📗

020. Mạn đàm linh cơ thần toán (Tập 2)

image

Mạn đàm linh cơ thần toán (Tập 2)

🪷 Đích thân trải nghiệm sự thần kỳ của linh hồn

Văn tập số: 020 Xuất bản: 11/1975 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Trước khi bạn đọc cuốn sách này, tôi lại muốn thanh minh một câu, tuyệt đối đừng ngây người ra nhìn. Về sự thần kỳ của linh hồn, trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” (Tập 1), và cuốn “Giữa linh và tôi”, tôi đã kể ra rất kĩ càng tỉ mỉ rồi. Việc có hay không có linh hồn, tôi không cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, song tôi vẫn vỗ ngực mình hướng đến nhân loại toàn thế giới mà hô lên rằng, thế giới này đích thực có linh hồn, hãy khẩn trương cứu rỗi linh hồn của chính mình đi!

Cảnh giới mà tôi đã gặp là một cảnh giới chỉ có chính mình mới hiểu, người khác đều không hiểu được. Tôi biết có rất nhiều người cũng có thể hiểu được, nhưng họ đều không nói ra. Họ là những “người trí giả ngu”, hoặc quá hèn nhát, không dám để cho người khác biết được, bản thân có được chân lý, lại dường như sợ người khác cướp đi mất. Chỉ có tôi ngốc nghếch, cái gì cũng nói ra, hễ tôi biết cái gì, tôi đều nói ra, hy vọng rằng người người đều biết, linh hồn là thật, tuyệt đối không sai, luân hồi sau khi con người chết đi cũng là thật, thiên đường địa ngục đều là thật, không phải là một câu chuyện bịa đặt bởi những nhà tôn giáo để lừa dối mọi người. Tôi dám bảo đảm bản thân chính là nhân chứng tốt nhất, cho dù ép không được nói thì tôi vẫn phải nói, uy lực không thể khuất phục tôi.

Các bạn thân mến, đừng lấy khoa học ra để áp chế tôi, cũng đừng lấy mê tín ra để áp chế tôi. Khoa học chỉ là một loại công cụ để con người tìm cầu sự thật, đóng góp của khoa học dĩ nhiên là rất vĩ đại, nhưng, vũ trụ bao la, không gian mênh mông, có quá nhiều quá nhiều sự việc khoa học không thể nào tìm cách chứng thực được. Những hiện tượng linh dị này duy có linh học mới có thể giải thích được, cũng duy có linh học mới có thể giải đáp một cách hợp lý và hoàn mỹ vấn đề đến đi của đời người.

Có người nói quá mê tín, điều này cũng khó trách, bởi vì người bình thường đã quen coi những sự vật không thể giải thích được, bao gồm thần linh, linh hồn, linh khí, v.v… là mê tín. Người bình thường không nhìn thấy, không nghe thấy, cho giả là thật, cho thật là giả, không tin Phật pháp, phỉ báng Phật pháp, dùng sự “vô tri” để chế nhạo “chân tri”, giống như một đám ngu dân năm xưa đem Chúa Jesus đóng đinh trên cây thập tự, đó là sự kiện bi thảm lớn nhất của nhân loại, dùng mê tín để chế giễu chính mình, che đậy cái vô tri của chính mình.

Hiện tại tôi đang mang thân phận Đạo sĩ, cái gọi là “Đạo” là chân lý, hiểu Đạo chính là hiểu rõ chân lý. Tôi biết đích xác cái gì gọi là “pháp luân thường chuyển”, đích thực biết rằng con người đều có một thứ “chân linh”, “chân linh” là một khối chân khí, tồn tại vĩnh viễn, chân khí này cũng là Phật tính của Phật giáo. “Chân nhân” mà Đạo gia nói đến, người thời nay tu Đạo đui tu mù luyện, không hiểu bản tâm, ngông cuồng đòi hỏi cảm ứng, lại không biết rằng “Đạo sáng” tự nhiên cũng là cảm thông. Cảm thông cũng không phải là chỉ có ý nghĩa tự thân, mà còn là mấu chốt tự nhiên thông hết tất cả những chân lý chí cao trong thiên hạ như nước Trường Giang cuồn cuộn, có thể giải thích căn nguyên, đó là chân lý tuyệt vời biết bao.

Người ngu muội nhất, nghiệp chướng sâu nặng, không tin nhân quả, họ cho rằng con người chết là chết thôi, tất cả đều không còn, toàn bộ hóa thành số không, thần gì, quỷ gì, thiên đường địa ngục đều là lừa người. Những người này sao không thử nghĩ, không có sinh ra sẽ không có cái chết, không có cái chết cũng sẽ không có sinh ra. Nếu thật sự tất cả đều hóa thành số không thì sống có ý nghĩa gì chứ! Chính là cái kiểu tư tưởng có vẻ như đúng mà lại là sai này khiến rất nhiều người không tin nhân quả, giết người trộm cắp, mặc sức buông thả, mọi việc ác đều làm hết, những người này cơ bản là không sợ báo ứng.

Nhất là thanh niên hiện đại nhận được một chút giáo dục liền tự nhận mình là phần tử tri thức đứng cao hơn người, chỉ biết đi theo sau đít người ta mà hét lên: “Tất cả đều là mê tín hết, linh hồn đều là người lừa người.” Còn trên thực tế, kiến thức về linh hồn của anh ta chẳng khác gì con số không, ngay cả nằm mơ cũng chưa từng nằm mơ nữa! Tôi cho rằng “biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó mới thật là biết”. Câu nói này cực kì đúng, tôi mong rằng người người tu tập khởi linh, nếu khởi động được linh thì phải khiến cho những kẻ chế giễu là mê tín kia ngay lập tức phải câm miệng lại, bởi vì đó là cảm ứng đặc thù chỉ có giữa linh hồn với linh hồn, là tâm tâm tương ấn đặc biệt đó!

Cuốn sách này tôi viết là để đáp ứng yêu cầu của độc giả, bởi vì những nghi vấn của độc giả có dùng tàu hỏa để chở cũng không chở hết. Họ yêu cầu tôi có thể lần lượt giải đáp, cho nên tôi đành phải động bút để loại bỏ những chướng ngại của việc tu linh. Đồng thời, bởi vì có quá nhiều người tò mò, người người tìm đến, tôi đã trở thành người không có chút thời gian tu tập nào, vì thế tôi viết cuốn sách này lấy câu chuyện của bản thân mình làm chính, kiêm giải đáp nghi vấn của độc giả, tránh cho người người tìm đến tôi.

Về phương diện tôn giáo, hiện tại tôi sùng Phật, yêu Đạo, thích Cơ Đốc, vì sao? Bởi vì lòng nhân từ và bác ái của Cơ Đốc khiến tôi cảm động, tôi từng được rửa tội ở giáo hội Trưởng Lão. Tôi yêu Đạo pháp, bởi vì tôi học qua thần toán, chiêm bốc, diễn thuật, kỳ môn độn giáp, tứ trụ suy mệnh, phù chú, linh thông và các pháp Đại thừa, cho nên tôi yêu Đạo pháp tiểu thuật là thật. Và tôi sùng Phật là mục tiêu cuối cùng, mục đích sùng Phật chính là để thành Phật. Trong Đạo môn tôi từng qua công đức, trong Phật môn tôi thọ giới Bồ Tát làm một ưu bà tắc.

Một người thành tựu Đạo pháp không phải dễ, Phật Thích Ca Mâu Ni 6 năm ở núi tuyết, Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi khô trong rừng trúc tía, Tổ sư Đạt Ma quay mặt vào tường 9 năm, nghe kiến đánh nhau như tiếng sấm. Hôm nay tôi cũng gặp phải ma nạn và sự giày vò, chỉ mong tôi có năng lực, dùng trí huệ và linh lực của mình, đạt được chứng quả sáng rực rỡ, đây chính là mục tiêu cuối cùng của tôi.

(Tháng 11/1974)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Nhận thức chính xác về linh hồn

Trên thế giới ngày nay, học giả nghiên cứu linh hồn không thể xem là số ít, ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ cũng ít nhiều có truyền thuyết về linh hồn, trong trường Đại học London và Đại học nước Mỹ cũng có khóa học về linh hồn học. Họ nghiên cứu thuật phù thủy của châu Phi và chú thuật Bà La Môn của Ấn Độ, những người đó đầy ắp lòng hiếu kỳ về linh thuật kỳ quái. Nhưng kết quả của họ là kiến thức nửa vời, có vẻ biết Đạo, nhưng lại dường như chỉ là sờ không tới giới hạn.

Bản thân linh hồn giống như không khí, không mùi không vị, như điện, không có hình tượng, như xạ tuyến, khiến người ta không có cảm giác gì cả. Tuy nhiên, sự hiển hiện của linh hồn có thể mượn vật sai khiến vật, mượn vật để tái hiện, mượn vật để phát sinh ra một dạng sức mạnh kỳ quái, giống như hệ thần kinh của con người, nhân tố tiềm tàng bên trong ý thức, trong sự vô thức đột nhiên thông hiểu hết. Nhà ngoại cảm mà người nước ngoài gọi, chính là hình thức cho mượn thân thể để cho linh chiếm thân, ở nước ta gọi là kê đồng, kê đồng chính là người để cho thần quỷ nhập vào trong thân mình. Về bản thân năng lực của linh hồn mà nói thì không phải đều giống như nhau, linh lực của họ có lớn có nhỏ, tính chất ở đây giống với điện lực nhất, có một số dòng điện là điện cao thế, hễ tiếp xúc là chết ngay, có một số hễ tiếp xúc thì tim sẽ bị tê bì, còn điện lực nhỏ thì sẽ khiến người ta toàn thân run rẩy không ngừng, và điện lực nhỏ nhất thì không khởi được tác dụng gì. Hiện tại theo như tôi biết, thần minh giáng loan thông thường điện lực không lớn, chỉ khiến cho kê đồng không ngừng run rẩy mà thôi.

Sự tái hiện của linh hồn giống như truyền phát truyền hình vậy, sự hiển hiện của nó giống như màn hình tivi, cái này đều là vấn đề của nhân tử. Linh thể bên trong thân thể người chúng ta nếu có sẵn nhân tử của linh nhãn thì chắc chắn có thể thường xuyên nhìn thấy linh giới, tình trạng này giống như thân thể bạn chính là kết cấu của một chiếc tivi, có bản năng thu hình thu thanh, và có antenna nhạy bén. Loại người này tôi từng biết cũng không ít, có một số người là bẩm sinh, cũng có người đột nhiên nhìn thấy được. Tuy vậy, chỉ cần có trải nghiệm một lần, sau này chắc chắn có thể lại nhìn thấy được, trừ phi nhân tử có khả năng nhìn được đó tiêu biến mất.

Bình thường, thân thể của tôi có thể tiếp nhận được âm thanh truyền đến từ linh giới, ở nước ta mà nói thì đây là linh nhĩ thông, còn gọi là thuật nghe âm, thời kỳ rất sớm thì gọi là pháp nhĩ báo. Tình huống này giống như máy thu âm, chỉ cần tần số của linh hồn bên trong thân thể bạn giống với tần số của linh nào đó trong linh giới thì nhất định có thể nghe được âm thanh của linh. Âm thanh của linh truyền đi giống như tiếng điện thoại, có khi to, có khi nhỏ, thậm chí cũng có những tiếng ồn ào xuất hiện, đôi khi cũng có hiện tượng nhiễu loạn xuất hiện. Điều này cũng giống như tần số của chúng ta nằm ở giữa hai trạm phát thanh cho nên sinh ra sự nhiễu loạn.

Người thần kinh thất thường đôi khi có thể nhìn thấy vong hồn, đôi khi có thể nghe thấy quỷ thần nói chuyện, chúng ta gọi là rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, tôi lại cho rằng những gì mà họ nhìn thấy và nghe thấy, kì thực có một số không phải là giả. Người bị thần kinh suy nhược, linh thể của họ mất đi tác dụng tự chủ, nhục thể thường xuyên bị tà linh của linh giới tấn công, và thế là tà linh sẽ mượn thân thể đó mà sống, sản sinh ra hiện tượng quỷ khóc thần gào, liên tục nói lảm nhảm, lúc tốt lúc xấu. Người thần kinh thất thường và kê đồng ngoại cảm chân chính không có sự khác biệt lớn. Tôi không cố ý sỉ nhục kê đồng, chỗ để phân biệt đó là linh nhập vào kê đồng là trong thời gian ngắn, và là do cố tình để cho nhập, còn người thần kinh thất thường thì là một sự hỗn loạn lâu dài, không thể tự chủ.

Muốn hiểu rõ về thế giới của linh hồn, quan trọng nhất không phải là từ việc nghiên cứu, mà là luyện chính mình thành cái thể cho linh hồn tái hiện, linh hồn của bản thân bạn đi tiếp xúc với linh hồn của ngoại giới, phương pháp khởi động chân linh nguyên thủy kiểu này gọi là khởi linh. Thông qua nghiên cứu bao năm qua, tôi sâu sắc biết rằng khởi linh là một việc cực kì đơn giản, chỉ là phần lớn người đời không biết mà thôi. Sau khi khởi linh xong còn phải luyện linh, trên thực tế, luyện linh khó khăn hơn khởi linh rất nhiều, nếu có thể luyện thành công, việc nhìn thấy linh giới, nghe được linh âm về cơ bản không phải là vấn đề lớn. Lúc này có thể biết ngay từng câu mà Lư Thắng Ngạn tôi đã nói không hề giả dối.

Tôi không có con mắt âm dương bẩm sinh, mà là sau khi tôi nhận được sự dạy bảo của linh sư Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh và Thanh Chân Đạo Trưởng, tôi mới hoàn toàn thông hiểu linh trí của mình. Tôi thích làm bạn cùng thiên chúng Thần Phật, gần gũi với họ, tôi cũng thích làm bạn cùng ma, rất nhiều ma có tính tình đơn thuần và lương thiện hơn con người, họ là những con ma vừa đáng kính vừa đáng yêu. Trái lại, tôi luôn cảm thấy con người không đáng yêu như ma, lòng người ích kỷ, lòng người đố kỵ, lòng người xấu xí, có những chỗ chẳng thật thà ngay thẳng bằng ma. Vì thế tôi thích thân thiết với họ, họ cũng coi tôi như anh em vậy!

Tôi đến Kim Sơn ở miền Bắc đo đạc ở vùng Dã Liễu, từng trông thấy quái linh hiếm thấy trong đời này. Những quái linh này có hình dạng như trẻ con, đầu to như cái đấu, thân hình thì thấp bé, từng đám từng đám nô đùa bên bờ biển,. Trông thấy tôi, chúng đi theo tôi la ó gào thét, chạy tới vây kín xung quanh tôi. Tôi kể cho bạn bè nghe, họ đều không tin.

Tôi có mấy người bạn là ma nhỏ, đa số chúng chết khi còn là trẻ con, có đứa bị bệnh mà chết, có đứa gặp tai nạn bất ngờ mà chết, tuổi thọ ở dương thế chưa hết nên hồn không có nơi nương dựa, Thổ Địa Công Công thương xót nên tạm thời thu nhận và giúp đỡ, bọn chúng có khi nửa đêm tới tìm tôi. “Lư đại ca, kể chuyện cho chúng em nghe đi.”

Trong lòng tôi rất đồng cảm với những vong hồn không nơi nương tựa này, tôi thường hay kể chuyện, kể được một nửa, nghĩ đến cảnh đời của chúng, trong lòng dâng lên niềm xót thương, tôi và chúng ôm nhau khóc òa, bi kịch cuộc đời có khác gì thế này đâu!

Sự tồn tại của linh hồn giữa trời đất đều có, ở thành phố náo nhiệt cũng có, dù không mùi không vị, nhưng nếu có linh thể không mùi không vị đi tiếp xúc với linh giới thì tự nhiên cũng là vô cùng kỳ diệu phi phàm rồi.

Hôm nay, dù tôi có lòng dũng cảm để thẳng thắn nói với nhân loại rằng linh hồn có thật, bản thân con người bạn cũng có, và xung quanh bạn cũng có linh hồn tồn tại, nếu bạn học được khởi linh thì sẽ biết tôi không nói xằng bậy, tuyệt đối chân thật chính xác.

02. Nguồn gốc của thuật linh thông

Khi một người từ trong cảnh giới phổ thông bình thường đột ngột tiến vào linh giới, biết về việc có linh lực tồn tại, dựa vào linh lực lớn hay nhỏ của người đó mà sản sinh ra hiện tượng linh thông [các thần thông trên phương diện tâm linh]. Có người có thể dự đoán tương lai, có người có dự cảm, biết việc quá khứ, những người này nếu tiến vào tôn giáo có thể trở thành kê thủ, làm kê đồng hoặc kê sinh, người cao minh hơn một chút thì trở thành người xem tướng triết học, thầy địa lý, người càng cao minh hơn thì biết thiên văn địa lý, thông hiểu quỷ thần âm dương.

Tâm pháp Phật nhãn tối thượng thừa của thuật linh thông chính là sáu đại thần thông mà chúng ta thường gọi: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, lậu tận thông, túc mệnh thông. Đối với các thuật linh thông bình thường như thần toán, xem bói, bốc quẻ, cảm ứng tâm điện, viên quang [xem quả cầu ánh sáng], phù kê [lên đồng viết chữ], nhĩ báo, mộng thông, thủ thông, giác quan thứ sáu, chúc do [một khoa mục chữa bệnh theo Đạo giáo của Đông y xưa], v.v… công phu tu luyện thấp hơn sáu đại thần thông kia, nhưng nói một cách nghiêm túc thì cũng linh nghiệm kỳ lạ vô cùng rồi.

Người có linh lực càng cao thì sức mạnh linh thông của họ cũng càng cao, linh lực của một số người còn vượt qua cả linh lực của ma quỷ rất nhiều. Càng có một số người tu Đạo, bình thường linh lực của họ ẩn sâu không lộ ra, nếu gặp lúc phải dùng tới, chỉ cần mở thiên khiếu ra, một đường ánh sáng trắng xung thẳng ra ngoài đến tận sao Đẩu sao Ngưu, không những linh lực của họ rất hoạt bát mà thậm chí nhục thể cũng có thể nâng cao lên đến mười thước, cái này chính là linh lực còn vượt qua cả lực của thể xác, vì thế có thể nâng cao lên.

Tác giả từng có một lần nhập thiền định, “chân ngã” xung thẳng lên trên, đến một Phật quốc, gặp một vị Phật giác giả khổng lồ ngồi trên hoa sen tỏa ánh sáng quý, bên dưới tòa hoa sen có một số người xuất gia và cư sĩ đang ngồi yên lặng nghe Phật giảng kinh. Tác giả nhón chân đến ngồi bên cạnh, không dám lên tiếng.

Lúc này, mắt Phật như điện, nói rằng: ”Người đến chẳng hay là Liên Sinh?” ”Thưa vâng, đệ tử Nam Chiêm Bộ Châu là Liên Sinh ở Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc, là người tu Đạo phụng theo Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp.” - Tôi cúi lạy sát đất, cung kính trả lời.

Những người xuất gia và cư sĩ đang ngồi đó ngoảnh đầu nhìn tôi, trong số đó chẳng ngờ lại có một người xuất gia và một cư sĩ cũng là người Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc ở thế giới Ta Bà Nam Chiêm Bộ Châu. Hai người họ đến trước tôi, đạo hạnh dĩ nhiên là cao hơn tôi, sự xuất hiện của tôi cũng khiến hai người họ cực kì kinh ngạc. Họ chẳng thể nào nghĩ rằng chỉ dựa vào một chút linh lực nhỏ bé này của tôi mà cũng có thể xoay mấy vòng, thế rồi đến được Phật quốc nghe giảng kinh.

“Liên Sinh, anh có thể đến đây nói chung là không tệ, nhưng căn khí của anh và người xuất gia khác nhau, cái gọi là tâm thường ở nơi chân tính của mọi pháp là không thể chấp có, không thể chấp không, từ đó quan sát chân lý diệu kỳ của trung đạo, làm việc thế tục để chuyển hóa hữu tình, người bền bỉ tu từ bi gọi là Nguyện Ba-la-mật, dựa vào bốn thề nguyện lớn để mà thu nhận chúng sinh, như thế cũng là rất vất vả rồi.” - Phật từ bi thuyết pháp cho tôi. ”Đệ tử hiểu.”

Khi tôi phi thân vào hư không giới, trông thấy bốn phương vũ trụ trên dưới tròn vành vạnh, xa xăm thăm thẳm, trong lòng tôi cảm thấy rất buồn bã. Từ Phật quốc đi ra, linh thể tự do thoải mái biết bao, thế nhưng khi vừa trở về đến ngũ trọc ác thế, thân thể lại chịu sự trói buộc của thể xác hữu hình, chịu sự trói buộc của hoàn cảnh gia đình, chịu sự trói buộc của những ánh mắt khinh thường mà nhân loại ném vào mình, tôi làm sao có thể đảm đương trọng trách tuyên truyền Phật pháp, gánh vác nhiệm vụ cứu rỗi linh hồn lớn lao này chứ! Tôi dựa vào sức mạnh linh thông hiện có, muốn lay chuyển những con người không tin quỷ thần, những kẻ ngu muội không tin nhân quả, có thể sao? Có thể tôi sẽ thành công, có thể tôi sẽ thất bại, còn phải xem vận may của tôi nữa.

Thuật linh thông ai ai cũng có thể tu tập, nhưng nhất định phải nhớ gìn giữ chính niệm của mình, không cho phép sinh ra suy nghĩ sai lệch xấu xa. Thuật linh thông này không phân biệt chính tà, người chính tu thì nó sẽ chính, người tà tu thì nó sẽ tà, nếu có suy nghĩ xấu xa, tu tập không những không thể giúp người lợi mình mà rất có khả năng ngược lại là hại người hại mình, như thế thì chi bằng không tu, chỉ cầu ngoại công viên mãn, không cầu linh thông, cho đến khi có một ngày cơ duyên chín muồi thì lại tu cũng chưa muộn.

Có hai thanh niên chạy tới nhà tôi xin tôi ban cho bí thuật linh thông. ”Dùng để làm gì?” - Tôi hỏi. ”Tò mò thôi.” - Một người trả lời. Người kia thì nói lời rất đao to búa lớn rằng: “Để tìm bằng chứng cho sự thật giả của linh.” Người này cười nhếch mép, nét mặt tỏ vẻ coi thường.

Tôi nói: ”Các cậu có quyền không cần tin, thuật linh thông này chính là phát ra từ tâm mình, nếu tâm không chân thành thì làm sao có thể linh? Một người trong lòng chỉ có sự tò mò, tò mò thì chỉ để mua vui, không phải thành ý, một người chỉ vì muốn chứng minh thật giả thì làm gì có sự thành kính, trong lòng không thành kính thì làm sao có thể cảm thông linh lực? Các cậu không cần tìm tôi, ngược lại, hãy tìm cầu chính các cậu đi!” Hai người họ bối rối bỏ đi.

Đúng vậy. Thuật linh thông là tuyệt đối chân thực, linh lực cũng là tuyệt đối chân thực, nguồn gốc của nó là cái gì? Chính là “chính mình”. Duy có sự tu luyện thành tâm thành ý của chính mình mới có thể đạt được.

Nếu đạt được dấu hiệu của linh lực giai đoạn đầu thì cũng đừng vội mừng, đây mới chỉ là bước công phu đầu tiên của tu Đạo, tương lai của nó còn dài lắm! Nếu có thể giữ được lòng kiên trì, không bỏ dở nửa chừng, làm nhiều công đức thiện, tiêu trừ nghiệp chướng nhiều kiếp, kiêm tu công phu nội ngoại như vậy, phúc huệ viên mãn, chắc chắn sẽ chứng đạo Bồ Tát, đến được trình độ này thì sẽ nhận ra những điều chí lý về linh lực trong thiên hạ này, trong cõi vô hình này.

Nếu gặp cơ duyên mà lại xem thường, không biết đời người quý ở chỗ biết tu mà vẫn còn bận rộn chạy theo tiền tài danh lợi mỹ sắc, tuổi già và cái chết đến gần mà vẫn không tự biết, cứ thế, một khi vô thường xảy đến thì đúng là: “Thị phi thành bại quay đầu lại chẳng có, Tịch dương ánh tà đã đỏ qua bao lần.”

03. Sự thần kỳ của Ngũ Quang Bồ Tát

Tôi không biết lai lịch của Ngũ Quang Bồ Tát, cũng không biết khởi nguồn của ngài, nhưng ở đằng sau một cuốn kinh điển cực kì cũ kĩ, tôi đã đọc thấy Ngũ Quang Bồ Tát thần chú. Tôi tò mò đọc một đoạn thì thấy sau chú ngữ này có kèm thêm mấy hàng chữ nhỏ: “Chú này có công đức cao ngút trời đất, sức mạnh có thể lên tới thiên đình, cứu được sống chết bệnh nạn, công đức cực lớn. Đây chính là bảo chú cứu đời mà năm xưa Ngũ Quang Bồ Tát khi thăng thiên đã dành tặng.”

Tôi kiểm tra kinh chú ở khắp các nơi, chú ngữ Phật giáo không có thần chú Ngũ Quang, trong kinh chú Đạo gia cũng không có. Tôi lại lật giở tam mật đại chú thân-khẩu-ý của Mật tông cũng không có chú ngữ này. Tôi không nản lòng, lại tìm kiếm chú ngữ của phái Long Hoa, mật chú của bốn tông phái Thiên Thai, thậm chí cả kinh chú của Hiên Viên giáo, nhưng đều không tìm thấy ghi chép về thần chú Ngũ Quang Bồ Tát. Lúc này tôi nghĩ, chẳng lẽ vị Ngũ Quang Bồ Tát này là Bồ Tát hiển hóa trong lúc lên đồng viết chữ chứ không phải là thật có điển cố để mà tham khảo, vậy thì không cần phải quá coi trọng.

Mãi cho đến một hôm, bạn thân của tôi là Văn Tường Anh không may bị xe tải đâm trúng từ đằng sau, hôn mê bất tỉnh nhân sự, nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện. Theo kiểm tra của bác sĩ, xương chân bị gãy bên trong, da thịt bị rách, đã khâu 53 mũi, nghiêm trọng nhất là não bị chấn động, không phải là nhẹ mà khá nặng. Bác sĩ lắc đầu, cho rằng chín phần chết một phần sống, tính mạng không còn hy vọng gì nữa! Tôi chạy vội đến bệnh viện, Văn Tường Anh đã nằm đó một ngày một đêm, mắt còn chưa mở, từ đầu tới cuối vẫn hôn mê trên giường, khuôn mặt nhợt nhạt còn lộ ra màu sắc xám lạnh. Bác gái Văn nước mắt như mưa, hoàn toàn bất lực.

“Thắng Ngạn, cháu có cách gì có thể khiến cho Tường Anh tránh được nạn này không? Cả đời nó hiền lành, cũng chưa từng mắc lỗi gì nặng, vì sao lại gặp phải nạn lớn như vậy chứ? Tường Anh bình thường rất kiền thành lạy Phật, Phật Tổ cũng nên phù hộ cho nó mới phải chứ!” - Bác gái Văn nghẹn ngào nói.

Tôi nghe bác gái nói như vậy, trong lòng cũng rất đau buồn. Văn Tường Anh tin Phật cũng là do tôi dẫn dắt, bình thường cô ấy cũng niệm Phật, có một khoảng thời gian cũng sống trong chùa, sớm tối thực hành công khóa, tâm địa thuần thiện, nói như vậy thì cô ấy cũng không nên là một người phải chết yểu.

“Bác gái, Tường Anh chắc sẽ không gặp chướng ngại lớn đâu, cũng có khả năng bác sĩ kiểm tra sai rồi, cháu sẽ thay cô ấy niệm chú ngữ, hy vọng chư Phật Bồ Tát sẽ mau chóng cảm động, có thể cứu mạng cô ấy, như vậy thì tốt rồi.”

Tôi nghĩ đến việc niệm chú, nhất thời không biết trì chú gì mới tốt. Chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, chú Kim Cang, tâm chú đều từ trong tâm tôi trôi tuột ra, cuối cùng tôi nghĩ đến thần chú Ngũ Quang Bồ Tát “cứu được sống chết bệnh nạn” kia. Thế rồi tôi tìm một cái ghế tựa, ngồi quay mặt về phía cửa sổ, nhìn ra trời xanh mây trắng bên ngoài cửa sổ, tay kết tâm ấn, trong lòng cung kính phụng thỉnh: “Đệ tử Liên Sinh, một lòng phụng thỉnh thần linh đi qua đi lại các cõi trời, nay Văn Tường Anh gặp nạn sắp chết, Liên Sinh kính cẩn dùng thần chú Ngũ Quang Bồ Tát gia trì, mong rằng chư Phật Bồ Tát theo lời thề nguyện cứu khổ cứu nạn mà ban sức mạnh từ bi phù hộ…” Tôi ngồi đó niệm chú, một lúc sau, trong phòng bệnh tràn ngập khí cát tường, mùi đàn hương không biết từ đâu đưa tới.

Tôi niệm thần chú Ngũ Quang Bồ Tát, niệm trơn tru như nước chảy mây trôi, không bỏ sót một chữ nào, tâm linh tôi thanh tịnh như nhập vào trong cảnh ngộ quên mất chính mình, chỉ có chú ngữ Ba-la-mật từng câu từng câu như những đóa hoa sen nở ra. Cảm nhận tâm linh đạt đến cực độ, dường như có nước ngọc ngọt ngào từ trên bầu trời kia đi vào trong cổ họng tôi, từ trên xuống dưới, trời đất giao cảm. Tôi quên luôn tôi đã niệm bao nhiêu biến chú ngữ.

Vào ngày thứ hai sau khi tôi niệm xong chú ngữ thì Văn Tường Anh tỉnh dậy, bác trai bác gái Văn và những người bạn thân thiết đều mừng mừng tủi tủi. Tổng cộng cô ấy ở trong bệnh viện an dưỡng nửa tháng, rồi an dưỡng tại nhà nửa tháng nữa thì mới xem là bình phục. Các bác sĩ chủ trị cho rằng não của Văn Tường Anh bị chấn động mà có thể hồi phục nhanh như vậy có thể xem như là một kỳ tích rất lớn.

Sau sự việc đó, Văn Tường Anh gặp ai cũng kể, trong lúc hôn mê, cô ấy bị hai con quỷ trói lại, từ một con đường lớn sáng rực rỡ rẽ vào một con ngõ nhỏ tối tăm. Cô ấy gắng sức vùng vẫy nhưng không thể thoát ra được. Hai con quỷ đó diện mạo dữ tợn, cực kì đáng sợ, cô ấy cũng hét to kêu cứu, nhưng nơi hoang vu mênh mông không một bóng người. Ở nơi âm u tối tăm này, họ đi đến bên một con sông lớn, trên con sông ấy sóng cao ngút trời, từ bờ bên này không nhìn thấy bờ bên kia, trên bờ có một con thuyền nhỏ, hai con quỷ giữ chặt hai bên ép cô lên thuyền. Trong lòng cô ấy vô cùng hoảng sợ, cực lực đấu tranh. Đúng vào lúc này, bầu trời đột nhiên sáng rực rỡ, xuất hiện một vị Bồ Tát hiền từ, ánh sáng ấy phát ra từ tòa hoa sen của Bồ Tát, chỉ nghe Bồ Tát nói: “Hai vị âm sai, hãy thả người này, người này trả về cho ta.”

Hai con quỷ nghe lời, quỳ xuống đất rập đầu, rồi lập tức cởi dây trói. Bồ Tát ngâm thơ: “Sấm sét vô tư nổ một tiếng Thiện ác thế gian đều phân minh Người nào ngày ngày làm phương tiện Tai qua nạn khỏi đón phúc vào.” Còn nói: “Ta chính là Ngũ Quang Bồ Tát, mau đi theo ta.” Bồ Tát lập tức hóa thành một đường ánh sáng trắng đi ở phía trước, còn Văn Tường Anh ở phía sau đi theo ánh sáng trắng, đi ra khỏi con đường nhỏ quanh co ngoắt ngoéo, cho đến tận khi tỉnh lại. Bác gái Văn và Văn Tường Anh luôn miệng nói cảm ơn tôi.

Tôi nói: “Việc nhanh chóng có sự cảm thông tâm linh này đều là do bản thân Tường Anh có tâm địa thuần thiện, ngày thường niệm Phật mới có thể cảm thông. Bản thân cháu chỉ là cố gắng hết sức làm việc nên làm mà thôi, còn Bồ Tát y theo nguyện lực mà cứu giúp, cũng không phải là không phân thiện ác, vẫn là phải cẩn thận nghiệp lực của mỗi người. Nếu tạo ác nghiệp phải mau mau sám hối, điều này là quan trọng.”

Tôi kể sự việc thần kỳ của Ngũ Quang Bồ Tát này cho một vị xuất gia, vị xuất gia này là trụ trì của một ngôi chùa ở miền Nam. Ông ấy trầm ngâm một lúc rồi nói: “Ngũ Quang Bồ Tát à? Thật sự là chưa từng nghe qua, thần chú của Ngũ Quang Bồ Tát thì lại càng chưa từng nghe nói đến. Có lẽ nói không chừng lại là mật chú của tiên linh ngoại đạo. Lư Thắng Ngạn, nếu anh học Phật thì hãy y theo chú ngữ của Phật gia để gia trì là được, không nhất định phải niệm thần chú Ngũ Quang Bồ Tát đâu.”

Chính vì đại sư phụ nói như vậy nên không ai biết thần chú Ngũ Quang Bồ Tát, tôi không dám trì bừa, cho nên cũng dần dần buông lơi. Trái lại, tôi trì Thất Phật diệt tội chân ngôn hàng ngày rất chu đáo, cuối cùng tôi dùng Thất Phật diệt tội chân ngôn làm tâm chú trì tụng lâu dài của mình.

Cho dù không ai biết đến thần chú Ngũ Quang Bồ Tát, nhưng tôi từng trì chú này, cũng xem như là có một đoạn nhân duyên, nên tôi đặc biệt ghi lại, biết đâu trong biển người, có ai đó có thể biết nguồn gốc của Ngũ Quang Bồ Tát, vậy thì sẽ giải tỏa được thắc mắc trong lòng tôi.

04. Nghiệp báo không hề dễ chịu

Chương trước có nói đến chú ngữ, chú ngữ tự nhiên cũng có chú lực, nhưng nếu một người ác trì chú, nếu ác nghiệp của người đó sâu nặng, nghiệp lực và chú lực sẽ khử lẫn nhau, nếu nghiệp lực lớn thì chú lực cũng không cách nào khử hết được tà. Cho nên nghiệp báo không hề dễ chịu, điểm này không hề giả một chút nào.

Vì tôi siêng năng tu Đạo pháp, tìm hiểu về Đạo và tìm hiểu người tài đức, tính cách tôi thích nghiên cứu tôn giáo, tôi cũng có không ít bạn bè thành tựu về phương diện này, trong số những người tôi biết có một câu chuyện như thế này, là chuyện có thật và chính tôi cũng tham dự vào. Người này mặc dù đã không còn ở tại nhân gian nữa, nhưng cũng không ít người biết đến, nên tôi đặc biệt giấu tên, mượn một cái tên giả để gọi, mong bạn đọc thông cảm.

Pháp sư Hoành Huyền là người Tân Doanh, Đài Loan, xuất gia tại một ngôi chùa ở Thổ Thành, Đài Bắc. Hoành Huyền tốt nghiệp cấp ba xong, vì nhiều yếu tố gia đình và hoàn cảnh nên đã đi đến miền Bắc mưu sinh. Sau khi trải qua nhiều thất bại khi tìm kiếm việc làm ở Đài Bắc, anh kết bạn với một người xuất gia, người xuất gia kia độ cho anh ấy xuất gia làm tăng, anh ấy cũng hoan hỷ tiếp nhận, lấy pháp hiệu là Hoành Huyền. Thường ngày anh trồng rau trồng cây ăn quả ở sau chùa, các giờ lên lớp sáng tối cũng khá nghiêm túc. Có một lần, tác giả gặp mặt pháp sư Hoành Huyền tại Thập Phương Đại Giác Viện ở Cơ Long, đó là địa điểm tổ chức một pháp hội lớn, pháp sư Hoành Huyền đảm nhiệm là người dẫn đọc tán văn.

Hoành Huyền có nhận thức khá sâu về Phật lý, tài ăn nói rất tốt, tôi từng thỉnh thị anh ấy lý thuyết về thị tịch, câu trả lời của anh ấy rất toàn vẹn. Sau này tôi trở về miền Trung, chỉ có thư từ qua lại. Tôi nghe người ta nói, Hoành Huyền từng là chủ tọa của một nhóm tụng kinh trong một ngôi chùa lớn ở Đài Bắc, người học tụng kinh mỗi người phải nộp 500 tệ (hàng tháng), hơn nữa khi đi tụng kinh ở bên ngoài, những chi phí thu được đều bị Hoành Huyền độc chiếm. Sau đó, do xảy ra tranh chấp với trụ trì của ngôi chùa lớn đó, ồn ào đến mức không còn vui vẻ với nhau nữa, chủ chùa tố cáo Hoành Huyền muốn chiếm đoạt tiền quỹ của chùa, Hoành Huyền cũng tố cáo trụ trì của chùa tham ô tiền hương đèn.

Người xuất gia dính líu đến tài sản của nhà chùa đúng là đem phân bôi lên đầu Phật. Một người tu trì thanh tịnh cần phải nhìn thông suốt, Phật ở trong tâm, trong tâm chính là một đại điện, một ngôi chùa, hà tất phải tham tài sản hữu hình của chùa chứ! So đo từng tí một tài sản của nhà chùa, về cơ bản chẳng khác gì những kẻ phàm phu tranh giành tiền bạc. Bản sắc của người xuất gia chính là “tứ đại giai không” [thế gian tất cả đều là hư vô], loại bỏ hết ba thứ độc [tham sân si], sáu tặc [mắt tai mũi lưỡi thân ý] cũng không dính vào sắc thanh hương vị xúc pháp, giữ giới như thế mới xem là bước đầu tiên của công phu thiền định. Pháp sư Hoành Huyền đã hiểu biết Phật lý nhưng lại có tham niệm và sân niệm rồi, thật là bi ai!

Trong kinh Niết Bàn có bài kệ vô thường: ”Tất cả các thế gian, Người sống đều sẽ chết Thọ mệnh dù vô lượng Rồi đến lúc cũng tàn. Người mạnh ắt yếu suy Gặp gỡ ắt ly biệt Tuổi xuân đâu giữ mãi Tham sắc bệnh đến thân Khổ luân là vô cùng Lưu chuyển không ngừng nghỉ Tam giới đều vô thường Mọi có đều chẳng vui.”

Hoành Huyền còn trẻ, nhưng vô thường đến trong chớp mắt, anh ấy mắc bệnh ung thư xương, tất cả bác sĩ đều bó tay, chỉ trong vòng hai tháng ngắn ngủi, mạng sống của anh đã đi đến điểm cuối của cuộc đời. Căn bệnh ung thư xương này đột ngột cướp đi mạng sống của Hoành Huyền, khiến cho những người bạn quen biết anh ấy cảm thấy vô cùng thương tiếc, tuổi đời mới 28 còn trẻ lắm, thế mà đã đi hết hành trình cuộc đời này rồi, có thể nói là bất hạnh.

Tôi biết Hoành Huyền qua đời, ở trong Phật đường tại nhà mình, tôi cũng sắp đặt đèn cúng âm, đặt linh vị của pháp sư Hoành Huyền, tôi vẫn luôn thích tụng kinh Địa Tạng, kinh Bản Nguyện Địa Tạng, công đức cũng lớn, tụng cũng bất khả tư nghì. Tôi sâu sắc biết rằng địa ngục của âm ty cũng chính là địa ngục của lòng người, lòng người nếu không có địa ngục thì địa ngục của âm ty mới trống không được.

Tôi tụng kinh đến ngày thứ bảy, khi đến phẩm “Như Lai tán thán”, đột nhiên tôi cảm thấy chữ trong kinh Địa Tạng cũng to dần ra, từ trong con chữ nở ra một đóa hoa sen trắng, sau đó hoa sen mà tôi nhìn thấy lại biến mất, rồi tôi nhìn ra xung quanh thấy mình đã đang ngồi ở trong một góc của điện Sâm La, các lính quỷ đang đi đi lại lại xung quanh.

Phán quan âm phủ trong điện Sâm La đang phán xét một người, người này không ngờ lại là pháp sư Hoành Huyền mặc áo cà sa. Phán quan lệnh cho lính quỷ lột bỏ áo cà sa của Hoành Huyền, lính quỷ lột áo cà sa xong thì cung kính lạy chiếc áo cà sa, sau đó phán quan lại ra lệnh đeo gông vào tay và xích chân. Hoành Huyền lúc này ngửa mặt lên trời thở dài, hai mắt nhắm lại, trong miệng bất giác niệm chú Đại Bi. Vừa mới niệm được một chữ của chú Đại Bi thì xiềng xích trên tay chân tự nhiên rơi xuống đất. Nhưng hễ Hoành Huyền dừng niệm chú thì xiềng xích lại tự động bay trở về khóa chặt Hoành Huyền lại. Hoành Huyền lại niệm chú thì xiềng xích lại hóa thành hai đóa hoa sen trắng, từ từ bay lên không. Phán quan rất kinh hãi.

Đúng vào lúc này lại nghe thấy Diêm Vương hét lớn: ”Chú Đại Bi chính là Thiên Thủ Thiên Nhãn đà-la-ni, tăng đạo biết chú này có chú lực rất lớn, mau đưa đến chỗ lục đạo luân hồi, cho đầu thai làm trẻ con của kẻ tham sân, sau đó lại lệnh cho hắn chết, lại bắt linh hồn hắn về đây, lại chịu hình phạt. Luân chuyển một lần là tự nhiên sẽ quên hết chú ngữ, theo nghiệp lực mà định tội hắn, để người đời biết rằng nghiệp báo không hề dễ chịu, một chút xíu cũng không được qua loa.”

Tôi nghe đến đây thì mới hiểu ra sự lợi hại của nghiệp lực chốn nhân gian, cho dù có chú lực gia trì thì âm ty cũng có cách để trừng phạt. Chú lực mặc dù lớn, Phật pháp cũng vô biên, nhưng không có duyên lành thì cũng không có cách nào được độ đâu! Tôi cảm thán đến đây thì lại cảm thấy mình đã trở về trong Phật đường ở nhà mình, hai tay tôi chắp lại cung kính niệm Thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát thì nghe thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát nói với tôi rằng: “Liên Sinh, Hoành Huyền nghiệp chướng sâu nặng, dù hiểu biết Phật lý nhưng lại làm điều ngược lại, thiện ít ác nhiều, hắn mặc sức tranh lợi, khởi duyên tà ác, do vậy tự tâm tạo ra nhân ác của địa ngục. Thân làm sa môn nhưng tâm không phải sa môn, quả báo địa ngục chẳng hề dễ chịu, anh hãy khuyên thế nhân đừng có tranh thủ làm lợi, cho rằng việc ác nhỏ thì có thể làm. Vừa nãy là ta khiến cho thần thức của anh tự đi vào cõi u minh để xem phán định, Liên Sinh, hãy thận trọng, thận trọng, thề nguyện chừa không phạm mới có thể tránh được hình phạt của địa ngục.”

Tác giả nghe ngài Địa Tạng nói, trong lòng cũng không rét mà run. Vì tôi có được kỳ duyên, rất nhiều việc bất khả tư nghì phát sinh trên người tôi, việc thấy Thần thấy Phật thấy ma, nghe được âm thanh kỳ dị của linh giới truyền đến của tôi, với người bình thường mà nói thì thần kỳ quá mà không dám tin, còn với tôi mà nói thì là việc hết sức bình thường, không hề hệ trọng. Song, bạn đọc tin cũng được, không tin cũng được, nhưng tuyệt đối hãy ghi nhớ lời của tôi: “Nghiệp do tâm chuyển, báo ứng chẳng sai.”

05. Linh hóa nghìn vạn

Tính chất của linh hồn là thiên biến vạn hóa, nhưng lại không tăng không giảm, điều này giống như mặt trăng sáng trên bầu trời vậy, mặt trăng chiếu lên những làn sóng xanh của nghìn dòng sông trở thành huyễn ảnh nghìn mặt trăng trên sông, mặt trăng thật vốn chỉ có một, nhưng lại huyễn hóa thành nghìn nghìn vạn vạn mặt trăng. Cũng giống như mặt trời chiếu sáng 360 độ ra bốn bề, bao phủ khắp trên dưới vũ trụ, trở thành chúa tể của hệ mặt trời. Tính chất của linh hồn cũng như vậy.

Thỉnh thoảng, tôi nhìn thấy linh tiên do thần tiên huyễn hóa ra, khi nhỏ thì giống như một hạt cải, thậm chí có thể ẩn thân trong một giọt nước, khi thân huyễn hóa của họ lớn ra thì không ngờ có thể che phủ cả bầu trời. Trong phạm vi thị giác của mình, tôi thấy toàn bộ là thân thể huyễn hóa của một mình vị đó, mặt của vị đó chính là trời, trời của vị đó chính là mặt, hai hợp làm một, hiếm có kỳ lạ dị thường. Đây cũng chính là tâm cảnh của trời người hợp nhất.

Nếu con người có sẵn tính linh thông thì có thể kết nối giao tiếp với vô số linh tướng trong vũ trụ, tôi cho rằng đây chính là linh thông, và cái mà ta có được có thể gọi là linh cảm. Những tính năng này của linh không chỉ là thế giới bốn chiều mà thậm chí là năm chiều, sáu chiều, bảy chiều, sẽ lần lượt xuất hiện. Kiến thức về linh hồn rất sâu, con người mượn sức mạnh linh thông để sinh ra thần toán, thần toán trong biển linh chỉ có thể xem là một tiểu thuật mà thôi, suy cho cùng vẫn khác biệt rất xa so với với chân nguyên của linh lực.

Tác giả may mắn có được sự giáo huấn của vị linh sư vô hình Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, hơn nữa còn gặp được Thanh Chân Đạo Trưởng của phái Thanh Thành chỉ thị linh cơ, giờ đây có thể giao tiếp với quỷ thần, không dám tự xưng là bậc cao minh, chỉ mong còn có thể tiến lên một bậc, được Tiên Thiên Vô Cực Đại Đạo cân nhắc lựa chọn để vĩnh viễn được làm tiên gia, không phải chịu luân hồi nữa, đây mới là mục đích chân chính của tôi khi tu linh tu đạo.

Cái gọi là “linh hóa nghìn vạn” chính là cái ngã này là Pháp thân Phật, có tất cả thiện tướng mà trở thành Báo thân Phật, Hóa thân Phật. Cái ngã này có ba Phật danh, ba hợp làm một, chính là chân ngã. Độc giả hãy suy ngẫm kĩ lưỡng câu nói ở trên thì có thể biết thiên hạ vạn linh đều là: phân ra thì là nghìn vạn, hợp lại thì là một.

Có người hỏi: “Con giun đứt thành hai nửa, hai nửa đều động đậy, vậy Phật tính nằm ở nửa nào?” Trường Sa đáp: “Đừng vọng tưởng được không?” Có người hỏi: “Vì sao nói như vậy?” Đáp rằng: “Hai nửa vẫn động đậy chính là vì phong hỏa còn chưa tản mát, nếu bàn về Phật tính thì cả hai nửa đều có.” ”Phật tính vốn là một, làm sao mà hai nửa đều có chứ?” ”Phật tính đâu chỉ có hai, Phật tính có trăm nghìn vạn triệu không thể nào nói, không thể nào đếm.” ”Con giun cũng có hóa thân Phật tính ư?” ”Con giun nếu không có, chư Phật cũng không có, chư Phật nếu có, con giun cũng có, cho nên nói: cao thì lên đến chư Phật, thấp thì xuống tới những vật có chứa linh đều có Phật tính, đạo lý vốn là như vậy, đừng nói bừa.”

Từ đoạn đối thoại ở trên có thể biết những vật có chứa linh đều có sự tồn tại của Phật tính, linh hóa nghìn vạn lại càng là một sự thật không thể bàn cãi. Từng có người hỏi tôi: “Thầy Lư, hôm nay mấy vạn tín đồ của Ma Tổ ở Lan Cung của khu Đại Giáp đến thắp hương Ma Tổ ở Triều Thiên Cung ở khu Bắc Cảng, biển người chen chúc trong miếu, miếu không thể chứa được hết, ai nấy đều cầm hương đứng từ ngoài đường lớn, liên tiếp mấy con đường, cúi đầu sát đất phục lạy rồi cầu nguyện, xin hỏi Ma Tổ chỉ có một vị, làm sao mà nghe được hết lời cầu nguyện của nhiều người như vậy?” ”Linh hóa nghìn vạn.” - Tôi nói. ”Lẽ nào một vị thần Ma Tổ có thể biến hóa thành nghìn nghìn vạn vạn Ma Tổ, mỗi một vị Ma Tổ lại nghe cầu nguyện của mỗi một chúng sinh sao?” ”Đúng vậy, kinh Hoa Nghiêm nói thế này: Thân Phật đầy khắp pháp giới, phổ hiện trước tất cả chúng sinh, tùy duyên mà đi cảm ứng chúng sinh chu toàn hết thảy, nhưng vẫn mãi ngồi tại Bồ Tát tọa này. Còn nói: chư Phật Thế Tôn có cảnh giới bất khả tư nghì không gì sánh bằng, đây gọi là tất cả chư Phật ngồi xếp bằng tại một chỗ nhưng vẫn ở khắp mười phương vô lượng thế giới. Tất cả chư Phật thuyết một câu nghĩa lý đều có thể khai thị tất cả Phật pháp. Tất cả chư Phật phóng một ánh sáng đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới. Tất cả chư Phật ở trong một thân nhưng đều có thể thị hiện tất cả các thân. Và như thế, Ma Tổ chính là Bồ Tát thị hiện, mỗi một vị Ma Tổ tự nhiên có thể nghe được cầu nguyện của mỗi một chúng sinh.”

Viết đến đây, tôi nghĩ đến người đời chẳng biết tí gì về linh giới lại chê cười tôi mê tín, chỉ trích tôi hoang đường, hoặc có người gọi tôi là đồ thần kinh điên loạn. Bản thân tôi biết, trong lòng tôi hiểu rõ, chúng sinh u mê đến khi nào mới có thể ngộ ra đây! Tôi lớn tiếng kêu gọi khuyên người ta tin thiện, đáng tiếc là người người mê đắm vào nhân gian có hình có tướng ngắn ngủi này, chấp vào giả ngã mà cho rằng đó là chân ngã. Sao họ không thử nghĩ đến những ngôi mộ hoang ở vùng hoang dã, sống cũng hoang đường, chết cũng hoang đường, duy có cắt đứt sinh tử mới xem là không hoang đường mà cầu chân lý thôi!

Tác giả được Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền cho Tử Phủ Bí Văn, Tử Phủ Bí Văn này còn gọi là Thiên Ấn Chân Văn, còn gọi là Cửu Thiên Huyền Ẩn, còn gọi là Kim Thư Ngọc Triện, vì thế mà biết được điều chí lý về tổ khí nguyên thủy phổ hóa vạn thần, linh hóa nghìn vạn, thiên địa huyền tông. Người thời nay nếu có ai không tin vào những gì được viết trong bài viết này thì cũng tức là người chưa hiểu chân lý.

06. Thần toán vận mệnh

Có rất nhiều người tin vận mệnh, cũng có rất nhiều người không tin vận mệnh, bất kể là tin hay không tin, tôi cho rằng đều đúng. Có lẽ bạn đọc sẽ cảm thấy kỳ lạ, vì sao cả hai đều đúng chứ? Tôi chỉ có thể trả lời một câu đơn giản là: Vận mệnh là có, nhưng nếu con người có thể nỗ lực tinh tấn thì tự mình có thể thay đổi vận mệnh của mình, vận mệnh có thể thay đổi thì chẳng phải là không có vận mệnh sao?

Tác giả là người theo thuyết có quan niệm về số mệnh chính cống. Tôi không những biết được vận mệnh trong đời này của mình mà còn biết được vận mệnh của kiếp trước, thậm chí tương lai tôi muốn đi về đâu, tự trong lòng tôi đã hiểu rõ, vì thế tôi vui vẻ và hài lòng. Cho dù có lúc gặp phải số mệnh xấu, tôi cũng không dám oán trời trách người. Trước mắt tôi tự mình xem cho mình thì con đường tôi đi là quẻ kháng cửu, đó là quẻ khi mệnh gặp đại kiếp thì bạn bè coi mình như người dưng, thế nhưng đây là bụng sóng trong những cơn sóng vận mệnh, tiếp theo sẽ mở ra cơ hội, qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai, kết quả của sự phấn đấu cả đời của tôi chắc chắn sẽ có lúc đại thành công.

Thông hiểu nhân quả kiếp trước không được xem là người có đại thần thông, có một số người đại thần thông thậm chí có thể biết được trên năm trăm kiếp, biết trên mấy nghìn kiếp, thậm chí trên mấy vạn vạn vô lượng số kiếp đều biết được hết. Những bậc đại giác có túc mệnh thông này gồm có Phật, Bồ Tát, La Hán, thậm chí bậc giác giả ngoại đạo, Bích Chi Phật, Thiên Thần, v.v… Như tôi chỉ biết kiếp trước, dự đoán được kiếp sau, nên chỉ có thể xem là tiểu thần thông.

Thần toán vận mệnh đúng ra là vô cùng chính xác, vị thần chúa tể của vận mệnh không phải người nào khác mà chính là bản thân mình. Điểm này trong kinh “Phật Thuyết Nhân Quả Ba Đời” đã thể hiện rất rõ ràng, nhân quả ba đời nói rằng: “Muốn biết chuyện kiếp trước, là kiếp này đang chịu, muốn biết chuyện kiếp sau, là kiếp này đang làm.”

Thật ra điều này phù hợp với logic khoa học, con người vừa sinh ra trời đã định sẵn vận mệnh, đây cũng chính là vận mệnh bẩm sinh, vận mệnh bẩm sinh từ sớm đã định sẵn cuộc đời của một con người là phồn vinh hay khô héo, thậm chí tuổi thọ, tài vận, con cái đều có định số rồi. Quỹ đạo của vận mệnh bẩm sinh đã định trước trên bát tự, tướng mặt, bàn tay, khung xương, v.v… vì thế, những thầy đoán mệnh có thể từ bốn cơ sở này để suy ra số phận, từ những dấu vết trên ngũ quan, vân tay, dấu vết trên khung xương mà suy đoán cuộc đời của người này, những điều này thật sự là không sai.

Và vận mệnh sau này từ trong họ tên, thói quen, thiện ác có thể đoán ra, đây thuộc về pháp đoán mệnh có hình có tướng. Pháp đoán mệnh này thông thường tự thành một quy cách, thuộc về pháp ở mức độ tiểu thừa, dễ thay đổi theo tập khí giang hồ, không dễ đạt đến mức độ thượng thừa. Nhất là ngày nay có rất nhiều hạng nhân sĩ đi lang bạt khắp nơi, dựa vào ba tấc lưỡi có tài ăn nói bẻm mép mà khuyên người ta cúng tế cải vận, lừa tiền lừa sắc của người ta, khiến cho môn đoán mệnh vốn dĩ thanh cao bị ô nhiễm. Ở đây là do phẩm cách của con người ô uế, không liên quan đến hai chữ “đoán mệnh”.

Còn về thần toán thì cũng giống như xem bói, có thể phân ra theo các kiểu lên đồng xem bói, cũng có thể phân ra theo các kiểu bói toán. Dựa theo lý mà nói cũng có sự trà trộn giữa “Thiên diễn hoàng số” của đại thừa và “Kê toán linh ngữ” của tiểu thừa, trong đó có dịch chiêm, Văn Vương khóa, bói bài, Hoàng cực, bói rùa, bói tiền. Còn về bói mộng, Thái Ất lý số, kê đồng, phù kê, Viên quang, nhập định quán, quán khí, linh thông, thần thông, tất cả đều bao gồm ở trong thần toán rồi, nhiều phương pháp cũng cực kì xuất sắc, cũng không thể tưởng tượng được, có thật có giả, có chuẩn có không chuẩn. Thần toán cao minh nhất chính là thần thông, biết quá khứ vị lai, thành Tiên thành Phật, vận chuyển pháp luân trong tâm, trở thành bậc đại thần thông trời biết đất biết ta biết.

Đại bộ phận phàm phu, vận mệnh mà họ đi gần như đều là do trời định, cũng có vận mệnh do số phận đặt ra, rất ít người có hiện tượng tự mình thay đổi, cho nên những người đoán mệnh, nếu đoán theo vận trời sinh thì nói mười trúng chín, rất ít khi có điều không chuẩn, đặc biệt là môn thần toán bằng cách sờ xương thì chuẩn xác trăm phần trăm. Nhưng nếu có người hiểu đạo lập mệnh, phá bỏ vận mệnh của chính mình thì lời của người đoán mệnh cũng sẽ không chuẩn. Năm xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp được Khổng tiên sinh, Khổng tiên sinh có sở trường Hoàng cực diễn thuật, vận mệnh ban đầu của Viên tiên sinh giống như được người ta sắp xếp hết cả, nhưng kể từ khi Viên Liễu Phàm được Vân Cốc thiền sư truyền cho môn học lập mệnh, biết vận mệnh có thể thay đổi được, việc cải vận đều nằm ở chính mình, từ đó mới thay đổi vận mệnh sau này của mình. Đây chính là ghi chép chân thực trong cuốn sách “Liễu Phàm Tứ Huấn”.

Tôi cho rằng cải vận cần dùng bí quyết của hai chữ, một là “thành”, hai là “hành”. Chân thành có thể cảm động trời, thành tâm thành ý sám hối quá khứ, bày tỏ nỗi lòng. Còn hành chính là phát đại nguyện, làm đại thiện, như vậy vừa thành tâm vừa hành động, làm một cách đến nơi đến chốn, nhất định có thể thay đổi vận mệnh cuộc đời của chính mình. Làm việc thiện lớn không phải là công sức của một ngày, mà là liên tục không dừng, làm mãi mãi không ngừng nghỉ, thiên thần cảm ứng, bất hạnh đi qua may mắn kéo đến, phúc quang thường chiếu, cho dù vận xấu ập xuống đầu cũng có thể được ánh sáng cát tường che chắn cho.

Tác giả dùng linh thông để thần toán cho người ta cũng tới sáu năm, ứng nghiệm như thần, những câu chuyện ứng nghiệm có kể ra cũng không kể hết. Trong đó có một người đến từ đường Bác Ái thành phố Hoa Liên, anh ta khoảng ngoài 30 tuổi, họ Ngô tên Vĩnh Nghi. Anh ta đến Phật đường của tôi, không hề lên tiếng nói một câu nào, đặt mảnh giấy có viết họ tên và địa chỉ ở trước mặt tôi. Tôi chắp tay lại vận linh, một lúc lâu sau vẫn không có tin tức gì từ linh giới.

“Quái lạ, đây là loại người gì? Vì sao không tra ra được vận mệnh của người này?” - Trong lòng tôi hoài nghi. ”Vận mệnh của tôi thế nào?” - Người đó lạnh lùng hỏi. ”Xin lỗi! Vẫn đang phải làm phiền thần thánh điều tra!” - Tôi mặt đỏ tai nóng, trong lòng nghĩ: “Hiện tượng này rất hiếm gặp, lẽ nào họ tên và địa chỉ có vấn đề sao?”

Tôi mở linh nhãn ra thì nhìn thấy trong mờ mịt xuất hiện cây thập tự, tôi hỏi anh ta: “Anh là tín đồ Cơ Đốc phải không?” ”Vậy thì làm sao? Lẽ nào tín đồ Cơ Đốc thì không tra ra được vận mệnh sao?” - Anh ta vẫn nói giọng lạnh lùng. ”Tín đồ Cơ Đốc vẫn có vận mệnh của tín đồ Cơ Đốc, nhưng nếu họ tên và địa chỉ của anh là giả thì rất xin lỗi, anh đến đây là để thăm dò, thần minh cao thượng, đâu dễ để người ta sỉ nhục, các vị không trả lời anh là có lập trường của thần thánh. Tôi nghĩ, họ tên và địa chỉ của anh chắc chắn có vấn đề.” - Tôi nói. Bởi vì tôi nhìn thấy ngón tay của thần minh chỉ lên trên tờ giấy trắng, rồi còn xua tay.

“Tên thật của anh là gì?” ”Ngô Sâm Nghi, chỉ khác một chữ. Địa chỉ chỉ khác mấy số.” - Lần này đổi lại là anh ta mặt đỏ tía tai, anh ta nói: “Đường Bác Ái ở Hoa Liên là nhà thờ mà tôi tham gia gặp gỡ, thuộc hội thánh Baptist. Tôi vốn không tin mấy trò này của anh, nhưng bây giờ thì có đôi chút tin rồi.” ”Anh có quyền không tin, nhưng tuyệt đối đừng đến thăm dò, thần linh và kẻ hèn này không hoan nghênh người đến thăm dò, anh có khó khăn, có lẽ tôi cũng có thể giúp anh, nhưng nếu thăm dò thì anh mãi mãi không có được sự trợ giúp của thần linh, đó là tổn thất vĩnh viễn của anh.”

Ngô Sâm Nghi lủi thủi ra về. Trên thế giới này, người như anh ta rất nhiều, con người thật quá phức tạp. Đây chính là “một hạt gạo nuôi dưỡng trăm loại người”, mỗi người đều khác nhau. Lại còn có người cùng tận hơn nữa, tùy tiện tìm một người đã qua đời đến để hỏi vận mệnh, giả như không phải là thần linh thần kỳ thì gặp phải những người này đúng là bạn đã xui xẻo tám kiếp rồi, những người xem bói thông thường, công lực đạo hạnh kém một chút thì nhất định sẽ bị thử thách thất bại. Còn tôi dựa vào thần lực, người đến hỏi nếu sỉ nhục thần minh, căn bản là thần minh sẽ lờ đi chẳng thèm cất tiếng.

Không dễ coi khinh thần toán vận mệnh đâu.

07. Có nhân không duyên

Phần nhiều vạn sự vạn vật đều có nguyên do, có thể nói là đều theo một dạng hình thành và tuần hoàn có quy luật, nằm trong quy luật này bao gồm cả luân hồi, bao gồm cả nhân quả, hai chữ “nhân quả” này đích thực đích xác có tồn tại. Theo nghiên cứu của tôi, kì thực nói trắng ra thì logic học của người nước ngoài cũng là một dạng diễn hóa của luật nhân quả mà thôi, giải thích đơn giản về nhân quả chính là: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.”

Từ đầu đến cuối tôi luôn cảm thấy rằng, trên thế giới này không có người ác một trăm phần trăm, cũng không có người thiện một trăm phần trăm, làm ác hay làm thiện chỉ nằm trong một niệm mà thôi. Cho nên người tu đạo chủ trương kiểm soát tâm, thật sự là rất có đạo lý. Công phu kiểm soát tâm chính là “một lòng quản ý, hành động đoan chính, chỉ làm việc thiện, không làm điều ác, tự mình vượt qua, thu hoạch phúc đức”. Cũng tức là “kẻ bỏ mặc tâm, rồi sẽ hối hận, họa buông thả tâm, nặng tựa Tu Di”. Có một số người mặc dù không có tâm làm ác, nhưng chỉ một ý nghĩ sai lầm mà đọa vào hố sâu tội ác, kể từ đó đã trồng xuống nhân ác, thật sự là thảm lắm thay!

Bởi vì thiện ác vốn chỉ nằm trong một niệm, cho nên một đời người ngay cả thánh nhân cũng có lỗi lầm, có lỗi thì phải làm sao? Quan trọng nhất là ba lần tự kiểm điểm bản thân. Thánh nhân dạy con người ba lần kiểm điểm bản thân, đó là mọi lúc đều phải cẩn thận lời nói hành động của mình để tránh phạm lỗi mà mình không tự biết, và sau khi tự biết rồi thì phải ra sức hạ quyết tâm sám hối mới có thể có nhân không duyên, tức là dù có nhân ác nhưng không có quả ác.

Tác giả nêu ví dụ để nói rõ. Ví dụ có một người tốt, cả đời làm việc thiện, nhưng trong đó lại phạm vào một việc cực ác, trong lòng thường xuyên vì việc này mà buồn rầu, mỗi khi buồn thì đau lòng chảy nước mắt, mỗi lần đau lòng chảy nước mắt và sám hối xong thì trong lòng mới cảm thấy yên được một chút. Đương nhiên thiện công và tội lỗi trong một đời của người đó sẽ triệt tiêu lẫn nhau, thiện công vẫn còn, nhưng hiện tượng này giống như một tờ giấy trắng bị vấy một vết bẩn lớn. Thế nhưng mỗi lần đau khổ rơi nước mắt thì trong lòng lại thoải mái hơn, những giọt nước mắt ân hận tuôn trào, dần dần sẽ làm phai nhạt đi vết bẩn tội lỗi kia, vì thế trong lòng mới có thể phần nào nguôi ngoai.

Tôi cho rằng tâm là vô hình, nếu tâm nhỏ hẹp thì không giấu nổi một hạt dẻ, nếu tâm rộng lớn thì trên trời dưới đất đều có thể dung nạp được. Cái gọi là tâm của chư Phật Bồ Tát dung nạp được trời đất vũ trụ, tất cả thị phi sám hối đều nằm trong đó, tự nhiên sẽ hình thành một dạng thế giới có nhân không duyên. Đáng thương nhất là con người, có một số người tâm địa hẹp hòi, không chứa được một hạt cát, tâm địa kiểu này chỉ có làm cầm thú, làm sao có thể thành Đại Thánh Bồ Tát, làm sao có thể chứng Tiên đạo.

Bởi vậy tôi nói, nếu con người thật sám hối thì chắc chắn có thể diệt nghiệp tội, khiến cho có nhân không duyên, dù từng trồng nhân ác nhưng lại không kết quả ác. Đạo lý này tôi lại phải giải thích một chút: ví dụ chúng ta trồng đậu, đậu cho dù là nhân ác, nhân ác dù đã trồng xuống, nhưng cần phải có ác duyên tương trợ mới có thể mọc thành một mầm đậu, sau đó mới ra hoa kết quả. Những ác duyên này chính là ánh nắng, nước và đất đai, có được những trợ duyên này thì nhân ác mới có thể biến thành quả ác, đây chính là đạo lý nhân quả báo ứng đến sớm và đến muộn. Một hạt đậu muốn trở thành một mầm đậu, thậm chí ra hoa kết quả thì nhất định phải có sự hỗ trợ từ ánh nắng mặt trời, nước và đất đai, giả sử không có ánh nắng mặt trời, nước và đất thì dù có nhân ác nhưng cũng không có quả ác.

Vì thế con người làm việc ác, phải khẩn trương thành tâm thành ý sửa sai, sám hối lỗi lầm của mình, như trong kinh Vị Tằng Hữu đã nói: “Tâm trước làm ác, như mây che trời, tâm sau khởi thiện, như đuốc sáng soi.” Tất cả biển nghiệp chướng đều do vọng tưởng sinh ra, nếu ai muốn sám hối thì phải ngồi ngay ngắn nghĩ về thực tướng, tội lỗi như sương giá, mặt trời sáng chói có thể tiêu diệt. “Nếu người nào có thể sám hối như pháp thì mọi phiền não đều tiêu tan. Giống như kiếp hỏa phá hủy thế gian, đốt cháy hết Tu Di và biển lớn. Sám hối có thể đốt nhiên liệu phiền não, sám hối có thể sinh về cõi trời, sám hối có thể đắc được bốn thiền lạc, sám hối khiến trời đổ mưa ngọc báu mani, sám hối có thể kéo dài tuổi thọ, sám hối có thể nhập cung Thường Lạc, sám hối có thể ra khỏi nhà ngục tam giới, sám hối có thể nở hoa bồ đề, sám hối đắc Phật đại viên kính, sám hối có thể khiến đến được nơi chốn quý báu.” (Kinh Tâm Địa Quán)

Mặc dù đã trồng nhân ác, nhưng ngồi ngay ngắn sám hối, thề không tái phạm, hơn nữa có thể sửa đổi thành trồng nhân thiện, hạt giống ác mặc dù đã rắc ra rồi, nhưng mặt đất lại là sàn xi-măng, được bảo vệ trong ngôi nhà tinh thần của mình, không có sự trợ duyên của ánh nắng mặt trời, không có sự tưới tắm của nước mưa, hạt giống ác đó không có ác duyên tương trợ, sớm muộn cũng sẽ tiêu tan, từ đó quả ác chắc chắn sẽ không thể sản sinh.

Trong quá khứ tôi từng nhập Tứ thiền, công phu của Tứ thiền định này cũng là từ sám hối mà đắc được. Tôi nhận ra tất cả ánh sáng từ trên đỉnh đầu sinh ra, sau đó ánh sáng từ từ hạ xuống, xua tan tất cả nhân ác của u tối khiến mọi thứ sáng lên, sau đó toàn bộ tinh thần không còn chịu sự tích lũy của nhân ác, tâm cảnh dần dần rộng mở, phóng tỏa vô lượng những vòng ánh sáng hiếm có, trong mỗi vòng ánh sáng đều tuôn chảy tâm sám hối chứa đầy nỗi bi thương. Như thế, nghiệp thân khẩu ý dần dần tiêu tan, tinh thần được nâng đỡ, nhập vào thế giới hư không tạng, đây chính là niềm khoái lạc của Tứ thiền định. Niềm sung sướng này so với ba lần kiểm điểm bản thân của Nho gia thì thật sự có được sự tuyệt diệu của “dị khúc đồng công” [khúc nhạc khác nhau nhưng diễn hay như nhau], thậm chí còn tiến thêm một bậc, càng siêu thoát bất phàm hơn. Trong sự trải nghiệm sám hối ấy tôi nói rằng: “Mặc dù đã khóc hết những giọt nước mắt bi thương nhất, nhưng ánh sáng của tâm cảnh mà tôi có được tuyệt vời gấp trăm lần bi thương.”

Với người tu linh thông chúng ta, quan trọng nhất là hoàn toàn sám hối tất cả nghiệp của thân khẩu ý, không những không trồng nhân ác mà còn phải tu nhiều thiện công, sự khiết tịnh của linh hồn, linh tính quang minh xuất hiện mới có thể cảm ứng đạo giao với Tiên Phật. Có người ngông cuồng đòi hỏi cảm ứng đạo giao, nhưng thân này nghiệp tội còn chưa trừ bỏ, linh hồn còn hôi thối không chịu thấu, chỉ muốn học pháp, học thần thông, không biết sám hối nghiệp tội tự thân, ánh sáng không thể hiển hiện thì làm sao có thể linh thông chứ?

Có câu nói rằng: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.” Câu này chủ yếu nói rằng, những chúng sinh bình phàm này dù sợ báo ứng, nhưng việc xấu đã che mờ lương tâm mà vẫn làm, còn Bồ Tát chỉ sợ trồng xuống nhân xấu thôi! Đây chính là sự khác biệt phàm - thánh.

08. Linh chú thường chuyển chứng tâm thông

Hai người tu đạo là tiên sinh Trừng Minh sống tại chùa Kim Cang thôn Nam Phố thị trấn Tân Trúc và tiên sinh Nhạc Kiến Ngô sống tại tinh xá Đại Thừa ở Đài Bắc cùng đến thăm nhà tôi, nói chuyện say sưa cả đêm. Tiên sinh Trừng Minh sau đó còn gửi từ chùa Kim Cang một lá thư, nội dung như sau:

Lư tiên sinh! Lần này cùng với Nhạc tiên sinh nửa đêm tới thăm ngài, nếu có làm phiền xin lượng thứ và bỏ qua, vì chúng tôi nghe danh của ngài đã lâu! Hôm nay mới được gặp mặt, thật khiến tôi cảm thấy rất kính trọng ngài, đạo hạnh và thiên duyên của ngài quả là danh bất hư truyền, hẹn một ngày khác sẽ thỉnh giáo cẩn thận, chỉ mong ngài vui lòng bảo ban!

Đối với những lời giải đáp của ngài về những nghi vấn của tôi, đúng là chính xác dị thường, cũng vô cùng cảm tạ. Đại nạn trong cuộc đời này, thật sự chỉ có tu đạo cho đến khi đắc đạo mới có thể giải quyết được, song, đường đạo khó tu, trong trăm nghìn vạn người khó gặp được một người thành tựu, huống hồ là tôi. Tuy nhiên “một niệm thanh tịnh đến cùng” thực tế không phải là chuyện không thể nào, chỉ cần có lòng kiên trì, bền bỉ và thành tâm thì sau vài năm chắc chắn có thể đắc đạo.

Thật sự có thể quay về hợp với đạo, nhưng mà con người thời nay thiên kiến bè phái, bản thân bám chấp nhưng lại bảo người khác đừng bám chấp, không thể rốt ráo nhưng lại dạy người khác phải rốt ráo, những sự công kích khác vẫn còn nhiều, người trí tự biết, người hiểu tự độ. Tôi rất tôn kính thầy Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh của ngài, nếu không có cơ hội kết duyên, chỉ mong có thể có một ngày có được khai thị của quý thầy, thì cả đời này có vất vả cũng có thể cảm thấy được an ủi rồi!

Rất nhiều những bí mật về trời người khác còn đang chờ ngài công bố với đời, quảng độ những thế hệ còn đang mê muội, rộng rãi kết thiện duyên. Bên cạnh đó, sự nghiệp có ngày thành công cần phải dựa vào khẩu quyết của sư phụ ở núi Liên Đầu của ngài, tu theo pháp tu ngược, dưới sự dẫn dắt bởi đạo căn bẩm sinh của ngài, chắc chắn có thể sớm nghe được tin ngài thành tựu đạo, tôi cũng xin có lời chúc mừng sớm.

Nay tôi sống ở chùa Kim Cang, núi sông đẹp đẽ linh thiêng, tâm địa cảm thấy vô cùng bình lặng, có điều ở đây quan điểm thiên kiến bè phái còn rất sâu sắc, nên có chướng ngại để tiến lên, tôi chỉ biết nhẫn nhục mà tiến, song pháp của Phật môn quảng đại vô biên, chỉ dựa vào “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng” làm cảnh giới cao nhất, vốn dĩ thiên tính chính là như vậy, ở trong lòng thanh tịnh là được! Không cần phải tốn mấy chục năm thời gian đi sâu nghiên cứu Phật pháp, rốt cục mặc dù uyên thâm nhưng lại chẳng thông, đó chẳng phải là tự hại mình hại người sao.

Tôi đã đọc được rất nhiều khai thị của ngài, vì thế cảm thấy đời này e rằng có lẽ người giác ngộ chỉ có duy nhất mình ngài mà thôi. Cho nên tôi thành kính gửi bức thư nhỏ này để biểu thị tâm ý cao nhất của tôi đối với ngài, chỉ mong có thể được ngài tự tay tặng cho cuốn sách mới nhất là cuốn “Giữa Linh và Tôi”, thì cả đời này tôi sẽ mãi trân trọng! Tóm lại, nếu lòng người rộng lớn như vũ trụ, nếu thân này như mây trôi, thì trời người là một thể, chân ngã sẽ không ngừng sinh sôi, chắc chắn sẽ sớm có ngày thành tựu. Tôi xin chúc ngài đại thành công.

Một đời ngài làm lợi cho trời người, vất vả phiền hà muôn phần, thời tiết bốn mùa nhiều biến đổi, đạo càng tinh tấn thì ma khảo chắc chắn càng nhiều, chỉ mong ngài bảo trọng và tự khích lệ mình. Trừng Minh chắp tay.

Trong bức thư này nói đến “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”, tôi cho rằng đây chính là “linh chú thường chuyển”, cũng chính là “pháp luân thường chuyển” của Phật môn. Rất nhiều người đều biết về vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng, nhưng lại không biết ý nghĩa rốt ráo của nó là gì. Ví dụ như Tịnh Độ tông bảo người ta niệm Phật vãng sinh, người bình thường niệm Phật là miệng nói khơi khơi, miệng lầm rầm như hát dân ca, không biết rằng niệm Phật đòi hỏi sự in vào tâm, đòi hỏi Phật phải in vào tâm, nói ở miệng, nghe ở tai, in vào tâm. Nếu in vào tâm thì tâm chắc chắn có cảm động, tâm chắc chắn sẽ như pháp, tâm chắc chắn như Phật, liên tục không ngừng chuyển động pháp luân. Hơn nữa nếu dừng niệm Phật thì Phật lực vô cùng vô tận không thể đo lường cũng vẫn tồn tại, tuy rằng miệng dừng niệm Phật nhưng tâm luân vẫn đang chuyển động, thánh hiệu A Di Đà Phật này trở thành linh chú liên tục, đây chính là linh chú thường chuyển pháp luân, tự nhiên có thể chứng đắc “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”.

Muốn luyện đến khi linh chú thường chuyển, trong thiên hạ ngày nay không biết có được mấy người, chỉ toàn là người môi miệng rung rung niệm Phật mà thôi. Người niệm Phật tuy đang niệm Phật, nhưng hễ dừng niệm Phật là ham muốn danh lợi lại đầy ắp trong lòng! Một số người còn “bó tay” hơn, ngay cả niệm Phật có ý nghĩa gì cũng không biết nữa! Cách xa con đường minh tâm kiến tính, tâm ấn Phật ấn, liễu sinh thoát tử, vô trụ vô niệm đến cả vạn dặm.

Cái gọi là linh cơ thần toán có thể tu đến trình độ linh chú thường chuyển thì có thể chứng được thuật tâm thông, bởi vì có linh chú thường chuyển chính là minh tâm, chính là linh hóa nghìn vạn, chính là nền móng đầu tiên của tâm cảm thần diệu vĩ đại vô lượng. Một người tu đến được bước này thì trên trời dưới đất có việc gì mà không thể biết, dưới bầu trời này chẳng hề có chướng ngại, xuất u nhập minh, xuất thần nhập hóa, cả trời đất in vào tâm, pháp luân thường chuyển, nhân tâm và thiên tâm luân chuyển cùng một trục, tự mình cố gắng vĩnh viễn không ngừng thì trời người hợp nhất rồi.

Tác giả là người đầu tiên sáng tạo ra việc dùng linh chứng Phật, dùng linh chứng Đạo, theo lý mà nói thì không hề mâu thuẫn. Niệm Phật chủ yếu nhất là minh tâm kiến tính, trừ nghiệp chướng, tăng phúc huệ, điều quan trọng nhất cũng là sự thanh tịnh của linh tính. Đầu tiên chúng ta cầu niệm Phật để tâm không tán loạn, sau đó cầu niệm Phật để nhập vào thiền định, tịnh thiền hợp nhất, từ đó tự lực và tha lực hòa nhập làm một, đến được Tây phương Cực Lạc thế giới cũng chỉ là việc một sớm một chiều thôi.

Có một cụ già sống ở quận Sĩ Lâm Đài Bắc, trông thấy tôi liền hỏi: “Anh biết tôi họ gì tên gì không?” Tôi đáp: “Không biết.” ”Chẳng phải anh có tâm thông sao?” ”Tâm gương dù sáng nhưng không soi chiếu tên của cụ.” - Tôi đáp. ”Ý của anh là gì?” - Cụ già hoài nghi. ”Cụ vốn vô danh, vậy hà tất phải hỏi tôi tên gì.” - Tôi đáp.

Cụ già trầm ngâm một lúc, gật đầu lia lịa, còn nói: “Không sai! Không sai! Cái tên này vốn là giả, đời người nếu hợp với đại đạo thì đại đạo cũng tức là vô danh.” Cụ già và tôi bắt tay nhau, cảm ơn rồi tạm biệt.

09. Pháp đà-la-ni đều ở tự tâm

Trước khi viết vào chủ đề của bài viết này, tôi muốn kể một câu chuyện khó tin xảy ra vào một buổi tối khi vị Linh Sư ẩn hình Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh truyền thụ đạo pháp cho tôi. Canh ba nửa đêm, tôi ngồi trước bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, ở trước Phật tôi bày một chén trà, trong lư hương tôi thắp một nén hương, đêm khuya thanh vắng, chẳng nghe thấy dù chỉ một tiếng gió, chỉ thỉnh thoảng vang lên vài tiếng chó sủa.

Tôi nhắm mắt ngồi thiền, nhắm mắt theo kiểu khép hờ hờ, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh vẫn thường giá lâm vào canh ba nửa đêm để dạy tôi một vài thủ ấn khẩu quyết. Còn tôi thì thường xuyên tự động thức dậy trước khi ngài đến. Đúng vào lúc tôi đang ngồi thiền, tôi đột nhiên phát hiện thấy que hương vừa mới cắm hơi rung rung, tôi mở to mắt ra, que hương lúc này càng lắc lư mạnh hơn, dường như ngay cả tàn hương ở trong lư hương cũng đều nảy lên, cùng lắc lư theo cả lư hương. Càng kỳ lạ hơn là tôi nhìn thấy chèn trà đặt ở trước Bồ Tát lại chuyển động tới lui, giống như có người dùng tay cầm lấy chén trà rồi dịch qua bên này một tí lại dịch qua bên kia một tí. Lúc này tôi rất kinh sợ, mặc dù tôi liên tục gặp phải những việc kỳ lạ, nhưng không hề giống với cái lần chẳng hiểu ra làm sao, chẳng có lý do gì này.

Hơn nữa, điều khiến tôi càng kinh sợ hơn là dường như cả cái giường và cái bàn đều đang rung lên, mái nhà bắt đầu xoay tròn, trong lòng tôi rất khó chịu, dạ dày thì cứ liên tục buồn nôn, dường như người cũng không ngồi vững được nữa, cả người tôi ngã ra khỏi ghế. Đúng vào lúc này, Linh Sư liền đến, chỉ nghe thấy tiếng rít từ xa đến gần, rồi lại từ gần đến xa, tượng Bồ Tát bất động, chén trà bất động, lư hương bất động, cái bàn bất động, mái nhà không còn xoay tròn nữa, tất cả đã trở về với bộ dạng vốn có. Trong lòng tôi rất ngạc nhiên, chuyện này là thế nào đây?

“Liên Sinh, cảm nhận vừa xong của con là do mắt đánh lừa, do tai đánh lừa, do mũi đánh lừa, do miệng đánh lừa, do thân đánh lừa thôi!” - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền đến âm thanh như tiếng ong nói với tôi. ”Điều này là vì sao ạ?” ”Tâm động muốn đi, mãi không dừng lại, con đã thông linh, do đó ma khảo càng nặng hơn. Hôm nay lúc ban ngày ở cung Thánh Minh, con đã thấy thần giáng xuống que hương mà động tâm, vì thế đêm nay tâm niệm con động, một khi tâm niệm động thì không thể ngăn chặn, do vậy mà khởi lên tất cả động niệm không dừng, vật cảm linh tâm, cho nên chuyển động không dừng đó.” Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói: “Thân này động khởi đều do một cái tâm, vì thế trước tiên phải điều tâm. Bởi vì tâm con nghĩ đến hương động, tà ma nhân cơ hội đó mà nhập vào, con bám chấp vào ma tướng nên có xu thế phát cuồng, nếu không có ta đến thì lần này thần hồn của con sẽ bị điên đảo, cuồng loạn tâm trí, không còn là người bình thường nữa rồi.”

Tôi nghe nói như vậy thì mồ hôi túa ra ròng ròng, thì ra tôi đã gặp ma tướng. Kể từ đó tôi càng biết rằng, cái gọi là người thần kinh thất thường hầu hết đều là người gặp phải ma tướng, những gì họ nhìn thấy đều kỳ quái và không hiểu kiểu gì, người bình thường thông thường tâm không tiếp xúc với hư huyễn, vì thế không nhìn thấy hư tướng nơi tâm niệm động.

“Linh Sư, làm sao để khắc chế ma?” ”Mắt ngay thẳng, tai ngay thẳng, mũi ngay thẳng, miệng ngay thẳng, thân ngay thẳng, ý ngay thẳng, thì gọi là chế tâm.” ”Linh Sư, làm sao để chế tâm?” ”Làm bát chính đạo, không chấp tướng, lâu ngày sẽ tự đắc.” - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đáp. ”Đa tạ Linh Sư giáo huấn.” - Tôi cung kính trả lời.

Nhờ có sự việc này xảy ra mà tôi hiểu rằng đà-la-ni pháp hoàn toàn nằm ở tâm mình. Năm xưa Thế Tôn cầm hoa mỉm cười, không cần văn tự, chỉ có thể hiểu ngầm, không thể biểu đạt bằng từ ngữ, điều ngài muốn nói tự nhiên chính là đà-la-ni tâm ấn, dùng tâm ấn tâm để truyền pháp mà thôi.

“Truyền Đăng Lục” có một đoạn viết về chuyện của hòa thượng Kim Ngưu: “Hòa thượng Kim Ngưu mỗi ngày khi đến giờ ăn cơm đều khiêng thùng cơm đến trước nhà chính để múa, cười vang ha ha nói rằng: Các Bồ Tát, đến đây ăn cơm đi! Ngày nào Kim Ngưu cũng như vậy, có thể nói là tấm lòng rất từ bi lương thiện. Múa thùng cơm cũng giống như cầm hoa, cười lớn cũng giống như cười mỉm, tiếc rằng các Bồ Tát không hiểu, phụ lòng Kim Ngưu, tiếc thay tiếc thay.”

Kì thực đà-la-ni pháp đều nằm ở tự tâm, vạn pháp quy tâm, ngoài tâm không có pháp, tâm pháp thượng thừa của hòa thượng Kim Ngưu chính là ăn cơm, dùng tâm bình thường để ấn chứng tâm Phật, hoàn toàn không hề có pháp, đến cuối cùng đích thực là không có pháp nào có thể thuyết! Một bậc đại trí giả đến cuối cùng cũng không có pháp nào có thể thuyết, tất cả pháp đều đến từ đà-la-ni tâm mà thôi.

Tôi có một học trò theo tôi học phù nhiều năm, có một hôm anh ta hỏi tôi: ”Thưa thầy, phù nhất định phải dùng giấy, bút, mực sao?” ”Không cần.” ”Luôn cần phải áp ấn sao?” ”Không cần.” ”Nhất định cần uy linh phù sao?” ”Không cần.” ”Cái gì cũng không cần, vậy lá phù đó làm sao mà coi là hoàn thành được?” ”Phù tức đà-la-ni tâm, tâm tức đà-la-ni pháp, pháp tức đà-la-ni phù, như vậy, mỗi một tâm pháp chính là một đà-la-ni phù. Thành tựu của phù chính là như vậy mà thôi, đây chính là phù lục thượng thừa tối thượng.”

10. Thuật triệu tập linh

Thuật triệu tập linh của tác giả là do Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền thụ, mật lệnh cao nhất của thuật này là Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp, sau đó ngài lại truyền thụ chú Cửu tiên triệu thỉnh, lại truyền thụ chú Triệu tiên nói chung, chú ngữ là: “Đạo do tâm học, tâm giả hương truyền, nhất khí thông thiên, phụng thỉnh chư tiên, hạo tiên kim khuyết Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đại Thánh Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh Quân, nam cực cao chân vạn linh, đại từ Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, Tử Vi Thượng Quan chu thiên chí tôn, nhật cung nguyệt phủ, tứ diệu ngũ tinh, nam thần bắc đẩu, thiên cang địa sát, hỗn nguyên lục thiên giáo chủ, bát thập nhị hóa tam giáo tổ sư, Tam Nguyên Tam Quan Đại Đế, Ngọc Hư Sư Tướng Huyền Thiên Thượng Đế, tam nguyên chủ tể tam bách lục thập cảm ứng thiên tôn, phàn hương bái thỉnh, bồng lai tiên chúng, Cửu Thiên Huyền Nữ Nguyên Quân, nguyên thủy chân nhân thiên tiên, địa tiên, ngũ tổ chân nhân, Thiếu Dương, Chính Dương, Thuần Dương tam vị chân nhân, ngũ hồ ánh tuyết Tam Đinh chân nhân, Ngọc Trụ đạo lão tiên nữ, Tử Dương chân nhân, La Sơn tiên ông Cát chân nhân, trích tiên Thái Bạch Lý chân nhân, Hoàng chân nhân, Vân Môn Lã chân nhân, Tử Hà Thôi chân nhân, Ngọc Thiềm tiên ông Bạch chân nhân, Nam Ngũ Tướng chân nhân, Bắc Thất Chân chân nhân, chúng tiên nữ, thiên thượng địa hạ thủy phủ dương gian, tam điểu thập châu, động thiên phủ địa, cổ lai kim vãng nhất thiết tiên chúng, đệ tử Liên Sinh án hỗn thiên thần diệu như ý đại pháp chỉ cấp cấp cung thỉnh…”

Đây là chú ngữ triệu tiên nói chung, khi triệu tiên dùng nghi thức cúng bái để phụng thỉnh, cũng có thể gửi đi giấy thỉnh tiên hoặc phù thỉnh tiên, đợi thần tiên giáng lâm thì lại báo cáo sở dĩ phụng thỉnh tiên chúng là vì việc gì. Phàm là tiêu tai giải ách, thỉnh tiên lập lời thề, tiền đồ sự nghiệp, quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa đều có thể cầu. Nếu được thần tiên đồng ý thì chắc chắn nguyện vọng lớn sẽ đạt được. Tuy nhiên, chủ yếu là cúng phẩm phải thanh tịnh, cúng quả tươi, đồ chay, hoa thơm, rượu nhạt là chính. Quan trọng nhất là thành tâm thành ý, dù bạn không nhìn thấy thần tiên giáng xuống nhưng cũng không được xem đây là trò đùa, bằng không chẳng những không cầu được mà ngược lại còn phạm tội. Đây chính là thuật cúng tế triệu triệu thỉnh linh. Người bình thường dùng nghi thức tụng kinh để thỉnh tiên chúng cũng được, có thể tụng kinh Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Cung Đại Đế hoặc kinh Bắc Đẩu là chính, cũng có thể tụng Ngọc Hoàng Chân Kinh. Thuật triệu thỉnh linh kiểu này là chính phái nhất.

Theo như sư phụ Thanh Chân Đạo Trưởng của tôi nói, có rất nhiều thiện nam tín nữ trong tâm có suy nghĩ thiện lành, bình thường chưa học tụng tiên chú, nhưng hễ gặp khó khăn là chắp tay gọi trời, lúc này tất cả tình cảm chân thành của họ đều tuôn trào ra, trời ắt cảm ứng. Nhưng nếu bình thường không làm điều thiện thì kêu trời gọi đất cũng chẳng có tác dụng gì, trong cõi vô hình đều có thần quân giám sát, người muốn cầu Thần Phật phù hộ cũng nhất định phải hợp với ý trời thì mới có thể được.

Ngoài ra có một bộ phận người tu đạo học được chú triệu thỉnh tiên chúng, cũng học được phù lục thỉnh tiên, thế nhưng làm pháp không làm theo cách chính quy, tâm thuật bất chính, không theo thời giờ mà lại tùy tiện triệu thỉnh, tự nói có thể thỉnh Ngọc Hoàng Đại Đế hạ phàm trần, thiên binh thiên tướng phải theo sự điều hành của ta, toát ra vẻ kiêu ngạo ngút trời. Loại người này tự cho rằng pháp lực cao cường, cầm phù chú làm những việc sai trái, không những triệu thỉnh Ngọc Hoàng Đại Đế không đến, ngược lại lại triệu thỉnh những hóa thân của thiên ma quỷ quái, những yêu ma quỷ quái này tự xưng là bậc cao chân hạ phàm, khoác lác khiến những người tu đạo này vui mừng khôn xiết. Những người tu đạo này không biết dùng chân tâm để phụng thỉnh, mà lại dùng phù chú triệu thỉnh như trò chơi, lúc đó ma hỏa đốt thân, hối hận thì không còn kịp nữa!

Tôi được Linh Sư hướng dẫn thuật triệu thỉnh linh ở khu mộ Lục Giáp ở Đài Nam. Khu mộ này rất gần với Xích Sơn Nham, phía đông của khu mộ có một ngôi chùa lớn thờ phụng tổ sư Lã Thuần Dương - một trong số tám vị tiên, và Nam Đẩu Tinh Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân, người trụ trì là một vị xuất gia. Phạm vi của khu mộ này rất rộng, có một con kênh lớn chảy ngang qua trung tâm của khu mộ. Mỗi ngày vào lúc đêm khuya, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh gọi tôi dậy, đi đến bia mộ màu trắng ở trung tâm khu mộ. Tôi ngẩng đầu nhìn trời, những vì sao thưa thớt, sương mù ban đêm đặc biệt dày, người nhát gan cũng sẽ bị dọa cho sợ chết khiếp.

Tôi ngồi ở trung tâm khu mộ, trở thành người còn thức duy nhất trong thế giới im lìm. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dạy tôi tay phải bắt ấn cầm hoa sen, tay trái bấm pháp chỉ, vận linh, khi chân linh hiển hiện, tôi niệm chú triệu hồn: “Thiên linh vạn thánh, hợp thông thiên địa, tá ngã dương tinh dương hồn, tốc hiện âm tinh âm hồn, ngô niệm pháp chú, tốc chí ngô tiền, ngô phụng thái thanh bồng lai tiên tử chân nhân pháp chỉ luật lệnh.” Tổng cộng niệm chú này 9 lần. Nói ra cũng kỳ lạ, những ngôi mộ ở trước mắt tôi, ở mặt đất phía bên phải có những ông cụ nhỏ thó đi tới, các cụ cầm gậy ba-toong tập trung trước mặt tôi nói: “Pháp sư dùng pháp cho gọi, không biết có điều gì dặn dò?” Các cụ già có bộ dạng giống nhau, mặt mũi giống nhau, tôi biết đây là “hậu thổ thần”, “hậu thổ thần” có thể nói là tiểu thổ địa công, mỗi ngôi mộ có một vị, nên có tới trăm nghìn vạn vị, mỗi vị sẽ quản một âm linh trong ngôi mộ.

“Đệ tử Liên Sinh, phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sư huấn luyện triệu linh, nay khẩn thiết xin các vị thả các âm linh ra để Liên Sinh được nhìn thấy.” Đám tiểu thổ địa đó, mỗi vị cao không quá 5cm, nhất loạt gật đầu, thế rồi tự biến mất. Không cần chờ quá lâu, đầu các ngôi mộ đều xuất hiện những âm linh, trong số đó phần lớn là các ông cụ bà cụ, cũng có những cô gái trang điểm rất đẹp, cũng có những cậu chàng thanh niên, có những âm linh tướng mạo xinh đẹp và phong độ, cũng có những âm linh thì xấu chẳng muốn nhìn, những âm linh thắt cổ tự tử mà chết thì lưỡi rất dài, mặt tím đen, trông càng đáng sợ hơn, họ lũ lượt kéo đến rất đông. Tác giả cảm thấy toàn thân lạnh như băng giống như ở trong thế giới ma quỷ, sau khi họ tụ tập lại thì nói: “Không biết vị pháp sư đây gọi tới có gì điều phối?”

“Chư vị quá cố, tôi là Liên Sinh, phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh luật lệnh luyện tập đại pháp triệu hồn, sau này nếu có lúc cần nhờ tới các vị thì mong các vị tiên linh vui lòng giúp đỡ. Nay Linh Sư đặc biệt ban cho một câu pháp ngữ của Địa Tạng Vương Bồ Tát để tặng cho các linh, xin các vị lần lượt lĩnh quà.” Tôi nhắm mắt lại cung kính niệm một câu “Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”, rồi tung thủ ấn hoa sen ra, đám linh trước mắt tôi náo loạn, ào ào tranh nhau hoa sen bay ra. Tôi càng niệm càng nhanh, thủ ấn hoa sen càng vung ra, những đóa hoa sen màu hồng liên tục xuất hiện, những hồn ma có được hoa sen hoan hỷ đảnh lễ rồi đi. Tôi ở tại khu mộ Lục Giáp luyện tập đại pháp triệu linh tổng cộng bảy ngày, mỗi đêm đều niệm vô số câu Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi thích nhất là pháp hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, đây cũng là nguyên nhân mà tôi có duyên phận gần gũi nhất với Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Nếu học được phương pháp của thuật triệu linh thì có thể làm được rất nhiều việc. Chúng ta có thể lợi dụng người âm giúp người dương chúng ta hoàn thành rất nhiều việc khó khăn, sức mạnh của họ tuy là vô hình, nhưng có thể ảnh hưởng đến những người đang sống sờ sờ đó.

11. Không chạy theo bốn mùa tàn lụi

Trong quá khứ tác giả diễn thuyết cho người ta thường nói đến “mệnh trời có thể đoán”. Ban đầu mọi người đều lắc đầu không tin, nhưng khi tôi giải thích rõ ràng với mọi người, mọi người đều không kìm được sự thán phục. Tôi nói: “Vận mệnh của thượng thiên đều có thể đoán ra được, huống hồ là vận mệnh của một đời người nhỏ bé.”

Vì sao mệnh trời có thể đoán được? Đây chính là chu thiên lý số mà bình thường chúng ta vẫn chú ý đến, thời tiết biến đổi cũng là có vận mệnh nhất định đó! Chúng ta biết rằng xuân hạ thu đông là sự biến hóa bốn mùa của trời, sau mùa xuân nhất định là mùa hè, sau mùa hè nhất định là mùa thu, sau mùa thu nhất định là mùa đông, mùa đông kết thúc thì khắp nơi lại quay trở về mùa xuân.

Trong sách hoàng lịch âm lịch, khi nào là Đại Hàn, khi nào là Tiểu Hàn đều là do con người dựa vào thiên can địa chi để phát triển tính toán mà ra. Thiên can địa chi há chẳng phải thay ông trời đoán mệnh sao. Còn người nông dân dựa vào thời tiết lệnh cho khi nào thì gieo mạ, khi nào thu hoạch, đều có một chứng cứ, thậm chí đoán được rất lâu khi nào sẽ có nhật thực, khi nào có nguyệt thực, đều có thể đoán chính xác cực kì.

Những gì quan trắc được từ khí hậu ngày hôm nay có thể dự đoán thời tiết của ngày mai, có rất nhiều nguyên lý để dựa vào, thật ra cũng là đang làm công việc thay trời đoán mệnh. Lại có một số nông dân nhìn hướng chuyển động của cỏ, sự sinh trưởng của cỏ mà có thể đoán ra năm nay có mấy cơn bão, bão từ nơi nào thổi tới, thậm chí sao chổi bay đến nơi nào, vào ngày nào giờ nào có thể nhìn thấy. Những hiện tượng thiên văn chưa phát sinh này, nhân loại chúng ta làm sao có thể biết trước sự việc được chứ? Đương nhiên đây chính là nhờ kết quả của phép tính chu thiên diệu số mà có thể biết được.

Động thái của hiện tượng thiên văn có liên quan đến sự biến hóa của bốn mùa trên mặt đất, đồng thời càng có liên quan đến sự lên xuống của thủy triều. Hoàn toàn không thể phủ nhận rằng sóng thần và động đất lớn thường có liên quan mật thiết với các hiện tượng kỳ dị do trời tạo ra.

Về phương diện địa lý, cũng có tồn tại lý số nhất định. Các loại hoa nở theo bốn mùa, nơi nào sẽ sản xuất ra loại trái cây nào, đây là việc theo lẽ bất di bất dịch, không mơ hồ một chút nào. Sự phân bố của núi sông đại địa dựa theo thời tiết địa lý và có những biến đổi. Con người giữa trời đất, nhận được khí của trời đất mà thai nghén, cho nên mới có thuyết địa linh nhân kiệt, việc này càng không thể xem nhẹ. Có một số nguyên lý mà các thầy phong thủy dựa vào, việc họ có thể xem được huyệt chuẩn xác như vậy không phải là không có nguyên nhân. Trời có thể tính, đất cũng có thể lường, vận mệnh của con người tự nhiên cũng có định số giống như vậy, những thành tựu của cả một đời người ra sao lẽ nào không phải là trong cõi vô hình đã có sự an bài.

Con người sống là một định số, con người sau khi chết tự nhiên cũng có một định số, đây chính là “linh luật”. Hai chữ “linh luật” này là do Lư Thắng Ngạn tôi phát minh ra, cũng là điều tôi phát hiện ra, “linh luật” chính là định luật của linh hồn, cũng chính là vận mệnh của linh hồn. Linh hồn và con người là giống nhau, tuy rằng con người tự do tự tại, nhưng lại chịu sự khống chế của thời gian, trong cõi vô hình linh hồn cũng phải chịu sự khống chế của “linh luật”, một số linh cũng bị mất tự do, một số thì chuyển thế, một số thì thăng lên thiên giới, một số thì tự làm thành một cõi âm, “linh luật” này đều có chừng mực, rất là bất khả tư nghì.

Cá thể của “linh luật” vì không hình không mùi không vị, do vậy có một hiện tượng sản sinh tần số, thể quy về của nó là khí, tần số cũng nằm trong đại khí, tình trạng này giống như từ trường, từ lực cũng là một trong những điều bí ẩn của giới tự nhiên. Từ lực cũng không hình không vị, nhưng thực tế lại là một thứ có tồn tại, từ lực có từ trường, tự hình thành một “từ luật”. Kì thực “linh luật” và “từ luật” là tồn tại giống như nhau, chỉ là linh luật thì chỉ có người có linh thể mới có thể cảm nhận được.

Tôi cho rằng trên thế giới này, có nhiều người bị “sóng linh do linh lực phát ra” quấy nhiễu, nhưng mà họ lại không tự biết. Có người bị thần trời thường xuyên can thiệp, khiến người này tràn đầy lòng nhân từ và yêu thương, có người bị linh lực của tổ tiên ảnh hưởng, cho nên tính cách của tổ tiên đều biểu lộ trên đời sau, cũng có người bị linh lực của ma quỷ quấy nhiễu, suy nghĩ tà ác thường xuyên nảy sinh xuất hiện.

Người thần kinh thất thường, bác sĩ gọi là thần kinh phân liệt hoặc suy nhược, tôi thì cho rằng đây là tinh thần không thể tự chủ, bị linh lực của ngoại giới quấy nhiễu mà ra. Các nhà khoa học thừa nhận bộ não của con người là một cơ quan thần bí đặc biệt nhất, trong đó không chỉ bao gồm ký ức mà còn có thể thu nhận sóng não kỳ dị, chịu sự quấy nhiễu của các linh trong linh giới.

Linh của ngoại giới đều thích chui vào trong não của tôi, tôi không cố ý tìm đến họ nhưng họ lại cố ý tìm đến tôi. Họ đặc biệt không ngờ chui vào trong não tôi, nói với tôi những chuyện kỳ dị của linh giới mà ngay cả nghe cũng chưa từng nghe qua.

Viết đến đây, tôi nghĩ đến Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh nói với tôi những lời sau:

“Liên Sinh, đạo chính là những điều chí lý vô hình vô danh giữa trời đất. Cái gọi là đắc đạo cũng chính là lòng người hợp với lòng trời, lòng trời in vào lòng người, cũng chính là linh và ta hợp nhất, trời và người hợp nhất, linh hồn nhập thẳng vào cõi thanh tịnh, không chịu ảnh hưởng của bốn mùa tàn lụi, tự chủ linh của mình, không chịu phúc báo của cõi trời, không chịu phúc báo của cõi người, không chịu báo ứng của atula, không chịu báo ứng của ba đạo ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, từ nay linh nhập vào trong biển lớn không trói buộc, ở bên ngoài tam giới tự ý tiêu dao, đây cũng chính là bậc tôn giả đại giác, như vậy tức là đắc đạo đó!”

Cho nên, người đắc đạo chính là bậc đại giác, linh hồn không chịu sự chi phối của “linh luật”.

12. Thần toán có thể thông thiên

Kẻ hèn này nói thần toán có thể thông thiên, tức là biết trên trời dưới đất, quá khứ tương lai, nhân quả kiếp trước. Có một số người cho rằng đây là chuyện chẳng thể nào tin được, trên thực tế, trên trời dưới đất, quá khứ tương lai, nhân quả kiếp trước là một loại thần toán đơn giản nhất, dùng thần để đoán người thì dễ, dùng thần để hiểu thần mới khó. Dùng thần để đoán người là đoán mệnh thông thường, còn dùng thần để hiểu thần chính là thần thông, sức mạnh của thần thông là bất khả tư nghì, trời đất cũng nắm chắc trong lòng bàn tay thôi!

Chú thần thông phổ biến như sau: “Thiên sinh vân long, đạo bản thượng thăng, bình liệt chính khí, lợi vu thái thanh, phụ bật chính đạo, hành vu trung chính, lục thân đỗng nguyên, cửu thiên siêu hình, phúc diên tử tôn, tiên hành tự chân, dĩ thần hội thần, dữ đạo hợp chân, ngô phụng Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh.” Câu chú này nếu niệm lên, với người bình thường mà nói thì sẽ chẳng có động tĩnh gì, nếu là người tu đạo đã thông linh niệm thì chắc chắn tâm sẽ nhận được sự cảm động lớn, vì sự cảm động của tâm này mà thiên thần giáng xuống, truyền thụ diệu pháp như ý, có được sự trợ giúp của thần lực, thành tựu đạo công đạo quả phi phàm.

Thần toán mà kẻ hèn này thảo luận không phải là chỉ thuật đoán mệnh giang hồ thông thường, càng không phải là dùng phương pháp kỳ môn độn giáp chuyên niệm: “Thiên viên địa phương, ngã xứ trung ương, Thái Ất sứ giả dữ ngã đồng tàng, tùy ngã tác dụng, vãng phản vô phòng, độn pháp vu thế, thường thị ngã bàng.” Pháp Thái Ất chân nhân linh đồng hiện thân này phải là thầy xem tướng cao minh mới có thể hiểu được, nhưng vẫn còn kém xa thần toán chân chính!

Ngay từ đầu, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã nói với tôi, một người muốn học thần toán, quan trọng nhất là có phẩm cách trong sáng, nếu phẩm cách tồi thì có nỗ lực thế nào cũng uổng công, phẩm cách thượng thừa thì thiên thần tất nhiên sẽ cảm ứng. Đầu tiên chọn một ngày thiên địa âm dương giao thái [khí của trời đất hài hòa tốt lành], hoặc thiên địa khai cơ [trời đất mở ra điều mới mẻ]. Ngày âm dương giao thái chính là ngày tết Đoan Ngọ theo Âm lịch, ngày khai cơ chính là ngày mồng Một năm mới.

Vào sáng sớm, hướng về phía mặt trời đang mọc, hít vào ba hơi chân khí của phương Đông, niệm chú thần thông 3 lần, gõ răng vào nhau 36 lần, sau đó nhắm mắt lại tĩnh tọa. Có một số người đốt phù thỉnh thần, rồi cứ như vậy canh giữ ngọn đèn thần, khiến cho nó sáng không tắt, tâm niệm chuyển động hợp với trời xanh, không thể có tạp niệm xuất hiện, nếu tạp niệm xuất hiện thì thánh thần sẽ không hiện nữa! Khi hai mắt nhắm lại, nếu thấy trong mắt xuất hiện kim quang có hình dạng tròn trịa tức là có tin tức rất tốt đến. Lại nhìn thấy trong kim quang hiện lên một đám mây trắng từ xa đến gần, đây là sự xuất hiện của tình huống tốt nhất, nếu nhìn thấy thì tức là việc thần toán có triển vọng.

Buổi sáng ngày hôm sau, cũng làm pháp như hôm trước, rồi niệm chú: “Tổ khí nguyên thủy, thượng thông tiên chân, hợp tắc đắc đạo, phân tắc thập phương, thượng đế hữu lệnh, lệnh ngã thông linh, ngoại thanh nội trừng, cửu khiếu quang minh, nhĩ văn mật ngữ, tốc tuyên thần âm. Cấp cấp như Nguyên Thủy Đại Thiên Tôn luật lệnh.” Niệm chú này 3 lần, nhắm mắt tĩnh tọa, lúc này trong mắt chắc chắn hiện kim quang, màng nhĩ trong tai rung động, có tiếng vù vù như tiếng ong truyền đến, âm thanh vù vù này lúc xa lúc gần, lúc bên trái lúc bên phải, cuối cùng lại nghe thấy giống như ngôn ngữ truyền trong điện thoại. Điều này có nghĩa là ngày thành công đang đến gần rồi!

Tọa công của thuật này là phải đạt đến hễ hai mắt nhắm lại là thấy ở trên mây trắng trong không trung có một vị thần tiên ngồi ngay ngắn, vị thần tiên này bất kể là thần thánh phương nào thì cũng đều là do bạn dùng chân khí và chú triệu thỉnh để triệu thỉnh đến. Bạn và thần tiên thông báo cho nhau biết họ tên, và lập lời thề sẽ giúp đỡ nhau đắc đạo, và yêu cầu pháp ngữ để triệu thỉnh thần tiên để lúc nào gọi là họ sẽ hiện thân, những lúc lành dữ họa phúc thông báo cho bạn biết, khi ấy bạn thần toán cho người ta tự nhiên sẽ ứng nghiệm như thần, thậm chí là chính xác đến từng sợi lông, không sai lệch một chút nào. Và vị thần tiên đó từ trong mây đến đi thần tốc, so với pháp linh đồng nhĩ báo thì cao minh hơn nhiều, lợi hại hơn nhiều.

Thần toán tối thượng thừa chính là thông thiên thông thần, thần tiên và bạn là bạn bè, thậm chí người có cơ duyên khéo hợp mà học được thần toán, có thể nhờ kết quả của thần thông mà có được dịp tốt một bước lên mây, làm tới chức Thiên Tào, cũng thu hoạch được công quả vô cùng, trở thành người số một trong gia tộc thần tiên, như thế chẳng phải rất tuyệt vời sao!

Tác giả và một thầy xem tướng rất giỏi nọ là bạn thân. Mặc dù ông ấy biết xem tướng tay, tướng mặt, bát tự, tứ trụ, bói thẻ kim tiền, nhưng không biết thần toán là cái thứ gì.

“Xem tướng mệnh cho người để làm gì?” - Tôi hỏi. ”Giúp người ta chọn lành tránh dữ mà thôi.” - Ông ấy đáp. ”Tự mình có thể có công đức gì?” ”Công đức thì không dám nói, chỉ là mượn việc xem tướng mệnh mà sống qua ngày thôi, chưa chắc là đã có công đức gì, cũng có thể nói là giết thời gian thôi.”

Hôm nay, tôi biết rằng có rất nhiều chuyên gia tướng mệnh đã mượn tướng mệnh làm kế sinh nhai. Môn học tướng mệnh vốn dĩ rất uyên thâm ảo diệu, cũng có thể nói là một học vấn không thể coi thường, nhưng đáng tiếc là nếu lấy ra để làm công cụ sinh nhai thì như thế chắc chắn xem tướng mệnh sẽ dẫn vào con đường cùng, trở thành hạng thuật sĩ giang hồ hạ đẳng. Nếu đoán mệnh mượn danh là cải ách tế sát thì đúng là lừa gạt người ta. Vận mệnh cố nhiên có thể cầu thần phù hộ, cũng có thể tự mình cải biến, nhưng tuyệt đối không phải là trong chốc lát có thể cải ách tế sát, trừ phi chúng ta đem công đức hồi hướng cho cái người gặp vận hạn đó.

Ngày nay, phẩm cách trong sáng là một yếu tố then chốt quan trọng nhất của người muốn thần toán thông thần. Người tự cho rằng cả đời làm việc thiện, người tự cho rằng cả đời chưa bao giờ có suy nghĩ việc làm xấu, người tự cho rằng tâm hướng đạo rất kiền thành và bền bỉ, không ngại tu tập pháp thần toán thì có lẽ thành tựu trong tương lai còn vượt qua cả kẻ họ Lư này rất nhiều. Trên đời này không ít người có thiện căn đại khí, còn tôi chỉ có thể xem là hạng người thấp kém, nếu mọi người tin lời tôi thì chẳng phải ai ai cũng là người trong hạng thần tiên sao! Sao phải lo không thể đắc đạo chứ?

13. Vào thẳng Đại Âm Sơn

Ở đây tôi kể một sự việc kỳ dị, có rất nhiều người tận mắt chứng kiến việc này, ai ai cũng chặc lưỡi xuýt xoa.

Có một hôm, tôi hỏi việc cho rất nhiều người, có một bà bác 63 tuổi đến từ khu vực cầu Quan Đông thành phố Tân Trúc, bà bác cùng với hàng xóm thuê xe cùng đến nhà tôi. Bà ấy nói nghe người ta kể tôi xem rất linh, bà ấy vẫn luôn không chịu tin, cho rằng đây là người ta đồn nhau thế thôi, rồi thổi phồng khuếch đại lên. Bản thân bà ấy cả đời chưa từng lễ Phật, bình sinh không tin tà, thân thể khỏe mạnh, con cái hiếu thuận, sở thích duy nhất của bà là đi du lịch khắp nơi.

“Lư tiên sinh, bố mẹ tôi qua đời đã hơn 30 năm, tôi rất nhớ họ, anh có cách nào để cho tôi nhìn thấy họ, cũng là để cho bà già này được mở mang tầm mắt.” - Bà ấy đưa ra yêu cầu rất thẳng thắn nhanh gọn. ”Bác đây muốn tôi quán lạc âm, pháp quán lạc âm này mặc dù tôi biết, nhưng có thành công hay không là do con người quyết định. Nếu bác muốn đi, tôi sẽ phá lệ làm thử một lần, vì bác là phụ nữ, hơn nữa lại sinh vào tháng bảy Âm lịch, hơn nữa cũng đã qua tuổi sinh đẻ, có thể đến cõi âm nhìn ngó cho biết.” - Tôi thấy bà bác này rất thích hợp với quán lạc âm cho nên đã đồng ý. Còn những người xung quanh vừa thấy tôi muốn làm quán lạc âm cho bà bác thì đều luyến tiếc không muốn bỏ đi, muốn nhìn xem quán lạc âm là như thế nào.

Tôi chuẩn bị một vài đạo cụ, ví dụ: thước minh nhĩ, phù lệnh, sớ văn, chuông linh, cá gỗ. Rồi lại mua một ít giấy bạc, giấy bạc cũng có thể dùng được, lại chuẩn bị nước và rễ cây lúa. Như vậy đạo cụ cần dùng đều đầy đủ, tôi lại cho bà bác mặc bộ quần áo màu xanh, áo xanh biểu thị ý nghĩa rằng đây là môn đồ của Diêu Trì Kim Mẫu.

Khi bắt đầu, tôi mời bà bác ngồi trên ghế, dùng giấy vàng châm lửa, vòng xung quanh người bà ấy để thanh tịnh thân. Thanh tịnh thân xong, tôi bảo bà ấy chắp tay trước ngực, miệng niệm thầm Diêu Trì Kim Mẫu, đồng thời nhắm hai mắt. Tôi đốt sớ văn quán lạc âm để gửi thông điệp đến Địa Tạng Vương Bồ Tát và Đông Ngục Đại Đế, Phong Đô Đại Đế, Thập Điện Diêm Quân. Sớ văn đốt xong, chỉ thấy một vị âm thần quay người bỏ đi, lúc này tôi niệm tam vạn lục thiên thần chú, chú này liên quan đến thần thức của toàn thân, dùng tay bắt ấn lôi quyết, từ trên xuống dưới, liên tiếp bổ vào bà bác năm lần, hành động này có tác dụng là sấm lệnh cho rơi xuống cõi âm.

Sau ba phút, toàn thân bà bác có ba cơn rùng mình ớn lạnh, thân thể bắt đầu rung rung. Tôi đốt lá phù sắc lệnh thứ nhất, phù này đốt xong thì mọi người chỉ thấy thân thể bà bác dừng lại, dừng hẳn ngọ nguậy, nhịp tim và hơi thở yếu đi, giống như động vật ngủ đông vậy. Tôi biết rằng linh hồn của bà ấy đã thoát khỏi thân xác, đến đây là một điểm then chốt, có một số người toàn thân run rẩy, nhưng linh hồn không thoát ra khỏi thân được, như vậy thì sẽ gặp cửa ải khó khăn. Tôi vội vàng đốt phù phi mã, phù phi mã này vừa đốt xong thì trên mặt bà ấy vã mồ hôi, nói: “Tôi không trèo lên được, con ngựa này cao quá, cậu bé trông ngựa đỡ giúp tôi với.” Tôi nghe lời của bà bác thì càng biết là phi mã đã hiện lên, sẽ chở bà ấy đi du lịch địa phủ.

Một lúc sau, tôi lại đốt một lá phù là phù hào quang, tác dụng của phù hào quang này càng mạnh hơn, vì ở âm phủ khắp nơi là bóng tối, người dương gian nếu không có phù hào quang thì căn bản là chẳng nhìn được cái gì. Hơn nữa giống như người mù mò mẫm trong bóng tối, cái gì cũng không nhìn thấy. Lúc này bà bác đã rơi vào trạng thái ngủ đông, hơi thở yếu ớt, bà ấy đã đến một nơi, gặp phải chuyện gì, thỉnh thoảng bà ấy lại kêu lên và nói ra.

Có lúc bà ấy hét lên: “Ối! Chỗ này lạnh muốn chết.” Có lúc lại nói to: “Trời ơi! Sợ chết mất thôi, sợ chết mất thôi, địa ngục bi thảm như thế này, người sống không thể làm việc ác được!” Có lúc lại nhỏ giọng nói: “Ở đây bao lâu rồi, dạo này có khỏe không?” Đột nhiên, chúng tôi nhìn thấy bà bác có bộ dạng đưa hai tay ôm chặt lấy một người, nức nở nghẹn ngào, khóc không thành tiếng, bộ dạng rất đau buồn không biết nói thế nào. Sau khi thôi thút thít, bà ấy lại liên tục thét lên: “Lạnh quá! Lạnh quá! Đây là một ngọn núi lớn tối om om, tôi không đi ra được. Ôi, lạnh quá, lạnh quá! Tôi không đi được nữa, tôi mệt rồi, tôi lạc đường rồi, làm sao trở về đây?”

Ban đầu tôi không cảm thấy bà bác có thể xảy ra tình huống gì khác lạ, nhưng một lúc sau, dường như bà ấy mệt đến mức không còn sức lực nữa, mồ hôi cứ vã ra, miệng thở hổn hển. Vì tôi đã đốt phù phi mã, Thanh Chân Đạo Trưởng từng nói với tôi, phù phi mã có thể đi có thể về, không cần đi bộ, nhưng bà bác trước mắt dường như không còn sức để đi nữa. Tôi sờ vào mặt bà khiến tôi giật mình sợ hãi, mặt bà thoắt xanh thoắt trắng, toàn thân lạnh như băng, nhịp tim đã rất yếu. Mọi người dường như cảm thấy có điều kỳ quái, sự vui mừng ban nãy đã biến thành nỗi kinh sợ. Điều mọi người sợ nhất là: “Bà ấy liệu có một đi không trở về hay không?”

Tôi đốt một lá phù phản hồn, kết quả là bà ấy vẫn chẳng cử động gì cả, lại đốt một lá phù phản hồn nữa, gõ thước minh nhĩ, gõ cá gỗ, lắc chuông linh. Kết quả là bà ấy vẫn không động cựa. Trong lòng tôi hoảng hốt, lần này tôi cực kì sợ hãi, vội vàng xướng lên Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp chú, ngay cả chú ngữ tôi cũng đọc vấp váp ba bốn lần không trôi chảy, một khi đã cuống lên thì cũng chẳng để ý chuyện thắp hương lễ bái nữa. Tôi niệm khoảng hai phút, trong chú ngữ cung thỉnh Địa Tạng Vương Bồ Tát. Lúc này Địa Tạng Vương Bồ Tát thấp thoáng hiện thân trong mây trắng trên đỉnh núi, nói rằng: “Liên Sinh, bà Khưu hiện tại đã rơi vào Đại Âm Sơn, không cách nào tìm được đường ra, bà ấy không tin thần Phật, tâm không có đường nào để nương dựa, cho nên cứ loay hoay bốn phía mà không tìm được đường ra. Than ôi! Nếu lúc còn sống mà bà ấy có tín ngưỡng thì khi đến nông nỗi này tự nhiên sẽ có Thần Phật trợ giúp, tâm không có nơi nào để quay về, đi xem cõi âm lại rơi ngay vào Đại Âm Sơn, vĩnh viễn sẽ chẳng có ngày thoát ra.”

“Bồ Tát, ngài phải cứu giúp, bà ấy mặc áo xanh, bà ấy là môn đồ của Diêu Trì Kim Mẫu đó! Từ đầu tôi đã biết bà ấy không có tín ngưỡng, cho nên mới để cho bà ấy mặc áo xanh.”

“Yên tâm, đã là môn đồ của Kim Mẫu thì tất nhiên Kim Mẫu sẽ cứu trợ, chờ một lúc sẽ trở về.” - Bồ Tát lại nói: “Nếu có thể tin theo và loại bỏ ngạo mạn, phát tâm thì sẽ thấy được Như Lai. Nếu có tâm nịnh nọt bất tịnh thì trăm triệu kiếp tìm cầu cũng khó gặp được.” Bồ Tát nói xong lời này thì kim thân ở trong mây trắng trên đỉnh núi dần dần ẩn đi, tôi quay đầu nói với mọi người: “Các vị yên tâm, đợi một lát nữa bà ấy tự nhiên có thể tỉnh lại.” “Dọa tôi sợ chết mất thôi, giả sử bà ấy không tỉnh lại, mấy người chúng tôi đi cùng xe tới đây, thật không biết khi trở về phải ăn nói ra sao nữa?”

Mười phút trôi qua dài chẳng khác gì mười thế kỷ, trong lòng mọi người bấy giờ mới thở hắt ra được, bà bác cử động tay chân, ngẩng đầu lên, người dựa vào ghế, một tay xoa ngực, thấp giọng nói một câu: “Mệt chết mất thôi, lần sau không dám quán lạc âm nữa, tôi trở về sẽ lập tức thờ phụng Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn, nếu không có bộ quần áo xanh này thì căn bản là tôi không thể trở về được. Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn là thiên thần cứu mạng của tôi.”

Có người rót một chén trà đưa cho bà bác uống, bà bác định thần lại rồi kể cho khoảng hơn ba chục người có mặt tại đó về trải nghiệm quán lạc âm của mình, sau đây chính là những lời mà chính miệng bà ấy kể: “Sau khi tôi ngồi mấy phút thì đầu và tay rung lắc mà không tự chủ được, các tế bào toàn thân dường như đang nhảy nhót, tôi tự cảm thấy lúc này chắc là giống kê đồng lắm, tôi không dám mở mắt, cũng không dám dừng niệm Diêu Trì Kim Mẫu. Sau đó tâm thần bắt đầu trở nên mơ hồ, tinh thần không biết đã được đưa đến nơi nào rồi. Trái tim càng ngày càng không còn trọng lượng, giống như ngồi trên máy bay lúc hạ cánh vậy. Đúng lúc này lại có một cơn chấn động khác, toàn thân dường như nhẹ lâng lâng, xung quanh tối tăm mù mịt. Một lúc sau, tôi nhìn thấy có một ngọn đèn lắc lư trước mặt tôi, ngọn đèn đó rất sáng, đã soi rõ một con đường, bên cạnh tôi có một con ngựa trắng, có một cậu bé giữ ngựa ra sức kêu tôi lên ngựa, ngựa cao quá, tôi sợ không leo lên được nên cuối cùng cậu bé giữ ngựa đã giúp tôi, tôi cũng không biết làm thế nào mà mình leo lên được lưng ngựa. Vừa lên lưng ngựa thì tôi lại càng hoảng, túm lấy ngựa thật chặt, ngựa tung bốn vó chạy băng băng, trên đường gió thổi vù vù, không hề nhìn thấy một người một bóng nào cả, xung quanh dường như cũng không có cảnh vật gì để mà xem, ngoại trừ ngọn đèn đung đưa. Cứ như vậy một lúc sau, bước chân ngựa bắt đầu chậm lại.”

“Ngựa vừa chậm lại, tôi ngẩng đầu nhìn, thì ra là một thị trấn náo nhiệt, dòng người cuồn cuộn, cũng giống hệt dương gian, cũng có nhà trọ, cũng có cửa hàng, cũng có quán ăn, xe cộ qua lại như nước chảy. Sau khi đi qua con đường lớn, tôi lại đến một con đường nhỏ hoang vu khuất nẻo, cuối con đường lại chia thành năm nhánh, một nhánh có ánh vàng lấp lánh, một nhánh có ánh bạc lấp lánh, một nhánh có màu của ngọc sáng, một nhánh có màu xám, một nhánh có màu đen. Đúng lúc này, có một bà lão ở bên đường gọi tôi: “Ngọc! Ngọc! Sao lại tới đây?” Tôi nhìn thì thấy hóa ra là mẹ tôi, tôi vội vàng xuống ngựa, không ngờ vừa xuống ngựa thì ngựa và cậu bé giữ ngựa cũng biến mất. Tôi và mẹ tôi ôm lấy nhau khóc, mẹ tôi nói: “Bố con đã chuyển thế rồi, mẹ ở âm gian bơ vơ không nơi nương tựa, con phải cứu mẹ ra khỏi đây.” “Làm sao cứu?” “Làm nhiều việc thiện, hồi hướng cho mẹ.” Nói chuyện không được lâu thì mẹ tôi cũng biến mất.”

“Tôi không tự chủ được bản thân, cứ thế đi về con đường lớn màu đen. Nơi này rất lạnh, khí lạnh phả vào người, đến một nơi, nơi này chính là rừng Vô Thường. Rừng Vô Thường dọa tôi sợ đến mức kêu la ầm ĩ, thì ra rừng Vô Thường là nơi tụ tập của những oan hồn treo cổ tự sát ở dương gian, mặt mày đen sì u tối, hai con mắt lồi ra, bảy lỗ chảy máu, lưỡi thè dài ra, suýt chút nữa là tôi bị cảnh tượng ấy khiến cho ngất xỉu. Ở trong rừng Vô Thường, tôi gặp chị Lâm là hàng xóm cũ trước đây, bà chị ấy đã treo cổ mà chết.” ,

“Tôi đi tiếp về phía trước, chính là địa ngục, có rất nhiều những tên lính quỷ tóc đỏ hung tợn, có nghiệt kính đài [gương soi tội ác], có bổ kinh sở [nơi phạt các sư sãi tụng kinh không đủ phải ở đây tụng bù], có vọng hương đài [bục nhìn về quê hương], khắp nơi đều có lưới sắt, đâu đâu cũng có đình đài, có mười vạn tám nghìn con đường dài nhỏ hẹp ngoằn ngoèo như ruột dê, có đại địa ngục bi thảm lần lượt hiện lên trước mắt tôi. Bởi vì tôi mặc áo xanh, trên đầu có một ngọn đèn chiếu sáng, lính quỷ bình thường nhìn tôi cũng giống như không nhìn thấy, mặc cho tôi đi qua mà không bị ngăn trở. Vì tôi không có ai dẫn đường, đi vào trong con đường nhỏ hẹp như ruột dê, tai nghe thấy các linh hồn khóc gào, âm thanh bi thảm, tôi chẳng phân biệt được gì, cứ đi bừa tới phía trước, chẳng ngờ lại đi vào một ngọn núi lớn.”

“Ngọn núi này rất lạnh, đường phân thành nghìn vạn nhánh nhỏ, ở đây tôi đi lòng vòng mấy vòng thì lạc đường, chỉ nghe thấy quỷ khóc thần gào, âm thanh thê lương, và những bóng ma đung đưa, đường núi gập ghềnh, đi thế nào cũng không ra khỏi núi này được. Nơi đây giống như một đại sơn mê lộ tối tăm mù mịt, tôi đi đến mức mệt rã rời mà vẫn không thoát ra được. Tôi cũng không biết cầu thần cầu Phật, cứ đi cho đến khi không đi được nữa, nằm lăn ra đất, thở hổn hển liên tiếp mấy hơi rồi như sắp chết…”

“Đúng vào lúc nguy cấp, không trung xuất hiện một vòng tròn ánh sáng, trong vòng tròn ánh sáng có một vị nữ thần tay cầm phất trần, tuổi tác rất trẻ, đoan trang thanh tú, ngài nói: “Bác gái, thân người quý như ngọc, quý ở chỗ biết tu, giấc mộng trăm năm chớp mắt một cái là qua. Bác gái đi vào Đại Âm Sơn này là vì trong lòng bác không nơi nương tựa, vì thế mà lạc đường, nay Diêu Trì Kim Mẫu lệnh cho tôi đưa bác ra, bác theo hào quang của tôi mà đi.” Thế là, tôi đi theo hào quang đó, rẽ trái rẽ phải, đi ra khỏi Đại Âm Sơn, lại trở về con đường cũ, rồi dần dần từ trong mơ hồ mà tỉnh táo trở lại, đây chính là trải nghiệm quán lạc âm của tôi.”

Bà bác Khưu nói đến đây, mọi người đều thở hắt ra một hơi, có người tin có người không tin. Người tin thì cho rằng bà bác Khưu chẳng việc gì phải nói dối, bà ấy không lừa tiền, cũng không lừa người. Còn một số người cho rằng bà ấy nhập vào huyễn cảnh, cũng có một số người cho rằng tôi và bà bác Khưu đang thông đồng với nhau để diễn kịch. Đối với những người này, tôi chỉ cười trừ.

14. Pháp Thần quang xuất hiện

Tôi rất tán thưởng một đoạn trong “Tâm Đăng Lục”: “Thế nào là đại đạo thần quang? Nói về tác dụng của cái ngã, từ mắt tai mũi lưỡi thân ý, đi ra ngoài làm các việc xã giao, đều là do tác dụng của thần quang của cái ngã này, “tùy xứ tác chủ, lập xứ giai chân” [có thể làm chủ mọi hoàn cảnh, không để bị ngoại cảnh ảnh hưởng xô đẩy, nếu có thể làm được như vậy thì đâu đâu cũng là chân lý]. Nếu nơi nào không có thần quang đến thì mọi việc đều không thành tựu, có thể thấy thành tựu trời đất vạn vật đều do thần quang này quyết định. Tam đồ địa ngục cũng do thần quang tạo thành, ba mươi hai tướng cũng do thần quang tạo thành, chúng ta có thể biết thần quang này tồn tại, cái ngã không hề khiếm khuyết, tương đồng với chư Phật, tương đồng với chúng sinh, thì việc thành Phật nằm trong bàn tay ta.”

Theo như tôi biết, xung quanh đỉnh đầu của một số bức tượng điêu khắc Bồ Tát có thêm một vòng tròn ánh sáng, quanh đầu của giáo chủ Cơ Đốc giáo Jesus cũng có một vòng tròn ánh sáng, vòng tròn ánh sáng này có phải là có thật không, tôi nói đây là có thật, tôi gọi vòng tròn ánh sáng này là thần quang, phàm phu bình thường không nhìn thấy được thần quang, nhưng nếu là người có linh nhãn thì nhất định có thể nhìn thấy được thần quang này. Nói chung một số Phật Bồ Tát đều có thần quang, thần quang loại này hiện màu trắng hoặc màu vàng kim, cũng có khi hiện màu đỏ, thần quang màu đỏ xuất hiện là Phúc thần, cũng có khi hiện lên màu tím, thần quang màu tím là Hộ pháp thần. Thế còn người bình thường có thần quang không? Từ trong lời của “Tâm Đăng Lục” thì có thể hiểu được rằng chỉ cần là người có đủ linh tính thì đều có thần quang.

Trước đây, tôi từng làm Hộ pháp cho một cụ già, cụ già này họ Cung tên Thiệu Quang, là người Tứ Xuyên, cả đời cụ nhặt giấy vụn để mưu sinh, hay giúp đỡ người khác, thích làm việc thiện, cụ đã tu hành nhiều năm nhưng người đời không biết. Khi cụ sắp chết, cụ hẹn tôi đến cung Thiên Hậu ở đường Thành Đô ở Đài Bắc, cụ ngồi xếp bằng trên một băng ghế đá, bảo tôi hộ linh cho cụ, vì cụ sợ lúc hấp hối thiên ma quấy nhiễu nên nhờ tôi giúp cụ một tay. Cụ tĩnh tọa nửa tiếng đồng hồ, thần quang xuất hiện, hiện lên màu đỏ, ánh sáng chói lóa. Sau đó, trong thần quang có một tiểu đồng tử ngồi ở đó, đây chính là linh đồng của nhiều năm tu hành. Tiểu đồng tử đó ngồi trong thần quang, thái độ bình thản, vẫy tay với tôi, sau đó thần quang giống như một vầng trăng sáng trên bầu trời, nâng đỡ đồng tử đó từ từ thăng lên không trung mà đi mất, còn thân xác của cụ già thì vẫn ngồi tại cung Thiên Hậu, cuối cùng đã được người phụ trách cung Thiên Hậu an táng.

Người phụ trách cung Thiên Hậu cho rằng thần linh đã ý chỉ cho cụ mọc cánh, đây là hiện tượng thần thông cảm hóa khác với người thường. (Sự việc này xảy ra vào tháng 12 năm Dân quốc 58 [1969].)

Tại ấn đường của con người còn có cái gọi là sợi ánh sáng công đức xuất hiện. Tôi từng nhờ một vị Thổ Địa Công Công mà được biết sợi ánh sáng công đức của con người sẽ xuất hiện ở trên ấn đường, thời gian là giờ Tý hoặc giờ Ngọ, nếu như vận linh nhãn để nhìn thì chắc chắn có thể nhìn thấy rõ mồn một. Sự xuất hiện của nó giống như sợi dây tóc trong bóng đèn điện khi được thông điện, đường vân giống như hình con rắn. Sợi ánh sáng nếu là màu vàng kim thì là sợi ánh sáng công đức, nếu là đường vân màu đen thì là dấu vết của việc xấu ý nghĩ xấu. Sợi ánh sáng công đức này sản sinh ra cũng có thể xem là một dạng thần quang, đây là việc hoàn toàn có thật, không thể không biết.

Để xác minh việc này, tôi đã đặc biệt mời một người lương thiện (cố ý giấu tên người này), vào giờ Tý tôi đặc biệt chú ý đến ấn đường của người đó. Quả nhiên, có sáu sợi ánh sáng vàng kim hình dạng như con rắn lờ mờ xuất hiện, tôi nói với người đó, ông ấy cực kì vui sướng, kể từ đó tôi cũng biết cái gọi là khí của ấn đường của con người không phải giả, mà là thật sự có việc này.

Khoảng hai tuần sau, người lương thiện này lại đến chỗ tôi, tôi vô ý nhìn các sợi hoa văn đạo đức của người đó, kỳ quái là lại thiếu một sợi, chỉ còn lại có năm sợi. Tôi hoảng hốt hỏi: “Người lương thiện, xin thứ lỗi cho tôi nói thẳng, gần đây ông đã làm sai việc gì à?” ”Đâu có! Gần đây tôi chỉ ở trong nhà, sao có thể làm sai việc gì chứ?” ”Nói thật với ông, tôi vừa chú ý đến những sợi ánh sáng công đức trên ấn đường của ông, bị thiếu một sợi so với lần trước, việc này chắc chắn có điều kỳ lạ, ông thật sự không biết sao?” ”Việc này…” - Ông ấy nói: “Hai hôm trước có hai anh em tranh nhau tài sản thừa kế, người anh đến chỗ tôi hỏi tôi liệu có nên đưa ra pháp luật không, tôi tiện mồm trả lời một tiếng là đương nhiên phải thưa kiện. Người anh lại nói tôi hiểu pháp luật nên nhờ tôi viết đơn kiện, tôi cũng giúp anh ta viết, lẽ nào là vì chuyện này sao?” ”Này người lương thiện, làm việc thiện không dễ, còn làm việc ác thì chỉ cần một suy nghĩ phát sinh thôi là ông trời đã biết rồi! Chẳng cần nói ông trời lập tức biết mà chỉ cần tâm niệm của mình vừa động là ánh sáng công đức đã tắt rồi, thật sự phải cẩn thận, thận trọng, không thể qua loa được.”

Từ sự việc này, tôi lại nói đến một câu chuyện khác có liên quan đến nhân vật lương thiện này. Nhà tôi thờ cúng rất nhiều Phật Bồ Tát, người lương thiện này thường tìm tôi để nói chuyện tu hành Phật đạo, mỗi lần ông ấy đến, tôi thường dùng vải đỏ để phủ lên ba vị Thái Tử Nguyên Soái ở trước bàn thờ Phật. Người lương thiện này hiếu kỳ hỏi tôi, tôi cười cười không đáp, mãi cho đến khi sợi ánh sáng công đức của ông ấy bị thiếu mất một sợi, ông ấy lại đến, tôi không cần phải dùng vải đỏ để phủ lên ba vị Thái Tử Nguyên Soái nữa.

Ông ấy hỏi tôi: “Vì sao?” ”Mặc dù ông là thân người, nhưng cả đời làm việc thiện hợp với đạo trời, đã làm vô số việc thiện, đã thiết lập thiện công bất khả tư nghì. Thân tuy là người, nhưng linh thì có thể gọi là thần, vì thần quang đạo hạnh của ông chói lọi, xếp vào hàng ngũ thần nhị phẩm. Lại nói về ba vị Thái Tử Nguyên Soái ở nhà tôi, các vị có phân linh là pháp thân Thái Tử Nguyên Soái, xếp vào hàng ngũ thần tam phẩm, về lý mà nói thì các vị ấy thấp hơn ông. Về mặt lễ nghi, ba vị ấy ngồi cao trên bàn thờ thần, còn ông lại ngồi dưới thấp, các vị ấy cảm thấy bất an, cho nên yêu cầu tôi dùng vải đỏ để che đầu. Thế nhưng bây giờ ông lại viết đơn kiện cho người ta, lại còn khuyên người ta kiện cáo để tranh giành thắng lợi, không những không khuyên anh em cần hòa hợp mà ngược lại còn cản trở tình cảm gia đình của họ, cho nên thần cách của ông đã từ nhị phẩm giáng xuống tam phẩm, ba vị Thái Tử Nguyên Soái có thể ngồi ngang bằng với ông rồi, không cần phải nhún nhường ông nữa.”

Sợi ánh sáng đạo đức xuất hiện trên ấn đường hoàn toàn không phải là nói xằng bậy. Tôi nghe nói ở Phượng Sơn, Cao Hùng cũng có người có thể nhìn thấy sợi ánh sáng công đức. Ngoài ra, thần quang ở chỗ thần khiếu cũng có tỏa ra hào quang, các lỗ chân lông trên khắp thân thể của Phật Tổ đều có thể phát ra ánh sáng vàng kim rực rỡ tuyệt đẹp, như thế toàn thân được kim quang bao phủ, giống như kim thân của Bồ Tát vĩ đại. Đại Bồ Tát đức hạnh viên mãn thông thường sẽ xuất hiện một vòng ánh sáng, các vòng ánh sáng này không chỉ có một màu sắc, có ánh sáng bảy màu, không có khiếm khuyết, từng lớp từng lớp ánh sáng đẹp đẽ. Những ánh sáng này sau cùng sẽ biến thành con thuyền ánh sáng, nâng những trưởng lão công đức viên mãn thăng lên thiên giới.

Thần quang xuất hiện như thế nào, phương pháp duy nhất chính là: “Hiếu thuận đứng đầu, cần nhớ trong tâm; kính thần không được tùy tiện, thận trọng như đi trên băng mỏng; trung thành báo ơn đất nước, tinh thần bất hủ; đừng đòi hỏi lẽ phải mà cần xả thân vì lẽ phải; giữ thân như ngọc, sống có trước có sau; phát huy nhẫn nhục, tức là ba la mật; kết bạn với người đoan chính, không sa vào phóng đãng trụy lạc; bản thân trước tiên phải trong sạch ngay thẳng, tự nhiên tự mình sẽ khác biệt; tấm lòng nhân ái rộng như trời đất, yêu động vật yêu con người; đạo đức sâu dày không giới hạn, vĩnh viễn hợp với đạo trời.” Sự xuất hiện của thần quang dựa vào sự tu hành của bản thân mới có thể đắc được, tâm địa của chính mình chính là bằng chứng của chính mình, thần quang vô tư, linh chính là sự phản ánh của chính mình, đúng sai thiện ác đều kĩ càng tỉ mỉ.

Có người hỏi tôi: “Thần minh làm sao biết thiện ác của người đời?” ”Nhìn khí.” ”Nhìn khí gì?” ”Chính là thần quang.”

15. Tam huyền cửu yếu thần thông

Còn nhớ khi tôi mới có được năng lực thông linh, tôi nhìn tất cả thế giới giống như thế giới kỳ dị, nhìn tất cả thế giới đều thấy tò mò, tâm linh tuôn trào không ngừng không ngơi nghỉ. Tâm như vũ trụ, linh như thuồng luồng, một lúc xuất, một lúc nhập, người cứ lâng lâng như thần tiên. Thế nhưng thời gian lâu dần, tôi thấy linh giới không chỉ như vậy mà thôi. Đi sâu thêm vào thế giới bốn chiều này còn có năm chiều, sáu chiều, sự tỉ mỉ tinh vi của nó giống như tổ chức tế bào não của con người vậy, linh giới mà tôi nhìn thấy suy cho cùng vẫn là thế giới khá ngây thơ! Vì thế, trước mắt, tôi thu hết tinh thần của mình, chuyên tâm nghiên cứu nhiều hơn về phương diện này.

Hôm nay, tôi công khai những bí mật của linh hồn với toàn thế giới, hơn nữa còn nói ra rất nhiều những huyền cơ sâu xa không thể đo lường của Đạo chính thống Trung Quốc, cũng xem như là tôi đã tiết lộ hết thiên cơ rồi. Nếu có người vẫn còn chấp mê không ngộ, tâm vẫn giữ sự nghi ngờ, tôi đây cũng muốn quăng bút mà hét lên rằng: nghiệp chướng sâu nặng, tâm ngoan cố như sắt đá, công lao Bồ Tát khuyên bảo hết nước hết cái, tự mình lại dựa vào cái bộ xương đánh phấn tô son, không biết chân ngã thật sự, thế này quả thực là quá đáng thương.

Tam huyền cửu yếu thần thông vốn là bí quyết thần công để bước lên đại thừa vô cực của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, thuật này không truyền cho người hạ phẩm, cũng không truyền cho người trung phẩm, cho dù truyền cũng vô ích, bởi vì con người phàm phu không cách nào hiểu được chân nghĩa trong đó. Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh ban đầu truyền pháp đã chỉ ra Tam huyền cửu yếu huyền công không thể so sánh với điều tầm thường, người nào đắc được tức là chư Phật Bồ Tát, ngay cả quỷ thần cũng khó biết mục đích thật sự của nó. Hôm nay tôi may mắn biết được, không dám tự hưởng điều trân quý, nên đặc biệt công khai hoàn toàn.

Sau khi kẻ hèn này đắc được bí quyết của Tam huyền cửu yếu thần thông, trong lòng có cảm giác muốn giở lại những sách vở mà mình đã cất giữ, phát hiện ra tiên sinh Tam Phong có thần công Tam huyền tam yếu, trong đó “Lâm Tế Công bút ký” cũng đề cập sơ lược đến Tam huyền tam yếu, nhưng Tam huyền tam yếu rốt cục chỉ biết một mà không biết hai. Tiên sinh Tam Phong và tổ sư Lâm Tế chưa hẳn đã chịu nói ra điều công khai lớn này, thế là cái công án này cũng lại chỉ rơi vào đầu tôi. Nếu tôi không nói thì phải đợi đến khi nào mới có người nói chứ? Người tu đạo thông thường chỉ biết bàng môn tiểu thuật, đui tu mù luyện, lên bục thuyết pháp, nói hết cỡ một vài lời không quan trọng, còn những gì quan trọng nhất thì một câu cũng không nói. Chỉ có mỗi tôi chỉ thẳng “linh hồn” này mà nói, dưới bầu trời này sẽ chẳng có một người nào nói ra. Khi tôi nói “linh chính là ta” thì tôi đã tạo ra lời nói của tất cả trời đất, đáp ứng yêu cầu của tất cả chúng sinh, phổ cập tất cả chúng sinh, cho đến hôm nay chỉ có một mình tôi dám nói ra những lời này.

“Tam huyền chính là cái sâu xa trong thể (thể trung huyền), cái sâu xa trong ý (ý trung huyền), cái sâu xa trong câu (cú trung huyền). Từ cái sâu xa của bản thể phát triển ra thành đại ý, đây chính là ý, đây chính là cái sâu xa trong ý. Cái sâu xa của ý và cái sâu xa của thể vốn có sự khác biệt, nhưng lại cũng là một. Cái sâu xa trong câu cú thì có sự khác biệt thiên biến vạn hóa, đại khái là vì đối ứng với căn cơ của người đến, cho nên có khác biệt, riêng ý thì là một. Còn về thể, thì không có một không có nhiều, cho nên có thể là một cũng có thể là nhiều.”

Một câu có ba huyền, một huyền có ba yếu, cho nên ba huyền tất có chín yếu. Bây giờ chỉ cần hiểu rõ chín yếu, thì ba huyền sẽ có thể hiểu rõ. Nhiều người không hiểu chín yếu thì luận về ba huyền thì cũng vô ích. Chỉ cần hiểu được một huyền là có thể làm người ở trên người khác, chỉ cần hiểu được hai huyền là có thể làm thầy của trời người, nếu hiểu được ba huyền thì có thể thành Phật thành Tổ”

Ý nghĩa chính của cái gọi là Tam huyền cửu yếu là như sau: “Tam yếu của thể trung huyền: thần diệu đến cực điểm thì trái lại sẽ trở nên nhạt, đó là sơ yếu. Nhạt tuy không có vị, nhưng có vị cực kì, không phải sắc, không phải không, không phải một không phải nhiều, không phải có không phải không có, không phải phàm không phải thánh, không phải cảnh không phải vật, không phải hữu vi không phải vô vi, nhưng rõ rành rành là mạch sáng, như trăng sáng giữa trời, đẩy không đi, kéo không lại, luôn luôn không giảm bớt mất đi một chút nào, thì gọi là trung yếu. Đến khi không thể giảng thuyết thì gọi là thượng yếu. Tam yếu của ý trung huyền: dùng công phu duy trì gìn giữ, miên mật rời xa và khước từ quang ảnh [ánh sáng và bóng tối, hình sắc], nhưng còn cái nỗ lực “rời xa” này thì gọi là sơ yếu. Khi rời bỏ luôn được cả tâm “rời xa” này, nhập chính vị vô vi thì gọi là trung yếu. Đạt thành công phu vô sở vị trong thời gian dài, thì vô sở vị này gọi là thượng yếu. Tam yếu của cú trung huyền là: lìa tướng nhận biết được cái ngã gọi là sơ yếu. Biết cái ngã nhưng vẫn giữ cái ngã gọi là trung yếu. Xa rời tư dục, xa rời nhưng không quên gọi là thượng yếu.”

Công phu Tam huyền cửu yếu này, lấy tam yếu của thể trung huyền là cảnh giới cao nhất. Ngày nay liệu có người nào thực hành tu dưỡng đạt được đến cảnh giới này hay không, xin thứ lỗi cho tôi không biết. Hiện tại, tam yếu của cú trung huyền thì tôi biết có một người tu đạo ở Tiểu Cảng Cao Hùng đã lĩnh hội được. Tam yếu của cú trung huyền tuy là công phu bước đầu, nhưng nếu lĩnh hội được thì tự mình độ mình không phải là vấn đề gì! So với một số người thông linh thì cao minh hơn nhiều, còn một số người tự phụ rằng mình có pháp thuật thần thông, ngay cả rìa của tam yếu của cú trung huyền, muốn sờ cũng chẳng cách nào sờ tới được! Lìa tướng biết cái ngã, nói ra thì dễ, làm được thì khó lắm. Còn tam yếu của thể trung huyền chính là nói về linh hồn kim cang thượng thừa bí pháp vô hình vô tướng, một hóa vạn, vạn hóa vô số vô lượng. Đây chính là tột đỉnh của sự tìm cầu giác ngộ đắc đạo trong đời người.

Thiền tông giảng tam huyền, trước tiên cần tìm cầu cú trung huyền, từ cú trung huyền lại tiến vào ý trung huyền, từ ý trung huyền tiến vào thể trung huyền, nhưng cái gợi ra nhiều nhất chính là văn tự, nhưng văn tự rời xa thiền, trực chỉ thì rất khó, cho nên có nhiều biến hóa, cũng khiến cho ngày nay nhiều người tìm kiếm không được.

Tôi nói về tam huyền như sau, để độc giả cẩn thận tự mình tìm hiểu: Cú trung huyền — ngã. Ý trung huyền — tâm. Thể trung huyền — linh.

Người có thể lĩnh hội được ba chữ “ngã, tâm, linh” này thì chính là nền tảng để thành Phật tác tổ. Hôm nay mục đích khiến tôi viết cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán” không có gì khác, chính là để cho con người từ nông nhập sâu, từ sâu đến đại thừa, làm một chút công quả, phổ biến thập phương pháp giới, để tất cả trời người có thể chứng ngộ thần thông, trên lên đến thiên đình, địa ngục trống trơn, người người có thể chăm tu thiện đạo, vĩnh viễn rời xa ngũ trọc ác thế, vào thẳng thế giới thanh tịnh, như vậy thì lòng người hợp với lòng trời, đạt thành đại đạo, nhiệm vụ của tôi cũng đạt thành, không phụ trời xanh đã khổ tâm bồi dưỡng tôi.

Có người cho rằng đạt đến trình độ ý trung huyền đã xem là cùng cực rồi, đến được trình độ ý trung huyền thì đích thực có thể thoát xác thăng thiên, có thể vào Tứ thiền thiên, vào Kim cang đại định, có tam muội thần quang xuất hiện, tự thành một thế giới, nhưng thế giới này vẫn là công đức vô lượng kiếp đạt được bởi một chữ của “ý”, sức mạnh của nó là phi thường, thần thông bất khả tư nghì, nhưng tuyệt đối đừng như vậy mà đã tự cho rằng đã đạt đến cùng cực. Tâm pháp chí cao vô thượng của thể trung huyền mới là gốc rễ của vũ trụ, không đến được trình độ này, không biết có thế giới khác, cái này chính là cảnh giới Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh xuất nhập pháp giới, tự đến tự đi, không trở ngại không thúc ép.

16. Linh lực và niệm lực hợp nhất

Kê đồng không phải là bẩm sinh, mà là phải trải qua một sự kiện nào đó mới ngẫu nhiên biến thành kê đồng. Tôi không mấy tán thưởng kê đồng, kê đồng là sự hiển hiện của linh lực và niệm lực, nhưng nó thật sự chỉ là sự thực hành thí nghiệm linh lực đơn giản và dễ dàng ở mức độ thấp nhất. Nếu linh lực bị thay thế thì chính là kê đồng, trở thành người trung gian của linh trong không gian, ở nước ngoài gọi là những nhà ngoại cảm. Tôi từng nói linh lực tự chủ là thượng thừa, còn linh lực không thể tự chủ là hạ thừa, người luyện linh tốt nhất đừng làm kê đồng, làm kê đồng rồi thì sẽ không dễ dàng phân biệt được “linh xuống” là chính hay là tà. Điểm này cực kì quan trọng.

Bây giờ tôi đặc biệt lấy một ví dụ để nói rõ. Dưới đây là bức thư của một thanh niên họ Lâm ở thị trấn Gia Định thành phố Cao Hùng, bức thư này đã chứng tỏ sự hiển hiện của linh lực, và cũng có thể thấy được sự thiếu hụt của niệm lực. Nguyên văn của lá thư này như sau:

Thưa thầy Lư Thắng Ngạn. Ngày 16 tháng này tôi cùng anh trai đi Đài Trung, đầu tiên là đi bái kiến và quấy rầy thầy, lại được thầy giải đáp những thắc mắc nghi hoặc, tôi vô cùng cảm tạ. Tại đây, cho tôi được gửi đến lời cảm ơn từ đáy lòng mình, xin cảm ơn!

Chẳng là, điều tôi cảm thấy rất tiếc nuối là ngày hôm đó tôi vốn muốn nhân cơ hội để thỉnh giáo thầy, nhưng lại thấy thầy quá vất vả, hơn nữa thời gian không cho phép, nên tôi đã đến rồi đi một cách khá vội vàng, ngay cả những lời muốn thỉnh giáo cũng chưa thể thổ lộ (bởi vì số đăng ký của tôi và anh tôi xếp thứ 24, mà đồng hồ lúc đó đã chỉ 10 giờ 20 phút, mà sau đó vẫn còn có hơn mười người nữa chờ thỉnh giáo, vì sợ khiến người khác bỏ lỡ mất việc thỉnh thị quan trọng hơn của họ nên tôi cũng chỉ vắn tắt thỉnh giáo một đôi điều mà thôi). Chỉ mong sau này có thời giờ hơn lại đến thăm thầy và cầu dạy bảo.

Bây giờ có mấy điểm này muốn xin thầy chỉ thị. Ngày 19 tháng này, vào lúc 5 giờ 45 phút sáng, ở trong căn nhà nhỏ ở làng chài của mình, tôi tuân theo chỉ thị của thầy, tôi bắt đầu thử tĩnh tọa luyện linh. Trong mười mấy phút đầu, tôi bắt đầu cảm giác thấy mùi hương ở xung quanh, có ánh sáng trắng lấp lánh, tôi nghĩ khả năng đây là thần thánh tỏa kim quang xán lạn giáng xuống rồi. Cứ cách vài phút ánh sáng lại hiện lên một lần, sau 30 phút, hai tay tôi từ từ chắp lại thành động tác lạy Phật, sau đó tôi hơi có cảm giác tay mình rung rung, ngoài điều này ra thì không có gì nữa. Đúng vào lúc tôi cảm thấy thất vọng thì kỳ tích thật sự xuất hiện. Đầu ngón tay và toàn thân tôi tự động hướng về phía que hương mà quỳ lạy lễ bái, trong vòng 15 phút, cho đến khi que hương chỉ còn lại là một chấm lửa thì mới dừng lại. Với tâm trạng phấn khích rộn rã, tôi đứng dậy, chắp tay cảm tạ Diêu Trì Kim Mẫu đã ban cho tôi linh động. Kỳ diệu là, tôi lại tiếp tục quỳ lạy, cứ như vậy tổng cộng từ đầu tới cuối là một tiếng đồng hồ.

Buổi chiều hôm đó, cũng là lúc 5 giờ 45 phút, tôi lại thắp hương tĩnh tọa như thế, chắp tay được 10 phút thì thần linh giáng xuống, toàn thân rung rung, khiến toàn thân tôi ngửa ra trước ngả ra sau hai lần, sau đó rung lắc rất ghê gớm. Đến cuối cùng, điều thần kỳ bất ngờ là hai tay của tôi buông xuống ôm vòng lấy bụng. Buổi tối hôm đó, tôi bảo người cha ốm yếu của tôi tĩnh tọa, ông ấy chỉ ngồi được 10 phút là đã không chịu được sự đau đớn của thân thể, còn tôi đột nhiên linh động, tương đối dữ dội, tôi giống như kê đồng giúp bố tôi xoa bóp và không hề tự chủ viết ra phù lệnh, tôi bước những bước chân và múa những thế tay cực kì quái dị, đi lại giống như thiếu nữ khoan thai, khiến người ta không hiểu gì cả.

Bố tôi cho rằng tôi là kê đồng, hơn nữa còn là Diêu Trì Kim Mẫu giá đáo, vì thế ông rất mừng rỡ cầu ngài phù hộ cho già trẻ trong nhà tôi đều bình an. Rồi ngày hôm đó cháu gái tôi trong người không được thoải mái, thế nên muốn tôi giúp nó một chút, kết quả là cũng thành công. Buổi tối ngày 20, lúc đang ngủ, đột nhiên tôi tỉnh dậy vào lúc 2 giờ sáng, bên tai nghe thấy có âm thanh vù vù như tiếng ong mật đang bay, còn có cả âm thanh của động cơ turbine của tàu biển lớn khởi động, còn có cả tiếng ve kêu, có cả tiếng bay lượn. Tôi đánh thức anh ba của tôi, nhưng anh ấy lại bảo chẳng có cái gì cả.

Tôi đến cung Kim Loan ở quê tôi thỉnh thị Thiên Thượng Thánh Mẫu, Thánh Mẫu nói tôi đã hoạt linh rồi, nhưng chính thần và ma quỷ đều có thể nhập thân, điều này không biết là thật hay giả? Tôi luôn cho rằng thầy là bậc đức hạnh cao thâm, nhất định là Đạo gia chính thống không tà. Giống như tôi đây mà trong một ngày đã xuất hiện kỳ tích tâm linh như vậy, tôi nằm bò ra đất thán phục thầy, nhưng không biết tôi đã đến được giai đoạn nào, làm sao tiếp tục luyện linh tiếp? Mong thầy chỉ thị. Còn về luyện tập “thủ thông” mà thầy nói đến trong sách thì nên cầu xin pháp nào, thời gian và địa điểm có cần lựa chọn không, mong thầy chỉ giáo!

Vốn dĩ từ tận đáy lòng, tôi rất hy vọng có thể làm bạn với thầy, bởi vì trông thầy rất thật thà, giản dị, hòa nhã và thân thiện (đây không phải là ca ngợi, mà là trực giác của mỗi người). Thế nhưng, tôi luôn cho rằng như thế thì trèo cao quá, cho nên tôi không dám có tham vọng quá mức như vậy, tôi chỉ có khẩn thiết hy vọng rằng, nếu thầy có di chuyển địa điểm, làm ơn thông báo cho tôi biết để tôi không bị mất đi chỗ nương dựa, xin hãy lượng thứ cho sự ích kỷ của tôi.

Nhà tôi thờ cúng một vị Hoàng Đạo Chân Nhân, tôi đã thờ tượng kim thân của vị này 20 năm rồi, không biết có phải là ngài giáng linh ban phúc cho chúng tôi không, Hoàng Đạo Chân Nhân tay trái cầm bát, tay phải cầm quạt, chân phải dẫm lên rùa, chân trái dẫm lên rồng, cao khoảng một mét, sau lưng có thất tinh bảo kiếm, ngồi trên đỉnh núi, đến nay vẫn chưa từng hiển linh. Tôi mong mỏi được mời thầy tới nhà tôi, nơi trú ngụ thấp hèn của tôi ở gần bờ biển, là một làng chài thuần hậu, phong cảnh đẹp đẽ, không khí trong lành, nói không chừng nơi đây sẽ càng làm cho tâm linh của thầy tóm được những tư liệu và linh cảm để sáng tác. Tôi sẽ chờ đợi và mong ngóng…

Bởi vì rất nhiều người theo tôi học khởi linh, hơn nữa cảnh ngộ của mỗi người mỗi khác. Linh lực có người đột biến trở thành kê đồng, cũng có người đột ngột có nhãn thông, lại càng có người bị bệnh quanh năm đột ngột có ngày khỏi bệnh, lại càng có người tu đến mức linh lực tự chủ tự do tự tại. Có người tu đắc tâm thông, có người chứng ngộ tâm pháp vô thượng, có người lên đồng viết chữ, khai đường để tuyên truyền giảng giải thiện hành. Thanh niên ở Gia Định Cao Hùng kia có linh lực hoạt bát, nhưng niệm lực không đủ, dễ bị linh khác lừa gạt. Tôi phải khuyên anh ấy tu trì nhiều ngoại công, thiện hạnh mỗi ngày một nâng cao, thiên thần tất có cảm ứng, luyện đến khi linh có thể tự chủ, phân biệt được đạo lý chính tà, có thể biết cái gì có thể làm và không thể làm, như vậy mới là chính niệm của người luyện linh, dùng linh lực phối hợp với chính niệm, như vậy mới hợp với đạo thượng thừa, bằng không dễ bị ma quỷ lợi dụng mà không tự biết!

Người luyện linh nhất định phải linh niệm hợp nhất, tức cái gọi là một thể của linh lực và niệm lực. Niệm lực nếu chính thì linh lực tất sẽ chính, sự tương thông giữa linh và linh ngoại giới tất sẽ chính. Cho nên, người luyện linh phải cầu tâm chính trước, tâm nếu bất chính thì linh chắc chắn bất chính, hậu quả có thể tưởng tượng được. Cái gọi là tẩu hỏa nhập ma không phải ma tìm đến bạn, mà là tự mình chiêu cảm. Rất nhiều kê đồng làm ác, gom tiền lừa sắc, chính là đánh mất chính niệm, vì thế tà ma xâm nhập, bản thân có phần vẫn còn không biết nữa! Đây chính là nỗi bi ai của kê đồng, cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu mà tôi khuyên người ta đừng làm kê đồng.

Tác giả thần toán cho người ta là tôi vận linh lực, dùng niệm lực, đây là một loại của thuật linh thông, nếu có người muốn học tập thì chắc chắn phải chấp nhận một phen bị ma thử thách, cũng là trời ban trách niệm lớn lao cho con người thôi, tất nhiên không thể thuận lợi như thế được, không đánh mất chính niệm mới là cái chỗ cho chân cơ hiển hiện.

Tôi từng biết: “Cánh cửa lúc lâm chung là quan trọng nhất. Đời có người ngu, vào lúc cha mẹ người thân lâm chung thì lại khóc lóc thống thiết, lau người thay quần áo, chỉ mong được đẹp mặt với người đời mà không nghĩ được rằng như thế là làm hại người chết. Người không niệm Phật thì tạm gác đó không bàn, còn người đã quyết chí vãng sinh, lúc lâm chung gặp phải người thân như vậy, đa phần đều phá hoại chính niệm, vẫn cứ lưu lại ở thế giới này. Trợ niệm lúc lâm chung ví như kẻ nhát gan lên núi, tự lực không đủ, may có trợ lực của chính niệm dắt phía trước đẩy phía sau, nâng đỡ hai bên, thì mới có thể leo lên đến đỉnh, lúc hấp hối có chính niệm rõ ràng.”

Cho nên, tầm quan trọng của niệm lực hiển nhiên là như nhau!

17. Xuất thần ký

Ngày trước, khi tôi học trung học, có một giáo viên họ Nhan kể một câu chuyện nói đến con người ở một miền nọ có thuật xuất thần, giáo viên Nhan nói: “Loại người đó nếu buổi tối đi ngủ, linh hồn sẽ từ lỗ đỉnh đầu đi ra, đi du lịch khắp nơi, có khi bay đi rất xa rất xa, nhưng nếu trước khi trời sáng mà không quay về thì sẽ xảy ra nguy hiểm. Hơn nữa, giả sử người bên cạnh muốn hại anh ta, chỉ cần lật úp người anh ta xuống, mặt úp xuống dưới, thì linh hồn anh ta sẽ không bay trở về được, không nhập vào được nhục thể, và người xuất thần này cứ như vậy mà chết luôn.”

Đương nhiên khi đó, các bạn học nghe giáo viên Nhan kể chuyện, cho rằng chẳng qua chỉ là một câu chuyện mà thôi, không có người nào tin chuyện linh hồn xuất du là thật. Nhưng đến hôm nay, không phải là tôi đề xướng thần thoại và mê tín, tôi cho rằng linh hồn xuất du là thật, nhưng linh hồn xuất du chỉ có một bộ phận rất rất ít người mới có khả năng đó, người bình thường muốn xuất thần ư, không có chuyện dễ dàng như vậy.

Có người cho rằng nằm mơ, những gì nhìn thấy trong mơ, liệu có phải là linh hồn xuất du không? Có rất nhiều cách giải thích về cái gọi là nằm mơ, nhưng đây không phải là linh hồn xuất du. Nằm mơ là tác dụng của tâm, tác dụng của thần kinh, đương nhiên cũng có tác dụng của linh hồn, nhưng du lịch trong giấc mơ hoàn toàn không phải là từ lỗ đỉnh đầu đi ra, mà là du lịch trong lục phủ ngũ tạng bên trong thân thể chính mình. Nếu thân thể có bệnh thì những cơn ác mộng sẽ xuất hiện liên tục hơn. Giấc mơ cao minh nhất của người bình thường gọi là “thanh mộng”, đó là khi linh hồn xoay tròn tại tim, tiến vào cảnh giới ba đời của chính mình, rất dễ nhìn thấy kiếp trước của mình, tuy vậy vẫn còn cách xuất thần xa lắm!

Người có thể xuất thần chắc chắn có thần thông, muốn có thần thông lại càng phải luyện linh, linh hồn có thể mở ra thiên môn đóng kín của chính mình mới là thuật xuất thần cao minh nhất. Trong việc học tập và rèn luyện cả đời của con người, muốn chọc thủng thiên môn là một việc không dễ dàng nhất. Thiên môn có thần thủ hộ, không có đại lực thì vị đó sẽ không chịu nhượng bộ. Chọc thủng được thiên môn mới xem là xuất thần, công lao kết quả của việc mọc cánh thành tiên sẽ được hoàn thành vào chính lúc này.

Tôi từng xem bói, tính toán vận mệnh cho một người vô số lần, nhưng tuyệt nhiên không đoán ra được vận mệnh của người này. Người này họ Trần tên Minh Tú, 47 tuổi, toàn thân bị mắc bệnh viêm da mãn tính, trên người chi chít các vết gãi ngứa, dùng tay gãi thì tay dính đầy máu tươi, không gãi thì không thấy hết ngứa, mà gãi thì da lại bị chảy máu. Ban đêm đi ngủ, cả đêm không thể ngủ được, kêu gào thảm thiết, đau khổ không nói nên lời, như thể bị ai đó quất vào người khiến càng ngứa ngáy thêm. Người nhà ông ta yêu cầu tôi xem vận mệnh cho ông, ban đêm tôi bày hương án, xem bói vô số lần, nhưng không thể lập được quẻ, hết sức kỳ lạ. Mãi cho đến đêm khuya, sao trên bầu trời sáng lấp lánh, đột nhiên có một ngôi sao băng bay từ phía Tây về phía Đông, luồng ánh sáng chói lóa giống như rơi xuống trước bàn thờ thần của tôi. Tôi nhìn, thì ra là Bắc Đẩu Tinh Quân. Bắc Đẩu Tinh Quân tay cầm phất trần, hiện thân đạo sĩ, mặc quần áo bát quái, vẻ mặt sáng chói, ngài nói với tôi: “Liên Sinh, có thể dẹp hương án được rồi! Hồn của người này đã vào điện Đông Nhạc, quẻ dương gian tính không được đâu. Nếu anh xuất thần ắt sẽ tự biết thôi.” ”Đa tạ Tinh Quân.” - Tôi chắp tay lạy Tinh Quân, Tinh Quân trong sát-na đã biến mất.

Đêm khuya lúc tôi sắp đi ngủ, tôi đặc biệt thắp một que hương dài, hướng về phía Đông cúi lạy, miệng niệm: “Thiên nhật tẩy thân, nguyệt luyện ngô phách, thiên viên địa phương, lục luật cửu chương, triều lễ Đông Nhạc, tốc đà khoái hành, Liên Sinh phụng minh lệnh Địa Tạng Vương âm luật lệnh.” Niệm 3 lần.

Tôi lên giường đi ngủ, hai mắt nhắm lại, nhưng lại nhìn thấy một vị âm thần đang đứng bên cạnh vẫy tay với tôi. Tôi đi theo thần đó, vòng bên trái vòng bên phải, đi qua mấy con đường dài, nhìn thấy một cung điện cao vút, bên trên có một tấm biển ghi “Đông Nhạc Thần Cung”. Cung điện nguy nga, tôi cùng với âm thần bước nhanh vào bên trong, làm lễ chào Đông Nhạc Đại Đế. Đông Nhạc Đại Đế thân cao tám xích [khoảng 2,6 mét], tướng mạo đường đường, tỏa ra một khối chính khí uy hiếp người ta, mặt đen có râu. Trước điện có một người đang quỳ, tôi vừa nhìn thì thấy chính là Trần Minh Tú, lúc này Trần Minh Tú đang toàn thân trần truồng, trên người có mấy con rắn hoa đang bò, hơn nữa còn có vô số bò cạp và sâu bọ đang hút máu tươi của ông ta, có âm binh đang đánh vào người ông ta. Trần Minh Tú nằm trên mặt đất, kêu la thảm thiết.

“Vì sao Trần Minh Tú phải chịu khổ hình này?” - Tôi hỏi quan âm phủ. ”Hiện tại người này tuy sống tại dương gian, nhưng lập mưu lừa gạt phụ nữ, là cường bạo ở khu vực chùa này, làm nhục tiết phụ, làm bẩn Thánh địa, khiến người phụ nữ đó thắt cổ tự vẫn, xuống âm phủ khiếu nại, cho nên phải chịu báo ứng như thế, khiến hắn sống không bằng chết, chết không bằng sống, sống chịu hình phạt, thân tuy chưa chết, nhưng hồn vào buổi đêm phải vào âm phủ chịu phạt.”

Tôi nghe xong lời này mà trong lòng kinh hãi, nhân gian làm gì có chuyện không có báo ứng chứ! Đây chính là “thiện ác cuối cùng đều báo đền, chỉ xem đến sớm hay đến muộn”. Tôi nhớ đến một đoạn trong Kinh Pháp Cú: “Yêu nghiệt gặp phúc, nghiệp ác chưa chín; nghiệp ác chín muồi, tự chịu hình phạt. Người lành gặp họa, nghiệp thiện chưa chín; nghiệp thiện chín muồi, ắt được hưởng phúc. Đánh người bị đánh, làm ác gặp ác, mắng người bị mắng, nổi giận bị giận. Thế nhân không thấy, không biết chính pháp. Cuộc đời ngắn ngủi, chẳng nên làm ác, chớ khinh ác nhỏ, cho là không sao; giọt nước tuy bé, cũng chảy đầy bình; từ nhỏ tích lớn, mà nghiệp đầy lên. Chớ khinh thiện nhỏ, chẳng được phúc gì; giọt nước tuy nhỏ, cũng chảy đầy bình; tích lũy từng chút, mà phúc đầy lên.”

Từ Đông Nhạc Thần Cung trở về, từ trong mơ tỉnh dậy, tôi hỏi người nhà của Trần Minh Tú xem buổi đêm Trần Minh Tú có gặp ác mộng không. Người nhà kể với tôi: “Thầy Lư, không giấu gì thầy, ông ta mơ thấy rắn quấn trên người, sâu bọ bò cạp bò lên người ông ta, có người cầm roi đánh ông ta, ông ta liên tục nói mê, ác mộng liên tiếp không dừng. Việc này phải làm sao mới được?” ”Ôi! Nếu là nhân quả, tôi cũng chẳng có cách nào.” - Tôi lắc lắc đầu.

Điều này là sự thật. Từng có rất nhiều người bị bệnh nặng đến cầu tôi, vì bác sĩ đã chẩn đoán là không thể cứu được, uống thuốc hay châm cứu đều vô hiệu, đã ngấp nghé cánh cửa chết rồi. Tôi đưa ra cầu Thần Thánh, có một số người, Thần Thánh chữa khỏi được một cách kỳ diệu, những việc thần kỳ này đúng là nhiều không đếm xuể, nhưng cũng có một số người, Thần Thánh cũng phải lắc đầu than rằng: “Giữa trời đất này, năm đạo phân minh, sâu thẳm tĩnh mịch, bao la bát ngát. Thiện ác báo ứng, họa phúc bổ sung, tự làm tự chịu, không ai gánh thay.” Điều này tức là không thể chữa, không có khả năng chữa, chữa không khỏi, Thần Phật tuy từ bi, nhưng chuyện sống chết cũng khó thay thế được. Có một số người cầu tôi, tôi chuyển qua cầu Thần Thánh, Thần Thánh ngoài lắc đầu ra cũng không biết nói gì, bởi vì báo ứng rất lợi hại, trên trời dưới đất có nguyên do, nghiệp lực theo thân, làm sao một thần minh nhỏ bé có thể chữa khỏi được.

Tại đây, tôi không coi thường thần lực, mà tôi biết đích xác bất kì một vị thần linh nào cũng không phải là bậc toàn năng, con người duy có dựa vào tự lực, rồi phối hợp với thần lực, như vậy mới có thể thành công. Đưa ra một lời đại nguyện không dễ, làm một việc đại thiện hạnh không dễ, nhưng nếu mắc bệnh hiểm nghèo, nếu có thể khỏi bệnh, đưa ra một lời đại nguyện, ấn tống sách thiện tặng người, thì có gì mà không thể làm chứ!

18. Công hiệu của Bạch Y thần chú

Toàn văn thần chú Bạch Y Đại Sĩ như sau: ”Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát. (đọc 3 lần) Nam mô Phật. Nam mô pháp. Nam mô tăng. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tan-chi-tô, ôm, ka-la-fat-tô, ka-la-fat-tô, ka-huô-fat-tô, la-ka-fat-tô, la-ka fa-tô. Thiên La Thần. Địa La Thần. Nhân ly nạn. Nạn ly thân. Nhất thiết tai ương hóa vi trần. Nam mô ma ha bát nhã ba la mật.”

Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với chú ngữ này là khoảng 5 năm trước. Tại một tiệm sách cũ ở đường Trung Hoa thành phố Đài Trung, tôi đã giở đến thần chú Bạch Y trong một cuốn sách cũ nát, cuốn sách mỏng chỉ có mấy trang giấy, tôi đã mua nó với giá 5 hào. Vào lúc đó, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh vẫn chưa truyền chú ngữ cho tôi, tôi trở về nhà đọc, không cảm thấy chú ngữ này khó thuộc, cho nên sau nửa buổi thì tôi đã học thuộc nó trong đầu rồi. Khi ấy, căn bản là tôi rất ít suy nghĩ về nguồn gốc và công lực của thần chú, tôi chỉ là thành kính niệm chú, không cầu bất kì phúc báo gì, mỗi tối trước khi đi ngủ tôi đều niệm 10 biến, chỉ như vậy mà thôi.

Khoảng 7 năm trước tôi bị mắc bệnh mắt, có người nói đó là bệnh viêm mắt đỏ, sợ nhìn thấy ánh sáng, gió thổi vào mắt thì đau, trong mắt cũng đầy những sợi đỏ, rất dễ mỏi mắt, nhãn áp cũng cao. Bác sĩ nhãn khoa nói đây là bệnh tăng nhãn áp, nhưng mỗi bác sĩ lại nói khác nhau, một người nói là bệnh đục thủy tinh thể, cũng có người chẩn đoán là bị viêm giác mạc, tiêm thuốc uống thuốc, dùng thuốc mắt, nhưng từ đầu tới cuối đều không thấy chuyển biến tốt lên. Nếu ngủ đủ thì có thể duy trì được nửa tiếng không nhỏ thuốc mắt, nếu ngủ không đủ thì thuốc nhỏ mắt không thể rời thân một phút nào. Mắt đau đớn không chịu nổi, nhất là khi đi trên đường gió to, mắt càng đau hơn. Tôi thật sự không biết nguyên nhân của việc đau mắt này, tuy bị nó làm cho phiền não nhưng tôi cũng không nghiêm túc quan tâm đến nó.

Sau khi tôi gặp được nhân duyên kỳ lạ, niệm thần chú Bạch Y khoảng 20 ngày, buổi tối tôi nằm mơ, mơ thấy tôi ngồi trên một đồng cỏ thơm, sau lưng và xung quanh là một khu rừng trúc, từ trong rừng trúc một cụ bà áo vải tóc trắng đi ra, cụ bà có diện mạo rất hiền từ, trên tay cầm một chuỗi niệm hạt, bảo tôi rằng: “Cậu thiếu niên, cậu nghĩ xem cậu muốn cầu xin tôi cái gì, tôi sẽ cho cậu.” Cụ bà nói xong lời thì tôi tỉnh khỏi giấc mơ, khi ấy là nửa đêm, tôi cũng chẳng hề suy nghĩ là hy vọng có thể chữa khỏi bệnh mắt của mình. Một lúc sau, tôi lại đi vào mộng cảnh. Nói ra cũng kỳ lạ, cụ bà đó vẫn đứng trước rừng trúc, dùng tay lấy ra từ trong túi áo của bộ quần áo vải một gói thuốc bột, sau đó cụ bà dùng thuốc bột xoa lên mắt tôi, mắt tôi cảm thấy cực kì mát mẻ, rất dễ chịu, cụ bà nói: “Mắt của cậu đã được tôi chữa khỏi rồi đó!”

Tôi từng kể giấc mơ này cho Linh Sư nghe. Linh Sư nói: “Chú tức tâm nguyện, con niệm Bạch Y, tâm nguyện kiền thành, tự nhiên cảm ứng.”

Kể từ sau khi có được giấc mơ này, bệnh mắt của tôi mỗi ngày một thuyên giảm, rồi đến một ngày, bệnh mắt của tôi không ngờ đã không cần thuốc mà khỏi hẳn trong khi bản thân tôi cũng không hề để ý. Tôi không đi khám bác sĩ lại, không cần dùng thủ thuật, đây đúng là một kỳ tích! Linh cảm của Bạch Y Đại Sĩ, sự linh dị cứu khổ cứu nạn của ngài thật sự quá vĩ đại.

Tôi từng đến chùa Thọ Sơn ở bên cạnh núi Thọ Sơn ở Cao Hùng trò chuyện với một tì kheo ni. ”Thần chú Bạch Y có hiệu lực cực lớn.” - Tôi nói. ”Thần chú Bạch Y có hiệu lực không lớn bằng chú Đại Bi.” - Tì kheo ni nói: “Thần chú Bạch Y chắc là thuộc về chú ngữ của bàng môn rồi. Trong Phật môn không niệm chú này, chỉ niệm chú Đại Bi thôi.”

Trong lòng tôi không đồng tình, cùng là chú ngữ của Quan Âm Bồ Tát, lẽ nào lại có gì khác nhau sao? Chú ngữ của Quan Âm Bồ Tát do chúng sinh hiển hóa khác nhau cho nên có nhiều loại chú ngữ khác nhau, miễn là hiệu quả tốt, lẽ nào còn phân biệt chính chú hay thiên chú gì chứ. Con người trong Phật môn vốn dĩ nên tu trì tâm địa bình đẳng không phân biệt, nếu ngay cả chú ngữ mà cũng phân biệt thì chẳng phải là tâm phân biệt quá lớn rồi sao.

Tôi từng khuyên người ta ấn tống thần chú Bạch Y Đại Sĩ, dùng công đức của nguyện lực này mà thay đổi vận mệnh của một người, kết quả là công hiệu cũng rất thần kỳ, cầu gì được nấy. Trước mắt, thần chú Bạch Y đơn giản và dễ đọc, có thể độ hóa phàm phu bình thường, còn thần chú Đại Bi nhiều chữ hơn và hơi khó niệm hơn, người bình thường không thể nào đọc mà không có lỗi sai, đây cũng là chỗ mà Bồ Tát hiển hóa thần công khác nhau nhằm thu nạp cả người thuận lợi lẫn người khó khăn cùng lên con thuyền từ bi đến bờ bên kia.

(Tại Đài Bắc có một vị là Tôn tiên sinh, là ủy viên cấp trung ương. Ông ấy kể với tôi thần chú Bạch Y Đại Sĩ và Bạch Y Quan Âm thật sự linh cảm. Tôn tiên sinh có một căn nhà, người chủ trước của căn nhà bị chết bất đắc kỳ tử, trong nhà có rất nhiều chuyện quái dị. Tôn tiên sinh xưa nay tín ngưỡng Quan Âm Bồ Tát, niệm thần chú Bạch Y Đại Sĩ nhiều năm không gián đoạn, có cất một bức tượng của Bạch Y Đại Sĩ trong tủ quần áo, bức tượng Đại Sĩ này được thỉnh từ núi Phổ Đà ở Nam Hải, lâu ngày cũng quên mất nên chưa hề cúng dường. Cho đến một ngày, những chuyện quái dị trong nhà ghê gớm quá, cánh cửa tủ quần áo tự nhiên mở ra, không ngờ bức tượng Bạch Y Quan Âm điêu khắc bằng đá lại đứng ngay ở cửa tủ quần áo. Tôn tiên sinh hết sức kinh ngạc, thế là mới đem ra thờ phụng, kể từ sau khi thờ phụng, những chuyện quái dị trong nhà dần dần giảm bớt. Càng thần kỳ hơn nữa là, bức Quan Âm bằng đá này ban đêm tự có thể di chuyển, có khi từ trên bàn thờ đi tới tivi ở trong phòng khách, có khi lại thấy ở trong phòng ngủ, có khi tượng Bạch Y Quan Âm lại tự động trèo lên cầu thang, đứng tại đầu cầu thang. Tôn tiên sinh nói, không có ai cố ý di chuyển tượng Quan Âm, tình trạng này tiếp diễn mãi cho đến khi các chuyện quái dị trong nhà hoàn toàn hết hẳn thì mới dừng lại. Tôn tiên sinh vì đọc được cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” đầu tiên của tôi nên mới đặc biệt kể với tôi chuyện này. Tôn tiên sinh cho rằng, kính Quan Âm, lễ bái Quan Âm, niệm thần chú, lợi ích cực lớn.)

19. Truyền kỳ về trì chú

Chương trước nói đến thần chú Bạch Y, chương này tôi kể một câu chuyện truyền kỳ về trì chú. Sự việc này cũng vô cùng thần diệu, nhưng tôi lại không hề tận mắt nhìn thấy, mà là tôi được một tì kheo ni ở chùa Đức Sơn Nham thị trấn Trúc Sơn kể cho nghe, nếu độc giả không tin thì coi như nghe chơi vậy thôi, tin hay không tùy bạn. Những chuyện trong thiên hạ không phải tự mình tự trải nghiệm được thì muốn tin cũng khó lắm.

Có hai tì kheo ni tu hành ở một ngôi chùa trên núi, ít giao du với bên ngoài, không tụng kinh, không niệm Phật, chỉ trì chú, một sư cô pháp hiệu là Từ Nhân, một sư cô pháp hiệu là Từ Thánh, họ lập lời thề với nhau là nếu không đắc đạo thề không rời núi. Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, hai sư cô từ lúc trẻ tuổi đã bước vào tuổi trung niên, Từ Nhân trì chú Đại bi tâm đà-la-ni, Từ Thánh trì chú Vãng sinh, mỗi người tự tu hành, cũng không thường xuyên thăm viếng nhau. Các hộ gia đình dưới núi biết trên núi có hai sư cô tu hành thì sôi nổi tự động cúng dường gạo trắng, đồ chay, hoa quả, cho nên ngoài tĩnh tọa trì chú ra, mỗi người họ tự trồng rau quả, tự mưu sinh để tồn tại.

Đêm khuya, pháp sư Từ Thánh ở trong thiền phòng tĩnh tọa, trì chú Vãng sinh có thể nói là đã đến cảnh giới xuất thần nhập hóa [tuyệt vời xuất sắc]. Mỗi khi bà ấy niệm chú Vãng sinh thì luôn có gió lạnh ào ào thổi vào trong nhà, hiện lên những bóng đen, Từ Thánh chỉ nhìn thấy mỗi bóng đen đó đều giơ hai tay ra. Những bóng ma đó giơ hai tay ra là để nhận chú Vãng sinh của pháp sư Từ Thánh. Từ Thánh nhìn thấy sự việc kỳ lạ này lâu ngày, không hề sợ hãi. Càng niệm chú Vãng sinh càng thuần thục, cuối cùng đã nổi tiếng khắp xa gần, ai cũng biết chú Vãng sinh của pháp sư Từ Thánh nổi tiếng khắp thiên hạ, ma quỷ tiếp nhận được càng ngày càng tăng lên.

Có một hôm, Từ Thánh đang niệm chú thì nhìn thấy một bà cụ đi vào trong thần phòng. Bà cụ tay cầm một hộp cơm, bởi vì khi ấy đã là 11 giờ tối, đường núi vào ban đêm không dễ đi, hơn nữa gió lạnh rít từng cơn, cho nên Từ Thánh kinh ngạc vội hỏi: “Bà ơi, vì sao đến đây?” ”Pháp sư ở trên đây, thân già này đặc biệt đem thức ăn làm bữa ăn khuya cúng dường pháp sư.” - Bà cụ mở hộp cơm ra và nói như vậy, bên trong hộp cơm là các món ăn chay rất tinh xảo, màu sắc và mùi vị đều ngon lành. ”Tôi không thể vô cớ mà nhận món ngon này.” - Từ Thánh nói. ”Ngày xưa đệ tử từng phát nguyện nếu có người trì tụng chú Vãng sinh, niệm đến khi tâm khẩu hợp nhất, niệm đến mấy vạn triệu biến, khiến cho vô số người, trời và ma quỷ có được lợi ích, tôi sẽ lập lời thề, mỗi tối vào lúc 11 giờ sẽ tự mình cúng dường pháp sư. Chú Vãng sinh của pháp sư đã khiến ma quỷ trong thiên hạ nhờ chú ngữ này mà được siêu thăng! Tôi y theo lời thề mà đến, không phải vô cớ đâu.” - Bà cụ thành khẩn nói.

“Bà ơi, bà sống ở đâu?” - Đêm khuya, đường núi nguy hiểm, Từ Thánh không thể không hỏi. ”Tôi sống sau núi, đến đi tự do, như sống trong hư không, vì tôi là linh thân.” - Bà cụ vốn chỉ là một khối linh khí mà thôi, bay lơ lửng trong không trung một lúc, bà cụ hướng về Từ Thánh hành lễ quy y, và Từ Thánh cũng chắp tay đáp lễ.

Kể từ đó về sau, vào lúc 11 giờ hằng đêm, bà cụ đều tự nhiên đến thiền phòng, mỗi ngày lại đổi một hộp cơm, màu sắc và mùi vị đều ngon lành, cúng dường xong, bà cụ lại hướng về pháp sư Từ Thánh hành lễ, sau đó tự lui đi. Từ đó không gián đoạn một ngày nào, còn Từ Thánh cũng vẫn trì chú Vãng sinh, càng trì càng nghiêm cẩn, đã đạt đến trình độ tâm chú hợp nhất. Bà cụ này không phải người nào khác, chính là Thổ Địa Bà ở miếu Thổ Địa nhỏ ở sau núi.

Lại nói, có một hôm vào ban ngày, Từ Thánh gặp Từ Nhân - sư cô trì chú Đại bi. Từ Thánh và Từ Nhân kể cho nhau nghe về tình hình gần đây, Từ Thánh đặc biệt kể cho Từ Nhân nghe không sót một chữ nào về việc bà cụ đem thực phẩm cúng dường mỗi đêm. Từ Nhân cho rằng đúng là quá bất khả tư nghì, rồi liên tục nói chúc mừng Từ Thánh, có thể trì chú đến mức thần thánh đưa cơm đến cúng dường, đây cũng là tượng trưng cho công lực bất phàm.

“Tối nào bà cụ cũng đến vào lúc 11 giờ đúng không?” - Từ Nhân hỏi. ”Đương nhiên.” ”Cô thật sự nhìn thấy bà cụ đứng trong không khí à?” ”Đúng thế. Pháp sư Từ Nhân, tôi hoan nghênh cô một buổi tối nào đó đến chỗ tôi một chuyến, tôi sẽ bảo bà cụ cũng cúng dường cô, xem như tôi mời khách, được không?” - Từ Thánh mời bạn đạo Từ Nhân.

Từ Thánh liên tục mấy lần mời Từ Nhân, Từ Nhân không thoái thác được, chỉ có thuận theo ý của pháp sư Từ Thánh, đến chỗ của Từ Thánh làm khách. Tối ấy hai người làm công khóa, một người trì chú Vãng sinh, một người trì chú Đại bi, dâng hương lễ Phật, nhắm mắt tĩnh tọa, hai người ngồi mãi cho đến 11 giờ.

“11 giờ rồi, cô hãy chú ý, bà cụ luôn đưa đồ ăn đến rất đúng giờ.” - Từ Thánh nói.

Nhưng 10 phút trôi qua, cánh cửa vẫn không có ai đẩy ra. Nửa tiếng sau, thậm chí một tiếng sau, bà cụ đều không xuất hiện một cách đầy kỳ lạ. Trong lòng pháp sư Từ Thánh lộ vẻ sốt ruột rõ ràng, còn Từ Nhân thì vẫn điềm nhiên, không những không trách cứ mà còn an ủi Từ Thánh. Một đêm trôi qua, bà cụ không những không đến mà ngay cả khi pháp sư Từ Thánh niệm chú Vãng sinh, những cơn gió lạnh u ám thường ngày thổi vào phòng cũng không thấy, ngược lại, có ánh sáng thần thánh chiếu rọi tất cả mọi nơi.

Lại nói, Từ Nhân vui vẻ nhận lời nhưng đã uổng công đến, Từ Thánh tiếc nuối vô cùng. Buổi tối ngày hôm sau, Từ Thánh đứng ngồi không yên, một mình ngồi ngây ra, đến 11 giờ thì nhìn thấy bà cụ lại cầm hộp cơm đến.

“Sao tối qua không thấy bà?” - Từ Thánh hỏi. ”Tôi có đến mà!” - Bà cụ đó nói: “Tôi cầm hộp cơm đến, nhìn thấy thần phòng hương hoa bày ra khắp nơi, ở cửa thì có hai vị thần Hộ pháp mặc giáp vàng đứng im lìm. Tôi định đi vào từ cửa sau thì lại thấy cửa sau cũng có hai vị dường như là Bảo Tháp Thiên Vương. Từ cửa sổ nhìn vào trong, tôi thấy sau lưng người bạn đạo xuất gia của pháp sư có đầy Hộ pháp Phạm Thiên đang đứng, phía trên Phạm Thiên còn có thể nhìn thấy kim quang mờ mờ, trong kim quang lại hiện lên các vị hóa Phật hóa Bồ Tát. Một bà già như tôi chưa từng trông thấy cảnh tượng như vậy, sao dám sơ ý gõ cửa đi vào, chỉ có biết chịu đựng gió lạnh, đợi cho tì kheo ni kia đi mau, không ngờ cứ thế đợi đến khuya lơ khuya lắc mới biết hóa ra tì kheo ni đó ngủ lại đây, nên tôi đành hậm hực trở về. Hôm nay tôi đặc biệt tới đây để xin lỗi pháp sư, tôi còn chuẩn bị nhiều đồ ăn ngon.” ”Ồ! Thì ra là như vậy.”

Từ Nhân tu trì chú Đại bi, Từ Thánh tu trì chú Vãng sinh, con đường của Từ Nhân và con đường của Từ Thánh căn bản là khác nhau, từ đó có thể biết, chú lực có sự phân biệt lớn nhỏ là không hề sai. Có lẽ độc giả muốn hỏi tôi, chẳng phải anh nói “chú có quan điểm bình đẳng không phân biệt” sao? Về quan điểm này, điều tôi muốn chỉ ra là vì con người mà khác biệt, chứ không phải vì chú mà khác biệt. Thần chú Bạch Y và chú Vãng sinh có thể độ phàm phu, còn chú Đại bi có thể nhập quả vị Bồ Tát thập địa. Có rất nhiều pháp môn tu hành, cần xem duyên phận của bạn. Tôi khá tán thành “tiệm ngộ” chứ không tán thành “đốn ngộ”, bởi vì nhân tâm đã diễn biến đến mức độ như ngày nay thì “tiệm” cũng đã rất khó rồi, làm sao có thể “đốn” chứ?

20. Lời thiền

Càng ngày càng có nhiều người đến nhà tìm tôi. Nếu là người có đạo, tôi nói chuyện còn thấy có vị. Nếu là người không có đạo, đúng là giống như càng nói càng vô vị, nhạt như nước ốc.

Có người canh ba nửa đếm ấn chuông cửa nhà tôi. ”Tìm ai?” ”Lư Thắng Ngạn.” ”Canh ba nửa đêm ai cũng ngủ cả rồi.” ”Nửa đêm tán dóc mới có vị đó! Cho nên tôi mới nửa đêm tới đây.”

Khi đó tôi đúng là hết cách, muốn từ chối, nhưng thật sự xét về mặt tình người thì không còn lời nào để nói về những người này. Anh ta từ trấn Kỳ Sơn thành phố Cao Hùng tới đây, nếu không từ chối, ai ai cũng như thế thì chẳng phải tôi sẽ phải đâm đầu xuống đất sao. Ban ngày tôi đi làm, buổi tối lại thần toán cho người ta, lại còn phải viết sách, thế nào mới được đây?

Trong số những người đến tìm tôi này, có một vị là ngôi sao sáng của Thiền tông, người này tôi không tiện viết ra họ tên vì tiếng tăm của ông ấy quá lớn, ông ấy được một người trẻ tuổi hộ tống đến nhà tôi. Người thanh niên này trông rất ưa nhìn, khoảng ba mươi tuổi, thần thái sáng sủa. Lúc anh ta ngồi chắp tay cung kính, tôi phát hiện ra đôi mắt của anh ta trong veo như nước, còn vị “ngôi sao Thiền tông” kia thì ngược lại, mắt mờ chân chậm, tay vịn vào gậy ba-toong, khí thế không bằng người thanh niên kia.

“Anh chính là Lư Thắng Ngạn mà người người đồn đại à? Là người có thể biết quỷ biết thần sao?” - Vị “ngôi sao Thiền tông” kia hỏi. ”Đúng vậy, chính là kẻ hèn này. Xin hỏi tiên sinh tìm tôi có chuyện gì?” ”Tôi chính là…, vị này là tiểu đồ đệ Lâm Tông Phong, muốn cùng anh nói chuyện thiền.” ”Ngưỡng mộ đại danh đã lâu, tên tuổi vang dội, không dám nói chuyện thiền, chi bằng tán dóc thôi.” - Tôi trả lời. ”Anh xem đồ đệ của tôi thế nào?” ”Ánh mắt sáng ngời, thái độ tích cực, phẩm cách thanh tịnh cao quý bẩm sinh, như cây ngọc đứng trước gió, đây chính là người đứng trên người khác, không giàu thì cũng sang, nếu dựa theo kinh nghiệm quan sát nhiều người của kẻ hèn này thì tôi nghĩ người thanh niên này là con cháu nhà giàu, là đứa con được nuôi dưỡng đàng hoàng.” ”Có Tiên căn hay không?” ”Nói hay không nói, là Tiên hay phàm, Tiên là tiên thiên, không có định số.” - Tôi cân nhắc một lúc rồi nói.

Vị “ngôi sao Thiền tông” gật gật đầu, ông ấy hỏi: “Lư Thắng Ngạn, tôi đọc cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” của anh, biết kiếp trước anh có căn duyên lớn mà đến, cho nên tôi muốn hỏi anh, Phật nói “thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn” là có ý gì?” ”Như Lai mười phương, thật ra là một Như Lai, đương nhiên là duy có mình ta rồi.” ”Sao lại nói vậy?” - Lâm Tông Phong không hiểu: “Sao lại là một Như Lai?” ”Cùng đi trên một con đường.” - Tôi cười vang ha ha. ”Ngôi sao Thiền tông” thấy tôi cười lớn tiếng, ông ấy cũng cười, tôi cho rằng ông ấy đã hiểu được ý của tôi. ”Xin hỏi ý nghĩa đúng của “chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm” là gì?” ”Cầm hoa cho mọi người thấy là chính pháp nhãn tạng, thần thông thù thắng là niết bàn diệu tâm.” ”Thần thông thù thắng là thần thông mà anh viết trong sách phải không?” ”Không phải. Thần thông thù thắng là quán tự tại, luôn luôn quán tự tại thì lúc nào cũng là Bồ Tát, có thần lực bất khả tư nghì, đây chính là tự nhiên tự tại, sức mạnh ở đẳng cấp này như không thực có, như có thực không, lúc này trên trời dưới đất, không có gì không phải là ta, đó tức là duy ngã độc tôn rồi.” ”Một chữ “thiền”, giải thích thế nào?” - “Ngôi sao Thiền tông” kiểm tra tôi. ”Diệu pháp chỉ thẳng ngọn đèn tâm, thoát sinh tử luân hồi.” - Tôi nói.

“Ngôi sao Thiền tông” và Lâm Tông Phong đưa mắt nhìn nhau, “ngôi sao Thiền tông” bảo Lâm Tông Phong đứng dậy, nói với Lâm Tông Phong: “Tông Phong, người đang ngồi trước mặt con đích thực là một bậc trí giả, nay ta đã già, không thể làm thầy của con, con mau quỳ xuống, rập đầu bái sư đi! Sư phụ của con trong tương lai sẽ kế thừa truyền thống và di sản của Thiền môn mà trở thành tổ sư Thiền tông, con bái người này làm thầy thì không sai một chút nào đâu.”

Lâm Tông Phong nghe nói vậy thì không dám thất lễ, quỳ lạy sát đất. Đến lúc này tôi mới biết ý định tới đây của họ. Tôi vốn dĩ không thu nhận đồ đệ, bởi vì hiện tại tôi vẫn còn trẻ, hơn nữa trên chẳng có mảnh ngói che đầu, dưới chẳng có mảnh đất cắm dùi, người muốn bái tôi làm thầy thì nhiều lắm, tôi làm sao có thể thật sự lần lượt hướng dẫn những đệ tử này được chứ! Tôi thà rằng dạy dỗ một người thành đạo chứ không chịu dạy tràn lan cho đủ con số. Lâm Tông Phong quỳ nhanh quá, tôi ngăn lại thì đã chậm, vì thế tôi đành ghi tên anh ta làm đệ tử.

Họ muốn giúp tôi xây dựng một đạo tràng, bảo tôi đặt tên, tôi nói: “Gọi là Phật Môn Linh Tiên Tông, Đại Thừa Tinh Xá đi!” Hai người họ gật đầu khen hay, rồi đỡ nhau ra về.

(Lời kết: Kẻ hèn này thần toán và biết được rằng truyền thống và di sản Phật môn của Linh Tiên Tông trong tương lai sẽ phát huy rạng rỡ, nhưng cũng phải bảy năm sau khi tôi viết cuốn sách này mới xem là có một nền móng nho nhỏ. Học trò của tôi sẽ đến từ Bành Hồ, Cao Hùng, Tân Trúc, Đài Bắc, Cơ Long, Hoa Liên… thậm chí là Nhật Bản, đây chính là cơ duyên của tôi, cơ duyên này vẫn chưa chín muồi, không tiện nói trước. Các đệ tử Phật gia, xin hãy suy nghĩ kĩ càng.)

21. Đạo pháp Hòa Hợp Tiên

Có một phụ nữ đến tìm tôi, hai mắt cô ấy sưng đỏ, khóc sướt mướt xin tôi cứu cô ấy, cô ấy nói cô ấy đến từ Cao Hùng. Khi ấy vừa đúng lúc tôi có hẹn với bạn, đang định đi ra ngoài thì cô ấy xô cửa bước vào. Cô ấy mặc Âu phục màu đỏ, đi giày cao gót, vóc dáng cao thon, nước da trắng trẻo, tuổi khoảng 27, 28. Cô ấy khóc rất thảm thương, nói rằng: “Lư tiên sinh, bất luận thế nào anh cũng phải giúp tôi việc này.” - Cô ấy nói rồi lại khóc. “Có chuyện gì, xin nói nhanh.” - Tôi nói. ”Chuyện này biết nói thế nào đây!” - Cô ấy cứ ngượng nghịu cả buổi, mặt đỏ bừng.

Thì ra là như thế này. Chồng cô ấy ngoại tình, còn cô ấy thì không muốn sống nữa, nghe người ta nói tôi có cách, cô ấy từ Cao Hùng bắt xe khách Cử Quang đến đây. Cô ấy từ Cao Hùng tới để cầu việc nhà, nếu tôi không giúp, về mặt tình người thật sự không còn gì để nói. Tôi nói với cô ấy: “Không biết có tác dụng gì không, nhưng để tôi thử thỉnh thị linh giới, giả sử không có cách nào thì cô uổng công chạy tới đây rồi.” ”Cầu xin anh, năn nỉ anh! Bất kể thế nào cũng phải cứu tôi.” Thế là tôi tĩnh tâm lại, chắp tay, thỉnh cầu Thánh thị, Thánh thị đáp rằng: “Được.”

Người thiếu phụ xinh đẹp kể: “Khi chúng tôi mới kết hôn, cuộc sống tương đối cực khổ, sống trong căn nhà lụp xụp ở khu xây dựng trái phép, anh ấy thì không có nghề nghiệp cố định, kinh tế tương đối túng thiếu, hai vợ chồng đi ra ngoài tìm việc làm, cuộc sống tuy không thoải mái nhưng tình cảm rất đằm thắm. Có một buổi tối trời lạnh, bữa cơm tối ăn không đủ no, hai vợ chồng bàn nhau đi ra ngoài ăn bát mì suông. Kiếm tiền không dễ, có thể tiết kiệm thì tiết kiệm, cho nên hai người cùng gọi một bát mì, nhưng bản thân không nỡ ăn, cứ nhường nhau, anh ấy ăn mấy miếng thì giả vờ đã no bụng rồi, thế rồi để cho tôi ăn hết. Bụng tôi tuy đói nhưng cũng giả vờ đã ăn rất no rồi, nên để lại hết cho anh ấy ăn. Quãng thời gian đó tôi từng xúc động đến mức nửa đêm ngồi dậy khóc!”

“Thế rồi nhờ mượn tiền đầu tư làm kinh doanh bất động sản, tự mình bao thầu công trình xây dựng, trong vòng ba năm ngắn ngủi, nhờ sự hấp dẫn của bất động sản cho nên hoàn cảnh của chúng tôi đã thay đổi hoàn toàn. Hiện tại ở thị trấn, chúng tôi có một ngôi biệt thự, ở Cổ Sơn cũng có một cửa hàng mặt tiền, ở khu Tam Dân cũng có một mảnh đất, bao gồm cả ngôi nhà hai tầng kiểu Âu đang sống bây giờ, xe hơi có hai chiếc, tiền cũng nhiều rồi, điện thoại một ngày kêu từ sáng tới tối, kinh doanh càng ngày càng lớn. Thời gian anh ta ở nhà cũng ít, một ngày từ sáng tới tối đều chạy ra bên ngoài, đến gần đây thì trở thành một tuần mới về nhà một ngày. Tôi khởi tâm nghi ngờ, đi điều tra, hóa ra anh ta sống cùng với cô kế toán của công ty.”

“Những ân ái, đồng cam cộng khổ trước kia, sổ toẹt một cái là xong. Tôi cũng đã chịu đựng rồi, muốn dùng tình cảm quá khứ để chuộc lại trái tim của anh ta, ba đứa con đều vây xung quanh anh ta gọi bố, nhưng không ngờ anh ta lại nhẫn tâm vứt bỏ mẹ con chúng tôi. Tiên sinh, tôi cầu xin anh hãy cứu hạnh phúc của một gia đình.”

Tôi nghe xong thì thở dài một hơi, nói: “Nữ sắc đúng là xiềng xích của thế gian, phàm phu cứ bám lấy không thể tự thoát ra được. Thế này đi! Cô hãy viết ra họ tên, tuổi và địa chỉ của hai người kia cho tôi, đồng thời cô cứ đi về trước, sau đó gửi cho tôi một chiếc khăn tay mà chồng cô hay dùng, rồi tôi sẽ giúp cô nghĩ cách xem.”

“Như thế này phải bao nhiêu tiền?” - Cô ấy lo lắng hỏi tôi. ”Đây không phải là vấn đề tiền nhiều tiền ít, mà là vấn đề thành công, nếu tôi làm thành công rồi, lúc nào cô đi qua Đài Trung thì lại đến bái lạy Tiên Phật để đáp tạ là được.”

“Ôi! Thì ra tiên sinh có chính khí như vậy, tôi từng mời người ta tế sát cải vận, mời thầy bói đến xem số mạng, đi khắp nơi để hỏi thần, thầy bói đòi ba nghìn đồng, kê đồng cúng bái lấy phí năm nghìn đồng, đốt vô số tiền vàng mã, thỉnh thần tế sát cũng tiêu tốn không ít chi phí. Có một kê đồng nói đưa cho họ hai mươi nghìn đồng, bảo đảm trong vòng hai tháng sẽ hồi tâm chuyển ý. Những khoản tiền này tôi đều đã chi cả. Chỉ có tiên sinh đây không nhận xu nào, chỉ sau khi việc thành công thì mới yêu cầu khi tiện đường ghé qua lạy tạ thần minh, tinh thần ân đức phục vụ con người này, tôi sẽ sâu sắc ghi nhớ trong lòng.”

Lại nói, sau khi cô ấy trở về thì rất nhanh chóng gửi đến cho tôi một chiếc khăn tay. Đầu tiên tôi chọn một ngày lành, cắt hai hình người bằng giấy, viết họ tên địa chỉ của người đàn ông lên một hình người, viết họ tên địa chỉ của nữ kế toán kia lên một hình người, đốt khăn tay thành tro, trộn tro của khăn tay vào trong đất sét, sau đó đặt hai người giấy quay lưng lại với nhau, đứng trên đám đất sét kia, đương nhiên tất cả những việc này tôi làm trong mật thất của mình. Tôi vẽ một lá phù rồi đốt, rồi vẽ một lá phù khác đốt thành tro, rắc lên trên đất sét, ý nghĩa của phù là: “Mau cắt nhân duyên ngắn ngủi này, nhanh chóng phụng luật lệnh của Kim Mẫu.” Tôi dùng tổng cộng 72 que hương, lần lượt đốt lên, sau đó cắm hết lên trên đám đất sét, vây xung quanh hai người giấy. Tôi đã mua loại vàng mã Tứ phương kim, phụng thỉnh thần tướng bốn phương, rồi phái hai vị âm tướng của Từ Huệ Lôi Tạng Tự của tôi phụ trách xử lý việc này. Chân tôi dẫm bước Khôi cang, tay trái làm Ngũ lộ tán duyên, tay phải bắt Lôi quyết, niệm rằng: “Tinh tinh linh linh, hách hách thần uy, nhân duyên dĩ tận, tốc tốc phân ly. Kiến diện mi mục dĩ vô tình, ngôn ngữ thương đàm lưỡng vô vị, tích nhật ân ái nhược huệ kiếm, tòng thử loạn ma nhất bút câu, cấp cấp như Kim Mẫu Đại Thiên Tôn luật lệnh.”

Sau đó tôi lại cắt hai người giấy khác, nam thì là người đàn ông kia, nữ thì là người phụ nữ kia, và cũng theo pháp niệm chú: “Phụng thỉnh Hòa Hợp Nhị Tiên Sư, vạn hồi Thánh tăng hạ phàm trần, diệc tín Phật pháp diệc tín Tiên, chuyên quản nhân gian hòa hợp sự, cựu tình phục hiện chiếu tam đài, hòa hợp mi mục tiếu tương lai, càn khôn tương phùng tự tâm ái, tòng thử nhân gian vĩnh vô sai, thời thời khắc khắc tâm thường luyến, thiên tâm vạn tâm ý hợp lai. Đệ tử Liên Sinh nhất tâm tam phụng thỉnh Hòa Hợp Nhị Tiên cấp cấp luật lệnh cang.”

Ba tháng sau sự việc này, người thiếu phụ xinh đẹp kia đã tới. Lần này cô ấy mặt mày rạng rỡ, cô ấy đem hoa quả cúng và hương bằng gỗ đàn hương quý giá đến. Cô ấy nói, sau một tuần, chồng cô và người nữ kế toán kia đã cãi nhau, bởi vì cô kế toán cũng quan hệ với bạn trai khác. Một tháng sau thì chồng cô có chút hồi tâm chuyển ý, mặc dù bận rộn sự nghiệp nhưng mỗi tối đều về nhà, nói chuyện chơi đùa với các con, hơn nữa còn chủ động đưa con đi xem phim, con cái vui mừng nhảy nhót tung tăng.

“Đúng là cứ như một người khác hẳn, tôi mắng anh ấy, anh ấy nói là nhất thời hồ đồ, anh ấy bảo đảm sau này vĩnh viễn không bao giờ như thế nữa.” - Cô ấy vui vẻ nói.

Tôi cũng vui mừng thay cho cô, chỉ cần có thể giúp người ta giải quyết được việc, tuy rằng tôi không có được cái gì, nhưng niềm vui mà tôi có được chính là thù lao chí cao vô thượng. Thành công của việc cúng tế làm pháp này không phải là thứ mà tiền có thể mua được đâu!

(Lời kết: Nhân vật nữ chính trong bản văn này sống ở Cao Hùng, tôi đã có được sự đồng ý của cô ấy để viết bản văn này, nhưng cô ấy không muốn có người biết họ tên và địa chỉ của mình mà chạy tới để chứng thực, cho nên tôi đã ẩn đi tên và địa chỉ của cô ấy. Ngoài ra, trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” tập 1, tôi có nhắc đến cửa hàng đèn trang trí Kiều Lệ, cửa hàng này đã chuyển từ phố Bình Đẳng đến đường Trung Chính, chủ cửa hàng vẫn là Hoàng Xuân Phong. Tôi nói rõ lại bởi vì có nhiều độc giả ở tận thành phố Hoa Liên xa xôi gọi điện đến để chứng thực.)

22. Ngũ quỷ và ngũ phá

Bí pháp triệu thỉnh Ngũ quỷ của Đạo gia rất phổ biến. Ngũ quỷ cũng chính là do Ngũ hành sinh tướng biến hóa ra, trong đó có thể làm thiện có thể làm ác, thông nhập u minh, công lực thần kỳ cũng không thể đoán lường. Nếu có thể sử dụng Ngũ quỷ một cách thỏa đáng thì cũng xem như là Địa Tiên hành đạo, nếu sử dụng không thỏa đáng thì có thể sa đà vào ác quỷ. Ngũ quỷ này chính là: “Đậu Nhân, Lý Khải, Trương Ngũ, Thập Thái, Trữ Vãn - 5 vị âm tướng.”

Ngũ quỷ là do khí âm đục bẩn sinh ra, cho nên vật dùng để triệu thỉnh Ngũ quỷ tốt nhất là dùng năm cái đầu lâu, năm tấm ngói lâu năm, năm mảnh tường đất ẩm, năm cây rơm, phù Ngũ quỷ mỗi quỷ năm lá phù. Triệu thỉnh Ngũ quỷ cũng phải ở trong mật thất, tối kỵ người thai sản hoặc có tang đi vào. Năm loại âm khí của Ngũ quỷ vốn là do Ngũ hành biến hóa mà ra, tuy thuộc dòng âm tà, người trong tà phái thường xuyên sử dụng, nhưng đối với người tu đạo không thể không biết.

Tôi biết Ngũ quỷ hiện hình cũng rất giống với một số thuật phù thủy đeo năm cái đầu lâu ở trước ngực ở châu Phi, thầy phù thủy ở châu Phi dùng âm khí của năm đầu lâu đeo ở trước ngực mình, rao bán những tượng gỗ nguyền rủa chết người. Những tượng gỗ này tượng trưng cho một người, thầy phù thủy lợi dụng bí mật của Ngũ quỷ mà ấn vào đó tác dụng hấp thụ, cướp đoạt tinh phách của con người, khiến cho người đó rơi vào trạng thái điên, thậm chí bị sốc đến chết. Đây cũng là một trong số tà thuật của Ngũ quỷ.

Vào thời cổ đại ở nước ta [Trung Quốc] rất thịnh hành đại pháp Ngũ quỷ vận chuyển. Ngũ quỷ này vốn là đại lực âm tướng, có thể vận dụng thuật Ngũ quỷ để vận chuyển vàng bạc châu báu ẩn giấu trong tường đất, ăn trộm những của cải bất chính. Đương nhiên cũng có những kẻ vô lại dựa vào cái này để làm việc xấu, những kẻ này lợi dụng thuật pháp Ngũ quỷ vận chuyển, là một trong những thủ pháp cao minh nhất của trò trộm cắp, cửa chính cửa sổ không cần phải mở, không có một chút manh mối nào, không để lại bất kì dấu vết nào, tất cả mọi thứ vô hình trung đều biến mất hết. Đại pháp Ngũ quỷ vận chuyển rất giống với Càn khôn điên đảo dịch chuyển đại vận chuyển, tôi nói những pháp này, chỉ cần là người tu đạo tinh thông thì đều phải hiểu rất rõ mới đúng.

Có một số chùa, cung, đường ấn Ngũ hành Ngũ doanh, thuật pháp mà họ sử dụng không nhất định là pháp “chính dương”, trái lại họ dùng pháp “chính âm”, ngũ doanh và binh mã nếu được an pháp chính âm thì vào ngày an linh phải tụng kinh, mở đại pháp hội phổ độ, phải mở tiệc phụng thỉnh Ngũ quỷ lên pháp tọa, dùng tên của Ngũ sát tướng quân để hô, họ chính là thủ lĩnh của năm doanh trại binh mã các hướng Đông Nam Tây Bắc và Trung ương. Nếu thờ phụng tốt thì linh cảm trong ngôi chùa đó cũng vô cùng hưng thịnh, nhưng ngược lại nếu thờ phụng không tốt sẽ khiến cho tất cả mọi việc trong chùa đều rối loạn, như vậy thì sẽ phản tác dụng, một khi xuất hiện tác dụng ngược lại thì hầu như là không thể ngăn chặn được.

Tôi biết ở miền Trung có một cung đường kia thờ năm chiếc cờ linh, phương pháp phụng thỉnh là pháp chính âm, thế là Ngũ quỷ hiện hình giúp đỡ, người trụ trì không biết sự lợi hại của Ngũ quỷ, bình thường không biết phương pháp thờ cúng, liên tục mắc lỗi, thần minh trong cung đường đó lần lượt bỏ chạy đi khắp nơi, Ngũ quỷ đã chiếm luôn bảo tọa, tự xưng là Ngũ vương, và sau đó triệu thỉnh cô hồn dã quỷ làm thuộc hạ. Ai đi hỏi thần, không hỏi thì còn tốt, hễ hỏi là sẽ gặp tai ương, bản thân trụ trì cũng bị điên loạn, trẻ con cũng sinh bệnh, kê đồng thì nghi thần nghi quỷ, sợ là bị kẻ khác làm bùa ngải. Kì thực không phải, mà là tự mình đã thờ năm chiếc cờ linh không đúng, cho nên Ngũ linh chính thần không đến mà đổi lại thành Ngũ quỷ, đây chẳng phải là sai một ly đi một dặm sao?

Trụ trì nhờ tôi nghĩ cách giúp họ, tôi đi vào trong miếu đường đó, ô hay, những yêu ma quỷ quái đó còn nhếch mép cười với tôi. Tuy tôi có một chút linh lực, nhưng cũng không dám đắc tội với những linh hồn của linh giới này, chỉ có thể làm pháp hội thết đãi. Ngoài phương pháp này ra, nếu dùng cách lấy đá chọi đá, nói lý lẽ đúng sai, thì e rằng người gặp tai ương không phải là Ngũ quỷ mà trái lại chính là tôi đó! Bạn nói xem, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, có một số Địa Tiên mỗi khi làm pháp cũng dùng thuật Ngũ quỷ hỗn thiên. Cách làm pháp của thuật Ngũ quỷ hỗn thiên cố nhiên không phải chính, nhưng có thể nói là một trong những thủ pháp cao minh nhất trong số các tà pháp, chỉ cần dùng vào việc chính thì không hẳn là không được.

Nếu Ngũ quỷ ẩn náu trong thân người, chỉ có thể dùng Ngũ phá để phá trừ. Tim, gan, lá lách, phổi, thận là Ngũ hành ở bên trong thân người, mà Ngũ quỷ là ứng với Ngũ hành mà sinh ra, vì thế có thể ấn náu trong thân tâm con người. Cái gọi là pháp Ngũ phá là như sau:

Dùng một người giấy, trên đó viết tên của người bị Ngũ quỷ nhập vào, viết lên năm chữ tâm can tỳ phế thận, bấm tay niệm chú: “Nhất nhị tam tứ ngũ, tâm can tỳ phế thận, Ngũ hành khắc Ngũ quỷ, tốc tốc vĩnh tương ly, cấp cấp phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh luật lệnh cang.” Bỏ người giấy này vào trong một bình gốm nhỏ, không được dùng dụng cụ Ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ để đậy lại, chỉ có thể dùng vải để bịt, sau đó tìm một cái gậy tre, đập một nhát vỡ nát cái bình gốm, như vậy Ngũ quỷ không ẩn náu được nữa, bị đập tan mà phải rời đi!

Phần đông người bị thần kinh thất thường, có người vì suy nghĩ mà thành điên, cũng có người bị thần kinh suy nhược, hoặc có người bị nỗi sợ hãi ám ảnh mà suốt ngày hoảng loạn bất an, cũng có người bị oan nghiệp (nhân quả kiếp trước) bám lấy thân, có người linh hồn không thể tự chủ, có người bị điên khùng bẩm sinh, có loại người bị Ngũ quỷ làm cho điên loạn hoàn toàn rất khó chữa trị. Nếu có người bị điên loạn bởi Ngũ quỷ thì có thể khẩn trương dùng Ngũ phá để phá trừ, không dùng pháp Ngũ phá thì vĩnh viễn khó hết bệnh.

Từng có một hôm, một vị đạo trưởng đến gặp tôi, nói rằng thần toán của ông ấy linh hơn tôi. ”Thắng Ngạn tiên sinh, tôi biết Hỗn thiên thần toán.” - Vị đạo trưởng đó nói. ”Xin chỉ giáo.” - Tôi nói.

Vị đạo trưởng đó nhắm mắt niệm chú, tôi lập tức nhìn thấy có năm quỷ linh hóa thân nhỏ như con kiến phi thân vào bên trong tai của đạo trưởng, đạo trưởng mở miệng nói: “Thắng Ngạn tiên sinh, số mệnh của ngài thật đáng thương, không thể nương dựa vào người thân, tay trắng lập nghiệp, hiện tại đang kẹt trong khó khăn, mang số mệnh kháng cửu…xx, không biết tôi đoán có đúng không? Tuy anh có linh lực, nhưng chẳng thể nào chiến thắng được vận mệnh, sao mà không đáng thương chứ.”

Tôi nghe xong thì lắc đầu thở dài, suýt nữa là không kìm được nước mắt: “Lời của đạo trưởng không sai, quẻ bát quái của tôi chính là kháng cửu…xx, đây là trời thử thách tôi, và tôi lại không có cách nào thay đổi được vận mệnh, chỉ có thuận theo vận mệnh thôi. Thần thông hỗn thiên của đạo trưởng đích thực là lợi hại, tôi thấy Ngũ quỷ đi vào bên trong tai ngài, công lực ở đẳng cấp này quả thực là bất phàm, con người có thể tuyên thề với Ngũ quỷ, một bước không rời, thuật pháp của tôi đương nhiên không bì kịp với đạo trưởng.”

“Anh nhìn thấy Ngũ quỷ à?” - Vị đạo trưởng kia hết sức kinh ngạc. ”Pháp chú Ngũ quỷ hiện hình thì tôi cũng biết, chỉ là tôi không dùng họ.” ”Tiên sinh quả nhiên danh bất hư truyền, bái phục! Bái phục!” ”Đạo trưởng tôn hiệu là gì để xưng hô?” - Tôi hỏi. ”Thượng Cửu Hạ Tinh, tôi là Cửu Tinh đạo nhân.” ”Mong Cửu Tinh đạo trưởng thường xuyên chỉ bảo vãn bối.”

Tôi và Cửu Tinh đạo trưởng nói chuyện về một số đạo thuật đầy vui vẻ, Cửu Tinh đạo trưởng đã mộ đạo từ sớm, từng học đạo Bạch Hổ Quán, sau đó ẩn cư ở núi Bình Đông để tu đạo, bái một vị pháp sư của am Địa Tạng ở một nơi nọ làm thầy, công lực và đạo hạnh rất tốt.

23. Cam lộ núi gạo

Con người nếu đọa vào đạo ngạ quỷ thì đau khổ bội phần, có ngọn lửa mãnh liệt thiêu đốt cổ họng, vừa đói vừa khát. Nhưng một số Kim cương Thượng sư biết đại pháp siêu độ, biết pháp Cam lộ núi gạo, khi vẩy nước cam lộ ra giống như đang nóng được mát mẻ, được đưa đến miền tự do, một hạt gạo biến thành trăm nghìn hạt gạo, quỷ thần nhiều như cát sông nhận cúng dường, độ người độ ma vô số.

Tôi lại có đôi lời giải thích về những điều cần thiết của đại pháp Cam lộ núi gạo này. Cái gọi là siêu độ là việc như thế nào? Cái gọi là siêu độ tổ tiên, cô hồn dã quỷ, cúng tế quỷ thần, công đức không phải là không có, nhưng mà con người ngày nay đã biến việc cúng bái này thành cái cớ để mở tiệc chiêu đãi khách khứa, giả bộ lạy lạy lấy lệ, ăn uống ngập mồm là chính, rất lãng phí sức người sức của.

Cúng bái thật sự là hoa thơm, trái cây, mì chay, tiệc chay, đồ hộp, gạo trắng, những thực phẩm thanh tịnh mà thôi. Cúng bái siêu độ linh hồn tổ tiên, trước tiên phải phụng thỉnh linh hồn tổ tiên, hơn nữa phải phụng thỉnh chư Phật Bồ Tát làm chứng, pháp sư lên bục tụng kinh, dùng pháp lực, chú lực của chư Phật, nguyện lực từ bi của chư Phật, nếu linh hồn tổ tiên có tâm nguyện sám hối thì tội sẽ giảm nhẹ, việc chuyển thế hoặc vãng sinh cõi tịnh thổ là có. Đương nhiên thôi! Pháp hội siêu độ như thế này là một hoạt động của thế giới linh hồn, nhưng không nhất định là mỗi cá nhân đều có thể tận mắt nhìn thấy, thậm chí ngay cả pháp sư ngồi trên pháp tọa trên cao cũng không nhìn thấy điều mà người người đều nhìn thấy. Pháp hội kiểu này tuy rằng bản thân pháp sư không nhìn thấy, nhưng không phải là lừa người ta.

Tác giả từng cùng với một bác gái hành nghề sửa chữa xe ô tô sống tại đường Dân Sinh thành phố Đài Trung gần Phật giáo Liên Xã đến Phong Nguyên để xem đại lễ lập đàn làm pháp. Trong buổi cúng bái rất lớn đó, bác gái nhìn thấy được, tôi cũng nhìn thấy được, đúng là đa dạng đủ mọi thứ. Bác gái đó cũng là một người có con mắt âm dương trong vạn người khó tìm được một người. Bác ấy có thể nhìn thấy thần thấy ma, nhìn được các linh của linh giới.

Chúng tôi cùng nhìn thấy các tiên các thần lần lượt từ không trung giáng xuống, số lượng rất nhiều, có hơi giống như sao trên bầu trời đêm mùa hè, từng vị từ hư không chầm chậm hạ xuống. Các quỷ thần trên mặt đất thì đứng im nhìn trời và rất hưng phấn, chắp tay cung kính hoan nghênh, có rất nhiều linh hồn xếp thành hàng, vỗ tay hoan hô. Đại lễ lập đàn làm pháp này giống như thể nhân loại mở hội cho linh giới vậy. Có thần tiên ngoại quốc chống gậy ba-toong, tóc dài râu dài, mặc áo dài trắng, đó không phải là Jesus Christ sao? Thánh Mẫu Maria cũng đến, các vị thần tiên ngoại quốc này cũng đến tham gia hội của các tiên. Các tiên các thần này đi đi lại lại hầu hết đều đến đi từ trong mây trong sương, vì là linh thể cho nên họ thoắt ẩn thoắt hiện.

Khung cảnh buổi đại lễ rất hoành tráng, dòng người cuồn cuộn, không chỉ là dòng người cuồn cuộn mà dòng ma cũng cuồn cuộn. Hình thái của ma giống như con người, có ma lương thiện, có ma tà ác, có ma giống như quân tử nho nhã, có ma cũng mặt mày gian giảo, có ma mặt đẹp như ngọc, có ma mặt xấu như cóc, có một số tinh linh atula dị hình dị dạng, nói thật là chẳng thể nhìn được hết. Có một số ma ăn uống rất lịch thiệp, giống như ăn cơm Tây đúng kiểu cách hẳn hoi, nhưng có một số ma thì chẳng ra làm sao, đưa tay ra là túm ngay lấy con gà béo, ma đó không có đầu, cho nên tống thức ăn vào trong cổ. Bác gái sợ đến mức kêu ré lên, răng đánh lập cập vì run sợ. Đối với phàm phu mà nói thì con gà béo vẫn nằm im không xê dịch, nhưng mà chúng tôi lại nhìn thấy linh khí của con gà béo đó bị ma không đầu ăn hết sạch rồi. Có rất nhiều ma dùng thân tre khênh bao gạo, bao gạo đó không hề mảy may xê dịch, nhưng linh khí của những bao gạo đó thì đã bị khênh đi hết. Có rất nhiều ma nhỏ chạy tới chạy lui trên đường, khiến cho những ma lớn trông coi bọn chúng phải chạy đuổi theo sau lưng. Bác gái có con mắt âm dương đó từng bị ma nhỏ đụng phải, trên chân có cảm giác đột ngột tê đi, sau đó lại bình thường.

Tôi chú ý đến một bầy quỷ cực kì hung tợn, mắt như chuông đồng, mặt xanh nanh vàng, ăn các thứ thì nuốt chửng cả xương lẫn thịt, cái bụng cực to. Tôi nhìn bọn chúng, bọn chúng cũng quay hết đầu lại nhìn tôi, dường như hiểu rằng tôi nhìn thấy bọn chúng, bác gái sợ đến mức không dám mở mắt. Bác gái buồn đi tiểu, tìm đến một buồng vệ sinh công cộng, vừa mở cửa ra thì hét ầm lên, thì ra bên trong có một con quỷ hai mắt nhìn chằm chằm vào bác gái.

Tôi đã viết ra những gì nhìn thấy và nghe thấy ở buổi cúng tế đó, các bạn đọc nhất định sẽ cảm thấy kinh ngạc, cho rằng tôi “chém gió” tung trời, trong biển người như thế làm sao mà hồn ma chen vào được. Trên thực tế theo như tôi biết, hồn ma căn bản không sợ con người, họ biết rằng con người cũng không nhìn thấy họ, họ theo khí mà sinh ra, theo khí mà diệt, cho nên bất luận con người có cái nhìn, có cách nghĩ thế nào về họ, thì tuy họ cũng có thể ở trong cõi vô hình gây ảnh hưởng đến hành động cử chỉ của một người, nhưng nếu không có duyên cớ gì thì họ cũng sẽ không tùy tiện gây phiền hà cho con người. Những người bị gây phiền hà nếu không phải là kiếp trước đã kết oan nghiệt thì cũng là kiếp này đã làm quá nhiều việc ác, ánh sáng cát tường đã tắt, khí đen sinh ra, người như vậy thể nào mọi ác quỷ cũng đều có thể tìm đến để gây rắc rối, buổi tối người đó sẽ không thể ngủ ngon lành được.

Tôi nhìn thấy bầy ma nhanh chóng vận chuyển hết các bao gạo, còn pháp sư cao minh ngồi trên pháp tọa, đầu đội mũ Ngũ Phật, pháp tướng trang nghiêm, miệng niệm chú, tay bắt hàng loạt pháp quyết, một tay tung ra rất nhiều hạt gạo, nói ra thì có vẻ lạ, người xung quanh nhìn thì là hạt gạo, nhưng tôi nhìn thì là rất nhiều bao gạo, những bao gạo đó lại chất thành núi gạo cao lớn. Những cô hồn dã quỷ kia vỗ tay hoan hô, chen nhau xô tới, rồi lại bắt đầu công việc vận chuyển.

Ngạ quỷ là đáng thương nhất, cái cổ dài ngoằng, cái bụng siêu to, cái miệng cũng siêu to, thức ăn vừa đi vào trong miệng liền biến thành dung dịch lửa nóng bỏng, có khi còn hóa thành nham thạch nóng chảy, có khi hóa thành nước sắt. Những ngạ quỷ đó khẩn cầu pháp sư từ bi, chỉ thấy pháp sư dùng tay hoa sen nâng tịnh bình, một tay cầm cành dương liễu, vẩy nước lên không, những giọt cam lộ mát mẻ đi vào trong miệng của ngạ quỷ, dập tắt ngọn lửa, thế là miệng ngạ quỷ có thể ăn được thức ăn, những ngạ quỷ đó tìm kiếm những thức ăn thừa mà đám ma quỷ khác ăn còn thừa, nhìn trời lạy tạ, chỉnh tề niệm Phật.

Lúc này pháp sư dẫn các tăng lữ hô Phật hiệu, bên dưới pháp tọa, các giới trời, rồng, quỷ, thần cũng hô Phật hiệu, bầy ma chắp tay niệm Phật, chỉ thấy một số linh hồn của gà vịt chó tụ tập ở trước pháp tọa để đòi đền mạng. Pháp sư nói: “Các linh hồn hãy lắng nghe, oan nghiệp kiếp trước, kiếp này giải trừ, kiếp trước các người không thương xót động vật mà phạm vào giới sát, kiếp này phải làm thức ăn cho người, nhân quả luân hồi, nên phải như vậy. Chúng ta tôn kính thờ Phật, các linh hồn đều có Phật tính, chỉ mong hết kiếp này lập tức đầu thai vào cõi khác, mau nghe được lời Phật, sớm sinh về cõi hoa sen. Từ mẫn! Đại từ mẫn!”

Pháp hội xong xuôi, pháp sư xuống pháp tọa, tôi chen vào trong đám người nhìn vị tôn giả đạo hạnh đang đi tới, ông ấy ngẩng đầu nhìn tôi một cái, tôi mỉm cười, dường như ông ấy cũng hơi cử động môi, hình như tôi nhận ra ông ấy, mà hình như ông ấy cũng nhận ra tôi, chỉ là tôi đã quên mất đã từng gặp một vị đạo hạnh cao minh như vậy ở đâu và lúc nào rồi, có lẽ là kiếp trước! Tôi thường xuyên cảm thấy đặc biệt quen mặt những người bạn cũ đã gặp từ kiếp trước.

Bác gái cùng đi với tôi nói, lần sau không dám đi xem đại lễ lập đàn làm pháp nữa. Ngay cả vào tháng bảy Âm lịch, bác gái đó cũng không dám đi ra ngoài, hai mắt bác ấy sáng lấp lánh, đích thực là con mắt âm dương.

24. Thử thách tâm linh

Kể từ khi tác giả có được linh thông, có thể người khác sẽ nghĩ rằng kể từ nay, giá trị con người tôi là phi phàm, bước thẳng lên cửa rồng, được Tiên Phật tương trợ, một bước lên mây và chẳng bao giờ phải lo lắng. Thế nhưng trên thực tế hoàn toàn không có chuyện đó, một khi đã bước vào con đường tu đạo thì ma khảo trùng trùng, những thử thách của việc tu đạo so với những vấn đề khó khăn mà bất kì người nào phải chịu thì càng khó hơn nhiều! Có khi nửa đêm tôi tỉnh giấc mơ, không kìm nén được nước mắt ướt đẫm vạt áo, tôi sống như vậy chẳng bằng không sống, cớ sao phải đến nhân gian này một chuyến chứ! Thế nhưng tôi nghĩ đến việc trời ban trách nhiệm lớn cho con người thì con người cũng phải lao tâm khổ tứ, nếu tôi không cách nào chấp nhận thì chẳng phải là công lao đổ sông đổ biển sao?

Tiên sinh Đường Anh Long sống tại một đoạn đường Nam Cảng thành phố Đài Bắc đặc biệt gửi tới một bức thư khích lệ tôi, nguyên nội dung thư như sau:

Thắng Ngạn huynh!

Ngày hôm qua, đệ theo người anh kết nghĩa Giang Hoành đến nhà huynh quấy rầy, không ngờ thấy quá đông người đến thăm viếng, cho nên chưa thể nào tâm sự được, thật sự cảm thấy rất nuối tiếc. Hôm nay ở Đài Trung, đệ đã đọc được cuốn sách quý “Mạn đàm linh cơ thần toán”, nhìn chung cũng có nhận thức sơ bộ về huynh. Đệ biết tới huynh là do anh Giang trước đây có nhắc tới, anh Giang có kể Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền đạo pháp cho huynh, vì thế đệ mới đặc biệt tới Đài Trung để thỉnh giáo huynh. Bởi vì Tam Sơn chính là chỉ linh căn của thiên địa nhân và lời căn dặn của Hỗn Nguyên Lão Tổ, Cửu Hầu chính là chỉ cửu gia, cũng tức là cửu cung, cái này là hiện tượng thiên văn, không có minh sư chỉ thị thì không thể hiểu được Tam Sơn Cửu Hầu và thân người phối hợp ra sao. Nếu có thể hoàn toàn tương hợp, toàn bộ đạo công có thể phát huy đến cực điểm, thiên địa nhân hoàn toàn hợp nhất, thì trên có thể thâu tóm thiên tượng, dưới có thể cứu giúp muôn dân, đây chính là đạo pháp tối cao.

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đã truyền đạo pháp cho huynh, có thể thấy là căn cơ kiếp trước của huynh rất tốt, cũng là người phi phàm, người như huynh đây nhất định là trung hậu nhân từ, huynh đã đắc đạo pháp thì tất có nhiệm vụ tại thân, các khảo nghiệm đương nhiên sẽ theo đó mà đến, cái này gọi là cây to thì gặp gió to, đúng là lời lẽ chí lý. Đệ tuy ngu muội nhưng sau khi gặp mặt huynh, xin được sâu sắc chúc mừng thiện nhân đắc đạo. Đệ thành tâm thành ý hy vọng huynh có thể nhờ linh cơ mà giáo hóa nhân tâm, cải tổ phong tục để không phụ sự vất vả của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh và lệnh sư.

Đạo pháp mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh và lệnh sư đã dạy huynh đều là nghìn vàng khó mua, hy vọng huynh có thể giữ được đạo, tiến tới hiểu đạo, lệnh sư có khẩu quyết là “đại đạo điên đảo điên, có người được trao truyền, chính là Đại La Tiên”, “cố bản phản nguyên” [làm vững chắc cái gốc và trở về với nguồn cội] đều rất quan trọng, đệ biết trong lòng huynh nắm chắc nghìn vạn thuật pháp diệu kỳ, lẽ ra không nên nhiều lời, xin huynh lượng thứ cho.

Thiên địa nhị khiếu điên đảo điên Âm dương ngẫu tiếp ám tương liên Tam tài hợp nhất hỗn nguyên chuyển Tức thị Đại La Tử Kim Tiên.

[Đất trời hai cửa điên đảo điên Âm dương tiếp xúc ngầm nối liền Thiên địa nhân cùng chuyển hỗn nguyên Chính là Đại La Tử Kim Tiên.]

🌟

Bức thư này do tiên sinh Đường Anh Long sau khi gặp mặt tác giả một lần đã viết ra, ngữ ý sâu sắc, cũng là sự khích lệ của một người có đạo. Đúng vậy, vì đã đắc đạo pháp, tất có nhiệm vụ tại thân, hơn nữa cửa ải thử thách sẽ chồng chất, tôi cũng biết vậy, chỉ mong bản thân tôi có thể sâu sắc giành được sự ưu ái của trời mà vượt qua được những thử thách này, như vậy mới có thể ở giữa trời đất mà xây dựng được đạo tràng tịnh thổ thành Phật thành Tiên. Giờ đây có rất nhiều bạn đạo cổ vũ tôi, lại có một số bạn đạo tỏ ý muốn tác giả làm sư phụ, tác giả thật sự lo ngại mình tài học còn nông cạn, bản thân còn chưa có chỗ đứng, trên không có mảnh ngói che đầu, dưới không có mảnh đất cắm dùi, thật đáng buồn. Nếu có một ngày kia tôi minh tâm kiến tính, linh lực quang minh chói ngời đã có chỗ để dẫn dắt mọi người thì khi ấy sẽ bàn tiếp cũng được.

Ngô tiên sinh ở kho bạc Hợp Tác ở Đài Bắc cũng gửi đến một bức thư nói muốn học đạo pháp, nguyên văn bức thư như sau:

Lư Thắng Ngạn tiên sinh!

Danh tác “Linh cơ thần toán” đúng là thiên hạ kỳ thư. Phương pháp khởi linh được nói đến ở trong đó vô cùng kỳ lạ và giản tiện, nhưng lần đầu tiên tôi thực nghiệm, khả năng là tôi thiếu kiên nhẫn nên không cách nào linh động được, kẻ hèn này cho là thiếu mất phù khởi linh, không biết có thể làm ơn ban cho tôi một lá và hướng dẫn tôi khẩu quyết diệu pháp trong đó không, nếu có được sự chỉ giáo thì tôi cảm tạ vô cùng!

Bản thân tôi là một tín đồ Phật giáo kiền thành, đối với kiến thức về ngũ thuật thì tôi cũng tương đối có hứng thú, nhưng chưa thể thâm nhập cảnh giới của nó để hiểu được những bí quyết bên trong. Tuy tôi có tâm hướng đạo, nhưng không có minh sư chỉ điểm cho con đường sáng, cho nên đến nay vẫn mơ mơ hồ hồ.

Tôi từng đọc cuốn sách “Vạn pháp quy tông”, trong sách có nói đến kiếm quyết, lôi ấn, chân đạp Khôi cang Thân văn, lôi văn, bước cang quyết, nhưng tôi lại không biết phương pháp sử dụng của chúng thế nào. Tôi cũng học bát quái chiêm bốc, động tĩnh thể dụng, nhưng lại không cách nào giải thích được hàm ý và thời gian ứng với lành dữ của quẻ đã bốc được, đồng thời tôi cũng không thể từ trong quẻ đó mà nhìn ra được việc quá khứ và tương lai. Xin ngài gợi ý cho tôi phương pháp chính yếu có được không? Người không ở trong Đạo thật sự không cách nào học được kiến thức ở trong Đạo. Tôi từng ở trong một tiệm sách cũ mua được một cuốn “Vấn Đạo sơ tri” (quyển hạ), có đề cập đến pháp phụng thỉnh tổ sư cho yết kiến của Thủy Tổ, thế là hàng năm vào ngày mồng một tháng ba âm lịch tôi lại tưởng tượng có thể yết kiến một lần, tôi dùng tâm linh thanh tịnh suy nghĩ, xuyên thủng huyền môn, thầm cầu nguyện: “Huyền môn đệ tử, kính cầu Thủy Tổ, ban cho Huyền môn linh khí, xin được yết kiến Thủy Tổ.” Như vậy là có thể mời Thủy Tổ từ bi, nhìn thấy Huyền môn, yết kiến Thủy Tổ, có được linh khí. Còn bình thường xin yết kiến tổ sư (Đạo tổ) thì dùng tâm linh hạ động và tiền động, kêu gọi Khí Vũ Tĩnh Thủ Thần Cung và khấn thầm: “Đệ tử Côn Lôn vì có việc nên thỉnh yết kiến tổ sư, kính mong tổ sư từ bi chỉ thị.” Nếu chuyên tâm thành ý thì có thể có được chỉ thị của tổ sư. Từ những lời ở trên, xin yết kiến tổ sư buộc phải là đệ tử Huyền môn hoặc đệ tử Côn Lôn mới có thể yết kiến phải không? Cuốn sách đó còn nói quan khiếu chủ yếu trên cơ thể người rốt cuộc xoay tròn thế nào. Những điều trên đây đều là những bí ẩn mà tôi không thể nào hiểu được.

Tôi muốn bái ngài làm thầy để học hỏi kỹ năng, không biết ngài có muốn tiếp nhận đệ tử này không? Sinh thần của tôi là ngày X tháng 12 năm Giáp Thân.

🌟

Độc giả gửi đến cho tôi rất nhiều những lá thư giống như thế này, thứ nhất là muốn được làm học trò của tôi, thứ hai chính là thể hiện họ hết sức hứng thú đối với Đạo pháp, nhưng tiếc là chẳng có cánh cửa nào để bước vào. Giống như pháp yết kiến tổ sư, không hẳn nhất định phải là đệ tử Côn Lôn hoặc đệ tử Huyền môn, chỉ cần một lòng hướng đạo thì chính là người trong môn Đạo rồi. Sau đó theo nghi thức Đạo giáo mà chính thức nhập môn là được. Đạo gia của Trung Quốc lấy Côn Lôn làm ngọn núi chủ, tức là tịnh thổ của tổ sư Nguyên Thủy Thiên Tôn. Còn phái Võ Đang là do Trương Tam Phong sáng lập, cũng là tịnh thổ của tổ sư Đạo gia Tam Thanh. Sư phụ Đạo gia của tác giả là Thanh Chân Đạo Trưởng, xuất thân của ngài là Đạo quán ở núi Thanh Thành, sau khi tới Đài Loan thì ngài ẩn cư tại núi Liên Đầu, chẳng hề bước chân ra giang hồ, thanh tịnh vô vi. Sau khi ngài mọc cánh thành tiên thì được xếp là Địa Tiên, hiện đã chọn một ngọn núi nổi tiếng khác để tu tâm pháp thượng thừa rồi. Tôi kế thừa giáo huấn của tổ mạch phái Thanh Thành, nên cũng tự cho mình mang danh phận của dòng Tam Thanh, nhưng nhân duyên của tôi khác cho nên tôi lại quy về Phật môn, đây cũng chính là nhân duyên của tôi, không phải là nỗ lực mà có thể cưỡng ép được.

Sau này nếu tôi có nơi thích hợp, tôi chắc chắn sẽ công khai toàn bộ những gì mình đã học được với đời, chỉ là trước mắt việc tôi thu nhận đồ đệ vẫn còn quá sớm, thời cơ chưa đến, nhiệm vụ hoằng pháp chưa tới, tôi vẫn mới chỉ đang náu mình trong thời gian khảo nghiệm tâm linh mà thôi. Nếu có nhân sĩ có đạo tâm, sau này tìm tôi, chỉ cần có duyên, nhất định thành tựu Tiên Phật Đạo tông.

Còn về chân đạp Khôi cang, lôi ấn, kiếm quyết, kháp chỉ tâm chú, những cái này buộc phải chọn người để truyền thụ, tuy là thuật hữu hình nhưng về phương diện lễ nghi không thể không thận trọng. Đây chính là phép tắc giữa trời đất, không thể qua loa. Bởi vì có quá nhiều người gửi thư đến nên tôi đặc biệt dùng chương sách này để trình bày một chút.

25. Tự bạch của thiếu nữ

Có một cô gái trẻ tuổi, khuôn mặt tròn trịa, mặc áo sơ mi hoa màu trắng, váy quây màu xanh lá mạ, cô ấy thỉnh tôi đoán mệnh, trên tờ giấy ghi là 19 tuổi. Nói ra cũng kỳ lạ, khi tôi nhắm mắt lại, không ngờ nhìn thấy thần linh tại không trung viết năm chữ lớn, năm chữ đó phát sáng lấp lánh, đó là: “Đã biết việc kiếp trước.” Tôi quay đầu lại nói với cô ấy: “Cô đã biết việc kiếp trước rồi, đúng không?” Cô gái đó trầm ngâm một lúc rồi gật đầu, nói: “Đoán chuẩn quá, đúng vậy.”

Lần này tới lượt tôi cảm thấy kỳ quái, người bình thường đối với việc quá khứ đa phần là không biết, làm sao cô gái này có thể biết được chứ? Tôi tò mò hỏi cô ấy, và rồi cô ấy kể ra một kỳ ngộ đặc biệt khiến người ta khó tin. Cô gái này họ Giản, tên là Như Ngọc. Câu chuyện của cô ấy như sau:

Đó là khoảng 5 năm trước, cô Giản mới 14 tuổi, có thể nói là ở cái tuổi vừa mới hiểu chuyện một chút, cô ấy không thể nhớ được chuyện kiếp trước, chỉ là thường xuyên có một giấc mơ kỳ quái. Giấc mơ này thường xuyên hiện đi hiện lại trong giấc ngủ, cảnh trong mơ không thay đổi, nhân vật không thay đổi, hoàn cảnh cũng không thay đổi. Cô ấy mơ thấy mình mơ mơ hồ hồ đi xuyên qua một khu rừng rậm, bên ngoài khu rừng có một con đường gạch đỏ, phía cuối con đường gạch có một nông trang. Một phụ nữ già vẫy tay với cô, người phụ nữ đó rất hiền từ, quay về phía cô và gọi “Hải Phượng”, cô ấy cũng tự nhiên đáp lại, rồi đi vào trong nhà. Trên cái bàn ở trong phòng khách có bày biện ngay ngắn ba bát chè đậu đỏ, người phụ nữ già bảo cô ăn, người phụ nữ già nói với cô ấy rất nhiều chuyện, cô Giản không nghe rõ được câu nào, nhưng cô ấy biết là người phụ nữ già gọi cô là Hải Phượng.

Ăn xong bát chè đậu đỏ, cô ấy đứng dậy, thân thể dường như bay lên nhẹ lâng lâng, đi trên con đường gạch đỏ, từng cảnh vật dường như đều quen thuộc. Cô ấy đi vào rừng rậm, rồi sau đó tỉnh dậy. Giấc mơ này luôn luôn như vậy, có khi có khi một tháng hai lần mơ thấy cảnh tượng ấy, nhiều nhất là năm lần, ít nhất cũng là một lần. Cô ấy kể với bố mẹ và bạn bè, mọi người cười cô ấy là thần kinh có vấn đề.

Hải Phượng là ai? Người phụ nữ già là ai? Nông trang với con đường gạch đỏ, thật sự có nơi này không? Khu rừng ở chỗ nào? Chè đậu đỏ là như thế nào? Những điều này đều khiến cô Giản nghĩ mãi mà không hiểu. Giấc mơ giống thế này có lẽ người khác cũng từng có, nhưng mà lần nào cũng giống hệt nhau thì quá kỳ lạ. Cô ấy liên tục có giấc mơ này cho đến khi 17 tuổi, cô Giản đã là học sinh cấp ba năm nhất, dáng người xinh xắn, khuôn mặt tròn trịa.

Có một buổi tối, cô ấy nhắm mắt lại thì nhìn thấy một người phụ nữ ngồi bên giường, người phụ nữ đó chính là người phụ nữ già thường xuyên mời cô ăn bát chè đậu đỏ trong giấc mơ, người phụ nữ già đó khóc với Như Ngọc rằng: “Hải Phượng, mẹ không thể chăm sóc con được lâu nữa, con phải tự chăm sóc mình cho tốt, mẹ đi xa rồi, mẹ đi xa rồi, Hải Phượng! Hải Phượng! Hải Phượng ơi!” Cô ấy bị người phụ nữ già khóc lóc thảm thương mà kinh hoàng tỉnh dậy. Nói ra kể cũng lạ, kể từ sau khi có giấc mơ này, giấc mơ kỳ lạ kia không xuất hiện lại nữa, cô ấy đã trở thành người không còn mơ thấy giấc mơ lạ nữa.

Giả như câu chuyện đến đây kết thúc thì câu chuyện của cô Giản Như Ngọc cũng không có gì mới mẻ, nằm mơ thì có gì là ghê gớm đáng để ngạc nhiên đâu. Thế nhưng đã xảy ra một sự việc trùng hợp. Kỳ nghỉ xuân, trường học của cô ấy đã đi du lịch ba ngày, điểm đến là công viên Khẩn Đinh ở miền nam Đài Loan. Cô ấy đi loanh quanh trong công viên, đột nhiên nhìn thấy một con đường gạch đỏ vô cùng quen thuộc, đi đến con đường gạch đỏ thì nhìn thấy nông trang ở trong giấc mơ hiện lên ngay trước mắt. Cửa không đóng, cô ấy sải bước đi vào, phòng khách không có người, trên bàn thờ trong đại sảnh có bày bức ảnh linh vị của một người phụ nữ già. Cô ấy hét lớn một tiếng, tiếng kêu đầy kinh hoàng, thì ra người phụ nữ già trong bức ảnh đó chính là người phụ nữ già trong giấc mơ của cô!

Tiếng kêu thất thanh của Giản Như Ngọc đã đánh thức một người già đang ngủ trưa. Người già hỏi cô: ”Có việc gì vậy?” Cô chợt có linh tính liền nói: “Tôi tìm Hải Phượng.” ”Hải Phượng à? Hải Phượng đã qua đời 19 năm rồi, chắc cũng phải 20 năm rồi, nhưng mẹ của Hải Phượng thì mới qua đời 3 tháng trước thôi. Mẹ của Hải Phượng sớm tối đều nhớ đến Hải Phượng, mồng Một ngày Rằm hàng tháng đều nhất định phải nấu chè đậu đỏ cúng cho nó, con bé Hải Phượng này thích nhất là ăn chè đậu đỏ đó! Ôi chao! Nếu Hải Phượng vẫn còn sống thì chắc là cũng hơn 30 tuổi rồi.” Người già nói: “Sao cháu lại quen Hải Phượng?” - Người già ngờ vực.

“Cháu…” - Giản Như Ngọc không biết phải nói thế nào mới được: “Cháu chính là Hải Phượng.” Nói xong câu này, Như Ngọc chạy nhanh ra khỏi nông trang, chạy như bay trên con đường gạch đỏ. Khi khu rừng rậm quen thuộc hiện lên ở trước mặt, cô ấy đã hiểu ra, đây chính là đời người, Hải Phượng là kiếp trước của cô ấy, nhưng mà cô ấy không bao giờ có thể tưởng tượng được kiếp trước cô ấy đã chết như thế nào.

Câu chuyện của cô Giản được kể xong, người nghe đều lộ vẻ xúc động, chỉ có tôi không cảm thấy ngạc nhiên, bởi vì đời người luân hồi, tôi đã biết từ lâu rồi!

Sông chảy mãi cũng cạn Lửa cháy lâu cũng tắt Mặt trời mọc rồi lặn Trăng tròn rồi lại khuyết Người vinh hoa tôn quý Cũng vô thường thế thôi.

Luân hồi của đời người há là giả sao? Linh hồn há là giả sao? Trong cõi vô hình đã có định số, con người không làm việc thiện thì còn chờ đến khi nào? Con người không tu hành thì chờ tới khi nào đây?

26. Khởi linh nằm ở nhất tâm, một niệm không khởi

Tôi viết “Mạn đàm linh cơ thần toán”, một câu mà tôi muốn nhấn mạnh là: “Duy có người hoạt linh mới có thể cảm ứng được linh hồn của ngoại giới, cũng tức là người có hoạt linh mới có thể dùng linh để linh xúc, linh thông, linh nhãn, linh nhĩ mà đi cảm ứng linh hồn của ngoại giới.” Nếu không phải là hoạt linh mà mơ mộng hão huyền là nhìn thấy được, nghe thấy được, cảm giác được, đó đúng là người mù sờ voi, duyên cây mà đòi cá, căn bản đây là chuyện không thể nào có.

Khi tôi đề xuất các nhà khoa học nghiên cứu linh giới, không cần dùng bất kì dụng cụ thí nghiệm nào, dùng chính mình làm thiết bị là được rồi. Trước tiên hãy khởi động thần thức vốn có của chính mình, sau khi tiến vào trạng thái hoạt linh mới có thể nắm bắt và thâm nhập để nghiên cứu tìm tòi về thế giới vô hình của linh hồn, học vấn ở trong đó rất rộng lớn đó! Đâu phải đơn giản dùng hai chữ “mê tín” là có thể gạt bỏ được.

Tôi tin rằng trong tương lai không xa sẽ có rất nhiều người tin vào những kiến giải của tôi. Phương Tây tuy có tổ chức nghiên cứu về linh hồn, nhưng phương Đông từ mấy nghìn năm trước đã có lĩnh vực và thành tựu trên phương diện này rồi, nó là cả một thế giới tinh thần ẩn tàng và mang nhiều thần bí, còn nghiên cứu linh học của phương Tây chỉ là bước khởi đầu mà thôi.

Hôm nay tôi đưa ra kiến giải về linh học của mình, thuật pháp cổ xưa của nước ta [Trung Quốc], sự siêu nhiên của linh lực niệm lực, sẽ khiến cho nhân loại kinh ngạc. Thật ra những điều này đều là hiện tượng có tồn tại, chỉ là con người không đủ khả năng để hiểu, chỉ dựa vào mỗi tri thức nghèo nàn của nhân loại để đi giải thích, thì khó trách linh học của chúng ta không có cách nào đẩy mạnh và tiến bộ được.

Tôi nói, khởi linh thật sự rất quan trọng, người bình thường muốn học hoạt linh thì thực sự không hề khó khăn, hoàn toàn dựa vào niệm lực của chính mình để thúc đẩy thì không hẳn là không có khả năng. Tuy nhiên, quan trọng nhất nằm ở nhất tâm bất loạn, một niệm không khởi, thân ở đó như thân không ở đó, niệm ở đó như niệm không ở đó, nói không chừng, ở trong cõi vô hình này sẽ đạt được sự tương trợ có tính bước ngoặt chuyển tiếp, trong sát-na sẽ phá vỡ được tất cả cửa ải khó khăn, thế rồi một con đường lớn quang minh xán lạn hiện lên trước mắt, theo thần thức của mình mà đi, một tiếng sấm nổ vang rền kinh thiên động địa, đột nhiên ngộ ra chân tướng giữa trời đất.

Hôm nay nếu có người muốn biết chân linh của mình, tôi dạy mọi người phương pháp như sau:

Thứ nhất, trước tiên chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, thư phòng cũng được, miễn là căn phòng không bị người ngoài quấy rầy, một chiếc ghế dùng để ngồi thay cho ngồi thiền (ngồi kiết già), người bình thường phải ngồi kiết già thì tương đối khó, ngồi khoanh một chân hoặc khoanh hai chân đều ngồi không được lâu. Người tin Phật hoặc không tin Phật đều có thể thắp một nén hương, ngồi trong thời gian một nén hương, hai tay chắp lại, đặt tự nhiên ở trước ngực. Người tin Cơ Đốc hoặc Thiên Chúa có thể không cần thắp hương, người tin Phật thì niệm bốn chữ A Di Đà Phật, người tin Đạo thì niệm bốn chữ Diêu Trì Kim Mẫu, người tin Chúa Jesus thì niệm Jesus Christ, tôn giáo khác cứ thế suy ra. Nhưng cứ cách 5 phút thì phải niệm thêm “giúp chân linh tôi tái hiện”, “mau giúp chân linh tôi tái hiện”. (Có một số người không cần phải niệm “giúp chân linh tôi tái hiện” cũng được.)

Thứ hai, bởi linh tính của mỗi cá nhân khác nhau, thời gian dài ngắn cũng khác nhau, cho nên sự thức tỉnh của linh cũng sẽ dài ngắn khác nhau. Có một số người ngồi một lần đã thành công, nhưng có một số người nếu không ngồi quá ba lần thì không được. Nếu có người tu Đạo tương trợ thì tỉ suất thành công sẽ như làm chơi ăn thật, nhưng không được nản chí, có người phụ nữ hơn 40 tuổi, ngồi liên tục bảy lần, đã chứng được thần thông thiên nhãn, hiệu quả thật sự khó tưởng tượng.

Thứ ba, đạo lý khởi linh và đạo lý ngồi thiền có sự liên thông với nhau, hoàn toàn nói về một chữ tâm, “nhất tâm bất loạn, mọi pháp vô tính, vì vô tính nên đều thành Phật”. Đừng thấy việc ngồi yên như thế là quá đơn giản, ngồi yên lặng như vậy, lặng lẽ phòng thủ Thần cung, đèn tâm tỏa sáng, có được mấy người có thể đạt đến cảnh giới này? Đại bộ phận con người đều bận rộn suốt cả cuộc đời, khi nào mới có thể tĩnh tâm lại để ngồi xuống được nửa tiếng đồng hồ? Người có thể hoàn toàn tĩnh tâm ngồi xuống nửa tiếng đồng hồ, người ấy chắc chắn không phải là phàm phu đâu!

Thứ tư, xin người học tập khởi linh tuyệt đối ghi nhớ, khi ánh sáng phổ chiếu cũng tức là khi tâm mình hoàn toàn tịch diệt bất động, ta là ta tự do tự tại, hết thảy mọi thứ đều không khởi lên, ta chính là người tổng nắm giữ tâm tính.

Thứ năm, xin người học tập chú ý, phàm tự tâm sáng tỏ, tính hóa nghìn vạn, tay chân tự nhiên sẽ cử động tự do, tay múa may, chân bước đi, tôi không nói rõ ra, để tự mình trải nghiệm cái linh lực trỗi dậy một cách tự nhiên trong thân thể chính mình đi!

Sức mạnh của khởi linh đến từ chính mình, nhưng có ngại gì việc mượn lực bên ngoài trợ giúp. Sau khi khởi linh đến luyện linh thành công là một con đường dài đằng đẵng, đây chính là khởi linh thì dễ nhưng luyện linh thì khó. Tu đến thời khắc sau cùng chỉ nghe thấy tiếng sấm nổ vang rền, bản thân ngồi xếp bằng tĩnh tọa, vận linh đến chỗ thiên linh xuất khiếu, sấm nổ và linh lực của chính mình tiếp ứng lẫn nhau, đây chính là tam quang tích hiện, là lúc thoát xác bay lên rồi. Nhục thể mặc dù vẫn ngồi trong ngôi nhà tranh trên mặt đất, nhưng linh thì đã trở về ẩn náu trong biển lớn hư không, điều này mới tráng lệ vĩ đại làm sao, chân lý không sinh không diệt từ đây chứng đắc.

Phần lớn người đọc “Mạn đàm linh cơ thần toán” ai ai cũng tò mò tìm tôi muốn chứng thực thật giả, tôi nói với họ: “Không cần phải đi chứng thực, hãy trở về nhà học khởi linh đi! Tự anh hãy đi trải nghiệm, khi học được rồi thì sẽ tin lời tôi không phải là giả, như thế chính là cách chứng minh tốt nhất.”

(Bản văn này đã được đăng trong cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán” (quyển 1), để giúp độc giả có thể biết rộng rãi về khởi linh, tôi đặc biệt đăng lại ở đây. Khởi linh đích thực là một việc đơn giản và thần kỳ, người ứng nghiệm không phải là thiểu số, mà có tới hơn trăm hơn nghìn người. Khởi linh có thể khỏe thân, cũng là một con đường tắt căn bản để thành công tu luyện đắc đạo, thuộc vào một trong các pháp tu luyện của phái Đan Đỉnh của Đạo gia.)

27. Biểu hiện của người tu linh

Tu hành thành Phật có thể thực hiện được nhờ tu linh, tu hành thành Phật không chỉ có một con đường mà thôi, mà là nghìn vạn pháp môn đều có thể tu. Chư Phật Bồ Tát tuyên thuyết tám vạn bốn nghìn pháp, mỗi một pháp môn đều có thành tựu, mỗi vị Thập địa Bồ Tát cũng đều có cảnh địa của mình. Tác giả sáng lập ra pháp môn tu linh, là pháp môn trân quý khó có được trong thiên hạ, trước tôi không có người nào nói ra, sau tôi sẽ có người tuyên dương, người tuyên dương này cũng chính là các môn sinh của tôi.

Có người hỏi tôi: “Thưa thầy, người tu linh có giới không?” ”Có.” ”Tu trì ra sao?” ”Kinh Hoa Nghiêm có nói: Người an trú trong mười pháp khiến tất cả chư Phật hoan hỷ. Mười pháp tức là: Một, an trú không buông thả. Hai, an trú trong vô sinh nhẫn. Ba, an trú trong đại từ. Bốn, an trú trong đại bi. Năm, an trú trong các ba la mật. Sáu, an trú trong mọi hành. Bảy, an trú trong đại nguyện. Tám, an trú trong phương tiện thiện xảo. Chín, an trú trong sức mạnh dũng mãnh. Mười, an trú trong trí huệ.

Vì sao vậy? Như Lai tôn trọng pháp như người con có hiếu tôn trọng cha mẹ, thuận theo sắc diện, tâm không rời bỏ. Như Lai từ trong tu hành mà tới, pháp tu hành đó là cúng dường phụng dưỡng. Như Lai xuất thế cũng vì lợi ích chúng sinh. Người không có tâm từ bi không thể làm lợi ích [cho chúng sinh]. Người không tu tập thiện pháp, không thể làm lợi ích [cho chúng sinh]. Người buông xả sự nghiệp, không thể làm lợi ích [cho chúng sinh]. Người làm không như nói, không thể làm lợi ích [cho chúng sinh]. Người có tâm mệt mỏi chán nản, không thể làm phụng dưỡng [cha mẹ hay chúng sinh]. Người bỏ đại bồ đề tâm, không làm thể lợi ích [cho chúng sinh].”

“Nếu không dựa vào những điều này để tu hành thì sao?” ”Tuyệt đối không thể thành Phật.” - Tôi nói. ”Nếu có bất kì điều gì bất kính với thầy thì sao?” ”Đại sư cũng giống như Như Lai vô số kiếp chịu khó chịu khổ vì chúng sinh, sao thế gian lại không biết báo ơn đại sư?”

Là một hành giả tu linh, đời sống không thể phóng túng, không thể thu về cái tâm vượn ý mã thì không thể tu hành. Người tu linh phàm việc gì cũng có thể nhẫn nhịn, không tùy ý khởi lên những cơn nóng giận vô cớ. Người tu linh có tâm đại từ bi, thường giúp đỡ người khác làm niềm vui, xả thân vì người khác. Người tu linh phải tu hành sáu ba la mật. Người tu linh phải thận trọng mọi cử chỉ để không tạo nghiệp xấu. Người tu linh phải phát đại nguyện, nguyện thành Phật, nguyện độ chúng sinh. Người tu linh nói phương thiện thiện xảo, không bao giờ được cưỡng ép. Người tu linh vĩnh viễn không được lười biếng trong việc tu luyện linh, dũng mãnh tinh tấn, không nửa đường lùi bước. Người tu linh phải tu tập viên mãn về trí huệ, mưu cầu trí huệ, thành bậc trí giả viên mãn vô ngại.

Việc tu hành nhìn thì đơn giản, thật ra không dễ, nhìn thì dễ, thực tế khó khăn trùng trùng, buông bỏ tất cả gánh nặng, đặt tất cả mọi việc tu linh lên vai, sơ ý không thận trọng thì sẽ tạo vô lượng nghiệp tội.

“Vì sao nhất định phải tu hành?” - Có người từng hỏi tôi. ”Thân người quý báu, quý ở chỗ biết tu. Tu hành cứu đời là hạng người số một, là việc đại sự số một trong cuộc đời. Kể từ khi Như Lai đắc đạo thường vì chúng sinh mà diễn giải ý nghĩa của bốn tướng trong mọi pháp. Khổ nghĩa, không nghĩa, vô thường, vô ngã, không lớn, không nhỏ, không sinh không diệt, một tướng không tướng, pháp tính pháp tướng, cái không tịch vốn có, không đến không đi, không sinh ra và không không có. Nhân gian này vốn là như vậy. Cho nên làm bất kì việc gì cũng không to lớn bằng tu hành.” - Tôi nói.

“Vì việc tu hành này mà tôi đã đi khắp miền sông núi, thăm viếng các nhân vật đứng đầu của các tôn giáo, tìm kiếm hỏi thăm người có thể hướng dẫn cho tôi. Từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, tôi có vô số bạn đạo, tôi giống như dị vật ở ngoài vũ trụ, thế nhưng cuối cùng tôi đã cảm nhận được, thì ra tu hành đều ở tại chính mình, không thể dựa dẫm vào người bên cạnh, tu hành đều là việc của chính mình, thuần túy là việc của chính mình. Chư Phật Bồ Tát tuy là sư phụ của ta, nhưng ngài chỉ ra con đường sáng, còn chính mình vẫn là người phải đi. Nhất là người tu linh, không thể dừng tinh tấn trong một lúc, phải khổ tu ba năm Trúc cơ, rồi phối hợp với chín năm Cửu chuyển. Năm xưa Tổ sư Đạt Ma cũng tu luyện như vậy mới thành công đó.”

“Tổ sư Đạt Ma cũng là phái Đan Đỉnh ư?” ”Chính là phái Đan Đỉnh, công phu quay mặt vào tường chín năm chính xác là thần thông cửu chuyển dốc hết sức vào linh niệm.”

“Nguyên lý của tu linh là gì?” ”Biến linh chết vốn có của nhân loại thành linh sống, khiến linh sống hình thành nên một dạng sức mạnh của linh hồn, sự thăm dò của linh lực có thể biết thiên văn, địa lý, nhân sự, thu hoạch được huyền cơ chí cao vô thượng, linh lực có thể thần toán tương lai, đắc chứng sáu đại thần thông, nhờ linh lực rèn luyện thần thức trường sinh bất tử của mình, tu ngoại công kiến lập hào quang bất diệt, tu nội công thành tựu thần thức sáng ngời ngời, từ trí huệ cao siêu phá tan chướng ngại lục tặc của thân người, phá tan nghiệp chướng từ khởi thủy đến nay, tẩy trần lau gương, minh tâm kiến tính, tự chủ tự tại mà thành thầy của trời người, thành tựu Như Lai Phật Đà chính giác vô thượng đẳng. Từ đó phá vỡ thể xác của thân người này, phi thân vào thẳng thế giới vũ trụ, không sinh không diệt và chấm dứt sinh tử, trở thành bậc tôn giả đại giác vô tư vô lự. Phương pháp tu linh này chính là diệu pháp đại thừa của tâm vô ngại đà-la-ni.”

28. Miếu ma

Phần lớn mọi người đều cho rằng miếu chắc chắn là nơi mà thần minh sống, thế nhưng tôi thì lại cho rằng không hẳn là như vậy. Các miếu hiện tại có đến một phần ba là miếu ma, trong đó bao gồm cả chùa Phật, các quán đường, v.v… Những hòa thượng xuất gia và đạo sĩ này vì sao lại cứ tranh nhau bái quỷ? Bởi vì họ không nhìn thấy, không nghe thấy, cứ luôn mơ mơ hồ hồ như vậy, cho rằng tượng Phật chính là Phật, tượng thần chính là thần, không biết rằng trong miếu từ lâu đã trở thành thế giới của ma quỷ, còn linh quang của Phật Tổ thì đã trở thành người xa lạ mất rồi!

Linh khí của ma phần lớn thuộc về khí âm trọc tương đối nặng. Cũng có người đạo hạnh rất cao, bởi vì có liên hệ với địa lý và linh hút máu tanh nên trở thành một linh lực cuồn cuộn, khối linh lực này thường có thể chiếm núi xưng vua, chiếm miếu xưng thần, nếu làm việc chính thì cũng không sao cả, nếu làm việc bất chính thì điên đảo càn khôn, làm xằng làm bậy, linh ma khoe mẽ thứ linh khí tạm thời của mình mà phạm vào những tội ác tày trời.

Tôi biết ở Đài Loan có một câu chuyện gọi là “Ngũ Vương chiến linh đồng”, sự việc này cũng có thật, năm vị tướng quân của Ngũ Vương Miếu cũng là từ thân trung ấm thoát xác xưng thần. Còn ở bên cạnh Ngũ Vương Miếu có một ngộ mộ hoang của thiếu niên, ngôi mộ này được trời ưu ái, ở gần huyệt ngô công bách túc [huyệt con rết nghìn chân]. Nếu ở vào đúng huyệt ngô công bách túc này thì sẽ sinh ra nghìn mắt nghìn tay, trong huyệt có một viên minh châu, có thể làm ấn ngọc. Từ đó, linh hồn của thiếu niên này đã tăng trưởng linh khí, trên người hiện nghìn tay nghìn mắt, nắm giữ ấn ngọc, linh thông cũng không hề tầm thường. Năm vị tướng quân thấy tình hình ấy thì thất kinh, thế là phái âm bình vây quét, đánh giết đến mức người ngã ngựa đổ. Nhưng linh đồng kia có thể hiện lên nghìn vạn linh, đánh nhau bất phân thắng bại với năm vị tướng quân. Sau đó nghe nói Quan Thế Âm Bồ Tát ra mặt, dẹp yên binh khí của Ngũ Vương tướng quân và linh đồng kia, nhường phần đất ở bên cạnh miếu Ngũ Vương cho linh đồng, linh đồng tự phong là Vạn Thiện Gia, tổng quản các linh của cõi âm. Hiện tại Ngũ Vương của miếu Ngũ Vương tuy là uy linh hiển hách, nhưng linh lực của Vạn Thiện Gia cũng không thua kém gì, hương hỏa đều thịnh vượng, phân linh của Vạn Thiện Gia có ở khắp đất nước. Muốn nghênh thỉnh một bức tượng kim thân của Vạn Thiện Gia, mỗi tháng tiền thuê cũng mấy nghìn đồng đó! Bạn nói xem có kỳ quái không?

Có một thầy bói họ Lý chuyên xem tướng mệnh kể với tôi, trên đỉnh của một ngọn núi kia có xây một ngôi miếu nguy nga lộng lẫy, nghe nói vô cùng thần kỳ, ông ấy muốn tôi đi xem thử. Tôi rất có hứng thú đối với miếu, vì thế tôi một mình đi tới đó. Ngôi miếu này tương đối to, đối diện với một cái hố sâu cực lớn, từ xa có thể nhìn thấy núi Đại Đỗ và núi Bát Quái ở Chương Hóa, phong cảnh tuyệt đẹp. Sau núi là một khu nghĩa địa, chủ thần của miếu này chính là Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế, người đời gọi là Thượng Đế Công. Trong miếu thờ Huyền Thiên Thượng Đế, điện phía sau thờ tam thế chư Phật, điện thờ phụ thờ Thánh nhân Khổng Tử và Địa Tạng Vương, v.v… Người đến bái thần tương đối đông, tôi chen trong biển người.

Ở trong miếu đình, tôi nhìn thấy một cái giếng phong cách cổ, thành giếng có điêu khắc hai chữ “Giếng Vàng”. Tôi thử nhìn vào bên trong, trong giếng có nước. Đúng lúc tôi không chú ý thì bỗng nhìn thấy trong nước có trăm linh hồn đang nhảy múa, thật ra là trăm con ma đang nhảy múa. Tôi thấy vậy thì rất lấy làm lạ, ở trong ngôi miếu lớn này, ở bên dưới giếng không ngờ lại có giấu trăm ma quỷ nhảy múa. Tôi nghĩ mãi mà không hiểu, đúng lúc tôi đang trầm ngâm thì từ trong giếng bay ra một khối linh khí lạnh buốt. Một phụ nữ trung niên xinh đẹp mặc trang phục cổ đứng ở miệng giếng, người nhìn như còn sống, người bên cạnh không thể nhìn thấy, bà ấy nhìn chăm chú vào tôi.

“Vì sao tiên sinh đến đây?” ”Đi bái Thượng Đế nên đến đây.” ”Ngài có biết lai lịch của chúng tôi không?” - Người phụ nữ đó có đôi mắt trong veo đầy sợ hãi. ”Thật sự không biết, xin hỏi phu nhân là ai?” ”Tôi là Chú Sinh Nương Nương của ngôi miếu này. Tiên sinh biết chúng tôi chính là âm linh mượn địa khí mà thác sinh, xin đừng tiết lộ về chỗ của chúng tôi ở trong miếu này. Thượng Đế Công chính là cha tôi, Địa Tạng Vương chính là con tôi, các thần khác thì không phải là người thân thích thì cũng là người quen, chúng tôi nhờ vào thiện linh lấy việc giúp người làm niềm vui, mong tiên sinh đừng lấy làm lạ.”

“Phu nhân biết tôi là ai à?” - Tôi hỏi bà ấy, cảm thấy rất kỳ quái. ”Biết, tiên sinh đã viết ra một cuốn sách tâm linh, trên trời dưới đất khắp nơi đều đồn đại, chúng tôi tuy là hạng ngu đần nhưng cũng biết tiên sinh đại đức, cuốn sách này đúng là cực kì hiếm thấy, có thể độ trời người. Ngài đến thăm miếu này, hai vị tướng quân gác cổng đã thông báo cho chúng tôi từ lâu. Chúng tôi bí mật tụ tập hết ở trong giếng, đây cũng chính là nơi chôn toàn bộ người nhà của chúng tôi. Vì Huyền Thiên Thượng Đế từng tới đây, cho nên mượn danh của Thượng Đế để cứu đời giúp người.” ”Như vậy rất tốt, rất tốt.” - Tôi chắp tay.

“Chúng tôi tuy là loài ma, nhưng cũng muốn tu hành để được đứng trong hàng ngũ đan thiên, ma tuy là ma, âm khí sâu nặng, nhưng nếu tu ngoại công cũng có thể siêu thoát nhập thiên giới. Ngọc Đế thấy chúng tôi ngày thường không có lỗi lầm, tâm địa thuần thiện, phụng Vương Thiên Quân làm thần quân giám sát miếu này, cứ mồng Một và ngày Rằm hàng tháng đều hạ giáng, khảo sát ưu khuyết điểm, để sau này dùng vào việc phân cấp trong hàng ngũ tiên. Tiên sinh có thể viết vào trong sách, nhưng không được tiết lộ nơi ở của chúng tôi, thế nhân chỉ biết nhận giả là thật, thế nhưng những người từ ma nhập tiên cũng nhiều lắm, hơn nữa ma thực hành tu tập cao hơn con người đâu đâu cũng có!”

Tôi nghe xong thì cảm thấy cực kì hổ thẹn, thật sự, vì sao ngay cả ma cũng hiểu phải tu hành, mà trái lại con người thì không bằng ma. Tôi chắp tay lạy người phụ nữ xinh đẹp, cúi mình lui đi. Khi ra khỏi miếu, tôi nhìn thấy hai vị âm tướng gác cổng tiễn tôi xuống núi. Tôi nhìn ngôi miếu vàng son lộng lẫy thấy cực kì cảm khái. Những miếu ma mà tôi đã từng thấy rất nhiều, đương nhiên cũng có những miếu ma không làm việc tốt, những ma quỷ đó chiếm miếu làm vua, ăn uống chơi bời, thế nhưng họ đã quên mất, sau này khi thời hạn đã đến, họ cũng sẽ đọa vào trong địa ngục, vĩnh viễn không có ngày dừng lại.

(Tác giả nói rõ: Có một số người tự lập Phật đường riêng, nếu hành vi là công chính thì nên nhận sự tôn kính của người đời. Nhưng nếu mượn Thần Phật để vơ vét của cải, giả danh cải vận giải ách, làm xằng làm bậy, lừa gạt người dân lương thiện, dâm ô phụ nữ, thì hạng thần côn này nên gọi là quỷ côn chứ chẳng phải là thần côn. Chữ “thần” này cao quý và vĩ đại biết bao, người làm xằng làm bậy như vậy, thần sẽ dừng chân ở với họ sao? Những kẻ được phụng thỉnh tới, bên ngoài nhìn tưởng là thần, nhưng thật ra là ma quỷ, đây chính là bị quỷ ám. Ma quỷ tuy cũng có một ít sức mạnh linh thông, nhưng dễ làm xằng làm bậy, do đó người bái quỷ thì sẽ trở thành quỷ côn.)

29. Pháp môn Ngũ thừa và tu linh

Phật gia có pháp môn Ngũ thừa, đối với người tu linh như tôi rất quan trọng, Ngũ thừa này chính là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Cái gọi là “thừa” có ý nghĩa là cỗ xe. Việc tu hành của năm thừa này, tôi phải nói kĩ càng để cho độc giả nghe và hiểu được. Hễ bạn là một người tu linh thì buộc phải tu pháp môn Ngũ thừa, cầu đắc đạo vô thượng, nhằm chứng minh người tu linh không phải là theo bàng môn bội kinh phản đạo, mà chỉ là Phật môn và Linh môn cảm ứng tương hỗ tương thông với nhau mà thôi, có thể chứng Phật thiên, đắc Phật trí vô thượng.

Thứ nhất, pháp môn Nhân thừa — tức là tu năm giới, cái gọi là năm giới chính là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Đây là nền tảng cư xử và hành động của con người, cũng chính là năm phép tắc làm người xử thế mà Thánh nhân nói. Mỗi một người tu linh đều phải tu đến cảnh giới như vậy mới có thể xưng là con người. Tội sát sinh là cực nặng, sát sinh tức là không từ bi, phàm là vật có linh tính đều là thân phận của người tu đạo theo Linh môn, sao có thể làm tổn thương đồng môn chứ? Trộm cắp càng không được phép. Kẻ tà dâm buông thả dục vọng không phải người trong Linh môn của tôi, một vợ một chồng, kỷ cương phép tắc này không được đánh mất. Vọng ngữ càng không được. Còn người uống rượu đánh mất bản tính, một khi mất đi linh tính thì chính là địa ngục. Tu hành Nhân thừa này làm cơ sở làm người, không giữ năm giới sẽ đánh mất thân người, giữ được năm giới thì mãi mãi gìn giữ được sự tôn quý của Nhân thừa.

Thứ hai, pháp môn Thiên thừa — tức là tu mười điều thiện, Nhân thừa và Thiên thừa không ra khỏi tam giới, vẫn ở trong lục đạo, chịu luân hồi quả báo. Pháp môn Thiên thừa chính là lên trời làm thần, thần thánh ở trong giới hư không tự hình thành một thế giới, tự hình thành các pháp luân, hưởng thụ phúc trời, nhưng khi phúc trời hưởng hết thì vẫn đọa xuống nhân gian, cho nên Thiên thừa cũng không phải là tột cùng. Tuy không phải là tột cùng nhưng cũng là khóa trình mà người người phải tu, người tu linh không thể một bước lên trời được, mà càng phải tu tập mười điều thiện. Mười điều thiện này chính là: 1. Phóng sinh, 2. Bố thí, 3. Thanh tịnh hành vi, 4. Nói lời chân thực, 5. Không lươn lẹo, 6. Không nói lời ong bướm, 7. Không ác khẩu, 8. Không tham, 9. Không sân, 10. Không si. Có thể tu mười điều thiện này thì linh của người tu linh sẽ thanh tịnh, có thể nhập thẳng vào thiên giới mà không có một chút chướng ngại nào. Đến được thiên giới rồi thì lại tu Thanh Văn thừa thì cũng vẫn kịp, nếu đến được Thiên giới mà không tu hành, cho rằng đã đến điểm cuối, thế thì sai rồi. Hãy nhớ kĩ! Nhớ kĩ!

Thứ ba, pháp môn Thanh Văn — Thanh Văn chính là công phu tu tập bốn đế, sau khi đắc đạo thì chính là Thanh Văn, bốn đế này gọi là khổ - tập - diệt - đạo. Theo như tôi biết, công phu chân chính của thiền định này, Sắc giới thiên có mười tám cõi tứ thiền. Khi Sơ thiền, ngồi xếp bằng và điều hòa hơi thở, tâm đi theo hơi thở. Ở trong trạng thái trong sáng, mênh mông xa xăm này, dần dần nhập định sâu, đến một lúc nào đó, đôt nhiên nhận ra thân như mây ảnh, trong ngoài đều không, như thế là đã đạt đến bước Sơ thiền rồi. Sơ thiền có năm loại công đức, chính là giác chi, quán chi, hỷ chi, lạc chi, định chi. Sau đó sẽ là Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, rời khỏi Tứ thiền thì sẽ ra khỏi tam giới, đắc được nhân không, đây chính là quả vị Thanh Văn. Lý lẽ về khổ - tập - diệt - đạo này thật sự là chân thực không phải giả. Khổ - tập chính là nhân quả của thế gian, diệt - đạo chính là nhân quả của xuất thế gian. Khổ chính là khổ báo của lục đạo, thậm chí khi thăng lên các thiên giới thì vào lúc ngũ suy tướng hiện [năm tướng suy hoại của chư Thiên khi đã hưởng hết phúc ở cõi trời và chuẩn bị đi đầu thai] cũng có đau khổ. Pháp môn Thanh Văn tuy thuộc về pháp Nhân không của Tiểu thừa, nhưng cũng là pháp thoát khỏi con đường của tam giới, người tu tập linh thông không thể không biết. Duy nhất có một việc quan trọng nhất, đó là khi nhập vào Sơ thiền dễ gặp ma tướng nhất, phải phá ngũ âm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), năm mươi loại âm ma lần lượt phải phá trừ, nếu pháp được thì xem như là việc lớn đã thành, bằng không sẽ dễ bị ma làm cho phát điên.

Thứ tư, pháp môn Duyên Giác — pháp môn Duyên Giác tức là phương pháp tu pháp mười hai nhân duyên mà đắc đạo, bởi vì mười hai nhân duyên đều là nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh, nhân sinh hữu sinh, Thích Ca Phật Tổ từng quán tưởng mười hai nhân duyên mà ban đầu đắc được quả vị Duyên Giác. Thứ tự của mười hai nhân duyên này là: vô minh, hành, thức, sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Nếu độc giả muốn nghiên cứu về pháp mười hai nhân duyên, xin mời đọc cuốn “Giữa linh và tôi” do Văn Hóa Đại Đăng xuất bản, cuốn sách đó đã giải thích rất tường tận. Pháp môn Duyên Giác cao hơn pháp môn Thanh Văn, đây là một dạng công phu “giác phá”, pháp này là xem mười hai nhân duyên, ngộ ra chân lý ở trong đó, chân tâm thanh tịnh quang minh đến trạng thái bất động im lìm, đó là quét sạch tất cả chướng ngại, hiển hiện chân thực toàn bộ bản tính của tự ngã, hiểu rõ sắc tức là thân huyễn, nhập vào vũ trụ như như bất động. Nếu người tu linh đạt đến được trình độ này thì có thể tự mình vui mừng, từ đây mọi thứ đều viên dung, sống trường cửu trong an lạc.

Thứ năm, pháp môn Bồ Tát — chính là công phu tu lục đạo trong Phật gia. Thanh Văn, Duyên Giác nếu phát tâm bồ đề, cứu người cứu đời thì cũng ngang với quả vị Bồ Tát. Bồ Tát là một vị trí giả, còn gọi là bậc trí giả cứu thế. Bất kì người tu linh nào cũng đều phải ghi nhớ hành vi của Bồ Tát. Thứ nhất chính là bố thí. Bố thí có ba loại là thí tài, thí pháp, thí vô úy. Thứ hai chính là trì giới. Bồ Tát nhất định phải giữ giới luật, lấy giới làm thầy, nhìn chung Bồ Tát có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Tiếp nữa, cái thứ ba là tinh tấn, không thỏa mãn với hiện trạng mà thường nghĩ tinh tấn, chuyên tâm tịch tĩnh, vĩnh viễn ngăn chặn mọi vọng niệm để quy về huyễn vô. Thứ tư là nhẫn nhục, chịu đựng mọi đả kích chửi mắng của chúng sinh. Thứ năm là Bồ Tát tu đại đạo xuất thế gian. Thứ sáu là trí huệ, trí huệ thành Phật đạo vô thượng, thành tựu đạo quả phi phàm, đạt đến trình độ viên mãn vô khuyết.

Pháp môn Ngũ thừa này, về lý mà nói là theo từng cấp độ mà đi lên, cũng có nghĩa là trong quá khứ từng có người đã sử dụng rồi, đây là những kết tinh trí huệ mà người trước đã để lại. Đừng xem chúng có vẻ đơn giản, trong thế giới hiện tại của chúng ta, thế giới ác nhiều thiện ít, thử nghĩ xem, bất kì một phương pháp nào cũng đều nặng như tảng đá lớn đè lên thân, có thể thấy rằng, nói tu đạo khó bao nhiêu thì thực sự khó bấy nhiêu. Thế nhưng chúng ta không được sợ khó, càng khó thì càng có thể thu hoạch được quả ngọt, cho nên con người vẫn luôn hướng tới cái gọi là sáu ba la mật.

Chỉ cần là người hiểu về khởi linh, xem nhân duyên kiếp trước của họ có đại thiện căn hay không, Thần Thánh ắt sẽ lao nhanh tới trợ giúp. Linh lực đến từ chính mình, lại cộng thêm linh lực gia trì của chư Phật Bồ Tát của cõi trời, kết hợp cảm ứng lẫn nhau, khiến cho linh bình thường biến thành linh tính vĩ đại thuần khiết tịch nhiên nổi lên. Con người vẫn sống, Phật tính cũng sống, linh lực có thể lên trời xuống đất, ra vào cõi vô hình.

Nếu linh được vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt, có thể khiến các vấn đề và giá trị cuộc sống của chúng ta dễ giải quyết như dao sắc chẻ tre, trình độ sơ khởi nhất của linh thông cũng có thể hiểu được đồ thị vận mệnh của một cá nhân, có thể dự đoán tương lai, cầu lành tránh dữ, giảm thiểu đau khổ của nhân gian, lợi dụng linh trí để hiểu đạo lý lớn về Nhân Thiên viên đốn [viên mãn và nhanh chóng thành tựu Nhân thừa và Thiên thừa]. Từ đó bước vào cảnh giới của pháp môn Ngũ thừa, để người người không đọa vào tam ác đạo, tạo ra tịnh thổ nhân gian quang minh.

Pháp môn Ngũ thừa này tuy là pháp môn tu hành của Phật gia, nhưng vận dụng vào tu linh thật sự là có sự bổ trợ lẫn nhau, không hề có chỗ nào không phù hợp. Hôm nay tôi sáng lập tu linh để càng ấn chứng Phật pháp. Nên biết rằng pháp môn của chúng ta không hề sai lầm, ngược lại, nó khiến Phật pháp càng phát triển hơn, hy vọng chư Phật phù hộ, kể từ đây người tu linh có thể trực tiếp xuất tam giới, không mảy may nhiễm bụi trần! Đúng là may mắn! May mắn!

30. Mạn đàm Ngũ độn tâm pháp

Người khởi xướng Ngũ độn tâm pháp là ai? Rất khó biết! Nhưng pháp này là sự phát triển biến hóa của thiên địa nhật nguyệt tam tài tứ tượng ngũ hành bát quái thì không có gì phải nghi ngờ. Trong những trước tác của cao tăng các thời kỳ có nói đến thì có Khương Thái Công, Bạch Lưu Công, Hoàng Thạch Công, Thanh Thiềm Công, Tam Hóa Chân Nhân, Vương Hải Công, v.v… Còn có Quách Tử Nghi, Trương Lương cũng biết đến pháp này. Ngũ độn tâm pháp là một trong những pháp bí mật cấp cao của Đạo gia, vì thế mà tôi đặc biệt đàm luận một chút.

Ngũ độn chính là độn kim, độn mộc, độn thủy, độn hỏa, độn thổ, năm loại công phu lẩn trốn. Vì sao tôi lại nói đến ngũ độn này? Bởi vì ngũ độn đều có mối liên hệ rất lớn với linh, nếu độc giả đọc xong bản văn này, tin rằng có thể hiểu được toàn diện. Ngũ độn tâm pháp trong bản văn này trên khắp thế gian không ai nhắc đến, tin rằng giá trị của bản văn này có thể xem là số một.

Khi tác giả nói đến chủ đề này, trước tiên lấy một sự việc làm ví dụ:

Ở Đài Bắc có một cư sĩ tại gia họ Phạm, ông ấy đọc sách tâm linh của tôi nên đã đặc biệt tìm đến tôi. Cư sĩ này tuổi tác đã ngoài 40, sống đơn thân tại Đài Bắc, cha mẹ đã cao tuổi sống ở Thụy Sĩ, ông ấy thường xuyên không có tiền, cũng vì thân phận nên vẫn mãi không thể đến Thụy Sĩ như mong muốn, nỗi nhớ cha mẹ càng ngày càng sâu đậm. Mục đích ông ấy chạy đến tìm tôi nói ra thì nghe hoang đường, nhưng là hỏi tôi liệu có thể nhờ linh lực để nhìn thấy cha mẹ ông ấy không.

“Xin lỗi, cảm ứng của linh lực cố nhiên là chân trời cũng gần ngay kề bên, nhưng phải xem ông có linh lực này hay không. 10 người thử thì 9 người không được, vậy thì sẽ lãng phí sức người sức của thôi.” ”Chỉ cần có thể, cả đời này tôi sẽ cảm kích ngài, mong ngài để cho tôi thử xem.” Ông ấy nói vậy rồi không ngờ còn quỳ xuống, tôi vội vàng đỡ ông ấy dậy, tôi nói: ”Ông nhất định muốn thử thì cũng được, nhưng thành bại đều do ông, ông phải thành tâm mong cầu.” ”Đây là phương pháp gì?” ”Ngũ độn tâm pháp, cả đời này đây là lần thứ ba tôi làm, hai lần trước đều thất bại, chỉ mong ông có thể thành công.” ”Tôi muốn thử xem.”

Tại Phật đường, tôi chuẩn bị bảy cốc đèn, dùng một cái chậu rửa mặt mới toanh để đựng nước, dùng bảy khay quả màu trắng cúng Phật, dùng giấy đỏ viết lên đó chữ Cửu Hoàng Chân Nhân linh vị, bên cạnh lập Bắc phương Sát Thần linh vị, sau đó dùng chú triệu thỉnh Thổ Địa, gọi Thần Thổ Địa bốn phương đến hộ đàn. Chú triệu thỉnh Thổ Địa có thể dùng: “Ôm na-mô san-man-tô mu-thua-nam ti-wây sô-ha. Cung thỉnh Tứ phương Thổ Địa Thần, linh uy tối cụ hữu chân linh, thủ hộ đàn tiền hộ pháp tọa, mạc sử âm tà lai phạm ương, cấp cấp như Thái Thượng Lão Quân luật lệnh cang.”

Sau đó đốt phù ngũ phương, phù ngũ hành, mỗi loại năm lá phù, rồi cho cư sĩ Phạm uống. Ông ấy ngồi trên ghế gỗ, hai mắt nhìn chăm chú vào chậu nước. Tôi lại niệm: “Cửu Thiên Đô Vương Quân, sắc lệnh ngũ phương hành, kim mộc thủy hỏa thổ, tùy hình tùy tàng thân, chỉ thủy thủy khai lộ, chỉ hỏa hỏa lý hành, chỉ thổ thổ phân liệt, chỉ kim độn thân ảnh, chỉ mộc thừa xa dư, cấp cấp như niệm hành, hách hách dương dương, ngô Liên Sinh phụng Cửu Hoàng Chân Nhân cấp cấp luật lệnh cang.”

Tôi hướng về Cửu Hoàng Chân Nhân niệm chú phổ triệu tổng cộng 49 biến, sau đó cúng hương hoa trái cây, thỉnh Bắc phương Sát Thần lập tức đến, thắp sáng bảy cốc đèn. Lúc này sắp đến giờ Tý, tôi bảo cư sĩ Phạm nhắm hai mắt đang nhìn chăm chú vào chậu nước, dùng thủ quyết ngũ lôi liên tiếp bổ xuống đỉnh đầu của ông ấy năm lần, hô năm tiếng Bắc phương Chân Nhân, thổi vào hai mắt của cư sĩ Phạm, hô Bắc phương Sát Thần dẫn đường, cư sĩ Phạm bắt đầu bước đi.

Đầu cư sĩ Phạm gục mạnh xuống, hai chân từ chậm tới nhanh đung đưa về phía trước, giống như đi bộ vậy, nhưng tốc độ tương đối nhanh. Tôi ở bên cạnh liên tục niệm chú ngữ Cửu Hoàng Chân Nhân, xung quanh căn phòng đã rắc rất nhiều gạo muối, xung quanh chậu nước có cắm năm cái cờ linh. Cứ như vậy khoảng nửa tiếng sau, đầu của cư sĩ Phạm càng chúi xuống nữa. Ông ấy rên rỉ một tiếng, ngẩng đầu lên, mở to mắt, trong mắt có nước mắt lấp lánh. ”Có gặp được người thân không?” - Tôi vội vã hỏi ông ấy. Ông ấy gật gật đầu, bất thình lình quỳ xuống, òa khóc trong niềm vui cực độ, nói: ”Cảm ơn ngài, Lư tiên sinh.” ”Đừng như vậy, ông đứng dậy đi, nói cho tôi hay những gì ông đã trải qua.”

“Là như thế này. Tôi ngồi trên ghế, tâm trạng không thể nào yên lòng, ngài niệm chú ngữ tôi đều nghe thấy rất rõ ràng, khi hai mắt tôi chưa nhắm, tôi nhìn chăm chú vào nước trong chậu, hồi lâu, tâm thần tôi trở nên ngẩn ngơ, mặt nước đó không ngờ dần dần mở rộng ra, trở thành một mặt biển. Khi hai mắt tôi vừa nhắm lại, ngay lập tức là một vùng tối tăm, tâm linh mơ mơ hồ hồ, sau đó đột nhiên nhìn thấy bên dưới ánh sáng có một vùng nước rất sâu không thể nào ước chừng. Trước mắt tôi có một người rẽ nước đi tới, ông ấy vẫy tay với tôi, tôi liền đi cùng ông ấy, quãng đường đi bộ này khiến chân tôi đau muốn chết.

Đến một con phố có một dãy bốn căn nhà, người đó nói với tôi nơi đây chính là mục tiêu của tôi. Tôi không cần gõ cửa, không ngờ thân thể dài ngoằng này lại đi thẳng xuyên tường, trên đường có người nhìn thấy tôi như vậy thì cũng như thể không nhìn thấy. Tôi ngó một vòng quanh phòng khách, nhìn thấy bức ảnh của bố tôi, tôi đi đến nhà bếp thì nhìn thấy mẹ tôi, mẹ tôi nhìn thấy tôi đi vào trong, nhưng chỉ là nhìn lướt qua tôi rồi không hề chào hỏi. Tôi nhìn thấy em trai ở trong thư phòng, mấy đứa bé con của em trai tôi thì đang chơi trên ghế sofa trong phòng khách. Tôi muốn nói chuyện nhưng không mở miệng ra được, đại khái là tôi nhìn một lúc tất cả một cách không hề chủ tâm. Sau đó tôi lại theo người kia hốt hốt hoảng hoảng đi trở về, thế rồi cứ như thế mà tỉnh lại. Mẹ tôi thì trông vẫn như vậy, nhưng không nhìn thấy bố tôi, chắc là bố tôi đã đi ra ngoài. Nhưng tôi hoài nghi những gì tôi nhìn thấy không biết có phải thật không?” - Cư sĩ Phạm nói.

Chưa tới mấy ngày sau, liệu có phải thật không? Câu trả lời đã có rồi, cư sĩ Phạm cầm một lá thư phấn khởi đến tìm tôi, lá thư đó là do bố ông ấy viết, đại ý nói rằng: “Mấy hôm trước, đột nhiên trong lòng mẹ con có linh cảm là con đã trở về, lại còn đứng ở cửa phòng bếp nhìn bà ấy. Mấy đứa con của em trai con cũng nói như vậy, rằng có người lạ nhìn chúng chơi. Cảm giác này khiến mọi người trong nhà cảm thấy bất an, cho rằng có khả năng con đã xảy ra chuyện gì, gần đây con ở bên đó tình hình thế nào? Phàm chuyện gì cũng phải chú ý sức khỏe trước rồi mọi việc sẽ tự ổn thỏa.”

Ông ấy và tôi đến lúc này mới tin rằng cư sĩ Phạm đích thực đã trở về nhà một chuyến rồi!

Ngũ độn tâm pháp này rất không đơn giản, người có công phu không đủ rất dễ xảy ra sự cố, bất kì cách độn nào mà xảy ra sự cố thì ngay tại chỗ có thể bị sốc mà chết. Ví dụ độn thổ, chưa đến lúc được mở mắt mà mở mắt thì chắc chắn sẽ bị chôn sống trong đất.

Ngũ độn tâm pháp mà tôi thực hành gọi là Ngũ hành linh độn pháp, đây là phương pháp dùng phù chú để ép linh khí nhập ngũ hành, thân xác bất động, còn linh khí xuất hiện đi vào trong ngũ hành, gặp núi xuyên núi, gặp nước xuyên nước, nhưng thân xác thì vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trong ngũ độn này thì độn kim là khó nhất, thủy hỏa tương đối dễ, còn như độn thổ thì trong tai sẽ nghe thấy tiếng gió thổi rất mạnh, tuy vậy vẫn phải tuyệt đối nhắm mắt, nếu mở mắt ra, pháp lực mất đi, lập tức ngạt thở mà chết.

Tôi biết trên thế giới này, nếu tu hành đã đạt đến cảnh giới tinh thần, thân thể và linh lực kết hợp cùng với nhau, ngũ độn này có thể phát triển và biến hóa thành độn thân, nghĩa là ngay cả thân xác cũng cùng bay lên ngay lúc ban ngày ban mặt. Nhục thân thành Phật vô cùng khó, cho nên luyện Ngũ độn tâm pháp có thể luyện đến mức nhục thân cùng đi mất, thế thì cảnh giới thân và linh hợp nhất này lẽ nào không giống với Thần Tiên sao? Dưới bầu trời này liệu có người đạo hạnh nào độn thân hay không, tôi thật sự không biết, khả năng là có, chỉ là chúng ta không biết mà thôi. Nghe nói có một số cao tăng đắc đạo của Mật tông Tây Tạng đôi khi ở trước công chúng giảng kinh thuyết pháp, thế rồi lần lượt từng bộ phận từng bộ phận của thân thể biến mất, công phu thần hóa này chính là độn pháp. Lại có một số cao tăng đắc đạo, lúc thì xuất hiện ở phương Đông, lúc thì xuất hiện ở phương Tây, mà hai phương thì cách nhau tới mấy nghìn dặm đường, công lực đi về thần tốc trong sát-na này cũng gọi là độn công.

Đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni có một vị thần thông đệ nhất là Đại Mục Kiền Liên tôn giả. Ngài ấy từng biến thân mình thành nhỏ như con kiến, bò xuyên qua cái lỗ của ổ khóa, tránh được nạn bị thiêu cháy, công phu này cũng là rất thần kỳ.

(Nhật Bản có một loại công phu nhẫn thuật, nói chung đã thất truyền, thật ra về cơ bản cũng giống phương pháp độn công. Còn có một loại là mộc thạch độn pháp, mộc thạch độn pháp này là mượn phương pháp âm ảnh tàng hình vào cây và đá, về lý mà nói cũng khá phù hợp với khoa học. Mộc thạch độn pháp này là bước đầu tiên trong các pháp độn, cũng có thể dùng như một trong các nghiên cứu quân sự.)

Còn về phương diện độn thổ là như thế này. Nắm một nắm đất, niệm chú một lúc, hất nắm đất này lên không, người làm pháp nhắm chặt hai mắt, thế rồi đất từ một hóa mười, mười hóa trăm, từ trên đầu đè xuống, thân linh đi vào trong đất, trong tai truyền đến tiếng gió chuyển động rất nhanh, thân thể giống như đi vào vương quốc dưới lòng đất trong tạng kinh vậy. Tất cả các pháp đều dựa vào thần thông của tinh thần mà biến hóa, sau đó niệm chú thu đất, thân thể nhô lên khỏi đất, đây chính là độn thổ. Tuy nhiên, nếu luyện thành công pháp độn này thì đã là thần tiên trong đất liền rồi. Người có đạo hạnh này, trên đời còn có mấy người?

31. Cảm ứng của linh chú

Công ty máy móc Đường Vinh có một kỹ sư họ Lý tên Thục Du, bí danh là Dịch Nồng, nhà ở Cảnh Mỹ, Đài Bắc. Sau khi đọc được cuốn sách tâm linh của tôi, anh ấy đã đến thăm tác giả hai lần. Lần đầu tiên tôi đi vắng nên anh ấy đã uổng một chuyến đi, lần thứ hai thì anh ấy đã hẹn được thời gian gặp mặt, mới gặp mặt nói chuyện thì không ngờ anh ấy là một người có thâm niên tu Đạo, đã chứng bí quyết cơ mật về thông thiên, đã thông hai mạch Nhâm Đốc, hiện tại đang tu huyền công của Cửu Thiên Huyền Nữ. Anh ấy đặc biệt nói cho tôi biết linh chú đích thực có đại cảm ứng.

Có một lần, anh Lý đảm nhiệm công trình tháp truyền hình, công trình này buộc phải hoàn thành trước ngày Quốc khánh để phục vụ phát sóng tình hình của ngày Quốc khánh. Vừa triển khai công trình thì liên tục mưa nhiều ngày, hễ mưa thì công việc phải tạm dừng, thời hạn càng ngày càng đến gần, không biết phải làm sao mới được. Quái lạ là, ông trời dường như chẳng muốn tốt, chẳng hề có ý muốn tạnh mưa.

“Kỹ sư, chúng ta phải làm sao đây?” - Quản đốc hỏi anh. ”Bất luận thế nào vẫn phải hoàn thành trước kỳ hạn, không thể nào trì hoãn được.” - Kỹ sư Lý kiên định nói. ”Trời mưa không tạnh, tháp cao nguy hiểm lắm!” ”Ôi! Khi nào hơi ngớt mưa thì chúng ta phải làm việc, không được ngơi nghỉ một phút nào.”

Thế nhưng điều đáng tiếc là trời vẫn mưa rất to, mưa rất dữ dội, chẳng hề có ý tạnh mưa. Bản thân Lý Thục Du cũng hết sức hồi hộp, nhưng cũng chẳng có phương kế nào! Con người không thể chống lại ông trời, phải làm sao?

Sáng sớm một ngày nọ, mưa bụi lất phất, Lý Thục Du trèo lên tòa nhà cao tầng, nhìn về hướng Nam, hướng Nam đang có một đám mây cuộn dồn về hướng Bắc, đám mây này mà tuôn ra thì lại có một trận mưa lớn không có gì phải nghi ngờ. Công nhân bên dưới tháp đang chuẩn bị bắt đầu làm việc, nhưng vừa nhìn thấy đám mây đó thì lại do dự không tiến lên. Lý Thục Du thành tâm thành ý cầu nguyện ông trời tuyệt đối đừng cho mưa xuống, bằng không chắc chắn lại lỡ mất một ngày công. Anh ấy ngẩng đầu nhìn về phía đám mây đen đang kéo về hướng Bắc, niệm chú Đại Bi, niệm chú xong còn nói thêm “mây chóng tan đi”.

Anh ấy nhìn thấy sức mây bay qua dường như dần dần chậm lại, rồi một cơn gió lớn thổi qua, mây lại cuộn dồn về phía sau, dường như đang bị một sức mạnh nào đó khống chế, mây cuộn về phía trước nhưng lại bị đẩy lùi trở lại. Kỹ sư Lý càng niệm chú Đại Bi thành tâm hơn, đám mây không ngờ đã từ từ lui đi. Còn khi anh ấy dừng niệm chú, những đám mây đen ấy lại dũng mãnh lao tới, cuồn cuộn dồn về phía Bắc. Kỹ sư Lý lại niệm chú, mây lại lui đi, cứ kiên trì như vậy, hai bên không nhường bước. Trời tạm thời không mưa, công nhân triển khai công việc.

Ngày hôm sau trời vẫn âm u, đám mây ở phương Nam lại đổ dồn về phương Bắc, kỹ sư Lý vẫn đứng trên tầng cao, cũng vẫn niệm Đại Bi đà-la-ni chú, mây lại bị chặn không thể dồn về phía trước, thế nhưng lần này mây tản ra, từ xung quanh phân thành hai đường tản ra, chỉ có chu vi 500 mét trên đầu kỹ sư Lý là không có mây, còn những nơi khác đều có mây, đây là một kỳ tích. Xung quanh toàn là mây đen, trời đã bắt đầu mưa lất phất, nhưng chỉ có xung quanh khu vực cột tháp mà kỹ sư Lý đang xây dựng thì không mưa, đây đúng là kỳ tích.

“Chà! Mưa kỳ lạ thật, chỉ có chỗ chúng ta đây là không mưa, toàn thành phố Đài Bắc chỉ có chỗ chúng ta không mưa.” - Công nhân rất kinh ngạc. ”Trời giúp người rồi.” - Quản đốc nói.

Kỹ sư Lý liên tục mấy ngày liền dùng chú lực để đối kháng với mây đen, cũng liên tục mấy ngày xuất hiện kỳ tích cả thành phố Đài Bắc thì mưa còn xung quanh cột tháp thì không mưa. Kỹ sư Lý cuối cùng đã hoàn thành công trình đúng thời hạn, việc hoàn công của anh ấy thật sự có nhờ vào cảm ứng của chú Đại Bi.

Sau khi anh ấy kể cho tôi nghe sự việc này thì hỏi: ”Tôi tu Đạo có thể thành công không?” ”Có thể.” ”Thiền và linh có gì khác nhau?” ”Công phu của thiền là thiền định, công phu của linh là linh động, giữa một động một tĩnh, tuy khác nhau, nhưng cũng là khác đường đồng quy.” ”Tiên sinh có thể giới thiệu Thanh Chân Đạo Trưởng ở núi Liên Đầu không, đệ tử muốn bái cầu Địa Linh Kinh.” - Kỹ sư Lý nói. ”Núi Liên Đầu chính là một ngọn núi trong dãy núi Tập Tập ở Nam Đầu, trên đỉnh núi đó có thể nhìn thấy hồ Nhật Nguyệt trong veo lấp lánh ở phía xa xa. Rất đáng tiếc là Thanh Chân Đạo Trưởng một năm trước đã viên tịch rồi, đắc quả vị Thần Tiên lục địa. Kinh Địa Linh là thuộc hệ khẩu truyền, không có sách dạy, chỉ có một cuốn sách là “Linh Thành Tinh Nghĩa” được truyền lại, nhưng “Linh Thành Tinh Nghĩa” cũng là sách bí mật, không thể tùy tiện truyền thụ, cũng không thể dễ dàng cho mọi người thấy.” ”Như vậy thì tôi không dám miễn cưỡng.” ”Mong thông cảm.”

“Trong sách tâm linh của tiên sinh có nhắc đến pháp Kỳ môn độn linh, từ rất sớm trước đây tôi đã hiểu sâu sắc, ngài cho rằng làm pháp như vậy là chính phái hay là tà phái? Liệu có gây ra sai sót gì không?” ”Nếu tâm chính thì chẳng ngại gì mà không làm, cho nên sẽ không gây ra sai sót gì cả.” - Tôi nói.

Kỹ sư Lý từ nhỏ đã thích Phật Đạo, đối với thuật của phái Đạo gia Đan Đỉnh thì rất thích nghiên cứu, đã sâu sắc đắc pháp Nội hô hấp và Kỳ môn độn giáp. Đã đả thông hai mạch Nhâm Đốc, thần thuật địa lý của Tam Nguyên Cửu Tinh anh ấy cũng đều nghiên cứu sâu dày, tin rằng tương lai không xa, anh ấy có thể đạt được mong muốn của mình, nếu có thời gian chắc chắn thành người tài, trở thành người xuất sắc, thành con rồng trong đám người là điều không có gì phải nghi ngờ.

32. Thủ quyết luyện linh

Sau khi khởi linh, công phu tiếp theo càng khó khăn càng nặng nề hơn, đó chính là công phu thực của luyện linh. Tôi từng nói thiên nhãn thông là do linh mệnh vận động đến con mắt tạo ra; thiên nhĩ thông là do linh mệnh vận động đến tai tạo ra; tha tâm thông là do linh mệnh nối liền với suy nghĩ của người khác tạo ra; thần túc thông là do linh mệnh xuất du tạo ra; túc mệnh thông là một dạng ký ức kiếp trước của linh mệnh; lậu tận thông là khó nhất, đó là sự tái hiện chân tính của linh mệnh, hoàn toàn chấm dứt hết sinh tử.

Luyện linh là vì sáu loại thần thông này sao? Giả sử độc giả nghĩ như vậy, thế thì cực sai và đặc biệt sai rồi. Luyện linh là vì muốn cho linh mệnh có thể tự tại, cũng có nghĩa là khiến cho linh hồn có thể tự do, linh hồn tự nhiên thoải mái, có thể dựa theo sự thúc đẩy của niệm lực mà đắc được chính tri chính kiến, sau cùng sẽ thành tựu Phật chính giác vô thượng đẳng. Mục đích cuối cùng của công phu này của tôi chính là thành Phật.

Phương pháp luyện linh như sau:

Thứ nhất, Trúc cơ — Có thể nói Trúc cơ là bước đầu tiên của luyện linh, người từng khởi linh thì linh của họ là sống, nếu có duyên Thần Phật thì ắt sẽ có Thần Phật đến tương trợ, khởi thế từ sự vận dụng Tiểu chu thiên, hai tay chắp lại, đánh ra một bài quyền kỳ quái lạ lùng, hoặc là hai tay làm những động tác di động khác nhau, hít khí thở khí thành một hình thái cố định. Luyện tập Trúc cơ một ngày một lần là được, mục đích chủ yếu là rèn luyện xương cốt toàn thân mình, sự chắc khỏe của cơ thịt, hít vào thanh khí, thở ra trọc khí, tác dụng này có đôi chút giống với vận động vẩy tay đang thịnh hành hiện nay. Nhưng vận động vẩy tay là thể thao, còn trúc cơ là do linh lực đến trợ động nhục thể, khiến người tu Đạo có bệnh trị bệnh, không bệnh khỏe thân, người tu Đạo thân thể cường tráng mới có thể tu Đạo, nếu người tu Đạo mà thân thể mình già bệnh thì còn tu Đạo gì chứ, có khác gì Bồ Tát đất qua sông, thân mình còn khó bảo toàn.

Thứ hai, Thần khí — thời gian luyện Trúc cơ cần bao lâu, tôi nói cần ba năm, mỗi ngày phải chăm chỉ luyện linh không gián đoạn. Đến khi xong được ba năm, cơ xương chắc khỏe, vừa nhu vừa cương, sắc mặt hồng hào, thần thái phấn chấn, khi tĩnh thì như trinh nữ, khi động thì như thỏ chạy, sự xuất hiện của linh khí có thể tùy động tùy dừng, sức mạnh của linh mệnh vận chuyển toàn thân, thân như kim cương bất hoại, lúc này chỉ khởi một suy nghĩ là có thể vận linh rồi. Linh mệnh lúc này có thể nghe theo sự điều khiển của niệm lực của mình, khí lúc này huyền diệu như thần, thấu Tam quan, thông Cửu khiếu, trộm tinh hoa của nhật nguyệt, lấy diệu dụng của ngũ hành, thủy hỏa nghịch hành, kim mộc hợp lại, sẽ có thành tựu kim đan. Đây chính là từ một gốc mà phân tán ra vạn thứ khác biệt, vạn thứ khác biệt lại quy về một gốc. Cảnh giới này sau ba năm Trúc cơ mới có thể từ trong huyệt Thần khí mà phát hiện ra ngọn nguồn của linh. Đến bước này vẫn còn phải siêng tu, nhưng ghi nhớ đạo lý chính tà do tâm phân biệt, đến bước này chắc chắn có ma khảo tai nạn giáng xuống, đặc biệt là người muốn làm bát chính đạo, có lòng nhân từ và bác ái rộng lớn, không thể dựa vào điều này mà ngạo mạn, thậm chí làm tà pháp, làm nghề ác, một khi mất đi chính niệm thì đọa vào trong địa ngục vô gián, một khi mất thân người thì vạn khiếp khó phục hồi!

Thứ ba, Cửu chuyển huyền công — Khi biết ngọn nguồn của huyệt Thần khí rồi thì sẽ phải quay mặt vào tường chín năm, thứ cần tu vẫn là pháp Cửu chuyển huyền công, còn gọi là Kim đan đại pháp của Đạo gia phái Đan Đỉnh. Luyện pháp Cửu chuyển huyền công tôi đã nói qua ở chương sách trước, tại đây không cần lặp lại. Còn cái gọi là “quay mặt vào tường” chính là muốn tìm được cái tự ngã chân chính, lúc này tư duy như biển lớn, huyễn tướng bộc phát, cái nào là thật? Cái nào là giả? Hay là toàn là thật, hay là toàn là giả, đều dựa vào chính mình để phân biệt. Lúc này tối kỵ lạc đường, quanh co chín khúc không nhận rõ, kim đan đại đạo khó thành tựu. Nếu trì một Phật một chú để gia trì, Thần Phật bảo hộ, nhờ đó định lực tiến bộ lớn, trí huệ tăng trưởng, Cửu chuyển huyền công mà thành thì chính là Thần Tiên tiêu dao tự tại.

Thứ tư, Ngoại công — từ trong các công phu của Trúc cơ, Thần khí, Cửu chuyển huyền công…, quan trọng nhất là phối hợp với ngoại công, ngoại công chính là thiện công, thiện hạnh có thể đạt phẩm cách của trời, đây chính là: “Thiện niệm nếu nỗ lực, có cầu tất có ứng, công trả về tạo hóa, lực kéo đến thiên đình, bần tiện chuyển phú quý, hoạn nạn gặp cứu tinh, trường thọ như tùng bách, nuôi con được kỳ lân, nếu năng duy trì mãi, công đức không hề nhẹ, người thường làm âm đức, thiên thần ắt cảm ứng.” Nếu chỉ biết siêng luyện nội công mà không có ngoại công tương trợ, không có Thần Phật tương trợ, chắc chắn không thể thành công, ở đây là sự bổ trợ lẫn nhau. Ban đầu là bắt đầu từ khởi linh thì sẽ phải dựa vào thần giúp, đến được Cửu chuyển huyền công rồi càng phải có thần bảo hộ, nếu không thể cảm động trời đất thì luyện linh cũng như không luyện, hiệu quả không rõ rệt.

Chúng ta làm thiện hạnh, làm thiện công, trên thực tế là không vì điều gì đó mà làm, là một kiểu nhân tính thần tính tự nhiên bộc lộ, không phải vì để cầu sự giúp đỡ bảo hộ của thần. Thế nhưng chúng ta đừng ngại trước tiên học theo Viên Liễu Phàm lập bảng công tội, có công có tội đều ghi nhớ, công nhiều hơn tội, như vậy một thời gian dài sẽ trở thành một dạng hành vi tự nhiên. Đây là một yêu cầu từ ngoài vào trong, có sự cần thiết tương đương.

Sau khi hoàn thành xong Trúc cơ, dần dần linh giác của bạn sẽ hơn người thường, và có hiện tượng cảm thông xuất hiện, đây chỉ là sự linh cảm của giác quan thứ sáu mà thôi. Nếu thật sự tìm được ngọn nguồn của thần khí thì chắc chắn có huyễn cảnh thật giả xuất hiện, kỳ diệu dị thường, nếu không mê hoặc thì cảnh tượng rất lạc quan chắc chắn sẽ lần lượt hiển hiện, nhưng khi cảnh trôi qua thì thôi, không đáng lưu luyến, để tránh động chân tình, nhận giả là thật, thế thì sẽ phiền phức to. Người tu linh đắc đạo thật sự sẽ không bao giờ bám chấp, tu tất cả các pháp đúng là không pháp nào có thể tu, căn bản là không có tất cả pháp, đây là tâm cảnh tối thượng thừa, đương nhiên là nằm ngoài tam giới.

33. Cửu chuyển huyền công

Vào một buổi tối mưa dầm dề, đạo hữu Trần Hồng Thiên đã đích thân đến thăm tác giả. Ông ấy là trụ trì của Thiên Tiên Cung ở miền Nam, có hứng thú sâu sắc với Đạo thuật, cũng là một trong số “pháp sư đầu đỏ”. [Phái Đạo sĩ Lư Sơn phân thành pháp sư đầu đỏ và pháp sư đầu đen. Pháp sư đầu đỏ chủ yếu nhận ba vị Nữ Thần làm tổ sư, ví dụ Lâm Thủy Phu Nhân, dùng khăn màu đỏ buộc trên đầu làm dấu hiệu nhận biết.] Từ nhỏ ông ấy đã ở trên núi Gia Nghĩa học Đạo, từng bái một người dân tộc miền núi làm thầy, biết một số pháp thuật kỳ cục quái lạ, thậm chí có một số pháp thuật ngay cả tôi cùng chưa từng thấy. Ở trước mặt tôi, ông ấy biểu diễn một số thần thuật, khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ.

Ông ấy bốc một nắm gạo từ trong thùng gạo rồi vãi trên mặt đất, sau đó lấy một ống tre đựng gạo nhỏ đặt ở giữa những hạt gạo trên mặt đất, vẽ một lá phù kỳ quái, ông ấy nói phù này là phù linh nhập. Đốt phù này xong thì bỏ vào trong thùng gạo, còn miệng ông ấy thì lầm rầm niệm chú, chú ngữ của ông ấy tôi không hiểu gì cả, có vẻ như là tiếng của miền núi. Sau đó, hiện tượng kỳ quái đã xuất hiện. Đầu tiên là những hạt gạo rải rác khắp xung quanh hơi rung rung, thế rồi chúng nhảy tưng tưng lên, Trần Hồng Thiên hét lên một câu: “Cấp cấp như luật lệnh, vật quy nguyên chủ.” Nói ra thì rất kỳ lạ, những hạt gạo đó cực kì ngoan ngoãn, lần lượt nhảy về phía thùng gạo, giống như là tất cả số gạo đều lần lượt nhảy vào trong thùng gạo, nhảy đến không còn sót lại một hạt nào.

Màn biểu diễn này của ông ấy thực sự khiến tôi vô cùng kinh ngạc, nhưng ông ấy nói: “Thần thuật kiểu này chỉ có thể để người có Đạo thấy thôi, để người không có tín ngưỡng thấy thì sẽ làm trái với lời dạy của tổ sư, cũng không thể vì điều này mà khiến người ta khởi lòng tin được.” ”Đúng thế, người đời bây giờ vẫn chưa tu tâm, lại chỉ muốn học thần thông, và ngược lại thần thông lại trở thành một chướng ngại lớn cho việc siêu phàm nhập Thánh, nếu người ta nhìn thấy màn biểu diễn này của ông, trong lòng mặc dù thán phục, nhưng cái mà họ mong cầu không phải là chân Đạo, mà lại là một vài thần thông nhỏ.”

Trần Hồng Thiên là vì Cửu chuyển huyền công nên mới đến tìm tôi. ”Thắng Ngạn huynh, anh được Vô Cực Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dạy dỗ, tôi tin rằng căn cơ Cửu chuyển huyền công cũng không tồi, hôm nay tôi đặc biệt đến đây xin thỉnh giáo, khẩn thiết xin anh truyền thụ cho tôi một chút về pháp vận động Cửu chuyển huyền công và đạo lý căn bản của nó, để bần đạo được mở mang đầu óc.” - Trần Hồng Thiên nói. ”Hiện tại tôi phụng Tiên Thiên Vô Cực Chính Pháp mật lệnh, lĩnh ý chỉ của Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn để hành đạo, mà Đạo gia phái Diêu Trì vốn là một phái con của phái Đan Đỉnh của Đạo gia, chú trọng thuật luyện thân, trúc cơ [xây dựng nền móng] từ trong ra ngoài. Thuật luyện thân này về cơ bản thì giống với thuật khởi linh, đích thân Diêu Trì Kim Mẫu ban cho tôi kỹ năng luyện thân. Bên ngoài nhìn vào thì giống như nhảy múa, có lúc thì giống như kê đồng bị linh nhập vào, sẽ nhảy múa loạn xạ, người không biết nội tình sẽ hiểu nhầm rằng có thần đến nhập vào người hoặc là bị bệnh thần kinh. Pháp luyện thân kiện thân kiểu này tôi gọi là Trúc cơ.”

“Trúc cơ này có ý nghĩa gì? Trúc cơ như thế nào?” ”Đầu tiên thắp hương tĩnh tọa, cung thỉnh Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu Thiên Tôn ban cho pháp luyện thân, khẩn cầu trong khoảng thời gian một nén hương, lúc này phải cảm thấy toàn thân chấn động, tay múa may, chân nhảy nhót, dựa theo huyết mạch của Đại chu thiên và Tiểu chu thiên mà đếm, khởi đầu với rồng lượn, hổ vồ, gấu bước, rùa núp, cá nhảy, hạc bay, sau đó có múa kiếm, phương pháp Dịch cân kinh của Tổ sư Đạt Ma, trong vô thức đã học được toàn bộ mọi thứ, đồng thời đả thông hai mạch Nhâm Đốc. Người không biết tu tập Cửu chuyển huyền công thì dùng để chữa bệnh khỏe thân, chữa bệnh khỏe thân chính là Trúc cơ mà tôi nói đến.”

“Hoàn thành xong Trúc cơ thì lại làm gì nữa?” - Trần Hồng Thiên hỏi. ”Cửa này là khó nhất, ông hãy nghe cho kĩ. Khi ngồi thở phải hợp với đạo trời. Nhân sinh cũng chính là thái cực, thái cực động thì sinh ra dương gọi là hỏa, hỏa tức là thần. Tĩnh thì sinh ra âm gọi là thủy, thủy tức là tinh. Thần hỏa tinh thủy, kết hợp khéo léo thì ngưng tụ thành đan, đây chính là Cửu chuyển diệu đan dược, là nền tảng của việc trở thành Thánh. Mà “nhật nhập địa trung, tâm hỏa hạ giáng, nguyệt đáo thiên tâm, thận thủy thượng thăng”, lúc này thủy đi lên và hỏa đi xuống [thủy hỏa nghịch hành], chính là thời khắc thủy hỏa giao nhau. Lúc này ngồi yên, nối với Thiên kiều (tức là lưỡi ép vào hàm trên), răng gõ vào nhau 36 lần, dùng niệm lực làm chuyển động thủy hỏa, dẫn thủy nhập vào lư đỉnh thứ nhất, sau đó dựa theo thời giờ, một hít một thở, thủy lên hỏa xuống, như vậy mà luyện thành đan.”

“Vì sao gọi là Cửu chuyển?” ”Cửu chuyển tức là chín nhu động tràng kết ở trong ruột, một mối kết là một cái đỉnh [vạc], một đỉnh là một mối kết, cứ như thế kết thành thánh đan diệu dược. Con người có Tam cốc, đều gọi là Cốc thần, trên gọi là Thiên cốc, cũng chính là cung Nê hoàn, là cội nguồn của trời, bản cung của thần. Nếu tinh hóa khí, khí bay lên, cửu chuyển thiên cung đầy ắp thì Thiên môn cũng theo đó mà mở ra, khi ấy tai sẽ nghe thấy, mắt sẽ nhìn thấy! Thần thông bất khả tư nghì.”

“Sử dụng niệm lực ra sao?” ”Niệm lực có thể thúc động linh lực của chính mình, dùng linh lực tập trung để vận chuyển thủy hỏa đảo nghịch, đây cũng chính là đại đạo chuyển nghịch chuyển. Người chuyển nghịch được thì chính là Đại La Tiên, Đạo công chính là ở chỗ này. Nếu vận hành khéo léo giống như dòng chảy cuồn cuộn của Trường Giang Hoàng Hà, không ngừng không nghỉ, tự nhiên mà huyền diệu, thì từ đây Đạo cảnh lại càng nâng cao một bước, vĩnh viễn không có chướng ngại, chỉ còn đợi thời cơ mọc cánh thành Tiên bay lên trời mà thôi.”

“Khi nào thì đắc đại thần thông?” - Trần Hồng Thiên hỏi. ”Khi tâm sáng thì thần thông sẽ ở ngay trong đó, nếu tâm không sáng thì muốn học thần thông ngược lại chỉ trở thành tà đạo, như thế thì càng gay go.” ”Lĩnh giáo, lĩnh giáo.” - Trần Hồng Thiên bắt chặt tay tôi, ông ấy nói: “Đạo pháp chính thống của Đạo gia của dân tộc Trung Hoa thật sự đã được anh làm rạng danh tên tuổi rồi, nếu chỗ tôi có gì hữu ích với anh, tôi chắc chắn sẽ chạy ngay tới giúp đỡ.”

34. Điều quan trọng lúc lâm chung

Sinh mạng của con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết nhiều nhất là trăm năm, 60 tuổi đã xem là sống thọ. Còn có một số người chết yểu, đời người chưa đi được quá nửa đã một mạng quy âm. Ga tàu cuối cùng của đời người, không thể hoài nghi, vẫn là cái chết, người chết rồi thì tất cả đều bỏ đi hết, danh lợi hóa thành cát bụi, ở đây đương nhiên bao gồm cả thân xác mà bình thường chính mình vẫn yêu thích. Thân xác nếu hỏa thiêu lại trở thành khí, nếu chôn thì sẽ trở thành đất, tất cả đều chuyển thành hư không.

Bình thường người không có tín ngưỡng, đến bước này, hầu hết đều rơi vào thế giới kinh hoàng trong hư không, cảm thấy bị rối bời bởi bóng tối vô biên vây quanh, tai nghe tiếng khóc nỉ non của vợ con, tiếng kêu gào của thân bằng cố hữu, trong lòng trăn trở khó chịu, khi sự mịt mù trống rỗng vừa dứt thì không còn chốn nào, thê lương làm sao! Trong lòng mới đau buồn và sợ hãi làm sao! Con người khi ngừng thở thì linh mệnh trong huyệt Thần cốc của họ sẽ vùng vẫy để thoát ra, mang theo nghiệp thiện ác của cả đời, chuyển thế đầu thai vào nơi khác. Người không có tín ngưỡng tôn giáo, linh mệnh không có nơi nào để dựa vào. Nếu cả đời tạo nghiệp thiện nhiều thì linh sẽ nhẹ mà thăng lên thiên giới. Nếu nghiệp thiện và nghiệp ác tương đương nhau, có thể chuyển thế làm người hoặc sống ở âm gian. Nếu ác nhiều thiện ít, đọa vào ba đường ác, người cực ác thì vào địa ngục vô gián, vĩnh viễn khó siêu sinh!

Khi con người sắp chết, linh mệnh của họ tự nhiên xuất hiện, lúc này, quang cảnh mà họ nhìn thấy và những gì mà người hoạt linh nhìn thấy không khác nhau mấy. Thần chí lúc này tuy thanh, nhưng những gì họ nhìn thấy đều là người âm (thân bằng cố hữu đã chết), đây là một hiện tượng đặc thù của sự cảm ứng tất yếu kèm theo, đúng ra mà nói thì chẳng hề có chỗ nào kỳ quái. Tuy nhiên, khi nhìn thấy tướng của người âm xuất hiện thì người chết đa phần là sẽ chuyển đến âm gian, điều đó không có gì phải nghi ngờ. Nếu nhìn thấy tướng cát tường, đó cũng là một điềm báo tốt, biểu thị bản thân sẽ vãng sinh đến thiên giới hoặc đến một nơi tốt hơn. Phật gia từng nói, con người khi chết nếu có thể nhất tâm bất loạn niệm Phật thì Tây phương Tam Thánh là A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát chắc chắn sẽ rất nhanh chóng hiện thân để nghênh đón, ban cho quả vị hoa sen cửu phẩm, người này nhất định sẽ vãng sinh Tây phương chẳng có gì phải nghi ngờ.

Với người chết, những thân bằng cố hữu tối kỵ khóc lóc nỉ non, cũng tối kỵ kêu la gào khóc. Lúc này người chết tâm thần không yên, thần thức đã hiện nhưng tất cả vẫn đều mờ mịt không biết gì, thiên ma dạ xoa sẽ nhân cơ hội mà tác động, một khi đánh mất chính niệm thì rất dễ khiến người chết mất đi sự tự tin vốn có. Lúc này quan trọng là chuyên tâm nhất trí niệm Phật, cầu vãng sinh Tây phương, một số thiện tri thức cũng cần giúp họ trợ niệm, nhờ nhân duyên của Phật pháp mà chuyển tâm luân của họ, mang nghiệp vãng sinh đến cõi hoa sen Tây phương. Lúc này, nếu linh mệnh có thể định tâm là tốt nhất, nếu loạn tâm thì rất gay go. Khóc là nguồn gốc của loạn, khóc cũng vô ích, nếu muốn khóc thì đợi tám tiếng sau khi chết rồi hẵng khóc! Khi đó khóc đến mức tru tréo trời đất thì cũng chẳng hề gì.

Tôi xin có lời khuyên với thiện tri thức, ở trong phòng người bệnh hoặc người sắp chết, hãy bày tượng của Tây phương Tam Thánh, cúng đàn hương và hoa, khiến tâm người bệnh ưa thích, không quên niệm Phật, quán tưởng Tây phương Cực Lạc thế giới, tự nhiên có được lợi ích lớn. Phần đông lúc lâm chung, người sân hận đa phần vãng sinh làm atula, người ngu si thì đọa vào đạo súc sinh, người keo kiệt thì trở thành quỷ đói, người ác thì xuống địa ngục, người mê đắm vào cái thật và theo đuổi cái ảo tưởng thì sẽ gánh theo những cảm giác đó mà về cõi trần, khởi lên những mê hoặc và tạo nghiệp, chịu đựng đủ mọi khổ. Nhưng nếu có thể một lòng sám hối, giống như buông bỏ đồ đao thì có thể nương nhờ Phật lực mà lập tức thành Phật.

Người học tu linh, đến được trình độ linh giác, có thể biết trước thời khắc nhập diệt, bởi vì linh mệnh của chính mình vốn là sống, Phật linh của ngoại giới vốn có năng lực thần thông túc mệnh, chắc chắn có thể biết được lúc nào chết. Người tu linh như vậy biết trước được thời khắc sinh tử nên sẽ tắm gội giữ mình sạch sẽ, chuẩn bị hậu sự, ở trong thiền phòng mà bình thường vẫn tĩnh tọa ngồi xếp bằng, vận linh đến chỗ thiên khiếu, chỉ chờ đợi chư Phật đến đón, lập tức có thể vãng sinh. Linh xuất thiên khiếu thì không phải qua ba cửa, trực tiếp chuyển đến cõi Phật để đi thành Phật, linh mệnh như vậy mới có thể thấy được cái chỗ hoạt bát tôn quý của nó, so với “linh chết” phải chịu sự điều khiển của cảnh giới thông thường thì không biết là hơn hẳn mấy nghìn vạn lần. Người hoạt linh nhất định có thể biết trước thời khắc của chính mình, bởi vì linh mệnh của họ đã thuộc hệ trời người hợp nhất rồi.

Con người lúc sắp chết có thể thể nhìn thấy linh cũng có rất nhiều sự tích, tôi đặc biệt lấy bạn tôi là Lưu Thiên Thuận làm ví dụ. Cậu ấy bị ung thư gan, qua đời tại bệnh viện Cao Hùng. Trước khi chết, tôi nhìn thấy hai mắt cậu ấy cụp xuống, thần trí tỉnh táo, khi ấy có mẹ, em gái của cậu ấy và tôi có mặt tại đó, còn có chú của cậu ấy và vài người bạn thân. (Bố cậu ấy đã qua đời khi cậu mới 5 tuổi.) Lưu Thiên Thuận chỉ vào góc phòng nói: “Mẹ! Bố đang đứng ở kia nhìn con.” Mẹ cậu ấy nét mặt buồn rầu, trong lòng mấy người khác cũng cảm thấy kinh ngạc. ”Con thật sự nhìn thấy sao?” ”Thật sự nhìn thấy, giống hệt như trong bức ảnh.” ”Bố con mặc quần áo gì?” - Người mẹ hỏi cậu ấy. ”Mặc âu phục, túi áo bên trái còn có cài một cây bút máy, trên tay còn cầm một cuốn sách.” ”Đúng rồi, Thiên Thuận thật sự đã nhìn thấy bố của nó rồi, ở trong quan tài tôi đã bỏ vào cuốn sách “Phong Thần Diễn Nghĩa” mà bình thường ông ấy thích đọc nhất, trên túi áo thật sự có cài một cây bút máy.” ”Anh trai vốn dĩ rất thích kể chuyện Phong Thần Bảng.” - Chú của Thiên Thuận nói. ”Ông ấy có căn dặn gì không?” ”Không có, chỉ vẫy tay với con, mặt tươi cười, con mệt quá rồi, sao mà thế giới này càng ngày càng tối tăm, bố đến đưa con đi rồi…”

Vào thời khắc đó, Lưu Thiên Thuận đã nhìn thấy bố mình, cũng nhìn thấy một người bạn học vì gặp tại nạn xe mà chết, còn có một vài người không rõ vì sao lại đứng ở cửa phòng bệnh, có người quen, có người không quen, cậu ấy có thể lần lượt gọi tên của họ ra, nhưng đều là tên của những người đã chết. Những điều Lưu Thiên Thuận nói phù hợp với những cử chỉ thường ngày của họ, ví dụ cậu ấy nói có một người bị thọt chân, người mà cậu ấy nói đến không ngờ lại là ông ngoại, bởi vì ông ngoại bị thọt chân.

Mấy người có mặt ở đó ai nghe thấy cũng dựng tóc gáy, nổi da gà. Còn tôi thì cho rằng: người chết, linh sống; người sống, linh chết. Đây cũng là một kiểu tuần hoàn, người có thể phá bỏ được kiểu tuần hoàn này mới xem là vượt qua được luân hồi, có thể không bị trói buộc, tự do tự chủ, thoát khỏi sinh tử.

Khi Thiên Thuận chết, tôi vẫn chưa có được kỳ duyên, tôi chỉ cảm giác thấy sự việc này vô cùng kỳ quái, chẳng phải là điều mà khi đó tôi có thể hiểu được, đồng thời, tôi tin rằng Thiên Thuận thật sự đích thực nhìn thấy, trước khi chết, anh ấy chẳng có lý gì mà nói dối bạn bè thân hữu cả. (Nho gia nói, cốt nhục quy về đất, hồn khí tản đi, ở đây mặc dù biết linh hồn nhưng vẫn không tránh khỏi câu nệ vào sống chết vật chất, không phải là kết cục cuối cùng, cũng tức là không thể hoàn toàn biết chân nghĩa của linh hồn. Nói chung, có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh, sinh sinh tử tử là một kiểu luân hồi, bên trong lấy thức làm chủ, còn bên ngoài là duyên giả mà thành nhục thể, nếu ta nay duyên hết, tứ đại giả hợp phân tán tan đi, sống chỉ còn lại linh mà thôi. Dạng linh này trong Phật gia gọi là A-lại-da thức, còn gọi là Tạng thức. Tác giả đích thực biết rằng: thành Phật do từ đây, thành Tiên cũng do từ đây, thành Thần cũng do từ đây, lại nói ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh, cái nào cũng do từ đây.)

35. Duyên xuất gia

Khi còn nhỏ, tôi sống ở Cao Hùng, khi ấy tôi cùng với tín chủ trẻ con của hàng xóm mỗi chủ nhật đều đến nhà thờ, trong tâm của trẻ con cho rằng tượng Phật chính là ma quỷ. Cùng đến nhà thờ với tôi có một cậu con trai tên là Trang Triệu Minh và hai chị em gái tên là Cao Thuần Tâm và Cao Thuần Tư. Tôi học hành ở trường học ngày chủ nhật rất tốt, nhận được sự quan tâm sâu sắc của mục sư trưởng lão của giáo hội. Tôi từng viết bài cho báo Phúc Âm, đến mức mà sau cùng tôi đã làm thầy giáo của lớp học ngày chủ nhật, các hoạt động của giáo hội trong đó hầu hết tôi đều tham gia.

Giờ đây tôi nghiên cứu Đạo giáo, quy y Phật môn, khi xưa về cơ bản là ngay cả nằm mơ tôi cũng không nghĩ tới. Chỉ có một lần, tôi nhớ rất rõ ràng, đến hôm nay vẫn rất rõ ràng. Có một buổi sáng sớm, một vị hòa thượng khoác túi vải màu vàng đến hóa duyên. Mẹ tôi tin Phật giáo, bà lấy ra một đồng đặt vào tay hòa thượng, tôi đứng bên cạnh mẹ nhìn vị hòa thượng lạ lùng này, nhưng hòa thượng không đi, hai mắt nhìn tôi, hướng về mẹ tôi chắp tay, nói một câu: ”A Di Đà Phật, thiện tai! Tôi sẽ hóa duyên lớn hơn.” ”Ngài chê không đủ ư?” - Mẹ tôi hơi khó chịu. ”Không phải.” - Hòa thượng nói: “Tiểu đệ này theo ta xuất gia được không?” ”Xuất gia?” - Tôi hoảng hốt: “Xuất gia làm hòa thượng ư?” ”Không được, nó là tín đồ Cơ Đốc.” - Mẹ tôi nói. ”Đứa bé này có duyên xuất gia, xuất gia chỉ là việc sớm muộn thôi, sau này có đi thế nào thì cuối cùng vẫn là xuất gia.”

Hòa thượng quay người rời đi, tôi chạy theo ra ngoài cửa, một con đường dài, mặt trời chói chang ở trên cao, nhưng không nhìn thấy hòa thượng đã đi đâu mất rồi. Tôi trở về nói với mẹ tôi, mẹ tôi lắc đầu không tin, một con người sờ sờ ra đó sao có thể biến mất được. Sự việc này tôi đã quên từ lâu, hôm nay nhớ lại, đích thực là có một chút kỳ quái.

Khi tôi đến thăm pháp sư Chấn Quang của chùa Từ Thiện ở Đài Trung, tôi lạy pháp sư, pháp sư liền né ra, ông ấy nói: ”Anh là pháp sư Liên Sinh, anh xuất gia đi! Người xuất gia vì hoằng pháp mà sống mãi trên đời, tuy vất vả nhưng cũng là vì lục đạo chúng sinh. Đời trước anh có đại thiện căn, đời này không xuất gia làm sao mà được? Giống như tôi đây, tôi tuy ngu muội nhưng phát đại nguyện đời đời làm tăng, mãi trụ thế gian, hoằng pháp lợi ích chúng sinh.”

Ngoài pháp sư Chấn Quang khuyên tôi xuất gia, cũng có nhiều người khác khuyên tôi xuất gia. Ngoài ra, vào ngày 18 tháng 7 năm Dân Quốc 64 [1975], đúng 12 giờ trưa, mặt trời đang chói chang, tôi đang ăn cơm, lại có một hòa thượng trẻ tuổi đến hóa duyên. ”Anh là tín đồ Phật giáo à?” ”Vâng.” ”Anh mau xuất gia đi!” - Hòa thượng trẻ tuổi đó nói chẳng hề có chút nguyên do gì. ”Vì sao?” ”Vì độ trời người.”

Vị tỳ kheo trẻ tuổi đó chắp tay niệm Phật với tôi, tôi cũng chắp tay đáp lễ. Tỳ kheo quay người đi, tôi đi theo ra ngoài cửa, chuyện kỳ quái lại xảy ra rồi, cả con ngõ ngập nắng chói chang, còn hòa thượng trong chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Cho dù có đi nhanh thế nào thì cũng không thể nào rẽ qua một ngõ khác được, vì việc này mà tôi cảm thấy hết sức kinh ngạc.

Buổi tối tôi tụng kinh Địa Tạng, lễ bái chư Phật Bồ Tát, sau đó niệm chú ngữ. Hai mắt tôi nhắm lại, trước mắt hiện lên một vầng hào quang xán lạn, hào quang thành tròn vành vạnh, ở giữa có ngồi một vị Địa Tạng Vương Bồ Tát đầu trọc cầm tích trượng, trước ngực đeo đầy chuỗi ngọc, giống như những ngôi sao trong bầu trời đêm tỏa sáng lấp lánh, pháp tướng trang nghiêm này là lần trang nghiêm thần thánh nhất trong nhiều lần tôi nhìn thấy tướng của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Vòng bánh xe ánh sáng như ý, như trụ trong hư không, áo cà sa được trang điểm bằng thất bảo, hào quang hiện lên ba mươi hai tướng vi diệu, các thần thánh cung kính hầu ở bên cạnh.

“Liên Sinh, trưa nay là ta.” ”Ồ! Thì ra là Tiên Sư.” ”Xuất gia đi! Liên Sinh, xuất gia tức là nhập gia, con không mặc y phục ô nhiễm, có thể cắt đứt trói buộc, tâm lìa mọi ác, mở ra công đức định huệ, nên là một tỳ kheo thật mới phải. Liên Sinh, “Tâm Địa Quán Kinh” có nói: Ơn Tam Bảo gọi là lợi lạc chúng sinh, bất tư nghì, và cũng không ngơi nghỉ. Thân của chư Phật là chân thiện vô lậu, trong vô số đại kiếp là bậc tu nhân đắc chứng. Nghiệp quả của tam hữu [sinh hữu, bản hữu, tử hữu] mãi mãi chấm dứt hoàn toàn. Công đức như bảo sơn sừng sững, tất cả hữu tình làm sao mà biết được chứ!”

“Lời Bồ Tát nói, con xin ghi nhớ. Trước kia có hòa thượng Thạch Đầu hóa thân độ con xuất gia, nay lại gặp Bồ Tát chỉ thị rõ ràng cho con xuất gia, con nhất định sẽ xuất gia, đa tạ Bồ Tát dẫn độ.”

Địa Tạng Bồ Tát từ từ hóa vào hư vô, một vệt hào quang bay vào trong vô tận. Tôi mở mắt ra, trong lòng tràn ngập niềm vui. Trước mắt tôi kính cẩn thọ giới luật Bồ Tát, tuy cũng hoằng pháp, nhưng thời gian thân cận Phật Tổ suy cho cùng vẫn tương đối ít. Nếu tôi có thể thoát khỏi tất cả những thứ thế tục thì tôi có thể xuất gia rồi, bây giờ tôi còn có trần duyên gì đây? (Xuất gia và không thể xuất gia, tôi cho rằng đều là duyên phận, tôi có duyên phận này, cho nên Bồ Tát năm lần bảy lượt chỉ điểm, đây đúng là có duyên với Phật, Phật pháp tương nhân rồi. Để nghiên cứu thảo luận Phật pháp ở một tầng sâu hơn, để càng có thể cúng dường và thân cận chư Phật, tôi đích thực biết rằng ngày xuất gia của tôi đã đến gần rồi, gần rồi.)

36. Khẩn cầu của người mất ngủ

Tám vạn bốn nghìn loại nghiệp hóa thành tám vạn bốn nghìn loại bệnh, con người phải chịu những khổ này, vì thế mà khổ nhiều hơn vui. Những gì mà bệnh gây ra trên thân người thật không thể nào nói chi tiết rõ ràng được. Đời người sợ nhất là bệnh đến giày vò, cho dù có là phú hào, người cao quý lắm tiền, nhưng khi mắc bệnh rồi thì cũng nhanh chóng trở nên thảm thương. Cũng có rất nhiều người mắc bệnh lâu ngày nên chán đời và coi nhẹ mạng sống, khi ấy sẽ cho rằng chết là một sự giải thoát đau khổ.

Có rất nhiều loại bệnh không tên, ngay cả bác sĩ cũng không chẩn đoán ra bệnh. Bây giờ lại càng có nhiều bác sĩ chẩn đoán không ra bệnh tình của bệnh nhân thì lại nói với họ: “Mau đi tìm cái ông Lư Thắng Ngạn học môn linh hồn học đi!” Bác sĩ vốn là chữa bệnh, giờ đây không có cách nào chữa thì lại đẩy sang thân tôi. Tôi không phải là bác sĩ, tôi không dám chữa bừa bệnh của bệnh nhân, tôi chỉ có thể hỏi liệu có cứu được không. Bắt đầu từ nguyên nhân gốc, sau đó cầu thầy thuốc trị bệnh, chắc chắn có thể chữa tận gốc.

Thời đại công nghiệp, thời gian chính là tiền vàng, người người khổ vì bôn ba kiếm tiền mưu sinh, sự phức tạp trong mối quan hệ giữa người với người, áp lực của thời gian và không gian, áp lực của xã hội, nhân loại vật lộn trong thế giới chật hẹp này, khó tránh khỏi những lúc chán nản và ngã lòng. Sự khốn đốn về mặt tinh thần đôi khi khiến con người hốt hoảng ngẩn ngơ, kết quả là ban đêm không ngủ được, mất ngủ cả đêm, liên tục tuần hoàn như vậy, mất ngủ đã trở thành việc bình thường. Những bệnh do mất ngủ gây ra đôi khi dẫn đến các bệnh như suy nhược thần kinh, tâm thần thất thường, hoa mắt chóng mặt, bụng dạ khó chịu, bệnh mắt, hỏa khí tăng cao, v.v…

Một người trẻ tuổi còm nhom đến tìm tôi, trên tay cầm cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán” mà kẻ hèn này đã viết, vẻ mặt âu sầu, vừa mở miệng ra đã nói: “Lư tiên sinh, ngài nhất định phải cứu tôi, ngài nhất định phải cứu tôi.” ”Anh mắc chứng mất ngủ à?” ”Đúng vậy, tôi đã 10 năm không ngủ rồi, ngài nhìn tay tôi xem, nổi đầy gân xanh.” - Anh ta đưa tay ra, khiến người ta nhìn thấy thật sự hãi hùng. ”10 năm không ngủ ư, làm gì có chuyện đó chứ!” - Tôi nói. ”Không phải 10 năm không ngủ, mà là ngủ không đủ sâu, hơn nữa không ngủ dài, đêm nào cũng mất ngủ, tinh thần phấn chấn. Buổi đêm tinh thần rất tốt, nhưng ban ngày thì ủ rũ uể oải, nỗi đau đớn này thật sự người ngoài không thể biết được.”

Người đàn ông còm nhom đó họ Liêu, nhà ở quận Tam Trọng [thuộc thành phố Đài Bắc]. Anh ta kéo tôi qua một bên, nói với tôi một cách trịnh trọng và nghiêm túc: ”Lư tiên sinh, tôi không giấu gì ngài, hôm nay ngoài ngài là ân nhân cứu mạng tôi ra thì tôi không còn bất kì hy vọng nào nữa, hôm nay tôi đã mua cái này….” Anh ấy móc ra từ trong túi áo một lọ thuốc, giơ nó lên nói: ”Đây là thuốc ngủ dùng cho một tháng, nếu đêm nay tôi không ngủ được thì tôi dự định sẽ uống hết cả lọ thuốc này luôn. Bây giờ tôi thật sự không muốn sống nữa, tôi đã tìm hết các bác sĩ trong cả nước rồi, không một người nào có thể chữa khỏi chứng mất ngủ của tôi, bất kì phương pháp nào cũng đều dùng rồi, nhưng hoàn toàn không có một chút công hiệu nào. Hôm nay ngài không cứu tôi không được, nếu không cứu sống tôi, đêm nay tôi sẽ bỏ luôn sinh mạng này, điều này là thật, tuyệt đối không phải giả đâu.”

“Tôi sẽ tận lực thử xem, nhưng anh tuyệt đối đừng coi thường mạng sống của mình mà tự tử, thân người khó có được, nếu anh coi thường mạng sống thì sẽ chẳng có lợi ích gì đâu, chết cũng không thể xem là một sự giải thoát! Trong sách tâm linh tôi đã giải thích rất rõ ràng rồi.” - Tôi nói. ”Cầu xin ngài, cầu xin ngài.”

Tôi thỉnh thị thánh linh trong hư không, thánh linh rất từ bi nói: ”Liên Sinh, thấy tất cả người bệnh, nên cúng dường như Phật không khác biệt. Trong tám ruộng phúc thì ruộng phúc khám bệnh là số một đó. Nếu cha mẹ, thầy tăng, đệ tử có bệnh, các căn không đủ, trăm loài trăm khổ, đều nên chăm họ khỏi bệnh.” ”Phải rồi, con hiểu.”

Tôi dạy anh Liêu tĩnh tọa ngay tại chỗ, niệm bốn chữ Diêu Trì Kim Mẫu, chưa đầy 10 phút, hai tay của anh Liêu giơ lên, ấn vào đầu của chính mình, sau đó xoa xung quanh đầu mình. Nói ra kể cũng lạ, anh ấy cứ làm như thế càng ngày càng nhanh, hai tay càng ấn càng nhanh, động tác tay của anh tôi chưa từng nhìn thấy. Anh Liêu ngồi khoảng một tiếng, hai tay rủ xuống, trở thành trạng thái nửa ngủ, sau đó thì tỉnh dậy, hai mắt mở to.

“Thật kỳ quái, hai tay tôi không biết là thần lực nào đã kiềm chế tôi? Mà lại khống chế liên tục, ra sức xoa bóp cái đầu, sau khi xoa bóp xong thì vô cùng nhẹn nhõm, đêm nay tôi có thể ngủ được rồi phải không?” - Anh Liêu vui mừng phấn khởi hỏi tôi. ”Sau khi anh về nhà, buổi tối trước khi ngủ hãy thắp ba nén hương, cắm hương vào trong lư, chắp tay và y theo phương pháp mà tôi đã dạy anh mà tĩnh tọa, nếu hành trì lâu ngày, nhất định có thể ngủ được.” ”Thật thế sao?” ”Không nói dối.”

Anh Liêu đi rồi, nửa tháng sau lại đến, mang theo quà lớn quà nhỏ, một hộp điểm tâm ngọt, một hộp lớn quả đào mật, một hộp quà toàn những món khoái khẩu, vô số đồ hộp, vừa nhìn thấy tôi, anh ta đã hét lên: ”Ân nhân cứu mạng, ân nhân cứu mạng.”

Anh Liêu luyện tĩnh tọa đã càng ngày càng tiến bộ, giờ đây ban đêm ngủ ngon lành, không hề có chỗ nào khó chịu. Anh ta đã mua thuốc ngủ để chuẩn bị tự sát, kết quả là ở trong nhà sách đã đọc được sách của tôi, lập tức vội đến nơi tôi ở. Anh ta nói đây là cơ hội chữa bệnh cuối cùng, nếu không khỏi thì anh ta sẽ tự sát. Thật không thể ngờ, sách tâm linh của tôi đã cứu sống một người rồi!

37. Trên đài kim cương hiện linh thân

Tôi cả đời thích đọc kinh thư, sự nhận thức về lời Phật của tôi hoàn toàn không phải là vô căn cứ, và Linh Tiên Tông mà tôi sáng lập ra chính là yếu nghĩa đệ nhất, là gốc rễ quan trọng nhất, bất khả tư nghì, thế nhưng ít người biết được, đúng là kỳ quái! Lẽ nào thật sự muốn chính tôi nói ra thì mới có người tín thọ phụng hành sao? Người tu linh và Tây phương Cực Lạc thế giới về cơ bản là không xung đột, không những không xung đột mà còn phù hợp với nhau. Tôi đọc kinh “Quán Vô Lượng Thọ Phật”, chương “Thượng phẩm thượng sinh”, cảm xúc của tôi khá mạnh, tôi đặc biệt cung kính trích đoạn văn này, sau đó sẽ giải thích.

“Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy. Người thượng phẩm thượng sinh. Nếu có chúng sinh. Nguyện sinh về nước ấy. Phát ba loại tâm. Liền được vãng sinh. Ba tâm là gì? Một là tâm chí thành. Hai là tâm sâu sắc. Ba là tâm phát nguyện hồi hướng. Người đủ ba tâm này. Ắt sinh về nước ấy. Lại có ba hạng chúng sinh. Cũng được vãng sinh. Ấy là hạng người gì? Một là từ tâm không giết. Đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Ba là tu hành sáu niệm. Hồi hướng phát nguyện. Nguyện sinh nước ấy. Đủ công đức này. Một ngày cho đến bảy ngày. Liền được vãng sinh. Khi ở nước ấy. Người này tinh tấn dũng mãnh. Nên A Di Đà Như Lai và Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Vô lượng Hóa Phật. Trăm nghìn tì kheo. Thanh Văn đại chúng. Vô lượng chư thiên. Cung điện thất bảo. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương. Cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước mặt hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu lên thân hành giả. Các Bồ Tát trao tay nghênh đón. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số Bồ Tát. Tán thán hành giả. Khuyến khích tâm ấy. Hành giả thấy vậy. Hoan hỷ hăng hái. Tự thấy thân mình lên đài kim cương đi theo sau Phật. Rồi trong nháy mắt. Vãng sinh nước ấy. Thấy sắc thân Phật. Mọi tướng đủ đầy. Thấy các Bồ Tát. Sắc tướng đủ đầy. Rừng báu sáng ngời diễn thuyết diệu pháp. Nghe xong liền ngộ. Vô sinh pháp nhẫn. Chỉ trong giây lát. Thừa sự chư Phật. Ở khắp mười phương. Ở trước chư Phật. Lần lượt thọ ký. Trở về bản quốc. Được vô lượng trăm nghìn môn đà-la-ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sinh.”

Kẻ hèn này đọc đoạn kinh văn trên cũng hoan hỷ hăng hái, vì A Di Đà Phật tiếp dẫn mà vãng sinh Tây phương, pháp môn phương tiện của ngài đích thực lợi ích chúng sinh, có tinh thần đại từ đại bi. Tác giả sáng lập Linh Tiên Chân Phật Tông cũng vẫn là chờ đợi đài kim cương của A Di Đà Phật và hai vị Đại Bồ Tát Quan Âm Thế Chí, ấn chứng phù hợp lẫn nhau, đích thực có pháp lực thần thông bất khả tư nghì liên miên không dứt. Tôi đặc biệt phân tích như sau:

Thứ nhất, tâm ba tâm hợp nhất chính là linh — tâm chí thành, tâm sâu sắc, tâm phát nguyện hồi hướng thật ra là một tâm, về cơ bản phân ra thì thành ba, hợp lại thì thành một. Linh chính là Phật, Phật cũng chính là tâm, có được tâm ba tâm hợp nhất xuất hiện cũng tức là sự xuất hiện của linh. Sự chuyển thế đầu thai của linh, hoặc vãng sinh đều do niệm lực nghiệp lực chi phối. A Di Đà Phật giống như vị Phật tiếp dẫn, phóng ra ánh sáng, dùng Phật lực để tiếp dẫn, lúc này phối hợp với niệm lực và linh lực của mình thì có thể vãng sinh, bởi vì nghiệp lực và Phật lực đã triệt tiêu lẫn nhau rồi. Còn từ tâm không giết, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại thừa, tu hành sáu niệm, đây là pháp môn tu hành nền tảng nhất của người tu linh. Từ bi hỷ xả là pháp bồ đề tâm, tu kinh Đại thừa là đã lên thuyền pháp, tự nhiên bước lên bờ bên kia, tu sáu niệm chính là Bồ Tát rồi.

Thứ hai, sắc thân tức là linh thân — có người nói sắc thân tức là giả thể (nhục thể), cách nói này không có gì sai, nhưng A Di Đà Phật cũng có thể hiển hóa sắc thân, hiển hóa sắc thân tức là có thể khiến con người nhìn thấy. Linh là chân ngã, sắc là giả ngã, phàm là người có linh nhãn gặp phải tướng của sắc thân xuất hiện thì cũng xem đó là sự xuất hiện của linh thân. Sắc thân của chân linh không trú ngụ ở nơi nào, muốn xuất hiện thì xuất hiện, muốn tan biến thì tan biến, đây là nói về linh thân trong hư không bình thường. Con người lúc sắp chết, A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí đến đón mà họ nhìn thấy là sắc thân mà cũng là pháp thân, nhưng chính xác nhất vẫn là sự hiển hóa của linh thân, việc dùng linh thấy linh trong quãng thời gian này là dễ xuất hiện nhất.

Thứ ba, trên đài kim cương là linh thân — một đệ tử Phật, cửu phẩm liên hoa sinh, hoa nở thấy Phật, ngồi trên tòa sen vàng, tòa sen bạc, đó là nhục thể sao? Đương nhiên không phải, nhục thể là vật chất, vật chất chắc chắn sẽ mục nát hủ bại, chắc chắn sẽ hôi thối ô uế, chắc chắn sẽ phân rã và đi vào đất, vào không khí. Thứ mà ngồi trên đài kim cương thì ra là một linh thân hoạt bát sống động, thuần phác tự nhiên, không có tiền nhân hậu quả, chính thân chính mệnh không sinh không tử.

Thoát xác bay lên trong Đạo gia là chỉ thoát khỏi cái vỏ của nhục thể, bay lên tiến thẳng vào trong thế giới của linh, không hề nói rằng mang theo cả nhục thể cùng tiến vào trong thế giới của linh. Cái gọi là viên tịch và vũ hóa [mọc cánh thành tiên, thoát xác] đều có thể nói như thế này, đã đến Tây phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật rồi, không có nhục thể, mà là linh mệnh của ba thân quy về một thân.

Tác giả thích nói về linh, bởi vì linh là nguồn gốc của tất cả, mạng người vốn quy về linh, làm sao lại không nói về linh chứ! Ngoài thế giới hữu hình ra, thế giới vô hình đều do linh khống chế, bất kì một tôn giáo nào cũng đều nói về linh, nếu họ không nói về linh thì chỉ là họ chưa thể hiểu điều bí ẩn về thế giới của linh, tín ngưỡng tôn giáo vô tri của họ đã phủ nhận tuyệt đối linh hồn, họ làm như vậy không ngoài buôn bán tôn giáo, biến tôn giáo thành bảng hiệu để giở những thủ đoạn lừa tiền gạt sắc mà thôi. Quãng thời gian này của sinh mạng là rất đáng quý, sinh mạng đáng quý không thể cứ hồ đồ mơ hồ đi qua, đi qua xong rồi lại muốn đi lại một chuyến nữa, khó lắm! Khó lắm!

“Tất cả đều là linh, không có linh thì không thông suốt.” ”Thành Phật tại linh, không có linh thì không đủ để thành Phật.” ”Linh là thật, những cái khác đều là giả.” Đây là vài định luật nhỏ của tôi.

38. Hai oan hồn trên đường sắt

Một đêm nọ, tôi đi qua một đường ngang giao đường sắt, đèn đỏ trên đường ngang vừa bật sáng, tiếng leng keng leng keng, một đoàn tàu hỏa từ xa tới gần. Tôi đứng ở bên đường đợi tàu hỏa đi qua. Đoàn tàu xình xịch xình xịch chạy qua, tàu vừa đi khỏi, trong sát-na đã tối om, tôi bỗng nhìn thấy hai u linh đứng ở trên đường sắt, là một nam một nữ, nam nữ đều không có đầu, người lắc lư đung đưa chuyển động đi về phía trước, vừa hay chặn ngay phía trước đường tôi đi.

“Hai người bạn tốt, chặn đường của Lư Mỗ có chuyện gì không?” Hai con ma không thể thốt ra tiếng, chỉ có lắc lư thân người, hai vai rung lên, dường như đang khóc cực kì bi thảm. Sau đó họ chạy về phía tôi, hai cái bóng trở thành trạng thái gãy đôi, tôi không rõ hai người họ có hàm ý gì.

“Cầu siêu độ vãng sinh à?” - Tôi hỏi. Thân họ lắc qua lắc lại hai bên, biểu thị không phải. ”Cầu cúng dường thức ăn à?” - Tôi hỏi. Thân họ lắc qua lắc lại hai bên, biểu thị không phải.

Tôi xoa đầu, thật sự là chẳng thể nghĩ được. Đúng lúc này, bên cạnh đường sắt đột nhiên xuất hiện ánh sáng chói lọi màu đỏ, ánh sáng đó lăn hai vòng trên mặt đất, rồi từ trong ánh sáng đó xuất hiện một vị tiểu Thổ Địa Công cầm gậy ba-toong. Tiểu Thổ Địa Công vừa xuất hiện thì hai con ma hướng về Thổ Địa Công quỳ lạy, Thổ Địa Công nói với tôi: ”Lư tiên sinh, hiện tại ở âm gian dương gian, trên trời dưới đất đều loan tin rằng ngài là truyền nhân của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, danh tiếng của ngài ngay cả hồn ma ở âm gian ai ai cũng biết, mặc dù đem đến cho ngài không ít phiền nhiễu nhưng lợi ích chúng sinh, cũng là lợi ích chính mình, ngài đúng là người có tài năng thì vất vả rồi! Hai con ma này chính là đôi tình nhân đã ôm nhau tự tử ở đường sắt, tuy họ quá si tình nhưng tôi rất thương xót. Tiểu Thổ Địa Công tôi không nhẫn tâm thấy họ không có nơi quy về nên thu nhận cho họ ở bên cạnh, tiếc là họ đã mất đầu, chỉ cầu một cái đầu mà thôi.”

“Thổ Địa Bồ Tát từ bi, nhưng tôi làm sao mà cho họ đầu đây?” ”Lư tiên sinh, hai âm hồn này không phải người ác, lúc còn sống không có nhân ác, phải tìm hai người có vận kém để chết thay, trong lòng tôi cũng không nhẫn tâm, nhưng cứ để thế này thì cũng chẳng phải là một biện pháp tốt. Thần thông của Tiểu Thổ Địa không thể tìm được đầu họ về, chỉ có cầu Lư tiên sinh giúp đỡ thôi.”

Tôi xoa tay, trong lòng thật sự cũng chưa có chủ ý gì. Tôi học pháp như vậy đã nhiều năm, nhưng chưa hề học qua phương pháp nối đầu cho linh hồn, vậy làm sao mà làm được?

“Lư tiên sinh, Đạo pháp vốn không nhiều, đều dựa vào tâm lực mà làm, ngài hãy từ bi đi!”

Tôi nghe Thổ Địa Công nói lời này, trong lòng đột nhiên ngộ ra, hai câu nói này là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh thường nói mà! Tôi hướng về Thổ Địa Công chắp tay chào, rồi vẫy tay với hai con ma, hai con ma đi theo sau tôi, dọc đường yên tĩnh không một tiếng động. Từng có thần dạ du [thần chuyên đi tuần hành vào ban đêm] trong không trung hỏi tôi: ”Liên Sinh, hai con ma sau lưng là âm ma nào đấy?” Tôi đáp: ”Là bạn của tiểu đạo trưởng.” Thần dạ du lập tức ẩn thân đi. Bởi vì ma quỷ muốn hiện hình phải có nguyên do mới được, nếu giữa đường dọa người ta thì hồn ma sẽ tự chuốc lấy tội, chắc chắn sẽ đọa địa ngục, linh giới cũng có linh luật, giống như dương gian vậy.

Tôi trở về Linh Tiên tinh xá, báo cáo với thần thánh trong nhà, hai con ma đi vào cửa, tôi tĩnh tọa niệm Phật, cầu Phật Bồ Tát từ bi. Sau đó tôi mài mực mài nghiên, vẽ ra hai lá phù rồi đốt. Trên mỗi lá phù này tôi vẽ một đầu người nam một đầu người nữ, sau đó tôi nhập định, hồn thần nhập vào trong thế giới không gián đoạn, chư Phật Bồ Tát cùng hỏi thăm, Kim Giáp Hộ Pháp liên tục gật đầu làm lễ. Tôi ở trong gian phòng “linh gian nhị thế” lấy về hai cái đầu ma. Cái gọi là “nhị thế linh gian” là nơi giữ đầu của linh trong thế giới không gián đoạn, mỗi tay tôi cầm một cái đầu. Tôi xuất ra khỏi định, mỗi tay một cái đầu đẩy về phía trên đầu hai con ma, tay kết ấn hoa sen và niệm rằng: “Bổn sư xuất hiện tốc tiếp ứng, tiền trình lộ quảng tồn thành tâm, bàn vận ngũ khí phục thân ảnh, mật tạng tại thân tốc đắc đầu, động huy giao triệt bằng thân pháp, linh không nhị thế đại từ bi, ngô Liên Sinh phụng ngũ hiển linh quang đại pháp chỉ luật lệnh.”

Hai cái đầu lăn tròn bay ra, xoay tít, hai con ma thấy thế thì vui mừng khôn xiết, vội dùng linh lực để hút lấy, đầu đã nối liền trên cổ, lần lượt khôi phục nguyên vị. Hai con ma lúc còn sống, ma nam thì rất khôi ngô tuấn tú, ma nữ cũng hoa nhường nguyệt thẹn, tiếc là hôn nhân bị bề trên ngăn chặn, nghĩ quẩn nên mới chết vì tình.

“Bây giờ thì tốt rồi, tuyệt đối đừng làm những việc ngu ngốc nữa, một khi mất thân người thì đau khổ cũng không kém gì dương gian đâu.” ”Đa tạ Lư tiên sinh, đa tạ Bồ Tát.”

Hai con ma lễ bái chư Phật Bồ Tát, tôi tiễn họ ra cửa, họ vui mừng rời đi. Bên ngoài cửa, Thổ Địa Công Công đã đứng chờ từ lâu, Thổ Địa Công Công hướng về không trung vái tạ, tôi và Thổ Địa Công Công cùng chào nhau. Mỗi người nói một câu: “A Di Đà Phật.”

39. Giữa mê và ngộ

Trên thế giới này, có chính có tà, có thiện có ác, có mê có ngộ, tuy nhiên tôi muốn nhắc nhở độc giả một chút, hợp với đạo lý tức là không mê, không hợp với đạo lý mà lại tin theo tức là mê. Tại đây, tôi tiết lộ một lá thư mà độc giả gửi tới, thư này gửi từ phường Cô Gia thị trấn Tân Doanh, người gửi là Lâm Trung Dũng.

Lư tiên sinh, chào ngài! Biết ngài rất bận rộn, tuy nhiên tôi cũng tham gia là một trong số những người làm phiền thầy. Chủ yếu là vì tôi đã nghe lời giới thiệu của sư huynh Định Trưởng (ông Lâm Bích Tông, giám đốc chi nhánh Cathay Pacific ở Tân Doanh) nên đã lập tức đi đến hiệu sách mua cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán”. Tôi đọc một mạch hết cuốn sách, có cảm xúc rất sâu sắc trong lòng. Sau khi đọc xong, tôi lập tức có suy nghĩ thở phào. Như nay mới đọc, sau khi đọc về luyện linh, tôi lại không thể kìm được. Đối với cuốn sách này, ngoài việc mua một cuốn nữa để tặng cho người khác ra, tôi còn giới thiệu người khác mua nó, mục đích không chỉ là tán dương ngài, mà còn để cho những người xung quanh bớt chế giễu tôi là người quá mê tín. Tôi thật sự phấn khởi khi cuốn sách này ra mắt. Hàng tháng vào ngày mồng 1, 8, 15, 22, các tín đồ gặp mặt, chúng tôi sẽ luân phiên giới thiệu nội dung trong sách, sau đó hy vọng mọi người cũng có linh lực, mượn hoạt linh này để khiến cho những người vô thần không dám chỉ trích bừa là mê tín nữa.

Đối với sự tồn tại của thần và thần lực, tôi tin tưởng sâu sắc không nghi ngờ, hơn nữa từ nhỏ tôi đã thâm nhập vào tâm mình. Từ khi tôi hiểu chuyện, trong nhà thường không bình an, mời thần và kê đồng tới xem bói mỗi năm tới vài lần. 5 năm trước, mẹ tôi đổ bệnh nặng, bác sĩ chẩn đoán là ung thư cổ tử cung, tuyên bố là tính mạng đã không còn hy vọng, sau đó Ngô Phủ Thiên Tuế trong làng chỉ thị dùng thuốc, không ngờ đã khỏi bệnh.

Hiện nay, trên báo chí thường xuyên đưa tin những mánh khóe của thần côn để lừa tài gạt sắc, đó là những kẻ dựa vào thần để kiếm cơm, hành nghề kê đồng, phá hoại uy danh của thần minh. Hạng người này là ma quỷ, dứt khoát chẳng phải là thần. Tôi phân kê đồng làm mấy loại:

Thứ nhất, thần uy năng lực không tệ, đây là thần thánh linh lực cao, lại phối hợp với linh lực của kê đồng, nhưng bởi vì linh lực cao liền coi trời bằng vung, tính tình cũng dễ dàng trở nên cổ quái, cuối cùng đã từ kê đồng chính phái đi vào trong tà môn.

Thứ hai, linh lực thấp, bản thân kê đồng không coi trọng sự tiến bộ và tu hành, được ngày nào hay ngày ấy, chỉ làm qua quýt cho xong chuyện, căn bản là cực kì vô tri. Đôi khi giả vờ có thần nhập vào mà nói xằng nói bậy.

Thứ ba, có kẻ thì là thần côn ham của không thể tưởng tượng nổi, cũng có người thì từ chối của cải, không phải là ít.

Vào ngày mồng 10 tháng này, tôi đã bắt đầu trai giới 3 ngày, đêm qua vào lúc 10 giờ tối ngày 12, tôi bắt đầu khởi linh, sau khoảng nửa tiếng đồng hồ thì tôi bắt đầu sinh ra động lực, ngón chân phải giống như bị điện giật, sau đó có cảm giác vận động, dần dần có thể tùy ý mà chuyển động, hoặc ngả về trước, hoặc sang trái phải, hoặc ngả về sau, lực này có thể kiểm soát, nhưng không kiểm soát thì tự nhiên dao động, xin hỏi đây có phải là hiện tượng linh động không?”

Ông Lâm Trung Dũng nói đến kê đồng, tôi có thể hiểu được sâu sắc những đau khổ trong nội tâm ông ấy, có rất nhiều kê đồng đã trở thành trò cười cho phần tử tri thức. Bản thân tôi không có thiện cảm với kê đồng, nguyên nhân là vì kê đồng giả quá nhiều, kê đồng thật quá ít, học thức cũng quá thấp, căn bản là hạng ăn bám xã hội thấp cấp. Nhưng nếu có một kê đồng không lừa tiền gạt sắc, thật sự có thần nhập vào, tôi cảm thấy vẫn nên tôn kính. Kê đồng là thể trung gian của linh, nếu không làm loạn vớ vẩn thì cũng có thể thần toán, nhưng rốt cục chỉ trở thành một hình thức, dễ khiến người ta có cảm giác mê tín.

Kê đồng và người tu linh có sự phân biệt. Linh của kê đồng là thể trung gian của thần quỷ, linh của người tu linh thì có thể tự chủ, cũng có thể kiểm soát. Gọi là Phật tức là quán tự tại, cũng là chỉ sự tự chủ (không điên đảo), nếu điên đảo thì sẽ trở thành tà đạo, trở thành ma rồi. Sự khác biệt giữa mê và ngộ nằm ở đây. Mê tín chính là tâm điên đảo không thể tự chủ, không mê mà tin thì là tự chủ và hợp lý. Tôi vẫn luôn chán ghét những kê đồng lừa tiền gạt sắc, những hành vi đáng ghét của họ khiến hai tôn giáo Phật-Đạo rất tốt đẹp bị oan ức. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu không có những thần côn này, người muốn tu Đạo tuy có thể tu dễ dàng hơn rất nhiều và không bị tà thuyết làm cho mê muội, nhưng lại cũng không biểu lộ được sự cao quý của tu Đạo.

Lại có một độc giả ở đường Nam Kinh Đông ở Đài Bắc gửi thư đến, người này họ Trương.

Lư tiên sinh soi xét. Chủ nhật tuần trước tôi đến hiệu sách mua cuốn danh tác “Linh cơ thần toán” quý giá, tôi đọc liền hai lần, những nghiên cứu về thần, quỷ và linh thuật trong sách thật sự rất triệt để, tôi thật sự cảm thấy kính phục vô cùng, đúng là một cuốn sách hiếm có nghìn năm khó gặp. Có lẽ những độc giả bình thường đối với những gì mà tiên sinh đã gặp phải sẽ có cảm giác bán tín bán nghi, thế nhưng tôi đây thì tin tưởng muôn phần, tuy rằng những cảnh ngộ của chính tôi so với tiên sinh thì kém xa, nhưng đều giống ở chỗ là tôi cũng có những cảnh ngộ như vậy. Tôi cũng từ Cơ Đốc chuyển sang tin Diêu Trì Kim Mẫu của Từ Huệ Đường ở Bắc Đầu, sau đó cũng tiến vào Phật giáo, bây giờ tôi xin kể cảnh ngộ của mình như sau:

Bản thân tôi tin Cơ Đốc khoảng 7, 8 năm. Khoảng mùa xuân năm Dân Quốc 55 [1966], tôi đi cùng bố mẹ do cậu tôi đưa đến Từ Huệ Đường ở Bắc Đầu, Đài Bắc. Khi ấy thấy bố mẹ tôi và cậu kiền tâm thành ý lễ bái Diêu Trì Kim Mẫu, tôi cảm thấy vừa buồn cười vừa tò mò, tôi cũng theo họ xem bói chén để cầu chỉ thị, kết quả là liên tục đổ ra mấy lần mà không có kết quả. Khi ấy tôi cảm thấy bên trong người nóng rực nên có hỏi thăm trụ trì Diễm Minh Đại, cũng không có kết quả, tôi cảm thấy rất khó hiểu.

Buổi tối ngày thứ ba ở quê nhà tôi ở Nghi Lan, không ngờ tôi mơ thấy trong vườn cây ăn quả của nhà mình có hai người phụ nữ, một người trong đó mặc váy dài rất tinh xảo, nói rất rõ ràng: “Tất cả theo duyên, cải tín cũng được, anh phải hiểu rõ.” Khi ấy tôi không hiểu, về sau mới biết ý của người này. Vì thế tôi đã đổi sang tin Diêu Trì Kim Mẫu.

Nói ra kể cũng lạ, từ đây, không những việc của bản thân đệ tử mà ngay cả việc trong nhà, có việc tốt việc xấu gì sắp xảy ra, đều được thần tiên báo mộng cho biết. Nếu không có báo mộng thì ở trong tâm linh sâu thẳm dường như có một dạng dự cảm. Tôi nhận thấy mình cũng là kiểu người có linh lực dự cảm đó, nhưng trình độ không cao, vì thế đặc biệt gửi thư thỉnh tiên sinh liệu có thể giúp đỡ không, để thúc đẩy linh lực dự cảm này của bản thân tôi.”

Anh Trương gửi lá thư này cũng là một nhà mệnh lý học, cũng xem tướng cho người ta, khá thông thạo tướng mệnh. Thư của anh ấy, tôi cho rằng: “Tín ngưỡng tôn giáo, tôi không cố chấp, chỉ cần cho rằng đáng để tín ngưỡng thì cứ tín ngưỡng đi! Bất kì một người nào đều có lúc mê, nhưng chỉ cần từ trong mê đi ra được thì có thể có được ngộ cảnh.”

Trên thực tế, tôi nhận ra người người đều có linh lực, và người người đều có năng lực dự đoán sự việc sắp xảy ra, đây là bản lĩnh vốn có khi sinh ra. Có người thì năng lực dự cảm đặc biệt cao, còn một số người năng lực dự cảm tương đối thấp, sự cao thấp về trí huệ chính là ở đây để mà phân biệt ra được. Thiên tài và phàm phu dường như cũng là bản năng trời sinh, nếu cộng thêm huấn luyện thì có thể khiến những học giả tâm linh thấy rất kinh ngạc. Ở sâu trong tâm linh của nhân loại tự nhiên tồn tại một dạng khí cụ thăm dò, nếu thường sử dụng, không những có thể dự đoán chính mình mà còn có thể dự đoán người khác. Người mê, tự cho rằng thiên hạ không có linh; người ngộ, nghiên cứu phát minh, biết điều mà con người không biết.

40. Sự đồng cảm với cuốn sách tâm linh (1)

[Thư của độc giả]

Khi viết bài viết này, trong lòng tôi có một nỗi xúc động, kẻ hèn này chẳng phải là tác giả văn nghệ, không viết ra được những văn từ đẹp đẽ êm tai, chỉ xuất phát từ sự chân thành trong lòng mình, hướng đến một người tri kỷ (hoặc ân sư) mà mình ngưỡng mộ, dốc hết những kích động nội tâm, và sự kích động này lại sâu sắc nhận được sự rung động của đối phương, dẫn đến những sự đồng cảm. Có lẽ nội dung văn chương của tôi không diễn đạt được hết ý, nếu có đắc tội với các tiên sinh đại đức, xin các vị tiên sinh rộng lòng lượng thứ.

Cuộc đời con người là một sự hoang mang khó đoán như vậy, khó trách con người khao khát muốn biết trước tất cả về tương lai của chính mình, đây là bản tính yếu ớt của con người, tò mò và muốn cầu nhiều phúc. Động cơ mà tôi mua cuốn sách “Mạn đàm linh cơ thần toán” chính là ở đây, Lư tiên sinh viết rất nhiều sách, cuốn sách đầu tiên mà kẻ hèn này mua chính là cuốn “Mạn đàm linh cơ thần toán”, vì kẻ hèn này cũng thích đọc sách tướng mệnh, và từ trong nội dung cuốn sách này mới biết sơ sơ một vài sự tích cuộc đời của tiên sinh. Khi chưa đọc cuốn sách này, tiên sinh là người thế nào, kẻ hèn này cũng chưa bao giờ nghe nói tới.

Mua cuốn sách này, cũng có thể nói hoàn toàn là cơ duyên. Ban đầu tôi không hề chủ định đi xem hiệu sách, tôi lật giở vài cuốn sách, sau đó lấy ra cuốn sách này. Đầu tiên tôi cho rằng là sách tướng mệnh bình thường, thế nhưng giở qua mấy trang thì chẳng ngờ không nỡ buông tay, trong lòng có một cảm giác khó nói, là kinh ngạc, là hân hoan, có vui, có buồn, giống như cả người sắp phát điên vậy. Lẽ nào kẻ hèn này cả đời theo đuổi chân lý chính đạo, giờ đây đã gặp được minh sư tri kỷ rồi sao? Lẽ nào là tự làm phiền mình, đây chỉ là tưởng tượng của một tiểu thuyết gia, là thật, hay là giả? Và nếu có người như thế này, viết ra một cuốn sách vĩ đại như thế này, nếu là thật, kẻ hèn này có cơ duyên được gặp để nhận giáo huấn hay không?

Tôi mua cuốn sách này về, trong khi đọc, toàn bộ tâm trí giống như gặp ma vậy, rất lâu mà không thể nào bình tĩnh được, còn chưa đọc được một nửa thì tôi đã vội vàng muốn liên lạc kết duyên với tiên sinh.

Tôi vốn lập kế hoạch trong cuộc đời này của mình sẽ lập tức kết hôn sinh con, hưởng thụ niềm hạnh phúc gia đình, đợi đến tuổi già thì sắp xếp cho con cái ổn thỏa rồi sau đó mới chuyên tâm tu Đạo. Thế nhưng sau khi đọc xong cuốn sách tâm linh này, chẳng ngờ đã khiến cho mặt hồ tâm bình tịnh không gợn sóng của tôi trào dâng những gợn sóng lăn tăn, càng làm sâu sắc thêm cái tâm muốn xuất gia tu hành của tôi trong thời gian trước đây. Bây giờ tôi lại không muốn kết hôn sinh con nữa, đây là nhân duyên gì khiến tôi đọc được cuốn sách này, là nhân duyên gì mà không ngờ đã thay đổi vận mệnh của tôi? Sách của tiên sinh có sức mạnh to lớn đến vậy, chỉ mong từ bi lượng thứ: không phải là tôi tự mình đa tình, mong bậc đại trí đại dung đại đức từ bi.

Bắt đầu từ hồi cấp hai, kẻ hèn này đã sản sinh rất nhiều nghi vấn đối với sinh mệnh vũ trụ, muốn tìm ra chân đế của cuộc đời, giá trị của đời người nằm ở đâu? Giống như trong cuốn sách đã nói, trải qua hết Phật, Đạo, Cơ Đốc, sau đó chuyên chú vào nghiên cứu thảo luận Phật pháp. Hai năm trước, tôi đã có dự định xuất gia, thế nhưng tự biết tình người, dục vọng vẫn chưa thể dập tắt, nếu xuất gia thì chỉ có sỉ nhục cửa Phật chứ chẳng có lợi ích gì cho chúng sinh. Vì thế mới muốn đợi đến lúc già, trải qua hết việc người rồi, dục vọng không còn nữa thì mới nhất tâm tu hành, có lẽ có thể thu được thành tựu, như thế thì vô cùng may mắn. Tuy nhiên khi đọc xong cuốn sách tâm linh, tôi càng nhìn rõ tất cả danh lợi, ân oán trên đời này, tâm ý tu hành càng kiên định hơn, có thể thúc đẩy thời kỳ xuất gia này của tôi sớm hơn, có thể là trong vòng một, hai năm thôi.

Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật có nói, muốn xuất ly sinh tử, chỉ có dựa vào khổ tâm tu hành của chính mình, thế nhưng thử nhìn xem trong lời Phật có nói, minh sư khó gặp được, chính pháp khó nghe được, như người mù xem voi, chẳng sờ thấy được hết, trái lại uổng công mà chẳng được gì, có thể thấy tầm quan trọng của minh sư và tu đạo. Từ trong cuốn sách tâm linh, tôi biết rõ rằng tiên sinh chính là một tu hành giả thật sự có đại từ, đại bi, đại trí, đại nhân. Hy vọng tiên sinh phổ độ chúng sinh xuất ly biển khổ.

(Bài viết này được gửi từ Bành Hồ, người gửi là Triệu Khánh.)

41. Sự đồng cảm với cuốn sách tâm linh (2)

[Thư của độc giả]

Cung kính đọc danh tác “Mạn đàm linh cơ thần toán”, thật sự đây là một bộ thiên hạ kỳ thư, một cuốn sách liên quan đến thuyết linh hồn quỷ thần. Tôi lâu nay vẫn ở trong trạng thái nghi vấn “cũng có cũng không, dường như tin mà cũng không tin”, không dám cực đoan phủ nhận, nhưng cũng không dám tin tưởng triệt để. Nhưng có những sự việc bất khả tư nghì mà Lư tiên sinh đích thân trải qua mới khiến trong suy nghĩ của tôi cho rằng trong cõi vô hình, có một số chuyện mà sức người không thể sắp xếp, tất cả những bằng chứng rõ ràng này, từ trong quá trình tôi lưu vong ở Đài Loan, tôi đã đích thân trải qua, nhưng tiếc là vẫn luôn không có được căn cứ lý luận có tính hệ thống và cụ thể, vì thế những hiện tượng này từ đầu tới cuối vẫn luôn dao động giữa “nhận thức không kiên định, lý luận không chắc chắn”, như có như không.

Cũng có khả năng là thần ý an bài, tình cờ tôi phát hiện ra cuốn danh tác linh thư này. Sau khi đọc nó, tôi giống như có được một kho báu quý giá nhất, đối với những nghi vấn trước kia, tôi nhanh chóng đột ngột tỉnh ngộ. Cuốn danh tác viết ra đều có bằng chứng căn cứ, có lý lẽ, lời tự thuật bàn đến cả khoa học và triết học. Tôi nhớ rằng trong 20 năm qua kể từ khi đến Đài Loan, tôi chưa bao giờ đọc một cuốn sách nào quá hai lần. Thế mà tôi không chỉ đọc cuốn danh tác này hai lần, hơn nữa hầu hết những điểm quan trọng đều được khoanh tròn bằng bút đỏ, lòng chân thành ngưỡng mộ của tôi không thể diễn tả bằng lời. Từ sau khi đọc xong danh tác này, trong lòng tôi rất muốn thờ vị Quan Thế Âm Bồ Tát, ngài nói xem có được không?

Bây giờ đối với hai chữ “tin thần”, tôi không còn suy nghĩ mê tín nữa. Bởi vì nhận thức về “thần” không đủ, lại chưa thể phá bỏ giới hạn mê tín nhưng đã tiến một bước gần hơn đến “thần”, vì thế tôi vẫn loanh quanh giữa “dường như tin, không tin, có thể tin” và “nửa tin gần tin” của sự “có tin không tin”, vì thế chỉ thỉnh cầu tiên sinh chỉ rõ sai lầm.

Theo trang 22 của cuốn danh tác này có nói: “Cứu độ muôn sinh trong thiên hạ phải phát đại từ bi, tuyên truyền rộng rãi chính giáo ngay từ lúc này. Để cho các thiên hạ và đời tương lai đều được truyền bá giáo pháp… khiến cho những hạng ngu muội hồ đồ thì đều nhờ con thuyền chính giáo mà có thể hiểu ra.” Mong ngài có thể căn cứ theo ý chỉ của thầy Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh của ngài để giới thiệu cho tôi giáo pháp, nhưng không biết Phật duyên giữa chúng ta ra sao?

Ngưỡng mộ tiên sinh, tuổi chỉ mới ba mươi, thế mà đã có được những nghiên cứu và tâm đắc sâu xa như vậy đối với Phật Đạo, cũng là bậc hiền triết kỳ tài hiếm có trên đời. Xin thành tâm tiếp nhận những điều bổ ích, mong có ngày xin được gặp mặt để thấy rõ tất cả.

(Bản văn được gửi từ Cao Hùng, người gửi là Khắc Đồng.)

(Lời kết: Bởi vì có quá nhiều độc giả gửi thư đến và tự tìm đến cửa nhà tôi, trong vòng một tháng mà thư đã đầy cả hòm lớn, mỗi ngày chủ nhật có khoảng trăm người đến cửa nhà tôi muốn gặp, xin thứ lỗi tôi vẫn chưa có thuật phân thân. Việc xử lý thư từ có khó khăn, lại không thể mượn tay người khác để trả lời được, người không gửi kèm theo tem và phong bì thư thì tôi đều không trả lời thư, bởi vì nếu tôi trả lời hết từng lá thư thì thật sự cũng khá khó khăn, trước mắt phí bưu điện hàng tháng đã lên tới cả năm nghìn tệ, tôi cũng không thể gánh nổi con số này, chỉ mong độc giả thứ lỗi.

Bởi vì việc thế tục của tôi còn nhiều, người đến nhà xin chỉ giáo xin hãy hẹn trước thời gian, để tránh uổng công đi về, thật sự tôi cũng áy náy, thật xin lỗi!)

42. Lời kết

Từ trước tới nay tôi chẳng thể ngờ rằng, việc xuất bản sách tâm linh của mình lại tạo nên một sự vang động lớn đến như vậy. Một truyền mười, mười truyền trăm, một cuốn sách không hề quảng cáo mà có thể đạt đến mức bán chạy như vậy, khiến người ta khó tưởng tượng. Thư độc giả gửi đến mỗi ngày lại tăng lên, thư phòng nhỏ của tôi đã chất đầy thư, trước mắt tôi chỉ có thể chọn những thư quan trọng nhất để trả lời, và những thư có kèm theo tem, bởi vì tôi không thể gánh vác được tiền phí bưu điện cả mấy nghìn tệ, huống hồ tiền lương hàng tháng của tôi chỉ có vài nghìn tệ mà thôi. Tôi rất cảm kích độc giả đã gửi thư đến, những sự khích lệ bay đến như tuyết rơi này khiến tôi xúc động rơi nước mắt, bởi vì những người không quen biết này luôn luôn là những người bạn thân thiết và chân thành nhất của tôi. Tại đây, tôi muốn nói với mọi người một tiếng cảm ơn!

Xuất bản sách tâm linh là nhờ vào một dũng khí, dũng khí này đến từ sự thúc giục của thần linh tại không trung, các vị muốn tôi viết ra toàn bộ không giữ lại, mặc dù độc giả đọc sách của tôi, bất kể là tin hay không tin, tôi vẫn luôn theo lời của thần linh mà làm, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà các vị giao phó cho tôi. Kính mong độc giả đừng hỏi tôi thật giả, cái giả thì không thể thật, cái thật thì không thể giả. Tôi chỉ cam đoan những trải nghiệm của tôi là những lời thành thật thẳng thắn nhất, rồi đến một ngày sẽ có người chứng minh cái người viết sách tâm linh đó vốn là người tiên tri tiên giác, sẽ có một ngày người ta sẽ nói như thế, tôi thật sự tin tưởng chắc chắn.

Đối với tôn giáo, tôi không phản đối tín ngưỡng của người khác, tác giả có thân phận đặc biệt, Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều có cả. Đối với Cơ Đốc mà quá khứ tôi từng tín ngưỡng, tôi vẫn hết sức tôn kính, sẽ không vì mình đã quy y Phật môn mà đem Cơ Đốc “đày vào lãnh cung”. Xin kể một việc rất thần kỳ, khi tôi quy y cửa Phật, Jesus Christ từng xuất hiện trước giường tôi, dùng tay xoa đầu tôi nói: “Thắng Ngạn thân mến, tôn giáo không phân biệt phương Tây và phương Đông, bất luận con đi qua vùng hoang vu vắng vẻ hay là hang sâu tăm tối, vinh quang của ta đều ở trên mặt con. Con sẽ không phản bội ta, ta biết, bởi vì nhận thức của con cao và xa hơn người khác, hãy dùng trí huệ của con mà đứng lên đi! Chỉ có kẻ vô tri ngu muội mới là đối tượng mà ta thương xót. Ôi những kẻ đó lại một lần nữa đóng đinh ta lên cây thập tự!” Ánh mắt từ bi của Jesus Christ khiến tôi khó quên, nét mặt vinh quang như tuyết ấy tỏa sáng trong đêm tối, tôi vốn là người đã trải qua ba tôn giáo, Jesus Christ biết cả.

Tôi đến từ trong một cảnh giới kỳ diệu, trong thế giới đó, những gì tôi mặc trên người đều vi diệu thơm tho thuần khiết, đầu đội mũ báu của chư thiên, màu sắc và ánh sáng vô lượng vô tận, thân thể nhẹ nhàng trong sáng vi diệu, ngồi trên thiên tọa không hề động đậy. Có thiên nhạc kỳ diệu và âm thanh hòa nhã bay bổng khắp xung quanh, ánh sáng trên người tỏa ra giống như mặt trăng mặt trời, màu sắc giống như hoa sen, cảnh giới này rất thù thắng, không khổ không sầu. Có một đồng tử cầm hoa thơm cúng dường, có thiên chúng bảo vệ, thiên thần làm Hộ pháp thần binh, cảnh giới này là cảnh giới như như bất động ban đầu của tôi, chỉ là hiện tại tôi xuống làm phàm phu, đã từng vào tam đồ địa ngục, không có ánh sáng thanh minh phổ chiếu, tôi đã quên lai lịch đời trước của mình rồi! Cho đến khi chư Phật Bồ Tát thương xót tôi, đánh thức linh mệnh của tôi, cuối cùng, tôi biết sự quý giá của thân người, đời này nếu không tu đạo, e rằng khó trở về bản vị.

Trên nguyên tắc nhân từ và ái tâm, tôi muốn đem những gì mình đạt được chia cho bạn bè của tôi, khiến họ cũng có thể giác ngộ, tu hành mà có được những điều bổ ích, chuyển pháp luân, giành được Phật quả vô thượng, đây mới là ý định chủ yếu nhất khi tôi viết sách tâm linh. Đời người nếu không biết tu hành chân chính thì thật sự rất đáng tiếc, bởi vì một chữ “chết” sẽ đến rất nhanh!

Trời đất còn có hồi kết Đời người cần xem như không Chẳng ai sống mãi tuổi trẻ Tránh sao thành bộ xương khô Bốc đất đắp lên phần mộ Chôn cả áo bào mũ mão Sao biết bao nhiêu đời sau Người ta cày lên bùn nhão.

Bài kệ này đã nói hết sự vận hành của thế giới nhân gian, nhưng không nhiều người hiểu, thật đáng thương đáng buồn. Tôi học được bí pháp từ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, từ Thanh Chân Đạo Trưởng, khiến tôi biết trước nhân quả họa phúc của đời người, xuất u nhập minh, trên đến ba mươi sáu thiên cang, dưới đến bảy mươi hai địa sát, tôi hiểu không ít về sự dễ biến đổi của ngũ hành cửu cung bát quái, sự biến hóa của Hoàng cực thiên số càng khiến tôi hiểu sự bí ẩn của thần toán. Trong cõi vô hình này, tôi quán tưởng chính mình bay vào trong thế giới vô lượng vô tận, tuy đã trở thành một hạt kê nhỏ nhưng có thể phát ra vô số hào quang.

Việc hoàn thành bản thảo của cuốn sách này hoàn toàn là tôi đáp ứng yêu cầu của độc giả mà viết ra, người người đều tò mò về thế giới của linh hồn, hơn nữa họ nhìn nhưng không nhìn thấy, nghe nhưng không nghe thấy, nếu tôi không lần lượt nói ra một cách kĩ càng về sự đột phá của sinh tử, chân lý của nhân quả luân hồi, thế thì nghi ngờ của con người càng lớn. Tôi hy vọng mọi người đừng nhìn tôi bằng con mắt tò mò, tôi giống như người bình thường, không hề có chỗ nào khác thường.

“Tu linh có thể chứng Phật quả.” ”Tu linh có thể đạt đến cảnh giới đạo quả vô thượng của vô tu vô chứng.” Tuyệt đối không phải nói bừa.

Tháng 11 năm 64 Trung Hoa Dân Quốc, tại Linh Tiên Tinh Xá, phường Nghi Hân, xã Thái Bình, huyện Đài Trung.

(Hết.)

Mục lục