tử đón tôi đi ăn mì.

Điều kì lạ là, tôi như người tỉnh khỏi giấc mộng. Những đau đớn toàn thân đều đã hết, giống như sợi xích sắt tự động đứt ra thành từng đoạn. Tôi biết, thời gian thế thân chịu thay đã qua rồi. Toàn thân tôi thoải mái, tất cả mọi bệnh đều khỏi rồi. Tôi vui mừng ăn hết bát mì hôm đó. Tôi trước và sau pháp hội hoàn toàn như hai người khác nhau. Đúng là kì quái thật!

40. Cứu khổ trong địa ngục

Trong tam muội, tôi đã đến địa ngục. Ở địa ngục, tôi đã nhìn thấy đủ loại khổ ách, kể cũng chẳng hết. Kì thực, những bệnh khổ ở nhân gian đã là cực khổ rồi, nhưng ở trong đạo địa ngục thì còn khổ hơn thế không biết bao nhiêu lần.

Tôi thấy có hai ngọn núi lớn, giống như một mảng trời, ở giữa có một khe nứt. Có một phạm nhân ở giữa khe nứt đó. Hai ngọn núi di chuyển, ép nạn nhân ở giữa. Một tiếng thét khô khốc thê lương, phạm nhân đã bị ép chết thành thịt xay, thảm không chịu nổi.

Không lâu sau, hai ngọn núi lại tách ra. Nạn nhân lại sống lại. Hai ngọn núi lại lặp lại cuộc hành hình như vậy. Cứ thế sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, sống rồi lại chết, không biết lặp lại bao nhiêu lần.

Những tiếng kêu thảm thiết không ngừng vang bên tai. Trong lòng tôi rơi lệ, thực sự không muốn nghe thấy nữa. Đúng lúc tôi che mặt định rời đi thì phạm nhân kia đột nhiên nhận ra tôi: "Sư Tôn! Cứu tôi." Tôi trả lời: "Tôi chẳng có cách nào cứu được anh. Khi còn sống anh làm nghề gì mà nay phải chịu quả báo là bị hai ngọn núi ép chết?" Phạm nhân đáp: "Tôi là bác sĩ phụ khoa, đã thực hiện rất nhiều cuộc nạo phá thai, chỉ vì tiền mà tôi đã cướp đi mạng sống của quá nhiều hài nhi." Tôi nói: "Anh hãy phát lời thề nguyện lớn trước hư không, nguyện niệm chú vãng sinh trăm nghìn vạn biến để hồi hướng cho các hài nhi, nguyện khi được chuyển thế làm người thì sẽ in sách thiện, luôn khuyên thế nhân đừng sát sinh hại mệnh. Anh niệm cả tâm chú Liên Hoa Đồng Tử, có lẽ có thể tránh được tội."

Phạm nhân vội vàng chắp tay lại, hướng về hư không, thế rồi cật lực trì tụng "Om guru liansheng siddhi hum" và chú vãng sinh. Hai ngọn núi bất ngờ dừng lại, không ép vào nữa! Những xiềng xích sắt trên người phạm nhân tự nhiên rơi xuống.

Tôi nói: "Nhanh nhanh! Anh có thể thoát ra được rồi. Cửa ngục ở nơi này cũng tự động mở ra, trên đường anh cứ trì chú mà tự đi đi!"

Tôi nhìn theo anh ta đi lảo đảo loạng choạng trên đường, sợ hãi đến mức hồn bay phách lạc. Anh đi một mạch đến cõi ma, thấy một hang núi, anh bèn trốn vào trong đó. Tôi biết anh ta sắp chuyển thế rồi, tôi chắp tay cầu nguyện giúp anh được chuyển thế đến một gia đình tốt! Mong anh hãy nhớ lời nguyện in ấn sách thiện!

Tôi xuất định khỏi tam muội. Hai tay tôi vẫn chắp lại. Tôi nghĩ: "Bác sĩ kiếm nhiều tiền như vậy, đã đánh mất cả lương tri, hà tất phải thế sao!"

41. Thế giới nội tâm của hồ Diệp Tử

Tôi bỗng nhiên muốn viết một bài thơ:

Thế giới nội tâm tôi vô cùng khác lạ Tuy thực sự từ bên ngoài quan sát Thì thấy tôi cũng tự nhiên bình phàm thôi Ăn uống ngủ nghỉ Ngồi thiền tu pháp Kinh hành tùy ý khắp mọi nơi Nào ai hiểu được nội tâm thật sự của tôi.

Tôi cứ âm thầm mà sống Âm thầm viết văn làm thơ Xưa nay tôi chẳng thích giao thiệp với người lạ Trốn khỏi những ánh nhìn kì dị của thế nhân. Tôi ăn uống cũng chẳng câu nệ, Chỉ ngủ khi đã buồn ngủ lắm rồi. Nhưng phần lớn là tôi nhắm mắt dưỡng thần nhập tam muội Tôi nghiêm túc độ chúng sinh Và trò chuyện với người cõi trời.

Ai hiểu được rằng thế giới nội tâm giữa người với người đều rất khó Lòng người luôn phức tạp Thời gian lại trôi nhanh vội vàng gấp gáp Tôi còn biết nói thế nào đây. Chí ít thì cũng rõ ràng là Khi đến tôi là một con người Khi đi tôi cũng là một con người Trong thế giới nội tâm của tôi cũng là một con người Thật sự mỗi ngày tôi đều ngắm sao và trăng Nào ai biết được nỗi cô đơn trong tôi.

42. Thử nghiệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh

Có một đệ tử nọ thích niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, đặc biệt là thích một câu Sư Tôn giảng: "Kinh này thịnh hành từ triều đại nhà Đường cho đến nay, có linh nghiệm rất lớn, năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại, niệm mãn nhất thiên biến, trọng tội giai tiêu diệt."

Rất nhiều năm trước, ở Ngọc Hoàng Cung tại Đài Trung, Đài Loan, tôi đã có được một cuốn kinh này, tôi không chỉ tự mình đọc mà còn khuyên người khác đọc, hơn nữa còn khuyên người ta giúp đỡ in ấn. Cho đến nay tôi vẫn còn tụng không ngừng. Chính tôi cũng nhìn thấy kim thân của Cao Vương Quan Thế Âm Bồ Tát thực sự trang nghiêm tuyệt diệu, tán thán không ngớt lời!

Nói thật lòng, tôi nay đã 60 tuổi rồi mà vẫn còn đọc tụng không ngừng đó!

Đệ tử kia của tôi có một vài nghiệp chướng, vẫn là bệnh nghiệp thôi. Anh bị mắc bệnh sỏi thận, đã đi khám bác sĩ thì thực sự là căn bệnh này. Các bác sĩ thông thường có kiến nghị là mổ để lấy sỏi ra, không phải là việc khó. Người mổ để gắp sỏi thận rất nhiều, nhưng anh ta sợ mổ, chỗ đau ẩn bên trong khiến anh rất sợ.

Anh mơ thấy Sư Tôn (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đến trong giấc mơ nói với anh rằng: "Con là hành giả Mật giáo, hiểu về pháp quán tưởng, tại sao không tụng một biến Cao Vương Kinh, kèm theo quán tưởng ở chỗ có sỏi thận bay ra một viên sỏi đen. Quán tưởng như vậy có thể sẽ không cần phải mổ nữa."

Anh mơ thấy Sư Tôn nên đương nhiên rất vui mừng. Nhưng nói về pháp "sỏi bay" này, cũng có nhiều người bán tín bán nghi. Sỏi thận đâu dễ bị bài tiết ra ngoài, chỉ có mổ mà gắp ra thôi, chưa nghe thấy phương pháp nào khác. Đệ tử cũng không dám tin, nhưng anh lại sợ mổ, nên cũng chỉ còn cách duy nhất là phải thử xem. Anh niệm một biến Cao Vương Kinh, quán tưởng một viên sỏi đen từ chỗ bị sỏi thận bay ra. Đệ tử tụng Cao Vương Kinh một biến rồi quán tưởng một lần.

Đã xảy ra chuyện kì lạ rồi. Một ngày kia, tự anh cảm thấy cái chỗ đau ẩn bên trong không thấy đâu nữa, anh không cảm thấy đau chút nào. Chính anh cũng cảm thấy chỗ đau đã hoàn toàn biến mất rồi.

Anh đến bệnh viện lớn làm xét nghiệm, báo cáo đưa ra, trong thận hoàn toàn không còn sỏi nữa, khác hẳn so với lần kiểm tra trước đây. Lúc trước rõ ràng có sỏi kết lại, bây giờ một viên sỏi cũng không có, thật kì diệu làm sao! Vốn dĩ anh cần mổ, bây giờ thì không cần nữa rồi.

Đệ tử này hàng ngày đều tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh không ngừng, có được sự cứu giúp của Quan Tâm Bồ Tát, có tôi báo mộng kịp thời dạy anh "phi thạch pháp" (pháp sỏi bay). Đây cũng là phúc phận của chính đệ tử này, chẳng phải là sức mạnh của tôi!

43. Minh Tín tìm cha mẹ

Có một đệ tử tên là Minh Tín, phụng sự Chân Phật, thường tụng kinh tu pháp. Anh tự nguyện tụng kinh rất nhiều năm, hồi hướng cho cha mẹ ở âm gian. Cha anh là Kim. Mẹ anh là Diệp. Đệ tử Minh Tín còn báo danh ở các pháp hội siêu độ của các chùa. Cúng Phật, cúng pháp, cúng tăng, với mong muốn cha mẹ của mình được vãng sinh đến thế giới cực lạc. Đệ tử Minh Tín thực hành mọi pháp thiện, với mong muốn cha mẹ được vãng sinh Phật quốc tịnh thổ.

Đệ tử này còn đích thân vào bếp, nấu những món ăn thanh tịnh ngon nhất để cúng dường Liên Hoa Đồng Tử. Cứ thế kéo dài suốt ba năm. Có một hôm. Anh hỏi: "Liên Hoa Đồng Tử, cha mẹ đã vãng sinh đến nơi nào?" Đêm đó, Sư Tôn nhập mộng, nói rằng: "Anh cúng dường ta như vậy, đều là để hồi hướng cho cha mẹ anh được vãng sinh đến Tây phương cực lạc thế giới. Cha mẹ anh nhờ công đức của anh nên sớm đã được chư Phật phổ độ vãng sinh rồi! Nếu không tiếp dẫn cho cha anh mẹ anh thì về lý là càng có sai sót. Tôi nhận cúng dường của anh đã ba năm, tâm cũng bất an. Việc tu hành của anh đã hợp với hiếu tâm hiếu hạnh, tự anh đã cảm thông đến chư Phật, viên thành Phật đạo, anh cứ yên tâm!"

Sư Tôn còn đưa linh hồn của Minh Tín bay đến ao Thất Bảo, nơi có nước tám loại công đức ở Tây phương cực lạc thế giới tịnh thổ, dưới đáy ao toàn là cát bằng vàng, các bậc thang bốn xung quanh ao được lát bằng vàng bạc lưu ly, có lầu các được trạm trổ bằng bảy loại ngọc ngà châu báu. Cha anh là Kim, mẹ anh là Diệp, đều sống trong những lầu các thất bảo này, họ đã được vãng sinh đến thế giới thanh sạch thơm ngát vi diệu.

Minh Tín hỏi Liên Hoa Đồng Tử: "Cha mẹ xưa kia chỉ là những người nông dân làm ruộng thô kệch, sao có thể vãng sinh?" Sư Tôn đáp: "Việc này đều là bởi công đức đại nguyện đại hạnh của A Di Đà Phật, do vậy mới có thể thu xếp được với bốn cõi tịnh thổ và các phàm thánh của thập phương tam thế để cho cha mẹ anh được vãng sinh. Vì anh đã thay cha mẹ trồng nên những nhân duyên thiện căn, nhờ đại hành làm phúc đức, tự mình thành tựu, nên cha mẹ cũng thành tựu, trời đổ cơn mưa hoa mandala, cũng không từ bỏ người nào cả." Minh Tín nghe xong, tự nhiên tín phục.

Tôi viết một bài kệ: Tiếng Di Đà duy nhất Niệm mãi chẳng sờn lòng Cha mẹ đều giải thoát Chư Phật cũng hài lòng.

44. Xích sắt đứt từng đoạn

Khi nhập vào tam muội, tôi đến một bệnh viện lớn, trông thấy một minh sứ ở âm phủ đem theo xích chân xích tay tới để trói người. Đương nhiên tôi biết nhất định có người bệnh sắp chết nên minh sứ tới để đưa người đi.

Quả nhiên chẳng sai, có người ở trong phòng mổ, chỉ là mổ dây thần kinh bên hông, nhưng tim đã ngừng đập, thần thức vừa xuất hiện một cái là minh sứ tiến lên trước, trói lại và đem đi.

Tuy nhiên đã xảy ra một sự việc kì lạ. Sợi xích trói tay chân đứt ra từng đoạn, thần thức muốn bỏ chạy. Minh sứ liền lấy ra một sợi xích khác để trói thần thức của người bệnh lại, bảo nó đừng có chạy nữa, nhưng càng kì lạ hơn là sợi xích lại đứt ra từng đoạn. Mình sứ rất kinh ngạc.

Đúng vào lúc cả hai bên đều chẳng rõ chuyện gì xảy ra, Quan Thế Âm Bồ Tát xuất hiện nói với minh sứ: "Ông không thể đưa người này đi được đâu." Minh sứ đáp: "Ông ta có tên trong sổ, đã phạm tội, vì sao xích sắt lại đứt ra từng đoạn vậy?" Bồ Tát nói: "Ông ta niệm Cao Vương Kinh một nghìn biến, trọng tội đều tiêu diệt, tự nhiên sẽ không phải vào địa ngục nữa." Minh sứ hỏi Bồ Tát: "Sao có thể như thế? Tội này linh hồn sẽ đi về đâu?" Quan Thế Âm Bồ Tát nói: "Ở đây cũng có nhân duyên cả, người này niệm Cao Vương Kinh, chính là đã đọc bản kinh mà Liên Sinh Hoạt Phật khuyên đọc, ông ấy tin theo và làm đúng như vậy nên mới đọc kinh này, hơn nữa người in kinh này để tặng cho ông ấy cũng ở đây, linh hồn của người phạm tội hãy để Lư Thắng Ngạn đưa đi vậy!"

Minh sứ quay đầu lại, vừa nhìn thấy tôi liền cười lớn ha ha. Tôi chắp tay đảnh lễ Quan Thế Âm Bồ Tát, chắp tay chào minh sứ, rồi tôi đưa linh hồn phạm tội đi, đưa trở về hồ Diệp Tử. Linh hồn này theo tôi học Phật, sau này chắc chắn sẽ tới được Tây phương cực lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì hóa thân ở đó.

Tôi xuất ra khỏi tam muội. Vậy là lại thêm một người âm nữa theo tôi học Phật pháp. Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh khiến xích sắt đứt ra từng đoạn, vậy là lại thêm một ví dụ nữa.

Tôi viết một bài kệ: Niệm hết Chân Kinh nghìn biến trọn Địa ngục khổ hình cũng thoát ngay Xích sắt đứt rời, chân thật có Hóa sinh Tịnh độ tất có ngày.

45. Sự mê muội của kẻ trộm

Có hai tên trộm, ban ngày quan sát địa hình địa vật, mục tiêu của chúng chính là ăn trộm cửa hàng của một đệ tử của tôi. Hơn nữa, chúng còn đánh kí hiệu lên cửa hàng, chuẩn bị đến nửa đêm thì hành động.

Hai tên trộm cũng biết rằng, chủ nhân của cửa hàng này, cả nhà đã đi du lịch ba ngày, trong vòng ba ngày sẽ không có ai ở nhà. Tin tức này là chuẩn xác, không còn nghi ngờ gì nữa.

Đàn thành của đệ tử này thờ cúng Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát. Anh thích niệm kinh Ma Lợi Chi Thiên, kinh văn này ngắn, cũng đã niệm được trăm nghìn biến rồi. Anh thích: Người chẳng thể lấy trộm của tôi. Người chẳng thể lừa lọc tôi. Người chẳng thế làm hại tôi. Vì Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát sẽ luôn bảo vệ.

Ở hồ Diệp Tử, khi tôi nhập tam muội thì Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát đã đến. Bồ Tát đưa tôi đến nhà đệ tử, đến cửa hàng của anh ta, tôi đã bí mật xóa kí hiệu của mấy tên trộm đi. Hai tên trộm hí hửng lái xe đến, chạy mấy vòng xung quanh khu vực này nhưng không tìm được cửa hàng mà chúng muốn lấy trộm. Vẻ ngoài của các cửa hàng đều tương đối giống nhau. Tôi dùng tay che mắt của hai tên trộm lại. Một tên nói: "Đường này cũng không đúng." Tên kia nói: "Cả cửa hàng cũng không thấy đâu." Còn bảo: "Đêm nay chúng ta gặp ma rồi." Lại nói: "Lái vòng vèo đường nào cũng đều thấy không đúng." Hai tên trộm đi vòng vèo trong khu vực này cả đêm, trời cũng đã sáng mà vẫn không tìm được cửa hàng mà chúng muốn lấy trộm, chúng la lớn: "Mất công chết toi rồi!"

Hai tên trộm nói: "Người nhà này chắc chắn có Thần Phật bảo vệ, thôi bỏ đi!" Chúng nói câu này thì lại đúng rồi. Chính là Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát đã bảo vệ. Ngài luôn đi trước mặt trời, ban ngày cũng bảo vệ, ban đêm cũng bảo vệ, từng giờ từng phút đều bảo vệ. Muốn trộm nhà của Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát à, không dễ đâu.

Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát thiên biến vạn hóa, có rất nhiều thuộc hạ, là chư thiên quỷ thần chúng, Đạo gia tôn sùng xưng ngài là Đẩu Mẫu Tinh quân, là người đứng đầu các Tinh Quân.

Trong tam muội, tôi trở về hồ Diệp Tử. Cười vang ha ha. Thật là một buổi tối vui vẻ.

46. Dây trói tự động lỏng ra

Những kẻ côn đồ trên thế giới này thực sự là yểu mạng. Đặc biệt là những kẻ bắt cóc con nhà người ta để tống tiền. Những vụ án kiểu này dường như vĩnh viễn không chấm dứt.

Nghĩ mà xem. Những đứa trẻ bình thường được cha mẹ thương yêu nhất, được chăm sóc kĩ lưỡng bị bọn côn đồ bắt cóc đi, làm sao không khiến các cha mẹ kêu trời than đất, chẳng thiết ăn ngủ mong ngóng con cái mình trở về nhà. Những kẻ côn đồ lợi dụng tình cảm này mà tống tiền, với ý đồ ác độc, thực sự là tạo nghiệp lớn!

Tôi tịnh tọa ở hồ Diệp Tử, ngửi thấy hai mùi hương. (Que hương cháy hai đầu, biểu thị có việc gấp.) Tôi ra khỏi tam muội, hóa ra là con trai của một hành giả Chân Phật đã bị người ta bắt cóc. Cha mẹ cậu bé đang ở trước đàn thành khóc lóc thảm thiết rằng ai mà không có con cái, ai mà không thương yêu con cái, cái việc này mà cũng làm được, thật là không còn lương tâm. Sự an toàn của xã hội, sự yên ổn của xã hội thật là quan trọng. Kẻ côn đồ đòi tiền chuộc cao. Hành giả không có đủ tiền. Kẻ côn đồ đưa ra thời hạn và mức tiền chuộc, nếu không sẽ "xử đẹp", thật tàn nhẫn quá.

Ở trong tam muội, tôi đi gặp con trai của hành giả Chân Phật. Trên người đứa trẻ này vẫn còn đeo bùa hộ thân của tôi. Tay chân cậu bé đã bị trói chặt, bị nhốt trong buồng vệ sinh. Buồng vệ sinh chỉ có một cửa sổ nhỏ. Bên ngoài có một tên côn đồ canh gác. Đứa trẻ mới chỉ là học sinh lớp hai tiểu học.

Nói thẳng ra là, cảnh sát muốn tìm được căn nhà nhỏ ở ngoại ô vùng núi này thì cũng chẳng dễ. Thế là, tôi bèn tháo lỏng sợi dây trói trên người đứa trẻ. Đứa trẻ rất nhanh trí, nhẹ nhàng gỡ bỏ dây trói, tự mình trèo qua cửa sổ rồi thục mạng bỏ chạy.

Tôi còn làm cho tên côn đồ đang canh giữ cảm thấy buồn ngủ, không còn nhận biết được gì nữa. Cuối cùng, con trai của hành giả Chân Phật đã tự chạy thoát được, nhờ người đi đường giúp đỡ mà trở về được nhà của mình. Người nhà thở phào, cả nhà đều vui mừng.

Cảnh sát cũng lần theo manh mối mà tóm được lũ côn đồ bắt cóc, tổng cộng có ba tên, trong đó có một tên là nhân viên cũ đã nghỉ việc của hành giả Chân Phật kia.

Cha mẹ hỏi cậu con trai: "Làm sao thoát được?" Cậu bé đáp: "Kì lạ lắm! Dây trói tự động lỏng ra, chân tay có thể cử động được!" Cha mẹ của hành giả Chân Phật cũng cảm thấy nghi hoặc không hiểu.

Lần nhập tam muội đó, mặc dù cũng khá ghê, nhưng cũng không nguy hiểm gì, rất nhẹ nhàng thoải mái.

47. Hết cảm giác đau

Các vị A La Hán, sở dĩ thành tựu đạo A La Hán là nhờ: Tứ niệm xứ: Quán thọ là khổ. Quán thân bất tịnh. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Tứ Thánh đế: Khổ - Tập - Diệt - Đạo Tứ Không: Thân không - Tâm không - Pháp không - Tính không.

Tôi bế quan ở hồ Diệp Tử, suy tư nghiền ngẫm về đạo lý Thánh đế này, thấy được hết tất cả mọi thứ về thế gian này. Tôi cảm nhận sâu sắc những gì Phật Đà đã nói.

Trong tam muội, tôi thường đến những bệnh viện lớn, hoặc đến âm gian địa ngục, đạo súc sinh, đạo ngạ quỷ, đây đều là những thế giới cực kì đau khổ.

Theo tôi thấy, chẳng cần phải đọa vào tam ác đạo, mới thấy nhân gian đầy bệnh khổ tôi đã thấy sợ lắm rồi. Nhưng lo buồn, sợ hãi, bất an cũng chẳng giúp ích được gì. Sự đau đớn trước khi chết chỉ có nhờ vào y học và nhất tâm bất loạn niệm Phật mới có thể giải quyết được.

Trong tam muội, tôi quan sát cơn đau bệnh của một đệ tử. Anh ta mắc bệnh ung thư phổi, chịu những cơn đau cùng cực, đã không còn niềm tin gì nữa, chỉ còn nhờ vào morphine để giảm đau. Anh vật vã với những đau đớn khổ sở sống qua ngày, đầu óc nặng trĩu, thân hư hoại trống rỗng, chân yếu ớt, toàn thân đau nhức, đến cả xương cũng đau. Phổi chảy nước, việc hít thở phải nhờ vào bình oxy.

Anh đưa ánh mắt vô hồn nhìn lên bầu trời bên ngoài cửa sổ, hướng đến tôi cầu nguyện "Om guru liansheng siddhi hum. Con chỉ mong hết cơn đau để có thể nhất tâm niệm Phật và bình an ra đi. Con xin sám hối mọi nghiệp chướng, chỉ mong được hết đau!"

Tôi không cầm lòng được, rớt nước mắt. Nước mắt hóa thành Quan Thế Âm Bồ Tát đến vẩy cam lộ lên người đệ tử không còn chịu đựng nổi sự đau đớn vì bệnh ung thư phổi này.

Tất cả mọi cảm giác đau đớn của đệ tử đã tiêu tan. Nét mặt anh bộc lộ một nét tươi cười, thế rồi anh ra sức niệm Phật. Vì không còn thấy đau nên anh niệm Phật đầy vui vẻ, niệm đến mức trên mặt hiện ánh sáng đỏ, rồi cứ thế niệm đến lúc qua đời.

Ở trong tam muội, tôi không ngừng tán thán anh. Tôi nhận thấy, nếu như không lấy đi cảm giác đau đớn, chỉ biết kêu cha kêu mẹ, hoặc tẩy chay niệm Phật, muốn nhất tâm bất loạn thì cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Khi đã hết cảm giác đau đớn rồi, một lòng nhớ đến Phật, niệm Phật rồi cứ thế mà rời khỏi cõi đời thì cũng xem như là rất thù thắng rồi.

48. Làm người đừng quá tàn nhẫn

Ngày xưa. Tôi nhờ vào khả năng thần toán mà thanh danh vang dội, khiến nhiều người đỏ con mắt. Rồi lại vì tống tiền tôi bất thành, nên có người đã nhờ lưu manh hãm hại tôi. Đây cũng chính là cái họa "cây lớn phải chịu gió to".

Một ngày trước khi thực hiện kế hoạch mai phục ám hại tôi, tên lưu manh nọ tự lái xe máy đã gặp tai nạn. Đúng là Diêu Trì Kim Mẫu đã thương tôi, xót tôi mà cứu tôi một mạng. (Sự việc này tôi đã từng viết trong những cuốn sách thời kì đầu.)

Ngày nay. Tôi bế quan ở hồ Diệp Tử. Khi tu tam muội, tôi biết được một việc. Có một đệ tử, bản thân vốn không mắc nợ nần gì, chỉ vì thay anh trai ghi tên vào mặt sau tờ hối phiếu mà bản thân lại trở thành người mắc nợ. Anh trai thì bỏ trốn, còn mình thì gánh tai họa.

Bình thường anh niệm Phật rất chăm chỉ, rất kiền thành, đồng thời không ngừng niệm kinh A Di Đà. Anh bị bọn xã hội đen bắt đi. Lũ xã hội đen chính là bọn đòi nợ. Bọn xã hội đen cực kì hung hãn, chúng cật lực đánh đập hành hạ anh. Điều lạ là ở chỗ, rõ ràng anh bị đánh rất nặng, nhưng lại chẳng có chỗ nào bị đau, trên người chỉ có vài vết bầm tím, dường như có thần nhân chịu đòn thay anh. Chính anh cũng cảm thấy kì lạ.

Ba kẻ đánh đập anh, ngày hôm sau đều ốm liệt giường không dậy nổi, đồng thời, cả ba cùng có một giấc mơ, trong mơ có người đến nói với họ rằng: "Người này là đệ tử Phật, không đánh được đâu, có phúc thần bảo vệ anh ta. Còn đánh đập anh ta thì các người sẽ ốm liệt giường không dậy được đâu." Ba kẻ này bất lực nhìn nhau, chỉ còn cách thả anh kia ra.

Về sau, đệ tử này của tôi thực hiện một vụ làm ăn, thuận lợi kiếm được nhiều tiền, liền giúp anh trai giải quyết món nợ nần, thế là xong hết.

Tôi viết một bài kệ: Côn đồ sống bằng súng với dao Bất phân phải trái loạn cào cào Dễ dàng gây nghiệp rồi gặp họa Nhân quả báo ứng đời lao đao. Vì kế sinh nhai mà điên đảo Tâm trí hỗn loạn chẳng thể yên Khuyên người đừng làm điều tàn nhẫn Chính đạo cần biết sớm quay về.

49. Gặp Kawabata Yasunari

Kawabata Yasunari là một nhà văn người Nhật Bản mà tôi ngưỡng mộ. Ông đã đạt giải thưởng Nobel Văn học, trong giới văn học Nhật Bản, không ai là không biết đến ông, không ai là không hiểu tầm cỡ địa vị của ông. Việc ông tự sát đã làm chấn động cả thế giới. Giới truyền thông khi đó đã chỉ ra:

  1. Kawabata Yasunari gặp chướng ngại về mặt tinh thần.
  2. Kawabata Yasunari theo đuổi bạn gái thất bại.

Lý do tự sát của Kawabata Yasunari và một nhân vật đạt giải Nobel Văn học khác là Ernest Hemingway đều là chuyện bí ẩn với thế gian.

Tôi bế quan tại hồ Diệp Tử, vì trong lòng ngưỡng mộ Kawabata Yasunari, nên trong tam muội, tôi đã đi gặp Kawabata Yasunari. Vì trong lòng tưởng nhớ nên không thể không gặp. Tôi hỏi: "Là chướng ngại về tinh thần sao?" Yasunari đáp: "Không." Hỏi: "Theo đuổi bạn gái sao?" Đáp: "Không." Hỏi: "Nguyên nhân thật sự là gì?" Đáp: "Cuộc đời đã đạt đến đỉnh cao rồi." "Đỉnh cao nhất là cái gì?" "Sự trống rỗng." "Là sự trống rỗng khiến ông tự sát?" "Đúng." "Sao ông không tìm kiếm một mục tiêu khác?" "Không có một mục tiêu nào là ta thật sự có được. Đời người chẳng có một chút giá trị nào, Kuriyagawa Hakuson cũng nói văn học là thứ sản phẩm trống rỗng nhợt nhạt." (Kuriyagawa Hakuson cũng là một nhà văn nổi tiếng người Nhật.)

Tôi hỏi: "Sao ông không giải thoát khỏi cảnh giới hiện tại?" Yasunari trả lời tôi: "Tôi tự sát, rất khó được giải thoát. Có một vị Bồ Tát cực lực khuyên tôi xả thân làm nô lệ cho thế nhân, cúng dường chúng sinh, phát nguyện xây tháp Phật năm tầng, thì có thể giải thoát khỏi cảnh giới hiện tại. Tôi đang nghĩ việc làm nô lệ cho thế nhân sẽ rất khổ sở, nên vẫn còn suy nghĩ." Tôi khuyên ông: "Hãy làm theo ý của Bồ Tát đi! Tất cả Bồ Tát chẳng phải là vì chúng sinh, nỗ lực tinh tấn độ chúng sinh sao?" Yasunari vẫn còn cân nhắc. Tôi thì rời khỏi tam muội rồi.

50. Gấu và hổ

Người học Phật thường hay nhắc đến câu chuyện "Ngay lúc này". Có người gặp gấu, gấu muốn ăn thịt anh ta. Anh bỏ chạy, gấu đuổi theo, gặp một vách núi, anh bị rơi xuống, thật may lại rơi trúng một cái cây, cây đã đỡ toàn thân anh nên anh không bị thương gì. Nhưng điều không may là bên dưới cái cây lại có một con hổ lớn. Con hổ nhìn chằm chằm vào anh. Trên có gấu, dưới có hổ, thật khiến người ta run sợ!

Lúc này, anh ta nhìn thấy bên vách núi có mọc một cây dâu tây rất ngon. Anh hái dâu ăn, ngon ngọt không gì sánh bằng. Anh quên luôn việc trên đầu có gấu, dưới chân có hổ. (Đây chính là câu chuyện "Ngay lúc này". Cần nhớ bám lấy ngay lúc này, những thứ khác không cần quan tâm.)

Tôi ở trong tam muội tại hồ Diệp Tử. Tôi nghe thấy có tiếng gọi thất thanh: "Sư Tôn cứu mạng! Sư Tôn cứu mạng! Om mani padme hum. Om mani padme hum." Tôi nhìn xem chuyện gì thì hóa ra là có một kẻ cướp giật đang cướp cái túi xách của một đệ tử nữ của tôi. Đệ tử nữ không chịu, hai bên tranh giành nhau cái túi xách. Tên cướp còn móc dao ra. Tôi kinh hãi, đẩy tên cướp một cái, dao liền đâm chệch đi, đâm vào không khí. Nhưng tên cướp vẫn có sức khỏe hơn, đã cướp được túi xách của đệ tử nữ. Hắn nhảy lên xe máy rồi mau lẹ phóng vụt đi.

Tuy anh ta nhanh, nhưng tôi còn nhanh hơn, tôi lại đẩy thêm một cái về hướng chiếc xe máy. Chiếc xe liền đổ nhào ra đất, tên cướp đã bị thương, không leo lên xe được. Đệ tử nữ từ phía sau chạy đến, chiếc túi xách trở về với chủ nhân, không hề bị tổn thất gì. Cuối cùng, tên cướp đã bị cảnh sát tóm gọn.

Vì sao dao lại đâm chệch đi, vì sao xe máy đột nhiên lại đổ nhào ra đất, tên cướp này đúng là gặp vận xui tám đời rồi, bởi vì anh ta đã cướp giật trúng một đệ tử Chân Phật Tông, đệ tử Chân Phật này còn hét gọi Sư Tôn cứu mạng nữa chứ! Rồi cô còn niệm tâm chú của Bổn tôn Quan Âm. Việc khi gặp nguy hiểm thì hét lên câu tâm chú là thành tâm nhất và linh ứng nhất.

Phật nói: "Như cứu lửa cháy đầu!" (Tóc bắt lửa cháy.) Tôi thường có cảm giác như vậy. Khi tôi đi bộ ở trong núi, niệm Phật trì chú, có khi tôi vọng tưởng rất nhiều, đôi khi cũng có thể nhất tâm nhất ý, những cảm nhận khi hoàn toàn tập trung tâm ý thì tràn đầy pháp hỷ. Pháp hỷ tràn đầy thì tâm chính là Phật, Phật và tôi hợp nhất, tôi chính là Phật, không hai không khác, tự tính Di Đà liền tự nhiên hiển hiển.

51. Địa ngục hàn băng mà tôi thấy

Trong tam muội. Tôi bất ngờ đến địa ngục hàn băng. Tôi cho rằng địa ngục lửa thiêu mới là đau khổ, hoặc địa ngục bánh xe lăn là khổ nhất, không ngờ địa ngục hàn băng cũng cực khổ.

Tôi trông thấy một người khỏa thân lõa thể ngồi trên một tảng băng. Cái lạnh của anh ta không chỉ là run lên mà thôi, mà là toàn thân run bần bật, thân thể trở nên cứng ngắc, máu xương đều đông cứng đến mức vỡ ra, chất thành một đống cứng đặc, thế rồi chết. Chết xong lại sống, là bò lên từ sông băng. Thấy phía đông có một ngọn núi ấm áp hơn một chút, liền bò về hướng đông, nhưng khi đến nơi thì núi lại biến thành núi băng. Thấy phía nam có một ngọn núi ấm áp hơn một chút, liền bò về hướng nam, nhưng khi đến nơi thì núi lại biến thành núi băng. Thấy phía tây có một ngọn núi ấm áp hơn một chút, liền bò về hướng tây, nhưng khi đến nơi thì núi lại biến thành núi băng. Thấy phía bắc có một ngọn núi ấm áp hơn một chút, liền bò về hướng bắc, nhưng khi đến nơi thì núi lại biến thành núi băng. Tuyết từ trên rơi xuống. Tuyết từ dưới đùn lên. Cả sáu hướng đều chẳng có nơi nào trốn, thế rồi chết vì mệt, chết vì đông cứng, chết vì đau đớn.

Tôi kinh hãi. Rồi tôi lại thấy những quản ngục ném quần áo cho những người trong địa ngục. Những người trong ngục sung sướng lắm, bán mạng mặc quần áo vào, một cái, hai cái, ba cái, bốn, năm, sáu, thậm chí là 20, 30, 50 cái, nhưng ngay cả mặc quần áo rồi cũng vẫn lạnh, lạnh đến mức quần áo cũng đóng băng luôn, thế là chết. Tôi thật sự không thể nhìn nổi.

Quản ngục bảo tôi: "Thánh giả Liên Sinh, tấm lòng ngài không đành, nhưng những người này đều là những kẻ côn đồ cường bạo giết người trong nháy mắt. Hễ ai lọt vào mắt chúng là chúng sẽ cướp quần áo tài sản. Không chỉ như vậy, mỗi ngày chúng đều giết người để ăn, uống máu họ, nhai xương họ, ăn toàn bộ sạch sẽ. Vì lý do này mà âm hồn họ trần truồng lõa thể rơi vào địa ngục hàn băng, chết bao nhiêu lần đều có định số, dù một khắc cũng không được thư giãn, giống như những con người có tâm lạnh như băng vậy."

Nghe xong những điều này tôi càng thấy sợ hãi. Trong lòng tôi nghĩ, nếu con người không tu hành, chỉ tạo nghiệp, rồi còn tạo nghiệp nặng là giết người, thì tương lai nghiệp nặng khó thoát.

Tôi viết bài kệ: Âm gian ngục hàn băng Mặc áo quần vô ích Tôi khuyên người nhẫn nhục Chớ phẫn nộ giết người Đừng mang tâm máu lạnh Hãy giữ lòng từ bi.

52. Hồ Tâm Quốc

Khi ở trong tam muội, có một lần tôi xuất hiện dưới một hồ nước (ở trong hồ nước), trong hồ nước này có một thành phố rộng lớn. Tôi hỏi người ta thì mới biết nơi đây là Hồ Tâm Quốc.

Thập phương thế giới tôi đều đã đi du lịch hết rồi, nhưng vẫn không biết ở dưới hồ nước lại có một đất nước, nên tôi cảm thấy rất hiếu kì, bèn tự do đi dạo loanh quanh.

Dưới lòng Hồ Tâm Quốc, là nơi sâu nhất của hồ, là một đất nước yên bình, thành phố cũng đẹp, nhưng bên ngoài thành thì sóng gió khiến người ta phải sợ hãi, sóng to gió lớn. Tôi hỏi nguồn gốc: "Vì sao có đất nước này?" Có người trả lời tôi: "Đây đều là do những người chết vì lật thuyền đã lập ra đất nước này. Những người này bình sinh cũng không phải là người xấu xa, sau khi rơi xuống nước, linh hồn không có nơi nương dựa, hồ này vốn cũng không có vị thần nào cư ngụ. Sau đó Quan Thế Âm Bồ Tát thấy hồ này không có thần, mới hóa thành một thành phố làm nơi ở cho chúng tôi." "Có Quốc vương không vậy?" "Có." "Là ai?" "Có một đệ tử Chân Phật, có Bổn tôn là Quan Âm Bồ Tát, niệm Cao Vương Kinh đã có được cảm ứng, người này sau khi chết thì hết sức đau đớn. Quan Âm Bồ Tát thấy duyên với thế gian của anh ta còn chưa hết, bèn đưa anh ta đến đất nước này, quản lý nhân dân của đất nước này." "Là đệ tử Chân Phật nào?" - Tôi nghe mà rất kinh ngạc. "Họ Ngụy."

Ở Hồ Tâm Quốc, tôi đã gặp đệ tử họ Ngụy. Hóa ra là một đệ tử cũ đã nhiều năm không gặp, giờ đây anh nồng nhiệt chào đón tôi đến, cùng nhau ôn lại những chuyện ngày xưa, chẳng nén được những tiếng thở dài. Quốc vương họ Ngụy tu hành có thành tựu, có thể biến to thu nhỏ, ví dụ như hóa thành to ra thì khi đứng thẳng dậy, hồ nước chỉ ngập đến bụng anh. Anh ở hồ này cũng đã độ cho rất nhiều người.

Tôi nói: "Thế gian tai họa không ít." Anh nói: "Đúng vậy. Người rơi xuống hồ nước này cũng nhiều lắm rồi! Họ đều được tôi giáo hóa. Thế nhân ngày nay không hiểu sự quý giá của tính mạng, tâm linh yếu đuối, hễ gặp khó khăn là liền nghĩ đến sự giải thoát, nhưng phương pháp giải thoát thì lại sai lầm. Tôi cật lực cứu người thì cũng mới cứu được chừng đó thôi." Tôi nói: "Cũng chỉ mong tận tâm tận lực mà thôi!"

Trong tam muội, tôi thần hành đến Hồ Tâm Quốc, vốn cũng là có nhân duyên. Nhân duyên chính là Quốc vương của nơi này là đệ tử của tôi, hơn nữa, tôi còn ở đất nước này thuyết pháp ba ngày. Đất nước này hòa bình, là điều hy hữu, hiếm thấy, hiếm thấy.

53. Tuần hành Bạch Mã Quốc

Có rất nhiều việc, tôi thật sự không muốn nói nhiều, nhưng cũng không thể không nói ra, nguyên nhân là vì những người phạm vào điều này rốt cục đã không còn là số ít nữa. Việc này hoàn toàn không phải chỉ Chân Phật Tông mới có, mà tất cả các tông phái tôn giáo trên toàn thế giới đều có căn bệnh chung dễ nhiễm này, là một căn bệnh phổ biến.

Tôi đã đến một đất nước, đương nhiên là tôi đến trong tam muội, nói cách khác là tôi thần hành, lợi dụng trạng thái "tam muội nửa sống nửa chết" mà đi du lịch. Con người ở đất nước này có một đặc trưng là: Thân người. Đầu ngựa trắng. Trên đỉnh đầu ngựa có đội một bức tượng Căn bản Thượng sư rất nặng màu vàng kim, nặng đến nỗi đầu ngựa không ngóc lên được. Đầu bị đè nặng xuống không có cách nào nhìn thấy người, chỉ biết lắc đầu chán ngán. (Ngoài việc này ra thì cũng chưa có những chướng ngại lớn nào khác.) Tôi thấy hoàn cảnh của đất nước này vô cùng kì quái.

Trông thấy những người đầu ngựa thân người, trên đầu còn đội Căn bản Thượng sư, tôi bèn đi theo họ để hỏi. Những người này thấy tôi đến bèn tản đi trốn biệt, nhưng cũng chỉ là cắm đầu chạy về phía trước mà chẳng có cách nào ngẩng đầu lên nhìn được. Bọn họ huýt sáo với nhau ra hiệu để tản đi, nhưng tôi thần hành vẫn nhanh hơn nên đã chặn một người lại, hỏi anh ta: "Vì sao lại đội tượng Căn bản Thượng sư bằng vàng nặng như vậy?" "Vì chịu ơn sâu đức dày." "Vì sao ngoài nỗi khổ này ra thì không còn cái khổ nào khác?" "Vì tu pháp." "Cho dù là chịu ơn sâu đức dày, nhưng vì sao lại là cái đầu chịu khổ?" - Tôi không hiểu. "Vì đã rời bỏ."

Lúc này, tôi mới chợt nhận ra, hóa ra là những người ở Bạch Mã Quốc này vốn đều là đệ tử Chân Phật Tông, nhưng về sau đã rời bỏ Căn bản Thượng sư, tuy vậy vẫn chưa từ bỏ tu hành pháp Hiển - Mật, họ vẫn tu theo chính pháp, chỉ là họ đã phỉ báng ơn sâu đức dày của Căn bản Thượng sư, do vậy mới hóa sinh ở Bạch Mã Quốc. Do đó, đời đời kiếp kiếp trên đầu họ sẽ phải đội bức tượng Căn bản Thượng sư bằng vàng rất nặng. "Vì sao lại rời bỏ?" "Cũng vì vấn đề duyên phận, chúng tôi đã đi theo những người đã rời bỏ." Tôi nói: "Làm người cần ăn quả nhớ người trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Tóm lại, không được quên ân phụ nghĩa, sư phụ có sai thế nào thì chí ít cũng đã dạy ta một chữ một lời. Còn phỉ báng thì không tốt đâu!" "Biết sai rồi!" - Người của Bạch Mã Quốc nghiêm túc sám hối.

54. Thế giới của những kẻ vô lại hoành hành

Trong tam muội, tôi giống như nửa tỉnh nửa mơ trở về Nam Sơn Nhã Xá. Khoảng bốn năm nay, tôi đã hoàn toàn quên nơi mà tôi đã từng sống.

Điều khiến tôi ngạc nhiên là, Nam Sơn Nhã Xá lâu nay không có người ở, từ lâu đã trở thành ổ chuột. Lũ chuột tụ tập trong Nam Sơn Nhã Xá, không cần đến nửa đêm mới chui ra, mà ngay cả ban ngày cũng to gan nghênh ngang ra mặt. Chúng đào lỗ ở trong nhà, đào lỗ ở trên cây, không bị điều gì cấm cản chúng cả, sẽ chẳng có người đến đuổi chúng. Lũ chuột cũng chẳng cần chạy, cũng chẳng bị giam cầm, chẳng có ai đặt bẫy chuột. Nam Sơn Nhã Xá đã trở thành thiên đường của những kẻ vô lại này.

Vì tôi rời khỏi nơi ẩn cư của mình ở hồ Diệp Tử, thần hành đến Nam Sơn Nhã Xá, tôi đã sốc trước phát hiện này. Ổ chuột - không biết là bao nhiêu, có lẽ phải đến hơn trăm ổ! Ghế sofa - những chiếc nệm ngồi đã bị cắn nát, lũ chuột rúc trong đệm rất ấm áp. Đồ ăn trong kho - tất cả đồ ăn đã bị ăn sạch. Bếp nấu - vốn là nơi để nấu ăn, nay đã thành ổ chuột. Tầng hầm - thành câu lạc bộ chuột. Những túi gạo - đã bị cắn thủng, gạo vương vãi trên đất. Tất cả mọi nơi - đều có phân chuột, nước tiểu chuột. Đàn thành - đã bị chuột đục như mạng nhện. …

Vì tôi đóng cửa ẩn cư tại hồ Diệp Tử, bốn năm nay Nam Sơn Nhã Xá không có ai ở, nơi đây đã trở thành thế giới cho những kẻ vô lại hoành hành, chẳng khác gì nơi bỏ hoang, thật khiến người ta thở dài cảm thán!

Tôi hỏi Bồ Tát: "Vì sao lại như vậy?" Bồ Tát đáp: "Tự nhiên thôi." "Vì sao lũ chuột lại sinh sôi nhiều như vậy?" "Thế nhân trộm cướp nhiều, kẻ vô lại càng nhiều." "Quần áo của tôi đều trở thành giẻ rách rồi, trong tủ quần áo cũng đầy phân chuột, đã chẳng còn thứ gì nguyên vẹn nữa rồi!" "Những vật hữu hình ở thế gian đều sẽ bị hư hoại!"

Tôi đột ngột hiểu thông, mọi vật hữu hình trên thế gian này đều sẽ hư hoại, ngay cả hành giả tu hành là tôi đây cũng sẽ có ngày sắc thân hư hoại. Phật đã nói thân thể người này khi chết cũng chỉ là ổ dòi bọ, điều quan trọng là thân trung ấm sau đó không được đọa vào tam ác đạo, đặc biệt là không được có tâm trộm cướp, nếu không sẽ đọa vào làm chuột là xong đời.

Nam Sơn Nhã xá từ lâu đã trở thành thiên đường cho lũ vô lại hoành hành rồi!

55. Long trời lở đất

Khi tôi còn ở Seattle Lôi Tạng Tự, xem ti vi thấy Đài Loan có trận động đất 921, nhìn mà chấn động. [ ND: trận động đất được nhắc đến ở đây là trận động đất lớn xảy ra vào ngày 21/9/1999 tại Đài Loan, khiến 2415 người chết, 11305 người bị thương. ] Tôi chỉ biết ủng hộ khoản tiết kiệm nhỏ của cá nhân, cùng với hội công đức Hoa Quang Chân Phật Tông, cật lực trợ giúp. Chúng tôi góp tiền góp sức, cũng xây dựng nhà ở tạm thời để giúp người dân có chỗ ở.

Ẩn cư ở hồ Diệp Tử, một lần trong tam muội, tôi đã dự đoán được đất nước kia cũng sẽ xảy ra động đất lớn, sức mạnh của cơn động đất này cũng không thua kém gì trận động đất xảy ra tại Đài Loan, số người chết và bị thương cũng lên đến nghìn, vạn người. Tôi sinh ra tại Đài Loan, thấy Đài Loan bị động đất, người chết và bị thương thiệt hại nặng nề mà không cầm được nước mắt. Chẳng phải là nhớ quê hương, mà là đau đớn vì quê hương.

Nay thấy đất nước kia sẽ gặp họa như vậy, trong lòng tôi cũng đau buồn như thế. Người học Phật vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, tôi tự mình thần hành đi cứu. Tôi đến một ngôi chùa, cũng không phải là chùa Phật, mà là chùa của tôn giáo khác. Có tới trăm, nghìn tín đồ đang lễ bái thần. Tôi thấy ngôi chùa này sắp sập, sẽ đè chết hơn trăm, hơn nghìn người, hơn nữa những người này, mức độ kiền thành sùng tín thần chẳng thua kém gì những tín đồ của các tôn giáo khác. Họ quỳ gối đảnh lễ không ngừng. Âm thanh niệm lầm rầm không ngớt. Tiếng vọng hát tán tụng xôn xao.

Lúc này, trong lòng tôi sốt sắng, rõ ràng là khi ngôi chùa này sập xuống thì toàn bộ những tín đồ này sẽ chết hoặc bị thương. Tôi muốn vận dụng thần thông để cứu người:

  1. Làm cho chiếc chuông lớn ở bên ngoài, không có ai gõ mà tự kêu, khiến mọi người chạy ra khỏi chùa để xem.
  2. Làm hiện lên một vị thần khổng lồ, đứng ở bên ngoài chùa, khiến mọi người chạy ra xem.
  3. Làm cho trong chùa tối mờ, bên ngoài sáng rực, khiến mọi người chạy ra ngoài xem.
  4. Làm cho bên ngoài chùa phát ra âm thanh lớn, khiến mọi người nhanh chóng rời khỏi chùa. Tôi cũng chẳng nghĩ thêm được cách gì nữa.

Đúng vào lúc này, một Thiên sứ hiện thân, nói với tôi: "Đừng vận thần thông!" "Không cứu những tín đồ này sao?" - Tôi ngạc nhiên. Thiên sứ đáp: "Không thoát khỏi kiếp nạn!" "Lẽ nào những người này đều tạo ác nghiệp?" Thiên sứ đáp: "Có một số người đã tạo ác nghiệp, có một số người dù chưa gây ác nghiệp, nhưng suy nghĩ cũng đã không còn đúng đắn nữa, chắc chắn không tránh được, chẳng có sức mạnh của trời nào có thể cứu vãn được." "Những người chưa tạo nghiệp, chẳng phải là họ rất sùng bái mộ đạo sao?" Thiên sứ đáp: "Phương hướng sùng bái mộ đạo của họ sai rồi."

Trận động đất lớn lần đó, tôi đành bất lực quay về, buồn thay!

56. Cứu mạng chính mình

Trong suốt quá trình hoằng pháp đời này của tôi, tôi thực sự đã gặp không ít những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm, vừa vướng vào "bạch đạo", vừa vướng vào "hắc đạo", lại vướng vào truyền thông, vướng vào giới văn hóa, vướng vào giới xã hội. Cũng dính vào những sự hiểu lầm mà bản thân cũng chẳng biết, thậm chí vướng vào giới tôn giáo.

Nay tôi có thể ẩn cư tại hồ Diệp Tử là may mắn lắm rồi. Có thể nói rằng, vẫn có thể sống được là nhờ sự bảo hộ của Thiên Long Hộ Pháp.

Tôi nhớ ngày xưa có một lần, tôi nhận lời mời đi hoằng pháp. Trước khi đi, tôi có một giấc mơ, mơ thấy hai ngọn đèn xanh và một ngọn đèn vàng. Thượng sư Liên Hương khuyên tôi: "Thôi đừng đi!" Tôi trả lời: "Nếu như là đèn đỏ thì sẽ không đi nữa. Đèn vàng thì xong việc mau đi về cho nhanh, hơn nữa đã nhận lời mời rồi nên cứ đi thôi!"

Sau đó, quả nhiên, đối phương không thật sự có thiện ý, sắp xếp mọi thứ một cách ào ào. Tôi tự biết là khó nói lý lẽ được, chỉ kiền thành tụng niệm Cao Vương Kinh cứu khổ cứu nạn. Khi đó tôi biết mình đã rơi vào miệng hổ rồi. Mấy pháp hội sau đó, tất cả đồ cúng dường đều bị đối phương gom lại. Kì thực, đối phương đã lợi dụng sự hưng thịnh của Phật giáo để câu tiền từ những pháp hội. Nếu không làm theo đối phương, nghe nói sẽ bị bắt giữ, hoặc bị trói lại, hoặc bị nhục mạ, hoặc bị gây thương tích, hoặc thế nào thế nào đó tôi cũng không rõ lắm.

Trước mấy buổi pháp hội thì cũng chưa có chuyện gì. Pháp hội vừa kết thúc thì phiền phức đã tới. Người phụ trách nói với tôi: "Thiếu tiền rồi, các người phải đền bù." "Bao nhiêu?" - Tôi hỏi. "XXXXX!" - Hắn đưa ra mức tiền trên trời.

Tôi biết gặp phiền phức rồi, kí hiệu đèn vàng đã ứng nghiệm. Chúng tôi chẳng có cách nào để đền bù. Chạy lên núi cao, đối phương truy đuổi lên núi cao. Chạy tới vùng hẻo lánh, đối phương lại truy đuổi tới vùng hẻo lánh. Đối phương dùng toàn bộ nhân sự tận lực để truy đuổi, tôi cũng không có cách nào giải quyết.

Cuối cùng chẳng còn cách nào khác, tôi kinh hãi chạy vội đến sân bay, lập tức đổi vé, bỏ luôn vé máy bay vốn có, liều mình tháo chạy. Thế là tôi an toàn vượt qua được tình cảnh nguy hiểm, lên máy bay rồi mới xem như là đã thoát khỏi nguy hiểm.

Nghe nói, đối phương "quăng lưới" là để kiếm tiền mở nhà hàng. Chúng tôi hóa trang, vội vàng bỏ chạy. Đèn vàng, ứng nghiệm rồi. Mọi người đều tin rằng lần này tránh được nạn là nhờ thần lực của Cao Vương Kinh.

57. Nhất tâm là quan trọng nhất

Hồi tưởng lại cuộc đời này của tôi, những kiếp nạn tai ương chẳng hề nhẹ. Việc tôi có thể vượt qua từng kiếp nạn một có liên quan đến việc tôi nhất tâm tôn sùng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh.

Tôi có được kinh này, niệm kinh, khuyên người ta niệm, tự mình niệm, khuyên người ta in ấn, tự mình in ấn, tặng rộng rãi Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, chính mình gặp được Quan Âm, thực sự có rất nhiều nhân duyên.

Trong Chân Phật Mật Pháp, có một phần chính là niệm Cao Vương Kinh. Bản thân tôi cảm thấy sự nhất tâm rất quan trọng. Khi tôi còn trẻ, tôi đã có được bản kinh này, tôi niệm cho tới khi 60 tuổi, tôi chỉ nghĩ đến: Năng diệt sinh tử khổ Tiêu trừ chư độc hại. Hóa thân của Cao Vương Quan Thế Âm Bồ Tát thực sự vô cùng trang nghiêm, trên đầu đội mũ miện, mặt như trăng tròn, tướng mạo như Phật, mũ miện rủ xuống hai bên, thân mặc thiên y váy xếp, đeo vòng ngọc, khuyên tai, vòng tay, lắc chân, đứng trên hoa sen cầu vồng, sau lưng có chữ Phạn tỏa ánh sáng vàng kim, toàn thân tỏa sáng, chiếu khắp thập phương tam thế.

Những kiếp nạn tai ương trong đời này của tôi quả thực không thể đếm hết. Bị lưu manh mai phục muốn giết chết. (Nhưng lưu manh đã bị tai nạn xe chết trước đó.) Bị lưu manh đuổi theo dồn vào chỗ chết. (Sau đó tôi tự mình thoát được nạn này.) Tai nạn xe. (Người văng xuống đất, không bị thương.) Bị máy móc đâm trúng. (Thoát chết trong gang tấc.) Bị truyền thông bao vây. (Chút xíu nữa là tôi không nghĩ thông suốt được.) Bị tôn giáo bao vây. (Hết phái này tới phái khác vây hãm nhưng tôi không chết.) Bị cạm bẫy bao vây. (Lần lượt tôi đều tự mình giải thoát.) Bị chính trị phá hoại. (Có quý nhân xuất hiện.) Bị gài bẫy ở đầm lầy. (Tôi rơi xuống rồi tự mình trèo lên được.) Bị đầu gấu gài bẫy. (Tôi đã tránh được nạn này.) Bệnh tuổi già đến thân. (Tự mình chữa khỏi.) Và còn nhiều nữa……….

Mỗi tai nạn này đều chẳng phải là những sự việc nhỏ, mỗi việc đều khiến tôi sống không được chết không xong. Thậm chí, đệ tử quy y tôi cũng muốn chôn sống sư phụ của mình cho chết, những nỗi khổ này tôi đều đã trải qua. Tôi ban ngày niệm Cao Vương Kinh, ban đêm niệm Cao Vương Kinh, tôi có thể sống được 60 năm qua, ẩn cư ở hồ Diệp Tử viết sách và sống sót thực sự chẳng phải là đơn giản.

Từ đầu chí cuối tôi đều cảm thấy sự nhất tâm là cực kì quan trọng. Phật cũng dạy chúng ta cần nhất tâm, chỉ cần nhất tâm thì tất cả đều có thể làm được. Kì thực, người sáng lập Chân Phật Tông chẳng biết điều gì. Thứ mà ông ấy biết chỉ là nhất tâm bất loạn thành Phật mà thôi.

58. Cuộc viễn dương đẫm máu

Có một chiếc tàu cá viễn dương, đi đến Thái Bình Dương, khoảng gần vùng biển Hawaii thì trên tàu phát sinh ra tai họa. Tai họa chỉ sắp xảy ra, còn thực tế vẫn chưa xảy ra.

Có bốn người chơi đánh bạc, nảy sinh tranh chấp, hai người trong số đó cực kì tức giận, đã bí mật lên kế hoạch đến giữa vùng biển thì sẽ giết chết hai người kia, đoạt lại số tiền đã mất (mọi tài sản bị mất do đánh bạc).

Nhưng một người thắng được tiền là đệ tử của tôi. Anh ta họ Vương, từ nhỏ đã quy y. Khi ra biển, cha mẹ anh đã đưa cho anh đeo tấm phù bảo hộ. Còn anh thì không ngừng niệm một câu: "Om guru liansheng siddhi hum." Anh cũng đã làm việc trên tàu cá viễn dương nhiều năm rồi.

Đêm đó, tôi nhập mộng: "Không cần thắng của người ta quá nhiều tiền! Trả lại cho người ta đi." Đệ tử đáp: "Con không thua bạc, mà là thắng." Tôi nói: "Lần này có đại họa." Tôi hóa hiện ra một cảnh tượng cho anh xem, thấy hai người thua bạc kia giả vờ mời hai người thắng bạc uống rượu, nhưng trong rượu đã bỏ thuốc mê, hai người uống rượu xong thì trở nên mê man mơ hồ. Tiếp đó, hai người thua bạc đem hai người thắng bạc ném xuống biển, rồi đoạt lại số tài sản đã thua mất, nói dối rằng hai người nọ đã rơi xuống biển mất tích. Đệ tử sợ đến mức toàn thân vã mồ hôi. "Sao có thể như vậy?" "Con người ta vì tiền mà chết, chim vì thức ăn mà chết, côn đồ hành hung chẳng phân biệt nhân quả." "Con phải làm sao?" Tôi đáp: "Bọn họ đã khởi ác niệm, duy chỉ có cách đánh bạc lại một lần nữa, để số tiền thắng được trả lại cho hai người họ, thì mới có thể tránh được họa." "Bọn họ đã không còn tiền nữa." "Cứ cho họ mượn tiền trước." Tôi nói xong thì biến mất, trở về hồ Diệp Tử.

Sau đó, đệ tử này nghe lời của tôi, cho hai người kia mượn tiền, bốn người họ lại đánh bạc một lần, lần này đã hòa, hai người thua tiền đã thắng lại được số tiền họ thua lần trước, dự định hành hung của họ vì thế cũng tan biến. Họ lại sống an nhiên vô sự cùng nhau. Hai người kia mời uống rượu. Đệ tử Vương nghe trong không trung có người nói: "Có thể uống, không có thuốc mê đâu."

Mười ngày sau, đệ tử Vương về đến cảng, bình an trở về nhà kể với người nhà. Người nhà đều cho rằng Sư Tôn đã âm thầm bảo vệ, đặc biệt là câu nói "Có thể uống, không có thuốc mê đâu" rất rõ ràng. Về sau, đệ tử Vương cũng đã đổi nghề.

59. Rốt cục cần cứu ai

Khi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, nhập tam muội, bỗng nhiên tôi đến một đất nước nọ. Ở đất nước này tôi đã gặp những kẻ xâm lăng và những người chống xâm lăng. Những kẻ xâm lăng dùng cách đánh bom, tàn sát tùy tiện, thành thị, nông thôn và các thành phố lớn lần lượt đều biến thành những đống đổ nát.

Nhưng người dân của đất nước này chẳng có nơi nào để chạy trốn. Người già yếu, trẻ em, phụ nữ, người thì chết, người thì bị thương, máu chảy thấm đẫm nửa đất nước, những tiếng khóc than làm chấn động cả đại địa thiên giới. Thanh niên thì chia nhỏ lẻ, trốn trong núi sâu, thỉnh thoảng tấn công lại những kẻ xâm lăng đang ở đó, trở thành cuộc chiến tranh du kích của những người kháng chiến, khiến cho những kẻ xâm lăng không thể làm gì được. Bọn họ cực kì nỗ lực kháng cự, hai bên đều có thương vong. Kẻ xâm lăng thì cho rằng họ nỗ lực để giữ cho sự ổn định của thế giới. Người chống xâm lăng thì cho rằng họ nỗ lực để bảo vệ lý tưởng của đất nước.

Bây giờ thì vấn đề đã đến rồi. Ai đúng ai sai? Ai có lý? Ai vô lý? Ai thiện ai ác? Những kẻ xâm lăng từ lâu đã chiếm lĩnh đất nước này, nhưng chiến tranh du kích vẫn không dừng, những trận đánh, bạo động, tàn sát, ném bom, tấn công lẻ tẻ vĩnh viễn không có một ngày nào yên. Những người dân vô tội ở đất nước đó khi nào mới có thể hưởng thụ những ngày tháng bình yên đây?

Khi tôi thần hành đến đất nước nọ, tôi rất do dự, rốt cục là tôi cần cứu ai? Ai là đối tượng mà tôi cần cứu? Kẻ xâm lăng, hay những người chống xâm lăng, hay những người dân vô tội? Cho dù là muốn cứu thì cũng có cứu hết được không? Nếu không phải là những vụ nổ thì là những trận đấu súng, lửa cháy khắp nơi. (Đây chính là kiếp nạn binh đao.)

Tôi đột nhiên ngửi thấy trong hư không có một mùi hương lạ, ngẩng đầu nhìn thì thấy rất nhiều băng rôn cờ hiệu và những chiếc ô ủng hộ các Thần Trời đang tuần hành, có vô số tùy tùng đi theo. Tôi hỏi: "Sao không cứu dân thường?" Thần Trời đáp: "Không thể cứu được." "Vì sao?" "Trên đầu họ toàn khí đen, khí nghiệp, họ không phải là những người tốt." "Bọn họ chẳng phải là có theo tín ngưỡng sao?" "Kẻ xâm lăng có tín ngưỡng, kể chống xâm lăng có tín ngưỡng, người dân có tín ngưỡng, nhưng họ đều có ma oán hận."

60. Cảnh hóa thực thọ cúng ngoạn mục

Mặc dù tôi đóng cửa ẩn cư tại hồ Diệp Tử, ngày ngày viết văn, tu pháp, kinh hành, nhưng ở trong tam muội thì tôi diễn hóa khắp nơi. Việc cúng dường đồ ăn thức uống, hóa thực cúng dường cho quỷ thần chúng vẫn là một trong số các mục tu pháp hàng ngày của tôi.

Hồ Diệp Tử là địa danh mà tôi tự đặt tên. Những năm gần đây, tôi không ở hẳn một chỗ, thậm chí cũng đã chuyển chỗ ở đến ba lần, ví dụ: đảo Đông Tinh, đảo Thiên Hỉ, đảo Âm Duyệt… Tôi là một hành giả lang thang, nơi nào cũng là nhà.

Tuy nhiên, bất kể là chuyển nhà đến chỗ nào, việc hóa thực của tôi cũng không thể gián đoạn. Khi chuyển đến một chỗ mới thì tôi cũng lại bắt đầu hóa thực.

Cúng dường quỷ thần chúng có rất nhiều cảm ứng.

  1. Quỷ thần hiện thân.
  2. Quỷ thần không hiện thân.
  3. Quỷ thần đầy hư không.
  4. Quỷ thần từng nhóm hai, nhóm ba kéo đến.
  5. Quỷ thần không hiện thân, cũng vô tri vô giác.

Có giai đoạn, một khoảng thời gian tương đối dài, tự bản thân tôi cũng không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, căn bản là trạng thái vô tri vô giác. Lâu dần, chính tôi băn khoăn không biết rốt cục quỷ thần có đến để nhận cúng dường hay không? Có phải là bản thân tôi đã già yếu mắt mờ rồi không? Hoặc là tinh thần không còn tốt nữa? Quỷ thần thấy bản thân tôi cũng chẳng có gì hay nữa rồi, nên không đến nhận cúng dường nữa?

Tôi cứ nghĩ ngợi thế. Rồi đến một lúc làm cúng dường quỷ thần chúng, tôi niệm tên quỷ thần, niệm chú, niệm cam lộ tràn đầy. Lúc này xuất hiện một bầy chim, xem ra cũng phải đến hơn trăm con, đều bay ào đến kêu ầm ĩ ở nơi tôi cúng dường hóa thực. Bọn chúng không lui lại, cũng không sợ việc hóa thực của tôi. Đầu tiên chúng biểu diễn bay lượn trong không trung. Rồi chúng biểu diễn bay tách ra xếp thành hình chữ "Vạn". Tiếp theo chúng biểu diễn nghi thức tiếp nhận cúng dường của tôi.

Chính tôi cũng nhìn đến sững người ra, thán thán sự tiên tri tiên giác của quỷ thần chúng. Tôi cho rằng bản thân có tuổi rồi, việc cúng dường không đủ lực, quỷ thần cúng không đến nữa. Tôi vừa có suy nghĩ như thế thì bọn họ đã biết được, do vậy liền nhập vào bầy chim đến để biểu thị rằng họ vẫn tiếp nhận sự cúng dường nhỏ bé của tôi. Việc hóa thực nhỏ bé của tôi. Việc cúng dường nhỏ bé của tôi. Vẫn là nhất tâm.

61. Cứu em bé ngã cầu thang

Trong tam muội. Tôi bỗng xuất hiện ở một nơi tôi không biết, đột ngột xuất hiện ở trong một ngôi nhà. Đồ đạc trong nhà chẳng theo kiểu Trung cũng chẳng theo kiểu Tây, tôi không thể nhận ra được là nhà của ai.

Ngôi nhà này có hai tầng, tầng hai có một phòng là phòng trẻ em (phòng dành cho trẻ sơ sinh dưới một tuổi). Ngủ được một lúc thì em bé tỉnh dậy.

Em bé khóc gọi người lớn! Ở tầng dưới có bà ngoại của bé, còn cha mẹ của bé đã đi ra ngoài có việc, có lẽ cũng sắp về đến nhà. Người bà chạy lên tầng, ôm lấy em bé. Người bà ôm lấy cháu, quay bước định đi xuống nhà dưới thì bất ngờ bị trượt chân. (Chân khuỵu xuống.)

Từ tầng hai đến tầng một tổng cộng có 14 bậc cầu thang, cầu thang thẳng và khá dài. Lúc này, bà cháu một già một trẻ lăn xuống cầu thang. Với cú ngã lộn vòng này, người già sẽ bị gãy xương, không chết thì cũng bị thương nặng. Việc ôm em bé ngã lăn xuống nhiều vòng: Nếu bà ngoại ôm chặt lấy bé thì em bé sẽ có nguy cơ bị đè chết. Nếu bà ngoại buông tay ra, thì em bé lại sẽ có nguy cơ bị chấn thương não.

Thế nên tôi vội vội vàng vàng đưa tay chỉ một cái, liền xuất hiện một tấm địa võng, là thiên la địa võng không thể lọt ra ngoài được, để đỡ trọn lấy người bà và em bé.

Lúc người bà bị trượt chân, đầu tiên bà va vào thanh vịn cầu thang nên hai chân bà bị thương nhẹ, còn em bé thì rơi vào trong võng. Tay, chân, đầu em bé không bị thương chút nào. Hai bà cháu đã từ trên đầu cầu thang ngã xuống dưới chân cầu thang một cách nhẹ nhàng, nên chẳng có gì đáng ngại.

Tới lúc cha mẹ em bé trở về nhà, liền giúp bà ngoại kiểm tra vết thương, định đưa tới bệnh viện để kiểm tra xem có gì nguy hiểm không. Nhưng em bé không bị thương một chút nào, ngay cả va đập cũng không có, vẫn cười hi hi. Kiểm tra ngoài da thì tất cả đều ổn, tay chân đầu mặt tất cả đều bình thường.

Lạ thay! Lạ thay! Sao có thể như vậy? Hóa ra em bé này vốn có lai lịch phi phàm, là một đại hòa thượng ở nơi Phật Tổ đến chuyển thế, nay có nguy nan, tôi không cứu bé thì ai cứu? Đứa bé này là ai? Mọi người đoán thử xem!

62. Con hổ

Trong lúc thần hành, tôi gặp một con hổ đang cực kì đói. Con hổ thấy tôi, liền ăn thịt, nhưng nhai tới nhai lui mà vẫn không nhai được, bởi vì tôi chỉ là nguyên thân vô hình, hoàn toàn không có thực thể vật chất, nhai rất lâu nhưng cũng chỉ là huyễn ảnh.

Con hổ thật sự đã rất đói. Nó lại chạy đến một vùng lau sậy ở sâu trong núi, bên trong có một người tu hành già sống ở đó. Người tu hành già này xem ra không gặp may rồi. Tôi tình cờ có suy nghĩ muốn cứu người tu hành già đó, bèn tạo nên sương mù.

Một đám sương mù lớn xuất hiện, ôm trọn phủ kín ngôi nhà. Con hổ tiến vào trong màn sương chẳng tìm thấy được ngôi nhà, cũng không tìm thấy lão hành giả. Tới lúc này, có một vị Bồ Tát hiện thân thuyết pháp cho con hổ nghe: Hãy xem, mình mang thân hổ, không tự làm mình bị thương thì làm người khác bị thương, đừng mãi không biết suy nghĩ như vậy. Hành giả xưa nay sống đều chẳng đề phòng, ngươi đừng làm cho ông ấy hoảng sợ. Sao không theo ta đi chuyển thế, qua được kiếp này rồi lại tu hành để trở thành bậc thiên hạ vô song.

Con hổ nghe xong liền cúi đầu hàng phục, theo vị Bồ Tát đó đi đầu thai chuyển kiếp. Tôi chắp tay hướng về vị Bồ Tát đang định rời đi, hỏi: "Con hổ chuyển kiếp đến nơi nào?" Bồ Tát đáp: "Nó đã ăn thịt không ít người rồi, do vậy chuyển kiếp thì vẫn là hổ, sau này tôi mới lại đến để độ cho nó." Tôi lại hỏi: "Lão hành giả này tu gì mà cũng làm cho Bồ Tát phải nhọc công?" Đáp: "Niệm Chân Phật Kinh."

Tôi "a" lên một tiếng, chắp tay lạy tạ. Tôi đã hiểu rồi, nhưng vẫn có một sự nghi ngờ, nếu chuyển kiếp lại làm hổ thì cũng vẫn lại ăn thịt người làm hại người khác, đến khi nào mới có thể được độ hóa chứ, tuy thế tôi cũng không hỏi nữa.

Sau đó không lâu, nghe nói vườn thú ở khu vực gần đây có một con hổ nhỏ mới sinh, những vằn vện trên người con hổ này rất tinh tế. Cho nó ăn thịt, chẳng ngờ nó lại không chịu ăn, chỉ chịu uống sữa và ăn rau. Tôi nghe xong, cười ha ha.

63. Tỳ Sa Môn Thiên Vương

Trong thiền định, tôi đã gặp Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương chính là Đa Văn Thiên, ngài ấy gặp tôi cũng vô cùng hoan hỉ.

Ngài nói: "Nhờ thịnh tình của Hoạt Phật mà tôi được xếp vào một trong Bát Đại Bổn Tôn, tụng chú Bát Đại Bổn Tôn, tức là cũng có tâm chú của Tỳ Sa Môn Thiên Vương." (Chính là Zambala.) Tôi nói: "Đó cũng là nhân duyên thôi!"

Tỳ Sa Môn Thiên kể: "Tôi thi hành giáo hóa ở phía bắc núi Tu Di, ở đây phân ra làm Thiên đạo và Quỷ đạo. Thiên đạo có thể hưởng thụ bất tận những niềm vui cõi trời. Còn một khi đã rơi vào Quỷ đạo thì đau khổ dị thường, nhưng thế nhân đều đi về hướng Quỷ đạo mà không muốn đến Thiên đạo." "Vì sao lại như vậy?" - Tôi rất kinh ngạc. "Thiên đạo chỉ là một đường ánh sáng thanh tịnh, còn Quỷ đạo thì lại tỏa ra áng sáng hồng ngũ sắc đầy mê hoặc, hơn nữa lại có những thiếu nữ duyên dáng phục vụ, lại có rượu, lại có cả thứ âm nhạc quyến rũ mời gọi, có hát có múa, ít ai ngờ rằng thiếu nữ đều là ác quỷ hóa hiện ra. Rượu, nhạc, múa rất quyến rũ người ta như thế nên Thiên đạo chẳng có người nào đi, họ lại cứ chen nhau đi vào Quỷ đạo, sao lại trở thành như vậy chứ?" Tôi cười: "Ngài hỏi tôi, tôi hỏi ai?"

Tỳ Sa Môn Thiên Vương kể: "Mấy hôm trước, có một hành giả Chân Phật, miệng tụng chú Bát Đại Bổn Tôn, đi đến vùng đất này, đưa mắt nhìn Thiên đạo một cái, rồi lại nhìn Quỷ đạo, thấy có đồ ăn đồ uống, thế là cũng chẳng niệm chú nữa, liền đi vào Quỷ đạo một trăm bước, càng đi càng sâu. Tôi trông thấy bèn đi vào kéo tay áo hành giả, lôi anh ta ra khỏi Quỷ đạo. Anh ta lại đi vào, đầu cũng sắp bị ác quỷ chặt rồi, những cô gái kia đều là ác quỷ biến hiện thành đó." "Cảm tạ ơn cứu mạng của Tỳ Sa Môn Thiên!" "Có phải tôi cứu ngài đâu!" - Tỳ Sa Môn Thiên nói. "Cứu đệ tử của tôi thì cũng giống như cứu tôi thôi." - Tôi nói. "Hoạt Phật tấm lòng lương thiện như Bồ Tát, thân đã bế quan nhưng tâm vẫn chẳng đóng cửa, vẫn đi khắp nơi cứu đệ tử. Những kẻ như tôi đây giúp đỡ cũng là điều nên làm." "Tôi vẫn cứ cảm ơn một câu!"

Tôi nói, chú Bát Đại Bổn Tôn, câu chú nào cũng đều có sức mạnh, tụng niệm thần chú thì sẽ có thần hiển linh bảo vệ. Lời này của tôi chẳng sai đâu.

64. Chết đi sống lại

Tại một bệnh viện lớn, có một bà lão đã được tuyên bố là tử vong, là chính bác sĩ tuyên bố, hơn nữa, người nhà cũng đã sớm chuẩn bị xong mọi việc hậu sự rồi.

Một người cháu của bà lão là đệ tử Chân Phật Tông, anh ra sức niệm "Om guru liansheng siddhi hum." Niệm trăm lần, nghìn lần. Bởi vậy, khi thần thức của bà lão vừa thoát ra khỏi lỗ trên thân, bà trông thấy bên ngoài có một vòng ánh sáng tinh khiết, có một Đồng Tử cầm hoa sen màu xanh đang đứng ở giữa không trung chuẩn bị đón bà đi.

Liên Hoa Đồng Tử tung ra bông hoa sen, hoa sen gặp gió phóng to ra, tỏa sáng rực rỡ khác thường. Bà lão ngồi trên hoa sen, chuẩn bị đi tái sinh về Tây phương Tịnh độ. Nhưng bà lão đột ngột nói: "Chờ chút! Chờ chút!" Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Vẫn còn chuyện gì sao?" Bà lão nói với Liên Hoa Đồng Tử, tuổi bà đã cao, trí nhớ không tốt, bây giờ mới nhớ ra muốn nói với người nhà hai việc, không biết có thể được không? Liên Hoa Đồng Tử hỏi: "Là hai chuyện gì?"

Bà lão kể: "Một là chuyện thế tục, tôi vẫn còn một khoản tiền tiết kiệm giấu ở một nơi, không nói ra thì người nhà sẽ không tìm thấy. Hai là chuyện tâm linh, tôi cưỡi trên hoa sen màu xanh đi vãng sinh ở cực lạc thế giới, chuyện này không nói ra không được." Liên Hoa Đồng Tử nói: "Thì ra là vậy, cho bà thêm thời gian tám tiếng đồng hồ nữa, khi thời gian hết thì tôi lại đến đưa bà đi."

Bà lão đã chết rồi, nhưng lại sống lại. Bác sĩ và gia quyến sửng sốt kinh ngạc. Bà lão tinh thần rất tỉnh táo nói với mọi người rằng chỉ có thể sống thêm tám giờ đồng hồ nữa. Bà đặc biệt trở lại để bàn giao hai việc, một là nơi giấu tiền bí mật, hai là bà đã gặp Liên Hoa Đồng Tử đến tiếp dẫn, bà sẽ tái sinh về Tây phương, không có một chút sai sót nào. Mọi người vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Cả nhà cùng tập hợp nhau lại niệm "Om guru liansheng siddhi hum".

Bà lão đã trải qua tám tiếng hồi sinh, hai mắt nhắm lại, lần này, bà đi thật, người nhà lại chuẩn bị hậu sự. Người cháu của bà lão bình thường cũng không tu pháp, chỉ là khi đến hội đồng tu thì có trì niệm Căn bản Thượng sư tâm chú, mỗi ngày trì 108 biến mà thôi. Bà nội anh lâm chung, anh đã rắc cát vàng lên người bà, cho bà ngậm viên cam lộ.

Kì lạ thay! Chết rồi lại sống lại!

65. Đặt móng xây đại điện

Có một ngôi chùa Phật cổ ở trên núi cần dỡ bỏ hết để xây dựng đại điện, đã mời một thầy địa lý đến xem phong thủy. Nhân Nguyên (Phổ), tọa Mậu Dần đối Giáp Thân, đây là phương vị do thầy địa lý bày ra. Tôi thấy phương vị đặt nơi xây chùa như vậy thì kinh hãi.

Theo thế núi này là rồng đến, đại điện nên trực nhận được long khí, hướng đặt đúng nên là Thiên Nguyên (Tham Lang), đặt ở hướng Giáp Thân hướng về Canh Thân mới đúng. Nếu là Nhân Nguyên (Phổ), chỉ cần đặt móng cho đại điện thì về mặt địa lý sẽ gặp sự khô kiệt.

Trên trời chẳng có chim bay. Dưới đất chẳng còn thú chạy. Trong chùa vắng bóng tăng nhân. Không hoa không cỏ không nước.

Phật Thích Ca Mâu Ni, A Nan tôn giả, Đại Ca Diếp tôn giả, chư Thiên Hộ pháp, Kim Cang thần của đại điện sẽ lần lượt bỏ đi. Khí địa linh sẽ mất hết, ngược lại sẽ chỉ có nhiều ác quỷ hung thần và các loại yêu tinh kì quái kéo đến cư trú.

Già Lan Thần của ngôi chùa nọ đến gặp tôi, nói với tôi: "Liên Sinh ngài có giúp được không?" "Giúp chuyện gì chứ?" - Tôi hỏi mặc dù đã biết câu trả lời. Già Lan Thần đáp: "Ngài độ chúng sinh, nền móng xây đại điện này nếu như làm sai thì không cây không cỏ, tăng nhân sống ở đây ngay đến mắt cũng bị mù, việc này ngài cũng biết rồi. Thầy địa lý bịp bợm, ngoài ngài ra, ai có thể cứu giúp đây?" "Cần dùng Thiên Nguyên Tham Lang Tinh đúng không? "Đúng rồi, đúng rồi."

Tôi nói: "Thế này đi! Tôi làm một nửa, ngài làm một nửa, như vậy thì công đức của chúng ta chia đều." "Làm thế nào?" "Già Lan Thần, ngài dùng một chút thần lực tạo nên động đất nhẹ, tôi sẽ dịch chuyển viên gạch đặt phương vị của nền móng đi, như vậy chắc là được." - Tôi nói. Thế là, mặt đất rung chuyển một chút. Tôi di chuyển viên gạch định phương hướng.

Yêu ma quỷ quái vừa thấy đại điện đã quay về hướng trực nhận rồng đến, đặt giữa quý nhân, liền lũ lượt tản đi. Ngôi chùa này tương lai chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều cao tăng đại đức, quảng độ trời người. Mọi người đến tham quan chùa này cũng sẽ có được sự nghỉ ngơi thư thái. Tiếng tăm của chùa ngày sẽ vang dội, thân tâm ai tu ở đây cũng sẽ đạt được giải thoát. Đây cũng là mục đích độ chúng sinh của tôi.

66. Ôn Thần từ trên trời bay xuống

Có vài lần trong lúc thiền định ở hồ Diệp Tử, tôi đã thấy rất nhiều Ôn Thần từ hư không trung bay xuống, hình dạng của bọn chúng không giống nhau.

Có Ôn Thần thì giống như những con quỷ khổng lồ, cao tới mấy trượng, đầu và chân chẳng phân rõ, miệng cực to, có thể nuốt một lần nhiều con bò. (Bệnh bò điên)

Có Ôn Thần thì phát ra những âm thanh rất lớn, từ đầu đến chân đều tỏa ra ánh sáng kì dị, trong ánh sáng đều có những con trùng nhỏ, con người chỉ cần bị mấy con sâu này rơi trúng, hoặc hít phải lũ sâu này, thì phổi sẽ bị chúng ăn sạch, khi trong phổi đầy sâu rồi thì sẽ chết. (Bệnh SARS)

Có Ôn Thần thì hình dạng như con rắn, đầu to thân mảnh, đầu to như cái thúng, thân thì nhỏ như que tăm, miệng thở ra khí, chỉ một hơi cũng làm chết rất nhiều chim, gà, vịt, các loại gia cầm đều chết sạch sẽ. Loại Ôn Thần này chỉ cần đến vài lần thì cả thế giới đều gặp tai ương. (Bệnh cúm gà)

Có Ôn Thần thì thật sự trông rất hung ác, hai con mắt to như cái ly rượu, tướng mạo thì gian ác trông rất đáng sợ, lợn, cừu đều thất kinh. Ôn Thần này hôi thối dị thường, lớp da lở loét, chẳng giống thần cũng chẳng giống quỷ, giống như người bị mặc bệnh hủi. (Bệnh tay chân miệng)

Có Ôn Thần thì giống như lính quỷ, rất đông đúc, trong số đó cũng có quỷ tướng mặc áo giáp, lưng đeo gươm, hễ gặp ai là chém tan xương nát thịt, làm chết và bị thương không biết bao nhiêu người. Đám lính quỷ này không hẳn là cao lớn, chỉ như những cái bóng nhỏ, từng tốp từng tốp, phần lớn đều mặc đồ màu đen, trên áo giáp và mũ có đốm trắng. (Bệnh sốt xuất huyết Đăng-ngơ)

Vẫn còn rất nhiều Ôn Thần tôi không biết tên……

Những gì tôi thấy không chỉ có như vậy. Có một số Ôn Thần quỷ quái thì là nghe theo Thiên mệnh mà xuống, có một số thì từ lâu đã trốn trong tâm con người, loại Ôn Thần này một khi đã đến thì những tai ương kiếp nạn lớn của con người sẽ đến, thiên tai nhân họa.

Đã là phúc thì chẳng phải là họa, còn đã là họa thì trốn chẳng được.

Tôi nhập vào giấc mơ của các đệ tử dặn: "Khẩn trương niệm Kim Mẫu tâm chú! Om jinmu siddhi hum. Nam mô Vô Cực Đại Thánh Kim Mẫu Đại Thiên Tôn."

Theo như tôi biết, Diêu Trì Kim Mẫu điều khiển các Ôn Thần, Ôn Thần đều sợ Người. Muốn nhân gian thái bình, cuộc sống thường ngày bình an, sinh hoạt an vui thì người người niệm Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Ôn Thần sẽ không dám đến càn quấy nữa. Nếu không thì… Thời đại Ôn Thần đã đến rồi, bệnh dịch hoành hành. Nhân gian gặp tai ương. Khi mà Ôn Thần đông như bụi trần thì nhân loại chẳng còn không gian mà tồn tại nữa.

Do vậy, tôi rất khẩn trương nhập vào trong mơ của rất nhiều đệ tử.

67. Con ma bóng đè

Có đệ tử nọ thường xuyên mắc chứng bệnh đi ngủ bị bóng đè, có những lúc không dám nhắm mắt, vì hễ nhắm mắt một cái là liền nhìn thấy một bóng đen từ từ leo lên giường, đè lên trên người anh. Anh không thể mở miệng ra nói, cố gắng hết sức để ngồi dậy nhưng không thể ngồi dậy được, mắt cũng không thể mở ra được, toàn thân cứng đờ nặng trịch như khúc gỗ.

Cứ như vậy một lúc, bóng đen kia tự động rời đi, chỉ khi bóng đen bỏ đi rồi thì anh mới có thể ngủ được. Thế nhưng, tình trạng của mắt anh thì ngày càng tồi tệ, buổi sáng tỉnh dậy mệt mỏi tới mức không thể chịu đựng được, toàn thân đau nhức không còn chút sức lực nào, tình trạng càng khốn quẫn hơn.

Anh đã đi gặp nhiều bác sĩ, bác sĩ cho thuốc uống, nhưng từ đầu tới cuối đều chẳng có hiệu quả gì. Anh cũng tìm gặp pháp sư để xin bùa niệm chú, cửa sổ cửa ra vào đều dán bùa cả, nhưng chỉ được vài hôm, mọi thứ lại đâu vào đó, khiến anh chẳng còn biết làm cách gì nữa. Đây thực sự đúng như Phật Đà nói: "Quán thọ thị khổ." [ ND: cần quán chiếu thấy rằng đã có nhận lấy bất kì cái gì là có khổ. ]

Sau khi đệ tử này quy y, chăm chỉ trì tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, cũng đã trì tụng được một khoảng thời gian khá dài rồi. Nhưng bóng đen ma quái này vẫn bám riết không buông tha anh, nó vẫn cứ đến. Cứ thế cho đến một hôm, anh cảm thấy Cao Vương Kinh chẳng có hiệu quả gì, muốn từ bỏ. Rồi anh mơ thấy Sư Tôn đến nói với anh: "Đừng từ bỏ, hãy trì tụng tiếp 21 ngày nữa." Kể từ hôm đó, anh liền đánh dấu lại, lại tiếp tục trì tụng thêm 21 ngày. Nói ra cũng kì lạ, cái bóng đen ma quái đó lại đến.

Lần này, đầu giường xuất hiện một đường ánh sáng màu trắng, trong ánh sáng trắng có một người phụ nữ nhìn rất giống Quan Âm Bồ Tát hét lên một câu: "To gan, nghiệt súc, dám ở đây hại người!" Bóng đen kia vừa nhìn tháy ánh sáng trắng liền tháo chạy. "Chạy đi đâu!" Người phụ nữ trong quầng ánh sáng trắng cầm bình cam lộ thổi hút vào bóng đen vào trong, thế rồi ánh sáng trắng cũng từ từ biến mất. Đêm đó, đệ tử này ngủ một giấc ngủ ngon chưa từng có. Ngày hôm sau, tinh thần sảng khoái, bách bệnh tiêu trừ, trở thành người chẳng còn bệnh tật gì.

Sau đêm hôm đó, hiện tượng bị bóng đè tự nhiên biến mất, chứng bệnh kinh niên này đã hoàn toàn khỏi rồi. Đệ tử này trong lúc hoảng hốt bỗng chốc như hai con người hoàn toàn khác, con người trước đây thì yếu ớt mệt mỏi, còn con người sau này thì thần quang rực rỡ.

68. Một bộ Chân Phật Kinh

Tại một vùng núi nọ có bảy trại nuôi gà. Người làm nghề nuôi gà phần lớn đều tụ tập tại vùng núi này.

Năm đó, dịch gà hoành hành, chính là bệnh cúm gà. Bảy trại nuôi gà thì đã có sáu trại có gà bị mắc bệnh, những người nuôi gà không ngớt kêu than.

Gà chết chất thành đống cao như núi. Những người làm công tác phòng dịch thì đầu đội mũ bảo hộ, đeo khẩu trang, mặc quần áo phòng hộ, bận rộn đi tới đi lui. Tiêm thuốc. Chôn gà. Khử độc. Tiêu hủy.

Họ bận rộn ngày đêm, chỉ cần phát hiện trong đàn gà có một trường hợp nhiễm virus ác tính là lập tức nghe theo mệnh lệnh của cấp trên, đều bắt và giết sạch sẽ không chừa lại con nào. Mỗi lần giết là mấy vạn con. Mấy vạn con gà hồn quy về Ly Hận Thiên.

Tôi có đôi lời cảm thán: Sơn viên nước chảy thanh nhã quanh mấy hộ nuôi gà. Giờ tràn đầy khí hận vì hồn gà tập trung đông đúc, biết làm sao đây khi gà chết hàng loạt. Mây mù bao phủ khắp chẳng phân biệt nhà nào, hồn gà lũ lượt dắt tay nhau mà đi. Giờ thì chẳng nhà nào vui vẻ nữa, những bộ mặt buồn bã nhìn nhau chẳng biết nói gì. Mặt đất đầy lông, lông bay đầy trời. Sau hàng rào trống vắng chẳng còn thấy cảnh ngày xưa.

Bảy trại nuôi gà này, độc nhất có một trại là không bị mắc bệnh, việc này khiến người ta thấy kì quái. Hộ nuôi gà này cũng chẳng phải là đệ tử Chân Phật Tông, cũng không dán phù niệm chú, ban đầu họ cũng chẳng phòng ngừa dịch bệnh gì cả.

Chỉ là một người con gái của chủ hộ có lần cầm về một cuốn Chân Phật Kinh ở một ngôi chùa nọ, liền đặt lên bàn thờ hương hỏa ở nhà. Con gái của chủ hộ chẳng biết vì sao mà lại cũng đọc một biến Chân Phật Kinh, cảm thấy kinh này cũng hay, bèn đem về thờ cúng. Cô cũng niệm ba biến: "Om guru liansheng siddhi hum." Kết quả là, các trại nuôi gà của hàng xóm đều bị nhiễm bệnh, duy chỉ có nhà này là gà sống khỏe mạnh, mọi người cũng không hiểu là có chuyện gì đây?

Ôn Thần hạ giáng. Thấy độc mỗi trại gà này là có ánh sáng trắng tỏa ra. Các nhà khác đều trúng dịch cúm. Chỉ có nhà này là không. Đương nhiên, chỉ có mỗi mình tôi biết nguyên nhân nằm ở đâu!

69. Nước tự nhiên tuôn trào

Còn nhớ khi xưa, tôi vẫn còn ở Seattle, mỗi ngày đều thuyết pháp khai thị. Có lần, Đài Loan Lôi Tạng Tự gửi người đến, mang theo bản đồ địa hình sang Mỹ tìm tôi, hy vọng tôi giúp chỉ ra những dòng suối ngầm ở địa điểm đó. Bởi vì những kĩ sư đào giếng đã tiến hành đào giếng nhiều lần, mỗi lần đào đều đã đào sâu tới mấy trượng [ ND: 1 trượng là khoảng 3,3m ] mà vẫn cạn khô không có nước.

Sau đó, tôi dựa vào "tiên thiên nhất chỉ" khai thị, lập tức chấm một điểm trên tấm bản đồ địa hình. Đài Loan Lôi Tạng Tự đào mạch nước ngầm, lần này vừa mới đào thì nước đã dâng lên ào ạt.

Còn giờ đây, tôi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, căn bản là chẳng ai biết hồ Diệp Tử là ở chỗ nào. Nhiều năm nay tôi cũng chẳng gặp người ngoài, chẳng có ai tìm được tôi cả.

Có đệ tử nhà có ruộng vườn, cũng đã mời chuyên gia đào giếng về để tìm nơi đào giếng làm thủy lợi cho ruộng vườn. Đã đào rất nhiều lần nhưng từ đầu chí cuối vẫn chưa đào thấy mạch nước ngầm.

Đệ tử này rất kiền thành. Ở trước đàn thành, anh tĩnh lặng niệm Căn bản Thượng sư, cầu nguyện Căn bản Thượng sư chỉ thị. Anh trai giới ba ngày, tịnh thân súc miệng, thành tâm tụng Bổn tôn Quan Thế Âm Bồ Tát, rồi lại niệm Cao Vương Kinh bảy bảy bốn mươi chín ngày. Trước đàn thành, anh bày bản đồ địa hình ra. Có một đêm, Sư Tôn nhập mộng, bảo anh: "Sáng mai ngủ dậy, hãy kiểm tra bản đồ địa hình, trên tấm bản đồ có một chấm đen, chính là chỗ đó."

Ngày hôm sau tỉnh dậy, anh đi xem tấm bản đồ, tìm đông tìm tây trên tấm bản đồ, nhưng thật sự là chẳng có điểm đen nào. Anh có hơi thất vọng, cho rằng mơ thì chỉ là mơ thôi, cũng chẳng đáng tin. Đúng lúc anh định bỏ cuộc thì thấy một đốm đen dịch chuyển về gần bản đồ, đó là một con kiến đen. Con kiến đen bò đến một địa điểm khá xa, rồi dừng lại bất động một lúc.

Đệ tử đột nhiên tỉnh ngộ, có lẽ nào đây chính là địa điểm đó. Anh lại gọi chuyên gia đào giếng đến đào. Chuyên gia đào giếng cười: "Nơi này làm sao có thể có nguồn nước được chứ?" - Chuyên gia dựa vào kiến thức và kinh nghiệm mà phán vậy. Đệ tử không quan tâm, nói chuyên gia cứ đào đi.

Kết quả là mới đào chưa được bao lâu thì nước tuôn trào ra, hơn nữa nước này lại rất ngọt. Phàm là người ốm bệnh xa gần, uống nước giếng này vào thì đều được chữa lành. Cao Vương Kinh linh nghiệm. Quan Thế Âm Bồ Tát linh nghiệm. Căn bản Thượng sư nhập mộng linh nghiệm. Đệ tử thành tâm làm chư vị cảm động, đã có cảm ứng rồi.

70. Chuỗi tràng hạt

Ngày xưa, Liễu Minh Hòa Thượng có truyền lại một pháp. Nếu có người cầu tự, hãy lấy một hạt trong chuỗi hạt niệm Phật của một vị Bồ Tát lâu năm đã niệm trăm vạn, nghìn vạn, vạn vạn lần. Sau đó đem hạt này chôn trong lư hương lớn nhất ở miếu Thành Hoàng. Rồi cầu nguyện. Tất sẽ có cảm ứng. (Sư Phụ còn căn dặn rằng, muốn xin hạt từ chuỗi hạt của vị Bồ Tát đã niệm Phật lâu năm thì cần phải đổi lại bằng chuỗi hạt làm bằng hạt bồ đề quý giá, bởi vì chuỗi hạt niệm Phật lâu năm rất quý giá.)

Pháp này tôi đã truyền lại cho những đệ tử cũ, rất nhiều người cầu tự đã có cảm ứng, đây là pháp cầu trai được trai, cầu gái được gái.

Tôi ở trong tam muội ở hồ Diệp Tử biết đến một cặp vợ chồng kiền thành tu pháp, tuổi đã xấp xỉ bốn mươi rồi, bên ngoài thì cặp vợ chồng này tỏ ra không vội vã, nhưng trong lòng thì sốt ruột lắm lắm rồi, họ hy vọng có một đứa con. Tôi bèn nhập mộng. Bảo họ: "Phương pháp chính là như thế này này." "Là như thế nào?" "Lấy hạt của chuỗi hạt niệm Phật chôn ở lư hương, một hạt thì sẽ có một đứa."

Kì lạ là, cặp vợ chồng này đều có cùng một giấc mơ. Họ rất tò mò, lấy ra hai hạt từ chuỗi hạt, chôn vào đáy lư hương của mình (Thai Tạng Giới). Không lâu sau, người vợ có thai. Là song thai. Không sinh thì thôi, đã sinh thì sinh hẳn hai đứa. Những đứa bé có được từ cách này được gọi là "niệm châu tử".

Tôi thấy những vợ chồng hiện đại đã khác những vợ chồng ngày xưa, người xưa muốn trăm con nghìn cháu, ngày nay thì hai đứa là đủ rồi, những người có một đứa con cũng không ít, mà nếu không có con thì cũng chẳng vấn đề gì cả. Có hay không có hậu thế, họ cũng chẳng quá bám chấp nữa rồi. Ấy nhưng, có một hoặc hai đứa con thì vẫn tốt hơn là hoàn toàn không có đứa nào!

Chuỗi hạt niệm Phật lâu ngày cũng sẽ có linh khí, có rất nhiều cảm ứng. Chuỗi hạt của vị Bồ Tát niệm lâu năm thì mọi tà ác đều tránh, trăm quỷ chẳng dám đến gần, có linh có nghiệm. Điều này vô cùng chân thực, bất khả tư nghì.

Nhưng chớ tham lam. Đặt ba hạt thì sinh ba đứa. Còn đặt nhiều hạt thì sẽ gay to đấy, sẽ sinh đẻ không ngừng.

71. Khi do dự chưa quyết

Có một thánh đệ tử, sự nghiệp thất bại, công ty vốn có nay lụi bại, vợ thì bỏ đi, con cái thì cũng đi tứ tán, những người trước đây làm việc cho anh ta người nào người nấy tìm lối đi cho riêng mình. Cuộc sống vốn dĩ là như vậy. Khi có tiền thì hô một cái là có cả đống người bu đến, khi không tiền, vận rủi khó khăn kéo đến thì chẳng có ai ở cạnh để nhờ cậy.

Thật may, anh có nghị lực hơn người, mặc dù sự nghiệp thất bại, nhưng anh không dám quên việc tu pháp. Anh cũng có ý nghĩ xuất gia, nên vẫn tinh tấn trì chú niệm Phật, mỗi ngày tu một pháp. Anh lại thêm gắng sức, nỗ lực tiến lên. Vì cuộc sống, anh đã đi làm công việc lao công dọn dẹp, làm ba năm, tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ.

Anh nhắm được một địa điểm, muốn bán cà phê, nhưng còn do dự chưa quyết. Nếu như buôn bán thành công thì anh không cần phải đi làm lao công nữa, còn nếu buôn bán bất thành thì làm việc quét dọn ba năm coi như lãng phí. Không chỉ như vậy, cuộc đời này cũng coi như xẹp lép, không những mất việc lao công mà còn nợ nần. Xuất gia khi mang nợ nần thì chẳng chùa nào muốn nhận anh.

Thấy anh còn do dự chưa quyết, tôi bèn đến trong giấc mơ của anh, nói: "Anh có tâm xuất gia, nhưng trần duyên còn chưa hết, cũng không miễn cưỡng được, tại gia tu pháp cũng được, một ngày thanh tịnh thì sẽ có ngày xuất gia. Anh vốn đã xuất gia ba năm rồi, ba năm nay làm lao công dọn dẹp cũng đã quét sạch tâm địa suốt ba năm rồi. Anh muốn kinh doanh quán cà phê, tôi sẽ giúp anh, khách hàng sẽ tụ đến đông như mây. Các quán khác làm ăn không được, nhưng quán của anh thì vẫn phát đạt. Anh sẽ có năm quán cà phê, tương lai anh sẽ có tiền. Không chỉ như vậy, phúc lộc của anh sẽ rất dài, con cháu cũng đề huề. Chỉ cần mười năm thôi, tiền đồ sẽ xán lạn."

Tôi nói: "Khi anh xây chùa, anh cũng sẽ tự bỏ tiền bỏ sức, về già sẽ xuất gia."

Sau khi tỉnh dậy, anh cảm thấy kì lạ, rồi anh cũng bỏ tiền ra đầu tư quán cà phê thật. Công việc kinh doanh tốt khiến người ta ghen tị. Rồi cũng đúng là anh đã mở được năm quán cà phê, chẳng có đối thủ, khách khứa nườm nượp như chuyện đương nhiên, tiền tài đổ về như nước chảy.

Anh xây dựng một ngôi chùa. Bản thân anh quả nhiên về già cũng xuất gia.

Tôi viết một bài tán thán: Đường đời qua đỉnh vinh quang Chốn xưa nơi mới son vàng giấc mơ Thế nhân một lũ ngu ngơ Hồng trần xa lánh giờ ta tu hành Tiền tài được mất kệ anh Chùa ta quay lại, cứ dành tu thôi.

72. Lãnh thổ quốc gia

Tôi từng sống ở nước ngoài, quan sát thiên tượng, thấy sao liên tục đổi, [ ND: điềm báo đổi chủ nhân, người lãnh đạo hoặc có các biến cố rất lớn trong một quốc gia, không có sự ổn định ] trong lòng dâng lên nhiều nỗi buồn.

Có lẽ có người hỏi, tôi buồn cái gì vậy? Tôi nói thẳng là: Tôi buồn cho quê hương mình. Tôi buồn cho đất nước mà tôi từng sống. Tôi buồn cho những đất nước mà đời này tôi vẫn chưa đến. Tôi buồn cho những cuộc chiến tranh giữa hai nước, con người chịu cảnh lầm than.

Có lẽ có người nói, buồn gì mà buồn, việc thế gian này, đánh tới đánh lui, chiến tới chiến lui, đạn bắn đạn bay, tranh đất tranh quyền, từ xưa đến nay đã bao giờ dừng dứt. Việc này người phàm tự lo, thuận theo tự nhiên đi, đừng bận tâm đạo lý làm gì. Đạo lý thì tôi hiểu. Nhưng tôi vẫn sợ hãi trước sự tàn khốc, bạo lực, hung tàn, trong lòng bất an.

Ở hồ Diệp Tử, tôi thần hành trong tam muội. Tôi đã đến một cõi trời ở rất cao, gặp những Thiên nhân mặc áo tím, có hơn trăm người đang mở hội, họ cầm bút đỏ vẽ tới vẽ lui trên tấm bản đồ của cõi người, vẽ những đường vạch ranh giới. Có một Thiên nhân quay đầu lại nói với tôi: "Quê hương của ngài sẽ được yên bình xx năm." Trong lòng tôi có chút an tâm. "Đất nước mà ngài sống, một khoảng thời gian sẽ làm bá chủ thiên hạ." Tôi rất kinh ngạc. "Ngoài ra, những đất nước sau đều sẽ xảy ra chiến tranh làm chết tương đối nhiều người." Tôi chắp tay niệm: "A Di Đà Phật!" - Trong lòng không nỡ.

Thiên nhân này nói: "Ngài thương nước thương dân, đó là tấm lòng từ bi của ngài. Không quản cá nhân ngài được hay mất, tấm lòng ngài luôn rộng mở, mặc dù ngài có thần thông, nhưng cũng chẳng có cách nào bảo vệ được những sinh linh nhân loại trên toàn thế giới. Không cần phải quá buồn đau, hãy cứ sống cuộc sống của ngài thôi."

Tôi nói: "Sao trên trời biến hóa nhanh quá!" "Lịch sử vốn dĩ vẫn là lịch sử." - Thiên nhân nói: "Thế nhân học Phật, nương dựa vào A Di Đà Như Lai, ngài viết sách độ chúng sinh, đừng để uổng công ngài đời này đã hạ sinh ở nhân gian, hãy mau mau nhất tâm quay về đi!" Đúng vậy, tôi sẽ như vậy. Tôi sẽ đem hết toàn bộ năng lực của tôi để đắc giải thoát, đắc bồ đề, rồi sẽ giáo hóa thế nhân!

73. Tương ứng của việc in ấn Chân Phật Kinh

Khi tôi tuần hành đến âm phủ, tôi gặp một minh sứ đang đưa một người già muốn lên thiên giới thanh tịnh. Người già này vốn ở địa ngục chịu khổ, bây giờ chẳng ngờ lại được lên thiên giới, tôi lấy làm kì lạ. Hỏi: Cụ họ gì? Đáp: Ông. Hỏi: Vì sao lại được thiên giới? Đáp: Nhờ con cháu đời sau in ba nghìn cuốn Chân Phật Kinh hồi hướng công đức cho tôi. Hỏi: Làm sao biết mà in Chân Phật Kinh? Đáp: Con cháu của ông cụ có được một bộ Chân Phật Kinh trong một ngôi chùa, anh ta chú ý tới những bản văn trong cuốn kinh đó có dạy về thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, ngoài ra còn dạy người ta lấy vô niệm làm chính giác, do vậy đây cũng là chính pháp để đạt minh tâm kiến tính. Thế là anh ta tin tưởng trì niệm.

Cụ già họ Ông kể, sau khi con cháu cụ trì niệm Chân Phật Kinh thì cảm ứng thấy một giấc mơ, trong mơ họ thấy tổ tiên đang ở trong âm phủ chịu khổ cực. Rồi người con cháu đó gặp một vị tỏa ra ánh sáng vàng kim rực rỡ chói lọi nói với anh rằng, in tặng Chân Phật Kinh thì tổ tiên sẽ thoát khổ. Sau khi tỉnh dậy, anh cũng chẳng mảy may để ý vì anh cho rằng ban ngày nghĩ sao thì ban đêm mơ vậy. Thế rồi đêm thứ hai, đêm thứ ba anh lại có giấc mơ tương tự, thế rồi anh mới tin.

Anh bèn đem tiền tiết kiệm bấy lâu gửi cho pháp sư của Lôi Tạng Tự, rồi cùng với quỹ quyên góp của chùa mà in kinh sách. Chính vì như vậy mà tổ tiên lập tức được thoát khỏi khổ địa ngục, thăng lên thiên giới.

Về sau tôi biết được chuyện này liền chú ý đến đệ tử họ Ông. Phúc báo mà ông in Chân Phật Kinh không chỉ có như sau:

  1. Tổ tiên thăng thiên.
  2. Trúng xổ số, mua liền được ba căn nhà sang trọng.
  3. Ba đứa con trai gái đều thi đỗ vào trường đại học lý tưởng nhất.
  4. Bản thân ông cũng được thăng quan tiến chức.

Cá nhân tôi cho rằng việc in tặng sách thiện có công đức rất lớn, đương nhiên không chỉ mỗi in Chân Phật Kinh, mà in Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh, Liễu Phàm Tứ Huấn, Bạch Y Đại Sĩ thần chú, Ngọc Lịch Bảo Sao, Thái Thượng Cảm Ứng thiên, Văn Xương Đế Quân âm chất văn, Phổ môn phẩm, sách Phật kinh điển, các sách thiện, đều có công đức rất lớn.

Kinh Hoa Nghiêm, quyển 68 có ghi chép: Núi non trên biển bao Thánh hiền Thành tựu thanh tịnh bao điều quý Rừng cây hoa trái khắp nơi nơi Suối sông hồ nước luôn tràn đầy. Trượng phu dũng mãnh Quán Tự Tại Cư ngụ núi này vì chúng sinh Nếu con hỏi cách tạo công đức Ngài sẽ dạy con phương tiện này.

74. Một điều hiểu, vạn sự thông

Còn nhớ lúc nhỏ, mẹ tôi hay nói với người ta: "Tạp Tử (tên gọi lúc nhỏ của tôi) này nó rất ngu ngốc, chẳng biết cái gì cả, dù một thứ cũng không hiểu." Mẹ đưa tôi đi xem bói. Mẹ rất lo lắng vì việc tôi rất ngốc. Thầy bói nói với mẹ tôi: "Đứa bé này đến giờ vẫn chưa khai mở các khiếu, nhưng chỉ cần “khai khiếu” rồi thì một điều hiểu, vạn sự thông." [ ND: Khiếu: Tim mắt, tâm nhãn, trí tuệ ]

Về sau, những năm học cấp hai, tôi bị lưu ban hai lần, vì không thể để lưu ban lần nữa nên tôi chuyển trường đến trường Cao Thị Tam Trung.

Nhưng thời gian tôi học cấp ba ở trường Trung Học Cao Hùng thì tôi đã "nứt sọ". Lúc học cấp ba, mỗi học kì tôi đều xếp thứ nhất, dành được học bổng của công ty xi-măng Gia Tân, hơn nữa học phí và các khoản tiền khác đều được miễn phí.

Sau này học Phật, tôi đọc kinh Phật, một câu kinh văn tôi cũng không hiểu, đặc biệt là Kinh Kim Cang. Sau khi tôi được khai sáng, thì một điều hiểu, vạn sự thông.

Tôi viết điều này là muốn nói mọi người khi đọc không hiểu cái gì thì không cần phải lo sợ. Không hiểu chút gì cũng không cần lo không cần sợ, cho dù là ngu si cũng không cần lo lắng. Chỉ cần một câu chú của Bổn tôn trì tụng đến cùng.

Rồi sẽ có một ngày, ô la la, trí tuệ sẽ như nước ào ạt tuôn trào, cái gì cũng đều là bát nhã, vốn dĩ là như thế, khi đó thì tất cả đều thông hiểu, hiểu một rồi thì sẽ hiểu tất cả.

Tôi ở hồ Diệp Tử thiền định trong tam muội. Tôi thấy một thánh đệ tử đọc kinh nhưng thật sự không hiểu gì. Anh nghĩ tới nghĩ lui, không hiểu vẫn hoàn không hiểu, những nút thắt, những mâu thuẫn, bị nghẽn lại, không hiểu, không nhìn ra… Nhưng, anh ta ngày tu một pháp, trì chú Bổn tôn. Tôi nhập mộng. Tôi cũng không nói gì nhiều, chỉ xoa xoa đầu anh, dùng nước quán đảnh bình rắc lên đầu anh, rửa sạch những bụi bẩn trong não anh cho thật sạch sẽ. Lần gột rửa này đã gột sạch sẽ những bụi bẩn, bụi bẩn trôi sạch sẽ.

Sau khi thánh đệ tử tỉnh dậy, anh cảm thấy đầu óc bừng sáng rộng mở, dường như không có gì là không hiểu. Những lời nói ra, câu nào cũng là bát nhã. Mở kinh sách ra, đọc đến đâu hiểu đến đó, rồi cả những ý nghĩa về tính Không thâm sâu ảo diệu, những công án sâu sắc, anh đều hiểu ý nghĩa của chúng rồi.

Một sự thông, tất cả đều thông. Thật cũng đúng là thần thông!

75. Cảnh giới hòa lẫn bất phân

Có một lần, ở trong tam muội, tôi cảm ứng thấy hàng trăm, hàng nghìn bông hoa sen bay ào đến, xanh đỏ tím vàng sặc sỡ. Trong số đó có một bông hoa sen nghìn cánh, hình dạng đẹp xuất sắc không gì sánh bằng, bay vòng quanh tôi từ phải sang trái.

Tôi ngồi lên bông hoa sen nghìn cánh, cảm thấy khá thoái mái và vững chắc, toàn thân mát mẻ từ đầu tới chân từ trong ra ngoài, không có một chút mỏi mệt nào. Vốn dĩ sắc thân của tôi tương đối tiều tụy, nhưng trong lúc này, căn bản là sắc thân không tồn tại. Tất cả đều không còn điên đảo, vọng tưởng, sợ hãi. Hợp với những điều viết trong Tâm Kinh: Sắc bất dị không. Không bất dị sắc. Vô nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý. Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Ngồi trên hoa sen, hoa sen xoay tròn rất nhanh, nhưng tôi lại không hề cảm thấy chóng mặt hoặc ngã nhào. Tôi chắp tay lại niệm A Di Đà Phật, cũng đưa các thánh đệ tử của mình đều hồi hướng về Di Đà tịnh thổ. Chỉ một sát-na, họ cũng đã đến được Ma Ha Song Liên Trì.

Có khu vườn thất bảo riêng biệt, với bát công đức thủy, rất nhiều cây cối, có pháp tọa trang hoàng dải lụa và châu ngọc trang nghiêm.

Bất ngờ tôi trông thấy một vị A Di Đà Như Lai rất to lớn, phóng tỏa hào quang, bước xuống từ pháp tọa, đi đến chào đón tôi. Tôi nhìn cảnh ấy thì rớt nước mắt.

A Di Đà Như Lai vỗ nhẹ vào lưng tôi, tôi và Ngài ôm lấy nhau, chỉ trong chốc lát, tôi tự cảm thấy thân mình và thân của Như Lai đã hòa làm một không tách biệt. Ai là Lư Thắng Ngạn? Ai là A Di Đà Như Lai? Từ lâu đã chẳng phải là hai, chẳng khác biệt. Tôi không muốn quay lại thế giới Ta Bà.

"Vì sao?" "Khổ quá." - Tôi đáp. "Vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa." [ ND: một đoạn trong Bát Nhã Tâm Kinh. ] "Vì sao con vẫn phải trở về cõi Ta Bà?" - Tôi hỏi. "Để thị hiện sự chuyên tâm nhất trí, cứu sinh Tịnh độ, thực hành tam muội, hiểu thấu chân thực hư huyễn." - Đây là câu trả lời của A Di Đà Phật. "Con cũng đang bị khổ vì bệnh đây!" "Đó chỉ là thị hiện, tất cả thực sự đều là Không!"

76. Chứng loạn nhịp tim

Có một thánh đệ tử thọ Bồ Tát giới, am hiểu kinh điển, trí nhớ cũng vô cùng tốt, cũng đã học rất nhiều Mật pháp, pháp nào cũng đều có hiện tượng tương ứng.

Bản thân thánh đệ tử này cũng học y thuật, đông y tây y đều am hiểu. Khi khám cho các bệnh nhân ngoại trú, có rất nhiều người đến khám bệnh, anh đã chữa trị cho không ít người khỏi bệnh, danh tiếng cũng vang dội, rất nhiều bệnh nhân tin tưởng anh, do vậy lúc nào cũng có nườm nượp người đến thăm khám.

Mặc dù anh rất bận, nhưng hiểu rằng vô thường đến rất nhanh, do vậy mỗi ngày hễ rảnh là anh liền tu pháp, hoặc làm pháp Homa của Mật giáo. Nếu như thật sự quá bận thì anh tụng niệm danh hiệu đại bi Quan Thế Âm, ngay cả lúc khám bệnh, anh cũng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát.

Anh niệm chú Bổn tôn và danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, không đếm số lượng, khi tỉnh cũng niệm, khi ngủ cũng niệm, khi khám bệnh cũng niệm, không biết đã tụng niệm bao nhiêu, ngay cả bản thân anh cũng không thể đếm được.

Thánh đệ tử biết Sư Tôn Lư Thắng Ngạn ẩn cư tại hồ Diệp Tử. Nhưng không biết hồ Diệp Tử ở nơi nào. Thánh đệ tử nếu có nghe phong thanh Sư Tôn đi đến nơi nào, anh liền đi đến nơi đó. Biển người mênh mông, nơi chân trời góc biển, ở những khu phố đông đúc, anh nhìn trái nhìn phải, hy vọng nhìn một hồi xem Sư Tôn có đột ngột hiện thân không.

Anh là bác sĩ, nhưng vẫn có bệnh kinh niên bẩm sinh, đó là chứng bệnh loạn nhịp tim. Có một đêm, Sư Tôn nhập mộng, hỏi: "Anh tìm tôi phải không?" "Dạ vâng." - Thánh đệ tử khóc vì vui mừng. "Không cần tìm tôi, tôi ở ngay cạnh anh thôi. Tôi cũng biết anh có bệnh!" "Sư Tôn biết sao?" "Đúng vậy." - Sư Tôn trong mộng nói: "Tôi giúp anh điều chỉnh một chút, cuộn lò xo ở tim anh bị lỏng rồi, tôi giúp anh chỉnh lại cho chặt một chút."

Sư Tôn ở trong mơ lấy tim của anh ra đặt trên tay, dùng tay vuốt vuốt mấy cái, rồi lại đặt trở về chỗ cũ. Sư Tôn cười cười nói: "Tốt rồi, tất cả đã bình thường rồi! Sau này chúng ta sẽ gặp, anh niệm danh hiệu Bồ Tát vô số lần, trên trời dưới đất chư Phật đều ca ngợi anh đó!"

Thánh đệ tử bừng tỉnh dậy. Lời của Sư Tôn trong giấc mơ từng câu rõ ràng, từng lời rành rọt, anh vô cùng cảm động. Việc kì lạ nhất là, kể từ đó, chứng bệnh loạn nhịp tim kinh niên của thánh đệ tử cũng khỏi luôn. Căn bệnh kinh niên đã được tiêu trừ vĩnh viễn.

Thánh đệ tử này mặc dù đã đi tìm Sư Tôn nhiều năm, nhưng đã gặp được trong mộng, gặp trong tam muội, bệnh cũng đã khỏi, anh càng chuyên tâm trì tụng tâm chú và thánh hiệu của Bổn tôn.

77. Đoán trước ngày vãng sinh

Có một thánh đệ tử già tấm lòng rất lương thiện, chỉ tu một pháp, chính là pháp vãng sinh nhanh nhất. Hai tay ông kết thủ ấn Liên Hoa Đồng Tử, đặt ở trước ngực, thủ hộ thủ ấn này rất bí mật và cẩn trọng, rồi ông quán tưởng một tòa hoa sen trong vòng tròn…. Nhưng có một vài phiền toái. Tòa hoa sen biến thành ghế ngồi hoa hồng, hơn nữa còn có gai. Tòa hoa sen biến thành một đống phân. Tòa hoa sen không giống tòa hoa sen, mà lại trở thành một xác chết. Tòa hoa sen biến thành một con chim đen lớn, bay đi mất. … Lão đệ tử rất buồn nản, cho rằng ngay cả quán tưởng một pháp cũng không làm nổi thì làm sao vãng sinh được, như vậy vãng sinh với mình chẳng phải là điều ảo tưởng sao. Suốt ngày ông thở ngắn than dài. Ông cho rằng mình và Sư Tôn không có duyên, không có duyên với việc vãng sinh, ôi thảm quá!

Tôi nhập vào giấc mơ của lão đệ tử. "Ông hãy mau đẽo một tòa hoa sen bằng gỗ đi." "Được." "Vào ngày xx tháng 11 giờ Ngọ ông sẽ vãng sinh." "Vâng." "Đến lúc đó, ông hãy ngồi trên tòa hoa sen. Tôi sẽ đến tiếp dẫn ông." "Vâng."

Lúc đó, chỉ còn 20 ngày nữa là đến ngày xx tháng 11. Lão đệ tử vội vã yêu cầu thợ điêu khắc làm một tòa hoa sen bằng gỗ. Nhưng thợ điêu khắc nói chỉ có 20 ngày để làm thì không kịp, bởi vì khối lượng công việc của ông rất nhiều, lão thánh đệ tử trả gấp đôi số tiền thì người thợ điêu khắc mới miễn cưỡng đồng ý, nhưng vẫn cứ trì hoãn. Tòa hoa sen còn cần dát vàng nữa.

Ngày xx tháng 11 đã đến rất gần rồi. Lão thánh đệ tử ngày đêm thúc giục thợ điêu khắc làm gấp, hơn nữa cũng nói với thợ điêu khắc là ông cần ngồi trên tòa hoa sen để vãng sinh, thời gian là giờ Ngọ ngày xx tháng 11.

Thợ điêu khắc cũng chẳng hề tin, ở đâu ra cái chuyện như vậy chứ? Không những thế còn cười chê lão đệ tử là ngu muội, chỉ một giấc mơ thông báo ngày tháng mà sao có thể cho là điều nghiêm túc.

Đến buổi sáng ngày xx tháng 11, thợ điêu khắc miễn cưỡng làm xong chiếc ghế hoa sen, giao đến nhà của thánh đệ tử già. Lão đệ tử vừa trông thấy thì hết sức vui mừng, tắm rửa trai giới, lập tức ngồi lên, hai tay kết ấn, niệm tâm chú Liên Hoa Đồng Tử, thế rồi đúng thật là đã thị tịch rồi.

Sự việc này lan truyền trong giới điêu khắc như là một chuyện bất khả tư nghì!

78. Nước vong tình

Có một Bồ Tát già quy y Chân Phật Tông đã nhiều năm, học hiểu Chân Phật Mật Pháp, cũng ngày tu một pháp, Bổn tôn là Quan Thế Âm Bồ Tát. Ban ngày bà trì tụng tâm chú nghìn vạn biến, cầu gì được nấy, phúc lộc, thọ, người làm đề huề, con cháu đều rất hiếu thuận.

Lúc lâm chung, vốn dĩ nên vãng sinh thì người chồng đã qua đời hiện thân, đưa cho bà uống một chén nước vong tình. Bà không nghi ngờ về tác dụng khác của nó, bèn uống nước này, thế là quên hết tất cả Mật pháp, quên luôn Bổn tôn, quên luôn tâm chú, cũng quên sạch cả việc đã quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.

Bà chỉ nhớ về mỗi người chồng đã mất. Nhân gian là khổ nhất. Khổ nhất là chia ly. Người yêu ta. Ta thương người. Cỏ xanh xanh, cô độc mình ta đứng đó.

Lão Bồ Tát đã quên mất công lực tu hành, chỉ nhớ đến việc tìm gặp lại người chồng trước. Lão Bồ Tát đi về phía địa ngục, tôi đứng chặn ở cửa địa ngục. Lão Bồ Tát đi về phía ngạ quỷ, tôi đứng chặn ở cửa ngạ quỷ. Lão Bồ Tát đi về phía súc sinh, tôi đứng chặn ở cửa súc sinh. Lão Bồ Tát đi về phía nhân gian đạo A tu la, tôi cũng đã chặn lại. Tôi hỏi lão Bồ Tát: "Bà không nhận ra tôi sao?" "Không biết." "Tôi là Căn bản Thượng sư đây!" "Cái gì gọi là Căn bản Thượng sư chứ?"

Tôi biết thế là xong rồi. Lão Bồ Tát này đã quy y nhiều năm, học pháp nhiều năm, niệm Phật trì chú nhiều năm, gặp oan gia của người chồng trước, uống một chén nước vong tình, thế là công lực mất sạch, chỉ còn biết mỗi việc đi khắp nơi tìm kiếm người chồng trước, không biết đường trở về.

Tôi cũng đã cố gắng đến kiệt sức để chặn các đường đi của bà rồi. Đúng vào lúc này, Bổn tôn của lão Bồ Tát đã đến, là Quan Thế Âm Bồ Tát, trên người đeo vòng ngọc, tay cầm bình dương liễu, chỉ cần vẩy nước sạch từ bình dương liễu lên người của lão Bồ Tát là lão Bồ Tát đột ngột tỉnh ngộ, vượt qua biển sinh tử, niệm chú Bổn tôn "Om mani padme hum". Thế rồi đã đi đến Nam Hải Tử Trúc Lâm rồi.

Lúc này tôi mới yên tâm, cảm tạ Quan Thế Âm Bồ Tát đã đến đưa bà đi.

79. Bé gái biến thành bé trai

Có một đệ tử họ Đường, lấy vợ tổng cộng sinh được bảy nàng tiên. Những bậc trưởng bối của đệ tử họ Đường đã sốt ruột muốn chết, do vậy từ rất lâu trước đây anh đã từng hỏi tôi: "Có số sinh được con trai không?" Tôi đáp: "Có một đứa." "Là khi nào?" "Là đứa tiếp theo." Tôi nói chắc như đinh đóng cột.

Sau đó, tôi đóng cửa đi ẩn cư. Theo tôi được biết, sự tình về sau thế này. Vợ chồng đệ tử họ Đường đã lại có thai. Kết quả khám thai là bé gái, vợ chồng họ Đường vừa nghe là con gái thì xém chút nữa đã ngất xỉu. Trưởng bối nhà họ Đường tức giận đến nỗi chửi Sư Tôn là đồ lừa đảo, lừa người ta xong thì trốn mất, bỏ xừ người ta rồi.

Cả gia tộc họp mặt, nói: "Bỏ đi!" "Sư Tôn nói không thể phá thai được, đó là nghiệp sát sinh." "Sư Tôn nói sẽ là con trai, thế sao lần này lại là con gái?" - Mọi người đều hỏi khó. Đệ tử họ Đường á khẩu. Cuối cùng họ quyết định phá thai!

Đêm đó, Sư Tôn nhập mộng, nói với đệ tử họ Đường rằng: "Anh đã in nhiều loại sách thiện, rồi đi khắp nơi sám hối, đứa bé này là Bồ Tát ban cho, là con trai chứ không phải là con gái, hãy đợi qua một tháng nữa đi kiểm tra lại sẽ thấy chính là con trai!"

Sau khi tỉnh dậy, đệ tử đem kể chuyện này với vợ và trưởng bối, bọn họ đều không thật sự tin lắm, mơ chỉ là mơ, làm sao là thật được?

Đệ tử yêu cầu chờ một tháng nữa kiểm tra lại, nếu là con gái thì vẫn sẽ bỏ thai cũng chưa muộn. Do vậy, họ miễn cưỡng đợi thêm một tháng, đi kiểm tra lại thì kì tích xuất hiện. Quả nhiên là con trai, điều này thật không thể tưởng tượng được, ngay cả bác sĩ cũng cảm thấy không thể tưởng tượng được.

Sau đó, Sư Tôn lại ban mộng thị: "Đứa bé này là Phật Sơn trưởng lão thác tú đến đầu thai, không phải là một đứa bé bình thường, nên nuôi dưỡng cẩn thận, là một đứa bé rất có trí huệ."

Ngày sinh đứa bé này, ánh sáng cát tường chiếu sáng bừng cả căn phòng, một mùi thơm lạ đưa đến. Nếu tôi không nhập mộng thì rõ ràng là đứa bé trai đã bị bỏ rồi. Sao có thể hy sinh một vị Phật Sơn trưởng lão được, sẽ đáng tiếc lắm!

80. Con tàu chìm cũng đã đi nghìn chuyến

Vào khoảng năm 57 tuổi thì tôi mắc bệnh. Khi đó tôi nghĩ, chi bằng vứt bỏ luôn cái vỏ thân xác này, đổi lấy một cái vỏ thân xác khác, hoặc trở về Ma Ha Song Liên Trì cho xong.

Nhưng rồi ngoảnh đầu nhìn lại, 57 tuổi vẫn còn chưa đủ một hoa giáp 60 năm. Tôi cho rằng 60 tuổi mới được xem là thượng thọ, 60 tuổi thì cũng được, do vậy tôi miễn cưỡng sống thêm ba năm nữa. Bây giờ thì tôi đã 60 tuổi rồi, cái thân này vẫn xem như có thể cầm cự được.

Tôi từng nói: "Tôi chẳng cầu sống lâu!" Nhưng các đệ tử thì cứ muốn tôi: "Bất nhập niết bàn, trường trụ thế gian!" Hai điều này mâu thuẫn với nhau.

Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, có một bài thơ rất gần với điều này: "Con tàu chìm cũng đã có hàng nghìn chuyến đi. Cái cây chết cũng đã đi qua vạn mùa xuân."

Nói cách khác là, cho dù tôi có bị bệnh, hoặc tôi nhập niết bàn rồi, thì tôi hy vọng các đệ tử Chân Phật Tông vẫn tiếp tục bay, truyền thừa Chân Phật Tông không đứt mạch, dòng chảy pháp không cạn kiệt.

Mọi người có thể thử nghĩ mà xem! Chúa Jesus từ lâu đã không trụ thế nữa rồi! Phật Thích Ca Mâu Ni từ lâu đã nhập niết bàn rồi! Thánh Muhammad từ lâu đã không còn sống nữa! Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử… Đều đã qua đời rồi!

Gần như các vị đại Bồ Tát, đại thiền sư, đại tu hành giả từ lâu đã không còn trụ ở nhân thế nữa rồi, nhưng tinh thần tâm linh của họ thì vạn năm vẫn còn xanh mãi. Nói không chừng, ứng hóa thân của họ vẫn đời đời kiếp kiếp ở tại nhân gian để độ chúng sinh chứ chẳng hề rời xa chúng sinh mà một đi không trở lại. Có nhiều vị thì âm thầm độ chúng sinh mà vô hình vô tướng, lại có nhiều vị khác thì đã giác ngộ rồi nhưng vẫn quay thuyền lại độ chúng sinh [ ND: các vị đại Bồ tát đã giác ngộ nhưng rồi quay con thuyền của họ lại sau khi đã vượt qua bể luân hồi và tới được bờ bên kia ].

Mọi người có thể nghĩ xem, tôi ẩn cư bế quan gần bốn năm rồi, không ngừng viết sách, không ngừng thần hành trong tam muội, không gặp người ngoài, nhưng chẳng phải là vẫn cứu độ chúng sinh sao? "Một giấc mộng một thế giới" chính là ví dụ về cứu độ, ví dụ quá nhiều rồi, có kể cũng không hết. Cho dù tôi có nhập niết bàn thì cũng vẫn cứu độ chúng sinh thôi!

Quan Thế Âm Bồ Tát cứu chúng sinh từ thiên cổ đến nay vẫn chưa từng dừng lại, nghìn nơi cầu cứu nghìn nơi có mặt, biển pháp làm nên những con thuyền chở chúng sinh. Liên Hoa Đồng Tử cũng vậy, tất cả đều thuận theo tự nhiên, nói như vậy thì mọi người cũng hiểu được rồi.

81. Con gái chẳng thua kém con trai

Còn nhớ những năm xưa, vì muốn khống chế số nhân khẩu không bị quá thừa, có người đã đề xuất khẩu hiệu: "Hai con tính là vừa vặn đủ, một con cũng chẳng cho là ít"

Một số quốc gia sinh đẻ quá độ, chỉ phê chuẩn cho sinh một đứa con, sinh đứa con thứ hai sẽ bị phạt. Còn người dân thì cũng có quan điểm lỗi thời là cần có con trai nối dõi, do vậy họ đi khắp nơi để cầu thần hỏi quẻ, chỉ hy vọng sinh được một đứa con trai.

Còn nếu như sinh con gái thì cho dù không phá thai từ đầu thì cũng là sau khi sinh xong lại nghĩ cách cho đứa bé chết chìm, hoặc làm những cách khác….

Ôi trời ơi! Đó là cốt nhục do chính mình sinh ra, là con gái của bản thân, làm cha mẹ mà không ngờ lại độc ác nhẫn tâm, gạt bỏ lương tâm đi làm cái việc không đúng với lương tâm trời đất như vậy. Đây là một việc đáng sợ biết bao. Vào những ngày tháng đáng sợ đó, trong trời đất đầy những thủy tử linh, hơn nữa những linh hồn bé gái chiếm đa số.

Tôi thương xót những thủy tử linh (bé gái) nên hỏi Phật: "Con gái không bằng con trai sao?" "Không phải! Long Nữ đã thành Phật." "Con gái không đủ năng lực bằng con trai sao?" "Không phải! Tương lai những vị trí lãnh đạo là nam nữ bình đẳng." "Con gái học thức thua kém con trai sao?" "Không phải! Phụ nữ có lòng tin vững chắc hơn cả đàn ông." "Còn vấn đề nối dõi?" Phật đáp: "Tất cả đều là không, lấy đâu ra nối dõi chứ?" "Tôi thương xót tất cả linh hồn hài nhi ở trong trời đất!" Phật đáp: "Lập Thủy Tử Linh sơn trang."

Nay tôi ở trong tam muội, mong có thể khuyên chúng sinh đừng phá thai sát hại linh hồn hài nhi, khuyên chúng sinh đừng dìm chết những bé gái sơ sinh. Mặc dù tôi chẳng có khả năng đi cứu độ hết những linh hồn hài nhi trong trời đất, nhưng tôi vẫn cứ tận lực mà làm. Thời đại ngày nay, có rất nhiều phụ nữ năng lực cao siêu, làm những vị trí lãnh đạo đứng đầu rất nhiều. Không thể coi thường giới nữ được. Đặc biệt là tín đồ Phật, rất nhiều người chồng đều là nhờ có vợ độ hóa mà học Phật, công lao của người vợ vì vậy mà rất lớn lao.

Xin hỏi một câu: "Đứa bé trai chẳng phải cũng là do người phụ nữ mang thai hay sao?"

82. Đại hạn hán gặp mưa

Còn nhớ ngày xưa, có một năm Indonesia gặp cảnh hạn hán lớn, suốt 6 tháng liền không có mưa, người dân nơi đó kêu khổ liên miên.

Đúng thời gian này tôi đang ở Indonesia thuyết pháp, ở đại hội đường Senayan làm pháp hội.

Trong pháp hội, tôi nói: "Cho cả đất nước Indonesia đổ mưa lớn đi!" Long Vương tiếp chỉ. Sau khi pháp hội kết thúc, khoảng hơn 10 phút sau, toàn bộ đất nước Indonesia nổi gió, mây biến sắc, trong chốc lát mưa trút xuống như thác, dân chúng khi đó không ai là không vui mừng cảm ơn, họ cho rằng chưa từng có kì tích nào như vậy.

Có người nhìn lên trời. Thấy Bạch Y Đại Sĩ, Duy Ma Đại Sĩ, chư Đại Bồ Tát, Long Vương… xếp thành hàng trải rộng đầy khắp hư không, sự việc này gây chấn động toàn thế giới. (Tạp chí Đông Hiệp cũng có bài đưa tin.)

Ngoài ra cũng còn một chuyện khác, sự việc này thì ít người biết đến. Ở một đất nước, từ tháng Giêng đến tháng Năm đều không có mưa. Rất thảm! Các hồ chứa nước đều đã cạn trơ đáy, thậm chí đất trong các hồ chứa nước còn nứt nẻ ra, những con thuyền trên hồ trước đây đều nằm xếp hàng trên bờ. Các nhà máy cung cấp nước sạch đã hạn chế nước. Ruộng vườn đã ngừng cày cấy. Các bể bơi, trạm rửa xe, công viên nước đều ngừng hoạt động. Giới công nghiệp kêu than vì hạn hán, nhưng trời chẳng đáp đất chẳng thưa. Giới quan chức chính phủ thì vì nhân dân mà lập lễ cầu nguyện ở khắp các miếu thần.

Có một thánh đệ tử với tấm lòng chân thành đã đến Lôi Tạng Tự của Chân Phật Tông để cầu nguyện, thắp hương trước tượng thánh của Liên Hoa Đồng Tử. Anh cầu nguyện rằng: "Hy vọng có thể giống như Indonesia, vừa cầu nguyện là mưa to trút xuống." Đêm đó, tôi lập tức nhập mộng nói: "Tháng sau sẽ có mưa, tháng này thì vẫn chưa được." "Vì sao lâu như vậy?" "Là vì có kiếp nạn này, nhưng sẽ được giải trừ, tháng sau nhất định có mưa." - Trong mơ tôi nói như vậy.

Thánh đệ tử sau khi tỉnh dậy thì kể với người khác: "Tháng sau nhất định có mưa." Quả nhiên, đến đầu tháng Sáu thì mưa rào trút xuống, nước tràn trề khắp nơi, tất cả mọi sự khô cạn đều đã được giải trừ rồi.

Có vị thần công đại sư nọ nói: "Là do tôi cầu mà có." Có vị đại sư môn phái nọ nói: "Là do tôi cầu mà có." Thật sự thì mọi người đều cầu nguyện, chỉ là có linh ứng hay không mà thôi! Tôi cười lớn ha ha, niệm một câu A Di Đà Phật!

83. Phù hộ thân hồi sinh

Có một đệ tử mang trên người tấm phù hộ thân của tôi, ngồi trên xe ô tô của người bạn đi du lịch. Xe đang chạy, trên xe tổng cộng có năm người, mọi người trò chuyện, rồi bất ngờ một tiếng "rầm" rất to, chiếc xe đâm vào một chiếc xe tải lớn.

Trong thoáng chốc, đệ tử cảm thấy hoàn toàn mất ý thức. Đệ tử này chỉ thấy nhiều người mặc đồ đen cầm theo cuốn sổ đoạt mệnh đến để điểm tên và bắt đi. Cả năm người bọn họ đều bị bắt đi, đột ngột đến âm phủ. Bên trong âm phủ đã có hơn trăm người, lần lượt xếp hàng để thông quan.

Minh sứ đối với hơn trăm người này đều tỏ ra rất hung dữ. "Anh này phạm giới dâm, đưa đi làm súc sinh." "Anh này tội trộm cắp, đưa đi địa ngục." "Anh này phạm tội tham lam hối lộ, đưa đi làm quỷ đói." "Anh này phạm tội vọng ngữ, đưa đi địa ngục lưỡi cày." ...

Một nửa trong số hơn trăm người này đã bị đưa đi, còn những người khác thì ai nấy đều sợ hãi tột độ, nhưng có sợ đến đâu cũng đều khó thoát khỏi ách vận giáng đầu, sống chẳng bằng chết, chết rồi vẫn còn phải chịu tội, thật sự đúng như Phật Đà đã nói: "Chẳng gì mang theo được, chỉ có nghiệp theo thân!"

Đệ tử thấy hoàn cảnh như vậy, trong lòng buồn rầu, nhưng chẳng thể làm theo ý mình, ai bảo bản thân không làm việc thiện và tu pháp, hối hận thì đã muộn rồi.

Minh sứ gọi tên đệ tử. Đệ tử đáp lời. Minh sứ hỏi: "Anh có nghiệp tốt gì?"

Đệ tử nghĩ ngợi rất kĩ mà không nghĩ ra mình đã tạo nghiệp tốt gì, chỉ đưa ra tấm phù hộ thân mang theo bên mình. Tấm phù phóng ra một vệt ánh sáng xanh, minh sứ chạy ra hành lang bên ngoài phòng lớn run rẩy không ngừng. Minh sứ nói: "Không cần phải giơ tấm phù ra, vì anh là hành giả đã thọ quán đảnh nên ta thả cho anh trở về là được rồi chứ gì? Trở về hãy tu hành cho tốt để bù đắp." "Vâng." - Đệ tử nói.

Minh sứ đưa đệ tử đi về phía trước, vô tình rơi vào một hố đen. Đệ tử lập tức tỉnh lại, thấy đang nằm trong một bệnh viện lớn, trong số năm người chỉ có một mình anh còn sống, bốn người khác đều đã chết vì vụ tai nạn xe rồi. Đệ tử này thật sự đã từng nhận quy y quán đảnh, được tặng một tấm phù hộ thân, chỉ có điều vẫn chưa tu pháp.

84. Trải nghiệm trong mơ

Có một hành giả, trong khi tu hành luôn nghiêm chỉnh tuân thủ mỗi ngày đều tu, cũng không ngớt trì chú niệm Phật, đặc biệt là Cao Vương Kinh, Bạch Y Thần Chú, Chân Phật Kinh,… Mặc dù không phải là niệm hàng ngày, nhưng cũng là nếu có thời gian thì sẽ trì tụng.

Hành giả làm rất nhiều việc thiện, ví dụ như in kinh, in sách thiện, xây chùa, xây đạo tràng, sửa cầu, làm đường, giúp người nghèo, giúp đỡ người khó khăn, chỉ cần biết có việc cần thì nhất định sẽ bỏ tiền bỏ công sức ra tùy hỉ. Đối với những việc xấu thì luôn giữ giới, không dám phạm phải.

Nhưng trong giấc mơ, anh cũng có ba lần mê muội.

  1. Trong mơ, anh tình cờ đến một nơi, thấy rất nhiều tiền vàng và tiền đô, những thứ này đều không phải là của anh, nhưng thấy xung quanh không có người, anh bèn lấy cho vào túi da, rồi lần lượt cho vào các hòm, đem về nhà mình giấu đi, mang nặng đến mức thở hổn hển. Sau đó thì tỉnh mộng. (Tỉnh giấc mơ, anh liên tục sám hối.)
  2. Trong mơ, anh gặp lại người yêu cũ, người yêu cũ rất xinh đẹp, diện mạo hơn người, đi vào phòng anh, cởi bỏ quần áo, buông lời ngọt ngào nũng nịu để quyến rũ anh. Anh căn bản đã không tự chủ được nữa, nhanh chóng phát cuồng, hai người mây mưa với nhau. Đúng vào lúc sắp sửa sướng muốn chết thì anh mới tỉnh dậy. (Tỉnh giấc mơ, anh không ngừng sám hối.)
  3. Trong mơ, anh là người tài hoa giỏi giang, đứng ra tranh cử được bầu làm ủy viên, sau đó được vào nội các, làm bộ trưởng, viện trưởng, thậm chí anh còn muốn được chọn làm thủ trưởng tối cao. Mặc dù tóc mai đã bạc trắng vẫn không ngừng đắm đuối vào địa vị cao. Có người hối lộ, anh ta cũng tham lam vô độ. Tiếng tăm địa vị đã có rồi, tiền tài lợi lộc cứ thế mà theo về. Trong mơ, khi anh đang theo đuổi vị trí thủ trưởng tối cao thì anh tỉnh dậy. (Anh không ngừng hối hận.)

Hành giả này thường xuyên mơ ba giấc mơ này, mỗi lần tỉnh giấc mơ thì anh mới biết là mơ, tỉnh giấc mơ rồi mới hối hận. Nhưng trong giấc mơ thì anh không có cách nào cự tuyệt được! Tôi nhập mộng, bảo anh: Biết đời như mộng vô sở cầu. Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không.

Cũng ở trong giấc mộng, tôi bảo với anh rằng, trong mộng cũng có thể niệm Phật trì chú được là tốt nhất, dù gặp mộng cảnh nào cũng dùng việc niệm Phật trì chú để đối trị lại. Anh tu hành cần để danh hiệu Phật và chú âm vào sâu trong tâm. Trong Mật tông, Trung mật, Tạng mật đều cần tu mộng quán mới có thể phá bỏ được sự mê muội. Trong mơ mà tu thì mới là hành giả chân chính. Hãy ngẫm nghĩ, ngẫm nghĩ đi!.

85. Địa ngục chim mổ mắt

Khi còn trẻ, tôi từng xem một bộ phim kinh dị của đạo diễn Alfred Hitchcock. Tên phim là "Chim". Nội dung chính của phim là một đàn chim hung dữ không biết vì sao mà xâm nhập vào thế giới con người. Mỏ chim rất sắc nhọn, chúng mổ phá những ngôi nhà gỗ, mổ tan nát ngũ quan và da thịt toàn thân con người, rồi chúng ăn thịt người.

Khi đàn chim hung dữ kéo đến thì giống như mây đen phủ kín, chẳng có cách nào tránh được. Điều khiếp sợ nhất là, cảnh tượng thê thảm của con người khi bị chim rỉa làm thức ăn, những tiếng kêu than đau đớn thê lương lần lượt hiện lên trước mắt.

Phật Thanh con gái tôi kể từ sau khi xem xong bộ phim này đã có một ấn tượng u ám đối với loài chim. Kể từ đó Phật Thanh cũng không thích chim. Còn nhớ khi tôi ở Seattle nước Mỹ, Chân Phật Mật Uyển cũng có chim bay đến mổ nhà, khiến căn nhà bị thủng lỗ chỗ. Cuối cùng, chúng tôi phải gọi thợ đến bịt lỗ. Người thợ nói: "Có thể bên trong những tấm gỗ có sâu, chim đến mổ sâu." Còn bảo: "Mỏ của lũ chim gõ kiến rất lợi hại, rất nhiều cây to ở Mỹ đã bị chết, đều là do bị chim gõ kiến mổ." Tôi nghe mà mắt mở to miệng há hốc vì kinh ngạc.

Thế nhưng trong tam muội, không ngờ tôi thật sự đã thấy địa ngục chim mổ mắt, giống như trong Địa Tạng Kinh nói: rắn sắt nuốt chửng người, chó sắt đuổi theo người, chim sắt mổ mắt người. Tôi hỏi minh sứ: "Vì sao mà chim sắt mổ mắt người, máu tươi phun ra, khiến người ta kinh sợ?" Minh sứ đáp: "Nhân duyên quả báo mà! Những người này ở thế gian có sự sùng bái mù quáng, cũng như người mù, nên nhận được quả báo này. Người mù nghe theo những lời buôn chuyện phiếm, có mắt không tròng, cũng sẽ có quả báo này. Theo đuổi danh lợi không biết dừng lại, bỏ lỡ đại thiện tri thức, không biết tu hành, cũng nhận được quả báo này." Minh sứ còn nói: "Khi sống làm nghề săn bắt, giết chim chóc, nghiệp sát rất nặng, cũng gánh quả báo này." Tôi nghe xong, thật sự kinh sợ!

Viết một bài kệ: Có mắt không tròng bao người phạm. Nói dài nói ngắn cứ thói quen. Săn bắt giết chim gây nghiệp sát. Muốn dứt nghiệp chướng hãy tu hành.

86. Kiệu bay ở thiên giới

Trong một tam muội gần đây. Tôi nghe thấy thiên nhạc nổi lên rung động cả bầu không khí, hoa sen rơi xuống như mưa, trong hư không bay đến một chiếc kiệu thần rất lớn, được trang hoàng cực kì lộng lẫy trang nghiêm, cờ phướn dựng lên hết cột này đến cột khác. Từ thiên thượng đến nhân gian, từng nhóm tiên đồng thiên nữ xếp hàng thành từng cặp cầm trượng, phướn đứng nghênh đón từ xa.

Tôi cảm thấy vô cùng kì lạ, dường như là họ đến để đón tiếp tôi vậy. Chiếc kiệu thần đó còn tỏa ra ánh sáng vàng kim! Một chiếc lọng và băng rôn hạ xuống. "Mọi người đến đón tôi sao?" "Đúng vậy." "Đây là thiên giới nào?" "Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ."

Tôi nghe xong thì trầm ngâm không nói gì. Ban đầu, tôi hạ sinh ở nhân gian là xuất phát từ Ma Ha Song Liên Trì, xuống đến Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ, sau đó mới là từ Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ hạ sinh ở nhân gian. Lần này là tôi về Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ trước rồi.

Tôi nghĩ, 60 tuổi, đúng là chết thật rồi (viên tịch). Con người tôi vốn không có ý nghĩ muốn sống lâu, thế nào cũng được. Tùy theo gió mà bước đi thôi!

Nhưng ngoảnh đầu nhìn lại, các thánh đệ tử ở nhân gian, các chùa, đường, hội, đều vì tôi mà thỉnh cầu "trường trụ thế gian, bất nhập niết bàn". Các thánh đệ tử khẩn thiết cầu nguyện, khiến nội tâm tôi lại mâu thuẫn. Sống thêm vài năm nữa cũng được, thế nào tôi cũng hài lòng.

Vài năm gần đây, tôi ăn uống đạm bạc, thanh sắc danh lợi không chỉ mờ nhạt đi mà gần như cũng chẳng có gì. Tiền, sắc, danh, ăn, ngủ, năm thứ ham muốn đều chẳng còn, duy chỉ có tu pháp, viết văn, ngày ngày niệm Phật cầu phúc siêu độ cho các đệ tử. Hoàn toàn chẳng còn các việc khác, không mong cầu một điều gì, con trai, con gái, cháu chắt cũng chẳng còn mong nhớ nghĩ ngợi gì nữa. Tôi chỉ còn nhớ các thánh đệ tử! Tôi có nên trở về Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ? Hay ở lại nhân gian, sống tạm tiếp vài năm? Ha ha ha.

Trong lúc còn suy nghĩ, tôi chỉ niệm A Di Đà Phật, niệm Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh. Chiếc kiệu thần kia mặc dù đã đến gần, nhưng tôi vẫn ngồi yên bất động, tôi tạm thời chưa muốn đi, ở lại viết thêm vài cuốn sách nữa vậy! Bây giờ mà trở về có phải là hơi nhanh chăng?

Lúc này, kiệu thần từ từ mờ nhạt dần đi, từng tốp tiên đồng thiên nữ cũng tan dần đi như khói sương, thiên nhạc cũng tắt. Tôi lại khỏe rồi!

87. Tôi muốn vãng sinh thẳng tới Tịnh thổ

Đời này tôi tu hành tập trung vào tam muội, điểm đến cuối cùng là trực tiếp vãng sinh Tịnh thổ, làm được như vậy là rất có giá trị rồi. Giá trị lớn nhất của đời người!

Kì thực, trọng tâm của việc tu hành đích thực là tam muội, mọi người có thể ngẫm nghĩ mà xem: Thiền --- tư duy dịnh. Mật --- samadhi. Luật --- giữ giới đắc định. Bất kì các môn phái nào, thậm chí tứ thiền bát định, thậm chí là tu hành ngoại đạo, thì trọng tâm đều là tam muội.

Tôi từng nói, phần chính hành của Mật giáo kì thực chính là samadhi, nhập tam ma địa. Khi tôi còn trẻ, tôi đọc "Long thư tịnh thổ văn" và "Tịnh thổ thánh hiền lục", từ lâu tôi đã nhất tâm muốn vãng sinh Tây phương Tịnh thổ rồi.

Mặc dù tu Mật pháp, nhưng tôi vẫn ngày ngày niệm Phật không ngừng. Tôi là hành giả kiêm tu Mật giáo và tịnh độ. Nếu như mọi người có thời gian, khi đến Đài Loan có thể đến thăm đại điện của Đài Loan Lôi Tạng Tự. Ở đây thờ phụng chính là A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, chính là Tây phương tam Thánh trang nghiêm diễm lệ, đứng cao lớn sừng sững.

Vì sao tôi vừa niệm Phật vừa tu Mật pháp, là bởi vì tôi có nhân duyên tu Mật giáo, Mật pháp rất trực tiếp và nhanh chóng có thể thành Phật. Còn niệm Phật thì cũng rất trực tiếp, pháp môn Tịnh độ dễ thực hành và dễ phổ cập, không thể bỏ đi được, lại càng độ được chúng sinh rộng rãi hơn. Do vậy, ai có nhân duyên với Mật giáo thì tu Mật giáo, không có nhân duyên với Mật giáo thì tu Tịnh độ, như vậy càng dễ quảng độ quần sinh.

Bổn tôn của tôi, bất kể là Hiển - Mật, đều là A Di Đà Phật, tôi cũng đều nhất tâm quy mệnh về Tịnh thổ. Chúng ta hãy nỗ lực tinh tấn đi! Bất kể là tu cái gì thì cũng đều là tam muội, bất kể là làm cái gì cũng đều là để đến được Tịnh thổ, như vậy thì đời người sẽ có giá trị.

Bài kệ của Ngạn Thiền Sư thời nhà Đường: Quan Âm giúp từ xa Thế Chí cũng chờ đón Hiện bảo bình mũ miện Hóa Phật đỉnh quang minh Đi khắp cõi thập phương Cầm hoa chờ tái sinh Nguyện giữ ấn từ bi Tây phương cùng đi về.

88. Thánh đệ tử thấy hiện tượng cát tường

Có một thánh đệ tử mắc bệnh ung thư vú. Cô ở trong phòng phẫu thuật để mổ. Sau khi thuốc gây mê hết tác dụng, cô tỉnh dậy thì nhìn thấy chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên, tất cả Thánh hiền đều ở trong ánh sáng trắng trên không trung đang bảo vệ cho cô.

Thánh đệ tử này tu dưỡng rất tốt, mỗi ngày đều đọc sách của Sư Tôn, rồi viết lại những điều mình tâm đắc, ngày ngày tu hành, phụng trì giới luật.

Khi tôi còn chưa ẩn cư, tôi thường nói với mọi người, thánh đệ tử này chắc chắn sẽ đạt được hạng thượng phẩm ở Ma Ha Song Liên Trì. (Thánh đệ tử này sống tại Mỹ.)

Ngoài ra, còn có một thánh đệ tử bất ngờ bị đứt mạch máu não, máu chảy ra, bị đột quỵ, tình trạng vô cùng nghiêm trọng, nhanh chóng được đưa vào bệnh viện, rồi lập tức phẫu thuật não. Nếu ca mổ không tốt, thì không chết cũng thành người thực vật.

Nhưng bác sĩ nói, thật sự là kì diệu, sau khi khối máu tụ được lấy ra, huyết quản tự nhiên ngưng đặc lại, tất cả đều không còn vấn đề gì, như người bình thường.

Trong quá trình phẫu thuật, thánh đệ tử trông thấy một vệt ánh sáng trắng rất mạnh, Sư Tôn hiện thân trong ánh sáng gia trì cho anh, Sư Tôn trong ánh sáng hết sức bảo hộ cho anh. Thánh đệ tử bị đột quỵ mà như chư từng bị đột quỵ, mọi thứ đều hoàn hảo. (Thánh đệ tử này ở Indonesia.)

Lại có một thánh đệ tử khác mỗi ngày đều tụng Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh không ngừng, niệm Phật trì chú không ngừng. Sau đó có một ngày, thánh đệ tử căn bản là không bị bệnh, tự mình đi tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo sạch, rồi ngồi hướng mặt về phía tây. Thánh đệ tử hỏi các con: "Các con có nhìn thấy Sư Tôn không, Sư Tôn cầm hoa sen trắng đến đón cha rồi, cả A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, các thánh hiền ở Tây phương đều đến rồi. Ngày của cha đã đến rồi, nói lời tạm biệt với mọi người thôi!" Thánh đệ tử cứ ngồi như vậy mà vãng sinh. (Thánh đệ tử này ở Malaysia.)

Đây chỉ là ba ví dụ nhỏ, có rất nhiều các đệ tử khác thấy được hiện tượng cát tường. Bồ Tát hiện trong không trung, cho biết thời gian vãng sinh, đài hoa sen đến tiếp dẫn, thiên nhạc nổi lên trong không trung, mùi thơm của đàn hương, cả căn phòng bừng sáng, trong không trung đầy ắp chư Phật. Chân Phật Tông thật sự là thù thắng!

89. Tôi sẽ viết về "Một dải cầu vồng"

Đời người ra sao? Như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như điện, như điện quang lửa đá gửi vào cuộc đời này. Thật sự đời người là hư huyễn! Như một dải cầu vồng.

Cầu vồng xuất hiện, cầu vồng biến mất, đều chỉ trong một sát-na, đều là việc tự nhiên, cũng là việc chẳng thể khác được. Chúng sinh bất khả tư nghì. Tôi bất khả tư nghì.

Cuộc đời này của tôi mặc dù như mộng như huyễn, nhưng tôi nắm bắt lấy cái hiện tại, tu hành chuyên cần. Tôi không dám nói là mình tinh tấn phi phàm, nhưng cũng xem như là rất chuyên nhất.

Bắt đầu từ năm 26 tuổi, đến nay là 60 tuổi, tôi vẫn kiên trì với tín niệm của mình từ đầu tới cuối, vẫn đặt toàn bộ thân tâm của mình vào sự nghiệp tu hành và viết văn, luôn kiên trì với tâm nguyện của mình. Tôi tự cảm thấy điều này cũng không phải là dễ dàng.

Tất cả những trải nghiệm đều được tôi lần lượt kể lại trong sách. Cuộc đời của tôi không có cái gì là đại bí mật. Tôi có đại lạc, trong sách có nói. Tôi có cực khổ, trong sách cũng có nói. Tôi chẳng khổ chẳng vui, trong sách lại càng có nói đến.

Tôi nghĩ, con người như tôi đây thực sự đã kinh qua một cuộc đời tu hành như pháp, nhất định sẽ đạt được thành tựu viên mãn, khi thành tựu thì tự nhiên sẽ thành tựu đạo giải thoát, tự nhiên thành tựu đạo bồ đề, đây là việc đại sự quan trọng nhất trong đời người.

Cái gọi là: Đại thần chú. Đại minh chú. Vô thượng chú. Vô đẳng đẳng chú. (Ý nói đến đều là diệu giác thành Phật.)

Cuộc đời này của tôi đã không còn lợi hại được mất, đã không còn vướng bận với việc chọn lựa hay từ bỏ. Không có được điều gì, cũng không chứng được điều gì, không công danh, cũng không phú quý, cũng giống như một dải cầu vồng, tất cả đều như khói mây bay qua trước mắt, tất cả chướng ngại cũng như không có chướng ngại nào, ngay lúc này đã giải thoát rồi!

Trong cuốn sách số 174, tôi muốn viết rất nhiều thơ, những câu từ bình thường thôi, nhưng hàm chứa những chân lý về một dải cầu vồng của đời người. Xin hãy thưởng thức kĩ càng. Cuộc đời chốn nhân gian Hết chuyến đi này lại đến chuyến đi khác Ai là người đồng hành thật sự của ta.

Chỉ còn lại một chút trải nghiệm vui vẻ Những hồi ức lộn xộn Như những hạt mưa nhỏ bay bay Một dải cầu vồng hiện lên Đến lúc trở về Cũng chẳng còn tin tức gì về cầu vồng nữa.

Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

(Hết)

Mục lục