Rời xa chốn hồng trần
🪷 Tôi không còn thuộc về hồng trần
Văn tập: 183 Xuất bản: 20/10/2006 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Tôi đi vào một siêu thị. Qua cái nhìn của người bảo vệ đứng ở cửa chính, tôi biết là người bảo vệ này đã nhận ra người quen. Anh ta hướng về tôi gật đầu một cái, ngoài ra không có thêm biểu hiện gì khác. Tôi thường hay chạm mặt những người bảo vệ kiểu như vậy. Cả hai cùng gật đầu chào nhau một cái rồi tôi nhanh chóng đi vào bên trong trung tâm thương mại (đại siêu thị). Sau đó, theo chiều kim đồng hồ, tôi đi hết các lối đi bên trong siêu thị, hai tay đung đưa, túc tắc rảo bước đi, rồi cũng đi hết cả trung tâm thương mại. Từ lúc tôi đi vào đến lúc đi ra khỏi trung tâm thương mại mất khoảng ba mươi phút. Tôi đến siêu thị để làm gì? Đáp án chuẩn nhất chính là: "Mạn bộ kinh hành" (*). Đi chậm rãi từng bước chẳng phải là việc nên làm ở trên núi hay sao? Trên núi có thông, có bách, có rừng cây bụi, có chim đỗ quyên (*), có hoa cúc dại, có những con chim hoang dã không rõ tên gọi là gì, thậm chí có cả tiếng côn trùng kêu. Nhưng mùa hè, vào những ngày nóng nực bởi ánh nắng mặt trời, tôi thích đến trung tâm thương mại để kinh hành, ở đó có điều hòa nhiệt độ miễn phí, cũng chẳng có nắng mặt trời chiếu tới. [ND: Mạn bộ kinh hành: đi từng bước chậm rãi. Chim đỗ quyên: còn gọi là chim tu hú, chim cu cu]
Trong số những gì tôi thấy, tôi đã đi qua: Thế giới âm thanh, thế giới thời trang, thế giới sách báo, thế giới trang sức, thế giới ti vi, thế giới dụng cụ, thế giới nhà bếp, thế giới đồ chơi, thế giới xây dựng, thế giới phòng ngủ, thế giới giường tủ, thế giới mành rèm. (Đây là khu vực tầng trên.) Ngoài ra, khu vực ở tầng dưới thì có: Thế giới ẩm thực, thế giới hoa quả, thế giới rau củ, thế giới bơ sữa, thế giới đồ uống, thế giới rượu, thế giới nội thất, thế giới kẹo ngọt, thế giới bánh quy, thế giới mỹ phẩm, thế giới bột giặt, thế giới tủ lạnh, máy giặt, điện gia dụng, thế giới vật phẩm hàng ngày, thế giới dụng cụ vận động thể thao. (Đây là khu vực tầng dưới.) V.v. Tôi tự ngẫm thấy mỗi một con người đều đi vào nhiều thế giới, rồi lại đi ra khỏi nhiều thế giới như vậy. Tôi dùng mắt để chiêm ngưỡng những thế giới xinh đẹp này, sau đó đi ra với tâm trạng vui vẻ, hai tay chẳng có gì, thực sự tôi chẳng cần tiêu tiền mà đã cảm thấy rất sung sướng rồi, rất hạnh phúc rồi. Nếu bạn có nhiều thời gian rảnh rỗi thì hãy đi vào siêu thị, chậm rãi thưởng thức từng món từng món đồ một. Giữa mình ta và những món đồ có lẽ sẽ tìm thấy cái hợp với mình, chính từ lúc này bạn có thể thử thưởng thức quà tặng của cuộc sống. Còn tôi: Chỉ là đến để mà kinh hành. Đi qua phù du của thế gian. Như mơ, như huyễn, như bọt, như ảnh. Như điện, như quang, như gió, như lửa. Như sương, như mây, như khói, như mưa. Có quá nhiều "như" rồi đó. Cuộc đời này của tôi cũng giống như đi vào siêu thị với hai bàn tay trắng, đi ra khỏi siêu thị cũng với hai bàn tay trắng. Mặc dù từ đầu đến cuối đều chẳng có gì, nhưng thực ra là có một cảm giác rất đẹp đẽ, có một tâm trạng rất đẹp đẽ, một cuộc sống vượt ra khỏi hồng trần, một tư tưởng thuần khiết nhất. Tôi hát một lời ca: Hùng tâm vạn trượng nhất trùng trùng, Phòng trạch thổ địa chuyển nhất thông, Nhất tâm chỉ quy tại Di Đà, Thị nhân hi hí lục hải không. Tinh chuyển đẩu, Tuế nguyệt thông, Nhi kim quang đầu dã tấn bạch, Tiếu kiến song thủ phiến thu phong. Dịch thơ: Tham vọng trong tâm cao vạn trượng. Nhà cửa ruộng đất cũng gạt qua. Một lòng quay về với Di Đà. Làm người vui giữa biển trời không. Sao chuyển ngôi. Tuổi lướt vội. Đầu hói tóc mai cũng bạc rồi. Cười nhìn hai tay quạt gió thu.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Ông lão ở công viên
Tôi ngồi trên ghế băng trong một công viên nhỏ không rõ tên là gì. Tôi rất muốn đưa hai chân lên để xếp thành thế ngồi hoa sen, thế ngồi có hình dáng giống tòa sen, và hai tay cũng thu lại xếp đặt lên hai chân, hai mắt nhắm lại, phong thái nhìn giống như một vị tăng già nhập định. Tuy nhiên tôi không làm thế. Tôi nghĩ tới nghĩ lui, làm rồi lại thôi. Ở trong công viên nhỏ không một bóng người, giả dụ tôi ngồi với tư thế này ở đây, nếu như có người trông thấy thì nhất định sẽ nói: "Lùi lại!" (ý rằng hãy cẩn thận, coi chừng, đừng tiến đến gần) Tôi nhìn khắp xung quanh. Không khí của buổi sáng sớm rất trong lành, mây cao trời trong veo, gió vi vu thổi nhẹ. Cả công viên nhỏ chỉ có một ông già là tôi, bên trong lối đi nhỏ bằng xi-măng bao quanh công viên chẳng có bóng dáng ai khác. Trong sắc xanh của cỏ có một vài khóm hoa đang trổ ra mấy bông hoa mới nở he hé, là hoa hồng nhung, hoa nhài ngũ sắc, hoa quế… Đây là điểm nhấn xinh đẹp duy nhất của công viên này. Có lẽ có người sẽ hỏi: "Ông lão này ngồi trên ghế băng trong công viên làm gì?" Tôi sẽ đáp rằng: "Chỉ ngồi thế thôi." "Ngồi thế thôi?" "Đúng vậy, chỉ ngồi thôi, không làm gì hết." Tôi cố cười hai tiếng "hây, hây". Như tôi gần đây, đột nhiên lại đọc sách về lịch sử. Đọc Chiến Quốc Sách, Sử Kí, Hán sử, Hậu Hán sử, Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc chí… Cái lão già này đọc những thứ lịch sử vừa cổ vừa cũ vừa lỗi thời để làm gì? Chẳng để làm gì cả! Chỉ là đọc thôi. Cũng giống như "chẳng làm gì cả"! Rất lâu trước đây, cha tôi đã từng kể với tôi về một nhân vật là cán bộ tiền bối của ông, vốn là người cực kì có quyền thế. Tuy nhiên vào những năm cuối cuộc đời, chỉ còn mình ông ta dắt theo một con chó mỗi ngày. Ở Toronto, Canada. Bên trong một công viên nhỏ, ông ta ngồi trên chiếc ghế băng, dắt theo một con chó già. Cha tôi nói: "Đây chính là những năm tháng cuối đời của vị cán bộ tiền bối già đó." Năm đó nghe cha tôi nhắc đến những năm cuối đời của vị cán bộ tiền bối già, tôi cũng không mấy để tâm. Nhưng bây giờ tự nhiên nghĩ lại, thấy bản thân mình ngay đến một con chó già cũng chẳng có. Nói thực lòng, cá nhân tôi cũng không thích chó, chó có cái mùi chó không hợp với tâm của tôi. Ấy nhưng tâm trạng của tôi lúc này cũng thực sự đồng cảm với tâm tình của vị cán bộ tiền bối già đó. Đối với cuộc đời này của mình, tôi thực sự không có chút gì oán hận cả, bởi vì tôi biết: Phần lớn mọi chuyện là không như ý con người. Tất cả mọi việc không thể nào tuyệt đối đúng với kì vọng của con người. Tất thảy đều có số mệnh rồi. Nhưng, Mưu sự tại nhân. Thành sự tại thiên. Tôi đã có một chút hiểu rồi. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) lúc dâng tấu chương nước mắt đầy mặt, bất tri sở vân - không biết phải nói làm sao để vua hiểu! (*) Hai người thiếp của Bạch Cư Dị (*), một người là Tiểu Man, từ sớm đã rời xa Bạch Cư Dị, người kia là Phàn Tố cũng rời xa Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị chính bởi điều này trở thành một kẻ hoàn toàn trắng tay, đau đớn đến mức không muốn sống nữa. "Gián nghênh Phật cốt" của Hàn Dũ đã khiến ông phải vào nhà lao ở Lĩnh Nam. (*) Cải tổ luật pháp của Vương An Thạch cũng đều thất bại rồi. (*) "Triều Vân mộ chí minh" của Tô Đông Pha với bốn câu thiền kệ: (*) Phù đồ thị chiêm, Già lam thị y. Như nhữ túc tâm, Duy Phật thị quy. Dịch ý kệ: Lẽ thường người ta bái tháp Phật, Chọn nơi cửa Phật để trú thân. Với nàng chỉ cần thanh tâm ấy, Đã đủ quay về cõi Phật thiêng. Vẫn còn Đào Uyên Minh ẩn cư nữa. Nhưng tất cả đều là: "Ô hô ai tai, chết sạch cả rồi!" Tôi cảm thấy như tôi mới là tốt đó. Tuy bớt đi một chút hăng hái, kì vọng, niềm vui (ở ngoài kia), nhưng tôi lại có thể một mình ngồi ở công viên và còn có: Đôi mắt đầy hân thưởng, Tâm tình tràn mỹ lệ. ---------------------------- Bất tri sở vân: trích từ Xuất sư biểu của Khổng Minh. Sau khi củng cố nguyên khí quốc gia và quân đội, Khổng Minh quyết định dẫn quân Bắc phạt đánh Ngụy. Bị triều thần can ngăn (vì hầu hết đại tướng đã già hoặc chết), nhưng ông đã thể hiện quyết tâm khi dâng tấu (Xuất sư biểu) với vua Lưu Biểu: "đối diện với bản tấu này, thần nước mắt đầy mặt, không biết phải nói gì", để vua hiểu tâm nguyện và mong muốn Bắc phạt của ông. Cuối cùng, sáu lần Bắc phạt của Khổng Minh, sau đó học trò Khương Duy cũng tiếp bước chín lần đem quân phạt Ngụy đều thất bại nặng nề. Nhà Thục diệt vong vì hao tổn nguyên khí. Ý của Tôn Sư là hùng tâm tráng trí một thời của Khổng Minh lớn tới như thế, rồi cũng đi vào dĩ vãng mà thôi.
Bạch Cư Dị (772 - 846): nhà thơ nổi tiếng nhà Đường, Trung Quốc, cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu trong lịch sử thi ca. Hàn Dũ và "Gián nghênh Phật cốt": Hàn Dũ (768 - 824) là nhà thơ, một vị quan đời Đường. Vua Ðường Hiến Tông vào những năm cuối đời rất sùng đạo Phật, nghe nói trong Pháp Môn Tự có thờ một đốt ngón tay của Đức Phật, cứ 30 năm mới mở cửa cho mọi người vào chiêm bái. Hiến Tông lập tức cho rước đốt xương đó vào cung thờ cúng, sau lại rước ra chùa cho mọi người xem. Những cuộc đưa rước, chiêm bái của vua hết sức linh đình, xa xỉ. Vua tin thì quan viên cũng hùa theo, một phong trào sùng bái xương Phật lan tràn khắp nơi, người giàu thì đua nhau quyên tiền hương hỏa, người nghèo thì chầu chực xin những nén hương trong chùa rồi tự đốt đến bỏng thân thể để chứng tỏ lòng thành kính. Hàn Dũ phóng bút viết bài "Gián nghênh Phật cốt" (còn gọi là Luận Phật cốt biểu) dâng lên can gián Hiến Tông, lời lẽ rất đanh thép, cứng rắn, có đoạn khuyên vua nên ném xương Phật vào nước lửa, Phật có giáng tội ông xin chịu hết. Vì việc này mà ông đã bị tống vào ngục. Vương An Thạch (1021 - 1086): là nhà cải cách lớn nhất thời Bắc Tống ở Trung Quốc, ông chủ trương cải cách pháp chế để cứu nước cứu dân nhưng đã bị giai cấp thống trị chống đối nên đã thất bại, tuy vậy những việc làm của ông khiến cho nhân dân rất yêu mến. Tô Đông Pha (1037 - 1101): tên thật là Tô Thức, là nhà thơ nhà văn nổi tiếng thời Tống, Trung Quốc. Ông có ba người vợ, hai người vợ đầu đều qua đời khi tuổi còn trẻ, Vương Triều Vân là người vợ thứ ba, cũng là người mà Tô Đông Pha xem là giai nhân tri kỉ nhất của mình. Khi Triều Vân chết, để tưởng nhớ và ca ngợi phẩm hạnh của nàng, Tô Đông Pha đã làm bốn câu thiền kệ khắc trên bia mộ nàng.
02. Kẻ lang thang trong công viên
Tôi nhìn thấy một kẻ lang thang nằm ngủ trên một phiến đá bằng phẳng trong công viên. Kẻ lang thang này dùng một cái túi ngủ trùm kín toàn thân, đến cả đầu cũng rúc vào bên trong, ngủ say như chết, nhìn từ xa trông giống như một cái xác ướp. Vào ngày không mưa, phiến đá bằng phẳng đó chính là giường của hắn. Ngày có mưa, hắn sẽ trốn trong một cái chòi gần đó. Kẻ lang thang này ngủ trong cái túi ngủ, đến trở mình một cái cũng không. Tôi chú ý đến hắn rất lâu, một chút động đậy cũng không có, hắn thực sự ngủ như chết rồi, ngủ đến mức "chín nẫu" cả ra rồi. Tôi nghĩ đến một số người giàu có ngủ trên những chiếc giường rộng rãi xa xỉ mà còn lăn qua lộn lại vì khó ngủ. Ví dụ như Quốc Vương của nước Pháp, vua Louis thứ 14, ông ta có 413 chiếc giường ngủ rộng rãi và lộng lẫy, nhưng ông ta chỉ có một nguyện vọng: "Hy vọng rằng trong số hơn 400 chiếc giường ngủ đó có thể tìm thấy một cái giường có thể khiến ông ngủ được!" Haha! Thật nực cười! Tôi nghĩ giấc ngủ là một môn học rất quan trọng, con người ngày nay đã bắt đầu nghiên cứu "môn học giấc ngủ" rồi. Giới y khoa đối với việc này cũng đã thành lập "khoa ngủ". Tôi nghe nói, trên thế giới này trong tổng số các loại thuốc được dùng thì nhiều nhất chính là "thuốc ngủ ngon". Rõ ràng vấn đề giấc ngủ là vấn đề phiền phức đang rất phổ biến ở con người thời đại ngày nay. Có một bác sĩ khoa tâm thần học nói với tôi: "Hãy xem! Những người đang đi trên đường phố kia, trong số mười người thì có ba người là mắc các chứng khó ngủ." Tôi nghe xong, sốc! Tôi cảm thấy, có lẽ mọi người tham ái quá nhiều, dục vọng quá nhiều, đòi hỏi quá nhiều, tình cảm quá nhiều, tư lợi quá nhiều, xúc cảm quá nhiều, máu nóng cũng quá nhiều. Con người hiện đại thích làm cho cuộc sống tràn đầy màu sắc đẹp đẽ, một khi cuộc sống mất đi màu sắc, dù thắng, dù thua, dù được, dù mất, họ đều chẳng ngủ được. Cứ có chuyện - là không ngủ được. Có phiền não - là không ngủ được. Không có chuyện - thì ngủ được. Không phiền não - thì ngủ được. Làm sao để đạt được đến cảnh giới này: "Ít ham muốn - biết đủ, vô lo vô nghĩ, bất tri bất giác thì sẽ ngủ được thôi!" Con người tôi bây giờ chẳng có cái gì là thích và không thích, chẳng có gì khiến tôi "sôi máu" được cả, cảm xúc thô bạo cơ bản là không có. Tôi không hát những giai điệu thanh cao nhưng con người tôi cũng không trở thành dung tục. Có người nói: "Công danh giống như xác chết thối rữa!" "Tiền bạc giống như phân thối!" Tôi chẳng có ý kiến gì. Chỉ là trước nay tôi cũng chẳng nghĩ đến hai chữ "công danh", hai chữ "tiền bạc" cũng thế. Hữu duyên vô duyên, hoàn toàn mặc kệ, tôi đã ném chúng đi xa rồi. Cái gì là tôn trọng, trân quý, yêu ghét, tình nghĩa, pháp lý, công bằng…, tất cả đều mặc kệ, tất cả đều tùy duyên đi. Cái gì là tâm lượng quảng đại? Cái gì là ích kỉ hẹp hòi? Tôi cũng chẳng bận tâm. Cuộc đời này của tôi thú thực đã gặp nhiều hoạn nạn. Tôi rất nhiều lần phải chịu đựng nỗi đau bị người ta làm hại, rất nhiều phen bị người ta phỉ báng bôi nhọ thanh danh, lẽ ra tôi nên có nhiều oán hận, có nhiều tức tối bất bình. Tôi đã phải chịu nhận rất nhiều sự dày vò khi băng qua những góc đen tối của thế gian… Nhưng, tôi đều đá chúng qua một bên. Cơ bản là tôi chẳng nghĩ gì về chúng. Tôi chỉ cười thật to, ha ha ha! Bất tri bất giác là có thể ngủ được thôi! Ngủ như chết chính là sung sướng nhất!
03. Mơ về núi Tiên Đô
Tôi có một giấc mơ rất kì lạ. Trong đời này tôi mới chỉ đi Trung Quốc đại lục một lần, lần đó chủ yếu là đi Ngũ Đài Sơn để lễ Văn Thù Bồ Tát, thuận đường thì đi qua Bắc Kinh, Thái Nguyên, Tây An, Quế Lâm, Thượng Hải. Còn trong giấc mơ thì tôi lại đi đến Tam Hiệp. Trên thực tế, tôi chưa từng đi đến Tam Hiệp nhưng có nghe nói đến. Dòng sông Tam Hiệp đã chỉ còn là âm hưởng của quá khứ, nay nó đã trở thành một con đập khổng lồ, nước lũ đã nhấn chìm biết bao nhiêu di tích cổ xưa. Ấy nhưng trong mơ tôi thực sự đã nhìn thấy Tam Hiệp. Tôi đến tỉnh Phong Đô ở Tam Hiệp, đến núi Tiên Đô, trông thấy trên núi có một đài quan sát. Tôi đi vào trong đài quan sát thấy có hai pho thượng của hai vị thần tiên, một vị là Âm Trường Sinh, vị kia là Vương Phương Bình. Tôi đi vào trong đài quan sát Tiên Đô, đi thẳng một mạch đến phía tượng của Âm Trường Sinh trước. Tôi cũng không biết đã làm cách nào mà đi vào bên trong pho tượng Âm Trường Sinh. Mơ đến đây thì tỉnh dậy. Tôi không biết Âm Trường Sinh và tôi có mối liên hệ gì. Tôi lại càng không biết tôi và đài quan sát trên núi Tiên Đô có mối liên hệ gì. Trên thực tế, hiện tại cái gì tôi cũng chẳng muốn biết, đây chẳng qua chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ kì lạ mà thôi. Âm Trường Sinh và Vương Phương Bình nghe nói đều ở đài quan sát Tiên Đô mà tu luyện rồi thăng thiên. Tôi mơ về núi Tiên Đô, chỉ cảm thấy là: Trưởng tùng thiên thụ phong tiêu sắt Tiên cung khứ nhân vô chỉ xích. Dịch thơ: Nghìn ngọn tùng xanh gió rì rào Tiên cung vẫn đó người đã xa. Tôi có ý nghĩ muốn làm thần tiên không? Câu trả lời là khẳng định: đương nhiên có. Vì sao lại có ý nghĩ làm thần tiên? Bởi vì mọi người không cảm thấy sao? Trái đất bao la, biển xanh biến thành ruộng dâu, còn con người sống giữa trời đất thì cũng giống như con kiến, sớm sinh tối chết, đời người thật ngắn, chỉ là tạm thời thôi. Khi bé mơ hồ. Tuổi trẻ sục sôi. Trung niên tạm nghỉ. Chớp mắt đã già. Xin hỏi đời người này có cái gì? Tôi ở Tam Hiệp nhìn nước sông cuồn cuộn chảy qua, ngắm nhìn bạt ngàn tùng bách trên núi Tiên Đô và cả những người du ngoạn thắng cảnh sông nước. Nhưng đời người ngắn ngủi, thử nghĩ xem, làm sao không khiến người ta nghĩ đến thần tiên. Tôi làm một bài thơ: Tiên Đô sơn thượng xứ xứ u. Tam Hiệp như nhiễm bích như lưu. Thùy tướng thiên hà thắng cảnh xứ. Tán lạc đại địa thủy hương đầu. Thụ uất uất. Tư du du. Nhất mộng thậm kỳ tiên đô du. Kim triêu tỉnh lai nghi thị túy Phủ mô bạch phát thán nhất hưu. Dịch thơ: Đỉnh núi Tiên Đô ở xa xăm. Nhuộm dòng Tam Hiệp màu xanh thẳm. Ai khiến thiên hà thành cảnh sắc. Đầu nguồn phân nhánh khắp quê hương. Cây trùng trùng. Ý liên miên. Đưa đến Tiên Đô mộng thần tiên. Tỉnh dậy vẫn ngỡ còn say mộng. Xoa mái đầu bạc thở dài than. Lão già tôi đây sau khi đóng cửa ẩn cư thì phạm vi cuộc sống đã thu hẹp lại, chỉ còn thập phương pháp giới. Tôi ngao du sông núi đất trời bao la chỉ có ở trong "tam muội" và trong giấc mơ mà thôi. Đối với quá khứ, tôi cũng không còn cảm xúc vui vẻ. Tôi thực sự cảm thấy tất cả đều kết thúc rồi. Vạn sự cũng đều đã yên nghỉ rồi. Sức sống thời thiếu niên, thanh niên, tráng niên đã biến thành ánh hoàng hôn chiều tà. Ý tôi không phải nói rằng tôi nay đã hoàn toàn dừng lại hết mọi thứ, không còn sức mạnh ý chí, không còn tinh tấn nỗ lực, không còn cảm tình, không còn sức sống, không còn học tập… Tôi muốn nói chỉ là: "Tôi đã vượt khỏi hồng trần!" "Tôi không còn thuộc về chốn nhân gian nữa!" Tôi hoàn toàn không nghĩ được ở tại nhân gian này tôi còn có điều gì mong muốn nữa, hay là còn điều tâm nguyện gì chưa hoàn thành, còn tham vọng gì chưa làm nữa. Tôi chẳng còn sở cầu gì nữa. Tôi không phải là "bắt đầu". Mà là đã kết thúc viên mãn như ý. Tôi cảm thấy kết thúc cũng thật là tốt.
04. Lư Thắng Ngạn không phải là người
Nếu như nói Lư Thắng Ngạn là con người thì ông ấy là người. Nếu như nói Lư Thắng Ngạn là không phải là người thì ông ấy cũng không phải là người. Con người thì cần hợp tình hợp lý. Nhưng Lư Thắng Ngạn có những lúc chẳng hợp tình hợp lý chút nào! Năm đó, ông ta đóng cửa ẩn cư. Con trai duy nhất của ông ta - Lư Phật Kỳ và cô Sunny đã kết hôn tại Seattle nước Mỹ. Ở Mỹ và Đài Loan đều tổ chức đám cưới. Đây là việc đại sự của đời người, đêm động phòng hoa chúc, cả đời chỉ có một việc đại sự thôi. Với vai trò là người cha, theo tình theo lý mà nói, nhất định phải tham dự. Nhưng. "Ông ấy không đến." Ông ấy đóng cửa ẩn cư, thực sự không đến tham dự là không đến. (Lư Thắng Ngạn cơ bản không phải là con người.) Rồi lại có một năm, con gái duy nhất của ông ta, Lư Phật Thanh và anh Andy đã kết hôn tại Seattle nước Mỹ. Ở Mỹ và Đài Loan đều tổ chức đám cưới. Đây đương nhiên là việc đại sự của đời người. Đặc biệt là nghi lễ ở nước Mỹ thì người cha cần phải cầm tay con gái dắt đi ra lễ đường, đặt tay con gái vào tay con rể, như thế mới hoàn thành việc đại sự là gả con gái. Là một người cha, theo tình theo lý mà nói, nhất định phải là chủ hôn lễ. Nhưng. "Ông ấy không đến." Ông ấy đóng cửa ẩn cư, thực sự không đến tham dự là không đến. (Lư Thắng Ngạn cơ bản không phải là con người.) Có thể có người phỏng đoán rằng Lư Thắng Ngạn chắc không thích con trai và con gái. Nghĩ như vậy thì cực kì sai lầm rồi. Lư Thắng Ngạn yêu thương nhất chính là Lư Phật Kỳ và Lư Phật Thanh, thậm chí yêu thương hết mực. Ông ấy là người bảo hộ cho con trai và con gái, không thể nào chịu để các con phải cực khổ. Có thể có người phỏng đoán Lư Thắng Ngạn có lẽ không thích hai nhà thông gia, do vậy không tham dự hôn lễ. Nghĩ như vậy thì cũng sai lầm cực kì rồi. Ông ấy rất thích Sunny, ông ấy cũng rất thích Andy, người con dâu này ông ấy thích, anh con rể này ông ấy cũng thích. Ông ấy đồng ý để các con kết hôn. Thế nhưng, trong ngày đại hỷ của đời người, ông ấy với vai trò là một người cha, bởi vì đóng cửa ẩn cư nên hoàn toàn không đến tham dự. Thật là khổ cho người làm mẹ là Sư Mẫu Liên Hương Thượng Sư Lư Lệ Hương. (Lư Thắng Ngạn vì lý do là đóng cửa ẩn cư nên không thể tham gia làm chủ hôn sự của con trai và con gái mà ông thương yêu nhất, việc này trên tình lý mà nói thì không thể bào chữa được. Do vậy ông ta cơ bản không phải là con người. Xin hỏi, kết hôn là việc đại hỷ của đời người, cha không có mặt, con cái sao có thể chịu đựng được điều này?) Thế nhưng: Con người thế gian làm sao biết? "Tâm" của Lư Thắng Ngạn đã đến tham dự rồi. Thân người không ở Seattle, nhưng "tâm" thì đã lưu lại ở Seattle rồi. Ông ấy dùng "tâm" để yêu thương Phật Kỳ và Sunny, dùng "tâm" để yêu thương Phật Thanh và Andy. Ông ấy tin rằng cách làm này cũng vô cùng thiết thực. Ông ấy dùng "tâm" để ôm lấy con trai con gái mình, dùng "tâm" chân thành chúc phúc hai người con dâu rể mới. Lư Thắng Ngạn từ đầu đến cuối không đến tham dự hôn lễ của con trai và con gái yêu. Chẳng thể nào tưởng tượng được! Ông ấy kể từ sau khi đóng cửa ẩn cư thì những chuyện trọng đại trong thiên hạ đều biến thành hoàn toàn "vô sự". Ông ấy đối với bất kì việc đại sự nào cũng đều không tham dự. Ông ấy đã buông bỏ hết mọi chuyện trong thiên hạ rồi. Có hối hận gì không? Không có. Xem như viên mãn không? Không có. Đời này hoàn mỹ không? Không có. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, Lư Thắng Ngạn cơ bản không phải là con người, ông ấy là "người mà không phải người".
05. Danh dự bằng cái “thằng nhỏ”
Ở chốn nhân gian hồng trần cuồn cuộn này có rất nhiều người xem trọng danh dự, thậm chí yêu say đắm danh dự mà cao giọng: "Danh dự là sinh mệnh thứ hai!" "Để bảo vệ danh dự, không ngại liều mạng đến cùng!" "Vì danh dự, hãy trả lại công bằng cho tôi!" "Vì danh dự, không ngại đối đầu ở tòa án!" "Vì danh dự, tất cả đừng ngần ngại gì cả!" "Vì danh dự, "xử" nó đi!" Sau khi tôi đóng cửa ẩn cư thì từ đó cũng giấu hết tung tích. Ngoài việc viết văn ra, Lư Thắng Ngạn sớm đã trở thành một người biệt lập rồi, đến chính bản thân tôi cũng không nhận ra tôi nữa. Hàng xóm của tôi có một hôm nói với tôi: "Ông rất giống một người!" "Ai?" "Lư Thắng Ngạn." - Hàng xóm nói. Tôi đáp: "Thằng cha Lư Thắng Ngạn chính là một tên côn đồ!" "Vì sao mà ông lại chửi Lư Thắng Ngạn?" - Hàng xóm hỏi. "Thì cưỡng hiếp con X đó, cái con rùa Lư Thắng Ngạn này, chính là vì ông ta giống tôi quá, khiến danh dự của tôi cũng bị liên lụy!" Tôi ở trước mặt hàng xóm chửi lớn Lư Thắng Ngạn một chặp: "Thằng khốn", "Đồ Bát Giới dê già", "Đồ ăn cứt", "Ti tiện vô sỉ", "Thiên hạ đệ nhất mặt dày", "Đồ thần kinh", "Tôi X nó"… Hàng xóm sau đó đành chịu thua tôi, nói với tôi: "Ông tuyệt đối không phải là Lư Thắng Ngạn." Tôi nói: "Nói vậy mới đúng." Tôi nói tiếp: "Tôi muốn viết một cuốn sách chửi Lư Thắng Ngạn đến chết đi sống lại, hắn ta là kẻ vô lại tội ác không thể tha." Sau đó hàng xóm cũng không dám nhắc lại là tôi rất giống Lư Thắng Ngạn nữa. Chính tôi cũng cảm thấy muốn đấm cho cái thằng Lư Thắng Ngạn một phát chết luôn. Đơn giản là vì làm thế thật là sảng khoái, thật là thoải mái, ha ha! Nói thật lòng, giống như con người tôi bây giờ, tôi còn có gì gọi là danh dự để mà nói. Tôi từ lâu đã giết chết danh dự của mình rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về danh dự hay là không danh dự. Các đệ tử muốn đồ lót của tôi, họ nói muốn làm "viên cam lộ", tôi đã đưa cho họ từ lâu rồi. Các đệ từ từ lâu đã lột trần tôi ra. Các đệ tử muốn lông tóc và móng tay của tôi, họ nói muốn làm thành "xá lợi" để thờ cúng, tôi cho họ hết sạch tóc của tôi. Bởi vì tóc ngắn lại còn ít, đến cả lông trên người tôi cũng cạo sạch sẽ, tất cả đem cho người ta hết. Này này! Tôi chính là cái loại: "Lõa thể!" Toàn thân của lão phu trên trên dưới dưới đều cho đệ tử lấy đi hết sạch sẽ, con người này của tôi còn cái gì gọi là danh dự để mà nói. Nghe nói DNA là bí mật cá nhân. Điều tồi tệ là, DNA của tôi ai ai cũng biết. Phải làm sao? Này! Này! Con người không cần danh dự là tôi đây lại vẫn còn sợ danh dự của chính mình bị tổn hại sao? Con người thối tha mãn danh thiên hạ (*) còn muốn hai chữ "danh dự" để làm cái gì? Lão phu từ lâu đã chẳng phải là con người, lão là thần tiên, vô ưu vô lậu (*). Mẹ cha cái sinh mệnh của anh, mẹ cha cái danh dự của anh. Với lão đây mọi thứ đều chẳng là cái thá gì cả. Lão đây chẳng còn ở trong ngũ hành, lão đã nhảy ra ngoài tam giới rồi. Lão phu nghe âm thanh của trời, mặc quần áo của trời, ăn "tiên tương ngọc dịch" (*), sống tại hư không, bay đến bay đi ung dung tự tại. Lão rải hoa trời, lão rải hương thơm. Rất hài lòng rồi! Tất cả đều thành rồi! Rất nhanh sẽ kết thúc thôi! Danh dự của chốn nhân gian Ta Bà này, người khác xem trọng, lão đây cóc xem trọng, nếu anh không thích thì mặc mẹ cha anh! ---------------------------- Mãn danh thiên hạ: khắp thế giới đều biết Vô ưu vô lậu: không lo lắng không phiền não Tiên tương ngọc dịch: đồ ăn đồ uống của thần tiên
06. Vượt lên thế giới dục vọng
Tôi từng đi qua một con đường nhỏ tối tăm, đó là vì tôi muốn đi đường tắt. Con đường nhỏ tối tăm đó có ánh đèn neon sặc sỡ, đó là một quán cà phê âm nhạc. Tôi nhớ lại lúc còn là thanh niên, tôi:Âm nhạc không có. Cà phê không có. Trong quán kia chỉ có một vài cô gái trẻ trang điểm lòe loẹt, ăn mặc quần áo khiêu gợi. Quán cà phê âm nhạc rất rất tối, bên trong cực kì tối. Nó không giống quán trà, không giống quán rượu, cũng chẳng giống quán bar, nhưng tôi cũng chẳng thể nói rõ nó là cái gì. Ở cửa quán có một gã trai đứng vẫy khách, nghĩa là gã trai đứng lôi kéo khách vào. Ngày xửa, ngày xưa, xưa lắm, rất xưa, tôi từ xa đi ngang qua. Gã trai sẽ gọi: "Anh bạn trẻ, đến đây ngồi!" Tôi xấu hổ hấp tấp đi qua, không dám nhìn lấy một cái. Bây giờ tôi nhiều tuổi rồi, bước đi lảo đảo, ăn mặc như một kẻ lang thang, một lão già lôi thôi rác rưởi. Tôi quan sát bên trong. Những cô gái ăn mặc hở hang vẫn ở đó, hở cổ hở lưng hở rốn, váy ngắn cũn cỡn, thân thể gầy như cây dương cành liễu. Một gã trai chạy vội đến quát: "Lão già, nhìn cái gì mà nhìn! Muốn sướng mắt à?" Gã lại kêu lên: "Đi, đi, đi." Tôi cúi đầu rồi đi ra xa. Trong lòng tôi cười hi hi ha ha ngân nga một bài thơ Đường "Kim Lũ Y" của Đỗ Thu Nương (*): Khuyến quân mạc tích kim lũ y. Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì. Hữu hoa kham chiết trực tu chiết. Mạc đãi vô hoa không chiết chi.. Dịch thơ: Khuyên anh đừng tiếc áo kim vàng. Khuyên anh hãy tiếc thời niên thiếu. Hoa kia nở rồi thì cứ bẻ. Đừng chờ hoa rụng bẻ cành trơ. Nói thẳng ra, dục vọng tuổi trẻ của tôi bây giờ cũng chẳng còn nữa. Mà dục vọng của tuổi trẻ cũng không nên trút hết ra ở những chốn "khiêu dâm". Trái lại tôi bây giờ thích "Nam ca tử" của Tần Quán: Ải ải mê xuân thái, dung dung mị hiểu quang. Bất ưng dung dị hạ Vu dương. Chỉ khủng Hàn Lâm tiền thế, thị Tương Vương. Tạm vy thanh ca trú, hoàn nhân xuân vũ mang Miết nhiên quy khứ đoạn nhân trường Không sử Lan Đài công tử, phú Cao Đường. Dịch thơ: Mịt mờ trong sương khói, đẹp mê hoặc tựa xuân. (*) Thiếp vội vàng hạ xuống núi Vu dương. Ngỡ Tương Vương là Hàn Lâm kiếp trước. Chút khoảnh khắc múa ca, vì bận làm mưa tối. Chia xa về mà đau lòng đứt ruột. Khiến Lan Đài công tử (*) ngâm Cao Đường Thứ chúng ta tìm kiếm chỉ là chút tình ý với nhau, chỉ là liếc nhìn nhau một cái, chỉ là tâm ý ghi nhớ lẫn nhau. Hoặc là, tiến xa hơn một bước là cầm tay, tương tư, nhìn nhau, nói cười. Khi tôi còn trẻ thì chỉ là ngây ngô, bối rối, rụt rè, nâng niu, trong sáng. Có mà như không. Không mà như có. Thế còn tôi bây giờ? Dù một chút xíu tình cảm như vậy tôi cũng chẳng có nữa. Từ lâu tôi đã vượt lên khỏi thế giới dục vọng này rồi. Tôi hiểu thế nào gọi là cô đơn, cũng hiểu thế nào gọi là cô độc, hiểu thế nào gọi là đơn độc, hiểu thế nào gọi là hư vô. Việc tôi rời khỏi hồng trần, chính là kết thúc. Dục vọng nhân gian là chẳng thể có được. Dục vọng nhân gian chỉ là hư huyễn, chốn hồng trần cơ bản chẳng có nơi nào thực sự để ở lại. "Chỉ tiện uyên ương bất tiện tiên" - Chỉ muốn làm uyên ương, chẳng muốn làm thần tiên, càng chỉ là giây phút ngắn ngủi, tạm thời. (*) Tham nhiều biến thành không tham. Tôi muốn nói cho mọi người: Tham nhiều tự đau mình. Không tham dưỡng trưởng thân. ------------------------ Kim lũ y: áo kim tuyến. Đỗ Thu Nương: bà sống vào khoảng thế kỉ thứ 8-9, làm ca kĩ trong cung đình vua Đường Hiến Tông. Nhờ có nhiều tài hoa (ca múa giỏi, làm thơ hay) nên bà được nhà vua sủng ái, cải danh là Thu Phi, được các đại thần kính nể. Kim lũ y là bài thơ nổi tiếng nhất của bà. (*) Tần Quán chơi chữ kết hợp cùng điển tích cổ, ngụ ý viết về mối tình Tô Đông Pha và Triều Vân. Truyện rằng, Sở Tương Vương tới chơi Lan Đài quán ở núi Vu, thấy mịt mờ sương khói nên hỏi, được Tống Ngọc trả lời đó là Triều Vân (nghĩa là mây buổi sớm). Vốn có tích khác rằng, từng có một vị tiên nữ hiện ra trong sương sáng sớm, nói là thần nữ núi Vu. Kết hợp lại thành ý "Triệu Vân vốn là nữ thần núi Vu, chỉ xuống nhân gian trong khoảnh khắc vì ngỡ Tương Vương chính là Hàn Lâm (chỉ Tô Đông Pha) kiếp trước. Nàng chỉ là Triều Vân một lát (khi còn là mây sáng) kịp múa ca một lát, rồi còn phải về vì bận tối làm mưa (ko còn là Triều Vân - mây sớm nữa). Lan Đài công tử: còn tên là Tống Ngọc, là một trong tứ đại mỹ nam tài năng trác tuyệt của Trung Hoa cổ đại. (*) Đây là một câu rất nổi tiếng trong bài hát Thập lý Bình Hồ (phim Thiện nữ u hồn - 1987). "Thập lý Bình Hồ sương mãn thiên. Thốn thốn thanh ti sầu hoa niên. Đối nguyệt hình đan vọng tương hỗ. Chỉ tiện uyên ương bất tiện tiên." Dịch nghĩa "Sương rơi cả trời Bình Hồ khắp mười dặm. Từng tấc sầu của tuổi hoa niên giăng mắc. Người cô đơn cùng bóng trăng lẻ loi nhìn nhau. Chỉ muốn làm uyên ương chứ chẳng muốn làm thần tiên".
07. Cổ nhân mà tôi ngưỡng mộ
Gần đây tôi đọc nhiều sách cổ. Mặc dù đối với tôi việc đọc sách cổ là vô dụng, chẳng được ích lợi gì cả, nhưng tôi cũng ngưỡng mộ một vài cổ nhân, coi như tự giết thì giờ một chút. Trang Tử (*) nói: "Người có đạo đơn giản là toàn lực tu chân dưỡng tính, nếu như có dư nhiều sinh lực thì mới đi trị quốc bình thiên hạ. Đối với việc cai trị quốc gia thì chỉ cần dùng các thể loại rác rưởi, chẳng hạn như những bao đựng cứt sắt đi giải quyết là được." Tôi thích Lão Tử và Trang Tử, đặc biệt là câu nói này của Trang Tử, đọc đến thật khiến cho người ta hết sức hả hê. Tôi nói: "Trị quốc thì dùng chân ghẻ nấm đi cai trị là được rồi!" (cười khùng khục) Lại nói: "Bình thiên hạ, dùng phân thối nước tiểu đi bình là được rồi!" Ha ha ha! Sảng khoái! Sảng khoái! Trang Tử xem việc trị quốc bình thiên hạ là việc thấp cấp nhất, đây thực sự là điều khiến tôi hả hê nhất. Tôi thích tư tưởng tự do của Lão Tử Trang Tử với lối tu chân dưỡng tính này, đúng thực là: Tâm nhàn phản tự chiếu, Hiệu hiệu như phù cừ. Đại ý: Tâm nhàn tự tỏa sáng, Sáng trong như hoa sen. Người tôi ngưỡng mộ số một là Lý Bạch. Lý Bạch nói: Thân quản yến chi đàm. Mưu đế vương chi thuật. Phấn kỳ trí năng, Nguyện vy phụ bật. Đại ý: Bàn bạc muộn xá gì, Tính kế giúp đế vương. Dùng trí tuệ năng lực, Nguyện làm chân tể tướng. Lý Bạch là kẻ điên khùng, nhưng cũng chỉ là phò trợ hoàng đế, hoàn toàn không rút khỏi vị trí này để thay thế ai vào được. Ví dụ: Khổng Minh cũng thế, Trương Lương cũng thế, Yến Anh cũng thế, Quản Trọng cũng thế, v.v. Những người họ đều là có trình độ văn hóa cả, đều có tư tưởng khoáng đạt đầu óc cởi mở, tự nhiên họ sẽ có biểu hiện "khác người". Còn đối với các nhân vật rác rưởi, tôi cho rằng giống như Trần Thắng, Ngô Quảng, Lưu Bang, Chu Nguyên Chương, Hồng Tú Toàn mà nói, bọn họ đi đấu tranh vì đế nghiệp, biểu hiện dã tâm tham vọng đến cả khi không còn thân xác nữa. Tôi chỉ trông thấy: "Lòng lang dạ sói!" "Mật báo!" Cơ bản chính là bản tính quái thú. Tôi ngưỡng mộ Trương Lương: Dùng quy tắc để làm thầy đế vương, Không dùng quy tắc để làm lão già lẩn trốn. Kết cục của Trương Lương chẳng biết thế nào, nhưng ông ta cũng rút đi ở ẩn rồi! Hàn Tín, Tiêu Hà về cơ bản là lòng ruột óc gan của súc vật. (*) Tư Mã Quang cũng không tệ, ông ta phản đối những cải cách của Vương An Thạch, cho rằng: "Với sĩ phu thì phải tha thiết, với dân thường thì phải nhiễu động". Kết cục của ông ta là bị phế quan, phải lui về Lạc Dương. Ông ta đóng cửa viết "Tư trị thông giám" (*). Tôi thích Khổng Dung, Cấp Ảm (*). Tôi không thích Tào Tháo, Trương Thang (*). Tôi luôn nghĩ rằng sự hưng thịnh và suy vong của lịch sử chính là tại "nhân tâm". Như cây nhờ gốc, như đèn nhờ dầu, như cá nhờ nước, như chim nhờ cánh, đây là sự thật tất yếu. Cây không nhờ rễ thì chết, đèn không nhờ dầu thì tắt, cá không nhờ nước thì chẳng sống nổi, chim không nhờ cánh thì chẳng thể nào bay. Thế nên dẫn đến: Chủ mất lòng người thì sẽ chết. Chủ được lòng người thì sẽ hưng. (Ở thời hiện đại mà nói thì đây chính là sức mạnh quần chúng.) Khi tôi đóng cửa ẩn cư, tôi đã tìm mua rất nhiều sách cổ, rồi chính từ trong sách cổ cùng trò chuyện với cổ nhân. Tôi ngưỡng mộ cũng khá nhiều vị, nhưng kết quả cuối cùng là tôi vẫn ngưỡng mộ chính mình. Tôi có được niềm vui của ẩn cư. Năm năm rồi, mức độ hạnh phúc của tôi là cao nhất mà con người không thể nào tận hưởng được, người có nhiều tiền nhất cũng không thể tận hưởng được. Tôi là Lão Tử! Đi khỏi Hàm Cốc Quan rồi! -------------------------- Trang Tử: (365 - 290 trước Công Nguyên) là nhà triết học độc đáo nhất trong bách gia thời Chiến quốc, cũng được xem là "ông tổ ngông". Trang Tử ngông với lý tưởng “thích chí”, độc lập nhân cách, tự do ngao du trong cõi đạo. Ngông của Trang Tử gắn với ý thức khẳng định con người tự tại, tự do cho nên đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong văn học. Cho nên cái ngông của Trang Tử là cái ngông của tinh thần triết học, ngông của trí tuệ, cao siêu, khác hẳn cái ngông của kẻ ngu dốt liều lĩnh. Lòng ruột óc gan của súc vật: ý cũng là đồ bỏ đi mà thôi. Tư trị thông giám: là bộ sách sử của Tư Mã Quang, có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử sử học Trung Quốc. Khổng Dung (153 - 208): làm quan nhà Đông Hán, là nhà quân phiệt đầu thời Tam Quốc. Ông là cháu 20 đời của Khổng Tử, nổi tiếng học giỏi. Cấp Ảm: xuất thân là quý tộc nước Vệ đời Chu, nổi tiếng làm quan có tính khí uy nghiêm, ngay thẳng, nên không được hoàng đế ưa chuộng. Tào Tháo (155 - 220): là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối đời Đông Hán, nhưng hình ảnh của ông thường được mang ra làm biểu tượng cho sự dối trá, vô liêm sỉ do ảnh hưởng của bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa. Ông đi theo con đường bá đạo, trọng lợi hơn trọng đức, dùng người cốt hiệu quả không tính đến phẩm chất. Từ thế kỉ 20, các học giả có nhìn nhận khách quan hơn về Tào Tháo, có nhà văn nhà thơ còn đánh giá ông là anh hùng. Trương Thang: một vị quan cùng thời với Cấp Ảm, thường tranh luận với Cấp Ảm.
08. Chán sống rồi
Theo số liệu tuổi thọ quốc gia của Nhật Bản, tuổi thọ của người dân Nhật Bản trong vòng 20 năm qua xếp thứ nhất trong số các quốc gia trên thế giới.Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 85 tuổi. Tuổi thọ trung bình của nam giới là 78 tuổi. Ấy nhưng, người Nhật Bản cũng chẳng lấy làm vinh dự. Trái lại họ hy vọng không sống quá lâu, ai ai cũng mong chết sớm hơn một chút. Trước đây, Nhật Bản có hai bà lão có tuổi thọ cao nhất, một người được trao danh hiệu là "bà lão Vàng", người kia là "bà lão Bạc", hai người là chị em gái, họ từng du lịch thế giới. Quả là một cảnh tượng hiếm thấy. Tuy nhiên, Trung Quốc có một câu tục ngữ: Lão Thọ Tinh ăn thạch tín - nghĩa là chán sống rồi. Thạch tín là một hợp chất hóa học có độc tính vô cùng mạnh, ăn vào sẽ khiến người ta mất mạng. Có người mong muốn sống lâu một chút. Có người không mong muốn sống lâu. Rốt cuộc sống bao lâu thì được xem là tốt, việc này vẫn còn mỗi người một ý. Cá nhân tôi cho rằng: "Đã tỏa sáng rồi, có thể chết!" "Đã tuyệt vời rồi, có thể chết!" "Đã có ý nghĩa rồi, có thể chết!" "Đã chứng ngộ rồi, có thể chết!" "Đã đi đến tận cùng rồi, có thể chết!" (Tuổi thọ dài hay ngắn, không quan tâm!) Các đệ tử của tôi ở khắp nơi trên thế giới hàng năm đều chúc thọ lão già đã chín nẫu là tôi đây, họ luôn luôn hô to khẩu hiệu: "Thường trụ thế gian, không nhập Niết Bàn." Khẩu hiệu này như sấm nổ bên tai, âm thanh rầm rầm không bao giờ dứt. Tôi ẩn cư ở chân trời góc bể, trong lòng cảm thấy buồn rầu làm sao! Kì thực con người này của tôi rất bình thản, chẳng có một chút nào bận tâm. Tôi lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để rời đi. "Thường trụ thế gian, không nhập Niết Bàn" ư? Ha ha! Điều này là lý tưởng, không thực tế. Tôi ngưỡng mộ Lưu Linh, một trong số Trúc Lâm Thất Hiền (*) thời nhà Tấn. Ông ấy rất vui tính, mỗi lần đi xa khỏi nhà sẽ gọi người hầu đem theo một cái xẻng. Ông ấy nói: "Nếu như tôi chết ở đâu thì làm ơn chôn tôi ngay tại chỗ đó." Lưu Linh cho thấy rằng ông ấy đã chuẩn bị cho cái chết có thể đến bất kì lúc nào. Tôi càng ngưỡng mộ Trang Tử, ông ấy càng tiêu dao hơn nữa. Trang Tử lúc sắp chết, đệ tử của ông muốn chôn sâu vì đệ tử sợ rằng hài cốt của Trang Tử sẽ bị lũ chim quạ đến rỉa. Trang Tử nói: "Chôn nông thì làm thức ăn cho chim quạ, chôn sâu thì làm thức ăn cho chuột kiến, không cho loài này thì cho loài kia, sao phải thiên vị!" Ý của Trang Tử là chết thì đã chết rồi, cứ kệ nó đi! Người mà tôi không đánh giá cao nhất chính là người sống lâu nhất Trung Quốc - Bành Tổ (*). Bành Tổ là con cháu của vua Chuyên Húc, là con trai thứ ba của Lục Chung - tên là Tiên Khanh, vốn là chư hầu của vua Nghiêu, lấy tên của thái ấp (Bành Thành) do vua phong cho làm họ, nên thành ra gọi là Bành Tổ. Bành Tổ sống đến cuối đời nhà Thương, khi đó đã sống 760 tuổi rồi. Người ta đồn rằng ông sống lâu là do dùng bột vân mẫu (*) lấy từ trên núi Vân Mẫu nên giữ được trẻ mãi. Bành Tổ lấy nhiều vợ, sinh nhiều con cái, có nhiều cháu chắt. Cuối cùng vợ con đều chết hết, cháu chắt cũng chết hết, con cái của cháu chắt cũng chết hết, hết con cháu này đến con cháu khác đều chết hết, chết sạch sẽ không còn một ai, chết nhiều đến mức không thể đếm được, thế mà Bành Tổ vẫn còn sống! Tôi cảm thấy Bành Tổ có một khả năng đặc biệt, tôi tặng ông ta mấy chữ: "Ông già tiễn cái chết!" Có đệ tử lòng dạ bất lương hỏi: "Sư Tôn, vì sao ngài không chết luôn đi?" Tôi chết rồi thì anh ta có thể làm chủ tông phái. Tôi ngoan cố không chết, tôi sẽ tiếp tục viết văn. Cứ từ từ mà đợi đi nhé! Vào lúc các đệ tử không chú ý. Thì tôi sẽ chết! Đây gọi là: "Lợi dụng sơ hở, trốn mau!" ------------------------------- Trúc Lâm Thất Hiền: là tên dân gian gọi nhóm bảy học giả, nhà văn và nhạc sĩ theo trường phái Đạo giáo, sống trong rừng trúc đời nhà Tấn khoảng thời gian thế kỉ thứ 3-4. Bành Tổ: là một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa được cho là sống lâu tới 800 tuổi, từ đó dân gian có câu "sống lâu như ông Bành Tổ". Bột vân mẫu: làm từ đá vân mẫu, đây là một loại muối khoáng, là một trong những vị thuốc thượng phẩm, rất quý.
09. Ông lão 80 tuổi
Trên cõi nhân gian này, để tính đếm tuổi thực tế có ba cách:Một là cách đếm của người bình thường, tính từ năm sinh ra cho đến năm qua đời thì dừng lại. Đây gần như là cách mà hầu hết mọi người đều tính theo. Ví dụ: Có một người sinh vào năm 1000 sau Công Nguyên, sống đến năm 1100 thì chết, thì là 100 tuổi. Người phương Đông tính thêm tuổi mụ. Người phương Tây tính tuổi tròn. Bất kể là phương Đông, phương Tây thì sự sai khác chỉ có một tuổi, không cần phải quá bận tâm. Hai là, tính tuổi tinh túy. Có một bài thơ viết như sau: Bách niên tam vạn nhật. Lão bệnh thường cư bán. Kỳ gian hỗ ưu lạc. Ca tiếu tạp bi thán. Điên đảo bất tự tri. Trực vy thần sở ngoạn. Tu tẩu tự kham tiếu. Vạn sự phong vũ tán. Tự thung thức thử lý. Cửu tạ thiếu niên bạn. Dịch thơ: Trăm năm ba vạn ngày, Bệnh già chiếm hết nửa, Còn lại lẫn buồn vui Hết cười rồi lại khóc, Điên đảo chẳng biết chi. Tinh thần rong chơi khắp. Già nên tự vui cười, Mưa gió vạn sự tan, Biết lý này hiểu rõ, Sớm trọng bạn tuổi xanh. Đây là phương pháp tính tuổi tinh túy một cách "lý trí". Ví dụ: Có người sống 100 tuổi. Trừ đi số ngày bị bệnh thì chỉ còn 50 tuổi. (bao gồm cả ngủ) Lại trừ đi những lúc lo lắng u sầu điên đảo mà không tự biết, thì chỉ còn 25 tuổi. Người sống 100 tuổi, nhưng tính cho đúng ra thì chỉ sống 25 tuổi. Những ngày tháng khác đều là sống vô ích. Trên thế giới này có bao nhiêu người là thực sự đang sống. Mọi người nghĩ mà xem, có lẽ đa số chỉ là những xác chết biết đi, ăn không ngồi rồi, kéo lê bộ xương khô, qua một ngày lại đếm một ngày. Những ngày tháng chẳng có chút ý nghĩa nào chẳng phải là sống vô ích thì là cái gì? Đây gọi là đổ xúc xắc giết thời gian. Đây gọi là lãng phí thức ăn thức uống. Đây gọi là những cái xác đang sống. Đây gọi là cuộc sống chán chường. Tôi nhìn những con người này, nói sống 100 tuổi nghe thì thật là thọ đó mà! Thực sự trong con mắt của tôi họ chỉ có 25 tuổi thôi. Người sống càng về già thì càng bảo thủ, càng già càng hồ đồ, càng già càng điên dở, càng là những kẻ thông thái rởm, càng lãng phí lương thực, càng già nghiệp chướng càng nặng. Thực chất là "yểu thọ" mà! Cho nên chỉ sống được 25 tuổi thôi. (Tính toán tỉ mỉ ra thì 25 tuổi còn là quá "hời" cho họ rồi đó.) Ba là phương pháp tính kéo dài năm tuổi, cách này thuộc về phương diện tâm linh, trên phương diện hình tướng. Có người tu hành nói: "Ông ta mỗi ngày đều sống an tịnh, sống với tâm thanh thản, vô lo vô nghĩ, người khác sống một ngày tương đương ông ta sống hai ngày." Ý ở đây muốn nói là người khác sống gấp gáp vội vã. Còn ông ta thực sự biết cách nắm lấy từng ngày một, tận dụng hết từng phút từng giây, sống vô cùng nghiêm túc. Người khác sống được một ngày. Ông ta coi mình sống được hai ngày. Nếu người khác sống 100 tuổi, ông ta xem như sống 200 tuổi. Tôi dùng cách này để tính tuổi của mình. Tôi tính tuổi trung bình là 61 tuổi. Tôi sinh năm 1945, năm nay là 2005. Vào khoảng thời gian từ 38 đến 40 tuổi thì tôi đắc đạo. 20 năm sau đó tôi độ hóa chúng sinh không bỏ lỡ một giây phút nào, độ 500 vạn chúng sinh, 30 tòa Lôi Tạng Tự, hơn 300 đường hội. Tôi kể cả khi ngủ đều đi vào tam muội để đi độ hóa chúng sinh không ngừng nghỉ. Vừa tu pháp, vừa thiền định, vừa viết văn, mỗi ngày trôi qua vô cùng có ý nghĩa, một ngày bằng như hai ngày. Nếu như 40 tuổi tính theo cách tính tuổi thông thường thì là 40 tuổi. 20 năm sau đó tính theo phương pháp kéo dài số năm tuổi, thì cũng là 40 tuổi. 40 tuổi thêm 40 tuổi nữa là 80 tuổi, lão già này đã 80 tuổi rồi. Ha ha! Tôi sắp biến thành lão yêu quái già rồi!
10. Chưa từng đóng vai nam chính
Trong suốt cuộc đời này tôi rất thích xem kịch.Khi tôi còn nhỏ có nhà hát Tân Hưng ở Cao Hùng là gần nhà tôi nhất. Tôi là khán giả thường xuyên của nhà hát Tân Hưng. (Nhà hát Tân Hưng nay đã không còn tồn tại nữa.) Lúc nhỏ tôi không có tiền, mà không có tiền thì làm sao xem kịch chứ! Mánh khóe láu cá nhất của tôi là: quan sát những người lớn mua vé, đúng lúc họ muốn vào bên trong nhà hát, tôi sẽ làm bộ đáng thương nói với ông (bà) đó: "Bác ơi, bác đưa cháu vào cùng có được không?" Hoặc là: "Dì ơi, dì cho cháu vào cùng có được không?" Những người lớn đó sẽ tiện tay túm lấy quả bí lùn là tôi đây dắt vào bên trong. Trò bịp này ít khi nào thất bại. Ha ha! Tôi thích xem kịch đến mức mê muội. Ngoài mánh khóe này ra tôi còn nhiều trò khác, ví dụ: 1. Trèo tường. 2. Khi nhà hát chưa diễn, tôi sớm đã trốn trong nhà vệ sinh. 3. Buổi diễn trước kết thúc, người ta đi ra, tôi đi vào, dáng người tôi nhỏ thó. 4. Nhặt vé đã bị xé, đem dán lại. v.v... Có một buổi tối chỗ ngồi trong rạp hát chỉ có một mình tôi ngồi xem phim, bởi vì tối hôm đó có mưa bão, gió mưa vần vũ. Kết quả là ông chủ nhà hát tìm tôi thương lượng, tình nguyện trả lại tiền cho tôi, còn đền bù cho tôi hai buổi xem phim miễn phí để đổi lại cho việc tối hôm đó họ sẽ không biểu diễn. Oa! Vạn tuế! Vạn tuế! Mọi người xem, có phải là tôi mê kịch đến phát cuồng không? Trong cuộc đời tôi, tôi thừa nhận tôi là người rất thích xem kịch. Tôi với thân phận người xem kịch đã đi hết cả cuộc đời này. Tôi từ đầu đến cuối đều là ngồi bên dưới sân khấu để xem kịch. Có lẽ mọi người sẽ cảm thấy vô cùng hoài nghi, Lư Sư Tôn chẳng phải là người thành lập Chân Phật Tông sao? Lẽ ra phải là lãnh đạo chứ! Tôi thật lòng nói cho mọi người biết: "Người sáng lập" chỉ là trên danh nghĩa. Tôi sáng lập cũng tương đối rồi mau chóng tẩu thoát rồi! Người sáng lập chỉ là cái biển tên treo lên mà thôi, thực sự là "mạo danh". Tôi không phải là tổng hội trưởng của hội công đức Hoa Quang. Tôi không phải là chủ tịch Chân Phật báo. Tôi không phải là chủ tịch tạp chí Nhiên Đăng. Tôi không phải là trụ trì của Lôi Tạng Tự trên toàn thế giới. Trụ trì Đài Loan Lôi Tạng Tự với tôi chỉ là cái bảng tên treo, tôi cũng chưa từng một ngày làm trụ trì. Tôi thực sự chưa từng làm nhiệm vụ của một trụ trì. Xin lỗi! Cái đó cũng là "mạo danh" đấy. Ủy ban tổng hội Mật giáo trên thế giới, tôi cũng chưa từng nhận vai trò làm tổng giám đốc. Tôi cũng chưa từng làm chủ tịch của nhà xuất bản Văn Hóa Đại Đăng. Tôi càng không phải là ủy viên trưởng của Tông ủy hội. Xin mời các đệ tử Chân Phật Tông nghĩ thử xem, tôi Lư Thắng Ngạn, liệu có thể đã từng nhận các chức vụ hội trưởng, chủ tịch, trụ trì, tổng giám đốc, tổng sự trưởng, ủy viên trưởng,… không? Có hay không? Đáp án là: "Không có." Viện trưởng viện Phật học? "Đương nhiên càng không phải là tôi." Tôi đã đi ẩn cư từ lâu rồi! Chỉ một thân một mình tôi với thế giới. Tôi muốn giải thích cho mọi người, tôi chỉ là khéo léo mạo danh làm người thành lập Chân Phật Tông, thực sự một chút tước hiệu tôi cũng chẳng muốn. Tôi hết lòng cảm ơn và chúc phúc đến tất cả những người phụ trách, cầu chúc các việc pháp vụ sẽ thịnh vượng, thiên thu vạn tải (*). Tôi có một câu này không biết nên nói hay không nên nói. Đó là nếu như ai có hứng thú đối với danh hiệu "người sáng lập", tôi sẵn lòng trao danh hiệu "người sáng lập" cho người đó. Không biết có ai muốn không? Bởi vì tôi chỉ là xem kịch thôi. Thích xem bộ: Chân Phật Tông đại kịch. Trước nay tôi đều chưa từng đóng vai nam chính. Với lối sống cô tịch này, tôi từ đầu đến cuối chỉ là một "người xem kịch" mà thôi. -------------------------- Thiên thu vạn tải: đầy đủ là "thiên thu vạn tải, nhất thống giang hồ", là một câu nói trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, ý nói trong thời gian dài nghìn năm vạn năm.
11. Đời người giống như đèn kéo quân
Thánh Khổng Tử nói:Tứ thập nhi bất hoặc. Ngũ thập nhi tri thiên mệnh. Lục thập nhi nhĩ thuận. (*) Hãy lấy vận mệnh của chính tôi để bàn luận. Khoảng 25 tuổi tôi đã vang danh sáng chói, tiếng tăm khắp Đài Loan: Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, thần toán đệ nhất, tiếng tăm chấn động cả một hòn đảo Đài Loan xinh đẹp. Thế nhưng ngược lại, trong giới tôn giáo, trong giới chính trị, trong giới văn hóa, trong giới truyền thông thì người ta thấy tôi chẳng thể nào chấp nhận được. Tôi cũng chẳng có cách nào trụ lại ở Đài Loan, đây cũng là một thực tế. Do vậy vào năm 38 tuổi, tôi đến nước Mỹ, ở Mỹ đóng cửa tu luyện. Khổng Tử nói, bốn mươi tuổi không còn mê hoặc, ứng nghiệm trên chính tôi. Tôi bốn mươi tuổi thì ngộ đạo, chính là không còn mê hoặc. Tôi sang Mỹ, sau bảy năm thì quay về Đài Loan, cũng lại gây ra chuyện náo động. Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng, ba đại pháp hội của tôi ở Bắc Trung Nam làm khuấy động cả Đài Loan. Tuy nhiên cái xã hội cuồng điên lúc đó vẫn gieo rắc rất nhiều nhân tố bất ổn. Tôi: Ở Đài Loan gặp "Thời báo chu san" (*). Ở Hồng Kông gặp "Nhất chu san". Ở Malaysia gặp "Tiên sinh chu san". Bởi vì tôi không hiểu cách thức hoạt động của truyền thông, cũng không biết là cần phải có quan hệ công chúng, do vậy vận mệnh của tôi khá hiển nhiên (là sẽ gặp vấn đề). Trở về Mỹ, tôi cũng lại vừa đụng chạm đến quyền lực của Tuyên Hóa thượng nhân, lại vừa đụng chạm đến quyền lực của Tinh Vân đại sư nữa. Kết quả là gần như ở Đài Loan tôi không có chỗ đứng, ở Mỹ cũng không có chỗ đứng. Tôi chỉ có thể ở những chỗ hẹp còn lại mà tìm cách tồn tại. Tôi cười xòa. Hóa ra xã hội có hắc đạo. Giới tôn giáo cũng có hắc đạo. Giới chính trị cũng có hắc đạo. Giới văn hóa càng có hắc đạo. Cuộc đời này của tôi cũng giống như một con quay hồi chuyển, bị cuốn vào những vòng xoáy đen, bị người ta lôi lôi kéo kéo. Có một năm tôi cao hứng về Đài Loan làm đại pháp hội, lại bị cuốn vào vòng xoáy đen. Tôi lại không thể nào trụ lại Đài Loan, thế là tôi đi hoằng pháp ở các nước trên thế giới. Lúc tôi 50 tuổi, tôi đã hiểu cuộc đời đầy rẫy khó khăn của tôi. Thực tế là số mệnh đã định, số phận, chính là số phận! Khổng Tử nói, 50 tuổi biết rõ sứ mệnh. Trước 50 tuổi, tôi thực sự hỗn loạn bất an. Tôi dựa vào tính cách thẳng thắn, lòng tin kiên định là mình không thể bị lôi kéo, giống như chiếc đèn kéo quân, nên tôi đã đưa Mật giáo ra công chúng, giành được sự tôn trọng của 500 vạn đệ tử. Nhưng tiếng tăm ngoại giới của tôi cũng bùng lên, tôi nhanh chóng bị hiểu lầm, sự thật càng bị bóp méo xuyên tạc. Khổng Tử nói chẳng sai: 50 tuổi biết rõ sứ mệnh. Tôi có một cuộc đời phân làm hai cực. Một mặt tôi chống lại trào lưu, dũng cảm tiến lên phía trước, hoằng pháp không chút sợ hãi hay lo lắng. Một mặt trên thực tế, tôi chỉ luôn chịu những giày vò đau đớn, tai họa liên miên, có lẽ đây chính là thiên mệnh của tôi. Trời biết. Đất biết. Tôi biết. Anh biết. Bây giờ tôi đã 60 tuổi, tôi đã ẩn cư rồi. Tôi đã đi qua một đời người chẳng giống ai. Tôi bây giờ đã là một ẩn sĩ, khu rừng ẩn cư của tôi thanh tịnh vô vi, nơi mà những người ẩn cư bình thường muốn cũng chẳng có được. Có người nói: "Lư Thắng Ngạn không màng danh lợi, không đơn giản!" Có người nói: "Lư Thắng Ngạn dũng cảm lui về, không đơn giản!" Tôi cười hi hi: "60 tuổi thuận theo thiên mệnh, đây là điều chẳng thể nào tránh được!" -------------------------- (*) Ý theo Nho đạo - Khổng Tử: 40 tuổi thì không ngờ vực: đã trở nên hiểu biết đầy đủ chín chắn về thiên nhiên và nhân sinh, nên không còn ngờ vực điều gì nữa. 50 tuổi thì biết mệnh trời: biết được sứ mệnh của bản thân trên thế giới này là gì. 60 tuổi thì biết nghe theo (thuận theo thiên mệnh): không còn cưỡng lại thiên mệnh như hồi còn trẻ nữa, chấp nhận nghe theo "thiên mệnh" và những gì xảy tới cho mình, hoặc mình có thể làm được. Chu san: báo hoặc tạp chí phát hành mỗi tuần một số.
12. Thế giới mạng nhện
Nơi tôi đóng cửa ẩn cư, phía sau là rừng núi xanh thẳm, trốn trong rừng có rất nhiều nhện. Mỗi lần tôi đi kinh hành, trên đầu, trên cổ, trên mặt tôi đều bị mạng nhện dính đầy. Vì thế tôi vừa đi, vừa phải dùng tay gạt trái gạt phải để giữ cho tơ nhện không dính vào người. Nhện không chỉ có ở sau núi, bọn chúng cũng "di cư", di cư đến sống dưới mái nhà của tôi, giăng mạng nhện lên cửa sổ kính của nhà tôi, trên cửa đi cũng giăng mạng nhện. Cuối cùng bọn chúng di cư hẳn vào trong phòng. Không ngờ đến trong tủ quần áo cũng có nhện, góc nhà có nhện, nhà bếp có nhện, phòng ngủ có nhện, đến cả vòi nước cũng bò ra mấy con nhện. Tôi đi lại phải rất cẩn thận, nếu mà bất cẩn sẽ giẫm chết lũ nhện. Nhện và tôi cùng ẩn cư. Nhện và tôi cùng chung sống. Một trong năm giới của Phật giáo, giới đầu tiên chính là: không sát sinh. Trên nguyên tắc, giới sát mà như giết người thì nặng, còn giết các loài khác thì nhẹ. Về vấn đề này, tôi không đồng tình một cách mù quáng, bởi vì từ đầu tôi đã nói, côn trùng - con người, - Phật cả ba đều không khác biệt. Con người là sự kết hợp của tinh trùng và trứng mà sinh ra. Con người và các giống loài khác chẳng có phân biệt nặng nhẹ gì hết. Hơn nữa: Giết một con côn trùng, cũng là tội. Thế nên mới nói: "Sơ quả canh địa, trùng ly tứ thốn." (*) Bây giờ có vấn đề là: Thứ nhất, cửa sổ kính bên ngoài phòng của tôi đầy mạng nhện, đến mức độ trông rất kinh dị rồi, vô cùng bẩn thỉu. Thứ hai, mạng nhện bên trong phòng có cần phải quét sạch không? Chúng có làm tổn hại đến sức khỏe con người không? Vẫn còn may là loài nhện này không phải là nhện độc rừng châu Phi. Thứ ba, tôi giữ giới không sát sinh, nhưng bởi vì tôi không sát sinh, cũng lại để cho nhện làm mạng nhện, khiến chúng lại giết càng nhiều kiến và côn trùng hơn, ăn càng nhiều kiến và côn trùng. Tôi bảo vệ chúng sinh, nhưng cũng giúp giết rất nhiều chúng sinh. Thứ tư, nếu tôi quét mạng nhện mà không giết nhện, lũ nhện có chết đói không? Gián tiếp sát sinh? Thứ năm, nếu tôi không giết nhện, nhện bố và nhện mẹ kết hợp lại sẽ sinh ra vô số nhện con, chẳng mấy chốc mà tôi biến thành "người nhện". Đến cốc trà của tôi cũng có nhện và tơ nhện. Thứ sáu, lũ nhện này ở khắp mọi nơi, tôi có thể vô tình nằm lên, dẫm lên, ngồi lên, có tính là phạm tội không? Những vấn đề này của tôi có cách giải quyết hay không thể giải quyết? Sau đó tôi đọc đến "Thập tụng luật" quyển số 11, Phật Đà đích thân giúp tăng chúng loại trừ bọ trên giường đệm. "Thập tụng luật" quyển số 37, phòng tắm ẩm ướt sinh ra côn trùng, Phật Đà nói phải cọ rửa cho sạch sẽ. Tôi đột nhiên "sáng đèn" (*). "Giữ giới hay phạm giới, hoàn toàn ở tại tâm!" "Niệm vãng sinh chú, 108 biến!" Tôi thực hiện: "Có trùng thì quán là không có trùng." "Không có trùng cũng quán là không có trùng." (*) Tôi cầm một cây chổi lớn từ trong phòng quét ra ngoài phòng, tôi dùng "bàn tay Như Lai", "giáng cho lũ nhện thập bát chưởng", tôi khinh khỉnh, một mạch tống khứ chúng đi hết. Chỉ trong chốc lát, "kiếm chỉ nam sơn", "hoành tảo thiên quân", "hắc hổ hồi tâm", "bạch xà thổ tín"... (*) Trong phòng sạch sẽ rồi. Ngoài phòng sạch sẽ rồi. Không có trùng cũng quán thành không có trùng! Ha! Ha! Tất cả đều không phạm. Tôi không có tâm tức giận, chỉ có tâm từ bi. Mọi người xem xem, tôi vì lũ nhện mà nghĩ nhiều như vậy, lại còn niệm nhiều chú vãng sinh như vậy, nước cờ này đủ đẹp rồi.
----------------------- Sơ quả canh địa, trùng ly tứ thốn: hành giả chỉ cần vừa đạt tới quả vị Sơ địa đã tự nhiên sẽ phải luôn tìm cách xa các loại côn trùng 1,32m (tứ thốn) để tránh gây tội sát sinh. (Do họ đã hiểu thấu sức mạnh của giới luật và tự muốn gìn giữ giới luật.) Sáng đèn: Sư Tôn dùng từ có tính chất hài hước ở đây, lấy biểu tượng bóng đèn sáng để biểu thị việc nảy ra sáng kiến. Quán tưởng trùng: dù có côn trùng hay không có côn trùng thì đều quán tưởng là không trùng cả. Tất cả vốn đều là Không. Kiếm chỉ nam sơn, hoành tảo thiên quân, hắc hổ hồi tâm, bạch xà thổ tín: tên các chiêu thức võ học nổi tiếng trong các võ phái như Thiếu lâm... Tôn Sư đùa, múa may chổi với các chiêu thức võ học để quét nhện.
13. Rốt cuộc tôi ở đâu?
Rất nhiều đệ tử muốn biết: "Sư Tôn rốt cuộc là ở đâu?"Ở Tahiti? Ở Hawaii? Ở Đài Loan? Ở Mỹ? Ở …? Có nhiều đệ tử đi khắp nơi, có người nói đã trông thấy Sư Tôn rồi, có người nói nhìn thấy xe của tôi. Có người nói rất giống, rất giống. Có người nói hình như khắp thế giới đều có dấu vết của Lư Sư Tôn. Trông thấy rồi. Lại biến mất nữa rồi. Kì thực tôi chẳng cố định ở chỗ nào cả. Nghĩ mà xem, thế giới hiện đại ngày nay giao thông thuận lợi như vậy, chỉ cần lên máy bay, con người chẳng cần động, máy bay di động. Lấy từ Đài Bắc để nói, ba giờ bay là đến Nhật Bản, Hàn Quốc, tám giờ bay là đến Hawaii, 12 giờ bay là đến Tahiti, 12 giờ bay là đến Seattle, 16 giờ bay là đến New York. Đất nước nào dù có ở nơi xa xôi trên thế giới thì trong vòng 24 giờ đều gần như có thể đến được. Châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, Nam Bắc cực… Lư Sư Tôn, rốt cục là ẩn cư ở đâu? Tôi có thể đổi tới đổi lui, (tiện đâu ở đó), hôm nay ở chỗ này, ngày mai ở chỗ kia. Bạn nói: "Tôi chắc chắn Lư Sư Tôn ở…" Tôi cười: "Đến chính tôi cũng không thể chắc chắn, bạn chắc chắn được à?" Bởi vì chỉ cần bị một người trông thấy thôi là buổi tối tôi sẽ bay vào trong hư không, thả mình cứ thế trôi đi. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, tôi là một ẩn sĩ chân chính. Rốt cuộc tôi ở đâu, ngay cả chính tôi cũng không biết. Nhưng tôi có thể cho bạn một đáp án, tôi ở trên trái đất. (Ấy nhưng cũng không chắc chắn đâu.) Xin mọi người đọc đoạn này của Lão Tử: Thiên hạ - Chương thứ 30. "Lão Tử nói, con người dù ở trong thiên hạ, nhưng ý lại chẳng ở trong thiên hạ; con người dù ở trong đất nước, nhưng ý lại chẳng ở trong đất nước; con người dù ở quê hương, nhưng ý lại chẳng ở quê hương; con người dù ở nhà, nhưng ý lại chẳng ở nhà; linh hồn dù ở trong thân, nhưng linh hồn lại chẳng ở trong thân, đó là đạo nhân." Bạn hỏi tôi rốt cuộc ở đâu? Tôi đáp: "Hư không." Thậm chí cho dù tôi ở trong một căn phòng, nhưng tôi ngồi bất động, nhập vào tam muội, linh hồn không ở trong người tôi. Nói không chừng tôi đã đi tìm đệ tử để buôn chuyện rồi! Nói không chừng tôi đã đến Tây Phương cực lạc thế giới Maha Song Liên Trì! Nói không chừng tôi đã ở Đông Phương Lưu Ly thế giới! Nói không chừng tôi đã ở cõi trời Đâu Suất (*) Nói không chừng tôi đã đi thắng cảnh dải ngân hà! Vậy thì bạn đã hiểu "Thiên hạ chương" của Lão Tử chưa? Người ở đây, ý không chắc đã ở đây, thế nên tôi thường nói: Người nơi lá trên hồ, Tâm nơi Tây Nhã Đồ. (*) Tôi cảm thấy như thế này rất vui, khi mọi người đều đoán xem tôi đang ở chỗ nào. Tôi ở nơi mà "như đến như đi", "đến rồi lại đi", "không đến không đi", thực sự thấy đầu mà chẳng thấy đuôi, thấy đuôi mà chẳng thấy đầu. Ẩn cư năm năm rồi. "Nếu con người ta thực sự có chốn để quay về, thì đó sẽ là tan vào hư không, tự mình trực tiếp tiếp nhận mọi trải nghiệm." "Chỉ khi đó mới biết đại giang đông khứ, (*) vốn chưa từng chảy." "Chỉ khi đó mới biết sơn hà đại địa, (*) chỉ ở trong tâm." Có người nói: "Ẩn cư năm năm rồi, mau ra ngoài thôi! Đã lâu quá rồi." A! Năm năm rồi, tôi cũng chẳng biết. Tôi vẫn nghĩ chỉ mới có một ngày thôi! ------------------------ Cõi trời Đâu Suất: cõi tịnh độ của Bồ Tát Di Lặc. Tây Nhã Đồ: Seattle, thành phố ở bang Washington, Mỹ. Sơn hà đại địa: tất cả đất trời sông núi, nước non. Đại giang đông khứ: trích trong câu "sông lớn chảy về phía đông, sóng cuốn hết thiên cổ phong lưu nhân vật" (Niệm nô kiều - Xích Bích hoài cổ của Tô Thức). "Đại giang đông khứ" mượn hoài niệm về trận đánh Xích Bích - thời Tam Quốc, với hình ảnh Chu Du, nàng Tiểu Kiều, thường tượng trưng cho sự hào hùng, bi tráng, với anh hùng hào kiệt khắp nơi và tình yêu lãng mạn.
14. Trước cửa nhà tôi có con suối nhỏ
Gần đây tôi đọc "Tiểu sử Tô Đông Pha", đọc đến đoạn Tô Thức không ngờ có hai lần tự vẫn, không chùn chân trước nỗi sợ hãi mà liều mình nhảy xuống sông! Tô Thức là một đại thi nhân trong số tám tác gia vĩ đại đời Đường, Tống. Ông là một tài năng tuyệt vời, một học giả uyên bác, lại là một đại học sĩ trong cung Thụy Minh của triều Tống, đại học sĩ viện Hàn Lâm, là thị đậu (thầy giáo) của hoàng đế, có thể nói là quyền cao chức trọng. Ông có hai danh hiệu học sĩ, đây là việc hiếm thấy trong lịch sử. Nhưng vì sao ông ấy lại tự vẫn? Hóa ra là vào năm Tống Nguyên Phong thứ hai, Tô Thức 44 tuổi nhậm chức Thái Thú tại Thái Hồ huyện Hồ Châu. Trong triều đình, Thừa Lý lập mưu hại Tô Thức, khiến Ngự Sử Thư Đản dẫn theo một đội quân người ngựa dùng gông cùm trói Thái Thú Hồ Châu Tô Thức. Tô Thức bị cùm đi, theo đường sông Thái Hồ đi theo dòng sông Dương Tử (Trường Giang) tiến về kinh thành. Ở trên sông Dương Tử, lần thứ nhất Tô Thức nhằm lúc người ta chưa kịp chuẩn bị đã bắt chước Khuất Nguyên (*) nhảy xuống sông tự vẫn. (Kết quả bị người ta phát hiện ra và cứu sống.) Thế là lần tự sát thứ nhất không thành. Lần thứ hai Tô Thức tự sát là khi ở trong ngục Ngự Sử Đài, ông ta ở trong ngục càng nghĩ ngợi càng kinh hãi. Hoàng đế Tống Thần Tông ngu độn, xung quanh ông ta toàn là gian thần tiểu nhân, Tô Thức tự thấy khó sống sót nổi. Thế là Tô Thức tuyệt thực tự sát, để rồi từ từ mà chết. Đây là lần tự sát thứ hai. (Kết quả là Tống Thần Tông tỉnh ngộ, nhận thấy Tô Thức là tài tử đệ nhất thiên hạ, do vậy miễn cho ông ta tội chết, hạ chiếu thả Tô Thức trở về Hoàng Châu.) Tôi biết chuyện Tô Thức hai lần tự sát. Sốc! Việc ông ta tự sát và bị tống vào ngục đều là do cái họa phạm húy khi làm hai câu thơ: Căn đáo cửu tuyền vô khúc xứ, Thế gian duy hữu chập long tri. (*2) Dịch thơ: Rễ đến suối vàng không uốn khúc, Thế gian rồng nấp tự biết thôi. Người ta cho rằng ông mượn thơ để chửi hoàng đế, hoàng đế là thiên long mà lại ví là rồng nấp. Còn nữa: Khởi thị văn thiều giải vong vị, Nhĩ lai tam nguyệt thực vô diêm. Dịch thơ: Hương vị tuyệt vời quên đâu dễ, Ba tháng nay rồi muối không ăn. Ông bị cho là công kích luật độc quyền cung cấp muối của triều đình. Ngoài ra, ông còn bị cho là phản đối luật lệ mới, pháp thanh miêu (*), pháp thủy lợi, v.v… Tất cả đều là do phạm húy trong thơ mà thành đại họa. Tô Thức hai lần tự sát, có hai bài thơ tuyệt bút do chính ông viết gửi cho em trai Tô Triệt. Bài số 1: (Ngục trung ký Tử Do nhị thủ kì 1) Thánh chủ như thiên vạn vật xuân, Tiểu thần ngu ám tự vong thân. Bách niên vị mãn tiên thường trái, Thập khẩu vô quy canh lũy nhân. Thị xứ thanh sơn khả mai cốt, Tha thì dạ vũ độc thương thần. Dữ quân kim thế vy huynh đệ, Hựu kết lai sinh vị liễu nhân. Dịch thơ: Thánh chúa như trời vạn vật xuân, Tiểu thần ngu muội tự diệt thân. Trăm năm chưa trả xong nợ cũ, Mười miệng không chăm càng mệt thân. Nơi đây núi biếc chôn xương được, Lúc khác mưa đêm tự đau lòng. Với em kiếp này là huynh đệ, Lại hẹn kiếp sau kết nhân duyên. (Tô Thức giao cả gia đình mười người nhờ Tô Triệt chăm sóc.) Bài số 2: (Ngục trung ký Tử Do nhị thủ kì 2) Bách đài sương khí dạ thê thê, Phong động lang đang nguyệt hướng đê. Mộng nhiễu vân san tâm tự lộc, Hồn kinh thang hỏa mệnh như kê. Nhãn trung tê giác chân ngô tử, Thân hậu ngưu y quý lão thê. Bách tuế thần du hà xứ định, Đồng Hương tri tráng Chiết Giang tê. Dịch thơ: Bách Đài sương khói đêm lạnh lẽo, Gió thổi chuông reo ánh trăng tà. Mơ về mây núi lòng thấp thỏm, Sợ giống gà kia thành canh ngon. Con thơ trong mắt tuổi bẻ sừng, Vợ già thẹn trong áo da trâu. Trăm tuổi hồn phiêu ở nơi nào, Mồ ta nơi đó Chiết Giang Tây. Hai bài thơ này là tổng hợp của sự cô độc, vô vọng, phẫn nộ, oan ức và thống khổ. Thử nghĩ mà xem, tài hoa của Tô Đông Pha, trí huệ của Tô Đông Pha, sự cần cù chính trực yêu dân của Tô Đông Pha, tấm lòng vì nước vì dân của Tô Đông Pha, cũng đều dẫn đến một kết cục là hai lần tự sát. Thậm chí sau đó ông bị giáng xuống Hoàng Châu, bị giáng xuống Huệ Châu (Lĩnh Nam), bị đày đi đảo Hải Nam. Thực ra quãng thời gian tỏa sáng của Tô Thức rất ngắn ngủi, cả cuộc đời phần lớn là bị đày đi nay đây mai đó. Tiếc thay! Tiếc thay! Thiên hạ đệ nhất tài tử cũng chỉ như thế này thôi. Đọc sách xong, tôi gập sách lại mà không ngớt thở dài. Đến cả lão già đóng cửa ẩn cư là tôi đây cũng chẳng tránh được sự buồn phiền. Cũng còn may tôi hiểu được "nhẫn nhục ba la mật". Nếu có người hỏi: "Lư Thắng Ngạn, liệu ông có tự sát không?" Tôi sẽ nói: "Trước cửa nhà tôi có một con suối nhỏ, tôi sẽ nhảy xuống suối." "Nhảy xuống suối làm cái gì?" "Bơi!" --------------------------- Khuất Nguyên: nổi tiếng với câu "Cả thiên hạ say, một mình ta tỉnh", rồi nhảy xuống sông tự vẫn. (*2) Chính vì hai câu này, trong bài thơ Vịnh hai cây thông ở nhà tú tài Vương Phục - kì 1 viết ra mà Tô Thức suýt bay đầu vì "chập long" nghĩa là rồng nấp. Rồng tượng trưng cho vua thì phải ở trên trời, sao lại là nấp dưới đất, ông bị cho là có ý phản loạn. Pháp thanh miêu: pháp cải cách của Vương An Thạch, pháp này là khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân phải trả lại tiền cộng thêm tiền lãi theo lệ nhà nước định ra.
15. Tôi là kẻ nhu nhược
Từ việc Tô Đông Pha hai lần tự sát, đối với người đóng cửa ẩn cư là tôi đây, dường như có nhiều tác dụng khai sáng. Tô Thức là một con người có tài học, nhân phẩm, đạo đức cao đẹp. Nhưng ông lên voi rồi lại xuống chó trong phút chốc. Cả đất nước trên dưới đều biết ông là đại thi nhân, đại học vấn gia, nhưng cũng vì vậy mà ông phải nhận lấy bao nhiêu lời vu cáo khiến hai lần tự vẫn. Bây giờ tôi muốn hỏi mọi người: "Trên thế giới này, có ai không từng bị vu oan và phỉ báng?" "Thử hỏi trong lịch sử, có thể tìm ra một người chưa từng phải chịu bị vu oan và phỉ báng không?" "Có ai không? Có ai không? Có ai không?" "Hoàng đế ư?" "Quốc vương ư?" "Tổng thống ư?" Thậm chí đến Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ cũng vẫn bị sỉ nhục, còn chưa nói đến việc làm Thủy Hoàng Đế chẳng được mấy năm, công lao coi như bị hủy hoại hết cả. Hán Vũ Đế Lưu Triệt bị sỉ nhục càng nhiều hơn. Vương hầu tạo phản! Lãnh địa của Thành Cát Tư Hãn to nhất, thế mà ông vẫn bị sỉ nhục nhiều đến mức chẳng thể đếm hết. Các bộ lạc tạo phản! Chu Du thông minh nhất, văn võ song toàn, cũng bị Gia Cát Lượng (Khổng Minh) ba lần chọc tức, cuối cùng tức khí mà chết. Nghĩ mà xem, thế giới ngày nay có ai mà không bị chèn ép, không bị sỉ nhục. Nước lớn chèn ép nước nhỏ. Thủ trưởng bắt nạt cấp dưới. Thằng to con ăn hiếp thằng nhỏ con. Người sỉ nhục người. Phật Thích Ca Mâu Ni không bị sỉ nhục sao? Chúa Jesus không bị sỉ nhục sao? Mohammed không bị sỉ nhục sao? Đến Thượng Đế cũng bị sỉ nhục, Thượng Đế khiến người ta tức giận vì không làm được theo ý người ta, không ngoan! Nghĩ đến đây, tôi có thể cảm thấy nhẹ nhõm rồi, bởi vì người bị sỉ nhục trong thiên hạ không phải chỉ có mình tôi. Trái lại người trong thiên hạ chẳng có ai là không bị sỉ nhục cả. Người trong thiên hạ đều bị dồn nén mà tức, đều bị sỉ nhục mà tức, đều bị coi thường mà tức… Tôi đã từng nói, nếu như tôi muốn tự sát thì 100 lần cũng chẳng đủ, cũng may là tôi đã hiểu được đạo lý. Người trong thiên hạ chẳng có ai là không bị ngược đãi. Thánh nhân Khổng Tử cũng bị ngược đãi. Thánh nhân Socrates cũng bị ngược đãi. Lão Tử cũng bị ngược đãi. Trang Tử cũng bị ngược đãi. Thế nên Lão Tử mới viết "Nhu nhược chương". "Lão Tử nói, vạn vật trong trời đất, không gì nhu nhược mềm yếu hơn khí. Khí không thể nhu nhược được bằng Đạo. Đạo chính là nhờ vào sự nhu nhược đó mà bao khỏa cả trời đất, quán xuyên được vạn vật. Nhờ có nhu (mềm) mà sinh ra cương (cứng rắn), nhờ có nhược (yếu) mà sinh ra cường (mạnh), nhưng thiên hạ chẳng nhận biết được điều này để mà làm theo. Vì thế mới nói, Hữu lấy Vô làm gốc, mà Vô lấy Hư làm gốc, Hư lại lấy Đạo làm gốc. Tự nhiên, cũng là căn bản của Đạo vậy." Chúng ta thường nói: Cá to ăn cá bé. Cá bé ăn tôm con. Tôm con ăn đất bùn. Đây là một hiện tượng tự nhiên của việc thiên hạ giao tranh. Thế nên cho phép tôi khuyên mọi người, nếu bạn bị vợ làm cho tức giận, hoặc bị chồng làm cho tức giận, hoặc không phải hai điều này, mà là bị người lạ làm cho tức giận, tôi khuyên bạn: "Mềm mỏng!" "Nhún nhường!" "Tự nhiên!" Đây là người ta sỉ nhục bạn, tôi đâu biết. Người ta đánh bạn, tôi đâu biết. Người ta phỉ báng bạn, tôi đâu biết. Người ta làm hại bạn, tôi đâu biết. Người ta gài bẫy bạn đến chết, tôi đâu biết. Bởi vì tôi đóng cửa ở ẩn rồi. Mọi việc ở thế giới bên ngoài, tôi đâu biết. Cứ cho là biết, thì cũng là chuyện tự nhiên thôi.
16. Lấy "pháp hỷ" làm vợ
Trong năm năm đóng cửa ẩn cư, lúc đầu tôi thấy ít vui, bởi vì trong khoảng thời gian ẩn cư này tôi bị mất đi khá nhiều niềm vui như: Những bài ca ở Biệt thự cầu vồng. Những điệu múa ở Biệt thự cầu vồng. Những trò đùa nghịch ở Biệt thự cầu vồng. Những bông hoa tuyệt đẹp ở Biệt thự cầu vồng. Ban đầu tôi cũng chưa quen lắm với những ngày không có đệ tử đồng tu. Về sau tôi thấy cứ như thế này thì không được, tôi cần phải từ thế giới bên ngoài hướng vào thế giới nội tại. Cần ở bên trong nội tâm của chính mình tìm thấy niềm vui của bản thân, bằng không thì sẽ âu sầu mà chết mất! Trước đây, trong khi thiền định tôi đã có được pháp hỷ, (*) tuy nhiên, trong lúc đóng cửa ẩn cư tôi mới càng thấm thía sâu sắc những điều trên. Vì thế tôi đã đưa ra đáp án: "Lấy pháp hỷ làm vợ!" Những gì tôi nhìn thấy, tôi nghe thấy đều đã không phải ở thế giới bên ngoài, mà đều tập trung ở trong tâm của tôi. Tim của tôi đã biến thành một đóa hoa sen, trên đóa hoa sen không ngờ đã có những bài ca, những điệu múa, những trò đùa nghịch, những bông hoa. Niềm vui từ bốn thứ này không phải là niềm vui của phàm phu tục tử mà là mà đã thăng hoa thành một loại pháp hỷ vĩnh hằng chưa từng có. Nhờ có loại pháp hỷ này, tôi đã vượt qua những ngày tháng đóng cửa ẩn cư suốt năm năm, có được thứ kinh nghiệm vô cùng khó đạt được. Đây chính là diện mạo của một người ẩn cư đích thực. Tôi nói: "Tất cả sự vật đều là vô thường." "Tất cả niềm vui cũng không phải là mãi mãi." "Tất cả vạn sự vạn vật đều sẽ qua đi." "Tất cả của tất cả đều sẽ tĩnh lặng." Tuy nhiên, tới giai đoạn "lấy pháp hỷ làm vợ" thì tôi mới thực sự hiểu được rằng pháp hỷ này chính là một người vợ đích thực. Giải pháp này thật là quá tốt, ta tìm kiếm ở bên trong, không tìm kiếm ở bên ngoài. Người vợ đích thực không ở bên ngoài mà ở bên trong. Thế giới bên ngoài là: Thô bạo. Tàn nhẫn. Cay độc. Thế giới bên trong là: Hỷ lạc. Thanh tịnh. Vô cầu. Tôi nhận ra niềm vui bên ngoài đều không phải là mãi mãi, chỉ có niềm vui bên trong mới là vĩnh hằng. Cái gì mới là vĩnh hằng đây, hóa ra pháp hỷ mới là vĩnh hằng. Tôi không nén được cười khi thấy con người trên thế gian này thực sự là ngốc. Bọn họ đều theo đuổi những thứ sẽ tan biến, theo đuổi một loại hư không, theo đuổi một loại hư vô, theo đuổi tạm thời, theo đuổi nhất thời, mù quáng như những con thiêu thân, hoặc như con muỗi, hoặc như con kiến. Tôi nhận thấy con người thế gian đều mê lầm. Loại niềm vui đó cũng chính là: mộng huyễn, ảo ảnh, sương sớm, điện quang. Tôi nhận ra có một vài thứ vô cùng tàn nhẫn. Tôi nói cho mọi người biết, xin mọi người đừng có giật mình phát hoảng. Tiền Quyền lực và địa vị Đàn bà Nhà cửa Xe cộ Những thứ này sẽ làm mục rữa tự tính của hành giả, sẽ hại hành giả đi đến chỗ chiếm hữu, bám chấp, thành bại, cô đơn, khoái lạc. Tôi đóng cửa ẩn cư, nhờ đi vào tam muội chân chính tôi mới biết pháp hỷ mới là thứ niềm vui vĩnh hằng, pháp hỷ mới là người vợ đích thực. Thượng Sư, pháp sư, đồng môn… Các người đã hiểu chưa? Pháp hỷ mới là "chí lạc" (*) đó!
-------------------------- Pháp hỷ: niềm vui có được khi tu hành theo Phật pháp.
17. Tâm ngao du tới trời
Trang Tử - Ngoại vật (*) nói rằng: "Bào hữu trùng lãng, tâm hữu thiên du. Thất vô không hư, phụ cô bột hoát. Tâm vô thiên du, tắc lục tạc tương nhương. Đại lâm khâu sơn chi thiện ư nhân dã, diệc thần giả bất thắng." Mấy câu nói này của Trang Tử có vẻ như không dễ mà hiểu được, thế nên tôi cố gắng giải thích thêm như sau: Bào hữu trùng lãng: mỗi một tế bào có một vị trí và không gian nhất định. Tâm hữu thiên du: tâm linh của con người có thể thần du vào hư không rộng lớn. Thất vô không hư: nơi ta ở hoàn toàn thiếu không gian. Phụ cô bột hoát: mẹ chồng và con dâu sẽ dễ bất đồng tranh cãi. Tâm vô thiên du: tấm lòng hẹp hòi, bám chấp, không tự do rộng mở. Lục tạc tương nhương: tâm sẽ bị lục phủ ngũ tạng quấy nhiễu không yên. Đại lâm khâu sơn chi thiện ư nhân dã, diệc thần giả bất thắng: con người ở trong thiên nhiên rộng lớn, tâm hồn thư thái là bởi vì núi non rừng cây phù hợp với không gian sống của con người. Tôi cho rằng mấy câu nói này của Trang Tử có hai ý nghĩa chính: 1. Con người cần ngao du trong tự nhiên. 2. Con người cần thần du trong chư thiên. Hai ý nghĩa chính này đều nhấn mạnh: tự do tự tại. Tôi cảm thấy trong năm năm đóng cửa ẩn cư này, tôi đã trải nghiệm và thấu hiểu được cái "ngao du" và "thần du" của Trang Tử. Năm năm này, ngoài khoảng thời gian ban đầu chưa thích ứng được thì khoảng thời gian sau đó tôi đã hoàn toàn tự do tự tại rồi. Đối với số mệnh bấp bênh, đối với nhẫn nhục trước phỉ báng, đối với lối sống đạm bạc không màng danh lợi, đối với hào quang chói lọi, đối với mọi điều sỉ nhục, tôi phản ứng bằng thái độ "chẳng là gì cả". Tai họa khó khăn chẳng là gì cả, phỉ báng chẳng là gì cả, danh lợi chẳng là gì cả, hào quang chẳng là gì cả, sỉ nhục chẳng là gì cả. "Chẳng là gì cả" chính là cái gì cũng chẳng có! Có không? Cơ bản là chính là chẳng có mà! Trước đây, đối với cửa âm phủ, cửa sinh tử của người tu hành thì tôi rất kinh hãi. Các vị tu hành sống ở trong hang động trên vách núi đã dùng tảng đá to chặn chết lại lối cửa ra, chỉ chừa một cái lỗ nhỏ vừa đủ để đưa thực phẩm vào duy trì sự sống. Các vị tu hành sống ở trong các hang động trên vách núi để tu tam muội, mãi mãi không rời khỏi hang cho đến tận lúc chết. Khi đó tôi cảm thấy người tu hành sống trong hang núi giống như chui trong nhà ốc sên, sống cuộc sống chỉ toàn bóng tối. Đêm tối liên miên không dứt, ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, những ngày tháng thế này làm sao sống nổi? Tôi mới nghĩ thế thôi mà tự nhiên đã toát hết cả mồ hôi. Bây giờ cuộc sống đóng cửa ẩn cư của tôi đã trải qua được năm năm rồi, trong năm năm này: Kinh hành trong thiên nhiên rộng lớn. Tâm ngao du tới trời. Tôi đã học được hai điều trên, cùng với đạo của Trang Tử không tìm mà hợp. Thậm chí tôi ở trong phòng, tôi có hai thứ ánh sáng. Một là ánh sáng của thân, tự mình nhìn thấy thân thể mình có ánh sáng. Hai là ánh sáng của tâm, là ánh sáng trong tâm hồn của chính mình, có thể du hành khắp thập phương pháp giới. Tâm với trời có thể cùng tôi du ngoạn, tôi có thể đến mặt trời, tôi có thể đến mặt trăng, tôi đương nhiên có thể ở khắp sơn hà đại địa. Tôi gặp thần tạo hóa - Đại Phạm Thiên. (Brahma) Tôi gặp thần hủy diệt - Đại Tự Tại thiên. Tôi gặp thần bảo hộ - Biến Tịnh Thiên. (Vishnu) Cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, tôi cứ thế đi lại như con thoi. Tôi đã chứng minh cho "tự do tự tại" rồi đấy. Hôm nay nếu như có đệ tử hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài có thể mãi mãi đóng cửa ẩn cư không?" Tôi đáp: "Có thể." Còn đối với việc đóng cửa sinh tử, tôi đáp: "Có gì khó đâu!" ---------------------- Chí lạc: niềm vui lớn nhất. Ngoại vật: chương thứ 26 trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
18. Thư pháp lộn xộn
Tôi nhớ thời tiểu học, thày giáo dạy chúng tôi thư pháp. Mỗi người phải lấy ra một quyển vở viết thư pháp. Trước tiên mỗi học sinh phải học từ trong cuốn sách thư pháp của Liễu Công Quyền. Có một số học sinh rất nghiêm túc "sao chép". Tôi thì làm qua loa đại khái. Khi nộp vở thư pháp, bài tốt thì được điểm A hoặc A+, A+ là tốt nhất. Viết trung bình thì được điểm B. Viết kém nhất thì được điểm C. Vở của tôi sau khi nộp xong, thật kinh ngạc là được: C- Thầy giáo viết mấy chữ rất to ở phía sau quyển vở của tôi: "Thư pháp lộn xộn". Sau này, tôi thực sự không có hứng thú với thư pháp, đối với thư pháp tôi hoàn toàn là làm cho xong chuyện, là đối phó mà thôi. Cuối cùng thầy giáo phê bình cho bốn chữ: "Hết thuốc chữa rồi!" Rốt cục, thư pháp của tôi, ôi chao ơi! Một dấu chấm hết. Thư pháp của tôi thực sự chẳng đáng khích lệ cho lắm. Nhưng tôi biết các phong cách thư pháp, chúng được gọi là: thảo thư, hành thư, giai thư. Lại có sáu thể: cổ văn, kì tự, triện thư, lệ thư, mậu triện, điểu trùng thư. Ở cạnh trung tâm văn hóa Đài Trung có một bản khắc tên các nhà thư pháp đương đại. Có Vu Hữu Nhiệm, có Lữ Phật Đình… A ha! Tôi biết Lữ Phật Đình. Thư pháp của ông ấy quả nhiên là đỉnh cao. Viết rất đúng, viết rất đẹp, viết rất tuyệt vời. Không ngờ là sau này, tôi chẳng rõ vì nguyên do gì mà lại trở thành người sáng lập Chân Phật Tông, lúc đó các đệ tử muốn có được "bảo mực" của tôi.(*) Trời ạ! Tôi làm gì có "bảo mực". Đệ tử nói: "Sư Tôn viết thôi cũng được." Người thầy dạy vẽ tranh của tôi là Chu Mộc Lan nói: "Sư Tôn chỉ cần viết, viết ra là được rồi." Thế là tôi viết. Tôi tự thấy là xấu cực kì, thật là xấu hổ. Thế nhưng các đệ tử thì nâng niu yêu thích như có được gia tài. Có một lần. Tôi viết được vài chữ tặng cho một đệ tử biết về thư pháp. Người đệ tử đó không nói chữ của Sư Tôn kém quá. Anh ta chỉ mua cho Sư Tôn bút, giấy, mực nước, ngoài ra còn có thêm giấy viết nước. Giấy viết nước là dùng để luyện tập viết chữ, chấm bút vào nước sạch để viết là trên giấy sẽ hiện ra nét vẽ, sau khi khô thì chữ cũng biến mất, giấy này dùng để dạy cách viết thư pháp. Người đệ tử đó không nói gì, chỉ nói: "Bút của Sư Tôn hỏng rồi!" Tôi nghe vậy cảm thấy rất buồn cười, lão phu 60 tuổi rồi lại còn đi học thư pháp, như vậy có khác gì cương thi sống lại, cơ bản là không thể được. Tôi làm sao có thể học để trở thành giống như Vương Hy Chi, Đường Dần. Hay như bốn đại tác gia của Bắc Tống: Mễ Nam Cung, Tô Thức, Hoàng Đình Kiên, Thái Tương v.v… Tôi xem những bút tích chân thực quý giá của Tô Đông Pha quả nhiên có khí chất của Lăng Vân, có văn của tác giả rời xa thế tục Thanh Hùng, có chữ của Siêu Diệu nhập thần, đây mới là những đại tác gia thư pháp đích thực. Có một lần, tôi viết mấy chữ thế này: "Dĩ vô niệm vi chính giác Phật bảo…", viết xong càng nhìn càng thấy xấu, cuối cùng trông chúng hoàn toàn như thư pháp khùng điên, hum hum hum hum hum. Tôi bực đến mức muốn xé chữ đi. Thực sự là càng nhìn càng bực, quá là tệ. Nhưng tôi không xé. Rốt cuộc, không ngờ cái bức "lộn xà lộn xộn", "nhìn đã muốn nôn", "như đống phân chó ", "như hoa khô vương vãi", "côn trùng xác xơ"… này đem bán gây quỹ từ thiện đã trở thành bức có giá cao nhất. Tôi thực sự nói cho mọi người biết, thư pháp của Lư Thắng Ngạn, bảo mực của Lư Thắng Ngạn, kì diệu có kì diệu, chỉ có một địa chỉ duy nhất, không có chi nhánh khác.
----------------------- Bảo mực: bút tích quý giá.
19. Mây trôi, mây trôi lại mây trôi
Lúc còn trẻ tôi thích thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch. Thơ của Lý Bạch đến trẻ con cũng đều có thể đọc thuộc lòng: Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương. (*) Dịch thơ: Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương. Bài thơ này mọi người đều thích, ai ai cũng thuộc. Tôi thì thích bài "Nghĩa Đông Sơn" của Lý Bạch: Bất hướng Đông Sơn cửu Tường vi kỷ độ hoa? Bạch vân hoàn tự tán Minh nguyệt lạc thùy gia? Dịch thơ: Lâu chưa về Đông Sơn Tường vi nở mấy lần? Mây trắng tự tan mất Trăng sáng rọi nhà ai? Bài thơ này Lý Bạch làm khi bị người ta làm hại và phỉ báng, nhớ lại những năm tháng xa xưa sống ẩn cư ở Đông Sơn. Núi Đông Sơn ở phía tây nam huyện Thượng Ngu tỉnh Chiết Giang, cũng là nơi ẩn cư của Tạ An thời Đông Tấn. Bài thơ này đọc lên có một cảm xúc mong muốn quay trở về nơi xưa để lại được sống cuộc đời ẩn cư. Còn đối với thơ của Đỗ Phủ, ông có một bài thơ "Bất kiến" (Lâu không gặp) nhớ về Lý Bạch khiến người ta xúc động đến tận tâm can. Bất kiến Lý sinh cửu, Dương cuồng chân khả ai. Thế nhân giai giục sát, Ngô ý độc lân tài. Mẫn tiệp thi thiên thủ, Phiêu linh tửu nhất bôi. Khuông sơn độc thu xứ, Đầu bạch hảo quy lai. Dịch thơ: Lâu không gặp chàng Lý Giả điên thật xót xa! Người đời đều muốn giết Riêng ta vẫn tiếc tài. Linh lợi thơ nghìn khúc. Nổi trôi rượu một ly. Núi Khuông nơi đọc sách, Đầu bạc về nhà thôi! Lý Bạch và Đỗ Phủ, một người là tiên thơ, một người là thánh thơ, có thể nói rằng tiếng tăm của những văn học gia này sẽ còn vang mãi. Hàn Dũ nói: "Lý Đỗ văn chương tại, quang diễm vạn trượng trường." (Còn mãi văn Lý Đỗ, sáng chói vạn trượng dài.) Nguyên Chẩn nói: "Thi nhân dĩ lai, vị hữu như tử mĩ giả." (Thi nhân đã đến nhưng lại không có người có tâm hồn đủ đẹp để thưởng thức.) Đỗ Phủ có bài thơ "Đăng cao": Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai, Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi. Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há, Bất tận trường giang cổn cổn lai. Vạn lý bi thu thường tác khách, Bách niên đa bệnh độc đăng đài. Gian nan khổ hận phồn sương mấn, Lao đảo tân đình trọc tửu bôi. Dịch thơ: Gió lộng trời cao vượn ỷ ôi, Bờ trong cát trắng chim quy hồi. Lá trút cành rơi sầu vô tận, Cuồn cuộn sông dài trôi liên miên. Muôn dặm thu buồn lòng viễn khách, Thân già nhiều bệnh tự lên đài. Gian nan khổ hận sương nhuộm tóc, Thất vọng lìa xa chén rượu đời. Bài thơ "Đăng cao" này của Đỗ Phủ được gọi là thể thơ thất ngôn luật thi kiểu thứ nhất (*). Tôi muốn hỏi bạn đọc xong rồi có cảm nghĩ thế nào? Mọi người đều biết: Lý Bạch bị tống giam, bị trục xuất đến Trường An! Đỗ Phủ những năm cuối đời lưu lạc giang hồ, chỉ còn để lại những cảm xúc hoài niệm về mong muốn được làm quan giúp nước giúp đời. Lý Bạch và Đỗ Phủ, hai con người này: khó khăn, li tán, tai nạn, gian khổ, tiều tụy, nổi trôi. Đỗ Phủ sau cuộc biến loạn An Sử đã rơi vào cảnh lang thang không nhà. Hai đại thi nhân này rốt cuộc cũng chỉ là một chữ: "Thảm!" Bạn có biết bài thơ sớm nhất của Đỗ Phủ đã thể hiện chí lớn như thế nào không? Hãy đọc bài thơ "Vọng nhạc" (Trông núi). Đại Tông phù như hà? Tề Lỗ thanh vị liễu. Tạo hoá chung thần tú, Âm dương cát hôn hiểu. Ðãng hung sinh tằng vân, Quyết tý nhập quy điểu. Hội đương lăng tuyệt đỉnh, Nhất lãm chúng sơn tiểu. Dịch thơ: Núi Đại Tông thế nào? Tề Lỗ xanh thăm thẳm, Tạo hóa ban thần khí. Âm dương chia sớm chiều, Bồi hồi nhìn mây trôi. Đắm đuối trông chim về, Có dịp lên đỉnh núi. Ngắm toàn cảnh núi xanh. (Đại Tông còn có tên là Thái Sơn một trong năm núi linh thiêng. Tề Lỗ là hai nước thời nhà Chu, nước Tề được ban cho vùng đất phía bắc Thái Sơn, nước Lỗ được ban cho vùng đất phía nam Thái Sơn.) Nhưng nhớ về chí lớn năm đó, loạn An Sử đã xảy ra thì còn biết làm sao? (*) Cá nhân tôi khi viết cuốn sách văn tập số 178 "Lên núi ngắm mây bay" đã được nhìn thấy rất nhiều nhân vật lịch sử, ví dụ: Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Lý Thương Ẩn, Vương An Thạch, Lục Du, Văn Thiên Tường, Lưu Cơ, Hoàng Đình Kiên, Trần Sư Đạo, Hoàng Sơn Cốc… Xin hỏi: Họ có phải là từng cụm từng cụm mây trắng lơ lửng, lơ lửng, mãi lơ lửng trôi hay không? Xin hỏi: Trong số họ có ai là không lang thang không nhà? Nếu như có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, vì sao quay lại nơi ẩn cư?" Tôi sẽ nói: "Mây trôi mây trôi lại mây trôi." ----------------------- (*) Bài thơ Tĩnh Dạ Tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tịnh) rất nổi tiếng của Lý Bạch. Thất ngôn luật thi: thể thơ trong đó một bài thơ gồm tám câu, mỗi câu có bảy tiếng. Loạn An Sử: cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông, kéo dài từ năm 755 đến 763, do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh cầm đầu.
20. Không thể đoán được chúng sinh
Ngày trước tôi tốt nghiệp Học Viện Quân Đội, nên nghề nghiệp của tôi là một quân nhân. Tôi phục vụ trong quân đội Trung Cộng hơn 14 năm. Tôi học khoa trắc lượng địa chất, đã học những kiến thức như trắc lượng, vẽ bản đồ, cuối cùng làm đến chức thiếu tá kĩ sư trắc lượng. Tôi là thiếu tá thoái ngũ. Là quân nhân thì phải lấy việc "bảo vệ gia đình đất nước" làm thiên chức. Mặc dù tôi thuộc về liên cần tổng bộ quản, nhưng lực lượng bộ đội hậu cần vẫn là sự hỗ trợ số một của quân đội. Về sau này tôi học Phật tu đạo, đi "đoán" tâm chúng sinh, thì khi ấy mắt thấy mà đau lòng, tâm thấy mà phát hoảng. Tôi nhận thấy tâm chúng sinh rất khó đoán biết, lòng người khó đo lường. Quốc gia này khó đoán quốc gia kia bởi vì: khủng bố, ngược đãi, hiểm độc. Chiến tranh bản chất là giết người tập thể, người giết lẫn nhau, là dùng mọi loại vũ khí tối tân để tiêu diệt đối phương. Vũ khí ngày nay không còn là gươm đao cung tên như thời xưa nữa, mà là: đạn đạo, vũ khí hóa học, vũ khí hạt nhân. Trên thế giới này (trái đất), sau chiến tranh thế giới thứ hai vẫn có vô số mâu thuẫn, những cuộc chiến tranh này có cái là vì tranh giành đất đai lãnh thổ, có cái là vì tranh giành quyền lực vị thế, có cái là vì danh lợi, có cái là vì độc lập tự chủ, có cái là vì tự do dân tộc. Tuy nhiên nhân loại bị áp chế, tử vong và tàn tật là vô số kể. Ngọn lửa chiến tranh vô tình, bất kể là kẻ thắng trận hay bại trận thì cũng có biết bao nhiêu người chết, bao nhiêu gia đình tan cửa nát nhà, biết bao nhiêu người lang thang cơ cực. Tôi thường cố gắng thử đoán những kẻ cầm quyền đó xem bọn họ có dã tâm gì mà lại điên điên rồ rồ có thể không mảy may quan tâm đến sinh mệnh mỗi một con người. Lần lượt từng sinh mệnh từ em bé cho đến thiếu niên, thanh niên đang lớn bị chúng đem ra làm mục tiêu tàn sát hàng loạt. Rốt cuộc tôi luôn cảm thấy mình có tâm mà bất lực, tôi thực sự thất bại rồi, bởi vì tôi hoàn toàn không có cách nào ngăn chặn được chiến tranh. (Muốn ngăn chặn cần có vũ trang.) Hãy truy xét lại nguồn gốc của chiến tranh. Tự cổ chí kim, chiến tranh chưa bao giờ ngừng dứt, trong lịch sử có vô số các cuộc chiến tranh, thế giới này sẽ mãi mãi không có được thời đại hòa bình, đôi khi có hòa bình thì cũng chỉ là tạm thời và ngắn ngủi. Đế quốc đại Mông Cổ của anh hùng cao ngạo Thành Cát Tư Hãn vì sao mà có được? Lãnh thổ của vị hoàng đế có khí độ xung thiên Napoleon vì sao mà có được? Đại đế quốc của anh hùng cái thế Alexandre vì sao mà có được? Đại đế quốc của Caesar uy phong lừng lẫy châu Âu vì sao mà có được? Hai vị đại tướng của Hán Vũ Đế Lưu Triệt là Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh, công danh xuất chúng là vì sao mà có được? Những nhân vật vĩ đại trên thế giới hoặc những nhân vật vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc này, bọn họ chính là nhờ vào việc tàn sát hàng loạt sinh mệnh của người khác, dẫm chân lên xương cốt khô rục của vạn người mới trở nên khét tiếng lẫy lừng như vậy. Tôi chẳng hiểu quy tắc đo lường "vĩ nhân", "vĩ nhân" lẽ nào chính là giết người, giết người và giết người… Cho đến nay vẫn còn có người sùng bái Adolf Hitler. Cho đến nay vẫn còn có người sùng bái Benito Mussolini. Cho đến nay vẫn còn có người sùng bái điện thờ Yasukuni. Khi tôi chứng kiến chiến tranh giữa nước này và nước kia, khi tôi chứng kiến các cuộc liên minh luyện tập quân sự giữa nước này với nước nọ, khi tôi chứng kiến những cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân, khi tôi chứng kiến sự phát triển của vũ khí thế giới, khi tôi chứng kiến sức mạnh quân đội lớn đến mức chấn động của một nước, khi tôi chứng kiến quốc phòng của các nước gia tăng các vũ khí chiến lược mới, tôi chẳng thể vỗ tay hoan hô vạn tuế! Mà là, than ôi thật bi ai! Con người không nên phát triển vũ khí để đi giết người, đi giết người dân của nước khác. Người dân của các quốc gia khác chẳng phải cũng là con người hay sao? Con người hãy nên ngây thơ, thuần khiết, hòa bình và tự nhiên đi thôi!
21. Đạo là (thuận theo) tự nhiên
"Tấn Thư (*) - Phương kĩ truyền" đã ghi chép lại: Có một người tên là Hạnh Linh. Lúc còn nhỏ, cha mẹ kêu cậu ta trông nom ruộng lúa. Hạnh Linh vừa chăn trâu vừa trông ruộng lúa. Trâu đi ăn lúa, Hạnh Linh nhìn thấy nhưng không đi bắt trâu lại. Đợi trâu ăn no xong tự bỏ đi, Hạnh Linh mới đi dọn dẹp sạch sẽ đám ruộng lúa, dựng lại đám lúa mà trâu dẫm lên, dựng lại đám lúa mà trâu ăn còn thừa cho thẳng lại, dọn dẹp gọn gàng. Cha ông bắt gặp sự việc thì vô cùng tức giận, mắng cậu ta đầy giận dữ. Hạnh Linh nói: "Trâu đói bụng tự khắc sẽ đi ăn lúa, vì sao phải ngăn nó lại mà không cho nó ăn?" Cha cậu càng tức, liền hỏi: "Đã như vậy rồi, sao mày còn đi xuống ruộng dựng thẳng lại đám lúa này, từng cây một trả lại nguyên như cũ?" Hạnh Linh nói: "Trâu ăn lúa vì muốn sống. Chỗ lúa trâu ăn không hết, con đi dựng thẳng lại cũng vì muốn cho lúa được sống." Tôi đọc được đoạn ghi chép này thì nhận thấy Hạnh Linh là một người rất thông thái. Cậu ta vừa vì muốn trâu được sống, cũng vừa muốn lúa được sống, đây mới là: "Sống, sống, sống, sự sống không ngừng nghỉ." Sau này Hạnh Linh học đạo pháp, trở hành một học sĩ rất uyên bác. Trong ghi chép cũng ghi lại: Có một người là Lữ Y, mẹ của anh tên là Hoàng Thị mắc bệnh liệt hơn 10 năm, đã mời Hạnh Linh đến thăm bệnh. Hạnh Linh ngồi trước mặt Hoàng Thị, cách vài bước chân. Ngồi yên. Hai mắt nhắm. Hoàn toàn yên lặng không một tiếng động. Hạnh Linh chỉ dùng cách tu hành của bản thân, một cách vô hình, phủ lên toàn thân Hoàng Thị. Thế rồi, Hạnh Linh nói: "Giúp Hoàng Thị phu nhân đứng dậy đi thử xem!" Lữ Y không tin, những người khác cũng không tin. Họ nói: "Người già mắc bệnh đã hơn 10 năm rồi, làm sao có thể nói đứng dậy là đứng dậy, nói đi là đi được? Chúng tôi không tin." Hạnh Linh nói: "Trên người bà ấy đã có đạo của tôi, đi được!" Thế là Lữ Y lập tức giúp lão phu nhân trước tiên là đứng lên, rồi thử cố gắng đi vài bước chân. Kết quả là Hoàng Thị thực sự có thể đi được rồi, thật sự khỏe rồi, mọi người vui muốn chết luôn. Hạnh Linh nói: "Không có gì khác, Đạo chính là tự nhiên mà vận hành." Trong cuộc đời này tôi cũng đã từng giúp người ta từ ngồi trên xe lăn có thể đứng dậy, sau đó còn đi được, còn nhảy được. Có người từng hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài là người học đạo, cứu được nhiều người như vậy, vì sao lại còn đi ẩn cư?" Tôi đáp: "Cái xã hội này biến đổi rồi!" "Biến đổi thế nào?" "Tôi giúp người ta không cần báo đáp, nhưng người ta vẫn ăn cháo đá bát. Tôi cứu người càng nhiều thì bị phỉ báng càng nhiều, những nghi ngờ không tin càng nhiều. Xã hội này đổi trắng thay đen quá nhiều, con người càng hiểm độc hơn, lòng tham lam ngày càng tăng. Tôi cũng chỉ vì muốn được sống nên mới phải đi ẩn cư." Tôi nói: "Tôi vì cuộc sống nên mới đi ẩn cư." Tôi nói: "Tôi đi ẩn cư càng là vì cuộc sống của chúng sinh." Tôi làm người nổi tiếng đã gây chấn động mọi tầng lớp trên dưới trong xã hội rồi, tính nguy hiểm của việc này ngày càng tăng. Người học đạo đương nhiên biết khi nào thì nên ẩn đi, khi nào thì nên xuất hiện. ------------------ Tấn thư: là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc được biên soạn vào năm 648, đời Đường Thái Tông.
22. Lòng từ bi đích thực
Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài đóng cửa ẩn cư có phải là quá đột ngột không, không độ chúng sinh nữa sao?"Tôi đáp: "Sai rồi." "Sai chỗ nào, ngài hoàn toàn không gặp đệ tử, không gặp chúng sinh, rõ ràng là ngài đã từ bỏ chúng sinh rồi." Tôi nói: "Thế anh có nhớ khi đại dịch SARS xảy ra, tôi gọi tất cả đệ tử đến niệm tâm chú Diêu Trì Kim Mẫu không? Chính việc đọc chú này đã tiêu trừ dịch SARS. Dịch SARS đến một cách không thể hiểu được, dịch SARS cũng hết một cách không thể hiểu được. Tôi như vậy là từ bỏ chúng sinh sao?" Người đó chẳng còn gì để nói. Tôi nói: "Thế anh có nhớ khi cơn đại hồng thủy ập đến, tôi đã gọi tất cả đệ tử đến niệm chú đại cứu nạn không? Việc niệm chú đại cứu nạn này đã siêu độ cho những người chết, giúp những người sống có thể tiếp tục sống an bình hạnh phúc, tôi như vậy là từ bỏ chúng sinh sao?" Người đó càng á khẩu. Tôi nói: "Lão Tử nói, đạo trị bản thân, đầu tiên phải ẩn mình trong trời đất, bắt đầu cuộc sống thanh tịnh giữa vạn vật, thánh nhân cần thông hiểu cái gốc sâu xa, nghĩ hiểu được về sự hỗn tạp mà giữ thân mình. Đây chính là đạo lý của ẩn cư." Tôi lại nói: "Mặc dù tôi ẩn cư nhưng ánh sáng của Đạo vẫn tự hiển hiện. Cái gọi là "ngũ hành bất tương khắc, vạn vật tất khả toàn" (ngũ hành không xung khắc thì mọi vật đều có thể hoàn thiện), vạn vật là vô thường, thành rồi chẳng mấy mà kết thúc, tam quang (ba thứ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, vì sao) không chiếu sáng được âm gian, trời đất thường tự phản chiếu. Vì thế mà tôi phóng đại quang minh chiếu khắp thế giới, lục đạo tứ sinh (*) được tránh xa khỏi nguy hiểm. Đây mới là lòng từ bi đích thực. Tôi ở trong nhà nhỏ. Ngồi xếp chân. Xỉa răng. Nắm chặt tay. Thở thai tức (*) Quan sát chúng sinh khắp thiên hạ. Thế là quang minh chiếu rọi khắp nơi. Tôi thiền định trong tam muội mà phát sinh lòng từ bi chân chính. Chính tôi đây bình đẳng thương xót mọi chúng sinh, bất kể là người quen biết hay không quen biết, tôi đều hồi hướng bình đẳng cứu độ. Người tàn bạo tôi cũng cứu. Người tàn nhẫn tôi cũng cứu. Người tâm địa đen tối tôi cũng cứu. Người có tâm dối trá tôi cũng cứu. Người thô lỗ bám chấp tôi cũng cứu. Người độc tài tôi cũng cứu. Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, tôi đều cứu. Sau khi tôi tu pháp phóng quang đều hồi hướng như thế này: "Nguyện cho mọi sở cầu của chúng sinh đều được viên mãn." "Nguyện ánh sáng quang minh sẽ tiếp dẫn chúng sinh đến tịnh thổ Phật quốc." Tôi mỗi ngày đều hồi hướng như vậy. Đây chính là lòng từ bi đích thực! Người ta có thể cho rằng tôi thiếu tấm lòng đồng cảm, không thể nhập thế để hy sinh bản thân mình vì người khác, không thể thâm nhập vào đám đông và chúng sinh để cảm nhận đồng nhất, tự mình đi ẩn cư, không có tư duy, không có cảm xúc, không có tình nghĩa, chỉ là làm lợi cho chính bản thân mà thôi. Nhưng mọi người làm sao biết việc cứu độ của tôi không phải là biểu hiện bề mặt, không phải là những cái thô nông, không phải hẹp hòi, càng không phải là ở mức độ bề nổi. Bề nổi là: Vô tri vô cảm. (không biết, không cảm động) Vô giác vô thụ. (không thấy, không nhận) Mà chính là ở nội tại: Tôi xuống với thiên hạ, mà người thiên hạ chẳng biết. Tôi ban cho thiên hạ, mà người thiên hạ chẳng biết. Tôi tốt với thiên hạ, mà người thiên hạ chẳng biết. Tôi dạy pháp cho thiên hạ, mà người thiên hạ chẳng biết. Tôi cứu giúp thiên hạ, mà người thiên hạ chẳng biết. Tôi đã vượt khỏi hồng trần, không muốn chìm đắm bơi trong sóng biển nhơ bẩn nữa. Nhưng nội tâm của tôi cứu độ chúng sinh đến mức tôi thực sự đã khô kiệt nước mắt, tấm lòng từ bi vô tận không bao giờ ngừng dứt! Nhưng, tôi đâu nhất định cần người ta phải biết cho! ---------------------- Lục đạo tứ sinh: chúng sinh trong sáu đường luân hồi tái sinh theo bốn cách: noãn sinh (từ trong trứng nở ra), thấp sinh (từ nơi ướt át mà sinh trưởng), thai sinh (từ trong thai mẹ sinh ra), hóa sinh (sinh ra bằng biến hóa tự nhiên). Thở thai tức: cách thở trong Đạo giáo, thở như một đứa bé trong bào thai.
23. Tu pháp không có cảm ứng
Ngày xưa.Từng có một đệ tử đi theo bên cạnh tôi, đã học được không ít các pháp quý của Mật tông Tây Tạng, các pháp này đều vô cùng trân quý. Anh ta thực hành rất nghiêm túc tinh tấn. Tôi cũng dùng một vài khẩu quyết bí mật truyền cho anh ta. Sau khi anh ta trải qua một thời gian tu luyện thì đã rất quen thuộc với các nghi quỹ mật pháp, nghi quỹ cũng rất đầy đủ chu toàn. Sự mật, hành mật của anh đều không có chút lơ là. Anh ta tu các pháp tức tai, tăng ích, kính ái, hàng phục, tất các các khẩu quyết bí mật đều kết hợp lại. Hỏa cúng 100 đàn. Thủy cúng 100 đàn. Đại cúng dường 100 đàn. Cúng quỷ thần 100 đàn. Cúng hộ pháp 100 đàn. Cúng Thượng sư 100 đàn. Cúng Bổn Tôn 100 đàn. Cúng chư thiên 100 đàn. v.v… Có một hôm anh ta đến tìm tôi, nói với tôi đầy chán nản: "Hoàn toàn không có chút tương ứng nào." "Anh cầu thỉnh chư tôn đi!" Tôi nói. "Đã thỉnh cầu từng vị một rồi." "Anh niệm Cao Vương Kinh 1000 biến đi!" "Đã niệm xong rồi." "Niệm Thượng Sư tâm chú 1 triệu biến đi!" "Đã niệm xong rồi." "Anh niệm kinh Kim Quang Minh bảy bảy bốn mươi chín biến đi!" "Đã niệm xong rồi." "Anh lạy tất cả mọi pháp sám hối chưa?" "Đã sám rồi." Tất tần tật đều đã xong y như vậy. Anh ta gần như là đã tập hết tất cả mọi pháp. Anh ta tận dụng hết tất cả các pháp, thực sự hoàn toàn không có cảm ứng, giống như trâu đất đi vào biển, mất sạch dấu vết, một đi không trở lại. Anh ta hỏi: "Lư Sư Tôn, có cách nào không?" Tôi đáp: "Tất tần tật mọi pháp đều làm hết cả rồi, tôi làm gì còn gì để nói!" "Chẳng phải nói là sẽ tương ứng sao? Đặc biệt là pháp tâm trong tâm?" "Đúng vậy." - Tôi nói. "Vì sao không tương ứng?" "Tôi thực sự không biết." - Tôi rất bối rối. Tôi ở trong tam muội, hư vô mờ ảo, chính xác là "tôi sinh tại hư không, tôi ở tại hư không, sinh ra là bổn tôn, chết đi cũng bởi tâm". Lúc này tôi xuất hiện ở cõi Bảo Thắng Phật, tôi hỏi Đức Phật Bảo Thắng: "Vì sao hết lòng hết sức tu tất cả mọi pháp mà không biết vì lý do gì vẫn không có một chút tương ứng nào?" Bảo Thắng Phật đáp: "Kinh sách trân quý mà tâm trống rỗng thì cũng vô ích. Không có tâm thì lời nói cũng bằng không. Có tâm thì dù không nói cũng tự có." Tôi nói: "Xin mời giải thích rõ!" Bảo Thắng Phật đáp: "Có ba loại người tu pháp chắc chắn không tương ứng, ba loại người này hãy nghe cho rõ: Loại người thứ nhất: người có tâm phẫn nộ và không kiên định. Loại người thứ hai: người có tâm độc ác và phản trắc. Loại người thứ ba: người có tâm tham dục không biết dừng lại." Tôi nghe xong, im lặng. Bảo Thắng Phật nói: "Phật tâm và thiên tâm tương ứng, thiên tâm và nhân tâm tương ứng, nhân tâm mà nhốn nháo, phản trắc, tham dục thì dù có tu mọi pháp cũng tự nhiên sẽ không thể tương ứng được." Do vậy tôi thực sự nói cho mọi người biết: "Một câu nói cũ rích, tu pháp không bằng tu tâm! Tâm địa của bạn đã tốt hay chưa?"
24. Viết ra bài kệ cảm thán
Vào lúc tinh thần thảnh thơi tiêu dao, tôi đã viết một bài kệ cảm thán nói về năm năm đóng cửa ẩn tu của tôi như sau: Mỗi ngày tôi sáng tác, một chương lại một chương. Mỗi ngày tôi tĩnh lặng, một ngày lại một ngày. Chỉ một mình tôi đây, cái gì cũng chẳng có, Đại La Kim Tiên này ẩn mình chốn nhân gian. Trước tôi đã là ai, sau tôi sẽ là ai. Người minh tâm kiến tính chư Phật đều hiển lộ. Mười vạn không hành hộ pháp cầm gươm mặc giáp. Mật hành tôn giả đã thấu nhân duyên hồng trần. Đừng cười tôi né tránh né mãi vào trong núi. Đừng cười tôi thoát chạy đến tận thung lũng sâu. Thử hỏi cõi Ta Bà có gì mà lưu luyến. Tôi ở tại hư không sớm tối ngủ vậy thôi. Có một buổi tối tôi mơ một giấc mơ, mơ thấy mình đi vào bên trong một ngọn núi lớn, bên trong núi có một cái hang rồng, trong hang rồng đã đào sẵn một cái hố. Bên trong hố đã để một cái quan tài, quan tài đang mở, bên trong hoàn toàn trống rỗng. Tôi liền lập tức nằm vào trong, sau đó tôi ngủ thiếp đi. Đây thật là giấc ngủ ngon nhất trong cuộc đời! Lúc này tôi lại mơ trong giấc mơ. Tôi gặp Trang Tử. Trang Tử hỏi tôi: "Có cái gì là có?" Tôi đáp: "Không có gì là có." Trang Tử hỏi tôi: "Ngài tự do hay chưa?" Tôi đáp: "Đang tự do nhất đây." Trang Tử gật gật đầu rồi biến mất. Thế là tôi bay lên, bay trong hư không rõ rệt. Vẫn còn muốn xác nhận điều gì chăng? Ở thế giới nhân gian cõi Ta Bà này, vẫn còn cái gì có thể xác nhận? Biệt thự Cầu Vồng vì sao được đặt tên là biệt thự Cầu Vồng? Bởi vì Cầu Vồng thoắt ẩn thoắt hiện, chỉ hiện trong chớp mắt, cơ bản chính là huyễn hóa. Cầu vồng biến mất rồi. Trước đây, những sáng tác của tôi đã giành được giải vàng Văn học và Nghệ thuật quân đội Quốc gia, và giành được giải thưởng lạc đà vàng, lạc đà bạc, lạc đà đồng… cho sự siêng năng sáng tác. Những giải thưởng này nhiều như mưa hoa từ trên trời rơi xuống vậy. Rơi xuống rồi không thấy nữa. Thế còn Chân Phật Tông? Thế còn Lôi Tạng Tự? Thế còn các Thượng Sư? Thế còn các đệ tử? Vì sao mà lần lượt từng người từng người một đều không thấy nữa? Từng người từng người một đi vào ba đại chí nguyện của tôi: viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc, nghĩa trang Chân Phật. Xin hỏi, ba đại chí nguyện này cho thấy điều gì? Bạn vẫn còn có thể ăn bào ngư được không? Bạn vẫn còn có thể ăn vi cá được không? Bạn vẫn còn có thể ăn rau cải được không? Bạn vẫn còn có thể ăn đậu phụ được không? Thực sự cái gì cũng chẳng thể ăn nổi nữa rồi. Cha, mẹ, anh em, chị em, con cháu, vợ, sư trưởng, đệ tử… Tất cả đều chẳng còn nữa. Bây giờ tôi đã nằm xuống, một khi đã nằm xuống thì tất cả đều chẳng còn nữa, kịch không còn diễn nữa, hạ màn rồi! Hạ màn rồi! Ngay cả đến các thế hệ sau này cũng không còn thấy nữa. Đến cả kịch tôi cũng không xem được nữa rồi! Tôi đi vào cõi mơ hồ giữa sống và chết. Tôi đi vào nơi mọi thứ khép lại. Tôi đi vào Maha Song Liên Trì. Anh bạn già, anh vẫn còn đi xây Lôi Tạng Tự à? Anh hãy đi xây mộ của anh đi!
25. Trăm suy nghĩ không ngừng dứt
Trang Tử trong "Thiên Vận Thiên" (*) đã nói:"Thiên kì vận hồ? Địa kì xứ hồ? Nhật nguyệt kì tranh ư sở hồ? Thục chủ trương thị? Thục duy cương thị? Thục cư vô sự thôi nhi hành thị? Ý giả kì hữu cơ giam nhi bất đắc dĩ gia? Ý giả kì vận chuyển nhi bất năng tự chỉ gia?" Đại ý của nó là như thế này: "Trời rộng bao la có vận chuyển không? Đất rộng mênh mông có đứng yên tại một chỗ không? Mặt trời mặt trăng có thay nhau luân phiên chiếu sáng không? Ai là người thống trị? Ai là người trì giữ trật tự này? Là ai nhàn hạ rảnh rỗi đi làm việc này? Là ai buộc phải khởi động bộ máy hoạt động như vậy? Là ai đã khởi động rồi nhưng không có cách nào dừng lại được?" Tôi đã đọc "Thiên Vận" của Trang Tử bèn có suy nghĩ thế này: 1, Trái đất treo lơ lửng trong hư không như thế nào? 2, Trái đất tự quay và quay theo quỹ đạo như thế nào? 3, Mặt trời là vĩnh hằng, nhưng ngọn lửa mà nó đốt cháy, vì sao cháy mãi không hết? 4, Mặt trăng nhờ mượn ánh sáng mặt trời mà sáng, vì sao cũng tự quay và quay theo quỹ đạo? 5, Ai sắp đặt chín đại hành tinh của hệ mặt trời? 6, Ai đẩy chín đại hành tinh khiến chúng quay nhanh như vậy? 7, Vũ trụ rốt cuộc rộng lớn như thế nào? 8, Từ tính hấp dẫn lẫn nhau từ đâu mà có? Từ tính sinh ra thế nào? 9, Ai cai quản cả vũ trụ này? Trước đây tôi học khoa trắc lượng nên đã biết và cũng từng dùng các nghi cụ quan sát trăng sao của đài quan sát. Chín vấn đề tôi nêu lên ở trên, có cái thì có đáp án, có cái thì không có đáp án, nhưng có lẽ những vấn đề này chỉ như giọt nước đổ vào biển. Vũ trụ rộng lớn cỡ nào, ai mà biết chứ? Trang Tử hỏi trời. Tôi cũng hỏi trời. Điều tôi muốn nói với mọi người là cơ thể con người, cơ thể vật lý của chúng ta, bản thân nó cũng là một điều bí ẩn. Các câu hỏi của tôi như sau: 1, Hít khí vào, thở khí ra, là ai dạy mà biết? 2, Tim vì sao lại đặt ở ngực bên trái? 3, Tim đập là do ai điều khiển? 4, Máu chảy tuần hoàn rồi lại trở về như lúc đầu, chảy một vòng rồi lại như ban đầu, ai quy định quỹ đạo của nó? 5, Não con người là do ai tạo ra? 6, Ý nghĩ là cái thứ gì? 7, Ý nghĩ vì sao không có cách nào giữ dừng lại một chỗ? 8, Nhiệt độ cơ thể người vì sao mà có? 9, Nước trong cơ thể người, ai điều khiển sự luân chuyển của nó? 10, Cấu trúc cơ thể người, ai là kiến trúc sư? Một vài câu hỏi nhỏ này của tôi cũng chỉ là một phần thắc mắc nhỏ về cơ thể người, những vấn đề khác mà bạn chẳng bao giờ nghĩ đến cũng rất nhiều, ví dụ: trong nước bọt vì sao có nhiều vi khuẩn như vậy? Yêu cầu bạn giải thích có lẽ bạn cũng chẳng hiểu rõ. Các đường chỉ tay của con người vì sao chẳng ai giống ai? Ai có thể biết cho đủ? Những gì bạn chẳng bao giờ nghĩ đến có rất rất nhiều. Những câu hỏi này, có người không cần suy nghĩ mà nói ngay, để cho "thượng đế" trả lời. Có người sẽ đẩy sang cho các vị ở trên trời, cho thần tiên. Có người sẽ đẩy sang học thuyết của Darwin. Có người sẽ đẩy sang học thuyết kiến tạo. Lão Tử và Trang Tử thì sẽ đẩy sang học thuyết tự nhiên. Trong lúc suy nghĩ, tôi cứ nghĩ mãi một điều, điều tôi nghĩ là một câu nói của Lục Tổ Thiền Tông: "Trăm suy nghĩ không dứt, bồ đề dài bao nhiêu!" Ý nghĩ của con người vì sao không có cách nào chặn lại được? Vì sao muốn không nghĩ mà vẫn cứ là nghĩ? Có ai có thể chặn lại được suy nghĩ của chính mình không? Mật giáo dùng quán tưởng. Do đó chính niệm đến để thay cho mọi ý nghĩ hỗn tạp khác. Lại dùng thiền chỉ (dừng), lại dùng thiền quán (quan sát). Các bạn có biết vì sao tôi đóng cửa ẩn cư không? Vì tôi muốn biến trăm ý nghĩ thành trăm chính niệm, trăm chính niệm biến thành trăm nhất niệm, trăm nhất niệm biến thành tam muội niệm, cứ như vậy, cứ như vậy, bồ đề dài như thế. Trăm suy nghĩ không dứt, nhưng đều đi trên quỹ đạo rồi! ------------------- Thiên Vận Thiên: chương 14 trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
26. Không có gì để nói
Tôi đọc "Tấn Thư", chương tiểu sử Tôn Đăng, đọc về con người Tôn Đăng. Tôn Đăng thích đọc Kinh Dịch. Theo tôi được biết, Kinh Dịch còn được gọi là Chu Dịch, từ xưa cùng với Liên Sơn, Quy Tạng được gọi chung là Tam Dịch. Sau này hai pho kinh sách Liên Sơn và Quy Tạng đã thất truyền, chỉ còn lại một pho Kinh Dịch. Kinh Dịch, Kinh Thơ, Kinh Thư, Lễ Kí, Xuân Thu, năm cuốn kinh sách này cũng được gọi chung là Ngũ Kinh. Kinh Dịch là những lý luận đúng đắn về sự phát triển và suy thoái của âm dương trời đất, tôi nghĩ rằng chữ "dịch" là trong chữ "biến dịch" (dễ thay đổi). Cũng có người cho rằng: Dịch là thay cho nguyên tắc thay đổi. Dịch là nguyên tắc tự nhiên, bình thường. Dịch bao hàm: an (yên tĩnh, an toàn), ninh (bình yên), khang (khỏe mạnh, đủ đầy), thái (an toàn, hòa bình), tuy (bình định, an ổn). Dịch cũng được chuyển thành sách bốc quẻ xem bói. Nói tóm lại, Tôn Đăng thích đọc Kinh Dịch, cuối cùng đã trở thành một ẩn sĩ có tiếng tăm. Ông thích gẩy đàn, đã đi vào núi Nghi Dương ẩn cư không xuất hiện nữa. Văn Đế biết được con người này bèn mời một trong bảy Trúc Lâm Thất Hiền là Nguyễn Tịch đến thăm ông ta. Nguyễn Tịch hỏi Tôn Đăng: "Có cầu xin điều gì không?" Tôn Đăng không nói gì, cũng không trả lời. Nguyễn Tịch đành phải rút về. Văn Đế lại mời một trong bảy hiền sĩ trúc lâm là Kê Khang đến thăm viếng, đi theo Tôn Đăng tận ba năm. Kê Khang hỏi Tôn Đăng: "Ngài theo đuổi cái gì?" Tôn Đăng cũng vẫn không trả lời. Vị ẩn sĩ Tôn Đăng này, qua bao nhiêu năm từ đầu đến cuối vẫn không nói một lời nào. Cả đời của Tôn Đăng chỉ làm ba việc: 1, Đọc Kinh Dịch. 2, Gảy đàn. 3, Huýt sáo. Tôi đọc tiểu sử Tôn Đăng, trong lòng cảm thấy thương xót, đúng là như vậy. Trong cõi Ta Bà này, thực sự là không có gì để nói. Trước 50 tuổi, tôi có thể xem như là một người nói không ngơi nghỉ, lại còn viết văn nữa, lại còn ngồi pháp tọa giảng pháp nữa, ngày nào cũng là "Phật, Phật, Phật, pháp, pháp, pháp." Nói dọc, nói ngang, nói xiên, nói lộn, nói suốt không ngừng, nói mãi không thôi! Mỏ con vịt - quạc quạc không ngớt. Mỏ con chim - óa óa không ngớt. Miệng con ếch - ộp ộp không ngớt. Tôi có thể xem như là lắm lời. Chẳng trách mà rất nhiều người nhìn thấy ánh sáng hào quang cao vạn trượng của tôi liền sinh lòng bất mãn, tôi liền bị bôi thành một cục đen sì. Còn như bây giờ: Tôi đóng cửa ẩn cư đã năm năm rồi, con trai Phật Kỳ kết hôn, tôi không có mặt; con gái Phật Thanh lấy chồng, tôi không có mặt; lão sư phụ viên tịch, tôi không có mặt; sư cô Lâm Thiên Đại tiên thệ, tôi không có mặt; trong lòng tôi rất mong mỏi, nhưng: "Không có gì để nói."
Năm năm qua, nhờ có văn chương mà tôi viết nên đã chứng minh tôi vẫn còn chưa chết. Nhưng lời đã rất ít rồi, rất ít rồi. Tôi không còn liên lạc gì với con người thế tục nữa, cũng không liên lạc với đệ tử nữa. Tôi tình cờ gặp người quen thì chỉ có chạy, chạy, chạy. Vì sao tôi lại như vậy, câu trả lời là: "Không có gì để nói." Làm người, khi đã đạt đến cấp độ cảnh giới cao nhất rồi thường sẽ không thể nói được, bởi vì có nói cũng chưa chắc đã có người hiểu được. Nếu mà nói cũng không hiểu được thì thà không nói còn hơn. Tôn Đăng không nói, chỉ gảy đàn, huýt sáo, đọc Kinh Dịch. Tôi cũng chẳng muốn nói gì chỉ vì cảm thấy mệt, cảm thấy lười. Ha, ha, ha! Cố cười ba tiếng. Cười còn khó nghe hơn khóc!
27. Một kẻ điên
Trong thời đại Xuân Thu chiến quốc, có một người tên là Canh Tang Sở, Canh Tang là họ, Sở là tên. Ông ta tu luyện đắc được Đạo. Có một người khác, họ là Nam Vinh, tên là Trù, gọi là Nam Vinh Trù, biết Canh Tang Sở đã đắc Đạo bèn vì ngưỡng mộ mà tìm đến, hy vọng được Canh Tang Sở truyền thụ Đạo, bái Canh Tang Sở làm thầy. Nhưng sư phụ vừa nhìn thấy đệ tử này đã từ chối luôn, bởi vì đệ tử này trên mặt có tướng phản cốt (*). Canh Tang Sở nói với Nam Vinh Trù: "Ong đất không thể dạy để biến thành sâu bướm được, bao nhiêu gà cũng không thể ấp được trứng thiên nga. Nhưng có một loại gà ngu ngốc vẫn có thể dạy để trở thành trứng thiên nga." Lại nói tiếp: "Trong họ chim gà, tuy về mặt hình dạng thì chúng có vẻ tương đối giống nhau, nhưng cũng có khác nhau về kích thước lớn nhỏ. Tôi ít tài năng, không có tư cách dạy Đạo cho anh, xin anh đi tìm thầy khác xứng đáng hơn!" Nam Vinh Trù nghe Canh Tang Sở nói không dám dạy anh ta, anh ta cũng biết là khó rồi, vì thế mà thoái lui. Câu chuyện xưa này khiến tôi nghĩ đến việc giữa gà với gà cũng có phân biệt: Gà siêu trứng - chuyên đẻ trứng. Gà thả vườn - thịt thơm ngon. Gà ác - bổ dưỡng nhất. Gà đồi - ngon tự nhiên. Gà sao - đẹp nhất. Gà tây - kêu gu gu gu gu. Chim công - hoàng hậu xinh đẹp nhất. Canh Tang Sở lấy chuyện gà với gà để so sánh, năng lực của ông ta kém, không có cách nào dạy được "trứng phản cốt" của Nam Vinh Trù. Ha ha! Thật là vui. Thế còn Liên Sinh tôi cũng thực sự là một kẻ điên. Vì sao nói tôi là một kẻ điên? Tôi nhận đệ tử bất kể đó là loại người gì, bởi vì tôi không nỡ bỏ qua bất kì một chúng sinh nào, nên tất cả đều nhận làm đệ tử. Tôi đối với mọi người bình đẳng, bất kể xuất thân thế nào đều dạy hết. Trên thực tế, trong đám đệ tử có rất nhiều người là mặt mang tướng phản cốt. Tôi chỉ cần nhìn là biết được. Tuy vậy, tôi là kẻ điên mà, bất kể người đó là chính cốt, phản cốt, tà cốt, đảo cốt, quái cốt, phàm cốt, yêu cốt, tiện cốt, dâm cốt,… tôi đều nhận làm đệ tử hết. Kết quả là, đệ tử của tôi nhiều nhưng cũng cực kì tạp nham. Vì sao tôi không sợ kẻ phản cốt sẽ giết sư phụ? Chỉ một câu thôi: "Cao nhân "trình cao" mà!" Tôi đứng ở cảnh giới cao nhất nhìn lên trên, phía trên đã chẳng có người nào khác cả. Lại nhìn trái nhìn phải, những người cùng cảnh giới với tôi chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chẳng có được bao người, chỉ hai, ba người thôi. Tôi là kẻ điên khùng, chỉ có mình tôi độc tôn thôi. Rất nhiều người tự gọi mình là đại sư, thượng nhân, Phật sống, tông sư, đại cư sĩ. Trong con mắt tôi, tất cả bọn họ đều chỉ mới leo được nửa ngọn núi, bọn họ giỏi lắm là kêu được gu gu gu gu như con gà tây. Vẫn còn có những con chim cu cu chưa tốt nghiệp lớp mẫu giáo bé trường mầm non Phật giáo cũng tự gọi mình là Bồ Tát. Thật là khiến tôi cười phá lên! Tôi nghĩ, Canh Tang Sở không nhận Nam Vinh Trù làm đệ tử, còn tôi lại dám nhận. Đó là vì nếu tôi không nhận những kẻ phản cốt này thì bọn họ sẽ đi bái người khác làm sư phụ, nhiều nhất cũng tu được thành mấy con gà tây quay là cùng. Kẻ điên khùng như tôi đây đồng cảm với những con người này, những con người mà đến "năm Con lừa" (*) mới có thể đắc đạo được, thực sự là còn xa lắm lắm lắm. Thế còn kẻ phản cốt cắn ngược lại tôi thì làm thế nào? Cắn trộm một phát có thể phần nào ngập vào xương, nhưng tôi đắc đạo là đắc đạo, bị cắn cũng vẫn là đắc đạo, sợ cái gì mà sợ? Kẻ điên đắc đạo, cắn là cắn, chẳng đau chẳng nhột, đây mới gọi là "bất chấp hết"!
-------------------- Năm Con lừa: trong 12 năm tính theo con giáp thì không có con giáp nào là con lừa, nói "năm Con lừa" có nghĩa rằng chẳng bao giờ xảy ra.
28. Làm "người" thì dễ lạc lối
Từng có người hỏi tôi:"Mấy năm nay ngài dẫn dắt phong trào Phật giáo nhân gian, cũng có thể gọi là giúp nhân gian thành tịnh thổ, muốn làm cho nhân gian (thế giới con người) thành cõi tịnh thổ. Do vậy vào lúc lâm chung, từng người phát nguyện sẽ lại đến nhân gian, không biết đúng hay không?" Tôi lẩm bẩm một lúc lâu, không vội đưa ra lời bình phẩm. Tôi lấy hai ví dụ: Thời Đông Hán có hai người tu hành, một người là Mã Minh Sinh, người kia là Âm Trường Sinh, cũng chính là đệ tử của Mã Minh Sinh. Hai người họ đều tu hành "Thái Thanh thần đan kinh". Người ta nói rằng tu hành thành công thì có thể thành tiên trên trời. Thế nhưng mới tu thành Thiên tiên thì vẫn phải phục vụ Đại thiên tiên ở trên trời. Do vậy Mã Minh Sinh và Âm Trường Sinh đều không muốn thành Thiên tiên. Sau khi luyện đan thành công, họ chỉ uống nửa viên, uống nửa viên thì chỉ thành Địa tiên (tiên ở dưới mặt đất) mà không thành Thiên tiên (tiên ở trên trời). Địa tiên thì tự do hơn, không phải chết, nhưng có thể du hành khắp thiên hạ, chẳng khác gì thần tiên. Mã Minh Sinh và Âm Trường Sinh này không muốn chết đi để làm Thiên tiên, chỉ muốn làm Địa tiên để chu du thiên hạ. Việc này trong "Thần tiên truyện" của Cát Hồng rất nổi tiếng. Cá nhân tôi cho rằng: Không muốn thăng thiên (chết đi). Yên ở thiên hạ. Đây cũng là một trường hợp đặc biệt của thần tiên. Thế nhưng xin hãy lưu ý, Mã Minh Sinh và Âm Trường Sinh đều đã trải qua tu luyện, trở thành Địa tiên có định lực và huệ lực (*). Lại nói tiếp: Tôi đã từng được nghe một nghệ sĩ xướng lên bài thơ "Thủy điệu ca đầu" (*) của Tô Thức, nghe toàn bộ sự duyên dáng ngầm ẩn trong âm điệu lời ca, đưa ta quay trở về nhiễu quanh mái nhà xưa. Thực sự bài này là nổi tiếng nhất: Minh nguyệt kỷ thời hữu? Bả tửu vấn thanh thiên. Bất tri thiên thượng cung khuyết, Kim tịch thị hà niên. Ngã dục thừa phong quy khứ, Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ, Cao xứ bất thắng hàn. Khởi vũ lộng thanh ảnh, Hà tự tại nhân gian. Chuyển chu các, Đê ỷ hộ, Chiếu vô miên. Bất ưng hữu hận, Hà sự trường hướng biệt thời viên. Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp, Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết, Thử sự cổ nan toàn. Đãn nguyện nhân trường cửu, Thiên lý cộng thiền quyên. Dịch thơ: Trăng sáng tự bao giờ, Nâng chén hỏi trời xanh, Cung điện trên thiên giới, Ðêm nay thuộc năm nao? Ta muốn cưỡi gió đi, Lại sợ lầu quỳnh điện ngọc, Nơi cao đó, lạnh cô đơn. Bước chân múa cùng bóng trăng, Gì vui bằng lưu lại chốn nhân gian. Soi gác tía, Chiếu qua rèm, Rọi cả người còn thức, Có điều chi oán giận. Mà sao trăng cứ tròn mỗi lúc biệt ly. Người có vui buồn hợp tan. Trăng có khi tròn khi khuyết. Vẫn thế xưa nay chẳng toàn. Giá như người còn mãi, Nghìn dặm cùng thiền quyên. (*) Áng thơ nổi tiếng này của Tô Thức mọi người đều đã biết. Trong lời thơ có nói: Trên cao cô đơn lạnh Gì vui bằng lưu lại chốn nhân gian. Tôi lấy hai ví dụ cụ thể ở trên với mong muốn giải thích rõ: đến Tây phương cực lạc thế giới có tốt không? Hay là đầu thai làm người tốt hơn? Ví dụ đầu: Mã Minh Sinh và Âm Trường Sinh đều là người tu hành, đã có sức mạnh giới, định, huệ, cơ bản là đã có thể thành Thiên tiên, nhưng không thích làm Thiên tiên, mà lại thích nhân gian. Ở chốn nhân gian cũng có thể làm Địa tiên, không hề mất đi sức mạnh định huệ. Tôi cho rằng Mã Minh Sinh và Âm Trường Sinh sẽ đời đời kiếp kiếp ở lại nhân gian. Ví dụ sau: Tôi kể chuyện Tô Đông Pha, theo tôi được biết, ông ta hiển nhiên là một đại thi nhân có tài năng, cũng chính là người đọc thơ phục vụ hoàng đế, cùng lúc vừa làm quan cao vừa làm đại học sĩ. Cả cuộc đời ông học đạo cũng là học Phật, nhưng kết quả là đều nửa đường bỏ dở. Mặc dù ông có nền tảng không phải loại tầm thường, nhưng kết quả thực tế chứng minh cũng giống như ông ta tự viết ra, chi bằng lưu lại nhân gian vẫn là tốt hơn. Cả đời Tô Đông Pha nay đây mai đó, 66 tuổi thì chết. Tôi thấy ông ta Tiên cũng chưa thành, Phật cũng chưa thành, nếu như lại đầu thai làm người cũng mất hết sức mạnh định huệ, chỉ luân hồi mãi ở nhân gian mà thôi. Tôi muốn nói rằng mặc dù Tô Đông Pha làm quan cao đại tài, nhưng rốt cục vẫn là phàm phu, thực sự không hợp chuyển thế làm người. Trong kinh Phật có nói: "Bồ Tát cũng từng có một đời lầm lạc!" Nhân gian này có quá nhiều tham, ái, vô minh, ý đồ bất chính, muốn đời đời làm người, nhất định cần có sức mạnh định huệ thì mới được, nếu không có sức mạnh định huệ thì vãng sinh Tây phương cực lạc thế giới mới là tốt! ---------------------- Định lực: khả năng, trạng thái tập trung tối đa, Huệ lực: có lực của trí huệ. Thủy điệu ca đầu: bài thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha (Tô Thức) viết vào dịp tết Trung Thu năm Bính Thìn 1076, ông uống rượu vui đến sáng mà nhớ đến em trai Tô Triệt. Bài thơ đã được phổ nhạc thành bài hát. Thiền quyên: người phụ nữ đẹp.
29. Giữ ý tập trung ở chỗ nào?
Tôi đọc sách, thấy Triệu Thứ Công đời nhà Tống và Tra Thận Hành đời nhà Thanh dạy người ta cách giữ ý nghĩ tập trung ở tại miệng và mũi. Khẩu quyết là: "Mũi là cửa trời, miệng là cửa đất, mũi nên hít vào, miệng nên thở ra, đây cũng chính là cách thở." Cách hít thở thì có rất nhiều. Phật Đà dạy cách đếm hơi thở, đương nhiên tâm ý giữ lại tại mũi. Thở ra hít vào dài bằng nhau, nhẹ nhàng, từ từ, lấy hơi dài, có thể khiến cho các nhân tố ý nghĩ hợp lại thành một. Thời kì đầu tôi đọc Hoàng Đình Kinh (*), bao gồm Hoàng Đình nội cảnh kinh, Hoàng Đình ngoại cảnh kinh, Hoàng Đình duyên thân kinh, v.v. Pháp tu này nói sơ sơ thì là: Giữ tâm trí. Thủ nhất. Thanh tịnh. Vô vi. Trên phương diện giữ ý, vị trí của Hoàng Đình là ở giữa tì vị (lá lách và dạ dày), cân bằng được thì sẽ là Hoàng Đình chân nhân. Đạo gia khi giữ ý nghĩ để tu, có Thượng đan điền ở vị trí giữa hai lông mày, trung Đan điền ở giữa ngực, Hạ đan điền ở vị trí dưới rốn khoảng ba đốt ngón tay. Do vậy nơi tập trung ý nghĩ có ba vị trí trên, giữa và dưới. Tôi phát hiện ra vị trí tập trung ý của Đạo gia không phải chỉ có một chỗ, mà có nhiều chỗ, nhưng mỗi người nói lại một khác. Nội công tâm pháp nói: ngồi thẳng, điều hòa hơi thở, hai hàm răng gõ vào nhau 36 lần, mắt nhìn vào mũi, mũi hướng xuống tim. Đây cũng là pháp tập trung giữ ý. Trong Mật tông Tây Tạng, khi tu pháp chuyết hỏa, pháp minh điểm, pháp vô lậu, vị trí tập trung của các pháp này nằm ở vị trí dưới rốn bốn đốt ngón tay. Hãy xem "Kim Cương Hợi Mẫu chuyết hỏa định", ở phương diện tu tập so với Hạ đan điền của Đạo gia, hoàn toàn không ngờ lại tương hợp, giữ ý tập trung cùng tại một chỗ giống nhau. Ý quán - hình. Chú tự, ở - trong. Thở ra chú tự. Nâng chuyết hỏa. (tác dụng nhỏ giọt) Từ chuyết hỏa, mở ra tam mạch bảy luân xa. Luân xa đỉnh đầu, luân xa thiên nhãn, luân xa họng, luân xa tim, luân xa trên rốn, luân xa dưới rốn, luân xa gốc (vị trí xương cụt). Trong Đạo gia thì là: Kênh Tam tiêu và kênh Tam đan điền, Tam quan cửu khiếu, mười hai tầng khí công, Đại - Tiểu chu thiên. (*) Cái gọi là: "Kim đan đâu dễ có, người thiện tu hành, đi đứng ngồi nằm, tập trung không tán loạn, tập trung ý bám chắc Đan điền, im lặng tập trung. Khí đi vào Tam quan, tự nhiên sẽ sinh tinh sinh khí, sắc hình có thể mạnh lên, nếu người già có thể nhẫn nại tu tập được vậy thì sẽ trường sinh!" Trong Phật pháp mà nói thì thiền định đến nhất niệm vô niệm, nhập vào tam muội, tứ thiền bát định, thì cũng từ đó mà giữ ý bắt đầu. Ở phương diện này: Quán tưởng. Dừng tưởng. Giữ ý. Thủ nhất. (Cũng giống như vậy.) Từng có đệ tử hỏi tôi: "Chúng ta nên quán tưởng ở chỗ nào?" (giữ ý tập trung ở chỗ nào?) Vì vậy tôi nhận thấy: mới học đếm hơi thở thì chính xác nhất là ở mũi, nếu học chuyết hỏa thì ở Hạ đan điền. "Thai tức kinh" có nói: dưới rốn ba đốt ngón tay là Khí hải. (*) Lão Tử nói: "Cốc thần không chết là vì Huyền tẫn." (*) Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, Phật Đà nói: "Kiểm soát tâm ở một chỗ, không có việc gì là không làm được." là hoàn toàn chính xác. Cá nhân tôi ở trong tam muội, sớm đã trải nghiệm và hiểu thấu được pháp vị khi thiền định "Hành thâm ba la mật đa" (*). Cốc thần của tôi không chết, tôi không chỉ thủ nhất mà còn chuyển hóa thập phương. Cái tôi đắc được là đạo lý vĩ đại về hư vô, điềm đạm, thanh tịnh, tịch mịch, vô vi. Chỗ giữ ý của tôi là ở "thập phương"! Thập phương là ở đâu? Mọi người đoán thử xem nào!
------------------- Hoàng Đình Kinh: là bộ kinh nổi tiếng trong Đạo gia, gồm nhiều bộ Hoàng Đình, được phổ biến vào khoảng năm 364, những người theo Đạo lão trì tụng kinh này có niềm tin sắt đá rằng mình sẽ trở thành thần tiên. Kênh Tam tiêu: khu vực gồm trên dạ dày (thượng tiêu), giữa dạ dày (trung tiêu), trên bàng quang (hạ tiêu). Tam quan: ba cửa. Cửu khiếu: 9 lỗ, gồm 7 lỗ trên mặt (hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng) và thêm lỗ sinh thực khí và hậu môn. Đại - Tiểu chu thiên: vòng tiểu chu thiên và vòng đại chu thiên, một tư thức luyện khí công. Thai tức kinh: môn khí công cao cấp trong Đạo giáo, thai tức hiểu nôm na là thở ở trạng thái bào thai, được xem như là một loại pháp thuật tu tiên. Khí hải: Huyệt Khí hải - biển khí, bể giữ khí. Cốc thần: thần hang, cũng là cái u minh của hang hốc, có thể chứa đựng cả vũ trụ. Theo Đạo giáo, đắc được Cốc thần thì cũng có thể thành tựu rất cao. Huyền tẫn: huyền là dương, tẫn là âm, huyền tẫn là thái cực, tức là nơi âm dương hợp nhất. Hành thâm ba la mật đa: cũng gọi là thậm thâm bát nhã, thực tướng bát nhã, ý nói đến chân lý sâu xa màu nhiệm của Phật pháp, là vi diệu tối tôn.
30. Nhất niệm thuộc về đâu?
Trước đây khi các thiền sư bắt đầu dạy Đạo cho đời sau thường hỏi như thế này: "Vạn ý niệm quy về làm một, thế là quy về chỗ nào?" Tôi dạy đệ tử: "Vạn niệm quy về nhất niệm, nhất niệm quy về vô niệm." Nhưng mà: "Sau vô niệm, lại quy về đâu?" Tôi lấy một ví dụ, tôi bây giờ đóng cửa ẩn cư đã được năm năm rồi, có muốn đóng cửa hẳn luôn không? Hay là... hay là... có một ngày, đột nhiên lại ra ngoài? Tôi bây giờ bằng con số không. Vẫn có thể quy về làm một không? Chúng ta đừng nên xem thường chữ "một" này, để có được "một" cũng đã rất không đơn giản rồi. "Luận ngữ" (*) - thiên Vi Chính nói: "Ba trăm bài thơ, chỉ tóm lại bằng một chữ, rằng không có tà ý." Khi thánh nhân Khổng Tử giảng rằng "không có tà ý", là có ý nói rằng con người thông thường thì "có suy nghĩ" đều là tà cả. Tuy nhiên, "không có suy nghĩ" thì cũng chẳng khác gì cả. Ai có thể làm được cái việc là "có suy nghĩ" mà lại không tà đây? Trong "không nghĩ" cũng không thể làm được, phải "có nghĩ" trong "không nghĩ" thì mới có thể được. "Nghĩ không tà" mà Khổng Tử nói đến chính là tư tưởng hoàn toàn thuần chính. Trong Mật giáo, tôi dạy mọi người: Quán chữ, nghĩ đến hình ảnh chủng tự Ah. Quán nguyệt, nghĩ đến hình ảnh mặt trăng. Quán Phật, nghĩ đến sự trang nghiêm của Phật. Quán hoa sen, nghĩ đến sự thanh tịnh của hoa sen. … Phật Thích Ca Mâu Ni từng hướng dẫn đệ tử: Quán bạch cốt, nghĩ đến xương biến thành tro. Quán bất tịnh, nghĩ đến xác chết biến thành tro. Quán hơi thở, nghĩ đến hơi thở thành một. Quán Phật quốc, nghĩ đến 16 Phật quốc quán thành một. Trong Tịnh thổ tông, lấy vạn niệm kết lại thành nhất niệm, nhất niệm này chỉ còn là bốn chữ, chính là "A Di Đà Phật". A Di Đà Phật chính là một vị Phật, chỉ một không hai. Một, một, một, quan trọng thế nào. Đây chính là: nghĩ không tà. Bạch Cư Dị (tên chữ là Lạc Thiên) có một bài thơ viết rằng: Tôi học Hư không, không học tiên. Lời này là thật chẳng nói xiên. Núi cao biển rộng không muốn ở. Nơi phải quay về: Đâu Suất Thiên.(*) (Bài thơ này chứng minh Bạch Cư Dị không phải học tiên đạo, mà là một đại học giả học Phật. Bạch Cư Dị ở đây là tưởng nhớ đến Bồ Tát Di Lặc, vào những năm cuối đời, ông ấy cũng được xem như là "nghĩ không tà".) Muốn dạy một kẻ phàm phu "nghĩ không tà" thực sự không dễ, bởi vì con người ta có thất tình lục dục, v.v. Tham lam, nham hiểm, hỏa dục, gian tà, khoái lạc, bi ai, ghen hận, v.v. Do vậy Phật pháp chẳng nhầm chút nào, dạy chúng sinh quán tưởng chính là để đạt đến được nhất niệm, để "nghĩ không tà." Sau khi thành được nhất niệm thì quy về đâu? Đáp rằng: "Vô niệm." "Vô niệm" là thế nào? Cũng chính là Phật quốc tịnh thổ, nhờ tịch diệt mà con người có được "lạc". Vậy thì vô niệm quy về đâu? Tôi đáp: "Lại quy về một!" Một về là một, một lại về không, không lại là một, một lại là không. Việc này là thế nào đây? Tôi đáp: "Tự do đi về." Đây chính là Như Lai, người đã đến như thế, cũng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng từ đâu đi. Đây cũng là "tự do đi tới, tự do quay về". Cảnh giới của tôi bây giờ chính là như vậy. Tự do đi tới, tự do quay về, tất cả đều tùy vào lão già này cao hứng mà làm thôi.
------------------- Luận ngữ: do Khổng Tử và các đệ tử biên soạn, là một trong Tứ Thư, gồm 20 thiên và không có liên hệ với nhau. Vi Chính là thiên thứ hai trong Luận ngữ. Đâu Suất Thiên: cõi trời Đâu Suất, là cõi tịnh độ của Đức Phật tương lai - Phật Di Lặc.
31. Lông rùa và sừng thỏ
Trong "Hán Thư" có ghi chép lại "Truyện Dực Phụng", đại ý như sau: Dực Phụng là một vị trẻ tuổi, người vùng Hạ Bi huyện Đông Hải. Con người này đọc thuộc kinh thuật, thích thuật chiêm bốc luật lịch âm dương, có tài năng trời phú về việc bói toán. Nguyên Đế vừa lên ngôi không lâu, các học giả lớn trong triều đình bèn tiến cử với hoàng đế ban cho Dực Phụng chức quan tùy thị. Nói ra cũng kì lạ, Nguyên Đế có băn khoăn gì cũng chỉ hỏi Dực Phụng. Dực Phụng lần nào xem bói cũng đều chuẩn, do vậy Nguyên Đế lại càng vô cùng kính trọng ông. Khi đó, có một vị tên Bình Xương Hầu là người thân bên ngoại của vua, cũng là một người phục vụ trong triều đình, rất ngưỡng mộ tài xem bói của Dực Phụng, liền nhờ vua hạ chiếu yêu cầu Dực Phụng dạy ông ta thuật xem bói. Nhưng Dực Phụng cứ tránh mãi, không muốn dạy. Cuối cùng Dực Phụng nói với vua: "Nguyên tắc cai trị đất nước là cần biết chính xác các quan đại thần là trung thần hay gian thần. Biết người thiện mà giao trách nhiệm, cai trị thiên hạ cũng như vậy. Truyền dạy thuật bói toán lại càng phải như vậy, người chỉ cần chân thành, tâm thuật chính trực thì dù ngu dốt cũng có thể dùng được. Nếu như không chân thành, hoặc tâm thuật bất chính, mà lại còn thông minh trời phú thì sẽ làm hại người ta càng nhiều." Hoàng đế nhận thấy Dực Phụng nói rất chí lý nên không ép Dực Phụng phải truyền dạy thuật bói toán cho Bình Xương Hầu nữa. Sau này thì thấy rõ Bình Xương Hầu có tâm thuật bất chính. Tôi đọc xong truyện Dực Phụng cảm thấy thiên hạ xưa nay đều như vậy. Tôi cũng có thuật thần toán, trung tâm của nó bao gồm vạn pháp, thậm chí có thể chỉ dẫn người ta vãng sinh Phật quốc tịnh thổ. Minh tâm kiến tính. Thậm chí tôi có thể gặp thần gặp quỷ, uống cả mật hoa rượu tiên trên trời, những thuật này trên trần thế ít người biết được. Đương nhiên 500 vạn đệ tử của tôi rất nhiều người đến cầu xin tôi truyền dạy thuật thần toán. Kim cương Thượng Sư, pháp sư, hành giả, người xin thuật thần toán rất nhiều, giống như Bình Xương Hầu thời nhà Hán vậy, bọn họ đều vô cùng ngưỡng mộ thuật thần toán. Mỗi người đến cầu xin, tôi đều nghe "nhĩ báo" của bổn tôn. "Nhĩ báo" chính là thông báo ở bên tai mà thần minh truyền đến. Sau đó tôi sẽ làm một việc là phân biệt chính, tà, trung, gian, giao cho thần minh đi làm. Bản thân tôi không có ý kiến gì. Tôi thường hỏi người cầu xin pháp. "Anh có chân thành không?" "Chân thành." "Là chân thành nhất thời à? Hay là chân thành vĩnh viễn?" "Chân thành vĩnh viễn." "Thật không?" "Đương nhiên là thật rồi." Trên thực tế thông qua kinh nghiệm truyền pháp hơn 30 năm của tôi, tôi không dám nói rằng người chân thành dù một người cũng không có. Thực sự là có đệ tử chân thành khiến người ta cảm phục. Có điều trong số đó thì người vừa tà vừa âm, vừa tham vừa gian, vừa hám tài vừa hám sắc lại càng nhiều hơn! Bọn họ lúc mới đến thì chân thành! Nhưng lâu lâu sau thì đều trở thành không chân thành nữa! Về việc tìm kiếm một người chân thành, tôi cảm thán: "Giống như tìm lông trên đám rùa, giống như tìm sừng trong bầy thỏ. Rùa sao có thể có lông? Thỏ sao có thể có sừng? Trong thiên hạ tìm được một đệ tử chân thành, khó sao! Khó sao! Có lẽ chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi!" Có một sự việc tôi cảm thấy rất buồn cười. Con người ngày nay khi muốn tặng người khác bút tích rất thích viết hai chữ thư pháp "Chân thành". Trong nhà mỗi người thường treo hai chữ "Chân thành". Nhưng, người tặng không mấy chân thành, người nhận cũng chẳng mấy chân thành. Đây là chuyện đáng cười nhất thời nay. Ha ha ha, cười ha ha thật to.
32. Một người hoàn toàn tuyệt vọng
Liệu có phải tôi là một người hoàn toàn tuyệt vọng không?Câu trả lời của tôi là: "Có vẻ như rất gần như thế, sự khác biệt tương đối nhỏ, chỉ còn cách vài bước nữa thôi!" Vì sao lại như vậy? Tôi nghĩ đó là lúc tôi khoảng 57 tuổi, tôi ở trong tam muội, Quan Thế Âm Bồ Tát đưa cho tôi đi chiếc "giày của thần linh". Tôi mắc một ác bệnh. Não phân tám phần. Tứ đại phân tán. (*) Tôi viết một chương ghi lại căn bệnh này, đặt tên là "Lá rơi nước hồ trở lạnh rồi". Tôi là người thích bơi lội, không ngờ bây giờ lại sợ nước. Căn bệnh này kéo dài khoảng hơn hai năm, tôi sợ đến hồn bay phách lạc, dù tức giận một chút xíu tôi cũng không dám. Nói thật lòng, thậm chí leo mười bậc cầu thang tôi cũng không leo được, tình hình rất nghiêm trọng. Ăn không ngon miệng. Áo quần xộc xệch. Tiện đâu nằm đó. Lết đi không nổi. Những ngày tháng đó của tôi tình hình rất bi thảm, muốn viết văn nhưng tâm đã nguội lạnh, ý đã thành tro, cuộc sống toàn một màu xám, chẳng khác gì sống mà như chết. Trong chuỗi ngày tháng đó, tôi viết một cuốn sách tên là "Đi qua biển sinh tử". Trên thực tế: tôi đang ở bên rìa sống chết, ở giữa cái sống và cái chết, sống không bằng chết, đau đớn vô cùng, cuộc sống hoàn toàn vô vị. Tôi miễn cưỡng mà sống chính là nhờ vào nhất tâm niệm Phật để được vãng sinh Tây phương Phật quốc tịnh thổ, chẳng có suy nghĩ nào khác. Tôi đưa ra khẩu hiệu: Sống một ngày, cảm ơn một ngày. Sống một ngày, vui vẻ một ngày. Sống một ngày, tu hành một ngày. Đây thực sự là tự động viên bản thân, bởi vì tôi nhận thấy mỗi một ngày dường như đều là ngày cuối cùng. Thời gian đó tôi một lòng chỉ muốn chết đi cho xong, bằng mọi giá niệm Phật chỉ cầu để vãng sinh mà thôi. Tôi muốn hỏi: tôi như vậy thi có phải là một người hoàn toàn tuyệt vọng không? Tôi nhớ trong các thần y ngày xưa, có thần y Hoa Đà, có thần y Tôn Tư Mạc, có thần y Diệp Thiên Sĩ… Trong đó thần y Tôn Tư Mạc nổi tiếng có phương thuốc nghìn vàng. Tôn Tư Mạc cũng lại nổi tiếng là Tôn chân nhân bởi vì ông ta vốn dĩ chính là một đạo sĩ tu đạo. Ông được biết đến với cuốn sách "Đại phong ác tật luận", trong lý luận của mình ông ta nêu ra một quan điểm: Trong truyện thần tiên có khoảng mười vị thành tựu giả, đều là vì thân mắc phải ác bệnh mới đắc tiên đạo. Vì sao thân mắc ác bệnh mới đắc tiên đạo? Chẳng phải chỉ có mình ai, bởi vì mắc ác bệnh rồi mới tự biết là sinh mệnh chỉ nằm trong một cái nháy mắt, một khi hơi thở không còn thì cũng đi luôn. Lúc này, buông hết vạn niệm, từ bỏ hết mọi tình cảm, từ bỏ hết mọi ham muốn, một hạt cát cũng không có, một lòng một dạ tu hành, không có suy nghĩ gì khác. Do vậy thành công cực kì nhanh, mới thành tựu được tiên đạo. Đây là vì gặp họa ác bệnh mới có được may mắn lớn nhất. Lúc đó tôi nhớ đến cuốn "Đại phong ác tật luận", thế là tự mình hiểu ra, tâm đã lạnh, ý đã tàn, chỉ có nỗ lực hết sức tu hành, không có suy nghĩ gì khác. Về sau, căn bệnh đại ác não phân tám phần, tứ đại phân tán tự nhiên biến mất. Tôi lại sống rồi. (Lại còn sống khỏe hơn.) Nhưng, đối với những cảm xúc chốn hồng trần, tôi cũng trở nên nhạt nhẽo rồi. Đối với những dục vọng thế gian tôi đều không có nữa. Tôi biết thân thể này giống như kí gửi 60 năm, cuộc sống thực sự ngắn ngủi và tạm thời, buông bỏ là cực kì chính xác. Ngoài việc tu pháp, tôi vẫn không có ý nghĩ thứ hai nào khác. ------------------- Tứ đại: bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió.
33. Viên ngọc của con rồng khờ
Một cuốn sách tên "U minh truyền thuyết" đã ghi chép lại:Dưới lòng đất thuộc tỉnh La Dương có một cái hang động lớn, độ sâu của nó không thể đo được. Có một người trượt chân rơi xuống hang động này, thật may là không bị thương. Sau khi tỉnh lại người này đi vào một thành phố lớn với những tường thành cao và nhiều đài các. Tất cả đều được xây bằng vàng khối, mọi thứ đều được trang hoàng vô cùng lộng lẫy, con người sống ở đây ai nấy đều cao ba trượng (*). Người bị rơi xuống nói với những con người cao này rằng: "Tôi đói bụng quá!" Một người cao lêu nghêu chỉ tới cái sân bên dưới một cây bách có buộc hai con dê, bảo người này đi đến đó quỳ xuống vuốt ve bộ râu của hai con dê. Lần đầu làm được một viên ngọc, người cao lấy mất. Lần thứ hai được một viên ngọc, người cao lại lấy mất. Lần thứ ba được một viên ngọc, người cao bèn bảo con người kia nuốt vào bụng. Thế là người bị rơi xuống kia bụng không còn thấy đói nữa. Tôi đọc xong truyền thuyết này thì cảm thấy nó vô cùng mới mẻ thú vị, có một chút cảm nghĩ: Tôi và rồng có mối nhân duyên rất sâu sắc. Tôi từng ở đảo Khắc Mĩ Đắc làm lễ quy y cho một bầy rồng sống ở đáy biển. Tôi dạy đệ tử cúng pháp Long Vương bảo bình. Tôi ở trên thiên giới nhìn thấy những con rồng và ao rồng thật, những con rồng này và rồng mà dưới nhân gian vẽ thì không giống nhau. Tôi nhận Ma Tọa Long Vương làm đệ tử. Mỗi khi tôi gặp địa phương nào hạn hán, lâu không có mưa, tôi có thể dùng sắc lệnh hợp pháp cầu rồng phun mưa, thường xuyên cầu để thử nghiệm. Tôi có thể cưỡi rồng lên trời xuống biển. Nhưng giả sử Long Vương tặng cho tôi ba viên ngọc rồng, tôi nhất định sẽ không nhận. Một, viên ngọc rồng thứ nhất là sống thọ cùng trời đất, tôi nghĩ cả nửa ngày xem sống thọ cùng trời đất thì có gì hay. Tôi thực sự không muốn xuất hiện nữa, trời đất đã quá vô vị rồi, càng sống lâu thì lại càng chán ngắt, con người này trở thành "thép không rỉ", thực sự chẳng có chút ý nghĩa nào. (Tôi bị trời đất giới hạn tuổi thọ.) Hai, viên ngọc rồng thứ hai có thể kéo dài tuổi thọ. Hành giả chúng ta cũng không muốn kéo dài cuộc sống. Tôi thấy con người trần gian mỗi khi mẹ cha bị bệnh đều muốn kéo dài cuộc sống cho cha mẹ, cầu xin cho sống thêm vài năm nữa, hoặc là sáu năm, hoặc là mười hai năm, nhưng chẳng bao giờ nói rõ muốn sống thêm vài năm để làm gì. Một số người con hy vọng cha mẹ sống thêm vài năm để con cái có thể hiếu thuận thêm với cha mẹ, việc này còn có ý nghĩa. Nhưng cha mẹ sống thêm vài năm, muốn cha mẹ làm cái gì, ngoài việc ăn uống nói chuyện và "xả" ra thì còn làm được gì nữa? Ba, viên ngọc rồng thứ ba có thể giúp vĩnh viễn không bao giờ bị đói. Với một người đang sống thì vĩnh viễn không bao giờ đói bụng thực sự cũng không có ý nghĩa lớn lắm. Cần biết rằng một người vĩnh viễn không bị đói nũa, thì cũng vĩnh viễn mất đi cảm giác về đồ ăn ngon, vĩnh viễn không biết khẩu vị thế nào. Thế thì sống để làm gì? Khi cha tôi về già từng nói: Ham tiền, không. Ham sắc, không. Ham danh, không. Ham ngủ, không. Chỉ mỗi ham ăn là vẫn "có", do vậy việc kéo dài thêm đời người này mới đáng để mà sống tiếp. Nếu ngay cả không còn ham ăn thì có gì đáng sống? Cá nhân tôi chẳng có hứng thú gì đối với việc sống thọ cùng trời đất, chẳng có hứng thú gì với việc kéo dài tuổi thọ, đối với cái bụng không bao giờ đói cũng chẳng có hứng thú y như vậy. Vì thế ngọc rồng đối với tôi chẳng có ích lợi gì cả. Con người tôi thích tự do. Thích tự do. Thích vô câu vô thúc (*). Nhân gian cõi Ta Bà ràng buộc quá nhiều, quy tắc quá nhiều, tôi không thích! --------------------- Trượng: đơn vị đo lượng của Trung Quốc, một trượng bằng 3.3m. Vô câu vô thúc: tự do không ràng buộc, không lo lắng bận tâm.
34. Vẫn là tranh giành, tranh giành, tranh giành
Trong Hán Thư, có một bài dân ca thời Hán Triều: Nhất xích bố, Thượng khả phùng. Nhất đẩu túc, Thượng khả thung. Huynh đệ nhị nhân bất tương dung. Dịch nghĩa: Vải một thước, Chẳng đủ may. Một thố thóc, Chẳng đủ giã. Anh em hai người chẳng chịu nhau. Đại ý của bài dân ca này là: vào thời Hán, cho dù là anh em thì cũng tranh giành với nhau. Kì thực chẳng phải riêng gì thời Hán, trên thực tế triều đại nào mà chẳng giống như vậy? Tranh giành, tranh giành, tranh giành… Lư Thắng Ngạn tôi sớm đã nhìn rõ rồi, hết màn diễn này đến màn diễn khác trên đời, các màn diễn không ngừng dứt. Tôi lấy ví dụ cuộc tranh giành của các đại gia thời đại ngày nay: Trần gia, Hầu gia, Thái gia, Ngô gia, Hồng gia, Cô gia, v.v. Tôi không biết phải viết ra bao nhiêu cái "vân vân" nữa. Giống như đại thiện nhân nổi tiếng của Hồng Kông Tân Mã Sư Tăng (*), hậu trường của ông loạn cào cào giống như vậy. Ngay cả họa sĩ vĩ đại của phái Lĩnh Nam (*) là Dương đại sư của Lữ gia, hậu trường của ông cũng loạn như vậy. Tôi còn gì để nói đây? Tôi còn gì để nói đây hả? Anh em hòa hợp không phải là không có, nhưng bất hòa vì tranh giành tài sản với nhau thì nhiều không thể kể hết. Vì sao vậy? Vì một chữ tiền - mà mọi người đều xông vào đánh nhau giành giật. Cá nhân tôi một đời biết rõ chữ "tiền" thì hay ho ghê lắm, nhưng có một thứ còn hay ho hơn cả chữ "tiền", thứ này chính là "tu hành". Tôi không có chùa của riêng mình, không có Lôi Tạng Tự của riêng mình. Cúng dường tùy ý. Cả đời tôi không can dự vào sự nghiệp. Cả đời tôi không ra vào ngân hàng, đến cả việc gửi tiền rút tiền đều không biết. Tôi chưa bao giờ dùng thẻ tín dụng. Tôi không biết mua cổ phiếu. Tôi chưa từng vay tiền của ai. Tôi cho người ta vay tiền, không trả lại cũng được. Trên thực tế rất nhiều người đã mượn tiền tôi, rồi cũng từ đó mà tạm biệt luôn! Mẹ tôi qua đời, tôi không cần tài sản thừa kế, đều chia hết cho bốn em gái. Tôi thực sự không muốn tranh giành, tranh giành, tranh giành. Tôi nghe nói trong năm năm tôi ẩn cư, có người mượn danh của tôi thừa cơ thay mặt tôi nhận tiền cúng dường, có người mượn danh của tôi thừa cơ đi lừa tiền của người ta. … Tôi ngửa mặt lên trời cười lớn, ha ha ha! Trong sách Sử Kí có ghi lại sự việc vua Vũ Vương tiêu diệt Thương Triều lập ra nhà Chu, anh em Bá Di và Thúc Tề xấu hổ cùng thề không ăn thóc nhà Chu, nhịn đói mà chết ở trên núi Thú Dương. Cái chết của kiểu người này là chết hợp đạo lý, chính đáng. Ngoài ra, đạo chích là những tên trộm khét tiếng, chuyên môn ăn trộm bảo vật trong các lăng mộ, chúng đương nhiên là chết vì tiền trong lăng mộ. Còn nữa: Phàn Sùng thủ lĩnh nhóm khởi nghĩa Xích Mi (*) khi rút khỏi thành Trường An đã đốt thành, tiêu hủy cung điện nhà cửa, chùa miếu lăng tẩm đều bị đào bới (để lấy châu báu). Ý của tôi muốn nói rằng, các hoàng đế nối tiếp của Trung Quốc đem theo cả châu báu vào trong quan tài, rốt cục cũng có chung một kết cục là để cho mọi người cùng đào bới! Tôi không biết các hoàng đế nối tiếp thì tài bảo để ở đâu? Cung A Phòng, vườn Viên Minh nay ở đâu? (*) Phú hào ngày xưa tiền tài ở đâu? Thật chẳng bằng Bá Di, Thúc Tề chết một cách chân chính. Tôi thấy ngày nay các thế hệ con cháu nối tiếp tranh giành tài sản để lại của các thế hệ trước mà trong lòng không tránh khỏi cảm thấy buồn, nhưng cũng hiểu được họ. Rốt cục là con người, bọn họ không tranh giành tài sản thì còn biết tranh giành cái gì? Dưới trời đất này làm gì có kiểu người nào giống như tôi, gom lại cũng tốt, chia ra cũng tốt, tất cả đều giao cho dòng nước. Tôi chỉ có một điều phiền não, giày của tôi thật là nhanh bị hỏng thôi!
------------------- Tân Mã Sư Tăng (Sun Ma Sze Tsang) 1916 - 1997: là nghệ danh trên sân khấu của Đặng Vĩnh Tường, một nghệ sĩ kinh kịch nổi tiếng người Hồng Kông. Phái Lĩnh Nam: Lĩnh Nam họa phái, một trường phái nổi tiếng với dòng tranh thủy mặc. Xích Mi: tên gọi nhóm khởi nghĩa thời nhà Tân, vì muốn phân biệt với quân triều đình nên vẽ lông mày đỏ (xích là đỏ, mi là lông mày). Cung A Phòng: Tương truyền là cung điện do Tần Thủy Hoàng xây làm nơi nghỉ mát mùa hè, thuộc Tây An Trung Quốc, nơi đây được ghi nhận là nơi cất giữ vàng bạc châu báu mà quân Tần cướp được. Sau này khi nhà Tần bị đánh bài, cung A Phòng được cho là bị đốt cháy không còn dấu vết. Vườn Viên Minh: di tích lịch sử nổi tiếng ở Bắc Kinh, xây dựng vào thời Khang Hy nhà Thanh, được mệnh danh là "vườn của muôn vườn" với nhiều công trình quý giá. Vào năm 1860 nơi đây đã bị liên minh Anh Pháp đốt cháy tiêu hủy.
35. Kê Khang của Trúc Lâm Thất Hiền
Trong "Tấn Thư" có tiểu sử Kê Khang đã ghi chép lại cuộc đời của ông. Tôi đọc thấy Kê Khang vào lúc 40 tuổi bị chém đầu mà không khỏi kinh hãi. Kê Khang, tên chữ là Thúc Dạ, là con rể trong tông thất nhà Ngụy, bái thầy là Trung Tán đại phu, có một cuốn sách là "Kê Trung Tán tập" được truyền qua nhiều đời. Kê Khang có một phẩm chất tự nhiên là thích tu tâm dưỡng tính nên ông ta tin vào đạo của thần tiên cũng là một điều rất tự nhiên, dù không được học mà vẫn thành tựu. Kê Khang thích đạo dưỡng sinh, tin rằng Bành Tổ và An Kỳ tuổi thọ cao là việc có thể làm được, do vậy mà có "Dưỡng sinh luận". Kê Khang sẵn lòng sống những ngày ẩn cư để tập dưỡng sinh, là một trong bảy Trúc Lâm Thất Hiền. Tuy nhiên, Kê Khang đắc tội với Chung Hội - vị tướng tâm phúc của Tư Mã Chiêu nên đã bị Chung Hội vu khống là lập mưu tạo phản. Khi mới ở tù, Kê Khang ở trong ngục viết bài thơ "U phẫn thi" (Bài thơ phẫn uất với cảnh ngồi tù). Sau đó vào năm Kê Khang 40 tuổi, Tấn Văn Đế Tư Mã Chiêu đã ra lệnh thực thi chém đầu ông tại thành phía Đông. Có ba nghìn đại học sinh đã thỉnh cầu miễn cho Kê Khang khỏi bị chém đầu, nhưng rốt cuộc không thành, cuối cùng ông vẫn bị chém đầu. Sau khi Kê Khang bị chém đầu, những kẻ sĩ có tri thức và kinh nghiệm ở khắp vùng không ai là không đau đớn. Tôi đọc xong truyện kí về Kê Khang, trong lòng rất cảm động. Chúng ta đều biết Kê Khang bị vu khống, phải chịu oan uổng, nhưng có tác dụng gì, chém là chém thôi. Trong lịch sử, người bị chết oan uổng có bao nhiêu người? Nổi tiếng nhất là: Nhạc Phi, Văn Thiên Tường. Vẫn còn có rất rất nhiều người, đếm không thể hết được. Tôi nhớ khi tôi mới học Phật pháp đã bị dán cho cái mác "tà giáo", một khi đã bị dán mác thì cả đời này đi đến đâu hai chữ "tà giáo" mãi mãi không thể gỡ xuống được. Tôi bị vu khống là kẻ: "Yêu ngôn hoặc chúng". (dùng lời lẽ giả dối để lừa công chúng) "Yêu ma quỷ quái". "Có mưu đồ". "Có ý mưu phản". Có vị cao tăng còn nói: "Bắt hắn lại!" Khi đó tôi có vẻ như giống như Trương Giác của Ngũ Đấu Mễ Giáo (*) vào cuối đời Đông Hán tin tưởng học đạo của Thái Thượng Lão Quân. Lại cũng giống như Phó Đại Sĩ (*) vào thời đại Nam Bắc Triều của Lương Vũ Đế tin tưởng Di Lặc giáo của Bồ Tát Di Lặc. Lại cũng giống như La Tổ (La Nhân) của La Giáo, vào thời đại cuối đời Minh đã tin tưởng "Vô sinh lão mẫu, chân không gia hương" (*). Tôi bị gộp lẫn vào với Bạch Liên Giáo (*) (do cao tăng Huệ Viễn sáng lập), lại giống như Nghĩa Hòa Đoàn, (*) Hoàng Cân Tặc (*) và Thái Bình Thiên Quốc. (Hồng Tú Toàn) (*) Thực sự thì tôi là cái gì? Tôi chỉ là một con thỏ con, con thỏ con trốn thoát khỏi cái chuồng của chốn nhân gian. Con thỏ con tháo chạy khỏi cái chuồng trốn nhân gian thì vội vàng chạy vào núi rừng, làm sao dám quay trở về cái chuồng nhốt nữa? Con người tôi trước nay chẳng có tham vọng gì, chỉ muốn ẩn cư sống qua những ngày yên ổn. Tôi cũng chẳng có hoài bão to lớn như là lãnh đạo tông phái thành tông phái số một thế giới. Bạn có duyên tu pháp thì tu pháp. Bạn không có duyên tu pháp thì bỏ đi. Không bao giờ có chuyện miễn cưỡng. Năm nay tôi đã 61 tuổi rồi, là một thảo dân, là một lão ngốc, ngoài Phật pháp ra, cái gì tôi cũng chẳng biết. Ngoài Phật pháp ra, tôi chẳng có bất cứ tâm nào khác. Tôi đóng cửa ẩn cư năm năm rồi, tốt nhất là mọi người quên tôi luôn đi! Mọi người buông tha cho tôi đi! Cầu xin đấy! Cầu xin đấy! Tôi ẩn cư trong núi rừng rồi, đừng có quấy rầy tôi nữa! --------------------- Ngũ Đấu Mễ Giáo: hay Ngũ Đấu Mễ Đạo, giáo phái đầu tiên của Đạo giáo, cuối đời Đông Hán. Thái Thượng Lão Quân được cho là đã truyền đạo cho Trương Giác (còn gọi là Trương Lăng, Trương Đạo Lăng). Phó Đại Sĩ (497 - 569): là Phó Hấp hay Đại Sĩ Thiện Huệ, tu hành theo đạo Phật, giảng Phật pháp, giúp giải quyết những khó khăn thực tế trong đời sống của nhân dân, quên mình vì người. Vô sinh lão mẫu, chân không gia hương: tám chữ bí truyền lưu hành trong tông giáo giữa đời Minh, do La giáo đặt ra. Chân không gia hương nghĩa là quê nhà là chân không, tức cung trời, nơi con người từ đó sinh ra rồi lại về đó an nghỉ. Vô sinh lão mẫu là mẹ già vô sinh, là mẹ của người đời. Bạch liên giáo: giáo phái thờ bông sen trắng, chịu ảnh hưởng của Phật giáo phát triển mạnh đến thời nhà Minh, Thanh. Đây là tôn giáo thần bí với nhiều nghi thức tế lễ phức tạp, đến khi Trung Quốc học hỏi văn minh của phương Tây thì Bạch liên giáo bị cho là tuyên truyền mê tín, tà giáo. Họ cũng tin vào 8 chữ "Vô sinh lão mẫu, chân không gia hương". Nghĩa Hòa Đoàn: tổ chức tôn giáo thần bí, đồng thời hoạt động chính trị, lãnh đạo phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, có nghi ngờ liên quan Bạch liên giáo. Hoàng Cân tặc: còn gọi là khởi nghĩa Khăn Vàng (hoàng cân), cuộc khởi nghĩa do Trương Giác khởi sự chống lại nhà Hán vào năm 184. Hồng Tú Toàn (1814 - 1864): là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc chống lại triều đình Mãn Thanh.
36. Tử Hư Ô Hữu tiên sinh
Đọc sách đọc đến tác phẩm "Tử Hư phú" do Tư Mã Tương Như (*) viết, tôi cảm thấy cực kì thú vị. Trong "Tử Hư phú" có hai đại nhân vật, chính là hai nhân vật chính do Tư Mã Tương Như hư cấu nên. Một người là Tử Hư tiên sinh. Một người là Ô Hữu tiên sinh. Tử Hư tiên sinh biện bạch với vua, nói rằng đất đai nước Sở vô cùng phì nhiêu (trên thực tế là rất nghèo nàn đáng thương). Ô Hữu tiên sinh thì khoa trương nói lãnh thổ nước Tề vô cùng mênh mông rộng lớn (trên thực tế nước Tề chỉ bé tí như hạt đậu). Tác phẩm "Tử hư phú" này mặc dù chỉ là hư cấu nhưng Tư Mã Tương Như viết vừa độc đáo vừa hài hước duyên dáng. Ý chính của nó là châm biếm những kẻ nói lời đao to búa lớn, khoác lác, những kẻ làm chính trị miệng lưỡi khéo léo đẹp đẽ như hoa sen. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì là: "Dọa cho sợ đến chết thì thôi!" "Chém gió một tấc đến giời!" "Lừa người ta đến chết mà vẫn tỉnh như không!" Tôi nghĩ đến: Ngày xưa thông tin chưa phát triển, Tử Hư Ô Hữu tiên sinh đi khắp nơi để phá hoại. Lấy chuyện Tăng Sâm (*) giết người ra làm ví dụ: Có người đến nói với mẹ Tăng Sâm: "Tăng Sâm giết người!" Mẹ ông tin vào con mình, không nói gì. Lại có một người khác đến nói với mẹ Tăng Sâm: "Tăng Sâm giết người!" Mẹ ông vẫn không tin. Lại có một người thứ ba đến nói với mẹ Tăng Sâm: "Tăng Sâm giết người!" Mẹ ông bấy giờ mới tin, vô cùng sợ hãi. Kết quả là, Tăng Sâm vốn không giết người, là lỗi của Tử Hư Ô Hữu tiên sinh. Thời hiện đại, thông tin phát triển, vì thế lại càng loạn. Tử Hư Ô Hữu tiên sinh mà sống trong thời đại truyền thông thì chuyện hay của Tử Hư Ô Hữu đã được đưa tin ngay rồi. Khi tôi mới ra mặt hoằng pháp, có một bên truyền thông nói: "Lư Thắng Ngạn là tà giáo!" Bà bác của tôi không tin, bác ấy tin tôi. Bên truyền thông thứ hai nói: "Lư Thắng Ngạn là tà giáo!" Bà bác của tôi vẫn không tin. Đến khi bên truyền thông thứ ba nói: "Lư Thắng Ngạn là tà giáo!", thì bà bác của tôi nói với tôi: "Mọi người đều nói như vậy, bác chẳng thể nào không tin!" Tôi thấy truyền thông ngày nay đăng các tin tức ngồi lê đôi mách rất nhiều, có một số tạp chí thường xuyên bị kiện là buộc tội vô căn cứ, là loại Tử Hư Ô Hữu. Nhưng nói đi thì phải nói lại, mục đích chủ yếu của truyền thông là chiều theo quần chúng. Chuyện càng Tử Hư Ô Hữu thì càng có nhiều người xem, càng nhiều người tin, chuyện đã sai lại càng sai, mọi người cũng đều tin hết. Đối với những chuyện này, về cơ bản tôi chẳng muốn trả lời. Tôi chỉ tu pháp của tôi, hiểu tâm của tôi, kiến tính của tôi, lấy bốn câu đối sau: Tôi vốn chán đời, Vứt bỏ thế gian, Giữ trọn duy nhất, Cuộc sống thần tiên. Tôi cười mà nói: "Tôi là người trên trời, tôi chẳng muốn hiểu chuyện lặt vặt chốn nhân gian." Truyền thông từ đây bắt đầu Tử Hư Ô Hữu. Tôi vốn chẳng thích giải thích, bởi vì một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra đủ thứ. Càng là chuyện Tử Hư Ô Hữu thì càng gây kinh động. Còn ngày nay, tôi đọc những bài viết về tôi trên truyền thông cũng giống như đọc tiểu thuyết, thực sự toàn là chuyện hư cấu mà ra. Tôi đọc đến mờ cả mắt. Đọc đến u u mê mê. Thực sự chẳng còn biết Lư Thắng Ngạn là ai nữa? Con người này của tôi chẳng quan trọng chuyện danh dự, cũng hoàn toàn chẳng muốn để ý tới, chỉ là cảm thấy cực kì thú vị. Các vị Tử Hư Ô Hữu tiên sinh, hoan nghênh các người tiếp tục loạn bút, bởi vì người ta thích đọc mà. ----------------- Tư Mã Tương Như (179 - 117 TCN): là một thi nhân văn sĩ đa tài, văn hay, đàn giỏi thời Tây Hán. "Tử Hư phú" là một tác phẩm nổi tiếng của ông, người đời sau gọi ông là Phú Thánh, là đại diện tiêu biểu của đại thi gia về phú. Tăng Sâm (505 - 435 TCN): người nước Lỗ, ông là học trò xuất sắc của Khổng Tử, rất chí hiếu với cha mẹ, người đời liệt ông vào một trong 24 tấm gương hiếu thảo.
37. Không còn, không còn, không còn
Tôi phát hiện ra trong thế giới Ta Bà, có hai chữ khi dùng vào bất kì việc gì cũng đều vô cùng phù hợp. Hai chữ này là: "Không còn… không còn… không còn…" Nói về thời gian: Năm trước không còn nữa, tháng trước không còn nữa, ngày trước không còn nữa, thậm chí một giờ trước, một phút trước, một giây trước, đều không còn nữa. Nói về không gian: Mẹ tôi từng cảm thán: "Con người giống như chim." Một chốc bay Đông. Một chốc bay Tây. Lúc gặp nhau cũng chính là bắt đầu chia ly, vui buồn ly hợp, mỗi lần gặp nhau là mỗi lần chia ly, tất cả cái này rồi lại tất cả cái kia, thậm chí không gian cũng vậy, thời gian cũng không còn. (Vẫn là không còn!) Nói về bạn bè: Bạn tiểu học không còn nữa, bạn cấp hai không còn nữa, bạn trung học không còn nữa, bạn đại học không còn nữa. Cho dù có hội bạn học cũ thì khi gặp mặt cũng chỉ là thở dài: "Không còn, không còn, không còn." Đệ tử của tôi là vua dân ca vùng Tân Cương - Vương La Tân, nhiều năm trước đã viết bài "Thanh xuân vũ khúc": Mặt trời xuống núi, Minh Triều vẫn tiến lên. Hoa nay tàn rồi năm sau vẫn lại nở. Con chim nhỏ xinh một đi không dấu vết Tuổi trẻ của tôi cũng giống chim kia chẳng thể quay lại. Tuổi trẻ của tôi cũng giống chim kia chẳng thể quay lại. Đi rồi a ý a, đi rồi a ý a. Tuổi trẻ của tôi cũng giống chim kia chẳng thể quay lại. (Tam Mao đi rồi!) (Vương La Tân đi rồi!) Tuổi trẻ không những không còn, đến cả tâm cũng không còn như xưa nữa, cái gì cũng không còn nữa rồi! Tôi di cư qua Mỹ, các bài thuyết pháp khai thị ở Lôi Tạng Tự, trung tâm thông tin thư tín của Chân Phật Mật Uyển, những pháp hội Hộ Ma ở biệt thự Cầu Vồng, sau khi tôi ẩn cư thì tất cả đều: "Không còn, không còn, không còn." Bài thơ của Lưu Vũ Dương: Sân kia trăm mẫu rêu một nửa Hoa đào rụng hết cải nở hoa Đạo sĩ trồng đào ở đâu đó? Lưu Lang ngày trước lại về đây. Bài thơ này là Lưu Vũ Dương làm khi đi chơi ở Huyền Đô quán, thâm ý của bài thơ chính là "không còn". Bài thơ này khiến tôi nhớ đến vị Lưu Lang cũng đi vào trong núi tiên gặp nàng tiên nữ xinh đẹp Lưu Thần. Bài ca tình yêu giữa tiên nữ trên trời và người tình chốn nhân gian còn lưu truyền đến tận ngày nay. Còn nữa: Ngạc Lục Hoa là một thiên nữ xinh đẹp ở trên trời, thiên nữ xuống hạ giới đã theo đuổi Dương Quyền của chốn nhân gian. Buổi đêm hạ giáng xuống nhà của Dương Quyền tặng cho vật đính ước, trao cho nhau những lời yêu thương. Câu hỏi của tôi là, nếu như: Lưu Lang là ông già Lưu Dương Quyền là ông già Dương Xin hỏi: tiên nữ có còn đến yêu thương nữa không? Rồi còn Vương Duy lúc trẻ, thơ văn duyên dáng, giỏi ca hát, cũng lại biết chơi đàn tì bà, Vương Duy vì công chúa An Lạc mà viết nên bài ca "Ức Luân Bào". An Lạc công chúa ngưỡng mộ Vương Duy, Vương Duy vì thế mà được thăng cấp. Nếu Vương Duy là ông già Vương thì còn được thăng cấp không? Tôi ẩn cư mới có năm năm thôi mà đã có nhiều đệ tử sinh ly tử biệt rồi, ngãng xa ra, xa cách đi, tôi cũng là ông già Lư rồi. Cuộc đời thật là "không còn, không còn, không còn."
38. Thân có thế nào?
Trang Tử trong "Trí bắc du" đã viết:Vua Thuấn hỏi Thừa sư phụ: "Đạo có thể đắc được, nhưng có không?" Thừa sư phụ đáp: "Thân này không phải là của anh có, anh làm sao đắc được Đạo?" Vua Thuấn lại hỏi Thừa sư phụ: "Thân tôi không phải là của tôi có, vậy thì nó là của ai?" Thừa sư phụ đáp: "Là hình ảnh tùy thuận của thiên địa mà ra." Thừa sư phụ của Đại Thuấn cho rằng: thân thể của mỗi người đều không thực sự là thứ người đó có, đây chỉ là hình thể bên ngoài mà trời đất trao cho con người sử dụng. Hình thể hữu hình có thể đắc được đạo gì? (Đây là quan điểm của Thừa sư phụ của Đại Thuấn.) Trên phương diện này, Lão Tử càng nói rõ ràng hơn như sau: "Thần có thể bay, cũng có thể chuyển núi. Hữu hình đều trở thành tro đất, làm sao biết nó ở đâu." Lão Tử lại nói: "Tai nghe âm thanh, mắt thấy sắc đẹp, bởi vì thế mà gây nên lầm lỗi. Mũi miệng thấy thích thú là bởi vì hương vị. Thân là cái gốc của phiền não, thân cũng là nơi sinh đau ốm bệnh tật. Ý bởi do hình ảnh mà nghĩ ra, từ đó mà lo lắng buồn phiền. Ta bị giới hạn bởi thân giống như mắc đại họa. Xem xưa xem nay, có ai có thể được toàn hảo?" Lão Tử ý nói rằng: "Thân thể con người là tro đất." Lão Tử ý nói rằng: "Mắt tai mũi lưỡi thân đều là cái gốc của phiền não, ý niệm lại càng là nguồn gốc của lo lắng âu sầu." Lão Tử ý nói rằng: "Thân thể mới chính là đại họa." Điển tích trong Phật giáo càng tiến bộ trước một bước. Kinh Kim Cương nói: "Trí tuệ vô ngã có hai loại, ngã không và pháp không." Đại Thừa Nghĩa Chương nói: "Pháp không có thực tính, bởi vậy mà vô ngã." Câu Xá Quang Kí nói: "Bởi vì phi tự tại, bởi vậy mà phi ngã." Nguyên Nhân Luận nói: "Sắc của hình hài, tâm của suy nghĩ, từ vô thủy đến nay bởi vì nghiệp lực nhân duyên nên liên miên sinh diệt, tiếp diễn vô cùng, như nước nhỏ giọt, như đèn le lói. Thân tâm giả hợp xưa nay vẫn vậy. Kẻ phàm ngu không biết, chấp vào cái ngã (tôi). Chính vì bởi cái ngã mà sinh ra ba thứ độc tham sân si, ba thứ độc buộc chặt vào ý, đánh thức thân và khẩu, tạo ra toàn bộ nghiệp." Chúng ta từ tư tưởng của Trang Tử, Lão Tử đến Phật gia đều nhận thấy: "Thân có thì có ở chỗ nào?" Trên phương diện ý niệm thì cũng là: "Tâm có ở chỗ nào?" Vì vậy xin hỏi: "Đạo có ở chỗ nào?" "Phật có ở chỗ nào?" Mọi người từ đây mà đi nghiên cứu Phật tính, Phật tâm gần như đã hiển hiện rồi. Cần đi thẳng vào, sẽ minh tâm. Cần đi thẳng vào, sẽ kiến tính. Tôi cảm thấy người tu đạo trên thế gian hoặc là hành giả học Phật, phần lớn đều xem đạo xem Phật là cao thâm huyền bí, hơn nữa càng học càng phức tạp, chẳng dễ nắm bắt thấu hiểu. Thử nghĩ, ngã vô, tâm vô, rốt cuộc là không có gì có thể đắc được! Thử nghĩ, kiến tướng phi tướng, rốt cuộc là chư Phật hiện toàn thân! Cái này vẫn không hiểu sao? Tôi cảm thấy người học Phật, nếu như luyện tập cái mà họ được dạy về "kiến đạo", thì đó là thực tu, rất dễ đạt đến nơi tận cùng của vấn đề, đắc đạo thành Phật không khó. Khó là ở chỗ không phá bỏ được cái thân "ngã" này!
39. Ẩn cư tốt hơn là xuống núi
Ngày xưa chúng ta học lịch sử, biết con người Tạ An (*), ông ta là một tể tướng nổi danh thời Đông Tấn."Tấn Thư - chương Tiểu sử Tạ An" viết: Tạ An vốn là một cao sĩ ẩn cư, sống ẩn mình ở núi Đông Sơn, người bạn tốt nhất của ông là Vương Hy Chi, Hứa Huân và cao tăng chi đạo Lâm Đẳng. Tạ An ẩn cư: Ở trong nhà đọc sách viết văn. Đi ra ngoài thì ngao du sơn thủy. Tạ An khi đó không có ý nguyện lập sự nghiệp lớn ở nhân gian. Ông ta ở trong núi Đông Sơn, huyện Lâm An, sống trong hang đá, lấy vừa đủ gạo, ông từng ung dung nói: "Cuộc sống sinh nhai của tôi như vầy không có gì khác biệt với những người dân thường." Đây chính là cuộc sống an tịnh của Tạ An. Có một lần, Tạ An cùng Tôn Xước và mọi người du ngoạn trên biển, gặp sóng to gió lớn, tất cả mọi người đều rất sợ hãi. Duy có Tạ An vẫn bình thản ngâm thơ, biểu hiện rất bình tĩnh, sự an tịnh trong lòng ông hoàn toàn ung dung giữa tự nhiên. (Quãng thời gian này là những ngày vui vẻ nhất trong cuộc đời của Tạ An.) Đến năm 40 tuổi thì Tạ An rời núi về làm quan (xuất sĩ). Làm quan rồi, ông nói với Vương Hy Chi: "Đến tuổi trung niên lại đau đớn vì những khúc nhạc tang thương khi phải tiễn biệt người thân bạn bè, bắt đầu đếm những ngày sợ hãi." Vương Hy Chi đáp: "Tuổi như cây dâu tằm (*), xưa nay tự nhiên mà đến, hãy nhờ vào sáo trúc mà viết lời ca, nếu thường xuyên sợ hãi thì cũng mất luôn cả niềm vui thú này." Ý của Vương Hy Chi là muốn nói rằng con người đến tuổi trung niên, chỉ có nhờ vào âm nhạc và nghệ thuật để xoa dịu đi mọi nỗi bi thương của chốn nhân gian. Kì thực trong "Tiểu sử Tạ An", tôi hiểu được từ những chuyện ghi lại: "Tạ An mặc dù chấp nhận phục vụ triều đình, nhưng từ đầu đến cuối cái chí ẩn cư núi Đông Sơn không thay đổi, luôn thể hiện rõ nơi lời nói sắc mặt. Cho đến khi trấn được thành mới, ông tận lực vì triều đình mà thi hành, chế tạo sửa chữa đê chống ngập lụt, lòng muốn cai trị ổn định lại những thứ thô lậu, từ Trường Giang quay trở lại phía Đông. Cuối cùng chí lớn không thành, ông cũng gặp phải bệnh tật mà chết." (Kì thực Tạ An chưa khi nào quên được cuộc sống ẩn cư, luôn luôn muốn thành sự nghiệp rồi thì xin lui về, mau chóng được ẩn cư sống qua ngày.) Sau này Tạ An mắc bệnh, đến khi bệnh nặng đã lên kiệu vào kinh thành Tây Châu, tự biết mình sẽ sớm lìa nhân gian nên đã cảm thán nói rằng: Nửa đời trước an lạc. Nửa đời sau gian nan. Chẳng thể bằng một đời ẩn cư! Không lâu sau Tạ An qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Tạ An vốn muốn rút lui về ở ẩn, nhưng ông đã làm đến chức quan cao, không thể tự do tùy ý, mong ước nho nhã chẳng thành, đành rút về chữa bệnh ở Tây Châu. Nhân đọc "Tiểu sử Tạ An" tôi càng thấy rõ ẩn cư tốt hơn là xuống núi. Nghĩ mà xem, niềm vui của cuộc sống là hoàn toàn tự do tự tại, còn xuất sĩ làm quan to như Tạ An đã mất đi tự chủ tự do, bị kiểm soát mọi nơi, không còn là người tự do nữa, khổ sở quá nhiều. Trong hai điều này, chọn cái nào? Tôi cảm thấy tôi một đời gian nan, một mình ẩn cư suốt năm năm qua được an vui vô cùng. Tóm lại là tôi thích làm một ẩn sĩ thôi! Tào Tháo, người tự nhận là anh hùng thiên hạ, vào lúc nấu rượu mơ xanh bàn luận chuyện anh hùng, Tào Tháo cho rằng anh hùng thiên hạ chỉ có: Tào Tháo. Lưu Bị. (Huyền Đức) Thế nhưng "Đoản ca hành" của Tào Tháo cũng có lúc chẳng còn nhuệ khí anh hùng. Đối tửu đương ca, nhân sinh kỉ hà, Thí như triêu lộ, khứ nhật khổ đa. Khái đương dĩ khảng, ưu tư nan vong. Hà dĩ giải ưu, duy hữu Đỗ Khang. Dịch thơ: Trước rượu ca hát, đời người bao nhiêu, Khác chi sương sớm, khổ nhiều ngày qua. Khẳng khái phấn chấn, khó quên ưu sầu. Giải được sầu này, chỉ Đỗ Khang thôi. (Đỗ Khang - người phát minh ra rượu, ở đây ý nói giải được sầu chỉ có rượu thôi.) Tào Tháo là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong thời đại Tam Quốc, oai phong một thời, nhưng cũng phải cảm thán: Đời người bao nhiêu? Những ngày đã qua khổ nhiều rồi. Tôi cảm nhận sâu sắc trong cuộc đời ngắn ngủi này nếu có thể tự do tự tại mà sống, thì việc tu thân dưỡng tính có giá trị quan trọng hơn bất kì danh lợi phú quý nào. ------------------- Tạ An (320 - 385): tên chữ là An Thạch, là nhà chính trị, quân sự lớn, là đại thần dưới thời Đông Tấn. Khi trưởng thành, ông từ chối chức quan nhỏ để về ẩn cư ở Đông Sơn, mãi đến khi gần 40 tuổi ông mới tái xuất trở lại triều đình làm quan. Tuổi như cây dâu tằm: ở đây nhắc đến điển tích "bể dâu", "bãi bể nương dâu" để nói đến sự thay đổi lớn của trời đất, của cuộc đời khiến người ta nuối tiếc, ngậm ngùi. Ý câu này muốn nói đến tuổi đời, đến năm tháng sẽ trôi qua cùng với rất nhiều sự thay đổi, đó là điều tất yếu khó tránh.
40. Vô cùng kì lạ
Trong "Thế thuyết tân ngữ (*) - chương "Truất miễn" viết: "Ân Trung Quân (Hạo) bị phế quan. Ở Tín An, cả ngày ông chỉ có viết chữ vào hư không. Một vị quan nhỏ ở thành Dương Châu muốn tìm hiểu xem ra sao đã bí mật qua sát, chỉ thấy ông viết bốn chữ: Vô cùng kì lạ." Đoạn văn tự này là: Có kẻ bị phế quan. Anh ta cả ngày dùng tay viết chữ vào hư không. Quan lại dân ở Dương Châu xem trộm xem anh ta viết cái gì. Hóa ra là bốn chữ "Vô cùng kì lạ". Tôi đọc đoạn văn tự này cũng không tránh khỏi việc thử học Ân Trung Quân viết chữ vào hư không, cũng viết bốn chữ "Vô cùng kì lạ". Viết xong thì tè lên mặt đất một bãi, sau đó cười lớn ba tiếng ha ha ha, thật là sảng khoái! Sảng khoái! Thời xưa: chuyện "vô cùng kì lạ" rất nhiều. Thời nay: chuyện "vô cùng kì lạ" càng nhiều. Tôi lấy một ví dụ nhỏ: Luật pháp của Hán Cao Tổ hoàng đế, kẻ giết người phải chết. Đến thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt, vẫn là luật kẻ giết người phải chết. Quân đội của Hán Vũ Đế ngoài việc bảo vệ biên cương ra còn rốt ráo tìm kiếm các nước ở Tây Vực để mở rộng lãnh thổ chiếm thêm đất đai, tấn công đất nước của kẻ thù, giết người không bỏ sót, phụ nữ trẻ em người già yếu đều không tha. Kẻ giết một người thì chết. Còn quân đội giết hàng nghìn nghìn vạn vạn người thì không phải chết. Việc này chẳng phải là "vô cùng kì lạ" sao! Từ xưa đến nay: Luật pháp của mỗi quốc gia ngày nay vẫn là kẻ giết người thì phải chết. Nhưng quân đội ngày nay ra trận, dùng tên lửa, đạn đạo, xe tăng, pháo cối để giết quân đội đối phương, ngoài ra cũng giết luôn cả những người dân vô tội, sinh mệnh tài sản, người chết và bị thương nhiều không thể kể hết. Kẻ giết một người thì chết. Còn quân đội giết hàng nghìn nghìn vạn vạn người thì không phải chết. Xưa nay chẳng khác gì. Việc tàn sát tập thể là ngoại lệ. Thật là "vô cùng kì lạ". Ngày nay cái được gọi là "nước lớn" là chỉ những quốc gia quyền lực, trang bị vũ khí chiến tranh siêu việt, bom nguyên tử, tên lửa, đạn đạo, tên lửa trên không, tên lửa mặt đất, tên lửa không địa, trang bị vũ khí chiến tranh càng nghiên cứu càng siêu hạng. Nói đơn giản là: một động tác là có thể quét sạch người một nước. (Đây là chạy đua vũ trang.) Lúc đó, bảo những nước khác không chạy đua vũ trang, không chạy đua vũ khí, thì chẳng lẽ lại không phải là chuyện "vô cùng kì lạ" trong nhân gian sao? Con người thế gian ngày nay, đối với: bệnh SARS, bệnh bò điên, cúm gia cầm, tay chân miệng, sốt xuất huyết, nhiễm virus… thì khoanh tay đứng nhìn. Đối với động đất, lốc xoáy, tsunami (đại hồng thủy), hỏa hoạn lớn… thì không thèm nghĩ chuyện phòng bị trước. Ấy nhưng ngược lại, đối với các kế hoạch chạy đua vũ trang và chinh phục không gian thì lại tiêu tốn bao nhiêu tiền của, tài lực, nhân lực, đúng không? Thật là "vô cùng kì lạ". Còn nữa: Tôi nghe nói có một nhà y học đã nghiên cứu phát minh ra một loại thuốc có thể chữa trị được các bệnh nan y, uống vào là khỏi. Nhưng chi phí nghiên cứu cần khoảng vài trăm triệu tệ. Vì vài trăm triệu tệ này, người ta không dám đưa thuốc tốt ra sản xuất, chỉ làm ra thuốc kém hơn, chỉ trị triệu chứng chứ không trị tận gốc. Bởi vì đưa ra thuốc trị bệnh tận gốc, uống vào là khỏi, chẳng phải là thiệt hại mất hàng tỉ tỉ đồng tiền chi phí thuốc thang chữa bệnh sao. Do nguyên nhân này mà mọi người cứ từ từ uống thuốc thôi! Để cho ngành thuốc kiếm được mối hời lớn rồi thì hãy nói. Ông trời ơi! Đây chẳng phải là "vô cùng kì lạ" sao?
------------------ Thế thuyết tân ngữ: bộ tiểu thuyết ghi lại các chuyện kì lạ của hơn 1500 văn nhân sĩ đại phu trong khoảng thời gian cuối đời Hán đến cuối Đông Tấn, hầu hết đều là các nhân vật lịch sử có thật. Tác giả là Lưu Nghĩa Khánh (403- 444). Bộ sách có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến văn hóa và văn học Trung Quốc, Nhật Bản.
41. Thương Sơn Tứ Hạo và Phạm Lãi
Tôi đọc sách mà biết được: núi Thương có bốn vị ẩn cư, bởi vì tóc trên đầu họ trắng xóa giống như tuyết nên mới được gọi là Thương Sơn Tứ Hạo (*). (hạo là trắng tinh) Thương Sơn Tứ Hạo từng phụ giúp thái tử của Hán Cao Tổ hoàng đế, công danh đã toại nên rút về, sống ẩn mình trong núi sâu, không xuất thế nữa. Trong sách của Ngưu Tăng Nhụ đời Đường có nói: Một người không rõ tên họ trồng quýt ở trong vườn. Có lần sau một trận tuyết lớn bất ngờ xuất hiện hai quả quýt to bằng ba cái đấu, đây là những quả quýt cỡ to đại bự. Chủ nhân đem hai quả quýt khổng lồ này bổ ra, kinh ngạc phát hiện bên trong một quả quýt có hai ông già, hai quả thì có bốn ông già. Bốn ông già chia làm hai cặp đang chơi cờ, cười nói như không hề có chuyện gì xảy ra. Một ông già nói: "Ở trong quả quýt vui chẳng kém gì ở Thương Sơn." Một ông khác nói: "Thật là đáng tiếc khi bị mấy kẻ ngu đần hái xuống đây." Bốn ông già này chính là Thương Sơn Tứ Hạo trốn trong quả quýt chơi cờ. Sau khi quả quýt bị bổ ra, bốn người phi thân bay vút lên, bay thẳng vào không trung, từ đó không thấy đâu nữa. Tôi đối với Thương Sơn Tứ Hạo, cảm thấy lòng cũng mong mỏi mình được như họ. Tôi lại kể chuyện Phạm Lãi (*). Lúc còn nhỏ, tôi đọc sách mà biết đến đại danh của Đào Chu Công, một vị phú thương làm ăn thu được rất nhiều lời lãi. Đào Chu Công chính là Phạm Lãi. Vào thời đại Ngô Vương và Việt Vương giao tranh, Ngô Vương Phù Sai (*) giành chiến thắng trước. Sau đó Việt Vương Câu Tiễn (*) đã dùng mỹ nhân kế của Phạm Lãi mà dâng tặng mỹ nhân Tây Thi (*) cho Ngô Vương Phù Sai. Việt Vương Câu Tiễn đã nổi tiếng với chiêu "nếm mật nằm gai" suốt mười năm, cũng chính là mười năm ông tập hợp lực lượng, mười năm giáo huấn quân đội. Cuối cùng Việt Vương Câu Tiễn tấn công nước Ngô, giết chết Ngô Vương Phù Sai. Lúc này Phạm Lãi đã hoàn thành xong nhiệm vụ nên xin rút về ở ẩn, bí mật đem theo Tây Thi, đi vào Thái Hồ rồi biến mất. Khi Phạm Lãi trở thành lái buôn, mỗi vụ giao thương chắc chắn luôn được lời lớn. Có được nhiều tiền rồi thì sẽ đem giấu, nên người ta gọi là Đào Chu Công. Còn sự thực của việc Phạm Lãi và Tây Thi cũng là một bí mật, bí mật từ lúc đi vào trong làn sóng nước nhấp nhô phủ đầy sương mù ở Thái Hồ. Tôi đối với Thương Sơn Tứ Hạo, trong lòng mong được như họ. Tôi đối với Phạm Lãi, trong lòng cũng mong được như thế. Tôi viết một áng nhạc thơ: Tôi tuổi sáu mươi mốt, ẩn cư qua xuân thu. Thái không tiên cảnh như nước, trăng thanh kin kín lẩn đi. Soi Lư Thắng Ngạn tôi nhỏ bé, chẳng có ai cùng nắm tay, chẳng có ai cùng du ngoạn. Cùng nương dựa vào trời, không tha thiết lầu ngọc. Già theo cùng ngày tháng, một mình một đường, chẳng quay đầu. Tôi bay qua biển lớn. Tôi lượn khắp năm châu. Tiến thẳng Maha Song Liên Trì. Đã không còn mong muốn gì cả. Cùng xem nhân gian Ta Bà bao chuyện hài Đã rũ bỏ mọi ưu phiền trong tâm. Đối với Thương Sơn Tứ Hạo, bốn lão già họ đã dừng mọi việc thế sự rồi, thế gian còn lại những việc gì nữa đây? Mà có việc gì thì cũng chẳng phí thời gian (để thực hiện nó), đương nhiên chỉ có: Ở ẩn. Hư không. Vô hữu. (không sở hữu gì cả) Lại nói Phạm Lãi, ông ta cả đời giúp Việt Vương Câu Tiễn, đợi đến khi Việt Vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Vương Phù Sai, giết được Ngô Vương Phù Sai, đương nhiên phận sự cũng xong rồi, vẫn còn muốn công danh phú quý gì nữa? Công danh nhất thời. Phú quý nhất thời. Tốt nhất là nhân cơ hội này đem Tây Thi đi mất, giữa trời đất còn gì để mà lưu luyến nữa chứ. Xin hỏi: "Thế gian này còn cái gì để có thể lưu luyến nữa đây?"
------------------ Thương Sơn Tứ Hạo: Thương Sơn là dãy núi ở tỉnh Thiểm Tây, nơi ở ẩn của bốn ông già đời Hán gồm Đông Viên Công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Hoàng Công. Phạm Lãi: danh sĩ nước Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, nổi tiếng tài giỏi, văn học và kinh tế chính trị đều hơn người. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô. Ngô Vương Phù Sai (495 - 473 TCN): vị vua thứ 25 nước Ngô hùng mạnh thời Đông Chu, tiêu diệu nước Việt của Câu Tiễn, sau này vì mê đắm với nàng Tây Thi nên lơ là việc nước, cuối cùng mất nước vào tay Câu Tiễn. Việt Vương Câu Tiễn (496 - 465 TCN): vua nước Việt (ngày nay là Thượng Hải, bắc Chiết Giang và nam Giang Tô) cuối thời kì Xuân Thu. Ông đã luôn tự nhắc nhở bản thân, kiên trì theo đuổi mục tiêu phục thù, chịu khó khăn gian khổ bằng cách ngủ gối gỗ, nằm dây gai, nếm túi mật động vật (rất đắng), từ đó có thành ngữ "nếm mật nằm gai". Tây Thi: đại mỹ nhân nổi danh thời Xuân Thu, theo kế của Phạm Lãi sang nước Ngô để mê hoặc Ngô Phù Sai, giúp Câu Tiễn phục quốc, khiến nước Ngô hùng mạnh bị diệt vong sau đó.
42. Uống "nước vong tình”
"Đoản ca hành" của Tào Tháo viết:Hà dĩ giải ưu, duy hữu Đỗ Khang. (Muốn giải sầu này, chỉ có rượu thôi.) Trúc Lâm Thất Hiền của thời đại Ngụy Tấn, Kê Khang, Nguyễn Tịch đều là những cao sĩ rất giỏi uống rượu. Đỗ Phủ viết bài thơ "Ẩm trung bát tiên ca" để nói về tám vị danh sĩ giỏi uống rượu thời nhà Đường, gồm có: Lý Bạch, Hạ Tri Chương, Lý Liễn, Lý Thích Chi, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại. Khổng Dung nói: "Muốn khách quý hài lòng, chén rượu không thể vơi, ta cũng chẳng có gì phải lo nghĩ!" Khổng Dung lại nói: Trên trời có sao Tửu Kỳ, Dưới đất có quận Tửu Tuyền. Người có đức của rượu ngon, Không rượu sao có thể sáng suốt. Tôi nghe nói thánh nhân Khổng Tử cũng rất thích rượu. Cổ Đức lại nói: Người uống rượu thuần khiết, là thánh nhân. Người uống rượu thô chưa lọc, vẫn là hiền nhân. Còn Từ Mạc thời Tam Quốc được tôn xưng là "Trung thánh". (*) Lưu Linh (*) của Trúc Lâm Thất Hiền có một câu nói nổi tiếng: "Lưu Linh thiên bẩm nhờ rượu mà thành danh, đã uống là phải cả thùng, năm đấu vẫn chưa say. Lời khuyên của phu nhân, tốt nhất không nên nghe." Đào Uyên Minh (*) và khách ghé chơi cùng uống rượu, đến khi say rồi bèn nói: "Ta say rồi, muốn ngủ, khanh có thể đi!" (Thơ. Tiểu Nhã. Tiểu Uyển): "Người muốn được bằng thánh, uống rượu phải không nóng mặt." Nhớ một bài thơ của Lý Bạch: Trước rượu chợt nhắm mắt, Hoa rơi đầy áo ta. Suối trăng ta say bước, Chim về, người vắng xa. Ý nghĩa nghệ thuật của bài thơ này càng thâm sâu. Cá nhân tôi đối với rượu chẳng có ý kiến gì. Khi tôi còn trẻ cũng có thích rượu, khi học đạo Phật thì ít uống, cả đời từng say ba lần, bây giờ thì hoàn toàn không chạm đến dù chỉ một giọt. Rượu rốt cục có thể giải sầu hay không? Rượu rốt cục có nên uống hay không? Tôi cho rằng việc uống rượu không thể bàn luận một cách vơ đũa cả nắm được. Việc này cần phải xem thể chất của mỗi một người, bởi vì mỗi người có tửu tính, tửu lượng khác nhau. Giới thứ năm trong Phật giáo là: "Giới không uống rượu!" Giới này ngăn cấm mọi người học Phật uống rượu, bởi vì rượu rất có thể trở thành sự mở đầu cho tất cả hành vi phạm tội. Do vậy, cấm tuyệt đối. Trên thực tế, với người nghiện rượu, nếu một ngày không có rượu thì lại càng sinh bệnh, nếu một ngày bỏ rượu thì bệnh nghiện rượu lại càng dễ tái phát. Đến giai đoạn này thì không phải là người uống rượu, mà là rượu uống người, có thể chết trong rượu. Con người ngày nay uống rượu vô độ. Gan xơ cứng. Bệnh mỡ máu ngày càng tăng. Thủng dạ dày. Não tê liệt, trúng độc rượu. (Toàn là những bệnh nặng do uống rượu vô độ gây ra.) Người có lý trí, uống một lượng vừa đủ, hơi ngà ngà say, tôi không phản đối. Nhưng uống vượt quá giới hạn chính là tự chôn sống mình! Có người nói, uống rượu vào, cơ thể sụt cân, trí thông minh suy giảm, thân thể tiều tụy, mất đi cảm xúc trí tuệ, giống như xóa sạch mọi thứ, cũng xem như quên hết. Cả người và vật đều quên sạch, phiền não đều không có. Lời này nghe qua thì có lý, nhưng kì thực chỉ là nhất thời, còn chẳng bằng một giấc chợp mắt. Cổ Đức nói rượu có cái hay, chính là nói cái lúc ngà ngà say giống như thông đến cảnh giới "Thiện Chân". Thánh nhân có thể nói như vậy. Nhưng con người thế tục sau khi say rượu rồi thì xấu xa không thể nào ngửi nổi! --------------------- Trung thánh: khi Tào Tháo ra lệnh cấm rượu, Từ Mạc đang giữ chức Thượng thư lang (tương đương Bộ trưởng) mà vẫn uống rượu say bí tỉ nên bị giáng cấp. Ông ta thốt lên: "Trung thánh". "Trung" nghĩa là "ở trong". Ý rằng ta đang "ở trong việc uống rượu thuần khiết, là thánh nhân đó". Kể từ đó hậu nhân (gồm cả các thi sĩ lớn) hay dùng hình tượng và từ "Trung thánh" để chỉ việc uống rượu say. Lưu Linh: một trong bảy nhân tài lớn thời Ngụy (210-270), có thể bỏ tất cả nhưng không thể bỏ rượu, vợ ngăn không được. Ông nổi tiếng về tài thơ ca, đệ nhất tửu lượng, nên được xưng là "thần tửu". Chán xã hội vua quan thối nát nên các vị tri thức thời đó vùi thân vào văn chương và rượu. Cũng vì thế chúng ta mới hay nói người nghiện rượu là đệ tử Lưu Linh. Đào Uyên Minh: một trong những nhà thơ lớn thời nhà Tấn và Lưu Tống, dù nghèo đói cũng không thích làm quan, không chịu cúi mình.
43. Chỉ bởi vì là một cây đại thụ
Tôi ẩn cư năm năm, có một lần thiền định nhìn thấy Phật Kim Cương Tạng. Vị Phật này có trăm nghìn tỷ hóa thân, là các dị thể cùng tên. Vị mà tôi nhìn thấy chỉ là một trong các vị đó, họ Hồ, tên Hy. Vị Phật Kim Cương Tạng sống ở vùng thung lũng sâu Thái Cổ, Thái Sơ, Thái Hư, là một vị Phật chưa từng xuất thế. Tôi thỉnh giáo ngài: "Đời này của tôi chỉ thành lập Chân Phật Tông, một đời hướng dẫn đạo pháp, không dám miễn cưỡng ép buộc người ta, hà cớ gì lại gặp phải nhiều tai họa khôn lường như vậy?" Phật Kim Cương Tạng đáp: "Chỉ bởi vì ngài là một cây đại thụ." Tôi lại thỉnh giáo ngài: "Đời này của tôi nghiêm khắc giữ "ba không", không vào đồn cảnh sát, không vào tòa án, không vào tù ngục, có thể nói là đứng ngoài những vấn nạn xã hội, hà cớ gì mà bị người ta công kích nhiều như vậy?" Phật Kim Cương Tạng đáp: "Chỉ bởi vì ngài là một cây đại thụ." Tôi thỉnh giáo ngài lần thứ ba: "Đời này của tôi, được sư phụ cho lời bình luận là "phẩm học kiêm ưu" (giỏi cả kiến thức và phẩm chất), hà cớ gì mà bị nói bóng nói gió, phỉ báng nhiều như vậy?" Phật Kim Cương Tạng đáp: "Chỉ bởi vì ngài là một cây đại thụ. Đại thụ gặp sét đánh trúng chỉ bởi vì đại thụ cao quá. Đại thụ gặp gió quất, chỉ vì đại thụ cành lá quá xum xuê. Đại thụ mà gặp tiều phu chặt đẽo, chỉ vì chất gỗ tốt quá, có giá trị cao, do vậy mới bị chặt." Tôi nghe xong, im lặng không nói. Tự mình nghĩ thử, hóa ra cây quá cao, cành lá quá xum xuê, chất liệu gỗ quá tốt, tất cả đều là "họa sát thân" sao! Tôi nhớ đến Hứa Do (*) trong "Cao sĩ truyền": "Vua Nghiêu muốn trao cả thiên hạ cho Hứa Do, nhưng Hứa Do không muốn nhận nên đã bỏ đi đến phía nam sông Toánh ở núi Trung Nhạc, làm ruộng ở dưới chân núi Ki, cả đời không ra khỏi núi nữa. Vua Nghiêu lại triệu thỉnh Hứu Do phong cho làm Cửu Châu Trưởng, Hứa Do không muốn nghe bèn đi rửa tai ở bên bờ sông Toánh. Rốt cuộc cả một đời Hứa Do đã không rời núi." Tôi nhớ đến Trương Lương (*) (Trương Tử Phòng): "Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín, ba người này có thể nói là công thần lập quốc, trong ba người chỉ có Trương Lương là lánh được khỏi thế gian, Tiêu Hà, Hàn Tín thì không có được may mắn như vậy." Đúng như thành ngữ nói: (*) Phi điểu tận, Lương cung tàng. Giảo thố tử, Tẩu cầu phanh. (Dịch nghĩa: Khi đã bắn hết chim, cất cung tốt. Khi thỏ khôn đã chết, nấu chó săn.) Câu này ý nói là: con người một khi đã có công lao, có danh vọng, nhưng vẫn không hiểu được đạo ẩn thân, loại người đã thành công rồi nhưng vẫn không biết lui thân thì sẽ mười phần nguy hiểm. Giống như con em nhà giàu nhà quan ngày xưa, tổ chức xã hội như hình cái chuông. Người làm quan cao chính là ở dưới một người, ở trên vạn người. Có rất nhiều trường hợp máu nhuộm đỏ dao, khả năng bị tiêu diệt chu di cửu tộc là cực kì lớn. Tả Từ trong "Thần Tiên truyền" ở dưới Tào Tháo, nếu như Tả Từ không trốn đi thì cũng bị Tào Tháo giết đầu lìa khỏi thân thôi. Thần y Hoa Đà vì viết nên cuốn sách y học "Thanh Nang Kinh", không ngờ đệ tử của ông vì cuốn sách này mà đã hại chết Hoa Đà. Đời này của tôi đi được đến đây thực là càng nghĩ càng kinh hãi. Rất nhiều nam nữ đệ tử cố ý mượn cơ hội đến làm thân. Có người cầu danh. (một số ít người) Có người cầu lợi. (một số ít người) Nếu như cầu không được liệu có làm hại Sư Tôn không? Nghĩ đến đây làm sao mà không thấy trong lòng kinh hãi. Vào thời cận đại, có một vị đại hòa thượng nổi tiếng, dưới môn phái của ông có hai nhóm người tranh nhau tài sản của chùa. Ngày trước, lúc đại hòa thượng còn chưa viên tịch, người ta đã bất ngờ lái xe đưa hòa thượng đi khỏi rồi tự mình quản chùa, khiến đại hòa thượng lưu lạc không nơi trú ngụ, bị bệnh cũng không cho thuốc chữa. Đại hòa thượng trở thành kẻ lang thang. Điều tệ hại là: Tôi ẩn cư năm năm, vẫn cứ là một cây đại thụ. Xin hỏi mọi người, tôi có cách nào ẩn đi đây? -------------------- Hứa Do: vị ẩn sĩ danh tiếng thời Đường Nghiêu, tài đức vẹn toàn, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, rất am hiểu nhân tình thế thái, không hám danh lợi nên không làm quan hoặc tham gia các hoạt động xã hội, chỉ ẩn cư du ngoạn sơn thủy. Trương Lương: là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán, cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời xưng tụng là Hán sơ tam kiệt. Phi điểu tận - Lương cung tàng - Giảo thố tử - Tẩu cầu phanh: đây là những lời trong thư Phạm Lãi gửi cho Văn Chủng, sau này được dùng như thành ngữ để ám chỉ thói đời đen bạc, lấy oán trả ân, giúp hết việc khó cho người khác xong thì bị trừ bỏ.
44. Tôi kể chuyện Mạnh Hạo Nhiên
"Tân Đường Thư - Mạnh Hạo Nhiên (*) truyền kì" đã viết về Mạnh Hạo Nhiên như thế này:Mạnh Hạo Nhiên ẩn cư ở núi Lộc Sơn. Đến năm 40 tuổi lên kinh đô, Mạnh Hạo Nhiên ở nhà Thái học (*) viết văn làm thơ, ai nấy không khỏi thán phục, chẳng có ai có thể cưỡng lại được sự yêu thích. Tài học của Mạnh Hạo Nhiên vô cùng xuất chúng, ông giống như con thiên nga giữa đàn gà vậy. Sau này Đường Huyền Tông hoàng đế nghe được đại danh của Mạnh Hạo Nhiên, lại đọc thấy trong những câu thơ của ông có câu "Bất tài minh chủ khí" (vì bất tài nên vua bỏ quên). Đường Huyền Tông nói: "Mạnh Hạo Nhiên không cầu quan chức, nhưng trẫm cũng chưa từng vứt bỏ Mạnh Hạo Nhiên, vì sao nói trẫm vứt bỏ ông ta?" Mạnh Hạo Nhiên vẫn ẩn cư ở núi Lộc Sơn. Đường Huyền Tông sau này phái một vị sứ giả đi dò hỏi Mạnh Hạo Nhiên. Vị sứ giả này chính là Hàn Triều Tông, muốn mời Mạnh Hạo Nhiên đến kinh đô cống hiến cho triều đình. Vừa hay lúc Mạnh Hạo Nhiên đang chiêu đãi bạn bè, Mạnh Hạo Nhiên và các bạn hữu đều vui vẻ uống rượu. Bạn hữu nói: "Ông và Hán Triều Tông có lời hẹn, vậy thì xuống núi đi." Mạnh Hạo Nhiên nói: "Chúng ta vui vẻ như thế này, không cần nhắc đến chuyện của Hán Triều Tông." Mạnh Hạo Nhiên không giữ lời hẹn, cũng không đi đến kinh đô. Hán Triều Tông tức giận, đến nói lời từ biệt. Đối với việc vào kinh đô, rời khỏi núi để đi làm quan, Mạnh Hạo Nhiên từ đầu đến cuối đều không có chút hối tiếc. (Đây là truyện được ghi chép lại trong "Mạnh Hạo Nhiên truyền kì") Điều tôi ngưỡng mộ ở Mạnh Hạo Nhiên chính là: Địa vị quan cao, Mạnh Hạo Nhiên không động lòng. Vinh hoa phú quý, Mạnh Hạo Nhiên không màng đến. Tài học cao siêu, Mạnh Hạo Nhiên vui giảng dạy. Lão Tử nói: "Đạo của tôi là sự đơn sơ cô tịch, để mọi ý muốn chết đi, giảm thiểu cái sinh ra mà hồi lại mệnh sống. Cái ý muốn khi sinh ra sinh mãi sẽ tích lại và thấm đẫm, đến lúc ướt sũng sẽ bắt đầu ứ đọng. Lúc đó những sự đen tối, giả tạo hư ngụy sẽ thấm vào và bao lấy nguyên khí của con người, lại càng ngày bám rễ càng sâu. Vì thế cho nên xung quanh rắn đặc, nhưng ở giữa rỗng không thì mới khiến cho vạn vật tinh hoa, mọi vật từ vô cực, theo tự nhiên mà hội tụ quy về, nhờ cái hư không, vô dục của nó mà làm nên." Mọi người hãy suy nghĩ ba lần. Thơ của Mạnh Hạo Nhiên siêu nhiên vi diệu, ý tứ cao xa, hàm chứa cái chí của trời đất. Bài thơ "Vọng Lư Sơn" của Mạnh Hạo Nhiên (*): Quải tịch kỷ thiên lý, Danh sơn đô vị phùng. Bạc châu Tầm Dương quách, Thuỷ kiến hương lô phong. Thường độc Viễn công truyện, Vĩnh hoài trần ngoại tung. Đông Lâm tinh xá cận, Nhật mộ đãn văn chung. Dịch thơ: Giương buồm mấy vạn dặm, Vẫn chưa gặp núi thiêng. Bến Tầm Dương tạm ghé, Chợt thấy đỉnh Hương Lư. Truyện Viễn Công thường đọc, Cảnh thoát tục hoài mong. Chùa Đông Lâm chắc gần, Hoàng hôn vẳng hồi chuông. Bài thơ "Xuân hiểu" của Mạnh Hạo Nhiên: Xuân miên bất giác hiểu, Xứ xứ văn đề điểu. Dạ lai phong vũ thanh, Hoa lạc tri đa thiểu? Dịch thơ: Say giấc xuân quên sáng, Chốn chốn rộn tiếng chim. Đêm qua mưa gió lộng, Hoa rụng biết bao nhiêu. (Bài thơ này mọi người đều biết.) Còn nữa: San đầu thiền thất quải tăng y, Song ngoại vô nhân thủy điểu phi. Hoàng hôn bán tại hạ san lộ, Khước thính tuyền thanh luyến thúy vi. Dịch thơ: Thiền thất trên núi treo tăng áo Ngoài cửa không người chim nước bay. Hoàng hôn đã xuống lưng chừng núi Vẫn nghe tiếng suối rất nhỏ thay. Nhớ khi tôi chưa ẩn cư, có người tìm đến chỗ tôi ở. "Lư Thắng Ngạn theo tôi đi lập nghiệp đi." "Tôi không hiểu." "Gửi đi mấy cuốn sách, ngài sẽ hiểu." "Tôi chỉ hiểu Phật pháp." "Thế ngài không lập sự nghiệp à?" Người đó dò hỏi. "Tôi là người ngoài cuộc, thực sự chẳng hiểu việc lập cơ đồ." Tôi đáp. "Thế tương lai ngài sẽ làm gì?" "Ẩn cư." Cái người tìm đến đó nghĩ con người hiện đại chẳng phải là tranh đua để làm quan sao, chính là tranh đấu trong thương trường để buôn bán kiếm bộn tiền, đến cả giới tôn giáo cũng tranh đấu để chiếm vị trí đứng đầu, đứng trên phái khác, chẳng có ngoại lệ. Chỉ có độc một mình Lư Thắng Ngạn điên khùng đi ẩn cư, thật là chẳng thể tưởng tượng nổi! ------------------ Mạnh Hạo Nhiên (689 hoặc 691 - 740): nhà thơ Trung Quốc thời Đường, thuộc thế hệ đàn anh của Lý Bạch. Ông sinh ra tại Tương Dương, Hồ Bắc và cả đời gắn bó với quê hương, sống tao nhã và làm văn thơ. Nhà thái học: nơi học và dạy học. Vọng Lư Sơn: bài thơ này tên đầy đủ là "Vãn bạc Tầm Dương vọng Lư sơn".
45. "Tể tướng ở trong núi" cũng là người kì lạ
Vào thời đại Lương Vũ Đế có một vị tên là Đào Hoằng Cảnh, tên chữ là Thông Minh, tự hiệu là Hoa Dương - người ở ẩn, ông ta là người chăn ngựa trên núi Đơn Dương. Đào Hoằng Cảnh từng làm quan, làm đến chức quan Tả Vệ Điện Trung Tướng Quân, sau này từ quan về ẩn cư tại núi Mao ở Cú Dong. Đào Hoằng Cảnh "học phú ngũ xa" (*), gần như không có gì là không biết. Sở thích của ông rất nhiều, ví dụ: đạo thuật, sơn thủy, cầm kì, thư pháp, lịch toán, địa lý, y dược, toàn bộ đều thông hiểu, hơn nữa còn nghiên cứu rất sâu. Sách Đào Hoằng Cảnh viết gồm có: "Chân cáo." (Những lời dạy chân thực) "Dưỡng tính diên mệnh lục." (Tu tâm dưỡng tính kéo dài sinh mệnh) "Bổn thảo kinh tập chú." (Sách tuyển tập ghi chú về thảo dược) v.v. Lương Vũ Đế biết ông là một nhân tài nên đặc biệt mời ông xuống núi, nhưng Đào Hoằng Cảnh chỉ muốn ẩn cư. Vì vậy mỗi khi triều đình có việc lớn, Lương Vũ Đế liền phái chuyên sử đi thỉnh giáo tư vấn của Đào Hoằng Cảnh tiên sinh, do đó mà ông được gọi là "tể tướng ở trong núi". Tôi cảm thấy Đào Hoằng Cảnh rất thú vị, tôi cũng đã đọc qua cuốn "Chân cáo" của ông. Cuốn "Dưỡng tính diên mệnh lục" tôi cũng đọc rồi. Đào Hoằng Cảnh xem trọng giá trị của quế và gừng. Ông sử dụng tam quế, nước ép hành lá, bột vân mẫu (*), ba thứ trộn với nhau làm thành phương thuốc trường sinh. Tôi đã luyện tập qua phương thuốc trường sinh "Thái Thanh bát quỳnh" như sau: đan sa, hùng hoàng, không thanh, lưu hoàng, vân mẫu, nhung diêm, tiêu thạch, thư hoàng. Uống thuốc trường sinh và đọc: Nhật xuất đông phương, hách hách đường đường. Phục tiên phương nhập, hoán vị đãng tràng. Bách bệnh trừ dũ, cốt cơ khang cường. Thiên quỷ vạn tà, vô hữu cảm đương. Tri tiên tri thần, tri đạo vi chân. Phục thử đan phương, thọ dữ thiên trường. Dịch nghĩa: Bình minh phương đông, chiếu soi rạng rỡ. Uống thuốc trường sinh, thay lòng rửa ruột. Trăm bệnh tiêu trừ, xương cơ khỏe mạnh. Nghìn quỷ vạn tà, chẳng dám hại thân. Biết tiên biết thần, biết chân thực đạo. Uống thuốc tiên đây, thọ sánh ngang trời. Tôi cũng tu "chân khí pháp" mỗi ngày hai lần, dùng "huyền tục hình vô ảnh" của Đào Hoằng Cảnh. Tôi cảm thấy Đào Hoằng Cảnh làm "tể tướng ở trong núi" cũng là việc kì lạ, đúng như Lão Tử nói: "Tâm thánh nhân vi diệu, mang sự chất phác mộc mạc mà không thể hiện ra ngoài, nhưng nếu phải cùng thiên hạ giao tranh thì cho dù là thú dữ cũng không thể vồ, cho dù có ong bọ sâu rắn cũng không thể cắn, cho dù có vũ khí cũng không thể làm hại." Nhớ trước khi tôi ẩn cư, người đến hỏi chuyện rất nhiều, đáng tiếc là: Việc thông thường thì nhiều. Việc cao sâu vi diệu thì ít. Đương nhiên cũng có người đến hỏi việc đại sự lợi ích quốc gia, nhưng sau rốt vẫn là rất ít. Tôi nhận thấy mình tự chuốc lấy sự rối rắm, chi bằng vô sự đi ẩn cư cho xong. Tôi không phải là "tể tướng ở trong núi", tôi chỉ là "viết sách tự mua vui", có một chút nhàn nhã, đem những gì có trong tim mình viết ra thành sách. Có lẽ chỉ là như vậy, kể chuyện đời kì lạ, thế thôi! Tôi viết một bài kệ: Đi vào núi rồi, vạn sự đều ngơi nghỉ Không còn chi những chuyện đời rối rắm. Chẳng muốn làm trưởng phái, Chỉ thấy tâm này nhẹ nhõm như hư không. Người ta khi về già, Chuyện quá khứ dường như mang theo chút hổ thẹn. Đời như dòng nước đã trôi qua. Một thân một mình nơi lầu nhỏ Nhìn mây bay Bất giác buồn Chẳng phải tể tướng ở trong núi Chẳng qua là bỏ đi những vướng mắc nhân gian. ------------------- Học phú ngũ xa: học rộng biết nhiều, tri thức phong phú, học nhiều tới mức sách tới năm xe mới chở hết. Vân mẫu: là một loại đá tên gọi là vân mẫu, đây là một vị thuốc rất có giá trị.
46. Sự buông bỏ cuối cùng
Bạch Cư Dị (772 - 846), tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, lại có hiệu là Túy Ngâm tiên sinh. Ông sinh ra vốn là người Thái Nguyên, sau này chuyển đến sống tại Hà Nam phía đông ngoại thành Tân Trịnh. Bạch Cư Dị làm quan đến chức Hàn Lâm học sĩ, Tả Thập Di, Tả Tán Thiện đại phu. Ngoài ra ông còn nhậm chức Hàng Châu Lạt Sử, Tô Châu Lạt Sử, Đồng Châu Lạt Sử… Bạch Cư Dị là một đại thi nhân thời nhà Đường, thơ của ông mộc mạc chân thành dễ hiểu, đến cả bà lão cũng có thể hiểu được và được lan truyền rộng rãi. Ông chủ trương: "Văn chương phải gắn với thực tại để mà viết, thơ ca phải gắn với sự vụ thời thế để mà làm." Ông đã viết "Bạch thị trường khánh tập" với 71 quyển. Tình bạn của Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn rất sâu đậm, thơ cũng đều nổi tiếng, thế gian gọi là cặp Nguyên Bạch. Bạch Cư Dị cũng cùng với Lưu Vũ Tích cùng hợp xướng rất nhiều, thế gian gọi là cặp Lưu Bạch. Bạch Cư Dị làm người rất ngay thẳng. Tôi rất ngưỡng mộ bài thơ "Hải mạn mạn" (Biển mênh mông) của ông. Hải mạn mạn, Trực há vô để bàng vô biên. Vân đào yên lãng tối thâm xứ, Nhân truyền trung hữu tam thần sơn. Sơn thượng đa sinh bất tử dược, Phục chi vũ hoá vi thiên tiên. Tần hoàng, Hán Vũ tín thử ngữ, Phương sĩ niên niên thái dược khứ. Bồng Lai kim cổ đãn văn danh, Yên thuỷ mang mang vô mịch xứ. Hải mạn mạn, phong hạo hạo, Nhãn xuyên bất kiến Bồng Lai đảo. Bất kiến Bồng Lai bất cảm quy, Đồng nam thiều nữ chu trung lão. Từ Phúc, Văn Thành đa cuống đản, Thượng Nguyên, Thái Nhất hư kỳ đảo. Quân khán Ly Sơn đỉnh thượng Mậu Lăng đầu, Tất cánh bi phong xuy mạn thảo. Hà huống Huyền nguyên Thánh Tổ ngũ thiên ngôn, Bất ngôn dược, bất ngôn tiên, Bất ngôn bạch nhật thăng thanh thiên. Dịch thơ: Biển mênh mông, Hút mắt chẳng thấy đáy thấy bờ. Khói mây cuộn sóng nơi sâu thẳm. Tương truyền biển có ba thần tiên. Trên núi cơ man thuốc bất tử, Uống vào nhẹ bỗng hóa thiên tiên. Tần Hoàng Hán Vũ tin lời ấy, Hàng năm phương sĩ gắng đi tìm. Bồng Lai xưa nay còn vang tiếng, Sóng nước mênh mang nơi nao tìm. Biển cả mênh mông, gió lồng lộng, Mắt trông chẳng thấy đảo Bồng Lai. Chưa thấy Bồng Lai chẳng dám về. Trên thuyền nam nữ đã già nua, Từ Phúc, Văn Thành lắm dối lừa. Thượng Nguyên, Thái Nhất cầu vô ích, Mậu Lăng núi Ly đã thấy chưa? Chỉ có gió buồn thương cỏ nhỏ, Nghìn lời Thánh Tổ có gì hơn. Chẳng nói thuốc, chẳng nói thần tiên, Chẳng nói ngày nào mới thăng thiên. Bài thơ "Hải mạn mạn" này kể chuyện Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế phái người đi biển tìm thuốc tiên. Nói trắng ra, nói thẳng thắn, đây chính là tính cách của Bạch Cư Dị. Bài thơ "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị là một kiệt tác nghìn năm. Bài thơ "Hoa phi hoa" của Bạch Cư Dị cũng là một xướng ca nghìn năm. Hoa phi hoa, Vụ phi vụ. Dạ bán lai, Thiên minh khứ. Lai như xuân mộng kỷ đa thời, Khứ tự triêu vân vô mịch xứ! Dịch thơ: Có phải hoa? Có phải sương? Nửa đêm đến, Sáng đã rời. Đến như giấc mộng xuân thoáng chốc, Đi như mây sớm phương nào trôi? Mọi người có biết bài thơ "Hoa phi hoa" của Bạch Cư dị là ám chỉ cái gì không? Ý chính của bài thơ mà tôi muốn nói cho mọi người biết là, vào những năm cuối đời của Bạch Cư Dị, ông đã có sự buông bỏ cuối cùng. Hai vị ái thiếp của ông: Một là, Phàn Tố. Hai là, Tiểu Man. Phàn Tố hát hay, Tiểu Man múa đẹp. Bạch Cư Dị buông bỏ Phàn Tố và Tiểu Man, có viết bài thơ: Liễu lão xuân thâm nhật hựu tà, Nhậm tha phi hướng biệt nhân gia. Thùy năng canh học hài đồng hí, Tầm trục xuân phong tróc liễu hoa. Dịch thơ: Xuân qua lão liễu tuổi đã xế. Nay buông gia quyến tìm tự do. Ai người học được thuật trẻ mãi. Theo gió xuân tìm gặp liễu hoa. Bạch Cư Dị cũng buông bỏ hết tài sản của gia đình, có viết bài thơ: Ngũ niên hoa hạ túy kị hành, Lâm mại hồi đầu tê nhất thanh. Hạng tịch nguyện chuy do giải thán, Lạc Thiên biệt lạc khởi vô tình. Dịch thơ: Năm mùa hoa rụng cùng rong ruổi, Nay ngựa bán rồi nhớ tiếng xưa. Mong ngựa rời nhà đừng than trách, Lạc Thiên bỏ ngựa quá vô tình. Khi Bạch Cư Dị mắc bệnh vào những năm cuối đời đã rời xa người thiếp của mình, cũng bán hết ngựa. Bạch Cư Dị làm như vậy là sao? Kì thực đây là những buông bỏ cuối cùng. Bạch Cư Dị có khúc ngâm tình không thể quên. Điều ông tiếc thương nhất là giọng ca của Phàn Tố, điệu múa của Tiểu Man, nhưng đến cuối cùng cũng chẳng còn lựa chọn nào khác là đành buông bỏ. Đến cuối cùng thì Bạch Cư Dị đã "đi học Phật"! Cá nhân tôi cảm thấy, sống đến cuối cuộc đời rồi thì nên giải tán, buông bỏ tất cả, đến cả cái thân này của chính mình cũng buông bỏ. Bạch Cư Dị làm được như vậy, chúng ta không làm được như vậy sao? Tôi làm một bài thơ: Phóng khí y hy tự Lạc Thiên Cảm tương ẩn cư bỉ tiền hiền. Tiện nhập sơn lâm nham đỗng khứ Bất tri nhàn cư hữu ki niên? Dịch thơ: Thả tay buông bỏ giống Lạc Thiên Dám rút ẩn cư tựa thánh hiền Đi vào rừng núi hang động đá Chẳng biết nhàn cư bao kỉ niên?
47. Nửa tỉnh nửa mê
Liễu Tông Nguyên (*) viết bài thơ "Long Thành Lục", ghi chép lại một câu chuyện hư huyễn như mộng. Vào triều đại nhà Tùy, Triệu Sư Hùng chuyển đến La Phù (núi La Phù là một ngọn núi tiên trong Đạo gia). Một hôm ông đang nghỉ ngơi ở trong rừng thông thì trông thấy một cô gái trang điểm phớt nhẹ ra chào đón, vì thế mà hai người cùng nâng rượu trước cửa nhà. Cả hai cùng uống rượu, chẳng mấy chốc Sư Hùng đã say. Đến khi trời hửng sáng ở phương Đông, Sư Hùng mới tỉnh dậy, thấy mình ở dưới cây mận, trên cây có con chim bồng chanh (*) kêu chiu chiu. Sư Hùng nghĩ đến việc này cảm thấy vô cùng ngu ngốc. Trời đã sáng rõ mà ông lại chỉ cảm thấy u ám âu sầu. Đây là một đoạn ghi chép trong truyện "Triệu Sư Hùng dưới gốc thông gặp tiên nữ" trong "Long Thành Lục". Tôi nghĩ người bình thường đọc có lẽ sẽ coi đây là một chuyện tầm phào, giở qua trang là quên, chẳng suy ngẫm gì thêm. Nhưng tôi thì không như vậy. Tôi thuộc về kiểu "nửa người nửa Phật", hoặc là "nửa người nửa tiên", hoặc là "nửa thần nửa người", hoặc coi như là người thông linh đi cũng được. Với Phật, với Tiên, với thần… Xem như là một đi. Tất cả đều vào lúc nửa tỉnh nửa mê. Giai đoạn ẩn cư, tôi đã ghi lại một việc mới đây nhất cho mọi người đọc thử: Một đêm, trong lúc tôi nửa tỉnh nửa mê, có một thiên nữ toàn thân mặc áo lụa trắng tỏa sáng lấp lánh. Thân mình trắng trong như ngọc không tì vết, trắng nuột nà như băng tuyết, vô cùng trẻ trung xinh đẹp. Thiên nữ gọi tôi: "Liên Sinh Hoạt Phật, ngài nhận ra tôi không?" Tôi vừa nhìn thiên nữ lập tức biết nàng là ai, vị thiên nữ này là một nữ đệ tử vừa mới qua đời không lâu. (Tuổi lúc chết thì cũng không còn trẻ nhưng sau khi qua đời thì sẽ biến thành trẻ lại.) Thiên nữ rất vội vã: "Hoạt Phật Sư Tôn, mau cứu lấy chồng tôi, bệnh của ông ấy ở trong dạ dày… dạ dày… dạ dày…" Tôi nói: "Tôi đang buồn ngủ lắm!" Thiên nữ càng sốt ruột. Thiên nữ khi còn sống là một người rất hăng hái, lập tức dùng miệng cắn vào đầu ngón tay tôi một phát, đau đến mức tôi phải kêu la oai oái. Tôi nói: "Được được được, tôi lập tức dậy vẽ phù!" Lúc này thiên nữ mới hé miệng, cười mỉm mà bỏ đi! Ngày hôm sau, tôi không dám sao lãng, lập tức vẽ phù, phụng thỉnh linh quang của Diêu Trì Kim Mẫu gia trì vào phù lục. Trong ngày hôm đó tôi lập tức gửi chuyển phát nhanh. Về sau, theo tôi được biết, khi thư vẫn còn chưa đến nơi, chồng của thiên nữ về cơ bản là dạ dày hoàn toàn không có vấn đề gì. Chỉ là tối hôm đó anh ta ăn phải đồ ăn không tốt, bị đau bụng đến mức phát sốt, người nhà vội vàng đưa đến bệnh viện cấp cứu. Chứ chẳng phải là do bùa của tôi đến! Sau ba ngày bệnh khỏi, đã xuất viện. (Sự việc này là một việc hoàn toàn chân thực, tôi trong lúc nửa tỉnh nửa mê đã nhìn thấy rõ ràng, khi tỉnh lại thì đầu ngón tay vẫn còn đau ê ẩm!) Lại có một lần khác có một thiên nữ đến. Tôi vừa nhìn đã biết thiên nữa là một "thanh ý" vừa mới qua đời không lâu. Thiên nữ nói: "Lúc còn sống, tôi đã phỉ báng ngài, hôm nay phụng pháp chỉ của Diêu Trì Kim Mẫu đến đây giúp chữa chứng đau xương cổ tay cho ngài, xem như tôi lấy công chuộc tội." Tôi gật gật gù gù. Thiên nữ nói: "Không lâu đâu, khỏi lập tức." Tôi cảm ơn cô ta. (Việc này, tôi viết trong một cuốn sách đã xuất bản. Thực sự là tôi tuyệt đối không dám nói sai.) Vì sao mà tôi lại có những chuyện kì lạ này thì có ba lý do: Thường hư không. Thường vô vi. Thường điềm tĩnh.
------------------- Liễu Tông Nguyên (773 - 819): tên chữ là Tử Hậu, người Hà Đông tỉnh Sơn Tây (TQ), là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thời trung Đường, Trung Quốc, làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Thơ ông siêu việt, trần tục, thanh dật, nhàn đạm. Chim bồng chanh: còn gọi là chim bói cá sông, đuôi ngắn, đầu to, lưng màu xanh, bụng màu cam, mỏ dài, chủ yếu săn bắt cá bằng cách bổ nhào và lặn dưới nước.
48. Lão Tử rời nhà
Gần đây tôi đọc "Đạo đức kinh", "Thập giới kinh", "Tây thăng kinh" của Lão Tử. Mặc dù tôi đã đọc qua chúng từ rất sớm, nhưng trong lúc ẩn cư năm năm tôi đọc lại thì có những dư vị đặc biệt ở trong tâm. Truyền thuyết về Lão Tử thật là nhiều. Trong Đạo gia, Lão Tử là một nhân vật hóa thân qua nhiều kiếp. Thuở sơ khai có ba khí khởi đầu của thái cực là huyền, nguyên, thủy. Trong đó thủy khí biến đổi sinh ra Tiên Thiên Lão Quân. Tiên Thiên Lão Quân dựa vào huyền khí liên tục biến hóa mà sinh ra. Thời Tam Đế - Vạn hóa Thiên Sư. Trung Tam Đế - Bàn Thạch tiên sinh. Hậu Tam Đế - Úc Hoa Tử Thần Nông - Đại thành Tử Hiên Viên - Quảng Thành Tử Thiếu Cao - Tùy Ứng Tử Chuyên Đế - Xích Tinh Tử Đế Khốc - Lục Thành Tử Đế Nghiêu - Vụ Thành Tử Đế Thuấn - Duẫn Trù Tử Đế Vũ - Chân Hành Tử Thương Thang - Dương Tắc Tử Vào thời Thương Vương Thái Giả, Lão Tử phân thân hóa khí ở Bạc Châu Phủ của nước Sở, huyện Khổ, tại ngôi làng Lại xa xôi, phố Lý, vườn Lưu Tinh, gửi hồn vào bào thai trong người một ngọc nữ xinh đẹp khác thường và ở đó 81 năm. Đến thời Vũ Đinh, vào năm thứ 17 trong chu kì 60 năm, tháng hai, ngày mười lăm, giờ Mão (5-7 giờ sáng), người mẹ trong khi leo lên một cây lý (mận), từ bên sườn trái đã sinh ra một đứa trẻ với tóc râu bạc trắng, mặt thì lại là mặt của một em bé, do vậy lấy họ là Lý, tên húy là Nhĩ, tên chữ là Bá Dương, hiệu là Đam, lại lấy thêm hiệu là Lão Tử (Lão Tử nghĩa là người thầy già cả, hoặc là đứa trẻ già). Thời Chu Văn Vương - Tiếp Ấp Tử. Thời Chu Vũ Vương - Dục Thành Tử. Thời Khang Vương - Quách Thúc Tử. Lão Tử làm chức Thủ Tàng Sử, có người cho rằng ông làm hơn 80 năm, trong Sử Ký thì nói ông làm hơn 200 năm, có thể thấy là Lão Tử sống rất lâu. Khổng Tử (Trọng Ni) đến thành Chu gặp Lão Tử, cùng Lão Tử đàm đạo thì biết được rằng đây là Thánh nhân, do vậy đã bái Lão Tử làm thầy. Sau khi Chu Đức suy vong, Lão Tử chỉ cưỡi trâu bỏ đi, đi vào Tây Sơn Hàm Cốc Quan ở nước Đại Tần đã thấy Quan Lệnh Duẫn Hỷ chờ để nghênh đón vì biết ông là chân nhân. Chính ở đây Lão Tử đã để lại "Đạo Đức Kinh" gồm năm nghìn từ, sau đó lại rời Hàm Cốc Quan mà đi. Tôi đọc trong "Luận Ngữ" thấy: "Đạo bất hành, thừa phù phù ư hải." (Đạo không thi hành được thì đành cưỡi bè lênh đênh trên biển.) Tôi đọc "Lão Tử truyền kí" thấy: "Sau khi Chu Đức suy vong, liền cưỡi trâu đi khỏi Hàm Cốc Quan." Xin mọi người chú ý: "Đạo bất hành." "Chu Đức suy." (Sáu chữ này.) Nói cách khác, khi "chân đạo" không thể thực hiện được ở thế gian, chi bằng cưỡi bè lênh đênh trên biển. Còn khi "đạo đức" không thể thịnh hành trên thế gian, Lão Tử cưỡi trâu bỏ đi, không muốn nhìn thế giới Ta Bà này nữa. Tôi xem xét phẩm hạnh của con người trên thế giới ngày nay: Chính trị toàn là anh dối tôi trá, toàn là lừa bịp giả mạo. Văn hóa toàn là thay đen đổi trắng, đổi trắng thay đen. Xã hội thì sôi sục, giết người, dâm dục, trộm cắp, lừa đảo. Đất nước này và đất nước kia không ngừng công kích nhau. Người với người không chân thành, không tin tưởng. Tôn giáo chỉ có biểu hiện bên ngoài, bề nổi mà không thật. Truyền thông thì đưa tin tầm phào. Chủ nghĩa khủng bố quỷ quyệt thì thịnh hành. Cái gọi là "cái đẹp" chỉ là nói đến cái lớp vỏ bên ngoài. Cái thế giới này đã biến thành vô cùng kì quái rồi. Những người tốt chân chính thì bị cho là kẻ vô lại, ngược lại, kẻ xấu xa thực sự thì được ca tụng. Đúng sai đảo lộn hết cả, đen trắng đảo lộn hết cả, thiện ác đảo lộn hết cả, đạo đức hoàn toàn biến mất không còn tăm tích trên trái đất. Con người chỉ điên đảo vì tiền. (kiếm tiền) Tranh giành danh lợi. Nếu như tôi ra mặt thì sẽ chỉ nhận được: bêu riếu, phỉ báng, giễu cợt, mỉa mai, châm biếm, chê trách. Nếu tôi không ra mặt, xem xem người ta đợi đến khi nào?
49. Đột nhiên xuất hiện
"Hậu Hán Thư - Tỉnh Đan truyền kì" đã ghi chép lại:Tỉnh Đan từ lúc nhỏ đã học ở nhà Thái Học, tinh thông Ngũ Kinh, giỏi biện luận, trở thành một học giả có tiếng ở kinh thành. Nhưng vì ông là người thanh cao nên không thèm tiếp cận tầng lớp quý nhân quý tộc. Vào những năm cuối thời Kiến Vũ, Phái Vương Lưu Phụ cùng với năm vị vua khác sống ở cung điện phía bắc tới làm khách, muốn mời Tỉnh Đan đến nhưng Tỉnh Đan không chịu. Âm Tựu Tướng Quân ở thành Tín Dương là em trai của hoàng hậu Quang Liệt, dựa vào quyền lực bên ngoại, trước mặt Ngũ Vương đã khoa môi múa mép rằng có nghìn vạn kim tiền thì sẽ mời được Tỉnh Đan đến. Tuy nhiên khi đem nghìn vạn quan tiền đi mời, Tỉnh Đan vẫn không đến. Rốt cuộc Âm Tựu Tướng Quân phải dùng đến vũ lực đi cưỡng ép Tỉnh Đan. Tỉnh Đan lúc này không còn lựa chọn nào khác đành phải chịu. (Tỉnh Đan chính là bởi vì bị cưỡng ép bằng vũ lực nên không còn lựa chọn nào khác là phải đến cuộc gặp.) Tôi đọc đến đoạn ghi chép này thì có một vài suy nghĩ: Chính tôi thực sự cũng từng trải qua một chuyện tương tự. Trước khi tôi ẩn cư, có một vị làm quan chức cao cũng muốn mời tôi đến gặp mặt. Vị quan chức này muốn kí với tôi một dạng hợp đồng "cố vấn" gì đó, muốn loan báo rộng ra trước công chúng, việc cố vấn này ở mức độ rất cao. Nhưng tôi không chịu. Sau khi tôi ẩn cư, có một đệ tử giúp tôi nhận cúng dường, anh ta nhận đến cả vạn đồng, rất là nhiều. Anh ta muốn Sư Tôn phải ra mặt thì mới đưa tiền cúng dường, nếu Sư Tôn không ra mặt thì sẽ không đưa. Có người muốn anh ta giao lại cho Chân Phật Mật Uyển. Anh ta không đồng ý. Nhưng từ đầu tới cuối tôi vẫn không xuất hiện. Cho đến bây giờ, tiền cúng dường ở đâu tôi cũng chẳng biết. Còn một chuyện nữa. Sau khi Sư Tôn ẩn cư, có một phân đường ở nơi xa đã tạo lập một tài khoản ngân hàng nhận tiền cúng dường Sư Tôn để cho các đệ tử tùy ý gửi tiền cúng dường Sư Tôn, giúp Sư Tôn yên tâm ẩn cư. Tài khoản này cũng thu được không ít tiền. Thế rồi người chủ của tài khoản này qua đời. Tài khoản này cũng chẳng tồn tại nữa, tiền cũng chẳng biết đi đâu mất, nói tóm lại là chẳng còn cái gì cả. Còn tôi cũng chẳng thèm để ý. Lại nói một sự việc khác. Có một nhóm người muốn tôi ra mặt để hoằng dương Phật pháp, bọn họ sẽ ở phía sau ra sức hỗ trợ tất cả mọi thứ, nhưng với một điều kiện: những khoản kiếm được từ việc tôi ra mặt hoằng dương Phật pháp, bọn họ sẽ lấy một ít (giống như là khoản tiền "hoa hồng".) Bọn họ nói: hợp tác đôi bên cùng có lợi, phân ra thì đôi bên đều thiệt. Tôi chỉ cười. Nhóm người này dùng khả năng ép buộc, làm rắn muốn khiến cho tôi phải nhượng bộ. Tôi bèn trốn vào trong núi sâu, một đi không trở lại. Tôi nói, tôi không phải là Tỉnh Đan. Tôi là một người ẩn cư chân chính, cho tôi "vạn tiền" tôi cũng không ra, dùng biện pháp cưỡng ép tôi càng không ra. Lúc thì tôi ở chân trời góc bể, lúc thì ở hải đảo xa xôi, lúc thì ở trong núi sâu, lúc thì lênh đênh trên biển, lúc thì ở trong hang đá, v.v. Tôi liệu có xuất hiện lại nữa không? Tôi nói cho mọi người biết, khi các đệ tử chuẩn bị xong, tôi sẽ thình lình xuất hiện trước mặt mọi người. Nhưng mà tôi sẽ không ra mặt mãi mãi, sẽ không giống như lúc trước, ngày ngày giảng pháp, ngày ngày lên pháp tọa. Mà là xuất hiện một lúc rồi sẽ lại đi ẩn cư, vừa nhìn thấy tôi đây, lại không thấy đâu nữa rồi, thấy đầu mà không thấy đuôi, thấy đuôi mà không thấy đầu. Cứ thế đến cứ thế đi, không đến cũng không đi. Chính là "Như Lai".
Phụ lục 1. Làm sao tiêu trừ bệnh nghiệp
Bản văn này được trích từ khai thị của chính Lư Thắng Ngạn "Bài ca của Hoạt Phật (kì 3)". Chúng ta có bệnh, trước tiên nên đi khám bác sĩ. Thực sự khi bác sĩ khám mà không có cách nào chữa được thì sẽ dùng đến sức mạnh tâm linh, dùng sự gia trì của Phật Bồ Tát, dùng lực gia trì của chư Tôn để nghĩ cách, để hóa giải bệnh nghiệp. Buổi chiều hôm nay chúng ta nghe pháp sư Liên Cần kể chuyện sự thật về cái tai của ông ấy, từ lúc không nghe thấy gì cho tới sau vài tuần lễ liền nghe thấy được. Lần đầu tiên nghe ông ấy nói có một bên tai hoàn toàn không nghe thấy gì, tôi đã bảo ông ấy đi khám bác sĩ. Không hề có lời nào khác, thực sự là tôi bảo ông đi gặp bác sĩ. Bất kì ai có bệnh, tôi đều nói như vậy, đi tìm bác sĩ đi. Bản thân tôi có bệnh, tôi cũng sẽ đi tìm bác sĩ giống như vậy. Ý của tôi là muốn nói như thế. Tôi nói: "Nếu ông thực sự tìm bác sĩ nhưng tìm không được, lúc đó hẵng tìm đến Sư Tôn gia trì." Tôi nhớ cũng đã giúp ông ta gia trì, hình như là lấy tay ấn vào tai của ông ta để gia trì. Tôi cũng vẽ một bức phù, chính là phù khiến cho tai nghe thông rõ. Tôi thực sự đã làm như vậy. Ví dụ như hôm qua có một đứa trẻ chống nạng đến đây từ thành phố Los Angeles bang California. Cậu bé cũng gặp hoàn cảnh giống vậy. Tất cả mọi bác sĩ đều đã tìm gặp rồi, nhưng cứ ngủ dậy thì hai chân của cậu bé không có lực gì nữa, không thể đứng dậy được, lại còn bị đau, chỉ cần chạm vào chân là đau. Tôi đã giúp cậu ấy chữa khỏi một lần, lần này tái phát là lần thứ hai, cậu lại đến lần thứ hai. Chính là hôm qua tôi làm pháp Hộ Ma giúp cậu bé ấy, chính là tại Hộ Ma bảo điện tôi đã giúp cậu bé gia trì. Cậu bé không phải là chưa tìm bác sĩ, cậu đã tìm đến tất cả các bác sĩ, tất cả bác sĩ đều đã khám. Lần này đến tôi cũng hỏi cậu, bác sĩ bảo bị bệnh gì? Cậu nói: "Bác sĩ cũng không nói được, cứ thức dậy thì không có cách nào đi học được, chân không có lực mà vẫn đau." Tuy nhiên con người tôi là như vậy, bất kể là bệnh gì, đầu tiên là bạn nhất định phải đi khám bác sĩ. Tôi không thể nói là: "Tốt! Các bạn hoàn toàn không cần đi khám bác sĩ, tất cả cứ đến tìm tôi gia trì là được rồi." Lời nói này không thể nói ra được, nếu như mà nói ra lời này thì nhất định sẽ bị người ta chửi cho chết, không thể nói. Nhất định trước tiên là đi khám bác sĩ. Bác sĩ thực sự không chữa được, chúng ta mới đến để xin gia trì, đến để nghĩ cách. Như tôi đã nói lần trước, chính tôi trên người cũng từng "mọc ra" một cái thứ gì đó. Tôi sợ nhất là đi khám bác sĩ. Tôi kêu người ta đi khám bác sĩ nhưng bản thân lại sợ nhất là đi gặp bác sĩ. Tôi biết "cái thứ mọc ra" đó đương nhiên không phải là cái gì tốt lành, không là u thì là ung thư, nó rất cứng, đến cuối cùng thì nó to như quả bóng bàn. Cái tai của pháp sư Liên cần chỉ cần vài tuần là khỏi, còn cái quả bóng bàn này của tôi không phải là vài tuần đâu, cái quả bóng bàn này của tôi sẽ phải mất một năm là nhanh. Từ lúc tôi phát hiện có nó, sau đó nó càng ngày càng lớn, càng lớn càng to, giống như quả bóng bàn rồi, phải làm sao? Tôi là Sư Tôn, lại không thể nói với mọi người là tôi bị "mọc" một quả bóng bàn, phải đi khám bác sĩ (Sư Tôn cười). Lúc đó Sư Mẫu nói: "Mổ đi! Ngài đi khám bác sĩ, sau đó cắt bỏ một phát là xong, nếu là u, cắt đi là khỏi." Trong lòng tôi cũng thấy dao động, nhưng tôi nghĩ: "Lẽ nào Phật pháp không đủ để chữa được nó hay sao? Tôi nhất định chữa cho nó khỏi." Tôi không uống thuốc, thuốc gì cũng không uống, cũng không đi khám bác sĩ. Mỗi ngày tôi quán tưởng ba bổn tôn - Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng Hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cương Minh Vương, vừa nghĩ tay vừa sờ vào nó, sờ vào cái quả bóng bàn yêu cầu nó biến mất đi, sờ nó, sau đó quán tưởng ba bổn tôn cùng hộ pháp phóng quang vào nó. Tôi tự mình ở trong phòng lắc chuông, lắc trống, rồi liên tục niệm, niệm chú hộ pháp phát quang gia trì, cứ làm như vậy khoảng nửa năm, nó vẫn chưa biến mất. Tôi mất nửa năm sáu tháng mà nó vẫn không biến mất, nhưng bản thân cũng không thất vọng, cũng không hề nản lòng. Tôi lại tiếp tục làm, tiếp tục niệm, tiếp tục làm. Thế rồi gần một năm, tôi phát hiện ra nó từ từ trở nên mềm ra, từ từ biến thành nhỏ dần, càng ngày càng nhỏ, cứ như vậy từ từ nhỏ lại, đến cuối cùng thì biến mất luôn. Cái quả bóng bàn đó đã không còn nữa rồi. Đợi đến khi nó không còn nữa, tôi mới cho Sư Mẫu xem, tôi nói: "Bà xem này, cái quả bóng bàn đó không còn nữa rồi." Bà ấy xem, rồi sờ, "A, thực sự là không có, thật là kì lạ!" Phật pháp chính là như vậy đó, thực sự là nó không còn nữa rồi. Nhưng bác sĩ Tiêu và bác sĩ Tôn sau khi nghe xong việc này, họ nói chuyện với Sư Mẫu, họ nói có cái u sẽ biến mất, có cái sẽ không biến mất. Cái u của Sư Tôn rốt cuộc là phát triển ở chỗ nào khác chăng? Bởi vì bọn họ không nhìn thấy do vậy không biết, không dám khẳng định. Cá nhân tôi nhận thấy thế này. Chúng ta có bệnh thì vẫn nên đi khám bác sĩ, thực sự bác sĩ khám bệnh rồi mà không có cách nào thì mới dùng đến lực lượng tâm linh của chúng ta, dùng sự gia trì của Phật Bồ Tát, dùng lực gia trì của chư Tôn để nghĩ cách, để hóa giải bệnh của chúng ta. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Giống như lần ở Malaysia tay của tôi bị thương, mọi người đều nói: "Đây là vết thương nhỏ thôi! Chỉ là bị thương da thịt, chỉ một tuần hoặc hai tuần là khỏi." Ớ? Nó không khỏi, cái vết cắt ở Malaysia đó, từ ngày 15 tháng 8 đến bây giờ là bao lâu rồi? Nó vẫn không khỏi, tôi cũng cảm thấy thật kì lạ. Sau đó tôi cũng lắc chuông, lắc trống như vậy, cũng cầu thỉnh như vậy, cầu hộ pháp gia trì cái vết thương này mau lành. Tôi cho bác sĩ Tôn xem, bác sĩ Tôn nhìn một cái thì bảo: "Cái vết thương này cần một năm." Cái gì mà cần tới một năm! Mọi người xem ở trên phim người ta diễn đó, mấy người đó giết tới giết lui, chặt tay, chỉ vài ngày sau lại thấy xuất hiện đánh nhau tiếp rồi (Sư Tôn cười, mọi người cười), làm gì mà cần đến một năm? Bác sĩ Tôn nói với tôi: "Đó chỉ là trên phim thôi." (Sư Tôn cười, mọi người cười) Thực tế ngài cắt mà xem, cái tay này bị dao cắt bị thương, vết thương do dao cắt vào, chỉ cần vết cắt sâu đều cần một năm trở lên mới khỏi được. Bác sĩ Tôn nói dựa trên kinh nghiệm của ông ấy. Ông ấy nói với tôi: "Vết thương của ngài do bị cắt quá sâu, cần hơn một năm." Ông ấy nói: "Ngài mà bị cắt vào đến dây thần kinh là thảm rồi đó!" Ông ấy nói có một sợi dây thần kinh chạy qua như thế này, nếu cắt đến dây thần kinh thì nhất định phải làm phẫu thuật khâu lại, cái tay này mới có thể gập lại được, nếu không thì ngài chỉ có ba ngón này mới có thể gập lại, cái ngón này không thể gập lại. Ông ấy nói với tôi như vậy, hơn nữa còn nói vết cắt sâu như vậy nhất định phải một năm. Tôi nghe xong, oa! Tiêu rồi, làm sao mà lại mất tới một năm thế này? Tôi nói chúng ta bình thường bị cắt vào tay thì một tuần là khỏi rồi, ông lại nói lâu như vậy, một tháng vẫn chưa khỏi. Bác sĩ Tôn có kiến thức chung về y học. Tuy rằng ông ấy là bác sĩ ngoại khoa, nhưng có kiến thức chung về y học thì vừa nhìn là thấy vết cắt sâu thế nào và cần bao lâu mới khỏi được, ông ấy hiểu, do vậy ông ấy nói thì tôi tin. Cái vết thương này có cần bôi thuốc không? Ông ấy nói không cần, tự nó từ từ sẽ hết, chỉ cần giữ cho nó ẩm một chút là được rồi. Tôi cũng cầu nguyện Hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cang lập tức gia trì cho nó khỏi, nếu không mỗi lần tôi kết thủ ấn thì cũng không thể kết thủ ấn được nữa (Sư Tôn cười), bởi vì rất khó khăn. Tôi cảm thấy tay của tôi cũng khỏi rất nhanh, ngày 15 tháng 8 đến giữa tháng 10, gần hai tháng nó đã khỏi rồi. Cái gọi là Phật Bồ Tát gia trì là như vậy, giống như đánh bóng chày vậy, quả bóng này bay tới, người này vung gậy. Đánh "póc" một cái đi, quả bóng bay đi, một cơn gió thổi đến, thổi quả bóng này đến một điểm xa hơn, cơn gió này chính là sự gia trì. Còn người đánh bóng là ai? Là chính ta. Chẳng phải là tôi nói cầu Phật Bồ Tát gia trì hay sao, một khi đã cầu rồi thì nhất định sẽ khỏi, không phải à? Chính bạn cũng cần phải trì chú mà! Chúng ta cũng phải đọc Cao Vương Kinh, Cao Vương Kinh rất có hiệu quả. Bất kì câu chú nào cũng đều rất có hiệu quả. Giống như chú vãng sinh mà vừa nãy pháp sư Liên Cần nói, rất có hiệu nghiệm. Chú âm đó là khi tôi xuất gia, bác gái của tôi đã dạy tôi. Tôi đọc rồi, mọi người cũng đọc theo đi, đọc câu chú này đi, nó rất có lực, chú vãng sinh rất có sức mạnh. Ngay cả đến chú an thổ địa cũng rất có sức mạnh, rất nhiều câu chú có sức mạnh, chỉ cần bạn chuyên tâm trì tụng thì đều có sức mạnh. Cao Vương Kinh cũng rất có sức mạnh, vào mỗi lần tu đàn pháp, bạn sẽ cảm thấy được lực này vô cùng nhiều. Giống như tôi tu Hộ Ma, mỗi một đàn Hộ Ma làm xong, tôi đều cảm nhận thấy Phật quang liên tục chiếu phủ xuống tôi, toàn thân đều có ánh sáng, Phật và tôi hợp lại làm một. Lúc đó bạn sẽ cảm thấy mọi bệnh tật đều sẽ tiêu trừ, vì sao như vậy? Vì Phật và Hộ pháp đều giáng xuống và ở trên người tôi, những bệnh tật đó, mặc dù có tồn tại, (đương nhiên bệnh nghiệp này rồi từ từ cũng sẽ hết), nhưng sẽ khỏi nhanh hơn bình thường. Vì sao vậy? Bởi vì ánh sáng của Phật Bồ Tát chiếu vào bạn, gia trì cho bạn nên sẽ nhanh khỏi thôi. Quả bóng này đánh đi cần dựa vào chính mình để đánh, khi bóng đã bay đi rồi, một cơn gió thổi đến, thổi nó đi càng xa, thì cơn gió đó chính là sự gia trì. Giống như hôm qua tôi giúp đỡ một cô bé cũng đã quán tưởng chính mình biến thành bổn tôn, sau đó dùng chữ Hum, quán tưởng chữ Hum phát quang đi vào trong cơ thể cô bé, nhưng tôi cũng dạy cô bé: "Sau khi về nhà con cần niệm Cao Vương Kinh, sau khi về nhà phải đọc Cao Vương Kinh cho tốt, thỉnh cầu Phật Bồ Tát quang minh chiếu sáng lên con." Nếu bạn cũng muốn chính mình có được sức mạnh này thì đi làm những việc tiêu trừ bệnh nghiệp đi, để gia tăng thêm sự gia trì của Phật Bồ Tát, gia trì của Căn Bản Thượng Sư, đủ mọi sức mạnh. Bản thân tôi cũng như vậy chứ tôi hoàn toàn không phải là ngoại lệ, chính tôi cũng làm như vậy, hy vọng mọi người có thể thể hội được bệnh nghiệp này và cách thức làm sao để tiêu trừ bệnh nghiệp. Chúng ta phải rất chuyên tâm trì chú, tụng kinh, làm Hộ Ma. Tôi tin rằng Phật Bồ Tát và Hộ pháp đều luôn luôn bảo vệ chúng ta. Ánh sáng của các ngài chiếu đến chúng ta, có tai nạn gì lớn đến đều được giảm nhẹ, tai nạn nhỏ đến thì sẽ biến thành không có gì. Om Mani Padme Hum.
Phụ lục 2. Nhân bài "Mộng thơ" nói bốn việc của pháp
Bản văn này được trích từ khai thị của chính Lư Thắng Ngạn "Bài ca của Hoạt Phật (kì 4)". Bài "Mộng thơ" này rất hay, tôi rất thích bài thơ này. Nó khiến cho tất cả những cái "nóng" bên trong tâm tôi biến thành nước mát, có thể thực sự ngộ ra cái bên trong của tính Không, mặc dù là mơ nhưng cũng phát quang. Buổi tối hôm nay Thượng Sư Liên Diệu nói chuyện "Mộng thơ", pháp sư Liên Trạm nói chuyện "Con người là tác phẩm nghệ thuật và xem xét cùng với phê phán". Bài "Mộng thơ" này như sau: Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa (cát sông). Trước đây tôi nghĩ đây là bài thơ của Vương Dương Minh, kì thực không phải, mà là thơ của Vương An Thạch. Thượng Sư Liên Diệu nhắc đến "tứ hành" của Đạt Ma Sư tổ. Vô sở cầu hành (làm mà không mong cầu) Tùy duyên hành (tùy duyên mà làm, không gượng ép) Báo oan hành (làm mà không dối lừa, gây thù hận) Tịnh pháp hành (làm các pháp thanh tịnh tốt lành) Bốn cái "hành" này vô cùng nổi tiếng trong Thiền tông. Tôi cũng tương đối tán đồng với bài thơ, nó có cách nghĩ rất hay. Có thể từ trong nội dung bài thơ thấy được sự tương ứng với bốn việc làm của Đạt Ma Sư tổ, vì vậy cái nhìn của nó rất sâu sắc. Thượng sư Liên Diệu lại nói chuyện tranh vẽ và chữ của mình.Tôi đã xem nhiều chữ (thư pháp) và tranh vẽ của bà ấy rồi, cũng không biết là bà ấy học ra sao. Có vẻ như vốn dĩ đã có một chút nền tảng rồi đi học thêm về viết chữ nên bà ấy viết rất đẹp, cũng thường xuyên đưa cho chúng tôi xem. Lần nào mọi người cũng đều ngưỡng mộ chữ viết rất đẹp của bà ấy, bởi không thể nói là "viết không đẹp" mà (mọi người cười). Nhưng thực sự là rất đẹp đó! Rất hiếm khi có khuyết điểm. Đối với chữ thì tôi không hiểu lắm, chỉ có thể nói là đẹp. Nói thật lòng, tranh của bà ấy cũng không tồi. Mỗi lần bà ấy đem tranh đến Mật Uyển cho tôi xem, bà cũng đem cả văn chương cho tôi đọc. Xem một, xem hai, xem ba, lại xem nữa, nói tóm lại, có cái gì hay là bà ấy sẽ đem đến hết. Hơn nữa tôi chỉ có thể nói là "rất tốt", nếu như nói "không tốt", sắc mặt bà ấy liền không được ổn lắm (mọi người cười). Trên thực tế, cần học một cách "tùy duyên", đừng để ý tốt hay xấu. Nói "thơ hay", tâm không nên vui thích, nó cũng như một giấc mộng mà thôi. Nói "thơ dở" thì đó cũng chỉ là một giấc mộng thôi, hỏng rồi thì chúng ta lại cố gắng hơn, lại xem xét lại, lại sửa, sẽ càng hay hơn. Tôi không dám nói về chữ của tôi, chữ của tôi thực sự rất xấu, nhưng tôi rất thích chữ của mình (mọi người cười). Dù có xấu thì cũng là chữ của mình. Bất kể người ta nói gì về chữ của tôi, chữ của tôi chỉ có mình tôi có thể viết được, người khác cũng chẳng viết được như thế, chỉ riêng điểm này tôi cũng rất mãn nguyện rồi. Tôi thường hay kể, lúc còn nhỏ thầy giáo xem chữ thư pháp của tôi chắc chắn sẽ ngã lăn từ trên bàn xuống đất. Thầy hầu như luôn gõ vào đầu tôi, lần nào cũng cho tôi điểm C-, là điểm C- trong thang điểm ABC, đã C rồi lại còn "trừ" nữa! (mọi người cười). Chữ của tôi tệ như vậy đó. Gần đây tôi rất thích thú với chữ của tôi bởi vì chúng vẫn có thể bán lấy tiền. (Đùa). Chữ bị điểm C- mà mọi người đều muốn có, còn chữ được A+ mọi người chưa chắc đã muốn có. Do vậy mọi thứ đều có nhân duyên, vậy nên cứ tùy duyên đi. Tôi thừa nhận là tranh của Thượng sư Liên Diệu vẽ rất đẹp, hoa sen, lá sen, cá, chuồn chuồn, ếch, vẽ rất sống động. Bà ấy chỉ học vẽ một thời gian rất ngắn, có lẽ là bà ấy có tài năng trời phú. Nhưng tranh vẽ đẹp quá, được ca ngợi nhiều quá, ngược lại lại không tốt cho bà ấy, bởi vì có thể bà đã thỏa mãn rồi, mọi người đều khen là đẹp rồi mà! Thực sự đôi khi cần phải tìm ra chỗ để cải thiện! Đối với bà ấy như vậy là giúp đỡ đó. Chữ của bà ấy, tranh của bà ấy, thực sự có tài năng thiên bẩm. Tương lai biết đâu chừng bà ấy sẽ trở thành nhà thư pháp, họa sĩ lớn. Vừa nãy cũng có ai đó nhắc đến Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang). Đây là một người rất lợi hại, vào thời đại Mạc Phủ ở Nhật Bản là một vị tướng quân xuất chúng. Tôi ở Thiên Thú Các ở Nhật Bản đã đọc được những lời trích dẫn từ sách của ông viết, ấn tượng vô cùng sâu đậm, trong đó có một câu nói như thế này: "Đừng nghe lời phụ nữ". Nhưng nghe lời nữ sinh nói thì được nhé. (Đùa) Tokugawa Ieyasu là một tướng quân tài ba. Mặc dù cuộc đời là một giấc mộng, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng con người ta cần tự chủ độc lập, làm chủ chính mình. Một điểm rất quan trọng là, có đôi khi cần có cả sự tự tin và tự chủ, không thể hoàn toàn nghe theo người khác được. Đây cũng là câu nói nổi tiếng của Tokugawa Ieyasu, ông là một người tự chủ. Sự tự tin thể hiện rõ trong cách nói của ông ta, vì vậy mà ông trở thành nhất đại danh tướng. Bốn câu chữ của Đạt Ma Sư tổ, "vô sở cầu hành", đã được nói ra trong câu đầu tiên của bài "Mộng thơ" làm tôi ấn tượng rất sâu sắc. Sau khi mẹ qua đời tôi cũng cảm nhận thấy như thế. Vô sở cầu (không mong cầu gì cả). Sư Tôn rất thích cuộc sống lui về ẩn cư, không mong cầu chức danh ghi trên tấm danh thiếp. Lúc trước tôi in danh thiếp chỉ có mỗi ba chữ, chính là Lư Thắng Ngạn, ngay cả địa chỉ, điện thoại cũng không có. chỉ có ba chữ này thôi, cũng chỉ là một mã hiệu. Tôi không cần gì, thậm chí chức danh người sáng lập Chân Phật Tông cũng không cần. Danh à, không cần! Không muốn đi tranh giành chút tài lộc nào. Tôi thường nghĩ như thế. Vậy thì cuộc đời có gì đáng để phàn nàn đây? Oán trách cũng đã qua rồi, hiện tại cũng sẽ qua đi, tương lai thì chưa biết ra sao? Con người là thù hay là bạn vẫn còn rất khó nói. Lúc này anh ta như là người bạn tốt nhất, tốt vô cùng, thân thiết biết rõ lòng nhau, nhưng tương lai còn chưa biết ra sao cơ mà? Còn giả sử bây giờ nếu bạn thấy anh ta là kẻ thù, thì sau này cũng có thể sẽ thay đổi, tương lai còn chưa biết ra sao. Mọi việc trong thiên hạ thật sự là mộng huyễn. Bởi vì là không mong cầu, vì sao lại vẫn còn oán trách? Lý do rất đơn giản, chỉ cần đạt đến được trạng thái tâm vô sở cầu thì sẽ không còn oán trách nữa. Oán trách bắt nguồn từ việc được hay mất mà có. Nếu bạn "không được, không mất" thì sẽ không thể nào có oán trách. Do vậy, đây gọi là "báo oan hành". Vô sở cầu, tùy duyên, báo oan chính là thanh tịnh, cần thành tựu, mấy câu nói của Đạt Ma Sư tổ thật là có sức mạnh. Trong Mật giáo nói, tu thân chính là tu tâm. Tu đến khi thân tâm hợp nhất, thanh tịnh quang minh, người khác đối với ta tốt hay không tốt, oán hay hận, thì tất cả cứ để cho chúng tự tan đi. Có kẻ nói, phải nghĩ cách gì khiến cho Lư Sư Tôn danh dự cạp đất. Tôi ngẫm nghĩ, mặc kệ nó đi, chẳng có gì, chẳng có quan hệ gì cả, rồi sẽ qua hết thôi. Con người sẽ già, sẽ chết, tất cả sẽ biến thành hư vô, danh cũng chẳng quan trọng nữa, kệ nó đi. Bài "Mộng thơ" rất hay. Tôi rất thích bài thơ này. Nó khiến cho mọi cái "nóng" bên trong lòng tôi đều biến thành nước mát, có thể thực sự ngộ ra cái bên trong của tính Không. Mặc dù đời chỉ là mộng, nhưng cũng cần tỏa sáng, cần có một thái độ chân chính, cần cư xử có đạo đức. Không cần quan tâm vì sao, hãy cứ cư xử có đạo đức. Chỉ có như vậy mới có thể sinh ra ánh sáng quang minh thanh tịnh, không phải như cây khô tro tàn, có thế cuộc sống này mới có giá trị. Mặc dù đây chỉ là giấc mộng thì cũng có giá trị của giấc mộng. Pháp sư Liên Trạm nói "tu sửa" chính là tu hành, trên thực tế, tôi thường tu sửa chính mình, tu sửa đến khi không còn nữa thì chính là tu hành chân chính. Còn có một điểm nữa, đó là phải cần có người khác phê phán. Bởi vì những lời phê phán chính là một kiểu "thầy giáo" có thể dạy dỗ bạn. Như các vị tiền bối, người đi trước, cổ nhân, những lời mà họ nói, chúng ta đọc được và từ đó lĩnh ngộ, như vậy chính là đang tu sửa chính mình. Người giỏi hơn bạn chính là sư phụ của bạn. Người đó nói bạn, đó chính là đang dạy bạn, hướng dẫn bạn. Chúng ta cần phải làm tới khi lời nói hành động là một, lời nói và hành vi cần thống nhất, phải làm được như vậy. Đó chính là lý thuyết và thực tu phải tương hợp với nhau, "Lý - Sự viên dung". Sau khi đã hiểu được đạo lý này thì phải thực hành. Cũng như sau khi Ngũ Tổ truyền pháp cho Lục Tổ Huệ Năng vậy. Ngũ Tổ nói: "Con đã hiểu rõ đạo lý rồi, con cần phải thực hành, hãy đi thực hành đi." Bốn cái hành của Đạt Ma Sư tổ, đạo lý này mọi người đều đã hiểu, nhưng cần phải đi thực hiện chúng thì lúc này mới là "Lý - Sự viên dung". Pháp sư Liên Trạm nói, bản thân ta là một tác phẩm nghệ thuật, cho dù có thô xấu thì vẫn là một tác phẩm nghệ thuật, cho dù có đơn điệu thì vẫn là một tác phẩm nghệ thuật, cho dù vụng về thì vẫn là một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nó có thể tu sửa, cũng như tiếp nhận sự phê phán của người khác, từ đó mà có thể tỏa ra ánh sáng của chính bản thân mình. Do vậy, tôi cho rằng tác phẩm nghệ thuật cũng cần có sự tự tin, tự chủ. Có thể tự chủ, tự tin thì mới có thể tỏa ra ánh sáng của bản thân, tỏa ra hào quang, cũng giống như thành tựu giấc mộng công đức nhiều như cát trên sông. Bài thơ này mọi người có thể hiểu rõ được rồi. Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa. Om Mani Padme Hum! (Hết)