📗

202. Nhìn xa nghìn dặm

image

Nhìn xa nghìn dặm

🪷 Huệ nhãn và thiên nhãn

Văn tập: 202 Xuất bản: 07/2008 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Ghi chép chuyện Đậu Đậu vãng sinh tịnh thổ

Cô Lý Tổ Gia ở Đài Loan có một con chó nhỏ lông xoăn màu trắng, đặt tên là Đậu Đậu. Cô Lý Tổ Gia và Đậu Đậu đã làm bạn với nhau hơn 10 năm, mối duyên phận tình cảm của hai người giống như mẹ con. Trên thực tế, cô Lý Tổ Gia xem Đậu Đậu như do chính mình sinh ra, thật sự coi Đậu Đậu như đứa con trai.

Thứ tình cảm yêu thương và che chở lẫn nhau bằng mọi giá ấy, trên cõi đời nhân tình bạc bẽo này, thật sự là rất hiếm có.

Sư tỉ Lý Tổ Gia là đệ tử của tôi. Chú chó nhỏ Đậu Đậu cũng là đệ tử của tôi. Cùng quán đảnh. Cùng nhận gia trì. Mỗi lần sư tỉ Lý Tổ Gia tu Bổn tôn niệm tụng, chú chó nhỏ Đậu Đậu ngồi im ở bên cạnh, dựa vào người sư tỉ Lý, dường như Đậu Đậu cũng đang tu pháp. Nếu có Thượng sư ở Đài Bắc hoằng pháp, sư tỉ Lý Tổ Gia và Đậu Đậu cùng có mặt, Đậu Đậu rất ngoan, không kêu, cả hai cùng nhận quán đảnh, cả hai cùng nhận gia trì.

Có một lần, Lý Tổ Gia mời chúng tôi đến nhà hàng Thanh Diệp ăn bữa khuya, Đậu Đậu cũng đi theo, người của nhà hàng nói: “Thưa cô, xin lỗi, chó không thể vào nhà hàng.” Sư tỉ Lý nói: “Nó không phải là chó, nó là con trai tôi, nó rất sạch sẽ, rất ngoan, không kêu, cho nó một chỗ ngồi đi.” Nhà hàng cũng đặc biệt châm chước, Đậu Đậu ngồi tại ghế riêng của mình, hiên ngang như con người.

🌟

Cuối cùng Đậu Đậu cũng già, bị bệnh, nó mắc rất nhiều bệnh, bác sĩ thú y nói: “Thọ mạng của nó đã kết thúc rồi!”

Sư tỉ Lý tự mình đưa Đậu Đậu nam tiến xuống Đài Trung, đúng lúc tôi đang ở Đài Trung. Sư tỉ Lý thỉnh cầu tôi tiếp dẫn Đậu Đậu vãng sinh tịnh thổ. Tôi sờ đầu cho Đậu Đậu và đồng ý đích thân tiếp dẫn. Sau đó, tôi trở về Nam Sơn Nhã Xá ở Seattle nước Mỹ.

Không lâu sau, tôi nghe tin Đậu Đậu đã qua đời. Tôi ở tại Nam Sơn Nhã Xá lập đàn tu pháp siêu độ, thần thức của Đậu Đậu bay vào trong tay tôi.

Ở xa nghìn dặm, tôi nhìn thấy Đậu Đậu ở bên kia Thái Bình Dương từ trong miệng nôn ra một vũng nước màu đen, tượng trưng rằng toàn bộ nghiệp chướng nhiều kiếp đã được nhả ra hết, toàn thân Đậu Đậu thanh tịnh rồi.

Tôi bế thần thức của Đậu Đậu đưa cho A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tự tay tiếp dẫn Đậu Đậu đến Phật quốc tịnh thổ ở Tây phương Cực Lạc thế giới.

🌟

Sự việc sau đó đã chứng minh:

Vào lúc Đậu Đậu sắp chết, trong vòng 8 giờ, sư tỉ Lý không động tới nó, sau 8 giờ mới phát hiện ra bên dưới cái gối của Đậu Đậu có một vũng nước đen, là nước chảy ra từ miệng của Đậu Đậu. (Tương ứng rồi!)

Sau khi hỏa thiêu Đậu Đậu có được 25 hạt xá lợi tròn xoe bảy màu sáng chói. Còn có được một bát to hoa xá lợi nhiều màu sắc, cực kì đẹp đẽ. (Tương ứng rồi!)

Con trai của sư tỉ Lý Tổ Gia, chó nhỏ Đậu Đậu, đích thực đã vãng sinh Tây phương Cực Lạc Phật quốc. Tôi nói: ”Đây là minh chứng của việc nhìn thấy từ xa nghìn dặm!”

Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 USA.

01. Ngôi nhà này không phải của anh

Một nhóm người chúng tôi, bao gồm chính tôi và đệ tử của tôi, trong các đệ tử có Thượng sư, pháp sư và hành giả, cùng đi xem ngôi nhà mới xây của Thượng sư Liên Đặng và Thượng sư Liên Diệu.

Ngôi nhà của họ xây trên sườn núi phía đông của hồ Sammamish, toàn bộ ngôi nhà tọa đông quay mặt về tây, từ bên trong nhìn ra ngoài là thấy mặt hồ sáng lấp lánh ánh bạc, hết sức đẹp đẽ, đặc biệt là khi mặt trời xuống núi, nước hồ phản chiếu ánh tà dương, đẹp không sao tả xiết. Tôi đã xem phong thủy cho ngôi nhà mới của họ.

Tôi chú ý đến mấy căn nhà ở lân cận đều là những ngôi nhà mới xây chưa lâu, trong đó có một ngôi nhà có bể bơi, cửa chính có hình dạng như mũ quan, tôi dùng huệ nhãn để nhìn. Kì lạ là, tôi nhìn thấy: Thượng sư Liên Diệu từ trong ngôi nhà đó đi ra. Thượng sư Liên Diệu đang bơi ở trong hồ bơi đó. Tôi giật thót mình, bởi vì ngôi biệt thự xa hoa đó là của người khác, không phải là nhà do Liên Đặng, Liên Diệu xây.

Nhóm người chúng tôi làm khách ở ngôi nhà mới của họ. Chủ nhân hết sức vui mừng. Bởi vì họ tự xây nhà mới, muốn giới thiệu tất cả mọi thứ đẹp đẽ của ngôi nhà mới. Vào lúc dùng bữa cơm, tôi khẽ nói một câu: ”Ngôi nhà này không phải của anh.” Mọi người ngẩn ra. Chủ nhân cũng không hiểu gì cả. (Chủ nhân mới xây một ngôi biệt thự, vừa mới xây xong, mời tôi xem phong thủy, lại mời các đồng môn ăn cơm. Không ngờ tôi nói ngôi nhà này không phải của anh.) Những người nghe thấy đều im lặng không nói. Người không nghe thấy đương nhiên lại càng không biết, có lẽ họ nghe thấy cũng giả vờ là không nghe thấy.

🌟

Khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà mới xây của hai vị Thượng sư Liên Đặng và Liên Diệu, chúng tôi lên xe, tôi chỉ vào ngôi biệt thự ở sườn núi trên cao hơn và nói: ”Thượng sư Liên Diệu, ngôi nhà kia mới là nhà của hai người, nếu hai người muốn thì nó chính là của hai người.” (Có cổng hình mũ quan, có hồ bơi.) Tôi nói: ”Thế hệ sau sẽ làm quan to.” Thượng sư Liên Diệu lúc đó, tôi không biết có nghe và lưu ý đến câu nói này hay không.

🌟

Trải qua nhiều năm sau, tôi lại ẩn cư bế quan sáu năm, sau khi xuất quan, tôi mới biết Liên Đặng và Liên Diệu đã bán đứt ngôi nhà mới xây và đã mua ngôi biệt thự ở sườn núi cao hơn, chính là ngôi biệt thự xa hoa có cổng mũ quan và hồ bơi. (Tương ứng rồi!)

Tôi đã chứng tỏ huệ nhãn của mình là chính xác, tôi nhìn thấy tương lai của mấy năm sau. Ngôi nhà mới xây của các bạn, tôi nói không phải là nhà của các bạn. Ngôi nhà mới xây của người khác, tôi nói đó mới là nhà của các bạn. Bạn tin hay không? Một khi huệ nhãn của tôi đã nhìn ra thì chính là định số. Bạn bảo kì lạ, tôi nói không kì. Bạn bảo không kì lạ, tôi nói kì. Tất cả những việc này đều là định số. Huệ nhãn của tôi đã nhìn thấy rồi, lần này tôi không nói nhiều, đợi đến hồi sau sẽ rõ! Đây là điều tôi nhìn thấy về ngôi biệt thự.

Cuộc đời hư huyễn, thế sự vô thường mà!

02. Quan Thế Âm Bồ Tát nói như vậy

Có một người tên là Fujita Hideyoshi đến từ Nhật Bản đặc biệt đến Seattle Lôi Tạng Tự gặp tôi. Tôi hỏi: “Từ đâu đến?” Đáp: “Nhật Bản.” ”Là Bồ Tát bảo anh đến nhỉ!” ”A! Làm sao Lư Sư Tôn biết được?” - Fujita Hideyoshi giật thót mình, vô cùng kinh ngạc. Anh ấy kể: Anh ấy mắc một căn bệnh lạ, cơ bắp toàn thân bị thoái hóa, càng ngày càng gầy gò, đã gặp danh y khắp nơi nhưng đều không tìm ra nguyên nhân bệnh, đồng thời các bệnh viện lớn cũng không chữa khỏi. Anh ấy bất đắc dĩ đã tìm đến một ngôi chùa, trong chùa có một cô gái trẻ người Nhật đang hỏi chuyện.

Quan Thế Âm Bồ Tát giáng lâm, nhập lên người cô gái trẻ người Nhật này và nói với anh: Đi Mỹ, đi tìm một ngôi chùa, mặt sau có núi, mặt trước có hồ, có một vị sư phụ, ông ấy có năm triệu đệ tử…

Thế là anh ấy rất thành tâm thành ý nghe lời Quan Thế Âm Bồ Tát, thật sự đã đến Mỹ, thế rồi tìm đến Seattle Lôi Tạng Tự, mặt sau có núi, mặt trước có hồ Sammamish, và tôi thật sự có năm triệu đệ tử. Tôi nói với Fujita Hideyoshi: ”Việc của anh tôi đã biết rõ cả rồi, Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ điểm việc của anh, tôi cũng sẽ tuyệt đối xử lý, hơn nữa sẽ xử lý hoàn toàn triệt để nữa, anh yên tâm đi!” Nét mặt Fujita Hideyoshi lộ vẻ mừng rỡ. Anh ấy đã hiểu dụng ý của tôi, tôi cũng sẽ tuân theo ý chỉ của Bồ Tát để hoàn thành tâm nguyện của anh ấy. Tâm nguyện của Fujita Hideyoshi. Tâm nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát. Tâm nguyện của tôi. Ba tâm nguyện này đều tương thông.

🌟

Nhân tiện tại đây tôi nói với mọi người, Fujita Hideyoshi không chỉ vì bệnh của bản thân mà đến gặp tôi. Anh ấy có một kế hoạch rất lớn nên mới đến gặp tôi, kế hoạch lớn của anh ấy là đại thiên cơ, là sự nghiệp đại thiện, là tâm nguyện cả cuộc đời của anh ấy. Kế hoạch rất lớn này, trên thế giới này, cũng chỉ có người “đại năng” là tôi mới có thể hoàn thành được. Tôi cho rằng, cũng chỉ có người “vô tận” như tôi đây mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.

Quan Thế Âm Bồ Tát nhập lên người của cô gái trẻ ngây thơ trong sáng kia, cũng giống như người chỉ dẫn hoàn thành kế hoạch lớn như trời này. Nước Mỹ, ngôi chùa tựa lưng vào núi quay mặt ra hồ, người có năm triệu đệ tử, có thể hoàn thành được kế hoạch lớn này. Kế hoạch lớn này là gì? Không thể nói! Không thể nói! Không thể nói! Fujita Hideyoshi biết, Quan Thế Âm Bồ Tát biết, tôi biết. Trong thiên hạ này, chỉ có ba người biết mà thôi, xin lỗi, tôi tạm thời không thể nói với mọi người, bởi vì đây thật sự là một thiên cơ vĩ đại, bất kì người nào cũng không đoán ra được đại thiên cơ này đâu.

Quan Thế Âm Bồ Tát muốn Fujita Hideyoshi đến tìm tôi. Tôi đương nhiên biết. Bởi vì chỉ có tôi mới có thể hoàn thành đại tâm nguyện từ bi của Bồ Tát, tôi cũng hiểu sâu sắc tâm của Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngoài đảm đương truyền pháp cứu đời ra, thì đây là nhiệm vụ khó khăn nhất rồi, là nhiệm vụ lớn nhất của Phật giáo Đại thừa. Mọi người đoán thử xem là gì?

03. Không cứu được, không cứu được rồi

Khi tôi ở Malaysia truyền quán đảnh pháp Thời Luân Kim Cang, Thượng sư Liên Hinh ở Hồng Kông đem ảnh và tư liệu của một người đưa cho tôi xem. Tôi hỏi: ”Người ở đâu đây?” Đáp: “Trung Quốc.” Tôi hỏi: “Họ gì?” ”Hồng Vẫn Ý.” (bí danh) Thượng sư Liên Hinh thì thầm hỏi tôi: “Có cứu được không?” ”Không cứu, không cứu được rồi!” (Từ trên tấm ảnh đó, tôi nhìn thấy một bộ xương nằm trong quan tài.) Thượng sư Liên Hinh nói: ”Sư Tôn, người này, bất luận thế nào, nhất định phải cứu, nhất định phải cứu!” Tôi chỉ gật đầu, nói: “Để thử xem!”

Sau đó, tôi trở về Seattle nước Mỹ. Thượng sư Liên Hinh từ Hồng Kông bay qua Mỹ, đặc biệt cầm theo tấm ảnh rồi lại đến gặp tôi. Hỏi: “Cứu được không?” Tôi nhìn thì thấy trên tấm ảnh hiển thị một người vẫn nằm trong một cỗ quan tài.

Tôi lại lắc đầu: ”Không cứu được, không cứu được rồi!” Thượng sư Liên Hinh nói: “Người này, bất luận thế nào Sư Tôn cũng phải cứu, Sư Tôn có năng lực to lớn Phật pháp siêu nhiên, bất luận thế nào nhất định phải cứu anh ta, cầu xin thầy đó!” Tôi nói: “Để thử xem, để tôi cúng Hộ Ma vậy!”

Tôi vì Hồng Vẫn Ý này mà đốt ba lần Hộ Ma hỏa cúng, nhưng rồi tôi vẫn lắc đầu, bởi vì ở trong lửa Hộ Ma, tôi vẫn nhìn thấy một cỗ quan tài giống như vậy. Tôi lại thở dài một hơi: “Là định nghiệp rồi, không cứu được, không cứu được rồi!”

Thượng sư Liên Ninh, Thượng sư Liên Khiết ở Seattle Lôi Tạng Tự nhìn tôi lắc đầu, họ cũng đã biết từ đầu là Hồng Vẫn Ý e rằng thật sự không thể cứu được. Ở trong lửa Hộ Ma của tôi, cảm ứng duy nhất của Hồng Vẫn Ý là không ngờ hai tay có thể kết thủ ấn. Tôi nói: ”Tôi không có cách nào phá được định nghiệp, Như Lai cũng không thể nào phá được định nghiệp, tôi chỉ có thể tiếp dẫn anh ta vãng sinh Phật quốc tịnh thổ thôi.” Thượng sư Liên Hinh không mấy hy vọng, lại thỉnh các tăng nhân của Seattle Lôi Tạng Tự, chỉ vì Hồng Vẫn Ý mà: Bái sám. Tụng kinh. Tiêu tai. Thắp đèn. Thượng sư Liên HInh vì cứu Hồng Vẫn Ý mà có thể nói là đã dùng hết khả năng của mình, tất cả năng lực hữu hình, vô hình đều đã sử dụng hết sạch rồi. Thế nhưng, thứ tôi nhìn thấy vẫn là một chiếc quan tài. Tôi nói: ”Số kiếp đã định rồi!”

Tin tức sau đó truyền tới, Hồng Vẫn Ý đã qua đời trong phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện. Tôi nói: ”Tôi không có cách nào cứu mạng anh ta, bởi vì thân thể anh ta đã hỏng rồi. Nhưng trung ấm (linh hồn) của anh ta không hỏng, tôi sẽ đưa trung ấm của anh ta tiếp dẫn đến Phật quốc tịnh thổ thanh tịnh.” Thiên nhãn của tôi đã nhìn thấy anh ta tiến vào Phật quốc.

04. Ma treo cổ

Có một buổi sáng, tôi ở trong thiền định thì nhìn thấy một cảnh tượng: Bầu trời u tối, có sương dày mờ mịt, trong sương có một bóng đen thình lình bổ nhào vào tôi. Phản ứng tự nhiên của tôi là dùng ấn Tứ tung Ngũ hoành, tay trái là Ngũ hoành, tay phải là Tứ tung, đẩy về phía trước.

Bóng đen đó bị tôi đẩy ra thì ngã lăn ra. Thủ ấn của tôi phát ra lưới ánh sáng rất dày chụp lấy cái bóng đen đó. Bóng đen kêu lên: “Đừng bắt tôi, đừng đuổi tôi đi, tôi không muốn đi.” Đó là tiếng của cô gái trẻ. Tôi thu thủ ấn về, nhìn kĩ càng, cô gái trẻ này trông xinh đẹp, tóc dài, đáng tiếc là hai con mắt lồi ra, lưỡi thè ra ngoài, là bộ dạng của một con ma treo cổ. Con ma treo cổ đó nhìn thấy tôi thu thủ ấn lại thì nhỏm dậy bỏ chạy.

Sau khi tôi xuất định, tôi cũng không giữ lại chuyện này ở trong đầu.

🌟

Vào lúc chập tối ngày hôm đó, có ba người đến Seattle Lôi Tạng Tự, là người đến từ bang California nước Mỹ. Một nữ sinh trẻ tuổi tên là Ngải Lâm Đạt đi cùng mẹ và dì của cô ấy. Ngải Lâm Đạt có khuôn mặt thanh tú, thân hình đẹp đẽ, đáng tiếc là đôi mắt cứ trơ trơ, khuôn mặt không biểu lộ tình cảm gì cả.

Mẹ cô gái nói với tôi: “Phía trường học thông báo tâm thần của Ngải Lâm Đạt có điều bất thường, không nói chuyện, chỉ khóc, cử chỉ quái dị, yêu cầu phụ huynh đưa đi khám bệnh. Bác sĩ nói là chứng bệnh trầm cảm, mất ngủ, cho thuốc ngủ và thuốc an thần.”

Tôi dùng thiên nhãn, vừa nhìn thì thấy có một bóng đen ở tim của cô gái, tôi nhớ đến con ma treo cổ. Ha, thì ra là vậy! Dì của cô gái nói: ”Bác sĩ đã chữa một năm mà không khỏi, trái lại còn tệ hơn, ngày nào cũng khóc, đau tim, ngoài khóc ra thì cứ như người gỗ, không có một chút biểu cảm gì cả, ngày nào cũng muốn tự sát, chúng tôi có cần đưa nó đến bệnh viện tâm thần không?” Tôi nói: ”Cô ấy bị nhập! Bị ma ám!” Lúc này mẹ cô gái nói: ”Kí túc xá học sinh mà nó ở, cùng căn phòng đó có một học sinh đã treo cổ tự sát mà chết.” Tôi gật gật đầu. Cuối cùng tôi đã hiểu những gì nhìn thấy trong thiền định vào buổi sáng nay.

🌟

Tôi đưa Ngải Lâm Đạt đến Đại Hùng Bảo Điện của Seattle Lôi Tạng Tự, đứng trước Phật. Các pháp sư vây xung quanh nhìn. Hai tay tôi dồn dập đập vào lưng của Ngải Lâm Đạt, hét lớn: “Hum! Hum! Hum!” Tôi nhìn thấy bóng đen ngã ra thì mới dừng. Bóng đen đó chính là con ma treo cổ. Nó ngã ra xong thì lại bổ nhào về phía tôi, tôi kết ấn Giếng kim cang, thu con ma treo cổ vào trong giếng. Con ma treo cổ hét lớn: ”Tôi muốn tự do, ông không được trói tôi.” Tôi phớt lờ, thu con ma treo cổ vào trong tay áo tôi. Tôi cho Ngải Lâm Đạt uống ba lá phù chữ “thượng”.

🌟

Ngải Lâm Đạt cùng mẹ và dì trở về California. Tin tức truyền đến: Ngải Lâm Đạt đã trở lại trường học và lên lớp, không mất ngủ, không đau, không khóc… Tất cả đã bình thường. Chứng bệnh trầm cảm đã khỏi hoàn toàn rồi!

05. Một đám mây đen rất lớn

Có đệ tử hỏi tôi: ”Melbourne nước Úc có một người là Lâm Quế Sâm, Lư Sư Tôn có biết không?” Tôi đáp: ”Biết.” Tôi nói: ”Lâm Quế Sâm đã quy y tôi từ rất lâu rồi, tôi đặt tên cho Phật đường của ông ấy là Như Ý Đường, ông ấy tinh tấn học Phật, có hội in kinh, đã in rất nhiều kinh điển, công đức cực lớn. Đặc biệt là kinh Bản Nguyện Địa Tạng Bồ Tát, tôi từng tặng bài kệ cho ông ấy, bài kệ là:

Địa ngục hiển quang sáng long lanh Ẩn Đại Như Lai độ bỉ ngạn Rộng lớn vô biên bồ đề tâm Bồ Tát chuyển hồi sông ngân hà.

Ông ấy đưa trưởng lão Ngộ Minh đến chỗ tôi, để tôi và trưởng lão Ngộ Minh kết thiện duyên. Ông ấy đưa đấng tôn quý Jigdal Dadchen Sakya Rinpoche (Sakya Đạt Thanh giáo chủ) đến chỗ tôi, để tôi và giáo chủ Sakya kết thiện duyên. Còn có…”

Đệ tử nói: ”Lâm Quế Sâm có công đức lớn như vậy, ông ấy xây dựng một đạo tràng lớn ở Melbourne, xây dựng hai điện thờ Phật, sau khi xuất gia thì ông ấy giảng kinh thuyết pháp, khai quang đại điện, mũ mão chỉnh tề, trước cửa có con sư tử đực to lớn cực kì, khách hành hương đến đi nườm nượp. Ông ấy đúng là một cao tăng có đại năng lực, triển vọng tương lai rộng thênh thang…” Đệ tử lại hỏi: ”Nhưng vì sao lại chết đúng vào lúc huy hoàng nhất như vậy?” Lòng tôi buồn bã: ”Chỉ vì ông ấy đã phá giới samaya!” Giới samaya là giới không thể vi phạm, trong tu hành Mật giáo, không ai dám vi phạm giới này, nếu phá giới samaya tức là phá sợi dây liên hệ giữa Thượng sư, Bổn tôn và hành giả. Nếu phạm phải, không những không thành tựu các pháp đã tu, thần quản lời thề samaya sẽ cho đọa vào tam ác đạo, chẳng có ngày thoát ra, vì thế, hành giả Mật giáo không ai dám vi phạm.

Tôi từng vì Lâm Quế Sâm mà thiền định quan sát, nhìn thấy một đám mây đen rất lớn che kín trời đất, tầng tầng lớp lớp quấn chặt lấy ông ấy. Đám mây đen rất lớn này đã che kín ánh hào quang công đức lấp lánh như sao tỏa ra trên người ông ấy. Đám mây đen này quấn chặt lấy ông ấy, bay đến vùng “biển độc”, cuối cùng ném ông ấy vào biển độc.

Ở trong thiền định, tôi nhìn thấy cảnh tượng ở xa nghìn dặm, cảm thấy trong lòng buồn bã và tiếc nuối. Về cơ bản ông ấy đã quên mất lời dạy của Thượng sư, vứt bỏ lời thề. Vị Thượng sư Liên Huỳnh (Lâm Quế Sâm) này đã vứt bỏ: Lời thề quy y. Lời thề truyền pháp. Lời thề độ chúng. Lời thề hộ trì. Lời thề giữ giới. Nếu không giữ những lời thề này thì mọi việc hành pháp không thể thành tựu, cho dù có công đức thì cũng là công toi.

Tôi thật sự nhìn thấy một đám mây đen rất lớn quấn chặt lấy ông ấy. Nếu ông ấy còn nhớ được tên húy của tôi, hoặc trì tâm chú của tôi, thì có lẽ còn có thể cứu. Nếu ông ấy sám hối kịp thời, có lẽ còn có thể cứu. Thật ra vào lúc ông ấy bị mây đen quấn chặt, chỉ cần gọi một cú điện thoại cho tôi, tôi chắc chắn sẽ vì ông ấy mà tu bánh xe bảo vệ, đó là sự từ bi của tôi. Sao tôi có thể nhẫn tâm thấy chết mà không cứu chứ?

06. Thần Bàn

Sau khi tôi kết thúc kì ẩn cư, trở về Seattle Lôi Tạng Tự nước Mỹ, có một nữ đệ tử trẻ tuổi tên là Tập Mộng dâng tặng một chiếc hộp nhạc, khi chiếc hộp nhạc chuyển động sẽ phát ra âm thanh “tinh tinh tang tang” đẹp đẽ. Trên chiếc hộp nhạc đó, cô ấy viết: “Thầy là đại đạo sư số một!” (Viết bằng tiếng Anh.)

Nữ đệ tử Tập Mộng từ Thụy Điển đến Mỹ để đi học nghề y tá. Diện mạo cô ấy trong sáng, cao và gầy, có dáng người mẫu bẩm sinh. Cô ấy nói: ”Cả đời này đệ tử muốn ở lại Seattle, không muốn rời khỏi Seattle.” Tôi nghe xong thì cười vang ha ha. Cô ấy nói: ”Cả đời này đệ tử muốn theo Sư Tôn học pháp cho đến tận lúc già.” Tôi nghe xong thì cười vang ha ha.

Khi Tập Mộng đến mới đến Mỹ thì gầy gò nhỏ bé, sau mấy năm đã cao lớn và trưởng thành. Cô gái trẻ đã khác hẳn cô thiếu nữ ngày xưa, cô gái nhỏ ngày trước đã lớn lên thành phượng hoàng rồi.

Tôi dùng thiên nhãn quan sát, biết là cô ấy sẽ lưu lạc đến nơi rất xa rất xa! Cô ấy sẽ không sống mãi ở Seattle. Mỗi khi cô ấy nói cô ấy muốn sống hẳn ở Seattle, tôi lại nói: “Tất cả để xem nhân duyên đi!”

🌟

Có một hôm, tôi chợt có linh cảm, tôi dùng lửa để thanh tịnh chiếc bàn ăn mà chúng tôi ăn cơm. Trên bàn ăn có vẽ một mũi tên. Tôi niệm chú: “Thiên linh linh, địa linh linh, Thần Trác vấn sự linh linh linh, thiên binh thiên tướng, như luật lệnh.” Tay tôi vuốt nhẹ lên mặt bàn. Điều kì lạ là, chiếc đĩa xoay ở trên mặt bàn tự động quay, càng quay càng nhanh. Tôi nói: ”Trong lòng mọi người có bất kì việc khó khăn gì, đều có thể hỏi.” ”Phải” thì là quay theo chiều kim đồng hồ. ”Không phải” thì là quay ngược chiều kim đồng hồ. Tập Mộng tiến lên hỏi: ”Con sẽ có ở lại Seattle mãi mãi không?” Thần Bàn đáp: ”Không phải.” Tập Mộng hỏi: ”Nếu đã không ở lại Seattle thì khi nào sẽ rời đi?” Thần Bàn đáp: ”Tốc.” (Rất nhanh thôi.) Tập Mộng im lặng không nói, cảm thấy không thể nào, sao có thể như vậy chứ? Trong lòng cô ấy cứ nghi hoặc mãi.

🌟

Bang Philadelphia nước Mỹ có một người là sư tỉ Trang, cô ấy đưa một người nhà đến Seattle hành hương, cô ấy có một người con trai chưa kết hôn, kết quả là đã để mắt đến Tập Mộng. Hai người hẹn hò nhau. Rất nhanh chóng đã đính hôn. Cũng rất nhanh chóng đã kết hôn. Càng nhanh hơn nữa là cô ấy đã có thai. Thế là Tập Mộng đã chuyển tới Philadelphia. Thời gian chỉ có ba tháng sau khi hỏi Thần Bàn. Thần Bàn có chuẩn không? Cực kì chuẩn! Thiên nhãn của Liên Sinh Hoạt Phật có chuẩn không? Cực kì chuẩn! Tôi luôn cảm thấy, đời người thời vận đến đi, từng miếng ăn miếng uống đều có định số cả!

07. Cơn bão tuyết

Tôi nghe nói, vì vấn đề toàn cầu ấm lên mà đại biểu của hơn trăm quốc gia trên toàn thế giới đã họp mặt tại đảo Bali Indonesia, tổ chức hội nghị thế giới về cứu vãn trái đất ấm lên. Đây đúng là một hội nghị lớn tưng bừng đẳng cấp thế giới. Hội nghị kéo dài nhiều ngày. Cuộc họp đã khai mạc rồi! Nhóm thảo luận cũng đã thảo luận rồi!

Đảo Bali là một thắng cảnh nghỉ dưỡng, các đại biểu đương nhiên là ăn rất ngon, ngủ rất tốt, chơi rất vui. Nhưng mà, hội nghị kết thúc là: ”Không đạt được nhận thức chung.” Có thể nói là vui mừng phấn khởi kéo đến, nhưng lại hoàn toàn nộp giấy trắng, thất vọng trở về. Vấn đề thế giới trái đất ấm lên vẫn không có cách giải quyết.

🌟

Vào tháng 10 năm 2007, tại Kuala Lumpur Malaysia, cung thể thao Thái Tử tổ chức đại pháp hội Thời Luân Kim Cang. Tôi ngồi trên pháp tọa, đột nhiên nghĩ đến vấn đề trái đất ấm lên, tôi giơ kim cang quyết trong tay mình lên, nói vào hư không: ”Ma ha bát nhã ba la mật đa. Ôm. Ma-ni-pây-ta-mi. Hùm. Tô-ly. Cấp cấp như luật lệnh.” Tôi lại niệm: ”Ôm. Ha. Ka-ma-la. Wa-la-ya. Sô-ha. Lệnh cho mặt trời cách xa trái đất. Xa hơn một chút đi!”

Cá nhân tôi nghĩ rất ngây thơ, chỉ cần mặt trời cách xa trái đất một chút xíu thì trái đất sẽ không ấm lên nữa. Tôi còn nghĩ: Thời Luân Kim Cang Minh Vương của Mật giáo thống trị: Hư không giới vô tận, điều khiển mặt trăng mặt trời trái đất. Thời quang giới vô tận, không có khởi đầu cũng không có kết thúc. Thời Luân Kim Cang là vị Minh Vương “đại năng”. Lời thỉnh cầu của tôi chắc chắn sẽ có được cảm ứng. Tôi dùng thiên nhãn để nhìn: ”Chà, mưa tuyết lớn rồi! Chà, đóng băng rồi! Chà, băng tuyết khắp đất trời rồi.” Tôi nghĩ: Như thế này thì rất tốt. Để các núi băng ở Bắc Cực không đạt tới điểm tan chảy thành nước, mực nước sẽ không dâng cao, sẽ không nhấn chìm mặt đất. Để thời tiết mát mẻ một chút, mùa hè sẽ không nóng nực, điều chỉnh lại một chút vấn đề trái đất ấm lên.

🌟

Sự việc không ngờ tới đã xảy ra rồi! Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Mỹ, châu Âu, mùa đông năm 2007 đến 2008. Đều có bão tuyết. Thậm chí bão tuyết thổi tới cả Trung Đông. Đặc biệt là Trung Quốc đã gặp một trận bão tuyết lớn chỉ thấy trong 50 năm qua, khiến cho toàn bộ đất nước đều lạnh giá. Từng trận từng trận bão tuyết. Cả nước đóng băng. Băng tuyết khắp đất trời. Hoàn toàn giống hệt với mưa tuyết lớn, đóng băng, khắp đất trời phủ băng tuyết mà tôi đã nhìn thấy.

Tôi sững người! Tôi cảm thấy đây khả năng chỉ là một sự trùng hợp, căn bản không phải là kết quả của việc làm pháp của tôi. Đây là khí hậu bất thường, căn bản không phải là pháp lực của tôi. Tôi kêu lên một tiếng “trời đất đóng băng” thì thật sự là trời đất đóng băng sao? Không phải tôi, không phải tôi, không phải tôi. Tôi chỉ nói: ”Để mặt trời cách xa trái đất, xa ra một chút xíu!”

08. Bảy con bướm

Có một năm, tôi trở về Đài Loan, ở trước đàn thành tu pháp Bổn tôn xong, tôi liền tùy ý tọa thiền, tọa thiền này cũng không phải là thật sự nhập vào Tam ma địa, chỉ là nghỉ ngơi và suy nghĩ mông lung.

Tôi nghĩ đến bản thân đã tự chứng được sức mạnh siêu tự nhiên, nghĩ đến tự thân đã trải qua đủ mọi chuyện bất khả tư nghì. Thấy tịnh thổ. Thấy tự tính Liên Hoa Đồng Tử. Thấy chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, v.v… Giờ đây, mấy mươi năm tu pháp không ngừng nghỉ, tôi tinh tấn như vậy, cố nhiên đã độ được năm triệu đệ tử. Nhưng vẫn khiến cho một bộ phận nhân sĩ hoài nghi, thậm chí có một số trưởng lão của các phái cảnh cáo tôi không được nói nhiều về những chuyện thần kỳ, cảnh cáo tôi tất cả thần thông đều là ngoại đạo, cảnh cáo tôi những chuyện thần kỳ đều là vọng tướng.

Tôi cũng biết: Tất cả pháp hữu vi Như mộng huyễn bào ảnh Như sương cũng như điện Nên quán thấy như vậy.

Nhưng, tôi nghĩ, là mơ, là không, là vô, là vọng, đương nhiên đúng thế rồi. Nhưng, không chẳng phải là không tuyệt đối, vô cũng chẳng phải là vô tuyệt đối, bằng không, hà tất phải thuyết pháp?

🌟

Nghĩ đến bản thân ngày ngày làm thí thực cúng dường, niệm “Om Ah Hum”, đây là tu pháp đơn giản nhất rồi. Nhưng tôi cảm ứng thấy vô hình có tồn tại. Thiên long bát bộ chúng. La sát quỷ tử mẫu. Các sơn thần hải thần. Các quỷ linh hoang dã. Từng thứ như huyễn lại tựa như thật, thật sự cảm ứng được, những vô hình này, tôi thật sự có thể cảm thấy được sự tồn tại của chúng. Nhưng, vì sao khi tôi thí thực, chúng lại không chân thực hóa hiện chân hình (chỉ cái thân vật chất), để tôi càng thêm thù thắng chứ? Tôi cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi.

Đêm đó tôi nằm mơ: ”Mơ thấy bảy vị Không Hành Mẫu từ trên không giáng xuống, bảy vị Không Hành Mẫu này phóng ánh sáng bảy sắc, bảy vị Không Hành Mẫu đều có vẻ đẹp tuyệt sắc không gì sánh bằng, mặc thiên y.” ”Bảy vị Không Hành Mẫu nói với tôi, tất cả đều là song vận, giống như phương tiện và trí huệ, giống như thần thông và Phật học, giống như sinh khởi và viên mãn, giống như phụ tục và mẫu tục, giống như hữu tướng và vô tướng, giống như luân hồi và niết bàn…” ”Bảy vị Không Hành Mẫu còn nói, chúng tôi thấy ngài là một vị yogi đại thành tựu có một không hai, vì thế ca ngợi ngài, vì thế hiển hóa thù thắng để cho ngài nhìn thấy.” Nói xong, tôi tỉnh khỏi giấc mơ.

Tỉnh dậy rồi, tôi vô cùng vui mừng, tôi cảm thấy bảy vị Không Hành Mẫu nhất định là do Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp của tôi phái đến, nhất định là họ đến để động viên tôi. Tôi cầu nguyện Thượng sư gia trì! Bổn tôn thu nhận. Hộ pháp ủng hộ.

🌟

Sáng sớm, tôi làm thí thực cúng dường. Mở cửa sổ, tôi vẩy cam lộ ra ngoài. Không ngờ tôi nhìn thấy bảy con bướm bảy sắc dập dờn bay qua, ở chỗ tôi vẩy nước cam lộ ra, chúng lượn lên lượn xuống bay múa. Cảnh tượng ấy khiến người ta ngạc nhiên thích thú! Cảm ứng rồi! ”Bảy con bướm đã tiếp nhận cúng dường của tôi.”

09. Ong mật bay đi mất một cách bí ẩn

Vào năm 2007, tôi truyền thụ bảy đại pháp của Diêu Trì Kim Mẫu, duy có pháp Diêu Trì Kim Mẫu cam lộ thần thủy là chưa truyền, cam lộ thần thủy này chỉ truyền cho người có duyên.

Trong bảy đại pháp, có một pháp là để đối trị u bướu, pháp đó như sau: Trước tiên quán tưởng: Diêu Trì Kim Mẫu hiện thân ở trên cao trước mặt hành giả. Đội mũ phượng. Tay trái cầm đào tiên hoặc gậy như ý. Tay phải cầm cây phất trần của tiên. Tướng mạo trang nghiêm xinh đẹp, xung quanh thân tỏa ánh sáng. Quán tưởng Diêu Trì Kim Mẫu vung cây phất trần lên, phóng ra một đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến chỗ có khối u của hành giả. Quán tưởng khối u như tổ ong, hình thành từng lỗ từng lỗ. Sau đó quán tưởng bên trong tổ ong, bầy ong từ trong các lỗ đó bay ra ngoài, bay lên hư không. Lại quán tưởng tổ ong thu nhỏ lại, rồi tổ ong biến mất. Trì chú: “Hùm hùm hùm.” (3 biến) Diêu Trì Kim Mẫu biến mất. Khối u (tổ ong) biến mất.

Pháp này mỗi ngày phải tu một lần, ngày ngày tu, khối u sẽ càng ngày càng nhỏ lại, cuối cùng là biến mất. Trọng điểm của pháp này là: ”Bầy ong từ trong lỗ tổ ong lần lượt bay ra, lần lượt tiêu biến trong hư không.”

Khi tôi truyền thụ pháp này, không ngờ thật sự nhìn thấy rất nhiều ong mật bay ra. Những con ong mật này ở trong hư không bay tới bay lui, tạo thành từng chấm từng chấm, cuối cùng toàn bộ đều biến mất hoàn toàn, không còn bay trở về tổ ong nữa.

🌟

Từ năm 2007 đến 2008, các nông trường nuôi ong mật ở Mỹ xảy ra một sự việc kỳ lạ. Tin tức báo cáo: Ong mật trong vườn nuôi ong, bình thường chúng bay đi tìm mật rồi lại bay trở về tổ. Người nuôi ong mật từ mật ong thu được đã tạo ra rất nhiều loại thực phẩm để cung cấp cho con người. Nhưng trong thời gian từ năm 2007 đến 2008, hàng loạt ong mật bay đi nhưng lại mất tích một cách đầy lạ lùng, cũng không biết là chúng đã bay đi đâu mất. Sự kiện hàng loạt ong mật, một số lượng rất lớn, vô duyên vô cớ mất tích, khiến ngành nuôi ong nghĩ mãi vẫn không hiểu được. Đây không phải là chỉ một nông trường mà thôi. Mà là các nông trường trên toàn nước Mỹ lần lượt đều như vậy, khiến cho thực phẩm mật ong của toàn nước Mỹ đã không có đủ nguyên liệu.

Chuyên gia toàn quốc nghiên cứu: Có người nói là do ảnh hưởng của khí hậu. Có người nói là do ảnh hưởng của bức xạ. Có người nói là do ảnh hưởng của sóng âm. ……………..

Cho đến bây giờ, các chuyên gia nghiên cứu vẫn không có một kết luận chung. Tuy nhiên, bầy ong mật bay đi và biến mất một cách bí ẩn, khiến ong mật càng ngày càng ít.

Sự việc khác thường này và việc tôi truyền thụ pháp Diêu Trì Kim Mẫu u bướu biến mất thật sự không hề có liên quan gì đến nhau. Chỉ là: Khi tôi truyền pháp, nhìn thấy ong mật ở trong hư không lần lượt biến mất. Lẽ nào toàn bộ ong mật của ngành nuôi ong nước Mỹ, ong mật biến mất một cách bí ẩn là điều tôi thấy trước sao?

10. Nhẫn nhục và vô ngã

Thượng sư Liên Bảo là một vị thượng sư thường xuyên ở tại Indonesia hoằng pháp. Có một lần, ông ấy có được mộng thị của tôi. Mộng thị của tôi là: Yêu là nhẫn nhục. Yêu là vô.. [để trống]

Thượng sư Liên Bảo cảm thấy cái ô trống này rất kỳ lạ, giống như là điền vào chỗ trống vậy, thế là trong ô trống đó, ông ấy liền điền vào một chữ “ngã”.

Trong giáo hóa của Phật Đà, nhẫn nhục và vô ngã là điều rất tôn quý, giống như trân bảo, là giáo hóa vô thượng. Đừng nói đến tình yêu nhỏ của nhân gian, thậm chí tình yêu lớn độ hóa chúng sinh cũng đều phải: Yêu là nhẫn nhục. Yêu là vô ngã.

Tôi giải thích như sau: Nhẫn nhục — là một trong sáu độ của Bồ Tát, hành giả phải chịu nhịn rất nhiều sự sỉ nhục và hãm hại mà không được có một chút oán hận nào. Phật Đà có rất nhiều đời là Tiên nhân nhẫn nhục. Chịu nhịn sân hận, chửi mắng, đánh đập, chém giết. Chịu lạnh, nóng, gió, mưa, đói, khát, già, bệnh.

Chúng ta hiểu rằng, một hành giả tu hành trước nay chưa từng có một người nào là không bị sỉ nhục, cho nên công phu nhẫn nhục là cánh cửa đầu tiên của hành giả. Chúng ta nhờ nhẫn nhục mà tu hành: ”Như huyễn tam muội.”

Vô ngã — vô ngã chính là phi ngã. Bám chấp vào cái tôi của thân người này chính là nhân ngã. Bám chấp vào pháp chính là pháp ngã. Nhưng người học Phật hiểu rằng, thân người là sự hòa hợp giả của đất, nước, lửa, gió, không. Là vì duyên mà sinh ra, vì duyên mà diệt, là vô thường. Vì thế, vô nhân ngã, vô pháp ngã, vô tự ngã, vô tha ngã. Đây chính là chân lý. Đây chính là “người thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi là Bồ Tát chân chính” của Kinh Kim Cang.

Hành giả chúng ta phải tu: Vô ngã ấn. Vô ngã tưởng. Vô ngã quán. Nếu có thể thông đạt sự chí lý như vậy mà đi thực tiễn chân lý này, đó đúng là: Đại thánh tăng minh tâm kiến tính rồi! Từ đây chứng đắc đại A La Hán.

🌟

Tôi tu Mật giáo, từ Hỷ Kim Cang chứng đắc thành tựu huyễn thân, cái gọi là huyễn thân chính là tâm khí, tâm khí chính là cái gốc tu hành của tôi. Tôi dùng huyễn thân để xuất nhập thập pháp giới, huyễn thân không đâu là không đến được, có thể du hành nghìn dặm vạn dặm, có thể đi vào trong mơ của các đệ tử, cho nên, Thượng sư Liên Bảo ở trong mơ có thể có được giáo huấn chân thực, không hề hư giả một chút nào. Huyễn thân nhìn thấy tịnh thổ. Huyễn thân nhìn thấy Phật Đà. Huyễn thân nhìn thấy hai mươi tám cõi trời. Huyễn thân nhìn thấy các thánh đệ tử. Nếu có thánh đệ tử có thể hiểu lý lẽ của huyễn thân thì sẽ có thể hiểu được Sư Tôn không đâu là không tồn tại.

Vì sao mà “cách Phật quá xa”? Đó là vì trong lòng bạn không có Phật, nếu trong lòng có Phật thì bạn và Phật vĩnh viễn ở cùng nhau. Trong tu hành của cá nhân tôi, tôi thường được Thượng sư của tôi ở trong hư không giáo huấn pháp nghĩa rất sâu, kiểu giáo huấn pháp nghĩa này là hư không truyền thụ, hoàn toàn tuyệt đối là chân thực không giả.

11. Bạo động lớn

Con gái tôi Lư Phật Thanh cưới một người bạn học là Lư Andy. Sau khi tốt nghiệp đại học, Andy từng được chính phủ Mỹ cử đi làm việc ở Kenya châu Phi ba năm.

Andy ở tại Kenya từng gặp sự kiện đại sứ quán Mỹ bị đánh bom nổ tung, nhưng thật may là vô sự.

Andy trở về nước Mỹ, từng kể việc ở Kenya ăn thịt ngựa vằn, nói cả đất nước chỉ có một bưu điện, gọi điện thoại về Mỹ thì phải xếp hàng. Còn nữa, người bị mắc bệnh AIDS rất nhiều.

Andy trở về nước Mỹ. Tôi vừa bắt tay anh ta, đột nhiên cảm ứng thấy Kenya có lộn xộn lớn, sẽ có bạo động lớn, sẽ chết rất nhiều người, bởi vì không ngờ tôi lại “mục kích” thấy cảnh tượng rất nhiều người chết. Tôi hỏi: ”Tình hình chính trị ở Kenya có tốt không?” Andy đáp: ”Cũng không tệ.” Tôi hỏi: ”Có phải rất nhiều người chết không?” Andy trả lời: ”Tất cả vẫn tốt.”

Thế là tôi giấu kín sự việc mà tôi nhìn thấy bên ngoài nghìn dặm xa ở trong não tôi. Rõ ràng tôi nhìn thấy Kenya có bạo động lớn, trong cuộc bạo động lớn đó rất nhiều người sẽ chết.

Năm 2008, Lư Andy công tác tại Liên Hợp Quốc ở Geneva Thụy Sĩ. Chính vào đầu năm 2008, Kenya thật sự đã phát sinh bạo động lớn, là sự tranh giành chính đảng, người dân đổ ra đường phố, đôi bên tấn công lẫn nhau, đã chết rất nhiều rất nhiều người.

Cuộc bạo động ở Kenya đã làm kinh hoàng xã hội quốc tế, trở thành tin tức tiêu điểm của thế giới. Động loạn chính trị ở Kenya đã nằm ngoài tầm kiểm soát, giờ đây chỉ có dựa vào Liên Hợp Quốc và các quốc gia mạnh khác can thiệp điều đình, bằng không sẽ không có ngày được an ninh.

Lúc này, tôi đã tin chắc điều tôi nhìn thấy ở xa vạn dặm là chính xác, hơn nữa còn chuẩn xác một trăm phần trăm.

Có một lần. Andy trở về Seattle nước Mỹ. Tôi nói: ”Kenya bạo động lớn rồi.” Andy đáp: ”Đúng vậy.” Tôi nói: ”Đã chết rất nhiều rất nhiều người rồi!” Andy trả lời: ”Đúng vậy.”

🌟

Trên thực tế, trên thế giới này, có rất nhiều rất nhiều quốc gia hỗn loạn không yên. Kenya cũng chẳng qua chỉ là một quốc gia ở Phi Châu, một đất nước lạc hậu, không phải là một nước có ảnh hưởng lớn. Nhưng con rể Lư Andy của tôi từng ở đó làm việc ba năm, chính vì nhân duyên này mà tôi đã sắp đặt một đàn thành siêu độ. Dùng hết sức mạnh của mình, tôi niệm chân ngôn siêu độ của tôi. Tôi nhìn thấy trên bầu trời ở Kenya rơi xuống nghìn nghìn vạn vạn đóa hoa sen trắng chở những trung ấm của người chết đi. Một yogi Mật giáo là tôi đây chỉ có thể dựa vào nhân duyên nhìn thấy từ nghìn dặm, với toàn bộ năng lực của mình, cố gắng hết sức, để từ bi chúng sinh hữu duyên thôi!

12. Trung ấm bay lượn

Trong danh từ Phật giáo, trung ấm và trung hữu là để chỉ linh hồn theo cách gọi của người thế tục. Có thể nói thế này, thân xác của con người đã chết rồi, linh hồn xuất hiện rồi, trong khoảng thời gian linh hồn chưa chuyển thế đầu thai, hoặc vãng sinh tịnh thổ thì đều gọi là thời kỳ trung ấm.

Có một lần tôi thiền định. Tôi nhìn thấy Nam bộ Đài Loan ở bên ngoài xa nghìn dặm có một đệ tử Chân Phật, vì thất bại mà sinh ra tâm chán đời. Anh ta uống một hơi tám viên thuốc ngủ. Anh được đưa đến bệnh viện đầu tiên, bệnh viện cho rằng đã chết rồi nên từ chối nhận. Lại đưa đến bệnh viện thứ hai. Bác sĩ nói: ”Cho dù cứu sống anh ta thì gan, thận đã mất công năng rồi, cứu có ích gì không?”

🌟

Người tự sát này là Trịnh Quân (tên giả), lúc này đã xuất thân trung ấm, hiểu rằng mình đã chết rồi. Thân trung ấm bay lượn, rơi thẳng xuống địa ngục. Khi trung ấm sắp rơi vào trong địa ngục thì cảm thấy có người vỗ vào vai mình. Anh ta quay đầu lại nhìn, không ngờ là Lư Sư Tôn: ”Lư Sư Tôn, sao thầy lại ở đây?” Tôi nói: ”Trở về đi!” Anh ta đáp: ”Con ghét thế gian, quyết định không trở về nữa.” ”Trước mặt là địa ngục đó.” ”Cho dù là địa ngục cũng muốn rơi vào địa ngục!” ”Anh trở về đi, anh muốn gì tôi sẽ cho anh cái đó, muốn địa vị cho địa vị, muốn hôn nhân tốt cho hôn nhân, muốn tiền bạc cho tiền bạc, tóm lại là anh quay về đi!” ”Không!”

Tôi nói Phật pháp với Trịnh Quân (tên giả). Trịnh Quân bịt tai không nghe. Tôi tức giận, nói: ”Anh đúng là lôi thôi!” Tôi túm lấy tai anh ta kéo đi, ném anh ta trở về dương gian.

🌟

Người tự sát này cuối cùng đã sống lại rồi. Bác sĩ còn chưa rửa ruột, cho rằng chỉ là “hồi quang phản chiếu” mà thôi, không nghĩ là anh ta có thể sống được. Nhưng thử máu và xét nghiệm báo cáo rằng tất cả bình thường. Gan bình thường. Thận bình thường. Anh ta nói: ”Còn khỏe hơn cả trước khi tự sát!” Bác sĩ cho rằng đúng là chuyện khó tưởng tượng không thể tưởng tượng nổi.

Trịnh Quân này là một tiến sĩ. Anh ta vốn là giáo sư Đại học. Là một phần tử trí thức cao cấp. Tôi từ xa nghìn dặm đã cứu mạng anh ta, đây là một việc có ý nghĩa lớn.

  1. Chứng minh trung ấm (linh hồn) có tồn tại.
  2. Chứng minh Lư Sư Tôn tôi không đâu là không có mặt.
  3. Sau này anh ta sẽ là một đại sư xuất gia.
  4. Anh ta là một đại tướng hoằng pháp, sau này anh ta sẽ gánh vác đại nghiệp của Như Lai.

Lành thay! Lành thay!

13. Ba cây thần

Có một lần tôi thiền định, từ xa nhìn thấy: Trên một bãi đất rộng bằng phẳng chỉ mọc lên ba cái cây, lá của ba cái cây đó sum sê ken dày, khi gió thổi qua thì lá giống như cờ bay vậy.

Lúc này, ba cái cây dường như có linh tính, khi lá cây bay theo gió giống như chìa tay ra đón chào tôi.

Tôi nhìn chăm chú vào ba cái cây, ba cái cây đó đều phóng ra linh quang vô hình, những vòng tròn ánh sáng đó lượn vòng với tốc độ rất nhanh.

Lúc này ba cây thần nói: ”Đến chỗ tôi đây!” Tôi hỏi: ”Mi ở chỗ nào?” Cây thần nói: ”Thi đà lâm.” (nghĩa địa) Tôi hỏi: ”Đi tới đó làm gì?” Cây thần đáp: ”Có trân bảo cho ngài.” Tôi đang định hỏi thêm thì bỗng nhiên im bặt không dấu vết, tôi cũng đã xuất định rồi.

🌟

Trong khoảng thời gian đó, tôi đang truyền pháp Thời Luân Kim Cang chân thực kim cang quyết. Đàn thành kim cang quyết [cọc kim cang] này, khi bố đàn phải lấy năm linh vật lớn, năm linh vật lớn này đều ở trong thi đà lâm. Màu trắng — tro xương người. Màu đỏ — gạch ở nghĩa địa. Màu lục — lá cây ở nghĩa địa. Màu vàng — nhựa cây ở nghĩa địa. Màu đen — than củi ở nghĩa địa. (Những thứ này dùng để chế tạo đàn thành.)

Năm xưa khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tu hành, ngài sống ở trong thi đà lâm, dùng thi thể làm pháp tọa, mặc áo của thi thể (vải quấn xác) làm quần áo, ăn thức ăn cúng cho người chết, trên mặt bôi đầy tro của xác chết, dùng xương sườn của người chết xuyên qua ba cái đầu lâu để làm gậy chống đi lại. Đây là phương pháp tu hành của người Ấn Độ cổ đại.

🌟

Tôi nói với Trần Hiểu Phong: ”Đi đến thi đà lâm (nghĩa địa), tìm những thứ này về.” Trần Hiểu Phong đi rồi. Anh ấy tìm đến một khu mộ lớn, đất của khu mộ cực kì bằng phẳng. Toàn bộ khu mộ lớn chỉ có ba cái cây, Trần Hiểu Phong cho rằng tôi muốn anh ấy lấy nhựa cây hoặc lá cây. Anh ấy nhặt lá cây. Lá cây rơi xuống đất. Anh ấy cúi người xuống, vừa nhìn thì mắt sáng lên, hóa ra trên mặt đất có một đống hạt xá lợi. Hạt xá lợi tròn xoe, không lớn không nhỏ, có tới mấy trăm hạt. Anh ấy nhặt hết số hạt đó đem về cho tôi. Tôi hỏi: ”Khu mộ có mấy cái cây?” Đáp: ”Ba cây.” Tôi hỏi: ”Làm sao mà có được những hạt xá lợi này?” Đáp: ”Nhặt ở dưới cây.”

Đây quả thực là, nói thẳng ra là, thật là hy hữu kỳ lạ. Lại tương ứng rồi!

14. Gặp đạo sư và thượng sư

Trong thời gian tôi bế quan ẩn cư, Ấn Thuận đạo sư một trăm tuổi thì viên tịch, tôi cũng được thông báo. Tôi nhanh chóng thông báo với Thượng sư Liên Triết - quyền trụ trì Đài Loan Lôi Tạng Tự, dẫn mọi người đi tham gia lễ tưởng niệm. Chân thành cảm tạ pháp sư Minh Thánh đã thu xếp để những đệ tử ngoài môn phái như chúng tôi cũng có thể biểu đạt đôi chút tâm ý.

Sau khi tôi hết kỳ bế quan ẩn cư, tôi đi gặp sư phụ Mật giáo của tôi là Thubten Dhargye Thượng sư. Không ngờ là Thubten Dhargye Thượng sư đã bị bệnh nặng, nhờ Thubten Qigong thu xếp, tôi đã nhận được sự gia trì cuối cùng của Thượng sư.

Ba ngày sau khi Thubten Dhargye Thượng sư gia trì cho tôi thì ngài đã nhập diệt viên tịch, hưởng thọ 75 tuổi.

Bản thân tôi đích thân tham gia túc trực bên linh cữu trong lễ tưởng niệm thầy, tôi ngồi ở vị trí thủ tọa ở bên trái.

🌟

Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn, sau khi Ấn Thuận đạo sư viên tịch, ngài có huệ nhãn và thiên nhãn, ngài có từng gặp lại Ấn Thuận đạo sư không?” Tôi đáp: ”Có.” Hỏi: ”Đạo sư có quở trách ngài giống như khi còn sống không?” Tôi thật lòng thật sự trả lời: ”Đạo sư Ấn Thuận lúc còn sống có tính cách nói sao làm vậy, nhưng lúc gặp tôi thì lại hòa nhã dễ gần.” ”Đã nói những gì?” Tôi đáp: ”Không nói gì thì tốt hơn.” ”Vì sao không nói gì là tốt?” Tôi đáp: ”Chỉ vì nói rồi lại dẫn đến sự hiểu lầm của nhiều đệ tử của đạo sư Ấn Thuận, cho nên không nói.”

Tôi đã gặp được đạo sư Ấn Thuận rồi. Tôi nói: “…………………….” Đạo sư nói: “………………………” Tôi nhìn thấy đạo sư Ấn Thuận, đây là sự thị hiện thuận tiện của đạo sư, bởi vì “cái có tướng đều hư vọng”.

🌟

Ngoài ra, khoảng một năm sau khi Thubten Dhargye Thượng sư viên tịch thì tôi mới gặp lại Thubten Dhargye Thượng sư. Tôi hỏi: ”Sư phụ làm sự nghiệp gì?” Thượng sư đáp: ”Sự nghiệp đại thụ.” ”Thế nào là sự nghiệp đại thụ?” Thubten Dhargye Thượng sư đáp: ”Bồ Tát của tôn giáo khác là đại thụ, Bồ Tát trên mặt đất là đại thụ, Bồ Tát trên bát địa là đại thụ, cho nên ta là Bồ Tát đại thụ.” Tôi hỏi: ”Bồ Tát có được tự tại không?” Thubten Dhargye Thượng sư đáp: ”Ta đắc bảo trụ tam muội, thân có tám mươi loại bảo vật, tại thế và xuất thế đều được tự tại.” ”Sư phụ có gì dạy bảo con không?” Thubten Dhargye Thượng sư trả lời: ”Con hãy cố gắng hết sức để chúng sinh núi sông đại địa đều vì con mà cùng múa.”

15. Sỏi thận

Thận là một trong những cơ quan quan trọng của cơ thể người, người thường hay nói: “Tim, gan, tỳ, phổi, thận là ngũ tạng.”

Người Đài Loan gọi quả thận là “quả eo”, bởi vì vị trí của nó ở phần eo, hai bên mỗi bên một quả, màu sắc là màu đỏ nâu, hình dạng giống như hạt đậu tằm, bên ngoài lồi ra bên trong lõm vào. Tác dụng của quả thận là để lọc bỏ phế vật ở trong máu, khiến chúng trở thành nước tiểu để bài tiết ra ngoài.

Rồi phía trên quả thận còn có tuyến thượng thận hình tam giác tròn hoặc hình bán nguyệt, màu vàng nâu, đều có liên hệ lớn đến sự ngon miệng, cơ bắp, nhiệt độ cơ thể và hô hấp.

Tôi có hiểu biết nhiều về thận là vì:

  1. Bố tôi năm xưa bị sỏi thận.
  2. Bố tôi cuối đời phải chạy thận.

Còn nữa: Có rất nhiều người tử vong đều do nguyên nhân là suy thận. Một trong bốn ngọn núi lớn của Phật giáo ở Đài Loan, căn bệnh mà pháp sư Thánh Nghiêm của Pháp Cổ Sơn đã mắc phải cũng chính là bệnh suy giảm chức năng thận. Pháp sư Thánh Nghiêm tự nói: ”Thận tôi có bệnh, mất một quả, chỉ còn lại một quả, hơn nữa chức năng cũng suy yếu, hai ngày phải chạy thận một lần.” Pháp sư Thánh Nghiêm còn nói: ”Thận tôi có bệnh, nhưng tâm không bệnh.” Lời nói này! Mạnh mẽ!

🌟

Tôi có một đệ tử là pháp sư Minh Nhất. Anh ấy ở Malaysia bị mắc sỏi thận, sau khi bệnh viện chụp X-quang, không ngờ sỏi thận đã to như quả trứng gà.

Anh ấy hướng về hư không cầu nguyện. Còn tôi thì ở Seattle nước Mỹ, trong khi thiền định vào một đêm nọ, tôi tự cảm thấy tay mình đột nhiên dài ra. Không ngờ cánh tay kéo dài đến cả nghìn dặm, vạn dặm, vượt qua Thái Bình Dương, cánh tay này không phải là cánh tay thật, mà là cánh tay huyễn, đi vào trong quả thận của pháp sư Minh Nhất, rồi cứ thế moi, moi ra viên sỏi to bằng quả trứng gà. Rồi cánh tay huyễn đó lại chảy ra cam lộ, trút vào trong thận, khiến pháp sư Minh Nhất thân tâm mát mẻ.

Sau đó: Pháp sư Minh Nhất lại đến bệnh viện chụp X-quang, sỏi thận to bằng quả trứng gà không ngờ đã biến mất. Bác sĩ không tin. Nhưng hai bức ảnh chụp X-quang trước và sau có thể làm chứng. Pháp sư Minh Nhất và bác sĩ đều thốt lên rằng bất khả tư nghì!

🌟

Tôi còn có một đệ tử họ Đường sống tại Australia, đệ tử này mắc bệnh thủng tim và thường xuyên bị đau tim. Trăm thuốc không khỏi. Bác sĩ đề nghị phẫu thuật. Anh ta rất sợ hãi. Thế là anh nỗ lực mỗi ngày tụng Chân Phật Kinh, Cao Vương Kinh và cực lực hướng về Lư Sư Tôn cầu cứu.

Một hôm anh mơ thấy Lư Sư Tôn đến, cầm một quả tim mới, đổi lấy quả tim cũ của anh. Trước khi đi, Sư Tôn còn dùng tay xoa mấy cái rồi mới đi. Sau khi đệ tử Đường tỉnh dậy thì cảm thấy ngực mình rất mát mẻ, không còn đau đớn nữa, tự biết là kỳ tích đã xuất hiện rồi. Anh cũng đi chụp X-quang. Lỗ thủng ở tim đã biến mất. Bệnh viện và bác sĩ đều không dám tin. (Thật ra, bố tôi cũng có kỳ tích giống như vậy, ông ấy vốn phải ngồi xe lăn rất lâu, nhưng bỗng dưng lại có thể đứng dậy đi lại được, 84 tuổi mà lại có thể bước đi nhanh như bay.)

16. Ngôi sao lớn đã rụng

Có một hôm, tôi bỗng nhìn thấy một vị là ngôi sao lớn của giới tôn giáo đi về phía tôi. Ông ấy mang bộ mặt tươi cười, đưa ra bàn tay rất to nắm chặt lấy bàn tay nhỏ của tôi. Sau đó chúng tôi giống như là bạn cũ rất lâu không gặp, ôm chầm lấy nhau.

Vị ngôi sao lớn của giới tôn giáo này nói với tôi: ”Tôi phải đi rồi!” Tôi lẩm bẩm: ”Ồ!” - Nói không ra lời. Ông ấy nói: ”Tôi thật sự phải đi rồi!” Trên khuôn mặt tôi không có sự đau buồn, cũng không có sự khuây khỏa, thậm chí tôi không rõ vì sao mặt tôi ngây ra, dường như chẳng có một chút tình cảm nào.

Ngôi sao lớn của giới tôn giáo vẫy vẫy tay với tôi, khua khua tay, từ từ đi xa dần và biến mất không thấy nữa. Trên thực tế, trong cuộc sống hiện thực. Ông ấy là người lãnh đạo dòng chính của tôn giáo truyền thống. Còn tôi thì bị liệt vào là tôn giáo phi truyền thống, tức là người hoa tiêu của tôn giáo mới trỗi dậy. Trên thực tế là cách nhau, là rất xa nhau, là đối lập. Mâu thuẫn, xung đột, đấu đá. Là phân hóa và tổ hợp. Nhưng khi ông ấy sắp đi, ấy thế mà lại xuất hiện trước mặt tôi, vẫy tay, ôm ấp thân mật như vậy!

🌟

Buổi tối hôm ấy, tôi nhìn hiện tượng trên bầu trời. Nhìn thấy một ngôi sao băng cực lớn, là sao băng lớn cấp độ một, quét qua bầu trời đêm. Tôi cảm thán: “Ngôi sao lớn của giới tôn giáo đã rụng rồi! Ngôi sao lớn của giới tôn giáo đã rụng rồi! Ngôi sao lớn của giới tôn giáo cuối cùng đã rụng rồi!” Ông ấy đã diễn xong cuộc đời này. Cuối cùng là tan biến. Đương nhiên tôi biết, ngôi sao lớn của giới tôn giáo sớm muộn đều phải rụng, những ngôi sao lớn của giới tôn giáo khác cũng sẽ theo bước chân ông ấy như thế, và chính tôi cũng như vậy chứ không khác gì. Mỗi người đóng một vai diễn, tuy rằng đều khác nhau, nhưng kết cục như nhau. Vì thế, ngôi sao lớn rụng xuống. Tôi không đau buồn, cũng không khuây khỏa. Không có cảm giác. Dường như trên thế giới này, căn bản là chưa từng xảy ra chuyện như vậy.

Thiền sư Tăng Mật và thiền sư Động Sơn cùng đi qua suối. Thiền sư Động Sơn nói: ”Đi cẩn thận, đừng bước nhầm chân!” Thiền sư Tăng Mật nói: ”Nếu bước nhầm chân thì không qua được suối.” Thiền sư Động Sơn hỏi: ”Nếu đi đúng thì sẽ thế nào?” Thiền sư Tăng Mật đáp: ”Cùng trưởng lão bước qua nước.” Công án Thiền tông này rất tự nhiên, tự nhiên đến mức một chút thiền vị cũng không có. Chẳng bằng tôi viết bài thơ “Ngôi sao lớn đã rụng”.

Mọi người đoán thử xem, ngôi sao lớn này là ai? Ngôi sao lớn có dấu vết gì? Rồi xem, 50 năm sau, sẽ như thế nào?

17. Hoạt Phật thật và Hoạt Phật giả

Vào buổi tối ngày đầu tiên khi tôi có được thiên nhãn, tôi đã thật sự nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử của Tây phương tịnh thổ. ”Anh chính là Liên Hoa Đồng Tử!” Từ đó, Liên Hoa Đồng Tử này chính là niềm tin vĩnh viễn trong cuộc đời này của tôi, tôi đích thực đích xác là Liên Hoa Đồng Tử. Có người phê bình: ”Nằm mơ!” Tôi đáp: ”Nhìn thấy thật!” Có người phê bình: ”Bệnh thần kinh!” Tôi đáp: ”Tất cả đều cực kì bình thường.” Có người phê bình: ”Nói khoác!” Tôi đáp: ”Tôi thật sự không hề nói khoác.”

🌟

Đồng thời, trong sự tu hành của tôi, tôi đã có được huệ nhãn, đã quan sát nhân quả ba đời của mình, túc mệnh của mình, tôi thật sự đã hiểu rõ sự chuyển thế qua các đời của chính mình: Đại Nhật Như Lai. Phật Nhãn Phật Mẫu. A Di Đà Phật. Liên Hoa Đồng Tử. Tôn giả Xá Lợi Phất, đại sư Không Hải, tôn giả Sư Tử Phấn Tấn, v.v… Tôi từng có một đời chuyển thế ở Tây Tạng, là một vị tổ sư của Mật giáo Tây Tạng: Tổ sư Tsongkhapa.

Trong Phật giáo Tây Tạng, nhân vật đại diện cho Tsongkhapa đời thứ 100 là Ganden Tripa, đã đích thân đến Seattle nước Mỹ cùng cử hành pháp hội với tôi, lại còn tặng tôi áo bào Pháp Vương. Thế là đã có vấn đề. Có đại Hoạt Phật nói: ”Không công nhận.” Có đại Hoạt Phật nói: ”Không thừa nhận.” Nguyên nhân ở đây rất đơn giản, nếu tôi là Tsongkhapa chuyển thế thì Hoạt Phật lớn nhỏ ở Tây Tạng đều trở thành đệ tử con cháu chắt của tôi, hết cháu này lại đến cháu khác… Những Hoạt Phật kia chẳng phải là đều dẫm lên chân nhau sao! Vì thế: Hoạt Phật bọn họ đương nhiên không dám gật bừa, thật ra thử ngẫm nghĩ thì tôi thật sự cũng không hy vọng họ sẽ công nhận, họ mà công nhận thì mới là kì quái đó! Nhưng cũng có nhiều vị Hoạt Phật đến quy y dưới môn của tôi, đây cũng là sự thật.

🌟

Ở trên thị trường có một cuốn sách tên là “Hoạt Phật thật giả”, đương nhiên là phê phán tôi là Hoạt Phật giả. Tôi tha thứ cho tác giả của cuốn sách này, bởi vì anh ta căn bản là một tiểu tử không biết mà tỏ ra là biết. Vô tri. Nói bậy. Ngu dốt. Đáng thương.

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, Liễu Minh Hòa Thượng, Đại Bảo Pháp Vương thứ 16, Sakya Chứng Không Thượng Sư, Thubten Dhargye Thượng Sư, v.v… họ là sư phụ nhân gian của tôi, họ đều từng ấn chứng cho tôi: ”Lai lịch của Lư Sư Tôn quá bất phàm! Đã chẳng người nào có thể ấn chứng được.”

🌟

Ngày 25 tháng 2 năm 2008, đệ tử của tôi là sư tỉ Tạ Minh Phương mang thư của Sư Công Thubten Dhargye Thượng Sư đến cho tôi. Bức thư này viết vào ngày 13 tháng 1 năm 1999. Đại ý trong thư là: ”Không người nào có thể ấn chứng Lư Sư Tôn. Chỉ có chính tôi có chứng cứ có thể ấn chứng Lư Sư Tôn là người chuyển thế lại đến.” Tôi là Hoạt Phật thật sao? Tôi là Hoạt Phật giả sao? Bạn nói xem? (Đính kèm bức thư gốc.)

image

18. Linh thần to lớn

Trên một ngọn núi cao ở ngoài xa nghìn dặm có một vị linh thần khổng lồ, ngôi miếu mà ông ấy sống là Miếu Linh Quan.

Ngôi miếu này hương hỏa hưng thịnh, tín chúng rất đông, tương truyền là cực kì linh cảm, pháp lực hiển hách. Cũng không biết chuyện gì, nhưng vị linh thần to lớn này bỗng nhiên nghe đồn thấy tiếng tăm của Lư Sư Tôn đã độ chúng sinh đến năm triệu người, thần nhân đều quy y. Trong lòng ông ta không phục. Linh thần to lớn này tự cho rằng mình pháp lực cao cường, độ chúng sinh vô số. Sao có thể thua một Lư Thắng Ngạn được. Thế là linh thần to lớn bèn dẫm lên gió thần, một luồng gió thổi thẳng đến Seattle nước Mỹ.

Linh thần to lớn nhìn trộm cuộc sống của tôi: Tôi ăn cơm ở chùa. Mặc trang phục Lama. Sống ở Nam Sơn Nhã Xá. Hàng ngày lái xe từ Nam Sơn Nhã Xá đến Lôi Tạng Tự. Linh thần to lớn quan sát cuộc sống của tôi trong một tuần, chẳng thấy có thay đổi gì lớn, thấy tôi ngày ngày viết sách, ngày ngày tu pháp, việc này cũng chẳng có gì. Linh thần to lớn thấy tôi: Vóc dáng thấp lùn. Tướng mạo cũng chẳng ra làm sao. Trông ngờ nghệch ngốc nghếch. Có đôi chút già nua. Thế là khịt mũi coi thường. Linh thần to lớn đã dùng một chút thần thông nhỏ để di chuyển chìa khóa xe ô tô của tôi đến chỗ mà tôi không tìm thấy được. Tôi lục tung mọi thứ, tìm đông tìm tây, túi quần túi áo, tìm cả trong thùng rác. Cuối cùng lại nhìn thấy chìa khóa ở trên nóc xe ô tô. Tôi chưa bao giờ có cái kiểu để chìa khóa trên nóc xe ô tô. Linh thần to lớn thấy tôi cuống cả lên thì cười vang ha ha.

Còn nữa: Linh thần to lớn lại làm pháp nhỏ khiến tôi bị tiêu chảy, nhìn tôi cứ một tiếng đồng hồ lại phải đi ngồi toilet một lần. Linh thần to lớn này vui mừng khôn xiết. Linh thần to lớn này cho rằng tôi cũng chỉ thường thôi, chẳng qua người ta nói quá lên, chẳng có cái gì cả, nên muốn rời đi. Linh thần to lớn lại dẫm lên gió thần, định bay về Miếu Linh Quan ở ngoài xa nghìn dặm.

Chuyện lạ đã xảy ra rồi! Gió thần này bay được nghìn dặm, trở về Miếu Linh Quan thì thấy bên ngoài miếu có sợi thừng kim cang quấn thành vòng tròn ánh sáng, không thể đi vào được, là thần của nhà mình mà lại không vào được miếu nhà mình. Linh thần to lớn làm pháp không linh. Có cởi thế nào cũng không thể cởi được thừng kim cang. Ông ta nổi cơn tam bành.

Lúc này cửa miếu mở ra thì nhìn thấy Lư Thắng Ngạn Sư Tôn ngồi ngay ngắn chỉnh tề trên bàn thờ. Đỉnh đầu phóng tam quang: Phật quang, linh quang, bạch quang. Tôi nói: ”Ông đã đến nhà tôi, thế thì tôi cũng đến nhà ông.” Linh thần to lớn hỏi: ”Thế ông ở trong nhà của ông thì sao?” - Linh thần to lớn nghi ngờ. Tôi đáp: ”Xác phàm.” Linh thần to lớn hỏi: ”Thế còn ông bây giờ?” Tôi đáp: ”Huyễn thân.”

Linh thần to lớn nhìn thấy tôi hóa thành “kim thân trượng sáu”, “ba mươi hai tướng”, “báo thân trang nghiêm” thì sợ đến mức quỳ xuống đảnh lễ quy y. Linh thần to lớn sống ở núi Hoa Đào, huyện Phù Lương, tỉnh Giang Tây. Đây là một sự việc có thật!

19. Tám triệu biến Thượng sư tâm chú

Đài Loan có một đệ tử là Trần Nhân Hòa từng nghe Sư Tôn nói chỉ cần niệm Căn bản Thượng sư tâm chú đạt tám triệu biến thì có thể vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, tuyệt đối không nói dối. Trần Nhân Hòa tin tưởng sâu sắc không nghi ngờ. Trần Nhân Hòa vốn là một người thật thà, ngày ngày suốt ngày đêm không có lúc nào không thành tâm niệm một câu: ”Om guru liansheng siddhi hum.”

Trần Nhân Hòa không giống như một số tín chúng hôm nay tu vị này, ngày mai tu vị kia, ngày mốt lại tu một vị khác. Phật pháp tám vạn bốn nghìn môn, ngày ngày đổi tới đổi lui. Trần Nhân Hòa chỉ biết một câu: ”Om guru liansheng siddhi hum.”

Từng có người hỏi tôi: ”Tu nhiều vị thì tốt hay là tu một vị thì tốt?” Tôi đáp: ”Đều tốt.” ”Vì sao?” Tôi đáp: ”Tu nhiều vị thì kết duyên nhiều, tu một vị thì dễ chuyên nhất. Tôi hy vọng đệ tử Chân Phật chí ít là một Thượng sư, một Bổn tôn, một Hộ pháp, tu trì như vậy thì càng viên mãn.”

🌟

Khi Trần Nhân Hòa niệm đủ tám triệu biến Thượng sư tâm chú, quả nhiên xảy ra kỳ tích: 1. Anh ấy tự nhìn thấy mình đến Tây phương Cực Lạc thế giới, ở trong Ma Ha Song Liên Trì, tắm trong nước tám loại công đức, tất cả nghiệp chướng đều được thanh trừ sạch sẽ. 2. Anh ấy nhìn thấy hoa sen lớn, trên hoa sen có Liên Hoa Đồng Tử các màu sắc đứng ở trên, trang nghiêm thù thắng, quang huy xán lạn. Anh ấy nhìn thấy tiểu Liên Hoa Đồng Tử mỗi vị đều phóng quang, số lượng vô tận, không thể đếm, không thể nói.

Trần Nhân Hòa cuối cùng đã tự mình chứng tịnh thổ Liên Hoa Đồng Tử là sự thật đích thực, thật sự không giả. Trần Nhân Hòa còn ở trong mơ nhìn thấy Lư Sư Tôn nhập mộng, dạy anh về “một hợp tướng”. Thế nào là “một hợp tướng”? ”Thế giới là do tất cả vi trần tập hợp lại, và thế giới là một hợp tướng. Một hợp tướng là do các duyên hòa hợp lại, gom các thứ vi tế lại mà thành sắc, hợp ngũ uẩn mà thành con người, là một hợp tướng.” Tôi nói: ”Tất cả pháp tức là tất cả trí.” ”Tất cả pháp tức là một trí.” ”Hiểu mọi tướng, vì thế gọi là tất cả các loại trí.” ”Người có đủ tất cả trí, là Phật.”

Tôi nói: ”Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, hạng người nhất-xiển-đề tuy phỉ báng kinh Phương Đẳng, gây năm nghịch tội, phạm bốn trọng cấm. Nhưng sau cùng chắc chắn sẽ thành đạo bồ đề. Hạng người Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chắc chắn sẽ thành tựu A nậu đa la tam miểu tam bồ đề.” Tôi nói: Ngũ dục và Ngũ Phật là một hợp tướng. Tham sân si và giới định huệ là một hợp tướng. Không và lạc và một hợp tướng. Tâm và khí là một hợp tướng. Luân hồi và niết bàn là một hợp tướng. Sinh khởi và viên mãn là một hợp tướng. Vân vân và vân vân. Nếu có thể hiểu được “một hợp tướng” cũng tức là khai ngộ. Trần Nhân Hòa, khai ngộ rồi!

20. Bỗng dưng muốn nhìn xem

Lúc tuổi trẻ lông bông, tôi có mấy người bạn gái, nhưng có người thật sự là khắc cốt ghi tâm, có người thì chỉ lướt qua nhạt nhẽo như nước, nhưng tóm lại, tất cả đều đã qua rồi. Có một ngày chẳng hiểu ra làm sao, tôi bỗng dưng nghĩ đến bây giờ không biết họ như thế nào rồi. Ví dụ: Thuần Thuần. Tân Tân. Tú Tú. Vân Vân. ……

Tôi nghĩ, sao không nhờ sức mạnh thần thông của việc tu hành của mình mà đi xem Thuần Thuần bây giờ thế nào. Còn nhớ năm xưa tuổi còn nhỏ Tôi thích tán gẫu em thích cười Chơi trò nhảy dây cười ầm ĩ Trong tim cảm thấy thật diệu kỳ.

Thuần Thuần mặt tròn như quả táo, da trắng ửng hồng, mái tóc dài suôn mượt, áo trắng váy đen, khí chất thanh lịch, đôi mắt to tròn, tôi không thể hiểu được vì sao tôi lại thích cô ấy. Tôi nhớ là cô ấy nhỏ hơn tôi hai tuổi. Năm nay tôi 64 tuổi. Cô ấy chắc cũng 62 tuổi rồi!

🌟

Tôi nhập thiền định. Đầu tiên, người mà tôi nhìn thấy không ngờ không phải Thuần Thuần, mà là chồng của bà ấy. Chồng của bà ấy để râu cá trê, khuôn mặt rất quen thuộc, là khuôn mặt thường xuất hiện trên tivi. Thì ra bà ấy đã lấy một nghị viên nổi tiếng. Ông nghị viên này cũng xem như là một người nổi tiếng, thế thì Thuần Thuần đã là nghị viên phu nhân rồi.

Sau đó, tôi lại nhìn thấy Thuần Thuần, tôi thật sự không nhận ra bà ấy nữa. Thuần Thuần của tuổi 60, mặt tròn đẫy đà, không chỉ tròn mà còn béo nữa, hơi giống thị trưởng Cao Hùng Trần Cúc, tóc cũng giống, vóc dáng cũng giống. Nhưng so với Trần Cúc thì Thuần Thuần đẹp hơn một chút, bởi vì Thuần Thuần có ngũ quan cân đối, không giống như Trần Cúc lông mày thưa, mắt không đẹp.

Tôi lại nhìn thấy Thuần Thuần bán một mảnh đất, kiếm được 8 tỷ Đài tệ. Tôi nhảy dựng lên, thì ra Thuần Thuần giàu có như vậy. Bà ấy lấy một nghị viên nổi tiếng. Giá trị con người cả tỷ đồng. Có tiền có tên tuổi. Tôi mừng cho bà ấy!

🌟

Tôi muốn nhìn thử cảnh giới tu hành tâm linh của Thuần Thuần. Nhưng, hoàn toàn không có. Tôi đã thất vọng. Bởi vì bà ấy hầu như chỉ giao thiệp trong những vòng tròn cuộc sống của quý phu nhân, ngoài điều này ra, về phương diện tâm linh thì chỉ là con số 0. Tôi chỉ có thể ở trong thiền định hét lên với bà ấy: ”Thuần Thuần! Nhớ phải tu hành! Nếu còn không tu thì sắp không kịp nữa rồi!” Tôi không biết bà ấy có thức tỉnh không, hy vọng bà ấy mau thức tỉnh. Danh tiếng là mộng huyễn, tiền bạc là mộng huyễn, tất cả đều là “vô sở đắc”, 60 tuổi rồi, khi nào tỉnh mộng đây? ”Thuần Thuần! Phải tu hành thôi!”

21. Bạch Không Hành Mẫu hạ giáng

Buổi tối ngày 1 tháng 3 năm 2008, tôi cầu nguyện Hộ pháp Kim cang của tôi là Đại Uy Đức Vô Úy Kim Cang. Tôi niệm tâm chú căn bản: ”Ôm ya-ma-ta-ka hùm pây.” Sau cùng tôi niệm Đại Uy Đức Kim Cang sự nghiệp chú: ”Ôm xiu-ni ta.” Cuối cùng tôi đi ngủ.

Ở trong mộng huyễn, tôi nhìn thấy Bạch Không Hành Mẫu dần dần từ trong hư không giáng xuống. Bạch Không Hành Mẫu quả nhiên là trắng ngần. Là thiếu nữ khoảng 16 tuổi. Ngũ quan xinh đẹp tuyệt thế. Tay phải kết ấn thí nguyện, tay trái kết ấn cầm hoa, cầm bông hoa upala, lòng bàn tay và lòng bàn chân đều có một con mắt. Tóc buộc sau lưng, hai bên buông xuống một lọn tóc, thần thái phấn chấn. Trang điểm bằng các loại chuỗi ngọc, thân mặc thiên y váy lụa. Bạch Không Hành Mẫu giáng xuống chỉ trong sát-na đã lập tức đi vào trong tim tôi, hoàn toàn hợp nhất với tôi. Khí thông với khí. Mạch nối với mạch. Điểm hợp với điểm. Trong tim tôi tự sinh ra chú âm: ”Ôm gu-ru-ya sô-ha.”

🌟

Ở trong mộng huyễn, tôi hợp nhất với Bạch Không Hành Mẫu, đó đúng là một đàn tràng đại lạc như ý. Bạch Không Hành Mẫu từ tâm phóng ra ánh sáng ngũ sắc trắng vàng đỏ lam lục, lớp lớp buông xuống, tạo thành tấm màn kim cang. Bên ngoài tấm màn kim cang được phủ đầy hoa upala, ngoại ma không thể nhìn thấy. Tôi đắc được sự hợp nhất giữa đại lạc kiên cố và tính Không, có được thân kim cang, đắc bất sinh bất diệt. Toàn thân tôi là cam lộ. Quanh thân tôi là ánh sáng. Tôi nhậm vận tự tại. Tôi chắp tay kính lễ Bạch Độ Mẫu: ”Luân chuyển trong lục thú, cứu độ bát nạn chúng, phiền não đều giải thoát, Độ Mẫu xin kính lễ.” Bạch Độ Mẫu nói với tôi: ”Nếu đệ tử Chân Phật muốn sinh về tịnh thổ thì dùng chữ “Tang” [Tam] màu trắng để triệu thỉnh ta.”

image

“Ta ngồi trên đầu đệ tử Chân Phật, mạch nối liền mạch, đệ tử Chân Phật đóng lại tám lỗ, chỉ để lại thiên khiếu, dùng chữ Tang của tự tâm từ đỉnh đầu đi vào mạch của ta.” ”Bạch Độ Mẫu ta phi hành đến tịnh thổ của A Di Đà Phật, đệ tử này tự nhiên sẽ sinh ra ở tịnh thổ đó.”

Tôi nghe xong thì vui mừng, ca ngợi rằng: Phổ nguyện hữu tình Thoát ly biển khổ Mãi lìa cái chết Đều chứng Phật địa Chỉ mong từ bi Thánh giả Độ Mẫu Tâm như ý luân Diệu quán giác chiếu Bình đẳng che chở Thành tựu chu toàn.

🌟

Cuối cùng Lư Sư Tôn tôi đã hợp nhất với Bạch Độ Mẫu rồi, đó đúng là hợp thể là một. Trải nghiệm này khiến tôi thành tựu kiên cố, thành tựu bất hoại, thành tựu đại lực, đúng là đại thù thắng trong thù thắng. Tôi cúng dường Bạch Không Hành Mẫu “ba trắng”, “ba ngọt”. Khiến Bạch Không Hành Mẫu hết sức vui mừng. (Tại Chân Phật Mật Uyển, chỗ ngồi của tôi, ngay bên phải, có một bức họa tướng Bạch Không Hành Mẫu.

22. Nghi vấn của Liên Hoa Nhất Bình

Ở Trung Quốc Đại Lục có một đệ tử Chân Phật là Liên Hoa Nhất Bình, hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, độ người vô số.

Có một hôm. Liên Hoa Nhất Bình gặp một người bạn, Nhất Bình muốn độ anh ta quy y Chân Phật, người bạn của Nhất Bình hỏi ngược lại: ”Vì sao Lư Sư Tôn của các anh phải tự xưng là Phật Đà? Tự xưng là A Di Đà Phật? Tự xưng là Hoa Quang Tự Tại Phật? Tự xưng là Liên Hoa Đồng Tử? Tự xưng là Hỷ Kim Cang?” Liên Hoa Nhất Bình nhất thời không trả lời được. Vì thế, Liên Hoa Nhất Bình viết một bức thư, thư bay qua nghìn dặm, để hỏi về vấn đề này. Còn hỏi: ”Trong nghìn vị Phật ở Hiền kiếp có tên húy Lư Thắng Ngạn Phật không?”

🌟

Tôi dùng văn viết hiện đại trả lời ngắn gọn như sau: Phật Đà — không phải chỉ một người, mà là phiếm chỉ người thành tựu giác ngộ tột cùng thì đều xưng là Phật Đà. Như Thích Ca Mâu Ni Phật Đà, Ca Diếp Phật Đà, Nhiên Đăng Phật Đà, chính là những bậc thành tựu. A Di Đà Phật — không phải chỉ một người, mà là tất cả ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Thành tựu quả vị A Di Đà Phật đều xưng là A Di Đà Phật. Hoa Quang Tự Tại Phật — là Phật hiệu thành Phật của Xá Lợi Phất - đại đệ tử của Thích Ca Phật Đà, tôi là Xá Lợi Phất chuyển thế, cho nên có thể tự xưng là Hoa Quang Tự Tại Phật Đà. (Xá Lợi Phất và A Di Đà Phật có nhân duyên rất sâu, có thể tìm được manh mối trong kinh A Di Đà.) Liên Hoa Đồng Tử — bản địa của Liên Hoa Đồng Tử cũng chính là A Di Đà Phật. Hỷ Kim Cang — tôi đã viết cuốn sách “Giảng nghĩa Hỷ Kim Cang”, tôi thành tựu Hỷ Kim Cang, vì thế tự xưng là Hỷ Kim Cang.

Thế còn câu hỏi thứ hai: ”Trong nghìn vị Phật ở Hiền kiếp có tên húy Lư Thắng Ngạn Phật không?” Tôi dùng văn viết hiện đại trả lời ngắn gọn như sau: Cái này là chỉ kinh Nghìn Phật Danh, vốn có quá khứ Trang nghiêm kiếp thiên Phật, hiện tại Hiền kiếp thiên Phật, vị lai Tinh tú kiếp thiên Phật. Ba chữ Lư Thắng Ngạn là tục danh mà cha mẹ đặt cho, tên tục thì đương nhiên không phải là tên Phật.

Tôi quy y sư phụ, sư phụ cũng đặt pháp hiệu cho tôi, ví dụ: Huệ Ngạn, Đạo Ngạn, Viên Trì, Liên Sinh, Thubten Qimo, Sakya Gongma, Karma Trekcho, Pháp Cự… Những tên này cũng đương nhiên không phải là tên Phật. Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký cho tôi hai tên Phật: 1. Đại Quang Tự Tại Phật. 2. Hoa Quang Tự Tại Phật. Tôi bỏ tên trước, lấy tên sau, đây chính là tên Phật. (Hoa Quang Tự Tại Phật có thể có hay không?)

🌟

Bây giờ tôi dùng phương pháp “thiền học”, chỉ dẫn cho Liên Hoa Nhất Bình làm sao trả lời câu hỏi của người bạn. Anh đưa bạn mình đi vào trong rừng trúc. Anh hỏi bạn anh: ”Vì sao cây trúc này mọc cao? Vì sao cây trúc này mọc thấp?” Rồi lại hỏi bạn anh: ”Cây trúc mọc cao gọi là gì? Cây trúc mọc thấp gọi là gì?” Quả nhiên người bạn của anh vẫn hỏi: ”Trong Hiền kiếp thiên Phật, có tên húy Lư Thắng Ngạn không? Hay là Phật gì? Phật gì? Kim Cang gì? Đồng Tử gì?” Liên Hoa Nhất Bình, anh có thể giơ bàn tay ra, tát cho anh ta một cái ra trò, hỏi anh ta đã tỉnh hay chưa?

23. Hội thi lớn

Tôi thần hành đến một cõi trời. Cõi trời này chính là Di Lặc Nội Viện ở Đâu Suất Thiên, tức là tịnh thổ của Di Lặc Bồ Tát - vị “Đại Quyền Phật” vị lai. Di Lặc Bồ Tát hiển hiện với quang sắc chói lòa, đội mũ miện, toàn thân đeo chuỗi ngọc, thiên y váy xếp, ống tay áo bay bay, ngồi đó bốn bề yên tĩnh. Diện mạo của Di Lặc Bồ Tát rất đặc trưng, da nhẵn mắt nhỏ, mũi thẳng miệng vuông, tai rủ xuống, cân đối đoan trang. Không giống như Phật Di Lặc của Trung Quốc mặt to bụng to. Mà giống Phật Di Lặc của Tạng mật. Di Lặc thấy tôi đến thì đón tôi ngồi bên cạnh ngài.

Ở trước mặt Di Lặc có nghìn nghìn vạn vạn Thanh Văn, Duyên Giác, Bổ Vị Bồ Tát. Đang có hội thi lớn. Tôi hỏi: ”Thi cái gì?” Di Lặc Bồ Tát đáp: ”Chân như.” ”Thi chân như, cái này thật mới mẻ, không biết các Phật tử làm sao trả lời được?” Chỉ thấy nghìn nghìn vạn vạn Thanh Văn, Duyên Giác, Bổ Vị Bồ Tát, ai nấy cúi đầu viết lách, những tiếng sột soạt, không lâu sau có người nộp lên bài thi. Lại không lâu sau, bài thi đều được nộp lên hết.

🌟

Di Lặc Bồ Tát và tôi cùng chấm bài thi. Chấm bài thi đều dùng huệ nhãn, đáp án có: ”Tiền tam tam, hậu tam tam.” ”Đốt lửa song chẳng dùng.” ”Vừa điếc vừa câm.” ”Một địa không thấy hai địa.” ”Chân như không một pháp, không Phật có thể thành, không Phật có thể đắc, không Phật có thể giữ, không Phật có thể bỏ.” ”Không giả cũng không thật.” ”Hư không treo cây kim.” ”Bắn hết chín con quạ.” ”Trên đá không mọc cây.” ”Một già một không già.” ”Chưa bao giờ quen biết.” ”Diễn xuất đại tạng giáo.” ”Hư không chưa từng hư hoại.” ”Khắp trời khắp đất.” ”Không ra vẻ, chẳng nhân ngã.”

Tôi đọc xong, hết sức kinh ngạc, thì ra những Phật tử này mỗi người đều là hành giả hạng nhất, kiến giải của họ đều có chỗ độc đáo riêng, mỗi người đều là thầy của trời người. Chỉ thấy Di Lặc Bồ Tát ung dung điềm tĩnh, thế rồi rút ra một bài thi, bài thi này là một tờ giấy trắng, bên trong không có một chữ nào, không có một chấm mực. Di Lặc nói: ”Đây là người đứng đầu.” ”Không nói một chữ nào mà là người đứng đầu?” - Tôi hỏi. Di Lặc nói: ”Người này là hành giả Như Nột, anh ấy đã viết đầy toàn bộ rồi, vì thế không một chữ, là người đứng đầu.” ”Hành giả Như Nột viết cái gì?” Di Lặc nói: ”Tam Tạng Thập Nhị Bộ đều ở trong bài thi, mà Tam Tạng Thập Nhị Bộ tức là không một chữ, vì thế là người đứng đầu.” (Tam Tạng bao gồm Tiểu thừa Tam Tạng, Đại thừa Tam Tạng, Mật giáo Tam Tạng.)

24. Nhìn thấy hai vị ôn thần

Có một hôm, tôi dùng thiên nhãn để quan sát thiên tượng. Tôi nhìn thấy hai sát tinh xoay tròn rơi xuống, hai sát tinh này trong thiên nhãn của tôi đã trở thành hai vị ôn thần. Hai vị này đều có ba mắt, một vị mặt xanh sẫm, một vị mặt màu đỏ thẫm, đều có tóc đỏ và răng nanh, vô cùng hung ác, hơn nữa hai vị ôn thần đều ba đầu sáu tay.

Tôi nhận ra tên húy của hai vị: Thấu Tâm Hàn. Giải Cốt Tô. Hai vị ôn thần này rất lợi hại, chỉ cần người hay súc vật gặp phải, người thì trầm cảm, người thì loãng xương, hơn nữa một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền nghìn nghìn vạn vạn. Còn lợi hại hơn cả SARS. Còn hung hãn hơn cả AIDS.

Tôi nghĩ, SARS đã bị tôi thu về, giao cho Diêu Trì Kim Mẫu rồi. Duy có AIDS vẫn còn ở nhân gian, chỉ vì AIDS là do tàn tích của nhân loại hóa ra, là nghiệp chướng của nhân loại, trong sát-na không dễ trừ bỏ tận gốc. Cúm gia cầm. Tay chân miệng. Bệnh bò điên. Bệnh thương hàn. Bệnh dịch tả. Bệnh sốt rét. v.v… Đều nằm trong sự kiểm soát.

Nhưng hai vị ôn thần này lại không phải hạng xoàng, xem ra tai họa của nhân gian sẽ không thể tránh khỏi. Khi đến lúc, điều không thể tránh khỏi sẽ lại là một đại họa ập xuống, kêu cha kêu mẹ. Tôi nhớ đến một bài thơ: Ma quỷ dịch bệnh là ác tà Diệt hết nhân gian chẳng buông tha Hắc tinh ác sát không dễ phá Ai gặp ớn lạnh xương rã tan Phút chốc nhà nhà đều xóa sổ Thoáng chốc người người đều đi xa Giờ đây chỉ có Liên Sinh cứu Lại lên Diêu Trì thỉnh Tiên trừ.

🌟

Tôi dùng thiên nhãn nhìn thấy hai vị ôn thần giáng xuống nhân gian, tôi không biết liệu những người có thiên nhãn cũng có nhìn thấy kiểu trời giáng dị tượng này không. Nhưng tôi đã nhìn thấy thì tôi phải đi cứu rồi, đây là việc đáng làm thì phải làm thôi. Muốn cứu dịch bệnh. Chỉ có Tiên Vương Diêu Trì Kim Mẫu mà thôi. Bởi vì Diêu Trì Kim Mẫu vốn chính là lão tổ tông của Ngũ Lộ Ôn Thần, nếu tôi đi cầu Kim Mẫu, sẽ chẳng có cái lý là Kim Mẫu không cho phép, đến lúc đó ngài đều sẽ gặp tôi. Đáng tiếc là: Người thế tục không có thiên nhãn. Người thế tục không cách nào nhìn được thiên tượng. Người thế tục không chỉ như vậy, còn cho rằng tôi nói chuyện hoang đường đó! Càng nực cười hơn là, Diêu Trì Kim Mẫu thu bệnh SARS về, người thế tục cũng không biết. Đã coi một vị Tiên Vương Diêu Trì Kim Mẫu thành tà ma ngoại đạo để mà “ném đá”. Nhân gian, người thật sự hiểu rõ thì ít. Nhân gian, người chướng khí mù mịt quá nhiều, vì thế dịch bệnh mới thịnh hành.

Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử là tôi đây chỉ có thể ở nhân gian này làm trụ cột vững chắc.

Viết một bài thơ:

Sen trắng trong tim là chính kiến. Cần biết Cực Lạc ở Tây phương. Tu Mật pháp tôi sinh may mắn. Thành tựu Phật quả mở rộng đường.

25. Biện Tài Thiên Nữ

Có một người phụ nữ sống tại Narita Nhật Bản tên là Chika Kuta, cô ấy từ Nhật Bản bay đến Lôi Tạng Tự ở Seattle nước Mỹ tham gia pháp hội một năm hai lần do tôi chủ trì.

Cô ấy xếp hàng trong đám tín chúng, quỳ xuống nhận sờ đầu gia trì mà tôi dành cho tín chúng. Chika Kuta không nói nhiều lời, giữ sự kín đáo, không nhiều người quen biết cô ấy. Chika Kuta là chị gái của Shu Anna. Khi tôi lần lượt sờ đầu, đột nhiên phát hiện ra đỉnh đầu của Chika Kuta có ánh sáng. Tịnh quang này có ẩn chứa năng lực biện luận. Tịnh quang ẩn chứa tài văn chương. Tôi cảm thấy Chika Kuta là người có lai lịch, nhưng lần đầu tiên tôi không nói thẳng ra.

🌟

Lại có một năm, Chika Kuta lại đến tham gia pháp hội của tôi, cô ấy quỳ ở bên cạnh cửa chùa, đầu cúi thấp, tôi đặc biệt sờ đầu cho cô ấy hai lần, tôi lại nhìn thấy ánh sáng trên đầu cô ấy.

Tôi nói với Shu Anna: ”Tìm chị của cô tới đây, tôi truyền cho cô ấy một câu chú.” Shu Anna hỏi: ”Vì sao lại đặc biệt tìm chị ấy?” Tôi nói: ”Cô ấy không tầm thường, pháp duyên sâu dày. Là một người có thể nhanh chóng tương ứng, cô ấy có nguồn gốc.” Thế là Chika Kuta đã đến đàn thành hỏi việc của tôi. Tôi nói: ”Trên đầu cô có ánh sáng.” Chika Kuta nói: ”Chỉ là tín ngưỡng kiền thành.” Tôi nói: ”Bản địa của cô là Biện Tài Thiên Nữ.” Chika Kuta nói: ”Tôi không hiểu lắm.” Tôi nói với cô ấy: ”Trở về trì chú của Biện Tài Thiên Nữ, trì chú Quan Âm, trì chú Kim Mẫu, trì chú Thượng sư. Bốn câu chú này có thể bền lòng trì tụng thì chắc chắn có tương ứng.” Chika Kuta rất cảm tạ, cô ấy nói sau khi trở về Nhật Bản nhất định sẽ ngày ngày trì tụng bốn câu chú này.

🌟

Không lâu, khoảng hơn nửa năm. Chika Kuta nói cho chúng tôi biết: Không phải ngủ, chỉ là vừa nhắm mắt lại thì ánh sáng xán lạn cả một vùng, xuất hiện Quan Thế Âm Bồ Tát, Diêu Trì Kim Mẫu, Biện Tài Thiên Nữ, Lư Thắng Ngạn Sư Tôn. Bốn vị đều vô cùng to lớn. Diêu Trì Kim Mẫu dùng tay đỡ Chika Kuta, Chika Kuta dùng tay sờ vào mặt Kim Mẫu. Quan Âm Bồ Tát đỡ Chika Kuta, Chika Kuta dùng tay sờ vào tai Quan Âm. Bốn vị đều nói với cô. Rồi Quan Âm Bồ Tát, Diêu Trì Kim Mẫu, Biện Tài Thiên Nữ, Lư Sư Tôn đều dùng ấn, ấn vào họng của cô ấy. Chika Kuta hỏi: ”Vì sao như vậy?” Tôi đáp: ”Ấn chứng Biện Tài Thiên Nữ đó!” (Biện Tài Thiên Nữ nói ra diệu âm, có bốn tài biện luận vô ngại, vì thế khi ấn chứng là ấn vào họng.) Tôi nói: ”Chika Kuta đã đại tương ứng rồi!”

26. Truyền thụ pháp Cúng khói

Vào ngày 16 tháng 2 năm 2008 tại Seattle nước Mỹ, tôi chính thức truyền dạy pháp Cúng khói của Mật giáo.

Bởi vì pháp Hộ Ma Hỏa cúng của Mật giáo hành giả thông thường có một mình thì không dễ làm, có đủ mọi nhân tố khách quan, sống nơi đô thị sẽ dẫn tới những phiền toái không cần thiết. Vì thế, tôi truyền dạy pháp Cúng khói. Công cụ làm cúng khói gồm có: Lư cúng khói. Lư hương nằm. Lư đàn hương. Sắt. Vật liệu cúng khói: Đồ ăn — bột mì, bột yến mạch, bột ngũ cốc, sữa bò, bơ, đường trắng đường đỏ. Quần áo — vải vụn năm màu. Nhà ở — nhà nhỏ gập bằng giấy. (hoặc hình vẽ) Phương tiện — xe nhỏ gập bằng giấy. (hoặc hình vẽ) Hương — bột đàn hương. (Những thứ này trộn lại thành từng cục bột rồi đốt bằng mồi lửa hoặc que hương, có thể cháy thành khói mới đúng cách.)

Thời gian tu pháp: Cúng Phật Bồ Tát vào buổi sáng từ 5 giờ đến 9 giờ. Cúng oan thân trái chủ vào buổi chiều tối từ 5 giờ đến 9 giờ. Địa điểm tu pháp: Cúng Phật Bồ Tát tại đàn thành. Chú ý không khí cần lưu thông. Cúng oan thân trái chủ tại sân thượng, nếu không có sân thượng thì cũng có thể cúng trên bệ cửa sổ, nơi không khí lưu thông.

Mục đích chính của pháp Cúng khói là loại bỏ tất cả chướng ngại, khiến hành giả thân thể khỏe mạnh, sự nghiệp thuận lợi, mọi việc cát tường, vận rủi chuyển thành vận may, không còn tai nạn, tu pháp thành tựu.

Nghi quỹ pháp Cúng khói như sau:

Tông Ủy Hội ban bố nghi quỹ pháp Cúng khói.

Thỉnh cầu Căn bản Truyền thừa gia trì: Đầu tiên quán Không, sau đó quán tưởng Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật trụ ở đỉnh đầu phóng quang gia trì. Trì tâm chú Liên Hoa Đồng Tử 7 biến, cầu nguyện tu pháp viên mãn.

Tiếp theo, làm quán tưởng tứ vô lượng tâm. Làm thủ ấn đánh thức (vỗ tay hai lần, bắt chéo hay tai, búng ngón tay).

1. Chú thanh tịnh.

2. Chú triệu thỉnh.

3. Đại lễ bái.

4. Đại cúng dường.

5. Tứ quy y.

6. Mặc bia giáp hộ thân.

7. Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh. (1 biến)

8. Chú Vãng sinh. (7 biến)

9. Niệm kệ Tứ vô lượng tâm.

Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, là từ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là bi vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, là hỉ vô lượng. Nguyện hết thảy chúng sinh không còn yêu ghét, sống trong bình đẳng, là xả vô lượng.

10. Kết ấn và quán tưởng:

image

Kết ấn: ấn chắp tay hoa sen. Đầu tiên hai tay chắp lại, sau đó mở ra như hoa sen nở, chỉ có hai ngón cái, hai ngón út chạm vào nhau. Giữ thủ ấn trước ngực. (Ấn này là ấn chung của tất cả Bồ Tát.)

Quán tưởng: Đầu tiên quán Không, niệm chú quán Không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến)

(1) Trên mặt biển lớn, trời trong vạn dặm không mây, nguyệt luân từ mặt biển nhô lên không trung, trong nguyệt luân có chủng tử chữ Seh màu trắng, chữ Seh phóng ánh sáng trắng. (2) Chữ Seh trong nguyệt luân xoay tròn, hóa thành Quan Âm Tứ Thủ. (3) Lại quán tưởng trong tim bạn phóng ra một chữ Hum màu lam, biến thành một cái móc, móc Quan Âm Tứ Thủ đến đỉnh đầu bạn, sau đó tiến vào hoa sen trong tim bạn, trong nháy mắt, chính bạn biến thành Quan Âm Tứ Thủ.

11. Trì tâm chú Bổn tôn Quan Thế Âm Bồ Tát. Làm quán tưởng chuỗi hạt: (Hai tay cầm chuỗi hạt đặt trước ngực, khi niệm dùng ngón tay cái để lần hạt.) Quán tưởng tay trái thành chuông kim cang, quán tưởng tay phải thành chày kim cang, quán tưởng hạt Phật đầu thành Đa Bảo Phật tháp, quán tưởng bốn hạt lớn hơn ở giữa thành Tứ Đại Thiên Vương, quán tưởng sợi tua rua thành liên hoa thủ (Phật thủ - bàn tay Phật), quán tưởng sợi dây xuyên chuỗi hạt thành vòng ánh trắng của bản tính Kim Cang Tát Đỏa. Khi trì chú, mỗi khi lần một hạt thì đều quán tưởng thành một vị Quan Thế Âm Bồ Tát đến trước mặt mình. Chú ngữ: Ôm ma-ni pat-mi hum. (108 biến)

12. Làm cúng khói và quán tưởng. Trì chú: Ôm. Ah. Hùm. (21 biến) Rang. Yang. Kang. (21 biến) (Chữ Om chính là biến đàn cúng này thành to lớn như vũ trụ, chữ Ah là thanh tịnh mọi cúng phẩm, chữ Hum là gia tăng pháp vị, gia tăng diệu vị. Chữ Rang là lửa, lửa bốc lên. Chữ Yang là gió, lửa đốt lên thành khói, gặp gió thổi khói đi. Chữ Kang chính là đầy ắp cả hư không.)

Kết ấn: thủ ấn đại bàng Kim Sí Điểu, bay lên trên. (Biểu thị khói này bay đến mọi nơi trong vũ trụ, làm biến hóa.)

image

Quán tưởng: khói tỏa ra từ các đồ vật đầy ắp hư không. Sau đó quán tưởng tất cả khói tỏa ra đều biến thành năm đồ cúng tuyệt diệu, biến thành y phục rất vi diệu, mọi đồ ăn uống, y phục, đồ dùng, tất cả nhà cửa, xe cộ, tủ lạnh, đồ điện, thất trân bát bảo đầy ắp cả hư không, tất cả đồ dùng trong quán tưởng của bạn đều xuất hiện. Đem khói sinh ra cúng dường cho tất cả quỷ thần chúng và oan thân trái chủ gây chướng ngại cho bạn, sau khi họ có được cúng dường này thì sẽ rời khỏi bạn.

Trì chú: “Ôm a-bu-la-ti pra-ya sô-ha.” Niệm 1 biến thì búng ngón tay 1 lần. (7 biến)

13. Nhập Tam ma địa. (tùy ý mỗi người)

(Xin đọc kĩ Cửu tiết Phật phong, quán Nhập ngã - Ngã nhập, quán đếm hơi thở trong Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp.)

14. Trì thêm những tâm chú khác.

15. Niệm Phật. (3 biến)

16. Hồi hướng.

Nếu cúng Phật Bồ Tát thì niệm: Năm món vi diệu mong cúng khói. Cúng chư Phật Bồ Tát Kim cang Hộ pháp Không hành chư thiên.

Nếu cúng oan thân trái chủ thì niệm: Cúng Thực Hương Thiên Vương Bất Đỗ Cát, Khẩn Na La Vương và quyến thuộc, Ngũ Kế Thực Hương Vương và quyến thuộc, Long Vương Long Nữ và quyến thuộc. Sơn Thần Thủy Thần thần sông biển. Hết thảy tất cả thân trung ấm. Cùng tất cả chúng sinh khổ não. Mong những điều họ mong muốn được viên mãn. Mong tất cả thân trung ấm vì sợ hãi đau khổ được giải thoát. Mong Phật Đà viên mãn báo dụng thân. Mong mau hiện chứng chính giác vị. Dù chưa có lực cũng làm theo. Cũng bỏ hết mà sinh về cõi thiện. Nguyện hành trì vô thượng chính pháp. Mong đem sức mạnh công đức này tiêu trừ tất cả chướng ngại. Bốn đại khổ nạn như sóng lớn, mong cứu tất cả chúng sinh cõi Ta Bà. Nguyện người cùng niệm Phật, cùng sinh cõi Cực Lạc, trên báo bốn ơn sâu, dưới cứu ba đường khổ, thấy Phật thoát sinh tử, như Phật độ tất cả. Đệ tử ABC hôm nay theo đây làm hồi hướng, mong đem công đức tu pháp hồi hướng cho Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cầu nguyện Sư Phật thường trụ thế gian, không nhập niết bàn, mãi chuyển pháp luân, Phật thể an khang. Kính chúc mọi người thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý, đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành. Nguyện tất cả nguyện vọng mong cầu đều được viên mãn. Nguyện tất cả tai nạn đẩy lùi. Uân!

17. Niệm Bách tự minh chú. (3 biến)

18. Đại lễ bái.

19. Chú viên mãn.

Ôm bu-lin. (3 biến) Ôm ma-ni pat-mi hùm.

Làm thủ ấn giải tán: vỗ tay hai lần, bắt chéo tay, búng ngón tay. Tu pháp viên mãn. Như ý cát tường.

Thời gian tu pháp: Cúng Phật Bồ Tát là vào buổi sáng 5 giờ đến 9 giờ, cúng oan thân trái chủ là vào chiều tối 5 giờ đến 9 giờ.

Bột cúng khói phải có các nguyên liệu sau: 1. Bột đàn hương. 2. Bột mì, đã rang chín, nhưng không bỏ dầu. Có thể cho thêm một chút sữa bột, bột gạo lứt, bột đậu phộng, bột đậu… tức là bột ngũ cốc. 3. Cúng phẩm đơn giản nhất là bột mì, bột yến mạch, bột gạo lứt, bơ, sữa tươi. Sữa và bơ đều bỏ một chút xíu là được, trộn chung với nhau, làm xong thì có thể đốt. 4. Trộn đường trắng và đường đỏ vào hỗn hợp. 5. Một miếng vải màu đỏ, một miếng vải màu trắng, một miếng vải màu lam, một miếng vải màu lục, một miếng vải màu vàng, cắt thành miếng hình vuông nhỏ. Chú ý: 1. Dùng mồi lửa hoặc que hương để châm lửa. 2. Lư cúng khói có thể dùng bột cúng khói dạng bánh hình tròn, lư hương nằm có thể dùng bột cúng khói dạng que dài.

🌟

Cá nhân tôi cảm thấy pháp Cúng khói có lợi ích lớn. Thứ nhất, có thể tích tập công đức, cúng lửa công đức lớn, cúng khói công đức cũng không nhỏ. Mật giáo coi trọng pháp cúng dường, ví dụ: Hỏa cúng, hội cúng, thủy cúng, khói cúng, gạo cúng,… Ngoại cúng, nội cúng, mật cúng, mật mật cúng. Đây đều là pháp cúng dường. Có thể tích tập đại công đức. Thứ hai, tu pháp Cúng khói dùng Quan Âm Tứ Thủ làm chủ tôn, cũng giống như đang tu Quan Âm Tứ Thủ tương ứng pháp, chỉ cần tương ứng với Quan Âm Tứ Thủ rồi thì hà tất phải lo Phật Bồ Tát chư tôn không tương ứng, chỉ cần tương ứng với Quan Âm Tứ Thủ thì chắc chắn vãng sinh tịnh thổ.

🌟

Tôi có một đệ tử tên là Hàn Nhữ Oa, sau khi anh ta được quán đảnh pháp Cúng khói, trở về nhà tu một đàn pháp. Tu pháp này một cái liền nhìn thấy vô số nam nam nữ nữ mặc quần áo và trang sức lộng lẫy, lái xe sang tụ tập trong một tòa cung điện lớn. Trong cung điện có vô số món ăn ngon, những món ăn ngon và quý không ngừng được đưa ra, như tiên tương ngọc lộ. Những vị khách quý này ai nấy đều vui mừng tận hưởng, biểu lộ vẻ mặt vô cùng hoan hỷ. Nam nam nữ nữ giống như đang tham gia một bữa tiệc lớn của ngày hội, bữa tiệc này cực kì thành công.

Tôi viết một bài kệ: Cúng khói là pháp tiên Năm món cúng diệu thiện Mọi chướng ngại quỷ thần Cháy lên hóa kỳ công.

27. Trên đầu mọc khối u to

Có một người phụ nữ bế một đứa bé đến gặp tôi, đứa bé này khoảng ba tuổi, trên đầu có mọc một khối u to, khối u này to như quả trứng gà, tóc đứa bé đen sì nhưng khối u thì nhẵn bóng, không có lấy một sợi lông, nhô hẳn ra. Người phụ nữ nói: ”Lư Sư Tôn, tôi đọc sách của Thầy, Thầy từng dùng tay sờ lên khối u của một đứa trẻ, rồi khối u của đứa trẻ đó chẳng bao lâu đã biến mất, đúng không?” Tôi nói: ”Đúng vậy.” Người phụ nữ rất vui mừng: ”Hôm nay tôi bế đứa bé này không quản đường xa đến đây gặp Thầy, xin Thầy cũng dùng tay sờ một chút để cho khối u to của đứa bé này cũng biến mất đi!” Tôi nói: ”Điều này là không thể.” Người phụ nữ hỏi: ”Trong sách của ngài đã viết, hơn nữa còn có ảnh làm chứng. Hôm nay vì sao lại không thể chứ?” Tôi nói: ”Hai đứa trẻ khác nhau, hai khối u khác nhau, nhân quả của hai đứa khác nhau, vì thế không thể.” Người phụ nữ hỏi: ”Đứa bé này có nhân quả gì?” Tôi nói: ”Tôi nhìn thấy đời quá khứ của đứa bé này có một kiếp làm đầu sỏ lưu manh, hắn ức hiếp người lương thiện, phàm là người hắn nhìn không vừa mắt là đốt nóng đỏ một thanh sắt, sau đó liền in vào đầu của người ta, người bị in vào đầu kêu lên một tiếng thảm thiết rồi chết ngất, vĩnh viễn để lại sẹo trên đầu. Vì thế, đời này trên đầu đứa bé có mọc một khối u to, vĩnh viễn ở trên đầu, ngay cả tôi cũng không có cách nào khiến nó tiêu biến được.”

Người phụ nữ cũng tin nhân quả, người phụ nữ nói: ”Đã là bệnh nhân quả thì thật sự đây cũng là làm khó, nhưng tôi nghe người ta nói, Phật pháp vô biên, Phật giáo cũng từ bi, có thể có cách tiêu trừ oan nghiệt kiếp trước đúng không?” Tôi nói: ”Tôi tôn sùng kinh Cao Vương Quan Thế Âm, cô hãy ấn tống kinh này tặng người ta, rồi niệm tụng kinh này 1000 biến, hồi hướng cho đứa bé. Kinh ngày có nói, tụng đủ 1000 biến, trọng tội đều tiêu diệt. Đợi đến khi cô ấn tống kinh này, sau đó niệm tụng 1000 biến, tôi sẽ sờ đầu cho đứa bé!”

🌟

Sau khi người phụ nữ trở về, y theo lời dặn dò của tôi, đã in mấy nghìn cuốn kinh Cao Vương Quan Thế Âm để phát tặng. Rồi người phụ nữ này lại một lòng một ý niệm tụng kinh Cao Vương Quan Thế Âm đủ 1000 biến. Đúng lúc đọc đủ 1000 biến, trong mơ thật sự đã nhìn thấy Lư Sư Tôn đến, Lư Sư Tôn dùng tay sờ vào khối tu to trên đầu của đứa bé. Trong mơ còn nghe Lư Sư Tôn nói: Đã biết nhân quả hãy dừng lại. Nỗi đau thể xác thì sao đây. Giải oan giải oan giải oan kết. Ái hận cổ kim tự ôn hòa.

Kể từ khi Lư Sư Tôn sờ đầu đứa bé, khối u to đó mỗi ngày lại thu nhỏ lại, mỗi ngày một nhỏ lại, người phụ nữ càng chịu khó niệm kinh hơn, khối u to đó biến thành nhỏ, khối u nhỏ biến thành không có, hiện tại đầu của đứa bé đã như người bình thường rồi.

Người phụ nữ gửi thư đến để bày tỏ lòng biết ơn. Tôi nói: ”Tội phúc nhất như, huyễn khởi huyễn diệt!”

28. Nhập địa nhãn

Ngày xưa, tôi có một việc khiến người ta bàn luận sôi nổi. Khi tôi vừa chân ướt chân ráo đến Seattle nước Mỹ, tôi cùng một nhóm đệ tử đi qua một mảnh đất um tùm rậm rạp. Tôi nói: ”Khu rừng rậm rạp này là một mảnh đất bảo bối, ai có thể mua được nó thì sẽ là số một thế giới.” Về sau đã chứng minh: Mảnh đất rậm rạp này đã được khai phá, chính là đại bản doanh của công ty Microsoft. Mảnh đất rậm rạp này đã cho ra đời người giàu số một thế giới Bill Gates. Đây chính là nhập địa nhãn của Lư Sư Tôn tôi. Bên dưới sườn dốc của khu rừng rậm rạp, chúng tôi xây dựng chùa tổ của Chân Phật Tông - Seattle Lôi Tạng Tự. Quay lưng vào Microsoft. Mặt hướng ra hồ Sammamish. Đệ tử Chân Phật từ năm đại châu trên toàn thế giới đang phát triển mạnh mẽ, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Mật pháp từ đây truyền đi khắp trời khắp đất, thanh danh vang dội.

🌟

Lại có một việc khác. Tôi đi qua một nơi là Bellevue, Bellevue khi ấy là một vùng hoang dã. Phóng hết tầm mắt là một vùng đất mênh mông trống trải, cỏ dại mọc đầy đến tận chân trời, là một nơi đất đai cằn cỗi không hề có dân cư. Tôi nhìn thấy ở phía xa có một ngọn núi, long khí của ngọn núi đó ẩn vào trong đất, tôi liền đi đến Bellevue. Tôi nói: ”Nơi đây là một thành phố, trong thành phố này sẽ xây dựng nên sự cọ sát lớn nhất.” (Cọ sát tức là thương trường lớn nhất.) Người môi giới đất đai đưa chúng tôi đi xem đất là một người phụ nữ tên là Margie. Margie nói: ”Sao có thể như vậy chứ?” Tôi nói: ”Tôi nhìn thấy một thành phố lớn được xây dựng lên, thị trường lớn nhất của cả bang chính là ở nơi đây! Bởi vì long mạch chạy đến đây.”

Về sau đã chứng minh: Một thành phố được xây dựng. Một thị trường lớn siêu cấp đã được xây dựng.

🌟

Có tăng nhân hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn có nhập địa nhãn, còn có con mắt gì nữa?” Tôi đáp: ”Thiên nhãn và huệ nhãn.” Tăng nhân hỏi: ”Có những con mắt này, không biết có tác dụng gì?” Tôi đáp: ”Khi ăn cơm, có cơm cho anh ăn, khi đi ngủ có giường cho anh ngủ.” (lời nói sắc bén) ”Cái này thì tôi cũng biết.” Tôi nói: ”Anh vẫn không biết đâu, tôi là một lão tăng để mặc theo sự co dãn linh hoạt.” (Tại đây tôi hỏi mọi người, từ trong đoạn đối thoại này có một huyền cơ, mọi người sao không thử ngẫm nghĩ xem huyền cơ này rốt cục nằm ở chỗ nào?)

29. Tiến sĩ Gordon Melton

Ở nước Mỹ, tại Đại học Santa Barbara California có một vị tiến sĩ tôn giáo tên là Gordon Melton.

Mấy năm gần đây, ông ấy liên tục tìm hiểu về Chân Phật Tông, hơn nữa còn chuẩn bị một đống tư liệu về Chân Phật Tông để phát biểu trong buổi hội thảo học thuật về tôn giáo thế giới, địa điểm là ở London nước Anh.

Ông ấy hỏi tôi hai vấn đề: 1. Lư Sư Tôn gặp Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 vào năm nào, ở đâu? 2. Lư Sư Tôn gặp Cam Châu Hoạt Phật vào năm nào, ở đâu?

Hai câu hỏi của tiến sĩ Gordon Melton thật ra rất đơn giản là có thể trả lời được rồi, nhưng, tôi cố ý không trả lời. Vì sao? Tôi nói: Cảnh giới của tôi là, tùy lúc tùy nơi tôi đều có thể ở tại không gian tầng cao mà gặp bất kì một vị tổ sư nào. Chỉ cần tôi thiền định. Triệu gọi. Phật Đà. Xá Lợi Phất. Tsongkhapa. Không Hải Đại Sư. …..

Tôi đều có thể gặp được. Muốn gặp Đại Bảo Pháp Vương thứ 16, Cam Châu Hoạt Phật thì lại càng chẳng có gì khó! (Thật ra trong những cuốn sách của tôi từ sớm đã chỉ rõ tôi đã gặp Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 và Cam Châu Hoạt Phật như thế nào.) Đại Bảo Pháp Vương — năm 1980 tại New York. (tư liệu của Trần Huệ Kiếm) Cam Châu Hoạt Phật — năm 1970 tại Đài Bắc. (tư liệu của Trần Huệ Kiếm) Tư liệu của Trần Huệ Kiếm từ lâu đã đưa tôi vào trong báo cáo nghiên cứu cùng với Thanh Hải Vô Thượng Sư, trong một buổi hội thảo tại Hồng Kông cũng đã phát biểu. Đối với báo cáo nghiên cứu của Trần Huệ Kiếm (Sát Phật Lâm) có tính chính xác hay không, tôi căn bản từ chối bình luận.

🌟

Sự việc này khiến tôi nghĩ đến cuộc đối thoại giữa thiền sư Mậu Nguyên và thiền sư Bình Điền. Thiền sư Bình Điền đến thăm thiền sư Mậu Nguyên, Mậu Nguyên muốn bỏ đi, Bình Điền giữ lại. Bình Điền nói: ”Nói ra thì lạc, im lặng thì mất. Bỏ hai cái này, xin thầy mau mau nói.” Mậu Nguyên lấy tay bịt hai tai. Thiền sư Bình Điền đợi thiền sư Mậu Nguyên buông tay xuống lại hỏi: ”Một bước dễ, hai bước khó, xin thầy mau nói.” Thiền sư Mậu Nguyên đáp: ”Vội cái gì?” Thiền sư Bình Điền hỏi: ”Nếu không vì cái này, thiền sư Mậu Nguyên phải kiểm điểm lại nhiều mặt rồi.” Thiền sư Mậu Nguyên căn bản không trả lời.

Tại đây tôi hỏi mọi người, vì sao thiền sư Mậu Nguyên không trả lời? Rồi vì sao thiền sư Mậu Nguyên cần trả lời? Cần trả lời thì phải đáp thế nào mới đúng? Mọi người có biết không?

🌟

Tôi hỏi bạn một câu đơn giản, vào ngày 1 tháng 1 năm 1980, bạn đã đi tiểu mấy lần? Địa điểm là ở đâu? Nếu tôi mời bạn trả lời. Bạn trả lời thế nào? Bạn có thể nói thế này: “Thật sự tè một cái, nhưng, những cái khác quan trọng sao?”

30. Xác chết màu đen

Đêm khuya ngày 7 tháng 3 năm 2008, tôi đang ngủ say, ấy vậy mà lại cảm ứng thấy một cảnh tượng kỳ lạ: Ở chân trời rất xa, ban đầu là một khối đen sì, đột nhiên xuất hiện mặt trời đỏ. Tôi cho rằng mặt trời đang mọc, có những tia nắng ban mai sáng rực, nhưng khi nhìn thì không phải là ánh mặt trời, mà là ánh lửa, là ngọn lửa hừng hực cứ thế cháy dồn đến. Tôi niệm chú về phía ngọn lửa, thế lửa chuyển sang hướng Bắc, thế nhưng sức gió tác động lại khiến lửa cháy về hướng Nam, thế lửa hung bạo không thể ngăn chặn.

Tôi lại niệm chú văn, không ngờ Hỏa Thiên Thần hóa thành một người mặt áo trắng đứng trên ngọn lửa, nói với tôi: ”Lư Sư Tôn, đừng niệm, đừng niệm.” Tôi vừa mới dừng lại, trong sát-na, mọi thứ trở thành một vùng đất khô cằn, tiếng người xôn xao, không ai là không hồn bay phách tán, mọi người đến để cứu lửa.

Có một cái xà lớn của mái hiên kêu “roạt” một tiếng rồi đổ xuống, đè trúng rất nhiều người, họ đều bị ngọn lửa thiêu cháy.

Đúng vào lúc này, một xác chết đen bay lên, hét lớn với tôi: ”Lư Sư Tôn cứu tôi! Cứu tôi!” ”Cô là đệ tử?” - Tôi hỏi. ”Đúng vậy, nhưng tôi nhiều lần phạm giới, nhưng xin Sư Tôn cứu tôi vãng sinh tịnh thổ.” ”Cô là…?” ”Lưu….”

🌟

Ngày hôm sau, tôi từ Nam Sơn Nhã Xá lái xe đến Chân Phật Mật Uyển. Thượng sư Liên Ninh cầm một tờ fax đưa cho tôi, được gửi đến từ Viên Âm Đường ở Brunei ở xa nghìn dặm, là fax của Jalaa Tengah Kuala Belait Barussalam. Nói rõ: 3h50 phút sáng ngày 7 tháng 3 năm 2008, nhà bị cháy, có rất nhiều người bị lửa thiêu chết, trong đó có một người là đệ tử Chân Phật Tông, họ Lưu. Tôi vừa thấy là họ Lưu thì thầm kinh hãi. Thì ra đêm qua, nhìn thấy đám cháy ở xa nghìn dặm là một hiện trạng hoàn toàn có thật, hơn nữa họ tên hoàn toàn phù hợp. Tôi niệm ba tiếng: ”Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!” Xác chết màu đen này từng hiển hóa cho tôi nhìn thấy bộ dạng lúc còn sống của cô ấy. Lúc còn sống cũng khá xinh đẹp. Nhưng sau khi chết rồi trở thành cháy đen rất đáng sợ. Đúng là vô thường! Vô thường!

🌟

Tôi biết cô Lưu bị cháy đen, hơn nữa còn nhiều lần phạm giới, sẽ bị đưa đến nơi kia. Nhưng, vào lúc lâm chung, cô Lưu đã không quên Sư Tôn của cô ấy, còn gọi tôi phải cứu cô ấy vãng sinh tịnh thổ. Chỉ dựa vào một câu nói này. Ở tại đàn thành của Nam Sơn Nhã Xá, tôi đã bày đàn thành siêu độ, đặc biệt nhiếp triệu Bổn tôn A Di Đà Phật của tôi đến, sau đó giao phó trung ấm của cô Lưu cho A Di Đà Phật, cô Lưu chắc chắn có thể vẵng sinh tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì. Tôi niệm: ”Đại Nguyện Vương Di Đà Phật, từ bi hỷ xả khó lường, giữa trán thường phóng bạch hào quang, độ chúng sinh đến miền Cực Lạc.”

31. Khẩu quyết thậm thâm của pháp Đoạt xá

(Pháp Đoạt xá này là bài dạy đặc biệt vô thượng của Mật giáo, vị yogi có thể làm pháp này công lực chắc chắn là thâm hậu. Người chưa đạt đến cảnh giới này có thể xem đây là một kiến thức. Còn nữa, người có ý muốn tu tập pháp Đoạt xá phải được Kim cương Thượng sư chân chính truyền miệng và quán đảnh.)

Thứ nhất: Pháp tức thân thành Phật

Ngồi thế kiết già hoặc ngồi thẳng. Dùng chữ “Hum” để che chắn tất cả ngoại môn. (Ngoại môn tức là bảy lỗ: mắt, tai, mũi, miệng, rốn, lỗ bí mật, hậu môn, chỉ chừa lại thiên khiếu trên đỉnh đầu.) Tâm khí mà hành giả tu lâu ngày, dùng ý để vận hành trong trung mạch. Giữa chữ

image

và chữ

image

Triệu thỉnh Bổn tôn Phật đến an trụ tại đỉnh đầu. Trung mạch của Bổn tôn Phật nối với trung mạch của hành giả. Hành giả yogi đưa hết bình khí vào trung mạch, đẩy tâm khí tiến vào trong trung mạch của Bổn tôn Phật. Nhờ hòa nhập vào đạo tối thắng mà chứng đắc tức thân thành Phật.

Tôi cho rằng: Pháp này quan trọng nhất là: Tu được tâm khí. Tu được bình khí. Triệu thỉnh được Bổn tôn Phật đến lỗ đỉnh đầu. Tâm khí của chính hành giả hoàn toàn dung nhập vào Bổn tôn Phật, thế là thành tựu tức thân thành Phật rồi!

Thứ hai: Pháp vãng sinh tịnh thổ (hóa sinh) và pháp đoạt thai xuất sinh (thai sinh) Tương tự, dùng chú tự để che chắn tất cả cửa ra vào [7 lỗ], chỉ để lại Phạn huyệt là không che. Tập trung vào chữ Hum màu xanh lam của nguyệt luân ở trong tim. Đây chính là tâm khí. Niệm thầm 20 tiếng “xi”. Dẫn đến họng. Tiếng “xi” thứ 21 thì bắn vọt ra từ cửa Phạn huyệt. Bắn vọt ra đến nhụy hoa của hoa sen được móc đến. (Đây chính là vãng sinh Phật quốc tịnh thổ.)

Nếu hành giả yogi không muốn vãng sinh tịnh thổ, mà muốn ở nhân gian luân hồi làm “người lại đến”. 1. Chọn nhà vua chúa. 2. Chọn nhà tu hành. 3. Chọn nhà phú quý. Câu triệu thai của phụ nữ hậu phi “bạch quang rực cháy” hoặc “hồng quang rực cháy” rồi bắn thẳng vào đó. (Đây chính là người lại đến thông qua thai sinh.) Pháp tâm khí bắn thẳng này giống như kéo căng dây cung và bắn ra, nhất định thành công. Sau cùng phải hô một tiếng “xi”, đây là điều quan trọng nhất. Nhận rõ tử cung của phụ nữ mình muốn đầu thai là bạch quang hay hồng quang cũng rất quan trọng, rất quan trọng. Pháp này phải nhận rõ đó có phải là gia đình tích thiện công đức hay không, rất quan trọng, rất quan trọng. (Đây chính là pháp đoạt thai.)

Thứ ba: Pháp đoạt xá (pháp mượn xác hoàn hồn)

Pháp này về mặt pháp luật và luân lý thì đều không được làm, cho nên chỉ để cho mọi người tham khảo thôi. Lựa chọn trẻ sơ sinh hoặc trẻ em vừa qua đời. Trẻ sơ sinh hoặc trẻ em này phải không bệnh không khuyết tật, chỉ là bị ngạt thở mà chết. (Không lở loét, không thối rữa.) Tắm rửa sạch sẽ cho di hài, dùng an tức hương để xông. Tu pháp Bổn tôn, bảo vệ Đỉnh luân, Hầu luân, Tâm luân.

image

Tu bánh xe bảo hộ để bảo vệ di hài của trẻ sơ sinh hoặc trẻ em này, tránh quỷ thần quấy nhiễu. Dâng cúng dường cho Không Hành có lời thề và Không Hành ăn thịt để họ hoan hỷ. Yogi và di hài không xa không gần. Yogi che chắn tất cả ngoại môn (bảy lỗ), chỉ để lại lỗ mũi không che. Bảo bình khí đi vào trung mạch. Tâm khí chữ Hum từ lỗ mũi phải của hành giả đi ra, đi vào lỗ mũi trái của di hài, rồi đi thẳng đến tim. (Rồi đi ngược lại.) Cho đến khi tim của trẻ sơ sinh hoặc trẻ em có hơi ấm, hoặc thậm chí toàn thân có hơi ấm, mắt đã có thể hé mở và trong miệng bắt đầu có tiếng ú ớ, v.v… Lúc này, yogi có thể ra sức niệm 20 tiếng “xi”, tiếng “xi” sau cùng từ lỗ mũi phải đi ra, bắn vào lỗ mũi trái của trẻ sơ sinh hoặc trẻ em rồi đi vào tim. Yogi sẽ chết ngay. Còn trẻ sơ sinh hoặc trẻ em sẽ sống lại. (Đây chính là cách làm pháp đoạt xá vô thượng thượng của Mật giáo, có thể nói là pháp mượn xác hoàn hồn.)

Cá nhân tôi cho rằng: Những cách làm pháp này có khẩu quyết quan trọng. 1. Bình khí phải đủ. 2. Bình khí có thể đi vào trung mạch. 3. Tâm khí từ lâu đã thành tựu huyễn thân. 4. Tâm khí tự do ra vào. 5. Chữ “xi” chính là chữ:

image

6. Làm pháp rõ ràng. 7. Lựa chọn nhà lành phải biết rất rõ, không thể có sai lầm. 8. Yogi tự nhận mình đã già yếu, đã không còn lợi ích gì cho chúng sinh thì mới làm ba pháp này. 9. Người làm pháp phải phát nguyện lợi ích tất cả chúng sinh hữu tình. 10. Nếu có chỗ nào chưa hiểu thì không được làm bừa, phải thỉnh giáo Kim cương Thượng sư chân chính.

32. Đau họng khản tiếng

Ngày 12 tháng 3 năm 2008, tôi đột nhiên cảm thấy đau họng khản tiếng, ngạt mũi, nhiệt độ cơ thể hơi cao, tôi cảnh giác rằng mình đã mắc bệnh cảm cúm mùa.

Bệnh cảm cúm mùa lần này rất lợi hại, ở Seattle Lôi Tạng Tự, bất kể là pháp sư hay cư sĩ tại gia đã không ít người bị đánh gục. Cho dù là người có thân thể rất cường tráng cũng lần lượt bị ốm. Hầu hết đều bị ốm mất một tuần. Một sư tỉ từng làm y tá nói: ”Siêu vi trùng và virus có tính sàng lọc lần này rất mạnh, người nhiễm bệnh sẽ sốt cao, đầu đau như muốn vỡ ra, ho dữ dội, chóng mặt, hầu hết sẽ nằm bẹp và run rẩy.”

Trong lúc tôi tự mình nghĩ rằng mọi người đều đã ngã quỵ rồi còn mình vẫn vô sự thì đúng vào lúc tôi vui mừng, ngày 12 tháng 3, mũi tôi bị chảy nước mũi. Đau họng khản tiếng. Nhiệt độ cơ thể tăng cao. Người hơi sợ lạnh. Tôi nghĩ: “Tôi cũng bị rồi!”

🌟

Buổi tối hôm đó, tôi đã cảm thấy hoàn toàn không thoải mái, toàn thân nóng rực, đau đầu chóng mặt, lên xuống cầu thang đã cảm thấy mệt rã rời, tôi cảm thấy kinh sợ nếu bệnh tình trở nặng. Thứ bảy, tôi không thể nào chủ trì đồng tu thuyết pháp. Chủ nhật, tôi không thể nào chủ trì Hộ Ma hỏa cúng. Tôi thường xuyên là người lãnh đạo của Chân Phật Tông - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Ấy vậy mà không chống lại được virus của bệnh cúm mùa. Virus lợi hại như vậy. Ngay cả tôi cũng chạy trời không khỏi nắng, hic hic! Mặc dù toàn thân tôi cảm giác không còn sức lực, nhưng, tôi vẫn xốc mình lên tu một đàn pháp. Tôi nói: ”Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp, virus lợi hại, bây giờ chỉ có ngửa mặt khẩn cầu Bồ Tát từ bi cứu giúp thôi. Nếu con cũng lăn ra, tất cả pháp vụ đều dừng lại hết.”

🌟

Đêm đó tôi lên giường. Sợ lạnh đến mức răng đập vào nhau. Thật ra là người tôi đang sốt cao, tôi nghĩ, tôi xong rồi! Sau khi ngủ thiếp đi, tôi nhìn thấy Bạch Không Hành Mẫu bay đến. Bạch Không Hành Mẫu mang theo một cái chổi. Bạch Không Hành Mẫu nói: ”Tôi sẽ quét sạch những thứ dơ bẩn trên người ngài nhé!” Cây chổi đó quét trên người tôi. Bạch Không Hành Mẫu nói: ”Vốn dĩ ngài phải nằm bẹp bốn ngày, bốn ngày này là kiếp bệnh của ngài, sau bốn ngày, ngài cũng phải từ từ điều dưỡng thân thể suy nhược, như thế mới có thể trở lại bình thường.” Bạch Không Hành Mẫu nói: ”Nhưng, ngài cầu nguyện tôi, tôi đến rồi, quét sạch bốn ngày này đi! Đến sáng ngày mai, ngài sẽ khỏi thôi!” Tôi nghe xong, hết sức vui mừng.

Ngày 13 tháng 3, sáng sớm tỉnh dậy, cơn sốt cao đã hết, họng cũng không khản, mũi cũng khỏi rồi. Đã hoàn toàn khỏe rồi. Tôi nói để mọi người biết, tôi không uống thuốc, tôi chỉ uống nhiều nước hơn, chỉ ngủ một giấc, thật sự đã khỏi hẳn rồi! Tôi nương dựa vào Bồ Tát của tôi, một lòng một ý hướng về Bồ Tát cầu nguyện, quả nhiên có kỳ tích.

33. Quy y lúc lâm chung

Ở miền Nam Đài Loan có một người tên là Thanh Quân (biệt danh), bị mắc bệnh nặng, tính mạng đã thập tử nhất sinh. Người này vì mắc bệnh đã lâu, trước sau đều chữa không khỏi, cho nên hoàn toàn không có suy nghĩ có thể khỏi bệnh.

Những người đang giằng co bên bờ vực cái chết thực chất là đang chờ đợi cái chết, chờ đợi thời điểm chết. Vừa hay có một đệ tử Chân Phật Tông ở bên cạnh nói với anh ta: ”Mạng sống của anh sắp hết rồi, chi bằng hãy quy y Thượng sư Lư Sư Tôn của chúng tôi, thầy ấy là hóa thân của A Di Đà Phật, sự linh nghiệm của thầy không gì có thể sánh bằng, thầy sẽ đến cứu độ anh!” Thanh Quân gật đầu. Đệ tử Chân Phật Tông ngay lập tức tiến hành quy y, đệ tử dạy anh ta trì niệm: “Om guru liansheng siddhi hum.” Rồi dạy anh ta niệm: ”Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.”

Sau khi Thanh Quân tự quy y, mỗi ngày niệm không ngừng, hễ tỉnh dậy là niệm, và người ở bên cạnh cũng giúp anh ta trợ niệm. Đến ngày hấp hối. Thanh Quân đột nhiên nhìn thấy Lư Sư Tôn đến, và phía sau chính là Tây phương Tam Thánh: A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Lư Sư Tôn và Tam Thánh hiện ra kim thân, hào quang rực rỡ, dài khoảng năm thước, ngồi trên tòa hoa sen ở trên cao, hoa sen tự nhiên bay đến. Rồi nhìn thấy trong tay áo Lư Sư Tôn bay ra một vật, gặp gió mở ra, chính là một đài hoa sen vàng. Lư Sư Tôn nói: “Mau lên hoa sen.” Thanh Quân lên hoa sen. Thanh Quân nói với người xung quanh: ”Lư Sư Tôn và Tam Thánh đến đón tôi rồi, tôi cáo biệt mọi người!” Nói xong thì gục đầu ra đi. Người bên cạnh nghe vậy đều rất cảm động.

🌟

Còn nhớ khi tôi ẩn cư ở hồ Diệp Tử, bỗng nhìn thấy Liễu Minh Hòa Thượng đến. Liễu Minh Hòa Thượng nói với tôi: ”Con nên hoằng dương tam thừa, Hiển giáo Mật giáo đều có thể song hành, thậm chí pháp bảy ngày thành Phật càng có thể quảng độ chúng sinh, con phải làm như vậy mới có thể báo đáp ơn Phật.” Liễu Minh Hòa Thượng nói: ”Ta thấy thế nhân ngày nay vốn có nhân duyên với A Di Đà Phật, pháp môn Tịnh Độ là con đường dễ đi, nếu phối hợp với Mật chú và quán tưởng thì người trì niệm chỉ cần nhất tâm là có thể hóa sinh tịnh thổ rồi.” Tôi chắp tay cảm tạ lời dạy của Liễu Minh Hòa Thượng.

Trong “Phật Thuyết A Di Đà Kinh” có nói: ”Nghe nói A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nếu một ngày, nếu hai ngày, nếu ba ngày, nếu bốn ngày, nếu năm ngày, nếu sáu ngày, nếu bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì người này lúc lâm chung, A Di Đà Phật và các Thánh chúng hiện lên trước mắt người ấy, người này lúc sắp chết, tâm không đảo điên, sẽ được vãng sinh Cực Lạc quốc thổ của A Di Đà Phật.” Vị Thanh Quân tiên sinh này quy y Chân Phật, chỉ niệm: “Om guru liansheng siddhi hum.” Niệm: ”Phật hiệu.” Lúc lâm chung, nhìn thấy Lư Sư Tôn và Tây phương Tam Thánh đến tiếp dẫn vãng sinh tịnh thổ. Đây chính là: ”Lâm chung quy y, một ý cầu sinh, Chân Phật phổ hiện, Tây hóa hiện thân.”

34. Tương ứng của pháp cúng khói

Đầu năm 2008 tôi mới truyền thụ pháp cúng khói, không ngờ pháp cúng khói này mới truyền xong thì đã có rất nhiều người tương ứng, tín chúng ở các nơi trên thế giới sôi nổi truyền đến tin tức tương ứng.

Dược sĩ Hứa Hồng Xuân có một hiệu thuốc ở Đài Loan. Ông ấy cùng vợ và con trai nhỏ đến Seattle nhận quán đảnh trực tiếp pháp cúng khói, sau khi trở về đã lập tức tu cúng khói.

Ngày hôm đó tu thì việc kinh doanh của hiệu thuốc tăng gấp ba lần so với bình thường, chứ không phải tăng một phần ba. Dược sĩ Hứa rất ngạc nhiên. Lấy ví dụ, nếu thu nhập mỗi ngày là 10.000 đồng thì bây giờ sẽ là 30.000 đồng; thu nhập mỗi ngày là 20.000 đồng thì bây giờ thành 60.000 đồng. Dược sĩ Hứa cố ý không tu cúng khói, kết quả là kinh doanh lại trở về như ban đầu. Thế là dược sĩ Hứa lại tu cúng khói, kinh doanh của ngày hôm ấy lại tăng gấp ba lần. Mỗi lần thử thì mỗi lần đều ứng nghiệm. Đúng là quái lạ!

🌟

Lại có một người là Liên Hoa Văn Thao, là đệ tử ở Trung Quốc Đại Lục, trước kia anh ấy làm kinh doanh pháo, tức là buôn bán pháo hoa, xuất khẩu đi Mỹ. Còn kinh doanh pháo nổ pháo hoa ở Trung Quốc Đại Lục là vào ngày Quốc khánh hoặc ngày Tết sẽ có đốt pháo hoa. Trước kia việc kinh doanh của Liên Hoa Văn Thao rất khởi sắc, giống như pháo hoa bắn trên bầu trời vậy, hào quang vạn trượng. Nhưng, điều tốt đẹp không tồn tại mãi. Một số bang ở nước Mỹ cấm pháo. Lại cộng thêm buôn bán cạnh tranh. Liên Hoa Văn Thao đổi sang kinh doanh thiệp. Thiệp tức là các loại thiệp chúc mừng năm mới, thiệp sinh nhật, thiệp mừng. Anh ấy đích thân đến Seattle để nhận quán đảnh trực tiếp pháp cúng khói. Trở về lập tức tu. Chính anh ấy nhìn thấy một vị oan thân trái chủ hiện thân, nhanh chóng xuất hiện, nhanh chóng nhận cúng dường rồi rời đi. Liên Hoa Văn Thao lại nhìn thấy rất nhiều nhện từ trên đầu lần lượt bò ra. Có một vài thứ không sạch sẽ từ các lỗ trên người chạy ra bên ngoài. Liên Hoa Văn Thao nói: ”Pháp cúng khói rất linh nghiệm, bản thân cảm thấy rất sảng khoái thoải mái, thân thể khỏe mạnh, tinh thần sôi nổi, kinh doanh chắc chắn có thể thuận lợi hơn trước!”

🌟

Lại có một người là Liên Hoa Đông Sơ ở đảo quốc Nam Thái Bình Dương, anh ấy là người di dân, chuyển đến đảo Nam Thái Bình Dương làm kinh doanh. Vì hợp đồng kinh doanh mà sản sinh tranh chấp với tập đoàn tài chính lớn, bị kiện cáo, kiện tụng liên miên, còn cả bị đi tù. Cơn sóng này chưa yên, cơn sóng khác đã tới. Việc kinh doanh cũng sụp đổ. Họa đi tù sắp đến rồi. Anh ấy đến Seattle nhận quán đảnh trực tiếp pháp cúng khói, vừa trở về lập tức tu cúng khói. Chuyện lạ xuất hiện. Tập đoàn tài chính vô duyên vô cớ hủy đơn tố cáo. Cổ đông cũ chủ động tìm anh ấy mời làm tổng giám đốc, anh ấy đã trở lại như ngày xưa. Kinh doanh không ngờ lại một bước lên mây rồi!

35. Quan sát Phật giáo ngày nay

Vào ngày 15 tháng 3 năm 2008, trong buổi đồng tu cuối tuần ở Seattle Lôi Tạng Tự, cá nhân tôi đưa ra những quan sát của mình về Phật giáo đương đại, nêu ra ý kiến quan sát. Tôi nói: Do những thay đổi trong cơ cấu xã hội, các giáo phái Phật giáo ngày nay đã dần dần chuyển hướng thế tục hóa (nhập thế hóa). Ví dụ: Sự xuất hiện của các ngôi chùa du lịch. Sự xuất hiện của các đoàn thể từ thiện. Sự xuất hiện của các bệnh viện Phật giáo. Sự xuất hiện của các trường Đại học Phật giáo. Sự xuất hiện của các đài truyền hình Phật giáo. ……………………..

Các đoàn thể Phật giáo đương đại đã dần dần chuyển đổi, trở thành xí nghiệp hóa, kinh doanh hóa, quản lý hóa, truyền thông hóa, tuyên truyền hóa, giáo dục hóa, y tế hóa, từ thiện hóa, du lịch hóa, tiền bạc hóa, tập đoàn tài chính hóa,… Tuy nhiên, vì sự ra đời của thế hệ E, Phật giáo phải theo kịp thời đại. Giáo phái Phật giáo muốn phát triển chính mình thì phải có được sự công nhận của quần chúng.

Phải đi vào xã hội, đi vào nhập thế, hòa chung với nhân gian, khẩu hiệu Phật giáo đưa ra chính là “Phật giáo nhân gian”, và cho rằng đây là bước ngoặt chuyển tiếp.

Kết quả của thế tục hóa như vậy, tôi nghĩ rằng giáo phái Phật giáo sẽ lớn mạnh. Giáo phái Phật giáo thúc đẩy toàn bộ xã hội và ảnh hưởng của nó ngày càng tăng lên. Nó có tác động rất lớn đến chính trị, xã hội, kinh tế và nhân văn. Cá nhân tôi cho rằng, Phật giáo nhập thế thế tục hóa là trào lưu của xã hội, không thể chỉ trích nặng nề. Bởi vì thế tục hóa mới có thể quảng độ chúng sinh.

🌟

Chúng ta nhìn lại thời đại Phật giáo nguyên thủy của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Đà cố nhiên là có tổ chức tăng đoàn. Nhưng, Phật Đà coi trọng thuyết pháp. Coi trọng tu thiền trong hang của cá nhân. Coi trọng minh tâm kiến tính của cá nhân. Coi trọng khai ngộ của cá nhân. Kết hạ an cư. Ví nhân gian như nhà cháy, kêu gọi tất cả hành giả cần có tâm xuất ly. Bản thân không những cần có tâm xuất ly, cũng phải độ chúng sinh thoát khỏi nhân gian nhà cháy. (Đây chính là bồ đề tâm cứu chúng sinh.) Phật Đà coi trọng trung quán chính kiến, cũng tức là “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như điện, nên quán thấy như vậy”. (Đây là trung quán chính kiến của Phật Đà.) Cá nhân tôi cho rằng giáo hóa năm xưa của Phật Đà là xuất thế, bất kể là xuất ly tâm, bồ đề tâm, trung quán, đều là xuất thế. Trí huệ (Phật huệ) của Phật Đà là chính kiến bát nhã, là sự song vận của phương tiện (từ bi) và bát nhã (trí huệ), không chỉ coi trọng Hữu mà cũng coi trọng Không. Bởi vì xuất thế hóa mới có thể chứng đắc đạo quả!

🌟

Ý kiến của cá nhân tôi là Chân Phật Tông phải coi trọng nhập thế và xuất thế như nhau. Hai hợp làm một, mới là đúng lẽ!

36. Nhìn thấy trước

Có một hôm, tôi ở trong thiền định, nhìn thấy người mẹ đã viên tịch nhiều năm của tôi. Mẹ tôi lúc còn sống chăm tu pháp Quan Âm, hơn nữa tự biết mình là hóa thân của chim Thái Bình trong ở trong rừng trúc tía của Quan Thế Âm Bồ Tát.

Mẹ tôi Lư Ngọc Nữ trước khi viên tịch, mỗi ngày cũng kính cẩn tụng Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm. Hình ảnh ngồi tụng kinh của bà để lại ấn tượng rất sâu sắc. Mẹ tôi bị xuất huyết não. Đột ngột lìa khỏi nhân gian. Tôi còn nhìn thấy mẹ được “Tiếp Dẫn Phật” tiếp dẫn, vãng sinh đến tịnh thổ ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Tôi từng nhiều lần nhìn thấy mẹ.

Nhưng, có một khoảng thời gian, bà tương đối ít hiện thân. Lần này, mẹ đã hóa sinh thành hình tượng Quan Âm Đại Sĩ, thật may tôi vẫn nhận ra bà. Mẹ nói: “Mẹ đến rồi!” Bà từ cửa sổ phía Tây bay vào, thân tỏa ánh sáng đỏ rực rỡ chói lóa, cờ phướn ô lọng, toàn thân mặc váy xếp, trang sức bằng thất bảo, chân dẫm lên hoa sen. Tôi hỏi: ”Có việc gì mà mẹ vội vàng thế này?” Mẹ đáp rằng: ”Đầu tháng 2 sẽ đi Quảng Châu, Trung Quốc, đi đón tiếp một đệ tử của con là Mã Huệ Nồng.” Tôi hỏi: ”Sao mẹ biết người đó?” Mẹ đáp: ”Họ hàng của họ đã cầu Quan Âm Đại Sĩ.” Tôi cười đáp: ”Thế là bây giờ mẹ đã biến thành Tiếp Dẫn Quan Âm rồi, cũng tiếp dẫn người ta vãng sinh Tây phương.”

🌟

Ngày 16 tháng 3 năm 2008, tôi ở bảo điện Hộ Ma ở Biệt thự Cầu Vồng cử hành Hộ Ma Liên Hoa Đồng Tử, trước khi đốt Hộ Ma, Thượng sư Liên Ấn lấy ra một tập danh sách người chủ cầu, tôi lần lượt gia trì, bỏ vào trong lò Hộ Ma, bỗng nhiên nhìn thấy một tờ đơn. ”Mã Huệ Nồng, Quảng Châu, Trung Quốc.” ”Là cầu siêu độ.” ”Thời gian tạ thế là tháng 2.” Tôi nhìn thấy tờ đơn thì hết sức kinh ngạc, thì ra người mà mẹ tôi tiếp dẫn, bây giờ quả nhiên đã được người nhà đến thỉnh cầu Hộ Ma của tôi siêu độ. Tương ứng rồi! Tương ứng rồi! Lại tương ứng rồi! Tôi càng tin tưởng vong linh của Mã Huệ Nồng đã sớm được Quan Âm Đại Sĩ tiếp dẫn đến Phật quốc tịnh thổ rồi.

🌟

Kiểu nhìn thấy trước giống như thế này, nói ra thì như hư như huyễn. Ví dụ như trong thiền định, nhìn thấy mẹ tôi, đó căn bản chính là tướng hư huyễn. Có một chút giống như nằm mơ. Đối thoại cũng giống như nằm mơ. Nhưng mà tôi nhớ rất rõ mẹ tôi đã đi đến đâu, làm việc gì, tiếp dẫn người nào, cái này lại chân thực đến vậy. Cuối cùng đích thực đã ấn chứng ở Quảng Đông Trung Quốc, vào đầu tháng 2, Mã Huệ Nồng đã qua đời. Đây không phải là ấn chứng thực sự sao?

37. Món ngon ở trên trời

Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn, ngài viết cuốn “Nấc Thang Của Chư Thiên”, ngài nhìn thấy thiên nhân ăn cái gì?” Tôi đáp: ”Vô sắc giới, Sắc giới, Dục giới, ẩm thực của thiên nhân ở ba cõi này có sự khác nhau, ví dụ Vô sắc giới, vì đã là vô sắc cho nên đã không có ăn uống. Sắc giới thì cực tịnh, lấy sự cực tịnh làm thức ăn. Chỉ có thiên nhân ở Dục giới mới có ăn uống để mà nói.” Hỏi: ”Thiên nhân ở Dục giới ăn cái gì?” Tôi đáp: ”Trước tiên tôi nói về một đoạn ghi chép trong kinh văn, trong Kinh Khởi Thế nói: Các thiên chúng từ Tứ Thiên Vương Thiên trở lên đều dùng vị của Tu Đà ở cõi trời đó. Đầu tiên là lấy ra dụng cụ bằng trân bảo, tự nhiên sẽ đầy. Có các loại thức ăn trời tuyệt diệu, không đếm xuể.” ”Thiên nhân cõi Dục giới cao cấp thì vị Tu Đà của họ là trắng ngần. Thiên nhân Dục giới trung cấp thì vị Tu Đà của họ là ánh sáng đỏ. Thiên nhân Dục giới cấp thấp thì vị Tu Đà của họ có màu tương đối xám.” Hỏi: ”Những thực phẩm này giống cái gì?” Đáp: ”Bơ.” Tôi nói: ”Thiên nhân của Dục giới, ẩm thực của họ cũng dựa vào công đức của họ mà có sự khác biệt.”

🌟

Tôi lấy nhân gian làm ví dụ: Món ngon của người Trung Quốc là bào ngư, vi cá. Người phương Tây thì không đồng tình. Người phương Tây, có rất nhiều người cả đời chưa từng ăn bào ngư và vi cá. Mà người phương Tây tự cho rằng món ngon là trứng cá, gan ngỗng. Người phương Đông không hoàn toàn đồng tình. Người Nhật Bản cho rằng “đậu thối” [natto] sền sệt dinh dính, là món ngon nhất, tôi thì không dám nhận. ………………… Tôi nói: ”Thiên nhân ở Dục giới thiên cũng như thế, lấy đồ trân bảo ra, thế là mỗi người ăn món ngon của riêng mình.”

🌟

Tôi nhìn thấy: Thần Núi của núi Phú Sĩ thích nhất là: Sashimi từ cá thu. Thần Sông của sông Nile thích nhất là: Mắt cừu. Thần Núi của núi A Lý thích nhất là: Bánh tiết gạo [một loại bánh truyền thống được làm từ gạo nếp và tiết động vật]. Thần Núi của núi Đường Cổ La thích nhất là: Hạt thông. ………………

Tôi dùng thiên nhãn để nhìn xa đến tận thiên nhân của Dục giới thiên, món ngon của các thiên nhân cũng rất phong phú, đều dựa vào phúc phần và công đức của mỗi thiên nhân mà có sự khác biệt. Thiên nhân ở Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ ăn uống đều là cam lộ, mà mùi vị của cam lộ cũng biến hóa nghìn vạn, khiến thiên nhân thỏa mãn.

38. Phóng quang ba lần

Có một đệ tử pháp hiệu là Liên Hoa Vĩnh Khang, tuổi còn trẻ, khá thích thiền học và Mật tông. Liên Hoa Vĩnh Khang thường nghĩ: Tận cùng của pháp thiền — không được cũng không mất, luôn tồn tại mà không cần kiểm tra. Vậy thì Lư Sư Tôn sau cùng sẽ đi đến nơi nào? Tận cùng của Mật giáo — tức thân thành Phật, tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì, tịnh thổ cực quang minh. Lư Sư Tôn sau cùng sẽ đi đến nơi nào? Đệ tử Vĩnh Khang cứ nghĩ: tận cùng, tận cùng, tận cùng…

🌟

Liên Hoa Vĩnh Khang đọc sách. Tăng hỏi thiền sư: ”Không ngồi tòa Như Lai, không ngồi tòa Bồ Tát, thiền sư đi nơi nào?” Thiền sư đáp: ”Trời quang không ánh chớp.” (câu này bất phàm) Thiền sư hỏi ngược lại tăng nhân: ”Đến từ nơi nào?” Tăng đáp: ”Đến từ Giang Bắc.” Thiền sư hỏi: ”Đến bằng thuyền hay đi trên đất liền?” Tăng đáp: ”Đến bằng thuyền.” Thiền sư hỏi: ”Có thấy cá không?” Tăng đáp: ”Thường xuyên nhìn thấy.” Thiền sư hỏi: ”Lúc nhìn thấy thì thế nào?” Tăng đáp: ”Rụt đầu đi.” Thiền sư cười lớn. (Liên Hoa Vĩnh Khang đọc được đoạn ghi chép này thì dường như cũng hiểu được Lư Sư Tôn tận cùng sẽ đi về đâu, nhưng vẫn thỉnh cầu tôi cho chỉ thị trong mơ.)

🌟

Quả nhiên trong giấc mơ, Liên Hoa Vĩnh Khang nhìn thấy Lư Sư Tôn hiện thân, hơn nữa còn phóng quang ba lần, chiếu rọi trời cao. Đường ánh sáng thứ nhất chiếu xa đến Tây phương, hướng đến Ma Ha Song Liên Trì. Đường ánh sáng thứ hai ở trong hư không hóa hiện A Di Đà Phật, Diêu Trì Kim Mẫu, Địa Tạng Vương Bồ Tát, tức là ba Thánh tướng của ba vị Phật Vương, Tiên Vương, Địa Vương. Đường ánh sáng thứ ba chiếu thẳng đến Đài Loan Lôi Tạng Tự hiện nay, khiến cho cả tòa Đài Loan Lôi Tạng Tự tỏa vạn ánh hào quang. Ba đường ánh sáng này đều có sự ám thị. Liên Hoa Vĩnh Khang cho rằng: Đường ánh sáng thứ nhất — Lư Sư Tôn trở về bản địa, Liên Hoa Đồng Tử. Đường ánh sáng thứ hai — Lư Sư Tôn thành tựu ba Bổn tôn. Đường ánh sáng thứ ba — Lư Sư Tôn vẫn trở về nhân gian, cũng có nghĩa là tiếp tục trở về Lôi Tạng Tự độ chúng sinh. Dường như Liên Hoa Vĩnh Khang có thể hiểu mộng thị của Lư Sư Tôn, nhưng anh ấy vẫn gửi đi một lá thư xin tôi trả lời, rốt cục tận cùng Sư Tôn sẽ ở đâu. Trong bản văn này, tôi tạm thời chưa trả lời. Tôi muốn kiểm tra mọi người, Chân Phật Tông có rất nhiều đại thiện tri thức, có tôn giả tương ứng, có người minh tâm kiến tính, mọi người nếu không ngại thì thử cho ý kiến xem sao, Lư Sư Tôn tôi rốt cục đi về đâu?

39. Gặp lại Phật Đà (1)

Ngày 20 tháng 3 năm 2008. Phật Thích Ca Mâu Ni đến trong thiền định của Lư Sư Tôn. Phật Đà đi phía trước, tôi theo phía sau, Phật Đà giơ tay ra hiệu muốn tôi đi ở bên phải Phật Đà, tôi nhanh chân bước tới, thế là sánh vai với Phật Đà cùng đi. Phật Đà nói: ”Mẹ ngài tạ thế đã nhiều năm, cha ngài bệnh nặng đeo bám, sao chẳng thấy ngài tỏ vẻ thê thảm nhỉ?” Tôi đáp: ”Mẹ đã thành tựu Quan Âm, cha cũng biết niệm Phật.” Phật Đà nói: ”Ngài biểu thị đối với cha mẹ thế nào?” Tôi cười lớn ha ha. Phật Đà hỏi: ”Ngài không khóc tang à?” Tôi đáp: ”Trời ơi! Trời ơi!”

Phật Đà không nói gì, tôi cũng không nói gì, hai người im lặng đi một hồi. Phật Đà và tôi đi đến một ngôi chùa lớn, nhìn thấy một vị hòa thượng già đang cử hành pháp hội. Rất nhiều người quy y lão hòa thượng này. Tiếng tụng kinh của các nhóm đệ tử Phật vang lên không ngớt. Nghi thức nghiêm túc và trang trọng. Phật Đà hỏi: ”Ở đây còn có đạo lý Phật pháp không?” Tôi đáp: ”Tựa như có tựa như không.” Tôi đáp: ”Không phải là điều mà tai mắt có thể nhận biết được.” Phật Đà nói: ”Đúng vậy! Đúng vậy!” Phật Đà nói một bài kệ: Cảnh tượng ở chùa lớn Đại hòa thượng quy y Người đời mơ hồ đi Thời cơ chẳng ai biết Chỉ có Liên Sinh hiểu Chẳng hề nhắc có-không.

🌟

Phật Đà nói: ”Ta buông câu cả ba kiếp mới câu được một con cá vảy vàng.” Tôi đáp: ”Tôi không biết Phật pháp.” Phật Đà nói: ”Không biết Phật pháp tức là biết Phật pháp, cho nên ngài vẫn là phụ Phật pháp ngoại đạo.” Phật Đà và tôi cười lớn ha ha. Phật Đà nói: ”Giờ đây ngài đã có được Phật chỉ, bất kể là nơi thành thị đông người, hay là nơi tận cùng núi sâu, hãy giúp ta tìm một hoặc một nửa người tiếp tục hương hỏa của ngài, đừng để pháp mạch của ta đoạn tuyệt mới là tốt!” Tôi hỏi ngược lại: ”Có còn việc gì khác dặn dò không?” Phật Đà nói: ”Hết rồi!” Tôi đáp: ”Tôi sẽ không phụ lòng.”

40. Gặp lại Phật Đà (2)

Phật Thích Ca Mâu Ni và tôi bước đi không mục đích, lúc thì đi tới đỉnh núi cao, lúc thì đi tới biển lớn, lúc thì đi tới thành phố làng mạc, lúc thì ở chốn đồng vắng hoang vu. Phật Đà hỏi: ”Sau này ngài muốn thế nào?” Tôi đáp: ”Có một người không tiến bộ nhất, người này chính là tôi.” Phật Đà hỏi: ”Dựa vào gì mà nói không tiến bộ?” Tôi đáp: ”Dựa vào cái này.” Phật Đà hỏi: ”Cái này là cái gì?” Tôi đáp: ”Không được không mất.” Phật Đà hỏi: ”Ngoài không được không mất ra, ngài còn có gì khác không?” Tôi đáp: ”Ngoài không được không mất, làm gì còn có cái khác. Thậm chí ngay cả không được không mất tôi cũng không nói.”

🌟

Phật Đà hỏi: ”Thế tín đồ Phật giáo hiện đại đang làm cái gì?” Tôi đáp: ”Công danh lợi lộc.” ”Công danh lợi lộc ư?” ”Tổ chức Phật giáo đang mở rộng địa bàn.” - Tôi đáp. ”Vì sao ngài không mở rộng địa bàn?” Tôi đáp: ”Tôi căn bản chẳng nhìn thấy địa bàn gì!” Phật Đà nói: ”Là thế! Là thế!”

🌟

Phật Đà hỏi tôi: ”Ngài là tông chủ của Chân Phật Tông phải không?” Tôi đáp: ”Không phải.” Phật Đà hỏi: ”Ngài không phải là tông chủ của Chân Phật Tông, vậy thì sáng lập Chân Phật Tông để làm gì?” Tôi đáp: ”Nhất đại thời giáo mà thôi.” [Nhất đại thời giáo còn gọi là nhất đại giáo, nhất đại chư giáo, nhất đại giáo môn, tức là giáo pháp do Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra trong một đời từ khi thành đạo đến khi nhập diệt.] Phật Đà hỏi: ”Nhất đại thời giáo là ý gì?” Tôi đáp: ”Mới biết không phải là tông chủ.” Phật Đà nói: ”Chỉ dựa vào một câu nói này của ngài, ngài mới giống một vị tổ sư. Vì sao ngài không học tôi cầm hoa?” Tôi đáp: ”Phật Đà đã từng cầm rồi!” Phật Đà hỏi: ”Vì sao ngài dùng kim kê độc lập?” ”Phật Đà dùng tay, tôi dùng thân.” Phật Đà hỏi: ”Ngài vẫn tiếp tục thuyết pháp chứ?” Tôi đáp: ”Phải.” Phật Đà hỏi: ”Vì sao tiếp tục thuyết pháp? Không mệt sao?” Tôi đáp: ”Nói không rõ, nói không hết.”

41. Gặp lại Phật Đà (3)

Phật Thích Ca Mâu Ni hiện toàn thân để gặp gỡ Lư Thắng Ngạn tôi. Tôi lại có một vấn đề hỏi Phật Đà. Tôi hỏi: ”Như bây giờ, ai là số một?” Phật Đà nói: ”Người hợp nhất với đạo là số một.” Tôi hỏi: ”Vấn đề là, hiện nay, ai hợp với đạo?” Phật Đà trả lời ẩn ý: ”Người hoàn toàn nghỉ ngơi, người dừng hẳn mọi sự tiến lên, người tâm như tro nguội, người tâm như cây khô, người vắng lặng im ắng.” Tôi hỏi: ”Có người, có lãnh thổ lớn nhất, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Có người, chữa bệnh nhiều nhất, từ thiện lớn nhất, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Có người, xây chùa lớn, lập tháp Phật, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Có người, xây đại học, hưng giáo dục, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Có người, xướng niệm Phật, hưng tịnh thổ, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Có người, hưng Mật pháp, chứng tương ứng, có phải là số một không?” Phật Đà đáp: ”Là số một!” Tôi hỏi: ”Vậy ai là số hai?” Phật Đà đáp: ”Không có số hai.”

🌟

Phật Thích Ca Mâu Ni nói căn bản đều là số một không có số hai, khiến tôi vô cùng hiếu kỳ. Tôi hỏi: ”Vì sao toàn là số một?” Phật Đà đáp: ”Không có lãnh thổ, không có chữa bệnh, không có từ thiện, không có chùa, không có tháp, không có học, không có giáo dục, không có niệm Phật, không có tịnh thổ, không có Mật pháp, không có tương ứng. Bởi vì tất cả đều không có, cho nên gọi là số một.” Phật Đà hỏi ngược lại tôi: ”Ngài có hiểu ý tôi không?” Tôi đáp: ”Hiểu.” Phật Đà nói: ”Ngài chính là số một!” (Tại đây tôi hỏi các thánh đệ tử, vì sao tất cả những hành vi, tất cả những việc làm của tất cả các đoàn thể Phật giáo ngày nay đều bị Phật Đà xem là không có gì, dụng ý sâu xa của Phật là gì? Mọi người có thể đưa ra ý kiến không? Rồi vì sao toàn là số một? Lại xin mọi người thử cho ý kiến vì sao Lư Sư Tôn tôi dám tự xưng là người hiểu biết nhất?)

42. Gặp lại Phật Đà (4)

Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của thế giới Ta Bà ngày nay, là vị Phật đắc chứng ngộ ở thế giới Ta Bà (nhân gian), cũng là sự thị hiện của Đại Quyền Thần Vương, thuyết pháp 49 năm, cho đến khi không có pháp nào có thể nói. Phật Đà hiện thân trong thiền định của tôi, sao tôi có thể dễ dàng không thỉnh thị ngài chứ? Tôi hỏi: ”Phật Đà thuyết pháp 49 năm, vì sao lại chưa thuyết một pháp nào?” Phật Đà đáp: ”Không có vật và người.” (Hôm nay tôi nói với mọi người, câu nói “không có vật và người” này chính là một câu nói kinh thiên động địa, nếu các thánh đệ tử hiểu câu nói này thì cũng chính là tổ sư.) Tôi hỏi: ”Đã không có vật và người thì hà tất phải thuyết pháp?” Phật Đà đáp: ”Căn bản tôi không có thuyết pháp.” Phật Đà nói với tôi: ”Hôm nay, Lư Sư Tôn ngài tự cho rằng mình ngày ngày thuyết pháp độ chúng sinh, thật ra cũng không hề thuyết pháp.” Thế là… Tôi vì thế mà đại ngộ. (thấu hiểu triệt để)

🌟

Cá nhân tôi đối với Phật giáo nhân gian vốn có hơi bối rối, đồng thời cũng không hiểu rõ về giá trị cuộc sống đang được thảo luận, tôi đều đưa ra để hỏi Phật Đà. Tôi hỏi: ”Thế nào là Phật giáo nhân gian?” Phật Đà đáp: ”Trên núi Tu Di lại đặt thêm một ngọn núi Tu Di khác.” Tôi nghe xong. Hoàn toàn hiểu rõ! Không biết thánh đệ tử có hiểu không? Tôi hỏi: ”Vì sao người thời nay đều đang đề xướng Phật giáo nhân gian?” Phật Đà đáp: ”Bởi vì họ đang ở nơi khác, thậm chí tất cả các nơi đều tìm không được!” Tôi hỏi: ”Nhân gian có thể tìm được ư?” Phật Đà đáp: ”Tìm không được!” Tôi hỏi: ”Đã tìm không được thì còn xướng ngôn Phật giáo nhân gian cái gì chứ?” Phật Đà đáp: ”Chính vì ở nhân gian cũng không tìm được, cho nên mới có thánh hiền xuất hiện nhiều gấp bội.” (Lời Phật Đà trả lời tôi, trong đó có chân như rất sâu, cái này căn bản là dựa theo cái thật lập ra cái ngông, từ cái ngông lộ ra đạo lý thật.)

Tôi hỏi: ”Giá trị nhân gian thì thế nào?” ”Từ cái ngông lộ ra cái thật.” ”Thế nào là ngông?” ”Dựa thế leo lên.” ”Thế nào là thật?” ”Không nhiễm.” Tôi hỏi: ”Phật Đà ơi, trong cuộc đời này của tôi, giá trị của tôi là cái gì vậy?” Các bạn đoán thử xem Phật Đà nói thế nào? Câu trả lời của Phật Đà đúng là rất “đỉnh”! Phật Đà đáp: ”Ngài trộm tiền của tôi đi mua hương hoa của tôi.”

43. Gặp lại Phật Đà (5)

Đối với việc Chân Phật Tông ở trong giới tôn giáo truyền thống ngày nay luôn luôn bị bài trừ và kiềm tỏa, tôi cảm thấy buồn trong lòng. Vì việc này, tôi liền hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi hỏi: ”Vì sao lại bị đối đãi như vậy?” Phật Đà đáp: ”Chỉ vì thấy Phật thấy Bồ Tát thấy chân như Phật tính.” Tôi hỏi: ”Tôi nhìn thấy thật, đương nhiên phải nói, phải nói thật. Vì sao không thể nói?” Phật Đà đáp: ”Thấy tức không thấy, không thể nói.” Tôi hỏi: ”Vì sao không thể nói?” Phật Đà đáp: ”Bản thể không rời.” (Câu nói “bản thể không rời” này có thể xem là cái chuông lớn của vũ trụ, một khi đánh lên thì đánh thức toàn bộ con người trong mộng, chính câu nói “bản thể không rời” này chính là ý thậm thâm của thiền, thấy và không thấy cũng đều nằm trong đó, nhớ kĩ “bản thể không rời” chính là khẩu quyết thậm thâm của Như Lai.) Tôi hỏi: ”Thế nhân làm sao hiểu được Lư Sư Tôn?” Phật Đà ban đầu không trả lời câu này của tôi, trầm ngâm một lúc thì cuối cùng ngài nói: ”Khi thân không còn thì mới nhận ra.”

🌟

Theo như tôi biết, tôi bị giới tôn giáo truyền thống bài trừ và kiềm tỏa chính xác là vì “cái thấy” mà tôi nói đến. Còn giới tôn giáo truyền thống là: ”Chưa thấy.” Tôi đã nói quá rõ “cái thấy” của chính tôi, tự nhiên sẽ bị bài trừ và kiềm tỏa, đây đúng là sự vô tri của chính mình. Phật Đà là người rời xa lưỡng biên, rời xa “thấy” và “không thấy”, cho nên nói ra chân lý: ”Bản thể không rời.” Ngoài ra: Tôi hoàn toàn dung hợp tín ngưỡng dân gian và Phật giáo vào với nhau, đây cũng là một nhân tố quan trọng khiến tôi bị bài trừ và kiềm tỏa. Thế nhưng, đây không phải là vấn đề lớn, mà là nút thắt về mặt thời gian, Phật giáo vốn dĩ đều đang thay đổi. Phật Đà kết hợp Ấn Độ giáo (Bà La Môn) với Phật pháp, hình thành nên Phật giáo. Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian Tây Tạng trở thành Phật giáo Tạng truyền. Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian Trung Quốc trở thành Phật giáo Trung Quốc. Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian Nhật Bản trở thành Phật giáo Nhật Bản. v.v…

🌟

Tôi hỏi Phật Đà: ”Tôi nên mặc loại áo cà sa nào mới xem là chính thức?” Phật Đà hỏi ngược lại: ”Áo cà sa ngày nay, loại nào mới là cà sa của Như Lai?” Tôi nghĩ một lúc rồi trả lời: ”Đều không phải!” Phật Đà nói: ”Chính vậy! Chính vậy! Nếu là thánh, không mặc cũng là thánh; nếu là tục, mặc cũng vẫn là tục.” Tôi hiểu, bản thể là không thay đổi, cái thay đổi chỉ là hình thức bên ngoài.

44. Gặp lại Phật Đà (6)

Phật Thích Ca Mâu Ni hiện toàn thân trong thiền định của tôi, đàm luận về đạo sâu xa, lần lượt tháo gỡ những điều khó hiểu của việc đời. Cố nhiên tôi là một thánh hiền tăng, nhưng, những giải thích rất hay này có lợi ích đối với đại chúng, vì thế cần viết chúng ra để lợi lạc chúng sinh hữu tình. Phật Đà hỏi tôi: ”Truyền thông xã hội ngày nay đã sỉ nhục ngài, xúc phạm ngài, ngài thấy sao?” Tôi đáp: ”Đó là kiến giải của người bên đó.” Phật Đà hỏi: ”Thế bên này thì có cái gì?” Tôi đáp: ”Bên này không có truyền thông xã hội, không có sỉ nhục, không có xúc phạm.” Phật Đà hỏi: ”Vì sao?” Tôi đáp: ”Tôi không phải con nhà họ Lư, ai có thể làm gì tôi?” Phật Đà nghe xong, rất tán tưởng, vỗ vào vai tôi nói: ”Đây mới là Phật tử thật!” Tôi nói: ”Tôi cũng không có thân cao trượng sáu!”

🌟

Phật Đà hỏi: ”Ngày xưa khi ngài mở thiên nhãn, truyền xuống nhất tâm học Phật, nhất tâm học pháp, nhất tâm hướng thiện, giờ đây, ngài chắc đã biết thế nào là Phật, thế nào là pháp, thế nào là thiện?” Tôi đáp: ”Phật là người trong mộng, pháp là mộng, thiện là việc trong mộng.” Phật Đà nói: ”Không ai biết được sao lại như thế.” Nghe lời nói này, tôi đại ngộ. Phật Đà hỏi: ”Thế nào là pháp còn nên bỏ?” Tôi đáp: ”Thật không có pháp, làm sao bỏ? Làm sao nên bỏ?” Phật Đà hỏi: ”Chư Phật xuất thế, rốt cục là vì cái gì?” Tôi đáp: ”Vì con lừa.” Phật Đà cười, rất vui vẻ, tôi cũng cười, càng vui vẻ hơn, ha ha ha ha.

🌟

Phật Đà hỏi: ”Khi Phật Thích Ca Mâu Ni tôi chưa xuất thế thì thế nào?” Tôi đáp: ”Vô sự.” Phật Đà lại hỏi: ”Tôi xuất thế rồi thì sao?” Tôi đáp: ”Vô sự.” Phật Đà hỏi: ”Chưa xuất thế vô sự, xuất thế cũng vô sự, thế thì vì sao phải xuất thế?” Tôi đáp: ”Chính là vì cầm hoa trên tay!” Phật Đà hỏi: ”Ngài xuất thế là vì sao?” Tôi đáp: ”Chính là vì kim kê độc lập!” Tôi và Phật Đà cùng vỗ tay cười vang!

45. Gặp lại Phật Đà (7)

Theo tôi được biết, Long Thụ Bồ Tát và Giác Âm Tam Tạng của Nam truyền đều chỉ ra thuyết pháp của Phật Đà có tứ tất đàn [siddhanta, tức là bốn phương pháp giúp cho việc thuyết pháp của Phật thành tựu]. 1. Thế gian tất đàn. 2. Vị nhân tất đàn. 3. Đối trị tất đàn. 4. Đệ nhất nghĩa tất đàn. Đối với bốn loại phương pháp này, về mặt giá trị, chỉ có đệ nhất nghĩa tất đàn mới là thành tựu rốt ráo, còn ba loại phương pháp trước chỉ là phương tiện, không phải là thành quả tột cùng. Thế là, khi Phật Thích Ca Mâu Ni hiện toàn thân, tôi liền hỏi một câu. Tôi hỏi: ”Mấy khi Phật Đà hiện toàn thân, hãy cho Lư Sư Tôn tôi hỏi một chút về bốn tất đàn đi!” Phật Đà đáp: ”Ngài là người hiểu biết, hỏi điều này có thể khiến ngài tủi thân!” Tôi nói: ”Tôi hỏi vì chúng sinh, không hỏi vì chính mình.” Phật Đà nói: ”Vậy ngài hỏi đi!” Tôi hỏi: ”Thế nào là thế gian tất đàn?” Phật Đà đáp: ”Không thị phi.” Tôi hỏi: ”Thế nào là vị nhân tất đàn?” ”Không thiện ác.” Tôi hỏi: ”Thế nào là đối trị tất đàn?” ”Không đúng sai.”

Tôi vừa nghe xong liền biết đây chính là đệ nhất nghĩa tất đàn, thì ra ba loại tất đàn trước đều vì đệ nhất nghĩa tất đàn mà có, vậy thì giữa tất đàn này và tất đàn kia không có cái gọi là khác và cái gọi là giống. Tôi cũng cảm thấy giới Phật giáo ngày nay đều ở mức độ của thế gian tất đàn, vị nhân tất đàn, đối trị tất đàn, đã quên mất đệ nhất nghĩa tất đàn rồi, Phật giáo đã mất đi giá trị. Giá trị của bản thân Phật giáo quan trọng nhất nằm ở thành tựu rốt ráo của đệ nhất nghĩa. Cái này không thay đổi. Cho nên thế gian, vị nhân, đối trị chỉ là dạy chúng sinh phương pháp và công cụ mà thôi, là phương pháp để tập hợp chúng sinh, ví dụ từ thiện, cứu đời, chữa bệnh, giáo dục, nhân văn, xã hội, đều là phương pháp độ chúng sinh. Trong ba loại tất đàn này, nếu cộng thêm đệ nhất nghĩa tất đàn, cá nhân tôi cho rằng đây mới sinh ra giá trị của Phật giáo, bằng không sẽ đánh mất ý nghĩa.

Nếu chỉ có thế gian, vị nhân, đối trị mà không có đệ nhất nghĩa tột cùng thì Khổng Tử chính là Phật Đà rồi! Điều tôi lo lắng là, nếu như Phật giáo chỉ có khả năng từ thiện, cứu đời, chữa bệnh, giáo dục, nhân văn, xã hội thì tức là hoàn toàn nhập thế rồi, thế thì có khác gì với Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo? Giáo pháp của Phật Đà: ”Lấy đệ nhất nghĩa tất đàn làm thành quả cuối cùng!” Đây mới là giá trị của Phật giáo. Tôi hỏi: ”Thế gian, vị nhân, đối trị và đệ nhất nghĩa phân biệt thế nào?” Phật Đà đáp: ”Ba cái trước là phương tiện nhất thời, cái sau cùng là vạn cổ thiên thu.”

46. Gặp lại Phật Đà (8)

Phật Thích Ca Mâu Ni hiện toàn thân trong thiền định của tôi đã nói ra vô số ý bí mật. Nhân duyên thù thắng này cho đến ngày hôm nay đời này thật sự là vô cùng hiếm có, vì thế, tôi đặc biệt lần lượt viết ra những mẩu đối thoại trong thiền định. Hy vọng trăng sáng trên trời chiếu hiện ý chỉ của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Đà hỏi tôi: ”Hôm nay xuất định xong thì ngài muốn làm cái gì?” Tôi đáp: ”Thầy Tỳ Lô.” Phật Đà cười: ”Quả nhiên không siêu việt.” Phật Đà hỏi: ”Thế vừa rồi chúng ta nói những gì?” Tôi đáp: ”Pháp pháp không khác.” Phật Đà nói: ”Chẳng qua là thêm một chút sương trên tuyết mà thôi!” Tôi hỏi: ”Thỉnh Phật Đà nói thêm vài câu!”

Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ đưa lưỡi ra, lưỡi biến thành vừa dài vừa to vừa rộng, che phủ hết ba nghìn đại thiên thế giới. Giống như trong kinh A Di Đà đã ghi chép: ”Thế là chư Phật nhiều như cát sông Hằng, mỗi vị đều ở trong quốc thổ của mình mà lộ ra tướng lưỡi dài rộng, che phủ khắp ba nghìn đại thiên thế giới để nói lời thành thật, chúng sinh các người nên tin vào kinh mà tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức bất khả tư nghì này.” Phật Đà thè lưỡi dài rộng có ba ý: 1. Thành thật. 2. Công đức. 3. Thủ hộ. Phật Đà hỏi tôi: ”Khi tôi xuất thế, đầu tiên độ năm tì kheo. Khi ngài xuất thế, nên độ ai trước?” Tôi đáp: ”Vẫn chưa độ người!” Phật Đà hỏi: ”Vì sao vẫn chưa độ?” Tôi đáp: ”Tôi không tìm thấy năm tì kheo.”

🌟

Phật Đà hỏi tôi: ”Tương lai thân này của ngài diệt thì ngài đi về đâu?” Tôi đáp: ”Trả nguyện.” Phật Đà hỏi: ”Trả nguyện gì?” Tôi đáp: ”Diêu Trì tiên cảnh không ở lâu, trong rừng đao kiếm thường qua lại.” Phật Đà nói: ”Là thế, là thế.” Phật Đà nói: ”Lần này chúng ta gặp mặt, đã nói nhiều như vậy, hơn nữa còn có hỏi có đáp, ngài nói xem người ngoài sẽ phê bình là gì?” Tôi đáp: ”Phụ Phật ngoại đạo.” Phật Đà nói: ”Lại hỏi ngài một câu nữa, thế nào là phụ Phật ngoại đạo?” Tôi đáp: ”Như trăng trong nước.” Tôi và Phật Đà cười lớn ha ha ha ha ha!

47. Nghi quỹ pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang

Trong năm 2008, tôi sẽ truyền thụ pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang, vì thế đặc biệt viết ra nghi quỹ như sau:

1. Vào đàn thành Thời Luân, niệm chú thanh tịnh.

2. Niệm chú triệu thỉnh, triệu thỉnh truyền thừa Thượng sư, Thời Luân Kim Cang và các vị.

3. Pháp đại lễ bái.

4. Pháp đại cúng dường.

5. Pháp tứ quy y.

6. Pháp mặc giáp hộ thân.

7. Trì Liên Hoa Đồng Tử tâm chú 7 biến, 21 biến. Niệm Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh.

8. Phát bồ đề tâm: “Xin thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang hiếm có, nhờ điệu múa đại lạc và tính Không của mười phương ba đời, thị hiện sự nghiệp từ bi hỷ xả, thu nạp chúng sinh, tiến vào Phật quốc tịnh thổ Shambhala.”

9. Kết ấn Thời Luân Kim Cang.

10. Đầu tiên quán Không: Niệm chú quán không: Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng. (3 biến) Quán tưởng trong hư không có chủng tử tự “Hum”, trên bánh xe thời gian hóa hiện đất, nước, lửa, gió, không, ở giữa là núi Tu Di, 28 thiên đỉnh, trên mỗi đỉnh có một đóa hoa sen lớn màu xanh lam, ở giữa hoa sen có nhật nguyệt luân, chữ “Hum” ở trung tâm xuất hiện Thời Luân Kim Cang. Quán tưởng hình tượng Thời Luân: đứng thẳng, bốn mặt, hai mươi tư tay, hai chân. Trên búi tóc có trang sức là chày kim cang, bên dưới quấn váy da hổ, đeo vòng ngọc chuỗi hạt, hai chân dẫm lên Đại Tự Tại Thiên và Thiên Hậu. Con mắt phẫn nộ trang nghiêm. (Quán tưởng dựa theo tranh vẽ thangka.) Sau đó quán tưởng: Mi tâm của Thời Luân Kim Cang có chữ Om phóng đến thiên tâm của hành giả, chữ Ah ở họng phóng đến họng của hành giả, chữ Hum ở tim phóng đến tim của hành giả. Trong một tích tắc, tự thân hành giả biến hóa thành Thời Luân Kim Cang. Hành giả kết ấn Thời Luân Kim cang, buông thủ ấn, trì niệm Thời Luân chú: “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha.” (108 biến) (Làm kiên cố Thời Luân Kim Cang.)

11. Quán tưởng Thời Luân Kim Cang tay trái cầm lá chắn giơ lên đỉnh đầu và xoay tròn trong hư không. (Tay trái hành giả cầm lá chắn kim cang.) Lá chắn kim cang hóa thành tấm màn kim cang phóng ra trăm ánh sáng quý, chiếu vào hành giả (Thời Luân Kim Cang) và hai mươi tám thiên, đất nước lửa gió, núi Tu Di, v.v… Màn kim cang che lấy một mình hành giả. (bảo vệ người) Màn kim cang che lấy nhà của hành giả. (bảo vệ nhà) Màn kim cang che lấy đất nước của hành giả. (bảo vệ đất nước) Màn kim cang che lấy vũ trụ. (bảo vệ đời)

12. Trì chú phản hồi của Thời Luân Kim Cang: ”Ha-sô ya-la-wa la-ma-ka ha ôm.” (108 biến) (Chú phản hồi tức là niệm ngược lại.) Rất lợi hại: Phản lại ác pháp của đối phương, đối phương tự nhận lấy ác pháp của mình. Che chắn ác pháp của đối phương, lá chắn kim cang chặn lại, màn kim cang chặn lại.

13. Thiền định nhập ngã - ngã nhập, định vào trong Tam ma địa của Thời Luân Kim Cang. (Đưa giác tri vào tính Không, cả hai hòa vào nhau, Thời Luân Kim Cang nhất vị.)

14. Xuất định, tụng tán: Pháp lá chắn Thời Luân. Ánh sáng quý bảo hộ. Kẻ ác và pháp ác. Họ làm, ta chẳng sao.

15. Hồi hướng:

Nguyện ngày cát tường đêm cát tường. Ngày đêm sáu thời mãi cát tường. Tất cả mọi lúc đều cát tường. Nguyện các Thượng sư thường gia trì. Nguyện các Tam Bảo thường thu nhận. Nguyện các Hộ pháp thường ủng hộ. Tam Bảo tất cả đều cát tường.

16. Đại lễ bái. Rời khỏi đàn thành. Cát tường viên mãn.

🌟

Bộ phận làm pháp: Đầu tiên chuẩn bị một người giấy, trên đó viết họ tên, địa chỉ, giờ ngày tháng năm sinh của kẻ ác làm bùa ngải. Nếu không biết thì chỉ cần nghĩ đến hình ảnh của kẻ ác đó và đưa vào trong người giấy là được. Hành giả dùng chân trái dẫm lên người giấy. Khi tu pháp đủ 11 lần, hành giả làm ba quán tưởng: 1. Kẻ ác đầu bù tóc rối, cúi mặt xuống. 2. Kẻ ác toàn thân run rẩy. 3. Kẻ ác miệng hộc máu tươi. Tiếp theo trì chú kim cang phản hồi: ”Ha-sô ya-la-wa la-ma-ka ha ôm.” (108 biến) Đến khi tu pháp xong thì đem người giấy cùng tiền giấy Chân Phật Tông cùng đốt ở cửa sau. Kẻ ác sẽ vãng sinh tịnh thổ Shambhala. (Chú ý: Pháp này vô cùng lợi hại, chỉ để mọi người biết mà thôi. Lư Sư Tôn không hy vọng mọi người làm pháp này, bởi vì một khi đã làm pháp này thì kẻ ác chắc chắn sẽ chết, sợ rằng liên lụy tới vợ con họ, đây là tội ác tày trời, đừng có làm. Tôi viết ra pháp này chỉ để cho mọi người tham khảo mà thôi!)

48. Phụ lục: Tôi chính là vũ trụ. Tôi chính là đạo

Ngày 3 tháng 5 năm 2008, tại cung thể thao Lâm Khẩu ở Đào Viên, Đài Loan, tổ chức đại pháp hội Hộ Ma Thời Luân Kim Cang hộ quốc. Bản văn này được chọn tử Chân Phật Báo kỳ 690 bản 2. Khai thị của Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật.

Đầu tiên, chúng ta hãy yên lặng, nhất tâm kính lễ Liễu Minh Hòa Thượng, Sakya Chứng Không Thượng sư, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Thubten Dhargye Thượng sư. Nhất tâm kính lễ đàn thành Tam Bảo, nhất tâm kính lễ Thời Luân Kim Cang Đại Minh Vương.

Các vị Thượng sư, giáo thọ sư, pháp sư, giảng sư, trợ giảng, các bạn đồng môn, và tất cả các vị khách quý tôn kính, người cha tôn kính của tôi, gia quyến tôn kính của Sư Tôn Sư Mẫu, xin chào mọi người!

Hôm nay chúng ta ở đây là muốn giảng về pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang. Khi chúng ta mới làm Hộ Ma Thời Luân Kim Cang, trước khi làm Hộ Ma, Thời Luân Kim Cang đã giáng xuống rồi. Trong lúc làm Hộ Ma, Thời Luân Kim Cang đều không hề rời đi, tôi tin rằng với pháp lực gia trì của bánh xe thời gian lớn nhất của ngài, tất cả mọi người ngồi đây ai nấy đều có thể muốn gì được nấy. Vì thế, chỉ cần bạn nhận được quán đảnh Thời Luân Kim Cang, chỉ cần bạn nhận được sự gia trì của Thời Luân Kim Cang, pháp lực gia trì rất lớn của ngài sẽ có thể phát huy trên người mỗi một cá nhân tham gia pháp hội này.

Trong năm pháp kim cang lớn thì pháp xuất hiện sớm nhất là Hỷ Kim Cang, và xuất hiện sau cùng là một vị Kim Cang Minh Vương gọi là Thời Luân Kim Cang. Tất cả các pháp của Kim Cang Minh Vương, bạn chỉ cần tu một vị tương ứng, sau đó bạn tu năm đại Kim Cang Minh Vương khác, mười đại Kim Cang Minh Vương khác, tám đại Kim Cang Minh Vương khác, bạn đều có thể tương ứng.

Trước tiên tại đây tôi giải thích với mọi người một chút để tránh cho các nhà báo Đài Loan hiểu lầm. Đúng rồi! Còn phải gửi lời chào đến các nhà báo nữa. Trên đầu tôi đội mũ miện này là tượng trưng cho Ngũ Phật và tất cả Thượng sư của tôi. Tai tôi đeo khuyên tai, không phải là tôi luyện “quỳ hoa bảo điển” đâu, mà là tượng trưng cho Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn của Mật giáo, cả hai thứ tự này đều vô cùng viên mãn. Và bản thân khuyên tai cũng tượng trưng cho tất cả phỉ báng và lời ác đều có thể không cần nghe; cũng tượng trưng cho miệng nói ra lời thiện. Trên tay tôi còn đeo một chiếc vòng tay tượng trưng cho thân thể thanh tịnh. Tôi đeo ngọc bội tượng trưng cho ý niệm thanh tịnh, cũng chính là thân, khẩu, ý thanh tịnh.

Mười ngón tay trên tay tôi đeo mười cái nhẫn, chính là thập tự chú của Thời Luân Kim Cang đều ở trên người Sư Tôn. Vì thế, đừng nói sao tôi lại đeo vàng đeo ngọc, đây là làm pháp hội nên mới như vậy, nếu không phải là pháp hội thì tôi sẽ không đeo những thứ này.

Tôi cảm thấy, cuộc đời của con người chúng ta cực kì ngắn ngủi. Đài Loan là nơi tôi sinh ra, tôi vô cùng thương nhớ mảnh đất Đài Loan này. Tôi đã từng nói, sẽ có một ngày, tôi sẽ lá rụng về cội, ngôi nhà vĩnh viễn của tôi chính là Linh Cốt Tháp ở Đài Loan Lôi Tạng Tự. Hoan nghênh mọi người cùng đến chung sống, nếu chúng ta cùng sống trong Linh Cốt Tháp ở Đài Loan Lôi Tạng Tự, tôi có thể ngày ngày diễn giảng pháp cho mọi người nghe.

Cuộc đời của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết, thời gian là vô cùng ngắn ngủi. Kể chuyện cười mà bà Trần Truyền Phương gửi cho, bà ấy nói với tôi, cuộc đời là cái gì nhỉ? Khi 1 tuổi thì rạng rỡ ra đời. Khi 10 tuổi thì học hành tấn tới. Khi 20 tuổi thì yêu đương phơi phới. Khi 30 tuổi thì sự nghiệp long đong. Khi 40 tuổi thì bắt đầu phát tướng. Khi 50 tuổi thì gừng càng già càng cay. Khi 60 tuổi thì gia tăng huyết áp. Khi 70 tuổi thì đãng trí chuyện thường. Khi 80 tuổi thì hễ đi lại là lắc lư lảo đảo. Khi 90 tuổi thì già khô như cóc, cho nên mất hết phương hướng. Khi 100 tuổi thì đã ảnh treo trên tường rồi.

Mọi người nghe đến đây sẽ cảm thấy đời người cũng chẳng qua chỉ thế này thôi, rất nhanh chóng giấc mộng trăm năm sẽ trôi qua. Thế nhưng, cũng xin mọi người đừng vì những lời này của tôi mà cảm thấy sầu muộn. Bây giờ rất nhiều người có bệnh rối loạn cảm xúc, có bệnh trầm cảm. Bà Trần Truyền Phương còn nói, thân thể khỏe mạnh thì không cần sầu muộn. Thân thể rất khỏe mạnh thì bạn còn buồn rầu cái gì? Thân thể có bệnh, bệnh sẽ khỏi, bạn cũng không cần phải sầu muộn. Nếu bệnh không khỏi, các vị đang ngồi đây đều sẽ vãng sinh đến Phật quốc tịnh thổ, cũng không cần phải u buồn. Sau cùng bà ấy nói, cho dù xuống địa ngục, bởi vì có rất nhiều bạn bè thân thích ở đó, tám chuyện còn chẳng hết chứ còn buồn rầu cái gì.

Tương ứng với Thời Luân Kim Cang có thể hô mưa gọi gió

Bây giờ trở lại vấn đề chính, Thời Luân Kim Cang có thể đoạn trừ phiền não, chính là pháp cọc kim cang mà trước đây chúng ta đã giảng. “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha.” Khi bạn thành tựu giống như Thời Luân Kim Cang, có pháp lực lớn, khi bạn niệm Thời Luân Kim Cang thập tự chú, bạn giơ ngón tay pháp Thời Luân Kim Cang của bạn lên, chỉ vào hư không, bạn muốn mưa có mưa, muốn gió có gió.

Trong số các đồng môn chúng ta đã có người tu trì pháp cọc Thời Luân Kim Cang đến tương ứng rồi, họ nhìn thấy Thời Luân Kim Cang, Thời Luân Kim Cang đưa họ đi đến bờ biển, họ giơ chày (cọc) kim cang lên, sóng liền dâng lên, chày (cọc) kim cang hạ xuống thì sóng liền rút xuống. Tôi đang nghĩ, sóng vốn dĩ có cao có thấp, khi sóng dâng lên thì họ liền giơ cái chày (cọc) kim cang lên, sóng rút xuống thì họ buông xuống, đây cũng là tương ứng. Thời Luân Kim Cang nói với họ: “Anh lập lời thề với tôi, tôi sẽ dạy anh sinh ra chuyết hỏa.” Hơn nữa bạn còn có thể gọi gió hô mưa, có thể kiểm soát toàn bộ thế giới trong tay bạn. Người học Mật giáo có thành tựu sẽ có sức mạnh này. Tôi nói với bạn một việc, trong pháp hội Thời Luân Kim Cang ở cung thể thao Thái Tử vào năm ngoái ở Kuala Lumpur, tôi giơ chày (cọc) kim cang lên, nghĩ rằng vì trái đất đang dần dần ấm lên, chúng ta hãy xin mặt trời cách xa trái đất một chút. Tôi vô tình nói câu này, không ngờ rằng một pháp chỉ này mà mùa đông năm nay, toàn cầu khắp nơi đều có tuyết lớn.

Khi tôi lại giơ chày (cọc) kim cang lên, dùng bảy đại pháp của Diêu Trì Kim Mẫu, “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha”, sắc lệnh cho ung thư trên người bạn hóa thành tổ ong, tất cả ong mật đều từ trong tổ ong bay ra, ung thư trên người bạn sẽ dần dần tiêu biến. Không ngờ khi vừa truyền pháp này, ong mật trên khắp thế giới đều biến mất, rất kỳ lạ, đặc biệt là ong mật ở Mỹ, tôi không biết ong mật ở các nước trên thế giới thì thế nào, tóm lại, chính vì tôi niệm “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha” để cho ung thư hóa thành ong mật bay vào trong hư không mà ong mật đều biến mất.

Ong mật trên toàn thế giới đều biến mất, vấn đề này rất nghiêm trọng. Nhà của Thượng sư Liên Đặng ở Seattle có một cây táo. Những năm trước, khi bắt đầu mùa xuân, rất nhiều ong mật kéo đến, cho nên cây táo sẽ ra rất nhiều táo. Kết quả là năm nay hoa nở hết rồi nhưng lại không có ong mật đến. Vì thế chúng ta dùng cách làm bằng tay, dùng tay để chạm vào từng bông hoa, hy vọng phấn hoa có thể lan truyền đi. Tôi nghĩ, ong mật vốn có chức năng thụ phấn, nhưng tôi không thể để cho ung thư hóa thành ong mật bay đi rồi lại bay về được. Vậy phải làm sao đây? “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha. Ong mật đừng có bay trở lại thân người, hãy bay đến những vườn nuôi ong ban đầu. Sô-ha”. Bây giờ tôi niệm một câu: “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha.” Thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang để cho tất cả ong mật bay về vườn nuôi ong. Om mani padme hum.

“Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha.” Thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang giữ khoảng cách giữa mặt trời và trái đất không cần quá xa, cũng đừng quá gần, để những núi băng trên trái đất chúng ta đừng tan chảy, để trái đất chúng ta đừng nóng như vậy, để khi chúng ta làm hỏa cúng cũng mát mẻ một chút, A Di Đà Phật.

Chỉ cần bạn tu pháp cọc kim cang chân thực của Thời Luân Kim Cang, bạn tương ứng rồi thì bạn sẽ có pháp lực kiểu này, bản thân bạn và tất cả mọi người đều phải dựa vào pháp chỉ của Thời Luân Kim Cang là bạn có thể sắc lệnh cho một người nào đó vãng sinh đến Phật quốc thanh tịnh, một người nào đó tức thân thành Phật, sắc lệnh một người nào đó có thể đạt được đại thành tựu.

Pháp lá chắn của Thời Luân Kim Cang che chắn và phản hồi có sức mạnh lớn để bảo hộ

Dù sao, mỗi một đệ tử sau khi tu thành tựu pháp cọc kim cang thì đều có thể làm pháp, sẽ sinh ra một vấn đề. Nếu các bạn làm pháp với Sư Tôn, “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha” sắc lệnh Thời Luân Kim Cang lập tức khiến Lư Sư Tôn từ Seattle Lôi Tạng Tự nước Mỹ bay đến phân đường nào đó của tôi để thuyết pháp. Thế thì mấy ngày đó tôi sẽ không ăn được cơm, đi qua bên này, đi qua bên kia, va bên này đụng bên kia, ngồi thiền thì trong lòng không yên. Phải làm sao?

Sư Tôn còn có pháp lá chắn kim cang. Giơ khiên Thời Luân Kim Cang lên, quán tưởng khiên kim cang bay vào hư không, biến thành một cái ô cực lớn, che lấy cả người Lư Sư Tôn, đây chính là để bảo vệ Lư Sư Tôn. Pháp lá chắn này có thập tự chú. Sắc lệnh cọc kim cang của bạn bay đến trước mặt lá chắn sẽ bị lá chắn chặn lại. Vì thế, tôi rất yên ổn ngồi ở đây thuyết pháp, không chạy loạng choạng khắp nơi, sẽ không va đụng lung tung.

Pháp lá chắn này có thể bảo vệ cá nhân hành giả. Khi bạn ở trong nhà, khi giơ cái khiên lên, chỉ vào hư không, nó sẽ biến thành một cái ô hình tròn che kín lấy bạn, che kín lấy nhà bạn, tức là bảo vệ gia đình bạn, không có tà ma quỷ quái có thể đi vào trong nhà bạn. Khi khiên này giơ lên sẽ biến thành cái ô, che hết cả Đài Loan, thế thì nhân dân sống trên cả đất nước Đài Loan có thể an cư lạc nghiệp. Đây là hộ quốc, tức là cái khiên của Thời Luân Kim Cang sẽ bảo vệ Đài Loan.

Nhưng mà chú ngữ có cách niệm khác, tức là chúng ta phải niệm chú phản hồi. Chú phản hồi của Thời Luân Kim Cang vừa hay là chú đảo ngược: “Ha-sô ya-la-wa la-ma-ka ha ôm.” Mười chữ này rất lợi hại.

Khi bạn niệm “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha”, bạn niệm ngược trở lại tức là bạn đang che chắn cho mình. Cái khiên này giơ lên, quán tưởng nó ở trong hư không biến thành tấm màn kim cang ánh sáng bách bảo, bạn quán tưởng nó giống như cái màn chống muỗi, phóng ra ánh sáng vô thượng vây quanh bạn, tấm màn này bao bọc lấy bạn, bạn ở bên trong tấm màn, niệm 108 biến chú phản hồi, bất kì người làm ác pháp nào, người làm bùa ngải nào đều không có cách nào làm hại hành giả. Hơn nữa, họ làm pháp lớn thế nào thì phản hồi lại lớn như thế. Che tức là che chắn, hồi tức là trở về, họ làm pháp gì với bạn thì họ sẽ nhận lại pháp đó. Pháp lá chắn này có thần Bát Quái của thống soái Thời Luân Kim Cang, có hai mươi tám tinh tú, có lục giáp lục đinh, có vô cực đại tướng quân.

Khi bạn tương ứng với Thời Luân Kim Cang, bạn quán tưởng cái khiên Thời Luân Kim Cang che lấy chính bạn, tức là bảo vệ hành giả, che lấy ngôi nhà bạn tức là bảo vệ nhà bạn, che lấy cả đất nước tức là bảo vệ cả đất nước, che cả trái đất tức là bảo vệ cả trái đất. Vì thế, nếu bạn là người đã học pháp lá chắn kim cang chân thực của Thời Luân Kim Cang thì nên có cái khiên của Thời Luân Kim Cang đặt trên bốn góc của đàn thành pháp cọc Thời Luân Kim Cang. Pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang tốt nhất là bạn làm nửa tháng một lần, bởi vì nó sẽ cố định trong hư không để bảo vệ bạn, thời gian là có thể bảo vệ bạn nửa tháng, người nhà bạn, cả đất nước, cả trái đất, những điều này đều vô cùng chân thực.

Tôi từng nói, chúng ta là Thượng sư hạng nhất, đệ tử hạng nhất. Có một chuyện cười, tài xế xe taxi ở Đài Bắc chạy xe rất nhanh, rất nhiều người nước ngoài sau khi trở về nước thì sợ đến mức nhắm chặt mắt lại không dám nhìn. Khách hỏi tài xế sao lại chạy nhanh như vậy. “Chúng tôi đều là tài xế hạng nhất, chạy xe hạng nhất.” Khách lại hỏi tài xế: “Thế còn hạng hai thì sao?” “Hạng hai đều chết cả rồi.” Không có hạng hai. Vì thế, Sư Tôn là hạng nhất. Thượng sư của chúng ta là hạng nhất, đệ tử Chân Phật Tông chúng ta đều là hạng nhất, chúng ta không có hạng hai, hạng hai đều không biết là đã đi đâu rồi.

Nghi quỹ pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang được viết trong văn tập số 202 của Sư Tôn

Nói đến nghi quỹ tu pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang, thật ra, nó cũng tương tự như pháp cọc kim cang chân thực của Thời Luân Kim Cang. Chúng ta cũng phải vào đàn thành Thời Luân Kim Cang, niệm chú thanh tịnh, niệm chú triệu thỉnh, triệu thỉnh truyền thừa Thượng sư, triệu thỉnh Thời Luân Kim Cang và các vị, phải làm đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, mặc giáp hộ thân, trì tâm chú Liên Hoa Đồng Tử, phát bồ đề tâm. Tôi cầu thỉnh: “Xin thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang hiếm có, nhờ điệu múa đại lạc và tính Không của mười phương ba đời, thị hiện sự nghiệp từ bi hỷ xả, thu nạp chúng sinh, tiến vào Phật quốc tịnh thổ Shambhala.” Sau đó kết ấn Thời Luân Kim Cang. Phải quán Không, chú quán Không là: “Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng.” quán tưởng trong hư không có chủng tử tự “Hum”, trên bánh xe thời gian hóa hiện ra đất, nước, lửa gió, không, ở giữa là núi Tu Di, hai mươi tám thiên đỉnh, trên mỗi đỉnh có một đóa hoa sen lớn màu xanh lam, ở giữa hoa sen có nhật nguyệt luân, chữ “Hum” ở trung tâm xuất hiện Thời Luân Kim Cang. Quán tưởng hình tượng Thời Luân: đứng thẳng, bốn mặt, hai mươi tư tay, hai chân. Trên búi tóc có trang sức là chày kim cang, bên dưới quấn váy da hổ, đeo vòng ngọc chuỗi hạt, hai chân dẫm lên Đại Tự Tại Thiên và Thiên Hậu. Con mắt phẫn nộ trang nghiêm.

Khi bạn quán tưởng, có thể xem thangka và hình tượng Thời Luân Kim Cang trước. Sau đó quán tưởng chữ “Om” ở Mi tâm của Thời Luân Kim Cang phóng đến Mi tâm của hành giả, chữ “Ah” ở họng phóng đến họng của hành giả, chữ “Hum” ở tim phóng đến tim của hành giả, trong nháy mắt, tự thân hành giả hóa thành Thời Luân Kim Cang, hành giả kết ấn Thời Luân Kim Cang. Lúc này, hai tay cầm chuỗi hạt, niệm chú Thời Luân Kim Cang: “Ôm ha ka-ma-la wa-la-ya sô-ha” 108 biến, đây là để làm kiên cố Thời Luân Kim Cang. Tiếp theo là như tôi vừa giảng, quán tưởng Thời Luân Kim Cang trên tay trái có cái khiên, giơ lên đỉnh đầu, xoay tròn trong hư không, tay trái hành giả cầm khiên kim cang, khiên kim cang hóa thành tấm màn kim cang phóng ra ánh sáng bách bảo. Bạn quán tưởng khiên kim cang bay vào trong hư không, biến thành tấm màn kim cang giống như màn chống muỗi, ở xung quanh bạn phát ra ánh sáng bách bảo. Lúc này bạn đã được chuông che và áo sắt, bất kì ai làm pháp, dùng bùa ngải, dùng ma quỷ muốn xung phạm bạn, họ đều không có cách nào tiến vào.

Khi tấm màn kim cang che kín hành giả thì là bảo vệ con người, bảo vệ hành giả này; khi che cả nhà của hành giả thì là bảo vệ ngôi nhà; che đất nước của hành giả thì là bảo vệ đất nước, bảo vệ quốc gia; màn kim cang che cả vũ trụ thì là bảo vệ thế giới, bảo vệ con người thế gian. Lúc này, phải trì chú phản hồi của Thời Luân Kim Cang: “Ha-sô ya-la-wa la-ma-ka ha ôm” 108 biến, dùng khiên kim cang và màn kim cang để che chắn ác pháp, đẩy ngược lại, ác pháp của đối phương sẽ tự họ chịu. Lúc này phải tiến vào thiền định nhập ngã - ngã nhập, định vào trong Tam ma địa của Thời Luân Kim Cang, đưa giác tri vào tính Không, cả hai hòa vào nhau, Thời Luân Kim Cang nhất vị, cũng chính là hành giả và Thời Luân Kim Cang là một thể.

Trong tu hành Mật giáo của chúng ta, cái gọi là yoga là du già, thật ra chính là nhất vị, chính là nhất thể. Trong tu hành của Bạch giáo có cái gọi là Chuyên nhất du già, Ly hý du già, Nhất vị du già, sau cùng là Vô tu du già. Nhất vị du già chính là bạn và Thời Luân Kim Cang tương ứng, bạn sẽ đạt đến nhất vị.

Khi xuất định thì tụng tán: “Pháp lá chắn Thời Luân. Ánh sáng quý bảo hộ. Kẻ ác và pháp ác. Họ làm, ta chẳng sao.” Khi hồi hướng có thể hồi hướng như sau: “Nguyện ngày cát tường đêm cát tường. Ngày đêm sáu thời mãi cát tường. Tất cả mọi lúc đều cát tường. Nguyện các Thượng sư thường gia trì. Nguyện các Tam Bảo thường thu nhận. Nguyện các Hộ pháp thường ủng hộ. Tam Bảo tất cả đều cát tường.” Sau đó là đại lễ bái, xuất đàn, cát tường viên mãn. Nghi quỹ pháp lá chắn Thời Luân Kim Cang tôi viết trong cuốn sách số 202. Nếu các bạn mua cuốn sách số 202 thì có thể đọc thấy nghi quỹ này.

Sư Tôn mãi mãi là tất cả tùy ý, sẽ không yêu cầu đệ tử cúng dường

Người Tây Tạng khi vẽ thangka Thời Luân Kim Cang, ngài không hướng khiên ra ngoài mà ngược lại hướng khiên vào trong, hướng xuống thấp nhất, để ở rốn. Có một Thượng sư nói: “Nên để cho cái khiên kim cang hướng ra ngoài mới đúng, vì sao các họa sĩ đều vẽ cái khiên hướng vào trong chứ?” Thật ra, hướng vào trong hay ngoài cũng là có pháp vị của nó. Hướng ra ngoài là để che chắn, phòng hộ, hướng vào trong là để chặn lại tham sân si của chính mình, che chắn tham sân si của chính mình.

Vì sao có nhiều chúng sinh như vậy? Vì sao chúng ta phải luân hồi? Chính là vì tham sân si cho nên mới có luân hồi. Phật pháp Đại thừa nói về vô ngã, Phật pháp Tiểu thừa cũng nói về vô ngã, thậm chí Nhị thừa cũng nói về vô ngã. Tu hành giả Nhị thừa có trí huệ rất cao, nhìn được nhân duyên, họ có thể nghĩ được thành tựu tột cùng là thế nào, họ dùng trí huệ của mình để giải thoát thì gọi là Duyên Giác. Tiểu thừa chủ yếu là giải thoát chính mình, nhưng cũng nói đến vô ngã. Tinh thần của Đại thừa vẫn là vô ngã, vô ngã tức là không có tham, hữu ngã thì sẽ sinh ra tham, hữu ngã sẽ sinh ra nóng giận, hữu ngã sinh ra ngu si, ngu muội.

Tôi kể hai câu chuyện cho mọi người nghe. Có một thương nhân Đài Loan, ông ấy rất muốn bao thầu một công trình. Singapore thì tương đối không tham, chủ yếu là quản rất nghiêm, Hồng Kông cũng tốt, họ có Công Sở Liêm Chính, còn Đài Loan thì xếp hạng ở giữa. Trong các quốc gia tham ô, năm nay số một là Thái Lan, thứ hai là Indonesia.

Vị thương nhân này muốn bao thầu công trình, muốn hối lộ, ông ấy mua một tòa biệt thự muốn tặng cho vị quan chức kia. Ông ấy nói với quan chức kia: “Tôi mua một tòa biệt thự muốn tặng cho ông, xin ông hãy để công trình này cho tôi làm.” Quan chức nói với ông ta: “Tôi rất thanh liêm, một chút tôi cũng không tham, tôi hoàn toàn trong sạch thanh bạch.” Thương nhân nói: “Tôi biết ông rất thanh liêm, tôi cũng biết ông trong sạch thanh bạch, cẩn thận tỉ mỉ, thế này thì tốt rồi, tôi sẽ bán cho ông ngôi biệt thự này, một vạn đồng là được rồi.” Một vạn đồng Đài tệ cũng không đủ để mua được ba mét vuông. Quan chức này nghĩ một lúc rồi nói: “Vì anh đã bán và tôi mua, vậy tôi mua hai ngôi nhà luôn.” Đây chính là tham. Cái gọi là thanh bạch trong sạch là để hù người ta.

Nói ra thì cũng hơi ngại. Thật ra, lại nói đến Thượng sư của Chân Phật Tông chúng ta thì cực kì liêm khiết trong sạch, vô cùng thanh bạch. Rất nhiều Thượng sư đi ra ngoài hoằng dương Phật pháp, đệ tử cúng dường, họ cũng sẽ cúng dường Sư Tôn một chút.

Có ba Thượng sư bàn luận về việc cúng dường Sư Tôn, một Thượng sư nói: “Tôi vẽ ra một vòng tròn rồi ném tiền ra, tiền rơi vào trong vòng tròn biểu thị đó là tiền của tôi, còn tiền ở bên ngoài vòng tròn thì cúng dường Sư Tôn.” Thượng sư thứ hai nói: “Tôi khác anh, tôi học vô ngã, tôi vẽ một vòng tròn, tiền ném mạnh một chút, tiền ném ra ngoài vòng tròn là của tôi. Bên trong vòng tròn vẽ rất nhỏ thì là của Sư Tôn.” Thượng sư còn lại nói hay nhất: “Chẳng phải đâu đâu cũng có Pháp thân của Sư Tôn sao? Trong hư không đều là Sư Tôn, căn bản là tôi không cần vẽ vòng tròn, chỉ cần đem tiền của người ta cúng dường tung vào không trung, tiền ở trong không trung thì Sư Tôn đã nhận rồi.” Vì thế, tiền rơi trên mặt đất toàn bộ đều là Thượng sư này nhặt đi.

Có một Thượng sư thì như thế này. Người ta nói hồng bao này nhờ Thượng sư cầm đi Seattle, nhờ Thượng sư chuyển cúng dường này đến Sư Tôn của chúng ta. Thượng sư kia nói: “Được! Cúng dường Sư Tôn, Sư Tôn trong hư không đã nhận rồi.” Sau đó ném lên trên. “Sư Tôn từ bi, ngài đều chẳng lấy.” “Lần nào tôi tung lên ngài cũng đều không lấy.” “Vậy tôi làm cách nào đây? Hay là tôi lấy vậy!”

Lư Sư Tôn tôi ở đây nói chuyện, các bạn không cần phải cho tôi một phần ba, đừng dán nhãn hiệu cho tôi, nói Sư Tôn lấy một phần ba. Một phần cho phân đường, một phần cho chính mình, một phần cho Sư Tôn, đừng có nói như vậy, Sư Tôn luôn luôn đều là tùy ý, tôi chưa bao giờ mở miệng yêu cầu người ta tiền.

Tôi và Tăng Diệu Quyền ở Indonesia rất tốt, nhưng Tăng Diệu Quyền chưa bao giờ đòi tôi tiền, bản thân anh ấy đều cúng dường Sư Tôn. Sư Tôn là tùy ý, nói cách khác là tuyệt đối sẽ không mở miệng ra đòi tiền bạn, tôi cũng chưa bao giờ dán nhãn hiệu nói rằng thứ này bao nhiêu tiền, chưa bao giờ có, tất cả tùy ý chính là tôn chỉ của cá nhân tôi. Cho nên, các Thượng sư, các giáo thọ sư, các pháp sư, các phân đường, các bạn chỉ cần tùy ý cúng dường Sư Tôn là được, thậm chí không cúng dường cũng không cần căng thẳng, tất cả đều không vấn đề gì cả.

Sư Tôn biết tiền bạc thì ai ai cũng thích, mỗi người đều thích. Bởi vì có bạn, bởi vì có tôi, bởi vì có người khác cho nên mới sinh ra tham niệm. Thánh hiền chân chính sẽ lấy tiền trên người mình ra để bố thí cho tất cả chúng sinh. Sư Tôn tương lai có Quỹ Từ Thiện Lư Thắng Ngạn, tháng 7 năm nay tôi sẽ đến Thụy Sĩ, bởi vì con gái tôi ở Thụy Sĩ, chủ tịch công ty Chanel. Tôi gọi nó về để làm chủ tịch của quỹ từ thiện này. Nó là tiến sĩ pháp luật. Tôi hoan nghênh nó trở về để chủ trì Quỹ Từ Thiện Lư Thắng Ngạn, tôi sẽ đem tiền cúng dường dư thừa của mình để trả lại hết cho chúng sinh.

Năm đặc tính của con người là: đoạn diệt tính, thường tính, Thanh Văn tính, Duyên Giác, Phật tính

Thật ra, tất cả chúng sinh đều có đặc tính của bản thân họ, đều có thể nhìn ra. Đặc tính của con người nên phân làm năm loại, loại thứ nhất thuộc về đoạn diệt, cho rằng thế gian này căn bản không có nhân quả luân hồi, con người chết đi rồi thì giống như đèn tắt, trở thành đoạn diệt, chết rồi thì cái gì cũng không còn, không có nhân quả, không có luân hồi. Đây là một đặc tính của con người. Người có đặc tính này đều tương đối khó độ hóa, bạn nói với họ cái gì cũng đều vô dụng, họ cho rằng tôi chết rồi thì chẳng còn gì nữa, bạn nói với tôi cái gì tôi cũng chẳng tin. Cái này thuộc về đặc tính đoạn diệt.

Đặc tính thứ hai thuộc về thường tính. Nhà của tôi là của tôi, vợ của tôi là của tôi, con cái của tôi là của tôi, cháu chắt của tôi là của tôi, tiền tôi kiếm là của tôi, tất cả những thứ hữu hình tôi đều tin, tất cả những thứ vô hình, sờ không thấy thì tôi đều không tin. Họ tin vào cái có, đây chính là thường tính.

Loại thứ ba là Thanh Văn tính, thế nào là đặc tính của Thanh Văn? Bản thân tôi biết Phật pháp, nhưng rồi sao? Tôi tự mình giấu đi, tôi tự mình tu tự mình đắc, tự mình đạt đến cái lạc của niết bàn, không muốn đem cái lạc của niết bàn cho chúng sinh, đây là đặc tính của Thanh Văn.

Loại thứ tư là đặc tính của Duyên Giác, đặc tính của Duyên Giác là trí huệ rất cao, họ nhìn thấy một cái đầu lâu, họ sẽ nghĩ vì sao có cái đầu lâu này? Bởi vì con người có sinh, lão, bệnh, tử, cho nên khi chết mới có cái đầu lâu này. Thế còn, làm sao để đạt đến giải thoát, làm sao có thể chứng nghiệm Phật bồ đề? Họ sẽ nghĩ đến vấn đề này. Phiền não làm sao để giải thoát? Họ sẽ từ phương pháp nhân duyên và lần lượt đi tiếp đi tiếp, sau cùng họ biết được phương pháp giải thoát là gì, phương pháp chứng nghiệm bồ đề là gì, đây chính là Duyên Giác. Nhưng đặc tính của Duyên Giác tương đối kiêu ngạo.

Sau cùng chính là Đại thừa chúng ta, có Phật tính, chúng sinh đều có Phật tính. Chúng ta có Phật tính, mỗi người đều có Phật tính, phải đi khai mở Phật tính của chính bạn, sau đó, giống như Sư Tôn có thể “khai ngộ từng lớp lớp”.

Tôi từng kể chuyện cười này, có một người đi ăn mì bò, ông ấy gắp mãi thì phát hiện ra chỉ có mì, không có thịt bò. Ông ta hỏi ông chủ: “Ông chủ! Ông chủ! Trong mì thịt bò này vì sao không có thịt bò?” Ông chủ hùng dũng hiên ngang trả lời: “Ông ăn bánh mặt trời bên trong có mặt trời không? Còn nữa, ông ăn bánh mặt trăng bên trong có mặt trăng không?” Người kia đúng là không trả lời được. Tôi lấy ví dụ này, bên trong bánh mặt trời không có mặt trời, bên trong bánh mặt trăng không có mặt trăng, chính là muốn bản thân mọi người cần khai ngộ.

Bạn biết trái đất có cái gì không? Trên trái đất có người không? Có. Đang ngồi đây đều là người, đang ngồi đây cũng đều không phải là người. Thứ vĩnh viễn tồn tại trên trái đất chúng ta chính là đất, con người chẳng qua chỉ đến đi một chuyến. Nếu bạn có trí huệ rất cao, hãy theo lời tôi nói này mà suy ra, bạn sẽ rất dễ khai ngộ.

Thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang gia trì cho tất cả chúng sinh mọi điều cát tường

Có đệ tử đến nói với tôi: “Người ta nói Chân Phật Tông chúng ta rất không tốt.” Tôi hỏi anh ấy Chân Phật Tông có gì không tốt. “Rất nhiều tông phái không thừa nhận.” Tôi hỏi anh ấy: “Vì sao cần họ thừa nhận? Anh không thể tự thừa nhận chính mình sao?” Thừa nhận thì có ích lợi gì? Không được thừa nhận thì có ích lợi gì? Rốt cục là bạn thừa nhận cái gì? Bạn học Phật chỉ cần bạn có thể thành Phật, tự mình thừa nhận chính mình, không có ai có thể thừa nhận bạn, cũng sẽ không có người không thừa nhận bạn, bởi vì tôi xem họ đều không tồn tại. Tôi là người nói lời thật, nói lời đúng, không nói khoác, căn bản là tôi chưa bao giờ làm pháp gì với người khác. Họ không thừa nhận tôi, họ không được làm bộ trưởng, không được bầu chọn chỉ là vì Hộ pháp Kim cang không thích mà thôi, đó không phải là lỗi của tôi, các bạn muốn tìm thì tìm Thời Luân Kim Cang, tìm Diêu Trì Kim Mẫu đi! Đừng tìm tôi.

Tôi nghe nói, không biết là thật hay giả, dù sao những người đối với chúng ta chẳng ra sao đều chẳng trúng cử. Muốn trúng cử thì phải hộ trì Chân Phật Tông, ai không hộ trì thì đừng bầu cho họ. Tôi đã quen biết Khâu Thùy Trinh từ rất lâu rồi, tôi rất thích tiếng đàn guitar và giọng hát của Khâu Thùy Trinh, rất hay. Ông ấy đến hộ trì chúng ta, tôi không nói mọi người nhất định phải bầu cho ông ấy, nhưng tất cả Hộ pháp cũng sẽ đi giúp đỡ ông ấy.

Hành giả chúng ta cần có trí huệ rất cao, đừng lúc nào cũng ngồi một chỗ than thân trách phận, ngày nào cũng sầu bi. Giống như Tổng hội Mật giáo Malaysia, ngày nào cũng ở đó mà sầu não “người ta không thừa nhận chúng tôi”. “Con đường tương lai của chúng tôi sẽ đi thế nào đây?” Anh lớn thế này rồi mà còn không biết đi đường sao? Cứ thẳng mà đi, đi về phía trước! Nhất định có thể thành Phật, sợ cái gì? Phật Thích Ca Mâu Ni đứng bên cạnh ta mà!

Chúng ta phải có trí tuệ rất cao, không thể thua con vẹt được. Nghe nói con vẹt cũng có trí tuệ rất cao. Có một người nghe nói có một con vẹt rất thông minh liền đi tới và nói: “Nghe nói anh có con vẹt rất thông minh, tôi muốn kiểm tra nó.” “Anh kiểm tra đi!” Người kia liền nói với con vẹt: “Tôi biết nói chuyện.” Con vẹt nói với anh ta: “Tôi cũng biết nói chuyện.” Người kia lại nói với con vẹt: “Tôi biết hát.” Con vẹt trả lời anh ta: “Tôi cũng biết hát.” Người kia lại nói với con vẹt: “Tôi biết bay.” Con vẹt nói thế nào nhỉ? “Đùa à?” Cho nên đồng môn Chân Phật Tông chúng ta cũng cần có trí tuệ, bạn không cần học người ta, bạn chỉ cần học Phật là được. Bạn chỉ cần diệt tham, sân, si, vận dụng Phật tính của bạn trong cuộc sống thường ngày thì bạn chính là Phật rồi! Lẽ nào bạn muốn mỗi ngày đi xin người ta thừa nhận bạn? “Năn nỉ đó! Anh thừa nhận tôi có được không?” Chỉ cần bạn thừa nhận bản thân mình chính là Phật. Không có ai thừa nhận ai.

Hôm nay tôi ở đây một lòng thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang Đại Minh Vương: thỉnh cầu Thời Luân Kim Cang Đại Minh Vương phóng ánh sáng hộ trì tu hành giả chân thực, hộ trì gia đình của hành giả, hộ trì Đài Loan, và cả những nơi ở đất nước có hành giả Chân Phật, hộ trì tất cả chúng sinh, ngày cát tường, đêm cát tường, một ngày sáu thời đều cát tường, trong mọi thời đều cát tường, tất cả Tam Bảo mãi cát tường. Để Phật, pháp, tăng Tam Bảo có thể hoằng dương đến toàn thế giới, để mỗi một người học Phật đều có thể ở trong an lành mà chăm chỉ tu hành, thành tựu được tốt, để mỗi hành giả thân thể khỏe mạnh, để mỗi hành giả đều cắt đứt phiền não, để mỗi hành giả không vào luân hồi, để mỗi hành giả độ hóa chúng sinh, để mỗi hành giả đều đạt được thành tựu của Thánh hiền, để mỗi hành giả đều hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, để mỗi hành giả đều có thể tức thân thành Phật.

Sư Tôn lại phát lời thề bồ đề phân thân xả cốt đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh

Hôm nay tôi ở trước mặt mọi người cũng có lời thề như thế này, thề chính là phát lời thề, thề chính là ước muốn. ”Tôi sẵn lòng đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh.” ”Tôi sẵn lòng đem kinh nghiệm minh tâm kiến tính của chính mình để cho tất cả chúng sinh đều có thể biết.” ”Tôi sẵn sàng phân thân xả cốt độ chúng sinh.” ”Tôi vì không có cái tôi cho nên tôi cũng không có khổ.” ”Tôi vì không có cái tôi cho nên chúng sinh đều là tôi.” ”Tôi không có thù hận, bởi vì chúng sinh đều là tôi, cho nên tôi không có thù hận.” ”Tôi biết đời người giống như một giấc mơ, chúng ta ở trong giấc mơ này phải sống cho thật xuất sắc.” ”Chúng ta sống một ngày thì phải vui vẻ một ngày, sống một ngày thì phải tu hành một ngày, sống một ngày thì phải cảm ơn một ngày.” ”Tôi nhất định, nhất định thành tựu thành Phật.” ”Tinh thần của tôi giống như việc viết sách của tôi, nghị lực luôn đi về phía trước.” ”Tôi vĩnh viễn không chùn bước, tôi vĩnh viễn không thối lùi đạo tâm.” ”Tôi vĩnh viễn muốn giúp tất cả chúng sinh, không vì chính mình một chút nào.”

Trong bánh mặt trời căn bản không có mặt trời, trong bánh mặt trăng căn bản không có mặt trăng. Trên trái đất này, Lư Thắng Ngạn trước khi sinh ra căn bản không có Lư Thắng Ngạn, sau khi Lư Thắng Ngạn chết đi về cơ bản cũng không có Lư Thắng Ngạn. Nếu tôi có lại đến thì cũng là biến huyễn, bởi vì thế giới này liên tục biến huyễn, liên tục ở trong sự biến hóa.

Tôi quan sát chính mình, tôi chính là vũ trụ, tôi và vũ trụ hợp nhất, vũ trụ và vô hình là một. Nhân thế gian chỉ là một giấc mộng huyễn mà thôi, cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni nói ngài chưa từng thuyết pháp, chưa từng nói một chữ nào, không có ba lần chuyển pháp luân, không có, cái gì cũng không có. Sau khi Phật Đà ngộ đạo, Phật Đà nói: “Không có ba lần chuyển pháp luân.” “Chưa từng nói một chữ nào.” Bởi vì đạo chính là Phật, Phật chính là đạo, tôi cũng chính là đạo. Vì thế, duy ngã độc tôn.

Cảm ơn mọi người! Om mani padme hum.

(Hết)

Mục lục