📗

191. Nấc thang của chư thiên

image

Nấc thang của chư thiên

🪷 Sự biến hiện của thiên thượng giới

Văn tập số: 191 Xuất bản: 31/01/2007 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Đàn thành trong nhà, ngoài Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn ra, tôi còn thờ phụng Kim Cang thần, Hộ Pháp thần, Không Hành, chư Thiên.

Có một hôm, tôi đang cúng một ngọn đèn dầu trước chư Thiên, hướng về chư Thiên nhất tâm cầu nguyện. Không ngờ, đêm đó hoàn toàn không mảy may có một chút cảm giác gì. Tôi cho rằng chí ít cũng sẽ phải có một chút gợi ý chứ, tôi thấy rất kì lạ.

Ngày hôm sau tỉnh dậy xem, thì ra bấc đèn đổ vào trong dầu nên ánh sáng đã bị tắt từ lâu rồi. Vì thế mà, chẳng thấy cái gì cả.

🌟

Vì sao tôi lại thắp một ngọn đèn dầu trước chư Thiên, chủ yếu là muốn mượn ngọn đèn dầu này để chiếu sáng chư Thiên. Tôi muốn đi đi lại lại đến các cõi Trời.

Tôi muốn viết về “Sự biến hiện của thiên thượng giới”.

Kể từ sau khi viết cuốn văn tập số 187 “Địa ngục biến hiện ký”, rất nhiều độc giả hết sức tán thưởng, các đệ tử cũng cho rằng cuốn sách này giúp ích rất nhiều đối với nhân tâm thế đạo ngày nay.

Vì thế, có đệ tử đề nghị tôi: ”Sư Tôn, thầy đã viết địa ngục biến hiện ký rồi, sao không viết về sự biến hiện của thiên thượng giới?” ”Đã viết về địa ngục thì cũng nên viết về thiên đường.” ”Không thể chỉ viết về cái ác, cũng nên viết một chút về dạy thiện, chứng nghiệm các cõi trời mới phải.”

Thế là ở trước chư Thiên, tôi đã thắp lên một ngọn đèn dầu. Ý tôi muốn nói rằng: “Mượn ánh sáng của ngọn đèn dầu để tôi thần hành, lên được nấc thang đến chư Thiên!”

Nhưng, không ngờ rằng — đèn dầu đã tắt rồi.

Tôi bí mật thần hành đến chư Thiên. Hoàn toàn chẳng thấy gì cả.

Tôi rất buồn rầu, vốn dĩ trong pháp giới, tôi có thể đi đi lại lại, tôi có thể tận mắt nhìn thấy Minh Vương [Diêm Vương], và tự nhiên cũng có thể đích thân gặp được Thiên chủ của các cõi trời. Cho nên, vì cung kính, tôi mới thắp lên ngọn đèn dầu.

Lẽ nào nhân duyên viết sách của tôi chưa đủ sao?

🌟

Sau đó, trong một lần thiền định — Một vị Huệ Quang Đồng Tử xuất hiện, nói với tôi: ”Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài muốn viết về nấc thang của chư Thiên đúng không?” Tôi đáp: ”Đúng.” Huệ Quang Đồng Tử nói: ”Tôi đến giúp ngài.” ”Giúp thế nào? Nhân duyên của tôi không đủ, ánh đèn chiếu hiện chư Thiên đã tắt rồi!” Huệ Quang Đồng Tử cười: ”Bản thân ngài đã có đủ vô lượng ánh sáng rồi, thiện quang, minh quang, diễm thắng quang, thắng tâm quang, hiện tiền quang, bất tư nghì quang, đại huệ quang, vô tận quang, Phật quang. Mười loại ánh sáng này còn phải lo gì không thể chiếu hiện được chư Thiên, ngọn đèn dầu của thế tục kia làm sao sánh bằng chứ?”

Tôi hỏi: ”Huệ Quang Đồng Tử từ nơi nào đến?” Huệ Quang Đồng Tử đột ngột nhảy bật lên, nhảy vào trong người tôi, hét lớn: ”Tôi chính là ngài, ngài chính là tôi.”

Thế là, tôi liền nhờ vô lượng quang, thiện quang, minh quang, diễm thắng quang, thắng tâm quang, hiện tiền quang, bất tư nghì quang, đại huệ quang, vô tận quang, Phật quang. Để viết ra cuốn: ”Nấc thang của chư Thiên.”

Mong người đọc cuốn sách này rời xa mọi ác đạo, bước lên thiên thượng giới, tứ Thánh giới, vĩnh viễn cực lạc.

Chú ý: Những nhân vật được nhắc đến trong cuốn sách này đều đã được giấu tên.

(Mùa đông năm 2006, Chân Phật Mật Uyển, bang Washington Hoa Kỳ.)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Sứ giả cầm đèn

Ông nội Lư Xương của tôi nguyên quán ở tỉnh Phúc Kiến, đầu tiên ông chuyển đến sống ở một con ngõ nhỏ ở Tây Tự huyện Bành Hồ, sau này thì chuyển đến Gia Nghĩa, Đài Loan.

Ở Gia Nghĩa, ông nội Lư Xương kinh doanh mặt hàng gạo (xưởng xát gạo) và mặt hàng dầu (dầu ăn), nhờ kinh doanh đúng hướng mà trở thành một hộ giàu có.

Nghe nói năm xưa, gia sản của ông nội tới bạc triệu, có nhà trên cả một con phố, và rất nhiều đất đai. Ông nội tôi chính thức cưới ba người vợ, còn những người khác thì tôi không biết.

Ông nội học thức uyên bác và thích đọc sách, vì thế con cái của ông đều được đi du học ở các quốc gia khác.

Bố tôi Lư Nhĩ Thuận là do bà vợ ba sinh ra, ra đời lúc ông nội đã 60 tuổi, vì thế được đặt tên là Nhĩ Thuận. Khổng Phu Tử nói: “Lục thập nhi nhĩ thuận.” [60 tuổi là khi người ta đạt đến mức độ hoàn hảo về tri hành, kiến văn và kinh nghiệm về cuộc sống.]

🌟

Tôi không được nghe nhiều về những thành tích làm việc của ông nội tôi, các bề trên cũng ít nhắc đến. Duy nhất có một việc để lại ấn tượng sâu sắc trong đầu tôi, đó là hàng năm, vào ngày cuối cùng trong năm, ông nội sẽ đem tất cả giấy ghi nợ của năm đó ra, tập trung lại hết thành một đống cao như ngọn núi nhỏ ở giữa trời, và đốt chúng thành tro.

Những giấy thiếu nợ này từ đâu ra? Bởi vì trong năm có rất rất nhiều những hộ gia đình nghèo, những người không có cơm ăn. Ông nội tôi buôn bán gạo, buôn bán dầu, lại có đất đai. Người đến mua gạo, mua dầu thì không có tiền, có thể ghi nợ, mua chịu trước, có tiền thì trả. Nhưng có rất nhiều người thật sự không có tiền trả, ông nội cũng không kêu người đi đòi. Không có chuyện đòi nợ. Chỉ có vào cuối năm, ông sẽ đem đống giấy ghi nợ đó ra ngoài trời và đốt hết. Là như thế. Nghe nói, ông nội chưa bao giờ từ chối những gia đình nghèo đến mua gạo, mua dầu, ông nội tôi cứu giúp người nghèo nhiều không kể hết.

🌟

Khi tôi 26 tuổi, được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, tôi rất muốn biết ông nội Lư Xương đã chuyển sinh đến thế giới nào? Có gì hay không?

Bỗng một ngày: Thấy một cụ già đến. Trên tay cầm cây đèn. Tôi nói: ”Là sứ giả cầm đèn.” Cụ già và tôi chào hỏi nhau, tôi nhận ra ông cụ chính là ông nội Lư Xương của tôi. Ông nội là sứ giả cầm đèn ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ trên thiên thượng giới.

🌟

Về sau, tôi có thể nhớ lại nhân quả của mình, hiểu rõ đủ thứ của tứ Thánh lục phàm thập pháp giới. Tôi sinh ra trong nhà họ Lư. Chính là ông nội - sứ giả cầm đèn đã giúp tôi hạ sinh ở nhân gian. Việc này đã chứng minh mấy chữ: Tổ tiên có đức, con cháu hưởng phúc. Tổ tiên không đức, họa đày cháu con.

Thánh cáo của ông nội tôi là: ”Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ Tử Hà Cung Đăng Chỉ Điện Chưởng Đăng Sứ Giả.” [Sứ giả cầm đèn ở điện Đăng Chỉ, cung Tử Hà, nơi Thiên Hà Thắng Cảnh.]

Tôi viết bài kệ ca ngợi ông nội:

Thiên cung giăng đèn Đỏ vàng thắp sáng điện vàng Lư hương thắp lên Chư tôn hiện toàn thân

Cửu Thiên Triều Dương cung Vui vẻ cùng mở tiệc Thiên y và váy xếp Hiện lên dưới ánh đèn.

02. Thiên chủ Long Phi

Có một hôm thiền định. Trước mắt tôi xuất hiện một kiệu thần, có một viên quan cầm thiệp mời, trên thiệp viết rằng: “Cung thỉnh Lư Sư Tôn ân công.” Tôi hỏi: “Chủ nhân của ông là ai?” Quan đáp: ”Thiên Chủ Long Phi.”

Trong đầu tôi nghĩ nhanh, nhưng không nghĩ ra là người nào, tôi hỏi: ”Thiên chủ Long Phi, tôi không quen, vì sao mời tôi?” Viên quan không đáp, chỉ mời tôi lên kiệu thần.

Tôi vừa lên kiệu thì kiệu đã khẩn trương bay đi, giống như thần hành vậy, gió thổi vù vù, sau đó đi vào trong biển sâu, nơi này vô cùng yên tĩnh, có cung điện lớn cực kì trang nghiêm tráng lệ.

Tôi vừa xuống kiệu thì đã sửng sốt. Bởi vì cảnh mà tôi nhìn thấy giống như sự phô trương của thời đại hoàng đế, văn võ đứng hai bên, ngồi ở giữa là Thiên Chủ Long Phi. Người nào người nấy tướng mạo cực xấu, nhưng to như lực sĩ, không hề biết sợ hãi.

Thiên Chủ Long Phi nhìn thấy tôi đến, vội vã bước xuống, hai tay đưa lên, nồng nhiệt chào hỏi: ”Lư Sư Tôn ân công đã đến, vô cùng hoan nghênh.” ”Ngài là…?” - Tôi không nhận ra ông ấy là ai. ”Tôi là…” (Ông ấy là một nhân vật xã hội đen trứ danh.) ”A! Tôi biết rồi.” - Tôi rất ngạc nhiên, tôi nói: “Ngài mới là ân công của tôi, làm sao mà ngài lại gọi tôi là ân công chứ.”

🌟

Không lâu sau, tôi đi vào một căn phòng lộng lẫy, bày vô số những chiếc đôn nhỏ, hàng ghế trên đầu trống không. Thiên Chủ Long Phi mời tôi ngồi, tôi khước từ, khước từ không được đành ngồi xuống. Thiên Chủ Long Phi ngồi sát nhau vai kề vai. Hơn mười vị quan bên dưới tôi đều không quen. Trên bàn không có một thứ gì. Một việc không ngờ đã xảy ra, chỉ trong sát-na, trên bàn xuất hiện hàng trăm món ăn ngon, cao lương mỹ vị phong phú, như món ăn của trời.

Thiên Chủ Long Phi nói: ”Tùy ý sinh ra.” (Có nghĩa là muốn ăn cái gì thì sẽ xuất hiện cái đó.) Tôi lại hỏi: ”Vì sao ngài gọi tôi là ân công? Ngài mới là ân công của tôi mà! Nhớ năm xưa, chúng ta vừa gặp mặt, ngài đã quyết định không giết tôi, tôi cảm kích ngài còn không kịp.” Thiên Chủ Long Phi đáp: ”Ân công, ngài nhầm rồi. Năm xưa tôi không giết ngài chính là vì chưa giết ngài thôi. Sau khi tôi qua đời, gặp mặt Minh Vương, Minh Vương thấy tôi giết người vô số, nghiệp tội chồng chất, đáng vào tam ác đạo. Điều duy nhất là chưa giết ân công, thả cho ân công một con đường sống, tương đương với đã cứu ân công. Vì nhân duyên này mà lấy một đền trăm, Minh Vương phán tôi vào Atula Thiên. Do vậy, tôi mới trở thành Thiên Chủ Long Phi. Không giết ngài, ngược lại còn cứu ngài, nên tôi mới không phải vào tam ác đạo, ngài không phải là ân công của tôi sao?”

Tôi nghe xong thì vô cùng kinh ngạc. Mạng và mạng có khác nhau sao? Ông ta không giết tôi, là ân công của tôi. Vì không giết tôi mà được vào Atula Thiên, làm Thiên Chủ Long Phi. Tôi lại biến thành ân công của ông ta. Tôi lú mất rồi! Đều là ân công.

“Atula Thiên có gì khác với các cõi trời khác không?” - Tôi hỏi. Thiên Chủ Long Phi đáp: ”Giống nhau.” Thiên Chủ Long Phi nói: ”Chúng tôi được Lư Sư Tôn dạy bảo, không nịnh bợ lừa gạt, không oán hận, không tranh giành, không sân hận, không ngạo mạn, không nghi hoặc, tất cả mọi biến hóa không khác gì Chư Thiên.” Thiên Chủ Long Phi nói: ”Atula Thiên chúng tôi đặc biệt mời Lư Sư Tôn ân công vì chúng tôi mà thuyết pháp.” Thế là, tôi ở Atula Thiên giảng kinh Nghiệp Báo Sai Biệt. Họ vui sướng vô hạn.

Tại đây, xin hỏi các thánh đệ tử, một cái mạng nhỏ của Lư Thắng Ngạn nhỏ bé là tôi đây, làm sao có thể đền bù cho cả trăm sinh mạng được, ở đây là nguyên nhân gì đây? Người ta nói, một mạng đền một mạng, vì sao tôi có thể đền trăm mạng?

03. Chủ thành Phiên Kỳ

Vào ngày Tứ Thiên Vương tuần hành thiên hạ, tôi ở trong hư không, nhìn thấy có một hàng người ngựa từ xa tiến lại gần. Cờ quạt tung hô, thị vệ uy nghiêm, phía trước đội quân có một vị chủ tướng, cưỡi con ngựa trắng to lớn, tướng mạo trang nghiêm.

Trên đầu đội mũ vàng Cửu Vân, mặc áo lụa đỏ thẫm, bên ngoài khoác áo giáp, chân bước trên mây, uy vũ dị thường.

Vị chủ tướng này nhìn thấy tôi liền quay mình xuống ngựa, hai tay chắp lại, nói với tôi: ”Lư Sư Tôn, từ lúc chúng ta chia tay hi vọng thầy vẫn khỏe!” Tôi nhìn chăm chú vào ông ta, thấy tướng mạo vừa quen lại vừa không quen, hình như cũng đã từng quen biết. Ông ta nói: ”Tôi là Đào…” Tôi “a” lên một tiếng, đã nhớ ra rồi. Tôi hỏi: ”Vì sao ông lại ở Tứ Thiên Vương Thiên?” Ông ấy đáp: ”Bây giờ tôi là chủ thành Phiên Kỳ, chính là Tứ Thiên Vương Thiên, thuộc Bắc Bì Sa Môn.” ”Ông nên đến Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ chứ, sao lại ở Tứ Thiên Vương Thiên?” Ông ấy thẹn đỏ mặt nói: ”Chỉ vì quá yêu thê thiếp, vẫn chưa thể bỏ thê thiếp.” Tôi chú ý đến phía sau của chủ thành Phiên Kỳ, có chiếc xe kéo, tấm màn lụa mở ra, bên trong có một giai nhân mười sáu tuổi, dung nhan tuyệt mỹ, mặc trang sức màu đỏ rất diễm lệ.

🌟

Vị chủ thành Phiên Kỳ này họ Đào. Lúc ở nhân gian ông ấy là đệ tử của tôi, là một nhà buôn lớn. Cưới người vợ thứ nhất. Vợ chết. Lại cưới người vợ thứ hai. Ly dị. Cưới tiếp người vợ thứ ba. Vợ chồng ân ái. Đệ tử Đào thích tu hành, mỗi ngày một tu, bản tính trong sáng, có rất nhiều chứng nghiệm tương ứng. Mỗi khi gặp Sư Tôn đều cung kính dâng tặng lễ phẩm, suốt bao nhiêu năm vẫn không hề gián đoạn. Tấm lòng của đệ tử họ Đào sáng như mặt trời mặt trăng, ông ấy cũng đã tương ứng với Bổn tôn rồi.

Sau này, ông ấy cưới người vợ thứ ba. Ông ấy yêu say đắm người vợ này, gắn bó như keo sơn, không rời xa một giây. Nhưng cô vợ lại tín ngưỡng tôn giáo khác, đệ tử Đào không nỡ làm phật ý vợ, đã cùng với vợ theo tôn giáo kia, đây cũng là thói thường tình của con người. Vợ nói: ”Không được đi gặp Lư Sư Tôn, không được đi chùa Phật, không được tu pháp của Lư Sư Tôn nữa.” Đệ tử Đào răm rắp nghe theo. Từ lâu đã dẹp bỏ đàn thành. Sau này, đệ tử Đào bí mật lúc rảnh rỗi, thỉnh thoảng mới gặp Sư Tôn một lần. Đệ tử Đào không còn tu pháp nữa, cho dù thấy mặt nhau ở nơi khác, nhưng có vợ bên cạnh, ông ta cũng không dám tiến đến để gặp mặt. Mặc dù đệ tử Đào tin theo tôn giáo khác, yêu vợ say đắm, nhưng tâm không chạy lung tung, ông ta hiểu rõ đạo lý này.

🌟

Sau khi đệ tử Đào qua đời, con cái của ông ấy bí mật chạy tới báo với tôi: ”Thật ra bố chúng tôi vẫn tin Lư Sư Tôn.” Tôi âm thầm niệm Phật vì ông ấy. Đệ tử Đào đã nhờ nghi lễ của tôn giáo khác để làm nghi thức tang lễ cho bản thân mình.

Mặc dù đệ tử Đào không tu pháp một cách nhất quán từ đầu đến cuối, cũng không quy y Sư Tôn một cách nhất quán, thậm chí còn trở thành tín đồ của tôn giáo khác, nhưng ông ấy không nhục mạ Chân Phật Tông.

Và đệ tử Đào có nhân duyên tu tập Bổn tôn tương ứng, nhân duyên cúng dường Sư Tôn nhiều năm. “Vui tu mười nhân thiện, Với ông chẳng hại gì Chư Thiên cũng hộ trì, Sinh về Tứ Vương Thiên.”

Sau khi đệ tử Đào vãng sinh thì trở thành chủ thành Phiên Kỳ.

Tôi có một câu hỏi, hỏi các thánh đệ tử: ”Phật pháp và thê thiếp, bạn có cách gì có thể đẹp cả đôi đường không?”

04. Tâm tính dịu dàng

Ai ai cũng biết, khi Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh, sau bảy ngày thì mẹ của ngài tạ thế, phu nhân Maya lập tức vãng sinh đến Đao Lợi Thiên.

Chúng ta còn thấy: Phật Đà đã chọn sinh ra tại nước Sakya, Quốc vương là vua Tịnh Phạn là một vị vua nhân từ, cũng là một vị minh quân. Vợ của ngài thông minh trí tuệ với trái tim dịu dàng.

Phu nhân Maya hạ sinh Đức Phật, sau bảy ngày thì vãng sinh tới Đao Lợi Thiên, thì ra là vì trái tim dịu dàng của bà.

Có một bài kệ rằng: ”Kính mẹ cha Tam Bảo Tùy khả năng bố thí Đủ nhẫn nhục dịu dàng Sinh về Đao Lợi Thiên.”

Ở Đao Lợi Thiên, tôi đã gặp một nhân vật ai ai cũng biết, bà ấy chính là nữ tu người Ấn Độ - Thánh Teresa.

Thánh Teresa vãng sinh, lập tức sinh về Đao Lợi Thiên, việc vãng sinh của bà có hai nguyên nhân: 1. Sống thanh tịnh. 2. Tâm dịu dàng.

Bản thân tôi vô cùng tôn kính Thánh Teresa. Bà ấy nói: ”Tôi coi tất cả chúng sinh trong thiên hạ, mỗi một con người, bất kể giàu có nghèo hèn, bất kể hôi thối nhơ bẩn, đều là Thượng đế để tôi hầu hạ.” Với trái tim dịu dàng, Thánh Teresa đã xem mỗi sinh mệnh đều là Thượng đế. Điều này khiến tôi cảm động quá. Vì thế, bà đã vãng sinh về Đao Lợi Thiên.

Chúng ta biết rằng, trung tâm của Đao Lợi Thiên là Đế Thích Thiên, bốn phương mỗi phương có tám Thiên, hợp lại thành 33 Thiên.

🌟

Tôi nhớ Chúa Jesus bị người đời chửi rủa, nhưng công phu nhẫn nhục của Chúa Jesus cực kỳ tuyệt vời, ngài đã không nói một lời biện hộ nào.

Khi Chúa Jesus bị đóng đinh trên giá chữ thập đã nói: “Xin Thượng đế khoan dung tất cả con người, bởi vì họ không hề biết về những điều họ đã làm.” Chúa Jesus có đầy đủ: 1. Nhẫn nhục. 2. Tâm dịu dàng.

Xin hỏi, Chúa Jesus thăng thiên, là thăng lên cõi trời nào?

🌟

Tôi có một đệ tử họ Lâm, tên là Hoành Hoằng. Tính cách cực hung bạo. Từng giao du côn đồ, làm kẻ lưu manh. Hắn xung đột mạnh mẽ với cha mẹ, ăn nói lỗ mãng, thậm chí còn đánh cha mẹ. Sau khi quy y tôi, tôi chỉ dạy hắn: “Tâm dịu dàng.”

Sau khi hắn quy y thì mơ thấy sứ giả Kim Giáp, mặt đen như sơn, áp giải hắn đi tham quan địa ngục. Hắn trông thấy đó là địa ngục moi tim, chúng sinh trong địa ngục này đều bị moi tim ra, máu chảy đầm đìa, khiến hắn sợ hãi tột cùng, mặt xám ngoét như tro tàn. Hắn hỏi: ”Vì sao moi tim?” Sứ giả Kim Giáp đáp: ”Người tâm không dịu dàng, cãi vã cha mẹ, tâm cực hung tàn, đều ở trong địa ngục này. Sau này anh chắc chắn sẽ vào địa ngục này.” Lâm Hoành Hoằng vừa nghe thấy vậy thì toàn thân run rẩy.

Kể từ đó về sau, Lâm Hoành Hoằng thay đổi cuộc đời của hắn, cực kỳ hiếu thuận với cha mẹ, trong nhà phân chia tài sản, hắn tự mình nhận phần nhỏ. Đối với người ngoài, hắn vui vẻ hòa nhã, phát huy tận lực tâm dịu dàng. Khi hắn bị ốm cũng hết lòng chăm sóc những bệnh nhân khác. Hắn cũng dạy người ta: “Tâm dịu dàng.” Sau khi qua đời, tôi đã thấy hắn ở Đao Lợi Thiên.

🌟

Bây giờ tôi xin hỏi các thánh đệ tử, bản thân Sư Tôn chịu rất nhiều phỉ báng sỉ nhục, ngôn ngữ của đối phương chát chúa chua ngoa, hoặc vận dụng hết sở trường lăng nhục. Tôi nên lấy bạo trị bạo, lấy mắt trả mắt, lấy răng trả răng, hay là không nói một lời, dùng tâm dịu dàng vì họ mà tu pháp giải oan đây? Mọi người hãy nghĩ xem!

05. Không Cư Đệ Nhất Thiên

Chúng ta biết rằng, trong các cõi trời, Atula Thiên sống nhiều nhất ở đáy biển, Tứ Thiên Vương Thiên thì sống ở sườn núi Tu Di, Đao Lợi Thiên sống tại đỉnh núi Tu Di, phân bố ra tổng cộng có 33 cõi trời, những cõi trời này đều là Địa Cư Thiên.

Đi lên các cõi trời ở phía trên nữa, từ Diễm Ma Thiên đến Sắc Cứu Cánh Thiên, thì đều lấy “bầu trời” làm cung điện cư trú, gọi là Không cư thiên. Cõi trời đầu tiên trong số các Không cư thiên chính là Diễm Ma Thiên. Cá nhân tôi cảm thấy, Diễm Ma Thiên này lặng lẽ tồn tại, không có tiếng tăm gì, cũng ít người biết đến, không có ai nghiên cứu, cũng ít người biết, cho dù có biết thì cũng xem nhẹ bỏ qua.

Sau này, tôi phát hiện thấy, Diễm Ma Thiên này mới là cực kì không đơn giản, Diễm Ma Thiên này có bí mật lớn.

1. Cõi trời này là Âm Nhạc Thiên, thiên nhạc bất tận. 2. Cõi trời này là Khoái Lạc Thiên, sung sướng bất tận. 3. Cõi trời này là Tri Túc Thiên, hạnh phúc bất tận.

🌟

Tại cõi trời này, tôi gặp một đứa bé, trên người đứa bé có kim quang, đứa bé gọi tôi: “Lư Sư Tôn!” Tôi hỏi: ”Sao con biết ta?” Nó đáp: ”Con đến từ Biệt thự Cầu Vồng, ngài là Sư Tôn của con mà!” Tôi xoa xoa đầu, không hiểu gì cả. Nó cười, nói: ”Con vốn là anh linh (thủy tử linh) ở Biệt thự Cầu Vồng, là một thai linh còn chưa sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, sống tại Biệt thự Cầu Vồng, sau này, toàn thể anh linh đều quy y Lư Sư Tôn.” Tôi hỏi: ”Sao con lại đến đây?” Nó đáp: ”Có một lần, tình cờ nghe Sư Tôn thuyết pháp có nhắc đến “vô tranh”, cái tâm bực bội oán trách của con liền dịu xuống. Lại nghe Lư Sư Tôn thuyết pháp, nhắc đến “tri túc” [biết đủ], con liền lui về sống trong hang động ở khu Biệt thự.” ”Con ở trong hang động làm gì?” ”Thì suy ngẫm về bốn chữ “vô tranh” và “tri túc”. Lúc này, thời gian yên lặng suy nghĩ của con nhiều hơn, thời gian tụ tập ồn ào với các anh linh khác ít đi, con an trú trong hang động, khuyên nhủ những anh linh khác đừng có oán thù, đừng làm hại người khác. Bởi vì biết đủ nên con hạnh phúc vui vẻ vô hạn. Con không nghĩ đến quá khứ, cũng không nghĩ đến tương lai.” ”Sau đó thì sao?” ”Sau đó con phát hiện ra mình đã bỏ lại thân tâm, chỉ còn một chút linh quang, con có thể an trú sáng ngời an nhiên trong hư không, thế là không ngờ lại xuất sinh trong Diễm Ma Thiên.”

Tôi hỏi: ”Cõi trời này thế nào?” ”Vui vẻ hát ca!” ”Vui vẻ như thế nào?” ”Như trái tim của một đứa trẻ!” - Cậu bé nói với tôi: “Cõi trời Không cư đầu tiên - Diễm Ma Thiên này giống như thế giới Cực Lạc vậy!”

Tôi nghe thấy vậy thì kinh ngạc vô cùng, không ngờ Diễm Ma Thiên lại giống hệt như thế giới Cực Lạc. Đây là điều tôi chưa từng nghĩ đến, điều nói ra từ miệng của một đứa trẻ không thể không tin.

Có hai bài kệ rằng: ”Ta không còn bực bội, Khuyên người hãy hiền hòa Vì thuần thiện tu tịnh Sinh về Diễm Ma Thiên.”

“Vui vẻ không tranh đấu Hiền từ bỏ ghét yêu Thuần thiện giữ giới luật Được sinh Diễm Ma giới.”

Không ngờ tôi nói đến “vô tranh” và “tri túc” lại khiến một anh linh nhỏ bé nghe pháp mà khai ngộ, được sinh về thiên cung ở Diễm Ma Thiên.

Còn những người ở tại nhân thế gian kia, những đại sư, thượng nhân, Hoạt Phật, thượng sư, đại thiện tri thức, hành giả ồn ào tranh cãi, nếu như vẫn còn đang tranh tới tranh lui, cãi tới cãi lui, om sòm ỏm tỏi, sao không thấy hổ thẹn mà thấy mình không còn chỗ dung thân chứ?

Nói thẳng ra, tôi thích Diễm Ma Thiên. Tôi biết đủ. Tôi không tranh đấu. Tôi còn thích nhất là ngày ngày vui vẻ. Tôi rất ca ngợi Diễm Ma Thiên.

06. Đại tri túc thiên

Tôi từng nói: Cái gọi là con người không bao giờ biết thỏa mãn, tức là bất kì ai cũng đều không biết đủ, bởi vì không biết đủ cho nên nhân gian mới có đấu tranh. Đấu tranh lớn là giữa quốc gia với quốc gia. Đấu tranh vừa là giữa gia đình với gia đình. (đoàn thể với đoàn thể) Đấu tranh nhỏ là giữa người với người. Chính trị, xã hội, kinh tế, tôn giáo. Học hành, tình cảm, sự nghiệp, cá nhân. Không có cái gì là biết đủ. (Người thế tục tranh tài sản, tăng nhân tranh tài sản của chùa.)

Song, khi tôi đến Đâu Suất Thiên thì mới biết nơi đây là đại tri túc thiên, thiên nhân ở đây đều biết đủ. Tiền - biết đủ Sắc - biết đủ. Danh - biết đủ. Ăn - biết đủ. Ngủ - biết đủ.

Thiên nhân ở Đâu Suất Thiên đều rất hài lòng rất thỏa mãn.

🌟

Cây ở cõi trời này tự động sinh ra thức ăn cao lương mỹ vị, khiến thiên nhân ai nấy đều thỏa mãn. Cây ở cõi trời này tự động sinh ra thiên y, khiến thiên nhân ai nấy đều hài lòng về quần áo mặc. Cõi trời này tự động hóa ra những ngôi nhà bằng châu báu, khiến thiên nhân ai nấy sống rất hài lòng. Thiên nhân ở cõi trời này hễ khởi lên suy nghĩ gì, muốn đến nơi nào thì sẽ đến nơi đó, nên rất hài lòng về chuyện đi lại.

Vì thế, nơi đây là: đại tri túc thiên.

Chúng ta đều biết, con người thế gian không hài lòng, mong cầu tiền, sắc, danh, ăn, ngủ. Tất nhiên họ có được nhất thời, nhưng vẫn không thỏa mãn, vẫn muốn to hơn, nhiều hơn, đẹp hơn.

Người tu hành biết rằng ngũ dục này không phải là vĩnh hằng, người mê đắm vào ngũ dục chính là những người mê muội không giác ngộ.

Chân lý đích thực là: “Vô sở đắc”. Vô sở đắc này chính là trí huệ giải thoát chân chính. Hành giả chuyên tu trí huệ giải thoát có thể sinh về Đâu Suất Thiên.

🌟

Tôi gặp một người ở nơi vi diệu nhất của Đâu Suất Thiên mà tín đồ Phật giáo gọi là Đâu Suất Nội Viện. Điều khiến tôi kinh ngạc là, đó là Bích, người bạn cũ của tôi.

Tôi hỏi: ”Sao bà lại ở Đâu Suất Nội Viện?” Bà ấy đáp: ”Vì cái nắm tay!” ”Cái nắm tay nào?” ”Năm xưa ông từng nắm tay tôi, Phật lực của ông liền đi vào trong người tôi, tôi có được nhân duyên giải thoát, tất cả đều biết đủ, sau khi vãng sinh liền đến Đâu Suất Nội Viện, nơi ở của Di Lặc Bồ Tát.” ”Ha!” Tôi lúng túng không biết nói sao.

Tôi nhớ ra rồi, tương lai khi Di Lặc Bồ Tát hạ sinh ở nhân gian, có cái gọi là “Long Hoa Tam Hội”, người được độ hóa là hàng trăm triệu người, pháp được dùng chính là “duy thức đại thần biến”. Di Lặc Bồ Tát chỉ thở ra “thức”, chúng sinh chỉ cần hít “thức” vào, thì tất cả đều sẽ vãng sinh đến tịnh thổ Di Lặc. Hoặc là, Di Lặc Bồ Tát cho Phật quang phóng ra, đi vào trong thân thể của chúng sinh, khiến người người có đầy đủ Phật thức (vô cấu thức, thanh tịnh thức). Hoặc là, Di Lặc Bồ Tát cho chúng sinh tay cầm tay, người người cầm tay nhau, còn Di Lặc Bồ Tát lại cầm tay một người, thế là Phật lực sẽ truyền qua thân thể mỗi người, người người được độ.

Tại đây, tôi xin hỏi các thánh đệ tử, tương lai Di Lặc độ chúng sinh: 1. Dùng “thức” để độ? 2. Dùng “quang” để độ? 3. Dùng “cầm tay” để độ?

Thử trả lời xem.

07. Sự biến hóa vui vẻ

Tôi có một đệ tử pháp danh là Liên Liên, sau khi qua đời, ông ấy đã đến Hóa Lạc Thiên. Tôi hỏi ông ấy: ”Vì sao ông lại đến Hóa Lạc Thiên?” Liên Liên trả lời tôi: ”Nhờ lực gia trì của Sư Tôn mà con vãng sinh đến Hóa Lạc. Vì tâm con thích vui chơi!”

Ở Hóa Lạc Thiên, Liên Liên mời tôi bữa tiệc tiên. Đương nhiên ông ấy mời những món ăn ngon của cõi trời, ở chốn phàm trần không có. Liên Liên nói: ”Thắp đèn lên!” Thế là trong hư không hiện ra những vòng tròn ánh sáng, giống như bong bóng, bay vòng quanh trên dưới trái phải, biến hóa nhiều màu sắc, vô cùng tráng lệ.

Liên Liên nói: ”Sư Tôn thích nhạc gì?” Tôi nhất thời không trả lời được. ”Sư Tôn từng ở ẩn ở Tahiti, vậy thì cho âm nhạc Tahiti!” Thế là tiếng đàn guitar vang lên tiếng “tính tịch tình tang”, đó là bài hát “Khúc ca của Nam Hải”. Nước biển gột sạch mặt đất, khắp nơi đầy hoa tươi, Cầu vồng trang điểm cho bầu trời, Mưa chải chuốt cho mặt đất, Kết thành biết bao những trái dưa ngon ngọt Tôi kính dâng lên tất cả Ánh sáng và hoa tươi Để tất cả chúng sinh Vui vẻ hạnh phúc vĩnh viễn vô hạn.

Liên Liên nói: ”Có hát mà không có múa cũng không được, chúng ta mời Hằng Nga đến múa đi!” Trong chốc lát, một mỹ nhân nhẹ nhàng bay đến, eo thon uyển chuyển, múa điệu nghê thường trong tiếng nhạc của bài hát “Khúc ca của Nam Hải”, lượn vòng với tốc độ rất nhanh, phối hợp với âm nhạc Tahiti. Tôi hỏi: ”Có đúng là Hằng Nga không?” Hằng Nga đáp: ”Tôi từ cung Quảng Hàn đến đây.” Giọng nói nàng thánh thót như chuông bạc, vô cùng vui tai!

Liên Liên nói: ”Chúng ta mở tiệc ở Hóa Lạc Thiên thì bình thường quá, chi bằng đến biển mây A Lý Sơn ở Đài Loan đi!” Chỉ một cái ngoảnh đầu, bàn tiệc tiên đã ở trên biển mây A Lý Sơn rồi.

Chúng tôi bước đi trên mây như ở trên mặt đất, chỉ khác là bốn xung quanh như khói như sương, biến hóa rất phong phú, thật đúng là cảnh đẹp của tự nhiên. Chúng tôi còn thấy nhiều thiên nữ xinh đẹp phi thường, thân thể lướt đi như mây, miệng anh đào chúm chím, ánh mắt đung đưa như dòng nước, đúng là xinh đẹp tuyệt vời. Nếu là người bình thường thì từ lâu đã hồn bay phách lạc, sững sờ không còn nghĩ gì được nữa.

Tiệc tiên vừa kết thúc, chúng tôi lại trở về Hóa Lạc Thiên. Khúc ca của Nam Hải cũng không còn nữa. Hằng Nga đã đi rồi. Thiên nữ cũng không thấy đâu nữa. Trong Hóa Lạc Thiên, chỉ còn lại mỗi Liên Liên và tôi ngồi đó.

Tôi hỏi: ”Vì sao lại như thế này?” Liên Liên đáp: ”Tính con thích thú vui biến hóa.” ”Vì sao mà đến thiên cung này?” ”Chúng ta đối với ngũ dục không tham chấp, vẫn giữ giới luật, chỉ là không thân không sơ, xem như một trò chơi thôi. Nếu là một người xuất gia, giữ nghiêm giới luật, nhưng không sống trên núi, mà sống ở nơi thành thị ồn ào, sắc, thanh, hương, vị, xúc chỉ như hoa qua mắt, không ở lại trong tâm, thì sẽ sinh về Hóa Lạc Thiên!” ”Thế còn những ngọn đèn trời?” ”Sự biến hóa của lửa.” ”Còn những bài ca?” ”Sự biến hóa của gió.” ”Còn mỹ nữ Hằng Nga?” ”Sự biến hóa của nước.” ”Thế còn sự dịch chuyển tiệc tiên?” ”Sự biến hóa của đất.”

Tại đây, tôi xin hỏi thánh đệ tử: ”Bạn có sự biến hóa tuyệt vời hơn sự biến hóa trong Hóa Lạc Thiên không?” (Mua vui cho Sư Tôn một chút xem nào!)

08. Vì sao biến hiện thành Ma Vương

Theo lý mà nói, cõi trời cao nhất ở Dục giới là cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại Thiên. Phật Đà từng nói: ”Vua trong các vị vua là vua của cõi trời thứ sáu, Thánh trong các vị Thánh là Phật Đà đại giác.” Thiên vương của cõi trời thứ sáu khiến tôi ngưỡng mộ.

Có bài kệ rằng: ”Những chúng sinh hữu tình, Có phạm hạnh sa môn, Tăng trưởng nhân giải thoát, Sinh về Tha Hóa Thiên.”

”Hữu tình hạng thượng căn, Trì giới cũng tối thượng, Công đức càng siêu việt, Sinh Tha Hóa Tự Tại.”

Cõi trời thứ sáu của Dục giới, tôn quý và tự hào làm sao. Cõi trời thứ sáu của Dục giới, vô thượng làm sao.

Theo tôi được biết, tôi có một đệ tử pháp danh là Liên Vĩnh, ông ta sẽ vãng sinh đến Tha Hóa Tự Tại Thiên. Vì sao ông ta lại vãng sinh tới đó? 1. Giữ giới chặt chẽ. 2. Công đức siêu việt. 3. Muốn vượt qua thế gian.

Liên Vĩnh có đầy đủ ba điều trên, cho nên không còn gì nghi ngờ, ông ấy sẽ tiến về Tha Hóa Tự Tại Thiên.

Mặc dù giữ giới, công đức, và siêu thế gian đã đầy đủ rồi, nhưng vì sao Tha Hóa Tự Tại Thiên lại trở thành Ma Cung? Thiên nhân thăng lên Tha Hóa Tự Tại Thiên trở thành ma con ma cháu, đây thật ra là điều khó hiểu lớn nhất xưa nay.

🌟

Chúng ta còn thấy: ”Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma, tức Tự Tại Thiên Ma, Ma vương của cõi trời thứ sáu của Dục giới, có thể làm hại những việc tốt của con người.” ”Hạng Thiên Ma này có đại thần lực, có thể tạo ra ma nạn cho những người tu pháp xuất thế, gây ra đủ loại chướng ngại để hại người tu đạo.” ”Ma vương tên là Ba Tuần.” ”Dưới Ma vương còn có ma con, ma nữ, ma dân.”

Tuy nhiên, căn cứ theo kinh Duy Ma, phẩm “Bất tư nghì”, lại có một đoạn nói rằng: ”Duy Ma Cật nói với Đại Ca Diếp: Nhân giả, trong vô lượng vô số thế giới mười phương, những người làm Ma vương, đa số là những Bồ Tát trụ ở phép giải thoát không thể nghĩ bàn. Vì dùng sức phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nên các ngài hiện làm Ma vương.” ”Từ Đại thừa mà nói, Ma vương là do Bồ Tát ở địa sáu biến hiện mà ra, dùng sức đại phương tiện mà giáo hóa chúng sinh.” ”Không có ma, không thể thành Phật.”

🌟

Được rồi! Bây giờ chúng ta bàn về Liên Vĩnh. Ông ấy nói: ”Tôi giữ giới là số một, không ai bì nổi!” Ông ấy nói: ”Công đức bố thí của tôi là số một, công đức của ai lớn hơn tôi chứ!” Ông ấy nói: ”Tôi siêu xuất thế gian, tu hành là số một, thế nhân đều nhỏ bé, một mình tôi to lớn!” Chính vì như vậy, ông ấy đã mắc ba đại họa: 1. Tự đại. 2. Kiêu ngạo. 3. Cố chấp.

Mặc dù ông ấy vãng sinh về Tha Hóa Tự Tại Thiên, tức là thành Ma vương kiêu ngạo số một. Mọi người có thể nghĩ xem, năm xưa Phật Đà thành đạo, Ma Cung chấn động, Ma vương lập tức khuyên Phật Đà mau mau niết bàn, nguyên nhân chủ yếu là vì Ma vương không muốn có người nào siêu việt hơn hắn.

Kiểu Ma vương này đều nói là bản thân mình đã đắc đạo vô thượng, tự xưng là số một, không ai bì kịp. Nếu có người thành đạo, hắn liền tạo chướng ngại.

Ma vương ở cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại Thiên đứng trên đỉnh của Dục giới, không muốn có người nào thắng được hắn. Tự đại thành ma. Kiêu ngạo thành ma. Cố chấp thành ma. (Đây chính là những nhân để thành ma.)

Bây giờ tôi thử hỏi thánh đệ tử, mọi người nhìn xem thế gian này, người tu hành hiện nay, còn có bao người tự cho rằng mình tu hành Thánh đế số một, tự cho rằng chỉ có bản thân mình đã chứng ngộ mà thôi, tự cho rằng mình công đức số một, thử nêu họ tên của họ làm ví dụ, bí mật nói cho tôi biết xem.

09. Dùng “dâm” để phân biệt sáu cõi trời Dục giới

Người học tập Phật pháp đều biết: Giữ 5 giới - sinh tại nhân gian. Làm 10 điều thiện - sinh về Thiên giới.

Rất nhiều người học Phật cũng biết sáu cõi trời Dục giới, vì sao gọi là Dục giới? Bởi vì cõi trời này còn có hứng thú với những thứ hữu tình, còn có ham muốn sắc dục, cho nên mới gọi là Dục giới thiên.

Trong sáu cõi trời Dục giới: 1. Có tiếp xúc. 2. Có ý niệm. 3. Có ăn uống.

Dục giới thiên có món ăn ngon, có tiệc tiên, có rượu ngon, có ngọc dịch, có cam lộ, có tiên vị. Dục giới thiên có ý niệm, nhiều niềm vui thiên thú, rất hiếm u buồn đau khổ, hầu như không có. Dục giới thiên có cảm xúc.

Người học Phật dùng dâm dục để phân biệt những nấc thang cao thấp của sáu cõi trời Dục giới. Có một số học giả cho rằng lấy dâm dục để phân biệt sáu cõi trời Dục giới là rất chí lý. Dâm dục ở Tứ Thiên Vương Thiên và Đao Lợi Thiên giống với nhân gian. Nam và nữ với hai dâm căn giao hợp với nhau, giao hợp có được sự khoái lạc do tiếp xúc, đây cũng là một trong những thiên thú, là có tình dục.

Lên đến Diễm Ma Thiên, sự giao hợp giữa hai giới tính nam nữ của thiên nhân không còn nữa, nhưng hai người ôm nhau thì sẽ sinh ra sự khoái lạc do tiếp xúc, vì ôm ấp mà sản sinh ra cái thiên thú của sự sung sướng khi tiếp xúc.

Lên đến Đâu Suất Thiên, nam nữ chỉ cần nắm tay nhau thì từ tay sản sinh ra sự sung sướng do tiếp xúc, như thế là đã xong dâm dục.

Lên đến Hóa Lạc Thiên, thiên nhân nam nữ chỉ cần cười với nhau là đã sinh ra sự hài lòng thỏa mãn về dục vọng rồi.

Lên đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, thiên nhân nam nữ chỉ cần nhìn nhau một cái là đã sản sinh ra sự sung sướng của dâm dục thông qua cái nhìn lẫn nhau rồi, đã thỏa mãn dục vọng rồi, đây là cõi trời cao nhất của Dục giới.

Có người hỏi tôi: ”Dục giới thiên có ẩm thực tiên, có đại tiểu tiện không?” Tôi đáp: ”Ăn tiệc tiên, món ăn tiên lập tức tiêu hóa ở các chi, không có đại tiểu tiện ra ngoài.”

Có người hỏi tôi: ”Dục giới thiên có ý niệm về hỷ lạc, lẽ nào không có ý niệm về buồn khổ sao?” Tôi đáp: ”Những gì họ thấy nghe đều là niềm vui, trên trời không có buồn khổ, cho nên không có ý niệm về buồn khổ.” (Trừ phi hưởng hết phúc trời rồi.)

Có người hỏi tôi: ”Tha Hóa Tự Tại Thiên chỉ cần nhìn nhau, Hóa Lạc Thiên chỉ cần cười với nhau, Đâu Suất Thiên chỉ cần nắm tay nhau, Diễm Ma Thiên chỉ cần ôm ấp, đương nhiên sẽ không sinh đẻ. Nhưng còn Đao Lợi Thiên và Tứ Thiên Vương Thiên thì hai dâm căn giao hợp với nhau, họ có sinh ra con cái không?” Tôi đáp: ”Trong sáu cõi trời Dục giới đều vẫn có tình dục, có nghĩa là vẫn có tồn tại dâm niệm. Nhưng hai dâm căn giao hợp chỉ xuất khí, không xuất tinh và trứng, cho nên không có thai tạng mà sinh ra con cái.” Tôi bổ sung thêm: ”Thế nhưng thiên nhân muốn có con cái thì con trai sẽ hóa sinh ra từ dưới đầu gối của thiên nam, con gái sẽ hóa sinh ra từ trong đùi của thiên nữ.”

Có người hỏi tôi: ”Na Tra Tam Thái Tử là thần tiên, ngài ấy xẻ thịt trả cho mẹ, xẻ xương trả cho cha, chỉ còn lại tinh linh. Cha mẹ của ngài ngắt lá hoa sen làm thịt, bẻ thân hoa sen làm xương, thế là tinh linh gắn với hoa sen mà sinh ra, là liên hoa hóa sinh, xin hỏi Lư Sư Tôn, vì sao có thể như vậy?” Tôi đáp: ”Đây gọi là ngẫu hứng hóa sinh.”

🌟

Bây giờ tôi có một vấn đề hỏi thánh đệ tử: Tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, lúc mở thiên nhãn, nhìn thấy thiên giới có một vị Liên Hoa Đồng Tử tỏa ánh sáng trắng. Liên Hoa Đồng Tử chính là Lư Thắng Ngạn. Lư Thắng Ngạn chính là Liên Hoa Đồng Tử. Thử hỏi: ”Hai vị đó, vị nào mới là tôi?” (Xin hãy giải thích cụ thể.)

10. Dục giới thiên tức là đại lạc thiên

Tôi thường nói: ”Sáu cõi trời Dục giới, có thể nói là đại lạc thiên cung.” Thiên đường vốn dĩ chính là cảnh giới cực lạc. Tôi thường lấy Kỳ Bà làm ví dụ: Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, thành Vương Xá có một danh y tên là Kỳ Bà, danh y này có thể cứu sống người, cứu người vô số.

Sách của danh y này có: ”Kỳ Bà mạch kinh.” ”Kỳ Bà 64 câu hỏi.” ”Kỳ Bà ngũ tạng luận.”

Vị danh y của thành Vương Xá này có thuật chữa bệnh kỳ diệu đặc biệt, thật sự ông ấy đã cứu sống được rất nhiều người. Thậm chí Kỳ Bà có thể nghe âm thanh mà biết ngay người này sẽ chuyển sinh đến cảnh giới nào. Trong truyền thuyết, ông ấy gõ vào năm cái đầu lâu là biết người này vãng sinh đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay thiên nhân. Trong số đó có một cái đầu lâu mà ông ấy không biết sinh về nơi nào, thì ra cái người mà nghe không ra đó chuyển sinh thành A La Hán.

Lúc Kỳ Bà còn ở tại nhân gian, ông ấy là đệ tử của Mục Kiền Liên. Sau khi chết, Kỳ Bà vãng sinh đến Đao Lợi Thiên của Dục giới, trở thành một trong mười đại thiên tử của Đế Thích Thiên. Mười đại thiên tử này, người thứ nhất là Nhân Đà La, người thứ hai là Cù Di, người thứ ba là Bì Lâu, người thứ tư là Bì Lâu Bà Đề, người thứ năm là Đà La, người thứ sáu là Bà La, người thứ bảy là Kỳ Bà, người thứ tám là Linh Ê Ngôi, người thứ chín là Vật La, người thứ mười là Nan Đầu.

Có một lần, tôn giả Mục Kiền Liên gặp khó khăn lớn về y thuật. Mục Kiền Liên bèn thăng lên Đao Lợi Thiên để tìm Kỳ Bà. Mục Kiền Liên là sư phụ. Kỳ Bà là đệ tử. Nhưng khi Mục Kiền Liên nhìn thấy Kỳ Bà, Kỳ Bà đang cưỡi xe mây bay vụt qua, đang vội vàng đi tham gia buổi nhạc hội vui vẻ ở trong khu rừng. Kỳ Bà nhìn thấy sư phụ Mục Kiền Liên tôn giả đến nhưng cũng chẳng buồn dừng xe, đi tìm thú vui quan trọng hơn. Ông chỉ gật đầu một cái rồi lao đi vùn vụt. Mục Kiền Liên tôn giả lắc đầu, không ngớt thở dài! Điều này đã chứng minh: ”Dục giới thiên là đại lạc thiên.”

🌟

Dục giới thiên là cảnh giới nhận được những quả báo kỳ diệu thù thắng từ nhân gian trở lên. Là nơi cao nhất, kỳ diệu nhất, tốt lành nhất, vui vẻ nhất, thù thắng nhất. Vui vẻ nhất là thế nào? Phụ nữ ở sáu cõi trời Dục giới là thiên nữ, thế gian không thể so bì. Họ đẹp nhất, xinh nhất, thơm tho nhất, mềm mại nhất, dịu dàng nhất. Cầu vồng cõi trời xinh đẹp nhất. Thiên cung là bảy loại châu báu. Thiên y thơm tho sạch sẽ nhất. Ẩm thực cõi trời ngon nhất. Mũ miện cõi trời đặc biệt nhất. Hoa trời đẹp đẽ nhất. Âm nhạc cõi trời hay nhất. Tranh vẽ cõi trời không gì sánh bằng. Tuổi thọ cõi trời là vô cùng kiếp. Phẩm hạnh cõi trời đều như ý. Thiên cơ tự nhiên phát sinh. …

Nếu yêu cầu tôi viết ra sự sung sướng ở sáu cõi trời Dục giới thì khả năng ngòi bút của tôi cũng không thể kể hết, mọi người có thể nghĩ mà xem, những điều vui vẻ nhất ở nhân gian thì thiên cung của sáu cõi trời Dục giới đều có, hơn nữa những điều vui vẻ ấy lại còn lâu dài hơn, đẹp đẽ hơn, nhiều hương vị hơn, không gì sánh bằng, quang minh thù thắng hơn rất nhiều.

Có một lần khi ngồi trên pháp tọa thuyết pháp, tôi từng nói: ”Tôi giống như thần tiên!” Điều này tức là sự chứng nghiệm đại lạc! Một hành giả tu hành của thế gian muốn chứng minh bản thân đã đạt đến cảnh giới đại lạc thì phải chứng minh như thế nào? Như thế nào mới là đại lạc? Người tu hành chúng ta không thể đến đại lạc thiên là dừng lại ở đó, phải vượt qua đại lạc, tu tứ thiền bát định, phát tứ vô lượng tâm, chứng sáu thần thông, ngộ các loại trí huệ Đại thừa, siêu xuất khỏi tam giới thiên.

11. Không thể ở lâu trong thiên cung của sáu cõi trời Dục giới

Người học Phật chúng ta đều biết, lục dục thiên cung không thể ở lâu, thậm chí là đi qua nhưng không vào, thậm chí là ngay cả nhắc đến cũng không nhắc, người tương đối kịch liệt thì đối với sáu cõi trời Dục giới chỉ khịt mũi khinh thường.

Thế còn, ý kiến của cá nhân tôi vẫn là, lục dục thiên cũng không thể ở lâu, nhưng cũng không cần tới mức ngay cả nhắc đến cũng không nhắc, cũng không nên hừ mũi coi thường lục dục thiên.

Vì sao không thể ở lâu? Cần biết rằng phúc báo ở lục dục thiên khiến con người hễ vào đó là như say như mê, sướng như tiên, sướng “muốn chết”…

Sự hưởng lạc của phúc trời là đại lạc, hễ vào lục dục thiên cung thì muốn hưởng cho hết lạc thú cũng khó, gọi là: Lạc vô thời. (Từng phút từng giây đều vui vẻ.) Lạc vô gián. (Đại lạc liên tục không gián đoạn.) Lạc vô địa. (Ở bất kì địa điểm nào cũng vui vẻ.) Lạc vô không. (Ở bất kì không gian nào cũng đại lạc.)

Người bình thường hành thập thiện, nhập vào lục dục thiên cung, vì hết sức tận hưởng lạc thú mà hoàn toàn quên mất tu hành. Vì thế, không thể vào, không thể ở lâu trong lục dục thiên cung!

🌟

Đại lạc của lục dục thiên cung này có thời gian dài hơn rất nhiều so với ở nhân gian, nhưng cũng vẫn là thời gian có hạn. Tứ Thiên Vương Thiên - thiên thọ 500 tuổi. Đao Lợi Thiên - thiên thọ 1000 tuổi. Diễm Ma Thiên - thiên thọ 2000 tuổi. Đâu Suất Thiên - thiên thọ 4000 tuổi. Hóa Lạc Thiên - thiên thọ 8000 tuổi. Tha Hóa Tự Tại Thiên - thiên thọ 16000 tuổi. Thiên thọ ở đây không phải là chỉ tuổi giống ở nhân gian, thiên thọ dài hơn rất nhiều rất nhiều so với tuổi ở nhân gian. Nhưng một khi hưởng hết phúc báo thì cũng lại đọa lạc ở nhân gian hoặc tam ác đạo.

Cho nên mới có năm hiện tượng suy đồi của thiên nhân: Một là, thiên y cáu bẩn. Hai là, hoa trên đầu héo tàn. Ba là, thân thể bẩn thỉu hôi thối. Bốn là, nách đổ mồ hôi. Năm là, không còn vui khi sống ở nơi đây. (Ngoài ra còn có: trên người mất đi uy quang, bản tính bám chấp vào cảnh thù thắng không từ bỏ, mắt vốn có thể để yên không chớp, nay chớp mắt nhiều lần.)

Đây đều là những dấu hiệu cho thấy thiên nhân sắp chết.

Người học Phật chúng ta biết rằng thiên phúc có hạn, dù rằng thời gian có dài thì cũng là nhất thời. Cho nên, nghĩa đế đầu tiên của học Phật là vô sinh vô diệt, bất sinh bất diệt, niết bàn đại đạo. Đương nhiên, lục dục thiên cung không phải là mục tiêu. Vì vậy, không thể sống ở đó lâu.

🌟

Cá nhân tôi trong quá trình tu hành từng vào lục dục thiên cung, vừa nhập vào đại lạc thiên cung này thì đã bị mê hoặc rồi. Si - theo đuổi đại lạc. Mê - hưởng thụ đại lạc. ”Sướng như tiên” - mùi vị của đại lạc. ”Sướng muốn chết” - đại lạc lên đến cực điểm.

Ở đây có hiện tượng sung sướng của sự tiếp xúc, của ý nghĩ, của ăn uống, của những thứ hóa hiện ra, người bình thường khó có thể thoát khỏi được, hễ nhập vào trong đại lạc thì liền quăng luôn “tu hành thành chính giác” ra ngoài chín tầng mây rồi.

Thật may, tôi gìn giữ được Phật tính, có thể đi thẳng lên tứ thiền bát định, tiến nhập vào Sắc giới thiên và Vô sắc giới thiên. Đây cũng là công phu tu hành của tôi!

Cá nhân tôi biết rằng, lục dục thiên cung không thể ở lâu, nhưng tôi cũng không bài trừ lục dục thiên cung, không những không thể bài trừ mà cũng cần phải cung kính. Bởi vì thiên nhân hộ trì Phật pháp.

Chúng ta có 50 thiên cúng hoặc 72 thiên cúng: Các pháp cúng dường như Bất Động Tôn, Tứ Đại Minh Vương, Thập Nhị Thiên, Thái Sơn Phủ Quân, Ngũ Đạo Đại Thần, Cát Tường Thiên, Bắc Đẩu Thất Tinh, Thập Nhị Cung Thần, Ngũ Tinh, Nhị Thập Bát Tú, v.v…

12. Hãy hiểu rõ “nhất thời”

Sau khi tôi khai ngộ, bỗng hiểu ra hai chữ “nhất thời”, đối mặt với hư không, tôi lầm rầm lẩm bẩm: ”Nhất thời ơi! Nhất thời à! Tất cả đều là nhất thời!” Tôi hy vọng các thánh đệ tử, mọi người hãy suy ngẫm về “nhất thời”.

Kiếp nhân gian, từ trẻ đến già, từ sống đến chết, là nhất thời. Kiếp nhân gian, của cải cao như núi, là nhất thời. Kiếp nhân gian, cao quý như Tần Thủy Hoàng, là nhất thời. Kiếp nhân gian, nghèo như Nhan Hồi, là nhất thời. Kiếp nhân gian, hèn như Ngụy Trung Hiền, là nhất thời. Và những cái khác nữa…

Tôi cũng biết, lục dục thiên đương nhiên đều là nhất thời. Cái gọi là nhất thời nghĩa là chớp mắt một cái đã qua rồi! Huyễn, huyễn, huyễn, huyễn, huyễn, đều là huyễn. Mộng, mộng, mộng, mộng, mộng, đều là mộng. Thánh đệ tử phải nhớ kĩ. Cái gì là nhất thời? Cái gì mới không phải là nhất thời? Thì ra chỉ có Phật tính, Chân Như, vô thủy vô chung, vô sinh vô diệt, niết bàn. Mới là: ”Phi thời.”

🌟

Lục dục thiên là nhất thời, có một điển cố rất nổi tiếng, đáng để mọi người cảnh giác, coi chừng: Phật Thích Ca Mâu Ni vì để độ hóa Nan Đà, đã đến nhà Nan Đà ăn cơm, Nan Đà làm lễ, lấy bát đựng cơm cúng dường Phật Đà. Phật không ăn, muốn Nan Đà theo ngài trở về tinh xá, lúc này, Phật Thích Ca Mâu Ni muốn Nan Đà cạo đầu xuất gia. Nan Đà rất khó xử, bởi vì ông ấy mê đắm gia đình, người vợ trong nhà ông vô cùng xinh đẹp. Nan Đà đợi khi Phật Đà không chú ý, liền chuồn về nhà, ông đi được nửa đường thì Phật đã ở giữa đường đợi ông. Nan Đà nhìn thấy Phật, liền nhẹ nhàng trốn sau một cái cây to, cho rằng Phật sẽ không nhìn thấy mình. Phật vận thần thông, cái cây to bay lên không. Nan Đà chỉ còn cách cùng Phật trở về tinh xá. Phật lại vận thần thông để hút Nan Đà vào trong Đao Lợi thiên cung, để cho Nan Đà nhìn thấy thắng cảnh ở thiên cung. Nan Đà trông thấy một tòa thiên cung có rất nhiều thiên nữ tuyệt sắc, xinh đẹp hơn ở nhân gian gấp trăm vạn lần, ông ấy ngưỡng mộ vô cùng. Thiên cung này không có thiên tử, Nan Đà hỏi: “Vì sao duy nhất cung này không có thiên tử?” Thiên nữ đáp: “Sau khi Nan Đà xuất gia, mệnh chung thì sẽ sinh về thiên cung này.” Nan Đà nghe xong liền muốn ở lại. Thiên nữ nói: “Chúng tôi là trời, ông là người, khi nào ông bỏ thọ mạng cõi người rồi thì mới có thể sinh về không gian này.”

🌟

Tiếp theo, Phật lại hút Nan Đà đến địa ngục, ông nhìn thấy địa ngục nấu người trong dầu sôi. Rất nhiều vạc dầu sôi đang nấu người, người giống như những chiếc quẩy, kêu mẹ kêu cha, vô cùng thê thảm. Trong đó có một cái vạc dầu trống không. Nan Đà hỏi: “Vạc dầu này vì sao không có người?” Coi ngục đáp: “Nan Đà vì công đức xuất gia nên được thăng thiên hưởng phúc, phúc hưởng hết rồi, lúc mệnh chung sẽ đọa vào địa ngục dầu sôi, cho nên chúng tôi đang đợi ông ấy đây!” Nan Đà sợ mất vía. Nan Đà nói với Phật: ”Con nguyện trở về nhân gian, nguyện cạo đầu xuất gia, nguyện cầu đạo vô thượng.” Phật nói: ”Ông thực hành trì giới tu thiện thăng thiên được hưởng phúc.” Nan Đà nói: ”Cũng không cần thăng thiên, cũng không muốn đọa địa ngục.” Thế là, Phật Đà thuyết pháp. Nan Đà tu thành tựu A La Hán.

Từ câu chuyện này có thể thấy, lục dục thiên cung cũng là “nhất thời” thôi, các thánh đệ tử xin ngẫm nghĩ: “Cái gì không phải là nhất thời?”

13. Đích thân gặp Kim Cang Hợi Mẫu

Tại đây, trước hết tôi muốn lễ kính Kim Cang Hợi Mẫu, bởi vì Kim Cang Hợi Mẫu đã giúp tôi chứng nhập Sắc giới thiên.

Năm đó, trong lúc tôi đang thành kính cầu nguyện, đích thân tôi đã gặp Kim Cang Hợi Mẫu. Ngài đi vào trong luân xa rốn của tôi, đứng trong lưới lửa hình tam giác. Tôi hỏi: ”Hư không là không hay có?” Kim Cang Hợi Mẫu không đáp. Ngài dùng con mắt thứ ba của mình phóng ra một đường ánh sáng vàng kim chiếu vào trong hư không, đường ánh sáng vàng kim này chiếu rõ Phạm Chúng Thiên.

Kim Cang Hợi Mẫu nói: ”Nhìn xem! Đó là Phạm chúng.” Có rất đông Phạm chúng, họ ngồi xếp bằng trong hư không, có người thì dùng tòa hoa sen, có người thì ngồi tự do, có người thì đứng, có người thì nằm, không ai giống ai. Kim Cang Hợi Mẫu nói: ”Hư không có chăng? Hư không không có chăng?” Tôi hỏi: ”Làm sao để vào Phạm Chúng Thiên?” Kim Cang Hợi Mẫu đáp: ”Tu Kim Cang Hợi Mẫu chuyết hỏa định, đến khi trở nên trong suốt tức là nhập vào Phạm Chúng Thiên.”

Tôi hiểu rằng: Nhân gian Ta Bà, một số người tu hành đối với ngũ dục của thế gian đã hoàn toàn cắt đứt, hành giả đã loại bỏ hoàn toàn dâm dục, trong khi thiền định, ngay cả nghĩ đến dâm dục cũng không có, không muốn ở lại thế gian, trong người sẽ hiện lên một chút ánh sáng. Hành giả suy nghĩ rằng mình là Phạm thiên nhân ở thiên thượng giới thì sẽ đến được Phạm Chúng Thiên.

Người tu thiền tự biết rằng cõi trời thứ nhất của Sơ thiền là Phạm Chúng Thiên, ở đây chỉ có sự hoạt động của nhãn thức, nhĩ thức, thân thức, đã không còn tác dụng của hai thức mũi và lưỡi. Thiên nhân tiến nhập vào Phạm chúng thì đều đã rời xa ngũ dục rồi!

🌟

Tôi có một đệ tử tên là Liên Hoa Nhất Tín. Anh giữ năm giới. Anh làm mười thiện nghiệp. Anh chán ghét tất cả mọi thứ thế tục, một thân một mình đi vào hang động trong núi sâu, sống một mình và thiền định. Cứ như thế qua nhiều năm. Có một hôm, anh tự mình cảm thấy luân xa rốn trong suốt, tất cả các lỗ chân lông trên người đều có ánh sáng. Trong ánh sáng liên tục xuất hiện các thiên nữ, tụ tập rất đông, còn chính anh cũng biến thân ở trong Phạm chúng thiên nhân. Lúc này, anh đã viên tịch. Anh đã tiến nhập vào Phạm Chúng Thiên rồi.

Tôi hỏi Liên Hoa Nhất Tín: ”Anh không ăn đúng không?” ”Không có mũi, lưỡi, vì thế không ăn.” ”Cảm giác thế nào?” ”Không, minh, định, trí, thiện, nhu, hỷ, lạc.” ”Nhập Phạm Chúng Thiên phải làm sao?” ”Đoạn ngũ dục, trong suốt.” Tôi hỏi: ”Kinh nghiệm ra sao?” Nhất Tín đáp: ”Trải qua thô trụ, tế trụ, chính trụ.”

🌟

Tôi viết một bài kệ cho Phạm chúng thiên nhân:

Chuyết hỏa đi lên liền giao quang Các lỗ chân lông cùng hưởng ứng Thế giới phồn hoa đại mộng huyễn Cho dù vạn năm cũng vậy thôi

Điệu hát đã dừng Rượu tuôn như sóng Phạm lữ hiện thân cùng thưởng thức Hỷ lạc công đức nhiều Đều ở trên mây cao.

14. Trịnh Nồng Ni ở Phạm Phụ Thiên

Ở Phạm Phụ Thiên, tôi trông thấy một đệ tử cũ là Trịnh Nồng Ni, tôi thật sự không ngờ bà ấy lại ở Phạm Phụ Thiên. Tôi hỏi: ”Sao bà lại ở Phạm Phụ Thiên?” Bà ấy đáp: ”Sư Tôn thầy quên rồi à, khi xưa lúc thầy vừa xuất đạo, không có tiền để điêu khắc một vị Diêu Trì Kim Mẫu, thế là tôi đã bỏ tiền ra điêu khắc một vị Diêu Trì Kim Mẫu tặng thầy. Đây là công đức mà tôi giúp đỡ thầy.” Bà ấy lại nói: ”Tôi hỏi về tu pháp, Sư Tôn nói với tôi, dồn suy nghĩ về nhật nguyệt quang ở hạ đan điền, chỉ một câu nói đó thôi. Mỗi khi ngồi thiền, tôi liền nghĩ đan điền có nhật quang, nguyệt quang, giữ suy nghĩ đó rất lâu, thế là có thể ngưng niệm, đạo hạnh trong sạch, đến khi tôi 80 tuổi thì chỉ có làm theo cách dồn suy nghĩ như vậy thôi.” Bà ấy nói: ”Đến khi tôi thọ chung, có một chút ánh sáng, dần dần tôi hồi phục, nhìn thấy đại điện có rất nhiều thiên nữ mặc trang phục lộng lẫy màu hồng, trắng, xanh lục, tôi hỏi thiên nữ nơi này là đâu. Thiên nữ đáp, đây là Phạm Phụ Thiên.” Bà ấy nói: ”Phạm Phụ Thiên là cõi trời Sắc giới thứ hai, đã không còn tướng nam nữ, vì sao tôi lại mang tướng nữ? Thiên nữ đáp, vốn không có tướng nữ, chỉ vì trong cung Đại Phạm Thiên Vương, bên ngoài có thị vệ đại thần phò trợ Phạm Vương, bên trong thì có thiên nữ hầu hạ Phạm Vương, thiên nữ thật ra là tướng bên ngoài, thực tế cũng không phải thiên nữ.” Bà ấy nói: ”Vì tôi cúng dường một bức kim thân Diêu Trì Kim Mẫu, và dồn suy nghĩ về nhật nguyệt quang mà được sinh về Phạm Phụ Thiên.” ”Ha! Thì ra là như vậy.” - Tôi nói.

🌟

Thấy Trịnh Nồng Ni ở Phạm Phụ Thiên, tôi hết sức vui mừng. Bà ấy nói với tôi, sơ thiền có ba thiên: 1. Phạm Chúng Thiên - thứ dân. 2. Phạm Phụ Thiên - thị thần. 3. Đại Phạm Thiên - thiên tử. Cái gọi là Phạm Phụ Thiên có ý nghĩa là thị thần phò trợ Đại Phạm Thiên Vương.

Tôi hỏi Trịnh Nồng Ni: ”Sơ thiền có công lực thiền định không?” Trịnh Nồng Ni đáp: ”Chút chút.” Trịnh Nồng Ni nói: ”Chỉ là thanh tịnh tâm, có giới đức mà thôi, vẫn chưa thật sự nhập tam ma địa, chỉ là bất động thôi.” Tôi hỏi Trịnh Nồng Ni: ”Nay bà sống tại Phạm Phụ Thiên, chỉ là nhờ vào ba độ đầu tiên trong số lục độ, không hề dựa vào thiền định tính Không, tính ra chỉ là đến cảnh giới luân hồi tương đối cao mà thôi, bà còn muốn tiến nhập cảnh giới cao sâu hơn không?” Trịnh Nồng Ni đáp: ”Thiên thọ của Phạm Chúng Thiên là nửa trung kiếp, thiên thọ của Phạm Phụ Thiên là một trung kiếp thì đương nhiên vẫn là hữu hạn, xin hỏi Sư Tôn thế nào mới là vô hạn?” Tôi đáp: ”Bà phải dựa vào ba độ sau của lục độ, thì tự sẽ có sự thăng tiến cảnh giới.”

Cá nhân tôi phát hiện ra: 1. Bố thí. 2. Giữ giới. 3. Nhẫn nhục. (Phúc báo thăng thiên nhiều.) 4. Tinh tấn. 5. Thiền định. 6. Trí huệ. (Huệ báo siêu thượng nhiều.)

Tôi viết một bài kệ tặng cho Trịnh Nồng Ni:

Phò trợ Đại Phạm nhiều niềm vui Cõi này thị chúng trái tim hồng Đại kiếp thời gian cũng vội vã Cõi này đâu đã là ung dung Mau học lục độ ba độ cuối Bồ Tát ko học sao giác đây?

15. Phật Bốn Mặt chính là Đại Phạm Thiên Vương

Tôi đã đến Đại Phạm Thiên Cung, Đại Phạm Thiên Vương bước xuống bậc đón tôi. Đại Phạm Thiên Vương nói: ”Liên Sinh Thánh Tôn, lâu ngày không gặp, đa tạ ngài đã cúng hoa cho tôi!” Trong lòng tôi bối rối, tôi cúng dường hoa tươi cho Đại Phạm Thiên Vương lúc nào chứ? Đại Phạm Thiên Vương biết tôi ngờ vực, Đại Phạm nói: ”Từ lâu rồi, lúc ngài mới xuất đạo, dẫn theo đệ tử đi Thái Lan, nhìn thấy vị Phật Bốn Mặt ở chợ, mọi người dâng hoa, ngài cũng dâng hoa, không phải sao?” A! Tôi nhớ ra rồi.

Tôi từng đưa các đệ tử thời kì đầu đi du lịch Thái Lan, nhìn thấy Phật Bốn Mặt ở phía trước, có những cô gái Thái múa những tư thế uyển chuyển để cúng dường, tôi và mọi người cũng tung hoa tươi cúng dường Phật Bốn Mặt. Lúc này, Đại Phạm Thiên Vương hiện ra tướng bốn mặt, bốn cánh tay, một tay cầm hoa sen, một tay cầm chuỗi niệm hạt, một tay cầm tịnh bình, một tay làm ấn chữ Om. Tôi nhìn thì đúng là Phật Bốn Mặt.

Tôi hỏi: ”Vì sao làm Đại Phạm?” ”Uy đức tối thắng tức là đại, quảng thiện sở sinh tức là Phạm.” Tôi hỏi: ”Vì sao tôn xưng là Phật Bốn Mặt?” Đại Phạm Thiên Vương nói: ”Ngày xưa, Phật Đà thành đạo, Phật Đà nói, đã chứng đắc pháp niết bàn tịch tĩnh, nếu diễn thuyết cho con người thì họ đều không thể lĩnh ngộ được, ta nên im lặng không nói.” Đại Phạm Thiên Vương nói: ”Là tôi đã dẫn theo 68 câu chi Phạm chúng trình bày với Phật Đà, Như Lai vì các chúng sinh mà cầu vô thượng giác, nay đã thành Phật, chỉ mong Phật Đà mau chuyển pháp luân.” Đại Phạm Thiên Vương hết lời khuyên giải. Phật Đà cảm động, cuối cùng mới nói: ”Nay Như Lai nhận lời khuyên thỉnh của Phạm Vương nên mới chuyển pháp luân.” Bởi vậy, công đức của Đại Phạm Thiên Vương đối với các chúng sinh là rất lớn, ngài tôn kính Phật pháp, cho nên không có gì hổ thẹn khi nhận là Phật.

Tôi hỏi: ”Đại Phạm Thiên Vương có sáng tạo ra chúng sinh trong trời đất không?” Đại Phạm Thiên Vương đáp: ”Có hai truyền thuyết. Trí Độ Luận nói rằng trong tim của Đại Phạm Thiên Vương hóa sinh ra bát tự, bát tự sinh ra nhân dân trong trời đất. Một truyền thuyết khác là Niết Bàn Luận, nói rằng Đại Phạm Thiên Vương sáng tạo ra hữu mệnh và vô mệnh, từ trong miệng của Đại Phạm Thiên Vương sinh ra Bà-la-môn, từ trong hai tay sinh ra Sát-đế-lợi, từ trong hai đùi sinh ra Bì-xá, từ hai chân sinh ra Thủ-đà-la. Sinh ra tất cả đại địa để làm đạo tràng tu phúc đức.”

Tôi cảm thấy Đại Phạm Thiên Vương rất vĩ đại. Giống như Câu Xá Luận viết: ”Sống ở Phạm Phụ Thiên có cung điện lầu gác cao lớn, Đại Phạm Thiên sống trong những cung đó, không có sự phân biệt địa vị như Thế Tôn ngồi, còn tứ chúng thì vây xung quanh.” Vãng Sinh Yếu Tập viết: ”Đao Lợi Thiên trở lên thì hưởng đại lạc triệu triệu tuổi, cung của Đại Phạm Vương là thâm thiền định lạc.” Ở Đại Phạm Thiên đã có cảnh giới định rồi. Đại Phạm Thiên Vương nói: ”Trong tương lai, trong các đệ tử của ngài, có nhiều người sẽ được thăng lên làm Đại Phạm Thiên chúng.” Tôi hỏi: ”Vì sao?” Đại Phạm Thiên Vương đáp: ”Vì họ khuyên thỉnh ngài trụ thế, khuyên thỉnh ngài thuyết pháp, họ nhờ có nhân duyên này, lại đắc Sơ thiền, nên sinh làm Đại Phạm.”

Tại đây, tôi nói với mọi người, trong Ấn Độ giáo có: 1. Đại Phạm Thiên - Thần Sáng Tạo. 2. Đại Tự Tại Thiên - Thần Hủy Diệt. 3. Biến Tịnh Thiên - Thần Bảo Hộ. Từ ba vị đại thần này mà Ấn Độ giáo diễn hóa ra những lý luận và triết học của Ấn Độ giáo. Tôi cảm thấy chúng cũng phù hợp với Phật lý về sinh, trụ, dị, diệt. Các thánh đệ tử nghĩ thế nào?

16. Thầy Thành Quang ở Thiếu Quang Thiên

Ngày xưa, có thầy Thành Quang vừa là thầy vừa là bạn tôi, từ trong ý, tôi biết được ông ấy đã vãng sinh đến Thiếu Quang Thiên.

Thầy Thành Quang từng là sư trụ trì của một ngôi chùa Phật, lúc còn tại thế, ông ấy và tôi có mối giao hảo rất tốt. Ông ấy nói với tôi: ”Cuộc đời này của tôi, mặc dù từng đọc Tạng, trọn bộ Đại Tạng Kinh tôi đều đọc hết rồi, nhưng không phải là đọc đến đâu nhớ đến đó, chỉ có một chút xíu tâm đắc thôi.” Tôi hỏi: ”Tâm đắc gì?” Ông ấy nói: ”Lúc nhớ lúc quên.” Hai chúng tôi cười vang. Ha ha ha!

Ông ấy nói: ”Tôi chỉ biết dùng phương pháp ngu si nhất là dùng tay chép kinh điển, được hơn trăm bộ rồi.” Ông ấy nói: ”Dùng tay chép kinh điển, từng nhập tam muội, cứ viết là viết, chẳng hay biết gì khác, bỏ cả ăn ngủ, không phân biệt ngày đêm, tinh thần thống nhất, chỉ có tay hoạt động, còn mọi thứ đều im ắng.” Lại nói: ”Bất thình lình tôi nhìn thấy một vòng tròn ánh sáng, kích cỡ như quả bóng chày đi vào từ miệng, khi đi vào miệng thì nó thu nhỏ lại, đi thẳng xuống vùng rốn, tinh thần đột ngột sảng khoái. Tôi thấy vùng rốn của mình có ánh sáng chầm chậm quay tròn.” Thầy Thành Quang nói: ”Liên Sinh Sư Tôn, xin hãy gia trì cho tôi!” ”Gia trì cái gì?” ”Tịch trầm sinh quang, trừng tâm bất động.” Thế là, tôi gia trì cho thầy Thành Quang.

🌟

Sau khi thầy Thành Quang viên tịch, tôi biết ông ấy đã không còn mối bận tâm nào cả, không có phiền não gì có thể dồn ép ông ấy, tất cả thô lậu đã loại bỏ hết, trên thực tế, thầy Thành Quang đã tiến nhập vào Thiếu Quang Thiên của Nhị thiền.

Tôi gặp mặt thầy Thành Quang ở Thiếu Quang Thiên. (Lần gặp mặt này chỉ là giữa ý và ý.) Tôi hỏi: ”Thích không?” Đáp: ”Thích!” ”Thích cái gì?” ”Bồng bềnh bước trên không.” ”Có khổ không?” Đáp: ”Không có ba thức mắt, tai, thân, không có thân thì có gì mà khổ? Vốn dĩ mọi khổ đều vì có thân nên mới khổ, không có thân tức là không có khổ.” Tôi hỏi thầy Thành Quang: ”Ông có ấn tượng thế nào về nhân gian?” Thầy Thành Quang đáp: ”Con người thế gian khiến tôi kinh ngạc, rõ ràng tất cả đều không, thế mà ai ai cũng bám chấp không buông bỏ, ví dụ người thế tục tranh giành di sản, tăng nhân tranh giành tài sản của chùa, nhưng mà không có thứ gì thật sự có được.” Lại nói: ”Con người thế gian khiến tôi kinh ngạc, rõ ràng tất cả danh vị đều không phải là vĩnh hằng, thế mà ai ai cũng bám chấp không buông bỏ, khi lên ngôi vị cao rồi thì làm rung chuyển trời đất, tự cho mình là đại thắng cả nhân gian. Thật sự không bằng bước lên mặt trăng mát rượi, sáng bóng đáng yêu, tôi cảm thấy thế nhân thật nực cười.” ”Ông vẫn có chí tiến thủ chứ?” Thầy Thành Quang đáp: ”Thế hệ chúng ta cũng là hành giả.”

Tôi viết một bài kệ ca ngợi thầy Thành Quang:

Ý như ngọn gió tây Bất ngờ nổi lên như rồng cuốn trên bầu trời Non xanh nước biếc xưa nay vẫn thế Mặt trăng ít ánh sáng Niềm vui vô hạn Chiếu mãi khắp sông hồ.

17. Bí mật của Vô Lượng Quang Thiên

Chúng ta biết rằng, Nội Viện của Đâu Suất Thiên trong sáu cõi trời Dục giới, có cõi tịnh thổ của Di Lặc Bồ Tát. Trong tịnh thổ của Di Lặc Bồ Tát có vô số vô số Bồ Tát, điều này chứng minh rằng trong sáu cõi trời Dục giới có tồn tại tịnh thổ, có đại Bồ Tát sống ở đó, có tồn tại Phật quốc tịnh thổ.

Khi tôi từ Thiếu Quang Thiên tiến nhập vào Vô Lượng Quang Thiên, tôi bất ngờ sửng sốt, thì ra Vô Lượng Quang Thiên mặc dù là cõi trời thứ hai của Nhị thiền, nhưng ở đây rõ ràng là một tịnh thổ cực kỳ lung linh.

Tịnh thổ này toàn là ánh sáng, ánh sáng và ánh sáng chiếu lẫn nhau, chuyển thành vô lượng quang, dường như thập phương giới đều là ánh sáng vô tận.

Tôi nói với mọi người, Vô Lượng Quang Thiên có một bí mật lớn, bí mật này là: Áo Minh tịnh thổ. Ô Kim tịnh thổ. Trì Minh tịnh thổ. Đều nằm ở trong đó! Đây là một phát hiện lớn mở ra một thời đại mới, thì ra ba đại tịnh thổ của Mật giáo vốn đều nằm trong Vô Lượng Quang Thiên.

Đại bí mật mà thế nhân chưa bao giờ biết đến, thì ra Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là ở trong tịnh thổ này. Tôi đích thân gặp Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Tôi hỏi Liên Sư: ”Liên Sư ở tịnh thổ Ô Kim, vì sao lại ở Vô Lượng Quang Thiên?” Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đáp: ”Trước kia thánh địa mà ta tu hành ở Samye núi Thanh Phổ, động Nhã Phong Pha Lê, động Hiệp Ngõa Đạt Ngõa, đều có thể nhìn thấy ta. Tịnh thổ Ô Kim, tịnh thổ Trì Minh, tịnh thổ Áo Minh, cũng có thể nhìn thấy ta, Vô Lượng Quang Thiên tự nhiên có thể nhìn thấy ta.”

Tôi rất ngạc nhiên. Liên Sư nói: ”Đâu đâu cũng có.” Tôi kính lễ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, hát rằng:

Tây phương an lạc trong sát thổ. Vô Lượng Quang Phật thương gia trì. Gia trì hóa thân Liên Hoa Sinh. Lợi ích chúng sinh Chiêm Bộ Châu. Cụ túc tương tục đại bi hành. Ô Kim Liên Sư xin kính cẩn.

Tôi hỏi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ: ”Vì sao con nhiều lần bị phỉ báng?” Liên Sư đáp: ”Nguyên nhân con bị phỉ báng là vì, một, nói với đệ tử chưa có mật ý về pháp bí mật mà tự thân mình đã tu luyện; hai, tiết lộ đại bí mật về sự thanh tịnh của thân, ngữ, ý; ba, không được bàn luận về đại lạc hành; bốn, không được bàn luận về mật hành của mình.” Tôi nói: ”Con đã hiểu rồi.” Tôi lại hỏi: ”Làm sao đến được tịnh thổ Vô Lượng Quang Thiên?” Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đáp: ”Tổng trì đà-la-ni chính là trì minh, trì minh chính là trì quang, trì quang nhập tam muội thì sẽ đến được Vô Lượng Quang Thiên.” Tôi hỏi: ”Làm sao để lần lượt thăng cấp trong 28 thiên?” Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đáp: ”Chỉ có cách lần lượt nâng cao bồ đề minh điểm.” Chỉ một sát-na, trong sát-na, tôi đã hoàn toàn hiểu rõ.

Tôi ở trong Vô Lượng Quang Thiên của Nhị thiền, đích thân chứng minh Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói, ngài phải đi giúp 21 đệ tử của tôi, tiếp dẫn họ đến Vô Lượng Quang Thiên.

Tôi viết bài kệ ca ngợi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ:

Tất cả chư Phật hóa hiện Liên Hoa Sinh. Đầy đủ tướng tốt viên mãn trước chúng sinh. Diệu pháp siêu thắng thế gian không thể sánh. Mật pháp thù thắng như biển rộng vô biên. Nay con nhất tâm kính lễ đại Bồ Tát. Vì lợi chúng sinh tuyên dương hai mươi tám thiên.

Tại Vô Lượng Quang Thiên, không ngờ tôi lại gặp được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đây thật sự là quá kỳ diệu, quá bất khả tư nghì. Ôi! Vạn tuế, vạn tuế, tôi thật quá vui mừng.

18. Bà Câm ở Quang Âm Thiên

Ngày xưa, tôi có một đệ tử mà chúng tôi gọi là Bà Câm, bởi vì bà ấy bị câm bẩm sinh, bà ấy bán bánh mưu sinh.

Mặc dù Bà Câm bị câm, nhưng tâm không câm, hiểu lễ Phật, cúng dường Phật, quy y tôi, sám hối nghiệp chướng của bản thân. Bà Câm không thể phát ra âm thanh trì chú, nhưng có thể niệm trong đầu, bà ấy trì chú niệm Phật liên tục không nghỉ. Bà Câm vì bị câm nên không có nhiều mối quan hệ xã hội, ngược lại chính điều này thúc đẩy bà ấy hễ rảnh rỗi là lại “ngồi câm”.

Thấy người gặp khó khăn, bà không nói gì nhiều, lấy tiền tiết kiệm riêng của mình để cho người ta. Bà Câm viên tịch, hỏa thiêu ra xá lợi hạt, xá lợi hoa, sặc sỡ sáng chói.

Còn tôi, ở Quang Âm Thiên, tôi đã gặp được Bà Câm. Thế nào là Quang Âm Thiên? Quang Âm Thiên là cõi trời cao nhất của Nhị thiền, còn gọi là Cực Quang Tịnh Thiên, cõi trời này hoàn toàn không có âm thanh. Muốn biểu thị điều gì, từ trong miệng sẽ xuất ra ánh sáng, nhờ ánh sáng đại diện cho ngôn ngữ, cho nên mới gọi là Quang Âm Thiên.

Điều mà họ gọi là: ”Ngôn ngữ khẩu xuất, tịnh quang vô biên.” ”Quang Âm Thiên không có giác quan ngôn ngữ, khi muốn nói thì miệng xuất tịnh quang.” Quang Âm thiên nhân có truyền thuyết hạ sinh ở nhân gian: ”Trời đất lúc mới khởi đầu, tất cả đều trống trơn, không có một thứ gì, cũng không có mặt trời mặt trăng, mặt đất tuôn ra suối ngọt, mùi vị như mật. Lúc ấy Quang Âm thiên nhân, hoặc có phúc đến kiếp sau, hoặc là người vui thích với vùng đất mới, tính đa phần là hơi nóng nảy, dùng ngón tay nếm thử, cứ như thế nhiều lần, thay đổi vị của nó, ăn mãi không ngừng, dần dần sinh ra bắp thịt, vì thế đánh mất màu sắc kỳ diệu của cõi trời và ánh sáng thần túc.”

🌟

Đến Quang Âm Thiên, không phải tất cả đều câm. Bà Câm là ngoại lệ. Tôi thấy Bà Câm vô cùng sung sướng. Tôi hỏi: ”Quang Âm Thiên có gì hay?” Đáp: ”Cực tịnh.” ”Cực tịnh thế nào?” ”Vô phiền vô ưu.” ”Có niềm vui không?” ”Niềm vui vô lượng.” ”Không tranh giành?” ”Tự nhiên.”

Cuộc đối thoại giữa tôi và Bà Câm không phải là nói ra ngôn ngữ âm thanh, mà là trong miệng xuất ra tịnh quang. Ví dụ: Cực tịnh - ánh sáng trắng tinh. Vô phiền vô ưu - ánh sáng rộng lớn vô biên. Niềm vui vô lượng - ánh sáng đỏ. Tự nhiên - đỏ, trắng, vàng, kim, lục, v.v… nhiều màu sắc. (Đây là những quang âm cơ bản nhất.)

Tôi phát hiện ra Quang Âm thiên nhân căn bản chính là những vòng tròn ánh sáng, giống như con người chúng ta thổi bong bóng vậy, bong bóng bay đầy trời, càng đẹp hơn nữa là những vòng ánh sáng muốn biểu thị lời nói thì ánh sáng sẽ biến ra rất nhiều màu sắc. Rất thanh cao. Rất đẹp đẽ. Rất tráng lệ.

Rất nhiều người muốn biết làm sao tôi nhận ra Bà Câm trong số các vòng tròn ánh sáng đó. Chỉ bởi vì Bà Câm tạo ra vòng tròn ánh sáng đỏ, nhấp nha nhấp nháy, càng ngày càng nhanh, tôi liền biết rằng đó là người quen. Thế còn làm sao mà biết đó là Bà Câm, đó là nhờ vào tâm thức. Có thể dùng tâm thức tức là thần thông.

Tôi cảm thấy càng là thiên thượng giới càng cao thì âm thanh càng ít, càng là cõi trời dưới thấp thì càng ồn ào. Nhân gian thì ồn ào như cái chợ. Tôi hỏi các thánh đệ tử, “thiền thất” của Phật giáo [thiền thất: dùng phương pháp tham thiền của Thiền tông để tọa thiền trong bảy ngày], vì sao phải cấm khẩu? Thử giải thích chi tiết xem, mọi người có thể viết luận văn đó.

19. Thích Đại Hùng ở Thiếu Tịnh Thiên

Đệ tử của tôi Thích Đại Hùng sau khi viên tịch, quả tim của ông ấy không thiêu được, toàn thân thì hóa thành tro, nhưng còn quả tim thì không hóa được, điều này khiến giới tôn giáo kinh ngạc!

Có người nói: “Tâm nguyện của ông ấy chưa xong!” Có người nói: “Nỗi lòng của ông ấy chưa được mở ra!” Có người nói: “Đó là xá lợi tim.” Tôi nói: “Đó là tâm vui.”

Thích Đại Hùng là một tăng nhân tu học pháp thiền, sau đó ông đến Seattle quy y tôi. Sau khi quy y tôi, mọi hành vi cử chỉ của ông sau đó tất nhiên là ông đều báo cáo hết với tôi, tôi rất ít gặp tăng nhân nào như vậy. Nói cách khác là, sau khi ông ấy nương dựa vào tôi làm sư phụ, một ngày là thầy, cả đời là cha, mọi hành vi của kẻ làm con đều lần lượt trình bày hết với sư phụ, không ngờ ông ấy nghiêm cẩn đến mức như vậy.

Pháp sư Đại Hùng là một tăng nhân giữ nghiêm giới luật, ông ấy từng nói thế này: ”Tăng nhân xuất gia tức là chịu quy định của giới luật, giới là quy định và sự hạn chế của hành vi mà tăng nhân trong cuộc sống thường ngày và trong pháp vụ tôn giáo nên tuân thủ.” ”Phật Đà chế định ra giới luật, tăng nhân tuyệt đối phải tôn trọng và tuân thủ, đó là việc đại sự số một của sa môn, xuất gia rồi, cả đời tuân thủ giới luật, giữ được giới luật thì mới có thể học kinh, học thiền, nắm bắt được nguyên lý của Phật giáo.”

Pháp sư Đại Hùng nói: ”Từ giới sinh định, từ định sinh huệ, đó là điều chí lý. Không có giới mà tu thiền định thì tất sẽ loạn!” Pháp sư Đại Hùng còn nói: ”Không giữ giới luật mà tự nói là thiền định thì cũng là nói bậy!” Pháp sư Thích Đại Hùng và lão hòa thượng Hư Vân là đồng hương, ông ấy cũng từng theo lão hòa thượng Hư Vân tham học. Pháp sư Đại Hùng từng viết một bài “Thiền học tối thượng” mà tôi đã đăng trong cuốn sách “Đại chấn động của thiền”.

🌟

Khi tôi tiến nhập vào Thiếu Tịnh Thiên của Tam thiền, vị đầu tiên đón tôi không ngờ lại là pháp sư Thích Đại Hùng. Thích Đại Hùng toàn thân tỏa ánh sáng, thiền ngữ bộc lộ kỳ diệu y như xưa, tinh tấn về giới hạnh, dẫn thẳng đến tịch diệt lạc, gọi là lạc cụ thiền. Tôi hỏi: ”Ông ở Thiếu Tịnh Thiên ư?” Pháp sư Đại Hùng đáp: ”Vâng.” ”Nhờ nhân duyên gì?” Đáp: ”Nhờ giới luật, nhờ thiền định.” ”Có cảm nhận gì?” Đáp: ”Tâm vui.”

Pháp sư Đại Hùng trả lời là “tâm vui”, không ngờ tình cờ trùng hợp với “tâm vui” mà tôi đã đoán. Tôi hỏi: ”Ở Tam thiền Thiếu Tịnh Thiên này đông loại người nào?” Đáp: ”Đông tăng nhân nghiêm thủ giới luật, chỉ vì giữ giới nhập thiền, có được tâm lạc, vì thế sinh tại Thiếu Tịnh Thiên.” ”Có gì khác với đại lạc ở sáu cõi trời Dục giới?” Pháp sư Đại Hùng đáp: ”Đại lạc ở Dục giới là cái lạc của thân, là cái lạc của cảm giác tiếp xúc. Còn cái lạc của Sắc giới Tam thiền là tâm lạc, là cái lạc thanh tịnh, hai cái lạc này khác nhau rất xa.”

Vì thế, tôi viết ra: Dục thiên đại lạc - thân lạc - xúc lạc. Sắc thiên Tam thiền - tâm lạc - tịnh lạc. (Quả nhiên là khác nhau.)

Tịnh lạc của Sắc giới thiên là cái lạc thanh tịnh, vì thanh tịnh mà sinh ra ánh sáng, nhờ ánh sáng mà thanh tịnh, Thiếu Tịnh Thiên có ý nghĩa là đạt được một chút thiền định thanh tịnh.

Tại đây, tôi thử hỏi các thánh đệ tử, tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn từ Nhị thiền thiên tiến nhập Tam thiền thiên, là nâng bồ đề minh điểm đến luân xa nào? Luân xa này phát ra ánh sáng gì? Tôi lại có một câu hỏi, vì sao không giữ giới luật thì không thể nào dẫn tới thiền định? Thử thảo luận xem.

20. “Tâm lạc” không có cách nào nhận biết

Tôi đã đến Vô Lượng Tịnh Thiên, đây là cõi trời thứ hai của Tam thiền, lại gặp pháp sư Thích Đại Hùng ở đây, tôi cảm thấy hết sức kinh ngạc.

Tôi hỏi: “Tôi ở Thiếu Tịnh Thiên gặp ông, sao ông cũng lại xuất hiện ở Vô Lượng Tịnh Thiên rồi, chuyện này là thế nào đây?” Pháp sư Đại Hùng không nói gì, ra hiệu tôi hãy nhìn sau lưng ông ấy. Tôi vừa nhìn thì thất kinh. Phía sau ông ấy có vô số, không thể suy đoán, không thể đo lường pháp sư Thích Đại Hùng. Con số ấy là trăm, nghìn, triệu,… Tôi hỏi: ”Chuyện này là sao?” Pháp sư Đại Hùng đáp: ”Nhất vị.” Pháp sư Đại Hùng nói: ”Cái gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên là chỉ cần tâm lạc tăng lên thì tịnh quang sẽ tăng lên, tâm và tâm tương thông, chuyển đến khi vô lượng không thể đoán biết, thì đó chính là Vô Lượng Tịnh Thiên.”

Tôi nói: ”Khi tôi thiền định, đạt đến tọa vong, tự biết hư không vô lượng, vô biên vô bờ, cái gọi là tối tăm, hỗn độn, xa xăm. Khi tâm cực lạc thì cái lạc ấy cũng không có cách nào đo lường được, tất cả đều tịnh, tất cả đều lạc, kéo dài đến vô tận.” Pháp sư Đại Hùng nói: ”Đó là Vô Lượng Tịnh Thiên!” - Lại nói thêm: “Tâm không thể đo lường, lạc cũng không thể đo lường, thế nhân không biết.”

🌟

Theo như tôi biết, đã đến Vô Lượng Tịnh Thiên rồi thì tự có thể chứng minh “nhất vị”. “Nhất vị” rất quan trọng. Tôi quan sát ngược lại chính mình, tôi cũng là pháp sư Thích Đại Hùng. Điều này khiến tôi khá ngạc nhiên. Tôi, bạn, người khác giống nhau. Học, nghe, được, mất, chính, tà, sinh, hóa, sáng, tối, tinh, tế, huyền, ảo, xa xăm, u tối… Giống nhau. Tôi đã không thể đoán biết được tâm. Tôi đã không thể đoán biết được lạc.

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, cũng như nhân loại chúng ta, không có cách nào đoán biết vũ trụ lớn tới mức nào. Không có cách nào đoán biết sinh từ đâu, chết đi về đâu. Không có cách nào đoán biết chuyện của thiên thượng giới. Không có cách nào đoán biết chuyện của tam ác đạo. Không có cách nào đoán biết chuyện của tứ Thánh giới. Không có cách nào đoán biết tâm của Thánh nhân. Không có cách nào đoán biết lạc của Thánh nhân.

Vì thế, Thánh nhân Lão Tử nói: ”Đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh, phi thường danh, vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu, cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.” [Tạm dịch nghĩa: đạo mà có thể gọi được không phải là đạo hằng cửu, tên mà có thể gọi được không phải là tên hằng cửu. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật. Vì thế, thường cần không có dục để quan sát cái vi diệu ấy. Thường cần có dục để quan sát cái trong sáng rõ ràng. Hai cái này cùng một xuất xứ nhưng tên khác nhau, đều gọi là huyền diệu. Cái huyền bí của cái huyền diệu ấy chính là cửa của mọi điều huyền diệu.]

Con người thiên hạ đều biết tâm. Nhưng lại không biết tướng hình dài ngắn ra sao. Con người thiên hạ đều biết lạc. Nhưng lại không biết tướng hình dài ngắn ra sao.

Tôi đã đến Vô Lượng Tịnh Thiên, cuối cùng tôi đã hiểu bốn chữ mà năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói: “Tịch diệt là vui.”

Tôi nói: Thân không - quan kiến vạn vật. Tâm không - cực lạc liên miên.

Chương sách này của tôi có lẽ có rất nhiều người không hiểu lắm, thật ra điều này cũng khó trách, bởi vì nấc thang của chư Thiên càng là tầng trên cao thì càng khó mà hiểu được, càng đi lên cao thì càng cách xa nhân gian, con ong cái kiến không biết chuyện nhân gian, nhân gian không biết chuyện trên trời, vốn dĩ là như vậy.

Ở đây tôi có hai câu hỏi: Tâm là gì? Lạc là gì?

21. Sự biến hóa của Biến Tịnh Thiên

Biến Tịnh Thiên là cõi trời cao nhất của Tam thiền, Thiên Chủ của Biến Tịnh Thiên tên gọi là Tịnh Trí, có bốn tay, cầm vỏ sò (ốc như ý), cầm pháp luân, cưỡi Kim Sí Điểu.

Trong Ấn Độ giáo, cõi trời này có tiếng tăm vang lừng, chính là thần Bảo Hộ. Thiên Chủ của cõi trời này hóa thân nhiều nhất, biến hóa đa dạng, quốc vương của nhân gian cũng có hóa thân của cõi trời này.

Theo như tôi biết: Ấn Độ giáo cho rằng, Đại Phạm Thiên là thần Sáng Tạo, Đại Tự Tại Thiên là thần Hủy Diệt, còn Biến Tịnh Thiên là thần Bảo Hộ. Vì bảo hộ thiên hạ, trong hóa thân của họ, ngay cả Phật Đà Thích Ca Mâu Ni cũng trở thành một trong những hóa thân của Biến Tịnh Thiên.

Trong số nhiều hóa thân của Biến Tịnh Thiên, nổi tiếng có hơn mười vị, còn những truyền thuyết khác thì không thể đếm hết. Vì sao gọi là Biến Tịnh Thiên? Tịnh lạc khắp nơi, quang minh vô tận, nên gọi là Biến Tịnh. Và thành tựu tịnh đức, hướng về tịch diệt làm niềm vui, nên gọi là Biến Tịnh.

🌟

Tại Biến Tịnh Thiên, tôi gặp một đệ tử là Liên Hoa Vân Kỳ. Ở nhân gian anh ta mắc bệnh hiểm nghèo. Anh ta hỏi tôi: ”Sư Tôn từ đâu đến đây?” Tôi đáp: ”Từ thiền định mà đến.” Tôi hỏi ngược lại anh ta: ”Vì sao anh lại ở Biến Tịnh Thiên?” Anh ta đáp: ”Từ sau khi quy y Sư Tôn, con sống trong một ngôi chùa nhỏ, ngôi chùa rất nho nhã thanh khiết, mỗi ngày con tu Chân Phật Mật Pháp chưa từng gián đoạn. Trong chùa có một tượng Phật nhỏ, cưỡi Kim Sí Điểu, con không biết tên của vị Phật đó.” ”Con đem tượng Phật nhỏ đó hỏi trụ trì, trụ trì cũng không biết tên ngài, cho phép con đem về để trong tịnh thất của mình, trong lòng con thích thú nên hay ngắm nhìn. Ở trước tượng Phật này, con tu Chân Phật Mật Pháp lâu ngày.” ”Bỗng dưng có một hôm, khi con đang tu pháp thì trông thấy tượng Phật nhỏ phóng quang, không lâu sau, cả tịnh thất đều là ánh sáng, con hơi hoảng hốt, không biết là có chuyện gì xảy ra.” ”Tiếp đó, con nghe thấy trụ trì gọi, trụ trì ở bên ngoài tịnh quang, âm thanh như tiếng muỗi kêu, tiếp theo là bố mẹ gọi, âm thanh như tiếng muỗi, anh chị em gọi, âm thanh như tiếng muỗi, con không đáp lại được.” ”Không lâu sau, Kim Sí Điểu phóng quang bay tới, con cưỡi lên lưng Kim Sí Điểu, thế là đã đến Biến Tịnh Thiên.” ”Sau đó, con mới biết mình đã thiền định tọa hóa, là Biến Tịnh Thiên Chủ đưa con đến Biến Tịnh Thiên. Đây là nơi chí lạc, cũng là sự cực lạc của tâm!”

Tôi hỏi: ”Anh có hối hận gì không?” Anh ta đáp: ”Không, con thấy bố mẹ mình không tin Phật, sau này phải vào địa ngục (Na Lạc Già), anh cả trong nhà là Vân Ký, vì lừa đảo mà phải ngồi tù, anh chị em ở nhân gian rất đau khổ và âu sầu.” Liên Hoa Vân Kỳ nói: ”Hy vọng Sư Tôn trở về nhân gian độ cho bố mẹ con thoát khỏi địa ngục, cứu anh trai Vân Ký của con được ra tù.” Tôi gật đầu đồng ý.

Sau đó tôi xuất định. Tôi thật sự đã thay bố mẹ của Vân Kỳ làm ba đàn Du già diễm khẩu, dạy họ cảnh giác với cõi u minh. Vân Ký sau khi ra tù cũng đến tìm tôi. Tôi hỏi: ”Anh là anh trai của Vân Kỳ?” ”Đúng vậy.” Vân Ký nói: ”Tôi ở trong tù được em trai báo mộng rằng khi nào ra tù nhất thiết phải tìm Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn để quy y mới có hy vọng thăng thiên, vì thế tôi đặc biệt đến đây quy y tu pháp.”

Tôi cũng chỉ cho anh ta cách tu pháp ra sao, đồng thời ban quán đảnh quy y. Vân Ký tìm kiếm bức tượng Phật nhỏ cưỡi Kim Sí Điểu ở trong tịnh thất của Vân Kỳ, không ngờ cuối cùng đã tìm được.

Bây giờ tôi có một câu hỏi xin hỏi thánh đệ tử, tu Chân Phật Mật Pháp có thể đến Biến Tịnh Thiên. Tôi hỏi, đến cõi trời đó là tốt nhất chăng?

22. Trong cõi Tứ thiền có nhiều đường rẽ

Căn cứ theo tôi tu tứ thiền bát định và trải nghiệm của tôi mà phân tích thì là như thế này: 1. Lục dục thiên - thân lạc (dục lạc). 2. Sơ thiền thiên - quảng thiện lạc. 3. Nhị thiền thiên - tịnh quang hỷ. 4. Tam thiền thiên - tâm lạc. 5. Tứ thiền thiên - xả. 6. Vô sắc giới thiên - không.

Từ Sơ thiền đến Tứ thiền, tôi thật sự đã rời bỏ dục lạc của sáu cõi trời Dục giới, cũng tức là đã rời bỏ ba thứ dục vọng lớn, đó là cái ham muốn nam nữ, ham muốn ăn, ham muốn ngủ. Sơ thiền đến Tứ thiền chỉ còn lại cái vui sướng (lạc) của thiền mà thôi.

Khi ở Sơ thiền, vì đã rời bỏ tất cả ái nhiễm, nên sẽ có được cái vui sướng (lạc) rộng lớn, tốt lành và uy đức. Khi ở Nhị thiền, tịnh quang xuất hiện, có sự vui sướng của tịnh quang. Khi ở Tam thiền, vì tâm an ổn, công lực thiền định sâu, nên xuất hiện cái lạc của đại tâm. Khi ở Tứ thiền, thiền định càng sâu hơn, không còn hỷ lạc, chỉ còn mỗi xả.

Nếu phân tích ngắn gọn: 1. 6 cõi Dục giới - đại lạc. 2. 18 cõi Sắc giới - tịnh quang. 3. 4 cõi Vô sắc giới - không. (Tổng cộng là 28 cõi trời.)

🌟

Tôi phát hiện thấy cảnh giới càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Tại cảnh giới xả của Tứ thiền thiên có những cạm bẫy, tôi cảm thấy chẳng có cái “hỷ” nào mà dựa vào, chẳng có cái “lạc” nào mà dựa vào, rất dễ cuồng loạn, đặc biệt là khi không mừng không vui, khi xả bỏ hỷ lạc, khiến người ta điên đảo.

Có một câu chuyện mọi người phải cảnh giác: Vào thời Phật Đà, có một đệ tử tu tứ thiền định, vị tì kheo này tu đến Tứ thiền thì sản sinh ra tâm kiêu ngạo, tâm ngạo mạn tự đại, cho rằng mình đã lên tới đỉnh rồi. Vị tì kheo này ngộ nhận rằng: Sơ thiền là quả Tu Đà Hoàn. Nhị thiền là quả Tư Đà Hàm. Tam thiền là quả A Na Hàm. Tứ thiền là quả A La Hán.

Đến được Tứ thiền rồi, ông ấy cho rằng đã là cảnh giới cao nhất, nên không tinh tấn nữa. Khi “tì kheo Tứ thiền” này sắp chết, nhìn thấy Tứ thiền trung ấm đến, liền sinh ra tà kiến (dị sinh), tự nhận là căn bản không có niết bàn, là Phật Đà lừa gạt mọi người. ”Tì kheo Tứ thiền” phỉ báng Phật Đà, cho nên đánh mất Tứ thiền trung ấm, liền rơi vào địa ngục A Tì, lúc chết sinh vào địa ngục A Tì.

Các đệ tử của Phật Đà hỏi Phật: ”Tì kheo Tứ thiền có công lực thiền định sâu, sinh về nơi nào?” Phật đáp: ”Sinh vào địa ngục A Tì rồi.” Các đệ tử tì kheo sửng sốt: ”Tì kheo Tứ thiền giữ giới rất nghiêm, công lực thiền định sâu, vì sao lại ở trong địa ngục A Tì?” Phật Đà đáp: ”Tì kheo Tứ thiền này khi đắc Tứ thiền liền cho rằng đã đắc được bốn đạo bốn quả, đồng thời sự ngạo mạn nổi lên, sinh khởi tà kiến, bắt đầu nhục mạ Phật Đà là lừa người, căn bản không hề có niết bàn, ta đã đắc A La Hán, Phật Đà là kẻ lừa bịp vô căn cứ, do nhân quả này mà xuất sinh trong địa ngục A Tì.”

🌟

Từ câu chuyện này, chúng ta cần nhớ kĩ: 1. Không được ngạo mạn. 2. Không được tự nhận đã đắc Tứ thiền thì đã là A La Hán. 3. Không được khởi tà kiến. 4. Không được phỉ báng Thánh hiền tăng.

Tôi phát hiện ra, cho dù đã tu đến Tứ không định, tu đến đỉnh của 28 cõi trời là cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì cũng không xem là đã đến đỉnh, những đường rẽ ở trong đó rất nhiều, cẩn thận là quan trọng.

Tại đây, tôi khuyên mọi người: “Chớ kiêu ngạo, ngộ nhỏ thì quả nhỏ, không được phỉ báng thầy!”

23. Tứ thiền bát định là pháp tu chung

Mặc dù tứ thiền bát định có đường rẽ, có cạm bẫy, có nguy hiểm, nhưng vẫn có lợi ích của nó.

Bất kể là nội hay ngoại đạo, chỉ cần là hành giả, thì tứ thiền bát định là một trong những phương pháp tu hành chung. Lấy Mật pháp để nói, cái gọi là thành tựu tam ma địa buộc phải là sau khi tu tứ thiền bát định mới có thể chứng minh được, đây cũng là sự thật không phải tranh cãi.

Tu đắc và chứng minh được tứ thiền bát định có hai lợi ích lớn: 1. Vạn duyên đều dứt. 2. Định tính hiện tiền. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, tôi cho rằng tu thiền định, những lợi ích mà nó mang lại rõ ràng thật sự là nhiều vô số kể:

Đầy đủ tướng uy nghi nhất - tư thái của thiền định là hai chân ngồi thế hoa sen, hai tay kết ấn thiền định, người vươn thẳng, hai mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, từ sự nhất tâm đạt đến tọa vong. Kiểu ngồi này, sự uy nghi này là đầy đủ nhất.

Thuận theo đầy từ bi - người tu thiền định, ngoài có được tướng uy nghiêm ra, thì nội tâm cũng từ bi nhất, lấy hạnh từ bi làm điểm xuất phát, từ ngoài vào trong, nhất định phải chứng minh được tâm mềm mại nhất, vì tâm đã mềm mại nhất cho nên sẽ từ bi, sẽ thực hành từ bi.

Tiêu trừ phiền não của bản thân - người có phiền não thì thiền định không được. Tu tứ thiền bát định đòi hỏi dừng dứt mọi căn, điều kiện hàng đầu là mọi phiền não không sinh ra, từ trong sự vắng lặng hành giả mới có thể thiền định, ví dụ như tham, sân, si, v.v… chính là chướng ngại của tu thiền định, vì thế nhất định phải tiêu trừ phiền não của bản thân.

Là một cách bảo vệ - người tập Tứ thiền bát định, đối với sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (còn gọi là lục tặc - sáu giặc), nhất định phải tự xem xét bản thân mà bảo vệ, cái đó gọi là giết lục tặc, đóng lại sáu cửa. Đây chính là bảo vệ sáu căn, khiến chúng không phóng túng buông thả.

Thiền duyệt [niềm vui của thiền định] thắng tất cả - tu tứ thiền bát định sẽ sản sinh hỷ, sản sinh lạc, chúng ta gọi là pháp hỷ, hoặc gọi là pháp lạc. Pháp hỷ, pháp lạc này vượt qua cái vui sướng của sắc, của ăn ngủ, v.v… của nhân gian thế tục. Do thiền duyệt của tứ thiền bát định nên nó vượt qua nhân gian, vượt qua cái lạc của sáu cõi Dục giới.

Thiền duyệt thắng dục vọng - những ham muốn lớn của con người chẳng qua chỉ là ham mê tiền bạc, sắc đẹp, địa vị, ăn ngon, ngủ ngon. Có năm dục vọng lớn này thì không thể nhập thiền định được, chúng là chướng ngại lớn của thiền định. Để không làm cho tâm tán loạn, nhất định phải diệt trừ năm dục vọng lớn này. Và sức mạnh của thiền duyệt có thể khiến ngũ dục tự nhiên tiêu biến vô hình. Vì thế pháp thiền định chính là pháp rời xa mọi dục, rời xa ô nhiễm.

Thiền định đạt đến bất không - rất nhiều người cho rằng Tứ thiền bát định là “làm trống rỗng tất cả”, “không không không không không”. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn là “bất không”. Cá nhân tôi đã chứng minh lý thuyết bồ đề tâm và nhậm vận, vì thế tôi vẫn là bất không, cái logic này rất rõ ràng. Tu tứ thiền bát định không phải là đoạn diệt tướng.

Tu tứ thiền bát định có thể phá ma - ma chướng thông thường vốn rất lợi hại, những người tu hành đại bộ phận không thoát khỏi lòng bàn tay của Ma Vương. Và duy có người tu tứ thiền bát định, nhờ vào định tính này, mới có thể thành tựu A nậu đa la tam miểu tam bồ đề.

Thiền định an trụ trong Như Lai - có thể từ thiền định sản sinh ra trí huệ của Như Lai, vì có được trí huệ rồi mới có thể an trụ trong Như Lai, Phật huệ của Như Lai này chính là bát nhã, có được bát nhã rồi thì sẽ đắc đẳng giác, diệu giác.

Thiền định có thể đạt đạo giải thoát, đạo bồ đề - hôm nay tôi có thể xuất thế tại nhân gian, cắt đứt hết mọi chủng tử của tập khí, có thể tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, tôi đã thành tựu niết bàn, đã viên minh Phật huệ. Pháp thân của tôi phổ chiếu mười phương, báo thân ở tại Sắc cứu cánh thiên, lợi lạc tất cả chúng sinh hữu tình, tôi phát nguyện không từ bỏ một chúng sinh nào, tôi đã thành tựu Phật đạo. Đây tức là tứ thiền bát định có thể đạt giải thoát, có thể chứng nghiệm Phật bồ đề.

Viết một bài kệ:

Dục vọng của tôi, sợi sợi đã đoạn lìa Mắt tai mũi lưỡi thân ý từng rời rạc chẳng thành chuỗi Nay kết tinh thành những hạt ngọc trí huệ Tự tay tôi xâu thành chuỗi

Những nấc thang tứ thiền bát định tôi bước lên từng bước Đi từ bến bờ giác ngộ này đến bến bờ giác ngộ khác Làm tan biến mọi cõi giới vào tâm Tôi tiến nhập Tính Không cảnh giới Từ đó bồ đề tâm trở nên vô tận, chẳng bao giờ dừng dứt.

24. Cung Đại Phúc Kim Cang

Khi tôi tiến nhập vào cõi trời thứ nhất của Tứ thiền là Phúc Sinh Thiên, tôi bất ngờ phát hiện ra một bí mật lớn, bí mật lớn này khiến tôi kinh ngạc dị thường.

Thì ra, Phúc Sinh Thiên và Đâu Suất Thiên có rất nhiều điểm tương đồng. Phúc Sinh Thiên ngoại viện - là nơi thiên nhân sống, thiên đại phúc báo vô lượng, nhưng cũng có thời hạn, khi đến lúc thì cũng đến đi trong lục đạo. Phúc Sinh Thiên nội viện - là thiên đại phúc báo bất động địa, đại phúc vĩnh cửu, nội viện có cung Đại Phúc Kim Cang.

Ý tôi muốn nói rằng, Phúc Sinh Thiên có Phúc Sinh Thiên bình thường, và cũng có Phúc Sinh Thiên huyền bí vi diệu. Phúc Sinh Thiên bình thường là cảnh giới của thiên nhân đại phúc. Phúc Sinh Thiên huyền bí vi diệu là cảnh giới của Bồ Tát đại phúc.

Tại cung Đại Phúc Kim Cang, tôi đã gặp vị Bí Mật Chủ là Kim Cang Tát Đỏa, điều này càng khiến tôi há hốc mồm vì kinh ngạc. Tôi hỏi: ”Kim Cang Tát Đỏa (Bồ Tát), vì sao ngài lại ở Phúc Sinh Thiên?” Bồ Tát đáp: ”Vì xả!” Tôi hỏi: ”Vì sao Phúc Sinh Thiên có cung Đại Phúc Kim Cang hào hoa tráng lệ như thế này?” Bồ Tát đáp: ”Vì xả mà sinh phúc!” Tôi không hiểu lắm nên hỏi: ”Tại cõi trời đầu tiên của Tứ thiền này, vì sao có Đại Bồ Tát cư ngụ, có thể vĩnh hằng không đọa?” Bồ Tát đáp: ”Trong lục đạo, Địa Tạng Bồ Tát ở địa ngục có tịnh thổ Thúy Vi, Di Lặc Bồ Tát ở Đâu Suất Thiên có tịnh thổ Di Lặc, Bạch Mi La Hán ở nhân gian có tịnh thổ Thâm Mật, v.v… Thử hỏi, ở đâu không có tịnh thổ chứ?” ”Sao người đời không biết?” Bồ Tát đáp: ”Vì là con mắt thô.”

Kim Cang Tát Đỏa (Bồ Tát) dẫn tôi vào trong cung Đại Phúc Kim Cang. Tôi vừa vào thì sửng sốt. Cung Đại Phúc Kim Cang đúng là sự huyền bí của trời đất biến hóa vô tận, không có cách nào dùng bút mực để miêu tả được. Khí điều chuyển hàng nghìn hàng vạn. Cao rộng dị thường. Lộng lẫy hoa lệ, quang minh chính đại. Siêu đẳng chưa từng có.

Tôi vừa bước vào chỉ biết rằng nơi đây chính là thần của tạo hóa, chính là tiên cảnh mộng huyễn, chính là ráng mây biến hóa kỳ ảo, chính là hoành tráng không gì bì kịp, chính là xuất sắc vô cùng, chính là tuyệt vời vô biên, thật sự khiến tôi không ngớt phấn khích!

Tôi hỏi Bồ Tát: ”Chủ nhân của cung Đại Phúc Kim Cang là ai?” Bồ Tát đáp: ”Kim Cang Xả Bồ Tát!” ”Chưa từng nghe đến?” ”Ngài có thể xả không?” - Bồ Tát hỏi. ”Tôi có thể xả.” ”Ngài có thể thiền định không?” - Bồ Tát hỏi. ”Tôi có thể thiền định.” ”Ngài có thể kiên cố như kim cương không?” - Bồ Tát hỏi. ”Có thể.” ”Ngài chính là chủ nhân, Bí Mật Chủ của cung Đại Phúc Kim Cang.” - Bồ Tát nói. Tôi hỏi: ”Chủ nhân của cung Đại Phúc Kim Cang chẳng phải là Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tâm sao?” ”Ngài là Bí Mật Chủ, ta cũng là Bí Mật Chủ.” - Bồ Tát nói. Tôi đại ngộ.

Ở Phúc Sinh Thiên, tôi đã phát hiện ra rất nhiều bí mật, những bí mật này tuyệt đối không phải là những gì mà người tu hành bình thường có thể biết được. Tôi thấy, chỉ có hành giả tu tứ thiền bát định, đến được Phúc Sinh Thiên rồi thì mới có thể biết được, còn không thì có lẽ cũng không chắc đã hiểu được.

Tại đây, tôi xin hỏi thánh đệ tử, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tại Phúc Sinh Thiên phát hiện ra bí mật, xin hỏi bí mật lớn nhất rốt cuộc là bí mật gì?

25. Tìm hiểu về thiên nhân ở Phúc Ái Thiên

Cõi trời thứ hai của Tứ thiền gọi là Phúc Ái Thiên. Thiên nhân ở cõi trời này có thể xả, biết thanh tịnh, vì thế có được đại phúc vô thượng, đại phúc của họ cũng rất dài lâu.

Cái gọi là xả ở đây là khổ lạc đều có thể xả, đã đạt đến cảnh giới không khổ không vui. Cái gọi là thanh tịnh ở đây là ngay cả đến niệm thanh tịnh cũng xả bỏ, có thể nói là vô tịnh vô cấu.

Tôi đã đến cõi trời thứ hai của Tứ thiền - Phúc Ái Thiên, gặp một vị là Liên Hoa Trọng Quân. Ông ấy vốn là Đạo gia, sau đó quy y tôi, học cách quán chữ “Ah”, nhưng chưa xả bỏ công pháp Đạo gia, tu thiền nhập định. Sau khi Liên Hoa Trọng Quân viên tịch đã đến cõi trời thứ hai của Tứ thiền.

Ông ấy nói với tôi Đạo gia tu pháp Nguyên Quân: ”Nhất thân chi chủ tâm nguyên quân của toàn thân, tả hữu Thanh Long Can Nguyên Quân, hữu hữu Bạch Hổ Phế Nguyên Quân, tiền hữu Chu Tước Thận Nguyên Quân, hậu hữu Huyền Vũ Khổng Nguyên Quân, Hảo Dật Hảo Lạc Tì Nguyên Quân, Hảo Du Hảo Đãng Hồn Nguyên Quân, Hảo Động Hảo Tĩnh Phách Nguyên Quân, minh chi vu Mục Nhãn Nguyên Quân, thính chi vu Thanh Nhĩ Nguyên Quân, văn chi vu Vị Tì Nguyên Quân. Hiếu Thị Hiếu Phi Khẩu Nguyên Quân, Hiếu Thiện Hiếu Ác Thiệt Nguyên Quân, tam thập lục bộ Xỉ Nguyên Quân, Sơn Lâm Thụ Mộc Phát Nguyên Quân, Cửu Giang Bát Hà Tràng Nguyên Quân, Ngũ Hồ Tứ Hải Can Nguyên Quân, Tào Khê Lộ Thượng Quan Nguyên Quân, Ngũ Tạng Cung Trung Đảm Nguyên Quân, Năng Phù Năng Thanh Thủ Nguyên Quân, Năng Trầm Năng Trọc Túc Nguyên Quân, Hảo Hòa Hảo Hợp Ý Nguyên Quân, Thái Cực Vị Phán Hỗn Nguyên Quân, Phụ Mẫu Vị Sinh Khí Nguyên Quân, Bát Vạn Tứ Thiên Mao Nguyên Quân, Nguyên Tinh Nguyên Khí Nguyên Thần Quân. Ngô thân sở thuộc tận quy chân, luyện khí vi thần bạt đoạn nghiệp căn, siêu xuất thiên ngoại tràng nhập hư không, hữu nạn tức hộ, hữu sự lai trình, như ý biến hóa, ứng hậu lai lâm. Ngô phụng Thái Cực Thượng Đế luật lệnh.”

🌟

Ông ấy nói: ”Tu pháp Nguyên Quân cũng tương đương với pháp thanh tịnh.” Tôi nghĩ một lúc rồi nói: ”Pháp này tương đương với nội thời luân của pháp Thời luân trong Mật giáo, cũng tương đương với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của Phật gia. Đóng lục tặc lại thì cũng tương đương với thanh tịnh rồi.” Tôi hỏi ông ấy: ”Có thể xả không?” Ông ấy đáp: ”Đóng lại tức là xả!” ”Khổ lạc thì sao?” ”Không khổ không vui.” Tôi hỏi Liên Hoa Trọng Quân: ”Thiên nhân đến cõi trời thứ hai của Tứ thiền đều là tu pháp Nguyên Quân sao?” Ông ấy đáp: ”Không phải, Đạo gia có rất nhiều phương pháp tu tinh, khí, thần. Tôi tu pháp Nguyên Quân, cộng thêm tu quán chữ Ah, thế là đến được cõi trời thứ hai của Tứ thiền. Tôi cho rằng Phúc Ái Thiên này đã là đỉnh cao nhất rồi, lên cao nữa thì không còn nữa.” Tôi nói: ”Thiên kiến. Cảnh giới của Phật, Bồ Tát, A La Hán vẫn còn chưa đến cơ mà!” Liên Hoa Trọng Quân nói: ”Thiên nhân ở Phúc Ái Thiên cho rằng cõi trời này đã đến đỉnh rồi, cho dù có đi lên nữa thì chỉ có Quảng Quả Thiên và Vô Tưởng Thiên, Quảng Quả Thiên cũng là quả mà Phúc Ái thiên nhân đắc thắng được. Vô Tưởng Thiên toàn là Phúc Ái thiên nhân đang ngủ ở đó, hễ ngủ thì là nửa kiếp, hễ tỉnh thì cũng là nửa kiếp, ngủ hay tỉnh thì đều vô tưởng, cho nên tôi không muốn lên cao tiếp nữa. Phúc Ái Thiên này đã là cảnh giới cao nhất rồi.” Tôi hỏi: ”Quảng Quả Thiên có ai ở đó?” ”Hòa thượng Quảng Hóa.” Tôi hỏi: ”Vô Tưởng Thiên có ai ở đó?” ”Chân nhân Trần Hy Di.” Tôi hỏi: ”Họ ở đó làm cái gì?” Liên Hoa Trọng Quân đáp: ”Ăn không ngồi rồi.”

Tôi nói ra đại ngộ của mình, thì ra nhập vào cõi trời thứ hai của Tứ thiền có hiện tượng “ngoan không” [cố chấp vào cái Không] xuất hiện. Nhập vào cảnh giới này chính xác là đường rẽ, trụ mãi trong cõi trời này dù sống cũng như chết, dù có phúc lớn nhất cũng không thể lợi người lợi trời, thiên nhân kiểu này chẳng phải là rác rưởi sao?

26. Quảng Quả Thiên khiến người ta kinh ngạc

Tôi đã đến Quảng Quả Thiên - cõi trời thứ ba của Tứ thiền. Tôi giật nảy mình, thì ra nơi đây giống như chợ bán thức ăn. Ý tôi nói chợ bán thức ăn là vì con người nơi đây thật sự rất đông, thì ra tiên nhân đều ở cõi trời này.

Tôi nhìn thấy những tiên nhân trong khu rừng khổ hạnh thời đại Phật Đà - tiên nhân Bạt Già ở Quảng Quả Thiên. Tôi cũng nhìn thấy tiên nhân A La La Già ở thời đại Phật Đà cũng đang ở Quảng Quả Thiên. Tôi lại nhìn thấy tiên nhân Già Lan ở thời đại Phật Đà ở Quảng Quả Thiên.

Ở Quảng Quả Thiên còn có: 1. Phú Lan Na Già Diệp. 2. Mạt Già Lê Câu Xa Xa Lê. 3. San Xà Dạ Bì La Tri. 4. A Kì Đa Sí Xả Khâm Bà La. 5. Già La Cưu Đà Ca Chiên Diên. 6. Ni Lô Đà Nhã Đề Tử. Vân vân.

Hầu hết những tiên nhân tu khổ hạnh thời đại Phật Đà đều đến Quảng Quả Thiên. Nhà cửa ở Quảng Quả Thiên là cung điện, thất bảo trang nghiêm.

Những tiên nhân này khi còn ở nhân gian, họ bỏ ăn, bỏ mặc cho chết, bỏ thân, bỏ y áo, bỏ miệng, bỏ người, tức là tự bỏ đói, quăng mình xuống vách núi, đi vào lửa, lõa thể, không nói, học làm trâu chó… Những tiên nhân này ở nhân gian tu khổ hạnh, đắc được quả thù thắng, kết quả là họ đều sống tại Quảng Quả Thiên.

Tôi đi qua mấy tòa cung điện lớn, phát hiện ra không có tiên nhân nào cư trú. Tôi hỏi thăm hòa thượng Quảng Hóa: ”Những cung điện này là…?” Hòa thượng Quảng Hóa đáp: ”Những cung điện trống này là đợi một số người tự xưng là tu hành giả đến để an cư.” ”Ai cơ?” Hòa thượng Quảng Hóa nói: ”Gian này là Hình đại sư sẽ đến ở, gian kia là Vi đại sư sắp đến ở. Gian tiếp nữa là Chân đại sư sắp đến ở, còn gian kia nữa đang chờ Thắng đại sư sắp đến ở.”

Miệng tôi há hốc. Hòa thượng Quảng Hóa nói: ”Họ đều sống tại Quảng Quả Thiên.” Tôi hỏi: ”Còn những người khác?” Hòa thượng Quảng Hóa nói: ”Còn có ba đệ tử nhà tục nữa, đều xưng là số một. Một người chính là cư sĩ Thỉ, một người là cư sĩ Chí. Còn một người là nữ cư sĩ Khinh, họ đều sống tại Quảng Quả Thiên. Tôi nghe xong thì suýt ngất xỉu. ”Vì sao lại như vậy?” Hòa thượng Quảng Quả nói: ”Những người xuất gia hoặc cư sĩ tại gia này đều có phúc đức, cũng có xả niệm, đáng tiếc là họ đều chấp vào nhất đế trong đó, không thể chứng nhập cái huyền bí vi diệu của Phật, vì tu chứng nhưng trụ lại, nên đều đến Quảng Quả Thiên.” ”Ông đã hiểu được đạo lý này, vì sao ông cũng lên ở Quảng Quả Thiên này?” ”Vì nói xấu ngài!” ”Tôi?” ”Vì tôi phỉ báng ngài, cho nên tôi cũng lưu lại Quảng Quả Thiên.” Tôi hỏi hòa thượng Quảng Hóa: ”Gần đây tôi có một đệ tử cũng phỉ báng tôi, không biết tương lai người này sẽ thăng về cõi trời nào?” Hòa thượng Quảng Hóa cười: ”Người đó à! Người đó thì chẳng có cõi trời nào cả, căn bản đó là một người thế tục, phạm nghiệp chướng rất sâu, có mà đi ăn đồng ăn sắt. Địa ngục có phần, thiên đường vô danh.” ”Quảng Quả Thiên cũng không phải dễ mà lên được như vậy, tiên nhân ở nơi này toàn là các hành giả chân tu, thiền định lại có thể xả, chỉ là lúc sinh thời, họ bám chấp vào dị đế, tự cho rằng đó là đệ nhất nghĩa đế, cho nên mới sinh tại Quảng Quả Thiên tối thắng quả này.”

Tôi hỏi mọi người, các thánh đệ tử, mọi người đoán thử, người được ẩn danh trong bài viết này là ai?

27. Vô Tưởng Thiên khiến người ta hoang mang

Tôi đã đến Vô Tưởng Thiên - cõi trời thứ tư của Tứ thiền. Lúc này, tôi hoang mang rồi, tôi mê muội rồi.

Tôi đã gặp được chân nhân Trần Hy Di, chân nhân Tôn Tư Mạc, chân nhân Uyên Tĩnh, v.v… Chân nhân (thiên nhân) ở Vô Tưởng Thiên, tôi cho rằng họ ở trạng thái “bán niết bàn”, bởi vì họ cho rằng mình đã đạt đến đỉnh rồi, cho rằng đó thật sự là niết bàn rồi, cho rằng đó là tịnh thổ Thường Tịch Quang rồi.

Thiên nhân ở nơi đây đều cho rằng Vô Tưởng Thiên là đỉnh trời cao nhất vô thượng, lên cao hơn không còn gì nữa. Họ giống như chết! Họ ngủ rất sâu, một khi đã ngủ là nghìn nghìn vạn vạn năm, hễ ngủ là hết năm trăm đại kiếp. Họ giống như cây khô! Họ giống như tro nguội! Tâm của họ đều tắt rồi! Họ - tất cả đều không có! Họ - tất cả đều trống rỗng! Khi ngủ thì như chết, khi tỉnh thì như cái xác không hồn.

Trong kinh điển Phật có ghi chép: Tại nhân gian kiếp này tu Vô tưởng định, sau khi chết sẽ thăng lên Vô Tưởng Thiên, vô tưởng định là nhân, Vô Tưởng Thiên là quả. Thiên nhân của Vô Tưởng Thiên chán ghét khổ chán ghét lạc, chuyên tu pháp Xả tâm, cho đến khi đạt đến thân tâm đều diệt, chứ không phải là không sinh không diệt. Hiện tượng này sẽ là nửa chết nửa sống, chết 500 kiếp, sống 500 kiếp, chết giống như ngủ mà sống thì như chẳng có gì. Họ chán ghét mọi thứ có. Họ yêu say đắm vô tưởng, nên sinh tại Vô Tưởng Thiên.

🌟

Cá nhân tôi cho rằng, cái gọi là cảnh giới “ngoan không” cũng chính là hiện tượng này.

Tôi đã gặp Trần Hy Di (tiên nhân Trần Bác), ông ấy đang ngủ một giấc dài 3000 năm. Người ngủ ngắn là 500 năm. Tôi thu thập được một bức tranh Hoa Sơn khi Trần Hy Di đang ngủ say. Trên đó đề: ”Để chữa bệnh hư hao tinh lực, đầu gối lên tay phải, tay trái nắm lại để ở bụng, đưa lên đưa xuống ma sát với chân phải. Tại ống quyển nhỏ bên dưới, chân trái đè lên chân phải, dồn tư tưởng xuống dưới, điều chuyển hơi thở để tập ngủ, thu vào 32 hơi khí. Ở bụng cũng như vậy, vận khí 12 hơi, làm như vậy lâu ngày thì bệnh tự khỏi.”

Tôi lại thu thập được bức tranh tổng hợp bí quyết Hoa Sơn 12 thụy công: ”Hàng long phục hổ, phụ trợ luyện hồn phách, điều hòa chân khí, biến hóa âm dương, âm dương gặp nhau lặp đi lặp lại, tĩnh dưỡng hỏa hầu, cố thủ lò đỉnh, luyện thành linh bảo, nhốt trói lại vượn mã [kiểm soát suy nghĩ tán loạn]...

Tôi cảm thấy thụy công pháp Hoa Sơn của tiên nhân Trần Hy Di chẳng hề quá đáng, nhưng vì sao lại đến Vô Tưởng Thiên? Tôi hỏi: ”Trần tiên nhân, vì sao dừng lại ở Vô Tưởng Thiên?” Trần đáp: ”Tất cả mộng huyễn, tu mọi không, không còn mọi tưởng, nên đến Vô Tưởng Thiên.” ”Thế còn Hoa Sơn thụy công?” ”Từ có đến không.” ”Sao không tiến tiếp?” Trần đáp: ”Ngay cả tiến tiếp cũng không nghĩ đến!” ”Vô Tưởng Thiên thế nào?” ”Cũng chẳng thế nào cả!” ”Ngủ dài 3000 năm thế nào?” ”Cũng chẳng thế nào cả!”

Tôi muốn hỏi tiếp, nhưng Trần Hy Di đã nằm xuống, nhập vào trong vô tưởng mộng, khi tỉnh dậy, không biết nhân gian đã là triều đại nào rồi.

Tôi hết sức hoang mang: Tu hành tu đến khi tất cả đều trống rỗng, tất cả đều không, tất cả đều là mộng, tất cả đều là huyễn, tất cả vô vi, tất cả ngủ sâu, rốt cục có lợi ích gì? Có lợi ích gì chứ?

Tại đây, thử hỏi thánh đệ tử, đến Vô Tưởng Thiên, bạn có thể nghĩ cái gì?

28. Có phiền não tức là vô phiền não

Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: ”Trên đời này, phàm phu thế tục bình thường, đối với tất cả tai nạn trên đời, đủ loại khổ nạn mà mình phải chịu, đều hết sức lo sợ, cho rằng không có tai họa mới là hạnh phúc.”

Diêu Trì Kim Mẫu nói: ”Liên Sinh Thánh Tôn, kể từ khi ngài học Phật đến nay, chẳng phải là ngày nào cũng hô lên “đẩy lùi tất cả tai nạn” sao? Và tất cả tai nạn có thể đã từng được đẩy lùi, nhưng tai nạn của ngài, cơn sóng này chưa qua, cơn sóng khác đã ập tới, có khi ba, bốn cơn sóng cùng ập đến, khiến ngài đau khổ không thể chịu nổi!” Tôi nói: ”Đúng vậy!”

Diêu Trì Kim Mẫu nói: ”Trong pháp nhãn của Bồ Tát Đại thừa, biết rằng, trí huệ không phân biệt hiểu rằng mọi pháp đều không. Thế nào là mọi pháp đều không? Cũng tức là tất cả tai nạn cũng không phải là tất cả tai nạn, tất cả khó khăn cũng không phải là tất cả khó khăn, tất cả chướng ngại cũng không phải là tất cả chướng ngại, tất cả phiền não cũng không phải là tất cả phiền não.”

Diêu Trì Kim Mẫu nói: ”Hành giả nhị thừa sợ tai nạn phiền não giống như sợ rắn độc thú dữ vậy, chỉ muốn pháp thanh tịnh, tu đến cuối cùng, trở thành thiên lệch về không, khô, tịch. Còn Bồ Tát Đại thừa hợp ánh sáng lẫn với bụi trần, tương đồng với phiền não của phàm phu, nhưng hiểu rõ trí huệ Không, phiền não tức phi phiền não, phiền não và bồ đề không phải là hai tính!”

Tôi nói: ”Bát nạn là vô nạn!” ”Khổ tức phi khổ!” ”Phiền não tức phi phiền não!”

Diêu Trì Kim Mẫu nói: ”Phật pháp vốn không chấp hai, như vậy, mọi pháp của mười pháp giới, tri kiến tất cả tự mình giải thoát, trong giải thoát cũng là không giải thoát, không phải thật, cũng không phải là giả.”

Tôi nghe xong thì đại ngộ. Thế là, tôi tiến nhập Vô Phiền Thiên của Ngũ Bất Hoàn Thiên, đây là cõi trời thứ năm của Tứ thiền, cõi trời này, bốn cõi trời trước của Tứ thiền, đều không nhìn thấy. Bên dưới Ngũ Bất Hoàn Thiên này, bốn cõi trời Tứ thiền là không nhìn thấy được, đó là cửu phẩm tập khí toàn bộ diệt tận, khổ lạc cùng quên, trụ trong tâm xả, an lập chỗ ở.

Ngũ Bất Hoàn Thiên đều là nơi ở của Thánh nhân. Dưới Ngũ Bất Hoàn Thiên, có phàm phu tu định, có Thánh nhân tu định, dù cùng là xả cụ thiền, nhưng Thánh hiền biệt tu tịnh lự, cho nên mới vào Ngũ Bất Hoàn Thiên.

Tôi thấy Vô Phiền Thiên - cõi thứ nhất trong Ngũ Bất Hoàn Thiên là như thế này: Vô thượng Thánh giả thiền định địa Diệu cảnh nơi ấy ít người hay. Khắp nơi đều là khói ráng, khắp nơi đều là mây lành, khắp nơi đều là ánh sáng cát tường, khắp nơi đều là ánh sáng thanh tịnh, khắp nơi đều thơm tho, khắp nơi đều dễ chịu. Toàn là đạo đức, toàn là kim đơn, toàn là quang hoa, toàn là Thánh quả, toàn là Thánh nhân, toàn là hiền nhân. (Ở đây chỉ cảnh giới thiền định.)

Vô Phiền Thiên này có ý nghĩa là ý vui, không có mọi phiền não, không có mọi phiền não này là nói đến quán phá vỡ tất cả phiền não, hóa tất cả phiền não thành không phiền não.

Tôi gặp một thiên nhân ở Vô Phiền Thiên. Tôi hỏi: ”Tôn tính đại danh là gì?” Thiên nhân đáp: ”Tôi là Liên Bình đệ tử của Liên Sinh Thánh Tôn!” ”A! Sao anh lại ở đây?” ”Tôi hiểu thấu phiền não tức là ý nghĩa của bồ đề! Vì thế mà sống ở Vô Phiền Thiên. Tôi vốn bị bệnh tật giày vò rất lâu, bởi thế mà thấu hiểu.” ”Sau khi thấu hiểu phiền não thì thế nào?” Đáp: ”Bất động vô vi.”

Tại đây, tôi muốn hỏi thánh đệ tử, cái gọi là “bất động vô vi” chẳng lẽ không phải là không cố gắng làm một việc gì sao? Nếu không phải là không cố gắng làm một việc gì, vậy thì là làm cái gì? Thử trả lời bằng hai chữ xem sao.

29. Tự biết chúng sinh đều là chữ “Hum”

Phật Thích Ca Mâu Ni ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề. Lập tức ngài muốn nhập niết bàn. Vì sao? Phật nói: ”Ta đã chứng pháp thậm thâm vi diệu, tối cực tịnh tĩnh, khó thấy khó ngộ, không phải là điều mà tư duy phân biệt có thể hiểu được, duy có Chư Phật mới có thể biết, vì vậy ta im lặng.” Đại Phạm Thiên Vương khuyên thỉnh Phật Đà thuyết pháp: ”Quán chúng sinh trên đời, phần nhiều là hạng ngoại đạo, sống khắp nơi trong đất nước lửa gió không khí, nhìn thấy tà kiến lại cho là chính đạo. Nhưng những chúng sinh ấy, dù tu tà đạo, có người nên độ thì nay cần độ. Chỉ mong Thế Tôn vì những chúng sinh này mà chuyển pháp luân.” Sau đó, nhờ Đại Phạm Thiên Vương khuyên thỉnh mà Phật Thích Ca Mâu Ni mới thuyết pháp chuyển pháp luân.

Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm. Cuối cùng ngài nói: ”Tu Bồ Đề, ông chớ bảo rằng Như Lai có làm, ta xem mọi thuyết pháp của mình như chưa từng thuyết pháp, là vì sao? Nếu có người nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật.” ”Người thuyết pháp, không pháp nào có thể nói, thì gọi là thuyết pháp.” Tôi hỏi mọi người: ”Vì sao không pháp nào có thể nói?”

🌟

Khi tôi đến Vô Nhiệt Thiên - cõi trời thứ năm của Tứ thiền. tôi đã hoàn toàn hiểu thấu hai vấn đề này. Sư phụ của tôi Thubten Dhargye viết cho tôi một bài kệ, trong đó có một câu là: “Tự biết chúng sinh đều là chữ Hum.” Tôi hỏi: ”Nghĩa là gì?” Sư phụ đáp: ”Tự mình tìm hiểu đi!”

Sau này, tôi ngộ ra, ý nghĩa của pháp sinh, tất cả đều là do Phật hóa sinh, không có quan hệ gì đến những thứ bẩn thỉu ở thế gian, hoàn toàn tự pháp sinh ra, hiểu được điều này thì sẽ đến được Vô Nhiệt Thiên.

Tôi ở trong Vô Nhiệt Thiên của Ngũ Bất Hoàn Thiên gặp một đệ tử, pháp danh của người này là Liên Hoa Thiết Vận. Tôi nói: ”Anh ở đây à?” Anh ấy đáp: ”Rời xa nóng giận, chỉ có một mình!” Tôi hỏi: ”Vì sao rời xa nóng giận?” Thiết Vận đáp: ”Tự biết chúng sinh đều là chữ Hum.” Ha! Ha! Ha! Hiểu rồi. Vì sao Phật không thuyết pháp? Vì sao Phật nói ngài không hề thuyết pháp? Đáp án chính là: “Tự biết chúng sinh đều là chữ Hum.”

🌟

Liên Hoa Thiết Vận là một đệ tử Chân Phật Tông kiền thành, tu pháp không gián đoạn, sau khi viên tịch, anh ta tự biết sẽ được A La Hán tiếp dẫn, dạy anh: ”Vô sinh.” ”Ứng cúng.” ”Sát tặc.” ”Cắt đứt 81 loại suy nghĩ nghi hoặc của tam giới.” Vì ngộ ra “tự biết chúng sinh đều là chữ Hum” nên anh đến Vô Nhiệt Thiên.

Giờ đây: Liên Hoa Thiết Vận ở tại Ngũ Bất Hoàn Thiên, dần dần đoạn tuyệt với 72 loại tư tưởng nghi hoặc của tám địa Sắc giới và Vô sắc giới, sau này chắc chắn sẽ tu thành chính quả A La Hán.

Tại Vô Nhiệt Thiên, tôi đã ngộ ra, chúng sinh đều có thể thành Phật, cho nên, tôi từng nói thế này, đừng sợ, chúng sinh đều có thể thành Phật, bởi vì chúng sinh đều do Phật hóa ra. Bạn đã hiểu chưa?

30. Hằng kiến Phật tính đến Thiện Kiến Thiên

Thiện Kiến Thiên là gì? Đáp: ”Thập phương thế giới Diệu kiến viên trừng Hằng kiến Phật tính Chương hiển quả vị.”

Ở đây, tôi nói một công án trước: Đời Tần, thiền sư Bạt Đà hỏi thầy Sinh Pháp: ”Ông giảng kinh luận gì?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Kinh Đại Bát Nhã.” Thiền sư hỏi: ”Yếu nghĩa của Sắc Không là gì?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Những thứ nhỏ bé tụ lại gọi là Sắc, những thứ nhỏ bé không có tự tính gọi là Không.” Thiền sư hỏi: ”Những thứ nhỏ bé không tụ lại, thì được gọi là gì?” Thầy Sinh Pháp ngẩn ra không trả lời được.

Bây giờ tôi hỏi thánh đệ tử: ”Những thứ nhỏ bé không tụ lại, thì được gọi là gì?” Mọi người có biết không?

🌟

Lúc này, thiền sư Bạt Đà cầm gậy như ý lên, hỏi: ”Còn nhìn thấy không?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Thấy.” Thiền sư lại hỏi: ”Thấy cái gì?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Thấy gậy như ý trong tay thiền sư.” Thiền sư quăng gậy như ý xuống đất hỏi: ”Thấy không?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Thấy.” Thiền sư hỏi: ”Thấy cái gì?” Thầy Sinh Pháp đáp: ”Thấy gậy như ý trong tay thiền sư rơi xuống đất.” Thiền sư quở trách thầy Sinh Pháp: ”Ta thấy kiến giải của ông chưa vượt qua hạng người bình thường, làm sao lại lấy cái tên vang động vũ trụ, hưởng đại danh này chứ.” Thiền sư phủi áo bỏ đi.

🌟

Phần thứ hai hỏi đáp về gậy như ý này, câu trả lời của thầy Sinh Pháp theo hạng người bình thường. Thế nào mới là theo hạng Thánh nhân? Tại đây, tôi xin mời Thánh tử trả lời.

Gợi ý quan trọng: Xin hãy nghĩ về chữ “nhân”. Đừng nghĩ về chữ “quả”.

Như vậy, cái kiến của bạn, là hằng kiến, nếu như ngộ được điều này, chắc chắn nhập vào Thiện Kiến Thiên của Ngũ Bất Hoàn Thiên.

🌟

Tôi ở trong Thiện Kiến Thiên của Ngũ Bất Hoàn Thiên, gặp một đệ tử Chân Phật Tông là Liên Hoa Truyền Chính. Tôi hỏi: ”Sao anh lại ở đây?” Đáp: ”Hằng kiến.” Hỏi: ”Hằng kiến cái gì?” Đáp: ”Bản lai diện mục.” ”Hiểu rõ không?” ”Hiểu rõ.” ”Thế nào là hiểu rõ thật?” Đáp: ”Tùy hữu.”

Liên Hoa Truyền Chính tu Tứ thiền bát định, đã đắc vô lậu trí, có được chính thụ lực, đã kiến chứng Phật tính, cho nên sống tại Thiện Kiến Thiên của Ngũ Tịnh Cư Thiên.

Bây giờ tôi hỏi thánh đệ tử, bạn có thể hằng kiến không? Hằng kiến cái gì?

31. Tôi đã đến Thiện Hiện Thiên

Tu hành Mật giáo, chúng ta bắt đầu từ thấy ánh sáng minh điểm, cho đến khi ánh sáng minh điểm trở thành một chuỗi kim cương, tiếp theo là nhiều chuỗi kim cương biến thành một tấm màn kim cương.

Hành giả Mật giáo từ trong tấm màn kim cương nhìn thấy Phật quốc tịnh thổ hiện lên. Hành giả Mật giáo từ trong tấm màn kim cương nhìn thấy Phật hiện lên. Hành giả Mật giáo cho rằng: đây là thiện hiện. [hiện lên điều tốt lành]

Vào lúc 25, 26 tuổi, tại Ngọc Hoàng Cung, tôi đã được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn. Sau đó tôi: Nhìn thấy tiền kiếp. (Liên Hoa Đồng Tử) Nhìn thấy tịnh thổ. Nhìn thấy Phật. Đó cũng là thiện hiện.

Một người tu hành, trong Tứ thiền bát định, tất cả chướng ngại trừ bỏ hết, tiến vào cảnh giới cực vi diệu, hiển hiện Phật quốc tịnh thổ trong suốt không gì sánh bằng, hiển hiện tinh kiến [thấy được những thứ tinh hoa], hiển hiện Phật không gặp trở ngại nào, đây chính là thiện hiện.

Cá nhân tôi càng nghĩ rằng, Thiện Hiện Thiên có ý nghĩa của việc “vì chúng sinh thuyết pháp”, đến được Thiện Hiện Thiên thì đã nhìn thấy cái cực vi diệu của Phật lý, nên phát bồ đề tâm, thuyết pháp vì chúng sinh.

🌟

Tôi đã đến Thiện Hiện Thiên, gặp được thiền sư Bảo Chí thời đại Lương Vũ Đế, khiến tôi nghĩ đến một công án. Thiền sư Bảo Chí hỏi một Phạm tăng: ”Vì nghe tôn giả gọi ta là đồ nhi, từng thấy ta sát sinh sao?” [đồ nhi: người giết mổ] Phạm tăng đáp: ”Thấy.” Thiền sư trả lời: ”Có thấy cái thấy, không thấy cái thấy, không có không không thấy. Nếu có thấy cái thấy là phàm phu thấy, không thấy cái thấy là Thanh Văn thấy, không có không không thấy là ngoại đạo thấy, không biết tôn giả là cái thấy nào?” Phạm tăng hỏi ngược lại: ”Ông có cái thấy kiểu này không?” Thiền sư Bảo Chí buông lời nói: ”Cả ngày thắp hương nhóm lửa, không biết thân là đạo tràng.” Lại nói: ”Đại đạo chỉ nằm trước mắt, người đời trước mắt khó thấy, muốn biết bản thể thật của đại đạo, không tách rời thanh sắc ngôn ngữ.”

🌟

Tôi viết ra công án này, mục đích chính là nói rằng thiền sư Bảo Chí đã phát bồ đề tâm, đang vì chúng sinh thuyết pháp. ”Thân là đạo tràng.” ”Thanh sắc ngôn ngữ là đạo tràng.” Ở đây đã thể hiện rõ: “Phật tính.” Có thấy cái thấy - phàm phu thấy. Không thấy cái thấy - Thanh Văn thấy. Không có không không không thấy - ngoại đạo thấy.

Thiền sư Bảo Chí đúng là đã phát khởi bồ đề tâm quảng đại, có thể nói là “trực chỉ” rồi. Bây giờ tôi hỏi ngược lại thánh đệ tử, cái mà Phạm tăng này nhìn thấy là cái thấy gì?”

🌟

Tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đã đến Thiện Hiện Thiên, đây là cõi trời thứ tư của Ngũ Bất Hoàn Thiên của Tứ thiền, tất cả mọi thứ thanh khiết đều hiển hiện, không có cái không thấy.

Tôi hỏi: Cái hiển này là hiển thế nào? Cái thấy này là thấy thế nào?

Tại Thiện Hiện Thiên, tôi đã gặp Liễu Minh Hòa Thượng, trong lòng tôi hết sức vui mừng, Liễu Minh Hòa Thượng nói với tôi: ”Sau khi con nhìn thấy 28 cõi trời của tam giới, nên mau chóng độ hóa chúng sinh, lần lượt viết ra về 28 cõi trời, có thể lợi ích trời người, đây cũng là công đức.”

32. Chùa Đại Lôi Âm

Từng có đệ tử hỏi tôi: ”Ứng hóa tại Ta Bà của Phật Đà, sau khi Phật niết bàn, thân của Phật ở đâu?” Câu hỏi này là câu hỏi chung của rất nhiều Phật tử, Phật tử cho rằng sau khi Phật niết bàn, nhất định là ngài đã đến tịnh thổ của Phật rồi. Thế nên có người cho rằng: 1. Phật ở tại Vô dư niết bàn. 2. Phật ở tại Hữu dư niết bàn. 3. Phật ở bên ngoài pháp thân Phật. 4. Phật không tự mình ngưng lại ở một chỗ. 5. Phật chuyển thế đầu thai. 6. Phật ở tại Phật cảnh nơi bất động. v.v…

Có đại sư trả lời: ”Phật Đà ở chỗ nào? Chỉ có giữa Phật với Phật mới biết, người bình thường chỉ nghĩ đoán, ai có thể thật sự biết được chứ!” Có đại sư trả lời: ”Phật Đà ở chỗ nào? Bì Lư Hoa Tạng, có thể dạo chơi khắp nơi, người thế tục làm sao biết được.” Có đại sư trả lời: ”Phật Đà ở chỗ nào? Phật Đà - người đã ngộ ra ngã pháp đều không thì không có nơi nào để trụ lại, lấy đâu ra chỗ?” Có đại sư trả lời: ”Phật Đà ở chỗ nào? Ý ở chỗ nào thì ở chỗ đó, tức là ở chỗ của ngươi đó.” Có đại sư trả lời: ”Phật Đà ở chỗ nào? Đáp án là ở ngoài tịch diệt, nhưng cũng khởi lên hàng vạn sự hóa hiện.” Có đại sư trả lời: ”Các kinh nói rằng Phật thường trụ, hoặc nói rằng sau khi Phật diệt, thường tức là không diệt, diệt tức là không thường. Rời xa mọi tướng, nên gọi Phật Đà, làm gì có xuất thế nhập diệt thật, thấy được rằng không có cái gì ở tại nhân duyên, vì thế Phật Đà ở ngoài nhân duyên, như nước sạch vô tâm, không hiện tượng nào là không hiện lên.”

Có đại sư trả lời: ”Sinh diệt thì diệt dừng, tịch diệt là thật. Là đệ nhất nghĩa đế.” Có đại sư trả lời: ”Nhật nguyệt trên bầu trời, vũ trụ được chiếu sáng, người mù không thấy, chỉ là một đống người đang nói lung tung.” Có đại sư trả lời: ”Pháp thân Phật Đà vốn từ vô sinh, làm gì có nơi nương tựa? Linh minh bất muội, liễu liễu thường tri [linh minh không mê muội, rõ ràng thường biết], không đến từ nơi nào, cũng không đi về nơi nào.” Có đại sư trả lời: ”Phật Đà niết bàn, tự do không ràng buộc, hướng về nhậm vận, thiên thượng nhân gian tùy ý có thể hóa hiện.” ……

Tôi trả lời: ”Muốn biết Phật Đà ở đâu, đòi hỏi vô lậu trí huệ, tất cả diệu dụng, vạn hành vạn đức, thần thông quang minh, vô cấu thanh tịnh, tự nhiên sẽ biết thôi! Phật Đà viên giác đại trí, tồn tại đơn độc sáng ngời, tùy cơ mà hiện nghìn trăm triệu hóa thân.”

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Tôi đã đến cõi trời cao nhất của Sắc giới, đó là Sắc Cứu Cánh Thiên của Ngũ Bất Hoàn Thiên. Tại Sắc Cứu Cánh Thiên, tôi đã nhìn thấy chùa Đại Lôi Âm bất khả tư nghì, trang nghiêm không gì sánh bằng. Phật Đà hiển hóa báo thân Phật, đang ở ngay chùa Đại Lôi Âm thuyết pháp. Phía dưới ghế ngài ngồi toàn là các đại Bồ Tát, đại A La Hán.

Tại Sắc Cứu Cánh Thiên, tôi đã nhìn thấy vô số vô số Thánh giả đều đang nghe pháp ở chùa Đại Lôi Âm. Lư Thắng Ngạn nhỏ bé tôi đây không ngờ lại đến chùa Đại Lôi Âm, không ngờ lại đích thân nghe được Phật Đà thuyết pháp! Phật Đà tặng cho tôi phần thưởng là một hòn đá, cũng là ở chùa Đại Lôi Âm. Chùa Đại Lôi Âm ở Sắc Cứu Cánh Thiên.

Bây giờ tôi có mấy câu hỏi muốn hỏi các thánh đệ tử: 1. Vì sao Lư Thắng Ngạn có thể gặp mặt Phật Đà? 2. Lư Thắng Ngạn dựa vào cái gì mà đến được chùa Đại Lôi Âm? 3. Lư Thắng Ngạn là ai?

33. Đại Tự Tại Thiên ở cung Pháp Giới Tối Thắng

Tôi từng nói Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật), ở tại Đại Tự Tại Thiên, cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng thuyết pháp.” Có người đọc kinh điển, cho rằng: Đại Tự Tại Thiên là ngoại đạo. Cung Đại Tự Tại Thiên tức là cung Ma Ê Thủ La. Đại Tự Tại Thiên, Ma Ê Thủ La và Tha Hóa Tự Tại Thiên đều là cõi trời thứ sáu tại Dục giới. Đối với những cách nói này, tôi không dám thừa nhận.

Cũng có cách nói khác là: Cung Đại Tự Tại Thiên, tức là cung Ma Ê Thủ La Thiên, là đỉnh trời của Sắc Giới Thiên. Còn Đại Tự Tại Thiên là cõi trời mà ngoại đạo cúng tế. Đại Tự Tại Thiên thì phải vượt qua Sắc Cứu Cánh Thiên và Hòa Âm Thiên mới có thể đến được Đại Tự Tại Thiên.

Cái gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên là Thất Bất Hoàn Thiên, bởi vì cộng thêm Hòa Âm Thiên và Đại Tự Tại Thiên. Bức mandala Gohonzon của Nhật Liên Tông Nhật Bản thờ phụng tên húy của Đại Tự Tại Thiên Thiên Ma. Đối với điều này, tôi cũng không dám gật bừa.

🌟

Đại bộ phận tu hành giả có nhiều cách nói khác nhau về Đại Tự Tại Thiên, không thể có một kết luận chính xác. Còn tôi đã trải nghiệm về thể của Đại Tự Tại Thiên, cũng đã tiến vào cung Pháp Giới Tối Thắng, gặp mặt Đại Nhật Như Lai.

Cách nói của tôi là: Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật), đích thực ở tại Đại Tự Tại Thiên thuyết pháp. Đại Tự Tại Thiên không phải là cõi trời thứ sáu của Dục giới. Mà là đỉnh của Sắc Giới Thất Bất Hoàn Thiên. Đại Tự Tại Thiên này không phải là cõi trời của Thiên Ma mà con người bình thường tưởng tượng, mà là cõi tịnh thổ mà Đại Nhật Như Lai biến hiện ra, cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng chính là ở tại tịnh thổ Đại Tự Tại Thiên này. Bên trong tịnh thổ này đều là Bồ Tát địa thứ mười, cũng tức là những Bồ Tát chuẩn bị thành Phật. Thập địa Bồ Tát ở tại cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng nghe Đại Nhật Như Lai thuyết pháp.

Trên kinh điển nói rằng: ”Phàm phu cầu Phật quả, sau khi cố định tại Sắc Giới, dẫn đến sinh ra vô lậu, sau này chắc chắn sẽ sinh ở Tịnh Cư Thiên Thượng, cung Đại Tự Tại mà đắc tự tại.” Lại nói: ”Người ở cung Đại Tự Tại, Hữu Thực tịnh thổ của Tịnh Cư Thiên Thượng,… là cung điện lớn của Bồ Tát địa thứ mười.” Lại nói: ”Đại Tự Tại Thiên, vượt qua Tịnh Cư Thiên, là chỗ của thập địa Bồ Tát, vượt qua đỉnh của Sắc Giới, vì thế gọi là Đại Tự Tại, Đại Thiên Giới Chủ.”

Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật) có ba thân: 1. Pháp thân — đầy khắp pháp giới. 2. Báo thân — tại Đại Tự Tại Thiên, tịnh thổ cung Kim Cương Pháp Giới Tối Thắng. 3. Ứng thân — biến hóa đa dạng tùy hình theo lục đạo.

🌟

Có một số người quở trách: Đại Tự Tại Thiên là ngoại đạo. Đại Tự Tại Thiên là Thiên Ma. Đại Tự Tại Thiên là hung bạo ác độc. Đại Tự Tại Thiên là quỷ thần.

Tôi cho rằng đó là những cách nói thiếu trách nhiệm. Thử nghĩ mà xem, đây là tịnh thổ mà Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật) biến hóa ra, là nơi ở của thập địa Bồ Tát, tại cảnh giới Thất Bất Hoàn Thiên. Tôi ở cõi trời này gặp được Sakya Chứng Không Thượng sư, Sakya Chứng Không Thượng sư là thập địa Bồ Tát.

Thế giới này là nơi có rất nhiều ý kiến, bởi vì đó là thế giới tự do ngôn luận, chẳng ngờ lại biến Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật) thành người đứng đầu của Thiên Ma. Tôi cảm thấy thật không thể tưởng tượng nổi.

34. Tôi tiến nhập Tứ Không Thiên như thế nào?

Tôi đã du hành qua Lục dục thiên, Sắc giới thiên, tiếp theo là tiến vào Vô sắc giới thiên (Tứ Không Thiên).

Phương pháp mà tôi vận dụng đương nhiên là tứ thiền bát định. Đặc tính của Lục dục thiên là đại lạc. Đặc tính của Sắc giới thiên là hỷ quang minh. Đặc tính của Ngũ Bất Hoàn Thiên trong Sắc giới thiên là xả. Đặc tính của Vô sắc giới thiên là không.

Tôi vận dụng: Thân không. Tâm không. Pháp không. Tính không. Muốn dùng tứ không để tiến nhập Tứ Không Thiên.

Cái gọi là Tứ Không Thiên chính là: Không Vô Biên Xứ Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.

Cái gọi là Không Vô Biên Xứ Thiên có đặc tính là “không vô tận”. Cái gọi là Thức Vô Biên Xứ Thiên có đặc tính là “thức vô tận”. Cái gọi là Vô Sở Hữu Xứ Thiên có đặc tính là “vô vô tận”. Cái gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có đặc tính là “vi tưởng vô tận”.

Tôi giải thích như vậy, bản thân tôi hiểu, nhưng người khác có thể không chắc đã hiểu.

Thật ra đến Tứ Không Thiên, văn tự ngôn ngữ cũng không có cách nào để miêu tả được, muốn dùng văn tự, ngôn ngữ để giải thích thì sẽ gặp khó khăn, nói không chừng càng giải thích càng khó hiểu.

(1) Người tu hành chán ghét sự giam cầm của sắc, muốn xuất ly, xả bỏ sắc tưởng mà có duyên với cái không vô biên, sẽ tương ứng thành “không vô biên định”.

(2) Người tu hành chán ghét nội ngoại không, xả không, trở thành thức, sẽ tương ứng thành “thức vô biên định”.

(3) Người tu hành chán ghét thức, xả tâm thức, nhận định rằng không có tâm thức, cho nên tương ứng thành “vô sở hữu định”.

(4) Người tu hành chán ghét cái hữu tưởng của thức, cũng chán ghét cái vô tưởng của vô hữu, nên tương ứng thành “phi tưởng phi phi tưởng định”.

🌟

Khi tôi đã đến được đỉnh của Sắc giới thiên, muốn tiến vào Vô sắc giới thiên, nhìn lên trên, chỉ thấy xa xăm mờ mịt, hư hư huyễn huyễn, không có vật gì có thể bám víu.

Dục giới thiên, có cảm giác vui sướng có thể bám vào. Sắc giới thiên, có thiền hỷ có thể bám vào. Ngũ Bất Hoàn Thiên, có cảm giác xả có thể bám vào. Còn đối với Tứ Không Thiên: “Không có thứ nào để mà bám.”

Vì tôi học tập Mật giáo, tôi cầu nguyện Thượng sư hằng gia trì, Bổn tôn hằng thu nhận, Hộ pháp hằng bảo vệ. Khi niệm Cao Vương Kinh, tôi ở trong thiền định, trong hư không xuất hiện Chư Phật Bồ Tát trong Cao Vương Kinh, vô số vô tận. Vô lượng Chư Phật. Thiên ngũ bách Phật. Vạn ngũ thiên Phật. Ngũ bách Hoa Thắng Phật. Bách ức Kim Cương Tạng Phật. …

Chư Phật Bồ Tát thành một chuỗi hạt ngọc, lần lượt tiến vào trong thân tôi, trong tâm, trong pháp, trong tính. Tôi biến thành to lớn. ”Uỳnh” một tiếng! Thân, tâm, pháp, tính của tôi theo âm thanh vỡ tung ra. Trong ngoài vỡ vụn. Thân tâm không tồn tại. Tôi chỉ có thể dùng văn tự để miêu tả như vậy, những văn tự này có lẽ miêu tả chưa thỏa đáng lắm. Mặc dù chưa thỏa đáng, nhưng cũng chỉ có thể miêu tả như vậy mà thôi. Tôi vì muốn tiến vào Tứ Không Thiên nên mới dùng văn tự như vậy để miêu tả. Khi tôi phân thân xả cốt toàn bộ rồi. Uỳnh! Tôi đã tiến vào Tứ Không Thiên. Tại đây, xin hỏi thánh đệ tử, bạn có cách nào tinh xảo hơn để miêu tả việc tiến vào Tứ Không Thiên không?

35. Trạng thái bất động của Không Vô Biên

Sau khi thân tâm tôi hoàn toàn vỡ vụn, tôi nghĩ kĩ xem Không Vô Biên đáng sợ như thế nào: Giống như khói phất phơ hóa vào vũ trụ. Ngạt thở. Bất động. Biến mất. Thật ra không hẳn hoàn toàn dừng lại, vẫn là đang tiến lên, chỉ là cảnh vật vô biên hoàn toàn trống không. Sự tiến lên này, cho dù là vận tốc siêu nhanh tới một nghìn ki-lô-mét trong một giây thì cũng chẳng có mục tiêu nào, không có điểm đích hay bờ bên kia.

Giống như chúng ta ngồi trên tàu lượn siêu tốc, tốc độ cực nhanh, trên đường có muôn vàn nguy hiểm, nhưng, nếu như chúng ta thử nghĩ, nếu chiếc tàu lượn siêu tốc này vĩnh viễn không dừng lại, khi mà không dừng lại như thế thì bạn có sợ hãi không? Chỉ độc một con người. Ở trong hư không vô biên. Ngay đến bản thân mình cũng là không. Không có mục đích gì. Tiến lên phía trước cũng chẳng khác gì đứng yên. Có thể nói là động. Mà cũng có thể nói là đã chết.

Tôi đã hiểu được rằng, đây là cái xứ “chết vô biên” đích thực. Giống như một vật chất rơi vào trong hố đen của vũ trụ vậy, cái hố đen này từ xưa tới nay không có người nào biết độ sâu của nó, độ rộng của nó, hễ rơi vào hố đen thì sẽ là một sự tối tăm vô biên không giới hạn, không có đáy, không có rìa.

Thời gian và ban ngày chưa bao giờ dừng lại, nhưng ở tại Không Vô Biên Xứ Thiên, thời gian và ban ngày cũng là không, chẳng khác gì không có thời gian và ban ngày, bởi vì thời gian và ban ngày ở trong cảnh giới này không tạo ra được tác dụng gì cả.

Kinh Phật nói: Thời gian hai vạn đại kiếp. Tôi nói: Hai vạn đại kiếp cũng là vô biên đó! Nói ra thì hết sức buồn cười, cảnh giới này căn bản là không có phương hướng của tương lai. Nói ra thì hết sức đáng buồn, lãng phí mọi công lực tu hành mà lại bất động tại đây sao? Đây chính là cái “vô vi” mà đạo nhân nói đến sao? Cái “hữu vi” ở đây cũng tương đương với “vô vi”.

Tôi cảm thấy đây đúng là điều bất hạnh, tu hành đến được Không Vô Biên Xứ chẳng khác gì tự mình chôn sống mình. Tồn tại chẳng khác gì không tồn tại. Hữu vi chẳng khác gì vô vi. Ngộ đạo chẳng khác gì chưa ngộ đạo. Cảnh giới kiểu này thật sự rất khó dùng ngôn ngữ, văn tự, tư tưởng của nhân thế gian để mà hình dung và giải thích được. Không có lạc. Không có hỷ. Không có quang. Chỉ có không, không, không, không, không, như thế này cũng xem là một cảnh giới sao? Đây coi là “bản nhĩ” sao? [bản nhĩ: cái gốc, nguồn cội của ta] Chỉ có người đã từng trải qua mới có thể biết được. (Ta không nhìn thấy người khác, người khác cũng không nhìn thấy ta.)

Tôi có một giải thích như sau: Một cây tích trượng bằng thép không gỉ, trải qua nghìn trăm vạn triệu năm, vẫn là một cây tích trượng bằng thép không gỉ. Đây có xem là chứng quả không? Tôi nói: Đây là điểm 0. Không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió, ở đây tất cả đều không tồn tại. Có người nói, đây chính là hợp nhất với tính Không. Tôi cho rằng đáng thảo luận! Có người nói, đây mới là chân ngộ. Tôi cho rằng đáng thảo luận!

Tôi vội vội vàng vàng nhờ cậy vào lực gia trì của Chư Phật Bồ Tát, vội vàng đi lên Thức Vô Biên Xứ Thiên, nói thẳng ra là tôi chán ghét nội không, ngoại không, biệt không, tất cả không. Không, không, không, không, không, chẳng có cái vị gì cả!

36. Thế giới của A-lại-da thức

Tôi tiến vào Thức Vô Biên Xứ Thiên, thế giới này là thế giới của duy thức, không có chút chướng ngại, cũng không hề có cảm giác diệt vong.

Thật ra cái “tôi” mà tôi nói cũng không tồn tại. Tôi là cái gì? Tôi ở đâu? Tôi là ai? Những cái này đều tồn tại ở trong thức, chứ không phải là tôi.

Tương tự, Thức Vô Biên Xứ Thiên này không phải dễ mà hình dung được, ở đây chỉ tồn tại “dòng chảy” và Phật tính. Dòng chảy là thức. Phật tính cũng là thức. Giống như sự suy nghĩ, phân tích, phán đoán, nhận thức, thấy nghe, nhận biết… của tự mình. Những cái này đều là vi tế, vi tế hơn, vi tế hơn nữa. Tôi hết sức ngờ vực, thế giới của A-lại-da thức này có phải là nơi tồn tại niết bàn mà Phật Đà nói đến không?

Tôi phải dùng dấu hỏi chấm bởi vì tôi không cho rằng như vậy. Thức không phải là gió. Thức không phải là lửa. Thức không phải là nước. Thức không phải là đất. Thức không phải là không.

Bởi vì nó không phải là tốc độ, không phải là nhiệt độ, không phải là sạch bẩn, không phải là tịnh quang, không phải là vật chất, không phải là “không không”. ”Nó” chỉ có một sự nhận biết vi tế ở tại bên ngoài “kiến văn giác tri” mới có thể hiện thân. Xuất hiện từ trong sự “bất tri bất giác”. Ha ha ha! Tôi dùng một tính từ rất đặc biệt để mô tả “nó”: “hữu” tồn “bất” tại. [có tồn nhưng không tại]

Trong sự nhận biết vi tế, tôi nhận định cái A-lại-da thức này là cái “thức” ở đỉnh cao nhất. Đó là “vô sinh vật cao cấp”, ở đây, có rất nhiều sinh, rất nhiều sự sinh ra, ý tôi muốn nói rằng, rất nhiều đời quá khứ, tất cả đều ở trong “nhất thời”.

Tôi ở trong cái “thức” này, giống như tiến vào trạng thái ngủ sâu, trong cơn ngủ sâu, rất nhiều đời đều là nhất thời mà thôi!

🌟

Tôi nhận biết được hai vị đại sư: Một vị là Cùng tiên sinh. [cùng: nghèo, bần cùng] Một vị là Tử tiên sinh. [tử: chết] Hai vị này đều đang nghiên cứu về duy thức, nghiên cứu sâu về A-lại-da thức, nói ra hay im lặng đều chỉ có A-lại-da thức.

Hai người họ cho rằng A-lại-da thức chính là Phật tính, A-lại-da thức chính là niết bàn. Vì thế, hai vị đại sư liền sống trong bốn vạn đại kiếp ở Thức Vô Biên Xứ Thiên. Hai người họ say mê “thức”. Cho rằng “thức” đã đạt đến đỉnh rồi, tự nhận mình đã kiến chứng rồi, khai ngộ rồi, thành tựu rồi, thành Phật rồi. A-lại-da thức vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế! A-lại-da thức đệ nhất nghĩa đế! Người rời bỏ A-lại-da thức, toàn bộ đều phải xuống địa ngục, xuống địa ngục Vô Gián. Tôi nghe xong, tức cười quá! Bởi vì hai người họ bám chấp vào A-lại-da thức, đã quên mất “căn bản cứu cánh trí huệ” rồi! Hai vị đại sư này phủ định tất cả đại thiện tri thức các thời đại, phủ định đại thiện tri thức đương đại, chỉ chịu mỗi A-lại-da thức.

Cuối cùng tôi phát hiện ra, cái gọi là “duy thức” cũng là bám chấp. Cái giếng khổng lồ vô biên này khó mà chứa được hai con ếch.

Tôi cho rằng ở trên cao hơn A-lại-da thức vẫn còn có thế giới khác, lên cao nữa vẫn còn có thế giới vi tế hơn. Xin lỗi! Tôi vô ý phê phán Cùng tiên sinh, Tử tiên sinh, hai người hãy cứ ở lại thế giới A-lại-da đi!

37. Quê hương không có gì

Tôi tiến nhập vào Vô Sở Hữu Xứ Thiên của Tứ Không Thiên. Tại cõi trời này, người đầu tiên mà tôi gặp chính là Trang Tử.

Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa tôi và Trang Tử: Tôi hỏi: ”Vì sao cụ lại ở đây?” Trang Tử đáp: ”Vô duyên.” [không có nhân duyên] ”Vô duyên là sao?” Trang Tử đáp: ”Vô vô minh, vô hành, vô thức, vô danh sắc, vô lục nhập, vô xúc, vô thụ, vô ái, vô thủ, vô hữu, vô sinh, vô lão tử.” Tôi ngạc nhiên: ”Đây là không có 12 nhân duyên.” Trang Tử đáp: ”Đó là pháp vô vi tồn tại tự nhiên.” Tôi nói: ”Đây là bất sinh bất diệt phải không?” ”Đó là bất sinh bất diệt ngay lúc này.” Tôi hỏi: ”Trên kinh điển nói, tu đến khi tâm thức đều không còn sở hữu thì sẽ sinh về Vô Sở Hữu Xứ Thiên. Không có thụ tưởng hành thức, không có sắc thân, lại còn không có cung điện, đất nước, tất cả đều không có, vậy đến đây có lợi ích gì?” Trang Tử đáp: ”Không có gì của không có gì là tồn tại tự nhiên, là một dạng tồn tại trên hình thức. Vô sinh vô diệt thì sẽ không có mọi khổ của chúng sinh, không có hiện tượng gì sinh ra, tức không che mờ nhân quả.” ”Vẫn có nhân quả sao?” ”Không che mờ nhân quả.” ”Có được mấy người đến được cảnh giới này?” ”Chẳng có quê hương, chỉ là sự tồn tại về hình thức, không thể xem là người, chẳng dễ mà đắc được “vô”.” ”Đã cắt đứt luân hồi chưa?” Trang Tử đáp: ”Cõi trời này không có sắc thân nào để mà đắc, vì vậy không có thân thể, không có tâm thức nào để mà đắc, vì vậy không có chuyện thụ sinh.” Tôi hỏi: ”Thiên thọ ở cõi này là sáu vạn đại kiếp, chẳng phải là vẫn có luân hồi sao?” Trang Tử đáp: ”Thiên thọ sáu vạn đại kiếp cũng tương đương là vô lượng rồi, không thể đo lường. Cho dù là tịnh thổ cũng có lúc sinh, lúc diệt. Ở đây, luân hồi cũng như không.” Tôi hỏi: ”Có ai biết Trang Tử ở tại quê hương không có gì không? Vô Sở Hữu Xứ Thiên?” Trang Tử đáp: ”Tại thế giới bản nhiên. Chỉ có “cái có” mới có thể quán chiếu sự tồn tại của nó, nếu đạt đến không có gì, không ai có thể quán chiếu sự tồn tại bản nhiên của “cái không”.” ”Ngài với Lão Tử ở cõi trời nào?” Trang Tử đáp: ”Không biết.” ”Ngài biết Khổng Tử ở cõi trời nào không?” ”Biết.” ”Ở cõi trời nào?” ”Khổng Tử ở tại cõi trời nhân quả luân hồi.” - Trang Tử đáp. ”Vô có phải là không không?” Trang Tử đáp: ”Vô không phải là không, không là cái rỗng không của vật chất. Còn vô là sự tồn tại trên hình thức, chỉ là bản nhiên.”

Bản thân tôi đối với đoạn hỏi đáp cùng Trang Tử có một vài chỗ tôi thật sự không hiểu ý nghĩa, cảm thấy những gì tôi viết ra có nhiều khả năng từ không diễn đạt được ý, ví như cảnh giới cao như vậy mà muốn viết thấu triệt về nó thì cũng đã là vô cùng không thể nào rồi.

Thánh đệ tử nếu có nghi hoặc thì có thể đến hỏi tôi. Bởi vì trong thiên hạ cũng chẳng có mấy người có thể trả lời được cho bạn đâu!

38. Ngẫm kĩ về tồn bất tồn và tận phi tận

Nơi đây là cõi trời cao nhất của Chư Thiên, cũng chính là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên. Thiên thọ là tám vạn đại kiếp. Xả bỏ hết mọi “hữu tưởng” trước đó, nên gọi là phi tưởng. Xả bỏ hết mọi vô tưởng trước đó, nên gọi là phi phi tưởng. Còn nữa: Vô trần tưởng, nên gọi là phi tưởng. Phi vô tế tưởng, nên gọi là phi phi tưởng. Phi tưởng phi phi tưởng định là: ”Như say như mê như ngủ như mờ mịt, không có cái gì để yêu thích, tiêu biến và tịch tuyệt, thanh tịnh vô vi.”

Chỉ dựa vào mấy câu nói này, mọi người có thể nghĩ được một cách đại khái rồi.

Khi ta đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, bạn sẽ có thể nhận thức được về vấn đề của “tồn tại”: ”Có tồn tại không?” Câu trả lời rất kì lạ, tồn tại tự nhiên, tồn tại nguyên bản, không có vấn đề tồn tại hay không tồn tại, tồn tại cũng như không tồn tại, không tồn tại cũng như tồn tại, cho nên là “tồn bất tồn”. Câu trả lời này mọi người nghĩ thế nào? Không có “cho rằng”. Sự hưởng thụ lớn nhất là “tịch tuyệt”. Không có bạn, tôi, người khác. Không có ai. Không có thay đổi. Nếu như Lão Tử ở tại Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, Lão Tử chính là ta. ”Tồn bất tồn” chính là đại tự tại. Tùy ý phi thường phi phi thường chính là đại tự tại.

Tôi lại hỏi, một vấn đề khác, chính là: ”Có lậu tận không?” Câu trả lời rất kì lạ, không có một hạt vi tế nào, không có sự kiến tạo nào, ngay cả cái trí tuệ cũng không có. Cái trí cũng không có rồi thì chính là một dạng siêu việt cực đại, hỏi tôi có lậu tận không? Câu trả lời xác thực là căn bản không có câu trả lời, bởi vì tận phi tận thì cũng xem là tận, nhưng chỉ còn có những tư tưởng rất mảnh mịn.

Tại cõi trời này: Không có không, gọi là bất không. Không có thức, gọi là bất thức. Không có vô, gọi là bất vô.

Nhưng có tư tưởng rất rất rất rất rất mảnh mịn vi tế lắm lắm, cho nên mới là “bất”.

🌟

Không có chiếm hữu. Không có Hoạt Phật thật giả. Không có ai đến để cho phép ai, bởi vì cái chữ ai này, căn bản là không tồn tại. Chẳng lẽ tự mình là Phật? Thật ra cũng không nghĩ đến chữ Phật này. Không có tìm kiếm. Không có cái chưa tới. Không có cái không biết. Không có cái gì cao hơn. Tại Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, căn bản là không có máu, thịt, da, không có xương, tủy, tinh, không có khí, mạch, minh điểm, không có năng lượng gì cả, ở nơi này năng lượng cũng không dùng được.

Có ý niệm không? Đáp án là siêu việt hơn A-lại-da thức, gần như sắp không có thức rồi. Cái này tôi không thể nói là có ý niệm, ngay cả vũ trụ cũng không có thì còn có thể có thức gì nói gì tới những danh từ như A-lại-da thức.

Có gần tới thành Phật không? Đáp án là, căn bản không có ý niệm về Phật, cũng tức là Phật hay không Phật thì cũng chẳng hề có một chút tác dụng nào.

Tôi đã đến cõi trời này. Cảm thấy nơi đây dễ chịu nhất, cái sự dễ chịu này không phải là lạc, không phải là hỷ, không phải là ánh sáng, không phải là huyễn thân, không phải là xả, không phải là tồn, không phải là tận. Nhưng mà lại dễ chịu nhất!

39. Cảm ơn trải nghiệm 28 cõi trời

Sau khi tôi đã trải qua tất cả thế gian của Dục giới thiên, Sắc giới thiên, Vô sắc giới thiên, một công lực siêu thắng không gì sánh bằng hiển hiện trong thân tâm tôi. Về bản chất, tôi chính là chỗ dựa của bậc chính biến tri tại nhân gian. Tôi phải cảm ơn: 1. Liễu Minh Hòa Thượng. 2. Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16. 3. Sakya Chứng Không Thượng sư. 4. Thubten Dhargye Thượng sư. Tổ sư Chân Phật Tông trong lịch sử.

Nhờ có sự dạy bảo nhân từ của các vị thầy đầy đủ phẩm đức mà tôi có thể có được tất cả quán đảnh và sự chỉ dạy hoàn chỉnh về Mật pháp. Khiến tôi từ trong tứ thiền bát định được Thượng sư gia trì, Bổn tôn thu nhận, Hộ pháp bảo vệ.

Tuân theo Thứ tự sinh khởi cho đến Thứ tự viên mãn, tôi đã hiểu tất cả khẩu quyết tâm yếu và những kho tàng quý báu rộng lớn. Tôi tôn kính truyền thừa. Tôi tôn kính giới luật. Tôi tôn kính sư phụ. Tôi tôn kính Mật pháp. Tôi tôn kính thực tu.

Tại Dục giới thiên, tôi đã đắc lạc và lạc thụ vĩnh viễn. Tại Sắc giới thiên, tôi đã đắc hỷ và hỷ thụ vĩnh viễn. Tại Vô sắc giới thiên, tôi đã đắc xả thụ và không, thức, vô, phi phi tưởng. Đó là một trải nghiệm phong phú bất khả tư nghì, tôi tin tưởng chỉ có người đã từng đi qua mới có thể hiểu rõ những gian nan trong đó, và tất cả những khó khăn ở mức độ sâu.

Tại đây, tôi kính dâng lên Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên tấm lòng tôn kính chí cao tối thượng của tôi, bởi vì tất cả những mộng tưởng này không ngờ đã thành sự thật. Tôi nguyện đem những công đức thực tế của trải nghiệm 28 cõi trời này hồi hướng lợi ích cho các chúng sinh.

Những trải nghiệm này không hẳn là một hơi một mạch mà thành trong một khoảng thời gian ngắn, mà là trong từng quãng thời gian, từng quãng thời gian, tiến lên từng bậc mà thành.

Cuối cùng tôi đã hiểu thông thấu triệt để: Dục giới định. Tứ thiền định. Tứ không định. Diệt tận định. Từ đại lạc biến hóa thành quang minh, từ thân tâm biến hóa thành huyễn thân, từ hữu thụ biến hóa thành vô thụ. [Hữu thụ: còn cảm giác, cảm nhận. Vô thụ: không còn cảm giác, cảm nhận.] Vô sở xứ, vô sở vị, vô sở đắc, vô sở trụ, vô sở chứng, vô sở tu. Tôi đã hiểu: tham, ái, vô minh, bất chính kiến của thế nhân. Tôi đã phát: xuất ly tâm, bồ đề tâm, chính kiến.

Bây giờ tôi rất dễ dàng nhập vào trong định, thậm chí trong pháp Miên quang, tôi cũng ở trong Tứ thiền, trong Tứ không, Nhất vị và Vô tu đều đã có thể đạt đến.

Tôi hoàn toàn biết rằng tịnh thổ thì ra là sự từ bi của Pháp thân Phật, tịnh thổ của Báo thân Phật là sự hóa hiện của bồ đề tâm, không chỉ là ở tại 28 cõi trời, thậm chí thấp xuống đến địa ngục Vô Gián, cao lên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên đều có.

Không chỉ như vậy, cá nhân tôi cũng biết, tại nhân gian, núi cao, vùng hoang vu, rừng sâu, miền biển, chùa chiền… cũng có rất nhiều A La Hán đang trụ trì. Cái gọi là: Xứ này gần ngay xứ khác. Nghìn trăm triệu hóa thân. Tịnh thổ này thông với tịnh thổ khác, Phật quốc này thông với Phật quốc khác. Tôi chỉ có thể tán thán. Thập địa Bồ Tát, từ Cực Hỷ địa đến Viễn Hành địa, bảy địa này từng bước hoàn thành.

Hôm nay tôi chỉ có thể cảm ơn, cảm ơn và cảm ơn, tôi không có lời gì có thể nói, nên chỉ nói hai chữ đơn giản: ”Cảm ơn!”

40. Tôi chủ trì quán đảnh Thời Luân Kim Cang

Tính đến tháng 10 năm 2006, tổng cộng tôi đã chủ trì bốn đàn đại quán đảnh Thời Luân Kim Cang. Lần đầu tiên tại Hồng Kông. Lần thứ hai tại Houston, Mỹ. Lần thứ ba tại New York, Mỹ. Lần thứ tư tại Seattle, Mỹ.

Tôi muốn nói một chút về các thứ ở chùa Seattle Lôi Tạng Tự ở Mỹ. Trước pháp hội, ngày ngày tôi đảnh lễ Thời Luân Kim Cang. Trước pháp hội, ngày ngày tôi trì tụng chân ngôn Thời Luân Kim Cang. Trước pháp hội, tự thân tôi biến hóa thành Thời Luân Kim Cang, thân màu xanh lam, hai cánh tay, một tay cầm chuông kim cang, một tay cầm chày kim cang. Phật Mẫu, một tay cầm dao cong, một tay cầm đầu lâu. (Đây là biến hóa đơn giản nhất vĩ đại nhất của Thời Luân Kim Cang.)

Tôi có được cảm ứng như sau: Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông trúng giải lớn xổ số lotto, tiền thưởng là 5,5 triệu đô la Mỹ. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông bị thọt chân, có thể đi lại được. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông bị ung thư, khối u tự động tiêu biến. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông không thể nói, nay có thể mở miệng nói chuyện. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông bị mất ngủ, nay có thể ngủ ngon. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông bị kiện tụng, tự động được giải trừ. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông không có con, nay sẽ có con. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông người đau nhức, nay không còn đau nữa. Sẽ có đệ tử Chân Phật Tông gia đình không hòa hợp, nay sẽ hòa hợp. Người được tăng trưởng trí tuệ. Người được tăng thêm may mắn. Người được tiêu trừ nghiệp chướng. Người đẩy lùi được kẻ thù.

Kết quả là: ”Sau khi tôi chủ trì đại quán đảnh Thời Luân Kim Cang, không ngờ tất cả đều ứng nghiệm rồi.” Tôi cảm thán: Đại uy thần lực của Thời Luân Kim Cang. Thời Luân Kim Cang thật quá vĩ đại.

Tại đây, tôi giới thiệu ngắn gọn về bảy loại quán đảnh của Thời Luân Kim Cang, xin các đồng môn chú ý:

1. Quán đảnh nước - thanh tịnh. (Ngũ đại chuyển hóa thành Ngũ Phật Mẫu.) 2. Quán đảnh mũ - xuất sinh đỉnh kế. (Ngũ uẩn chuyển hóa thành Ngũ Phật.) 3. Quán đảnh dải băng - trang sức của Ngũ Phương Như Lai. (Tịnh hóa khí của hành giả.) 4. Quán đảnh chuông chày - Phật tâm, Phật ngữ. (Tịnh hóa song mạch.) 5. Quán đảnh hành vi - giữ truyền thừa, giữ giới. (Không phá samaya.) 6. Quán đảnh tên - ban cho Phật hiệu. (Tên của Kim Cang Minh Vương.) 7. Quán đảnh cho phép - có thể tu Mật pháp Thời Luân Kim Cang. (Sinh khởi tất cả.)

(Bảy quán đảnh này, tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cho rằng là những quán đảnh cơ bản nhất.)

Những quán đảnh khác: Quán đảnh bí mật. Quán đảnh mật mật mật mật tối cao. Không nằm trong số bảy quán đảnh.

Trên nguyên tắc mà nói, người đã nhận bảy quán đảnh Thời Luân Kim Cang, chỉ cần giữ lời thề với truyền thừa, giữ giới luật, thì có lý thuyết là bảy kiếp lập tức có thể thành Phật, có lý thuyết là mười sáu kiếp lập tức có thể thành Phật.

Còn tôi cho rằng, chỉ cần thực tu pháp Thời Luân Kim Cang, đời này lập tức có thể thành Phật. Vì sao? Thời Luân Kim Cang tức là hóa thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, không hai không khác. Hành giả chỉ cần tương ứng với Thời Luân Kim Cang thì đời này sẽ có thể thành Phật. Không cần bảy đời. Không cần mười sáu đời.

Tôi sâu sắc cảm thấy Thời Luân Kim Cang vĩ đại bất khả tư nghì, tôi chủ trì đại quán đảnh Thời Luân Kim Cang thật sự đã hiển hiện quá nhiều kỳ tích. Các thánh đệ tử! Pháp lớn như vậy, xin đừng bỏ lỡ.

41. Thiền sư Khuê Phong Tông Mật

Năm đời tính từ Lục Tổ trở xuống có một vị kế thừa pháp là thiền sư Viên, tức là thiền sư Khuê Phong Tông Mật. Tôi sâu sắc cảm thấy thiền sư Tông Mật là một thiền sư vĩ đại, nhưng dù vĩ đại thì cũng có chỗ sai sót. Tác phẩm của ông ấy có một trăm quyển “Các giải thích về nguồn gốc của thiền”, lấy Bồi Hưu để viết lời mở đầu. [Bồi Hưu: một danh tướng, một nhà thư pháp giữa và cuối đời Đường.] Ngoài ra còn có: ”Viên giác đại tiểu nhị sớ sao.” ”Pháp giới quán môn.” ”Nguyên nhân luận.”

Thiền sư Tông Mật có trả lời mười câu hỏi của Sử Sơn Nhân, kể ra như sau:

Hỏi: “Thế nào là đạo? Dựa vào cái gì mà tu? Nhờ điều gì mà tu được thành, nhờ điều gì mà có được công dụng chân thực, không giả?”

Đáp: “Vô ngại là đạo, giác ngộ vọng là tu, đạo tuy vốn không, nhưng vọng niệm khởi lên sẽ tích lũy. Vọng niệm đều tận hết, tức là tu thành.” (Tôi cho rằng câu trả lời này của thiền sư Tông Mật, để trả lời Sử Sơn Nhân thì cũng được, nhưng trả lời người chân ngộ thì vẫn còn kém một chút.)

Hỏi: “Đạo nếu vì tu mà thành, tức là tạo tác, thế thì giống pháp thế gian, chỉ là giả dối không thật. Thành rồi cũng lại hoại, thế nào mới gọi là xuất thế?” Đáp: “Tạo tác là tạo nghiệp, gọi là thế gian giả tạo. Vô tác là tu hành, tức là xuất thế chân thực.” (Tôi cho rằng đáp án này khế hợp với tâm tôi.)

Mười câu hỏi này, xưa nay rất nhiều học sinh thiền môn đều hỏi rất nhiều, tôi chỉ lấy ra hai câu hỏi, những câu còn lại bạn hãy tự mình tham khảo thêm.

Vô ngại có phải là đạo không? Câu này khiến người ta sinh nghi, tôi cho rằng vô ngại không phải là đạo, các đệ tử có điều gì để nói không?

🌟

Thiền sư Tông Mật có tám câu kệ như sau: ”Làm việc có nghĩa, là tâm tỉnh ngộ. Làm việc vô nghĩa, là tâm cuồng loạn. Cuồng loạn theo tình cảm, lâm chung bị nghiệp dắt. Tỉnh ngộ không vì tình, lâm chung chuyển nghiệp được.”

Lời kệ này nếu như là để cảnh giác thế nhân thì tôi cho rằng như vậy cũng là đẹp rồi. Nhưng nếu nói về đạo thì tôi cảm thấy bình thường quá. Mọi người nghĩ thế nào?

Thiền sư Tông Mật lúc lâm chung bảo đệ tử rằng: ”Toàn bộ xác này đem bố thí cho chim thú, dùng lửa thiêu rồi rải tro đi, đừng than khóc.” ”Các đệ tử phải trụ trì lễ nghi, phải giữ gìn giới luật, nếu vi phạm thì không phải là đệ tử của ta.” Lời thứ nhất là sự bố thí cuối cùng. Lời thứ hai là giữ gìn giới luật. (Hai lời này đều là Phật nói.)

Sau khi thiền sư Tông Mật viên tịch, thiêu ra được xá lợi, vừa trắng vừa tròn vừa bóng vừa to.

Cá nhân tôi cười: ”Nếu đã muốn xác đem bố thí hết thì còn dùng lửa để thiêu, thiêu ra được một vài hạt đậu xanh hoặc quả để làm gì?” ”Hạt xá lợi vừa trắng vừa tròn vừa bóng vừa to, chim thú làm sao mà ăn được?” (Thiền sư Tông Mật lúc lâm chung đã vọng ngữ, thật không đáng.)

Điều tôi thích ở thiền sư Tông Mật là: Biết tứ đại là hoại huyễn. Hiểu lục trần như không hoa. Ngộ tâm mình là tâm Phật. Thấy bản tính là pháp tính. Biết tâm vô trụ, tức là tu hành. Vô trụ mà biết, tức là pháp vị.

🌟

Nếu dựa theo sự giác ngộ của thiền sư Tông Mật: “Không tức vô sinh, làm gì có ý nghĩa của sinh. Sinh diệt thì diệt dừng, tịch diệt là chân. Nhẫn với pháp vô sinh, gọi là vô sinh pháp nhẫn.”

Các thánh đệ tử, tại đây tôi hỏi mọi người, mọi người có ý kiến gì về “vô sinh pháp nhẫn” của thiền sư Tông Mật? Tôi có ý kiến, còn bạn?

42. Thiện Huệ Đại Sĩ là Di Lặc Bồ Tát

Thiện Huệ Đại Sĩ, sinh ra trong nhà họ Phó tại vùng quê Song Lâm vào ngày 8 tháng 5 năm Đinh Sửu, năm thứ tư đời vua Tề Kiến Vũ, tên thật là Phó Hấp, người đời sau gọi là Phó Đại Sĩ.

Có một nhà sư theo hạnh đầu đà ở Thiên Trúc nói: ”Tôi và ngài - Vipassi [Phật Tỳ Bà Thi] đã có lời thề nguyện, nay ở thiên cung Đâu Suất đều đã có y bát, khi nào thì mới trở về thế?” Thiện Huệ đi nhìn bóng mình trong nước, thấy mình đã tỏa ra viên quang [vầng hào quang vòng tròn trên đầu], phía trên có cờ lọng quý báu. (Điều này chứng tỏ rằng Phó Hấp là Bồ Tát đến từ Đâu Suất Thiên.)

Thiện Huệ tu hành ở núi Tùng, nhìn thấy Thích Ca Như Lai, Kim Túc Như Lai (Duy Ma Cật), Định Quang Như Lai phóng quang gia trì cho Thiện Huệ. Thiện Huệ Đại Sĩ nói: ”Khi đắc Thủ Lăng Nghiêm định, cảm ứng thấy bảy vị Phật đi cùng nhau, Thích Ca Như Lai ở phía trước, tôi ở giữa, Duy Ma Cật ở phía sau. Thích Ca Như Lai nói với Thiện Huệ, ông là Bổ Xứ Như Lai.” (Điều này đã chứng minh rằng Phó Đại Sĩ là Di Lặc Bồ Tát.)

Lương Vũ Đế mời Phó Đại Sĩ thuyết pháp. Phó Đại Sĩ lên ghế. Dùng thước đập xuống. Thế rồi xuống khỏi ghế. Lương Vũ Đế kinh ngạc.

Phó Đại Sĩ hỏi: “Bệ hạ có hiểu không?” Lương Vũ Đế đáp: “Không hiểu.” Phó Đại Sĩ nói: “Tôi đã thuyết pháp xong rồi.” (Điều mà Phó Đại Sĩ nói tức là đệ nhất nghĩa đế.)

Danh tác của Phó Đại Sĩ là: “Tâm Vương Minh.” Bài kệ nổi tiếng của Phó Đại Sĩ là:

Đêm đêm ôm Phật ngủ Sớm sớm cùng thức dậy Đứng ngồi đều bên nhau Nói hay im cũng thế Chẳng xa rời một ly Giống như hình với bóng Muốn biết Phật đi đâu Chỉ lời này là đúng.

(Bài kệ này đã nói rõ Phật tính.)

Bài kệ nổi tiếng thứ hai:

Tay không cầm cái cuốc Đi bộ cưỡi lưng trâu Người bước đi qua cầu Cầu trôi nước không trôi.

(Bài kệ này đã nói rõ Nhất vị.)

Bài kệ nổi tiếng thứ ba:

Có thứ trước trời đất Vốn vô hình tịch liêu Là chủ của vạn vật Chẳng chạy theo bốn mùa.

(Bài kệ này đã nói rõ Pháp thân.)

🌟

Trước tiên chúng ta hãy thử xem bài kệ thứ nhất mà Phó Đại Sĩ viết: đêm đêm cùng Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật dậy. Đứng ngồi, mọi hành động cử chỉ, nói hay im lặng, chưa bao giờ tách rời. Cách nói như vậy đã rất rõ ràng rồi, tôi thật sự không thể thêm vào một câu nào nữa. Phật tính này là cái gì? Thế nào là kiến tính? Vẫn còn chưa hiểu sao? Chưa rõ sao? Lẽ nào các thánh đệ tử muốn tôi chắp tay lại, thật sự “kim kê độc lập” thì mới hiểu sao.

Tôi không có ý kiến gì về Thiện Huệ Đại Sĩ. Mọi người đều nói Thiện Huệ Đại Sĩ là Di Lặc Bồ Tát tái xuất thế gian. Tôi cũng bày tỏ sự tán đồng.

Nghĩ mà xem, Phật Thích Ca Mâu Ni đi trước, Thiện Huệ Đại Sĩ đi giữa, Kim Túc Như Lai đi sau. Nếu như không phải là Di Lặc Bồ Tát thì ai có thể đi giữa đây?

43. Lời kệ của thiền sư Huệ Tư

Thiền sư Huệ Tư ở Nam Nhạc là Vũ Tân Lý Thị Tử.

Thiền sư Chí Công muốn ông ấy xuống núi độ chúng sinh, nói: ”Sao không xuống núi giáo hóa chúng sinh? Ngày ngày ở trên núi nhìn mây nhìn trời làm cái gì?” Huệ Tư đáp: ”Chư Phật ba đời đã bị tôi một miếng nuốt trôi hết rồi, chỗ nào còn có chúng sinh để mà độ hóa chứ?”

Tôi cảm thấy câu nói này của thiền sư Huệ Tư rất thú vị. Trong Mật giáo, trong pháp Thời Luân Kim Cang có nói: Miệng của Thời Luân Kim Cang há ra một cái thì chúng sinh trong thiên hạ đều bị nuốt hết vào. Và Thời Luân Kim Cang đã sinh hạ nghìn nghìn vạn vạn triệu triệu Phật tử. Không ai không phải là Phật.

Câu nói này của Huệ Tư không phải là phóng đại, mọi người hãy suy nghĩ kĩ!

🌟

Một lời kệ của thiền sư Huệ Tư:

Đốn ngộ cội tâm mở kho báu Ẩn hiển linh thông hiện chân tướng Độc hành độc tọa thường uy nghi Trăm triệu hóa thân vô số lượng Dẫu rằng của cải chật hư không Nhìn ra chẳng thấy tướng vi trần Ôi tình cảnh nực cười hết sức Miệng nhả ra ngọc sáng chói ngời Chuyện ấy bình thường chẳng có gì Vài lời danh ngôn nói ra đây.”

Bài kệ này cho thấy rõ cảnh giới tu thiền của thiền sư Huệ Tư, cũng cho thấy thiền sư Huệ Tư đã xả ly hoàn toàn ham muốn vật chất rồi. Tôi cảm thấy những người giàu có nên treo bài kệ này ở trong nhà để làm lời răn mình.

🌟

Lại có một bài nữa:

“Trời chẳng thể che đất chẳng chở Không đi không đến không chướng ngại Không dài không ngắn không vàng vọt Không nằm ở giữa hay trong ngoài Thái hư huyền bí siêu xuất chúng Chỉ vật truyền tâm người chẳng hay.”

Bài kệ này đương nhiên là chỉ ra Phật tính, có thể xem là bài thơ kiến đạo của thiền sư Huệ Tư.

Nhưng: Chỉ mới nói ở xung quanh. Đi lòng vòng ở bên ngoài. Chưa phải là chỉ thẳng. Bởi vì cái lý do là “chỉ vật truyền tâm người chẳng hay”. Năm xưa Thích Ca Mâu Ni cầm hoa, là “chỉ vật”. Còn “truyền tâm” thì chỉ có Đại Ca Diếp tôn giả hiểu được, những người khác không hay biết!

🌟

Tôi nhớ đến câu trả lời của Tăng Già Đại Thánh ở Tứ Châu là thú vị nhất:

Người hỏi: “Thầy họ gì?” Thầy đáp: “Họ Gì.” Người hỏi: “Người nước gì?” Thầy đáp: “Người nước Gì.”

Các thánh đệ tử xem xem vị Tăng Già Đại Thánh này, câu trả lời của ông ấy khiến tôi chấn động!

“Gì” này là cái gì? Cái gì cũng đều là nó, và cái gì cũng không phải là nó. Một chữ “gì” này xuất sắc, chữ “gì” này nếu như đổi thành chữ Phật thì liệu có càng chuẩn xác hơn không, nhưng đổi thành chữ Phật thì sẽ mất đi rất nhiều vị đạo rồi, bạn nói xem có phải không?

44. Thiền sư Phong Can và Hàn Sơn, Thập Đắc

Núi Thiên Thai có thiền sư Phong Can. Hàn Sơn hỏi ông ấy: ”Nếu là gương cũ chưa lau chùi, làm sao chiếu hiện ánh nến?” Phong Can đáp: ”Chậu nước đá chẳng có hình ảnh gì, mà khỉ vượn vẫn tìm trăng trong nước.” (Câu trả lời này, tôi nghĩ rằng hơi lạc đề.) Hàn Sơn lại hỏi: ”Ở đây là không chiếu hiện lên ánh nến, xin nói thử xem?” Phong Can lại trả lời: ”Vạn đức không có tương lai, dạy tôi đạo gì chứ?” (Tôi cho rằng câu trả lời này rất hay, gương cũ chưa từng được lau chùi, đương nhiên không chiếu hiện được ánh nến, bảo tôi phải nói thế nào đây.) Hàn Sơn Thập Đắc nghe xong, cúi chào rồi lui đi.

Ở đây tôi xin hỏi thánh đệ tử, bạn có câu trả lời hay hơn, cao minh hơn không?

🌟

Thiền sư Phong Can muốn đi du lịch Ngũ Đài Sơn. Hỏi Hàn Sơn, Thập Đắc: ”Nếu cùng tôi đi du lịch Ngũ Đài thì là người cùng hạng. Nếu không cùng tôi đi du lịch Ngũ Đài thì không phải người cùng hạng với tôi.” Hàn Sơn hỏi: ”Ông đi du lịch Ngũ Đài Sơn để làm gì?” Phong Can đáp: ”Lễ bái Văn Thù Sư Lợi.” Hàn Sơn nói: ”Ông không phải hạng người giống tôi.”

Thiền sư Phong Can một mình đi Ngũ Đài Sơn, gặp một cụ già, Phong Can liền hỏi: ”Là Văn Thù Bồ Tát phải không?” Cụ già trả lời: ”Lấy đâu ra hai Văn Thù Bồ Tát!” Phong Can mới cúi chào thì cụ già đã đột ngột biến mất.

Theo như tôi biết, cảnh giới của thiền sư Phong Can và hai người Hàn Sơn, Thập Đắc có sự khác nhau rất xa. ”Không cùng hạng.” ”Cùng hạng.” Hàn Sơn rõ ràng đã chỉ ra: ”Ông không cùng hạng với tôi.” Thiền sư Phong Can một mình đi Ngũ Đài Sơn, gặp một người già hỏi đáp, càng thú vị hơn. ”Cụ có phải là Văn Thù không?” Cụ già trả lời: ”Làm gì có hai Văn Thù!” Thật ra, cụ già này đã rất từ bi, từ đầu đã nói rất rõ ràng với thiền sư Phong Can, chỉ thẳng vào Phật Tính, thiền sư Phong Can nếu chưa thể ngay lập tức đại ngộ thì đúng là lỡ mất cơ hội.

Lại nói Hàn Sơn, Thập Đắc hai vị đại Bồ Tát này, họ là đại thiện tri thức đã minh tâm kiến tính. Thiền sư Phong Can không biết, đương nhiên không phải cùng hạng người rồi. (Người đời sau nói, Hàn Sơn, Thập Đắc, một người là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, một người là hóa thân của Phổ Hiền Bồ Tát, hai vị đại Bồ Tát hóa thân, thiền sư Phong Can đều không nhận ra. Thiền sư Phong Can vẫn còn đi Ngũ Đài Sơn để lễ Văn Thù Bồ Tát, bảo sao không khiến cụ già kia cười rơi cả hàm chứ. Cụ già nói lấy đâu ra hai Văn Thù, như thế đã là rõ ràng rồi. Lại còn nói rõ ràng cái ý Phật tính nội tại làm gì có hai vị chứ!)

🌟

Tại đây tôi hỏi thánh đệ tử: ”Nay bạn bái Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn làm thầy, đến khi Lư Thắng Ngạn chết, bạn bái người nào làm thầy?” Câu hỏi thứ hai: ”Bây giờ bạn đang tu pháp Liên Hoa Đồng Tử, nếu Liên Hoa Đồng Tử bị hủy, bạn tu Liên Hoa Đồng Tử nào?” Mau trả lời! Mau trả lời!

45. Hàn Sơn Tử ở núi Thiên Thai

Trước kia từ rất sớm, trong sách mà tôi viết đã nhắc đến thơ của Hàn Sơn Tử, cảm thấy đối với Hàn Sơn Tử tôi có cảm giác thân thiết.

Hàn Sơn là kỳ nhân dị sĩ, chí ít thì những phần tử trí thức tại Trung Thổ đều cho rằng như vậy. Nhưng tôi lại cho rằng không chỉ như vậy.

Hãy xem thử: Trên núi Thiên Thai, các tăng nhân nướng quả cà, xiên những quả cà lại thành chuỗi, Hàn Sơn lấy một xiên quả cà đánh vào lưng một tăng nhân. Tăng nhân quay đầu lại. Hàn Sơn giơ xiên cà lên cười hi hi, nói: ”Là cái gì?” Tăng nhân trợn mắt: ”Đúng là cái đồ điên!” Hàn Sơn quay sang tăng nhân bên cạnh nói: ”Cái đồ tăng nhân chửi ta này, thật là lãng phí bao nhiêu muối dấm của ta!”

🌟

Mẩu chuyện viết ra ở trên, trong con mắt người khác, có lẽ không là gì. Một trò chơi bình thường thôi. Một cuộc nói chuyện bình thường, không đầu không đuôi.

Trên thực tế, trong con mắt của người giác ngộ thì đó là một việc trọng đại rất ghê gớm. Hàn Sơn giơ xiên cà. Chính là Thế Tôn cầm hoa. Hàn Sơn hỏi: ”Là cái gì?” Nếu tăng nhân hiểu ra thì cũng thành tựu rồi, tiếc là tăng nhân căn bản không hiểu được. Hàn Sơn Tử ca thán: ”Lãng phí bao nhiêu muối dấm của ta! Lãng phí bao nhiêu thời gian của ta! Lãng phí bao nhiêu công phu của ta!”

Rốt cục, tục tăng thì nhiều, thánh tăng thì ít. Bây giờ, tôi hỏi thánh đệ tử: ”Điều sẽ đắc được là cái gì?”

🌟

Còn nữa: Hòa thượng Triệu Châu đi chơi ở núi Thiên Thai, nửa đường thì gặp Hàn Sơn Tử. Hàn Sơn nhìn thấy đàn trâu, bèn hỏi hòa thượng Triệu Châu: ”Thượng tọa có biết trâu không?” Triệu Châu đáp: ”Không biết.” Hàn Sơn chỉ đàn trâu nói: ”Đây là năm trăm La Hán đang chơi trên núi đó!” Triệu Châu nói: ”Nếu đã là năm trăm La Hán thì vì sao lại làm trâu?” Hàn Sơn nói: ”Ông Trời, ông Trời!” Hòa thượng Triệu Châu cười lớn ha ha. Hàn Sơn hỏi: ”Cười cái gì?” Hòa thượng Triệu Châu đáp: ”Ông Trời, ông Trời!” Hàn Sơn nói: ”Cái đứa con nít này cứ như là làm người lớn!”

🌟

Cuộc đối thoại giữa hai người này không phải là trò chuyện bình thường. Hàn Sơn là bậc cao sĩ ngầm, hòa thượng Triệu Châu là hòa thượng “kiến tính”, hai người có thể xem là ngang sức ngang tài.

Hàn Sơn nói: ”Ông Trời, ông Trời!” Hòa thượng Triệu Châu cũng nói: ”Ông Trời, ông Trời!”

Ở đây tôi thử hỏi một câu: ”Ông Trời là cái gì?”

46. Thập Đắc ở núi Thiên Thai

Đã viết về Hàn Sơn Tử ở núi Thiên Thai, đương nhiên phải viết về Thập Đắc Tử, hai vị này là cao nhân ẩn sĩ được công nhận.

Trong truyền thuyết tôn giáo của Trung Quốc, Hàn Sơn Thập Đắc không tách rời, trong tiên chúng, họ cũng được phân loại là “hòa hợp nhị tiên”.

Có một hôm, Thập Đắc quét dọn. Chủ chùa Quốc Thanh hỏi: ”Ông tên Thập Đắc là bởi vì thiền sư Phong Can thu nhận ông về chùa, vậy rốt cục ông mang họ gì?” Thập Đắc bỏ cây chổi xuống, đứng khoanh hai tay lại. Chủ chùa lại hỏi: ”Rốt cục ông họ gì?” Thập Đắc nhặt chổi lên tiếp tục quét sân. Từ đầu tới cuối, Thập Đắc đều không trả lời.

🌟

Thật ra, Thập Đắc không đáp mới là đúng, nếu trả lời tên tục thì sẽ cho thấy ông chưa có lời nói sắc bén. Nếu trả lời Phật tính chân thực thì rốt cục chủ chùa cũng chưa chắc đã hiểu, đứng khoanh tay, như thế là được rồi.

Trước kia tôi nói: ”Nếu có người hỏi tôi khai ngộ cái gì? Tôi sẽ chắp hai tay lại, đứng trên một chân, giống như thế “kim kê độc lập” vậy, tôi đã khai ngộ cái này đây, có biết cái này không?” Xin hỏi thánh đệ tử!

🌟

Có một hôm, Hàn Sơn đấm vào ngực rồi hét lớn: ”Ông Trời, ông Trời!” Thập Đắc hỏi: ”Làm gì đấy?” Hàn Sơn đáp: ”Ông chưa thấy người nhà bên Đông chết mà người nhà bên Tây lại khóc thương giúp à?” Hai người cùng nhảy múa. Vừa khóc vừa cười rời khỏi chùa Quốc Thanh.

🌟

Trong mẩu chuyện trên, mọi người có nhìn ra manh mối không? Phương Đông phương Tây là phương nào? Sống là cái gì? Chết là cái gì? Được là cái gì? Mất là cái gì? Chẳng phải là diễn trò vừa khóc vừa cười sao. Đúng là: ”Ông Trời, ông Trời!”

🌟

Tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đời này quy y: Hồng giáo Liễu Minh Hòa Thượng. Bạch giáo Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16. Hoa giáo Sakya Chứng Không Thượng sư. Hoàng giáo Thubten Dhargye Thượng sư. Xin hỏi thánh đệ tử: ”Tôi là giáo phái nào?” Đúng là: ”Ông Trời, ông Trời ơi!”

Có đệ tử lại muốn từ chỗ tôi mà phân tách ra, tôi chỉ có thể vừa khóc vừa cười hét lớn: ”Ông Trời, ông Trời ơi!”

🌟

Trong nửa tháng, tăng nhân ở chùa Quốc Thanh “niệm giới chúng tập”, có nghĩa là tập trung lại để tụng giới. Thập Đắc vỗ tay, nói: ”Tụ tập lại làm việc ấy để làm gì chứ?” Duy Na quở mắng. (Thầy Duy Na trách móc.) Thập Đắc nói: ”Đại đức có thể sống, không sân chính là giới, tâm tịnh tức xuất gia. Tính tôi hợp với anh, mọi pháp đều không khác.”

Bài kệ mà Thập Đắc nói ra đúng là không đơn giản! Nhất là mấy chữ “tính tôi hợp với anh”, cũng hợp với đệ nhất nghĩa đế.

Thập Đắc đúng là “ông Trời, ông Trời”!

47. Hòa thượng Bố Đại và Di Lặc Bồ Tát

Nhân sĩ Trung Thổ chúng ta điêu khắc tượng Phật (Bồ Tát) Di Lặc, phần lớn đều là mặt tròn, tai to, bụng to.

Nguyên nhân chủ yếu là căn cứ theo hình dáng của hòa thượng Minh Châu Bố Đại để mà điêu khắc tạo hình. Bởi vì hòa thượng Bố Đại này vào tháng 3 năm 3 đời Lương Trinh Minh, khi ông sắp thị diệt, tại hành lang phía đông của chùa Nhạc Lâm, ông đã ngồi ngay ngắn rồi tọa hóa.

Ông để lại một bài kệ:

Di Lặc chính Di Lặc Phân thân nghìn trăm triệu Luôn chỉ cho thế nhân Tự thế nhân chẳng biết.

Chính vì bài kệ này mà mọi người mới biết hòa thượng Bố Đại là hóa thân của Di Lặc Bồ Tát. Có người nói sau khi hòa thượng Bố Đại nhập diệt, ngài lại xuất hiện ở địa phương khác, và cũng khoác theo một túi vải to. Mọi người tới tấp vẽ hình ngài để lưu giữ.

Nói như vậy thì hóa thân của Di Lặc, trừ Phó Đại Sĩ ra, còn có hòa thượng Bố Đại nữa!

🌟

Hành tung hoạt động của hòa thượng Bố Đại rất nhiều, kể ra một, hai ví dụ sau:

Hòa thượng Bảo Phúc hỏi: ”Đại ý của Phật pháp là gì?” Hòa thượng Bố Đại bỏ túi vải xuống, khoanh tay trước ngực. Hòa thượng Bảo Phúc lại hỏi: ”Chỉ có thế thôi à? Còn có gì khác không?” Hòa thượng Bố Đại xách túi lên rồi bỏ đi.

Người đời sau bình luận đoạn này nói rằng: Bỏ túi vải xuống là buông bỏ chúng sinh, buông bỏ bám chấp, buông bỏ thân tâm, buông bỏ… Xách túi vải lên là nâng đỡ chúng sinh, xốc lên sự tinh tấn, đề xướng Phật pháp, đề cao…

Tại đây, tôi hỏi thánh đệ tử: ”Còn có gì khác không?”

🌟

Hòa thượng Bố Đại đang đứng trên phố. Có tăng nhân hỏi: ”Hòa thượng ở đây làm gì?” Hòa thượng Bố Đại đáp: ”Đợi một người!” Rồi nói tiếp: ”Đến rồi! Đến rồi!”

Tăng nhân nhìn mãi mà chẳng thấy có ai đến, nên nghi ngờ hòa thượng Bố Đại. Hòa thượng Bố Đại nói: ”Anh không phải là người đó.” Tăng hỏi: ”Người này thế nào?” Hòa thượng Bố Đại đáp: ”Xin hãy đưa cho tôi ít tiền.” (Ngày xưa, có người bình luận đoạn này, cái gọi là đến rồi, đến rồi, là chỉ trở về.)

Tôi thì cho rằng, hòa thượng Bố Đại đợi một người, người này không đến cũng không đi. Tức là “chính mình” đứng ở trên phố.

Không biết mọi người có ý kiến thế nào? Có thể tự nói ra ý kiến của mình, đừng ngại!

🌟

Tôi thích bài kệ của hòa thượng Bố Đại:

”Thị phi yêu ghét đời nhiều lắm, Cẩn thận suy xét mình sao đây Tấm lòng bao la phải nhẫn nhục Mở ra tâm địa chịu theo người Nếu gặp tri kỷ phải y phận Dẫu gặp oan gia cũng hiền hòa.”

Và:

Ta có một túi vải Trống rỗng chẳng vấn vương Mở ra khắp thập phương Đóng vào quán tự tại.”

Lời kệ của hòa thượng Bố Đại rất nhiều, cũng nhiều lời tao nhã đẹp đẽ, rất nhiều lời cảnh giác thế nhân.

Tôi rất thích những hành vi của hòa thượng Bố Đại.

48. Nói về Chí Ngôn Đại Sĩ

Chí Ngôn Đại Sĩ là con trai của Hứa Thị ở Thọ Xuân. Có một hôm đọc “Vân Môn Lục” thì đột ngột khai ngộ, đắc túc mệnh thông!

Lã Hứa Công hỏi: ”Đại ý Phật pháp là gì?” Chí Ngôn đáp: ”Bản lai vô nhất vật, nhất vị tức thành chân.” (Tôi cho rằng nói là bản lai vô nhất vật là được rồi. Nhất vị tức thành chân thì đã thành vẽ rắn thêm chân.)

Tập Thiên Vương chất vấn: ”Cái ý tổ sư đến từ phương tây là gì?” Chí Ngôn đáp: ”Trong bóng núi non tỏa màu xanh, bảo tháp cao ngân vang gió sớm.” Lại hỏi: ”Mời thắp hương.” Đáp: ”Chưa từng tìm trai giới, không hướng Phật cạnh cầu.” (Chí Ngôn Đại Sĩ trả lời rằng ”Trong bóng núi non tỏa màu xanh, bảo tháp cao ngân vang gió sớm”, ý chỉ Phật tính như núi non, bảo tháp, vốn dĩ đã đầy đủ trọn vẹn, tổ sư từ phương tây đến giống như một đám mây ở tại núi non, như một cơn gió cuốn quanh bảo tháp.)

(Mời thắp hương, Chí Ngôn Đại Sĩ có ý rằng, Phật tính không phải đến từ việc trai giới chay tịnh, cũng không phải cầu Phật mà có được.)

🌟

Từ Nhạc hỏi: ”Ý của tổ sư từ phương tây đến là gì?” Chí Ngôn đáp: ”Phía đông đường phố.” Từ Nhạc nói: ”Tôi không hiểu!” Chí Ngôn đáp: ”Người hạng ba không hiểu được.”

(Câu nói “phía đông đường phố” của Chí Ngôn Đại Sĩ chắc là một lời không có liên quan, trên thực tế cũng là chẳng hề liên quan, không biết mọi người có hiểu được không?)

🌟

Có tăng nhân hỏi: ”Trên đời có Phật không?” Chí Ngôn Đại Sĩ đáp: ”Văn Thù Bồ Tát ở trong chùa.” (Tăng nhân hỏi trên đời có Phật không, Chí Ngôn Đại Sĩ lại trả lời là trong chùa có Văn Thù Bồ Tát, tôi xin hỏi thánh đệ tử, Chí Ngôn Đại Sĩ vì sao không trả lời là có, hoặc không trả lời là không, ở đây có lý do gì? Cái này có thể viết thành một bài luận văn đó.)

Nếu tôi là Chí Ngôn Đại Sĩ, tôi sẽ hỏi ngược lại tăng nhân này là: ”Ai là Phật?” ”Anh biết Phật là cái gì không?”

🌟

Có người hỏi Chí Ngôn Đại Sĩ: ”Ông là người phàm hay là thánh nhân?” Chí Ngôn Đại Sĩ trả lời: ”Tôi chẳng sống ở đây.” (Ý của Chí Ngôn Đại Sĩ là, không phải phàm nhân, cũng không phải thánh nhân, lời của Đại Sĩ cũng tức là vô sở trụ, chỉ là ứng hóa mà thôi, tùy ý đến đến đi đi.)

Chí Ngôn Đại Sĩ vào ngày 23 tháng 11 năm Mậu Tý Khánh Lịch [niên hiệu của vua Tống Nhân Tông], lúc sắp viên tịch nói: ”Ta từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu qua nhiều quốc thổ, phân thân biến hóa, nay trở về nam!” Đương nhiên: Qua nhiều quốc thổ cũng là tịnh thổ. Chí Ngôn Đại Sĩ trở về tịnh thổ của mình, còn phân thân biến hóa của ngài đích thực là bất khả tư nghì.

(Cá nhân tôi sau khi đắc túc mệnh thông, Ma Ha Song Liên Trì cũng là tịnh thổ của tôi, Liên Hoa Đồng Tử cũng là Báo thân của tôi. Tôi đến thế gian này cũng là phân thân biến hóa, người biết tôi là người có duyên, người không biết tôi là vô duyên thôi! Tất cả tự nhiên.)

49. Tôi sẽ viết “Thiên hạ đệ nhất xuất sắc”

Sau khi viết xong cuốn văn tập số 191 “Nấc thang của Chư Thiên”, tôi cứ nghĩ mãi, cuốn sách tiếp theo phải viết cái gì đây? Cuốn văn tập số 192 nên viết cái gì? Tâm tư cứ nhấp nhổm không yên.

Kể từ khi tôi viết cuốn: ”Thắp sáng ngọn đèn tâm.” ”Tặng bạn một ngọn đèn sáng.” Sau đó đã tạo ra một sự hưởng ứng rất lớn, trong tông ngoài tông đều thảo luận những nghĩa đế trong sách của tôi.

Độc giả có phản ứng thì tác giả sẽ có động lực để tiếp tục viết tiếp. Tôi nghĩ, tôi sẽ tiếp tục viết “Đọc lại Ngũ Đăng Hội Nguyên - Phần 3” vậy! Ngũ đăng này vẫn là những ngọn đèn nối tiếp nhau: truyền đăng, quảng đăng, liên đăng, tục đăng, phổ đăng.

Một buổi sáng nọ, Liên Hoa Đồng Tử nói với tôi rằng, có thể lấy tên sách là: ”Tìm ngọn đèn sáng bên trong.” (Có ý nghĩa là tự mình bật đèn sáng.)

Và: Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Quán đăng.” (Truyền đăng, quảng đăng, liên đăng, tục đăng, phổ đăng, cộng thêm quán đăng nữa, thật là có ý nghĩa.)

Và: Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Ngọn đèn tỏa ánh vàng rực rỡ.” (Đề xuất của Diêu Trì Kim Mẫu rất trực tiếp.)

Và: Thời Luân Kim Cang nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Đèn sáng vĩnh hằng.” (Bánh xe thời gian trên phương diện vĩnh hằng thì đúng là có ý nghĩa.)

Và: A Di Đà Phật nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Đèn sáng thanh tịnh.” (Phật quốc thanh tịnh, thanh tịnh là số một.)

Và: Đại Cát Tường Thiên Mẫu nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Ngọn đèn xuất sắc số một.” (Ngọn đèn này đương nhiên là số một, ngọn đèn này tuyệt đối là xuất sắc.)

Và: Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát nói với tôi, tên sách cũng có thể là: ”Hồng đăng hằng tại.” (Ánh sáng cầu vồng vốn là huyễn, tồn tại vĩnh hằng là chân lý.)

🌟

Thông qua các ý kiến của Chư Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên, các vị ấy có thể gọi là: “Thiên hạ.” Tự mình thắp đèn sáng ở đây đương nhiên là: “Đệ nhất.” Phật tính chân như này tự nhiên là: “Xuất sắc.”

Thế là, tổng hợp lại các ý kiến của chư vị, bên trong tôi bừng sáng lên, bèn lấy tên sách là: “Thiên hạ đệ nhất xuất sắc.” Tiêu đề phụ vẫn là: “Đọc lại Ngũ Đăng Hội Nguyên - Phần 3.”

“Thiên hạ đệ nhất xuất sắc” này đương nhiên là ngọn đèn xuất sắc số một trong thiên hạ, là sự tổng hợp toàn bộ những ý kiến của chư vị.

Tôi cầu nguyện: Người đọc sách này, đại triệt đại ngộ, tâm khai ý giải, soi sáng chân như, chứng đắc quả vị.

Tương lai tươi sáng rồi!

(Hết)

Mục lục