📗

208. Ba tiếng cười vang

image

Ba tiếng cười vang

Văn tập số: 208 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Ngày mồng 2 tháng giêng năm 2009, vào lúc tám giờ sáng, tôi ngẫu nhiên mở ti vi thì thấy đoạn phim tưởng nhớ về ngôi sao ca nhạc Hồng Kông Mai Diễm Phương. Cô Mai trang điểm xinh đẹp hết sức rung động lòng người, giai điệu của bài hát "Nữ nhân hoa" cứ vang vọng trong tai tôi. Tôi và Mai Diễm Phương chỉ có duyên một lần gặp mặt. Đó là khi tôi mới chuyển đến sống tại Seattle nước Mĩ, Mai Diễm Phương đến Seattle để biểu diễn. Cô Mai nói: "Lư Sư Tôn cũng đến nghe tôi hát à?" Tôi cười cười: "Từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh." Thật ra là vì một người bạn thân của cô Mai gửi tặng vé, tấm thịnh tình ấy khó khước từ, nên tôi đã đi nghe cô ấy biểu diễn.

Tôi thích bài hát "Nữ nhân hoa" đó của cô. Trải qua nhiều năm sau, Mai Diễm Phương mắc bệnh ung thư, tuổi tác chưa phải là cao lắm, thế mà đã ra đi rồi. Có nhiều người nhớ tiếc cô ấy, bao gồm cả bảy người bạn trai của cô, còn có cả Lưu Đức Hoa tiếng tăm lừng lẫy Hồng Kông nữa. Nữ nghệ sĩ Mai Diễm Phương đã ra đi vào đúng lúc sự nghiệp rực rỡ nhất, rất nhiều người không nén nổi thổn thức, tôi cũng thế. Tôi luôn cảm thấy cô ấy rất tốt, chỉ là ra đi quá đột ngột, khiến người ta thảng thốt! Câu nói của cô ấy: "Lư Sư Tôn cũng đến nghe tôi hát à?" Vẫn còn vang lên bên tai tôi đây! Hôm nay, tôi đã không còn thổn thức nữa, tôi, cười lớn ba tiếng, ha ha ha, nói: "Ra đi là tốt! Ra đi là tốt!"

🌟

Còn nhớ quãng thời gian sáu năm Sư Tôn Lư Thắng Ngạn tôi ẩn cư không? Từ lúc 57 tuổi ẩn cư cho đến năm 62 tuổi, tôi ẩn cư tại hồ Diệp Tử. Vào khoảng thời gian ấy. Tôi có một chút buồn. Rất cô độc, rất cô độc, rất cô độc... Tôi chỉ còn lại hai việc là tu pháp và viết sách, trong văn chương đã lộ ra những nét buồn. Thành thật mà nói, tôi đã từng muốn "quay trở lại"!

Một Lư Sư Tôn đã đắc chứng là tôi đây chỉ muốn tống nguyên thần ra ngoài, không trở lại cái vỏ thể xác này nữa. Rồi dùng pháp Đoạt xá, đem nguyên thần đi vào tử cung của phụ nữ, thế là tôi lại được sinh ra một lần nữa. Tôi có pháp lực này, có thể tự chủ sinh tử. Tôi từng nghĩ, cũng từng muốn đi vào tử cung của phụ nữ để chuyển thế đầu thai. Diêu Trì Kim Mẫu xuất hiện nói: "Chưa phải lúc." Tôi hỏi: "Vì sao chưa phải lúc?" Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Con là một người tự nhiên, hà tất phải làm một chuyện không tự nhiên chứ!" Tôi nghe xong, tỉnh ngộ! Đúng vậy, đúng vậy, tự nhiên, tự nhiên, nhậm vận, nhậm vận. Ha ha ha. Cười lớn ba tiếng.

Tôi viết một bài kệ: "Muốn đi cũng không được. Không đi cũng không được. Đến đi đều không được. Xin hỏi cái gì được." Xin mọi người hãy hiểu thấu đáo bài kệ nhỏ này! Ha ha ha.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Rốt cục tôi ở nhân gian để làm gì?

Có một lần, tôi hỏi sư phụ của tôi là Thượng sư Thubten Dorjie: "Rốt cục con ở nhân gian để làm gì?" Thượng sư Thubten Dorjie nói: "Độ người." Tôi lại hỏi: "Độ người nào?" Thượng sư Thubten Dorjie nói: "Độ một mình anh là đủ rồi!" (Lời tương quan)

Sư phụ của tôi, Thượng sư Thubten Dorjie, lúc còn tại thế, nói với người ta rằng, thật ra chúng sinh mà thầy độ hóa không nhiều, chỉ có vài trăm người mà thôi, những người thầy chọn lựa rất cẩn thận mới trở thành đệ tử của thầy.

Bổn tôn của sư phụ là Phật Mẫu Kurukulle. Theo lí mà nói, Bổn tôn là Phật Mẫu Kurukulle - một vị đại kính ái, thì chúng sinh độ được phải là nghìn nghìn vạn vạn chứ không chỉ có vỏn vẹn vài trăm người.

Có người hỏi thầy: "Một vị đại kính ái, đại nhiếp thọ, vì sao chỉ độ có vài trăm người?" Thượng sư Thubten Dorjie đáp: "Độ một mình Lư Thắng Ngạn là đủ rồi!" "Vì sao vậy?" "Bởi vì độ một mình anh ta thì cũng tương đương với độ năm triệu người." Người đó chợt hiểu ra. Ý của sư phụ tôi muốn nói rằng, thầy ấy độ hóa tôi, tôi lại đi độ hóa người khác, đây chính là việc mà chúng tôi làm tại nhân gian này. Lại nói, độ một mình Lư Thắng Ngạn là đủ rồi, độ một người cũng tương đương với độ năm triệu người. Độ, độ, độ, độ, độ,…. Ha, ha, ha.

🌟

Thẳng thắn mà nói, mặc dù tôi có năm triệu đệ tử, nhưng những đệ tử này đều là đệ tử thần thánh. Một người tôi cũng không dám coi thường. Tôi xúc động vì các đệ tử của tôi. Ví dụ như Lương Dũng ở Brazil. Khi tôi ẩn cư, anh ấy đi tìm tôi khắp chân trời góc bể, trăm đắng nghìn cay, cái tinh thần lặn lội vạn dặm tìm thầy này, vượt qua vô số khó khăn, anh ấy không phải là người có nhiều tiền, trú tại những nhà trọ thấp cấp nhất, chịu mọi đả kích khốn khó, cái nghị lực ấy khiến tôi cảm động. Tiến sĩ Lương Dũng. Thánh đệ tử mà tôi kính trọng!

Còn có Liên Hoa Hạo Dân, túc căn thâm hậu, âm thầm tinh tấn tu trì, hiểu thấu thế gian. Sự giác ngộ của anh vô cùng mạnh mẽ, là một thánh đệ tử có căn cơ sắc bén, tôi chỉ cần khẽ đẩy một chút là anh ấy đã minh tâm kiến tính rồi! Liên Hoa Hạo Dân. Thánh đệ tử mà tôi kính trọng!

Còn có Liên Hoa Kính Bác, là một vị tái sinh, thánh đệ tử có căn cơ sắc bén, âm thầm khổ tu đã lâu! Anh ấy ngồi bên dưới nghe tôi thuyết pháp, từng cái đều có thể lĩnh ngộ, rất nhanh chóng tự mình ngộ đến cảnh giới minh tâm kiến tính. Liên Hoa Kính Bác. Thánh đệ tử mà tôi kính trọng!

Ở đây tôi chỉ kể ví dụ ba người, họ thật sự khiến tôi kính trọng. Có rất nhiều rất nhiều các thánh đệ tử khiến tôi cảm động, đếm cũng không đếm xuể.

Đúng vậy, Thượng sư Thubten Dorjie độ hóa tôi, tôi độ hóa chúng sinh, nhân gian này không có gì khác ngoài một chữ "độ". Tôi đã thấy rất nhiều vị đại sư…. Độ "tiền". Độ "danh". Độ "chùa chiền lớn". Độ "bè phái". Độ "quyền lực địa vị". Không hề dùng tư tưởng trung tâm (Phật huệ) của Như Lai mà độ hóa những chúng sinh đáng thương, không thể thành tựu Phật quả, bản thân cũng không phải là đại thiện tri thức, cũng không phải là người chứng ngộ, tôi thấy vậy, ha ha ha, cười lớn ba tiếng, thật sự rất tức cười.

02. Nếu tôi là A Biển

Theo như tôi biết, Trần Thủy Biển đã bị bắt giữ rồi. [ND: Trần Thủy Biển - Tổng thống thứ năm Trung Hoa Dân Quốc từ năm 2000 đến 2008, tên thân mật là A Biển.] Đối với chính trị, tôi không có lập trường, tôi là một người tu hành, không muốn dính vào chính trị. Đối với bản án hình sự của Trần Thủy Biển, tôi không biết nhiều lắm, tôi cũng không muốn bình luận vị tổng thống ngày trước thế nào ra sao.

Tôi bất chợt có suy nghĩ: Nếu tôi là Trần Thủy Biển, tôi bị bắt giam, thậm chí chịu hình phạt mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, thì tôi sẽ làm thế nào? Ở trong nhà tù, tôi sống thế nào? Tôi có rất vui vẻ không? Tôi có rất đau buồn không? Tôi có tuyệt thực không? Tôi có trống rỗng không? Tôi tự hỏi chính mình, tôi sẽ làm sao? Cuộc sống trong nhà tù dài như vậy, tôi sẽ sống ra sao?

🌟

Tôi sẽ như thế này: Mỗi ngày, tôi sẽ ăn thật no. Mỗi ngày, tôi sẽ mặc thật ấm áp. Mỗi ngày, tôi sẽ tập thể dục trong nhà, ví dụ như chống đẩy hai trăm cái, gập bụng hai trăm cái, đánh kim cang quyền không di động (hoặc bước ngắn), khiến thân thể tôi được khỏe mạnh, luyện tập trở thành "kim cương bất hoại". Mỗi ngày, tôi sẽ quay mặt về hướng đông, nam, tây, bắc, và ở giữa để lễ lạy Ngũ Phương Ngũ Như Lai. Mỗi ngày, tôi sẽ theo nghi quỹ mà tu bốn lần Bổn tôn niệm tụng pháp. Mỗi ngày, tôi sẽ thiền định, sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Rồi lại tứ thiền, tam thiền, nhị thiền, sơ thiền. Mỗi ngày, tôi sẽ gặp thập phương tam thế tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát. Mỗi ngày, tôi nhập tam ma địa, thần hành độ hóa chúng sinh. Mỗi ngày, tôi viết một chút những tâm đắc tu hành. Mỗi ngày, tôi tu huyễn thân. Mỗi ngày, tôi tu quang minh. Mỗi ngày, tôi ở trong chính giác, tự hộ trì điều lành. Mỗi ngày, tôi thành tựu cầu vồng.

Từ lâu tôi đã hiểu, cái tôi này như huyễn, cái nhà tù này như huyễn, nhân gian này như huyễn, vũ trụ này như huyễn, tất cả của tất cả đều là thế giới như huyễn, huyễn huyễn đan xen, huyễn huyễn nhân duyên. Ngã vô ngã. Pháp vô ngã. Vô ngã kiến. Vô ngã chấp. Trong tù mặc dù "nhỏ", nhân gian vũ trụ này, đại thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới đều ở trong cái "nhỏ" này.

Nếu như tôi ra tù: Ha ha ha, cười lớn ba tiếng! Nếu tôi phải ở tù chung thân: Ha ha ha, cười lớn ba tiếng! Khi tôi ra tù thì vạn tia sáng cát tường, nghìn tia khí tốt lành, trên trời dưới trời, lục đại chấn động. [ND: lục đại chấn động - sáu cơn chấn động của đại thiên.] Tôi không ra tù thì thân hóa cầu vồng, nhậm vận đến đi trong thập phương pháp giới. Bất luận thế nào, tôi là một đại Thánh Hiền chứng đắc quả vị.

🌟

Trần Thủy Biển là kẻ nghèo đến mức chỉ còn lại tiền. Còn tôi thì: "Thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương, tôi không có giới hạn tận cùng, tôi ngộ được cái vô sở đắc, vô sở đắc này mới là cái thực có được." Thân không. Tâm không. Pháp không. Tính không. Thập bát giới không. Nếu tôi là A Biển, tôi ở trong tù, sẽ không phải là đêm dài lê thê, mà là thời gian sẽ không đủ dùng, tôi muốn nhập định thần hành đi độ hóa chúng sinh, tôi sẽ rất bận rộn, bận tới mức sung sướng! Tôi cười tới mức miệng không ngậm lại được!

03. Như huyễn như mộng như trò chơi

Vào khoảng gần đây. Tôi thấy một nhà lãnh đạo có quyền lực và địa vị cao nhất, ông Trần Thủy Biển, đã sa sút trở thành tù nhân, từ địa vị cao nhất rơi xuống địa vị thấp nhất. Tôi thấy ông thần kinh doanh - đại gia Vương Vĩnh Khánh, ông ấy đã qua đời rồi, sản nghiệp sau khi chết bị bốn người tranh giành, hỗn loạn và rối bời. Tôi cười khanh khách. Đột ngột cảm thấy đời người như huyễn như mộng như trò chơi.

🌟

Tôi học tập Phật pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy như thế này, những người tu hành hãy lấy "pháp vô ngã làm đầu". Tôi biết, thân thể này là thành, trụ, hoại, không, là sinh, diệt, tử, tuyệt, không thể tránh khỏi già chết. Cho nên thân thể như huyễn. Tôi biết, không thể tìm được tâm, tâm là vô hình vô tướng, vô vị vô thanh. Cho nên tâm cũng như huyễn. Thế giới tồn tại từ xưa đến nay vẫn luôn không ngừng biến đổi, vĩnh viễn biến huyễn không dừng lại. Tất cả thế giới đều ở trong sự biến hóa. Cho nên thế giới cũng như huyễn.

Mật giáo có: Quán mặt trời - ánh mặt trời như sóng nước. Quán mộng - giấc mộng kê vàng. Quán huyễn - tất cả thế giới như ảo. Còn có quang ảnh, tiếng vọng trong hang, trăng trong nước, hoa trong gương, có tức là không, không tức là có. Tôi từ "như huyễn tam muội" mà đạt được quán vô ngã, sau đó dẫn đến tam muội diệu trí vô lượng của Như Lai. Tôi đã chứng minh: Thân tâm là huyễn. Thế giới như mộng. Đời người như trò chơi. Sau khi tôi khai ngộ, từ đó tôi đã hiểu chân lí mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ dưới gốc cây bồ đề. Tôi thật sự đã hiểu rồi.

Bởi vì khai ngộ, tôi đạt được sự nắm giữ toàn bộ Phật pháp, viên mãn tất cả pháp môn, tôi đã chứng biết tất cả trí huệ, đắc: Vô ngại. Vô ngã. Tự tại. Nhậm vận. Tôi có thể trong mọi lúc tuyên dương Phật pháp, đạt đến vô cùng vô tận, lợi ích chúng sinh vĩnh viễn không dừng dứt.

🌟

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, vì sao đối với tất cả chúng sinh ngài đều có thể vô tư mà yêu thương, bao dung và cứu độ họ?" Tôi đáp: "Vô ngã pháp!" Phàm phu tục tử trên thế gian này chỉ quan tâm đến bản thân, quan tâm đến con cái mình, quan tâm đến cháu chắt mình, quan tâm đến người thân của mình, quan tâm đến bạn bè của mình. Điều này không có gì đáng trách. Tuy nhiên, khi bạn hiểu ra, khi bạn có "như huyễn tam muội", hành giả sẽ hiểu tất cả con người vốn dĩ bình đẳng không hai không khác. Bạn của lúc này sẽ không còn tình yêu ích kỉ nữa, mà là tình yêu rộng lớn, thấy tất cả chúng sinh đều như chính mình. Chính mình là huyễn. Chúng sinh là huyễn. Hành vi cử chỉ của Bồ Tát cũng là huyễn. Ta đang ở trong mơ, làm tất cả những hạnh huyễn ảo của Bồ Tát thôi! Bài viết nhỏ này là để dành cho những người tự tư tự lợi, cái công án nói đến ban đầu lẽ nào vẫn còn chưa đủ rõ ràng sao? Ha ha ha!

04. Không có thuận cảnh và nghịch cảnh

Có một vị giáo chủ Thiên Chúa Giáo bị một nữ tín đồ tố cáo là quấy rối tình dục, sau đó đã được chứng minh đây là vu cáo hãm hại. Khi vị giáo chủ này bị tố cáo, truyền thông đã thổi phồng lên rất gay gắt, như thể ông ấy là một tội nhân tội tác tày trời vậy. Ông ấy nói, đúng là nghịch cảnh. (Những lời phỉ báng tới mức dời núi lấp biển.) Đến khi mọi việc điều tra xong thì mới phát hiện ra nữ tín đồ kia bị mắc chứng bệnh hoang tưởng, tự thêu dệt nên tình tiết, khi chân tướng lộ rõ ra như ban ngày mới chứng minh vị giáo chủ kia trong sạch. Giáo chủ nói, đây là thuận cảnh. (Sau cơn mưa trời lại sáng.) Sau đó, vị giáo chủ này đã viết một cuốn sách, đặt tên là: "Thuận cảnh trong nghịch cảnh". Điều rất đáng tiếc là, vị giáo chủ thiên chúa giáo khi viết xong cuốn sách này thì đã mắc phải căn bệnh ung thư, chẳng bao lâu đã qua đời.

🌟

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế cũng đã gặp phải tình huống tương tự, bị vu cáo là quấy rối tình dục. Cô gái Tôn Đà Lợi đã tố cáo Phật Đà và năm trăm vị La Hán đều có quan hệ với cô ta, chuyện này ầm ĩ sôi sục. Phật Đà im lặng không nói. Về sau, cô gái Tôn Đà Lợi chết trong thùng rác ở gần tăng đoàn của Phật Đà. Kết quả là lại gây nên rất nhiều rối loạn. Người thứ hai tố cáo Phật Đà quấy rối tình dục khiến cô ta có thai là một cô gái có tên Chiến Già, người đã phỉ báng Phật. Cô gái trẻ Chiến Già trong lúc pháp hội đã đứng lên chỉ vào cái bụng của mình mà nói với Đức Phật rằng: "Tôi đã mang thai đứa con của Thế Tôn đó!" Tinh thần của quần chúng xáo động. Phật Đà cũng vẫn im lặng không nói. Sự việc thứ hai này, sau đó cũng được chứng minh rằng ngoại đạo đã lợi dụng một cô gái ngu dốt, mua chuộc cô gái vô tri này để cố ý hãm hại Phật Thích Ca Mâu Ni vĩ đại. (Đối với hai lần bị tố cáo là xâm hại tình dục này, Phật Thích Ca Mâu Ni từ đầu tới cuối đều không nói lời nào. Ai có thể hiểu cách nghĩ trong lòng của Phật Đà như thế nào không? Tôi thật lòng thật sự nói để mọi người biết, Phật Thích Ca Mâu Ni căn bản là như như bất động, không hề có cái gọi là thuận nghịch, bởi vì Phật Đà là bậc Thánh nhân đại triệt đại ngộ.)

🌟

Có người nói: Truyền thông có hứng thú nhất đối với Lư Sư Tôn. Có người nói: Những tin nhảm về Lư Sư Tôn có quá nhiều. Tôi là như thế đó. Ha ha ha, cười lớn ba tiếng!

Tôi cười, cười những người nực cười trong thiên hạ, cười những việc nực cười trong thiên hạ, thiên hạ này căn bản là chẳng có chuyện gì cả! Một người minh tâm kiến tính, vốn dĩ biết rằng cuộc đời là trò chơi, chơi thì lúc nào cũng giống như đang diễn kịch vậy. Sau khi thanh danh tôi nổi lên, đương nhiên sẽ trở thành tiêu điểm của truyền thông, nếu không có tiếng tăm gì thì truyền thông mới không tìm đến tôi. Những tin nhảm về tôi đặc biệt nhiều, đây cũng là nhờ truyền thông giúp sức, truyền thông đi khắp nơi giúp tôi dựng chuyện. Hùa theo số đông. Tăng cường bóp méo sự thật.

Cá nhân tôi cũng vẫn như như bất động, tôi chưa bao giờ đi tố cáo người ta, đối với tôi mà nói thì: Tôi đã tu chứng pháp vô ngã. (Vô sinh pháp nhẫn) Tôi không có danh dự gì cả. Không có cái gì là nghịch cảnh, thuận cảnh. Tôi dùng tâm bình thản, tự tại mà ở tại nhân gian độ chúng sinh. Từ đầu đến cuối tôi giống như Phật Đà, im lặng không nói, một câu cũng không cần biện hộ, cứ mặc kệ nó đi! Không có danh dự, mặc kệ mọi người đi nói tôi thế nào, mặc kệ mọi người nghĩ thế nào thì tùy! Ha ha ha, cười lớn ba tiếng! Ông trời ơi! Ông trời ơi! Trời xanh ơi! Trời xanh ơi!

05. Duyên duyên duyên duyên duyên

Tôi đọc được một tin tức xã hội như sau: Có một đôi trai gái quan hệ thân mật. Hai người vì chuyện nhỏ nhặt mà cô gái đòi chia tay, còn chàng trai thì không chịu. Chàng trai nhân lúc cô gái chạy xe máy trên đường, từ phía sau lái xe đâm vào xe máy của cô gái, sau đó cho xe chèn ngang qua ba lần, khiến cho cô gái thịt nát xương tan, máu me be bét. Tôi đọc xong mẩu tin, thở dài một hơi: "Duyên khởi duyên diệt."

Còn nữa: Nam nữ chia tay. Người con trai dùng dao bổ dưa hấu chặt cô gái thành tám phần rồi gói lại trong ba cái túi lớn, một túi ném xuống biển, một túi chôn dưới đất, một túi thì làm thịt xiên nướng. Tôi đọc xong mẩu tin, thở dài một hơi: "Duyên khởi duyên diệt."

Còn nữa: Nam nữ chia tay. Cô gái không chịu, đã mua một bình axit, nhân lúc đôi bên thương lượng bất thành, cô liền tạt axit vào mặt của bạn trai. Chàng trai trở thành "thằng gù nhà thờ Đức Bà". Tôi đọc xong mẩu tin, thở dài một hơi: "Duyên khởi duyên diệt."

🌟

Một đệ tử nữ của tôi đưa cho tôi một phong bao cúng dường. Tôi mở ra xem thì giật mình đánh thót một cái. Bên trong có một bức thư tình dạt dào tình ý. Có cả số phòng khách sạn. Có cả chìa khóa. Tôi không biết phải làm sao mới phải? Đệ tử nữ này lại còn viết khoảng 50 lá thư tình gửi đến cho tôi, đều là những lời lẽ làm "kinh động hồn phách". Tôi không bận tâm. Sau đó, trên chính blog của cô ấy, đệ tử nữ này đã viết về tôi như một mớ rác rưởi, thê thảm đến mức không nỡ xem. Tôi thở dài một hơi: "Duyên khởi duyên diệt."

🌟

Tôi quan sát những chuyện tình ái như vậy, tôi phát hiện thấy tình ái là ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Hành giả biết rằng: Ngũ uẩn đều không. Thập nhị xứ đều không. Thập bát giới đều không. Tình ái là vô minh, là tứ đại, là duyên khởi duyên diệt của nghiệp, đây chính là đặc tính thật sự của nó. Đáng tiếc là nữ đệ tử kia không hiểu. Tôi có nói với cô ấy cũng chẳng có tác dụng gì, bởi vì cô ấy mới học sơ sơ, lại còn ghen tuông, lại còn đố kị, rồi oán hận. Chẳng có cách nào để cô ấy hiểu được về đặc tính của ngũ uẩn đều không. Tôi Lư Sư Tôn hiểu rõ nhất về duyên khởi duyên diệt, ngay cả đến 18 giới tôi đều diệt tận, Bồ Tát hành của tôi giống như trong một giấc mộng, tôi đã không còn tồn tại rồi, tôi không phải là đoạn diệt không, mà là chân như duy nhất, tôi nhậm vận tại thập pháp giới.

Thế giới quan về tình yêu của tôi là duyên khởi duyên diệt. Duyên duyên duyên duyên duyên. Căn bản là tôi không bám chấp vào tình ái. Đệ tử nữ kia giết tôi tơi bời hoa lá trên blog, thật may tôi là người không để tâm, tôi chẳng câu nệ gì, tôi cũng chẳng có danh dự tồn tại, bởi vì Lư Thắng Ngạn này từ lâu đã biến mất rồi, không phải là tôi đã nhập niết bàn, tôi chỉ biết rằng mọi hiện tượng đều là ở trong mơ. Tôi chỉ có thể: Ha ha ha! Cười ruồi!

06. Không ai có thể làm tổn thương Lư Sư Tôn

Tôi từng nói với sư tỉ Từ Nhã Kì rằng: "Không ai có thể làm tổn thương Lư Sư Tôn!" Sư tỉ Từ hỏi: "Vì sao vậy?" Tôi đáp: "Tôi tu pháp vô ngã, huyễn quán, mộng quán, hí quán. Hiểu rõ tâm chân thực, thấy rõ Phật tính chân thực, vì thế không ai có thể làm tổn thương Lư Sư Tôn." "Xin Sư Tôn giải thích rõ hơn!" Tôi nói rõ hơn như sau: Ví dụ như chúng ta nằm mơ, trong mơ, có người cầm dao sắc làm tổn thương bạn, trong giấc mơ bạn đau đớn kêu oai oái. Bạn tỉnh dậy, phát hiện ra chỉ là mơ. Đúng là dở khóc dở cười.

Còn nữa: Ví dụ chúng ta đi xem một bộ phim, bạn nhúng mình vào trong cảnh phim, hòa mình vào trong đó, không biết đó là phim, cảm thấy lo lắng sợ hãi cho nhân vật trong phim, đến khi bộ phim kết thúc. Tự cười một mình.

Còn nữa: Người học Phật, trong khi quán hành, biết thân là huyễn, chúng sinh là huyễn, thậm chí thế gian là huyễn, thế giới vật chất là huyễn, không một thứ gì là thật sự bất hoại, có được sự giác ngộ như vậy. Tất cả tổn thương. Tất cả phỉ báng. Tất cả đả kích. Cũng chẳng qua chỉ là lấy huyễn hại huyễn. Vốn dĩ chẳng phải là chân thực. Bởi đã là như vậy, căn bản là không có ai có thể làm tổn thương đến Lư Sư Tôn, bởi vì Lư Sư Tôn giống như trăng trong nước. Vốn dĩ chính là hư huyễn không thực. Đối với trăng trong nước mà năm lần bảy lượt đả kích, chẳng phải là một trò cười lớn sao? Ha ha ha! Cá nhân tôi thường nhắc đến bài "Mộng thơ" của Vương An Thạch: "Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa."

🌟

Tôi tu hạnh Bồ Tát, giống như ở trong mơ. Giống như tôi bây giờ, coi thân tâm như huyễn, coi nhân thế như huyễn, coi danh dự như huyễn, tôi đã không còn chấp vào danh dự nữa, dù có bao nhiêu tổn hại đến danh dự cũng tương đương như chẳng có. Còn như thân tâm tôi cũng sẽ hư hoại, chẳng khác gì cái vỏ ảo, có làm tổn thương thế nào cũng vẫn là cái thân thể huyễn ảo. Ngoại trừ chân như bất hoại ra, tất cả mọi thứ đều sẽ hư hoại.

Tôi vẫn ở đây. (Chân Như) Tôi không phán xét. (Chân Như) Tôi là trăng trong nước đó! Tôi là hoa trong gương đó! Tôi là mây khói! Tôi là người trong mơ! Tôi là người huyễn làm việc huyễn! Tôi là bong bóng! Là tiếng vang trong hang! Ai có thể làm hại?

🌟

Các Thánh đệ tử thân mến, phàm phu thế tục cho rằng thế gian này là thật, con người là thật, tất cả mọi thứ là thật, sắc thanh hương vị xúc pháp đều là có thật. Phàm phu thế tục cho rằng tiền sắc danh ăn ngủ là thật, lục trần, lục căn, lục thức đều là thật. Cho nên mới sinh ra tham, sân, si. Cho nên mới sinh ra dâm, nộ, vô minh. Đối với sự công kích của phàm phu thế tục, sự phỉ báng của phàm phu thế tục, sự đả kích của phàm phu thế tục. Ha ha ha! Tất cả đều chẳng có gì.

07. Tâm vĩnh viễn ở Đài Loan

Gần đây nổi lên cơn bão Lý Khánh An, một ủy viên lập pháp, một tài năng chính trị. Bà ấy từ ủy viên hội đồng thành phố tiến lên chức ủy viên lập pháp (thành viên Quốc hội), tổng cộng hơn mười năm, hình tượng vô cùng tốt. Bà ấy khá uyên bác, thảo luận về chính trị và chất vấn với lời lẽ sắc bén và có trọng điểm, bà ấy đã có nhiều đóng góp cho Đài Loan, có thể nói rằng bà ấy là một đại biểu Quốc hội xuất sắc, hiếm có! Thế nhưng, bà ấy có hai quốc tịch? (Công dân Mĩ và công dân Đài Loan.) Theo luật và quy định của Đài Loan, nhân viên chính trị chỉ được phép có danh phận là công dân Đài Loan, và không được phép có danh phận quốc tịch khác.

Căn cứ vào điều khoản này, bà ấy bị nghi ngờ là "gian trá":

  1. Che giấu thân phận.
  2. Mọi chi phí cho việc thảo luận chính trị phải được hoàn trả. Cơn bão Lý Khánh An đã làm dấy lên sự chú ý rộng rãi của xã hội, gây xôn xào ồn ào, thậm chí bà phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Với người bình thường thì trong chuyện này, tiêu điểm mà họ chú ý tới là: Gian trá. Che giấu thân phận. Tiền lương. Còn tôi, tôi lại chú ý đến việc bà ấy: "Tâm có hướng về Đài Loan hay không."

🌟

Đánh giá từ lời nói và việc làm của bà ấy, từ luận bàn chính trị của bà ấy, từ sự tận tụy của bà ấy, và từ những câu hỏi chất vấn của bà ấy, chúng ta không nghi ngờ gì rằng trái tim bà ấy sẽ luôn hướng về Đài Loan. Lý Khánh An đã cống hiến cả cuộc đời mình cho Đài Loan, bất kể là bà ấy mang thân phận gì. Tâm của bà ấy: "Vĩnh viễn ở tại Đài Loan!" Con người như vậy, theo cá nhân tôi mà nói, thì còn có thể trách cứ điều gì nữa, thật sự là không nỡ để trách móc.

🌟

Tôi sinh ra tại huyện Hậu Hồ, tỉnh Gia Nghĩa, Đài Loan, bên bờ suối Ngưu Trù. Tiểu học, sơ trung, cao trung, tôi đều sống ở Cao Hùng. Đại học thì tôi ở Đài Trung. Tôi sống ở Cao Hùng 19 năm, sống tại Đài Trung 19 năm, vào năm 38 tuổi (năm 1982), ngày 16 tháng 6, tôi di cư đến Seattle Mĩ. Tại Mĩ, tôi thành lập trụ sở chính của Chân Phật Tông, mở ra các chùa, đường, hội Chân Phật Tông ở khắp nơi trên thế giới, khoảng hơn 300 nơi. Ở Biệt thự Cầu Vồng, tôi dựng lên ba cột cờ, một cột treo quốc kì Mĩ, một cột treo cờ Quốc Dân Đảng, và một cột treo cờ Chân Phật Tông.

Có một lần, tôi đến một nhà hàng ăn cơm, ông chủ là người đến từ Đài Loan. Ông ấy hỏi: "Lư Sư Tôn, thầy có yêu Đài Loan không?" Tôi đáp: "Yêu." Ông ấy hỏi: "Thầy yêu Đài Loan, nhưng Đài Loan có yêu thầy không?" Tôi đáp: "Bất kể Đài Loan có yêu tôi hay không, thì tôi vẫn yêu Đài Loan!" Tôi nói như thế này: Tôi là người không quên gốc gác, cố hương của tôi là Đài Loan, tôi trưởng thành tại Đài Loan, học tập tại Đài Loan, cha mẹ người thân của tôi đều ở Đài Loan, mọi nguồn cội của tôi đều ở Đài Loan, cho nên tôi nói: "Người ở hải ngoại, lòng ở Đài Loan."

Tình yêu của tôi đối với Đài Loan cứ âm thầm lặng lẽ, cũng không cần để người khác phải biết. Tôi là một người tu hành đã minh tâm kiến tính, tôi hi vọng những tâm đắc hoằng pháp của tôi có thể phổ cập đến Đài Loan. Tôi có thể nói thế này: "Tâm tâm vĩnh viễn ở Đài Loan." Con người tôi đây cả đời kính trọng sư phụ, chưa bao giờ làm trái lời sư phụ, đây là nguyên tắc làm người của tôi. Người có ơn, tôi nhất định báo ơn. Người có oán thù, tôi quên sạch luôn! Ha ha ha!

08. Sự thật về quán đảnh

Tôi đọc được một cuốn sách, là do một người học duy thức viết, trong sách người đó nói: "Mấy thứ quán đảnh của Mật giáo đó chẳng có tác dụng gì cả, chỉ là rót nước cho vui, đều là tà tư vọng tưởng hết." Tôi đọc xong thì vô cùng kinh ngạc. Kinh ngạc khủng khiếp! Tại đây, tôi phải thừa nhận một vài sự thật, trong Mật giáo, đích thực là tốt xấu lẫn lộn. Trong số các vị thầy Mật giáo, đâu đâu cũng có những vị thầy chẳng hề có được chút chứng lượng nào. Đúng là có những đại Hoạt Phật, trung Hoạt Phật, tiểu Hoạt Phật đội trên đầu vòng hào quang Rinpoche. Các vị thầy Lama đội trên đầu cái vòng hào quang Thượng sư. Các tiến sĩ Geshe đội trên đầu vòng hào quang Geshe. Các Rinpoche đội trên đầu vòng hào quang là Chư Phật Bồ Tát Kim Cang chuyển thế.

Trên thực tế, họ chẳng hề có chứng lượng, không có là không có, những Hoạt Phật, Thượng sư, Geshe này đều là bịp bợm. Quán đảnh của họ đúng là chỉ có hình thức, dội nước cho vui. Người tu học Mật giáo chúng ta biết rằng: Một vị Kim cương Thượng sư chân chính có dòng chảy pháp quán đảnh chân thực, những pháp lưu này đến từ Kim Cương Tổng Trì. Kim Cương Tổng Trì - Ngũ Phật (Ngũ Kim Cương Trì) - Kim Cang Tát Đỏa (Kim Cương Trì thứ sáu) - Kim cương Thượng sư (đại diện của Kim Cương Trì). Họ có thể dẫn dòng chảy pháp của Chư Phật Bồ Tát Kim Cang Hộ Pháp Không Hành Chư Thiên để quán đảnh cho chúng sinh. Điều này là hết sức chân thực. Người có sức mạnh có thể dẫn dòng chảy pháp dội lên các chúng sinh chính là một vị thầy quán đảnh chân thực. Không phải là không có tác dụng gì. Không phải là dội nước cho vui. Không phải là tà tư vọng tưởng. Còn như tác giả duy thức kia, với một cây sào mà lật cả chiếc thuyền chở nhiều người, thì tôi không thể đồng tình được.

🌟

Tôi và chư Tôn hợp thể, tôi có thể biến thân, tôi là một vị thầy quán đảnh chân chính! Tôi đã tu chứng: Như huyễn tam muội. Huyễn thân biến hóa tự tại. Ở trước cửa địa ngục, tôi đã cứu tiến sĩ Đặng Doanh Gia trở về, có tiến sĩ Đặng Doanh Gia có thể làm chứng. Ở trong địa ngục, tôi đã cứu cô Trịnh Ngọc Hoa trở về, có cô Trịnh Ngọc Hoa có thể làm chứng. ...

Chỉ cần trong tâm tôi khởi lên ý niệm là có thể hóa hiện ở khắp mười phương pháp giới. Tôi có phương tiện thiện xảo ba la mật, nguyện ba la mật, lực ba la mật... Trong quá trình tu chứng của tôi, tôi đã thấy bảo điện Liên Hoa Vương với lầu gác rộng lớn lộng lẫy. Tôi đi vào trong đó, thật sự là trang nghiêm hoa lệ không gì sánh bằng. Bên trong có một bảo tọa, là tòa hoa sen lớn, tôi lên pháp tọa, tỏa sáng chiếu đến mười phương Phật quốc. Thập phương đại Như Lai đích thân dẫn theo vô số Bồ Tát đến bảo điện của tôi, thập phương Như Lai đều phóng quang quán đảnh cho tôi Lư Sư Tôn.

Vũ trụ vang lên: Chú âm "ha ha ha ha ha ha ha ha". Thập phương Như Lại để lộ ra tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thực: "Lư Sư Tôn! Thành Phật rồi! Thuyết pháp như mây như mưa, vĩnh viễn vô biên!" Đó là đại thành tựu khi tôi tu pháp vô ngã.

Kể từ khi ấy, trên đầu tôi có "hoa cái" [ND: lọng hoa], dưới chân tôi có "hoa sen", xung quanh tôi có hào quang "luân bảo" [ND: vòng bánh xe quý], thật sự là rực rỡ chói lòa. Tôi là một vị Kim Cương Trì chân chính. Quán đảnh của tôi vô cùng chân thực, tôi có thể tùy ý cứu độ chúng sinh vô biên vô hạn. Trong thế giới u minh, tôi cử hành pháp hội siêu độ. Học giả duy thức kính mến, xin hỏi với những tính chất như vậy, quán đảnh của tôi có thật hay không? Ha ha ha!

09. Xem phim "Đất mũi số 7"

Bộ phim điện ảnh "Đất mũi số 7" được truyền thông mạnh mẽ tuyên truyền nên rất nhiều người đều đi xem, bộ phim đã bán vé được hàng trăm triệu đô la, và nhiều khán giả nói rằng nó rất hay, thậm chí các cơ quan cấp cao của chính phủ đều giới thiệu nó. Giải Kim Mã đã trao sáu giải thưởng. Đạo diễn, vai nam nữ chính, vai phụ, quay phim, đều đạt được vinh dự rất cao, thậm chí bộ phim này đã trở thành "Quốc bảo". Khi tôi trở về Đài Loan thì vô cùng tò mò, nên tôi đã đặc biệt đi thưởng thức một lần. Thượng sư Liên Hương cũng cùng đi với tôi. Tôi xem hết từ đầu đến cuối. Thượng sư Liên Hương xem được một nửa thì ngủ mất. Sau khi xem xong phim "Đất mũi số 7", tôi cứ tìm hiểu mãi vì sao mọi người đều nói là phim hay. Vì sao lại được tới sáu giải thưởng? Tôi không tìm được lí do, chỉ còn biết cười lớn ba tiếng ha ha ha.

Những phần được khen (người đã từng xem kể với tôi):

  1. Nồng đượm hương vị quê cha đất tổ (quê hương).
  2. Trêu trọc cảnh sát. (rất khoái)
  3. Tính cách trẻ con.
  4. Miệng nhai cau.
  5. Ngôn ngữ quê mùa.

Những phần chẳng thể hiểu được:

  1. Nam nữ chính chẳng hiểu vì sao lại yêu nhau.
  2. Nam nữ chính chẳng hiểu vì sao mà lại lên giường với nhau.
  3. Bối cảnh và thời đại nối tiếp gượng ép một cách khó hiểu.
  4. Bài hát trong phim cũng chẳng hề xúc động lòng người, không hiểu ra làm sao cả.
  5. Nói tóm lại, tổng kết lại một câu, bộ phim này có quá nhiều cái chẳng hiểu ra làm sao, diễn viên cũng cường điệu hóa một cách chẳng ra làm sao cả. Sáu giải thưởng? Chẳng hiểu ra làm sao. Chẳng có lí do gì cả. Kĩ năng diễn xuất bình thường. Thậm chí còn lộn xộn, đối với tất cả khán giả mà nói thì bộ phim này giáo dục điều gì chứ?

Nếu tôi mà cho điểm thì chỉ được 50 điểm, và trao giải: "Giải thưởng điện ảnh quốc gia bé cưng." Ha ha ha! Đắt khách, đáng xem, sáu giải thưởng lớn, rất nhiều người xem lại nhiều lần, điên khùng mua vé, truyền thông ngày ngày quảng cáo rùm beng. Không có lí do một cách không hề có lí do, kì lạ một cách chẳng hiểu ra làm sao cả, vì sao lại như vậy, không ai biết sao?

🌟

Điều hôm nay tôi muốn nói là: Một người có trí huệ sẽ không cá mè một lứa với những người bình thường, chúng ta cần phải có sự hoài nghi hợp lí.

Ví dụ: Ngày xưa diễn viên Lăng Ba diễn Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài (thể loại ca kịch Hoàng Mai). Mọi người đều điên cuồng. Tôi không điên.

Ví dụ: Bộ phim "Đất mũi số 7" ngày nay. Mọi người đều điên cuồng. Tôi không điên.

Trong giới tôn giáo, đối với bộ phim "Đất mũi số 7" này, mọi người điên, tôi không điên. Tôi nghi ngờ một cách hợp lí liệu các Thượng sư, Thượng nhân, đã khai ngộ hay chưa? Tôi tìm kiếm minh tâm kiến tính mấy chục năm, cuối cùng tôi biết làm sao để cắt đứt hết tham dục, cuối cùng tôi biết cắt đứt hết tâm tham, cuối cùng tôi biết cắt đứt hết ngu si. Tôi dùng sự khai ngộ của tôi để hiểu thấu đáo mọi công án Thiền tông, lần lượt phá giải không bỏ sót cái nào. Phá tham, minh tâm, kiến tính, tu hành, chứng lượng. Sau đó quan sát ngược lại giới tôn giáo hiện nay. Tứ đại sơn đầu. [ND: Tứ đại danh sơn, bốn ngọn núi nổi tiếng Trung Quốc gắn liền với bốn tổ chức Phật giáo lớn.] Đất mũi số 7. Ha ha ha! Cười rụng cả răng cửa! Người có trí huệ, tương tự cũng có thể hoài nghi tôi, tuy nhiên, bạn có thể nhập môn tu luyện Chân Phật Mật Pháp thì bạn cũng sẽ có thể phá tham, minh tâm, kiến tính, tu hành, chứng lượng. Lúc này, bạn có thể biết, Lư Sư Tôn tôi không phải là người giả dối!

10. Trịnh Ngọc Hoa ra mặt

Ngày 12 tháng Giêng năm 2009, 4 giờ chiều, tôi ở quận Thái Bình, Đài Trung, tại Linh Tiên Tinh Xá, tôi đã gặp cô Trịnh Ngọc Hoa. Cô Trịnh Ngọc Hoa nói: Cô đã tu pháp Hiển giáo nhiều năm. Cũng tu Mật pháp Norlha tinh xá. Cô ấy là một tín đồ Phật giáo song tu Hiển - Mật, 10 năm trước, cô đã gặp một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, nội tạng bị tổn thương, hôn mê sâu, được đưa vào bệnh viện Trường Canh để cấp cứu.

Trịnh Ngọc Hoa nói, trong khoảng thời gian hôn mê, cô ấy ý thức rất rõ ràng về một trải nghiệm như sau. Thân trung ấm (linh hồn) của cô đến cõi âm phủ. Cô bán mạng hét to tên húy của vị thầy quy y của mình, hi vọng thầy quy y sẽ đến cứu cô. Cô cũng bán mạng thỉnh cầu Quan Thế Âm Bồ Tát và các vị Bồ Tát cứu cô, bởi vì cô vẫn còn con thơ, cô không thể đánh mất mạng sống này. Nhưng vị thầy quy y của cô không xuất hiện. Chư Bồ Tát không hiện thân.

Thế nhưng, điều rất ngạc nhiên là ở trong cõi u minh, cô nhìn thấy Lư Sư Tôn ngồi hàng đầu trong số các vị ở đó. Bên trái bên phải có mấy thị giả. Tỏa kim quang lấp lánh. Ở phía trước pháp tọa của Lư Sư Tôn đều là các linh hồn tử vong do tai nạn giao thông, bị đứt chân đứt tay, máu thịt be bét, thân thể và tứ chi không toàn vẹn, khiến người ta khiếp sợ dị thường. Lư Sư Tôn đang làm pháp hội siêu độ.

Lư Sư Tôn chỉ thị cho Trịnh Ngọc Hoa rằng ngài muốn cứu Trịnh Ngọc Hoa hoàn dương. Ngài trỏ vào một cái hốc và nói: "Cô hãy mau chui vào đó đi!"

Trịnh Ngọc Hoa nhìn thấy cái hốc đó rất nhỏ, nhưng vẫn chui vào. Sau khi chui ra, Lư Sư Tôn ra lệnh cho một vị Bồ Tát đưa cô ấy bay đi. Bồ Tát bay ở phía trên, Trịnh Ngọc Hoa bay ở phía dưới, bay đến phía trên bệnh viện Trường Canh. Trịnh Ngọc Hoa liền rơi xuống, nhập vào trong thể xác của Trịnh Ngọc Hoa, rồi tỉnh lại, thấy mình đang ở trong phòng chăm sóc đặc biệt. Trịnh Ngọc Hoa nói: Cô và Lư Sư Tôn hoàn toàn là người lạ, chưa quy y, chưa tu Chân Phật Mật Pháp, không ngờ người cứu cô ấy lại là Lư Sư Tôn.

Trong cõi u minh, cô đã nhìn thấy:

  1. Lư Sư Tôn ở trong cõi u minh, siêu độ cho những linh hồn gặp khổ nạn.
  2. Lư Sư Tôn cứu cô ấy hoàn dương.
  3. Lư Sư Tôn là một vị Đại Pháp Vương có chứng lượng thật sự.

Trong suốt 10 năm nay, hễ Trịnh Ngọc Hoa gặp ai phê bình Lư Thắng Ngạn, cô ấy liền nói với người đó: "Chưa hiểu rõ chân tướng thì chớ phê bình. Lư Sư Tôn này thật sự là một vị có chứng lượng." (Buổi gặp mặt này, sư tỉ Từ Nhã Kì đã ghi âm thu hình lại toàn bộ.)

🌟

Tôi trả lời cô Trịnh Ngọc Hoa: "Sư phụ quy y của cô không hiện thân, chư Bồ Tát không hiện thân, không có liên quan gì đến vấn đề chứng lượng, mà là cô và Lư Sư Tôn có duyên, cần phải là tôi kiến chứng, cho nên tôi mới hiện thân cứu cô."

Tôi nói: Tôi có khi là A Di Đà Phật. Tôi có khi là Địa Tạng Bồ Tát. Tôi có khi là Diêu Trì Kim Mẫu.

Chỉ cần trong một suy nghĩ, tôi đã có thể hóa thân thành trăm nghìn vạn tỉ thân, trong 28 cõi trời, Vô sắc giới, Sắc giới, Dục giới, tam ác đạo, có thể nói rằng không nơi nào là tôi không hiện thân.

Trong lúc trò chuyện, tôi cũng có thể cứu người đó!

Ngày 10 tháng Giêng năm 2009, Indonesia có một chiếc phà chở mấy trăm người đi đến Borneo. Trên đường đi gặp sóng to gió lớn, phà lật, có hơn hai trăm người gặp nạn. Dưới đáy biển, tôi lập đàn siêu độ cho các vong hồn, có ai biết được chuyện này? Ha ha ha!

11. Ngoại đạo, ngoại đạo, ngoại đạoTừng có người phê phán tôi:

"Lư Sư Tôn là phụ Phật ngoại đạo!" Tôi nghe mãi rồi, chỉ cười ha ha ha. Bị phê bình là ngoại đạo, đương nhiên không chỉ có một mình tôi, tôi chỉ là là một "vua ngoại đạo" tương đối nổi danh mà thôi. Những người bị phê bình là ngoại đạo còn có: Ấn Thuận đạo sư - đoạn kiến ngoại đạo. Dalai Lama - thường đoạn ngoại đạo. Nguyệt Khê pháp sư - vọng kiến ngoại đạo. Nghĩa Vân Cao đại sư - thần thông ngoại đạo. Lí Thiện Đơn - tiểu ngoại đạo. ...

Cá nhân tôi không dám nói người khác là ngoại đạo, tôi chỉ nói rằng thuyết pháp của những người này chỉ là: "Thuyết pháp phương tiện."

Tôi nghiên cứu sâu kinh điển Tam Tạng, phát hiện thấy Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, có rất nhiều rất nhiều bài thuyết pháp phương tiện. Những kinh điển thuyết pháp phương tiện này, chúng ta không thể gọi Phật Thích Ca Mâu Ni là pháp ngoại đạo được. Không thể nói Phật Thích Ca Mâu Ni là đại ngoại đạo. Nếu lấy kinh Liễu Nghĩa đệ nhất nghĩa đế là chính đạo, thế thì những kinh "bất liễu nghĩa" đều sẽ trở thành kinh điển ngoại đạo hết. Điều này không được. Chúng ta chỉ có thể nói, tất cả những kinh "bất liễu nghĩa" mà Phật thuyết là những thuyết pháp phương tiện của Phật Đà mà thôi.

Cùng lí do tương tự: Lư Sư Tôn tôi khi mới xuất đạo, tôi nhờ thần toán, phong thủy mà thành danh, tinh thông phù pháp, Đạo pháp… Những cái này đều là pháp phương tiện. Thu kinh, chế sát, trị bệnh, giải ách, nhân quả, thần thông, pháp thuật… Đều là phương tiện. Về sau, tôi "thân tu thực chứng", thật sự đã minh tâm, thật sự đã kiến tính. Tôi thấy được Phật tính, đó là một lần thấy là vĩnh viễn thấy, vĩnh viễn không mất đi. Đương nhiên tôi biết đây mới là đệ nhất nghĩa đế, đây mới là liễu nghĩa, đây mới là thứ mà tôi đích thân chứng được.

Bây giờ tôi biết: Đại học Phật giáo - pháp phương tiện. Tiến sĩ Phật giáo - pháp phương tiện. Đài truyền hình Phật giáo - pháp phương tiện. Nghiên cứu Phật giáo - pháp phương tiện. Triết học Phật giáo - pháp phương tiện. Văn vật Phật giáo - pháp phương tiện. Giáo dục Phật giáo - pháp phương tiện. v.v…

Cá nhân tôi nghĩ, những pháp phương tiện này có quan trọng không? Câu trả lời của tôi là, chúng là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh đi vào cửa Phật. Và điều quan trọng hơn là, sau khi bạn có được những thứ này thì phải đi đích thân chứng minh Phật tính đệ nhất nghĩa đế, lợi dụng trí huệ phương tiện để đi chứng minh vô thượng chính đẳng chính giác. Có người nói: "Dùng thiền định!" Tôi nói: "Thiền định cũng là phương tiện!"

Đệ nhất nghĩa đế chân chính, liễu nghĩa chân chính, vô thượng chính đẳng chính giác chân chính không phải là dùng tu hành mà có được. Câu nói này rất quan trọng.

Tôi chỉ có thể nói: Là phúc đức lực, huệ lực, định lực, tín lực. Tự mình chứng từ đó chứng quả. Tôi minh tâm, tôi kiến tính, tôi chứng quả, điều này là tuyệt đối, chỉ có Phật biết, tôi biết, người khác không biết.

Tôi từ một kẻ phụ Phật ngoại đạo bị người người phê phán, có được đại quán đảnh của thập phương tam thế chư Phật. Đây là do tự mình chứng mà có. Vì thế nói, thuyết pháp phương tiện không quan trọng, nhưng cũng quan trọng.

12. Nóng lên và đóng băng

Vấn đề trái đất nóng lên liên tục là tiêu điểm quan tâm của con người hiện đại, tính nghiêm trọng của vấn đề nóng lên này sẽ gây nên: Các tầng băng ở Bắc Cực sẽ tan thành nước, lục địa sẽ bị thu hẹp. Sinh vật ở Bắc Cực Nam Cực sẽ bị diệt chủng. Thiên tai biến đổi nhanh. Sinh thái tự nhiên bị phá hỏng. Nếu hiện tượng nóng lên trở nên nghiêm trọng, hoàn cảnh sống của con người sẽ bị ô nhiễm, tạo nên rất nhiều tổn thất không thể ước đoán. v.v… Mối quan tâm của con người hiện đại đối với vấn đề bảo vệ môi trường và vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng được chú ý nhiều hơn. Chú ý bảo vệ môi trường. Một trận hạn hán lớn xảy ra. Bão, lốc xoáy, cuồng phong, động đất, bệnh dịch và cháy rừng dường như được đánh đồng với sự nóng lên toàn cầu. Khi tôi ở Malaysia, tại cung thể thao Thái Tử, cử hành pháp hội Thời Luân Kim Cang. Tôi nói: "Mặt trời hãy cách xa trái đất ra một chút!"

Kết quả là: Trung Quốc Đại Lục bị bão tuyết. Miền trung và miền tây nước Mĩ bị băng tuyết diện rộng. Châu Âu bị băng tuyết rộng khắp. Rất nhiều khu vực có nhiệt độ âm 40 độ C. Ở những vùng cao nguyên. Nhiệt độ ở miền bắc Thái Lan cũng hạ xuống. Núi cao ở Đài Loan có tuyết rơi. Nhiệt độ đã giảm mạnh trên khắp thế giới và những đợt rét đậm đang đến gần. (Vào năm 2008 và đầu năm 2009.)

Hiện tượng này đã gây ra tranh cãi giữa hai trường phái khoa học, một bên cho rằng hiện tượng ấm lên toàn cầu sẽ tiếp tục trầm trọng hơn. Trong tương lai, trái đất sẽ gặp một đợt hạn hán lớn, các đảo quốc ở Nam Thái Bình Dương sẽ bị nhấn chìm, các tảng băng ở hai cực Bắc và Nam sẽ tan chảy, và thế giới sẽ khô cằn.

Một nhóm nhà khoa học khác lại có quan điểm khác và tin rằng trái đất sẽ bước vào "thời kỳ đóng băng" trong 20 năm tới. Giống như đợt lạnh giá gần đây trên khắp thế giới, nhiều khu vực có bão tuyết lớn, âm 40 độ, bão tuyết ở khắp mọi nơi và băng tuyết ở khắp mọi nơi. Các nhà khoa học của một phái tin rằng sự nóng lên toàn cầu không phải là vấn đề, mà là trái đất sẽ bước vào thời kỳ đóng băng trong vòng 20 năm. Các nhà khoa học của phái kia không thừa nhận rằng quá trình carbon hóa sẽ ảnh hưởng đến sự ấm lên của toàn bộ trái đất. Hai nhóm "nhà khoa học" này có quan điểm khác nhau. Tôi thấy vậy, cười lớn ba tiếng ha ha ha.

🌟

Nhân loại trước nay cũng chưa từng nghĩ đến, pháp Thời Luân Kim Cang của Mật giáo, trong đó Ngoại thời luân là chỉ hiện tượng thời gian và giới tự nhiên vũ trụ. Ngoại thời luân bao hàm rất rộng. Nói một cách đơn giản về Thời Luân Kim Cang, hiện tượng của toàn bộ vũ trụ là do thời gian sáng tạo nên. Ngay cả sinh mệnh và vạn vật cũng như thế, thời gian sáng tạo nên tất cả, cũng đồng thời hủy diệt tất cả.

Chúng ta có thể nói thế này: "Thời Luân Kim Cang điều khiển toàn bộ thế giới." Nhật luân - đang bị kiểm soát. Nguyệt luân - đang bị kiểm soát. Tinh luân - đang bị kiểm soát.

Lư Sư Tôn dùng pháp lực của Thời Luân Kim Cang là có thể ra lệnh: "Mặt trời hãy cách xa trái đất ra một chút!" Địa cầu liền rơi vào thời kì đóng băng.

Nếu như tôi ra lệnh: "Mặt trời đến gần trái đất hơn một chút!" Địa cầu liền rơi vào thời kì nóng lên.

Tôi có thể ra lệnh: "Mặt trời và trái đất cách nhau như bình thường!" Địa cầu lại hoàn toàn như bình thường. Tôi, cười lớn ha ha ha, thì ra hành giả vĩ đại, không ngờ thật sự có thể kiểm soát cả vũ trụ.

13. Đôi giày đẹp

Có một người là bác sĩ Lê, là bác sĩ trẻ tuổi, chưa kết hôn. Anh ấy cầm một tấm ảnh có cô gái xinh đẹp đưa cho tôi xem, anh và cô gái ấy chụp chung, thỉnh tôi cố vấn về chuyện hôn nhân của anh. Tôi nói: "Đôi giày rất đẹp!" Anh hỏi: "Cái gì mà đôi giày đẹp?" Tôi đáp: "Nhìn bề ngoài thì rất đẹp, nhưng khi đi vào thì mới biết là rất đau." Những cô gái mà bác sĩ Lê mỗi lần theo đuổi hơn phân nửa là những đôi giày đẹp, không phù hợp để anh ấy mang. Nhưng mà, anh vẫn cứ nhiều lần theo đuổi những đôi giày đẹp.

Có một lần. Tôi dùng huệ nhãn của mình giúp bác sĩ Lê tìm được một đôi giày thích hợp, là một người trung thực và đáng tin cậy, một hình mẫu về hiền thê lương mẫu chân chính, tướng mạo của hai người cũng rất phù hợp. Nhưng anh ấy lại không có hứng thú. Tôi biết, tôi rất khó có thể gánh vác vai trò cố vấn hôn nhân, chẳng qua nói ra thì dài dòng. Một cặp vợ chồng, từ khi kết hôn đến lúc đầu bạc răng long, luôn luôn phù hợp và thuận hòa với nhau, thì trong vạn người cũng khó kiếm được một.

Sư tỉ Trần Truyền Phương kể một mẩu chuyện cười: Một bà vợ nói với chồng: "Chồng à! Chồng ơi! Nếu em rơi xuống biển, anh sẽ xả thân nhảy xuống biển cứu em lên chứ?" Chồng nghĩ một lúc rồi đáp: "Yên tâm, anh sẽ chẳng gặp được chuyện may mắn như vậy đâu." Tôi nghe xong, cười lớn ha ha ha.

Lại có một câu chuyện cười khác: Một nhân viên cứu hộ đã cứu được một cô gái xinh đẹp. Hai người bắt đầu yêu đương, cuối cùng đã kết hôn, cả quá trình thật sự là vô cùng lãng mạn. Bạn bè hết sức ước ao được như vậy. Hỏi anh ta hôn nhân ra sao. Nhân viên cứu hộ này nói: "Cô ấy nổi lên, được cứu rồi. Nhưng tôi thì lại chìm xuống, chết rồi!" Tôi nghe xong, cười lớn ha ha ha.

🌟

Gần đây, có một nghệ sĩ danh tiếng là bà Trương Tiểu Yến có hai lần thất bại trong hôn nhân. Trương Tiểu Yến diễn từ lúc còn là ngôi sao nhí cho đến khi già. Bà cũng có những nỗi niềm khó nói. (Hạnh phúc luôn rất ngắn ngủi.) Bà ấy nói một câu: "Đôi giày đẹp, bề ngoài rất tốt, đi vào thì rất đau!" Tôi thật sự không biết câu nói này chỉ chính bà Trương Tiểu Yến, hay là chỉ hai người chồng của bà?

🌟

Cuộc đời này của tôi có hai lần vướng vào tai tiếng tình dục lớn. Họ đều chẳng phải là những đôi giày đẹp. Mà là đôi giày cũ. Tôi cũng chẳng đi chúng. Tôi chạy để cho đôi giày đuổi theo. Bởi vì đôi giày không đuổi kịp tôi, nên đã ném vào đầu tôi, khiến đầu tôi đầy những cục u. Ha ha ha! Đúng là một chuyện hài hước. Đối với vấn đề tình ái, tôi là người hiểu thấu, tình yêu là vô cùng mù quáng. Yêu nhiều thì hận nhiều. Yêu ít thì hận ít. Yêu hận hợp nhất. Tương sinh tương khắc.

Yêu và hận này vốn là hai cực, nhưng cũng là thái cực, vừa tách rời vừa dung hợp, không chỉ là tình yêu, ngay cả cha mẹ con cái cũng không ai là không như vậy, thiên hạ này, người nào đáng tin? Người nào không đáng tin? Khiến người ta nghi hoặc? Những tình nhân, hãy coi chừng! Bị giết hại tới mức trên người đầy vết sẹo, không chết thì cũng gần như chẳng sống nổi! Giấc mộng này, người phàm khó mà hiểu được!

14. Sự việc ở chùa Linh Cốc

Chùa Linh Cốc ở Nam Kinh, Trung Quốc nằm cách lăng Tôn Trung Sơn ở thành phố Nam Kinh khoảng 1,5km về phía đông. Ngôi chùa này được xây dựng vào năm Lương Thiên thứ mười ba của triều đại Nam triều, tức năm 514 sau Công nguyên, và có lịch sử hơn 1.400 năm. Nó được xây dựng bởi Lương Vũ Đế để chôn cất nhà sư nổi tiếng là Bảo Phóng. Minh Thái Tổ đã tự tay khắc tấm bảng cho chùa Linh Cốc là: "Thiên hạ đệ nhất thiền lâm". Ngôi chùa này có phong cảnh đẹp và là một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Nam Kinh.

Theo như báo chí viết thì: Trụ trì của chùa Linh Cốc là phương trượng Tịnh Nhiên, giám viện là pháp sư Thuần Như đã dẫn theo năm pháp sư nổi tiếng đến thăm Đài Loan theo lời mời của tổ chức Huyền Trang. Họ trọ tại khách sạn ở Tân Trúc.

Vào ngày 14 tháng 1 năm 2009, trụ trì Tịnh Nhiên được phát hiện đã bị đánh đập dã man đến chết. Pháp sư Thuần Như đã nhảy lầu tự sát.

Theo báo cáo của cảnh sát: Trụ trì Tịnh Nhiên và pháp sư Thuần Như vì đã tranh chấp với nhau một số việc vặt vãnh, pháp sư Thuần Như đã dùng chiếc đui đèn nặng 10kg đập vào đầu trụ trì, khiến đầu ông bị biến dạng và tử vong. Còn pháp sư Thuần Như vì sợ tội mà nhảy lầu tự sát. Một mảnh giấy được tìm thấy trên người pháp sư Thuần Như, viết rằng: "Hãy báo cảnh sát đến bắt tôi…"

Sự việc này đã làm dấy lên sự chú ý của giới tôn giáo hai bên bờ biển Đài Loan, và những người trong giới Phật giáo hết sức ngạc nhiên và khó tin. Các nhân sĩ trong xã hội thì không hiểu gì. Bàn tán liên miên.

🌟

Tôi đọc những bài báo có liên quan, trong lòng không cảm thấy dậy sóng, không cảm thấy rất kinh ngạc, cũng không than thở. Tôi cho rằng, đây là chuyện bình thường. Đệ tử hỏi tôi: "Chuyện này là sao chứ?" Tôi đáp: "Pháp sư cũng là con người." Đệ tử hỏi: "Nhưng là người tu hành cơ mà?" Tôi đáp: "Tu hành chưa đến minh tâm kiến tính, hẳn là sẽ như vậy, như vậy mà thôi!" Tôi nói: Năm xưa Lục Tổ Huệ Năng đại sư có được ấn khả và tổ y của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, sau khi Lục Tổ đi, các môn đồ của Ngũ Tổ chẳng phải là rất tức tối bất bình sao, họ đi khắp nơi tìm giết Lục Tổ, hại Lục Tổ phải trốn trong nhóm thợ săn hơn 10 năm.

Tôi nói: Năm xưa khi tôi có được thiên nhãn, sau khi thanh danh vang dội, giới tôn giáo và truyền thông đã tìm mọi cách vây quét. Hại tôi phải nhanh chóng đi Seattle Mĩ, lúc ấy tôi mới bắt đầu định tâm lại được, yên ổn tự tu tự chứng. Con người ơi con người! Những động vật đáng thương vì phiền não sinh tử, luân hồi không dừng dứt. Nhẫn nhục ba la mật đa, lấy đâu ra? Minh tâm, lấy đâu ra? Kiến tính, lấy đâu ra? Vô sinh pháp nhẫn, lấy đâu ra? Ngay cả giới luật cơ bản nhất là giết, cướp, dâm, vọng, rượu đều không giữ được, lấy đâu ra? Giết thầy như giết Phật. Tự sát như giết Phật. Sao lại không biết chứ?

Khi tôi chứng đắc bình đẳng tính trí, tôi thấy bạn, tôi, người ta, đều như chính bản thân mình. Khiến người khác đau khổ cũng tương đương khiến bản thân mình đau khổ, tôi chỉ muốn làm người ta vui vẻ, sao có thể nhẫn tâm đi làm hại người khác chứ?

Ha ha ha! Cười người đáng cười trong thiên hạ, cười chuyện đáng cười trong thiên hạ.

15. Quên rồi quên rồi quên rồi

Có người hỏi tôi: "Ngày 13 tháng 12 năm 2008, tại Singapore, ngài chủ trì đại pháp hội Thời Luân Kim Cang, có 60 nghìn người tham gia, ngài cảm thấy thế nào?" "Rất tốt!" - Tôi đáp. "Điểm nào tốt?" Tôi đáp: "Tôi quên rồi!"

Lại có người hỏi tôi: "Ngày 21 tháng 12 năm 2008, tại Đài Loan, ngài chủ trì đại pháp hội Cát Tường Hỉ Kim Cang, có 30 nghìn người tham gia, ngài cảm giác ra sao?" "Rất tốt!" - Tôi đáp. "Tốt ở chỗ nào?" Tôi đáp: "Tôi quên rồi!"

Còn có người hỏi tôi: "Thông qua những sáng tác của ngài, hồi kí của ngài, khởi đầu từ một cuộc đời bình phàm, biết rằng lúc còn nhỏ ngài đã bị ức hiếp, thường xuyên bị đánh, rất nhiều chuyện không thể chịu đựng nổi, bây giờ ngài cảm thấy thế nào?" Tôi đáp: "Tôi quên rồi!" "Thật sự không nhớ sao?" "Thật sự quên rồi!" - Tôi đáp.

Vào tháng Giêng năm 2009, tôi đến Cao Hùng, Đài Loan, đó là nơi tôi đã sống 19 năm. Cao Hùng đã thay đổi rất nhiều, tôi không còn nhận ra một tòa nhà nào nữa, tôi không nhận ra một con đường nào nữa, toàn bộ đều khác rồi, thời thơ ấu, thiếu niên, thanh niên của tôi… Tôi há to miệng. Đều quên sạch rồi.

Tôi cũng sống tại Đài Trung, Đài Loan 19 năm, phía trước ga tàu hỏa ở thành phố Đài Trung, tôi còn nhớ được mang máng, lờ mờ. Những cái khác, đều thay đổi rồi. Trường Trắc Lượng không còn nữa! (Trở thành Học viện Khoa học Công nghệ Trung Chính, rồi lại thành Đại học Quốc Phòng.) Liên đội trắc lượng số 5802 đã không còn nữa! (Căn bản là tôi không biết có còn liên đội trắc lượng nữa không.) Nhà máy sản xuất bản đồ vẫn còn. (Nhưng con đường lớn phía trước nhà máy cũng đã hoàn toàn thay đổi rất khác lạ rồi.) Đài Loan Đài Trung. Tôi gần như quên hết sạch rồi.

Tôi trở về Đài Trung, thường xuyên hỏi người ta, đây là đường gì? Thế còn đây là đường gì? Bởi vì tôi đều quên hết rồi!

🌟

Khi tôi trở về Seattle Mĩ, tôi luôn có một cảm giác như nằm mơ. Sống tại Seattle cũng là mơ. Trở về Đài Loan cũng là mơ. Cả cuộc đời tôi đều là mơ. Mơ xong rồi, cũng quên luôn rồi!

Phật pháp nói với chúng ta rằng, hành giả phải biến tâm mình giống như mặt hồ phẳng lặng. Một con chim nhạn bay qua, trên mặt hồ hiện bóng của nó, khi nó bay qua rồi thì không còn cái bóng nào nữa. Một bầy chim nhạn bay qua, trên mặt hồ có bóng của một bầy chim nhạn, khi chúng bay qua rồi, thì cũng không còn cái bóng nào nữa. Tâm của tôi chẳng vương một sợi tơ. Vô sự. Vô tâm. Lần này, tôi trở về Đài Loan, gặp vị cố vấn pháp luật đầu tiên của tôi trong cuộc đời này, luật sư Hoàng Thanh Hoa, ông ấy cũng là cố vấn pháp luật cho sách của tôi, tôi gặp ông ấy, ấy vậy mà cũng không nhận ra ông. Chúng tôi cười lớn ha ha ha. Gặp nhau cũng giống như trong mơ!

16. Phía dưới cây cầu lớn ở Bành Hồ

Lần này tôi trở về Đài Loan thì nghe được một tin tức. Có một khởi nghiệp gia họ Bạch bị tuần san đưa tin, sau đó ông ta chọn một câu cầu lớn ở Bành Hồ mà mình thích nhất, thế rồi… Nhảy "ùm" xuống một cái. Đi rồi! Tất nhiên, ít có điều hay trong các bài báo tuần san, và hầu hết chúng đều là những trò buôn dưa lê như tiết lộ đời tư của những người nổi tiếng. Ông Bạch không chịu nổi. Dùng cái chết để chứng minh sự thanh bạch của mình.

🌟

Khi tôi trở về Đài Loan. Có một khởi nghiệp gia mà tôi quen sơ sơ, là hàng xóm trước kia của tôi, từ cửa sổ trên tầng cao ở nhà ông ta đã nhảy xuống. "Bụp" một tiếng rất to. Hồn đã bay đến Li Hận Thiên rồi! Vị khởi nghiệp gia này mắc bệnh mất ngủ, bị trầm cảm, ngày nào cũng ra ngoài đi lang thang, cứ thế đi loanh quanh, mặt vô hồn. Như người chết biết đi. Hiếm khi tiếp xúc và nói chuyện với mọi người. Trước đây, khi nhìn thấy tôi, ông ấy chỉ gật đầu một cái, thậm chí cúi đầu, im lặng bước đi. Ông ấy đi rồi. Từ nay ngay cả cái bóng cũng không còn nữa.

🌟

Hai sự việc trên đều xảy ra gần đây, và còn nhiều sự việc nữa, mỗi ngày giở báo ra xem đều có. Áp lực rất lớn, căng đến mức con người đều sắp phải "vào trại" rồi. Con người hiện đại nóng nảy. Con người hiện đại cáu kỉnh. Con người hiện đại u sầu. Con người hiện đại có khả năng chịu áp lực kém. Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn đối phó thế nào? Làm sao để hóa giải?" Tôi trả lời: "Phật Đà nói, lấy pháp Vô ngã làm đầu."

Tôi giải thích như sau: Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng con người có hỉ nộ buồn vui, có thất tình lục dục, có ghen tuông đố kị, có giận dữ, có cáu kỉnh, có sầu muộn, có áp lực, đều là vì có "ngã" mà ra. Chúng sinh chấp ngã rất nặng. Lấy tự ngã làm trung tâm. Người thuận theo mình thì thích. Người đối nghịch mình thì ghét. Làm sao để đối trị và hóa giải, phải lấy "vô ngã" để đối trị và hóa giải.

Tôi nói: Tôi không phải là Lư Thắng Ngạn, tôi không phải là Liên Sinh Hoạt Phật, tôi không phải là Hoa Quang Tự Tại Phật. Tôi không hề đến, cũng không hề đi. Tôi hiện đang tồn tại là cái huyễn nhất thời. Tất cả mọi sự hãm hại đều là cái huyễn nhất thời, đây là suy nghĩ "vô ngã". Tôi sẽ không nóng nảy, chỉ cảm thấy thế nhân nực cười. Tôi sẽ không cáu kỉnh, trong lòng tĩnh lặng như nước. Tôi sẽ không u sầu, vui vẻ là một ngày, u sầu cũng là một ngày, tôi lựa chọn vui vẻ. Tôi sẽ không có áp lực, bởi vì tôi vô ngã, mà vì không còn cái tôi nữa, thì lấy đâu ra áp lực? Một người khai ngộ, biết chẳng thể có được cái gì, người ta tán dương mình, mình không vì thế mà hoan hỉ, người ta phỉ báng mình, mình cũng không vì thế mà đau buồn. Nói chung chính là như vậy. "Ngã" là căn nguyên của phiền não! "Ngã" là chủng tử của địa ngục! "Ngã" là cái dẫn đến tất cả mọi thứ!

Bất luận tất cả đều là sóng lớn cuồn cuộn ngất trời, gió to sóng lớn, tôi đều có thể hạnh phúc. Vì sao vậy? Nghĩ vô ngã, pháp vô ngã, tính toán vô ngã… Vô ngã này của tôi không phải chỉ nói miệng khơi khơi mà thôi, mà tôi thật sự thực tiễn nó, tôi trở thành người luôn không sao cả, không căng thẳng, mặc kệ mọi thứ! Hì!

17. Cộng nghiệp của lòng tham

Tháng 9 năm 2008, một cuộc đại khủng hoảng tài chính đã xảy ra tại Mĩ, ảnh hưởng đến hệ thống tài chính của toàn thế giới, kết quả là gây ra cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới, đây là một hiệu ứng domino khủng khiếp. Thị trường chứng khoán. Thị trường tài chính. Thị trường quỹ. Con người đã thấy được sự mong manh, thật sự là mọi thứ có thể sụp đổ chỉ với một cái thổi nhẹ. Bất động sản sụt giá. Dây chuyền sản xuất ngừng hoạt động. Nhà máy đóng cửa. Ngành bán lẻ thì chao đảo.

Cá nhân tôi không phải là nhà kinh tế học, nên tôi không thể phân tích nguyên nhân và hậu quả của nó, nhưng trực giác tôi cảm thấy: Phương trình kinh tế đã sai lầm. Kinh tế không thiết thực. Kinh tế gian lận.

Điều tra ngọn nguồn của nó, cái gọi là cơn bão tài chính đều là do lòng tham của con người gây nên, một chữ "tham". Hệ thống kinh tế bong bóng này là chính là cộng nghiệp của lòng tham của con người. Thảm họa tài chính đã gây ra: Làn sóng phá sản. Làn sóng sa thải. Làn sóng thất nghiệp. Làn sóng mất mát. Kinh tế đình trệ. Tương lai sẽ ra sao? Thật sự khiến người ta không dám tưởng tượng. Nhiều doanh nhân lớn nói một cách bi quan: "Tôi không thể nhìn thấy khi nào nó sẽ phục hồi!"

🌟

Hành giả Phật giáo chúng ta bản thân phải bỏ lòng tham, bởi vì chúng sinh nhiều tham trọc, chúng sinh vì tham mà bị trói buộc, vì tham mà sinh ra phiền não, bởi vì tham tiền, tham sắc, khiến cho thân tâm hữu tình không có cách nào xuất li thế giới Ta Bà được.

Ví dụ như: Tham nhiễm - bị ngũ dục làm ô nhiễm. Tham dục - say đắm ham muốn tiền tài sắc đẹp thế gian. Vĩnh viễn không thỏa mãn. Tham tập - ham thích thói quen tính toán, trở thành chủng tử của những tập khí xấu. Tham chấp - tham chấp vào danh lợi, cầu danh lợi mãi không biết chán. Tham ái - chúng sinh trường kì lưu chuyển trong lục đạo, phiền não không dứt, đều do tham ái.

Kinh Di Giáo của Phật nói: "Nếu có trí huệ, sẽ chẳng còn tham." Hôm nay tôi dùng chữ tham này để đánh thức hành giả, đừng tham, thiết thực là được. Nhưng, ai có thể nghe theo? Cuộc khủng hoảng tài chính thế kỉ hôm nay bắt nguồn từ lòng tham, không thực tế. Mua bán khống. Công ty trên giấy. Thành tích trên giấy. Báo cáo tài chính giả mạo. Tạo thành "bong bóng"!

🌟

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn có đại pháp lực, sao không cứu kinh tế? Cứu cơn bão tài chính này?" Tôi đáp: "Chẳng có cách nào. Ha ha ha." (Ai có thể dùng tay đỡ ngôi nhà sập?) "Vì sao lại không có cách nào?" Tôi đáp: "Cộng nghiệp của lòng tham nhân loại là một định nghiệp, đại Thánh hiền cũng không có sức mạnh nào có thể lật ngược tình thế." "Cầu xin Lư Sư Tôn, xin hãy cứu những người dân thường trong thiên hạ đi!" Tôi đáp: "Khi mọi thứ đến điểm đáy, hãy bắt đầu lại từ đầu. Hãy chắc chắn rằng bạn phải thực tế và vững chắc xây dựng lại. Đừng làm giả, đừng lừa đảo, hãy ghi nhớ những giáo huấn và tích cực xây dựng một hệ thống kinh tế thực tế. Như vậy mới kiện toàn."

18. Chuyện cười về tổng thống Bush

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài có ấn tượng thế nào về Tổng thống Bush?" Tôi khựng lại một lúc, không ngờ lại có người hỏi tôi một câu như vậy. Tôi không nói gì chỉ cười: "Ha ha ha!"

Vào ngày 20 tháng 1 năm 2009, Tổng thống thứ 44 của Mĩ - ông Obama, nhậm chức. Còn "Bush Con" đã khởi hành bằng trực thăng từ đường băng của Nhà Trắng, kết thúc nhiệm kì tổng thống 8 năm của mình.

Theo một cuộc thăm dò của CNN: 60% công chúng tin rằng Tổng thống Bush "đã làm một công việc tồi tệ" trong 8 năm. Chỉ có 32% công chúng công nhận ông ấy.

Tôi thấy: Khắp thế giới có một chuỗi các bữa tiệc "mừng Tổng thống Bush từ chức", mọi người khắp nơi đều đang ăn mừng.

Tôi thấy: Trên bãi cỏ của Washington DC, một bức chân dung của Bush được dựng lên, và người dân Mỹ đã ném giày vào đầu ông, hoặc ném vào "bộ hạ" của ông, và sau đó mọi người cười cợt và reo hò.

Tôi còn nhớ một chuyện cười mà Trần Truyền Phương kể. Bush có lần ngồi trên chuyên cơ Không Vận số 1. Bush nói: "Nếu tôi ném ra một trăm đô la, ném ra mười tờ, sẽ có mười người nhặt được, mười người này nhất định sẽ rất vui." Người phụ tá nói: "Chi bằng Tổng thống ném ra một trăm đô la, ném ra một trăm tờ, sẽ có một trăm người vui mừng." Sau đó, cơ trưởng quay đầu lại nói với Bush: "Nếu ông ném mình xuống, người dân cả nước đều sẽ vui mừng!" Tôi nghe xong: "Ha ha ha!" Cười vang không dừng được.

🌟

Tôi không hiểu chính trị. Nhưng tôi có một thắc mắc để ở trong lòng, vẫn luôn muốn thỉnh giáo Tổng thống Bush: "Vào thời Tổng thống Clinton, ông ấy đã làm cho nền kinh tế rất tốt, nước Mĩ không chỉ không có nợ mà còn có thặng dư. Tổng thống Bush tại vị được 8 năm, thặng dư đều tiêu hết, không những thế còn nợ nần chồng chất, thâm hụt tăng vọt, 580 tỷ nợ Trung Quốc, 500 tỷ nợ Nhật Bản, nợ… Tôi muốn hỏi ông ấy: "Tổng thống Bush đã tiêu như thế nào?" "Tiêu tiền không tiếc tay, nhưng thâm hụt kinh tế, ông phải làm sao?" Nạn thất nghiệp? Sa thải? Suy thoái? Khủng hoảng tài chính? Ông phải làm sao đây?

🌟

Cá nhân tôi ngưỡng mộ Tổng thống Bush. Khi ông ấy lẩn trốn những phóng viên Iraq bất ngờ ném giày vào ông, thân thủ của ông ấy rất nhanh nhẹn, nhanh tay lẹ mắt, lẩn trốn rất giỏi, rất khéo. Ngũ quan khuôn mặt của ông Bush rõ ràng, đôi mắt và cái mũi, hiển thị đầy đủ "tâm hồn" và "tài hoa" của ông, khiến người ta khâm phục. Ông ấy nói chuyện rất quả quyết, tác phong rất có chí khí. Chuyện cười và sự hài hước của ông ấy cho thấy ông ấy rất hồn nhiên. Trước đại chúng, ông ấy cũng có thể xoay người nhảy múa theo tiết tấu của âm nhạc, rất chất phác. Ông ấy có thể cười ngốc nghếch sau những vụ lùm xùm mà chẳng hề bận tâm. Ông ấy có một khuôn mặt đáng tin cậy. Bush Cha. Bush Con. Đều có một khuôn mặt đáng tin cậy. Thế nhưng, dân chúng Mĩ dường như không biết tán thưởng những điều này, họ chỉ chú trọng đến kết quả sau khi nắm quyền. Trong số các Tổng thống tiền nhiệm của Mĩ, ông đứng thứ hai từ cuối lên, đứng cuối cùng là Nixon.

19. Pháp hội cầu phúc có tác dụng không?

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, pháp hội cầu phúc có tác dụng không?" Tôi đáp: "Có." Lại có người khác hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, pháp hội cầu phúc có tác dụng không?" Tôi đáp: "Không." Người nghe vô cùng ngạc nhiên: "Sao một người thì có, người kia thì không, chúng tôi không sao hiểu được?" Tôi cười ha ha ha! Tôi giải thích như sau: Ngày xưa, có người hỏi thiền sư có địa ngục không? Thiền sư đáp có. Người khác hỏi thiền sư có địa ngục không? Thiền sư đáp không.

Còn nữa: Thiền sư giải thích, người bình thường có vợ, nhưng hòa thượng thì không có vợ. Có và không, thật ra là tùy theo mỗi người mà khác biệt!

🌟

Mọi người có còn nhớ cái lần tôi làm pháp hội cầu phúc để cầu mưa cho đợt hạn hán nghiêm trọng đó không? Mưa, sau pháp hội mười phút thì trời đổ mưa. Cả nước có mưa lớn. Còn có một lần, tôi làm đại Hộ Ma Cát Tường Hỉ Kim Cang. Tôi nói: "Cầu phúc lần này vô dụng!" Kết quả, chúng ta đã gặp phải cơn khủng hoảng tài chính toàn thế giới. Đúng là vô dụng. Pháp hội cầu phúc hữu dụng hay vô dụng thật sự là rất khó nói. Điều này có nhân quả, ví dụ, trên phương diện làm pháp của tôi, có người cứu được, có người không cứu được. Đúng là vận mệnh, là nhân quả, là nghiệp chướng, là định nghiệp, là bất định nghiệp, đúng là khó nói.

Tôi, Lư Sư Tôn, dẫu rằng có đại pháp lực siêu cấp, thượng thiên nhập địa, nhưng cũng có những chuyện tôi đành bó tay. Động đất. Sóng thần. Hạn hán. Gió bão. Bệnh dịch. Bão tuyết. Thiên tai địa biến nhân họa không ngừng gia tăng ở các nơi trên thế giới, pháp hội cầu phúc của chúng ta cũng nhiều lần được tiến hành. Không chỉ như vậy, hành động cứu nạn của chúng ta trên thực tế đã tham gia nhiều vào công việc cứu trợ thiên tai, hi vọng việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không có gì. (Tai họa lớn biến thành tai họa nhỏ, tai họa nhỏ biến thành không còn tai họa.)

Trên phương diện tu trì Mật pháp: Trong niệm tụng Mật giáo, nếu Thượng sư giáng xuống, Bổn tôn giáng xuống, Hộ pháp giáng xuống. Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp đều phóng đại quang minh cứu thế gian, như vậy thì pháp hội cầu phúc sẽ có tác dụng.

Nếu như trong niệm tụng Mật giáo, Thượng sư không giáng xuống, Bổn tôn không giáng xuống, Hộ pháp không giáng xuống. Nhưng Bổn tôn nói với tôi: "Lư Sư Tôn, đây là định nghiệp!" Thì tôi sẽ biết, tất cả thế là hỏng rồi!

Phật Đà cũng có ba điều không thể, không thể độ người vô duyên, không thể chuyển định nghiệp, không thể độ hết chúng sinh. Tôi cũng có ba điều không thể như vậy. Ông trời ơi! Trời xanh ơi! Ô hô! Ô hô! Mọi người nói xem, tôi có còn cách nào khác không? Đã dùng hết mọi cách rồi.

20. Hết hết hết hết hết

Có người hỏi: "Lư Sư Tôn dùng sinh mạng để viết sách, chẳng khác gì viết ra sinh mạng. Cuộc đời sáng tác cô độc như vậy, vô cùng trân quý, vì sao ngài lại nói cuối cùng sẽ đốt hết sách đi?" Tôi nói: "Cuộc đời của tôi chỉ có một chữ, chữ này chính là "hết"!" "Không hiểu?" Tôi nói: "Phật nói, đời người là trả nghiệp, trả nghiệp thì không phải là hết sao?"

Các thánh đệ tử xin nghĩ cho kĩ: Tôi không có sinh mạng! Tôi không có viết sách! Tôi không có tu pháp! Tôi sẽ đốt hết sách của mình đi, đây chính là hết hết hết hết hết, chấm dứt hết rồi!

🌟

Phật Đà nói: Ta không có ba lần chuyển pháp luân! Ta không có thuyết pháp! Ngay cả nói một chữ cũng không! Nếu như nói Phật có thuyết pháp, thì tức là phỉ báng Phật.

Phật Đà nói: Pháp còn nên bỏ, huống chi không phải là pháp. Đây chính là đệ nhất nghĩa đế trong bát nhã của Phật Đà. Rõ ràng tôi có sinh mạng, nhưng lại nói là không có sinh mạng. Rõ ràng tôi có viết sách, nhưng lại nói là không có viết sách. Rõ ràng tôi có tu pháp, nhưng lại nó là không có tu pháp. Thậm chí, rõ ràng tôi lên pháp tọa ngồi thuyết pháp, nhưng rốt cuộc lại nói là không có thuyết pháp. Vì sao? Mời các thánh đệ tử trả lời. Trả lời xem sao!

🌟

Tôi từng nói: "Sách hoàn thành rồi, cởi sạch quần áo, chạy ba vòng quanh Lôi Tạng Tự, làm một hiệp khách chạy rông! Sảng khoái! Sảng khoái!" Tôi từng nói: "Sách hoàn thành rồi, đem sách đốt hết. Sướng! Sướng!" Ha ha ha! Chả còn cái thá gì!

🌟

Có một vị là thiền sư Viện Phạm. Tăng hỏi: "Thế nào là việc đúng Phật pháp?" Thiền sư Viện Phạm đáp: "Hết!" "Cái gì là đại ý của Phật pháp?" "Hết!" "Thế nào là tây lai ý?" [ND: công án thiền tông, chỉ mục đích của việc Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Thiên đến Trung Thổ.] "Hết!" Tăng nhân hỏi thiền sư Viện Phạm: "Ngũ Tổ khi chưa gặp Tứ Tổ thì thế nào?" Thiền sư Viện Phạm đáp: "Tự do tự tại." Tăng nhân lại hỏi Thiền sư Viện Phạm: "Ngũ Tổ sau khi gặp Tứ Tổ thì thế nào?" Thiền sư Viện Phạm đáp: "Tự do tự tại."

🌟

Các thánh đệ tử, mọi người nên ngẫm nghĩ để lĩnh hội được chương sách này, chương sách này là đệ nhất nghĩa đế đó. Là Thánh đế, chứ không phải là tục đế; là Phật huệ, chứ không phải là phương tiện; là xuất thế, chứ không phải là nhập thế. Mọi người nói tôi là kẻ điên, tôi chính là kẻ điên, mọi người nói tôi là Căn bản Thượng sư, tôi chính là Căn bản Thượng sư, tùy mọi người nói, tất cả đều là hết hết hết hết hết.

21. Nghe "dân ca vườn trường"

Từng có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, thầy có thích nghe hát không? Tôi đưa thầy đi nghe hát." Tôi ngẩn ra. Nói là thích thì cũng không phải, nói là không thích thì cũng không phải, nhất thời tôi không biết trả lời thế nào.

Lúc còn trẻ, giáo viên âm nhạc dạy chúng tôi hát bài "Ngẫu nhiên" của nhà thơ Từ Chí Ma, tôi đã trào lên một cơn xúc động. "Tôi là một đám mây trên bầu trời…" Sau này, tôi nghe bài "Ngẫu nhiên" và bài "Tạm biệt Cambridge" do Phạm Quảng Huệ hát, tôi yêu thích ngay hai bài hát này. Tiếp đó, tôi nghe bài "Trời xanh mãi xanh" do Phan Việt Vân hát, trong lòng tôi đã trở nên "trời xanh mãi xanh" rồi!

Nói thẳng thắn: Tôi thích hát những bài dân ca vườn trường [ND: một thể loại âm nhạc thịnh hành ở Đài Loan thập niên 70, đặt nền móng cho nền công nghiệp nhạc pop Đài Loan phát triển vào thập niên 80, 90] bởi vì chúng giản dị, chân thành, lại có tình cảm thanh xuân thuần khiết. Trong những năm tháng của cuộc đời, dường như một lần nữa được trở về với những mơ mộng bay bổng.

Nghĩ mà xem: "Ngẫu nhiên" - quá nhiều ngẫu nhiên. "Tạm biệt Cambridge" - khổ sở vì li biệt. "Trời xanh mãi xanh" - giờ đây, tu hành một ngày, vui vẻ một ngày, cảm ơn một ngày. Đúng là "trời xanh mãi xanh". Tuổi tác lớn dần lên.

Tôi thích bài "Đình viện thâm thâm", "có bao chuyện đã qua, khó mà nhớ cho hết, bao nhiêu là ân oán, đã theo gió bay đi". Cuối cùng, chỉ còn lại "chi bằng quay trở về"! Tôi thích bài "Vịnh Bành Hồ của bà ngoại", từng câu từng câu về vịnh Bành Hồ, ánh nắng ấy, bãi cát ấy, sóng biển ấy, cây xương rồng hình bàn tay ấy. (Ông nội tôi vốn sống tại một góc phố nhỏ ở Tây Tự, Bành Hồ, khi còn nhỏ tôi cũng từng đến Tây Tự.) Tôi thích bài "Ánh dương và mưa nhỏ", tôi có thể hát bài "Ánh dương và mưa nhỏ", chỉ vì trong lòng chúng ta cất giữ một phần tình yêu, đó chính là bồ đề tâm độ chúng sinh. Tôi thích bài "Miền sông nước", chẳng vì lí do gì cả, chỉ vì người tôi thì ở Mĩ, nhưng tâm thì ở Đài Loan.

Điều tôi muốn là: Một Đài Loan nơi miền sông nước. Tôi thích bài hát "Nhà tôi ở nơi đó", ngôi nhà ở nơi miền sông nước, đó là ngôi nhà ấm áp của tôi, tôi sống ở nơi đó.

🌟

Mặc dù tôi đã xuất gia tu hành, tôi vẫn thích giai điệu của những bài dân ca vườn trường, chúng khiến tôi rất xúc động, khiến tôi rất cảm động. Tôi không hẳn là rất thích những buổi diễn tấu giao hưởng hợp xướng, rốt cục trong cuộc đời của tôi, tôi có khoảng cách xa xa với nhạc giao hưởng. Những ca khúc nghệ thuật thì tôi cũng rất thích. Nhạc jazz, có thích một chút. Nhạc rap, không cần thiết. Nhạc pop, không cần thiết. Nhạc cuồng điên của thanh niên, không cần thiết. ...

Trong lòng tôi, giai điệu giản dị ấy, cái hoài niệm không thể nào dứt bỏ ấy, cái tình nghĩa gợi lên bao hồi ức ấy, mộng tưởng ấy, những lời thổ lộ ấy.

Tôi thích: Dân ca vườn trường. Đệ tử nói: "Mời Lư Sư Tôn đi nghe nhạc." "Nhạc gì?" "Tình may áo, chiếc gối đôi…" "Anh đang nói đùa đấy à!" Tôi cười lớn ha ha ha.

Nói một cách nghiêm túc, khi tôi còn trẻ, các tiết học âm nhạc, tôi thật sự rất thích, tôi cũng từng là đội viên trong đoàn hát Thánh ca. Về sau tôi chỉ nghe nhạc thôi, thích nghe dân ca vườn trường.

Tôi hiểu: "Bài hát hay nhất, là hoàn toàn không có âm thanh!"

22. Ba đạo lí lớn của kinh Viên Giác

Từ rất rất lâu rồi, tôi đã giảng kinh Viên Giác tại Chân Phật Mật Uyển. Sau đó, Thượng sư Liên Duyệt ở Trung Quán Đường tại Đài Bắc đã cắt xén và chỉnh lí rồi phát trên truyền hình Đài Loan, giành được sự hưởng ứng rộng rãi. (Phát sóng trên đài truyền hình Đài Loan còn có tiết mục "Thắp sáng ngọn đèn tâm" của chủ nhiệm Từ Nhã Kì, nhận được rất nhiều lời khen ngợi.) Hai tiết mục này tôi đều rất thích.

Về kinh Viên Giác, tôi bổ sung thêm như sau: Tên đầy đủ của kinh Viên Giác là "Đại phương quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh", đó là khi Phật Đà nhập vào tam muội của kho tàng thần thông đại quang minh, đã xuất hiện rất nhiều tịnh thổ, có mười hai vị đại Bồ Tát như Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, v.v… lần lượt thỉnh vấn về pháp môn tu chứng theo các địa, Phật Đà đều giải thích tỉ mỉ từng cái một.

Hàm nghĩa của hai chữ "viên giác" là, tất cả chúng sinh hữu tình, đều có giác tính bản sơ, tức là chân tâm, chân Phật, chân như. Từ vô thủy đến nay, thường sống thanh tịnh, sáng tỏ không mờ mịt, hiểu rõ và thường trí. Tại thể là nhất tâm. Tại nhân là Như Lai tạng. Tại quả là viên giác.

Vì thế, kinh Viên Giác nói: "Thiện nam tử, Pháp Vương vô thượng có đại đà-la-ni môn, tên gọi là Viên Giác, tuôn chảy tất cả thanh tịnh, chân như, bồ đề, niết bàn, ba la mật để truyền thụ cho Bồ Tát."

Pháp sư Khuê Phong ca ngợi rằng: "Vạn pháp hư giả. Duyên sẽ sinh ra. Pháp sinh vốn không. Tất cả duy thức. Thức như mộng huyễn. Chỉ có nhất tâm. Tâm tĩnh sẽ hiểu. Viên giác là gì." (Bài kệ tán thán này nên hiểu tường tận.)

🌟

Tôi nói, ba đạo lí lớn của kinh Viên Giác vô cùng quan trọng, cá nhân tôi phân tích nó như sau:

  1. Tam ma tha: cũng tức là "chỉ" pháp, dừng mọi niệm, đạt đến vô niệm, nhập vào con đường niết bàn.
  2. Tam ma bát để: cũng tức là "quán" pháp, quán như mộng, quán như huyễn, chứng minh các tịnh hành cũng là huyễn hóa.
  3. Thiền na: dựa vào pháp tư duy, không lựa chọn tướng tĩnh hay huyễn hóa, mà cần chứng đắc thực tướng trung đạo.

Nói bài kệ: "Gọi là tam ma tha, tam ma bát để, thiền na. Ba pháp tu đốn - tiệm Có hai mươi lăm loại Thập phương các Như Lai Người tu hành ba đời Ai cũng nhờ pháp này Mà đắc được bồ đề."

🌟

Thánh đệ tử nên chú ý đến: Chân Phật Tông lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo, mục đích chính của nó là niết bàn, thế nào là vô niệm? Vô niệm là nhờ cái gì? Chính là mục đích sâu sắc của đệ nhất nghĩa đế.

Pháp thực tu của Chân Phật Tông trọng điểm nằm ở: Tu mộng quán. Tu huyễn quán. Tu thành công mộng quán, huyễn quán cũng tức là thanh tịnh, chân như, cũng giống như đã hiểu được đệ nhất nghĩa đế.

Đạo trung quán của Chân Phật Tông chính là chỉ - quán song vận, cái gọi là xuất thế nhập thế, cái gọi là phiền não bồ đề, cái gọi là luân hồi niết bàn, cái gọi là bờ này bờ kia. Từ đó chứng đắc thực tướng trung đạo. Ba pháp tu này nói là một loại cũng được, hợp lại thành một, phân ra thì thành ba, chồng chéo lên nhau.

Tôi nói tôi đã khai ngộ, khai ngộ này tức là đã hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế là trình độ cao nhất của ba loại tu hành này. Cá nhân tôi tôn sùng kinh Viên Giác, bởi vì nó là liễu nghĩa, bộ kinh điển này rất vĩ đại, từ lâu nó đã chỉ ra đệ nhất nghĩa đế, hành giả nên lĩnh hội được ý chủ yếu này.

23. Nói về pháp song thân của Tạng mật

Có người hỏi: "Pháp song thân của Mật giáo, nghe nói rất nhiều sách tiếng Anh đều công khai thảo luận, trái lại, vì sao người phương Đông rất kị húy? Sự hiểu lầm của người bình thường nằm ở đâu? Cuốn "Mật giáo thâm sâu" hay cuốn "Tính không trong đại lạc" mà ngài viết có phải là đã giải thích hết toàn bộ không?" Tôi đáp: "Pháp song thân của Mật tông Tây Tạng có nguồn gốc từ Phật giáo Mật tông của Ấn Độ, sau này truyền đến phương Tây, vì thế, rất nhiều sách tiếng Anh đặc biệt có hứng thú đối với pháp song thân, sách xuất bản công khai về đề tài này phổ biến rộng khắp. Pháp song thân của Tạng mật này ở phương Tây đã không còn là bí mật gì nữa."

Tôi lại nói: "Người phương Đông đối với pháp song thân tương đối khá bảo thủ, đây cũng là do tập tính của người phương Đông, người phương Đông vẫn luôn luôn tránh không nhắc đến "giới tính", giống như khi chúng ta còn đi học, học đến chương cuối cùng về "vệ sinh sinh lí", giáo viên sẽ không dạy nữa, bảo tự về nhà đọc, chỉ như vậy mà thôi." Tôi nói tiếp: "Sự hiểu lầm của người bình thường nằm ở việc con người từ đầu tới cuối vẫn luôn cấm kị về "tính dục", không chỉ như vậy, hễ nói đến là cho rằng là bẩn thỉu, là ô uế, là tà dâm, thậm chí coi là tội ác, thật tội nghiệp. Người bình thường đã hiểu sai như vậy, và người tu hành thì lại càng tránh như tránh rắn bọ cạp, cho rằng ngay cả nghĩ đến cũng là phạm vào trọng tội không thể nào tha thứ được. Giết, cướp, dâm, vọng, rượu, thì dâm là đứng đầu trong vạn tội ác, người bình thường sao có thể không hiểu sai chứ?"

Tôi nói: "Tôi viết cuốn "Mật giáo thâm sâu" hay cuốn "Tính không trong đại lạc" là để giải thích rõ rằng pháp song thân không hề sai, nhưng, vẫn chỉ là nghiên cứu thảo luận trên lí thuyết, còn đối với bộ phận thực tu thì vẫn chưa được nêu ra đầy đủ. Về phần thực tu thì phải thỉnh giáo một vị kim cương thượng sư chân chính. Thật ra sách của tôi mới chỉ nói đến một phần chứ không phải là toàn bộ. Tôi vẫn nhấn mạnh, pháp song tu buộc phải tu luyện như pháp, phải có thứ tự, như vậy mới không có sai lầm. Còn như những phê bình đến từ ngoại giới thì cũng khó tránh, ngoại giới từ lâu đã có thành kiến với pháp song thân, từ xưa đến nay đều như vậy rồi. Không chỉ là người bình thường, ngay cả hành giả tu hành cũng đặc biệt có rất nhiều dị nghị. Muốn nhanh chóng thay đổi quan niệm của con người, căn bản là không thể nào."

Tôi nghiêm túc giải thích rõ: Về Tạng mật, tôi chỉ viết sách, giải thích pháp song thân cũng chỉ là một phần nội dung. Tôi không đồng ý người xuất gia đi tu pháp này. Người tại gia, người có vợ có thể tu. Người tại gia, chưa có vợ cũng không được tu bậy. Cứ tùy tiện một nam một nữ tu với nhau thì căn bản là sẽ sai lầm. (Tôi nói rõ, nhất định phải hợp với pháp thì mới có thể tu.)

Trên phương diện thứ tự của Mật pháp: Nam hành giả đã tu chứng vô lậu, hơn nữa còn phải hiểu thấu tính Không, và nhận được quán đảnh Vô thượng mật từ kim cương thượng sư. Nữ hành giả đã tu chứng bảo bình khí, hơn nữa còn phải hiểu thấu tính Không, và nhận được quán đảnh Không Hành Mẫu từ kim cương thượng sư. Điều kiện của nam nữ hành giả phải tương đương nhau. Có thể thấy điều kiện của hai đối tượng này đã rất hà khắc rồi, tôi có thể to gan nói rằng, trên đời này, nam nữ hành giả có thể phù hợp với điều kiện này đã chẳng có nhiều nữa.

Vì thế: Pháp song thân rất khó. (Điều kiện nam nữ không tương đương.) Pháp song thân khó tu chứng. Phần nghi quỹ thực tu ở đây cũng có kĩ thuật không hề dễ, rất dễ phạm sai lầm, hễ phạm sai lầm thì vạn kiếp cũng không hồi phục được.

🌟

Tôi thấy người ngoại giới phê phán pháp song thân, quả thật là vô tri đến cực điểm. Tôi cười lớn ha ha ha. Tôi thấy bộ phận người tu hành hiểu biết nửa vời nông cạn, mượn việc tu hành pháp song thân để mà "lừa sắc", trên thực tế đó căn bản là dâm loạn, cái sự loạn cào cào như vậy đã bôi nhọ cái danh của Mật giáo. Tôi cười vang ha ha ha.

24. Cơ hội phụ họa thơ

Trên tạp chí Nhiên Đăng số 187, tôi đã viết bốn bài kệ, những bài kệ này có thiền cơ, lấy áo cà sa (nạp y) làm chân như. Tại đây, tôi đặc biệt ghi ra như sau:

Kệ viết rằng: "Mặc áo cà sa trèo lên núi Cao tựa tháp tầng xuyên qua mây Vào nơi rừng rậm không người ở Mới nhận ra mình là cô tăng."

Và: "Mặc nạp y quản gì mưa nắng Người đến đi đâu phải là tình Vui buồn li hợp tùy ta nghĩ Tăng nhân không khóc vững bước đi."

Và: "Khoác áo cà sa cũng xuất du Trung niên đến nay thêm tuổi tác May mắn thấy được đại thiên giới Cánh cửa chuyên nhất chẳng ưu sầu."

Và: "Khoác áo cà sa chợt nhận ra Xưa kia hóa ra là hiền đức Nay người chê ta là ác ma Nào biết tâm ta thật an nhàn."

Bốn bài kệ này sau khi được xuất bản, có Thượng sư Liên Hàn vào Tết xuân năm 2009 đã gửi đến ba bài kệ để phụ họa, bài kệ như sau:

"Nạp y vàng Thánh tôn độc giữ Chẳng ai hay mình ta tự thưởng Quán đảnh xong Phật pháp tối cao Chợt nhận ra người người đều khoác."

Và: "Người ta có áo chẳng tự biết Vất vả tranh nhau chấp huyễn mê Thánh hiền xưa nay đều cô độc Lòng không rơi lệ chỉ vương sầu."

Và: "Buồn vui đâu có sầu đâu có Phàm Thánh cũng không áo cũng không Hỏi ở nhân gian làm chuyện gì Vô tác vô ngữ cũng vô vi."

🌟

Bài kệ phụ họa mà Thượng sư Liên Hàn viết, tôi giải thích như sau: Bài thứ nhất: mỗi người đều có sẵn Phật tính chân như. Bài thứ hai: đau buồn cho thế nhân không nhận thức được Phật tính chân như của mình. Bài thứ ba: người khai ngộ thật sự đã trải nghiệm hiểu rõ minh tâm.

Bài kệ phụ họa mà Thượng sư Liên Hàn viết rất hay, khiến người ta tán thưởng, rất có tầm mắt, nếu thực tiễn được như bài kệ thứ ba thì có thể càng viên mãn hơn. Tại nhân gian, không làm, không nói, vô vi. Chính là vô niệm, vô ngã, thanh tịnh. Còn như tùy duyên, tùy hỉ, tùy phần, cũng xem như là một cách đối ứng, thật ra cũng là: Vô tác. (thân thanh tịnh) Vô ngữ. (khẩu thanh tịnh) Vô vi. (ý thanh tịnh)

Nhân đây tôi lại viết bài kệ, mong các thánh đệ tử cùng phụ họa, mọi người thêm chút niềm vui, được chứ?

"Người mặc áo tăng như cửa một cánh Dinh thự lều cỏ cũng chẳng khác nhau Bên trong ao nhỏ cá lớn vẫn nhảy Sao biết thập phương tùy ý bay đi."

Và: "Người mặc áo tăng nghe nhạc vui Chạy đông chạy tây đều nói tốt Vạn sự phù du vốn vô sự Mây trắng nước trôi cùng quyến luyến."

25. Được được được được được

Có người hỏi: "Lư Sư Tôn đối với hành chính, tài chính, nhân sự của các chùa, đường, hội của Chân Phật Tông hoàn toàn không can dự, đúng vậy không?" Tôi nói: "Đúng vậy." "Vì sao?" Tôi đáp: "Can dự hay không can dự cũng như nhau." "Sao có thể như nhau chứ?" Tôi cười lớn ba tiếng.

🌟

Có người đã cuỗm luôn một ngôi chùa Lôi Tạng Tự của Chân Phật Tông đi mất, một miệng ăn hết sạch sành sanh, không chừa lại dù một sợi lông. Tôi nói: "Được!"

Có người đã cuỗm luôn Phật đường XX của Chân Phật Tông, toàn bộ quy về sở hữu tư nhân, toàn bộ đều thuộc tài sản dưới tên của người đó. Tôi nói: "Được!"

Có người đã cuỗm luôn hội XX của Chân Phật Tông, kể từ đó không còn tham gia đồng tu nữa, hoàn toàn biệt tăm biệt tích, không biết đi đâu. Tôi nói: "Được!"

Có người đã quản lí mọi khoản tiền cúng dường của Lư Sư Tôn, từ đó hoàn toàn biến thành tiền của chính mình. Tôi nói: "Được!"

Có người đã điều khiển XX đường không tu Chân Phật Mật Pháp, đổi thành tu pháp của tông phái khác, rồi vênh váo tự đắc. Tôi nói: "Được!"

Có người rút khỏi Chân Phật Tông. Tôi nói: "Được!"

Có người không tu Chân Phật Mật Pháp. Tôi nói: "Được!"

Có người không chỉ như vậy, còn phỉ báng Lư Sư Tôn, thậm chí phê phán Lư Sư Tôn. Mặt ngoài cung kính, sau lưng mưu đồ. Tôi nói: "Được!"

Có người sau khi quy y Chân Phật Tông thì lại lập phái riêng, cắm lên ngọn cờ của riêng mình, đặt một cái tên khác. Tôi nói: "Được!"

Có người lừa gạt tôi. Tôi nói: "Được!"

Có người sỉ nhục tôi, chửi tôi, đánh tôi, tổn thương tôi, phụ tôi, ghét tôi, kiện tôi, tố cáo tôi, lừa tôi…. Tôi nói: "Được!"

Có người nói thẳng vào mặt tôi rằng, tôi không còn là đệ tử của ông nữa, thế rồi nhổ một bãi nước bọt, quay mình bỏ đi. Tôi nói: "Được!"

Có người mượn tiền tôi, từ đó không biết đi đâu. Không chỉ như thế còn nói ngược lại là tôi mượn tiền người đó, dối trá liên miên. Tôi nói: "Được!" ...

🌟

Người ta hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, thầy làm sao vậy?" Tôi đáp: "Được được được được được." "Sao thầy không kiện?" "Cả đời tôi chưa bao giờ kiện ai." - Tôi đáp. "Thầy có oán không?" "Không oán không hận. Hoan hỉ bằng lòng." "Lư Sư Tôn, sao thầy có thể cái gì cũng có thể nhịn được?" "Minh tâm kiến tính." - Tôi đáp. "Minh tâm kiến tính là thế nào?" "Chẳng thể có được cái gì, cũng chẳng mất đi cái gì. Nhân gian này, không được không mất, tôi chưa thấy có người nào được, cũng chưa thấy có người nào mất." Ha ha ha! Chỉ là có quá nhiều sản phẩm của thai lừa bụng ngựa. Tôi chỉ còn biết cười lớn ba tiếng mà thôi!

26. Tôi không tán thành tội tử hình

Hiện nay, các nước trên thế giới, có nước thực thi án tử hình, có nước đã xóa bỏ án tử hình, tuy vẫn còn nhiều tranh cãi giữa hai hành động này. Phía thực thi án tử hình cho rằng có một loại người tội ác tày trời, người phạm tội ác cùng cực nếu không tử hình thì không thể khiến lòng người phục.

Ví dụ ngũ nghịch tội: Giết cha. (tội nặng hạng hai) Giết mẹ. (tội nặng hạng hai) Giết A La Hán. (tội nặng hạng hai) Làm thân Phật chảy máu. (tội nặng hạng hai) Phá hòa hợp tăng. (tội nặng hạng nhất)

Những tội này đều khiến người ta sục sôi phẫn nộ, không thể chấp nhận được. Theo Phật pháp mà nói, phá hòa hợp tăng là tội nặng nhất, bởi vì khiến người ta rời xa Tam Bảo, chỉ cần khiến người ta rời xa Tam Bảo thì vĩnh viễn nhập vào ác thú, không có ngày thoát ra. Phá hòa hợp tăng nhìn bề ngoài thì nhẹ hơn nghiệp giết, nhưng theo Phật pháp mà nói thì tội này còn nặng hơn nghiệp giết. Là vì sao?

Đáp án là: "Giết tâm linh của con người. Giết tính linh của con người. Giết Phật tính của con người." Vì thế, kêu người ta vứt bỏ Chân Phật, tức là tương đương với giết Phật tính của con người, tội ấy không đội trời chung. Là ác nhất trong số các loại ác.

Lại lấy ví dụ: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân hận, tà kiến. Đây là mười điều ác.

Có người hiếp dâm sau đó giết người, nhiều lần phạm tội, thật sự khiến người ta căm phẫn, lại có người vừa cướp vừa giết vừa hiếp, khiến người ta phẫn nộ khinh bỉ, người phạm tội ác tày trời sao có thể không tử hình chứ?

Tuy vậy, theo tôi được biết, nếu bị phán tội tử hình, ví dụ bị xử bắn, bị treo cổ, bị ngồi trên ghế điện, v.v… Thì người chết vào lúc sắp bị tử hình, trong lòng chất chứa oán hận. Khi nhập vào thân trung ấm (linh hồn).

  1. Ý có oán.
  2. Duyên có oán.
  3. Sinh có oán.
  4. Uẩn có oán.
  5. Chủng có oán. (Oán này cũng tức là lòng sân hận.) Tái chuyển thế thành người càng gia tăng tâm sân, trở thành người không biết hổ thẹn, tương lai càng làm những việc ác hơn.

Tôi cho rằng: Chẳng thà phạt tù chung thân. Trong thời gian này giáo dục cảm hóa, gột rửa tâm hồn, đợi cái chết tự nhiên. Vì thế, việc hoằng pháp nơi nhà tù có tính cần thiết, không thể xem thường.

Tử hình cố nhiên có thể khiến người ta hả lòng hả dạ, thế nhân như loại bỏ được gánh nặng. Nhưng thân trung ấm mang oan khí nặng hơn, tương lai tái sinh thành người, sẽ vẫn là người gây tội đại ác, không thể không thận trọng!

Còn nữa: Tôi cảm thấy lấy con người để phán xử tội chết của con người, có lẽ là không đúng lắm. Cá nhân tôi cho rằng, trong cõi hồng trần này, Thánh hiền chỉ có thiểu số, bình thường đều là phàm phu tục tử.

Phàm phu tục tử đi phán xử tử hình phàm phu tục tử, có kẻ đương nhiên là đáng chết, và chết thì cũng đáng lắm, xử họ tội chết thật ra cũng không phải là quá đáng. Nhưng vẫn có người bị oan uổng, tự nhiên bị mất đi mạng sống một cách vô ích, từ xưa đến nay, bao nhiêu án oan, hài cốt như núi, oan khí sao mà không cao ngút trời.

Giống như: Văn Thiên Tường. Nhạc Phi. Viên Sùng Hoán. Bao nhiêu oan hồn, hồn ma kêu ai oán.

Tôi cho rằng: Người không thể phán xử tội chết cho người. Lấy nhân duyên quả báo của Phật pháp để nói thì tội phạm đã có chỗ ở nơi Diễm Ma Pháp Vương (Diêm Vương), tự tâm đã có tam ác đạo hiện tiền, phán quyết không phải nằm ở con người, mà là ở tự tâm mình. Như vậy mới là đúng lẽ.

27. Tôi không tán thành phá thai

Tin tức ở New Zealand: Có một người đàn ông lái xe đi qua một cây cầu treo lớn, đột ngột dừng lại, trên tay bế một em bé gái bốn tuổi, từ trên cầu cao ném em bé xuống, ném vào dòng nước sâu chảy ra biển. Có nhiều người lái xe đã nhìn thấy sự việc này. Nhân viên cứu hộ đã vội vàng chạy đến, cứu được bé gái lên, rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu bằng trực thăng. Thật đáng thương, em bé đã chết. Theo báo cáo, người đàn ông này và người vợ đã li hôn tranh giành quyền nuôi con, khả năng là do nhất thời tức khí nên đã giết đứa con gái bốn tuổi. Người đàn ông này bị buộc tội giết người. Tôi đọc xong, niệm một tiếng Nam mô A Di Đà Phật! Thở dài một tiếng! Các vụ ngược đã trẻ em đâu đâu cũng có, lúc nào cũng có thể nghe được những chuyện giết hại trẻ nhỏ, đau xót thay!

🌟

Còn chuyện nạo phá thai lại càng phổ biến hơn, có pháp luật của một số địa phương tán thành nạo phá thai là hợp pháp. Luật pháp một số nơi khác thì cấm phá thai. Cả hai cũng gây ra rất nhiều tranh cãi. Cá nhân tôi cho rằng, chỉ cần thân trung ấm (linh hồn) nhập thai thì đó đã là một sinh mạng, nếu phá thai thì tức là phạm tội giết người. Cho nên, tôi phản đối phá thai. Thậm chí, tôi phản đối sau khi bị xâm hại, phụ nữ có thai, rồi người phụ nữ bị xâm hại này đi phá thai. Vì sao? Bởi vì có thai rồi tức là đã mang trong mình một sinh mạng. Có sinh mạng tức là có Phật tính. Phá thai tương đương với giết Phật.

Rất nhiều người cho rằng bị xâm hại tức là ô uế, đáng hổ thẹn, vì bị xâm hại mà có thai cũng là một cảm giác tội lỗi. Nhưng thai nhi thì có tội gì? Cái sinh mạng này cũng có Phật tính, không thể giết được. Phàm là chuyện phá thai thì tôi đều phản đối. Còn nếu bác sĩ kiểm tra thấy: Thai đã chết. Là quái thai. Là thai trứng. Thai dị dạng. Thì tôi không còn gì để nói.

🌟

Tôi nói: Năm xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni nhập vào cái thai trong bụng phu nhân Maya cũng hiện ra đủ loại giáo hóa ở trong thai. Có kinh Bồ Tát Xứ Thai, một bộ kinh truyền đời. (Sao có thể phá thai.)

Còn nữa. Rất nhiều Đại Bồ Tát nhập vào trong thai, cũng không nhất định là luôn luôn ở trong thai, có thể thường xuyên du hành đến Phật quốc tịnh diệu của chư Phật, nhận giáo hóa của Phật. (Sao có thể giết thai Bồ Tát.)

Còn nữa. Một đời người có cái gọi là "thai nội ngũ vị" và "thai ngoại ngũ vị" thai nội ngũ vị cũng là hiện tượng của mạng sống. (Sao có thể phá thai.) Thai ngoại ngũ vị tức là em bé, trẻ em, thiếu niên, trung niên, lão niên.

Còn nữa: Thai có thai cung chi thuyết, thai cung chi trung, không thể nhìn thấy nhật nguyệt, nhưng tự hình thành cung điện thất bảo, cũng có niềm vui, như Đao Lợi Thiên. Bởi vì người nghi ngờ tha lực của Phật mà làm tự lực niệm Phật, sống ở trong thai, gọi là nghi thành thai cung. (Sao có thể phá thai.)

Còn nữa: Trong kinh Bào Thai đã giải thích, nhân duyên nhập thai, và tướng mạo trưởng thành, mọi hiện tượng con người ở trong thai, đều là hiện tượng của sinh mạng. Lúc ấu thơ tôi ở trong thai đã biết tương lai của mình, từ lâu đã cười lớn ba tiếng ha ha ha!

28. Trong lòng tôi có bạn

Có một lần, tôi được đài truyền hình phỏng vấn, hỏi: "Lư Sư Tôn, nghe nói ngài đối với đệ tử thường hay nói rằng trong lòng tôi có bạn, đúng không?" Tôi nghe xong, hiểu rằng trong lời này còn có ám chỉ gián tiếp. Tôi đáp: "Đây là khi đệ tử hỏi tôi, tôi mới trả lời. Ví dụ đệ tử hỏi, trong lòng Sư Tôn có con không? Đương nhiên tôi trả lời là có, sao tôi có thể trả lời là không chứ. Nếu Sư Tôn trả lời là không thì há chẳng phải là sẽ làm tổn thương trái tim của đối phương sao." Phóng viên hỏi: "Bất luận là đệ tử, nam, nữ, ngài đều trả lời như vậy sao?" Tôi đáp: "Đúng vậy."

Phóng viên hỏi: "Lư Sư Tôn, ngài trả lời như vậy thì sẽ bị các đệ tử nữ hiểu lầm đó, đệ tử nữ hễ nghe thấy ngài nói trong lòng ngài có họ thì chẳng phải sẽ dẫn đến suy nghĩ không đúng sao?" Tôi đáp: "Chắc là không đâu, tôi đã là ông già 60 tuổi rồi, lại còn có Sư Mẫu Liên Hương Thượng Sư nữa, về tình về lí đều không thể nào có suy nghĩ như vậy được, tôi nghĩ là như vậy."

Phóng viên hỏi: "Con người hiện đại khác rồi, đối với sư phụ vì kính yêu trở thành ái mộ, điều này rất thường có, đệ tử của ngài liệu có vì thế mà hiểu lầm cái ý ban đầu của ngài không?" Tôi nói: "Trong lòng Lư Sư Tôn tôi đối với tất cả chúng sinh là bình đẳng, cho nên, trong lòng tôi có chúng sinh, đương nhiên, trong lòng tôi có mỗi một người đệ tử. Tôi không khinh thường chúng sinh, cũng không khinh thường mỗi người đệ tử, khi các đệ tử hỏi tôi, trong lòng tôi có họ hay không, tôi đều trả lời là có. Bởi vì trong lòng tôi thật sự là có các đệ tử."

Phóng viên hỏi: "Nếu có đệ tử hiểu lầm thì phải làm sao?" Tôi đáp: "Thì đem chương sách này đưa cho họ đọc!" Phóng viên và tôi cười lớn ha ha!

🌟

Đối thoại của tình nhân: "Trong lòng anh có em Trong lòng em có anh Đem hai người phá bỏ Rồi nặn lại từ đầu Bên trong em có anh Bên trong anh có em." Ôi, đây là bài tình ca của những người trẻ tuổi.

Những điều này từ lâu đã là quá khứ rồi, Lư Sư Tôn giờ đây đã 60 tuổi, tục ngữ nói, tuổi này thì quan tài đã đẽo được hơn một nửa người rồi, từ lâu đã chẳng còn những tình cảm bay bổng như vậy. Kể từ khi tôi xuất gia, do đại hòa thượng Quả Hiền chính thức cạo đầu, gia đình thế tục chỉ còn là trên danh nghĩa thôi, và lại càng vì minh tâm kiến tính nên từ lâu tôi đã coi chốn hồng trần như mộng như huyễn như trò chơi rồi. Trong lòng có chúng sinh, đúng. Trong lòng có đệ tử, đúng. Trong lòng có bạn, đúng. Bạn ở đây là bạn, tôi, họ, bình đẳng và bình đẳng, thật sự không có quan hệ tình cảm đặc biệt nào, mà là sự yêu thương phổ đồng tất cả, đó là đại bồ đề tâm, thấy chúng sinh như chính mình. Tuyệt đối dứt khoát đừng hiểu lầm!

Tôi cảm thấy trong lòng tôi có bạn là đạo lí bình thường, tức là trong lòng tôi có chúng sinh. Tôi mong chúng sinh thường theo Phật học tập. Tôi là một đại thiện tri thức, thường dạy chúng sinh "thường lạc ngã tịnh". Tôi là người thường nhớ đến chúng sinh, trong những lúc đi đứng nằm ngồi, tôi không ngừng nhớ đến chúng sinh, thường nghĩ các cảnh giới nam nữ đều do nhân duyên sinh, quán tự tính là không, và từ đó diệt trừ dục tình. Các đệ tử nên nghĩ giống như tôi, diệt hết dục tình, biết những thứ có thể yêu rốt cục cũng là vô tướng. Đây cũng tức là chính niệm.

29. Sự thay đổi của Thôi Đài Tinh

Có một năm, tại lễ hội đèn lồng ở chùa Long Sơn tại Đài Bắc, trên đèn lồng có viết một câu "đố đèn". Chủ đề là: "Cái mông của Thôi Đài Tinh." (Câu đố này quả nhiên thu hút sự chú ý của người ta.) Bánh oản tôm khô! Đáp án của câu đố đèn là để nhắm vào tên của một nhà văn. Câu trả lời là: "Quỳnh Dao." Quỳnh Dao có ý nghĩa gì? Quỳnh Dao tức là "dao động cùng tận" [ND: chơi chữ từ đồng âm khác nghĩa], lắc liên tục không ngừng! Ha ha ha!

Nhiều năm sau. Truyền thông báo chí đăng một tấm ảnh mới nhất của Thôi Đài Tinh, là do thợ săn ảnh chụp lén. Mặt cô tròn như cái bánh pizza. Thân thể giống như quả bóng. Cái mông thì khỏi phải nói, giống như quả bí ngô. Choa! Sao lại có thể biến thành như vậy? Thật đáng sợ ! Thật đáng sợ! (Nghe nói, bản thân Thôi Đài Tinh vì muốn giảm béo mà chăm chỉ luyện môn múa bụng, quả nhiên có gầy đi một chút, nhưng một thời gian sau lại béo trở lại, cô tự cười vào bản thân mình rằng mình là người "tốt bụng".)

Nói thẳng thắn, vào thập kỉ đó của chúng ta, tên tuổi Thôi Đài Tinh lẫy lừng. Giọng hát khỏe khoắn, vũ điệu nóng bỏng, trang điểm lộng lẫy của Thôi Đài Tinh, vóc dáng và khuôn mặt xinh đẹp của cô thật sự khiến công chúng đảo điên. Đó là một người đẹp. Thế mà nay. Biến thành như một "bà thím hàng xóm". Ô hô thương thay! Đúng là hình tượng sụp đổ!

Từ Lôi Đài Tinh liên tưởng đến bản thân Lư Thắng Ngạn tôi. Nhớ khi tôi còn thanh niên, tôi đi dạo trên phố ở Đài Trung, đi qua những câu lạc bộ đêm ăn chơi trác táng, những tên "cò vẫy khách" thường chặn đường và nói với tôi: "Cậu thiếu niên! Vào đây ngồi!" Tiếng gọi "cậu thiếu niên" ấy còn văng vẳng bên tai. Rất quen thuộc, rất thân thiết. Tương tự, cũng có người gọi tôi thế này: "Cái tẩu nhỏ! Vào đây ngồi!" (Cái tẩu là tiếng Đài, có nghĩa là đẹp trai và phong độ.) Nghe thế, rất sướng!

Cũng nhiều năm qua đi, có một lần tôi trở về Đài Loan, tôi vào một cửa hàng mua quần áo, sau khi mua xong, nhân viên cửa hàng ân cần nói: "Bác à! Lần sau dắt theo cháu bác đến đây mua nữa nhé!" Tôi sững người ra. "Ông bác, đem cháu đến." Trước mắt tôi bỗng tối sầm, đầy u ám. Lúc này, tôi mới hiểu bài hát mà đệ tử Vương Lạc Tân hát: "Chú chim nhỏ tuổi thanh xuân của tôi, đi mất rồi chẳng quay về nữa!" Thôi Đài Tinh khác rồi! Lư Thắng Ngạn khác rồi!

🌟

Nói theo Phật pháp thì đây chính là vô thường, tất cả mọi thứ trên đời trôi theo sinh diệt, một sát-na cũng không dừng lại, đó chính là vô thường. Từng sát-na đều đang trong sự biến hóa. Thân thể con người cũng vậy, là thân vô thường, suy nghĩ liên miên, giống như điện quang đá lửa vậy. Chưa từng có một thân người nào mà không bị vô thường nuốt gọn. Bất kì người nào cũng như vậy. Trí Độ Luận viết: "Rõ là! Thế gian vô thường, như trăng trong nước như cỏ thơm, cho dù công đức đầy tam giới, ngọn gió vô thường cũng làm hỏng cả." Tôi cảm thấy bản thân như gió. Gió không biết đến đâu, gió không biết đi đâu, đến đi chẳng có chút dụng ý. Ha ha ha!

30. Dựa vào một kẻ điên

Từ lúc tôi còn trẻ bắt đầu học Phật cho đến ngày hôm nay, thật sự có không ít người nói tôi đã phát điên rồi, kẻ điên già mà mãi chưa chết là tôi đây không ngờ còn có năm triệu đệ tử đi theo tôi, tôi không biết liệu họ có phải là cũng bị điên rồi không? Tôi thấy Thần thấy quỷ. Người ta nói tôi bị điên. Tôi nói có linh hồn (trung ấm). Người ta nói tôi bị điên. Tôi bái Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh làm thầy. Người ta nói tôi bị điên.

Tôi nói tôi và Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê với nhau. Người ta nói tôi bị điên. Tôi lên trời, tôi xuống địa ngục. Người ta nói tôi bị điên. Tôi viết sách, rồi muốn đốt sách đi. Người ta nói tôi bị điên.

Tôi cởi sạch quần áo, chạy quanh Lôi Tạng Tự ba vòng. Người ta nói tôi bị điên. Tôi muốn lấy 108 cô gái làm vợ. Người ta nói tôi bị điên. Thượng sư Liên Hương bảo: "Thôi! Ông đừng có lúc nào cũng nói những lời điên khùng nữa!" Tôi cười vang ha ha ha!

🌟

Tôi thẳng thắn nói rằng, tôi đã minh tâm, tôi đã kiến tính. Tôi là Liên Hoa Đồng Tử, tôi là Liên Sinh Hoạt Phật, tôi là Hoa Quang Tự Tại Phật, tôi là vua của các vị Phật Vương. Tôi có thể tiến vào kim cương tọa của Phật Thích Ca Mâu Ni, "tinh quang thân" [ND: thân ánh sao] của tôi có thể đi vào tử cung của phụ nữ. Tôi bảo Mặt Trời, hãy dịch ra xa Trái Đất một chút, để trái đất không bị nóng lên. Tôi bảo động đất dừng, nó liền dừng. Tôi bảo lũ lụt rút đi, nó liền rút. Tôi bảo hỏa hoạn dập tắt, nó liền tắt. Tôi bảo cơn bão chuyển hướng, nó liền chuyển hướng. Tôi thu về hung thần thần chết. Tôi thu về ngũ lộ ôn thần. Tôi ở âm phủ làm pháp hội siêu độ, ở âm gian cứu người cứu đời. V.v… Rất nhiều người nói: "Lần này Lư Sư Tôn bị điên nặng hơn rồi. Đồ điên! Đồ điên! Đồ điên! Khùng! Khùng! Khùng!

🌟

Điều tôi muốn nói với mọi người là, năm xưa lão tổ sư của phái Bạch giáo Tạng mật là Đại Sư Tilopa khi đồng ý cho ngài Naropa quy y, Tilopa bị con người thời ấy gọi là kẻ điên. Gọi là "Tilo điên". Nhưng Naropa có con mắt tinh đời, đã nhìn ra Tilopa là đại thiện tri thức có đầy đủ phẩm đức. Quy y nương dựa vào một vị thầy điên, cuối cùng cũng đạt được đại thành tựu.

Chính vì như vậy, tôi xin có lời khuyên những người muốn quy y nương dựa vào tôi, hãy tỉ mỉ quan sát Lư Sư Tôn, một năm cũng được, ba năm cũng được, năm năm cũng được, mười năm cũng được, mười hai năm cũng được. Phải nhìn cho thật rõ Lư Sư Tôn, xem xem tôi có tri thức gì? Tôi có công đức gì?

Đến một ngày nương dựa vào kẻ điên này, đã xác định Căn bản Thượng sư này là người có đầy đủ phẩm đức, thì hãy chăm chỉ học tập Phật pháp, đừng lãng phí thời gian cuộc đời quý báu. Tuyệt đối đừng phỉ báng, để tránh phạm giới samaya!

Vị thầy điên là tôi đây, điên điên khùng khùng, làm đệ tử của tôi cũng không nên phỉ báng. Năm xưa Liễu Minh Hòa Thượng nói: "Con chỉ có ba con đường có thể đi, một là lập tức niết bàn rời xa nhân gian, hai là kể từ bây giờ ẩn cư trong núi, không ra ngoài nữa. Con đường cuối cùng là làm kẻ điên." Kết quả là, tôi đã lựa chọn làm một kẻ điên. Ha ha ha!

31. Một gói trà

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài có quan điểm đặc biệt về tiền bạc không?" Tôi đáp: "Bắt đầu nói từ một gói trà vậy!"

Có một năm. Quán đảnh Acharya của Chân Phật Tông, quán đảnh này tức là quán đảnh Kim cương Thượng sư, vô cùng tôn quý. Năm xưa, khi tôi nhận quán đảnh Acharya, tôi đã đem toàn bộ tiền của mình cúng dường cho Thượng sư của tôi. Nhưng đổi lại, khi tôi quán đảnh cho người ta, tôi chưa bao giờ mở miệng ra thương lượng giá cả với họ, có nghĩa là tôi để họ tùy duyên cúng dường. Quán đảnh kết thúc. Có một vị mới nhậm chức Kim cương Thượng sư dâng lên một cái túi màu đỏ, bên trong chỉ có một gói trà. Ý của tôi khi viết "chỉ có một gói trà" nghĩa là muốn nói, không phải là một hộp có một tá mười hai gói, mà là chỉ có một gói trà túi lọc để pha một tách trà mà thôi, chính là như vậy. Tôi vui vẻ tiếp nhận. Đây chính là quan điểm về tiền của Lư Sư Tôn tôi.

🌟

Từng có một năm. Tôi xem phong thủy hộ người ta, ngay cả việc xem phong thủy địa lí tôi cũng không thương lượng giá cả. Sẽ không mở miệng đòi tiền người ta. Đối phương cũng là một gia đình nghèo khó, tôi bắt đầu từ lúc tìm đất cho đến khi kết thúc "tiến kim" [ND: tiến kim là đặt tro cốt vào mộ và xây mộ]. Thời gian mà tôi tiêu tốn công phu và tinh thần thật sự không có cách nào dùng tiền để đo lường được. Cuối cùng, đối phương đưa cho tôi 50 Đài tệ, khoảng hơn một đô la Mĩ. Tôi vẫn vui vẻ tiếp nhận.

Vì sao tôi không tính toán, bởi vì Liễu Minh Hòa Thượng nhắc nhở tôi: "Không được mở miệng đòi tiền của người ta!" Tôi tuân thủ giới luật này, không dám làm trái với lời giáo huấn lớn lao của sư phụ tôi. Cuộc đời này của tôi trở thành Căn bản Thượng sư của Chân Phật Tông, một đời tuân thủ giáo huấn của sư phụ, không dám quên. An Thái Tuế. Đốt đèn quang minh. Tụng kinh. Lễ sám. Hộ Ma (hỏa cúng). Cầu phúc, siêu độ, thuyết pháp, quán đảnh, v.v… Chưa bao giờ tôi quy định giá tiền, tất cả tùy ý, đây chính là sự thật hết sức chân thật về Lư Thắng Ngạn (Lư Sư Tôn). Điều này tuyệt đối hoàn toàn khác các chùa miếu khác. Người khác mở miệng ra là tiền, ngậm miệng lại cũng là tiền, chỉ có Lư Sư Tôn như như bất động.

🌟

Tôi ăn, có chùa cúng trai. Đệ tử cúng dường. Tôi mặc, một bộ đồ Lama. Đệ tử cúng dường. Tôi ở, tùy duyên thôi! Đệ tử cúng dường. Tôi đi, tùy duyên thôi! Đệ tử cúng dường.

Việc bán hàng từ thiện của Chân Phật Tông liên tục cho đến năm nay tôi 65 tuổi, tôi chưa bao giờ bán hàng từ thiện vì bản thân mình. Bán hàng từ thiện toàn bộ đều xung công, bán hàng từ thiện là để chi cho các chi phí cụ thể, ngay cả việc bán hàng từ thiện cũng không miễn cưỡng. Tôi thấy rất nhiều doanh nhân lớn, nổi lên trong số những người giàu nhất thế giới. Họ giàu có và oai phong lẫy lừng. Thế nhưng, tiền của họ là ở nhân gian, tiền của tôi là ở trên trời. Bản thân tôi cho rằng, trong thiên hạ này, người giàu có nhất là Lư Sư Tôn, bởi vì tôi minh tâm kiến tính, chẳng có ai giàu có hơn được con người này đâu. Muốn so giá trị, "Ma ha bát nhã ba la mật đa" của tôi căn bản là vô giá, đệ nhất thiên hạ. Ha ha ha!

32. Hai bài thơ "vô sắc y" và những bài khác

Liên Hoa Kính An, bút danh là Cá Gỗ Nhỏ, gửi đến một lá thư cùng với hai bài kệ. Trước tiên, tôi đăng nội dung như sau: "Gửi Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật từ đài cao soi xét: Đọc lại Ngũ Đăng Hội Nguyên mục thứ sáu "Đối thoại của cái bóng cô độc", càng nhận ra các thiền sư trong sách rất uyên thâm Phật lí. Cũng rất cảm kích Sư Phật đã theo sát bên cạnh phân tích tỉ mỉ tinh tế, hướng dẫn đệ tử ngộ ra được thiền lí, hơn nữa còn cổ vũ chúng con cùng tham khảo công án Thiền tông, tấm lòng của từ phụ hiển lộ hoàn toàn. Vì thế, ngu đệ tử trình lên một vài tâm đắc sau khi đọc, cũng thử trả lời câu hỏi của Sư Phật, nếu ngôn từ chưa thể diễn đạt được ý, thỉnh cầu Sư Phật từ bi thông cảm và dạy dỗ, bao dung những lời nói mê của kẻ đang ngủ mơ này. Chỉ vì sau khi đệ tử quy y, vẫn luôn đi theo Sư Phật một lòng tu hành, đời này cũng như thế, kết mộng tại giường không! Kính chúc Phật an! Liên Hoa Kính An chắp tay trăm lạy.

Tái bút: trên tạp chí Nhiên Đăng kì 187, đọc được bốn bài kệ "nhiễm sắc y" của Sư Phật, đệ tử nhất thời phúc chí tâm linh [ND: phúc đến thì lòng cũng sáng ra], nên cũng viết hai bài kệ "vô sắc y" dâng cúng Phật, để Lư Sư Phật vui vẻ một chút, chúc mừng năm mới!

Bài thứ nhất: Chẳng mặc nạp y tâm cũng nhàn Vô ý trồng hoa hoa rực rỡ Đến như vạn ngựa chạy đồng hoang Đi tựa nước chảy vượt nghìn núi.

Bài thứ hai: Thân không nhiễm sắc nhập thế tu Người đến người đi như qua đò Muôn kiểu biến hóa như sương sớm Không bám chân trời được vô biên."

Sau đó, Liên Hoa Kính An lại gửi đến một bài thơ tên là "Duyên hòn đá", có ý nghĩa sâu sắc, xin đăng như sau: "Đại thiên thế giới, hòn đá thê lương. Ô trọc ngất trời, nước lũ cuồn cuồn. Danh lợi cám dỗ, lục đạo nổi trôi. Lừa gạt cưỡng đoạt, nghiệp theo chẳng rời. Trải qua nghìn kiếp, bỗng nhiên quay đầu. Được huyễn mất huyễn, được không cầu không.

Chân Phật Mật Pháp, độ con thuyền pháp. Đạo Hiển Mật Thiền, viên dung cùng tu. Hoa sen trong bùn, vô sự vô cầu. Đốn xuất tam giới, chớ hỏi nguyên do. Trở về chân thật, tự nhiên vô ưu. Không chạm đôi bờ, đến được đầu nguồn.

Thầy độ lúc mê, ngộ rồi tự tu. Chúng sinh cảnh giác, tĩnh quán bẩn nhơ. Định kiến chấp tướng, kẹt trong khuôn mẫu. Tĩnh lặng nghĩ suy, niệm niệm chẳng lưu. Tâm vô quái ngại, ánh trăng nghìn sông. Vui vẻ bằng lòng, hòn đá an trụ."

🌟

Đọc xong hai bài kệ và bài thơ "Duyên hòn đá", tôi cảm thấy kệ và thơ đều rất hay, đã thể hiện được dụng tâm của tác giả, đọc xong trong lòng thấy hoan hỉ, tôi cũng đặc biệt phụ họa bằng một bài thơ như sau:

"Nhìn hết dòng chảy thấy đầu nguồn. Ngựa phi phải xem lúc nào ngưng. Hoa dại ngắm xong cũng đành chịu. Dù thấu không thấu chẳng ngừng tu. Thân người chẳng quá mấy xuân thu. Hạt rơi xuống đất ai đến nhặt. Vì lời thề nguyện nhặt một vài. Chỉ mong hồ sen mãi thắm xanh."

33. Bài kệ của pháp sư Thánh Nghiêm

Ngày mồng 1 tháng 2 năm 2009, người sáng lập Pháp Cổ Sơn - pháp sư Thánh Nghiêm, đã viên tịch rồi. Thượng sư Liên Khiết đưa cho tôi bài kệ lâm chung của pháp sư Thánh Nghiêm: "Vô sự bận tới già. Trong không có khóc cười. Vốn dĩ chẳng có ta. Sinh tử đều bỏ được." Tôi đọc xong, cười vang ha ha ha. Bài kệ này, người học thiền chỉ liếc một cái là đủ nhìn thấu, chả có cái quái gì cả!

Tôi phân tích cho mọi người nghe: Bài kệ này là một bài kệ mâu thuẫn toàn là mâu và thuẫn. Cũng tức là sao chép của người xưa. Ví dụ: "Dòng chảy dưới cầu không chảy." (bài kệ mâu thuẫn) "Lùi bước tức tiến lên." (bài kệ mâu thuẫn)

"Vô sự" và "bận tới già" của Thánh Nghiêm là một câu mâu thuẫn. "Trong không" và "khóc cười" là một câu mâu thuẫn. "Vô ngã" (chẳng có ta) và "sinh tử" là một câu mâu thuẫn. Bài kệ này, nói đơn giản là, cái trước nói về "không", cái sau nói về "có", bắt chước theo bài kệ của cổ nhân, vì thế tôi cười, lão thiền sư này trong bụng chẳng có cái gì để mà đưa ra. Bài kệ này sau khi được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông thì được coi là rất "hot", hay quá! Tuyệt hay! Mọi người đều bảo hay, minh tâm kiến tính rồi, tuyệt đỉnh! Còn người minh nhãn là tôi đọc xong thì: "Bắt chước thôi!" (Phỏng theo ý thức của cổ nhân.)

🌟

Nghe nói, pháp sư Thánh Nghiêm trước khi viên tịch, thân mắc nhiều bệnh tật, phải nằm trong bệnh viện Bắc Đại cắm ống truyền. Trước lúc lâm chung không thể nói chuyện hoặc nói thều thào, được vội vàng đưa về Pháp Cổ Sơn, nửa đường thì đã viên tịch. Nếu là như vậy thì bài kệ này đã được chuẩn bị từ lâu rồi, không phải là bài kệ nói lúc lâm chung. Nó được viết vào năm 2004. Bài kệ này từ sớm đã được viết vào lúc bình thường, sự đối câu vẫn cẩn thận, cũng có pháp vị, chỉ thiếu là chưa thoát ra khỏi cái kiểu cách cũ của cổ nhân mà thôi. Chưa đạt đến trình độ siêu phàm. "Vô sự", "vô ngã", "không" là "không". "Bận già", "khóc cười", "sinh tử" là "có". Lấy "không-có" để biểu thị "thiền".

Giống như: "Núi sâu vắng bóng người. Chỉ nghe tiếng ai vang. Nắng rọi vào rừng thẳm. Chiếu sáng đám rêu xanh." [ND: bài thơ Trại hươu của Vương Duy.]

Tôi vẫn luôn ngưỡng mộ một câu nói của lão hòa thượng Quảng Khâm: "Chẳng đến, chẳng đi, chẳng hề gì!" Tôi ngưỡng mộ một câu nói của Thượng sư của tôi - Thượng sư Thubten Dorjie: "Thanh tịnh!"

Hai câu nói của hai vị tiền nhân này ý bao hàm quá rộng, nói tóm lại, nói tổng lại, là ý nghĩa vô cùng vô tận, đây đúng là: "Đến đi buồn vui lòng muôn dặm. Từ đoạn đường này lắm trầm luân. Lời sao nói hết Không môn yếu Thuấn ở Thương Ngô mãi đến nay."

[ND: Bài thơ của nhà thơ Lí Thiệp đời Đường.]

Tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tương lai sau khi chết đi, sau khi đi đời nhà ma, hai mắt nhắm lại, hai chân duỗi thẳng, tôi chẳng còn thời gian để mà học vẻ nho nhã của tiền nhân là để lại một bài thơ, để lại một bài kệ, để mà chỉ dạy cho các thánh đệ tử đời sau. Xem ra tôi chỉ có: "Cười vang ba tiếng ha ha ha!" Hoạc chỉ để lại một chữ: "Sướng!"

34. Cái gương và hòn đá

Ngày 17 tháng 5 năm 2008, địa điểm là ở Hammerstein Ballroom, Manhattan Center, New York Mĩ. Đại Bảo Pháp Vương thứ 17 Ogyan Chinla Dorje tại đây đã diễn giảng, chủ đề diễn giảng là: "Đánh thức tâm minh giác." Đại Bảo Pháp Vương nói: "Làm thế nào chúng ta có thể duy trì sự bình an và ổn định nội tại khi đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách?" Đại Bảo Pháp Vương so sánh: "Điều này giống như đặt một vật nặng trước gương, và gương có thể phản chiếu rõ ràng hình ảnh của vật nặng này (hòn đá), nhưng gương sẽ không chịu sức nặng của vật nặng, và gương sẽ không bị nghiền nát." Đại Bảo Pháp Vương nói: "Trạng thái bên trong của chúng ta cũng nên giống như tấm gương trong phép ẩn dụ, có thể phản ánh rõ ràng mọi sự việc xảy ra, nhưng sẽ không bị chúng lấn át mà vẫn có thể duy trì được sự an bình và ổn định."

Từ so sánh của Đại Bảo Pháp Vương thứ 17, chúng ta có thể liên tưởng đến một so sánh khác: "Đầm xưa bóng nhạn." Có con chim nhạn bay qua một cái đầm cũ, nước hồ phẳng lặng, phản chiếu dáng dấp của chim nhạn bay qua, đến khi chim nhạn bay qua rồi, nước hồ vẫn là nước hồ như ban đầu, căn bản không có một chút gì hình bóng chim nhạn bay qua. Nước hồ là nước hồ. Chim nhạn là chim nhạn. Nước hồ vĩnh viễn như như bất động. Đại Bảo Pháp Vương so sánh cái gương và hòn đá không có gì khác với đầm xưa chim nhạn.

Tuy nhiên, nếu tôi có được cơ duyên này, tôi sẽ đích thân hỏi Đại Bảo Pháp Vương thứ 17 Ogyan Chinla Dorje rằng: "Nếu hòn đá bay đến, đâm trúng vào cái gương, mặt gương bị vỡ, hoặc bị nứt, hoặc cái gương sụp đổ luôn, thì phải làm sao?" Có người hỏi tôi: "Vì sao Lư Sư Tôn luôn luôn có thể khoan dung trước những xúc phạm của đệ tử? Hoặc những lừa gạt của đệ tử?" Phương pháp mà Lư Sư Tôn tôi dùng không phải là: "Cái gương và hòn đá." Cũng không phải là: "Đầm xưa và chim nhạn." Mà tôi dùng: Huyễn hóa, huyễn hóa, huyễn hóa, huyễn hóa, huyễn hóa. Chúng sinh là Phật, Phật là chúng sinh. Vốn không có bạn và tôi, làm gì có xúc phạm?

Và: Phật là huyễn hóa, chúng sinh huyễn hóa. Huyễn hóa huyễn hóa, làm gì có lừa gạt? Cũng có nghĩa là: Cái gương cũng chẳng phải là gương, toàn là những vật huyễn hóa. Hòn đá cũng chẳng phải là hòn đá, toàn là những vật huyễn hóa. Dùng huyễn đánh huyễn. Như như bất động thôi!

Tại đây, Lư Sư Tôn cũng làm một so sánh. Ví dụ có một buổi tối, tôi nằm mơ, mơ thấy có một đệ tử cầm dao đâm mấy nhát lên người tôi, tôi đau tới mức kêu lên oai oái! Lại mơ thấy có một đệ tử, lừa gạt tài sản của tôi, và mạo danh tôi đi khắp nơi lừa tài sản của người ta, lừa nhà cửa, lừa xe cộ, lừa nhân sâm nghìn năm, lừa tín chúng, tôi đau lòng tột bậc! Thế nhưng, đó là tôi mơ thôi, khi tôi tỉnh lại thì tự cười một mình, thì ra đều là một giấc mơ. Một giấc mơ lớn mà thôi! Tôi thường nghĩ như vậy, do đó, tâm tôi vĩnh viễn như như bất động, vốn dĩ chính là mơ, làm gì có đệ tử xúc phạm, làm gì có đệ tử lừa gạt?

35. Vĩnh viễn không hiểu chân tướng

Sư tỉ Từ Nhã Kì nói với tôi: "Từ trước đến giờ, thầy thường bị các đoàn thể Phật giáo bài trừ đả kích, thầy vẫn luôn như như bất động. Nhưng mà đệ tử đều khóc sướt mướt, chúng con phải làm sao để thế nhân hiểu rõ chân tướng đây?" Tôi nói: "Mãi mãi họ sẽ không hiểu được chân tướng đâu." "Vì sao?" Tôi nói: "Thế nhân có hai đặc tính, một là mù quáng, hai là chóng quên. Cho nên thế nhân vĩnh viễn không hiểu được chân tướng."

Tôi nói tiếp: "Trong giới Phật giáo, gần đây có hai đại hòa thượng đã viên tịch, một vị chính là lão hòa thượng Diệu Liên, vị kia là pháp sư Thánh Nghiêm. Trong huệ nhãn của tôi, quả vị chứng đắc của lão hòa thượng Diệu Liên cao hơn pháp sư Thánh Nghiêm nhiều lần. Đáng tiếc là thế nhân mù quáng, lão hòa thượng Diệu Liên viên tịch thì chẳng ai biết đến, thế còn pháp sư Thánh Nghiêm viên tịch thì náo động chính phủ và dân chúng." (Bỏ lỡ một vị đại Pháp Vương, tâng bốc một vị tiểu Pháp Vương.) Tôi cười lớn ha ha ha. "Đây chính là chân tướng ư?"

Tôi lại nói: "Đời này tôi tu hành, tôi có thể nói không chút hổ thẹn rằng, tôi đã đắc vô thượng chính đẳng chính giác, đó là nội chứng của tôi. Nhưng trong con mắt thế nhân, tôi là đại Thiên Ma, phụ Phật ngoại đạo, tà giáo, tên lừa đảo, thậm chí là con quỷ hám sắc, tôi bằng lòng chấp nhận đắng cay. Vì sao? Bởi vì tôi biết thế nhân mù quáng, thế nhân chóng quên. Bậc trí giả hoặc đại thiện tri thức trên thế gian này là có, nhưng rốt cục cũng là thiểu số, đại bộ phận con người chỉ nhìn bề ngoài, không thấy biết chân tướng!" "Ai có thể biết chân tướng?" Tôi nói: "Người có Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, thiên nhãn." "Thế nhân thì sao?" "Chúng sinh chỉ có mắt thịt, cho nên vĩnh viễn không hiểu được chân tướng."

🌟

Chúng sinh thế nhân không hiểu Liên Hoa Đồng Tử tôi vốn là biến hóa thị hiện của A Di Đà Phật. Cho nên trong miệng thì họ niệm: "Nam mô A Di Đà Phật!". Nhưng, Lại phỉ báng A Di Đà Phật chân chính là tôi đây. Nực cười ghê! Chúng sinh nhục nhãn phàm thai, thật đáng thương! Tôi vốn là một người biến hóa, người biến hóa từ Phật, trong đời này chỉ có một mục đích, hóa tất cả chúng sinh đều đi vào Phật đạo. Người biến hóa là tôi đây biến hóa ra tịnh thổ và uế thổ, cái chúng ta gọi là Phật quốc tịnh thổ và Ta Bà uế thổ, chúng sinh dựa vào quả báo của chính mình mà hoặc sinh về tịnh thổ, hoặc sinh về uế thổ. Vì thế trong cuộc đời này, chúng sinh mà tôi đã độ hóa mấy trăm vạn cũng chỉ tương đương với một hạt cát mà thôi, và chúng sinh có thể cứu độ là vô hạn, do đó, đại từ bi tâm của tôi vĩnh viễn bất tận, và thề nguyện lực hóa ích chúng sinh cũng trở nên vô cùng vô tận.

Mọi người cần hiểu: Tôi hóa Phật. Tôi hóa hiện. Tôi hóa cảnh. Tôi hóa giáo.

Tôi là tam luân hóa tôn:

  1. Thần biến luân.
  2. Kí tâm luân.
  3. Giáo giới luân.

Thần biến là thân, kí tâm là ý, giáo giới là khẩu. Tôi hóa duyên.

Vì tôi đã chứng đắc minh tâm kiến tính, chứng đắc vô thượng chính đẳng chính giác, ngũ nhãn lục thông cụ túc. Cho nên bài trừ cũng được, công kích cũng được, phỉ báng cũng được, người biết cũng được, người không biết cũng được, không ai biết đến cũng được, sôi nổi náo nhiệt cũng được, tỉnh cũng được, mơ cũng được, sống cũng được, chết cũng được, tôi đã đạt đến cảnh giới cái gì cũng đều được đều tốt cả. Tôi hỏi mọi người, thế nào là bài trừ? Thế nào là công kích? Thế nào là phỉ báng? Thế nào là sinh? Thế nào là tử? Tôi không biết, không biết, không biết, không biết, không biết. Tôi vô giác, vô giác, vô giác, vô giác, vô giác, vô giác. Tôi cười ngốc, cười ngốc, cười ngốc, cười ngốc, cười ngốc. Tôi là Pháp Vương điên.

36. Đến âm gian lấy trứng

Một đệ tử của tôi có bố qua đời, bố của đệ tử này là một vị Trung tướng, một tướng quân cấp cao. Vì đệ tử khẩn khoản van nài tôi cứu bố anh, tôi khởi tâm từ bi nên đã đồng ý. Bố của đệ tử này cũng quy y tôi, cũng đã nhận đại quán đảnh Thời Luân Kim Cang, nhưng chẳng bao giờ tu pháp. Tôi thần hành đến âm gian. Phát hiện thấy linh hồn của Trung tướng này đã bị nhốt trong vỏ trứng, đã hình thành nên một quả trứng gà rồi. (Noãn sinh.) Đồng thời tôi phát hiện, bên cạnh quả trứng gà "Trung tướng", trong mỗi một cái hộp đều để mười quả trứng gà. (Đều là noãn sinh.) Trứng gà để trong từng hộp, tương tự như trong siêu thị bày từng hộp một tá trứng. Thiên nhãn của tôi phát hiện thấy trứng gà của một hộp họ không ngờ đều là đệ tử của Chân Phật Tông. Tôi không nén nổi nỗi kinh hãi!

Thế là, tôi bất chấp tất cả, hai tay tôi cầm hộp trứng này lên, bay lên trên, cứ thế bay, bay đến tây phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, đặt mỗi quả trứng vào trong nhụy hoa của mỗi đóa hoa sen, chờ đến lúc hoa sen hóa sinh, hoa nở thấy Phật. Đệ tử Chân Phật Tông chỉ cần là hoa sen hóa sinh là sẽ nhìn thấy ngay A Di Đà Phật Như Lai. Tại tây phương Cực Lạc thế giới nhận giáo hóa, vĩnh viễn không thối chuyển! Tại tây phương Cực Lạc thế giới niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tinh tấn tu trì cho đến ngày thành Phật. Tôi có pháp lực như vậy. Tôi thật sự đã đến âm gian lấy trứng.

🌟

Khi tôi kể ra quá trình tôi vào âm gian lấy trứng này, có một người đồng môn họ Vương hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, làm pháp như vậy có phải là phá hoại luật nhân quả không?" Điều ngờ vực mà đồng môn Vương nêu ra, tôi giải thích như sau: Có cái gọi là nhân có khả năng sinh ra thì quả sẽ sinh ra. Có nhân tất có quả, có quả tất có nhân. Phật giáo nói đạo lí thiện ác báo ứng thông suốt ba đời, thậm chí nhiều đời. Cái gọi là: Chiêu quả vị nhân, khắc hoạch vị quả. Sự thật về nhân quả biểu hiện ra rõ ràng dễ hiểu. Và: Muốn biết nhân quá khứ, chính là quả hiện tại, muốn biết quả tương lai, nhìn vào nhân hiện tại. Còn nữa: Báo ứng thiện ác, như bóng theo hình, nhân quả ba đời, tuần hoàn không mất, đời này sống uổng, hối hận chẳng kịp. Đạo lí nhân quả này rất rõ ràng.

Tuy nhiên: Những đệ tử Chân Phật Tông này mặc dù quy y, nhưng chưa thực tu Chân Phật Mật Pháp, dựa theo nhân quả báo ứng, vì ngu si vô minh nên nhập vào noãn sinh của tứ sinh, sau đó sẽ đi vào đạo súc sinh. (Một trong tam ác đạo.) Mặc dù là đệ tử Chân Phật, chưa bao giờ tu pháp, theo nhân quả nghiệp luật, vô minh chưa thoát, đương nhiên cái ngu si rất nặng. Chắc chắn sẽ vào đạo súc sinh.

Thế nhưng, họ đã có duyên quy y, đã nhận được quán đảnh quy y, trong tương lai cũng đã trồng xuống chủng tử thành Phật. Trung tướng kia đã nhận được đại quán đảnh Thời Luân Kim Cang, công đức của quán đảnh ấy có ba lợi ích lớn: Thứ nhất, phàm là người nhận được quán đảnh pháp Thời Luân Kim Cang, và kiên định tín tâm, không tu pháp cũng có thể trong bảy kiếp thành Phật. Thứ hai, phàm ai nghe được pháp Thời Luân Kim Cang, thường xuyên niệm chú của ngài, có thể tránh được đủ loại tai nạn, bao gồm hỏa hoạn, lũ lụt, gió bão, bệnh tật, chiến tranh, bệnh hiểm nghèo, bệnh truyền nhiễm, bệnh không chữa trị được. Thứ ba, phàm ai nghe được pháp Thời Luân Kim Cang, đã nhận quán đảnh, nếu không phạm trọng tội, ngũ nghịch tội, đều có thể có được thân người và vãng sinh đến Phật quốc Shambhala, chỉ cần được quán đảnh thì sẽ không đọa lạc vào tam ác đạo. Theo nhân duyên quy y quán đảnh này, tôi đã không che giấu nhân quả.

37. Phật Đà bị tạc hình tượng

Có phóng viên hỏi: "Rất nhiều người không thể chấp nhận chuyện ngài và Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê với nhau, vì sao vậy?" Tôi hỏi ngược lại: "Thế Phật Đà có miệng không?" "Có." "Phật Đà có ăn cơm không?" "Có chứ!" Tôi nói: "Thế nên Phật Đà uống cà phê là chuyện bình thường thôi."

Tôi giải thích rằng: "Thế nhân tạc hình tượng Phật Đà là một bức tượng điêu khắc thần thánh, ngồi dưới gốc cây bồ đề, hai chân cong xuống, ngồi tư thế kiết già, luôn trong trạng thái minh tưởng, vĩnh viễn không đứng dậy. Dần dà lâu ngày, thế nhân liền cho rằng Ngài không cần ăn cơm, không cần đi ngủ, không cần "P P" , không cần hoạt động đời sống thường ngày." [ND: PP ở đây nói theo ngôn ngữ tiếng Anh, tức là "pee pee" - đi vệ sinh.] Tôi nói: "Phật Đà bình thường vẫn phải rửa mặt, đánh răng, làm "việc số một", làm "việc số hai", mặc quần áo, cầm bình bát, ăn cơm, uống nước… Điều duy nhất Ngài khác với con người là Ngài đã chứng đắc vô thượng chính đẳng chính giác." Phóng viên hỏi: "Vấn đề là Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập niết bàn 2600 năm trước rồi, Phật Đà từ lâu đã thành cổ nhân, thành người thiên cổ rất lâu rồi. Còn Lư Sư Tôn là người thời nay sinh ra 2600 năm sau khi Phật Đà niết bàn. Một người là cổ nhân, một người là người đương đại, cách nhau 2600 năm, sao có thể cùng uống cà phê với nhau chứ?"

Tôi hỏi ngược lại: "Phật giáo có câu nói rằng "thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương" đúng không?" "Đúng." "Tam tế nhất như, đúng không?" "Đúng." Tôi nói: "Rất tốt, tam tế chính là quá khứ, hiện tại, vị lai, ba cái này nào có thể nối liền với nhau. Sau khi Lư Sư Tôn tôi minh tâm kiến tính, cũng có thể tam tế nhất như, Phật Đà cũng tam tế nhất như, cho nên Phật Đà và Lư Sư Tôn có thể ở trong tam tế nhất như cùng nhau uống cà phê." Phóng viên hỏi: "Chẳng phải Phật Đà đã chết rồi sao?" Tôi đáp: "Tín đồ Phật giáo đều biết Phật Đà đang thuyết pháp ở cõi trời cao nhất là Sắc giới thiên. Tín đồ Phật giáo đều biết A Di Đà Phật ở tây phương Cực Lạc thế giới, đang ở tây phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp, ai dám bảo những vị Cổ Phật này đều đã chết chứ?" "Vấn đề là uống cà phê ấy?" (Vẫn là vẫn đề cũ.)

Tôi đáp: "Phật Thích Ca Mâu Ni dùng một trong trăm nghìn tỉ hóa thân của Ngài hạ giáng đến thế giới Ta Bà, còn tôi nhờ vào xuất nguyên thần mà gặp gỡ Phật Đà giáng xuống, chúng tôi cùng uống cà phê, chỉ như vậy mà thôi." "Chuyện này…" Tôi nói: "Đây chính là tam muội."

Tôi giải thích như sau: Có một lần, Phật Thích Ca Mâu Ni và các đệ tử đang đi bộ trên đường, Phật Đà chỉ vào một mảnh đất và nói, mảnh đất này rất tốt, nên xây chùa ở đây (chùa Phật). Lúc này, Đế Thích Thiên lấy một ngọn cỏ cắm lên mảnh đất này nói, chùa đã xây xong rồi đó. Phật Thích Ca Mâu Ni gật đầu mỉm cười. Tôi nói để mọi người biết: Một ngọn cỏ và chùa Phật (tự viện) hoặc tượng vàng cao sáu trượng, là như một chứ không phải như hai. Tôi nói với mọi người: Một li cà phê và mưa pháp cam lộ, hoặc thiên hà thắng cảnh, là như một không phải như hai. Lư Sư Tôn tôi là một người biết dùng pháp môn, đó là cánh cửa đi vào Phật địa, pháp vị này, pháp giới nhất vị này trên thế giới đã rất ít người có thể biết được.

38. Pháp yếu về Quan Âm Tứ Thủ

Ngày 14 tháng 2 năm 2009 (thứ bảy), Seattle Lôi Tạng Tự ở Mĩ cử hành pháp hội cầu phúc xuân mới. Chúng tôi tu Tứ Thủ Quan Âm niệm tụng pháp, vì thế trong chương sách ngắn này, tôi sẽ nói một chút về pháp yếu của Quan Âm Tứ Thủ. Mỗi một pháp đều phải làm: Đại lễ bái. Đại cúng dường. Tứ quy y. Bia giáp hộ thân. Phát tứ vô lượng tâm. Phát bồ đề tâm. Chữ

image

Trong không trung xuất hiện hoa sen. Trên hoa sen, chữ

image

Biến thành nguyệt luân. Trên nguyệt luân chữ

image

Xuất hiện một vị Tứ Thủ Quan Âm một đầu bốn cánh tay.

Quán tưởng Tứ Thủ Quan Âm - (Tay kết thủ ấn Quan Âm.) Thân màu trắng. Đầu đội bảo quán, thân khoác thiên y, bên dưới mặc váy lụa, ngồi tư thế kim cương kiết già trên tòa hoa sen, xung quanh tỏa vầng ánh sáng màu cầu vồng. Hai cánh tay phía trước chắp lại, ở giữa có ngọc mani. Hai cánh tay phía sau, tay phải cầm chuỗi hạt thủy tinh, tay trái cầm hoa sen trắng. Tứ Thủ Quan Âm đầy đủ mọi trang sức trân quý. Tiếp theo, quán tưởng chữ Om

image

Tại đỉnh đầu. Chữ Ah

image

Tại họng. Chữ Hum

image

Tại ngực phóng quang, chiếu đến hành giả, tự tâm hành giả thanh tịnh. Sau khi hành giả tụng "Tứ minh chú" (Cha - Hum - Ban - Ho) thì hợp thể với Tứ Thủ Quan Âm thành một. (Hành giả tức là Tứ Thủ Quan Âm.) Hành giả từ chữ Hum ở tâm mình phóng quang, triệu thỉnh Ngũ Phương Phật, các vị Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên giáng lâm xung quanh mình. (Quán đảnh gia trì cho các thiện tín.) Trì chú: Om mani padme hum. (108 biến hoặc 1080 biến)

Chú này phóng quang, có nhiều lợi ích:

  1. Nhổ sạch mọi khổ ách của thiện tín.
  2. Bao trùm lên thiện tín ánh sáng cát tường.
  3. Gia tăng phúc phần. Gia tăng trí huệ.
  4. Kiến văn giác tri, người người thành Phật.

Nhập tam muội địa. Nhập định.

Xuất định tụng tán: "Kính lễ Tứ Thủ Quan Thế Âm. Búi tóc trang nghiêm Di Đà Phật. Thuần tịnh vô cấu đại tịnh quang. Phổ chiếu hết thảy lợi quần sinh." Tụng bách tự minh chú. Hồi hướng. Đại lễ bái. Rời khỏi đàn thành.

🌟

Tứ Thủ Quan Âm và chú Tứ Thủ Quan Âm này ở vùng Tây Tạng không ai là không biết, không ai không hiểu. Tứ Thủ Quan Âm Bồ Tát không khác gì Thần Bảo Hộ của Tây Tạng, thậm chí những Hoạt Phật tối cao đều là hóa thân của Tứ Thủ Quan Âm. Những người dân Tây Tạng đều niệm "om mani padme hum", lục tự đại minh chân ngôn. Những tháp xếp bằng đá ở vùng Tây Tạng đều có chữ Tạng "om mani padme hum". Phật giáo Hán truyền thì niệm Nam mô A Di Đà Phật. Phật giáo Tạng truyền thì niệm Om mani padme hum. Cả hai chiếu rọi rực rỡ lẫn nhau. Cá nhân tôi cảm thấy, quán tưởng trong Mật giáo là quan trọng số một, vị nào có nhiều cánh tay và pháp khí thì cực kì phức tạp. Nhưng Tứ Thủ Quan Âm tương đối dễ quán tưởng. Quán tưởng của chúng ta càng tinh vi, tinh thần càng có thể chuyên nhất, hễ chuyên nhất thì tự nhiên sẽ sản sinh ra pháp lực. Nhập tam muội địa tức là nhập vào tam muội địa của Quan Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát này tâm từ bi là vĩ đại số một. Tu tập pháp này, lấy tâm từ bi tương ứng.

39. Biện luận về "Om mani padme hum"

Từng có một chuyên gia Phật học trình bày những kiến giải của mình về lục tự đại minh chân ngôn như sau: Om - trạng thái bản sơ vô thượng. Mani - tức mani bảo, mani bảo này chính là trân bảo như ý, tượng trưng cho bộ phận sinh dục của đàn ông, giống như gậy như ý của Trung Quốc, đều hàm ý ẩn dụ về nam tính. Padme - tức là hoa sen, hoa sen này chính là tượng trưng cho bộ phận sinh dục của phụ nữ. Nụ hoa giống như tử cung, vừa hé nở thì giống như trinh nữ, hoa sen nở to thì chính là "padme". Hum - chính là khi "mani" cắm vào phía trên của "padme", hai cái kết hợp với nhau, ở trong một trạng thái hoàn toàn sung sướng, từ đó sinh ra vạn dân thiên hạ, cũng vì thế mà sinh ra chủng tử của vạn Phật, thành tựu một dạng sức mạnh và cảnh giới đẹp đẽ. Chuyên gia Phật học này trình bày xong như vậy đã làm giới Phật giáo xôn xao, họ khiêu chiến và tranh luận lẫn nhau.

Theo cách nói của phái tính lực Ấn Độ thì: Vạn sự vạn vật thế gian đều là một âm một dương, chỉ có âm dương kết hợp mới có thể đạt đến sự hoàn mĩ. Nhật nguyệt, thiên địa, phụ mẫu, sơn thủy, đều là như thế. Lỗ khóa và chìa khóa. Bát và đũa. Ốc vít và cái mở vít. Tóm lại, thiên hạ vạn vật đều được mô tả thành hai vật âm dương.

Chuyên gia Phật học thậm chí còn nói, một người thành đạo có thiên nhãn đều nhìn thấy trong hư không, vô số Không Hành Dũng Phụ ôm lấy Không Hành Mẫu, từng đôi từng cặp, đang làm cái "chuyện ấy", hơn nữa tư thế đều khác nhau, tại không trung vui vẻ giao hợp.

Chuyên gia Phật học nói: Điện là âm dương. Quang là âm dương. Thời gian là âm dương. Con người là âm dương. Chuyên gia Phật học nói, chỉ khi âm và dương ở trạng thái hoàn hảo nhất mới là thành tựu. "Om mani padme hum" chính là như vậy.

🌟

Ngoài ra còn có người của một phái khác chú thích "Om mani padme hum" tương đối có hình ảnh hơn. Om - ý thức viên mãn chí thượng vô thượng. Mani - là mani bảo, là món qua tràn đầy từ bi và thuận tiện cho nhân gian, có thể ban cho tài phúc và mọi việc cát tường, sức mạnh gia trì không gặp tai ách. Padme - là hoa sen, nhưng tượng trưng cho trí huệ bát nhã cao nhất, duy có trí huệ mới có thể đạt đến bỉ ngạn, padme là đại trí huệ, là Phật huệ. Hum - phương tiện và trí huệ kết hợp với nhau, từ bi và trí huệ kết hợp với nhau, mới có thể độ chúng sinh, hai cái không thể tách rời, đây chính là thành tựu siddhi của bi-trí song vận mà Phật giáo nói đến.

Nói rõ rằng: Bản sơ của vũ trụ, viên mãn vô thượng, là vì sự gia trì từ bi phương tiện, khiến chúng sinh đạt được sức mạnh đại trí huệ, sự kết hợp từ bi và trí huệ này độ hóa chúng sinh đạt đến bỉ ngạn. "Om mani padme hum" chính là như vậy. Sự tranh luận lẫn nhau giữa đôi bên này đều là vì cái này, một bên giải thích là cảnh giới hoàn mĩ của tính giao, một bên giải thích là sự kết hợp lẫn nhau giữa từ bi và trí huệ, cảnh giới Bồ Tát không thể phân tách. Tôi nói: Người trước là "dụng". Người sau là "thể". Thánh đệ tử nghĩ thế nào?

40. Hoàng đế trong mơ

Có người hỏi: "Lư Sư Tôn, nghe nói trong đời quá khứ, ngài từng làm một vị hoàng đế, phải không?" Tôi cười rạng rỡ và nói: "Thôi chuyện này không nói!" Người đó nói: "Lư Sư Tôn có chuyện gì không thể nói sao?" Tôi đáp: "Đời quá khứ của con người thì thiên kì bách quái, cho dù làm hoàng đế thì cũng là có khả năng thôi." "Ngài khẳng định ngài đã từng làm hoàng đế?" "Khẳng định." - Tôi đáp. "Triều đại nào? Ở thành Lạc Dương sao? Hay thành Trường An? Hay thành Bắc Kinh?" Tôi càng cười sảng khoái hơn. Tôi nói: "Câu đố này tôi để cho các thánh đệ tử của tôi giải vậy! Bởi vì năm triệu đệ tử của tôi trong kiếp này rất nhiều người là con dân trong kiếp quá khứ của tôi đó!" Người hỏi ngơ ngác.

🌟

Tôi có một đệ tử sống ở nước Anh là Liên Hoa Kính An, trong lúc ngơ ngẩn, anh có một đoạn kí ức như thế này, bây giờ xin công bố thư của anh gửi đến như sau để làm một ấn chứng.

"Sư Phật tôn quý từ trên cao soi xét: Trong cuộc sống an bình tại nước Anh, bình thường khi con làm việc, thường thu thập đá làm thú vui. Có một hôm thu thập được một hòn đá kì lạ hình bầu dục, hoa văn trên hòn đá rất đặc biệt, một mặt giống như bản đồ trái đất, mặt kia giống như các vì sao trong hệ mặt trời.

Đệ tử tay cầm viên đá, nhìn ngắm viên đá, bất chợt phảng phất giống như đang nâng cả vũ trụ trời đất, thân tâm đột ngột trút bỏ hết, tự cảm thấy không còn một vật nào cả, chỉ còn lại linh quang ở trong não bay nhảy, du hành xuyên qua đường hầm thời gian trong tích tắc. Đệ tử thấy Sư Phật là hoàng đế của một triều đại, và đệ tử là thị vệ trong đội quân mà hoàng đế Sư Phật mang theo bên mình. (Sư Phật từng ở trong giấc mơ của đệ tử, gọi thẳng đệ tử là Phùng tham quân, mà đến nay đệ tử vẫn chưa biết ngày xưa tham quân là chức vụ gì.) Điều buồn cười là khi ấy không phải là một kinh thành phồn hoa, mà là quân thần đang gặp nạn trốn trong một hang núi, tránh sự truy tích của phản quân. Mặc dù như vậy, hoàng đế Sư Phật ở trong hang núi vẫn mặc long bào, khí phách phong độ vẫn hiên ngang, còn đệ tử thì ở trong hang, trung thành bảo vệ hoàng đế Sư Phật…

Thời gian trôi qua nhanh chóng, chớp mắt đã trăm kiếp trôi qua, lúc này Sư Phật tôn quý đã là một vị tôn sư đời thứ nhất, vân du thập phương, độ hóa chúng sinh, không màng danh lợi. Đệ tử kiếp này dù chưa thể hầu hạ bên cạnh hoàng đế Sư Phật, nhưng trong mắt đệ tử, hoàng đế Sư Phật vẫn có phong thái y nguyên. Đệ tử ở Chân Ngôn Lôi Tạng Tự yên tĩnh tu hành Mật pháp, hộ trì pháp vụ, lặng lẽ hộ trì hoằng dương Chân Phật Mật Pháp. Khi hồi tưởng lại, có chút cảm thán, có chút giác ngộ, cựu thần quân vương ngày xưa tuy rằng thời gian không gian đổi dời, nhưng bình cũ rượu mới, thật sự là tam tế nhất như, chân như cũng như thế, huyễn cảnh cũng như thế, chẳng có sự phân biệt…. Đệ tử Liên Hoa Kính An vái trăm lạy.

🌟

Bây giờ tôi hỏi thánh đệ tử: "Vị hoàng đế Sư Phật là tôi đây rốt cục là vua của triều đại nào, liệu có người nào có thể giải đáp?" Tôi lại hỏi: "Hoàng đế trong mơ, bây giờ ở đâu?"

Viết bài thơ: "Hỏi tôi làm vua thời gian nào Chỉ cười không đáp thật thảnh thơi Năm tháng muôn đời khẽ khàng trôi Nay Đại La Tiên tôi đã chứng."

41. Dâm trùng dâm trùng dâm trùng

Theo một mục tin tức từ Đài Loan, thời điểm là tháng 2 năm 2009, tại một căn phòng trong khu nhà nghỉ, thi thể một cô gái được tìm thấy dưới gầm giường, bị bỏ vào trong túi nhựa đựng xác chết. Cảnh sát đã giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng. Cô gái là nữ sinh một trường kỹ thuật. Nghi phạm là tài xế xe buýt chở học sinh. Trước tiên chúng ta không nói đến vụ án này.

Căn cứ theo điều tra của cảnh sát, trước tiên họ điều tra những người khách đến nhà nghỉ này và thuê căn phòng đó trong vòng một tuần. Sử dụng cùng một cái giường. Tổng cộng có 13 đôi nam nữ. Điều tra báo cáo, lần lượt so sánh đối chiếu. Phát hiện ra 13 cặp nam nữ này không phải là vợ chồng, mà toàn là nam nữ ngoại tình. (Ăn vụng.) Phóng viên đưa tin lúc phát bản tin còn mở to mắt biểu thị rằng: "Hết sức kinh ngạc!" Phóng viên đưa tin nói: "Nếu như công bố danh sách này thì trước tiên sẽ khiến cho 26 gia đình náo động cuộc cách mạng gia đình!"

🌟

Tôi xem xong tin tức, cười lớn ba tiếng ha ha ha. Chúng ta đã thấy, trong một tuần lễ, một căn phòng, 13 cặp đôi. Cái nhà nghỉ này có 50 phòng, tổng cộng là 650 đôi, tổng cộng là 1300 con người. Cả đất nước Đài Loan có bao nhiêu nhà nghỉ và nhà trọ kiểu này. Trời ơi! Sao có thể tính được? Sao có thể như vậy? Vớ vẩn! Tôi nói.

Ở đây có liên quan đến: Sự tiếp diễn của nhân loại. Sự phồn thịnh của nhân loại. Lịch sử của nhân loại. Nếu không như vậy, làm sao có thể có môn "nhân loại học"? Giáo chủ Phật giáo Thích Ca Mâu Ni Phật từ lâu đã nhận ra điểm này, vì thế trong năm giới luật chính, một điều trong đó chính là: "Giới tà dâm". Tính người vốn dâm. Con người vốn dĩ được sinh ra từ dâm. Con người vốn dĩ chính là dâm trùng. Con người chính là từ trùng biến ra. Nam là con trùng nhỏ dài dài. Tinh trùng. Nữ là con trùng nhỏ tròn tròn. Noãn trùng. Hai con trùng kết hợp với nhau, tinh và noãn hợp nhất, rồi sinh ra nhân loại. Điều này phải trải qua sự hợp thể của nam nữ. Sự hợp thể của hai nhục trùng, sau đó là sự hợp thể của tinh và noãn trùng, biến hóa như vậy, hình thành nên nhân loại.

Vì thế, có người hỏi Phật: "Con người là gì?" Phật đáp: "Ổ trùng." (Câu nói "ổ trùng" này một câu nói kinh động lòng người.) Có người nói, nhân tính vốn thiện, có người nói, nhân tính vốn ác, thiện ác này tôi không quan tâm. Nhân tính vốn dâm, điều này là tuyệt đối chính xác, nếu nhân tính không dâm thì làm sao có sự tiếp diễn của nhân loại? Nam có bộ phận đó. Nữ có bộ phận đó. Cái này có gì đáng kị húy, giáo chủ Phật giáo cũng có vợ có con, cũng có không ít phi tần đó thôi! Con người bình thường, bất kể là chính dâm hay bất chính dâm (tà dâm) thì cũng đều là dâm. Pháp song thân của Mật giáo chỉ là biến cái "dâm" thành một phương pháp tu hành. Bởi vì mọi người đều đang "dâm" rồi, sao không đưa thủ ấn, trì chú, quán tưởng vào trong hành động "dâm" này, chuyển hóa thành thanh tịnh. Lấy tham dừng tham, lấy dâm dừng dâm.

42. Tâm yếu về Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát

Ngày 15 tháng 2 năm 2009, tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở Seattle Mĩ, tôi cử hành buổi hỏa cúng Hộ Ma Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát, đồng thời cử hành đại quán đảnh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Dưới đây là tâm yếu về Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Quan Âm Bồ Tát từ lâu đã phụng sự vô số vị Phật. Quan Âm Bồ Tát độ chúng sinh rất nhiều, bất khả tư nghì. Quan Âm Bồ Tát phát lời thề nguyện quảng đại.

Có một hôm. Bồ Tát phát hiện, mặc dù Ngài đã độ vô tận chúng sinh, nhưng chúng sinh không thấy giảm bớt, căn bản là không tăng không giảm. Một người cũng không tăng. Một người cũng không giảm. Bồ Tát tinh tấn nỗ lực như vậy mà chúng sinh không hết, Ngài nhụt chí, dần dần mất đi đạo tâm, rồi buông lơi, vì thế đã phá vỡ lời thề, thế là đầu bị tách ra làm mười mảnh, thân thể vỡ nát thành vô số mảnh vụn. Căn bản Thượng sư của Bồ Tát là A Di Đà Phật mới vội vàng đến, dùng Phật lực để nhập vào tam muội địa của Bồ Tát. Biến hóa ra Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Đầu của A Di Đà Phật cộng thêm mười mảnh đầu của Bồ Tát trở thành 11 cái đầu. Tượng trưng cho đẳng giác 11 địa. Đỉnh cao nhất là A Di Đà Phật. Rồi những mảnh thân thể vỡ vụn lần lượt biến thành nghìn cánh tay, nghìn con mắt, hình thành nên nghìn tay nghìn mắt.

Chú ngữ nổi tiếng nhất của vị Bồ Tát này là: chú Đại Bi. (Ứng nghiệm vô cùng.) Quán tưởng chủng tử chữ Seh.

Biến thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm. Thủ ấn. Chú: chú dài chính là chú Đại Bi. Chú ngắn: "Namo sanmanto utonam wajila dama seh." Tâm chú: "Om wajila dama seh." Điểm ấn vào năm chỗ, tương đương chính là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tu pháp này có rất nhiều ích lợi.

  1. Quảng đại viên mãn.
  2. Vô ngại đại bi.
  3. Cứu khổ cứu nạn.
  4. Kiện khang trường thọ.
  5. Dừng diệt ác thú.
  6. Kéo dài thọ mệnh.
  7. Mãn nguyện chúng sinh.
  8. Tùy tâm tự tại.
  9. Phá trừ ác nghiệp.
  10. Tốc siêu thượng địa.

🌟

Cá nhân tôi cho rằng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm là hợp thể của A Di Đà Phật và Quan Thế Âm Bồ Tát. Cũng giống như Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là: Thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khẩu của A Di Đà Phật. Ý của Quan Thế Âm Bồ Tát. Tam Thánh hợp nhất thể. Tôi Lư Thắng Ngạn Liên Hoa Đồng Tử là hợp thể của Đại Nhật Như Lai, Phật Nhãn Phật Mẫu, A Di Đà Phật.

Còn nữa: Đại Uy Đức Kim Cang là hợp thể của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Diễm Ma Pháp Vương. v.v… Hợp thể và biến thân chính là yếu chỉ của Mật giáo. Đệ tử Chân Phật Tông chúng ta tương ứng với Bổn tôn, chính là cùng Bổn tôn hợp thể. Chỉ cần cùng Bổn tôn hợp thể thì lập tức nhập vào tam muội địa của Bổn tôn, sinh ra tại tịnh thổ của Bổn tôn. "Tham chấp thế gian, một dao chặt đứt, minh tâm kiến tính, tức khắc khai ngộ, giải thoát tất cả, diệu dụng tự như."

43. Quỷ quỷ quỷ quỷ quỷ

Có người nói: "Chuyện rất kì quái là, kể từ sau khi Lư Thắng Ngạn xuất đạo liền bị người ta bài trừ và đả kích, cho đến hôm nay sự công kích vẫn chưa từng gián đoạn, nhưng ông ấy vẫn luôn đứng sừng sững không đổ. Không chỉ như vậy, đệ tử của ông ấy càng ngày càng nhiều, càng ngày càng hưng vượng, thật là kì quặc quái gở, đây có phải là thật sự có quỷ không!"

Có người nói: "Lư Thắng Ngạn có hai vụ tai tiếng tình dục lớn, một người tu hành có tai tiếng tình dục thì cũng giống như chiếc li rơi xuống đất vỡ vụn rồi. Thế mà không chỉ một lần tai tiếng mà còn có tới tận hai lần tai tiếng tình dục. Hai vụ tai tiếng tình dục này lẽ ra phải đẩy lùi tín tâm của các đệ tử rồi chứ, Lư Thắng Ngạn không chết thì cũng phải bị thương rất thê thảm, nhưng đệ tử của ông ấy không ngờ tín tâm không thối lùi, càng kì lạ hơn là đệ tử lại càng ngày càng nhiều, đệ tử nữ càng ngày càng đông, nghe nói, những đệ tử nữ hâm mộ ông ấy không chỉ nhiều mà còn nhiều khủng khiếp nữa!"

Lại có người nói: "Lư Thắng Ngạn làm pháp hội tại Malaysia, có tới 70 nghìn người tham dự, làm pháp hội ở Đài Loan có 50 nghìn người tề tựu, làm pháp hội tại Singapore có 60 nghìn người tham gia, liệu có phải Lư Thắng Ngạn có quỷ không? Rốt cục ông ấy có sức hấp dẫn gì mà có thể thu hút nhiều người như vậy chủ động đến tham gia đại pháp hội của ông ấy chứ? Thật chẳng hiểu ra làm sao."

Lại có người nói: "Có người công kích Lư Thắng Ngạn, chửi Lư Thắng Ngạn tơi tả, những lời lẽ bẩn thỉu nhất đều từ miệng phun ra, thậm chí đem cả bộ phận sinh dục ra để mà chửi. Càng ghê hơn nữa là ngay cả nhất cử nhất động cũng được mô tả sống động một cách hết sức tuyệt vời, khiến người ta chặc lưỡi kinh ngạc, giống như là phim 18+ vậy, phim khiêu gợi sống động. Lần này, Lư Thắng Ngạn chết chắc rồi, bởi vì kiểu phim 18+ này, phim khiêu gợi sống động này ai mà chẳng thích xem, nhất là Lư Thắng Ngạn lại tự nói là tu hành, con người thối nát như vậy thì ai còn có thể tin ông ta được chứ. Thế mà, đúng là có quỷ rồi! Rõ ràng là có càng nhiều phụ nữ ái mộ và tin ông ấy, Lư Thắng Ngạn ra khỏi cửa là tiền hô hậu ủng, càng nhiều đệ tử nữ, có quái lạ không cơ chứ?"

Cá nhân tôi nghe những lời này cũng chẳng nghĩ gì nhiều, chỉ cười vang ba tiếng ha ha ha.

🌟

Tôi lấy một ví dụ nhỏ vậy! Có một vị đại sư tiếng tăm vang dội, tai tiếng tình dục của đại sư trong giới Phật giáo mà nói có thể xem là lớn số một, nhiều số một. Tai tiếng của đại sư lớn lắm. Tai tiếng của tôi nhỏ lắm. Thế mà, đại sư này tai tiếng vừa lớn vừa nhiều, nhưng chẳng hề tổn hại đến uy danh của đại sư. Nếu mọi người còn nhớ thì tạp chí Nam Bắc Cực ở Hongkong nói rằng ông ấy có hai trăm phụ nữ. Bạn nói xem tai tiếng của ông ấy lớn hay không? Thế mà, đại sư vẫn là đại sư, ngồi vững như núi, các đệ tử tốp tốp vây quanh, chẳng giảm bớt một ai. Chuyện gì vậy chứ? Đương nhiên là có quỷ rồi, ha ha ha!

🌟

Còn như tôi! Tôi thừa nhận có hai phụ nữ công kích tôi, thậm chí làm dấy lên tai tiếng tình dục, vậy chân tướng của nó như thế nào? Tôi lười chẳng buồn tranh luận, bởi vì tôi biết tranh luận cũng vô dụng. Thôi kệ! Quên nó đi! Chẳng sao cả! (Bạn muốn tin thì tin, căn bản là tôi không quản.) Thế nhưng bản thân tôi cũng cảm thấy kì quái, cái thứ bị người ta viết là "thối nát" giống như tôi đây, con người mà ngay cả tư cách làm người cũng không có, ấy thế mà đệ tử càng ngày càng đông!

Đệ tử nữ ngưỡng mộ càng nhiều hơn, không thể chịu đựng nổi nữa! Năn nỉ đấy, xin mọi người đừng tin tôi nữa, để cho tôi được thanh thanh tịnh tịnh, được không? Bản thân tôi cũng mơ hồ rồi, đúng là có quỷ, ha ha ha!

44. Mức độ đáng tin của người thông linh

Cô Từ Nhã Kì hỏi: "Một số dị nhân có thể thông linh, ít có ứng nghiệm, là vì sao? Người bình thường làm sao để phân biệt được?" Tôi trả lời như sau: Thế giới Ta Bà ngày nay dường như người thông linh càng ngày càng nhiều, ngay cả đến những sách xuất bản cũng có rất nhiều sách thông linh và những câu chuyện thông linh, những sách nghiên cứu linh học cũng vô cùng thời thượng. Thông linh cũng có tiên thiên và hậu thiên, tiên thiên thì vừa sinh ra đã có khả năng, hậu thiên thì sau khi gặp được kì duyên mới biết. Cũng có một số người nghiên cứu linh học, tu luyện linh học, cũng sản sinh ra hiện tượng thông linh. Đại bộ phận là nằm trong ba loại này.

Theo như tôi biết, thông linh vô cùng phức tạp, bởi vì trên thực tế, có hai thứ:

  1. Con người phức tạp.
  2. Linh phức tạp.

Lấy linh để thảo luận, tôi sơ sơ phân thành: động vật linh, quỷ linh, tinh linh, yêu linh. Các Thần linh địa phương, đại Thần linh, trung Thần linh, tiểu Thần linh. Bao gồm Thần Núi, Thần Nước, Thần Lửa, Thần Gió, Thần Trời, Thần Biển, Thần Sông, Thần Hồ, Thần Cây, Thần Đầm, Thần Mùa Vụ, Thần Ngày, Thần Đêm, Thần Không Khí, Thần Ẩm Thực, Thần Thảo Mộc. Cao hơn nữa thì có Thiên Thần của ba cõi trời, Thần chúng của 28 cõi trời, Thiên Long Bát Bộ. Dưới thì có các đại Quỷ Vương.

Trên tam giới thì có: La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Tôi phân tích một cách đơn giản như vậy, mọi người có thể hiểu được. Phân biệt theo thông lực của linh thì sẽ có sâu, rộng, lớn, nhỏ. Trước kia tôi từng nói, quỷ cũng có thông lực, thậm chí quỷ cũng có ngũ thông, chỉ là nông hay sâu mà thôi. Có rất nhiều phương pháp thông linh, ở đây tôi không cần nói lại nữa. Một số người có thể cảm thông linh giới, tự nhiên sinh ra hiện tượng ứng nghiệm.

Tôi nói: người bình thường phân biệt như thế nào? Đây thật sự sẽ phát sinh những điều khiến người ta hoang mang bối rối. Tin hay không tin đều là sai. Mê tín và mù quáng, hoàn toàn không tin, cũng đều không đúng. Tôi cho rằng: Muốn phân biệt cảnh giới của người thông linh, phải dùng diệu quan sát trí, cũng tức là một trong năm trí huệ của Phật. Năm trí huệ của Phật là pháp giới thể tính trí, đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí. Diệu quan sát là vô cùng quan trọng. Linh là vô hình. Con người là hữu hình. Người bình thường không có cách nào nhìn thấy linh, không có cách nào nghe thấy linh, cho nên, quan sát con người là trọng yếu, là phương pháp tối ưu. Người này rất tham - linh quỷ địa ngục. Người này rất sân - linh quỷ tu la. Người này rất ngu si - linh quỷ động vật. Người này rất háo sắc - linh dục giới. Người này rất quang minh - linh sắc giới. Người này không có dục vọng - linh vô sắc giới. Người này từ bi - linh Bồ Tát. Người này khai ngộ - linh Phật.

Đây chỉ là sự phân biệt vô cùng sơ lược của tôi mà thôi, nếu muốn phân biệt tỉ mỉ kĩ càng hơn, cuốn sách này cũng không thể nói hết. Từ việc quan sát một người thông linh, chúng ta có thể phân biệt được linh mà người đó thông là linh gì, đây là một môn học rất lớn. Trong những người thông linh hiện nay cũng có cả những phần tử lừa đảo hỗn tạp. Họ giả trang là thông linh, thật ra là đang lừa tình gạt sắc, điều này hoàn toàn phải dựa vào diệu quan sát trí, không có diệu quan sát trí thì rất dễ bị lừa gạt.

45. Chúng sinh cõi u minh trong mắt tôi

Có người hỏi: "Phàm là đưa tay về phía ngài cầu cứu thì ngài đều sẵn lòng đi cứu, liệu có phải là thế thân không? Ví dụ siêu độ trận động đất lớn ở Tứ Xuyên, con mắt của ngài đã đỏ suốt mấy ngày." Tôi đáp: Tôi thừa nhận là trái tim tôi rất yếu mềm. Tôi là một Bồ Tát chân chính, Bồ Tát phải làm được điều là đem niềm vui đến cho con người, loại bỏ đau khổ của con người, hoan hỉ đi bố thí, cho dù là tính mạng bản thân mình cũng có thể xả bỏ. Thật sự là hoan hỉ làm. Thật sự là cam lòng chịu.

Có người hiểu lầm tôi, có người ghét tôi, có người đả kích tôi, có người công kích tôi, có người xúc phạm tôi, có người giết tôi, có người đánh tôi, có người phỉ báng tôi, có người sỉ nhục tôi, có người thưa kiện tôi… Tôi hoan hỉ làm. Tôi tình nguyện chịu. Tôi nói rồi, tôi chưa bao giờ kiện người ta, trước nay chỉ có tôi bị người ta hãm hại. Vẫn cam tâm chấp nhận.

Ví dụ trận động đất lớn ở Tứ Xuyên, đó thật sự là một thiên tai thảm thương! Tôi là một Bồ Tát chân chính, người thương vong nhiều như vậy, sao tôi có thể không cứu chứ! Về mặt hữu hình, sau khi ngày hôm sau trận động đất, hội công đức Hoa Quang của chúng tôi đã sớm có mặt ở hiện trường, bố thí thức ăn, quần áo, chỗ ở, phương tiện đi lại. Về mặt vô hình, tôi dùng pháp "Vô già nhiếp triệu" để tập hợp toàn bộ vong linh lại, ban đầu định bố trí lập một linh vị tại Seatte Lôi Tạng Tự hoặc Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Nhưng rồi tôi cũng có phần hơi khoa trương. Thế là tôi dùng đôi mắt mình làm thành nơi trú thân cho họ. Tất cả vong hồn chết do động đất, không sót một ai, đều đi vào trong mắt tôi. Thần thông này tôi cho rằng là: Lấy dao mổ trâu giết gà. Giấu hạt cải trong núi Tu Di. Tôi đã dùng cách giấu vạn vạn chúng sinh cõi u minh trong đôi mắt mình, đúng là khiến người ta nghe mà sửng sốt, bất khả tư nghì! Khi ấy đồng môn cho rằng tôi đã bị đau mắt đỏ, hai mắt đều đỏ lên, tôi nói, không phải, cũng không phải là thế thân, chỉ là tôi để cho trăm nghìn vạn chúng sinh cõi u mình vào ở tạm trong mắt tôi mà thôi.

Đến khi tôi làm xong "Vô già đại siêu độ", chỉ một lần làm pháp siêu độ lớn, dựa vào sức mạnh công đức Như Lai của tôi, một lần đã đưa họ đến Tây Thiên, làm siêu độ vào buổi sáng thì đến buổi chiều mắt tôi đã tự nhiên hết đỏ. Tôi không đi khám bác sĩ mắt. Tôi không nhỏ thuốc mắt. Tôi không chữa trị. Vừa siêu độ xong thì mắt hết đỏ, trả lại tôi đôi mắt thanh tịnh. Đây là điều thật khó tưởng tượng không thể tưởng tượng nổi.

Đôi mắt của tôi có thể giấu được vạn vạn chúng sinh u minh, vào thời đại ngày nay, đây đúng là hiếm lạ, hiếm có! Đây không phải là thế thân. Mà là tự tâm tôi cam lòng dung nạp họ, đôi mắt chỉ đỏ lên, không đau cũng không ngứa. Siêu độ xong là mắt lập tức hết đỏ, không thể gọi là chịu thay. Giống như lần đại siêu độ này, chỉ cần tôi biết thì không có cái đạo lí là tôi không cứu, huống hồ tôi là hóa thân của vị Phật tiếp dẫn, đây vốn dĩ chính là sự nghiệp của tôi. Con người trên cõi đời này, rất nhiều người không hiểu tôi, đây cũng là điều khó tránh. Và có ai có thể hiểu được nội tâm của Lư Sư Tôn tôi, người khác hiểu lầm thì cứ hiểu lầm đi! Họ hiểu lầm là việc của họ. Tôi làm việc của tôi. Ha ha ha!

46. Thứ tự tu Mật giáo

Người hỏi: "Có đệ tử mới tu pháp Tứ gia hành, có thể cũng tu nội pháp được không?" Câu trả lời của tôi như sau: Tu hành Mật giáo có thứ tự, nói chung, tốt nhất là theo thứ tự mà tu, giống như xây nhà cao tầng vậy, phải xây từ móng, tầng một, tầng hai… Theo từng tầng mà xây lên, như thế mới xem là an toàn và vững chắc. Cá nhân tôi tu Mật giáo theo thứ tự là: Pháp Tứ gia hành, pháp Thượng sư tương ứng, pháp Bổn tôn, bảo bình khí, pháp vô lậu, pháp chuyết hỏa, pháp minh điểm, mở trung mạch, mở ngũ luân, pháp Kim cang, vô thượng mật, pháp Đại viên mãn.

Nếu phân một cách đơn giản thì là: Pháp Tứ gia hành. Pháp Thượng sư tương ứng Pháp Bổn tôn. Pháp Kim cang. Vô thượng mật.

Bốn bộ liên tiếp của Mật giáo là: Sự bộ. Hành bộ. Du già bộ. Vô thượng bộ.

Pháp Đại thủ ấn của Bạch giáo phân thành bốn cấp: Chuyên nhất du già. Li hí du già. Nhất vị du già. Vô tu du già.

Trên thực tế, ở đây lại phân thành ngoại pháp, nội pháp, mật pháp, mật mật pháp. Những cái này đều theo thứ tự, tu Thứ tự sinh khởi trước rồi sau đó mới tu Thứ tự viên mãn. Như vậy mới ổn định vững chắc. Cá nhân tôi tu hành Mật pháp là tu theo thứ tự, không có nhảy cấp. Cá nhân tôi cho rằng thế này, tu hành Mật giáo chỉ cần có một pháp tương ứng, thì Tứ gia hành, Thượng sư, Bổn tôn sẽ nối tiếp tương ứng, cũng có nghĩa là một pháp tương ứng thì các vị đều có thể lần lượt tương ứng. (Trong tu hành Mật giáo, có người sẽ thối lùi đạo tâm, rất hiển nhiên thôi, ngay cả tương ứng một pháp cũng không có, ha ha ha!) Bởi vì sau khi Bổn tôn và chư Tôn đều tương ứng thì tiến vào tu bảo bình khí, chuyết hỏa, minh điểm, vô lậu, thì tất cả đều có Thượng sư và Bổn tôn gia trì, tu càng dễ dàng hơn. Không thể thiếu sự gia trì của Thượng sư. Không thể thiếu sự thu nhận của Bổn tôn. Không thể thiếu sự ủng hộ của Hộ pháp. Những điều này, đối với người tu hành Thứ tự viên mãn có lợi ích vô cùng lớn, đối với nội pháp, mật pháp, mật mật pháp có sự trợ giúp vô cùng lớn, điểm này không thể không biết.

🌟

Người tu hành hiện đại do không phải tu chuyên nghiệp mà là tu nghiệp dư, về mặt thời gian hiển nhiên là không đủ. Bởi vì nếu tu theo thứ tự thì thực tế thời gian là không đủ, cho nên có Thượng sư chủ trương: Trong khi tu Tứ gia hành thì cũng có thể tu bảo bình khí, đợi đến khi pháp Tứ gia hành tương ứng rồi thì pháp bảo bình khí của nội pháp cũng có được nền móng rồi. Bảo bình khí của tôi đã tu nhiều năm, không có công phu nhiều năm thì chuyết hỏa không dễ mà có được.) Vì thế có một số Thượng sư Mật giáo chủ trương hành giả có thể vừa tu tương ứng chư Tôn, vừa tu bảo bình khí của nội pháp. Bảo bình khí là nền tảng của tất cả nội pháp. Đối với chủ trương của các Thượng sư Mật giáo này, tôi không khăng khăng phản đối, bởi vì con người hiện đại thời gian thật sự quá ít, vừa tu tương ứng, vừa tu bảo bình khí, tranh thủ thời gian, thật sự là không có gì chê trách, chỉ cần có thể chuyên tâm thì cũng sẽ có được thành tựu.

Cá nhân tôi có đôi chút cảm thán, con người sống tại thế gian, quá ít người có thể thật sự nhận ra giá trị của tu hành, đợi đến khi họ nhận ra được thì thời gian tu hành lại ít như vậy, thọ mạng của con người lại ngắn như vậy, cho nên thành tựu giả chân chính tự nhiên đã ít lại càng ít! Hơi ôi thương xót thay!

47. Tự tính hiện tiền

Liên Hoa Hoa Hùng hỏi: "Thỉnh Lư Sư Tôn từ bi chỉ bảo đệ tử câu hỏi có liên quan đến Thời Luân Kim Cang, mong Sư Phật từ bi khai thị. Trong pháp "Tọa thiền tụng minh", Sư Tôn nói đến việc dùng tự tâm để hợp với thiên tâm mà thiền định, tập trung sức mạnh tinh thần tại vị trí thiên tâm, sẽ có một ngày, thiên tâm của bản thân có thể phóng quang, thiên tâm tự động, tự tính hiện tiền." "Xin hỏi Sư Phật, so sánh với "9 thứ tự thiền định", trong 9 thứ tự đó thì khi nào, vào thứ tự nào mới có thể đạt thiên tâm tự động phát quang và tự tính hiện tiền?" "Xin hỏi Sư Phật vì sao pháp Thời Luân Kim Cang không có phương tiện thành tựu trung ấm, cách nói ấy có gì sai không?"

Tôi trả lời như sau: Pháp tọa thiền tụng minh là cách làm thời kì đầu của tôi, trọng điểm là sức mạnh tinh thần tập trung tại vị trí thiên tâm. Vị trí thiên tâm là thượng đan điền, vị trí ở tim là trung đan điền, vị trí dưới rốn là hạ đan điền. Sức mạnh tinh thần đặt tại thượng đan điền, tức là ở giữa hai chân mày, dịch lên phía trên một chút, cũng tức là vị trí của con mắt thứ ba. Tôi nói: Đây là ghế ngồi của Đế Vương ở giữa. Văn võ bách quan xếp hàng hai bên. Tất cả sức mạnh tinh thần ngưng tụ tại thiên tâm. Lâu ngày, con mắt thứ ba xuất hiện, lập tức phóng quang, tự động, tự tính hiện tiền.

Tôi nói: Trong 9 thứ tự thiền định, mức độ này thuộc về "tối tịch trụ", bởi vì năng lượng của thiên tâm càng ngày càng mạnh, mức độ ổn định của thiền định càng ngày càng cao, không có hôn trầm, không có phấn khích, tâm rất mảnh rất mịn, như sợi tơ như cây kim. Vào lúc "tối tịch trụ", sức mạnh vận tâm tỏa hiện, thiên tâm tự động, thiên tâm phóng quang, tự tính hiện tiền, huyễn thân liền xuất hiện, lúc này cũng phóng quang chấn động mặt đất. Cho nên: Tự tính hiện tiền tức là huyễn tâm xuất hiện, cũng chính là "tối tịch trụ" ở thứ tự thứ bảy. Trong tối tịch trụ: Lên trời. Xuống đất. Đều có thể tự tại nhậm vận!

🌟

Tôi lại trả lời: Thành tựu cao nhất của pháp Mật giáo Thời Luân Kim Cang chính là thân thô của con người chúng ta dần dần tiêu tan hết, cũng tức là hóa hết thân người này, thành tựu hồng quang đại thành tựu (pháp hóa cầu vồng). Tức thân thành Phật rồi. Phương pháp của nó là biến thân thô thành thân vi tế, biến thân vi tế thành thân mảnh mịn nhất, sau cùng ngay cả thân mảnh mịn này cũng hóa hết. Nhục thể hoàn toàn biến mất, hòa tan vào biển ánh sáng Tì Lô Giá Na.

Còn pháp Trung ấm thành Phật là pháp phương tiện của Mật giáo, có nghĩa là sau khi nhục thể của con người bình thường chết đi, trung ấm xuất hiện, lúc này, có đại thiện tri thức ở bên cạnh. Đại thiện tri thức sẽ hướng dẫn thân trung ấm (linh hồn) làm sao để hòa nhập vào Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp. Hoặc phương pháp các vị tịch tĩnh, các vị phẫn nộ, dùng phương pháp trung ấm có thể nhận tiếp dẫn mà vãng sinh Phật quốc thanh tịnh, đây là một dạng phương tiện. Pháp Thời Luân Kim Cang vốn dĩ chính là truyền dạy pháp kim cang hoàn chỉnh nhất, là đại pháp trực tiếp thành Phật. Pháp Trung ấm thành tựu là tiện lợi cho thân trung ấm, là pháp phương tiện khiến trung ấm không đọa xuống tam ác đạo. Hai pháp này không thể nào so sánh với nhau. Tức là pháp Thời Luân là pháp Thời Luân. Pháp Trung ấm là pháp Trung ấm. Đó là một chút kiến giải của Lư Sư Tôn.

48. Con người ngu xuẩn này

Nghe nói trước khi pháp sư Thánh Nghiêm viên tịch, có đệ tử hỏi pháp sư Thánh Nghiêm: "Sư phụ có trở lại không?" Thánh Nghiêm đáp: "Thừa nguyện lại đến!" Đệ tử hỏi: "Lại đến nơi nào?" Thánh Nghiêm đáp: "Pháp Cổ Sơn." (Tiếp tục xây dựng tịnh thổ nhân gian.) Lư Sư Tôn tôi nghe xong đoạn đối thoại này, cười vang ba tiếng ha ha ha, tôi nói: "Đúng là một con người ngu xuẩn!"

Tôi nói: "Thế đó không phải là Pháp Cổ Sơn sao? "Thế đó không phải là pháp sư Thánh Nghiêm sao?" "Thế Pháp Cổ Sơn đó ở chỗ nào?" Tôi chỉ hỏi ba câu này, kính gửi đến vị pháp sư Thánh Nghiêm ở trên trời kia. Có người hỏi tôi, vì sao Lư Sư Tôn lại quan tâm đến pháp sư Thánh Nghiêm như vậy? Tôi nói: Tên họ nhà tục của tôi là Lư Thắng Ngạn, tên tiếng anh là LU SHENG YEN. Tên Thánh Nghiêm của pháp sư Thánh Nghiêm cũng gần giống với tên tiếng Trung của tôi, và tên tiếng anh của Thánh Nghiêm cũng chính là SHENG YEN. Tên giống nhau, nên tôi thật sự hi vọng ông ấy cũng khai ngộ, minh tâm kiến tính mà thành Phật. Không ngờ ông ấy cả đời cống hiến cho Phật giáo mà vẫn là một người ngu xuẩn chính cống. Thật là đáng thương!

🌟

Tôi lấy hòa thượng Vĩnh Thái ở Phúc Châu làm ví dụ. Tăng hỏi: "Nghe nói hòa thượng thấy hổ, đúng không?" Hòa thượng Vĩnh Thái làm tiếng hổ. Tăng nhân làm tư thế đánh hổ. Hòa thượng Vĩnh Thái nói: "Cái đồ ngu xuẩn này!" Tăng nhân hỏi: "Thế nào là Phật ngây thơ?" Hòa thượng Vĩnh Thái vỗ tay nói: "Không thể, không thể." (Tại đây tôi hỏi Thánh Nghiêm đại pháp sư, trong mắt của ông chỉ có Pháp Cổ Sơn thôi sao?)

🌟

Tôi lại lấy thiền sư Viện Nhân Nam Đài làm ví dụ. Tăng nhân hỏi: "Thế nào là cảnh giới Nam Đài?" Thiền sư Viện Nhân đáp: "Không biết quý." Tăng nhân hỏi tiếp: "Rốt cục là sao?" Thiền sư Viện Nhân đáp: "Thế cao tăng bây giờ đang ở chỗ nào?"

Tại đây, tôi đặc biệt nhắc nhở thánh đệ tử, tôi lấy cuộc đối thoại của thiền sư Viện Nhân là để chỉ ra:

  1. Cảnh giới của pháp sư Thánh Nghiêm Pháp Cổ Sơn ở chỗ nào?
  2. Pháp sư Thánh Nghiêm hiện tại ở chỗ nào?
  3. Pháp sư Thánh Nghiêm trở lại thì ở chỗ nào?

Tôi thật sự không biết những kẻ nhục nhãn phàm thai ai có thể trả lời được. Còn những hành giả tự xưng là Thiền tông, có ai có thể trả lời tôi, anh của ngày hôm nay đang ở chỗ nào? Mau mau trả lời!

49. Lợi ích lớn của khai ngộ

Có đệ tử hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, thầy thường xuyên cổ vũ hành giả chúng con rằng, người người cần khai ngộ, minh tâm kiến tính, thế nhưng, đối với hành giả chúng con thì khai ngộ rốt cục có lợi ích gì đây?" Tôi đáp: Khai ngộ không phải là một danh từ. Khai ngộ không phải là một khẩu hiệu. Khai ngộ không phải là một giấy khen. Mà là khai ngộ rồi thì cần "tâm hành", tâm đã lĩnh ngộ rồi thì cần đi thực tiễn nó. Cũng có nghĩa là thực tiễn sự khai ngộ của mình, phát bồ đề tâm rộng lớn hơn nữa, dùng đại trí huệ để đi cứu độ quần sinh. Người khai ngộ hiểu được sự chí lí của vũ trụ, hiểu được sự chí lí của cuộc đời, hiểu được sự chí lí của Như Lai.

Thế rồi tự tại nhậm vận trong: Cuộc sống thường ngày. Diệu hành vô trụ. Tướng và phi tướng. Vô lượng phúc đức. Hữu vi vô vi. Trang nghiêm tịnh thổ. Tịch diệt tối lạc. Nhẫn nhục tinh tấn. Bố thí trì giới. Thiền định trí huệ. Cứu cánh vô ngã. Bình đẳng đồng quán. Pháp giới thể tính. Vô thụ vô tham.

Hôm nay tôi thật lòng thật sự nói với mọi người, người khai ngộ hoàn toàn hiểu được từng câu bốn chữ mà tôi đã viết ở trên, bởi vì hiểu được rồi thì sẽ lần lượt thực tiễn chúng, việc thực tiễn này chính là lợi ích lớn của khai ngộ. Tôi nói: Người khai ngộ chắc chắn biết rằng:

  1. Vô tham - vì là vô sở đắc.
  2. Vô sân - vì là vô sở vị.
  3. Vô si - vì là vô sở trụ.

Tại đây tôi chỉ ra, người khai ngộ đã biết không thực có được cái gì, cho nên xả bỏ lòng tham; người khai ngộ đã biết không có gì đáng kể, cho nên xả bỏ hết giận dữ; người khai ngộ đã hiểu chẳng thể bám trụ vào bất kì điều gì, cho nên tất cả ngu si đều loại bỏ hết. Không tham sẽ sinh vào dục giới. Không sân sẽ sinh vào sắc giới. Không si sẽ sinh vào vô sắc giới. Đây chính là lợi ích lớn của khai ngộ.

🌟

Tôi lấy một công án, mời thánh đệ tử tham gia: Thiền sư Lệnh Yểm ở Bạch Vân, Kiến Châu, lên lớp nói: "Cứ đến cửa nhà thầy, ai nói với tang chủ. Trân trọng!" Tăng nhân hỏi: "Việc mình chưa tỏ, dựa vào cái gì mà kiểm nghiệm?" Thiền sư Lệnh Yểm đáp: "Gương gỗ soi mặt thuần." (Không thấy không thấy.) "Kiểm nghiệm xong thì sao?" Thiền sư Lệnh Yểm đáp: "Chẳng tranh nhiều." (Không tăng không giảm.)

Hỏi: "Tam Đài có mời, tứ chúng đến tiệc. Đã sống phải hiền, thỉnh thầy lĩnh xướng." Thiền sư Lệnh Yểm nói: "Muốn hát cũng không khó." "Mời hát." Thiền sư Lệnh Yểm hát: "Đêm tĩnh nước lạnh cá không ăn, đầy thuyền trống trải trăng sáng về." (Tôi cười vang ba tiếng ha ha ha.)

(Hết)

Mục lục