Đương Đại Pháp Vương trả lời khách hỏi
Văn tập số: 216 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Ngày 27 tháng 2 năm 2010 tại Đài Loan Lôi Tạng Tự (Thảo Đồn - Caotun), Lư Sư Tôn đã chủ trì buổi đại pháp hội Hộ Ma Khổng Tước Minh Vương (hỏa cúng). Thượng sư Liên Triết nói với tôi: "Địa điểm tổ chức pháp hội là ngoài trời, do vậy tuyệt đối không được phép có mưa." Lại nói: "Cũng không được có nắng to, nếu không sẽ khiến tín chúng bị cháy da. Tốt nhất là trời nhiều mây, nhưng cũng không nên đổ mưa." Tôi cười cười đáp: "Tôi nên làm ông trời vậy!" Đại pháp hội ngày hôm đó có 5 vạn tín chúng tham gia. Thời tiết ở huyện Vạn Lý (Wanli) sáng trong, không mưa, tuy nhiên nắng lại khá gay gắt. Tín chúng liên tục phe phẩy quạt, rất nhiều người mở ô lớn màu sắc sặc sỡ làm thành một trảng hoa ô. Pháp hội bắt đầu. Tôi lên pháp tọa ở trên cao, trông thấy 5 vạn tín chúng đứng ngồi dưới nắng, thực sự không đành lòng. Tay tôi kết "chỉ thị ấn". Niệm chú: "Ma ha bát nhã ba la mật. Om mani beida mi hum. Tuoli. Cấp cấp như luật lệnh." Tôi nguyện: "Nhất tâm cầu thỉnh Phật Mẫu Khổng Tước Đại Minh Vương dang rộng đôi cánh khổng tước che nắng cho 5 vạn tín chúng!" Tôi vừa nói như vậy xong, lạ thay, lạ thay! Từ phía Tây Nam một đám mây cát tường bay tới che kín cả Đài Loan Lôi Tạng Tự, ngay phía trên đầu 5 vạn tín chúng, không lệch một chút nào, chính là ở ngay phía trên đầu. Gió mát thổi nhẹ. Có đệ tử đang lên núi trông thấy đã cảm thán vô cùng, rằng không thể tưởng tượng được. Bởi ngay phía trên Đài Loan Lôi Tạng Tự có một đám mây cát tường lớn, còn ở nơi khác thì bầu trời vẫn trong vắt không một gợn mây. 5 vạn tín chúng vỗ tay như sấm. Tôi học Phật pháp đã được 40 năm rồi. Tôi thường nói, Phật pháp tại thế gian không tách rời ý thức thế gian. Mặc dù tôi đã thấu triệt đệ nhất nghĩa đế của Phật pháp, nhưng tôi cũng rõ rằng đệ nhất nghĩa đế không thể nói, Phật tính không thể nói, tính Không không thể nói, chỉ có thể đưa ra ẩn dụ thôi. Ngoài ra, Mật giáo tới được Vô thượng mật du già (yoga) cũng không thể nói, chỉ có thể nói một cách ẩn dụ. Tôi vốn nghĩ rằng sẽ viết ra cuốn sách về Vô thượng mật du già cao cấp, dùng ngôn ngữ nói để nói thật chi tiết tỉ mỉ. Chính xác khi tôi viết xong được đúng năm chương, không ngờ rằng: Sấm đánh. Mưa đá trút xuống. Gió lớn nổi lên. Từ phía xa xa có thần Kim Cương Hộ Pháp hiện thân nói: "Không thể viết được." Tôi hỏi: "Vì sao vậy?" Thần Kim Cương Hộ Pháp trả lời: "Sẽ bị kẻ xấu lợi dụng!" Thế là, viết rồi lại xé bỏ, viết rồi lại xé bỏ. Khi tôi trở về Đài Loan, cô Từ Nhã Kỳ ở chương trình truyền hình Thắp sáng ngọn đèn tâm muốn phỏng vấn, liệt kê ra rất nhiều chủ đề, đặt tiêu đề là "Phỏng vấn Đương Đại Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật". Bởi vì không thể viết ra Vô thượng mật du già, vậy chỉ có thể đổi thành viết về những câu hỏi của cô Từ Nhã Kỳ cùng với câu trả lời của tôi, lấy tên sách là Đương Đại Pháp Vương trả lời khách hỏi. Cuốn sách này về hình thức bên ngoài là hỏi đáp, nhưng phạm vi được nói đến rất rộng, có lợi ích rất lớn đối với người học Phật. Mong rằng độc giả có thể trân trọng!
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Sự thật về phân thân cứu độ
Có đệ tử họ Thẩm phạm vào một vụ án nên bị giam trong nhà lao. Càng thảm hơn nữa là đệ tử họ Thẩm này bị mắc bệnh viêm phổi, thường sốt cao, uống thuốc thì sẽ giảm sốt được một lúc, nhưng khi thuốc hết tác dụng thì cơn sốt cao lại đến. Trong mơ đệ tử họ Thẩm nhìn thấy Lư Sư Tôn nhẹ nhàng từ trên không bay đến, mặc y áo màu trắng, toàn thân tỏa ánh sáng trắng. Đệ tử họ Thẩm hỏi: "Đây là nhà tù, Sư Tôn làm sao đi vào được?" Tôi cười nói: "Phân thân trải rộng khắp mười phương, bất kì nơi nào cũng đều có thể đến được!" Đệ tử họ Thẩm nói: "Trong tù mắc bệnh viêm phổi, thân tâm kiệt sức, thỉnh cầu Sư Tôn cứu độ." Tôi nói: "Chính vì vậy mà ta đã đến đây." Tôi rút từ trong túi áo mình ra một gói thuốc đưa cho đệ tử họ Thẩm uống. Đệ tử họ Thẩm uống xong gói thuốc, ngày hôm sau tỉnh lại, cơn sốt cũng đã hết rồi. Sau đó bác sĩ của nhà tù kiểm tra, các triệu chứng viêm phổi hoàn toàn không còn, bệnh khỏi hẳn một cách bất ngờ. Cơn bão Morakot. [ND: Bão Morakot: cơn bão kéo dài 9 ngày kể từ 2/8/2009, gây chết chóc nhất trong lịch sử Đài Loan, khiến cho 673 người chết và 26 người mất tích, thiệt hại 110 tỷ Đài tệ.]
Sư huynh Đinh Dĩ Minh, chủ đường của Chân Minh Đường ở huyện Tam Nghĩa, trông thấy Lư Sư Tôn an tọa, móc Thời Luân Kim Cương tại thôn Đồng Phú huyện Tín Nghĩa. Khi trận bão gây lũ lụt lở đất tấn công, cả làng Đồng Phú bị bao vây kín. Trong thôn có duy nhất sư huynh Trương Tấn Phúc, sư tỉ Lâm Gia Hân là đệ tử Chân Phật Tông may mắn thoát khỏi đại nạn. Ngoài ra còn có một người làng của thôn Phùng Tiên Tây An tên Trần Chính Long cũng là đệ tử Chân Phật Tông, mọi người khác đều gặp nạn, duy chỉ có anh là an toàn vô sự. Khi cơn bão Morakot xảy ra, tôi đang ở Seattle nước Mỹ làm pháp hội Hộ Ma (hỏa cúng) tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Tôi đã hóa thành 50 vị để thay mình đi cứu độ đồng bào chết vì thiên tai. Kết quả là 50 vị phân thân trong khi cứu độ đã gặp phải nhóm lính quỷ ở âm phủ ngăn chặn. Để cứu độ đồng bào tử nạn, không ngờ 50 vị phân thân đã hy sinh, nhưng những đồng bào tử nạn thì đã được cứu đến Tây Phương tịnh độ. Lần siêu độ này đã thành công rồi. Chỉ là tôi cũng bị tổn thất nặng nề. Người ta hỏi tôi: "Vì sao cần phải cứu?" Tôi đáp: "Phật giáo nhấn mạnh đại từ đại bi, đây là tinh thần của Phật giáo đại thừa, người chìm ta chìm, người đói ta đói. Làm một Bồ Tát cần xem trọng người khác, xem nhẹ bản thân, biết chúng sinh gặp nạn có lý nào lại không đi cứu độ." Người ta hỏi tôi: "Vì siêu độ mà đã hy sinh 50 phân thân, có đáng không?" Tôi đáp: "Đây chính là tinh thần xả thân vì người khác, 50 phân thân này tu lại là có thể có được." "Tu phân thân như thế nào?" Tôi đáp: "Cái gốc của phân thân là bổn tôn trong trung mạch của chính mình, từ khí và minh điểm kết hợp lại mà thành, cộng thêm Phật tính quang minh của bản thân, theo đường thẳng đi lên đỉnh đầu rồi xuất ra, trong hư không kết hợp với ánh sáng của các vì sao, thì sẽ tạo thành phân thân - tinh quang thân. Việc tu luyện này nghe thì có vẻ dễ, thực tế lại rất khó. Đây đều là tu luyện khí, mạch, minh điểm, một lời khó nói cho hết. Người có thể tu xuất ra được phân thân là tinh quang thân chắc chắn phải là một người tu hành cao cấp. Người ta hỏi tôi: "Đệ tử Chân Phật Tông rất dễ cảm ứng thấy Lư Sư Tôn ở trong mơ, hơn nữa trong một đêm mà Sư Tôn phân thân thành trăm nghìn vạn thân, ai ai cũng đều có được cảm ứng giao tiếp, việc này là thế nào?" Tôi đáp: "Đây đều là tác dụng của các tinh quang thân, cũng chính là tác dụng của phân thân, người tu hành cao cấp sẽ dùng phân thân để cứu độ chúng sinh, nếu chỉ có một người chủ tôn thì không đủ đi giúp đỡ đâu."
02. Nhân duyên Bạch Độ Mẫu và Lư Sư Tôn
Khoảng ba năm trước, Tông ủy hội chuyển từ Chân Phật Mật Uyển đến làm việc tài tòa nhà màu cam. Ở Tông ủy hội tôi có một bàn làm việc, ngoài ra còn có một phòng vẽ tranh, mỗi ngày tôi vẫn gia trì thư tín mới gửi đến và vẽ một bức tranh. Phía sau và bên phải bàn làm việc của tôi thường treo thangka, mandala chư Tôn được thêu chỉ màu kiểu Tây Tạng. Có ngày nọ. Một vị Pháp sư đem về một bức thangka tặng cho tôi treo. Pháp sư nói: "Là đệ tử Hứa Hồng Xuân tặng cho Sư Tôn đó, đây là bức họa tướng của Bạch Độ Mẫu." Pháp sư chậm rãi mở bức thangka ra, mắt tôi sáng rực lên, rồi tôi giật mình vì "choáng". Bạch Độ Mẫu, thân màu trắng, những đường cong sắc sảo, một đầu hai tay, tay phải giữ ấn nguyện đặt trên đùi phải, tay trái giữ ấn hoa cầm ba bông hoa upala, một bông còn đang nụ, một bông chớm nở, một bông nở bung. Ba bông hoa tượng trưng cho tam bảo, phấn hoa màu đỏ. Bạch Độ Mẫu, lòng bàn tay và lòng bàn chân đều có một con mắt, cùng với ba con mắt trên mặt, tổng cộng là bảy con mắt. Bạch Độ Mẫu có dáng vẻ như thiếu nữ mười sáu tuổi, ngũ quan thanh tú diễm lệ, miệng hé như cười. Tóc tết, lọn tóc rủ xuống bên trái có chuỗi vòng các loại ngọc quý trang nghiêm, người mặc váy lụa, ngồi tư thế hoa sen kim cương, lưng dựa vào đĩa mặt trăng. Tấm thangka mà đệ tử Hứa Hồng Xuân tặng khiến tôi không ngớt lời cảm thán, liền đem treo ở phía bên phải chỗ ngồi của mình. Tôi nhìn ngắm chăm chú một lúc lâu. Tôi biết Độ Mẫu có: Lục Độ Mẫu. Bạch Độ Mẫu. Hồng Độ Mẫu. Hoàng Độ Mẫu. Ngoài ra vẫn có nhiều vị Độ Mẫu khác, có thể nói là vô tận. Nhưng Bạch Độ Mẫu treo ở bên phải gần chỗ ngồi của tôi, chỉ quay đầu sang là nhìn được, thì chính là khởi đầu của duyên phận. Có nhân duyên nữa cũng rất thần kì. Một buổi tối tôi đang ngủ mơ, bỗng nhiên xuất hiện một mùi thơm lan tỏa, giường ngủ của tôi biến thành một bông hoa sen trắng nở bung. Tôi nằm ngủ ở chính giữa hoa sen, ngay trên nhụy hoa. Hư không lấp lánh nhuệ khí, ánh sáng trắng chói lọi, tôi nhìn thấy Bạch Độ Mẫu diễm lệ từ hư không giáng xuống, áo váy bay bay, dáng vẻ kiều diễm. Vẻ đẹp của Bạch Độ Mẫu so với trong bức thangka còn đẹp hơn gấp trăm nghìn vạn lần, không thể miêu tả xiết. Tôi nghĩ là người thật nên chạm nhẹ vào. Rồi tôi lại cho rằng không phải là người thật, nhưng vẫn có xúc cảm. Giống như mơ mà không phải mơ. Giống như huyễn mà cũng giống như thật. Bạch Độ Mẫu hạ giáng xuống chính là ở giữa hai trạng thái này, nếu nói là mơ thì giấc mơ này cũng để lại rất nhiều dư vị. Trong miệng Bạch Độ Mẫu có ngậm một viên hồng đơn, đầu tiên, ngài chuyển viên hồng đơn sang miệng tôi, đi vào trong. Trong một sát-na, tôi đã trở thành "lực sĩ King Kong". Lúc này, bông hoa sen vốn dĩ nở bung bây giờ lại từ từ biến ngược dần thành bông hoa sen chớm nở, rồi tiếp tục biến thành nụ hoa sen. Bạch Độ Mẫu nói: "Quỷ thần không thấy!" Bạch Độ Mẫu nói với tôi: "Pháp song thân của Mật giáo vốn là sự kết hợp mạch với mạch, có thể thông ba mạch bảy luân xa. Khí và khí kết nối, dẫn khí phương tiện thành khí trí huệ. Điểm và điểm dung hòa, thành tựu pháp thân ánh sáng." Bạch Độ Mẫu nói: "Lư Sư Tôn sớm đã tu chứng vô lậu pháp, chuyết hỏa cũng đã cháy, có thể giữ minh điểm đi xuống. Hơn nữa ngài đã hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế của Phật giáo. Do vậy tôi đặc biệt đến đây để diễn hóa pháp này, việc này giống như là nước chảy thành sông, thành công sẽ tự đến một cách tự nhiên, vậy thôi." Tình tiết bên trong là: Bí mật. Bí mật. Bí mật. Bí mật. Tôi không thỉnh gọi Bạch Độ Mẫu đến, là Bạch Độ Mẫu không mời tự đến. Hoạt động thủ ấn trí huệ tính Không này vô cùng khó đạt được, hoàn toàn không vướng mắc, do vậy mà thành tựu phi phàm.
03. Vì sao Bạch Độ Mẫu bàn giới luật?
Cá nhân tôi cho rằng Chân Phật Mật Pháp là phải "sống", mỗi một người tu hành đi trên con đường tu hành đều đang sống, Phật pháp là sự vận dụng linh hoạt, cuộc sống mỗi ngày đều là sống với Phật pháp. Do vậy tôi nói: Ăn --- pháp Cúng dường. Mặc --- pháp Kết giới. Ở --- pháp Mandala. Đi --- pháp Kinh hành. Ngủ --- pháp Miên quang. Quan hệ --- pháp Song thân. Phẫn nộ --- pháp Hộ pháp. Ngu si --- pháp Tài thần. Thân thể --- pháp Thiền. Hình tướng --- pháp Bổn tôn. Ứng dụng --- pháp Thành tựu. …… Tôi thích Phật pháp ứng dụng linh hoạt, không phải kiểu cứng nhắc nhàm chán. Tôi thực tu Phật pháp, chuyển tâm vận dụng, không câu nệ tiểu tiết, lấy Phật pháp dung nhập tự tâm, cũng như truyền bá Phật pháp khiến mọi người hoan hỷ. Tuy nhiên tôi tu hành như thế và hướng dẫn thánh đệ tử tu hành cũng có chút khiếm khuyết nhỏ. Vì thế Bạch Độ Mẫu cho rằng do tôi quá không câu nệ tiểu tiết nên đã làm cho hình ảnh Chân Phật Tông trở thành có khiếm khuyết. Ngoài ra, giới luật quá thoải mái dẫn đến nhân viên hoằng pháp quên mất vấn đề như pháp và bất như pháp, để rồi đi xuống tới mức đọa vào tam ác đạo. Bạch Độ Mẫu nói như sau: Rất nhiều nhân viên hoằng pháp bản thân không thực tu mà lại quán đảnh cho người ta, việc này là bất như pháp. Rất nhiều nhân viên hoằng pháp bản thân vẫn chưa khai ngộ, nhưng lại giảng giải các kinh điển khai ngộ, việc này là bất như pháp. Rất nhiều nhân viên hoằng pháp bản thân vẫn mang lòng ích kỉ tự tư tự lợi trong công việc, nhưng lại đi giảng dạy người khác phải diệt trừ tham sân si, việc này cũng là bất như pháp. Đây là mâu thuẫn, tự vả vào miệng mình. Nhân viên hoằng pháp chỉ chăm chăm xây dựng giang sơn cho bản thân, cơ bản không có tinh thần tập thể Chân Phật. Chờ đến khi xây núi xong rồi, anh ta sẽ tự mình làm chủ ngọn núi, phớt lờ luôn căn bản Thượng sư, không màng đến sự quan trọng của truyền thừa nữa. Nhân viên hoằng pháp đối với giới luật như pháp và bất như pháp đều không hiểu, làm sao dẫn dắt đồng môn Chân Phật trong quỹ đạo tu hành tinh tấn được. Nhân viên hoằng pháp có rất nhiều bất như pháp, ví dụ: Đe dọa lấy tiền. (Giả thần thông) Đe dọa lừa sắc. (Giả thần thông) Chưa đạt tới chân ngôn. (Lừa bịp chúng sinh) Chưa hiểu được chân ngôn. (Lừa bịp chúng sinh) Tranh giành tên tuổi. (Tham lam thế gian) Tạo dựng phe phái riêng. (Tham lam thế gian) Những việc này đều tràn ngập sự ngụy trang, ngụy tạo, trá hình, bịa đặt. Nhân viên hoằng pháp ngay cả đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư cũng dám lừa, ngay cả những việc khiến phải đọa tam ác đạo cũng đã từng làm, những nhân viên hoằng pháp kiểu này còn có thể nói chuyện giới luật không? Chính bởi vì như vậy: Bạch Độ Mẫu muốn giảng về giới luật cho đồng môn Chân Phật, giảng cái gì là như pháp, cái gì là bất như pháp. Bạch Độ Mẫu nói giới luật này cần thường xuyên giảng, không giảng thì rất dễ bị quên mất. Nếu như không giảng giới luật, Chân Phật Tông sẽ là một tổ chức phân rã, cơ bản là không có tương lai. Bạch Độ Mẫu nói: Đừng tham nhiễm thế tục, cần có tâm coi trọng nội tại. Cần tu hành tâm, khẩu, ý thanh tịnh. Cần làm một Thượng sư có đức. Cần kiên trì tự tu. Cần chân thành với Căn bản Truyền thừa Thượng sư, cần có lòng tin thanh tịnh. Cần liên tục giữ giới samaya và thề nguyện, đừng vi phạm hay vượt quá, kể cả phương tiện thiện xảo cũng đừng nên lạm dụng.
04. Công nhận lai lịch kiếp trước
Tôi được Thượng sư của tôi công nhận là: 1. Đệ tử Xá Lợi Phất của Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển thế (tái sinh). 2. Tổ sư Tsongkhapa của phái mũ vàng Mật giáo chuyển thế (tái sinh). ………. Thầy của tôi từng viết thư cho bà Tạ Minh Phương, chứng nhận tất cả những điều này đều là sự thật. (Bản chụp của thư đó kèm trong cuốn sách này.) Giáo chủ của phái mũ vàng Tây Tạng, Pháp Vương Ganden Tripa, vào tháng 6 năm 1996 đích thân tới Lôi Tạng Tự - Seattle nước Mỹ tặng tôi một bộ y bào của Pháp Vương, tôi được công nhận là Đại Pháp Vương. Trên người Liên Sinh Pháp Vương được phát hiện thấy: 1. Trên đỉnh đầu có lỗ. 2. Hai tai có hạt châu. (hạt xá lợi) 3. Mắt, mũi, miệng của Phật. 4. Chính giữa ngực có chữ "Vạn". 5. Lòng bàn tay giống như vỏ ốc. 6. Phía sau ngón cái tay phải có ấn quỷ vương mặt cười. (hộ pháp) 7. Trên chân có sọc da hổ. (kim cương) Tôi được công nhận là một vị Phật tái sinh 100%. Vị Phật tái sinh người Tây Tạng Cống Đường Thương nói với tôi rằng ngài ấy đã từng nhìn thấy một người ở trung tâm mặt trời, ở chính giữa vầng mặt trời. Xem xét tỉ mỉ thì hóa ra ở giữa vầng mặt trời có một người đang ngồi chính là: "Liên Sinh Hoạt Phật Pháp Vương. Lư Thắng Ngạn Thánh Tôn." Tiền kiếp của tôi đã được minh chứng một cách hùng hồn, lại có Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đến chứng nhận, lại có Hoằng Pháp Đại Sư đến chứng nhận, lại có Atisha Tôn giả đến chứng nhận, lại có… Trong các pháp hội thời gian gần đây tôi cũng đã ban quán đảnh cho các Thượng sư Acarya (A-xà-lê) và chứng nhận: Chứng nhận Liên Hoa Đồng Tử các màu sắc. Chứng nhận phân linh của Diêu Trì Kim Mẫu. Chứng nhận 20 Thiên Thiên nữ. Chứng nhận Rinpoche Hoạt Phật. ………. Hỏi: "Chúng tôi vài lần đến pháp hội ở đây đều thấy, mỗi khi Lư Sư Tôn quán đảnh Thượng sư hoặc Pháp sư mới sẽ đều nói lai lịch tiền kiếp của vị đó, là vì sao vậy? Việc này đối với việc tu hành có lợi ích gì không? Tôi trả lời: "Mật giáo có vị trí như một giáo pháp Đại thừa, vốn có đặc điểm thần mật đặc biệt. Nhờ thân phận đặc thù của Pháp Vương, Hoạt Phật, Geshe, đại Lama nên dễ làm cho dân chúng phát khởi niềm tin tưởng kiền thành, từ đó khiến cho việc hoằng dương Phật giáo trở thành có ảnh hưởng rộng lớn. Công bố lai lịch tiền kiếp của Thượng sư, Pháp sư là truyền thống Mật giáo. Đó cũng là một dạng danh vị, nhờ đó sẽ càng dễ giáo hóa chúng sinh trong các lĩnh vực hơn." Tôi lại nói: "Với pháp nhãn của mình, tôi đương nhiên biết rõ lai lịch của mỗi người. Có một số người lai lịch vốn rất tốt, đáng tiếc là chuyển thế tái sinh nhiều lần đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, thân phận tôn quý của người đó từ từ bị tầm thường đi. Điều đáng tiếc là từ lâu họ đã trầm luân trong lục đạo luân hồi, không biết khi nào mới thoát ra. Do vậy tôi đặc biệt muốn đánh thức vị Thượng sư hay Pháp sư đó, khiến họ nhận ra diện mạo vốn có của mình, nhanh chóng tinh tấn chứng quả, việc chứng nhận này có giá trị đặc biệt riêng, không phải là không có ý nghĩa gì." Phật giáo Ấn Độ bắt đầu từ Phật giáo nguyên thủy, đến bộ phái Tiểu thừa, tiếp đó đến giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo Đại thừa. Đến thời kì Mật giáo, do điều kiện hoàn cảnh bị giới hạn nên đã khiến cho Mật giáo đi xuống. Phật giáo Trung Quốc bắt đầu từ đời Hán, hưng thịnh vào đời Tùy Đường, đến đời Tống thì suy yếu. Phật giáo Tây Hạ vào thời kì suy thoái của Phật giáo Trung Nguyên vẫn nổi lên một cách bất ngờ. Thời kì cực thịnh của Phật giáo Tây Hạ đã xây dựng "Tăng chúng công đức ti", "Xuất gia công đức ti", "Hộ pháp công đức ti", lại còn phong chức vị Quốc sư, cũng có cả danh hiệu Đế sư. Do vậy tôi nhận thấy: Muốn làm cho Chân Phật Tông có sức sống, cần chứng nhận xuất hiện nhân tài có học vấn, có lý tưởng, có sự năng động, có tổ chức, có chế độ, mới khiến cho Chân Phật Tông giống như mặt trời vĩnh viễn ở trên cao. Việc này có ảnh hưởng trực tiếp (tới sự phát triển của Chân Phật Tông).
Lá thư Thượng sư Thubten Dargye (Thubten Dorje) gửi cho bà Tạ Minh Phương
05. Một thế giới khác
Tại Seattle Lôi Tạng Tự, Lư Sư Tôn thuyết pháp nói rằng: Ở một thế giới khác, tôi truyền thụ Mật pháp 20 năm cho Thượng sư Liên Điếm. Tôi nói: "Thượng sư Liên Điếm cũng nhớ rõ là tôi ở một thế giới khác truyền pháp 20 năm. (Thượng sư Liên Điếm xác nhận việc này có thật.) Rất nhiều người đều cho rằng đây là một việc rất huyễn tưởng, Lư Sư Tôn rõ ràng vẫn đang sống tại nhân gian. Thượng sư Liên Điếm cũng rõ ràng đang sống tại nhân gian. Thế thì việc truyền pháp diễn ra ở thế giới nào? Vào thời gian nào?" Tôi nói: Đối với một người tu hành cao cấp mà nói thì đây là một việc rất đơn giản và bình thường. Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni dưới gốc cây bồ đề đạt chứng ngộ, ngài nhập sâu vào trong thiền định, ở một thế giới khác đã giảng kinh Hoa Nghiêm cho các chư Bồ Tát. (Việc này chứng minh Phật Đà có thể thuyết pháp ở một thế giới khác.) Còn nữa: Phật Thích Ca Mâu Ni thân ở tại Linh Sơn Hải Hội, một thân khác thì đã đến Shambhala tịnh độ trở thành Nguyệt Huyền Quốc Vương giảng Thời Luân Kim Cương Bản Tục, việc này cũng là giảng kinh ở tại một thế giới khác. Hỏi: "Một thế giới khác là thế giới nào?" Tôi trả lời: "Thế giới khác là thế giới vô tận. Ví dụ, vùng đất trong giấc mơ là một thế giới khác, tôi có thể dạy pháp ở trong mơ chứ! Ở nơi thắng cảnh thiên hà cũng là một thế giới khác, 28 cõi trời đều là thế giới khác. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đều là thế giới khác." Tôi nói sâu hơn một chút: Một người bình thường đã rất quen thuộc với tầng lớp tương đối thô của tâm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đây là lớp thô nhất của tâm. Ngoài ra tâm vi tế hơn một chút thì trong "Vô thượng du già mật tục" phân chia làm 80 loại. Thông qua tu thiền, ý thức thô sẽ rút lại, tôi có thể nhìn thấy ảo ảnh, những khói sương của sóng, ánh sáng của đom đóm. Khi ý thức vi tế xuất hiện sẽ có những cảnh tướng màu trắng, màu đỏ, màu đen. Khi "Tịnh quang căn bản tâm" ở tầng sâu nhất xuất hiện thì nó là tâm vi tế nhất, ẩn sâu nhất, có năng lượng nhất, như bầu trời trong vắt, đây là tâm gốc của bản thể. Ý của tôi muốn nói rằng: "Tịnh quang căn bản tâm" là tâm có năng lượng nhất, không có nhị nguyên, là tuyệt đối. Tôi có thể trông thấy. Kiếp quá khứ. Kiếp hiện tại. Kiếp vị lai. Trở thành hiện tượng tam giới nhất như. Tôi có thể ở khắp thập phương, ở một thế giới khác, ở thế giới hiện tại, thậm chí ở thế giới khác thuyết pháp. Ma Ha Song Liên Trì có Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, thắng cảnh thiên hà có một Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, trong địa ngục có Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đang thuyết pháp, trong mơ cũng có, hành tinh Đạt Mỹ Khắc cũng có, dần dần sẽ thành ở nơi nào cũng có. Tôi kể việc uống cà phê cùng Phật Thích Ca Mâu Ni, người khác sẽ cho rằng đúng là chuyện hài. Nhưng thực sự là tôi nói hết sức nghiêm túc. Bởi vì đó là cảnh giới tịnh quang căn bản tâm của tôi, người thế gian hoặc người tu tập ở mức độ thứ nhất về cơ bản sẽ không thể hiểu được. Với họ, việc tôi ở một thế giới khác dạy Mật pháp cho Thượng sư Liên Điếm 20 năm cũng xem như đủ thần kỳ lắm rồi.
06. Tu thiền là điều bắt buộc
Hỏi:"Chúng ta nhất định phải tu pháp mỗi ngày đúng không? Chúng ta nhất định cần làm công khóa mỗi ngày đúng không? Chúng ta nhất định cần tu Thiền mỗi ngày đúng không?" Tôi trả lời: "Nhất định." Vì sao vậy? Lý do rất đơn giản, chúng ta tin vào Phật pháp, dựa vào duy nhất Phật pháp, chúng ta thực tu Phật pháp, nương nhờ vào Phật pháp thì mới có thể được cứu độ. Tôi nghĩ rằng: "Đây là điều quý giá nhất của đời người." Con người hiện đại toàn theo đuổi những thứ bên ngoài: tài, sắc, danh. Tôi nói: "Của cải chỉ là những thứ mà con người thế gian có được tạm thời, sắc đẹp chỉ là thứ có được tạm thời lúc tuổi thanh xuân, danh vị cũng chỉ là tạm thời có được. Tôi nói thẳng ra là tôi rất coi thường tiền bạc, nhan sắc, danh vị." Có người giàu có thì tự cho rằng mình xuất sắc! Có người tuổi trẻ xinh đẹp, tự cho rằng mình xuất sắc! Có người làm quan to, tự cho rằng mình xuất sắc! Tôi cười lớn ha ha ha, không thèm! Bởi vì giàu có rồi thì sao? Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì chẳng có gì cả. Thanh xuân xinh đẹp rồi thì sao, trong nháy mắt đã già yếu lụ khụ. Làm quan to rồi thì sao, sau vài năm thì cũng mặt mày bẩn thỉu. Những thứ đó chỉ là tạm thời. Thứ có giá trị nhất thực sự là thoát khỏi sinh tử, tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, tức thân thành Phật, không sinh không diệt, chứng ngộ được Phật tính của chính mình, Phật tính tồn tại vĩnh hằng. Tôi kính phục những thành tựu giả tu hành. Thế gian này chỉ có một thứ có giá trị nhất đó là: "Phật tính." Các vị cổ đức nói: "Phật tính không phải thực tu mà có được, nó vốn dĩ đã có sẵn." Tôi nói: "Nếu không trải qua tu Thiền thời gian dài, bạn sẽ không thể hiểu được rằng Phật tính không phải cứ tu hành mà có được." Ở đây xem ra có vẻ mâu thuẫn. Hơn nữa bạn cần phải để ý cẩn thận, hành giả thời cổ xưa, nếu như không đến được Tào Khê (*), làm sao biết là "vô sở đắc" đây? Phật tính Không tu mà đắc. [ND: Tào Khê: thiền cảnh, địa danh nổi tiếng trong Phật giáo, có đạo tràng lớn của Lục Tổ Huệ Năng (638-713), lúc đầu chỉ là tên dòng suối chảy trước chùa Hoa Nam, núi Song Phong, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.] Nhưng, tu Thiền là điều bắt buộc. Mật giáo tin rằng: Tu Thiền ở tầng lớp vi tế của tâm thức, khi làm cho thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh được thì mới lĩnh ngộ được tính Không vốn có. Tính Không vốn có này có thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi và giải thoát phiền não bệnh khổ. Trí huệ của khí. Trí huệ của mạch. Tịnh quang của minh điểm. Những trải nghiệm tu hành này có thể nhìn xuyên thấu những bẩn thỉu của dục vọng thế tục, hiểu được cái chân thực của cuộc sống, thậm chí nhờ vào trí huệ tính Không mà phá bỏ được phiền não, dục vọng, vô minh. Chúng ta nên: Kính lễ Phật tính mà ta sinh ra đã vốn có. Phật tính là nghệ sĩ múa - không động không đổi. Còn quần áo hóa trang của thế tục đều sẽ bị cởi bỏ hoàn toàn. Quán sát để phá bỏ đi biển ảo giác. Chỉ có thánh giả tu Thiền mới có thể nhận thức được mình. Tôi nói: "Tu Thiền là điều bắt buộc, cũng giống như Phật pháp, đều chỉ là một loại công cụ. Tôi đã khám phá được Phật tính được 40 năm, trong mọi trường hợp vẫn luôn chứng kiến được sự quý giá hiếm có bậc nhất của Phật tính. Thừa nhận rằng tu Thiền và Phật pháp chỉ là công cụ, nhưng không có công cụ thì không thể thấy được Phật tính đâu!"
07. Làm sao hóa giải nỗi ám ảnh của đau khổ
Hỏi:"Trong cuốn Hồ sơ cơ mật của Lư Thắng Ngạn, Lư Sư Tôn nói rất nhiều bí mật chưa từng công khai, bao gồm cả chuyện lúc sơ sinh và lúc còn nhỏ thường bị đánh. Thực tế rất nhiều người cũng từng có những hồi ức tuổi thơ không vui vẻ, thậm chí trở thành nỗi ám ảnh, kiểu vấn đề tâm lý này Phật pháp có cách gì có thể hóa giải được không?" Tôi trả lời: "Chỉ cần có thể thâm nhập vào Phật pháp, minh tâm kiến tính, không chỉ mỗi nỗi ám ảnh đau thương hồi nhỏ, thậm chí những dày vò đau khổ cả đời này đều có thể hóa giải được." Tôi nói: Cuộc đời con người, khổ nhiều hơn vui. Trong kinh Phật thường xuyên nói đến: Sinh ra là khổ. Sơ sinh khổ vì bệnh. Thanh niên và sau khi trưởng thành, nếu mất đi người bạn đời, của cải, hạnh phúc, sẽ đầy sự khổ đau. Phiền não là khổ. Mắc bệnh lại khổ gấp đôi. Về già càng khổ vì bệnh. Dù cho có của cải, khi mất đi lại càng khổ. Dù cho có đại danh, nhưng người nổi tiếng cũng rất nhiều, cũng là khổ. Dù có xinh đẹp, nhưng trẻ đẹp qua trong chớp mắt, cũng khổ. Hơn nữa, tiền tài, danh vọng, sắc đẹp đều chỉ có tạm thời, khi mất đi thì càng đau khổ. Cái gọi là tám thứ khổ chính là: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu nhưng phải ly biệt khổ, oán ghét khổ, cầu mà không được khổ, ngũ uẩn xung đột khổ. Nếu như cầu mà được thì sao? Vậy thì không khổ nữa đúng không? Thực tế cũng không phải vậy, cầu được rồi nhưng lo sợ bị mất lại càng khổ. Bài kệ nhắc nhở của Bồ Tát Phổ Hiền: Một ngày qua đi. Mệnh lại giảm bớt. Giống con cá nhỏ. Có niềm vui gì? Nói nhiều cái khổ như vậy, vậy thì Phật pháp có thể hóa giải như thế nào? Kinh Kim Cương có nói: Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng huyễn, bào, ảnh. Như lộ diệc như điện. Ưng tác như thị quán. Dịch nghĩa: Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn bóng ảnh. Như sương như chớp lóe. Nên quán chiếu như vậy. Ý ở đây muốn nói rằng hãy xem nỗi khổ như giấc mơ, như hư huyễn, như bong bóng, như ảo ảnh, không phải là thật. Hãy xem nỗi khổ như sương, như điện, như ánh sáng, như lửa đánh lên từ đá, rất nhanh chóng sẽ biến mất. Cũng chính là: Giống như một giấc mộng, rất nhanh chóng qua đi! Vẫn còn cách thức hóa giải tốt hơn nữa. Kinh Kim Cương viết: Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Điều này thuộc về "đệ nhất nghĩa không". Tất cả đau khổ đều bởi vì có "ngã" mà sinh ra, nếu tu đến "vô ngã tướng" thì đau khổ sẽ hóa giải được. Tất cả đau khổ đều bởi vì có "nhân ngã" mà sinh ra, nếu tu đến "vô nhân tướng" thì đau khổ sẽ hóa giải được. "Vô chúng sinh tướng" (vô không gian). "Vô thọ giả tướng" (vô thời gian). Từ góc nhìn của một người tu hành cao cấp, khổ và vui là nhị nguyên, kỳ thực cũng là nhất nguyên. Chúng ta hiểu được đạo lý của "đệ nhất nghĩa không" rồi thì khổ và vui căn bản là không tồn tại, đau khổ không tồn tại, niềm vui cũng không tồn tại, căn bản là không có gì cả. Tu hành đến được "không có gì" thì những ám ảnh về nỗi khổ sẽ nhanh chóng không còn nữa, trong tâm cũng không còn vướng mắc gì, làm gì còn ám ảnh? Trong Phật pháp, nếu như có thể thực sự hiểu được Phật tính chí lí cao nhất (tính Không), đệ nhất nghĩa không, việc hóa giải ám ảnh của đau khổ trở thành quá dễ dàng. Tôi hỏi ngược lại: "Có đau khổ không?"
08. Tôi từng có lúc không muốn sống nữa
Hỏi: "Lư Sư Tôn từng nói trong sách rằng ngài đã từng nhiều lần có suy nghĩ muốn tự sát! Vì sao vậy?" Tôi trả lời: "Tôi thừa nhận bản thân mình đã từng có lúc suy nghĩ không muốn sống nữa, hơn nữa không chỉ là một lần. Khi hoàn cảnh khách quan quá tàn nhẫn, tôi cơ bản không có cách nào vượt qua được. Khi đó tôi không có cách nào tự lừa dối bản thân mình, không có đường tiến cũng chẳng có đường lui, tôi hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Tôi vùi mình trong tâm trạng thấp tận đáy cùng, chỉ còn lại nỗi sợ hãi về cái chết, hoàn toàn suy sụp, giống như ngọn lửa sắp tàn vậy, rơi vào trạng thái chết." Tôi nói: "Tôi cảm thấy cực kì khủng hoảng đối với hoàn cảnh, kẻ thù xung quanh, sóng lớn bao vây bốn phương tám hướng dữ dội lao tới. Tôi có cảm giác bị nhấn chìm đến ngạt thở, hoàn toàn không còn một tia hy vọng sống nào nữa. Tôi ngước nhìn trời giống như một người bệnh mắc bệnh nan y giai đoạn cuối. Tôi nghĩ rằng sớm cũng chết, muộn cũng chết, chi bằng đi chết luôn!" Tôi nói: "Trong cuộc sống của mình ngày xưa, tôi đã từng thường thấy mình ở vào hoàn cảnh tàn nhẫn rất nhiều lần. Do vậy tôi suy nghĩ không muốn sống nữa, ý nghĩ này thường xuất hiện nổi lên trong đầu tôi." Hãy suy nghĩ về cuộc sống xem! Quá cay đắng, quá nhiều chuyện không như ý, quá vô thường, quá khiến người ta đau lòng, quá tàn khốc, quá tuyệt tình, quá khổ sở, cực kì không có cách nào thích ứng được, quá khổ không thể cố gắng thêm được, quá không còn đạo lý… Chúng sinh thật tội nghiệp, còn tôi thì chẳng có cách nào xoay sở để lựa chọn, tôi chỉ có thể chọn không tồn tại nữa." Dưới đây là tư liệu do Thượng sư Liên Hiểu thống kê: Theo báo cáo của bộ Y tế, đất nước chúng ta (Trung Quốc) mỗi năm có 25 vạn người chết vì tự sát. Tự sát là nguyên nhân dẫn đến cái chết đứng thứ 5 ở nước ta, nhóm người từ 15 đến 35 tuổi đứng vị trí dẫn đầu trong tổng số các trường hợp tử vong. Liên Hợp Quốc ước tính số người tự sát nhưng không chết còn gấp 10 đến 20 lần số người tự sát mà chết. Nếu ước tính số người tự sát không chết gấp 8 lần số người tự sát mà chết, bộ Y tế thông báo, Trung Quốc mỗi năm có ít nhất 200 vạn người tự sát mà không chết. Tôi đã từng luôn nghĩ muốn tự sát, nhưng sau khi học Phật thì Phật pháp đã khai sáng tôi. 1. Tự sát chính là "giết Phật". 2. Tự sát có nhân quả báo ứng. 3. Tự sát không phải là chết là xong. 4. Tự sát có trung ấm, có luân hồi. 5. Tự sát sẽ phải xuống địa ngục chết oan. 6. Tự sát là một hành động bất lương. 7. Tự sát không phải là chỉ chết một Lư Thắng Ngạn, mà là chết tấm lòng của 500 vạn đệ tử. 8. Lư Sư Tôn tự sát là giết chết Chân Phật Tông. ... Sau này, tôi tu hành đạt đến minh tâm kiến tính, sau khi hiểu rõ được đệ nhất nghĩa đế, tôi có được hai giác ngộ lớn: Thứ nhất: Tự sát trong đệ nhất nghĩa đế căn bản hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì. Người sống như sóng, người chết như nước. Căn bản không có sinh cũng không có tử. Tự sát kỳ thực nghiệp chướng rất nặng, đó là sự bám chấp của tâm phàm phu, không biết gì về Phật tính, hiểu sai về sinh tử, nhận thức nông cạn về sinh mệnh. Thứ hai: Tự sát là trọng tội sát sinh, nỗi khổ chịu tội này gấp nhiều lần so với nhân gian. Sẽ bị đóng băng, bị lửa thiêu, bị chọc thủng tim, bị khoét mắt, bị nấu sôi, bị bánh xe cán, bị ăn phân, bị uống nước tiểu, bị lột da, bị đội sừng… Tự sát nếu chuyển thế làm người cũng là người bị tàn tật, bạn tự sát hại mình ở chỗ nào thì chỗ đó sẽ bị tàn tật. Tự sát sẽ không thể thành Phật. Tự sát không thể thành Thần. Tự sát chỉ có thể thành Quỷ.
09. Khiển trách của sư phụ
Hỏi: "Trong sách của chính Lư Sư Tôn, ngài có kể trong thời gian học Phật, bản thân đã nhận rất nhiều khiển trách của sư phụ, vì sao các sư phụ lại mắng ngài vậy?" Tôi trả lời: "Làm đệ tử khó tránh khỏi mắc lỗi. Tôi cũng không phải là một thánh hiền dạng trời sinh, làm sai việc thì đương nhiên nên bị mắng." "Trong lòng ngài có oán hận không?" Tôi trả lời: "Học Phật pháp từ sư phụ thì đội đầu cảm ân, tôi luôn luôn ghi nhớ ân từ của sư phụ, làm sao dám oán hận." Từng có một chuyện như thế này: Mấy đệ tử của tôi thích đi gặp Sư công Thubten Dargye (Thubten Dorje) Thượng sư. Thubten Dargye Thượng sư kiểm tra họ. "Lư Sư Tôn cơ bản là đồ ngốc." "Lư Sư Tôn không dạy được mấy người đâu." "Lư Sư Tôn không đáng để quy y." "Pháp của Lư Sư Tôn là tà pháp." … Sư công dọa đến mức khiến rất nhiều đệ tử sợ tè ra quần, sau khi họ rời khỏi chỗ Sư công liền thối lui đạo tâm, đem trả lại chứng nhận quy y về chỗ tôi. Đợi đến khi tôi đi gặp Sư công, Thubten Dargye Thượng sư an ủi tôi: "Lư Sư Tôn, các đệ tử có tín tâm bất định mà con dạy đó, thầy đã giúp con lọc từng người từng người một rồi, kiểm tra xem họ có thực là nhất quy y không. Những đệ tử rác như đồng thủng thép cong không vượt qua được bài kiểm tra này thì không cần phải bận tâm. Người có tín tâm chân chính mới là đệ tử chân chính đó!" Tôi cảm kích Thubten Dargye Thượng sư. Sư phụ của tôi quả thực đã bận tâm suy nghĩ nhiều. Sư phụ nói: "Mật giáo quy y là nhất quy y, là niềm tin thanh tịnh. Ta mới nói vài câu đã khiến bọn họ thối lui rồi, những đệ tử "táo ủng" đó thì còn cần họ làm gì đây? Bọn họ mới chính là những kẻ ngốc." Do vậy, sư phụ trách mắng tôi cũng là có cái lý khác của nó. Tôi bị Liễu Minh Hòa Thượng khiển trách rất nhiều! Tôi bị Thubten Dargye Thượng sư khiển trách mọi lúc mọi nơi. Tôi bị Sakya Chứng Không Thượng sư mắng tương đối ít. Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 thì lại không trách mắng bao giờ. Phổ Phương Thượng sư thì có khiển trách chút chút. Trên phương diện Hiển giáo, sư phụ quy y đầu tiên của tôi là Ấn Thuận đạo sư, tông trưởng của Tam Luận Tông, ngài đã viết một cuốn sách có tên "Tôi và Lư Thắng Ngạn", toàn bộ cuốn sách là khiển trách tôi. Phản ứng của tôi là: Sư phụ có thể khiển trách đệ tử. Đệ tử không thể khiển trách sư phụ. Tôi có lỗi, tôi sửa sai. Tôi không có lỗi, tôi nhẫn nhịn. Tôi mãi mãi cung kính Ấn Thuận đạo sư. Quan điểm của tôi là: sư phụ có lòng chỉ trích tôi, đó là phúc phận của tôi, thể hiện trong lòng sư phụ còn có người đệ tử không đáng tôn trọng là tôi đây, bản thân còn có giá trị thì mới có thể bị khiển trách. Nếu như Thượng sư hoàn toàn lờ bạn đi, cũng chẳng khen ngợi, cũng chẳng trách mắng, mặc kệ bạn sống hay chết, việc này mới là nguy hiểm. Sư phụ mà trách mắng là thể hiện còn có quan tâm. Thử nghĩ về tổ sư Milarepa xem! Ngài Milarepa bị ngài Marpa đại sư chửi mắng rất vô lý, đau khổ vạn lần. Nhưng Milarepa vì muốn cầu pháp nên nhẫn nhục tất cả, tất cả mọi chửi mắng đều dằn xuống, như vậy mới có thể thành người có năng lực. (Ngọc không mài giũa không thành đồ vật quý.) Đáng cười nhất là nhóm thanh niên "thảo mai" hiện đại ngày nay hoàn toàn không có khả năng nhẫn nhịn. Mắng họ một câu. Họ liền thối lui đạo tâm. Quay lại chửi sư phụ mười câu, còn thù hận sư phụ nữa! Tội nghiệp xiết bao!
10. Ôn thần có còn không?
Hỏi: "Cách đây không lâu, Lư Sư Tôn nhìn thấy từ trên trời hạ giáng xuống ba vị ôn thần, điềm báo nhân loại sẽ gặp phải tai họa bệnh dịch, quả nhiên dịch H1N1 bùng phát. Thế nhưng giống như nước chảy qua cầu, tình hình nay đã đổi khác, những ôn thần này có còn tồn tại không?" [ND: Ôn thần: vị thần gieo rắc dịch bệnh, kẻ hung ác gieo tai họa cho người khác.] Tôi trả lời: "Tôi nhìn thấy trên trời có chòm sao hạ xuống. Việc chòm sao trên trời giáng xuống này đều sẽ xảy ra hiện tượng tốt hoặc xấu. Dựa theo sự vận hành của các chòm sao mà quyết định vận mệnh của mỗi người, của gia tộc, của quốc gia, của nhân loại thế giới. Trong Đại Tạng Kinh có "Túc mệnh trí đà la ni kinh", "Túc mệnh đà la ni Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiện ác túc diệu kinh", "Túc diệu nghi quỹ", "Thất diệu nhương tai pháp", "Thất tinh như ý luận bí yếu kinh", "Thất diệu tinh thần biệt hành pháp". Tôi nói: "Theo sự tuần hoàn của chòm sao và sự hạ giáng của ôn thần, tôi gọi họ là Hắc thiên sứ. Hắc thiên sứ này mà hạ giáng thì nhân loại chắc chắn sẽ gặp kiếp nạn. Điều này khiến chúng sinh trong tam giới đều phải lo lắng, bệnh dịch chẳng qua chỉ là một trong số đó mà thôi. Hắc thiên sứ có thể nắm trong tay cả tam giới." Ví dụ: Núi lửa phun trào. Động đất lớn. Sóng thần. Cuồng phong. Bệnh dịch. Ngập lụt, hạn hán, bão tuyết… (Ôn thần này chẳng qua chỉ là một trong số đó mà thôi.) Hắc thiên sứ này hạ giáng, trói buộc toàn bộ nhân loại, đặc biệt càng tới giai đoạn cuối thì Hắc thiên sứ càng hạ giáng thường xuyên hơn. Đây đã không còn là vấn đề có hay không có nữa mà là nhân loại chắc chắn luôn luôn bị ghìm giữ, sẽ khiến nhân gian khổ không lời nào kể xiết. Tôi về Đài Loan tổ chức "Khổng Tước Minh Vương hộ quốc đại Hộ Ma hỏa cúng", mục đích chính là đánh bật Hắc thiên sứ, giúp Đài Loan gió thuận mưa hòa, quốc thái dân an. Đáng tiếc là: Tín căn không có. Tâm không gắn với Phật pháp. Lòng người khiếm khuyết. Không tinh tấn tu hành. Không có sự đồng thuận đồng lòng. Con người quá ngạo mạn. Bởi vì các yếu tố này khiến cho hành giả có tấm lòng bi mẫn chúng sinh là tôi đây không ngớt thở dài tiếc nuối. (Chỉ còn đành) Nắm tay. Lắc đầu. Đài Loan là quê hương của tôi, tôi trở về Đài Loan để đánh đuổi Hắc thiên sứ. Tôi có tinh thần vì nghĩa nên không hối tiếc, chỉ có điều do các yếu tố trên khiến cho tôi đau xót đến rơi nước mắt. Tôi nhận thấy Hắc thiên sứ của Đài Loan không chỉ là ôn thần vô hình, Hắc thiên sứ hữu hình và ôn thần cũng rất nhiều. Khi ở nước ngoài, có người hỏi: "Lư Sư Tôn, ngài có yêu Đài Loan không?" Tôi đáp: "Yêu." Người đó hỏi ngược lại: "Đài Loan có yêu ngài không?" Tôi đáp: "Tôi không quan tâm Đài Loan yêu hay không yêu tôi, tôi vẫn yêu Đài Loan." Người đó lắc đầu bỏ đi. Bây giờ cuối cùng tôi đã hiểu, tôi yêu Đài Loan nhưng cũng nhận thấy sự lạnh lùng của Đài Loan. (Một bộ phận nhỏ con người có thái độ như vậy.) Cho dù đúng là tôi đem cái mặt nóng dán lên cái mông lạnh của Đài Loan, nhưng yêu là yêu, ai bảo tôi sinh ra trên mảnh đất đó, lớn lên trên mảnh đất đó, vì nghĩa tôi sẽ không quay lưng lại. Con người này của tôi: "Tâm không phụ người, mặt không thẹn sắc!" "Tôi không chỉ yêu Đài Loan, tam thiên đại thiên thế giới tôi đều yêu." "Lòng tôi chỉ nhớ Đài Loan, suy nghĩ đều hướng về phương Đông." Tôi có "đại cứu nạn chú", tương lai Đài Loan có bất kì tai ương gì tôi sẽ lấy "đại cứu nạn chú" để dùng.
11. Nhân quả bất khả tư nghì
Hỏi: "Ở Chân Phật Tông có một sư huynh làm nghề y nhiều năm, để lại cho người khác ấn tượng đây là người thực tu, kính sư, trọng pháp. Thế nhưng gần đây anh ta lại đổ bệnh không thể gượng dậy được, một vài người không thể hiểu được điều này là vì sao?" Tôi đáp: "Nhân quả bất khả tư nghì!" Tôi nói: Bản thân tôi cũng vô cùng lo lắng đối với vị sư huynh làm bác sĩ này, nên đã vì anh ta mà làm tất cả các việc sau. Tôi gửi một tấm long bào để gia trì cho anh ta. Tôi thỉnh một vị là Thất Địa Bồ Tát và một vị là Phật Sơn Trưởng Lão, ba người cùng tu pháp rồi hồi hướng cho anh ta. Chúng tôi tu pháp không chỉ một lần, tổng cộng tu ba đàn pháp để cố gắng cứu anh ta. Bản thân tôi cũng đích thân đi cầu Diêu Trì Kim Mẫu. Bản thân tôi cũng đích thân vội vã đến thăm anh trên giường bệnh, đích thân gia trì nước chú rẩy tịnh. Rồi tôi lại niệm chú trị bệnh tối thắng, dùng công pháp của bản thân truyền sang người của anh bác sĩ này. Tôi đến thăm và gia trì tổng cộng hai lần. Vị sư huynh bác sĩ này sau mỗi lần được tôi gia trì đều có dấu hiệu tốt lên, nhưng sau đó không lâu lại trở về tình trạng như ban đầu, tốt lên một chút, lại xấu đi một chút. Tôi nói thẳng: Việc của sư huynh bác sĩ này khiến tôi không ngớt buồn phiền! Tôi nói: "Nhân quả quả nhiên bất khả tư nghì!" Nhân sinh ra thế nào thì quả sẽ sinh ra như thế, có nhân tất sẽ có quả, có quả chắc chắn có nhân, đây là đạo lý của nhân quả. Phật giáo thường giảng nhân quả ba đời, trong đó có tồn tại chân lý của thiện ác báo ứng. Quán vô lượng thọ kinh viết: Tin tưởng sâu sắc nhân quả, không phỉ báng đại thừa. Chỉ quán viết: Quả đến bởi nhân, được mùa bởi quả. Thập trụ tỳ bà sa luận viết: Biết được nguyên nhân, đắc được thành tựu. Quả từ nhân mà có, việc thành gọi là quả. Thực tế nhân quả cũng hiển hiện rất rõ ràng: Chỉ quán: Tồn chư giáo tắc nhân quả lịch nhiên - giữ mọi lời dạy thì nhân quả tự nhiên mà đến. Tông kính lục: Tất cả là một, đều là vô tính, một là tất cả, nhân quả hiển nhiên. Tế duyên kí: Tốt đẹp mà không thể làm, thực tế vẫn là bởi nhân quả. Tôi biết nhân quả không thể bù trừ cho nhau được, bất kể là nhân trước quả sau hay là quả trước nhân sau. Ví dụ: Chúng ta đầu tiên làm một vài việc ác, sau đó lại tu hành, đầu tiên sẽ phải chịu nhận một ít ác báo, sau đó lại có được thiện quả của việc tu hành. Chúng ta đầu tiên tu hành, sau đó lại làm việc ác, đầu tiên sẽ được hưởng một vài thiện quả của việc tu hành, sau đó lại gặp quả báo của việc ác. Không có chuyện chịu thay. Không có chuyện thay thế. Không có chuyện bù đắp. Việc này gọi là "nhân quả lịch nhiên". Đặc biệt chuyện nhân quả thì sâu rộng không thể đo lường, có ba kiếp, trăm kiếp, nghìn kiếp, kiếp kiếp, muốn nhìn thấu việc nhân quả không phải là một việc dễ dàng. Thậm chí có tiên nhân biết túc mệnh thông cũng chỉ là quan sát được một chút chút chứ không hề hiểu được toàn bộ tận cốt lõi, từ đó có thể thấy rõ ràng rằng nhân quả bất khả tư nghì. Bản thân Phật Đà cũng có nhân quả bị đau đầu, xương mọc lồi ra. Gia tộc Thích Ca cũng bị nhân quả tuyệt tộc. Tôn giả Mục Kiền Liên cũng có nhân quả bị ngoại đạo đánh cho thịt nát xương tan. … Riêng việc nhân quả lịch nhiên này, kể cả Phật Đà đã thành Phật vẫn không trốn thoát khỏi nhân quả.
12. Vì sao các Thượng sư đều có thể mặc long bào?
Hỏi: "Vì sao Lư Sư Tôn tuyên bố các Thượng sư đều có thể mặc long bào?" Đáp: "Phật tính bình đẳng, người người bình đẳng." Hỏi: "Long bào tượng trưng cho cái gì?" Đáp: "Trời." (Thiên long) Hỏi: "Trời có thể mặc trên người sao?" Đáp: "Kim cương Thượng sư có thể. Bởi vì Kim cương Thượng sư là đại diện cho Kim Cương Tát Đỏa, trên đỉnh đầu Kim cương Thượng sư có Ngũ Phật, đội mũ Ngũ Phật. Tay trái là chuông kim cương, tay phải là chày kim cương. Đây chính là biểu trưng của Kim Cương Tát Đỏa, là vị thầy quán đảnh truyền pháp của kim cương thừa." Tôi lại nói: "Trên đỉnh đầu có Ngũ Phật, ở giữa là Tỳ Lô Giá Na Phật, đông phương A Sơ Phật, tây phương A Di Đà Phật, bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, nam phương Bảo Sinh Phật. Ảnh hưởng của Ngũ Phật so với Thiên long thì lớn hơn cao hơn vô số lần, do vậy không thể so sánh, có thể có Ngũ Phật tại đỉnh đầu thì mặc long bào có là gì đâu?" Hỏi: "Ngày xưa thiên tử mặc long bào, ngày nay Kim cương Thượng sư cũng mặc long bào, lẽ nào thiên tử và Kim cương Thượng sư là ngang hàng nhau?" Đáp: "Ngày xưa thiên tử đại diện cho trời, ngày nay Kim cương Thượng sư đại diện cho Ngũ Phật và Kim Cương Tát Đỏa. Chính là Nhân Vương và Pháp Vương, hai người đều là vua. Nhân Vương là vua nhập thế, Pháp Vương là vua xuất thế. Tôi cho rằng vị trí của Pháp Vương vượt xa Nhân Vương, Nhân Vương chỉ ở nhân gian, còn Pháp Vương thì đi khắp tam giới, Pháp Vương chân chính đứng cao hơn Nhân Vương vô số lần. Do vậy ngày xưa có quan điểm Pháp Vương không đảnh lễ Nhân Vương, tỳ kheo không đảnh lễ Quốc Vương." Hỏi: "Lư Sư Tôn là Pháp Vương chân chính, đương nhiên có thể mặc long bào, nhưng Kim cương Thượng sư bình thường sao có thể cũng mặc long bào được?" Đáp: "Đã là một Kim cương Thượng sư, việc mặc long bào tôi vẫn cho rằng có thể được. Nhưng nhất định phải tương hợp giữa danh và thực. Nếu như anh chỉ là một Kim cương Thượng sư với cái tên được đúc ra, công lực tu hành vẫn nông, không tương ứng, không có chứng nghiệm, không giác ngộ, không kiến tính, anh mặc long bào chẳng qua chỉ là một diễn viên trên sân khấu thôi." Hỏi: "Ngài nói xem Thượng sư nếu (kém) như vậy thì vẫn có thể mặc long bào không?" Đáp: "Danh và thực nếu không tương hợp, mặc long bào trên đầu có Ngũ Phật, đương nhiên không đúng. Nhưng Lư Sư Tôn từ bi với chúng sinh, luôn luôn hy vọng Kim cương Thượng sư có thể tinh tấn tu hành, tu được chứng nghiệm chân thực, rồi sẽ có một ngày có thể làm cho danh và thực tương ứng phù hợp." Hỏi: "Nếu mặc long bào thế, đứng bên ngoài nhìn vào một nhóm cả Lư Sư Tôn và Thượng sư, làm sao phân biệt được ai?" Tôi nói: Tôi và nhóm Thượng sư không phân biệt. Ngay cả pháp hiệu cũng không phân biệt. Quần áo mặc không phân biệt. Phật tính Không phân biệt. Chứng ngộ đến tối thượng cũng không phân biệt. Tôi chính là bạn, tôi chính là anh ta. Ngay cả tự viện của chính mình tôi cũng không có, tôi căn bản là chẳng có cái gì cả, chính là bởi vì cái gì cũng đều không có mới có thể quảng đại vô biên! Viết một bài thơ vậy! Bao nhiêu tuổi đời vẫn là ít. Thân thể khỏe mạnh rồi cũng qua. Đến được hôm nay còn chi đáng bận lòng. Pháp Vương họ Lư này. Tương lai có thể đổi danh hiệu gì nữa đây. Hư danh là hạt cát. Để trời cao cười nhạo chơi.
13. Vì sao Thượng sư có thể nhận đệ tử?
Hỏi: "Vì sao Lư Sư Tôn phải tuyên bố Thượng sư của Chân Phật Tông đều có thể thu nhận đệ tử? Lư Sư Tôn vẫn còn sống đây mà?" Tôi trả lời: "Năm đó lúc ở Đài Loan, tôi sống tại tòa nhà Lạc Quần, có một nhóm người theo sát bất ngờ mời tôi ngồi vào ghế danh dự, rồi họ lập tức hướng về tôi đảnh lễ tam quỳ cửu khấu. [ND: Tam quỳ cửu khấu: ba lần quỳ, chín lần đảnh lễ.]
Tôi không kịp phản ứng, họ nói: đây là làm nghi thức bái sư phụ. Trong phút chốc, tôi đã trở thành sư phụ của họ. Lúc đó tôi mới ngoài ba mươi tuổi, trong chốc lát đã trở thành sư phụ rồi! Tôi nói: "Nhóm đệ tử đầu tiên muốn quy y tôi, tôi hoàn toàn không biết gì. Họ lén in chứng thư quy y, lén tập trung bàn luận chọn lấy một ngày đẩy tôi vào ghế ngồi danh dự, thế là tôi trở thành sư phụ, đây là việc không lường trước được." Tôi cảm thấy: Lúc đó bản thân tôi vẫn còn có sư phụ, sư phụ Hiển giáo, sư phụ Mật giáo. Sư phụ Hiển giáo tôi quy y là: Ấn Thuận đạo sư. Lạc Quả pháp sư. Đạo An pháp sư. Sư phụ Mật giáo tôi quy y là: Liễu Minh Hòa Thượng. Sakya Chứng Không Thượng sư. Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16. Thubten Dargye Thượng sư. Và một số vị thầy khác nữa. Những sư phụ này lúc đó vẫn còn tại nhân gian, nhưng tôi đã có đệ tử rồi. Cũng giống như vậy: "Lúc Lư Sư Tôn vẫn còn sống, nhóm Thượng sư của Chân Phật Tông chúng ta đương nhiên có thể thu nhận đệ tử." Tôi lại nghĩ đến năm đó ngoài 30 tuổi nhận đệ tử, năm nay tôi đã 66 tuổi, tuổi tác đã già không còn ít nữa, để tiếp nối truyền thừa của Chân Phật Tông thì để cho các Thượng sư thu nhận đệ tử, có gì mà không được? Cũng không nhất định cần đợi đến sau khi tôi tịch diệt. Còn nữa: Giữa sư phụ, đệ tử và nhân duyên tích lũy nhiều kiếp có sự liên quan rất lớn. Nhân duyên giữa người và người, nhân duyên giữa người và gia tộc, trong thế giới tâm linh vô hình đều có định số rồi. Do vậy, giữa sư phụ và đệ tử có nhân duyên không thể tách rời, có người chắc chắn cần quy y bạn, cảm thấy vị sư phụ này mới là hợp duyên, trong đó tự nhiên đã có nhân quả. Vì thế tôi mới tuyên bố, nhóm Thượng sư của Chân Phật Tông đều có thể nhận đệ tử. Tôi nói: Tôn kính đại truyền thừa Chân Phật Tông, thần thông có thừa tràn đầy khắp vũ trụ. Phóng quang chiếu rọi khắp tam giới, hiện chứng liên tục khắp muôn nơi. Đây là pháp hiệu của truyền thừa sẽ còn tiếp diễn. Ví dụ: Thứ nhất, mang pháp hiệu chữ "Liên" cả đời. Thứ hai, mang pháp hiệu chữ "Cung" cả đời. Thứ ba, mang pháp hiệu chữ "Kính" cả đời. Tương tự như vậy… Tôi cho rằng: Người học Phật chúng ta mang danh chủng tử Phật, cần không ngừng nhân rộng lên tại nhân gian, đem chủng tử Phật gieo tới khắp ruộng vườn chúng sinh, từ đó nảy lên những cây mầm chính giác. Những chủng tử Phật này cũng là từ duyên phận mà sinh ra, cho phép những chúng sinh cõi trần có cơ duyên có thể giải thoát khỏi khổ luân hồi, tương lai bất sinh bất diệt, hoằng dương Chân Phật rộng khắp. Có thể có duyên quy y Chân Phật đều là người có duyên từ kiếp trước, vốn đã có công đức rất lớn, tương lai đều có thể chứng minh "vô sinh pháp nhẫn", cứ như vậy mà tiếp tục, cứ như vậy mà không gián đoạn. Đây là biểu hiện của pháp giới đó! Tôi nói: Nghe đạo có trước sau, sự nghiệp có chuyên môn. Mỗi một vị Thượng sư Chân Phật cũng là như vậy. Cảnh giới của chư Phật là bất khả tư nghì, đệ tử chẳng phải đệ tử, chính gọi là đệ tử. Mọi người có thể hiểu được không?
14. Ngày tận thế của trái đất
Hỏi: "Năm trước có bộ phim bom tấn "2012" mô tả ngày tận thế của trái đất. Mọi người tin theo những lời đồn đại khiến trong lòng rất lo lắng. Tai nạn kiểu này có khả năng xảy ra không?" Tôi trả lời: "Có thể!" Hỏi: "Lư Sư Tôn đang dọa à?" Tôi trả lời: "Tôi không dọa. Dựa theo những lời dạy trong Phật điển, trái đất nhân gian này vốn là thành, trụ, hoại, không. Đến lúc phải hoại thì trái đất sẽ hoại thôi, nhân loại đương nhiên cũng kết thúc. Tam pháp ấn của Phật Đà là: chư hành vô thường (mọi việc là vô thường), chư pháp vô ngã (mọi pháp không có thực tính), niết bàn tịch tĩnh (niết bàn hoàn toàn an tịnh). Chư hành vô thường ở đây không chỉ ám chỉ con người, mà cũng ám chỉ cả thế gian, cả thế gian cũng là chư hành vô thường. Bởi vì là trạng thái vô thường, làm sao có thể không hoại?" Tôi nói: Trong Phật điển nói rõ ràng, có ghi chép rằng tam tai có thể xảy ra bởi kiếp nạn là: Tiểu tam tai: 1. Nạn chiến tranh. 2. Nạn bệnh dịch. 3. Nạn đói kém. Đại tam tai: Thứ nhất - hỏa hoạn: Bảy mặt trời đồng thời xuất hiện thiêu cháy trái đất này, thấp nhất từ địa ngục vô gián đến cao nhất là cõi trời sơ thiền Sắc giới. Thứ hai - lũ lụt: Thấp nhất từ địa ngục vô gián đến cao nhất là cõi trời nhị thiền Sắc giới, tất cả đều bị nhấn chìm. Thứ ba - cuồng phong: Thấp nhất từ địa ngục vô gián đến cao nhất là cõi trời tam thiền, tất cả vật chất đều bị gió cuốn bay. Câu Xá Luận viết: "Đầu tiên hỏa hoạn bùng lên, liên tục trong bảy ngày, tiếp theo là lũ lụt, mưa lớn liên miên, sau cùng là gió lốc sẽ quật đổ mọi thứ. Ba tai họa này xảy ra sẽ phá hủy thế gian, thậm chí cả cát bụi nhỏ nhất cũng không còn tồn tại." Kinh Phật nói: "Trong một đại kiếp có bốn kiếp thành, trụ, hoại, không, điểm kết của kiếp hoại thì có một đại họa xảy ra trong một khoảng thời gian." Nói tóm lại, tập hợp mọi điều nói trên, trái đất nhân gian chắc chắn có một ngày sẽ bị hủy diệt trong kiếp hoại. Ngày tận thế là có thật. (Sách Khải Huyền của Cơ Đốc giáo "Tân ước toàn thư" cũng ghi chép về ngọn lửa địa ngục trong ngày tận thế.) Lư Sư Tôn nói như sau: Người tu hành chúng ta hiểu rất rõ ràng đạo lý mọi thứ đều vô thường, đời người cũng trong trạng thái thực sự vô thường, cuộc sống mỗi ngày mỗi ngày lại tiến dần về phía cái chết, sống thêm một ngày cuộc đời lại bớt đi một ngày, con người sống cơ bản chính là "chờ chết". (Trên thế gian không có con người bất tử.) Người tu hành chúng ta hiểu rất rõ ràng đạo lý thành trụ hoại không. Thế gian này cũng là trạng thái phi thường, thế gian cũng sẽ tiến vào kiếp hoại, ngay cả đến trái đất cũng sẽ không còn tồn tại. Tiếp đó, không chỉ là trái đất không tồn tại, đến ngay cả "chư Thiên" cũng đều sẽ hoại, thậm chí cả hệ mặt trời. Hiểu được đạo lý này, trong lòng lo sợ thì có tác dụng gì? Chi bằng cứ dựa vào "tâm bình thản" mà sống qua ngày! Việc gì đến sẽ đến. Việc gì không đến sẽ không đến. Sống cũng không mừng, chết cũng không lo. Tóm lại, Lư Sư Tôn tôi thực hành tốt công khóa tu hành mỗi ngày là tuyệt rồi. Khi cuộc đời của tôi kết thúc, nguyên thần của tôi (Phật tính) sẽ bay tới cõi tịnh độ Ma Ha Song Liên Trì. Những thứ có được trên mặt đất đều thua những thứ trên trời. Những thứ dưới đất không có được thì bay lên trời là có. (Những gì nên làm tại nhân gian, hành giả chúng ta hãy lấy tinh thần vô vi mà làm.) Tôi nói cho mọi người hay: Sống một ngày, vui một ngày. Sống một ngày, biết ơn một ngày. Sống một ngày, tu hành một ngày.
15. Khi tai nạn xảy đến nên làm gì?
Hỏi: "Khi tai nạn xảy đến nên làm gì?" Tôi trả lời: "Đời này tôi thường nghĩ đến hai chữ vô thường. Hai chữ này có hai hàm nghĩa. Một là, cơ thể con người mỗi ngày đều biến đổi, không chỉ biến đổi mỗi ngày mà từng giờ từng phút từng giây đều biến đổi. Đây là hàm nghĩa thứ nhất của vô thường. Thứ hai, con người chúng ta bất kể là ở trong nhà hay đi ra ngoài đều sẽ phát sinh những việc ngoài ý muốn, những việc xảy ra ngoài ý muốn kiểu này có tính chất bất ngờ, khiến người ta trở tay không kịp. Đây là hàm nghĩa thứ hai của vô thường." Tôi nói: "Khi tai nạn xảy đến nên làm gì? Tôi là một người hay nghĩ về vô thường, do vậy bình thường tôi đã làm tốt công việc chuẩn bị rồi. Công việc chuẩn bị này chính là tu được pháp vãng sinh tịnh độ, đây chính là bài thực hành mỗi ngày của tôi. Ban ngày cũng tu, ban đêm lên giường ngủ cũng tu. Miên quang pháp của tôi chính là pháp quang minh vãng sinh tịnh độ." Tôi nói: "Ví dụ tôi đi máy bay, sau khi lên máy bay, ngồi vào chỗ xong xuôi, thắt dây an toàn, tôi lập tức quán tưởng bổn tôn trụ tại đỉnh đầu, hoặc đi vào trong tim tôi, lúc này tôi sớm đã làm xong công việc chuẩn bị cho vô thường rồi. Trong trường hợp máy bay xảy ra sự cố, tôi hô "siêu" một tiếng là lập tức vãng sinh Phật quốc tịnh độ. Tai nạn không xảy ra là tốt nhất, một khi xảy ra, tôi liền theo bổn tôn tiếp dẫn mà đi đến Phật quốc. Thế nên bản thân tôi đối với ai nạn không thấy lo sợ chút nào. Không xảy ra cũng được, xảy ra cũng được." Tôi nói: "Từ ví dụ ở trên có thể thấy bất kì lúc nào tôi cũng đều làm tốt việc chuẩn bị vãng sinh. Sống chết đối với tôi mà nói không phải là việc đáng sợ, sống chẳng vui, chết chẳng lo. Tôi là một người tu hành, mỗi ngày làm tốt việc tu hành vãng sinh tịnh độ quang minh thế giới, đâu cần phải sợ tai nạn. Đặc biệt khi tôi là một hành giả đã giác ngộ thì sống hay chết từ lâu đã không để trong lòng rồi, vô sinh vô tử mà!" Tôi từng thuyết pháp với mọi người như sau: "Tôi chẳng có chút cảm giác nào đối với thuyết ngày tận thế năm 2012." Ý tôi là muốn nói rằng: Ngày tận thế không tới, tôi có thể hoằng pháp nhiều hơn vài năm, coi như là độ chúng sinh vậy! Ngày tận thế mà tới, tôi cười lớn ba tiếng ha ha ha rồi đi vãng sinh ở Phật quốc thanh tịnh! Nếu như tai nạn xảy ra, chúng sinh bị hủy diệt, lúc này thì bình đẳng không phân biệt! Vợ con tiền tài lợi lộc, bình đẳng bình đẳng! Vinh hoa phú quý, bình đẳng bình đẳng! Béo tròn hay gầy nhẳng, bình đẳng bình đẳng! Quan lớn hay tiểu tốt, bình đẳng bình đẳng! Con con cháu cháu, bình đẳng bình đẳng! Đại danh hay vô danh, bình đẳng bình đẳng! Lúc này mới đích thực là thiên hạ thái bình! Ở núi Ngưu Đầu phủ Hưng Nguyên có Tinh thiền sư. [Núi Ngưu Đầu: một địa danh ở Đài Đông, Đài Loan.] Tăng nhân hỏi: "Thế nào là cổ Phật tâm?" Tinh thiền sư đáp: "Bong bóng nổi trên biển Đông." (Biến mất rồi!) Hỏi: "Thế nào là lĩnh hội?" Đáp: "Búa cân rơi xuống giếng." (Biến mất rồi!) Hỏi: "Không phải phàm phu không phải thánh nhân thì là người gì?" Đáp: "Phó đại sĩ của Lương triều." Hỏi: "Lý do là gì?" Đáp: "Mạnh Thường Quân của nước Sở." Tôi nói: "Phó đại sĩ, Mạnh Thường Quân, đều biến mất rồi!"
16. "Vô sinh pháp nhẫn" là gì?
Hỏi: "Vô sinh pháp nhẫn là gì?" Tôi trả lời: "Vô sinh pháp nhẫn còn được gọi tắt là vô sinh nhẫn. Người vô sinh pháp tách xa ra khỏi thân thể vật lý chân như thực tướng của sinh và diệt. Trí tuệ đích thực nằm tại nguyên lý này không suy chuyển. Đây chính là vô sinh pháp nhẫn." "Tại Bồ Tát Sơ Địa, Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa, mọi cảnh giới giác ngộ có thể đạt được." Kinh Bảo Tích viết: Người vô sinh pháp nhẫn, tất cả mọi pháp vô sinh vô diệt đều chịu đựng được. Kinh Duy Ma viết: Pháp nhẫn còn gọi là huệ tính, kiến pháp vô sinh, tâm trí tịch diệt, chịu đựng không thoái lui. Như vậy gọi là vô sinh pháp nhẫn. Trí Độ Luận viết: Người vô sinh nhẫn, thậm chí pháp nhỏ nhất cũng không hề đắc, nói gì đến pháp lớn, gọi là vô sinh. Đạt được vô sinh pháp này, không tạo không gây nên nghiệp hạnh, gọi là đắc vô sinh pháp nhẫn, đắc vô sinh pháp nhẫn Bồ Tát, gọi là A Bính Bạt Trí (Hậu Bổ Phật). Đại Thừa Nghĩa Chương viết: Gốc chẳng hề khởi, chính là vô sinh. Thể ngộ lý này, chính vô sinh nhẫn. Kinh Nhân Vương viết: Người mà không còn cần dùng lời nói, đó chính là chân lý, trí huệ chứng được chân lý này gọi là vô sinh nhẫn. Kinh Lăng Nghiêm viết: Hiểu được vô sinh pháp, ghi nhớ khắc sâu quyết định này, gọi là vô sinh pháp nhẫn. Kinh Vô Lượng Thọ viết: Có ba kiểu "nhẫn": 1. Âm hưởng nhẫn: người ngộ ra chân lý từ âm hưởng. 2. Nhu thuận nhẫn: người có huệ tâm mềm mại, tùy thuận theo chân lý. 3. Vô sinh pháp nhẫn: người chứng thực được thực tính của vô sinh mà rời xa mọi tướng, là cái nhẫn mức độ cao nhất của ngộ đạo. Để giải thích về vô sinh pháp nhẫn, Lư Sư Tôn đã liệt kê ra lời giảng từ bảy bộ kinh điển, bảy bộ kinh điển này là: Kinh Bảo Tích, Kinh Duy Ma, Trí Độ Luận, Đại Thừa Nghĩa Chương, Kinh Nhân Vương, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ. Tôi thường nói: "Trên trái đất thực sự không có một ai có thể làm hại Lư Sư Tôn!" Có người hỏi: "Vì sao vậy?" Tôi đáp: "Vì tôi chứng được vô sinh pháp nhẫn đó mà." Tôi dùng lời nói để giải thích như sau: Kể từ khi tôi tu đạo đến nay, mọi sự hủy báng của chúng sinh mà Lư Sư Tôn đã gánh chịu đều đến từ những bài báo tiêu cực trên trang tin tức, hoặc từ những bài viết gây tranh cãi. Những thứ dối trời lừa đất kéo đến, những lời dời núi lật biển xảy ra, cơn sóng này chưa dừng, cơn sóng khác đã tới, tôi vốn không có một ngày bình yên. Nhưng Lư Sư Tôn ngồi thẳng trên hoa sen, không thấy không nghe, như như bất động, vì sao vẫn có thể "tự tại"? Tôi đáp: "Tôi chứng vô sinh." Trên thế giới này, trước khi tôi sinh ra, không có Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Sau khi tôi chết, cũng không có Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Tôi đang sống ở hiện tại này là chẳng sinh ra mà lại có, cơ bản chính là huyễn sinh huyễn diệt, nhất thời mà thôi. Người thế tục bám vào con người này của tôi cho rằng là thật. Nhưng tôi nhận thấy Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn của hiện tại là: Trăng dưới nước. Hoa trong gương. Người thế tục ra sức nhục mạ trăng dưới nước, hoa trong gương. Trăng dưới nước chẳng thể bị hại, hoa trong gương cũng cũng chẳng hề hấn gì. Tôi là vô sinh. Tôi là vô ngã. Bởi vì là vô sinh vô ngã, chúng sinh làm hại cách nào? Đó là còn chưa nói đến trong vô sinh pháp, không có người hủy báng, không có người bị hủy báng, không có lời nói hủy báng. Đây chính là vô sinh pháp nhẫn.
17. Đoán mệnh có cơ sở không?
Hỏi: "Tì Lưu Niên, Thiết Bản Thần Số, Thôi Bối Đồ, Thiêu Bính Ca… Những cuốn sách tiên tri này có cơ sở không?" Tôi trả lời: "Có cơ sở. Hai cuốn đầu là dựa vào ngày sinh bát tự, năm, tháng, ngày, giờ, Thiết Bản Thần Số còn tính đến cả phút. Hai cuốn sau là những dự đoán nhận định về thế cục của Quốc sư Lưu Bá Ôn. Theo tôi biết thì có cơ sở, không phải lời nói hồ đồ." Tôi trả lời: "Tôi lấy Thiết Bản Thần Số của Thiệu Khang Tiết để giải thích nhé! Thiệu Tử dịch số là dựa trên sự phân loại của năm, tháng, ngày, giờ, phút sinh của mỗi người, cộng thêm số liệu để viết thành cuốn sách bộ số, sắp xếp thành các điều văn. Sau khi tìm ra được bộ số của bạn thì tra tiếp trong sách, vận mệnh cả đời của bạn đều nằm trong điều văn, từng việc đều rất chuẩn." "Ví dụ cha bạn họ gì, mẹ bạn họ gì, anh chị em trai gái tổng cộng bao nhiêu người, mấy người còn sống, mấy người đã chết. Năm nào sẽ xảy ra chuyện gì, hoặc vào một năm đó sẽ gặp một người bạn mang họ tên gì lừa mất bao nhiêu tiền, cũng có thể đoán ra được từng việc một." "Lấy trường hợp của Lư Sư Tôn, Thiệu Khang Tiết đã cho tôi suy được văn tự trên "mã vạch" của tôi, viết rằng "Chân Phật giáng thế, vạn người quy y". Lại còn có một "mã vạch" viết rằng: "Chung tất chứng đạo, thành tựu Phật quả". Đây chẳng phải là đúng như thần một cách phi thường sao?" "Cá nhân tôi rất khâm phục những con người như Thiệu Khang Tiết, Viên Thiên Cương, Lưu Bá Ôn. Các vị đại sư thần toán từ thời cổ xưa này, từ vũ trụ đến con người đều nhìn rõ một cách vô cùng thấu triệt. Họ cũng đều là những người tu hành, người tu hành và thế giới tâm linh có mối liên hệ với nhau, tự có thông lực, có được thông lực rồi thì có thể bói toán được." Tôi nói: Dựa theo Tam Đình Tướng Pháp đơn giản mà nói thì: Thượng đình - từ trán đến lông mày cho thấy vận mệnh từ lúc sinh ra đến lúc thanh niên. Trung đình - từ lông mày đến mũi, cho thấy vận mệnh từ lúc thanh niên đến tráng niên. Hạ đình - từ mũi đến cằm, cho thấy vận mệnh từ lúc tráng niên đến lão niên. Tôi từ tướng mặt mà biết được là: Lông mày - cung huynh đệ. Mắt - cung trí huệ. Mũi - cung tài bảo. Đuôi mắt - cung phu thê. Tai - cung thọ mệnh. Cằm - cung nô bộc. …. Tóm lại tất cả những điều này cũng có chút cơ sở. Như tôi biết, quỷ có ngũ thông, tinh linh cũng có thông lực, kẻ có thông lực lớn thì thành thần, thông lực nhỏ thì thành ma quỷ. Thông linh thần toán và quỷ thần cùng giao tiếp trao đổi thông tin với nhau cũng có thể dự đoán được vận mệnh và tương lai. "Bói đĩa." "Thần bàn." "Chim loan." "Bấm tay xem bói." …. (Đều thuộc vào dạng này.) Theo Phật học mà nói, Phật Thích Ca Mâu Ni bài trừ chiêm tinh, bốc quẻ, đoán mệnh. Vì sao vậy? Bởi vì đó chỉ là các phương tiện nhập thế, không phải là cứu cánh giúp xuất thế. Vận mệnh dù có tốt thế nào nhưng không tu học Phật pháp thì có ích lợi gì? Người tu hành mỗi ngày xem bói thì cũng giống như không tập trung vào chính nghiệp, đã chệch khỏi con đường rồi. Cho dù là có: Thiên nhãn thông. Thiên nhĩ thông. Túc mệnh thông. Tha tâm thông. Thần túc thông. (Cũng sẽ vô ích thôi) Phật Thích Ca Mâu Ni cũng cho rằng nếu không phải thực sự là cứu cánh thì đối với việc chứng đạo cũng vô ích. Tu học Phật pháp cần tu cắt đứt phiền não, tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tính, chứng vô thượng chính đẳng chính pháp, thành tựu Phật quả. Thần thông cũng xem như là cửa hông mà thôi!
18. Đại đào hoa
Hỏi: "Năm ngoái ở Mỹ, cái chết của Michael Jackson tương đối gây chấn động. Lư Sư Tôn từng đề cập đến việc một người có thể nhận được tình yêu và tôn trọng của vạn người là có nhân quả của nó. Nhưng vì sao một số người có tên tuổi lớn đều bất ngờ lụi bại vậy?" Tôi trả lời: "Người có thể nhận được tình yêu và tôn trọng của vạn người thực sự là phải có nhân quả, chúng ta gọi là "đại đào hoa". Phải có số mệnh đại đào hoa thì mới có thể có được tình yêu và tôn trọng của vạn người, đây là điều tất nhiên." Tôi nói tiếp: "Ví dụ, Michael Jackson là đại đào hoa, Marilyn Monroe là đại đào hoa, Elvis Presley là đại đào hoa, Lý Tiểu Long là đại đào hoa, Đặng Lệ Quân là đại đào hoa, Mai Diễm Phương là đại đào hoa,v.v." Tôi nói tiếp: "Trong Mật giáo, kiếp trước nếu tu hành bổn tôn Ái Nhiễm Minh Vương hoặc Kurukulle Phật Mẫu thì kiếp tương lai của người này đều có số mệnh đại đào hoa, bởi vì hai vị bổn tôn này đều là bổn tôn đại kính ái. Giống như Ái Nhiễm Minh Vương và Kurukulle Phật Mẫu, trong tay của người này đều có cung tên và mũi tên hoa đào, giống như vị thần tình yêu Cupid trong truyền thuyết của phương Tây vậy, chỉ cần bị mũi tên bắn trúng thì đều yêu lập tức không sao giải thích được. Ái Nhiễm Minh Vương và Kurukulle Phật Mẫu có vạn mũi tên cùng bắn, nhất định sẽ trở thành người đại đào hoa." Hỏi: "Vì sao lại đột ngột lụi bại vậy?" Tôi đáp: "Phúc phần hưởng hết rồi thì sẽ tuột dốc thôi." Tôi nói: "Người đại đào hoa có phúc phận lớn, nhưng dù có được vạn người yêu kính thì phúc phận của người đó cũng rất dễ dàng bị hưởng hết. Có người đại đào hoa lại tiếp tục tu trì, hoặc lấy phúc phận này để tạo phúc cho số đông thì số đại đào hoa này sẽ còn tiếp tục, phúc phận lớn được hưởng bất tận." Theo tôi được biết: Hoạt Phật Cống Đường Thương đến nước Mỹ tham dự lễ nhậm chức của tổng thống Bill Clinton. Sau đó Hoạt Phật Cống Đường Thương đã đặc biệt đổi chuyến bay đến tận Seattle gặp tôi. Ngài nói với tôi: "Tổng thống Bill Clinton là Phật sống Tây Tạng chuyển thế." (Là một vị Tulku tái sinh.) "Có chắc là vậy không?" "Lúc tổng thống Clinton tập trung vào chúng tôi, tôi liền nhận ra ông ta là Phật sống Tây Tạng." Cống Đường Thương Hoạt Phật nói: "Tổng thống Clinton là đại đào hoa, có thể nhận được sự ủng hộ của người dân nước Mỹ, chắc chắn ông ta đã làm nhiều việc từ thiện, việc từ thiện đã làm dư thừa quá nhiều nên phúc phận mới không thể dùng hết." Cống Đường Thương Hoạt Phật nói: "Lư Sư Tôn cũng là đại đào hoa. Tôi thấy ngài ngồi trong trung tâm của mặt trời, phúc báo của ngài cũng rất lớn. Tuy nhiên, ngài cần tiếp tục tu pháp, có như vậy phúc phận mới dùng không hết được." Tôi biết: Rất nhiều người tu hành sau này chuyển thế đến nhân gian đều làm vua hoặc tổng thống. Pháp Vương chuyển thế thành Nhân Vương. Nhân Vương chuyển thế thành Pháp Vương. Ví dụ: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Xích Tùng Đức Chân Vương. Vĩnh Lạc Hoàng Đế. Tây Hạ Quốc Vương. v.v. Họ làm vua một thời gian, kiếp sau lại biến thành Pháp Vương, Nhân Vương và Pháp Vương hoán đổi. Phật Thích Ca Mâu Ni và tám vị đại Vương Tử xuất gia vốn đều là vua, sau này đều trở thành Pháp Vương. Để có được tình yêu của vạn người nhất định cần tu bổn tôn kính ái, tự nhiên sẽ được đại đào hoa. Nhưng người có được đại đào hoa lại phải tiếp tục tu hành, hành thiện bố thí, có như vậy mới được hưởng phúc phận bất tận, bằng không thì cũng dễ dàng lụi bại thôi!
19. Chỉnh hình có giúp thay đổi vận mệnh không?
Hỏi: "Chỉnh hình (phẫu thuật thẩm mỹ) liệu có góp phần giúp cải thiện vận số không? Ngũ quan có thực sự cho biết vận mệnh về vợ con tài lộc của một người không?" Tôi trả lời: "Lư Sư Tôn từng nói, mỗi một con người đều cần chịu trách nhiệm về tướng mạo của bản thân. Ý tôi muốn nói rằng, hình tướng từ tâm mà sinh ra, đến khi tuổi già, tướng mạo của bạn càng cho thấy rõ cuộc đời này của bạn." Tôi trả lời: "Người tu hành có tướng của người tu hành, người thế tục có tướng của người thế tục, người phú quý có tướng của người phú quý, kẻ phàm phu có tướng của kẻ phàm phu, đàn ông có tướng của đàn ông, phụ nữ có tướng của phụ nữ, người trung hậu có tướng trung hậu, người gian dối có tướng gian dối…" Tôi trả lời: "Suy nghĩ tư tưởng của con người chúng ta luôn luôn thể hiện ra ở tướng mạo bên ngoài, là học giả, là nông dân, là công nhân, là thương nhân, là quý nhân hay là người bần tiện, người xem tướng có thể nhìn ra được." Tôi trả lời: "Người cao siêu hơn có thể xem khí, chỉ cần nhìn lướt qua thấy khí lực đó liền biết người này là loại người gì. Lư Sư Tôn tôi giỏi xem khí sắc, từ tướng mạo bên ngoài là có thể nhìn ra tâm của con người này, khí trên người của người trung thực và khí trên người của kẻ đầu trộm đuôi cướp không giống nhau." Tôi trả lời: "Mặc dù có ngoại lệ nhưng việc xảy ra tất có nguyên nhân, vẫn có những dấu vết nhỏ để tìm ra nguyên nhân của sự ngoại lệ." Có một câu chuyện cười như thế này: Một con ếch đực và một con ếch cái kết hôn, kết quả là sinh ra một con cóc. Hai bên tranh cãi nhau. Cuối cùng con ếch cái bẽn lẽn nói: "Trước khi kết hôn đã từng đi chỉnh hình." Ha ha ha! Tại đây tôi nói thẳng với mọi người rằng: "Chỉnh hình có lợi đối với tướng mạo bên ngoài, nhưng đối với nội tâm thì ảnh hưởng rất hạn chế." Tôi nói: Chỉnh hình có thể khiến bản thân người ta tăng thêm tự tin. Chỉnh hình bản thân đến khi thấy hài lòng thì tự mình cũng sẽ vui vẻ hơn. Đương nhiên, nếu thực sự là như vậy thì vận số cũng có thể thay đổi được. Cá nhân tôi không phản đối chỉnh hình. (Nhưng phải chú ý đến những hệ lụy sau khi chỉnh hình và kể cả chỉnh hình thất bại, những trường hợp này tương đối nhiều.) Tôi nói: Chỉnh hình không như chỉnh tâm (tu tâm). Tướng mạo từ tâm mà sinh ra. Tâm là cực kì quan trọng, tu hành Mật giáo chủ yếu là tu tâm (ý niệm và quán tưởng). Chúng ta luôn luôn quán tưởng tướng trang nghiêm của bổn tôn, mỗi ngày một lâu hơn, sẽ tới llúc tướng trang nghiêm của bổn tôn sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của bạn. Như vậy, diện mạo bên ngoài và nội tâm mới có thể hợp nhất. Tôi từng nói: Lông mày - cung huynh đệ. Tai - cung thọ mệnh. Mắt - cung trí huệ. Đuôi mắt - cung phu thê. Dưới mắt - cung điền trạch. Cằm - cung nô bộc. Mũi - cung tiền tài. Những bộ phận này chỉnh hình xong thực tế cũng có bổ trợ gia tăng phúc phận được phần nào. Tôi có một đệ tử là bác sĩ Trịnh Sâm Long, ông là bác sĩ ngoại khoa chỉnh hình. Ông nói muốn giúp tôi chỉnh hình cho hai tai kéo dài xuống vai, mắt như biển xanh, mũi to trang nghiêm, cằm tròn đầy, mặt mày hiền hậu, cả khuôn mặt tỏa Phật quang chiếu soi con người, chỉnh hình thành Phật sống A Di Đà. Tôi nghe thấy rất vui. Nhưng tôi không làm chỉnh hình. Bởi vì tôi cho rằng chỉnh hình không bằng chỉnh tâm, tâm như Di Đà thì tướng sẽ biến thành Di Đà.
20. Đệ tử đồng tính
Hỏi: "Trong lúc khai thị, Lư Sư Tôn từng nhắc đến người đồng tính rằng nếu như đó là đệ tử của ngài thì ngài cũng có cái nhìn bình đẳng, từ ái hoan nghênh, vì sao vậy?" Tôi trả lời: "Lư Sư Tôn là hành giả tu trì tâm bình đẳng, nhìn chúng sinh trong thiên hạ với tâm bình đẳng, sẽ không có khác biệt." Tôi nói: Thiên bình đẳng, xưa nay luôn vậy. Địa bình đẳng, xưa nay vẫn thế. Nhật nguyệt bình đẳng, xưa nay bốn mùa thường phân rõ. Niết bàn bình đẳng, xưa nay thánh phàm chẳng tách đôi. Nhân tâm bình đẳng, xưa nay cao thấp không bình phẩm. Người bình đẳng, xưa nay độ hóa đều như nhau. Chúng ta xem kinh Phật nói như thế này: Kệ A Di Đà Phật: Hư không chi thân vô cực thể, độ hóa chúng sinh bình đẳng lực. [ND: thân từ hư không hiện ra vô số, độ hóa chúng sinh bình đẳng như nhau.] Bình Đẳng Tâm: Chứng minh mọi pháp bình đẳng, từ tất cả chúng sinh bình đẳng không phân biệt, không khởi lên đánh giá dựa trên khác biệt thân sơ, ban trải tình thương bình đẳng. Kinh Pháp Hoa: Tự chứng vô thượng đạo, đại thừa bình đẳng pháp. [ND: tự chứng ngộ được đạo tối cao, đó là Đại thừa - pháp bình đẳng.] Vãng Sinh Luận: Bình đẳng là thể tướng của mọi pháp. Kinh Nhân Vương: Thực trí bình đẳng, mãi mãi cắt đứt những chướng ngại mê lầm. Chỉ Quán: Từ không nhập giả, gọi là bình đẳng quán.
Vãng Sinh Luận: Bình đẳng pháp thân, từ Bát Địa trở lên, cũng chính là pháp tính pháp thân Bồ Tát. Hành giả tịch diệt bình đẳng, nhờ pháp thân Bồ Tát đó mà thực sự chứng được pháp bình đẳng tịch diệt. Nhờ chứng đắc được pháp tịch diệt bình đẳng này mà đắc được pháp thân bình đẳng. Tâm Địa Quán Kinh: Bình đẳng tính trí, chuyển đổi kiến thức có từ trước thành loại trí huệ này, là có thể chứng được ta và người bình đẳng. Do tính vô ngã nên được gọi là bình đẳng tính trí. Kinh Pháp Hoa: Bình đẳng có hai ý, một là pháp bình đẳng, cũng là đạo lý trung tâm. Hai là chúng sinh bình đẳng, có nghĩa là tất cả chúng sinh đều có thể đạt được trí huệ Phật như nhau. Tôi nói: "Tất cả chúng sinh bình đẳng. Tôi đứng trên lập trường tất cả chúng sinh đều có Phật tính để giảng giải. Tôi thấy chúng sinh đều là Phật, tương lai tất cả đều thành Phật như nhau, không ai không thành Phật. Câu nói này bao gồm chúng sinh khắp thập phương pháp giới, bởi vậy trong tâm bình đẳng của tôi trước nay đều không phân biệt và tách biệt." Lập trường như vậy nghĩa là: Người đồng tính cũng là người, người dị tính cũng là người. Trên quan điểm Phật giáo mà nói, người đồng tính cũng có thể thành Phật! Mọi pháp bình đẳng, người người bình đẳng, chỉ cần là người, là chúng sinh thì đều có thể học Phật. Trong mắt tôi: Người đồng tính, bình đẳng bình đẳng. Gái điếm, bình đẳng bình đẳng. Lưu manh, bình đẳng bình đẳng. Tội phạm, bình đẳng bình đẳng. Ăn mày, bình đẳng bình đẳng. Người khuyết tật, bình đẳng bình đẳng. Người bệnh, bình đẳng bình đẳng. Người mắc bệnh AIDS, bình đẳng bình đẳng. Tội phạm tử tù, bình đẳng bình đẳng. Đệ tử phản bội, bình đẳng bình đẳng. Nam nữ, bình đẳng bình đẳng. Cách nhìn này của tôi, người thế tục chưa chắc có thể hiểu được, một số người hoàn toàn không có cách nào để hiểu được. Tôi là một người ôm cả bầu trời mà khóc, có người nào có thể hiểu được tấm lòng của Lư Sư Tôn? Tôi đối với giới Phật và giới chúng sinh đều bình đẳng tất cả, việc này không thể nói hết. Hơn nữa, hành giả thanh tịnh và dâm nữ là bình đẳng tất cả, việc này cũng không thể nói hết. Nhưng, tôi hiểu rõ bình đẳng tất cả. Tôi là người giác ngộ, (nên) tôi biết. Các thánh đệ tử, có biết hay không?
21. Yêu đương lăng nhăng phải làm sao?
Hỏi: "Ngày nay quan niệm về tình yêu đã thoáng hơn khiến cho rất nhiều người dễ dàng thay đổi tình cảm. Việc này nên làm thế nào?" Tôi trả lời: Có câu chuyện cười thế này: "Sâu răng. Củ cải thối rữa. Có thai. Ba việc này có liên hệ gì với nhau?" Rất nhiều người nghĩ cả nửa ngày trời mà không nghĩ ra. Đáp án cuối cùng là, tất cả đều là do "trùng" tác quái. Sự sinh sôi đông đúc của loài người là do ái dục mà ra. Hơn nữa, chủng tử của ái dục là "trùng". Cha là tinh tử, mẹ là noãn tử, hai con "trùng" này cùng nhau kết hợp lại mới có động vật và loài người. Không chỉ là động vật, đến cả thực vật cũng giống như vậy. Nam và nữ vì sao lại có ái dục? Nguyên nhân rất đơn giản, con người từ "trùng" mà sinh ra, đó là chủng tử của ái dục, con người có ái dục là việc vô cùng bình thường. Loại ái dục này là việc không thể ngăn được, là trời sinh ra tự nhiên như thế, là sinh ra đã có rồi, tôi gọi nó là "câu sinh dục". Trong Kinh Thánh của đạo Cơ Đốc có một đoạn như sau: Một đôi nam nữ đang "ân ái" thì bị bắt gặp. Họ bị buộc tội sẽ bị đám đông ném đá cho tới chết. Chúa Jesus xuất hiện và nói: "Mời những ai tự nhận là mình chưa từng có tội lỗi nào, trong tâm cũng chưa từng có tội lỗi, thì hẵng lấy đá ném hai người họ." Kết quả là đám đông từ từ tản ra. Đôi nam nữ đó được Chúa Jesus cứu thoát! Câu chuyện này nói lên điều gì? Nó nói lên rằng có rất nhiều việc, mọi người đều lén lút thực hiện trong "bóng tối", chỉ có thể làm mà không thể nói. Thế giới này, không chỉ thời bây giờ mà trên dưới xưa nay, việc quan hệ lăng nhăng đâu đâu cũng có, chỉ là ngày nay truyền thông phổ biến rộng khắp. Những người nổi tiếng thường bị tố ra công chúng, tạo thành hiện tượng quan hệ lăng nhăng bị công khai, giống như khắp nơi đều yêu đương lăng nhăng. "Việc kiểu này phải làm sao?" - Tôi từng hỏi một vị trưởng lão, trưởng lão đáp: "Khắc chế!" Trong giới luật của Phật giáo có năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Tà dâm được xếp ở vị trí thứ ba, là giới trọng. (Tuy nhiên bên cạnh đó), cá nhân tôi cũng cảm thấy rất nhiều người lạm dụng thái quá, luôn đem bốn thứ luân lý, đạo đức, giới luật, pháp luật để chụp mũ áp đặt lên đầu nam nam nữ nữ. Có một số người sẽ tuân thủ, nhưng vẫn rất nhiều người nằm ngoài quỹ đạo này. Phật giáo Mật tông có "Vô thượng mật du già tục" để hướng dẫn người tu hành cao cấp, là pháp tu song thân. Có người tán đồng. Có người phản đối. Theo tôi được biết, trong "Vô thượng mật du già tục" là tu khí, thông mạch, minh điểm lên xuống, cuối cùng là tu hành đại lạc, quang minh, tính Không, đạt đến điểm cuối cùng là Phật tính. Hiển giáo là pháp chặn lại. (tắc nghẽn) Mật giáo là pháp dẫn đường. (mở đường) Ái dục giống như dòng nước lũ tràn trề, bạn cần dùng pháp "tắc nghẽn" sao? Hay là dùng pháp "mở đường" đây? Có người cho rằng "Vô thượng mật du già tục" là tiếp nối của "trường phái tính lực" của Ấn Độ, là tà pháp, là pháp dâm loạn, là tà giáo. Nhưng: Kinh Viên Giác viết: "Dâm, nộ, si, đều là Phật pháp!" Kinh Duy Ma viết: "Dâm, nộ, si, đều là Phật pháp!" Việc này phải nói thế nào? Xã hội hiện đại khắp nơi đều có quan hệ lăng nhăng, giống như cát trôi trên sông, dựa vào nhân tính để khắc chế ái dục thì thực sự là rất khó! Dùng pháp song thân của Mật giáo, pháp tu hành ở cấp độ cao thâm này cũng không hề dễ thực hiện, nếu không nói thậm chí còn khó hơn! Thánh đệ tử, thử nói phải làm sao đây?
----------------- Ghi chú: ý của Tôn Sư khi đối diện với việc hay thay đổi tình cảm của nhân gian: việc này là không tốt, nhưng xã hội và con người là vậy, rốt cuộc cũng không thể tránh khỏi, đừng kì vọng người khác luôn phải tốt 100% theo ý của riêng mình, đừng quá căng thẳng hay chấp nhặt chi cho mệt đầu. Ngoài ra cũng đừng vội vàng đánh giá, chụp mũ người khác dựa trên sự chấp thủ về đạo đức thông thường hoặc những gì mình chưa biết. Hãy mở tâm của mình ra. Tất cả đều là huyễn, đều là Phật pháp.
22. Bệnh không tên của phụ nữ
Hỏi: "Lư Sư Tôn từng nói đến việc một số phụ nữ có "bệnh không tên" là do họ từng phá thai, trường hợp này có phải là vì phụ nữ phải gánh chịu nhân quả của việc đó không?" Tôi trả lời: Con người hiện đại nói nam nữ bình đẳng hoặc nữ nam bình đẳng, trên thực tế, nam nữ có một chút khác biệt. Số lẻ trong Kinh Dịch, một, ba, năm, bảy, chín thuộc về dương. Số chẵn trong Kinh Dịch, hai, bốn, sáu, tám, mười thuộc về âm. (Nam nữ có khác biệt.) Trong Bát Quái: Trong âm có dương. Trong dương có âm. Âm cực thịnh thì sinh ra dương. Dương cực thịnh thì sinh ra âm. Những hiện tượng này đều luân chuyển tương hỗ với nhau, cũng chính là cùng biến đổi, cũng giống như Khổng Tử nói về "biến động bất cư, chu lưu lục hư". [ND: Biến động bất cư, chu lưu lục hư: "đạo" biến hóa không ngừng, không ở cùng một chỗ mà chuyển dịch khắp sáu cõi, chan hòa khắp chốn, trên dưới vô thường, mọi vật theo biến hóa đó mà thay đổi.] Ở đây nam nữ có khác biệt: "Người nữ cứ 27 ngày kinh nguyệt lại đến, nữ đến 14 tuổi, mỗi tháng đều có kinh nguyệt. Người nam 28 tuổi vẫn còn là thiếu niên, nam đến 16 tuổi là thời kì sinh lý." (Nam nữ có khác biệt.) Tôi viết những điều này chủ yếu để cho thấy rằng nam nữ có khác biệt, cơ thể có khác biệt, tướng mạo có khác biệt, đến cả phương diện chức năng cũng có khác biệt, phương diện thể lực cũng có khác biệt. Tiếp đến là phương diện nhân quả cũng có một chút khác biệt. Đương nhiên cũng có ngoại lệ. Trong âm có dương. Dương nhiều thì biến thành nam tính. Trong dương có âm. Âm nhiều thì biến thành nữ tính. Thậm chí người có cả âm dương, nửa nam nửa nữ. Phụ nữ mang thai, đàn ông không mang thai, nhân quả khác biệt chính là ở điểm này. Ở phương diện này trách nhiệm của phụ nữ quả thực tương đối nặng, và nhân quả của việc phá thai phụ nữ phải chịu cũng nặng. Tôi là một người tu hành, giữ giới không sát sinh. Khi tinh tử và noãn tử kết hợp, một phần nguyên khí từ đỉnh đầu đi vào bên trong bào thai, hoặc từ rốn đi xuống vào trong bào thai, hoặc từ miệng đi vào đến bên trong bào thai. Đây chính là khởi đầu của sinh mệnh. Nếu như phụ nữ phá thai thì việc này chính là giết hại tinh tử, noãn tử, nguyên khí, cũng không khác gì giết một sinh mệnh, giết Phật tính. Cá nhân tôi cực lực phản đối phá thai. Bởi vì cái thai đó chính là một sinh mệnh. Có người nói: "Nếu như bị cưỡng bức mà có thai, hoặc trong lúc ngớ ngớ ngẩn ngẩn mà có thai, hoặc người đàn ông vô trách nhiệm mà khiến có thai, hoặc gặp phải "yêu râu xanh" khiến cho có thai, thai nhi này phải làm sao? Không thể phá thai sao?" Tôi đáp: "Có thể tha thứ được, nhưng vẫn là sát sinh." Lại hỏi: "Thai nhi có vấn đề, nếu sinh ra sẽ bị ngu đần, hoặc bị mắc bệnh Down, hoặc bị tàn tật, hoặc thiểu năng, hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, hoặc mềm xương, lẽ nào cũng phải để cho chúng sinh ra?" Tôi trả lời: "Trong Bát Quái, (mệnh vận) chúng ta đều nằm trong quẻ sáu hào. Không có quẻ bảy hào, quẻ tám hào. Nhưng trong Kinh Dịch, quẻ bảy hào chính là quẻ du hồn, quẻ tám hào là quẻ quy quỷ. Trên nguyên tắc thì quẻ quy quỷ chính là quay trở về trạng thái ban đầu (hoàn nguyên), cũng chính là thai chết. Nếu như là thai chết thì có thể phá thai. Nếu không phải là thai chết mà là quẻ du hồn thì vẫn có sinh mệnh trong đó, cũng vẫn bị xem là sát sinh." Tôi nói: Đứa bé sinh ra không kiện toàn, đứa bé sẽ chịu khổ, người thân trong gia đình cũng chịu khổ, nhưng đây vẫn chính là nghiệp. Phá thai cũng là nghiệp. Vậy thì cần so sánh nghiệp lớn nghiệp nhỏ! Thánh đệ tử, nghĩ thế nào?
23. Sau khi phá thai phải làm sao?
Hỏi: "Rất nhiều cô gái có thai đã đi phá thai, bây giờ vô cùng hối hận, họ nên làm gì?" Tôi trả lời: Phá thai chính là sát sinh. Sát sinh là tội phạm giới nặng nhất, ví dụ như giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, giết Thánh Hiền Tăng, giết Phật. Những việc này đều không có cách nào cứu thoát khỏi trọng tội. (Tội này đọa vào địa ngục vô gián.) Bạn làm sao biết cái thai mà bạn cần sinh ra liệu tương lai là một vị Phật Như Lai, tương lai là một vị A La Hán, là Thánh Hiền Tăng? Bạn làm sao biết cái thai đến để được sinh ra là cha mẹ kiếp trước của bạn, hoặc có thể là kiếp này? Chính vì lẽ này mà việc phá thai là một trọng tội. Tôi chủ trương chỉ cần là sinh mệnh thì không được giết. Đây là bồ đề tâm đại từ bi của Phật. Không chỉ không sát sinh. Còn cần phải phóng sinh. Trí Độ Luận: "Nếu đúng là chúng sinh, biết rõ là chúng sinh, phát tâm sát sinh đoạt mệnh, (tiếp đó) khởi thân đi thực hiện hành động sát sinh, (cuối cùng) giết mất chúng sinh đó, chính là tội sát sinh." Tỳ kheo cụ túc giới: Giết người được xem là đại sát sinh giới. (Bao gồm cả việc giết thai nhi.) Giết súc sinh được xem là tiểu sát sinh giới. Việc trước là một trong bốn tội ba-la-di. [ND: Ba-la-di: tiếng Phạn là Pārājika, là phân loại tội ác nặng nhất.] Việc sau là một trong chín mươi tội bị đọa địa ngục. Còn nữa: Người tự sát là tội cực kì nghiêm trọng. Người tự làm mình bị thương cũng là tội nhưng nhẹ hơn. (Trong Phật giáo ngay cả tự sát cũng không thể được.) Phụ nữ thời xưa hoặc thời hiện đại, lén ăn "trái cấm" mà có thai, vướng rất nhiều lý do nên không thể sinh con được, vì vậy đi phá thai. Họ liền phạm vào tội sát sinh. Lúc hối hận rồi, phải làm sao? Tôi nói: Cách duy nhất là siêu độ cho linh hồn của hài nhi đến Phật quốc tịnh độ. Nếu như linh hồn của hài nhi có thể đến được tịnh độ Phật quốc thì thiếu nữ này mới bắt đầu có thể hết nghiệp tội được. Ai có thể siêu độ được thai nhi vãng sinh tịnh độ Phật quốc? Cao tăng có thể làm được. Ngoài ra, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn cũng là một vị trong số đó. Theo tôi biết: Có một phụ nữ bị bệnh nặng. Buổi tối ngủ mơ liền trông thấy sáu, bảy hài đồng đi vòng xung quanh bên trái bên phải giường bệnh và hát. Hát rằng: "Trả mạng cho con!" Người phụ nữ bị bệnh nặng này đã phá thai sáu, bảy lần, biết là phạm nghiệp tội, cầu tôi lập đàn thành siêu độ. Sau khi siêu độ, hiện tượng này liền biến mất, hơn nữa bệnh cũng khỏi luôn. (Đây là siêu độ thủy tử linh.) Ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự tại Seattle nước Mỹ, tôi lập ra "Thủy tử linh sơn trang" làm nơi ở cho các linh hồn thai nhi bị chết do phá thai, cũng giống như cúng thai linh. Vào thời gian cố định sẽ tụng kinh, làm lễ sám hối, niệm Phật, siêu độ, cúng dường, hỏa cúng,… giúp cho thai linh cũng có thể có nơi an thân lập vị, cuối cùng sẽ là siêu độ thủy tử linh vãng sinh Phật quốc tịnh độ. Người phá thai vì sao lại không thờ cúng? Âm dương đều có lợi. (Tùy ý cúng dường.) Tôi viết bài thơ, ghi lại như sau: Thái Hồng sơn trang thâm thâm viện. Thủy tử niệm Phật. Nghiệp tựu thiển. Siêu độ hỏa cúng bất đẳng nhàn. Khinh lung thông lục. Oanh thanh điểu ngữ. Bồ Tát phóng quang từ bi mẫn. Bàng phất kiến. Đồng tử hợp chưởng thiên thượng hiển. Dịch thơ: Cầu Vồng sơn trang viện thâm nghiêm. Thủy tử niệm Phật. Nghiệp nhẹ tan. Hỏa cúng siêu độ mấy khi nhàn. Cỏ non xanh mướt. Tiếng hót chim oanh. Bồ Tát phóng quang lòng thương xót. Dường như thấy. Đồng tử chắp tay lạy thần tiên.
24. Liên quan đến thú cưng
Hỏi: "Một người tu hành có thể nuôi thú cưng không? Làm sao để giúp chúng nó? Trong Bồ Tát Giới nói rằng không được nuôi thú cưng, nguyên nhân của việc này là gì?" Tôi trả lời: Lúc tôi khoảng ngoài hai mươi tuổi đã thọ Bồ Tát Giới tại chùa Bích Sơn Nham tại huyện Nam Đầu, lúc đó trụ trì của chùa Bích Sơn Nham là Như Phật Thiền Sư. Ba vị sư phụ chủ trì thọ Bồ Tát Giới là: pháp sư Hiền Đốn, pháp sư Huệ Tam, pháp sư Giác Quang. Khi Pháp sư giảng về giới nói với chúng tôi rằng không thể nuôi những con vật thuộc họ mèo, ấn tượng của tôi lúc đó có vẻ như chính là ta không thể nuôi thú thuộc họ mèo, còn vì sao lại như vậy? Tôi cũng không nhớ được vì sao. Lư Sư Tôn cả đời này chưa từng nuôi vật nuôi trong nhà. Thủa nhỏ nuôi lợn nuôi gà, việc này không tính, đó là vì giúp đỡ gia đình, cũng không thể coi là vật nuôi trong nhà. Đối với việc con người hiện đại nuôi thú cưng tôi thấy hoàn toàn không có gì đáng phải lên án. Nuôi một con chó để trông nhà, nuôi một con mèo để bắt chuột, thực sự việc này có thể hiểu được. Tuy nhiên, bạn không cảm thấy sao? Nuôi chó nuôi mèo là cần tiêu tốn rất nhiều tinh thần vào đó. Đồ ăn, quần áo, chỗ ở, đi lại, tắm rửa, dọn phân, v.v… thời gian phải tiêu tốn thực sự khiến người ta kinh ngạc. Con người hiện đại nuôi thú cưng, phạm vi của thú cưng cũng vô hạn, theo tôi được biết: Cá. Chim. Rùa. Rắn. Cá sấu. Vân vân và vân vân… Có một nghệ nhân thích nuôi khỉ, lúc ông ta mua con khỉ thứ hai, không ngờ con khỉ thứ nhất cắn cho ông ta một phát vào mũi, đây là vì con khỉ thứ nhất cảm thấy ghen. Còn nữa, cá voi ăn thịt người ở công viên hải dương Mỹ đã sống cùng với người nuôi dưỡng nó hơn mười năm. Hai bên tiếp xúc rất hòa hợp, thế nhưng con cá voi ăn thịt người bản tính hung dữ lúc phát cuồng lên đã giết chết người chăm nuôi nó. Còn nữa, ở Las Vegas trước đây có những buổi trình diễn hổ trắng nổi tiếng thế giới. Hổ cùng với người biểu diễn vô số năm. Không ngờ hổ trắng đã bùng phát thú tính, cắn xé làm người cùng biểu diễn trên sân khấu chết đi sống lại. Những buổi diễn của hổ trắng cũng từ đó mà kết thúc. Lúc tôi tu hành, ngay từ sớm đã nói với mọi người dưới đàn thành rằng Liễu Minh Hòa Thượng đã nói: Đừng để người sắp sinh hoặc có tang đến gần (đàn thành). Phụ nữ muốn sinh con, người đang để tang không đến gần. Không cho gà, chó đến gần. Không để người tạp nham đến gần. (Việc này là để giữ sự trang nghiêm thanh tịnh của đàn thành.) Nếu trong nhà bạn có nuôi thú cưng, thì đàn thành của người tu hành vốn cần phải giữ gìn thanh tịnh, sẽ có khó khăn đó. Động vật vẫn là động vật, mùi hôi tanh của động vật nặng hơn so với mùi của con người, thậm chí có thường xuyên tắm rửa và giữ cho sạch sẽ thì vẫn có mùi hôi tanh. Cháu của tôi nuôi rắn làm vật nuôi trong nhà. Tôi đi vào nhà cậu ta, mùi tanh của rắn xộc thẳng lên mũi. Trong nhà nếu có sắp đặt đàn thành, Phật Bồ Tát liệu có giáng xuống không? Tôi còn cảm thấy cuộc đời con người thời gian tu hành rất ngắn, cuộc sống của con người hiện đại bận rộn, lại thêm việc chăm sóc vật nuôi thì còn có thời gian tu pháp không? Muốn giúp đỡ thú cưng, tôi cho rằng trả lại về nơi ở ban đầu của nó là tốt nhất. Tất cả động vật đều có gốc gác mà nó đến từ đó. Tinh tinh trở về rừng. Khỉ trở về rừng. Trăn trở về rừng. Rùa biển trở về biển. Cá sấu trở về đầm lầy. Chó nhà mèo nhà thì tặng cho người thế tục nuôi dưỡng, người tu hành vẫn nên không nuôi mới là tốt. Mọi thứ, trả về tự nhiên.
25. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khả năng có bao nhiêu vị Minh phi?
Hỏi: "Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khả năng có bao nhiêu vị Minh phi? Minh phi cần có điều kiện gì?"
[ND: Minh phi: vị phối ngẫu nữ trong pháp tu song thân tối thượng và bí mật của Mật giáo, sẽ giúp cho hành giả tháo các nút thắt kinh mạch, biến thân thô lậu thành thân Phật quả ngay tại kiếp sống này. Pháp tu cực kì khó, chỉ cần 1 chút ô nhiễm - bất tịnh trong tâm khi thực hành là hành giả siêu cao cấp cũng xuống địa ngục ngay.] Tôi trả lời: Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có cực kì nhiều vị Minh phi, nhiều đến mức không sao đếm hết được. Ở trong các chùa thường thờ cúng hai vị được biết đến nhiều nhất là công chúa Mandarava và công chúa Yeshe Tsogyal, hai vị này thì mọi người đều biết. Người tu Mật biết rằng Liên Sư có năm vị Minh phi đại thành tựu, họ là: Yeshe Tsogyal. Shakya Devi. Mandarava. Kala Siddhi. Tashi. Trong kinh điển còn liệt kê ra 15 vị Minh phi đại thành tựu giả, như vậy tăng thêm thành 20 vị Minh phi. Còn đối với các Minh phi sống tại nhiều nơi khác nhau thì không thể đếm được, không thể tính được. Mỗi người họ đều có thế mạnh riêng, có chuyên môn riêng, đều có được cảnh giới chứng ngộ thâm hậu. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và thành tựu của các vị Minh phi thực sự là không thể nghĩ bàn. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khả năng có bao nhiêu Minh phi? Chúng ta đều biết rằng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là người sáng lập Mật giáo, Liên Sư đã thành tựu Phật, là Phật Heruka, là vị hộ pháp tối thắng, là người chủ của đại lạc, của quang minh, của Phật tính, ngài thị hiện hóa thân cầu vồng, nhậm vận và tự tại. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ở nhân gian thọ mệnh tự tại, sống hơn 800 tuổi, ngài là cầu vồng bất tử, sau khi thị hiện ở nhân gian lại đến nước La Sát độ hóa chúng sinh. Do vậy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Ta chưa bao giờ rời xa những người có tín tâm, chưa từng bao giờ rời xa đệ tử của ta, chỉ cần kính sư, trọng pháp, thực tu, ta chắc chắn hiện thân trước mặt người đó." Đại thành tựu giả Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đương nhiên có thể có rất nhiều Minh phi. Hơn nữa, ngoài việc Liên Hoa Sinh Đại Sĩ độ hóa các vị Minh phi ra, ngài cũng độ hóa 25 vị vương thần ở Tây Tạng, họ đều là những đệ tử thành tựu. Kì thực nói về pháp tu hành pháp song thân, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có thể nhờ vào pháp tu này làm cho thân thể xương thịt thô tục hóa thành cầu vồng thanh tịnh, chứng nghiệm Phật tính, tức thân thành Phật. Pháp song thân chứng đắc: Đại lạc. Tịnh quang. Tính Không. Tức thân thành Phật. Tiếp theo, điều kiện của Minh phi là gì? Nói chung các vị Minh phi đều có lai lịch đặc biệt. Lấy công chúa Yeshe Tsogyal làm ví dụ: Vào thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni ngài là: Nữ thần sông Hằng. Ở trên thiên giới ngài là: Diệu Âm Thiên Nữ. Có một kiếp ngài là: Thường Đề Bồ Tát. Ngài là Kim Cương Du Già Thánh Mẫu, là Tì Câu Trí Độ Mẫu. Tóm lại, các vị Minh phi đều có lai lịch đặc biệt. Minh phi có ít nhất ba điều kiện: 1. Có lai lịch đặc biệt. 2. Đã hiểu rõ những tinh túy của pháp song thân. 3. Hiểu rõ tính Không. Khi một vị Minh phi xuất hiện, trên người của ngài chắc chắn có dấu ấn, có chỉ thị của Kim Cương Hộ Pháp. Ngài đã tu luyện đến mức độ tương ứng được với bổn tôn, ngoài ra còn có chứng ngộ ngang bằng với phối ngẫu, cả hai đều hiểu rõ tính Không. Ngoài tu hành pháp song thân ra: Đến không mong cầu. Đi không lưu luyến. Trên thực tế, thế gian ngày nay rất ít người tu hành cao cấp có thể tu pháp song thân. Và Minh phi cũng hiếm giống như vậy.
26. Dâm nộ si đều là phạm hạnh?
Gần đây trong chương trình Viên giác kinh có đoạn nội dung như sau: "Mọi giới định huệ và dâm nộ si đều là phạm hạnh." Có người hỏi: "Trong lúc Lư Sư Tôn khai thị cũng nói đến dâm nộ si đều là phạm hạnh, điều này khiến người ta kinh ngạc, vì sao vậy?" Tôi trả lời: Ngày xưa đệ tử của tôi, tiến sĩ Trương Trừng Cơ, đã viết một cuốn sách tiêu đề "Cái gì là Phật pháp?" Lý Bỉnh Nam (Tuyết Lư Lão Nhân) ở trước mặt tôi nghiêm khắc nói: "Tôi muốn hỏi ngược lại Trương Trừng Cơ, Phật pháp là cái gì?" Lúc đó tôi cũng ngẩn người ra. Tôi nghĩ: "Việc này có gì sai? Đâu cần phải tức giận?" Sau này tôi kiến được đạo, tu được đạo, chứng được đạo, kiến đạo rồi mới bắt đầu tu. Cuối cùng tôi đã hiểu ra: "Cái gì cũng đều là Phật pháp!" Do vậy, dâm, nộ, si và giới, định, huệ đều là Phật pháp. Tôi từng nói: Dâm --- pháp Song thân. Nộ --- pháp Kim cương. (hộ pháp) Si --- pháp Tài thần. Ba thứ này đều là phương tiện tu hành thiện xảo, vốn dĩ bất kì một pháp nào cũng đều là phương tiện thiện xảo, bao gồm ăn, mặc, sống, làm, dâm, nộ, si, v.v. Tôi lấy việc "dâm" làm ví dụ, người thế gian chưa bao giờ nghĩ đến là ngay cả chuyện nam nữ giao hợp cũng là Phật pháp. Người tu hành cao cấp, từ việc nam nữ giao hợp có thể tu chứng đắc được vô lậu pháp, chuyết hỏa pháp, minh điểm pháp,… Tôi nói: Vô lậu pháp --- giới. (đại lạc) Chuyết hỏa pháp --- định. (quang minh) Minh điểm pháp --- huệ. (Phật tính) Lư Sư Tôn nói như vậy, hành giả ngộ tính cao lập tức có thể lĩnh hội được, nhưng hành giả ngộ tính thấp thì có nghĩ tới nghĩ lui cũng không nghĩ thông được, vì sao lại như vậy? Cần biết rằng chuyện nam nữ giao hợp là việc bình thường của con người thế tục nói chung. Nhưng bạn thử nghĩ xem có đúng là có thể "tinh thần thống nhất" không? Có đúng là có thể giữ tinh dịch không cho xuất ra ngoài không? Có đúng là có thể tu luyện "khí công" không? Có đúng là có thể thông "trung mạch" không? Có đúng là có thể cả hai cùng đi vào "thiền định" không? Có đúng là có thể nâng "chuyết hỏa" lên không? Có đúng là có thể làm Phật tính hiển lộ ra không? Tôi viết nhiều "có đúng là" như vậy, kì thực đáp án chính là "đúng vậy", chính là như vậy. Tôi cũng tin rằng, ngay cả dù chỉ xét đến phạm vi thế tục "ẩm thực nam nữ", thì vào thời điểm giao hợp, hai người họ cũng sẽ thể hội được tầm quan trọng của "tinh thần thống nhất" (chuyên nhất). [ND: Ẩm thực nam nữ: trích dẫn câu nói của Khổng Tử: "ẩm thực nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên", có nghĩa việc ăn, uống và tình cảm nam nữ là những ham muốn lớn để sinh tồn của loài người. ] Chính bởi vì như vậy, do việc "tinh thần thống nhất" có thể giúp đi vào thiền định, hai bên nam nữ sẽ đều có thể nhờ thiền định dung hòa mà đạt đến cảnh giới "nhất" và "không". "Mật giáo vô thượng du già mật tục", tu khí, tu mạch, tu minh điểm, không ngờ có thể khiến cho nhục thể vật chất chuyển hóa, biến thành Phật tính thanh tịnh, đây làm một việc khó tưởng tượng làm sao. Chứng đắc đại lạc, chứng đắc quang minh, chứng đắc tính Không, chứng đắc Phật tính đại viên mãn cũng không phải là chuyện không thể. Do vậy "dâm" chính là Phật pháp. Lúc đầu Lư Sư Tôn nghĩ sẽ viết một cuốn tư liệu đơn giản về "Mật giáo vô thượng du già mật tục", giúp cho toàn bộ con người trên thế giới hiểu thật rõ ràng. Sau này tôi viết rồi lại xé bỏ, xé rồi lại viết, lặp lại như vậy nhiều lần, cuối cùng quyết định không thể viết ra. Hóa ra pháp du già (yoga) vô thượng này là bí mật, bí mật, bí mật, bí mật, bí mật. Chỉ có người tu hành cao cấp nhất mới có thể tu chứng, người bình thường mà tu theo thì sẽ xuống địa ngục ngay, không thể tu được! Sự khó khăn trong việc này có thể thấy rất rõ. Không thể nói cho rõ ràng, do vậy tốt hơn là không thể nói, không thể nói. Hơn nữa, thế gian có một số người tham đắm dục lạc, nếu tìm đến phụ nữ mượn danh nghĩa là tu pháp song thân, cứ lạm dụng như vậy thì tội của tôi lại càng lớn rồi!
27. Cảm xúc gửi tình vào mưa
Hỏi: "Cuốn sách Viết cho mưa đã cho thấy những tình cảm mà Sư Tôn gửi vào trong mưa khiến người ta thực sự bất ngờ. Dưới cái nhìn xuyên thấu biểu hiện bên ngoài của những thay đổi lớn trong ngài, không ngờ ngài có tình cảm nhiệt huyết tinh tế và tế nhị đến như vậy. Đây là sức mạnh gì?" Tôi trả lời: Đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Seattle, ông Liệu Đông Châu, sau khi đọc xong cuốn sách Viết cho mưa đã có lời khen ngợi. Đại sứ Liệu nói: "Không ngờ chỉ một chữ mưa lại có thể viết ra một cuốn sách chứa đầy triết học nhân sinh như vậy." Đại sứ Liệu nói: "Văn chương tràn đầy tình cảm lưu giữ tâm độc giả ở lại, tạo nên sự cộng hưởng khiến người ta không ngừng rung động." Đại sứ Liệu nói: "Cả cuốn sách dùng đối tượng là mưa để nói về tất cả mọi thứ, tuy vậy vẫn có thể khiến độc giả hiểu một cách sâu sắc về cuộc sống, cuốn sách này thực sự quá xuất sắc, khiến người ta kính phục." (Trên đây là những suy nghĩ cảm xúc của đại sứ Liệu.) Nói thật lòng Lư Sư Tôn tôi là con người ở giữa tính và tình. Tôi yêu chúng sinh, người thân, bạn học, bạn bè, đệ tử, các chúng sinh hữu tình, tôi yêu họ làm sao. Mặc dù tu hành khiến tôi nhìn thấu mọi sự thay đổi lớn, cũng tương đối hiểu được sự nóng lạnh của tình người, nhưng lão Bồ Tát tu hành là tôi đây từ đầu tới cuối, lòng nhiệt tình vẫn tràn đầy trong tim tôi. Tôi có trái tim của một cậu bé. Chỉ có thương. Chỉ có yêu. Chỉ có cho. Chỉ có tặng. (Từ bi hỷ xả thôi!) Tấm lòng của tôi có ai có thể hiểu? Tôi có nhiều tình cảm như vậy, tuyệt đối không phải là kiểu người vô tình vô nghĩa, bất kì ai tôi cũng đều rất yêu thương! Tôi nhớ lúc tôi còn trẻ đã viết rất nhiều văn chương lãng mạn. Ví dụ như: "Tuyển tập khói mỏng", "Thì thầm trong vườn mộng", "Lá bay trong gió",… Những lời văn đầy cảm xúc! Như mộng như huyễn. Như lời nói mê trong mơ. Đó là nỗi đau của chàng Werther.
[ND: Nỗi đau của chàng Werther: tên tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng của văn hào Đức W.von Goethe, ra đời năm 1774. Trong đó có chàng Werther trẻ tuổi mang tình cảm sâu sắc thuần hậu với nàng Lohtéa, người phụ nữ đã có chồng. Chìm đắm trong sự tuyệt vọng vì không thể với tới nàng, chàng đã sớm tự kết thúc đời mình bằng cái chết bi thảm và tuyệt vọng.] Bây giờ: Tôi đã là một ông già hơn 60 tuổi rồi. Lúc viết cuốn sách Viết cho mưa, tôi đã biến mình trở lại thành bản thân lúc thanh niên, lấy mưa làm đối tượng để tôi tâm sự. Tôi đem mạng lưới tình cảm hóa thành hàng nghìn hàng vạn sợi dây phủ đầy khắp núi sông đại địa vậy thôi! Tim tôi có tình cảm. Tim tôi có tình yêu. Cứ đan xen như vậy. Mưa là âm thanh của trời, rơi vào nước, ở trong gió, vỗ trên lá cây, rơi xuống mặt đất, rơi trên núi, rơi xuống suối, và còn rơi trên tâm khảm của tôi. Mưa biến hóa trong mênh mông của hư không, bạn không cảm thấy là mưa khiến cho người ta phải thốt lên những lời cảm thán thướt tha sao? Sự biến hóa lòng vòng của mưa, khúc ca quanh co của mưa, sự mơn man của mưa, sự vô hạn của mưa, sự hào phóng của mưa, sự thanh tịnh của mưa, sự vô vi của mưa… Bạn nghĩ sao? Viết một bài thơ về mưa vậy! Mưa vẫn luôn nhíu mày. Giọt giọt hóa thành yêu thương ở nhân gian. Tiếng trời tự nhiên vô vi ấy. Cứ vậy tùy duyên mà đến thôi. Một giọt trong suốt. Một giọt thanh tịnh. Vạn đóa hoa tươi rơi cõi trần.
28. Phật pháp chuyển hóa sự si tình
Hỏi: "Trong cuốn sách Tư tưởng triết học của Lư Thắng Ngạn có thể thấy được Sư Tôn đã từng yêu rất sâu sắc cuộc đời này. Tình yêu si tình này chắc chắn làm đau lòng người. Hoàn cảnh không có lối thoát như vậy, Phật pháp có thể chuyển hóa hoặc vượt lên được không?" Tôi trả lời: Bởi vì chúng ta đã đến với chốn nhân gian nên thật khó tránh khỏi quãng thời gian sóng gió của thanh xuân. Trần Truyền Phương đã nói rất hay: 1 tuổi --- khởi đầu một chương. 10 tuổi --- học tập khẩn trương. 20 tuổi --- tuổi trẻ đau thương. 30 tuổi --- sự nghiệp tìm đường. 40 tuổi --- bắt đầu phát tướng. 50 tuổi --- tuy già vẫn gượng. 60 tuổi --- huyết áp bất thường. 70 tuổi --- trí nhớ ẩm ương. 80 tuổi --- run rẩy chuyện thường. 90 tuổi --- mất dần phương hướng. 100 tuổi --- ảnh treo trên tường. Con người chúng ta vào khoảng năm 20 tuổi sẽ trở thành một thành viên của "hội yêu đương". Lư Sư Tôn tôi đương nhiên cũng trải qua những năm tháng yêu đương, thậm chí còn yêu sớm, thậm chí còn yêu lâu, thậm chí còn có tình yêu suốt bao nhiêu năm trời, quả thực đúng là: "Tình tự giá điều lộ". [ND: Tình tự giá điều lộ: Con đường của chữ tình - tên một bài hát được nhiều người biết ở Đài Loan.] Tôi đã từng: mỉm cười, nhìn đắm đuối, nắm chặt tay, ôm, hôn… Cái "dâm" của thiên nhân trong kinh Phật cũng đã viết rất rõ ràng rành mạch: thích vẻ ngoài cũng coi là dâm, thích nụ cười cũng coi là dâm, thích ôm ấp cũng coi là dâm, thích giao hợp cũng coi là dâm. Lư Sư Tôn thực sự đã từng rất si tình. Tôi đã từng viết những giai điệu lãng mạn chứa hàng vạn sợi tình thơ, tôi đắm mình trong cảm xúc duyên dáng đẹp đẽ lúc cùng khiêu vũ. Yêu rồi mới biết tình thâm. Say rồi mới biết rượu nồng. Tình là thâm, ý là nồng, ly là khổ, tưởng là không. Trong những năm tháng đã qua đó tôi đều có lúc chạy trốn khỏi si mê, có những tình huống si mê, có lời thì thầm si mê, có những lo lắng si mê, có những tư tưởng si mê… Nam và nữ. Bụi và đất. Mây và trăng. Đã để lại bao nhiêu hoài niệm, có nên ca ngợi không? Hay là nên để cho quên đi? Đến cả tôi cũng không biết. Trong công án thiền có một chuyện như sau: Sư phụ hỏi thiền sư Văn Ích: "Thượng tọa bình thường nói "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức", rồi chỉ vào hòn đá ở trong sân nói: Vậy thì đạo của hòn đá này, là ở bên trong tâm? Hay là ở ngoài tâm?" Thiền sư Văn Ích nói: "Ở trong tâm." Sư phụ nói: "Tăng nhân đi bộ rốt cuộc là vì cái gì, đặt một hòn đá trong đầu sao?" Thiền sư Văn Ích khi đó không hiểu, bối rối không biết nghĩ sao cho đúng. Nhân đây tôi cũng hỏi: Hai chữ "si tình" này. Là ở trong tâm, hay là ở ngoài tâm? Tôi tin rằng các thánh đệ tử của tôi bây giờ đều có thể trả lời được, nếu như trả lời được, lại có thể tu hành thì "si tình" rồi cũng sẽ được Phật pháp chuyển hóa. Lại còn thấy được: "Trời cũng Không, đất cũng Không, nhân sinh chỉ bé xiu xíu trong trời đất. Ngày cũng Không, tháng cũng Không, đông mọc tây lặn là "ai" làm? Vàng cũng Không, bạc cũng Không, con đường đến suối vàng cũng chẳng gặp!" Hỏi "si tình" vì điều gì đây?
29. Nỗi đau khi người thân qua đời
Hỏi: "Làm sao để vượt qua nỗi đau khi người thân qua đời?" Tôi trả lời: Ngày xưa lúc Phật Đà trụ thế, có một phụ nữ trong lòng rất đau khổ thương tâm, ôm trên tay đứa con đã chết tìm đến chỗ ngụ của Phật Đà. Bà khóc lóc thảm thương cầu xin Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sức mạnh thần thông mạnh nhất làm cho đứa con đã chết của mình có thể sống lại. Phật Đà nói với người phụ nữ rằng trước hết bà có thể đi đến từng gia đình, đi hỏi thử xem trong nhà họ có người thân đã chết hay không? Nếu có một gia đình chưa từng có người thân nào đã chết thì bà lại quay lại đây, ta sẽ dùng sức mạnh thần thông để cứu con bà sống lại. Người phụ nữ nghe xong bèn đi đến từng hộ gia đình, hỏi xem họ có người thân qua đời hay không? Cuối cùng, người phụ nữ đã phải thất vọng. Bởi vì mỗi hộ gia đình đều có người thân đã qua đời. (Câu chuyện nhỏ này cho chúng ta thấy gia đình nào cũng đều có người thân qua đời.) Qua đời là chuyện bình thường. Không có người qua đời mới là chuyện không bình thường. Phật nói: "Có sinh tất có tử." Tử là một trong bốn thứ: Sinh hữu --- lúc vừa sinh ra gọi là sinh hữu. Bản hữu --- cuộc sống giữa sống và chết là bản hữu. Trung hữu --- tồn tại của linh hồn thân trung ấm là trung hữu. Tử hữu --- lúc vừa chết, vẫn còn chưa tái sinh, là tử hữu. Lúc mẹ của Lư Sư Tôn, bà Lư Ngọc Nữ qua đời, tôi đã nếm trải qua nỗi đau của việc người thân qua đời. Tôi cũng từng khóc. Điều tôi hối tiếc là: Mẹ tôi chưa được thấy cháu trai Phật Kỳ lấy vợ, chưa được thấy cháu gái Phật Thanh xuất giá, chưa được thấy chắt Lư Hồng, Lư Quân ra đời. Nhưng tôi đồng thời hiểu được: Việc này cũng là việc bình thường. Con người là động vật có tình cảm, người thân qua đời sẽ thường đau khổ, việc này khó tránh khỏi. Nhưng thời gian từ từ rồi sẽ phai mờ đi. Người học Phật so với người thế tục bình thường lại càng nên xem nhẹ chuyện sinh ly tử biệt, vì cái chết là không thể tránh khỏi! Phật pháp có pháp siêu độ, siêu độ cho người vãng sinh. Phật pháp có chú vãng sinh, đọc chú cho người vãng sinh. Phật pháp có thể kiểm tra các hiện tượng sau: 1. Người làm việc thiện thì lúc chết, đầu tiên là lạnh từ chân đến rốn, phía trên rốn vẫn ấm, sau đó khí hết, sinh trong cõi người. 2. Người làm việc thiện, nếu đỉnh đầu vẫn ấm, đến khi khí cạn, sinh ở cõi thiên. 3. Nếu lạnh từ đỉnh đầu đến rốn, chỉ còn dưới vùng eo vẫn ấm, sau khi khí cạn, thì sinh vào cõi ngạ quỷ. 4. Nếu lạnh từ đỉnh đầu đến đầu gối, chỉ còn dưới đầu gối vẫn ấm, thì sinh vào cõi súc sinh. 5. Nếu lạnh từ đỉnh đầu đến chân, chỉ còn bàn chân vẫn ấm, thì sinh vào cõi địa ngục. 6. Nếu là thánh nhân La Hán muốn nhập niết bàn, hoặc tim hoặc đỉnh đầu vài ngày vẫn còn ấm. Tôi cảm thấy để vượt qua được nỗi đau thương cần phải hiểu rõ chết là việc tự nhiên, không thể tránh khỏi. Còn nữa, cái chết của con người không phải là chết thật, sau khi chết lại sinh ra, sau khi sinh ra lại chết, cứ như vậy luân hồi không dừng dứt. Người giác ngộ lại càng biết rằng: "Vô sinh vô tử!" Tăng nhân hỏi thiền sư Phật Nham Huy: "Có người năm đó có bệnh, lại trúng độc, mời thầy thuốc." Thiền sư Phật Nham Huy đáp: "Hai thang một bát." (trả lời khéo) Tăng hỏi: "Phật đi lên như thế nào?" Thiền sư Phật Nham Huy đáp: "Như vỏ ốc xoắn." Tăng hỏi: "Phật đi xuống như thế nào?" Thiền sư Phật Nham Huy đáp: "Ngồi hoa sen." Tôi nói: "Hiểu rõ sinh tử, tất cả vô sự!"
30. Nhân viên hoằng pháp phá giới
Hỏi: "Pháp hội được chủ trì bởi một nhân viên hoằng pháp phá giới, người đến tham gia pháp hội đó nếu cầu xin liệu có được như ý nguyện không? Hay lại càng thảm hại hơn?" Tôi trả lời: Người tu hành chúng ta nhất định cần hết sức cẩn thận giữ gìn giới luật của Phật Đà. Giới là để đề phòng điều sai quấy, dừng chỉ mọi điều ác. Mỗi một hành giả có thể dừng ác làm thiện thì tất sẽ có lương tâm trong sáng, lòng không tức giận, có được thanh lương. Giới luật sẽ sinh ra một dạng "sức mạnh". Giới luật trang nghiêm, lấy đức làm hương. Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Hộ Pháp, Chư Thiên, Không Hành, đều sẽ đến để hộ trì người tu hành. Ngược lại nếu không giữ giới luật sẽ không thể có sự hộ trì. Người thế tục cần giữ năm giới, làm mười điều thiện. Tỳ kheo cần giữ 250 giới. Tỳ kheo ni cần giữ 348 giới. Sa di cần giữ 10 giới. Muốn làm Bồ Tát cần giữ Bồ Tát giới. Mật giáo cần giữ Mật tông giới. Giới Luật Tạng là giải thích kinh điển về giới luật, là một trong Tam Tạng, vô cùng quan trọng. Giữ giới luật là việc như pháp. Không giữ giới luật là việc bất như pháp. "Kinh Phạm Võng" và "Kinh Ưu Bà Tắc" cũng là kinh điển giảng về giới luật. Tôi nhận thấy như sau: Người tu hành không giữ giới luật, phạm giới hoặc phá giới, phải nhanh chóng sám hối, sám hối trước Phật Bồ Tát, sám hối trước cao tăng, hoặc sám hối trước Căn Bản Thượng sư, hoặc sám hối trước trưởng lão, tu pháp sám hối, cho đến khi tướng sám hối xuất hiện. Hành giả Mật giáo phạm giới phải xin quán đảnh lại từ đầu, tu sám hối hoàn tịnh. Nếu như nhân viên hoằng pháp vi phạm giới luật, bản thân không sám hối, cũng không hoàn tịnh, sẽ bị chư Thánh từ bỏ. Nhân viên hoằng pháp phá giới, nếu như anh ta chủ trì pháp hội, chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên sẽ không hạ giáng hộ trì, sẽ không phóng quang gia trì, đối với người tham gia pháp hội đương nhiên không có ích lợi gì. Nếu như người tham gia nhận quán đảnh của người hoằng pháp phá giới thì nước quán đảnh đó: Không khác gì nước lã. Không phải là nước pháp. Không phải nước bổn tôn. Không phải nước cam lộ. Giống như bạn đi tham dự lễ hội té nước mà thôi, giống như bị nước hắt vào người, vô ích nhưng cũng vô hại. (Trừ phi người hoằng pháp phá giới dẫn dắt tà thần đến quán đảnh thì mới có chuyện càng quán đảnh càng thảm hại.) Đi tham gia pháp hội của người hoằng pháp phá giới sẽ không có Phật quang chiếu tới, không có Bồ Tát giáng xuống, không có Bồ Tát gia trì cho đồng môn tham dự. Như vậy thì cũng giống như đi xem một vở diễn kịch mà thôi, xem xong rồi thì vô ích và cũng vô hại. (Trừ phi người hoằng pháp phá giới dẫn dắt tà thần đến phóng tà quang thì mới có chuyện tà quang chiếu tới, ai nấy biến thành tà.) Chúng ta biết rằng: Nhất giới, nhì định, tam huệ, tứ giải thoát, ngũ giải thoát tri kiến. 5 điều này tương xứng với 5 phần pháp thân. Giới là để phòng thân tránh ác, định là để tâm không loạn, huệ là để loại bỏ ảo vọng chứng được chân lý, giải thoát là để cách ly khỏi những ràng buộc mà chứng niết bàn. Lư Sư Tôn tôi chủ trì pháp hội. 1. Phóng quang. 2. Thanh tịnh. 3. Như nguyện. 4. Người bệnh bình phục. 5. Thoát khỏi vô minh. 6. Tăng trưởng phúc huệ. Tất cả đều nhờ có Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên phóng quang gia trì mà được!
31. Có cần bằng học vấn cao không?
Hỏi: "Từ góc độ của Phật pháp, người đi học bình thường có cần thiết phải học lấy bằng thạc sĩ, tiến sĩ không?" Tôi trả lời: Nền tảng học vấn của Lư Sư Tôn xem ra cũng khá hoàn chỉnh: Tiểu học - Trường tiểu học công lập Đại Đồng (Cao Hùng). Sơ trung (cấp hai) - Trường trung học cơ sở Cao Thị loại hai. Cao trung (trung học) - Trường công chức Cao Hùng. Đại học - Trường trắc lượng khóa 33. (Học viện Khoa học kỹ thuật Trung Chính khóa 28) Khi học sơ trung tôi từng lưu ban, từng phải chuyển xuống học trường Cao Thị loại ba. (Tiếp đó học) trường trắc lượng, học viện Kỹ thuật Hải quân, học viện Kỹ thuật Quân sự, sau đó sáp nhập vào học viện Công nghệ Trung Chính. Tôi là kỹ sư. Nền tảng học vấn của tôi không được xem là rất cao, chỉ là tốt nghiệp đại học mà thôi. Vì sao tôi lại học trường quân đội? Đáp án là năm đó gia cảnh nhà rất nghèo, không có tiền cho tôi đi học trường đại học bình thường, do vậy tôi không tham dự kì thi vào đại học mà trực tiếp thi vào trường quân đội, trường quân đội được nhà nước chu cấp. Sau khi tốt nghiệp, tôi phục vụ trong quân đội 10 năm. Mọi người có thể để ý kĩ thấy rằng những người sáng lập của bốn ngôi chùa lớn nhất của Phật giáo Đài Loan: Phật Quang Sơn --- Tinh Vân đại sư. Pháp Cổ Sơn --- Thánh Nghiêm pháp sư. Trung Đài Sơn --- Duy Giác pháp sư. Từ Tế --- Chứng Nghiêm thượng nhân. Ba vị đầu tiên đã từng là quân nhân thời chiến tranh Quốc Cộng, nền tảng học vấn của họ đều là các lớp học bổ túc ở nơi đóng quân mà thôi. Vị cuối cùng nền tảng học vấn ra sao thì như mọi người đều biết. Nhưng bất kể nền tảng học vấn của họ như thế nào thì thành tựu của họ trên phương diện Phật pháp rất rõ ràng. Ít nhất mỗi vị đại sư, thượng nhân đều tạo dựng nên một vùng trời, trong giới tôn giáo đều đóng vai trò hết sức quan trọng. Lục Tổ Thiền Tông Lư hành giả từng phải chặt củi nuôi gia đình, năm đó không đi học, nhưng sau khi phát lộ "Phật huệ" thì trí huệ bát nhã của ngài thâm sâu không thể đo đếm, thực sự là bất khả tư nghì. [ND: Lư hành giả: Lục Tổ Thiền tông Huệ Năng mang họ Lư.] Do vậy tôi nói: Học đến thạc sĩ, hai bằng thạc sĩ, tiến sĩ, thực sự không có liên quan nhiều đến thành tựu Phật pháp. Tôi cho rằng thế này: Từ góc độ Phật pháp mà nói, muốn học thông được tam tạng kinh điển thì cần nghe hiểu được Thượng sư truyền pháp. Học thức cơ bản là cần thiết bởi thành tựu Phật pháp cần có công cụ, trong đó đọc sách và đi học cũng là một trong những công cụ đó. Nhưng cũng không cần phải học đến thạc sĩ, tiến sĩ, bởi rốt cục thì thạc sĩ hay tiến sĩ đều là học vấn nhập thế. Nhưng tôi cũng không phản đối việc học đến thạc sĩ, tiến sĩ. Cuộc đời này của Lư Sư Tôn chỉ học đến khi tốt nghiệp đại học của quân đội, nhưng lại rất thích đọc sách. Con người tôi chỉ cần là sách thì đều đọc, mỗi ngày đều cố định thời gian đọc sách, thích học không biết mệt mỏi, chưa từng có một ngày nào không đọc sách. Tôi vẫn luôn tin tưởng rằng chỉ cần mở sách là có lợi ích. Thiền sư Văn Ích lúc 7 tuổi, tại Tân Định, viện Trí Thông, ở chỗ thiền sư Toàn Vĩ xuống tóc. Thiền sư Văn Ích từng học tại chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, định trở thành sư chủ quản về giới Luật. Thiền sư Văn Ích cũng nghiên cứu Nho điển. Thiền sư Văn Ích cũng học hỏi thiền sư Trường Khánh. Sau này: Sư phụ hỏi: "Hành này là gì?" Thiền sư Văn Ích đáp: "Là đi bộ." Sư phụ hỏi: "Cái gì là đi bộ?" Thiền sư Văn Ích nói: "Không biết." Sư phụ nói: "Không biết là gần đúng nhất." Tôi nhận thấy thế này: "Đi bộ chính là cầu học, học hỏi chính là đọc sách."
32. Nói chuyện về ảnh phóng quang
Hỏi: "Ngài có thể nói một chút về những tấm ảnh phóng quang không?" Tôi trả lời: Trí Độ Luận nói: Như Lai vì sao thường có ánh sáng cao một trượng? Trả lời rằng chúng sinh ngày nay bạc phước độn căn (phước mỏng căn cơ kém), nên mắt không thấy ánh sáng, nếu phát quang nhiều thì sẽ mất đi nhãn căn. Với chúng sinh căn cơ tốt lại phước dày, Phật sẽ phóng vô lượng quang minh. Còn nữa: Bách Quang Biến Chiếu Vương tức Đại Nhật Như Lai. Đoạn văn nói đến ở trên là nói về Như Lai thường xuyên phát quang, hơn nữa lại là vô lượng quang minh. Mắt của chúng sinh thế tục có thể không thấy được quang minh, nguyên nhân chính là vì chúng sinh phước mỏng căn cơ yếu. Tôi nói, không chỉ chư Phật phóng quang, Bồ Tát cũng phóng quang, Kim Cương cũng phóng quang, Hộ Pháp cũng phóng quang, Không Hành cũng phóng quang, Chư Thiên cũng phóng quang. Người cõi trời cũng đều phóng quang vậy. Tôi lại nói, không phải chỉ có như vậy, ngay cả tinh linh cũng có thể phóng quang, thậm chí động vật, thực vật ô trược cũng có thể phóng quang chút chút. Kỳ thực phóng quang là chuyện bình thường, không phải chuyện gì to tát đáng kể. Tôi nói: Theo một "tần số" nào đó, ở đây tôi chỉ có thể dùng chữ "tần số" để biểu thị, máy ảnh của chúng ta có thể chụp được những tấm ảnh phóng quang, ngoài ảnh bị phơi sáng ra (ảnh chụp bị lỗi), kỳ thực đều là ảnh phóng quang. Tôi đã từng xuất bản vài cuốn sách giải thích về hiện tượng "phóng quang". Còn nhớ có lần tôi đi gặp Thubten Dezhung Rinpoche (Dezhung Lungrik Tulku), thị giả của ngài là Thubten Qigong đã chụp hai tấm ảnh. Một tấm chụp ảnh ngay đúng lúc tôi đảnh lễ Thubten Dezhung Rinpoche, tay của thầy đặt trên đầu tôi, gia trì cho tôi! Tấm thứ hai, Thubten Dezhung Rinpoche vẫn với tay ra, từ đầu đến chân tôi toàn thân không còn một dấu vết hình ảnh nào, biến mất? Dezhung Rinpoche nói: "Lư Sư Tôn biết pháp ẩn thân!" Tôi trả lời: "Tôi niệm chú Ma Lợi Chi Thiên, ngài Ma Lợi Chi Thiên có pháp ẩn thân!" Lại có một lần chúng tôi đi du lịch Italy. Lúc đến đại giáo đường São Paulo, Thượng sư Liên Ninh chụp cho tôi và Sư Mẫu một tấm ảnh, phía sau là nơi chôn cất thánh Paul. Phía sau lưng tôi không có ai khác. Trong lúc chụp, sau lưng của chúng tôi xuất hiện một vị "quang nhân" (người thân ánh sáng), nhìn kĩ "quang nhân" này thì giật mình hóa ra là: Thánh Paul. (Hễ nơi nào tôi đi đến, tất cả Thánh hiền mười phương sẽ đều hiện thân.) Những tấm ảnh có quang ảnh của tôi cũng không ít (tự bản thân phát quang). Chúng đều là do đồng môn chụp. Mọi người để ý thấy rằng cả đời này tôi chẳng hề có chiếc máy ảnh nào, tôi vốn là người không chơi máy ảnh. Bản thân không có máy ảnh, những tấm ảnh phát quang của tôi đều là đệ tử chụp tôi. Chỉ cần tôi tinh thần thống nhất. Chỉ cần tôi làm pháp hội. Chỉ cần tôi thiền định. Chỉ cần tôi chiêu thỉnh Phật Bồ Tát. Chỉ cần tôi thư thái ung dung. Chỉ cần tôi vận khí. Đồng môn hướng máy ảnh vào chụp ảnh tôi đều sẽ chụp được những bức ảnh phóng quang. (Các hình ảnh phóng quang ở hình thái nào cũng đều có.) Thơ rằng: Dấu chấm than! Ngờ đâu lại là một mảnh ánh sáng. Theo bảy sắc đến rồi đi. Hoặc là một biểu tượng thù thắng. Hoặc là bình thường. Chỉ là từ chính ta mà ra.
33. "Quái vật" và "xúi quẩy”
Hỏi: "Ngày 28 tháng 2, Đài Loan Lôi Tạng Tự tổ chức buổi họp mặt bạn học cũ thời đại học của ngài, nghe nói lúc còn đi học có một số người gọi ngài là "quái vật" hay đồ "xúi quẩy", vì sao vậy?" Tôi trả lời: Từ khi còn nhỏ, biểu hiện của tôi rất bình thường, chỉ duy nhất "khác lạ" ở chỗ tôi rất thích để tâm nghĩ đến chân tướng của con người. Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi sống là vì sao? Vì sao nhất định cần đi học? Vì sao nhất định cần kiếm tiền? Vì sao nhất định cần kết hôn? Từ sáng đến tối tôi đều nghĩ những vấn đề này. Không chỉ như vậy, tôi luôn có suy nghĩ, thân thể chính là thân thể, tâm chính là tâm. Thiên đường là cái thứ gì? Địa ngục là cái thứ gì? Tôi thích tìm hiểu về tôn giáo, Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Phật giáo Hiển Mật cùng những tôn giáo khác. Tôi có lẽ là một người tương đối tách biệt khỏi thế giới hiện thực, một lòng hướng về thiên đường, tịnh độ, Phật quốc. Tôi sống ở thế giới hiện thực nhưng lại đầy ắp sự tò mò về thế giới mà tôi không biết đến. Bạn học của tôi cảm thấy tôi là "quái vật". Trong lớp tôi có hai biệt danh, một người là "Nam Sơn Nhất Quái", người kia là "Bắc Hải Nhất Yêu". Tôi chính là một trong hai kẻ đó. Còn đối với "xúi quẩy": Là một kẻ trái khoáy, trong lớp học tôi luôn luôn tự mình làm mình biết, thì bị coi là "quái vật" là đương nhiên, còn bị cho là "xúi quẩy" thì cũng chẳng có gì nghiêm trọng cả. Mặc dù tôi là "quái vật", nhưng kỳ thực với các bạn học, tôi lại rất hòa hợp. Tôi từng làm trưởng khoa. Lúc còn làm trưởng khoa, những việc cần làm tôi không hề có chút lơ là. Tôi luôn thích các bạn cùng lớp, tôi đối xử với các bạn học rất tốt, không hề ích kỉ. Ngoài tôi ra có một "quái nhân" khác thích biện luận, câu nói cửa miệng của anh này chính là "Không thể nào được!", bất kể là biện luận như thế nào. Kết luận của anh ta luôn là: "Không thể nào được!" Tôi là Lư Thắng Ngạn, anh ta là Tiêu Bá Thanh. Có vẻ như chúng tôi cũng để lại dấu ấn: "Nam Sơn Nhất Quái" "Bắc Hải Nhất Yêu" Ha ha ha! Thiền sư Văn Ích hỏi thượng tọa Tử Phương : "Cái gì là vạn tượng chi trung độc lộ thân?" Thượng tọa Tử Phương lấy cây phất trần. Thiền sư Văn Ích hỏi: "Như vậy sẽ đắc được sao?" Thượng tọa Tử Phương hỏi: "Ý của hòa thượng là sao?" Thiền sư Văn Ích hỏi: "Hỏi cái gì là vạn tượng?" (hỏi khéo) Thượng tọa Tử Phương đáp: "Cổ nhân không chuyển vạn tượng." Thiền sư Văn Ích đáp: "Vạn tượng chi trung độc lộ thân, chuyển hay không chuyển cái gì?" (Lời nói này thức tỉnh thượng tọa Tử Phương, thượng tọa Tử Phương vì vậy mà đã giác ngộ.) Nếu như có người hỏi: "Vạn tượng chi trung độc lộ thân?" Tôi trả lời: "Quái vật!" "Vạn tượng như thế nào?" Tôi trả lời: "Toàn là quái vật." (Họ xem tôi là quái, tôi xem họ là quái.)
34. Phân tích giấc mộng
Hỏi: "Phân tích những sự khai sáng trong giấc mơ thế nào?" Tôi trả lời: Lư Sư Tôn từng nói rằng giấc mơ cũng là một cảnh giới. Nhân gian của chúng ta là một cảnh giới, còn mơ cũng là một cảnh giới giống như vậy. Ngoài ra, trung ấm giới sau khi chết cũng là một cảnh giới. Mọi người hãy suy ngẫm kĩ càng: Nhân gian. Giấc mơ. Trung ấm. (linh hồn) Liệu có chỗ nào nào giống nhau không? Tôi lấy hình ảnh "trăng trong nước" để so sánh: Mắt chúng ta có thể nhìn thấy được trăng trong nước, thực sự là có mặt trăng, nhưng dù rút cạn hết nước đi thì vĩnh viễn cũng không tìm thấy trăng được. "Trăng trong nước" là có? "Trăng trong nước" là không có? "Trăng trong nước" cơ bản là một giấc mộng. Bạn không cảm thấy sao? Đời người là giấc mộng lớn trăm năm, giấc mộng là giấc mơ của một đêm, trung ấm là giấc mộng của bảy bảy bốn chín ngày, đều là mộng cả thôi! Cơ thể xương thịt sắc thân này của chúng ta được tạo nên bởi ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà nên, khi phân tán ra thì không còn nữa, như giấc mộng. Các pháp là nhân duyên hòa hợp mà có, huyễn sinh huyễn diệt, mọi pháp là hư vọng và vô thực thể, như giấc mộng. Vì sao có tư tưởng "vô ngã"? Bởi vì ngũ uẩn giả hợp mà có cái "ngã", kẻ phàm phu thế tục tưởng rằng cái "ngã" này chính là cái "tôi" thật, chỉ có thánh giả ngộ đạo rồi mới có thể hiểu được thấu đáo, cái tôi này vẫn là cái "tôi" giả sinh ra bởi nhân duyên mà thôi! Vì thế mà cũng như giấc mộng. Chúng ta tu hành cũng chính là để cho sắc, thọ, tưởng, hành không rơi vào tam ác đạo, đến được Phật tính, vĩnh viễn không còn chịu luân hồi. Mật giáo chúng ta có tu mộng. Ở trong mộng, chúng ta cần phải tu đến: Tri mộng --- biết được đây là mộng. Minh mộng --- giấc mơ cần rất rõ ràng. Chủ mộng --- làm chủ được bản thân trong giấc mộng. Tu mộng --- trong mộng cũng có thể tu hành. Kỳ thực bốn điểm này đều vô cùng quan trọng, người tu hành bình thường ban ngày có thể tu hành, nhưng ban đêm thì lại lẫn lộn vọng tưởng, tu hành như vậy thực là một sự lãng phí lớn. Tri mộng, minh mộng, chủ mộng, tu mộng này tu như thế nào? Điểm quan trọng nằm ở chỗ: Thỉnh cầu Thượng sư gia trì! Thỉnh cầu bổn tôn gia trì! Thỉnh cầu hộ pháp bảo hộ! Buổi đêm tu "Miên quang pháp", đi vào mộng Tam Ma Địa, tịnh quang bảo hộ, là tự nhiên có thể tri mộng, minh mộng, chủ mộng, tu mộng rồi. Không làm được như thế này thì cảnh giới giấc mộng của hành giả hầu hết chỉ là vọng tưởng lẫn lộn. Nếu như hành giả tu mộng thì rất dễ phân tích được những sự khai sáng trong giấc mộng, mơ rất rõ ràng, trong mộng gặp Thượng sư, trong mộng gặp bổn tôn, những gì được thông báo trong mộng đều chính xác là những khai sáng. (Thông thường giấc mộng vào khoảng 6 giờ sáng là những giấc mộng khai sáng.) Trong mộng cũng cần phải phòng hộ. Lúc được khai sáng dạy bảo, nếu là thật, hành giả niệm Thượng sư tâm chú sẽ xuất hiện ánh sáng rực rỡ huy hoàng. Nếu là giả, hành giả niệm Thượng sư tâm chú thì mộng cảnh tự nhiên sẽ biến mất. Tôi lấy ví dụ: Lúc tôi còn ở trường trắc lượng, tôi mơ thấy tổng thống Tưởng Kinh Quốc mời đến gặp, cực kì rõ ràng, không dám không tin. Sau đó ngài Kinh Quốc đến trường tôi thanh tra. Hiệu trưởng - thiếu tướng Doãn Chung Kỳ tặng ngài Kinh Quốc cuốn Tuyển tập khói mỏng mà tôi xuất bản. Ngài Kinh Quốc mời tôi đến gặp nói chuyện. Mộng cảnh đã ứng nghiệm rồi! Ví dụ về giấc mơ báo trước này nhiều không kể hết, thật không thể tưởng tượng được!
35. Thể chất linh dị
Hỏi: "Trẻ con có thể chất linh dị nên làm gì?" Tôi trả lời: Thể chất linh dị thực ra không phải đứa trẻ nào cũng có. Đứa trẻ có thể chất linh dị thì trạng trái linh dị cũng đặc biệt nhiều, hơn nữa mỗi kiểu lại không giống nhau, do vậy câu hỏi này phạm vi rất rộng. Em gái tôi Lư Ngọc Ý lúc nhỏ chính là một người có thể chất linh dị. Có lần em ấy nhìn thấy ngồi bên dưới bàn thờ thần trong nhà có mấy người tí hon, em đã hô hoán cả nhà ra xem. Lư Ngọc Ý chỉ vào đám người tí hon dưới gầm bàn nói rằng bọn họ làm thành một vòng tròn, đang mở cuộc họp, những người tí hon này ăn mặc không giống nhau. Mẹ tôi hỏi: "Bọn họ già trẻ lớn bé thế nào?" Lư Ngọc Ý đáp: "Họ khoảng trung niên và người già, cao ba thốn đinh." [ND: Ba thốn đinh: khoảng 23cm, ngày nay cụm từ "ba thốn đinh" dùng để chỉ những người nhỏ và lùn.] "Con bị ảo giác à?" "Không phải, nhất cử nhất động của bọn họ đều rất rõ ràng, họ còn chào chúng ta kìa." Chúng tôi không nhìn thấy gì, nghe sởn cả gai ốc. Ngày xưa Lư Ngọc Ý thường nhìn thấy còn chúng tôi thì không nhìn thấy gì. Xem biểu hiện của em tôi thì thực sự là em ấy nhìn thấy thật, bởi em ấy chẳng có lý do gì để lừa gạt chúng tôi cả. Sau này lớn lên thì em ấy lại không nhìn thấy gì nữa!
Tôi từng gặp một vị trưởng gia đình đem theo một đứa nhỏ linh dị đến gặp tôi. Đứa trẻ này mắt nhìn thấy, tai cũng nghe thấy. Nó ngồi trước cửa nhà ai khóc thì nhà đó liền có người chết. Hỏi nó. Nó nói: "Lính quỷ ở âm phủ đi vào nhà bắt người." Nó nói: "Hôm nay sẽ mưa to! Sẽ bị ngập lụt nặng." Hỏi nó: "Ai bảo thế?" Nó đáp: "Địa ngục công công nói." Quả nhiên mưa như trút nước, ngập lụt nặng. Bố cậu bé cầu tôi làm pháp khiến cho nó không nhìn thấy được, không nghe thấy được, bởi thầy cô giáo ở trường mẫu giáo nghĩ thần kinh nó có vấn đề. Nó nói: "Xe nôi em bé sẽ đâm vào người ta!" Quả nhiên xe nôi em bé đâm trúng người ta. Thầy cô giáo nói nó là "quỷ xui xẻo". Tôi làm pháp kết giới cho đứa bé trai này, niêm phong lại mặt và tai của cậu, từ đó cậu bé không nhìn thấy quỷ thần của linh giới nữa, cũng không nghe thấy lời nói của quỷ thần linh giới nữa. Linh giới vô cùng phức tạp, mà nhân gian kỳ thực cũng rất phức tạp. Trẻ con có thể chất linh dị nếu biết cách bồi dưỡng tốt thì lớn lên sẽ thành một "người thông linh". Có điều việc bồi dưỡng thành "người thông linh" không phải là việc dễ dàng, cần phải có tài năng chuyên môn về phương diện này. Thông thường nếu muốn dừng hiện tượng thể chất linh dị thì cần có người hiểu về pháp thuật, dùng pháp kết giới niêm phong lại chỗ có linh dị. Còn những người khác khi lớn lên, đường thông linh của họ sẽ tự động đóng lại. Ví dụ: Khai thiên môn (niêm phong thiên môn lại). Bế địa hộ. Ngăn nhân đạo. Giấu đường quỷ. Chặn tất cả các đường kênh mà linh dị có thể xâm nhập, thiên khiếu (lỗ trên đỉnh đầu), mắt, tai, mũi, miệng, rốn, hậu môn, những chỗ bí mật, làm kết giới toàn thân. Như vậy linh dị sẽ không phát sinh nữa, mọi thứ lại bình thường! Trẻ con có thể chất linh dị nếu có thể đi theo hướng tu hành kỳ thực cũng rất tốt, tuy nhiên đó là một con đường rất dài, khó tránh khỏi nửa đường "biến chất". Tu hành và linh dị mặc dù có chút xíu liên quan, nhưng trên thực tế, nhìn chung mà nói thì là hai việc khác nhau. Tu hành và thần thông cũng là như vậy.
36. Làm quan to khó tu hành
Hỏi: "Lư Sư Tôn từng nói, người làm quan to rất khó tu hành, xin hỏi, vì sao vậy? Chẳng phải có người nói cửa quan thích tu hành sao?" Tôi trả lời: Quan chức to thường tự cho bản thân mình cao quý hơn phàm phu bình thường, không dễ gì khom lưng đảnh lễ tới người tu hành. Muốn nói người làm quan to đi quy y một hành giả chân chính không hề dễ. Muốn bảo người làm chức lớn đi nhận quán đảnh Mật giáo, trên thực tế cũng chẳng phải là việc dễ dàng. Vì sao lại như vậy? Bởi anh ta cho rằng địa vị của bản thân rất cao, nếu việc cúi đầu đảnh lễ người tu hành bị phát tán trên truyền thông thì chẳng khác nào trò cười lớn. Ví dụ: Trong những buổi chúng ta đồng tu, Thượng sư ngồi trên cao, toàn bộ mọi người đồng tu không phân biệt sang hèn đều ngồi trên sàn nhà cùng tu pháp. Quan to chức lớn mặc đồ Tây mà lại phải ngồi cùng những người thấp hèn tạp nham, họ có chịu được không? Mọi người nhìn xem, các quan chức to đến tham gia pháp hội của chúng ta cũng là rất miễn cưỡng. Mời họ ngồi ở hàng đầu, chưa nghe được mấy câu đã bỏ chỗ mà đi. Không hề nghe pháp. Không nhận quán đảnh. Không hề quy y. Vội vã đến, lại vội vã đi, họ đến tham gia pháp hội cũng là xã giao, làm quan to thì phải xã giao nhiều, đều là "chấm nước tương" mà thôi. (*) Tuy nhiên, có thể đến để "chấm nước tương" một chút cũng đã là rất tốt rồi! Với những tình huống như thế này, cho dù bạn viết hơn hai trăm cuốn sách, cho dù bạn viết hai nghìn cuốn sách, thì dù chỉ một cuốn họ cũng chẳng hề đọc qua. Bạn tặng họ sách thì cũng bị buộc lại thành đống để phủ bụi tít trên giá sách mà thôi. Quan to dù đến "chấm nước tương", tìm thời gian rảnh đến tham gia pháp hội của bạn, pháp bạn giảng một câu cũng không nghe, họ cũng không hiểu "Chân Phật Mật Pháp" là cái thứ bánh nếp quái quỷ gì. Họ đương nhiên sẽ không đi pháp hội. [ND: Chấm nước tương: tiếng lóng của người Đài Loan, để chỉ làm việc gì đó một cách qua quýt cho xong, không đầu không đuôi.] Từ việc: Quy y đảnh lễ khó. Quán đảnh khó. Nghe pháp khó. Tu pháp khó. Đọc sách khó. Trên thực tế Khó khó khó. Quan lớn sẽ lên các ngọn núi có tôn giáo để dâng hương, sẽ đến các chùa lớn dâng hương, nơi nào tín chúng của các tín ngưỡng dân gian càng nhiều thì họ cũng có mặt để dâng hương. Trong tâm có Phật không? Trong tâm có thần không? Kỳ thực trong tâm họ chỉ có "lá phiếu". Chỉ cần lễ hội dân gian có nhiều tín chúng, các vị quan to sẽ ùn ùn kéo đến. Nhưng đâu vẫn vào đó, lên ống kính truyền thông xong rồi thì vội vã lủi đi, kính thần chỉ vì lá phiếu mà thôi. Quan lớn có trì chú không? Quan lớn có quán tưởng không? Quan lớn có nhập Tam Ma Địa Không? Quan lớn có tu đàn Mật pháp không? Hiếm lắm! Giữa quan lớn và các tổ chức tôn giáo có tồn tại một mối quan hệ "vi diệu", nhưng kiểu quan hệ này không phải là "minh tâm kiến tính", "tự chủ sinh tử", "giải thoát luân hồi", "chứng Phật bồ đề". Vì sao lại bảo "làm quan dễ tu hành" đây? Bởi một mệnh lệnh của quan lớn khiến dân chúng có thể sống một ngày tốt đẹp, hay khiến dân chúng có thể sống một ngày tồi tệ, tất cả đều ở trong ý niệm của quan lớn. Quan lớn có thể nghĩ cho dân chúng đương nhiên là quan tốt, cũng chắc chắn là một việc công đức. Quan lớn ra lệnh một tiếng: Có thể đại chiến! Có thể ngừng chiến! Giảm bớt sát sinh cũng xem như là công đức, là đại thiện. "Làm quan dễ tu hành" chính là như vậy. Thiện và ác, chỉ một ý niệm mà thôi. Sáng và tối, chỉ một ý niệm mà thôi. Tôi nói có đúng không?
37. Một ngày sáu thời mãi cát tường
Hỏi: "Trong bài tụng cát tường có một câu rằng, một ngày sáu thời mãi cát tường. Chúng ta biết rằng một ngày có 24 giờ, một ngày sáu thời có nghĩa là gì?" Tôi trả lời: Ban ngày ba thời, ban đêm ba thời, hợp thành sáu thời. Ban ngày ba thời --- mặt trời mọc, nửa buổi, mặt trời lặn. Ban đêm ba thời --- chập tối, giữa đêm, đêm muộn. Kỳ thực một ngày sáu thời tương đương với 24 giờ của hiện tại. Lư Sư Tôn tôi đã thành lập "Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn" có hai mục tiêu chính: 1. Chăm sóc sức khỏe. 2. Hỗ trợ giáo dục. (Trợ giúp cứu nạn cũng có.) "Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn" được thành lập cũng chính là vì sự cát tường của con người thế gian. Sức khỏe thực sự rất quan trọng, bởi vì không có một cơ thể khỏe mạnh, tất cả mọi việc đều không thể thành được. Theo tôi được biết: Có một doanh nhân sự nghiệp sáng rực rỡ như ban ngày, sự nghiệp vươn ra tận năm châu, là một đại gia giàu có và quyền lực. Đúng lúc anh ta nghĩ đến việc sáp nhập một công ty lớn, chỉ một ngày trước lúc kí hợp đồng thì cơ thể cảm thấy không khỏe, đi kiểm tra thì không ngờ bị mắc bệnh ung thư. Doanh nhân vốn nghĩ đến con đường lên vị trí người giàu có và quyền lực số một quốc gia. Và trên bảng xếp hạng người giàu có quyền lực trên thế giới, anh ta sẽ rất nổi trội, đứng trước các tên tuổi lớn. Nhưng anh ta lập tức quyết định: 1. Rút lại quyết định sáp nhập. 2. Rút về hậu trường. 3. Nghỉ hưu. 4. Ẩn cư. Đại doanh nhân biết rằng dù có kiếm nhiều tiền cũng không thể chữa khỏi bệnh nên lập tức từ bỏ mọi tham vọng. Giờ với anh ta, chăm sóc sức khỏe là quan trọng hơn, không có sức khỏe thì nói gì đến hai chữ "cát tường". "Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn" chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ giáo dục để giúp cho các trẻ em nghèo khó có thể được đi học. Đối với một người sống trên thế giới này, đi học là việc khá quan trọng. Lấy tôi làm ví dụ: Lúc tôi học cao trung (cấp 3), thành tích đứng đầu lớp liên tiếp sáu học kì. Nhưng tôi không tham dự vào kì thi tuyển đại học. Tôi là "đứa trẻ từ chối thi đại học", thực tế không phải là tôi từ chối mà là kỳ thi tuyển đại học từ chối tôi. Bởi vì nhà tôi vốn nghèo, không có tiền cho tôi đi học đại học. Về sau: Tôi chỉ có thể được nhận vào trường quân đội, bởi vì trường quân đội được nhà nước chu cấp, lại còn được chu cấp thêm chút tiền tiêu vặt, ăn mặc ở đi lại đều có trợ cấp, không phải tốn tiền, chỉ cần sau khi tốt nghiệp phục vụ trong quân đội 10 năm. (Thời điểm đó là phải phục vụ 10 năm.) Một người không có tiền đi học là một việc rất đau khổ, cũng khó có thể nói gì đến chữ "cát tường". "Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn" quan trọng việc làm lợi ích cho người khác, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ giáo dục là hai việc ích lợi giúp cho chúng sinh, có thể tích tập công đức tư lương. Ngoài ra, phương diện cứu trợ lúc cấp nạn cũng vô cùng quan trọng, đây đều là vì sự "cát tường". Chúng ta biết có ba điều kiện để thành Phật: 1. Cắt đứt chướng ngại phiền não. 2. Cắt đứt mọi chướng ngại. 3. Tích tập tư lương công đức. Phát bồ đề tâm, tích tập công đức tư lương thực sự là cực kì quan trọng. Không có cơ thể khỏe mạnh thì không có tất cả mọi thứ. Không được học hành thì cũng không tạo dựng được phương tiện kiếm tiền. Có được hai thứ này thì không có gì khó khăn, tất cả đều bình an, chính là một ngày sáu thời mãi cát tường rồi. Xin mời ủng hộ cho "Tổ chức từ thiện Lư Thắng Ngạn"!
38. Pháp nhĩ bản nhiên là gì?
Hỏi: "Trong kinh điển Phật giáo và trong khai thị của Lư Sư Tôn thường bắt gặp bốn chữ "pháp nhĩ bản nhiên". Nhưng chúng con vẫn chưa hiểu "pháp nhĩ bản nhiên" là gì?" Tôi trả lời: Pháp nhĩ bản nhiên hay pháp nhĩ như thị là hai cách gọi giống nhau. Nếu như các thánh đệ tử có thể hiểu rõ ràng về pháp nhĩ bản nhiên thì cũng xem như đã khai ngộ minh tâm. Đây là nói về pháp tính chân như bản như như, pháp tính chân như bản như thị. Bản nhiên. Như thị. Trong nó có hai ý nghĩa là bất biến và tùy duyên, bất biến cũng là tùy duyên, tùy duyên cũng là bất biến. Vì sao lại là bản nhiên và như thị? Nguyên nhân chính là vô sinh pháp tính, vô sinh pháp tính ở đây chính là: Tính Không. Phật tính. Sâu rộng không thể đo đếm. Thường lạc ngã tịnh. Niết bàn. Tôi nói thế này: Pháp tính bản nhiên là nói đến: không được tạo ra, không phải giả tạo, không phải pháp hữu vi, không phải là hữu vi, là niết bàn phi niết bàn, là luân hồi phi luân hồi, không sạch cũng không bẩn, không tăng cũng không giảm, không phải một cũng không phải khác, không đến cũng không đi, không sinh ra cũng không chết đi… Quan trọng nhất là: "Không phải tu hành mà có thể đắc được." Pháp nhĩ bản nhiên, pháp nhĩ như thị từ vô thủy mà đến, chính là như vậy. Đây chính là thực tướng của pháp giới, thường trụ bất diệt, bản lai như thị "chính là", và cũng là điều tôi thường nói: Hằng tại. Không xét đoán. Xứ Kim Lăng (tên trước thời Hán của Nam Kinh), viện Thanh Lương, thiền sư Văn Ích. Thiền sư Văn Ích ngồi trên pháp tọa nói: "Chỉ như vậy thì giải tán đi, còn có cái chẳng có trong Phật pháp không, thử nói xem? Nếu không có trong đạo, mọi người đến trong ấy làm gì? Nếu có, thì trong chợ chỗ nhiều người tụ hội cũng có, cần gì phải đến trong ấy? Chư vị! Mỗi người đã từng xem Hoàn Nguyên quán, Bách Môn nghĩa hải, Hoa Nghiêm luận, Niết-bàn kinh, các kinh sách rất nhiều, cái gì trong kinh có thời tiết ấy? Nếu có, thử nêu ra xem! Chẳng là trong kinh thế ấy, có những lời thế ấy, là thời tiết đó chăng? Có cái gì là giao thiệp. Thế mới nói, lời hay kẹt ở đầu tâm, thường làm môi trường cho duyên, thực tế ở ngay trước mắt, đổi làm cảnh danh tướng, lại làm sao được đổi? Nếu đã đổi rồi thì làm sao được chính? Còn hội ư? Nếu chỉ niệm kinh sách như thế, thì dùng vào chỗ nào chứ?" (Bài nói này của thiền sư Văn Ích, bình thường xem ra không hiểu là nói về cái gì? Không rõ cũng chẳng tỏ, đọc cứ thấy mơ mơ hồ hồ. Kỳ thực thiền sư chỉ muốn nói về pháp nhĩ bản nhiên, pháp nhĩ như thị. Nói cả một đống thứ ngược lại khiến cho mọi người đọc không hiểu gì.) Tăng nhân hỏi thiền sư Văn Ích: "Thế nào là chỉ ra được tương ưng cùng với đạo?" Thiền sư Văn Ích đáp: "Khi nào ông chỉ ra tức chẳng tương ưng với đạo?" (trả lời khéo) Tăng nhân hỏi: "Khi sáu chỗ chẳng tri âm thì thế nào?" Thiền sư Văn Ích đáp: "Nhà ông quyến thuộc một đàn." Thiền sư Văn Ích lại nói: "Làm sao thể hội, nếu đạo có gì đến để hỏi, thì lại sẽ không đắc được. Sáu chỗ chẳng tri âm, chỗ tai chẳng tri âm, chỗ mắt chẳng tri âm. Nếu căn bản là có, tranh luận giải nghĩa chẳng lẽ lại không được ư. Người xưa nói: "lìa thanh sắc - mắc thanh sắc, lìa danh tự - mắc danh tự". Do đó, cõi trời Vô tưởng tu được phải trải qua tám muôn đại kiếp, một ngày cũng phải thối đọa, các việc rõ ràng. Bởi vì chẳng biết căn bản sự thật." "Căn bản sự thật" này là gì? Tôi trả lời: "Pháp nhĩ bản nhiên đó!"
39. Tương ứng lại là gì đây?
Hỏi: "Lư Sư Tôn thường nhắc đến tương ứng. Hai chữ tương ứng đối với Mật giáo vô cùng quan trọng. Rốt cục thì thế nào là tương ứng?" Tôi trả lời: Xứ Thăng Châu, chùa Phụng Tiên, có thiền sư Huệ Đồng. Tăng nhân hỏi thiền sư Huệ Đồng: "Dạy Trung đạo, một thân chẳng tách lìa, thấy được tất cả trong cõi trần. Lại có đạo, thân Phật đầy khắp pháp giới, hiện khắp mọi nơi trước chúng sinh. Hai con đường này, thỉnh thầy nói." Thiền sư Huệ Đồng đáp: "Một thân chẳng tách lìa, thấy được tất cả trong cõi trần." Tăng nhân hỏi: "Cái gì là cổ Phật tâm?" Thiền sư Huệ Đồng đáp: "Cái nào không phải." Tăng nhân hỏi: "Cái gì là con người thường tại?" Thiền sư Huệ Đồng đáp: "Cần hỏi ai?" Tại đây tôi nói cho mọi người hay, tương ứng chính là "một thân chẳng tách lìa". Bạn hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài là ai?" Tôi đáp: "Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Bồ Tát…" "Vì sao lại như vậy?" Tôi đáp: "Một vị tương ứng, tương ứng mọi vị." "Thế tương ứng là gì?" Tôi đáp: "Là một." Khi tôi ăn cơm, Phật ăn cơm. Khi tôi mặc quần áo, Phật mặc quần áo. Khi tôi ngủ, Phật cũng ngủ. Tôi ngủ dậy, Phật ngủ dậy. Khi tôi đi, Phật đi. Tôi và Phật, không hai không khác. Mắt tôi là mắt Phật, tai tôi là tai Phật, mũi tôi là mũi Phật, lưỡi tôi là lưỡi Phật, thân tôi là thân Phật, ý tôi là ý Phật, thậm chí bảy thức, tám thức, chín thức, mười thức, đều là Phật thức. Trong con mắt của người đã giác ngộ: "Có cái nào là không phải!" Cái gì gọi là Mật giáo tương ứng? Bổn tôn đi vào trong tâm của hành giả, hai người hợp nhất, hành giả đi vào trong tâm của bổn tôn, hai người hợp nhất. Người trước là nhập ngã, người sau là ngã nhập, sau khi hợp nhất thì là thân chẳng tách lìa. Bổn tôn chính là bạn. Bạn chính là bổn tôn. Lúc này hành giả sẽ tri giác được rằng bổn tôn lúc nào cũng ở cùng bạn, thấy sản sinh ra: Đàn tràng của bổn tôn. Thân quyến của bổn tôn. Thân, khẩu, ý của bổn tôn. Độ hóa của bổn tôn. Pháp lực của bổn tôn. Thần thông của bổn tôn. Trí huệ của bổn tôn. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, tương ứng trong Mật giáo chính là như vậy, hành giả hiểu thông hiểu thấu, rõ ràng tường tận, bổn tôn hoàn toàn cùng bản thân hợp nhất, đây chính là "tương ứng". Nếu hành giả và bổn tôn không tương ứng, tự bản thân hành giả sẽ biết, không có chuyện không biết. Nếu như không biết thì đó không phải là tương ứng, việc này tự bản thân có thể phân biệt được. Lư Sư Tôn tương ứng với Diêu Trì Kim Mẫu, tương ứng với Phật A Di Đà, tương ứng với Bồ Tát Địa Tạng, ai ai cũng biết, tương ứng một vị, mọi vị tương ứng. Một chính là nhiều. Nhiều chính là một. Hành giả Mật giáo chăm chỉ tu pháp bổn tôn, có thể dựa vào căn bản Thượng sư, thế thì ai sẽ không tương ứng đây?
40. Tứ thiền là gì?
Hỏi: "Người học Phật chúng ta thường nghe nói đến Tứ thiền Bát định, rốt cuộc thì Tứ Thiền Bát định là gì? Tứ thiền bát định có tác dụng gì? Vì sao tu Tứ thiền Bát định?" Tôi trả lời: Theo kinh điển: Cõi Sắc giới chư thiên phân chia thành bốn tầng thiền, gọi là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Sơ thiền --- trong tâm thanh tịnh, các lậu (*) bất động. Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Nhị thiền --- trong tâm thanh tịnh, thô lậu được hàng phục. Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang, Quang Âm Thiên. Tam thiền --- tâm an ổn, hoàn toàn hoan hỷ. Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên. Tứ thiền --- tiền ngũ thức hoàn toàn không còn, Hỷ không còn, chỉ duy nhất có Xả. [ND: Tiền ngũ thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, tương ứng với sự nhận thức của mắt, tai,mũi, lưỡi, thân.] Vô Vân Thiên, Phúc Sinh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên. Bát định là tứ thiền của cõi Sắc giới và tứ không định của cõi Vô sắc giới, hợp lại chính là Tứ thiền Bát định. Tuy nhiên, kinh nghiệm của tôi là: Sơ thiền --- Đại lạc xuất hiện. Nhị thiền --- Quang minh xuất hiện. Tam thiền --- Phật tính xuất hiện. Tứ thiền --- Niết bàn xuất hiện. Sơ thiền của tôi ở tại cõi trời Dục giới. Nhị thiền của tôi ở tại cõi trời Sắc giới. Tam thiền của tôi ở tại cõi trời Vô sắc giới. Tứ thiền của tôi ở tại tứ thánh giới. Vì vậy tứ thiền của tôi đã bao gồm Tứ thiền Bát định, từ Dục giới đến Tứ thánh giới, tuy nhiên đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi thôi, tin hay không tùy bạn, tôi thực sự nghĩ như vậy. Tứ thiền Bát định có tác dụng gì? Tác dụng này ai ai cũng biết, đó là có thể thanh tịnh toàn bộ tất cả mọi chủng tử tập tính của chúng ta từ vô thủy đến nay, cũng giống như đi tắm vậy, tất cả mọi nhơ bẩn đều được tẩy rửa sạch sẽ. Tôi lấy một ví dụ: Chúng ta đào vàng là đào hỗn hợp cả vàng và các khoáng chất khác. Sau đó ta dùng phương pháp luyện kim để giữ lấy vàng nguyên chất, các khoáng chất khác sẽ được lọc bỏ đi. Đây chính là tác dụng của Tứ thiền Bát định. Tu Tứ thiền Bát định có thể giúp cho bản thân quay trở về diện mạo ban đầu vốn có, tự chứng được Phật tính của bản thân. Có người cho rằng: Tứ thiền bát định chỉ là phương pháp, không phải là cứu cánh. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, ngoài pháp thiền định Tứ thiền Bát định ra, không có phương pháp nào tốt hơn. Phật pháp là Phật pháp. Thành Phật là thành Phật. Pháp vẫn nên bỏ, huống chi không có pháp. Những điều này chỉ có người minh tâm kiến tính mới có thể hiểu được rõ ràng minh bạch.
Xứ Phúc Châu, Tiên Tông, thiền sư Động Minh. Tăng nhân hỏi thiền sư Động Minh: "Hiểu rằng mây không thể giả làm gió làm sấm chớp, sóng sâu làm cách nào thấu tận vào thân?" Thiền sư Động Minh đáp: "Hà tất phải vứt bỏ đi cái gốc chạy theo cái ngọn." (Ý của thiền sư Động Minh là, nếu như đã minh tâm khai ngộ, hà tất phải dùng Phật pháp hoặc tứ thiền bát định để thanh tịnh bản thân làm gì?) Phật chính là Phật. Hằng tại. Không xét đoán. Hà tất phải vứt bỏ đi cái gốc là tu tứ thiền bát định đây? Có thiền sư tu thiền định. Có thiền sư mài gạch thành gương. "Mài gạch làm sao có thể thành gương được? Thiền sư làm sao có thể thành Phật được?" Các thánh đệ tử, tại đây tôi không tiện nói về những việc này, các vị có kiến giải nào tốt hơn về Tứ thiền Bát định và thành Phật thì nói tôi nghe xem sao.
41. Thứ tự tu hành Đại thừa bồ đề
Hỏi: "Thứ tự tu hành Đại thừa bồ đề đạo, có người nói gồm 52 bước, có người nói là 42 bước. Còn nữa, vì sao cần phải thông qua ba đại vô lượng kiếp, nếu như dựa vào học thuyết về thời gian này thì chẳng phải là lâu vô thời hạn sao?" [ND: Vô lượng kiếp: tiếng Phạn là asāṃkhya, còn gọi là a tăng kì kiếp.] Tôi trả lời: Đại thừa còn được gọi là Mahayana, là pháp môn Bồ Tát cứu thế, tôn chỉ là cứu thế giúp ích cho người khác. Quả vị cao nhất của Đại thừa chính là thành Phật. 52 bước có thứ tự là: Thập tín, thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác. Như vậy là thành 52 bước. 42 bước có thứ tự là: Thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác. Như vậy là thành 42 bước. (Kỳ thực là gộp thập tín vào trong thập trụ, do vậy 52 hay 42 bước là giống nhau.) Những bậc đức hành thời xa xưa đem thứ tự 52 bước phân chia thành: Thập trụ, thập hành, thập hồi hướng phân loại thành "tư lương đạo". Lại đem tứ tầm tư quán, tứ như thực trí phân loại thành "gia hành đạo". Sơ địa phân loại thành "kiến đạo vị". Từ sơ địa đến đẳng giác là "tu đạo vị". Diệu giác là "cứu cánh vị". Do vậy thứ tự tu hành chính là: Tư lương đạo. Gia hành đạo. Kiến đạo. Tu đạo. Cứu cánh đạo. Đối với: Ba đại vô lượng kiếp, thời gian thực sự dài vô cùng, có thể thấy rằng tu hành thực sự rất khó. Từ địa vị phàm phu tu đến thành tựu Phật quả chỉ có cách trải qua ba đại vô lượng kiếp. Thực tế này sớm đã dọa không biết bao nhiêu người tu hành tránh xa. Nếu như bạn hiểu rõ về kiếp, ba đại vô lượng kiếp về cơ bản là một đại lượng thiên văn học. Cổ đức cũng có phân chia ba đại của ba đại vô lượng kiếp thành: Tham --- một đại vô lượng kiếp. Sân --- hai đại vô lượng kiếp. Si --- ba đại vô lượng kiếp. Nếu như dựa vào giới, định, huệ tu cho cạn kiệt hết tham sân si thì cần trải qua ba đại vô lượng kiếp, như vậy là đã dễ hơn nhiều rồi. Còn nữa: Cổ đức cũng sắp xếp Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới như sau: Dục giới --- một đại vô lượng kiếp. Sắc giới --- hai đại vô lượng kiếp. Vô sắc giới --- ba đại vô lượng kiếp. Nếu như tu hành vượt xuất khỏi ba kiếp (ba cõi giới), thì đến được quả vị đẳng giác, diệu giác rồi. Cách này cũng dễ hơn nhiều rồi. Còn nữa: Tu hành Mật giáo dựa vào thần biến gia trì của Đại Nhật Như Lai là tu từ "quả", tu hành Hiển giáo là tu từ "nhân". Theo gia trì của Đại Nhật Như Lai: Đại lạc --- một đại vô lượng kiếp. Quang minh --- hai đại vô lượng kiếp. Tính Không --- ba đại vô lượng kiếp. Chỉ cần trải qua ba tầng lớp này thì có thể thành Phật rồi, do vậy tu hành Mật giáo trong một kiếp có thể "tức thân thành Phật". Cá nhân tôi nghĩ rằng: Tu hành nhanh hay chậm, thử xem xem bản thân ta là "lợi căn" hay "độn căn", bất kể là "lợi" hay "độn" đều có thể thành Phật như nhau. Với tôi mà nói: Một năm con người, cũng chỉ là một sát-na. Một đời con người, cũng chỉ là một sát-na. Một đại vô lượng kiếp, cũng chỉ là một sát-na. Ba đại vô lượng kiếp, cũng chỉ là một sát-na. Tôi cho rằng thời gian tu hành không phải là vấn đề, chỉ cần minh tâm là đạt kiến đạo, chỉ cần kiến tính là đắc thánh quả.
42. Khí mạch minh điểm là ngoại đạo?
Hỏi: "Lư Sư Tôn, theo như chúng tôi biết, hiện tại có không ít người học Phật công kích các pháp khí công, kinh mạch, minh điểm của Mật giáo, cho rằng đều là pháp ngoại đạo, ngài nghĩ thế nào? Ngoài ra, chúng tôi biết rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý căn đều là tâm, nhưng tâm này là bởi vì Phật tính mới có thể có tác dụng, ngài nghĩ thế nào?" Tôi trả lời: Vốn dĩ Phật pháp có liễu nghĩa pháp và bất liễu nghĩa pháp. Liễu nghĩa pháp là pháp cứu cánh, bất liễu nghĩa pháp là pháp phương tiện. [ND: Liễu nghĩa pháp: pháp trọn vẹn, pháp tu đến tận cùng, rốt ráo, cách nói khác chính là pháp cứu cánh. Bất liễu nghĩa pháp: pháp không trọn vẹn, đi được nửa chừng, chưa đến chỗ rốt ráo, cách nói khác chính là pháp phương tiện.] Lục Tổ Đàn Kinh nói: Xuất thế là liễu nghĩa pháp. Nhập thế là bất liễu nghĩa pháp. Lục Tổ theo đó phân loại pháp xuất thế là Phật pháp, pháp nhập thế là ngoại đạo, pháp xuất thế là chính pháp, pháp nhập thế là tà pháp. Quan điểm của tôi là: Liễu nghĩa pháp là Phật huệ, là trí huệ Như Lai. Bất liễu nghĩa pháp vốn là phương tiện thiện xảo. Đối với pháp "khí mạch minh điểm" của Mật giáo: Khí là khí công. Mạch là ba mạch bảy luân xa đều khắp toàn thân. Minh điểm là bồ đề tâm nguyệt dịch. Kết quả của tu luyện là khí thông mạch, bảy luân xa chuyển động, chuyết hỏa dâng lên, minh điểm hạ xuống nâng lên, minh điểm tràn đầy toàn thân kinh mạch. Từ đó sản sinh ra đại lạc, tịnh quang, tính Không. Quan trọng nhất là: Sắc thân vật chất từ từ chuyển hóa đến hết mức, thành tựu hóa thân cầu vồng. Tôi nhận thấy: Hóa thân cầu vồng là "thức". Hóa thân cầu vồng là "trung quán". Hóa thân cầu vồng là "Phật huệ". Theo tu hành phương tiện thiện xảo, chứng minh được trí huệ Như Lai, đây là pháp môn có tính thực dụng. Nếu như dựa vào pháp môn phương tiện thiện xảo để ấn chứng "minh tâm kiến tính" thì đây có phải là pháp ngoại đạo không? Mật giáo là pháp có rất nhiều phương tiện thiện xảo, theo phương tiện thiện xảo dẫn nhập, đầu tiên dựa vào sự ham muốn để hấp dẫn, rồi dẫn nhập vào trí huệ Phật. Chúng ta hiểu rằng khí công, chuyết hỏa, minh điểm, mạch luân (chakra - luân xa), trên thực tế là một trong những phương pháp tu hành thiền định nhập Tam Ma Địa (samadhi). Từ khí, mạch, minh điểm tu tam muội địa là pháp ngoại đạo đi vào phương tiện thiện xảo của chính pháp. Bạn nghĩ sao? Chúng ta lại thảo luận câu hỏi thứ hai. Phật cho rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý căn đều là tâm. Nhưng những thức tâm này đều do Phật tính mới có thể sản sinh ra tác dụng. Phật tính được gọi là bát thức (thức thứ tám), a-lại-da thức, Như Lai tạng thức. Cái được gọi là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý căn đều do Như Lai tạng thức mà ra, nhờ duyên mà có tác dụng. Vấn đề hiện nay chính là ở chỗ: Một số hành giả chỉ nhận ra được đến ý thức tâm. Một số hành giả xác nhận là có thức thứ tám là Như Lai tạng thức. Hai bên không ngừng công kích nhau. Người nói về ý thức tâm cho rằng ý thức tâm thanh tịnh chính là đã đến điểm cuối cùng thành Phật rồi! Còn bát thức Như Lai tạng thức chỉ là "hữu danh vô thực". Còn một số hành giả tự nhận là đã chạm đến chứng được thức thứ tám A-lại-da Như Lai tạng thức, thì cho rằng Như Lai tạng thức sinh ra tất cả, tu hành cần tu từ Như Lai tạng thức mà tu lên. Cá nhân tôi nghĩ như thế này: Tôi là người minh tâm khai ngộ. Tôi là người kiến tính thành Phật. Từ nhãn thức thứ nhất đến tạng thức thứ tám, tất cả đều là danh tướng. Bạn cần đến được minh tâm, bạn cần đến được kiến tính, đây mới là cứu cánh - đích đến cuối cùng. Tranh cãi ồn ào có ích gì? Tự mình ấn chứng minh tâm kiến tính mới quan trọng, bạn nghĩ thế nào?
43. Vì sao cần thành Phật?
Hỏi: "Chúng ta sinh ra làm con người, phải thừa nhận rằng khổ nhiều hơn vui, nhưng sinh ra làm con người cũng tốt mà! Rất nhiều người thích ứng với nhân gian này, cảm thấy hạnh phúc mỹ mãn. Rất nhiều người cùng có chung băn khoăn rằng vì sao chúng ta cần thành Phật? Học Phật vất vả như vậy sao cần phải học? Sao lại cần cứ mở miệng tu hành, ngậm miệng tu hành?" Tôi trả lời: Trước đây tôi có một đệ tử họ Phương, anh ta cũng đặt ra câu hỏi giống như vậy. Anh ta nói: Thành Phật chính là thánh hiền chí cao vô thượng, tôi không muốn làm thánh hiền, làm thánh hiền cô đơn lắm! Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có gì hay? Không có phụ nữ, không có dục, không có rượu, ai ai cũng là người tốt, không có ca múa, không có thú vui tiêu khiển, chỉ có mỗi việc niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, có gì hay đâu? Cứ cho là thọ mệnh vô hạn thì cũng có gì hay? Thành Phật, buồn khổ! Tây phương, buồn khổ! Anh ta nói: Chi bằng tôi ở tại nhân gian, có đắng cay chua ngọt, có sinh ly tử biệt, có vui có khổ, có khóc có cười, cứ như vậy mà chơi giữa nhân gian, chẳng phải là tuyệt vời hơn sao. Nhân gian còn có tình yêu nữa! Còn nữa, còn nữa, tôi thà như con chó, tốt nhất là chó Mỹ, là chó cưng được chủ nhân sủng ái, làm chó như vậy chẳng phải rất hạnh phúc sao? Tôi nghe xong cảm thấy rất buồn cười, thật vậy, suy nghĩ của mỗi người đều không giống nhau. Đệ tử này của tôi cảm thấy thành Phật rất buồn khổ, cô độc tuốt trên cao, thành Phật rồi, như như bất động, không có tình yêu, có thể nói là có gì mà vui? Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, niềm vui ở đâu ra? Chẳng có chẳng mất, vạn thứ như một, như vậy thì vui sao? Thắc mắc của đệ tử họ Phương, tôi xin mời các thánh đệ tử trả lời. Các bạn trả lời thế nào, các bạn có như thế không? Tôi trả lời: Thành Phật rồi sẽ có 18 công đức: • Thân vô thất --- thân không mất đi. • Khẩu vô thất --- khẩu không mất đi. • Niệm vô thất --- ý không mất đi. • Vô dị tưởng --- không còn vọng tưởng điên đảo. • Vô bất định tâm --- tâm định vĩnh viễn. • Vô bất tri kỉ xả --- cứu vô hạn chúng sinh. • Dục vô diệt --- sung sướng vô tận. • Tinh tấn vô diệt --- không tu mà vẫn tu vô tận. • Niệm vô diệt --- bồ đề tâm vô tận. • Huệ vô diệt --- trí huệ vô tận. • Giải thoát vô diệt --- bản thân luôn được giải thoát vô tận. • Giải thoát tri kiến vô tận --- trí huệ giải thoát vô tận. • Mọi thân nghiệp theo trí huệ mà đi --- thân trí huệ vô tận. • Mọi khẩu nghiệp theo trí huệ mà đi --- khẩu trí huệ vô tận. • Mọi ý nghiệp theo trí huệ mà đi --- ý trí huệ vô tận. • Trí huệ biết được kiếp quá khứ vô ngại --- túc mệnh thông. • Trí huệ biết được kiếp tương lai vô ngại --- túc mệnh thông. • Trí huệ biết được kiếp hiện tại vô ngại --- túc mệnh thông. Theo 18 công đức này mà nói: Thành Phật không phải là chết, mà là sống, có niềm vui, có trí huệ, có thần thông, có cứu độ, có giải thoát, hơn nữa hoàn toàn không có lỗi lầm, đây chẳng phải là càng vui hơn sao? Thần thông rất vui, độ sinh rất vui, giải thoát rất vui, nhậm vận mà không lầm lỗi, không chịu mọi khổ đau, đây chẳng phải là càng vui hơn sao? Ngoài ra, cực lạc của Cực Lạc Thế Giới không một con người thế tục nào có thể tưởng tượng được. Có thiên lạc làm bạn vui vẻ, có âm thanh hòa nhã làm bạn vui vẻ, có thú vui huyễn hóa làm bạn vui vẻ, có cảnh đẹp làm bạn vui vẻ, thức ăn, quần áo, nơi ở, đi lại, đều làm bạn vui vẻ, niềm vui trong đó vượt qua mọi sự tưởng tượng. Nếu bạn sẵn sàng! Thì theo tôi đến đó đi!
44. Phản đối Phật giáo nhân gian
Hỏi: "Nghe nói Lư Sư Tôn đã từng viết bài báo phản đối Phật giáo nhân gian, phản đối nhân gian tịnh độ. Nhưng rất nhiều đại sư, thượng nhân hiện đại đều hô cao khẩu hiệu Phật giáo nhân gian, nhân gian tịnh độ, lan truyền đi rất nhanh, vì sao ngài lại phản đối?" Tôi trả lời: Đối với Phật giáo nhân gian và nhân gian tịnh độ, tôi không phản đối, nhưng cũng không tán đồng. Phật giáo nhân gian đã biến đổi thành xây dựng đại học, xây dựng bệnh viện, xây dựng đài truyền hình, hoằng dương Phật pháp, tôi tùy hỷ. Có hành giả đề xướng cần phải làm một vị Bồ Tát nhân gian, đời đời kiếp kiếp phát nguyện chuyển kiếp làm người, lại đến nhân gian xây dựng nhân gian tịnh độ, tinh thần Bồ Tát kểu này cũng xứng đáng được tán dương. Các hoạt động từ thiện của Phật giáo được làm rất rộng khắp, có thể so sánh với các giáo phái khác, hoạt động từ thiện trên toàn thế giới, ai nấy tham dự, ai nấy đều là người tốt, thực sự vô cùng đáng mừng. Phật giáo ở nhân gian: Khắp nơi có chùa. Khắp nơi niệm Phật. Khắp nơi cùng tu. Khắp nơi từ thiện. Phật giáo dung nhập vào xã hội, ai nấy làm người tốt, ai nấy làm hành giả, việc này rất đáng chúc mừng. (Lư Sư Tôn tôi đối với Phật giáo tác pháp kể trên đều là tùy hỷ, không hề phản đối, ngược lại tôi còn ủng hộ. Tôi tin tưởng tác pháp kiểu thế này sẽ độ được càng nhiều người sơ cơ.) Điều tôi tương đối không tán đồng là: Tôi dựa theo ý chỉ của Phật Đà để giải thích việc đề xướng phát triển Phật giáo nhân gian liệu có gây chướng ngại đến ý định ban đầu của Phật Đà - là chính pháp cứu độ - hay không. Phật pháp dạy chúng ta: Đạo giải thoát. Đạo bồ đề. Ý chính là giải thoát khổ của lục đạo luân hồi, nhận ra chính pháp, chứng đắc A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Đức Phật cho rằng: "Nhân gian là nhà cháy." "Nhân gian là huyễn hóa." "Nhân gian là vô thường." "Nhân gian là hư vô." Nhân loại chúng ta có khả năng vì Phật mà giáo hóa nhân gian đạt được thành nhân gian tịnh độ không? Cái khổ của nhân gian mọi người đều nhìn thấy rất rõ ràng. Dịch bệnh lớn, động đất lớn, lũ lụt lớn, cháy lớn, cuồng phong, đủ loại thiên tai hiểm họa, không bao giờ dừng dứt, từ thiện cứu tế vĩnh viễn cứu không hết. Liệu có thể có nhân gian tịnh độ không? Vẫn còn tiểu tam tai, đại tam tai vẫn còn chưa đến. Khi đại tam tai xảy đến, nhân gian địa cầu không thể bảo tồn, ngay cả cõi trời Dục giới, cỡi trời Sắc giới, cũng không thể bảo tồn. Nhân gian tịnh độ không thể nào có được đâu! Ba điểm chính yếu của Phật giáo là: Xuất ly tâm. Bồ đề tâm. Trung quán chính kiến. Trong đó xuất ly tâm chính là vượt qua khỏi lục đạo luân hồi, thoát khỏi phiền não, thoát khỏi nhân gian, tu thành chính quả. Giáo hóa con người cần vãng sinh tịnh độ là vãng sinh đến Phật quốc tịnh độ, không phải là vãng sinh đến nhân gian. (Ngoài những người có lời nguyện lại đến nhân gian.) Phật giáo dung nhập vào nhân gian là việc có thể được. Phật giáo nhân gian phát bồ đề tâm là việc có thể được. Có thể kiến lập nhân gian tịnh độ, đáng thảo luận không? Phật nói: Xuất thế là chính pháp. Nhập thế là phương tiện. Thiện tai! Thiện tai!
45. Niết bàn là trung quán
Hỏi: "Tôi nghe người ta nói niết bàn chính là trung quán có đúng không? Có việc này tôi không hiểu lắm, Phật Đà ngồi dưới cây bồ đề sau khi đại giác đại ngộ lập tức muốn nhập niết bàn, may sao Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên đã khuyên thỉnh ngài thuyết pháp chuyển pháp luân thì Phật Đà mới ở lại thuyết pháp 49 năm. Xin hỏi vì sao Phật Đà vừa đại giác đại ngộ là muốn nhập niết bàn ngay?" Tôi trả lời: Hôm nay tôi thực lòng cho cho mọi người biết, một người đại giác đại ngộ thì đều muốn nhập niết bàn, ngay cả chính tôi cũng muốn mau chóng nhập niết bàn đây! Vì sao vậy? Tôi cho rằng có hai đáp án: Một là, đại giác đại ngộ không phải là phàm phu thế tục muốn là có thể đo lường được. Phàm phu thế tục rất khó hiểu, kể cả có nói ra thì người ta cũng không tin, do vậy Phật Đà cơ bản là không muốn thuyết pháp. Hai là, đại giác đại ngộ rồi liền biết được thực tướng, pháp tính, pháp tính này là duy nhất và vô thượng, đây là liễu nghĩa chân thực, bởi vì biết được thứ là duy nhất và vô thượng rồi thì còn có gì để nói nữa. (Điều thứ nhất và điều thứ hai mà Lư Sư Tôn viết ở trên chỉ có người khai ngộ mới nói ra được, cũng duy có người khai ngộ mới có thể hiểu được, Phật Đà không muốn thuyết pháp chính là vì hai điểm này, đặc biệt là điểm thứ hai, đã biết liễu nghĩa rồi thì pháp nào có thể nói đây.) Hôm nay Lư Sư Tôn sau khi đã đại triệt đại ngộ cũng biết rằng thực sự không có cách nào có thể nói. Hôm nay thuyết pháp chẳng qua là tùy thuận, tùy hỷ, tùy duyên mà thôi. Bởi vì còn đang sống. Thì cứ vô vi dĩ vi đi! Tôi nói: Người không thuyết pháp. Người không nghe pháp. Vô pháp. Tôi nói như vậy các thánh đệ tử có thể hiểu được không? Nếu như thực sự hiểu được thì mới gọi là khai ngộ minh tâm đó! Còn vấn đề Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên khuyên thỉnh Phật thuyết pháp, Đại Phạm Thiên ở đây là cõi trời sơ thiền Sắc giới, có ba cõi trời Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Thông thường Đại Phạm Thiên được nhắc đến ở đây là chỉ Đại Phạm Thiên Vương, danh hiệu là Thi Khí. Đại Phạm Thiên tin tưởng vững chắc vào Phật pháp, mỗi lần có Phật xuất thế chắc chắn sẽ đến để cầu thỉnh Phật truyền pháp luân. Đối với Đế Thích Thiên, là Nhân Đà La hộ trì Phật giáo, Đế Thích Thiên đương nhiên cũng sẽ đến để cầu thỉnh Phật truyền pháp luân. Còn nữa: Niết bàn được gọi là trung quán? Phật Đà cho rằng: Sau khi nhập niết bàn không thể nói cái gì là "có" --- nguyên nhân là vì tất cả đều huyễn hóa. Sau khi nhập niết bàn không thể nói cái gì là "không" --- nguyên nhân do Phật tính. Bởi vậy sẽ trở thành không hẳn là không, cũng không hẳn là có, phi không phi hữu, tức không tức hữu, không rơi vào lưỡng biên, viên dung vô ngại, đây là trung quán. Niết bàn có đặc tính như vậy nên cũng gọi là trung quán. Pháp Tướng tông lấy duy thức làm trung quán. (*) Tam Luận tông lấy bát bất làm trung quán. (*) Thiên Thai tông lấy thực tướng làm trung quán. (*) Hoa Nghiêm tông lấy pháp giới làm trung quán. (*) Chân Phật tông lấy Phật tính làm trung quán. Niết bàn đương nhiên là trung quán. Núi Thiên Thai, đỉnh Vân Phong, chùa Quang Tự. Thiền sư Chí Đức. Trên Phật đường nói: "Mặc dù chúng sinh hàng ngày đều dùng mà vẫn không hay biết, giống như vũ trụ, nhật nguyệt tinh trần, Giang Hà Hoài Tể (*), tất cả đều có chứa "linh", từ lỗ chân lông này đi vào lỗ chân lông khác, lỗ chân lông không nhỏ, thế giới không lớn. Chúng sinh trong đó bất giác bất tri. Nếu muốn được dễ dàng, chỗ ngồi vinh dự hàng ngày cũng chẳng hay biết." Lời khai thị này là: Nhất hàm huyễn hóa. Nhị hàm Phật tính. Mọi người quán sát cẩn thận sẽ thấy trung quán cũng nằm trong đó, mọi người có thể thấy không?
-------------------- Pháp Tướng tông: ở Ấn độ, chủ trương mọi sự vật, hiện tượng đều là biểu hiện của thức mà có (vạn pháp duy thức), cho nên xét về bản chất là không có thực. Tam Luận tông: ở Trung Quốc, tên gọi xuất phát từ ba bộ luận căn bản của tông này là Trung quán luận, Thập nhị môn luận, Bách luận. Thiên Thai tông: ở Trung Quốc có giáo pháp dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên còn gọi là Pháp Hoa tông. 3 quan điểm chính dựa trên giáo lý của Long Thọ nên coi ngài là sơ tổ. chủ trương mọi hiện tượng dựa lên nhau mà có và thực tính của chúng là tính Không, tất cả là biểu hiện của thể tuyệt đối là chân như (chân lý không, giả và trung). Hoa Nghiêm tông: ở Trung Quốc, còn gọi là Hiền Thủ tông, chủ trương xem mọi vật đều bình đẳng, đều liên hệ lẫn nhau (lý này được gọi là "nhất thể" – vì Hoa Nghiêm cho tất cả đều từ Một mà ra, mọi hiện tượng đều là dạng xuất hiện của cái Một đó, chúng cùng xuất hiện đồng thời.) Giang Hà Hoài Tể: tên 4 con sông ở Trung Quốc.
46. Bốn loại niết bàn
Hỏi: "Có thuật ngữ Phật giáo là niết bàn thì ý nghĩa thực sự của niết bàn rốt cục là gì? Cho dù là người theo tôn giáo cũng không nói rõ được là niết bàn ở đâu, xin hỏi niết bàn rốt cuộc là ý nghĩa gì?" Tôi trả lời: Niết bàn còn được dịch ra là viên tịch, viên tịch ở đây không phải chỉ nói về cái chết, mà còn là viên mãn hết thảy trí đức, tịch là tịch diệt hết thảy nghiệp chướng mê lầm. Niết bàn cũng được dịch ra là diệt độ, diệt là diệt kiến tư, diệt trần sa (*), ba loại mê hoặc vô minh, độ là độ từng phân đoạn, biến hóa thay đổi hai hạt giống sinh tử. Ý nghĩa chính là bất sinh bất diệt. Dựa vào hai ý nghĩa trên mà nói thì: Niết bàn là thành tựu. Niết bàn là chân như. Khác biệt với "chết". Niết bàn là "niết bàn tịch tịnh ấn" - một trong tam pháp ấn. Tướng niết bàn là một trong tám tướng của hóa thân Phật, là tướng trạng nhập diệt của Phật Đà. Phật Đà trụ thế hơn 80 năm, trong đó hơn 40 năm thuyết pháp. Khắp nơi ngài tùy duyên thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, chuyển hóa nghiệp cho đến tận cùng. Những ngày cuối, ngài ở dưới hai tàng cây Sala bên bờ sông Bạt Đề tại thành phố Câu Thi Na (Kushinagara) miền Trung Ấn Độ thuyết Đại Bát Niết Bàn Kinh, đầu hướng về phương bắc mặt hướng về phương Tây, nằm nghiêng bên sườn phải, rồi ngài nhập diệt. Niết Bàn Thành là thủ đô sinh sống của các thánh giả, cũng chính là thủ đô của mọi pháp thực tướng, có ba ý nghĩa: Không. Vô tướng. Vô tác. Niết bàn pháp vị là: "Thường trụ, tịch diệt, bất lão, bất tử, thanh tịnh, hư không, bất động, khoái lạc." Tôi viết ra những điều này, Lư Sư Tôn cho rằng niết bàn thực sự có hai nghĩa: 1. Thành tựu thánh quả. 2. Nhập diệt vào Niết Bàn Thành. Pháp Tướng tông lập ra bốn loại niết bàn: 1. Bản lai tự tính thanh tịnh niết bàn --- nghĩa là, mặc dù có đủ mọi loại phiền não, nhưng tự tính thanh tịnh của nó trong suốt như hư không, cách xa tất thảy tướng phân biệt, ngắt ra khỏi mọi ngôn ngữ, tâm đi về chốn tịch diệt, duy có thánh giả có thể tự mình chứng được, bản chất nguyên của nó là tịch tịnh. 2. Hữu dư y niết bàn --- nghĩa là cái nhân sinh tử và nghiệp chướng mê lầm mặc dù đã diệt tận nhưng vẫn còn quả khổ của ngũ uẩn bám theo thân. 3. Vô dư y niết bàn --- nghĩa là cái nhân sinh tử và nghiệp chướng mê lầm đã diệt tận, đồng thời cả những quả khổ của ngũ uẩn bám theo thân cũng diệt tận, không còn sinh ra nữa. 4. Vô trụ xứ niết bàn --- cắt đứt mọi chướng ngại, hiển lộ mọi chân như, mọi chướng ngại ý thức được là chướng ngại trí huệ, các chướng ngại được biết đến của nhị thừa (Tiểu thừa và Đại thừa) nhân duyên, không hiểu rõ đạo lý về sinh tử niết bàn không khác biệt, do vậy cố chấp vào việc oán ghét sinh tử, vui thích niết bàn. Khi Đức Phật cắt đứt mọi chướng ngại và chứng đắc chân trí bồ đề, đối với sinh tử và niết bàn có tình cảm không ghét không thích, nhưng có đại trí huệ, vì thế trụ tại sinh tử với tấm lòng đại bi, và cũng không trụ tại sinh tử làm lợi lạc cho hữu tình của thế giới vị lai, vì vậy mà gọi là vô trụ tuế, tác dụng lợi lạc mặc dù thường khởi nhưng cũng thường tịch, vì vậy mà gọi là vô trụ xứ niết bàn. Xứ Phúc Châu, Đông Thiền. Thiền sư Huyền Giác. Tăng nhân hỏi: "Bản chất không có mê lầm không có giác ngộ, vì sao vẫn có Phật có chúng sinh?" Thiền sư Huyền Giác đáp: "Lời rơi rụng." (Tôi nói: tất cả đều là niết bàn tướng, vì vậy lời rơi rụng.) Tăng nhân hỏi: "Tổ tổ tương truyền, truyền pháp ấn, ngày nay các vị thầy kế tục là người nào?" Thiền sư Huyền Giác đáp: "Đặc biệt cảm tạ chứng minh." (Tôi nói: niết bàn chứng minh.) Tăng nhân hỏi: "Cái gì khiến bách long khi đó thân thọ kí, ngày nay ứng thánh vượt khỏi mê lầm." Thiền sư Huyền Giác đáp: "Đừng nhận biết sai!" (Tôi nói: thường khởi cũng thường diệt, đây là vô trụ xứ niết bàn. Ai thọ kí ai? Ai độ hóa ai? Không, vô tướng, vô tác. Đương nhiên là nhận biết sai.)
-------------- Kiến tư, trần sa: kiến hoặc - tư hoặc - trần sa hoặc, ba loại mê hoặc vốn đều là vô minh phiền não, khiến chúng sinh mãi trầm luân trong sinh tử. Kiến hoặc: mê lầm thuộc về Lý, gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Tư hoặc: mê lầm thuộc về Sự, gồm có 5 thứ: tham, sân, si, mạn, nghi. Trần sa hoặc: chướng ngại của các vị A La Hán vì thấy phiền não của chúng sinh nhiều như là cát bụi (trần sa).
47. Cái nhìn mới về tình yêu
Hỏi: "Từng nghe Lư Sư Tôn ngồi trên pháp tọa thuyết pháp, ngài nói rằng tình yêu không nên bám chấp, ích kỷ chiếm hữu, tình yêu nên rộng lớn và đại lượng. Chúng tôi nghĩ thử, nếu tình yêu không bám chấp, tình yêu không ích kỷ, tình yêu không chiếm hữu, như vậy còn có thể xem là tình yêu không?" Lại hỏi: "Lư Sư Tôn còn nói, có thể giao phó người mình yêu nhất cho người ngoài nếu như người ngoài này có thể đem lại hạnh phúc và mỹ mãn cho người mình yêu, như vậy cũng là tình yêu chân chính. Tuy nhiên, nếu như vậy thì còn có thể xem là tình yêu chân chính không?" Tôi đáp: Đối với con người thông thường mà nói thì yêu chính là: Bám chấp. Ích kỷ. Chiếm hữu. Trong con mắt của tình yêu thì không thể chấp nhận được dù chỉ một hạt cát xen vào, tình yêu khiến người ta "điên khùng". Tình yêu là thế giới của riêng hai người, dù cho biển cạn đá mềm cũng không thể rời xa. Nếu như có người khác xen vào thì ghen tuông, đố kỵ. Lúc này sẽ thành vấn đề nghiêm trọng, cuộc tình tay ba, ân ái tình thù, hậu quả không thể lường trước được. Tình yêu có thể khiến người ta ham sống ham chết, tình yêu cũng có thể tạo ra những bi kịch lớn, rất nhiều bi kịch đều vì tình yêu mà sinh ra. Bởi vì Lư Sư Tôn sau khi minh tâm kiến tính, cách nhìn của tôi và con người bình thường không giống nhau nữa. Tôi là: Vô ngã quán. (Quan điểm không còn cái tôi) Vô phân biệt quán. (Quan điểm không còn phân biệt) Tha nhân vi trọng quán. (Quan điểm vì người khác) Tôi nói: Bởi vì sau khi tôi minh tâm kiến tính, thấy được "nhất thực tướng ấn", tất cả thực tướng sinh mệnh đều đã kiến chứng được. Do vậy mà ấn chứng được vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả của Kim Cương Kinh. Do vậy tôi có vô ngã quán. Bởi vì từ vô ngã quán tiến thêm một bước là sản sinh ra vô phân biệt quán, trong vô phân biệt quán thì tất cả mọi người đều bình đẳng và bình đẳng, tôi hay bạn đều không phân biệt. Sau khi có những điều này rồi, trong lòng tôi không còn thù hận nữa, Phật huệ của tôi phát triển mạnh mẽ to lớn, đối với tình yêu của chúng sinh không có sự phân biệt người này người khác, chỉ hy vọng mọi người đều hạnh phúc mỹ mãn. Thậm chí tôi có thể nghĩ vì người khác, không nghĩ cho bản thân, vì người khác làm trọng, vì bản thân làm khinh, trở nên có thể xả thân vì người. Người khác có thể hạnh phúc mỹ mãn là quan trọng nhất, bản thân bất luận thế nào cũng được, đây chính là tinh thần Bồ Tát phát bồ đề tâm. Do vậy, tôi nói: Yêu, chính là làm cho người kia hạnh phúc. Ai có thể làm cho người kia hạnh phúc thì nên chúc phúc. Không phải đuổi tới đuổi lui. Không phải giết tới giết lui. Không phải hận tới hận lui. Tinh thần rộng rãi vô lượng này của tôi sẽ không làm hại người khác, sẽ không đố kị với người khác, cũng sẽ không ghen tuông, càng không hận thù, tôi coi chúng sinh bình đẳng như nhau. Thơ: Ân ái tình thù chốn nhân gian. Vĩnh viễn cuộn sóng lớn. Vĩnh viễn xô lăn tăn. Rào. Khi ngộ ra rồi. Tìm thấy được tâm mình. Biết tất cả đều chẳng có.
48. Ma Ha Song Liên Trì
Hỏi: "Lư Sư Tôn nói, có một thế giới tên gọi Ma Ha Song Liên Trì, cõi tịnh độ này ở Tây Phương Cực Lạc tịnh độ, còn nói rằng cực lạc ở tịnh độ này giống như ở Tây phương cảnh độ. Nếu là như vậy thì hà tất lại phải phân chia tịnh độ, tịnh độ này sao không nói trực tiếp luôn là Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tịnh độ?" Hỏi: "Bổn tôn của Lư Sư Tôn là Phật A Di Đà, nhưng ngài lại nói Liên Hoa Đồng Tử ngang hàng với Phật A Di Đà, lại nói Lư Sư Tôn chính là Phật A Di Đà, vậy thì sao ban đầu không trực tiếp nói là Lư Sư Tôn chính là Phật A Di Đà?" Tôi nói: Trước tiên tôi kể hai chuyện cười. Chuyện thứ nhất: Một người có cha qua đời, mời hòa thượng đến đọc kinh, hòa thượng này đọc kinh vãng sinh Đông Phương tịnh độ. Con trai của người chết kinh ngạc: "Vì sao không thỉnh vãng sinh Tây Phương tịnh độ?" Hòa thượng đáp: "Cúng 500 đồng thì chỉ vãng sinh đến Đông Phương thôi. Cúng 1000 đồng thì mới vãng sinh Tây Phương." Con trai của người chết bèn cúng 1000 đồng. Lúc này hòa thượng mới nở mày nở mặt hớn hở niệm: vãng sinh Tây Phương. Chuyện thứ hai: Có một người cha lúc còn sống luôn luôn cố chấp, người ta nói tây, ông nói đông, người ta nói đông, ông bèn nói tây. Tóm lại, ông luôn có ý kiến trái ngược. Sau khi ông chết, con trai mời hòa thượng đến đọc kinh, yêu cầu đọc kinh vãng sinh Đông Phương. Hòa thượng hỏi: "Vì sao vậy?" Con trai đáp: "Cha tôi cố chấp, ngài chỉ cần đọc vãng sinh Đông Phương, ông ấy nhất định vãng sinh Tây Phương." Hai chuyện cười này rất thú vị. Tôi nói: Con người thông thường rất khó có thể hiểu được rằng vốn dĩ mười phương đất Phật đều tương thông, bạn đến Tây Phương tịnh độ cũng có thể du lịch mười phương đất Phật. Trong kinh điển cũng đã viết rất rõ ràng! Tôi nói: Tịnh độ của Phật Thích Ca Như Lai hay Phật Tỳ Lô Giá Na được gọi là Hoa Tạng tịnh độ. Trong biển nước thơm ở trên phong luân có một đóa hoa sen lớn, trong đóa hoa sen lớn này có hàng nghìn thế giới nhỏ li ti như hạt bụi, tổng cộng có 21 tầng, chính là Liên Hoa Tạng thế giới. Còn nữa: Hoa Tạng Thế Giới được tạo thành bởi hoa sen trân quý, Phật Thích Ca đã nói về Hoa Tạng tịnh độ trong Kinh Hoa Nghiêm. Cực Lạc Thế Giới của Phật A Di Đà trong Kinh Quán cũng được gọi là Hoa Tạng tịnh độ. Mật Nghiêm Phật Quốc trong Kinh Đại Nhật cũng là Hoa Tạng tịnh độ. ... Do vậy tịnh độ mà tôi tự chứng, Ma Ha Song Liên Trì, cũng nằm trong Hoa Tạng tịnh độ. Tất cả đều tương thông. Hoa Tạng tịnh độ tổng cộng có 21 tầng. Là tương đồng, nhưng tên gọi thì khác. Tôi nói: Hư không truyền thừa gốc của tôi là: Đại Nhật Như Lai -- Phật Nhãn Phật Mẫu -- A Di Đà Phật -- Liên Hoa Đồng Tử -- Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Trong Phật điển, chuyện này rất nhiều. Ví dụ: Bát Nhã Phật Mẫu, đến Kim Cương Huyễn Mẫu, tới Bạch Độ Mẫu. Kim Cương Tát Đỏa, đến Kim Cương Tâm, tới Kim Cương Thủ. Văn Thù Bồ Tát, đến Diêm Ma Tôn Giả, tới Đại Uy Đức Kim Cương. Mã Đầu Quan Âm, đến Chuẩn Đề Quan Âm, tới Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm. ... Tôi nói: Là một cũng là khác, là khác cũng là một, ngay cả pháp thân Phật, báo thân Phật, ứng thân Phật cũng như vậy. Cây trúc sinh ra măng, chúng ta không thể gọi măng là trúc được. Sự biến hóa của nước cũng như vậy, mây trên trời, mưa rơi xuống, nước trên mặt đất, tạo thành băng. Cứ thế, cứ thế.
49. Đời người vì cái gì?
Hỏi: "Lư Sư Tôn, cuộc đời này của ngài vì cái gì?" Tôi đáp: "Vì bạn!" Hỏi: "Sao lại có chuyện như vậy? Rốt cục nhân sinh vì cái gì?" Tôi đáp: "Nhân sinh." Hỏi: "Đương nhiên chúng ta biết là nhân sinh, có phải để thành Phật không? Có phải để cứu độ chúng sinh không?" Tôi đáp: "Gọi là Phật cũng chỉ là phương tiện, độ chúng sinh cũng chỉ là một phương tiện." Hỏi: "Được rồi, không hỏi đời người vì cái gì nữa, mà hỏi ý nghĩa căn bản của đời người là gì?" Tôi đáp: "Thánh hiền là từ bi hỷ xả. Người thế tục là thanh sắc khuyển mã." [ND: Thanh sắc khuyển mã: phiếm chỉ lối sống xa hoa, buông thả, thối nát.] "Việc này…" Tôi cười lớn ha ha ha. Ngày xưa, Giang Nam Quốc Chủ vô cùng kính trọng thiền sư Tịnh Huệ của Thiền viện Báo Ân. Thiền sư Tịnh Huệ là đại sư của thiền môn. Tăng hỏi: "Cầu Phật tri kiến, đường nào nhanh nhất?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Không qua đây." Tăng hỏi: "Phòng tối trăm năm, một ngọn đèn có thể phá, vì sao là một ngọn đèn?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Cái gì là trăm năm?" (Lời này làm người ta kinh ngạc.) Tăng hỏi: "Cái gì là đạo chân chính?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Một nguyện cũng dạy ngươi đi, hai nguyện cũng dạy ngươi đi." Tăng hỏi: "Huyền chỉ của chư Phật là gì?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Ngươi cũng có." Tăng hỏi: "Làm sao tương ứng với đạo trong 12 thời?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Tâm chọn hay bỏ thành xảo ngụy." (Huyền chỉ nằm trong đó.) Tăng hỏi: "Không có một vật, nói thế nào?" Thiền sư Tịnh Huệ đáp: "Mỗi ngày ngươi sống thế nào?" Cuốn sách Đương Đại Pháp Vương trả lời khách hỏi của tôi đã viết đến chương cuối cùng rồi. Chương này lấy tiêu đề là "Đời người vì cái gì?" làm một câu tổng kết thực sự là vô cùng có ý nghĩa. Sao mọi người không thử nghĩ xem: "Đời người vì cái gì?" Tôi hỏi: "Bạn sống ở nhân gian rốt cục vì cái gì?" Tôi hỏi: "Cái gì là tướng chân thực của đời người?" Tôi hỏi: "Cuộc sống mỗi ngày của bạn có ý nghĩa gì?" Lư Sư Tôn tôi đưa ra ba câu hỏi này, nếu bạn có thể trả lời chính xác thì cũng không uổng phí tôi viết cuốn sách này. Những câu trả lời của tôi, bạn có đồng ý không? Những câu trả lời của thiền sư Tịnh Huệ, bạn có đồng ý không? Tôi hy vọng mọi người đều có thể trả lời, hơn nữa còn siêu việt hơn, như vậy lại càng có pháp vị.
(Hết)