Đương Đại Pháp Vương giải đáp nghi hoặc
🪷 Đại huệ phổ chiếu
Văn tập số: 220 Xuất bản: 03/2011 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Văn tập Đương Đại Pháp Vương Trả Lời Khách Hỏi sau khi được xuất bản đã làm dấy lên một cuộc tranh luận rất lớn. Rất nhiều độc giả lần lượt gửi thư đến, hơn nữa còn nêu ra những nghi hoặc mới. Vì vậy tôi buộc phải sắp xếp phân loại các câu hỏi này, sau đó viết thêm một cuốn để giải thích. Lý do xuất bản cuốn sách này chính là như thế. Tôi tin rằng cuốn sách sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tu hành học Phật. Hy vọng rằng tất cả các tu hành giả sẽ trân trọng nó. Thế gian thời nay là thời kỳ mạt pháp, các đại thiện tri thức chân chính rất ít và cũng rất khó tìm khó gặp. Điều tồi tệ hơn là các chúng sinh bình thường không sở hữu pháp nhãn (*), nhận thức không rõ ràng nên đã bỏ lỡ mất sự hiện diện của Pháp Vương chân chính. Thay vào đó, họ lại đi chạy theo những sự việc như xây chùa lớn, tạo danh tiếng, mãi theo đuổi sự nghiệp thế tục. Đúng ra họ phải nên tìm một đại thiện tri thức, một vị tôn giả nhất thiết vô ngại, chứng ngộ thấu triệt, minh tâm kiến tính, dung hội quán thông Phật pháp. (*) Vị tôn giả này nhất định phải là người: Vô ngã. Vô vi. Vô tâm. Vô sinh. Vô nhân. Vị tôn giả này sau khi đã minh tâm, trải qua một quá trình tu hành, kiến chứng được Phật tính, hơn nữa lại phát đại Bồ đề tâm, mà trong ngũ trược ác thế, người đã phát nguyện đời đời kiếp kiếp quảng độ chúng sinh. Vị Tôn giả này là ai? Độc giả hãy lau sạch mắt mà nhìn cho kĩ. Mặc dù cuốn sách này được đại chúng hóa (*), nhưng những người đặt câu hỏi đều có trình độ và tư cách "Thượng sư", là bác học có tiếng tăm, vì vậy câu hỏi của người hỏi thậm chí còn đào sâu và châm chọc chua cay hơn. Nếu không phải là một đại thiện tri thức chân chính thì không thể trả lời được. Tôi dựa vào: Vô sân vô oán. Bi tâm đại phát. Phân tích chân lý. Dẫn chứng kinh tạng. Tự chứng tự tri. để hồi đáp những chất vấn của chư vị thượng nhân. Tôi tin rằng trả lời những nghi hoặc một cách thỏa đáng rồi thì sẽ nhận được sự đồng thanh ủng hộ của mọi người. Các vấn đề trong sách bao gồm: Thế thân Sát sinh Mâu thuẫn trong sách của Lư Sư Tôn Nghi vấn về tu pháp Sự xung đột giữa quy tắc đạo Phật và thế giới hiện tại V.v. Những chủ đề này rất thú vị, tôi sẽ phản ứng lại những câu hỏi này như thế nào, đưa ra lời giải thích như thế nào đây? May thay Lư Sư Tôn là một vị minh tâm kiến tính, nếu không thì những câu hỏi này rất khó trả lời, độc giả hãy đọc kỹ từng chi tiết để xem Lư Sư Tôn tôi trả lời như thế nào nhé. Xây chùa lớn đúng không? Xây bệnh viện đúng không? Chuyên làm từ thiện đúng không? Hành giả nổi danh đúng không? Tôi muốn phân tích chi tiết từng khoản từng mục nghĩa lý rõ ràng của nó, lần lượt phân minh hiểu rõ nguyên lý, rồi từ những bước tỉ mỉ này mà đưa ra trong sách nhiều lời khẳng định sâu sắc. Điều này sẽ đem đến lợi ích cho các vị Phật vị lai! Tôi hy vọng độc giả sẽ không ngần ngại đặt câu hỏi. Tôi sẽ hồi đáp tất cả với tâm vô thượng. Hãy nghiền ngẫm đọc đi đọc lại cuốn sách này, sẽ được chứng ngộ.
------------------ Pháp nhãn: con mắt có năng lực của Pháp, sáng suốt và rõ ràng Nhất thiết vô ngại: hoàn toàn không còn sự cản trở, chướng ngại nào. Dung hội quán thông: tinh thông kiến thức và trải nghiệm thực tế. Ngũ trược ác thế: ngũ trược là năm thứ dơ bẩn ở cõi Ta Bà, gồm kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược; chúng sinh ai cũng biết ngũ trược này là ác thế nhưng đều khó thoát ra. Đại chúng hóa: viết cho số đông.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Vì sao có sự thế thân?
Hỏi: "Vì sao có sự thế thân"? Lư Sư Tôn trả lời: Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi thành Phật đã từng luân hồi trong lục đạo, có một kiếp thác sinh là một thương nhân. Một lần, ngài cùng 500 thương nhân vượt biển đi giao thương. Trên đường đi, có một tên trộm xưng là "đoản mâu hắc nhân" có ý đồ hiểm độc muốn giết hại 500 thương nhân để cướp hết tài sản của họ. [ND: Đoản mâu hắc nhân: kẻ xấu xa (hắc nhân) với cây giáo ngắn (đoản mâu).] Phật Thích Ca Mâu Ni biết trước rằng 500 vị thương nhân trong kiếp này sẽ được thiện quả, sẽ đạt được quả vị Bát Địa Bồ Tát. Nếu như tên trộm "đoản mâu hắc nhân" này giết hại họ thì tên trộm này sẽ bị quả báo đọa địa ngục, hơn nữa còn vĩnh viễn không thể thoát ra, không được siêu sinh, thật là tội nghiệp. Phật Đà nghĩ: "Nếu tôi giết tên trộm này thì hắn sẽ không vào địa ngục, ngược lại tôi sẽ thay hắn vào địa ngục." Vì vậy, Phật Thích Ca Mâu Ni đã giết chết tên trộm. Quả báo là đại thiện nghiệp, Đức Phật đã vì sinh mạng của 500 thương nhân mà cứu họ. Thay vì phải vào địa ngục thì ngược lại, còn được viên mãn tư lương bảy vạn kiếp, giúp ngài tiến thêm một bước trên con đường thành Phật. [ND: Viên mãn tư lương: lương là lương thực, tư là tư trợ, là giúp đỡ. Hành giả cần có lương thực Pháp, lương thực thiện căn công đức để trợ giúp sự thành tựu.] Riêng về phần giết chết tên trộm "đoản mâu hắc nhân", do ngài không có mục đích ích kỉ, chỉ muốn cứu 500 vị thương nhân, lại còn chịu thế thân cho tên trộm "đoản mâu hắc nhân" vào địa ngục, nên ngược lại đã biến thành một thiện nghiệp to lớn. Tôi nói: Thế thân đã xuất hiện trong Kinh Bản Sinh của Phật Đà, khi Đức Phật thực hiện Bồ Tát hạnh, thường xuyên chịu khổ thay cho người khác. Như câu truyện kể ở trên, Đức Phật vốn chỉ nghĩ một cách đơn thuần rằng ngài không muốn để cho tên trộm "đoản mâu hắc nhân" phải đọa vào địa ngục vô gián, thà để mình tự giết tên trộm "đoản mâu hắc nhân" rồi mình xuống địa ngục. Đây chính là thế thân. Cá nhân tôi đã từng sử dụng pháp thế thân để siêu độ tiếp dẫn các linh hồn bị chết trong trận động đất lớn. Một nhóm các linh hồn trung ấm này được chiêu thỉnh đến vì họ tạm thời không có chỗ nào có thể trú thân. Tôi tự nhiên có ý tưởng kỳ lạ: "Hay là ở trong mắt của tôi đi!" (Đôi mắt tôi đã biến thành hotel - khách sạn trú ẩn cho vong linh của trận động đất vừa qua.) Lần lượt từng linh hồn trung ấm biến thành những chấm đen nhỏ nhỏ bay vào trong đôi mắt của tôi. Thế là: Đôi mắt tôi vô duyên vô cớ đỏ như máu. Mắt cứ đỏ như vậy hơn cả tuần lễ. Sau đó, trong lễ cúng Hộ Ma siêu độ tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, tôi đã sử dụng quang minh tiếp dẫn của Phật A Di Đà. Lần lượt từng linh hồn trung ấm bay ra khỏi mắt tôi, đi vào trong ánh sáng tiếp dẫn quang minh của Phật A Di Đà. Cứ vậy cho đến khi linh hồn cuối cùng bay ra khỏi mắt lên con thuyền pháp thì mới kết thúc. Lần này tôi hóa độ cho sáu nghìn linh hồn. Nói ra cũng kỳ lạ, vừa kết thúc siêu độ, đôi mắt tôi từ màu đỏ đã trở lại trắng đen bình thường. Không cần nhỏ mắt, không cần đi khám bác sĩ. Riêng tôi thì hiểu rõ đó chính là: Thế thân. Trong pháp thuật của Mật giáo cũng thường sử dụng pháp thế thân, hay hình nhân giấy thế mạng. Ngoài ra còn có: Thế thân bằng lôi phách mộc (cây bị sét đánh trúng). Thế thân bằng Kim thân Bồ Tát. Thế thân bằng pháp Sinh Cơ. Thế thân bằng Thủy lưu thi. Thế thân bằng pháp Hộ Ma. Tôi nói: "Thế thân là có thật, Phật sống chuyển kiếp hoặc một cơ thể thay thế bằng một cơ thể khác, cũng là thế thân. (Đoạt xá pháp)."
02. Khắp nơi có quỷ thần
"Có người nói, giúp đỡ đồng môn mang theo phiếu đăng kí siêu độ, không ngờ có hiện tượng tạp âm, xin hỏi đây có phải là thế thân không?" [Tạp âm: hiện tượng gần giống như bị ma quỷ nhập, quấy nhiễu, hoặc thân vật lý bị chịu ảnh hưởng dễ dàng ngay từ các cõi giới khác.] Tôi trả lời: Ngày xưa sống đối diện với nhà tôi có một người đàn ông tên là Hoàng Vạn Cát, chúng tôi gọi vợ của ông ta là chị dâu Vạn Cát. Chị dâu Vạn Cát là người theo đạo Phật, có chút năng lực thông linh, có thể hát Tứ Câu Liên, lúc có linh nghiệm thì cũng rất thú vị. Một ngày nọ, chị dâu Vạn Cát tham dự pháp hội Thận trai đường tại Đài Trung, trong pháp hội chị ngắm nhìn kim thân trang nghiêm mỹ lệ của Quan Thế Âm Bồ Tát, váy áo bay bay vô cùng sống động. Chị dâu Vạn Cát không kiềm chế được bèn đưa tay sờ vào kim thân của Bồ Tát một chút. Không ngờ chỉ trong tích tắc, bàn tay của chị liền sưng vù lên to như bánh bao mai rùa, đau đến mức kêu lên oai oái. Nhưng hồi đó tôi không tin đây là chuyện tà ma, cũng sờ thử lên tượng Quan Thế Âm Bồ Tát một chút. Tay của tôi không hề sưng vù lên như cái bánh bao mai rùa, cũng chẳng hề đau, tất cả đều bình thường như không có gì hết. Tôi chẳng gặp một chút vấn đề nào. Tôi nói: Người dễ bị tạp âm thì đâu đâu cũng bị tạp âm. Người không bị tạp âm thì muốn anh ta bị tạp âm cũng khó. Ý tôi muốn nói rằng khi bạn giúp đồng môn đem theo phiếu đăng kí siêu độ thì sẽ có một số quỷ thần theo phiếu đăng kí mà đến. Người dễ bị tạp âm thì đâu đâu cũng bị tạp âm. Người không bị tạp âm thì sẽ không bị tạp âm. Mọi người cần biết rằng trong cõi giới vô hình, đâu đâu cũng có quỷ thần, không thể lừa gạt quỷ thần, không thể tranh chấp với quỷ thần, không thể đắc tội với quỷ thần, vì thậm chí một việc cực kì nhỏ cũng có thể khiến cho bị tạp âm. Ví dụ: Ăn cơm. Đi ngủ. Đại tiểu tiện. Đều có thể bị tạp âm. Tôi nhận thấy: "Đây không phải là chịu thế thân, mà là bị xung phạm!" Cho dù đâu đâu cũng có quỷ thần thì chỉ cần biết tu các pháp phòng hộ là sẽ không bị xung phạm bởi quỷ thần. Giúp đồng môn mang theo phiếu đăng kí mà lại bị tạp âm cho thấy người này năng lực phòng hộ không đủ mạnh. Một lần nữa, có thể thấy vị đồng môn đó là mang thể trạng tạp âm. Có một số người vốn rất dễ bị tạp âm. Có một lần. Tôi gia trì cho một người bị mất ngủ. Khi quang minh phổ chiếu lên toàn bộ thân tâm của người đó, một con quỷ từ bên trong người này liền vội vã tìm cách thoát ra nhanh tới mức nó bị ngã rất đau. Quỷ tru tréo gào thét, nghiến răng nghiến lợi. Còn người bị mất ngủ thì ngay đêm đó ngủ một mạch đến sáng. Anh ta nói: "Đó là một giấc ngủ ngon lành nhất trong đời." Việc không ngờ đến là con quỷ đó không chấp nhận việc gia trì của tôi nên đêm đó đã đến tìm tôi. Tôi ngủ ở trên hoa sen, xung quanh bông hoa sen là nước. Con quỷ đó biến thành một con rắn nước bơi đến bên cạnh bông hoa sen. Một chân của tôi duỗi ra bên ngoài bông hoa sen bất ngờ bị con rắn nước cắn cho một phát vào ngón chân, tôi bị cắn nên tỉnh giấc. Vốn dĩ là người bị mất ngủ đó bị quấy nhiễu. Bây giờ đã đổi thành tôi bị quấy nhiễu. Đây chính là thế thân – chịu thay. Rất may tôi dùng pháp Chày kim cang, niệm chú ba âm Lang - Yang - Kang [Ram Yam Kham]. Sau đó tôi liền hóa thành chày kim cang. Con rắn nước đó cắn tôi không được nữa, đêm đó tôi vẫn ngủ ngon lành. Con quỷ đó rất tức giận phải bỏ đi. Ý của tôi muốn nói rằng: Nhân gian mặc dù là cõi giới của người, nhưng quỷ thần vô hình có thể "tác nghiệp" khắp nơi trong chốn nhân gian. Bất kể là chuyện nhỏ hay to đều có thể quấy nhiễu chúng sinh. Tuy nhiên chúng sinh cũng không phải sợ hãi, chỉ cần phẩm chất ngay thẳng, việc làm đúng đắn, thì "một chính" có thể đập tan "vạn tà", bất kể xung phạm gì cũng không sợ. Hơn nữa hành giả Mật pháp lại càng có thể tu các pháp phòng hộ! Sợ cái gì chứ?
03. Trả về hư không vô tận
Hỏi: "Có vài vị Thượng sư làm pháp Hộ Ma, lúc thì có hiện tượng thế thân, lúc khác lại không có, đây có phải do công lực của Thượng sư chưa thâm sâu không?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi kể một câu chuyện cổ đã nhé! Sau đó sẽ giải thích việc này. Trước đây có một lão phu nhân, con trai của bà thường đi Ấn Độ giao thương. Lão phu nhân nói với con trai: "Nghe nói đó là nơi có thánh nhân Phật Đà khi trụ thế, con đã đi Ấn Độ rồi thì hãy thỉnh về một vật được gia trì của Phật Đà để mẹ đảnh lễ, tụng chân ngôn." Thế nhưng cậu con trai khi đi Ấn Độ giao thương do công việc quá bận nên quên sạch việc người mẹ gửi gắm. Việc này xảy ra vài lần. Cuối cùng, người con trai lại đi Ấn Độ giao thương, lão phu nhân nghìn lời căn dặn, vạn lời nhắc nhở rằng nhất định phải đem một món đồ được Phật Đà gia trì về. Người con trai đến Ấn Độ, lại do công việc kinh doanh quá bận rộn, mà hễ bận là quên luôn lời dặn của mẹ. Sau khi làm xong công chuyện, anh trở về đến cửa nhà mới nhớ ra lời dặn của mẹ. Cậu con trai vô cùng lo lắng. Bỗng nhiên anh ta phát hiện ra bên cạnh nhà có một cái răng chó, thế là anh nhặt nó lên, rửa sạch, dùng vải lụa bọc lại trông rất đàng hoàng trang nghiêm. Cậu con trai đưa chiếc răng chó cho mẹ, nói là răng của Phật Đà, là răng Phật. Người mẹ vô cùng thành kính đem răng chó thờ cúng như một vật thần thánh, mỗi ngày bái lạy ba lần, niệm chân ngôn, cúng dường lên tổ tiên. Cứ như vậy bà đảnh lễ, cúng dường, tụng chú, cuối cùng kì tích đã xuất hiện. Trước tín tâm của lão phu nhân, không thể tưởng tượng được rằng răng chó đã sinh ra rất nhiều rất nhiều xá lợi, sáng lên lấp lánh. Bà đem xá lợi này tặng cho mọi người. Còn lão phu nhân sau khi qua đời cũng sinh ra rất nhiều xá lợi, có rất nhiều hào quang và hình dạng kì lạ. Kì thực đây chính là lòng tin kiên định của lão phu nhân đã cảm động tới Phật Đà. Phật Đà gia trì cho cái răng chó, thế là răng chó và răng Phật trở nên như nhau không khác biệt, đều có cùng pháp lực. Câu chuyện cổ kể trên với việc thế thân thì có liên quan gì không? Có liên quan đấy! Một Thượng sư nếu có tín tâm vô cùng mãnh liệt, lại dựa vào vị Thầy, Bổn tôn, Hộ pháp của chính mình theo cách vô cùng kiên định, thì đáng lẽ họ phải chịu thế thân nhưng đã truyền sang cho Thầy, Bổn tôn, Hộ pháp của mình rồi. Vị Thượng sư này biết rằng Thầy, Bổn tôn, Hộ pháp sẽ đem toàn bộ nghiệp chướng khí trả về với hư không vô tận. Do vậy, họ không phải chịu thế thân, vì hư không đã thế thay cho rồi. Ngoài ra, nếu Thượng sư mà có tín tâm bất định, đối với căn bản Thượng sư của mình, Bổn tôn, Hộ pháp còn có sự nghi ngờ thì vị Thượng sư đó không thể nương dựa được hoàn toàn vào các chư vị cõi trên được. Thượng sư như vậy khó mà tránh khỏi có lúc sẽ phải thế thân. Nếu hiểu được đạo lý vô nhị vô biệt, không hai, không sai khác, tâm niệm vững chắc, thì tất cả nghiệp chướng khí sẽ được trả về với hư không vô tận, sẽ tránh được việc thế thân. Có Thượng sư nói: "Để tôi thế thân cho là được!" Có Thượng sư nói: "Giao phó cho Thầy, Bổn tôn, Hộ pháp đi thế thân, trả về với hư không!" Do vậy, việc thế thân này không liên quan gì hay dính líu gì đến chuyện công lực cả. Có một lần, sư tỷ Toản Tâm người Hồng Kông đến Đài Loan tham gia pháp hội, ở tại khách sạn lớn tên là XY ở Đài Bắc, đến buổi tối không ngờ lại gặp ma quỷ đến. Cô hết sức niệm Phật nhưng quỷ vẫn không đi, lại tiếp tục ra sức niệm Phật nhưng quỷ vẫn cứ không đi. Sư tỷ Toản Tâm cuối cùng không chịu đựng được hét lên: "Thượng sư Lư Sư Tôn của tôi đang ở tầng trên, ngươi đi tìm ngài ấy đi!" Nghe vậy con quỷ này mới đi. Tiếp đó, tôi dùng đại pháp lực đem con quỷ độ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì. Xin hỏi: Đây có phải là thế thân không?
04. Nấc cụt không ngừng
Hỏi: "Thượng sư của tông phái lúc làm pháp hội thỉnh cầu Lư Sư Tôn gia trì, vậy Sư Tôn có phải thế thân không?" Trước tiên tôi kể một câu chuyện có thật. Một ngày vào tháng 11 năm 2010, buổi sáng tôi ngủ dậy bỗng nhiên bắt đầu nấc cụt liên tục. Nấc cụt vốn là một chuyện nhỏ, lẽ ra sẽ tự hết, nhưng lúc này lại cứ nấc mãi không hết. Tôi cố gắng dùng mọi cách để khiến nó ngừng lại. Tu bảo bình khí. Nhún mạnh một cái. Uống nước ấm. Uống rượu mật wasami. Nín thở lâu lâu rồi lại thở ra. Vỗ lưng. Ngồi im thiền định. Tập trung tinh thần quán tưởng. Uống nước nấu đinh hương với gừng. … Chẳng ngờ cơn nấc cụt này vẫn không chịu dừng lại. Tôi nấc từ buổi sáng đến buổi tối. Chỉ có một lúc nó dừng lại là lúc ăn cơm tối, ăn cơm xong lại bắt đầu nấc. Tôi thực sự không chịu nổi sự phiền phức của nó nữa, thế là tôi bắt đầu trì chú. Tôi trì chú vãng sinh, niệm hết sức, cứ niệm rồi niệm, cơn nấc vẫn không ngừng. Tôi lại tiếp tục niệm, khi nấc thì dừng lại, nấc xong thì lại tiếp tục niệm. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy một quang khí từ trong miệng của tôi thoát ra, từ từ bay lên cao. (Khí này vừa thoát ra thì cơn nấc lập tức hết.) Trong quang khí có một vị pháp sư, là pháp sư Liên Mậu. Quang khí lúc này cùng với vị pháp sư đó bay đi đến cõi tịnh độ. Ngày hôm sau có tin tức truyền đến. Pháp sư Liên Mậu đã qua đời rồi. Đã viên tịch rồi! Hóa ra câu chuyện trên thực tế xảy ra như sau. Lúc pháp sư Liên Mậu qua đời, mọi người giúp ông đọc kinh. Khi thân trung ấm của ông thoát ra, ông một lòng nghĩ đến căn bản Thượng sư Lư Sư Tôn sẽ cứu ông. Bình thường thì ông niệm Thượng sư tâm chú, lúc lâm chung thì cũng chỉ nghĩ đến việc đi tìm Lư Sư Tôn. Ông tin Sư Tôn nhất định sẽ có cách cứu ông, siêu độ cho ông đến Tây phương tịnh độ. Vậy là ông ấy đến tìm tôi, khi thấy liền đi vào ngụ trong người tôi. Lúc ông trú ngụ vào thì tôi cũng bắt đầu bị nấc. Đây là hiện tượng quang khí của ông với quang khí của tôi không phù hợp. Vì thế cơn nấc không thể dừng được. Tôi đã dùng hết mọi cách để dừng cơn nấc, nhưng vẫn không thể khiến nó dừng lại. Cuối cùng từ trong tiềm thức tôi biết được chuyện này, bèn hết sức trì chú vãng sinh, đưa pháp sư Liên Mậu đến Ma Ha Song Liên Trì. Nhờ vậy cơn nấc của tôi mới hết! Ý của tôi rằng: Thế thân là một pháp dựa trên nhân duyên. Phải có đủ nhân duyên thì mới thế thân được. Pháp sư Liên Mậu buộc chặt tâm mình với căn bản Thượng sư, có được cái tâm với tâm này, ông ta trú nhập vào người tôi, đương nhiên tôi sẽ thế thân. Những Thượng sư khác làm pháp hội, cầu Lư Sư Tôn tôi gia trì, nếu gặp đúng người có duyên phận thì vẫn phải thế thân không dừng được. Các linh hồn của pháp hội sẽ tập trung trên người tôi. Còn tôi sẽ dùng công lực, vận dụng Phật pháp đưa họ vãng sinh đến chốn Phật quốc tịnh độ thanh tịnh. Trên thực tế, tôi cũng không nhất thiết phải thế thân. Tôi có thể mời thỉnh Bổn tôn, Hộ pháp, … của tôi thay tôi làm những chuyện này. Những việc kiểu này tôi không cần thiết phải tự đi làm. Thân trung ấm của pháp sư Liên Mậu đến tìm tôi, đây là một trường hợp ngoại lệ, nhưng cũng là một thực tế. Người chứng kiến được chuyện có thật này là Thượng sư Liên Cực và một số người khác, ngoài ra còn có một vài đệ tử ở Cao Hùng. Vậy thì, mọi người đã hiểu chưa?
05. Là ai nói "Không có chuyện thế thân?”
Hỏi: "Trong cuốn sách Đương Đại Pháp Vương Trả Lời Khách Hỏi, có nhắc đến việc Không có chuyện thế thân. Vì sao Lư Sư Tôn lại nói như vậy?" Tôi trả lời: Là chính tôi nói rằng Không có chuyện thế thân. Vì sao rõ ràng là có chuyện thế thân mà Lư Sư Tôn lại nói là không có? Là tôi từ góc độ của Đệ nhất nghĩa đế mà nói. [ND: Đệ nhất nghĩa đế: cũng gọi là chân đế, thánh đế, chân lý tối cao. Còn chân lý ở thế gian gọi là Thế đế. Phật dùng phương tiện khéo léo để tuỳ thuận chúng sinh nên mới nói hai loại chân lý. Nếu nói chân lý vượt lên trên hoặc vượt ra khỏi chân lý thế gian thì gọi là Đệ nhất nghĩa đế.] Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm tại nhân gian, cuối cùng đã nói là không hề có thuyết pháp, dù chỉ một chữ cũng không hề nói. (Đệ nhất nghĩa đế) Chuyện kể lại rằng Sơ tổ của Thiền tông - Bồ Đề Đạt Ma sáng lập Thiền tông Trung Quốc vào lúc đi về phía Tây. Ngài từng đi qua Tây Tạng, để lại đó pháp Cổ Lí Tát, và được dân chúng ở đây tôn làm lão sư tổ của phái Cổ Lí Tát. Trong truyền thuyết cũng kể Đạt Ma sư tổ từng gặp mặt Milarepa, người Tây Tạng gọi Đạt Ma sư tổ là Padampa Sangye. Theo Thiền tông: "Bản lai vô nhất vật". (*) Theo Kinh Kim Cương: "Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng". (Đây đều là Đệ nhất nghĩa) Khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, Văn Thù Bồ Tát xuất hiện, nói với Phật Đà rằng: "Thỉnh Phật tiếp tục chuyển pháp luân." Phật đáp: "Ta có ba lần chuyển pháp luân à?" Văn Thù Bồ Tát lập tức hiểu ra bèn không nói gì nữa. (Đây đều là Đệ nhất nghĩa đế) Tôi (Lư Sư Tôn) trong lúc thuyết pháp thường hay nói rằng trên mặt trăng vốn không có người. Bởi vì không có người nên cái gì gọi là nghiệp chướng và tập khí? Bởi vì không có người nên có cần phải thế thân nọ thế thân kia không? Trên mặt trăng không có thế thân. Nói như vậy cũng có nghĩa là chỉ có ở nhân gian mới có, hư không chẳng có một vật gì thì thế thân để làm gì? Kì thực trong Mật giáo cũng có minh tâm kiến tính của pháp Đại Viên Mãn. Pháp Đại Viên Mãn cho rằng tâm tính của con người hiện nay chính là Phật tính, ở nhân gian chỉ có sự khác biệt giữa tỉnh và mê mà thôi. Minh tâm là trí huệ bản giác. Kiến tính là kiến chứng được bản giác thanh tịnh quang. Chùa Tử Ninh Phổ Vấn ở Đài Châu có thiền sư Trí Cần. Tăng nhân hỏi: "Làm sao có thể tay không cầm cán mai?" Thiền sư Trí Cần đáp: "Chỉ có cách tin vào sự thật." Tăng nhân hỏi: "Thế nào là cưỡi trâu nước đi bộ?" Thiền sư Trí Cần đáp: "Anh từ đâu đến?" Bài kệ của thiền sư Trí Cần: Kim niên ngũ thập ngũ Cước vị đạp thốn thổ San hà thị nhãn tình Đại hải thị ngã đỗ. Dịch kệ: Năm nay năm mươi lăm Chân vẫn chưa chạm đất Sông núi là con mắt Biển lớn là bụng tôi. (Đây đều là Đệ nhất nghĩa đế, hiểu được Đệ nhất nghĩa đế thì được gọi là hiểu rõ tự tâm, người hiểu rõ tự tâm đương nhiên biết rõ về cơ bản là chẳng có việc gọi là thế thân.) Tôi là một người minh tâm kiến tính. Người minh tâm kiến tính tự nhiên sẽ hiểu được Đệ nhất nghĩa đế. Hỏi: "Ngài viết cuốn sách số 220 đúng không?" Tôi đáp: "Đâu có." Hỏi: "Ngài thuyết pháp 40 năm rồi đúng không?" Tôi đáp: "Đâu có." Do vậy, căn bản là không có chuyện thế thân.
06. Sát sinh trong trò chơi điện tử
Hỏi: "Có một vị là pháp sư Tịnh Không, trong lúc trả lời tín chúng nói rằng sát sinh trong trò chơi điện tử cũng là tội phạm, do vậy cũng có nhân quả giống như giết người, nói như vậy có đúng không?" Lại hỏi: "Chúng sinh trong trò chơi điện tử không bị đau, hoặc bị thương, vì sao lại là có tội?" Lại hỏi: "Đời này giết người có thân nghiệp và ý nghiệp, giết người trong trò chơi điện tử có tồn tại thân nghiệp và ý nghiệp hay không?" Tôi trả lời: Ba câu hỏi này đều có liên quan đến trò chơi điện tử, do vậy tôi sẽ trả lời chung luôn ở đây. Chúng ta biết rằng pháp sư Tịnh Không vô cùng nỗ lực hoằng dương tịnh độ, pháp sư Tịnh Không cũng là một người rất chân thật, do vậy đương nhiên nói rằng sát sinh trong trò chơi điện tử cũng có tội báo, giống như nhân quả của việc giết người. Tôi giải thích như sau: Đây là vấn đề của tâm. Tôi giải thích một chút, tâm và ý là để chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, gốc của ý, A-lại-da-thức. A-lại-da-thức gọi là "tâm vi tế nhất". Tên gọi của A-lại-da-thức có rất nhiều, có tên gọi là "Như Lai Tạng", cũng chính là "trong Như Lai Tạng có Như Lai", cũng chính là Phật tính. Tu tập thiền tông đến cảnh giới cao nhất thì: Thiền - không chịu tác động của ngoại cảnh xung quanh. Định - tâm không động loạn. Nếu như một hành giả có lực thiền định thâm sâu, anh ta khi chơi trò chơi điện tử sẽ không bị ảnh hưởng bởi trò chơi điện tử, tâm cũng không động loạn. Đây cũng là biểu hiện anh ta không bị ô nhiễm bởi sát sinh trong trò chơi điện tử. Hành giả như vậy, cá nhân tôi cho rằng sẽ: "Không phải chịu nhân quả sát sinh!" Là bởi vì vô tâm. Nói cách khác là con người thông thường mê đắm vào trò chơi điện tử sát sinh mà tâm bị ảnh hưởng, thích giết tới giết lui, trong cuộc sống thực tế cũng bắt chước theo như vậy, chỉ cần in sâu vào trong tâm thì chắc chắn sẽ có tồn tại nhân quả báo ứng. Nếu bị ảnh hưởng Nếu tâm động loạn Tất có nhân quả báo ứng! Cá nhân tôi biểu thị sự tán đồng sâu sắc đối với lời nói của pháp sư Tịnh Không, bởi vì trên đời này rất ít người không bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh, rất ít người tâm không động loạn. Vấn đề thứ hai, nhân vật trong trò chơi điện tử đương nhiên là ảo, không phải là người thật, sẽ không bị đau, cũng không bị thương, vì sao lại có tội? Nhân vật hư ảo, là người giả, đương nhiên là không có tội. Có tội chính là người chơi trò chơi giết người, bởi vì tai nghe mắt nhiễm, bởi vì đã gieo xuống hạt giống sát sinh, bởi vì tâm động, bởi vì học tập theo, mặc dù người giết đó là hư ảo, nhưng ý niệm một khi đã khởi lên thì cũng là tội! Ví dụ: Có người gặp một "hot girl" xinh đẹp, khởi lên tâm niệm, nhưng không có hành động thực tế. (Đây là đã khởi tâm động niệm, không lẽ gì không phải là tội.) [ND: hot girl là cô gái trẻ quyến rũ, nóng bỏng] Trong Phật pháp mà nói, không nhất định cần phải hành động cũng đã bị xem là có tội rồi. Vấn đề thứ ba, đời này giết người có thân nghiệp và ý nghiệp, giết người trong trò chơi điện tử có tồn tại thân nghiệp và ý nghiệp hay không? Tôi cho rằng: có ý nghiệp. Đối với thân nghiệp, dùng tay để chơi điện tử, cũng có thể xem như là thân nghiệp. Đức Phật nói với Anan và các đại đệ tử rằng các người hãy lắng nghe cho rõ. Thiện tai! Thiện tai! Ta đang nói rõ những gì ta nói với các con rằng tất cả nam nữ trên thế gian, nghèo khổ hay giàu có, khổ đau vô cùng hay hưởng phúc bất tận, đều là quả báo của nhân quả kiếp trước. Vậy phải làm sao? Phải kể đến: Hiếu kính cha mẹ. Kính tín tam bảo. Giải sát phóng sinh. Ăn chay bố thí. Niệm Phật trì chú.
07. Thà làm một con sâu bị Thượng sư giết chết
Hỏi: "Nghiệp chướng của động vật nặng hơn so với con người, vì sao niệm bảy biến "Văn Thù Bồ Tát vãng sinh chú" thì có thể vãng sinh được? Còn người chết làm ma chay phải cần 49 ngày, đọc kinh đọc chú rất nhiều thì mới có thể giúp cho người chết vãng sinh?" Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ minh họa. Có một vị Căn bản Thượng sư đã tu hành chứng đạo, minh tâm kiến tính, công lực rất cao, ngài có hai người thị giả. Một hôm, Căn bản Thượng sư thiền định, từ sơ thiền đến nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Rồi lại từ tứ thiền, tam thiền, nhị thiền, sơ thiền xuất định. Ngài mở to hai mắt, bỗng nhiên nhìn thấy một con sâu đang bò lên vạt áo phía trước của mình. Căn bản Thượng sư đưa tay ra, dùng hai đầu ngón tay bắt lấy con sâu đang sống rồi giết chết nó. Căn bản Thượng sư đọc hai chú tự: "Pei! Pei!" Sau đó căn bản Thượng sư kết "chỉ thị ấn". Cuối cùng, căn bản Thượng sư uống trà, xem như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Thị giả ở bên trái trông thấy, trong lòng khởi lên một suy nghĩ là căn bản Thượng sư không từ bi, không có bồ đề tâm, không thương yêu chúng sinh, chỉ một cái với tay đã bóp chết con sâu, phạm vào nghiệp chướng sát sinh. Căn bản Thượng sư bình thường giảng dạy cho chúng ta về ngũ giới trong Phật giáo, không sát sinh là giới thứ nhất, chính là không thể nào sát sinh, thế mà bây giờ chính ngài lại dễ dàng sát sinh như vậy. Một vị căn bản Thượng sư như vậy có thực sự là đã minh tâm kiến tính không? Có phải là đắc chứng không? Có phải là công lực cao thâm không? Rồi nhanh chóng người thị giả bên trái này khởi lên suy nghĩ muốn rời bỏ sư phụ của mình để đi tìm một sư phụ khác. Người thị giả bên phải trông thấy việc này, anh ta cũng khởi lên một suy nghĩ, anh ta cho rằng sư phụ thật là một người đại từ đại bi! Căn bản Thượng sư sư phụ không ngờ đích thân dùng hai ngón tay của mình giết chết con sâu, con sâu này phúc phận thâm hậu, thật là có phúc lớn mới có thể được chết trong tay của căn bản Thượng sư. Đây là do duyên lành nhiều kiếp. Căn bản Thượng sư niệm hai chữ "Pei! Pei!", câu trước là cắt đứt nghiệp chướng, câu sau là siêu độ đến Phật quốc. Cuối cùng căn bản Thượng sư kết "chỉ thị ấn", tiếp dẫn linh hồn con sâu trong một sát-na (*) đã vãng sinh Phật quốc tịnh độ, việc này thực sự là rất vĩ đại. Người thị giả bên phải nghĩ: "Một con sâu nhỏ có thể có được phúc báo như vậy thực tế là nhờ tích tập nhiều kiếp tu hành, mình thà như con sâu nhỏ kia được Thượng sư giết chết, đây mới là điều may mắn nhất trong trời đất." Căn bản Thượng sư không nói lời nào, nhìn hai người thị giả cười lớn ha ha ha. Rồi lại uống một ngụm trà. Hôm nay tôi thực lòng nói cho mọi người hay: Nghiệp chướng của động vật thực sự nặng hơn nghiệp chướng của con người, bởi vì động vật không thể tu hành. Còn động vật có thể được Thượng sư cao minh siêu độ, nói nghiêm túc thì cũng không có nhiều. Động vật mà được Thượng sư cao minh siêu độ cho thấy duyên phận của nó rất thâm hậu, phúc báo cũng thực sự là rất lớn. Tôi nói: Rất nhiều hành vi của con người, nhìn một cách nghiêm túc, thực sự không bằng động vật, thậm chí tệ hơn cả động vật. Nghiệp chướng của con người cũng rất nặng. Kì thực con người cũng là một loại động vật. Tôi cho rằng một số người về cơ bản là chẳng bằng động vật. Nói tóm lại, "Văn Thù vãng sinh chú" là đại bí mật chú ngữ, là chú ngữ của Văn Thù Bồ Tát vị thầy của Thất Phật, không thể xem thường. Động vật có duyên mới có thể được trì chú này, mới có thể vãng sinh. Còn đối với con người phàm phu, người có nghiệp lực nặng thì về cơ bản là chẳng thể gặp được căn bản Thượng sư, chỉ có cách là đọc nhiều kinh chú để giúp đỡ người đó, tất cả điều này tùy vào công lực. Cũng còn tùy vào duyên phận. Cũng còn cần phúc báo lớn. Tôi nhấn mạnh: Con người cũng là động vật, mỗi một hoàn cảnh đều không giống nhau.
08. Nhà ở không thanh tịnh
Hỏi: "Lúc Lư Sư Tôn đóng cửa ẩn cư tại hồ Diệp Tử, Thất Phật xuất hiện. Lư Sư Tôn thỉnh Thất Phật hạ giáng, nhưng Thất Phật lại nói chỗ ở của Lư Sư Tôn không thanh tịnh, Phật vẫn phân biệt thanh tịnh và ô nhiễm chăng?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để giải thích điều này. Có một đệ tử đồng môn đến thỉnh giáo tôi về vấn đề đặt đàn thành (Phật đường). Tôi bảo anh ta: "Đặt tại bên trái phòng khách đi!" "Không được, phía trên bên trái là phòng vệ sinh của lầu trên, như vậy chẳng phải là để phân trên đầu Phật hay sao?" "Vậy để trong phòng đi!" "Không được, ở bên dưới phòng đó chính là nhà vệ sinh của tầng dưới, như vậy chẳng phải là rơi xuống hố phân sao?" "Thế để ở trong phòng ngủ của chủ nhà đi!" "Không được, đó là phòng ngủ của tôi và vợ con, vợ chồng tôi ngủ mà quan hệ thì sẽ làm ô nhiễm mắt của Phật." "Vậy đặt ở lối đi đi!" "Không được, không hợp phong thủy." "Đặt ở nhà bếp vậy!" "Không được, không hợp phong thủy." "Đặt ở nhà kho vậy!" "Không được, xin lỗi Phật Tổ. Hơn nữa cũng không đủ rộng." "Đặt tại…………." "Không được………….." Tôi cười: "Chỗ này cũng không được, chỗ kia cũng không được, vậy thì đàn thành phải đặt ở chỗ nào mới được?" Anh ta đáp: "Bởi vì chỗ nào cũng không được nên mới đến thỉnh giáo Lư Sư Tôn đó." Chuyện kể trên mặc dù có vẻ giống như chuyện đùa, nhưng đây cũng là một thực tế. Ở các căn hộ chung cư hiện nay, nếu phải cân nhắc tầng trên và tầng dưới, rồi lại cân nhắc sự thanh tịnh của phòng, thực sự là vô cùng khó! Tôi nói cho mọi người hay: Phật nói: Nhà của Lư Sư Tôn không thanh tịnh là ý nói tùy thuận chúng sinh, bởi vì trong mấy ngày đó, tôi đã tụ tập một bầy quỷ thần đến nơi tôi ẩn cư để thuyết pháp, tôi giảng pháp cho quỷ thần nghe. Trong đám quỷ thần lẫn lộn người tốt kẻ xấu, có thần rắn, thần chó, thần trâu, yêu ma quỷ quái, v.v. Còn có quỷ ăn phân, quỷ uống nước tiểu, quỷ ăn tinh trùng, quỷ ăn trứng, quỷ ăn máu, quỷ ăn đồ xú uế, quỷ nôn ói, quỷ ăn rác, quỷ khát nước, quỷ ăn nước mũi, quỷ ăn nước mắt, quỷ ăn da, quỷ ăn xương,… đủ mọi loại quỷ. Còn có các tinh linh: Thần cây. Thần cỏ. Thần cây mầm. Thần ở rừng vứt xác. Thần canh giữ xác chết. Nếu như theo khí mà nói, lúc đó không thích hợp để thỉnh Thất Phật hạ giáng, đây chính là nói ý tùy thuận chúng sinh. Nhưng nếu theo Đệ nhất nghĩa mà nói thì: Không sạch không bẩn. Không tăng không giảm. Không nhất không dị. Phật là vị giác ngộ, vô nhãn sắc trần, vô nhĩ thanh trần, vô tị hương trần, vô thiệt vị trần, vô thân xúc trần, vô ý pháp trần. Phật cũng không có ngã si, ngã kiến, ngã ái, ngã mạn. Thậm chí Phật vô năng tạng, vô sở tạng, vô chấp tạng. Phật là vô phục vô kí. Do vậy nói: "Phật không phân biệt thanh tịnh hay ô nhiễm. Nhưng dựa theo điều kiện khi đó của Lư Sư Tôn nên mới nói rằng không thanh tịnh. Rất rõ ràng như vậy, là tùy theo chúng sinh mà nói." Tôi nói: Nếu như dựa theo Đệ nhất nghĩa để viết sách thì tôi nói cho bạn biết, tôi không sách nào có thể viết, không lời nào có thể nói. Tam tạng thập nhị bộ, tất cả đều không tồn tại.
09. Địa ngục rốt cục ở đâu?
Hỏi: "Trong lời mở đầu của cuốn "Sách Thông Thiên" có đề cập đến chuyện Lư Sư Tôn đã giải phóng Tôn Đà Lợi và Chiến Già. Ở trong sách, lúc Lư Sư Tôn phát hiện ra họ thì họ đang bị giam trong một nhà tù. Bởi vì khi còn tại thế họ đã phỉ báng Phật Đà, vì sao bọn họ không phải ở trong địa ngục chịu khổ mà lại bị giam trong tù?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ nhé! Chuyện này để nói về "tâm rốt cục ở đâu?" Trong Kinh Lăng Nghiêm, có một đoạn đối thoại tuyệt vời liên quan đến "tâm nằm ở đâu" khi Phật Đà nói chuyện với Anan. Phật Đà hỏi: "Mắt và tâm rốt cuộc nằm ở đâu?" Anan trả lời: "Mắt ở trên mặt, tâm ở trên thân." Phật Đà nói: "Nếu như tâm ở trên thân, vậy thì trước tiên sẽ cảm thấy được hoạt động của lục phủ ngũ tạng rồi mới nhận biết được thế giới bên ngoài, thế nhưng thực tế lại không phải như vậy." Anan đáp: "Vậy thì tâm nằm ở ngoài thân." Phật Đà nói: "Nếu như tâm nằm ở ngoài thân, vậy thì thân và tâm không có liên quan đến nhau. Những gì tâm biết thì thân không thể cảm giác được, những gì thân chạm được thì tâm không thể biết được, thế nhưng thực tế lại không phải như vậy." Anan lại nói: "Tâm hẳn là ở trong mắt." Phật Đà nói: "Nếu như tâm ở trong mắt thì có thể nhìn thấy núi sông đại địa, nhưng vì sao không thể cùng lúc nhìn thấy mắt?" Anan lại nói: "Con mở to mắt thì nhìn thấy ánh sáng, nhắm mắt lại thì nhìn thấy bóng tối. Mở mắt nhìn ra ngoài, nhắm mắt nhìn vào trong." Phật Đà nói: "Nhắm mắt nhìn vào trong, bóng tối và mắt chẳng phải là đối diện sao? Nếu là đối diện, vậy thì bóng tối chính là ở phía trước của mắt, như vậy tại sao lại nói nhìn vào trong? Nhưng nếu như không đối diện, làm sao nhìn ra ngoài?" Anan trả lời: "Suy nghĩ của con với sự vật ngoại cảnh tương hợp, ở chỗ tương hợp đó chính là nơi tâm ở đó." Phật Đà nói: "Tâm không phải là một thực thể, do vậy mà vạn pháp từ tâm sinh ra. Cũng bởi vì không có thực thể nên không có trong, không có ngoài, cũng chẳng phải là ở giữa. Ví dụ thân thể bị bệnh thì là cảm giác bên ngoài, hay là cảm giác bên trong, hay là trong ngoài đều cảm giác thấy?" Anan nói: "Tâm không ở trong thân, không ở ngoài thân, vậy thì ở giữa mắt và sự vật." Phật Đà nói: "Tâm ở giữa mắt và vật, nếu như tâm bao gồm mắt và vật, mắt có tri giác, vật không có tri giác, vậy thì sao có thể một nửa có tri giác một nửa không có tri giác được? Nếu không bao gồm mắt và vật, vậy thì tâm làm sao nhận biết được vật thể?" Anan nói: "Tâm không ở bất kì chỗ nào, tất cả vô nhiễm vô trước, chính là tâm." [ND: Vô nhiễm vô trước: không bị ô nhiễm, dính mắc.] Phật Đà nói: "Tâm không ở nơi nào cả, vậy thì lông rùa sừng thỏ chỉ là một cách nói hữu danh vô thực, không có thực thì chính là không nhiễm mắc. Nếu như có một nơi khác mà tâm ở đó, vậy thì có tồn tại một nơi nào đó, việc này sao có thể có liên hệ với nhau?" Rốt cục, đến cuối cùng thì A Nan cũng hiểu ra. "Tự tâm vốn ở trong hư không." Tôi nói: Đoạn đối thoại này vô cùng sâu sắc, phân tích vào nghĩa lý, nhưng hành giả đôi khi cũng bị làm cho cảm thấy mơ hồ. Ý nghĩa quan trọng của nó là: "tâm vốn dĩ là không". Phật Đà và Anan luận biện "tâm ở nơi nào"? Tôi và những người đặt câu hỏi luận biện "địa ngục ở nơi nào?" Xin hỏi, địa ngục chẳng phải là do "tâm" sinh ra sao? Tâm nếu như không có địa ngục thì địa ngục không có. Tâm sinh ra thì địa ngục mới có sinh ra, tâm diệt thì địa ngục không có. Địa ngục trong Kinh Địa Tạng là bát hàn bát nhiệt, ngoài ra còn có "tăng biên địa ngục" vô cùng vô tận. Tôn Đà Lợi và Chiến Già bị giam trong lao tù chẳng phải là địa ngục đó sao? Bạn cho rằng như thế nào mới là địa ngục? Địa ngục là: Tâm vốn dĩ là không. Do tự tâm sinh ra chư thiên lục đạo mà thôi!
10. "Nhổ đinh trời" cũng cần nhân duyên
"Trong chương "Thành Hoàng xử đêm" của cuốn sách "Sống từng phút giây trong sáng" (Văn tập 145), có kể chuyện Trịnh Khoa bị Ngọc Hoàng dùng đinh trời trừng phạt. Nhưng trong sách Lư Sư Tôn cũng nói đến "luật Phật ban ra, nhổ được đinh trời" vì Sư Tôn đã là Phật, thế nhưng Sư Tôn cũng không có cách nào nhổ đinh ra? Nếu như "luật Phật ban ra, nhổ được đinh trời" thì vì sao Sư Tôn còn phải đi tìm Phật Đà để hỏi ý?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi kể một chuyện nhỏ. Lúc trước tôi xem bói hỏi chuyện, có một người tên là Liệu Quân đến chỗ tôi. Người tên Liệu Quân này có cách đi bộ vô cùng kì lạ. Chân tạo thành hình chữ O, khi đi bộ bàn chân phải và bàn chân trái gần như là dính liền với nhau, buộc phải đi từng bước rời rạc, hễ mà đi thì hình dạng kì dị, lắc bên này lắc bên kia. Tôi hỏi Liệu Quân vì sao lại bị như vậy. Liệu Quân đáp, chỉ ngủ có một giấc, khi tỉnh dậy đã biến thành bộ dạng như vậy rồi. Tôi hỏi ông bao nhiêu tuổi? Liệu Quân đáp là 47 tuổi. Thế là tôi đặc biệt quan sát nhân quả của ông ta. Tôi nhìn thấy một Liệu Quân khác trong địa ngục, Liệu Quân này chính là bị Ngọc Hoàng dùng đinh trời đóng vào hai chân của ông ta. Tôi khám phá thấy nguyên nhân bị đóng đinh của Liệu Quân vốn là do ông ta không tin vào quỷ thần, trong lúc giận cá chém thớt, ông ta đã dùng dao phay liên tiếp chặt đứt nhiều tượng Phật của một ngôi chùa. Ông ta thích chặt chân của tượng Phật, ngoài tượng Phật ra ông ta cũng chặt chân của năm trăm La Hán. Kết quả là ông ta bị Ngọc Hoàng ở trên trời dùng đinh trời đóng vào hai chân. Tôi hỏi: "Chuyện này có hay không?" Ông đáp: "Nhất thời tức giận nên đã làm vậy, bây giờ hối hận thì đã quá muộn rồi!" Lúc đó, mặc dù tôi là Phật, "luật Phật ban ra, nhổ được đinh trời", nhưng tôi cũng không thể làm như vậy. Liệu Quân đã qua đời rồi, ông ta từ lúc 47 tuổi đến ngày chết chân đã luôn bị đóng đinh trời. Tôi nói: "Nhổ đinh trời cũng cần có nhân duyên." Trong công án thiền tông có một quy tắc như thế này: Có một thánh giả nhập định, sau khi nhập định, không hề thấy xuất định. Phật Thích Ca Mâu Ni yêu cầu mấy vị đại đệ tử (Thanh văn - La hán) đi gọi thánh giả xuất định. Nhưng thánh giả vẫn nhập định, gọi thế nào cũng vẫn bất động. Cuối cùng, Phật Thích Ca Mâu Ni yêu cầu Bồ Tát Văn Thù gọi thánh giả xuất định. Chúng ta biết rằng Văn Thù Bồ Tát là thầy của Thất Phật, đã từng là sư phụ của Thất Phật, công lực của Văn Thù là không thể so sánh. Văn Thù Bồ Tát theo chỉ của Phật liền dùng âm thanh vi diệu rất nhỏ khuyên thánh giả xuất định. Nhưng thánh giả vẫn bất động như thường. Đại pháp lực như Văn Thù Bồ Tát vẫn không lay động được thánh giả. Sau đó: Một bà lão của nhà bếp đi tới nói với thánh giả một câu, thánh giả liền xuất định. Phật Đà hỏi mọi người: "Vì sao vậy?" Công lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vị thầy của Thất Phật lại thua cả một bà lão sao? Không phải thế. Mà là bà lão và thánh giả có nhân duyên của một bữa cơm mà thôi! Phật cũng có ba điều không làm được: Không thể độ người không có duyên với Phật pháp. Không thể độ được hết thảy chúng sinh. Không thể diệt trừ được hết thảy nghiệp chướng. "Luật Phật ban ra, nhổ được đinh trời" là đại lực của Phật, nhưng cũng cần phải có tồn tại nhân duyên "nhổ đinh". Phật Thích Ca Mâu Ni kể từ khi thành Phật về sau này đã phải chịu rất nhiều sự phỉ báng, đả kích và ngăn trở. Phụ nữ nói những lời ô uế. Đệ tử phản bội. Ngoại đạo công kích. Có những thứ có thể hóa giải, có những thứ không thể hóa giải, ví dụ gia tộc Thích Ca bị diệt tộc, ví dụ tôn giả Mục Kiền Liên bị giết chết một cách thảm thương, ví dụ như Đề Bà Đạt Đa phản bội,…
11. Phật Mẫu và Minh Phi
Hỏi: "Lư Sư Tôn từng nói rằng Liễu Minh Hòa Thượng có năm vị Phật Mẫu, sau khi Liễu Minh Hòa Thượng nhập niết bàn, năm vị Phật Mẫu không xuất hiện hoằng pháp sao?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để giải thích. Ngày xưa, tôi ở chỗ Thượng sư Thubten Dargye hỏi về vấn đề Phật Mẫu và Minh Phi, thầy Thubten Dargye nói: "Trong Mật giáo thì có thể có Phật Mẫu và Minh Phi. Tu hành Mật giáo và Hiển giáo khác nhau rất nhiều. Hiển giáo thì hoàn toàn không thể có chuyện chạm vào, Mật giáo thì có thể chạm vào. Cũng vì thế mà hành vi của Mật giáo bị cho là bẩn bệnh." Nhưng hành giả Mật giáo thọ nhận quán đảnh Vô Thượng Mật với mục đích nội tu các pháp khí nhập trung mạch, vô lậu, chuyết hỏa, minh điểm. Sử dụng pháp Phật Mẫu và Minh Phi để đạt được: Khí hợp với khí. Lỗ thông với lỗ. Điểm hòa với điểm. Có thể rất nhanh chóng nhìn thấy "minh điểm quang", "kim cương luyện", thấy được "Phật tính", nhậm vận các Phật quốc tịnh độ khác. [ND: Nhậm vận: hoàn toàn tự tại, tùy tâm, tùy ý thoải mái hoạt động, tùy duyên hóa hiện, thị hiện khắp nơi.] Mật pháp vô thượng này, ngày nay, có Sakya Chứng Không Thượng sư và Thubten Dargye Thượng sư truyền thừa cho Lư Sư Tôn. Nhưng để sử dụng được hoạt động pháp thủ ấn Phật Mẫu, Minh Phi thì điều kiện cũng không dễ dàng, có hai điều kiện lớn là: Tu chứng vô lậu. Tu chứng tính Không. Tất cả mọi kĩ thuật Phật pháp khác cũng vô cùng quan trọng, chưa phải là Kim cương Thượng sư chân chính thì không thể nào biết được. Chưa thọ tam quán đảnh "vô thượng mật" mà tu bừa thì sẽ không thể tu pháp tốt được. Do vậy có người nói: "Vô thượng mật bộ từ lâu đã thất truyền, hiện nay chỉ có pháp tà dâm mà thôi!" Nhưng Lư Sư Tôn tôi e rằng mình cũng chỉ là người gìn giữ truyền thừa này. Đây không phải là tà dâm, mà là tu hành. Bởi vì pháp này có thể đạt được tịnh quang thành Phật, kiến chứng Phật tính. Kì thay! Kì thay! Liễu Minh Hòa Thượng có năm vị Phật Mẫu, năm vị này là: Hương Quang, Lương Hoa, Quỳnh Hoa, Linh Xảo, Tố Tâm. Trong năm người, Lương Hoa độ người nhiều nhất, gần như làm chủ của một tông phái. Bởi vì sau khi bà viên tịch đã không có người sau kế tiếp cho nên tông phái tan rã. Tố Tâm phụng sự Liễu Minh Hòa Thượng vô cùng tỉ mỉ một bước không rời, hẹn ước sẽ cùng rời xa chốn nhân gian cùng ngày cùng giờ. Hương Quang cũng có độ người nhưng lựa chọn đệ tử rất khắt khe, do vậy đệ tử không nhiều, chỉ có mười người. Quỳnh Hoa thì đi đi về về. Linh Xảo chuyên tâm tu hành, đạt đến "trung ấm thành Phật", đối với Mật tông các pháp lớn nhỏ đều biết hết, hơn nữa lại rất thực tu, bà tu hành đến được cảnh giới rất cao, ngũ nhãn lục thông đều có thể chứng biết. Ngoài Liễu Minh Hòa Thượng ra, tất cả các kiến thức Phật học của tôi đều nhờ Linh Xảo mà biết được. Năm vị Phật Mẫu đều đạt thành tựu đặc thù, chỉ có Quỳnh Hoa thì tôi không biết nhiều lắm. Nói đại khái là năm vị Phật Mẫu khi đã đến tuổi thì lần lượt viên tịch, lần lượt tiên du, rời khỏi trần thế, còn những việc khác thì tôi không rõ kết thúc thế nào. Giáo sư Trương Trừng Cơ và Thượng sư Trần Kiện Dân đều là đệ tử của Hoạt Phật Gangkar (Gangkar Rinpoche). Như mọi người đã biết, Hoạt Phật Gangkar có Minh Phi. Trương Trừng Cơ có Minh Phi, mọi người cũng đã biết. Trần Kiện Dân Thượng sư có Minh Phi, việc này ai ai cũng đều biết. Giáo sư Trương Trừng Cơ là đệ tử của tôi, còn Thượng sư Trần Kiện Dân thì có duyên gặp một lần. Nhưng tôi biết, cuốn sách "Sự nghiệp thủ ấn giáo thụ quyết vi" đã thuật lại rất rõ ràng, chỉ là các kĩ thuật trong pháp không thể nào kể hết được mà thôi. Tôi có được quán đảnh và khẩu quyết của Sakya Chứng Không Thượng sư và Thubten Dhargye Thượng sư, giúp tôi hoàn toàn hiểu rõ tầm quan trọng của Phật Mẫu và Minh Phi, khiến cho con đường tu hành đời này của tôi càng rõ ràng minh bạch, càng rộng lớn, càng siêu việt, đây là tài sản vô giá.
12. Phật tính không phải là vô hình vô tướng sao?
Hỏi: "Ngày 26 tháng 2 năm 2008, tại Seattle Lôi Tạng Tự đồng tu hội ngày thứ bảy đã có một buổi khai thị cực kì quan trọng: Trong Mật giáo, cần phải thấy được Phật tính chân chính, phải khai mở luân xa tim của bạn. Cũng có nghĩa là sau khi thông trung mạch thì khai mở năm luân xa: luân xa thiên nhãn, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn, luân xa bí mật. Sau khi mở luân xa tim, tim trở thành hoa sen tám cánh, chính giữa hoa sen có một chữ "Hum". Từ chữ Hum sinh ra một cột ánh sáng màu xanh lam, giống như một cánh tay ánh sáng vươn dài. Lúc bạn nhìn thấy cột ánh sáng đó thì trong Mật giáo có nói rằng điều này gọi là "thân kiến Phật tính" - tự mình thấy Phật tính. Sau khi bạn nhìn thấy Phật tính rồi thì bạn sẽ vĩnh viễn nhìn thấy cột ánh sáng xanh lam này, việc này được gọi là "nhất kiến vĩnh kiến" - một lần nhìn thấy mãi mãi nhìn thấy. Sau khi nhìn thấy Phật tính thì vĩnh viễn nhìn thấy bản tính quang minh. Còn tu pháp theo Hiển giáo thì chắc chắn kiến chứng Phật tính trong thiền định. Tu pháp của Mật giáo thì nhất định phải thông trung mạch, mở ngũ luân, mở luân xa tim, nhật nguyệt luân ở trong hoa sen tám cánh. Cột ánh sáng xanh lam nói đến ở trên, đó chính là Phật tính." Hỏi: "Phật tính chẳng phải là vô hình vô tướng sao? Vì sao Lư Sư Tôn vẫn nói là nhìn thấy ở trong luân xa tim?" Tôi trả lời: Phật có tam thân: Pháp thân Phật - thân thắng nghĩa - vô hình vô tướng. Báo thân Phật - thân trang nghiêm - hữu hình hữu tướng. Ứng thân Phật - thân biến hóa - các hình các tướng. Trong số các thân này thì pháp thân Phật thực sự vượt xa mọi hình tướng, là chân lý tuyệt đối, ánh sáng quang minh của tính không, từ đó sinh ra trí huệ, lấy nền tảng quang minh hiển hiện, vượt qua và cắt đứt khỏi thường hằng lưỡng biên. Hãy chú ý câu "lấy nền tảng quang minh hiển hiện". (Câu nói này rất quan trọng.) Do vậy tôi nói: Bạn bảo rằng "vô hình vô tướng" là Phật tính, không sai. Tôi nói "cột ánh sáng xanh lam" là Phật tính, cũng không sai. Tu hành Mật giáo, kiến chứng Phật tính, sẽ xuất hiện tứ đạo quang mạch - bốn đường mạch ánh sáng. Tứ đạo quang mạch này là: Ca đề đại kim mạch. Bạch ti nhung mạch. Tế toàn mạch. Tinh quản mạch. Tinh quản mạch xuất phát từ tim đi qua lá phổi, đến tai và mắt, bản giác quang minh (ánh sáng vốn có của chúng sinh tự tính thanh tịnh, của chân tính, chính là pháp thân Như Lai) ẩn ở trong toàn cơ thịt của quả tim, chính là lúc khai mở được luân xa tim rồi thì thông qua tinh quản mạch mà nhất kiến vĩnh kiến. Lời giải thích của tôi là: Tu hành Mật giáo có thể nhìn thấy cột ánh sáng xanh lam của bản giác sau khi khai mở luân xa tim. Nó là cột ánh sáng màu xanh lam. Bởi vì Phật tính vô hình vô tướng là nền tảng của hiển hiện quang minh. Bởi vì Phật tính vô hình vô tướng, ngoài sự hiển hiện của báo thân Phật trang nghiêm ra, càng hiển hiện nhiều hơn ứng thân Phật các hình các tướng. Ở đây tôi lại cần nói với mọi người về minh tâm kiến tính. Về khai ngộ minh tâm, trong mười cuốn sách "Thiền" tôi cũng đã nói rất rõ ràng thấu đáo, vô cùng chi tiết. Muốn "minh tâm" trước tiên phải tìm nguồn gốc của "tâm", sau khi đến được gốc rồi, cái tâm-tìm-không-thấy này mới là chân tâm. Đời người là giấc mộng trăm năm. Trong bánh mặt trời không có mặt trời. [ND: Bánh mặt trời: bánh thái dương, một loại bánh tròn nhỏ có vỏ giòn nhiều lớp, nhân bánh là đường mật, bánh có nguồn gốc từ Đài Trung, Đài Loan.] Trăng trên mặt nước không có trăng. Không sinh ra. "Minh tâm" có thể có được từ trí huệ bát nhã, từ đó chứng minh cho sự "khai ngộ" của hành giả. Còn "kiến tính" thì cần phải thực sự đi tu hành. Trong Mật giáo, Phật tính có phương diện của tính Không, còn có phương diện của tính Hữu. Phương diện của Không là "minh tâm", phương diện của Hữu là "kiến tính", đây gọi là "Không Minh song kiến". Chúng ta không thể cả ngày từ sáng đến tối gào lên: Không thể thấy được "vô hình vô tướng". Hành giả không nhìn thấy. Phàm phu cũng không nhìn thấy. Lẽ nào tất cả những gì phàm phu không nhìn thấy cũng là kiến chứng Phật tính? Phật tính có "phần Không", cũng có "phần Minh", "Không Minh song kiến" mới là thực sự nhìn thấy. Tôi nói: "Kiến tính là có thể tự chứng."
13. Vấn đề "thấy" Phật tính trong thiền định
Hỏi: "Nếu trong thiền định "thấy" Phật tính mới là Phật tính, vậy thì khi không thiền định thì sẽ không "thấy" Phật tính, Phật tính chẳng phải là bất sinh bất diệt sao?" [ND: Bất sinh bất diệt: không sinh ra, không mất đi.] Tôi trả lời: Vào lúc tôi cử hành đại pháp hội Thời Luân Kim Cương ở tại Singapore, có 6 vạn người tham gia, tôi đã giải thích pháp thiền định cửu thứ đệ. [ND: Pháp thiền định cửu thứ đệ: còn gọi là cửu thứ đệ định hay cửu vô gián thiền, là chín pháp thiền định liên tiếp nhau, là sơ thiền định, nhị thiền định, tam thiền định, tứ thiền định, không vô biên xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, phi tưởng phi phi tưởng định, diệt tận định.] Thiền định tiếng Phạn gọi là Dhyana, làm cho tâm định lại, làm cho tâm tập trung không phân tán. Chỉ khi tâm không tạp nhiễm thì người tu hành mới có thể tiến một bước vào trong tam muội thậm thâm, từ đó đạt được chứng ngộ. Thiền định cửu thứ đệ chính là phương pháp tu hành mà tất cả Phật giáo Hiển Mật đều buộc phải có. Cửu thứ đệ mà tôi nói chính là: Sơ trụ, tục trụ, hồi trụ, cận trụ, phục trụ, tịch trục, tối tịch trụ, chuyên trụ, đẳng trụ. Pháp cửu thứ đệ này, xin mời tham khảo lời giảng của tôi tại Singapore, yêu cầu phải có công lực thiền định sâu, phải loại bỏ sự lười nhác, phải tinh tấn hành trì, phải loại bỏ hôn trầm (lỏng quá), phải loại bỏ trạo cử (căng quá). Tóm lại, tu hành giả đi vào cảnh giới cao nhất thì thân tâm hợp nhất, mềm mại, thoải mái, thư thái. Công lực thiền định sâu đến cảnh giới cao nhất thì tất cả có thể thành Phật. Trong thiền định, lúc trụ tại bản nguyên, tại bản nhiên, có thể kiến chứng Phật tính. Chỉ cần kiến chứng Phật tính, tất cả vọng niệm và phiền não tự nhiên đều có thể đoạn tuyệt. Tại đây tôi thực lòng nói cho mọi người hay: Trong thiền định có thể kiến chứng Phật tính. Khi công lực thiền định thâm sâu rồi thì thường xuyên thấy Phật tính. Thiền định lúc này là: Thiền - không bị quấy nhiễu từ bên ngoài. Định - tâm không tán loạn. Ý của tôi muốn nói rằng sau khi thấy Phật tính rồi, bạn thiền định nhanh hơn, trong một sát-na từ sơ trụ đến đẳng trụ, thậm chí không thiền định cũng là thiền định, từ đây trở đi lúc nào cũng thấy Phật tính. Sẽ không có chuyện: phải thiền định mới thấy - không thiền định thì không thấy. (Không có chuyện này.) Hành giả công lực thiền định sâu, nhất kiến vĩnh kiến, họ sẽ vĩnh viễn không bị tác động bên ngoài, vĩnh viễn tâm không tán loạn, mọi thời khắc đều kiến Phật tính. (Vì thế, bạn đã hiểu chưa?) Phật tính đương nhiên là bất sinh bất diệt, vô thủy vô chung (*), thường hằng, không thể kiểm tra. Người tu hành Mật giáo có thể kiến chứng. Người tu hành các giáo phái khác cũng có thể kiến chứng. Kiến chứng Phật tính, không phải nói khoác. Kiến chứng Phật tính, không phải lừa bịp. Kiến chứng Phật tính, không phải huyền bí. Kiến chứng Phật tính, không phải khoe mẽ. Bởi vì trong Mật giáo nhãn thức thông với luân xa tim, sẽ nhìn thấy cột sáng xanh lam, đây là chứng nghiệm rất hay. Do vậy, có hành giả tưởng mình kiến chứng thức thứ tám, ngày nào cũng nói anh ta đã kiến Phật tính. Phật tính chính là Như Lai tạng thức thứ tám, mở miệng thế này, ngậm miệng thế kia, nhưng nói tới nói lui thì chỉ là anh ta tự mình nói mà thôi. Ngược lại là anh ta chẳng kiến chứng cái gì cả, lại chỉ đi khắp nơi phê bình hành giả xưa và nay. Hành giả thế này thì gọi là: "Yểu thọ thôi!" Tôi nhập vào sâu trong thiền định, thiền định ở trong tay tôi giống như lấy quả quýt trên bàn, rất dễ dàng. Tôi kiến chứng Phật tính mọi lúc mọi nơi, bởi vì mọi lúc mọi nơi tôi đều ở trong thiền định. Tu luyện đến bây giờ thì cũng không còn vấn đề thiền định hay không thiền định nữa. Bạn đã hiểu chưa?
14. Thiền tông không có pháp quán đảnh
Hỏi: "Thiền tông không tu nhị quán, vậy thì Phật tính mà họ thực sự thấy là cái gì?" Tôi trả lời: Thiền tông không có pháp quán đảnh, pháp quán đảnh chỉ có Mật tông mới có, do vậy Thiền tông làm gì có nhị quán. Thiền tông không chỉ không có nhị quán, ngay cả sơ quán, tam quán, tứ quán đều không có. Nhưng, tôi đã từng nói rồi, pháp Đại Viên Mãn của Thiền tông và Mật tông cực kì giống nhau, không chỉ giống nhau mà còn có thể nói là đồng đẳng. Việc này có nguyên nhân như sau: Năm đó, công chúa Văn Thành vào Tây Tạng, đồng thời đưa Phật giáo Thiền tông Trung Thổ vào Tây Tạng. Đạt Ma Sư Tổ lúc đi về phương Tây, truyền thuyết nói rằng trên đường đi qua Tây Tạng, ngài đã truyền Cổ Lí Tát Pháp (Thiền tông), dùng khẩu truyền bí mật cũng như thực tu Bát nhã pháp môn, sáng lập Hy Giác phái, đệ tử thành tựu rất nhiều. Việc này tạo ra rất nhiều ảnh hưởng đến Mật tông Tây Tạng. Một trong những Sư Tổ của pháp Đại Viên Mãn của dòng mũ đỏ Mật tông Tây Tạng, ngài Sri Sinha, là người nhà Đường. Thời kì nhà Đường là giai đoạn hưng thịnh nhất của Thiền tông, do vậy mà Thiền tông và pháp Đại Viên Mãn hòa nhập với nhau. Vào thế kỉ thứ 8, đại thiền sư Mahayana của triều Đường và rất nhiều thiền sư đã đi Tây Tạng truyền pháp. Họ luận biện với Mật giáo Tây Tạng trong thời gian 3 năm, kết quả là Liên Hoa giới của Mật giáo đại thắng, Thiền tông mới rút khỏi Tây Tạng. Nhưng Thiền tông từ lâu đã xác lập gốc rễ rồi. Thiền tông và pháp Đại Viên Mãn của Mật giáo Tây Tạng giống nhau như sau: Thiền - bản lai vô nhất vật. Pháp Đại Viên Mãn - bản nhiên thanh tịnh. Thiền - thực tiễn thực tu. Pháp Đại Viên Mãn - thực tu nhất thiết gia hành. Thiền - minh tâm kiến tính. Pháp Đại Viên Mãn - minh tâm kiến tính. (Cả hai đều tu Đốn ngộ.) Cá nhân tôi nhận thấy thế này. Thiền tông mặc dù không phân rõ thứ tự pháp quán đảnh, cũng như không chỉ ra tu khí, tu mạch, tu minh điểm, và không nói gì đặc biệt đến quá trình tu hành nội pháp, nhưng muốn đạt đến được: Thiền - không bị ngoại cảnh tác động. Định - tâm không động loạn. thì thực tế là Mật giáo nhập tam muội cũng chính là mục tiêu của Thiền tông, mục tiêu này là giống nhau. Thiền tông cũng dựa vào các phương pháp khác nhau để đạt được nguyên tắc chính, đó là nhập vào tam muội (thiền định). Không có hành trì nhị quán khí, mạch, minh điểm. Tuy nhiên, tôi xem Dịch Cân Kinh, Tẩy Tủy Kinh của Đạt Ma Sư Tổ thì phát hiện ra đây chẳng phải chính là "nội pháp" sao? Biểu hiện bên ngoài thì là dùng các chất liệu khác, nhưng trên thực tế thì có nhiều đặc tính liên quan đến khí, mạch, minh điểm. Thiền tông khai ngộ minh tâm. Mật giáo Đại Viên Mãn thì cắt bỏ toàn bộ. Đều giống nhau cả. Dịch Cân, Tẩy Tủy của Thiền tông. Khí, mạch, minh điểm của Mật giáo. Đều giống nhau cả. (Tu pháp không nhất định là phải giống hệt nhau, nhưng kiến chứng Phật tính thì là giống nhau.) Tôi thực lòng nói cho mọi người hay, minh tâm kiến tính của Mật tông Tây Tạng và minh tâm kiến tính của Thiền tông chính là một, không hề khác biệt. Phật tính căn bản là không hề có hai, chỉ có một Phật tính duy nhất. Theo như tôi biết, có một bộ phận thiền sư sau khi khai ngộ minh tâm thì không tiếp tục thực tu kiến chứng phật tính nữa. Họ cho rằng minh tâm chính là kiến tính, kiến tính chính là minh tâm. Có nhiều người vẫn bám vào quan điểm này. Việc này rất đáng để thảo luận. Cá nhân tôi cho rằng: Minh tâm - là kiến đạo. (thấy được con đường) Kiến tính - là cứu cánh. (đích đến cuối cùng) Kiến tính này phải cần thực tu nhị quán, tam quán mới có thể đạt đến tứ quán Đại Viên Mãn. Cách giảng giải này của tôi rốt cục có đúng không? Xin kính hỏi các vị đại đạo sư Thiền tông ngày nay? Phương diện này hiện vẫn còn bị tranh cãi rất nhiều!
15. Sau niết bàn sẽ đi về đâu?
Hỏi: "Thiền Tông không tu nhị quán, như vậy thì không có cách nào thành tựu huyễn thân. Vậy thì họ sau khi nhập niết bàn sẽ đi về đâu?" Tôi trả lời: Trước tiên chúng ta hãy nói một chút về huyễn thân nhé! Mật giáo tu huyễn thân, có pháp Chú Kính (đúc gương). Hành giả ngồi yên, trên bức tường trước mặt có một tấm gương lớn. Phía trên tấm gương có hình bổn tôn của mình, kích thước gần tương tự như chính mình. Hành giả soi gương thấy chính mình ngồi trong gương, và thẳng trên đầu mình ở trong gương có bổn tôn của mình đang ngồi trên. Kết quả là sẽ sinh ra: Có một ta ở ngoài gương. Có một ta ở trong gương. Ta ở trong gương đội trên đầu bổn tôn của ta. Ở đây có một bí quyết thành công, đó là quần áo mặc trên người hành giả từ đầu đến chân đều rất giống bổn tôn. Như vậy sẽ quán chiếu lẫn nhau. Mặt của ta trở thành mặt của bổn tôn. Thân của ta trở thành thân của bổn tôn. Tay chân của ta trở thành tay chân của bổn tôn. Mũ của ta trở thành mũ của bổn tôn. Pháp khí của ta trở thành pháp khí của bổn tôn. Ta và bổn tôn dung hòa làm một với nhau, nhập bổn tôn tam muội. Cứ thường xuyên tu luyện như vậy một thời gian dài, kết quả là hình tướng bổn tôn trên đỉnh đầu, hành giả ở trong gương, hành giả ở ngoài gương, ba người hòa nhập vào nhau, không còn phân biệt. Do đó từ trong thiền định xuất ra huyễn thân. Huyễn thân này là sự kết hợp của ba thân từ trong gương bay ra. Huyễn thân cũng giống như bổn tôn, có thể du hành đến mười phương Phật quốc tịnh độ, nghe Như Lai giảng kinh thuyết pháp. Thành tựu được huyễn thân thì cũng có thể đến được tịnh độ, có được thần thông. Giống như hóa thân bên ngoài thân, huyễn thân không phải là thân thể vật chất, mà là thân do ý sinh ra, có thể tự do nhậm vận ý sinh ra thân. Chúng ta lại nói về Thiền tông. Thiền tông không có nghi thức nhị quán nhưng trong tu hành, trong nhập định, hành giả thiền định có công lực sâu vẫn có thể tự tâm đạt được huyễn thân. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, Thiền tông không có quán đảnh, nhưng cũng có nhập tam ma địa. Thiền pháp minh tâm khai ngộ. Nhập thiền định kiến chứng Phật tính. Ở đây vẫn xuất hiện huyễn thân giống như nói ở trên, cho dù không có tu huyễn thân hoặc thiên sắc thân một cách tỉ mỉ nhưng ở đây sẽ tự nhiên tự hiện. Do vậy chúng ta không thể nói là: "Thiền tông không có huyễn thân!" Trong Mật giáo, nếu bạn không tu pháp Chú Kính (đúc gương) nhưng giả sử hành giả tại tâm giới của trung mạch quán tưởng bổn tôn của chính mình ở tâm giới trung mạch một cách cực kì rõ ràng đến từng chi tiết. Trì chú, quán tưởng, kết ấn đều như vậy (nghĩa là cực kì rõ ràng chi tiết), tu luyện qua thời gian dài, thì bổn tôn ở trung mạch cũng sẽ tự trở thành huyễn thân, đây cũng là thân sinh ra từ ý. Ý của tôi muốn nói rằng: Thiền tông không có tứ quán đảnh, nhưng nhập tam ma địa là không khác biệt. Chỉ cần nhập tam ma địa thì cũng thành được huyễn thân giống như vậy. Tam ma địa là thành tựu chung của mọi tông mọi phái trong Phật giáo.
Tôi có thể nói thế này, ai ai cũng có Phật tính, ai ai cũng có huyễn thân như nhau. Huyễn thân này là cái gì thì không lời nào có thể mô tả được. Rốt cuộc câu hỏi: "Sau niết bàn, đi về đâu?" Tôi xem câu hỏi thì cười. Đây gọi là: Hỏi ngớ ngẩn. Hỏi ngu ngốc. Hỏi dốt nát. Xin mời người đặt câu hỏi này đi hỏi người đã khai ngộ minh tâm đi. Không cần phải đến hỏi tôi. Người khai ngộ minh tâm biết là không hề có sự đối lập - mâu thuẫn. Xin hỏi, đi về đâu?
16. Linh hồn và huyễn thân có giống nhau không?
Hỏi: "Trung ấm, huyễn thân, linh thể, linh hồn có phải là giống nhau không?" Tôi trả lời: Nếu trung ấm, huyễn thân, linh thể, linh hồn là giống nhau, thế thì sao còn tu huyễn thân để làm gì? Nếu linh hồn và Phật tính đều giống nhau, thế thì chúng ta còn kiến chứng Phật tính để làm gì? Tôi khẳng định như sau: Trung ấm, linh thể, linh hồn, là nhiều cách gọi để chỉ cùng một thứ giống nhau. Huyễn thân thì không giống. Tôi lấy ví dụ để nói rõ như sau: Phàm phu và thánh nhân có giống nhau không? Phàm phu - là linh hồn. Thánh nhân - là huyễn thân. Bản thân phàm phu là thô tục, còn thánh nhân là hành giả đã giác ngộ có trí huệ. Đều là người, nhưng bởi vì một người chưa khai ngộ, một người đã khai ngộ, nên có sự khác biệt. Do vậy tôi nói: Linh hồn là thô. Huyễn thân là vi tế. Linh hồn là khí thô của ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Huyễn thân là phải thông qua quá trình tu trì, khí thô chuyển thành khí vi tế. Khí vi tế này có thể phát ra quang minh, thậm chí hóa thành ánh sáng cầu vồng, ánh sáng của Phật tính. Con người đều có Phật tính, nhưng Phật tính này ẩn giấu. Chỉ có thể thông qua nhậm vận tự tại, tu trì chính pháp Minh Không song vận, từ đó tất cả khí của ngũ uẩn sẽ hóa thành ánh sáng, ngay cả đến cơ thể vật chất cũng hóa thành ánh sáng, tu hành giả sẽ trở thành hồng quang đại thành tựu (thành tựu ánh sáng cầu vồng, nghĩa là thành tựu Phật tính). (*) Chúng ta cũng có thể nói như sau: Linh hồn được tịnh hóa chính là huyễn thân. Linh hồn là còn mang nghiệp chướng. Huyễn thân là do khí thanh tịnh cộng thêm Phật tính mà thành. Theo cách nói của Mật giáo thì là: ở giữa trung mạch, huyễn thân xếp hàng lần lượt, rồi huyễn thân lần lượt từ lỗ hở trên đỉnh đầu thoát ra, thì chính là hóa thân ở ngoài thân. Trên phương diện này, các vị tu hành giả vĩ đại các đời trước cũng đã từng giải thích. Ví dụ: Vàng nguyên chất được luyện từ quặng vàng. Quặng vàng là linh hồn. Vàng nguyên chất là huyễn thân. Lư Sư Tôn tôi vốn là kẻ mang thân phàm phu bình thường, nhưng nhờ có Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, có sư phụ hữu hình, có sư phụ "vô hình" dạy đạo, trải qua vô số lần mệt mỏi thất vọng vì bị phỉ báng, trải qua quá trình tu trì mỗi ngày không ngừng nghỉ, mới có thể khai ngộ minh tâm, kiến chứng được Phật tính. Do vậy mà có được đại trí huệ phổ chiếu. Tôi tu hành xuất ra được huyễn thân. Tôi cân bằng thân vi tế nhất. Huyễn thân này là tự do tự tại, có thần túc thông, có thể tự do du hành mười phương Phật quốc tịnh độ, có thể đến được Tứ Thánh giới. Có Tha tâm thông, có thể biết được suy nghĩ của đệ tử hoặc người khác. Có Túc mệnh thông, phá bỏ được quá khứ, hiện tại, vị lai, ba thời như một. Có Thiên nhĩ thông, có thể nghe Phật pháp của mười phương pháp giới. Có Thiên nhãn thông, có thể nhìn thấy mười phương pháp giới. Có Lậu tận thông, diệt hết phiền não, diệt hết nghiệp chướng, tất cả mọi trí huệ đại viên mãn. Pháp giới thể tính trí. Đại viên kính trí. Bình đẳng tính trí. Diệu quán tra trí. Thành sở tác trí. Tôi viết cuốn sách "Đương Đại Pháp Vương Giải Đáp Nghi Hoặc" này là việc vô cùng cao thâm huyền diệu. Nếu không có một nền tảng hiểu biết nhất định thì đối với vấn đề huyễn thân và linh hồn sẽ rất khó mà hiểu được. Do vậy tôi đặt bút viết cũng phải cân nhắc suy nghĩ từng tầng lớp, phân tích từng tầng lớp, có như vậy mới có thể viết ra được những ý nghĩa tinh túy. Linh hồn và huyễn thân là một. Linh hồn và huyễn thân là hai. Đây chẳng phải là mâu thuẫn sao? Xin mời suy ngẫm thật kĩ!
17. Linh sống và khởi linh
Hỏi: "Có phải nhất định cần làm sống dậy linh hồn, tu pháp mới được tính là tiến được một bước đầu tiên?" Lại hỏi: "Có hành giả nói, năng lượng của bổn tôn làm sao có thể đủ để dung hợp với cơ thể vật lý của chúng ta để trở thành nhất thể được? Do vậy tự bản thân mỗi người nhất định phải làm sống dậy linh hồn của mình, linh thể của bản thân và linh thể của bổn tôn mới có thể hợp nhất. Nói như vậy có đúng không?" Tôi trả lời: Hai câu hỏi này có thể cùng trả lời được. Liên quan tới phần khởi linh, trong những cuốn sách thời kì ban đầu của tôi đều có thể tìm được câu trả lời, ví dụ như cuốn "Khởi linh học", là cuốn sách thời kì đầu tôi đã đề cập đến. Lần đầu tiên tôi quỳ trước Diêu Trì Kim Mẫu, hai tay chắp lại, tay tự động chuyển động, trong lòng tôi vô cùng kinh ngạc. Tiếp đó cơ thể tôi trước sau đều rung lắc, toàn thân đều có thể chuyển động. Lúc đó tôi gọi hiện tượng này là "linh hồn sống dậy rồi". Linh sống dậy này chính là hiện tượng khởi linh. Khởi linh có thể giúp trở nên linh động và khỏe mạnh, có rất nhiều bệnh do nhờ khởi linh mà tốt lên rất nhiều. Khởi linh có thể mượn việc linh thể hoạt động ở người lớn hoặc trẻ em, gật đầu, lắc đầu, chân tay,… để đoán được một số sự việc nào đó. Khởi linh có thể biết được bổn tôn nào hạ giáng bởi vì mỗi vị có một tư thế riêng biệt của từng vị. Sau khi khởi linh, một số người sẽ có hiện tượng "bị nhập", trở thành kê đồng, văn kê hoặc võ kê. Khởi linh cũng có thể khiến trở thành người thông linh. (Cảnh cáo: khởi linh cũng có thể gặp rủi ro, hoặc do quá nhạy cảm, hoặc do thể chất, hoặc do nghiệp chướng. Nếu như bị linh hồn cõi thấp nhập vào, trêu chọc, gây chướng ngại, thì cũng có khả năng bị tẩu hỏa nhập ma, dẫn tới hiện tượng tinh thần phân liệt và thất thường.) Tôi nhấn mạnh: Cần phải tự chủ được. Không được để bị linh hồn khống chế. Theo tôi được biết: Ấn Thuận đạo sư cho rằng hiện tượng khởi linh là một trong mười kiểu hiện tượng của thiền định. Mười kiểu hiện tượng của thiền định, bao gồm cảm giác kiến bò, ngứa ngáy, mát mẻ, ấm áp… Linh hồn hoạt động là một trong mười kiểu hiện tượng thiền định đó, tinh thần thống nhất tập trung, một số người sẽ gặp hiện tượng như vậy. Trung Quốc đại lục thì xem việc khởi linh là một kiểu pháp công, cũng chính là tự phát công. Người tu hành thông thường thì xem việc khởi linh giống như chuyển động khí ở con người, có nghĩa là khí đi đến đâu thì nơi đó sẽ động. Còn đối với việc: "Khởi linh là bước đầu tiên của tu pháp", thì tôi nhận thấy là: mỗi người một ý. Tôi hỏi lại: "Lẽ nào người không biết khởi linh thì vĩnh viễn không thể tu pháp? Không thể đi được bước đầu tiên? Bởi vì rất nhiều người không khởi linh được! Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không hề nhấn mạnh là buộc phải khởi linh." Đối với câu hỏi thứ hai, tôi cũng nhận thấy: mỗi người một ý. Trong Mật giáo mà nói chúng ta nhấn mạnh từ tam nghiệp chuyển thành tam mật thì có thể cùng với bổn tôn hợp nhất. Thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, thì có thể cùng bổn tôn hợp nhất. (Đây là hợp nhất cùng với thần linh cõi trên.) Còn như vị hành giả kia nói trước tiên phải làm cho linh hoạt động mới có thể hợp nhất cùng linh thể của bổn tôn, thì đây là hợp nhất cùng linh cõi thấp. Chúng ta nhấn mạnh thân, khẩu, ý thanh tịnh hợp nhất. Không phải hợp nhất với linh hồn sống. Rất nhiều hành giả không nhất định phải biết khởi linh, làm sao để họ để hợp nhất với linh sống? Nếu thân khẩu ý không thanh tịnh thì có thể hợp nhất với linh của cõi cao được không? Chỉ có thể hợp nhất với linh hồn của động vật mà thôi, sẽ chỉ gặp rắc rối chứ chẳng thể có lợi ích gì. Các đệ tử, hãy cẩn thận! Cẩn thận!
18. Người khai ngộ không có tham sân si?
Hỏi: "Sư Tôn (Lư Sư Tôn) từng khai thị có nói người khai ngộ thì không còn tham sân si, vì sao khi Lư Sư Tôn về Đài Loan lại nói Lư Sư Tôn có tập khí cần sửa đổi? Người đã khai ngộ chẳng phải là không còn tham sân si sao?" Tôi trả lời: Câu hỏi này tôi vừa đọc liền cười lớn ba tiếng: Ha! Ha! Ha! Thật là buồn cười đến chết mất! Người hỏi câu hỏi này quả thực quá ngu ngốc, thực sự quá "con lừa", thật là không hiểu gì lại tỏ vẻ hiểu biết! Trước tiên tôi giải thích đơn giản là: Tu hành phân ra làm năm giai đoạn: tư lương đạo, gia hành đạo, kiến đạo, tu đạo, chứng đạo. Kiến đạo ở đây chính là khai ngộ, sau khi khai ngộ thì "khai ngộ khởi tu" (hiểu rồi thì mới bắt đầu tu), cũng chính là sau khi khai ngộ thì mới có được tu đạo, chúng ta gọi là "bảo hộ khai ngộ vững chắc". Cũng có thể nói là "bảo hộ vững chắc cái ta đã đạt được". Tôi nói: Người khai ngộ không có tham sân si, câu nói này là nói thẳng thắn, nói sự thật, bởi vì một khi đã khai ngộ thì sẽ hiểu được: Vô sở đắc - tham cái gì? Vô sở vị - sân cái gì? Vô sở trụ - si cái gì? Bởi vì vô ngã thì sao còn có tham, sân, si? Thế nhưng: Tôi lại nói Lư Sư Tôn có tập khí (*) cần sửa đổi, việc này là đối với tất cả những người khai ngộ, chỉ ra rằng cần: "Bảo hộ khai ngộ vững chắc." Tôi nói như vậy, bạn đã hiểu chưa? Tôi nói như vậy, bạn có thể hiểu được không? Tôi nói như vậy, rốt cục bạn hiểu hay không hiểu? Nếu như vẫn chưa hiểu, coi như đập đầu mà chết cho xong! Mặc dù hành giả thu thập tư lương của cõi trên, đã trải qua rất nhiều công phu gia hành, được Căn bản Thượng sư chỉ dẫn và khai sáng các pháp, đến cuối cùng hành giả đã khai ngộ minh tâm, nhưng khai ngộ minh tâm chỉ là một sự việc trong nháy mắt. Những gì mà hành giả khai ngộ được vẫn chưa được tu luyện vững chắc, cũng có nghĩa là chưa đạt được điểm đến cuối cùng thực sự. Mặc dù biết rõ rằng: Vô sở đắc. Vô sở trụ. Vô sở vị. Nhưng tập khí vẫn còn, lúc này phải bắt đầu tu đạo, đây chính là bảo hộ vững chắc sự khai ngộ của bản thân, thực sự đạt đến vô sở đắc, vô sở trụ, vô sở vị. Củng cố tu trì sự khai ngộ của bản thân, không bị tập khí đánh bại. Cần biết rằng ở đây chúng ta có một phép ẩn dụ: Tập khí - là con ngựa hung hăng. Khai ngộ - là sợi dây thừng. Hành giả - là kị sĩ. Sư Tổ nói: "Người khai ngộ giống như kị sĩ cưỡi trên lưng con ngựa hung hăng, nhờ sợi dây thừng mà khống chế ngựa dữ, điều phục ngựa để ngựa không đi phạm vào đồng ruộng." Tôi nói: "Hành giả khai ngộ cần phải giữ chắc được sự không tán loạn, lại cần phải giữ chắc nhậm vận, không tán loạn là điểm quan trọng, điều phục được rồi thì lại cần phải nhậm vận được." Sư Tổ nói: "Việc này giống như mục đồng chăn cừu, để cho cừu tùy ý đi ăn cỏ (nhậm vận), nhưng phải để ý được cừu, không thể để cừu bị lạc mất (tán loạn). Phải làm được cả hai việc này mới được." Thực tế là sau khi khai ngộ mới bắt đầu tu hành. Người bình thường cần thời gian rất dài mới có thể đi đến tận cùng của vấn đề để chứng được đạo, chỉ có rất ít người có căn khí lớn, ngay khi khai ngộ thì đã bảo hộ được vững chắc kiên cố. Trong giác ngộ không có tham sân si. Người khai ngộ hiểu rõ. Nhưng tập khí cần hoàn toàn dựa vào sự điều phục!
19. Phân nước tiểu đều không thể rò rỉ?
Hỏi: "Lư Sư Tôn khai thị từng đề cập đến rằng trong cơ thể chúng ta tất cả các chất bài tiết ra, kể cả phân và nước tiểu, đều là minh điểm. Bởi vì là minh điểm, khi thành tựu pháp vô lậu, có phải là ngay cả đại tiện, tiểu tiện đều không thể bài tiết ra ngoài không?" [ND: Pháp vô lậu: pháp không rò rỉ ra ngoài.] Tôi trả lời: Trước tiên, chúng ta hãy hỏi người đặt câu hỏi trước, hãy thử trước xem là đại tiện, tiểu tiện mà không bài tiết ra ngoài. Xem thử xem: Tiểu tiện mà vô lậu (không bài tiết ra ngoài), liệu có tức bụng đến chết không! Đại tiện mà vô lậu (không bài tiết ra ngoài), liệu có trương bụng mà chết không! Nếu như không chết, chúng ta lại nói chuyện tiếp. Phân và nước tiểu đều không bài tiết ra ngoài, thế rồi sao? Trong pháp minh điểm của Mật giáo, các vị sư tổ nói, tất cả mọi thứ trong cơ thể người đều là minh điểm. Minh điểm có thể được phân chia như sau: Địa đại minh điểm. Thủy đại minh điểm. Hỏa đại minh điểm. Phong đại minh điểm. Không đại minh điểm. Bất hoại minh điểm. (Lại phân chia thành: thanh tịnh minh điểm, bất hoại minh điểm, tâm minh điểm, trí huệ minh điểm, vật chất minh điểm.) Tu hành pháp minh điểm như sau: Đem tất cả những gì thuộc về vật chất minh điểm toàn bộ chuyển hóa hết, cho đến cuối cùng còn lại chính là chỉ có mỗi Phật tính bất hoại minh điểm (tâm minh điểm). (*) Còn lại "minh quang". Còn lại "trí huệ thanh tịnh". Ý của tôi muốn nói rằng: "Thành tựu cuối cùng của pháp minh điểm chính là ánh sáng của Phật tính, toàn bộ cơ thể vật chất xác thịt đều hóa thành ánh sáng, cũng chính là hóa thân cầu vồng. Thế nên, đại tiện, tiểu tiện, giữ lại để làm cái gì?" Đại tiện, tiểu tiện đều không bài tiết ra ngoài, hoàn toàn là điều vô lý!
"Vô lậu" được nói đến ở đây là "tinh, huyết" vô lậu. (Tinh huyết là khí minh điểm.) Do đó Mật giáo của chúng ta nói như sau: Nam tinh cạn thì chết. Nữ băng huyết thì chết. Nam phải giữ được tinh dịch minh điểm. Nữ phải giữ được huyết dịch minh điểm. Vì sao phải giữ cho tinh dịch minh điểm vô lậu? Bởi vì khi nâng chuyết hỏa lên sẽ chuyển hóa hết tinh dịch minh điểm, từ đó thành tựu trí huệ khí (trí huệ minh điểm). Đạo gia cũng nói: Tinh hóa thành khí, khí hóa thành thần, tinh khí thần là tam bảo của đạo gia. Nếu như mất tinh, khí cũng không còn, khí không còn thì thần quang cũng không xuất hiện nữa. Tam bảo của Mật giáo là khí, mạch, minh điểm. Nguồn của khí cũng giống như tinh. Do đó để cho khí, huyết vô lậu là điều kiện đầu tiên, sau đó mới lấy tinh hóa thành khí. Vận dụng khí và chuyết hỏa để thông trung mạch và bảy luân xa, giải phóng ra tâm minh điểm (bất hoại minh điểm). Cuối cùng, ánh sáng Phật tính xuất hiện. (đạt cứu cánh giác) Có ý kiến thế này: Khi tinh dịch chuyển hóa thành khí, khí này thông tất cả mọi kinh mạch, sẽ gắn với xương sọ và toàn bộ xương cốt trên cơ thể trở thành một thể kết tinh không thể bị phá vỡ (bất hoại), tinh thể kết tinh này chính là hạt xá lợi. Trên phương diện y học, tinh dịch của nam giới, kinh nguyệt của nữ giới đều là những chất bài tiết, khi đến kì thì nên xả ra, nếu cố ý không xả ra thì có thể bị bệnh. Nhưng Mật giáo và đạo giáo thì nói: Gốc vững chắc, là số một. Trả về nguyên bản, là số một. Trả về nguyên bản cũng là lấy tinh hóa thành khí. Cá nhân tôi cho rằng nếu vô lậu rồi thì cần tu pháp chuyết hỏa, dùng minh điểm không bị rò rỉ hóa thành khí, phân tán ra khắp thân, như vậy sẽ không có bệnh tật gì. Phân và nước tiểu không rò rỉ ra ngoài sao? Đi lo cho trứng của anh đi!
20. Tân Đầu Lư bị Phật Đà trách mắng
Hỏi: "Trong kinh Phật thường nhắc đến các đệ tử của Phật Đà đều có thể diễn hóa thần thông lên các vật thể thực, ví dụ như phi thiên độn thổ. Vì sao Lư Sư Tôn không thể hiện thần thông bay lên trời khiến cho con người trần gian càng tin tưởng hơn, nghìn lời nói không bằng một hành động." Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ như sau: Có một lần, một đám người chạy đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, trong đám người có một vị mang theo một cái túi. Tại một cái cây to bên ngoài nơi ở của Phật Đà, ông ta cầm chắc cái túi và trèo lên cây. Ông ta đứng ở trên cành cao nhất của cái cây, treo cái túi lên đó, sau đó thận trọng từng chút một leo xuống. Đám người này nói: "Đệ tử của Phật Đà đều có thần thông, chúng tôi hôm nay đến để muốn xem thần thông, có vị tôn giả nào biểu diễn thần thông cho chúng tôi xem, xin mời vị tôn giả nào thử xem!" Các đệ tử của Phật Đà vẫn ngồi im lặng. Chỉ có tôn giả Tân Đầu Lư đứng dậy, đi đến bên dưới cây to, ngước đầu nhìn lên cái túi treo trên cành cây. Mọi người hò hét: "Bay lên lấy cái túi đi!" Tôn giả Tân Đầu Lư không kìm nén nổi, nhẹ nhàng bay lên, càng bay càng cao, dùng động tác đẹp đẽ nhất với lấy cái túi, sau đó nhẹ nhàng bay xuống đứng trên mặt đất. Đám người vỗ tay như sấm. Tôn giả Tân Đầu Lư tự hào mãn nguyện quay trở về tịnh xá của mình. Đám người tản đi. Phật Thích Ca Mâu Ni biết chuyện, gọi tôn giả Tân Đầu Lư đến mắng cho một trận. Phật Đà nói: "Thị phạm tồi tệ nhất." "Bóp méo kết quả của việc tu hành." "Thần thông không phải là cái đích cuối cùng." "Tà ma ngoại đạo." "Không phải trò trẻ con!" "Không thể ứng dụng bừa bãi." Cuối cùng, lời mắng nặng nề nhất là: Tân Đầu Lư vĩnh viễn ở tại nhân gian, bị phạt tại nhân gian, không thể đến được tứ thánh giới, không thể đến thiên giới, vĩnh viễn bị phạt ở tại nhân gian. Đây là sự trừng phạt rất nặng nề. Cho đến ngày nay: Mỗi khi có trai tăng đại hội, là lễ hội ăn chay cúng dường tăng nhân, thì vị trí đứng đầu nhất định phải có một chỗ trống. Bởi vì chỗ trống đó là vị trí của Tân Đầu Lư. Còn nữa: Trong số các đệ tử của Phật Đà, tôn giả Mục Kiền Liên thần thông là số một, nhưng rồi cũng thua nghiệp lực, bị ngoại đạo đánh cho tan xương nát thịt. Trong số các đệ tử của Phật Đà, Đề Bà Đạt Đa tu thần thông, Đề Bà Đạt Đa có sức mạnh thần thông rất lớn. Phật có 32 tướng tốt, Đề Bà Đạt Đa có 30 tướng. Phật có 80 vẻ đẹp, Đề Bà Đạt Đa có 70 vẻ đẹp. Thần thông của Phật và của Đề Bà Đạt Đa có sự khác biệt rất nhỏ. Rốt cục: Tôn giả Đề Bà Đạt Đa vẫn phản bội Phật Thích Ca Mâu Ni, phá hoại Phật giáo tăng đoàn, khiến tăng đoàn phân rẽ, lấy đi rất nhiều rất nhiều đệ tử của Phật Đà. Đề Bà Đạt Đa tu thần thông, vẫn phản bội Phật giáo, tham lam cúng dường, đương nhiên cuối cùng cũng đọa địa ngục. Hôm nay tôi thực lòng nói cho mọi người hay: Tà ma có đại thần thông. Ngoại đạo có đại thần thông. Thần minh có đại thần thông. Quỷ vương có đại thần thông. … Xin hỏi "Nếu bạn biểu diễn thần thông giỏi, có thể khiến người khác khởi lòng tin, nhưng có thể chứng minh được điều gì?" Do vậy, chúng ta chỉ có thể "mặc vận" thần thông, xin chú ý hai chữ "mặc vận". [ND: Mặc vận: im lặng mà dùng, dùng âm thầm không cần phải thể hiện ra ngoài.]
21. Hoa cỏ cũng thành Phật!
Hỏi: "Phật Đà từng nói tất cả mọi chúng sinh hữu tình đều có thể thành Phật, vậy thì tất cả hoa cỏ chẳng phải là chúng sinh hữu tình sao? Nếu đúng thế thì hoa cỏ cũng có thể thành Phật. Nếu không phải thế, vì sao vẫn nói sông núi đại địa cỏ cây đều có Phật tính?" Tôi trả lời: Ngày nay, Phật điển nói "lục đạo chúng sinh" là nói đến: Thiên đạo. Nhân đạo. A tu la đạo. Địa ngục đạo. Ngạ quỷ đạo. Súc sinh đạo. Tuy nhiên, các học giả Phật giáo ngày nay đề nghị cần đưa thêm hai đạo nữa là: Thực vật đạo - hoa cỏ. Khoáng vật đạo - sông núi đại địa. Vì sao lại như vậy? Bởi vì căn cứ vào các thí nghiệm của các nhà sinh vật học, họ đã gắn lên hoa cỏ một thiết bị đặc biệt. Khi bạn hái một bông hoa, hoặc chặt đứt một cành cây, hoặc hái xuống một cái lá, cây, hoa, cỏ… đều có phản ứng đau. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu khoáng vật cũng phát hiện, bất kì loại khoáng vật nào trên trái đất đều có tồn tại từ trường. Rất rõ ràng nó không chỉ là một loại vật chất tồn tại, mà nó còn sống. Người xưa nói: Cỏ cây đá sỏi vô tình. Người nay nói: Cỏ cây đá sỏi hữu tình. Bởi vậy, "lục đạo chúng sinh" cần đổi tên thành "bát đạo chúng sinh" rồi! Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Nhất khẩu thanh tịnh thủy Bát vạn tứ thiên trùng Như quả bất trì chú Như đồng sát chúng sinh. Dịch thơ: Uống một ngụm nước sạch Tám vạn bốn nghìn trùng (vi trùng, vi khuẩn) Nếu như không trì chú Khác nào giết chúng sinh. Vậy thì rõ ràng là tất cả thực vật là chúng sinh hữu tình, tất cả khoáng vật cũng là chúng sinh hữu tình. Bởi vì như vậy nên đối với tất cả những người ăn chay mà nói thì bản thân việc ăn chay cũng mất đi ý nghĩa rồi. Cá nhân tôi trên phương diện chay mặn giữ quan điểm là: 1. Siêu độ. 2. Cúng dường. 3. Dưỡng sinh. 4. Tu hành. Quan trọng nhất là núi sông đại địa, cỏ cây hoa lá, chim muông cầm thú, tất cả đều trở thành việc thực hành tu tập của hành giả. Hành giả cần phát bồ đề tâm, siêu độ cho chúng, cũng dường Phật Bồ Tát của mười phương ba cõi. Vậy thì hoa cỏ khoáng vật có thể thành Phật được không? Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, lúc tôi thấy Phật tính, tôi phát hiện thấy: Tôi nhìn bức tường, tường không ngờ cũng có Phật tính. Tôi nhìn hòn đá, hòn đá không ngờ cũng có Phật tính. Tôi nhìn cây cỏ, cây cỏ không ngờ cũng có Phật tính. Tôi nhìn hoa hồng, hoa hồng không ngờ cũng có Phật tính. Tôi nhìn cỏ dại, cỏ dại không ngờ cũng có Phật tính. Trời ạ! Núi sông đại địa, hoa cỏ cây cối, đều có Phật tính! Bởi vậy tôi nói: "Tất cả những gì tôi nhìn thấy đều có thể thành Phật!" Tôi là một hành giả đã minh tâm kiến tính. Tôi tin rằng tất cả những hành giả đã minh tâm kiến tính đều hiểu được câu nói của tôi. Và sẽ không nói rằng Lư Sư Tôn đã bị thần kinh rồi, phải "vào trại" rồi! Hoa cỏ sỏi đá đều là chúng sinh hữu tình. Hoa cỏ sỏi đá đều có Phật tính. Hoa cỏ sỏi đá đều có thể thành Phật. Nam mô Hoa Vương Phật! Nam mô Thạch Đầu Phật! Nam mô Dã Thảo Phật! Nam mô Sơn Vương Phật! Nam mô Hà Thánh Phật! Nam mô Đại Địa Phật!
22. Phúc phận và béo phì
Hỏi: "Có phải là người tu hành có phúc phận (vận may) thông thường đều có chút mập mạp không? Vậy thì như Thượng sư Liên Minh khá mảnh mai, có phải là không có phúc phận nhiều như vậy không?" Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ để giải thích. Ngày xưa khi Phật Đà trụ thế, hai vị đại đệ tử của Phật, một người là tôn giả Đại Ca Diếp, người kia là tôn giả Anan, hai vị này là đại A La Hán. Trong Đại Hùng Bảo Điện của chùa miếu hai vị được sắp xếp đứng hai bên Phật Đà. (Tương tự như vị trí thị giả của Phật.) Tôn giả Đại Ca Diếp được gọi là Đầu Đà đệ nhất. [ND: Đầu Đà: hạnh đầu đà, còn gọi là khổ hạnh, Đại Ca Diếp là vị rất giỏi giữ giới theo con đường khổ hạnh.] Tôn giả Anan được gọi là Đa Văn đệ nhất. [ND: Đa Văn: tôn giả Anan là người có trí nhớ siêu phàm, có thể nhớ được mọi lời giảng của Phật, được Đức Phật và thánh chúng suy tôn là vị Đa Văn đệ nhất.] Tôn giả Đại Ca Diếp mỗi lần cầm bình bát đi ra ngoài khất thực thường tìm đến những nhà nghèo nhất. Mà đồ cúng dường của nhà nghèo thì ít, hơn nữa đồ ăn cũng chẳng ngon lành gì, chỉ là vài món ăn thô đơn giản. Do vậy tôn giả Đại Ca Diếp rất gầy gò! Còn tôn giả Anan mỗi lần cầm bình bát đi ra ngoài khất thực thường tìm đến những nhà giàu, cúng dường của nhà giàu thì nhiều, đồ ăn phong phú, hương vị hấp dẫn. Do vậy tôn giả Anan rất béo khỏe! Đại Ca Diếp thích khổ hạnh, ngài sống ở rừng vứt xác bên dưới một cây to, hang đá, sống khổ hạnh. A Nan theo Phật Đà, nhận cúng dường, sống ở Trúc Lâm tịnh xá, có vườn riêng, là dinh thự lớn vào thời đó. Đại Ca Diếp xin thức ăn của người nghèo, ngài nói rằng: người nghèo đã rất nghèo rồi, lại xin thức ăn của họ là để sau đó ban thêm phúc cho họ, để tăng thêm phúc phận của họ đó! Còn Anan lại cho rằng xin thức ăn của người giàu, người giàu thì có rất nhiều đồ ăn ngon, sẽ không làm tăng thêm gánh nặng cho người giàu. Cả hai vị đều có lý. Nói như vậy thì xem ra tôn giả Anan tương đối có phúc phận, tôn giả Đại Ca Diếp có vẻ không có phúc phận. Thực tế không phải như vậy. Việc tu hành của Đại Ca Diếp thì ai ai cũng thấy rõ ràng, thành tựu của ngài là giỏi nhất, cao nhất. Ngài: Minh tâm kiến tính đầu tiên. Đạt thành tựu đầu tiên. Chứng quả đầu tiên. Còn người được hưởng phúc phận là tôn giả Anan thì sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn rồi mà ngài vẫn chưa minh tâm kiến tính. Từ việc này chúng ta thấy rằng: Phúc báo ở nhân gian có thể trở thành chướng ngại tu hành. Xin hỏi: Phúc đức của tôn giả Đại Ca Diếp lớn, hay là phúc đức của tôn giả Anan lớn? Lục Tổ Huệ Năng đã phân biệt phúc và đức như sau: Phúc - chẳng có gì cả! Đức - tư lương trời cho! Người tu hành như chúng ta ngày nay, cần coi trọng cả phúc và đức, nếu như không thể có được cả hai thì có lẽ đức quan trọng hơn. Phúc của nhân gian làm sao sánh bằng phúc của cõi trời ban cho? Tôi nói: Người hỏi câu này không hiểu vấn đề, gầy béo với phúc phận thì có liên quan gì? Người hiện đại còn xem việc béo phì là việc cực xấu phải tránh. Béo phì có ba dạng: Bị phù. Nhiễm độc. Thể chất. Béo phì tuyệt đối không thể hiện phúc phận. Hơn nữa gầy gò cũng cũng chẳng phải là không có phúc phận. Mọi người hãy nhìn ông Vương Vĩnh Khánh (*) mà xem, cả đời ông ta đều gầy gò, nhìn giống như con khỉ, nhưng phúc báo nhân gian của ông ta chẳng phải rất lớn sao. Người gầy phúc báo lớn, có rất nhiều. Lấy chuyện gầy béo cho rằng phúc phận lớn, phúc phận nhỏ, việc này chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Lẽ nào những người phụ nữ có phúc phận lớn đều béo mầm hết hay sao? [ND: Vương Vĩnh Khánh: chủ tịch tập đoàn nhựa Formosa, được mệnh danh là thần tài của Đài Loan, với tổng tài sản là 6.8 tỉ USD vào năm 2008, là người giàu nhất Đài Loan.]
23. Vấn đề kết hôn của người đồng tính
Hỏi: "Nếu có người đồng tính tại pháp hội yêu cầu được ban phúc, Lư Sư Tôn có đồng ý không?" Lại hỏi: "Trong hệ thống Phật giáo, đồng tính được phân loại là phi khí tà dâm. Nhưng Phật pháp là bình đẳng, nếu họ sinh ra tự nhiên đã là người đồng tính rồi, họ có phạm vào giới phi khí tà dâm hay không?" [ND: Phi khí tà dâm: quan hệ tình dục không phải với phương tiện và cách thức tự nhiên và phù hợp như giữa nam và nữ thông thường.] Còn nữa: "Xin hỏi Lư Sư Tôn có phong cho người đồng tính làm Thượng sư không?" Tôi trả lời: Ngày xưa Phật Thích Ca Mâu Ni đã định ra "chính dâm" trong quy tắc Phật giáo rất nghiêm khắc. Hơn nữa "chính dâm" chỉ dành cho nam nữ cư sĩ tại gia, tỳ kheo và tỳ kheo ni xuất gia thì hoàn toàn nghiêm cấm chữ "dâm". Hệ thống quy tắc này là: Không đúng người - vợ chồng mới được. Không đúng lúc - buổi tối mới được. Không đúng chỗ - trên giường mới được. Không đúng dụng cụ - không thể dùng các dụng cụ dâm dục (các công cụ tăng thêm kích thích và sự vui thích). Nói một cách chặt chẽ hơn nữa là: Vào ngày Phật Bồ Tát thánh đản, ngày trai giới, gió to, mưa lớn, nhật thực, nguyệt thực… đều nằm trong những ngày bị cấm. Ở trong núi, trong nước, dưới ánh mặt trời, dưới ánh trăng, dưới ánh sao, dưới cây, trong hang động, trên mặt đất, trên ghế, trên bàn… đều nằm trong giới cấm. Ngoài ra trước Phật, sau lưng Phật, trước thần, sau lưng thần, đều nằm trong điều cấm. Ngoài vợ chồng ra thì tất cả đều cấm, động vật cũng không được. Không được dùng các công cụ giả, không được dùng miệng, không được dùng tay, tất cả các dụng cụ tình dục đều nghiêm cấm. (Thuốc cũng không được.) Búp bê bơm hơi cũng không được. Tóm lại, giới hạn của "chính dâm" đã nhiều như lông trâu, nói gì đến "tà dâm". Mọi điều đều tuyệt đối không thể. Thậm chí bạn không làm gì, chỉ suy nghĩ thôi cũng nằm trong các điều cấm, có nghĩa là ý niệm phạm vào dâm giới. Lại có người nói: Ngoại trừ tư thế chính đơn thuần ra, những tư thế khác đều nằm trong giới cấm. Tư thế chính ví dụ như "rồng lật". Ngoài ra còn có hổ bước, vượn leo, ngỗng bay, rùa ấp, cá uốn mình, thỏ gặm lông, thiên nga vòng cổ, lật trái phải. (Ở trên là chín tư thế của các vị Minh Phi, từ chín tư thế này mà biến tấu thành 18 tư thế, 36 tư thế, 72 tư thế…) Nhưng trong quy tắc Phật chỉ có thể dùng tư thế chính. Nếu như nghiêm khắc tuân thủ theo quy tắc Phật, có thể nói là chỉ một chút dục vọng cũng không được khởi lên. Ý của Phật Đà là: "Nói thẳng và thật chi tiết mọi quy tắc ra, thì ngay cả làm bạn cũng sẽ không muốn làm. Vì thế các quy tắc thế này rất nhiều!
Thế nhưng thời đại đã khác rồi, dựa vào lý luận "Phật tính" cũng phải xem số đông chúng sinh. Chúng sinh thì muôn hình muôn vẻ. Người đồng tính là kết quả của thời đại này, đứng trên lập trường của Phật tính, tôi cho rằng: Lư Sư Tôn sẽ ban phúc cho người đồng tính, chỉ cần có tình yêu thực sự, tất cả đều được. Người đồng tính chỉ có phi khí, cũng có nghĩa là đồng khí, tôi vẫn tán đồng, chỉ cần có tình yêu thực sự, tất cả đều được. [ND: Phi khí, đồng khí: người đồng tính thì không có sự khác biệt về cơ quan sinh dục, do đó họ không quan hệ tình dục theo cách tự nhiên thông thường, được phân loại là phạm giới tà dâm.] Người đồng tính có thể xuất gia, bởi vì chúng sinh hữu tình đều có Phật tính, tôi có thể xuống tóc cho họ. Người đồng tính mà đạo tâm vững chắc, vô cùng tinh tấn, nghi quỹ thuần thục, phát bồ đề tâm, xuất gia chứng quả, đương nhiên sẽ làm Kim cương A-xà-lê Thượng sư. Tôi cho rằng: Quy tắc Phật không nên bỏ, nhưng vào giai đoạn hoàn cảnh thời đại khác nhau thì có thể thay đổi được. Cái này gọi là "cùng giả biến, biến tắc thông". [ND: Cùng giả biến, biến tắc thông: Sự vật phát triển tới cực điểm, khi cùng tận, thì tất phải biến hóa, sau khi biến hóa liền thông đạt, nhờ thông đạt mà được dài lâu.] Lập trường của tôi là đứng từ bản chất chúng sinh đều có Phật tính. Người đồng tính cũng có Phật tính. Do vậy, khả thi!
24. Nói chuyện xuất gia hoàn tục (1)
Hỏi: "Mật giáo có một học thuyết rằng: xuất gia rồi lại hoàn tục thì 16 kiếp không thể thành tựu. Xin hỏi Lư Sư Tôn đối với học thuyết này có cái nhìn như thế nào?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi sẽ kể một chuyện hài nhé! Có người hỏi Tinh Vân đại sư: "Đối với người xuất gia hoàn tục, ông có suy nghĩ thế nào?" Tinh Vân đại sư đáp: "Cũng giống như dạy học rồi lại không dạy nữa thôi!" Tôi nghe xong, cười lớn ha ha ha. Vì sao tôi nói đây là chuyện hài, bởi vì chuyện xuất gia hoàn tục và dạy học rồi lại không dạy học nữa, trên nghĩa đế cơ bản, thì chẳng giống nhau chút nào. Xuất gia - có lời thề nguyện trong đó. Dạy học không dạy học - chẳng có lời thề nào. Xuất gia có tam muội, có lời thề với Phật, so với chuyện dạy học rồi không dạy học nữa thì khác nhau xa cả mười vạn tám nghìn dặm. Tinh Vân đại sư không ngờ lại không biết. Tôi nghĩ có lẽ Tinh Vân đại sư thích nói đùa, do vậy xem đây như chuyện cười nên không cần quá nghiêm túc. Trong quy tắc Phật giáo: Nam giới xuất gia, hoàn tục, lại xuất gia, lại hoàn tục, có thể lặp lại như vậy bảy lần. Nữ giới xuất gia, hoàn tục thì chỉ được một lần, vĩnh viễn không được phép xuất gia nữa. Nguyên nhân vì sao? Mọi người chắc chắn sẽ nói "trọng nam khinh nữ"! Nhưng đó là quy tắc nhà Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni là một vị giác ngộ đại trí huệ, chắc chắn trong việc này phải có nguyên nhân. Tóm lại, tại Ấn Độ cổ đại (Thiên Trúc), nữ giới muốn thành Phật thì trước tiên phải chuyển thành thân nam. Phật Đà ban đầu không muốn nữ giới xuất gia, nhưng bởi vì di mẫu của ngài hết sức yêu đạo và tôn giả Anan hết sức thỉnh cầu, Phật Đà mới động lòng nên đặc biệt thông qua quy tắc cho nữ giới xuất gia. Phật Đà trọng nam khinh nữ. Nguyên nhân là gì? Mọi người có thể tự nghiên cứu xem sao! Mật giáo nói xuất gia hoàn tục thì 16 kiếp không thành tựu? Theo quan sát của cá nhân tôi thì: Phá giới samaya. Phá thề nguyện. Phá giới xuất gia. Đây đều là những vấn đề nghiêm trọng, phát tâm xuất gia, nhưng sau đó giữ tâm không đủ lâu, lại muốn hoàn tục, không tiếp tục tu hành. Nếu như vĩnh viễn mê lầm trong đời sống thế tục, không chỉ 16 kiếp không thể thành tựu, cơ bản là ở trong lục đạo luân hồi, chuyển kiếp rồi lại chuyển kiếp, không thể giải thoát. Nếu như vì lý do đặc biệt quan trọng nên phải hoàn tục thì còn có thể tha thứ được, nhưng chuyện trong thiên hạ liệu có thể quan trọng hơn việc xuất gia tu hành được chăng? Ba việc quan trọng của Phật pháp: Xuất ly tâm - thoát khỏi sinh tử và chứng niết bàn. Bồ đề tâm - nguyện giúp chúng sinh lúc hoạn nạn, nguyện diệt trừ chúng sinh khỏi chướng ngại mê lầm, nguyện cắt đứt những tà kiến của chúng sinh, nguyện độ chúng sinh thoát khỏi vòng xoáy đau khổ. Trung quán chính kiến - thoát khỏi trí huệ sinh tử. Xuất gia là: "Thoát ly khỏi những phiền não của gia đình, cũng có nghĩa là thoát ly khỏi cuộc sống của gia đình, đi tu con đường thanh tịnh của thầy tu." Xuất thế trong thiền. "Tu quán bậc thứ ba, trước tiên từ Giả nhập Không, tiếp theo từ Không nhập Giả, sau đó thoát khỏi cả Không và Giả, nhập trung đạo nghĩa quán thứ nhất, đây gọi là xuất thế trong thiền." 16 kiếp không thành tựu bởi vì phá giới samaya, phá bỏ lời thề nguyện, phá giới, phải trải qua 16 kiếp chịu khổ: chịu khổ của búa rìu, khổ của lang sói, khổ của gươm đao, khổ của hàn băng, khổ của bùn đen, khổ của phân uế, khổ của đinh sắt, khổ của khát cháy, khổ của đói khát, khổ của chảo đồng, khổ bị đá nghiền, khổ của máu mủ, khổ của lửa thiêu, khổ của tro bụi, khổ của bi sắt. Sau khi trải qua 16 kiếp khổ này thì mới được chuyển kiếp làm người. Do vậy mới nói có cơ hội tu hành, lại xuất gia, tất cả đều phải trải qua nỗi đau khổ suốt 16 kiếp.
25. Nói chuyện xuất gia hoàn tục (2)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 27 có đoạn ghi chép: "Lúc này Thế Tôn nói với chư tỳ kheo: Nói về dục bình đẳng trong các A La Hán, phải nói đến tỳ kheo Tăng Ca Ma. Người có thể hàng phục quyến thuộc ma, cũng là tỳ kheo Tăng Ca Ma. Lý do vì sao? Vì tỳ kheo Tăng Ca Ma đã bảy lần hàng phục ma, nay mới thành đạo. Từ nay về sau cho phép được ra vào đạo bảy lần, vượt quá hạn mức này thì xem như phi pháp." (Xem Đại Chính Tạng, trang 702, quyển Hạ.) Hỏi: "Tỳ kheo ni sau khi hoàn tục thì không thể lại xuất gia thọ giới. Tỳ kheo sau khi hoàn tục, vẫn có thể lại xuất gia thọ giới, nhưng giới hạn là bảy lần. Xin hỏi Lư Sư Tôn đối với quy tắc Phật giáo này có cái nhìn như thế nào?" Hỏi: "Nếu Phật pháp là bình đẳng, vì sao còn có Bát Kính Pháp? Đây chẳng phải là đối đãi không bình đẳng giữa tỳ kheo ni và tỳ kheo sao?" [Bát Kính Pháp: tám điều cần phải cung kính.] Tôi trả lời: Trước tiên chúng ta hãy bàn luận về Bát kính pháp. Tỳ kheo ni 100 tuổi cũng phải quỳ dưới chân đảnh lễ tỳ kheo mới xuất gia. Không được mắng nhiếc, phỉ báng tỳ kheo. Tỳ kheo ni không được vượt lên trước tỳ kheo. Tỳ kheo ni muốn thọ giới Cụ túc, phải thông qua hai bộ tăng. (Đầu tiên là các pháp gốc trong bộ tăng ni, tiếp theo là cầu thỉnh tỳ kheo tăng cho thọ giới.) Tỳ kheo ni phạm tội tăng tàn (hủy hoại phá vỡ tăng đoàn), phải sám hối theo hai bộ tăng. Cứ nửa tháng phải thỉnh cầu tỳ kheo dạy về giới. Không được an cư kiết hạ cùng một nơi với tỳ kheo, cũng không được ở xa nơi an cư kiết hạ của tỳ kheo. (Bởi vì để tiện cho việc thỉnh cầu dạy giới.) An cư viên mãn xong, tỳ kheo ni phải tới tỳ kheo để trình bày ba việc: thấy gì, nghe gì, nghi ngờ gì. (Tự do luận tội.) (Trên đây là Bát kính pháp.)
Tôi nhớ có một chuyện như thế này. Ngài Dalai Lama đến Đài Loan hoằng pháp, một vị tỳ kheo ni rất nổi tiếng tên là Thích Chiêu Huệ đã hỏi ngài Dalai Lama. "Liệu ngài có dám trước mặt đại chúng phá bỏ hoàn toàn Bát kính pháp không?" Dalai Lama nói: "Phật Đà đã quy định, không dám phá bỏ." Thích Chiêu Huệ đương nhiên cho rằng Bát kính pháp mà Phật Đà đặt ra không hợp với việc nam nữ bình đẳng trong thời hiện đại. Nam tôn nữ ti của thời đại cũ đến lúc nên khai trừ rồi! Tuy nhiên, là bởi Phật Thích Ca Mâu Ni định ra, nên không ai dám phá bỏ. Tôi cho rằng: Cũng giống như việc: Tỳ kheo hoàn tục, có thể lại xuất gia, được như vậy bảy lần. Tỳ kheo ni hoàn tục thì không được xuất gia nữa. Lại còn có Bát kính pháp. Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni lại cần phải đặt ra quy định như vậy? Phật Thích Ca Mâu Ni chắc chắn là có lý do của ngài. Ở Ấn Độ (Thiên Trúc), vào thời Ấn Độ cổ đại, thực sự là nam tôn nữ ti. (Nguồn gốc là tập tục địa phương.)
Tôi kể một chuyện hài vậy! Có một anh chàng bị bạn gái "đá". Anh ta lớn tiếng chửi bới: "Phụ nữ là đại họa." "Lời của phụ nữ tuyệt đối không được nghe." (Gia huấn của Tokugawa Ieyasu: không nghe lời phụ nữ. Còn nữa: phụ nữ không được làm chính trị.) [ND: Tokugawa Ieyasu: Đức Xuyên Gia Khang, là một vị tướng quân nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản.] "Phụ nữ là thuốc độc." Không lâu sau, anh chàng này lại cặp kè với một cô bạn gái mới, vô cùng thân mật. Một người bạn hỏi anh ta: "Chẳng phải anh nói phụ nữ là thuốc độc sao? Vì sao lại ở cùng với thuốc độc?" Anh chàng đáp: "Nghĩ đi nghĩ lại, chết bởi thuốc độc vẫn tốt hơn!" Tôi viết câu chuyện cười này là có hàm ý. Bởi vì sức phá hoại của phụ nữ rất mạnh mẽ. Phụ nữ đương nhiên là có ưu điểm, điều này không thể phủ nhận. Nhưng tính chất phá hoại của phụ nữ vô cùng lớn. Trong đám hành giả mà có phụ nữ tham gia, hành giả nam thường không thể tu hành đạt thành tựu. Đây là việc khiến người ta lo ngại!
26. Truyền áo tổ cho Thượng sư Liên Ninh?
Hỏi: "Ngày 6 tháng 9 năm 2009, sau pháp hội Hộ Ma Diêu Trì Kim Mẫu, Lư Sư Tôn đưa ra một khai thị quan trọng trong quy tắc Phật giáo có liên quan đến Chân Phật Tông. Lư Sư Tôn nói, áo tổ cần được ban cho người trẻ, khoảng 45 tuổi trở xuống. Vì sao Thượng sư Liên Ninh đã hơn 45 tuổi rồi mà Sư Tôn vẫn ban cho ngài ấy áo tổ?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi kể một câu chuyện cười nhé! (*) Đàn ông 20 tuổi là "Pentium". (Hừng hực) Đàn ông 30 tuổi là "Hitachi". (Đều đặn) Đàn ông 40 tuổi là "Chính Đại". (Đỉnh cao) Đàn ông 50 tuổi là "Microsoft". (Mềm yếu) Đàn ông 60 tuổi là "Matsushita". (Buông lỏng) Đàn ông 70 tuổi là "Lenovo". (Chỉ còn nghĩ được thôi)
[ND: Trong ngoặc kép là tên các công ty nổi tiếng toàn cầu bằng tiếng Anh, nhưng tên của họ khi chuyển thể sang tiếng Trung / Đài thì có ý nghĩa hài hước như trong ngoặc đơn. Chuyện cười ám chỉ tới năng lực của cánh nam giới.. ] Kì thực đây cũng không được coi là chuyện cười, nói chung thì cũng gần như vậy, trừ khi là người có tài năng trời phú hoặc rèn luyện kĩ năng thì là ngoại lệ. Còn tôi, Lư Sư Tôn đương nhiên là một trong số những ngoại lệ. Trong sách có viết đàn ông 40 tuổi là Chính Đại, cũng còn có thể. Tôi lại kể một câu chuyện của sư tổ Thiền tông. Sư tổ Thiền tông, kiếp trước của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vốn là một đạo nhân đang bước vào tuổi già có tên là Tài Tùng. Ông đi tìm Tứ Tổ Đạo Tín để cầu pháp. Tứ Tổ Đạo Tín nói: "Ông đã đến tuổi già rồi! Truyền pháp cho ông, thời gian tại thế của ông không còn dài nữa, cũng không làm được gì. Chi bằng ông cứ chuyển thế đi, rồi lại đến cầu pháp, tôi sẽ truyền pháp cho ông nhé!" Đạo nhân Tài Tùng đi đến bờ suối, nhìn thấy một cô gái đang giặt quần áo, thấy cô gái thanh tịnh bèn hỏi: "Có thể ở nhờ không?" Cô gái đáp: "Có thể. Để về hỏi cha và anh trai." Đạo nhân Tài Tùng đã đầu thai vào làm cái thai trong người cô gái. Sau đó cô gái có thai (chưa kết hôn), bị các bậc cha chú trong nhà đuổi ra khỏi cửa, trở thành kẻ ăn mày, rồi sinh ra Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, hai mẹ con đều là ăn mày. Ngũ Tổ lúc 13 tuổi đã gặp lại Tứ Tổ Đạo Tín, đi theo ngài 30 năm, cuối cùng có được áo tổ, trở thành sư tổ của Thiền Tông. Tính ra tuổi của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lúc có được áo tổ thì chính là 43 tuổi. Tôi thường nói dưới 45 tuổi là bởi vì tuổi còn trẻ, thời gian hoằng dương Phật pháp sẽ còn dài, nếu như truyền pháp cho người sắp về già, thời gian trụ thế không còn lâu nữa, thì cũng không thể làm được việc gì. Giới Phật giáo thường lan truyền rằng: Quy y sư phụ cần quy y người khoảng 50 tuổi. Người trẻ quá thì thành tựu Phật học chưa đủ chín muồi. Người già quá thì thời gian có thể nương dựa vào sự trợ giúp của thầy không còn dài, cũng khó thành tựu. (Đương nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ.) Vào thời điểm năm 2010, tôi hoằng pháp tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, gặp Thượng sư Liên Ninh. Tôi hỏi: "Lúc ta đồng ý trao cho con áo tổ và trao truyền khai ngộ khẩu quyết cho con, con bao nhiêu tuổi?" Thượng sư Liên Ninh đáp: "Theo dương lịch là 44 tuổi." Tôi hỏi: "Năm 2010, con bao nhiêu tuổi?" Thượng sư Liên Ninh trả lời: "45 tuổi." Vậy là vừa đẹp rồi! Đâu đã vượt quá 45 tuổi? Cá nhân tôi nhận thấy: Thượng sư Liên Ninh theo bên cạnh Lư Sư Tôn lâu nhất, ngoài tính cách hơi vội vàng, thì các tập tính khác không có. Không tham tiền. Không tham sắc. Không tham danh vị. Con người này thành tựu Phật học đã đủ, đã đạt tới trên mức tam quán, khai ngộ minh tâm, kín đáo tu mật pháp nhiều năm, có được khẩu quyết của Lư Sư Tôn nhiều nhất. Tôi chỉ định ngài ấy là người kế nhiệm tông phái.
27. Đổi tên và đổi mệnh
Hỏi: "Đổi tên có thể thay đổi vận mệnh không? Nghe nói còn có thể đổi cả tên của kiếp trước, thực tế là có thể làm như vậy không?" Lại hỏi: "Bạn bè đổi tên, sau khi vãng sinh, mong muốn giúp anh ta in kinh sách, nên dùng tên nào?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để nói rõ: Ngày trước ở Đài Loan, việc đặt tên thường dựa trên hoàn cảnh gia đình và những yêu cầu liên quan lẫn nhau. Một số tên gọi như: Chiêu Đệ - trong nhà thường sinh con gái, lấy tên là Chiêu Đệ là để thu hút em trai đến, sinh được con trai. Thiêm Đinh - cũng có ý nghĩa rằng muốn sinh thêm con trai, ví dụ, tên nghĩa tặc nổi tiếng mang tên Liệu Thiêm Đinh. [ND:Liệu Thiêm Đinh (1883 - 1909): là một tên trộm hành nghề trộm vì nghĩa, với tư tưởng kháng Nhật, cướp của người giàu chia cho người nghèo, sau này đã trở thành một nhân vật anh hùng dân gian thường được kể ở Đài Loan.] Thiêm Tài - hy vọng có thêm phúc báo, thêm sản nghiệp lớn, chiêu tài tấn bảo. Tấn Thiêm - tên này có ý nghĩa là tăng ích, ví dụ như tác giả Chung Tấn Thiêm. Võng Thị - phát âm theo Đài ngữ cũng có nghĩa là "khó nuôi". Trước đây trẻ nhỏ thường hay chết yểu, nên cố tình lấy tên xấu là Võng Thị để có thêm may mắn, có thể nuôi đến lớn thành người. Võng Yêu - có nghĩa giống như Võng Thị. Kê Thỉ - tên này không đẹp, nhưng vì nó có ý nghĩa hạ tiện, vứt bỏ đi, thì kì vọng ngược lại sẽ được sống lâu trăm tuổi. … Những cái tên này mặc dù nghe có chút thô tục nhưng đã trở thành những cái tên "đổi mệnh", ngày trước người Đài Loan vẫn hay đặt, vẫn thường dùng. Tôi cho rằng: Danh tính học được dùng để đổi mệnh cũng có nguyên nhân của nó, nhưng tên họ ảnh hưởng đến vận mệnh chỉ chiếm một phần trong số đó thôi. Bát tự ảnh hưởng vận mệnh. Chòm sao ảnh hưởng vận mệnh. Nơi sinh ảnh hưởng vận mệnh. Tên họ ảnh hưởng vận mệnh. Hoàn cảnh ảnh hưởng vận mệnh. Phong thủy ảnh hưởng vận mệnh. Con giáp ảnh hưởng vận mệnh. Thiện ác ảnh hưởng vận mệnh. Chúng ta biết rằng trọng tâm của danh tính học có ba điểm: Tên chữ tính ra số tốt hay xấu. Âm thanh của tên tốt hay xấu. Ý nghĩa của tên tốt hay xấu. Danh tính học thực sự có ảnh hưởng đến vận mệnh của con người, nhưng phạm vi của tầm ảnh hưởng không thực sự mang tính toàn diện, cũng không phải là 100%, chỉ là một chút ảnh hưởng mà thôi. Tôi cho rằng, năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ phút sinh ra mới có ảnh hưởng lớn. Mục "Thiệu tử dịch số" trong cuốn sách "Thiết bản thần số" (*) của đại sư Thiệu Khang Tiết phân tích các mặt ảnh hưởng khác lớn hơn rất nhiều so với tên họ. Ngoài ra nhân quả báo ứng của thiện ác quả báo là có sức mạnh lớn nhất. Học cách lập mệnh trong tác phẩm "Liễu Phàm Tứ Huấn" (*) chính xác là nói đến sức mạnh ảnh hưởng vận mệnh tốt xấu do làm việc thiện ác. Còn đổi tên của kiếp trước à? Đương nhiên đây là trò lừa bịp của mấy người thông linh. Tiền kiếp vô tận, lẽ nào cũng đi đổi vô số tên? Số mệnh kiếp trước đã định rồi, đổi tên tiền kiếp thì có tác dụng gì? Đổi tên họ để in kinh sách, tôi cho rằng, cái tên nào dùng nhiều nhất lâu nhất thì dùng chính tên đó. Phật Thích Ca Mâu Ni không biểu thị sự tán đồng đối với chiêm tinh nhân tướng để luận bàn về vận mệnh, bởi vì người tu hành bám chấp vào việc chiêm tính tướng số quyết định số mệnh thì không phải là tìm kiếm bên trong, mà là tìm kiếm bên ngoài, về bản chất là học thuyết ngoại đạo. Phật Đà cho rằng: Tu hành tự có thể đổi mệnh. Tu hành và đạo kết hợp. Sức mạnh tu hành lớn hơn hết thảy mọi lực khác. Một hành giả Mật giáo tu luyện tiêu tai, tăng ích, hàng phục, kính ái, đây đều là những phương pháp nhập thế thay đổi vận mệnh, sức ảnh hưởng của chúng lớn hơn tất cả số mệnh. Do vậy, Phật Đà chỉ trích học thuyết về vận mệnh. Một người học Phật không cần quá tin vào vận mệnh, chỉ dùng để tham khảo mà thôi!
----------------- Thiết bản thần số: một loại thuật số của Trung Hoa, bắt nguồn tự sự nhận thức của cổ nhân đối với trời đất, nhân sinh và những thông tin liên quan đến sinh hoạt xã hội truyền thống. Liễu Phàm Tứ Huấn: một tác phẩm được viết bởi Viên Liễu Phàm vào khoảng năm 1550, đời nhà Minh ở Trung Quốc. Nội dung chính của tác phẩm khẳng định con người chưa đạt đến mức vô niệm, bị âm dương khí số trói buộc, do đó phụ thuộc theo số mạng, nhưng số mạng đó hoàn toàn có thể thay đổi được dựa vào hành vi của con người.
28. Sách thiện sách thiện sách thiện
Hỏi: "Loại sách thiện nào thì phù hợp với loại người vãng sinh nào?" Lại hỏi: "Nhiều người in sách thiện thì gửi đến các nhà chùa, nhưng trong chùa sách thiện chất đống ngày càng nhiều, hơn nữa cũng không có người cần đến, vậy phải làm sao? Có thể đốt để hủy không? Hay là nên làm như thế nào?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ. Lúc tôi ở Seattle nước Mỹ, có một người anh trai của một đệ tử thất nghiệp, không có việc làm, không chăm lo cho gia đình, thường say xỉn, kết giao với bạn xấu đi đến khuya chưa về nhà, thậm chí không về nhà luôn. Tôi dùng hết mọi pháp lực cũng không thể cứu vãn được cái tâm đã chìm đắm trong lối sống trụy lạc của anh trai anh ta, có thể nói là đã dùng hết tất cả mọi cách. Đọc kinh. Trì chú. Hộ Ma. Tu pháp. Thế thân. Sám hối. Cuối cùng chỉ còn cách in sách thiện, sách được in là "Ngọc lịch bảo sao", in sách thiện rồi hồi hướng cho anh trai của anh ta. Điều kỳ diệu là, sách vừa mới được in xong, thì ngay ngày hôm đó anh trai của anh ta đã tìm được công việc, không say xỉn nữa, không về nhà khuya nữa, bạn xấu tự động rời bỏ, anh ta lại chăm lo cho gia đình. "Ngọc lịch bảo sao" thần nghiệm dị thường! Ở đây tôi nói rõ: In kinh sách không chỉ để giúp cho người đã vãng sinh, trên thực tế, đối với tất cả chúng sinh hữu tình đều có lợi ích. Sách thiện mà tôi thường đọc gồm có: Ngọc Lịch Bảo Sao. Văn Xương Đế Quân âm chất văn. Khuyên thế văn. Khuyên đừng sát sinh. Kinh nhân quả ba kiếp. v.v. Ngoài ra cũng in một số kinh Phật như: Kinh Cao Vương Quan Thế Âm. Tâm Kinh. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyên. Kinh A Di Đà. Chân Phật Kinh. v.v. Cá nhân tôi cho rằng in ấn sách thiện là một việc âm dương đều có lợi, đều có lợi ích cả, không cần phân biệt là người vãng sinh như thế nào thì phải in ấn sách thiện nào. Chỉ cần là sách thiện thì đối với người chết hay người sống đều có lợi ích rất lớn. Tôi thích khuyên người ta in: Ngọc lịch bảo sao, Cao Vương Kinh… Việc in sách thiện này cũng cần xem nhân duyên của mỗi người. Tôi ở chùa quan sát các phòng lớn cũng nhìn thấy rất nhiều sách thiện chất chồng cao như núi, do để tồn trữ quá lâu, bụi phủ ố bẩn, sách rách thiếu trang, không có ai chú ý, nhìn mà thở dài tiếc thay. Tôi nghĩ: Không thể đốt bỏ. (Đó là những sách thiện dùng tiền để in ra, làm sao có thể tùy ý đem đốt bỏ là xong?) Sách cần được giao cho người có đúng chuyên môn xử lý, sắp xếp và phân loại. Sắp xếp lên giá, phủi sạch bụi bẩn, sách rách thiếu trang thì cần bổ sung, chỉ cần có người đúng chuyên môn phụ trách thì sẽ không khó để làm được việc này. Thực tế khi quá nhiều sách thì phân chia bớt ra, mỗi miếu thổ địa công đều để sách ở đó, càng nhiều điểm để sách càng tốt, giống như cửa hàng tiện lợi vậy, đó sẽ là thức ăn cho tâm linh, có ích cho xã hội và chúng sinh. Hoặc có thể phát tặng sách dọc đường, có thể độ được cho người có duyên, độ được thêm một người là tốt thêm một người, người tặng sách cũng được xem như là làm việc thiện. In sách thiện là một việc làm cực kì tốt lành, không thể coi thường, không thể xem nhẹ, đây là lời nói thật lòng của tôi.
29. Siêu độ của Phật pháp
Hỏi: "Bạn bè thân hữu vãng sinh, nhìn từ góc độ của Phật pháp, gia đình nên làm gì để giúp đỡ họ?" Lại hỏi: "Siêu độ là gì? Có tác dụng gì?" Tôi trả lời: Ở đây trước tiên chúng ta cùng nói về sự vô thường của thọ mệnh. Sau đó nói tiếp về cái chết và siêu độ. Tất cả sinh mệnh trên thế gian có sinh tất có tử, mà cái chết thì có thể xảy đến vào bất kì lúc nào, bất kì ở đâu. Chúng ta trải qua thời gian dài suy ngẫm sẽ thấy: Trái đất nơi chúng sinh đang sinh tồn cuối cùng cũng sẽ có ngày tận thế (bởi các vận động tạo núi). Các thành tựu giả vĩ đại trong lịch sử có Liên Hoa Sinh đại sĩ của dòng mũ đỏ (Cổ mật - Nyingma), ngài Karmapa của dòng mũ trắng (Kagyu), ngài Tsongkhapa của dòng mũ vàng (Gelug), ngài Sakya Pandita của dòng hoa giáo (Sakya). Trong lịch sử cũng có các đại hành giả như: Long Thọ, Virupa, Naropa, Marpa.. Từ lâu thân xác thịt của họ đã không tồn tại, chỉ còn pháp thân là có ở khắp mọi nơi, cái còn lại là một vài tiểu sử được ghi chép lại. Thế giới vật chất của thế gian cũng không phải là không biến đổi, biến hóa vô thường cũng chính là bản chất của nó. Từ trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà nói, đây đều là lục đạo luân hồi, luôn nằm trong sự biến hóa, hơn nữa có chết đi lại có sinh ra, lại chết đi, lại sinh ra. Làm vua trên trái đất, cho dù lực lượng quyền lực lớn cũng khó thoát khỏi cái chết, các vị quân vương nối tiếp nhau đều chỉ còn lại trong những ghi chép mà thôi. Cái chết này, chết, chết, chết, chết… Người đời không biết rằng: Chết lúc nào? Không biết. Chết nơi nào? Không biết. Chết thế nào? Không biết. Bất kì chúng sinh hữu tình nào trong số chúng ta đều đang đợi cái chết. Tôi Lư Sư Tôn biết, nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với cái chết sẽ biến thành động lực tu hành. Thượng sĩ - lập tức thành Phật. Trung sĩ - đến Phật quốc tịnh độ. Hạ sĩ - đến được cảnh giới tốt đẹp hơn. Để đối phó với cái chết, Phật pháp chính là nơi nương dựa của những người tu hành chúng ta. Chúng ta cũng biết Phật pháp có thể cứu độ chúng sinh. Người có thượng căn thì trực tiếp thành Phật, người có trung căn thì đến được tịnh thổ, người có hạ căn thì sinh vào cảnh giới tốt. Với thân hữu vãng sinh, người nhà có thể giúp họ như sau: Bỏ sát sinh, hãy phóng sinh. In sách thiện. Hướng dẫn thân trung ấm được độ. Mời Căn bản Thượng sư tiếp dẫn. Niệm kinh trì chú. Niệm Phật. Mời vị thành tựu giả đến siêu độ. Còn việc siêu độ có tác dụng gì? Tôi lấy một ví dụ: Tôn giả Mục Kiền Liên dựa vào năng lực thần thông mà đến được cõi ngạ quỷ, đi gặp được mẹ của ngài. Mẹ của ngài ở cõi ngạ quỷ bị đói khát vô cùng, Mục Kiền Liên đã lấy thức ăn ngon cúng dường cho mẹ, nhưng thức ăn vừa vào miệng thì hóa thành lửa thiêu đốt, đốt nóng tới mức phải khóc kêu lên thành tiếng. Tôn giả Mục Kiền Liên không thể nghĩ ra cách gì cứu mẹ đành quay trở về nhân gian, thỉnh Phật Đà chỉ cách cứu độ cho mẹ. Phật Đà nói, dựa vào sức mạnh công đức của các tăng nhân có thể siêu độ cho mẹ của ngài thoát khỏi đau khổ luân hồi. Thế là liền có pháp hội siêu độ Vu Lan Bồn. Một mặt ban thức ăn cho chúng sinh của tam ác đạo, mặt khác nhờ phương thức tụng kinh trì chú, giúp người chết được quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, khiến người chết hiểu được việc tu hành, đến được thế giới tốt đẹp hơn. Đây chính là tác dụng của việc siêu độ.
30. Làm sao biết đã vãng sinh tịnh độ?
Hỏi: "Phiếu báo danh pháp hội siêu độ nên điền như thế nào? Báo danh quá nhiều lần liệu có bị làm sao không? Tối thiểu cần phải báo danh ai?" Lại hỏi: "Làm sao để biết được người chết hoặc thủy tử linh được báo danh siêu độ đã vãng sinh đến tịnh thổ rồi?" [ND: Thủy tử linh: thai nhi bị chết do sảy thai.] Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ để nói cho rõ. Vào tháng 10 năm 2009 Lư Sư Tôn đã từng dùng "trung ấm thiên thức pháp" để siêu độ một người chết. Đầu tiên tôi dùng kim hỏa để thanh tịnh thân vật lý đang nằm đó của người chết. [ND: Trung ấm thiên thức pháp: phép dịch chuyển thần thức thân trung ấm của người chết.]
Sau đó, tôi giơ thẳng ngón trỏ tay phải, tiếp dẫn trí huệ bổn tôn từ trong hư không hạ giáng xuống trên đầu ngón tay trỏ. Đầu ngón tay trỏ của tôi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, sau đó vị Bồ Tát này hóa hiện thành hộ pháp của tôi là Đại Uy Đức Kim Cương. Đại Uy Đức Kim Cương hóa xuất thành tia sáng chiếu đến mở thiên khiếu (*) của người chết và đóng các lỗ khác trên cơ thể. Việc này được gọi là: Mở thiên môn - Phạn huyệt của bát chỉ trên đỉnh đầu. Đóng địa hộ - hậu môn, lỗ tiểu tiện. Bịt nhân đạo - lỗ rốn. Chặn đường quỷ - miệng, hai lỗ mũi, hai mắt, hai tai. (Thiên khiếu trên đỉnh đầu mở ra, còn lại bảy lỗ trên thân thể đều đóng lại.) Thân trung ấm của người chết (linh hồn) chỉ có thể hướng về thiên khiếu mà thoát ra khỏi thân, bay lên thiên giới, tứ thánh giới hoặc tịnh độ. Tôi trông thấy linh hồn người chết từ từ bay lên, theo ánh sáng tiếp dẫn của Đại Uy Đức Kim Cương. Vậy là đã vãng sinh rồi. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, chỉ cần là Lư Sư Tôn tôi dùng "trung ấm thiên thức pháp" thì chắc chắn vãng sinh vào cõi trời, tịnh độ Phật quốc, hoặc đến tứ thánh giới. Hơn nữa, khi tôi mở thiên môn, đóng địa hộ, bịt nhân đạo, chặn đường quỷ, dựa theo độ mạnh yếu của ánh sáng là tôi lập tức biết ngay người chết này nghiệp chướng nhiều hay ít. Từ đó tôi có thể tịnh trừ nghiệp chướng thân, khẩu, ý của người chết. Tôi rất có tự tin vào việc này. Hễ người chết mà có thể được tôi dùng "trung ấm thiên thức pháp" thì quả báo thực sự là thù thắng không gì sánh bằng. Nếu như người chết có thể vãng sinh tịnh độ thì phần lớn người thân đều có thể biết được người chết đã vãng sinh. Liên tục có những hiện tượng cát tường như: Người thân tận mắt nhìn thấy người chết đứng trên hoa sen, pháp tướng trang nghiêm như Phật. Người thân tận mắt nhìn thấy người chết hóa thành trẻ lại, cưỡi ngựa trắng bay lên trời. Người thân tận mắt nhìn thấy Thượng sư, bổn tôn, hộ pháp đến tiếp dẫn. Người thân tận mắt nhìn thấy tịnh độ của người chết. Thân thể người chết hỏa thiêu hóa thành xá lợi. Xung quanh người chết có một mùi thơm lạ không phai tàn. Trên mặt người chết hiện ánh sáng đỏ, thân thể mềm mại. Trên thân thể người chết xuất hiện tịnh quang. Người thân mơ thấy Phật thổ, bổn tôn, Phật Đà, đàn thành, ngũ trí quang. Những việc này đều là hiện tượng cát tường. Người thân từ chỗ Căn bản Thượng sư được thông báo rằng người chết thực sự đã vãng sinh tịnh thổ rồi, hoặc người chết đích thân báo mộng. Và những chuyện khác nữa… Đối với việc báo danh siêu độ, chỉ cần có tên họ, tuổi, ngày tháng năm sinh, ngày mất, nơi ở khi còn sống, địa điểm sau khi chết. Như vậy là đầy đủ rồi, thực sự nếu có thiếu một, hai điều thì cũng không quan trọng lắm, mức độ nhạy cảm của thân trung ấm (linh hồn) thực sự vô cùng đáng ngạc nhiên. Linh hồn trung ấm thì chỉ cần nghĩ đến là họ liền biết ngay, và họ có thể đến rất nhanh chóng. Báo danh nhiều quá thì sẽ thế nào? Báo danh nhiều thì cần cúng dường nhiều, càng nhiều càng tốt cho linh hồn trung ấm. (Nếu như không phải trả một đồng nào thì người ta báo danh đến cả trăm người chết cũng được!) Cõi dương, cõi âm vốn chỉ là hai mặt của một vấn đề. Tôi cho rằng tu hành rất quan trọng. Hành giả có thể tu hành, minh tâm kiến tính, đã đạt đến cảnh giới giác ngộ thì không cần phải siêu độ, có thể tức thân thành Phật. Người cần được siêu độ thì ở mức dưới mà thôi!
31. Tục đế và Thánh đế
Hỏi: "Có cần phải phân chia tổ tiên thành bên cha, bên mẹ không? Khi báo danh ở pháp hội hoặc an bài vị có cần phải tách riêng ra không?" Lại hỏi: "Công đức chủ báo danh pháp hội có ích lợi gì không?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để nói rõ. Có một lần, Phật Đà ở tại Jetavanavihara (Cô Độc Viên) nước Sravasti (Xá Vệ) cùng 2,500 vị tăng chúng xuất gia và ba vạn tám nghìn vị Bồ Tát chúng tu hành tại gia. Lúc đó, Phật Đà dẫn mọi người đi thẳng hướng phía Nam, bỗng nhiên Phật Đà nhìn thấy bên đường có một đống xương người đã khô. Lúc đó Phật Đà liền quỳ xuống, hướng về đống xương khô lạy ngũ thể đầu địa. Các đệ tử cảm thấy vô cùng khó hiểu. [[ND: Lạy ngũ thể đầu địa: nằm hẳn trên mặt đất, đầu, tay chân đều chạm đất để đảnh lễ.] Tôn giả Anan hỏi: "Thánh Tôn! Ngài là đại đạo sư của tam giới, từ phụ của tứ sinh, ngài trân quý như vậy vì sao lại đảnh lễ đống xương khô này?" Phật Đà đáp: "Đống xương khô này có thể là tổ tiên kiếp trước của ta, bố mẹ các kiếp trước của ta, do vậy hôm nay ta mới hướng về họ mà đảnh lễ." Phật Đà nói tiếp: "Con hãy phân chia đống xương khô này thành hai đống, nếu là xương đàn ông thì tương đối trắng và nặng, nếu là xương phụ nữ thì màu sắc sẽ hơi đen và nhẹ." Anan hỏi: "Vì sao lại như vậy?" Phật Đà đáp: "Đàn ông lúc sống thường lo sự nghiệp. Phụ nữ lúc sống lo lắng phiền não vì con cái và việc nhà, nuôi dưỡng con cái bằng sữa mẹ, sữa chính là máu của phụ nữ. Do vậy xương đàn ông trắng mà nặng, còn xương phụ nữ đen mà nhẹ." Ví dụ này là tôi lấy từ cuốn kinh "Công lao cha mẹ lớn lao khó báo đáp". Tôi muốn nói rằng: Theo Thánh đế mà nói, chỉ cần là chúng sinh hữu tình thì về cơ bản không có sự phân biệt nào. Phật Đà đảnh lễ đống xương khô cũng chính là không có sự phân biệt, có thể cùng siêu độ. Người Trung Quốc nói: Trong bốn biển đều là anh em. Năm trăm năm trước là người một nhà. Đây đều là Thánh đế. Lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão. (ND: Tôn kính người già của mình như người già của người khác). Ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu. (ND: Yêu thương con trẻ của minh như con trẻ của người khác, câu danh ngôn nổi tiếng của Mạnh Tử) Đây cũng là Thánh đế. (Theo Thánh đế mà nói, tất cả chúng sinh hữu tình đều không có sự phân biệt.) Còn như theo Tục đế mà nói: Xương đàn ông trắng và nặng, xương phụ nữ đen và nhẹ, như vậy là có sự phân biệt. Tập tục phổ biến ở Trung Quốc là người thân bên cha thì lập một bài vị, người thân bên mẹ thì lập một bài vị khác. Ngoài ra cũng có phân biệt phòng. Việc có phân chia hay không phân chia khi báo danh siêu độ tại pháp hội hoàn toàn do mỗi đệ tử tự lựa chọn. Nếu dựa theo Tục đế thì phân chia. Nếu dựa theo Thánh đế thì không phân chia. Cá nhân tôi cho rằng hoàn toàn tùy theo nhận thức của các đệ tử mà quyết định, những việc này không có liên quan gì đến việc siêu độ. Công đức chủ ở pháp hội có ích lợi gì không? Đứng từ lập trường của Lư Sư Tôn, tại pháp hội siêu độ hoặc pháp hội thông thường của tôi, tôi sẽ dùng toàn lực để làm, tôi không phân biệt ai là công đức chủ, ai không phải là công đức chủ, tôi hoàn toàn đối xử bình đẳng. Nhưng, đứng trên lập trường của công đức chủ thì: Có tiền bỏ tiền, có công đức. Không tiền bỏ công, có công đức. Công đức chủ nên nghĩ như thế này: Việc này là bố thí, tận lực giúp đỡ pháp hội được thành công viên mãn, khiến mọi người đều được lợi ích là điều quan trọng nhất. Còn công đức hay không công đức sẽ có trời biết. Toàn bộ công đức quy về chúng sinh mới chính là công đức thật sự!
32. Nghi hoặc về pháp hoàn tịnh
Hỏi: "Pháp hoàn tịnh có phải là bắt buộc phải sám hối trước căn bản Thượng sư không? Nhưng cơ hội có thể gặp được Lư Sư Tôn rất hiếm, thậm chí không có cơ hội, vậy phải làm sao?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để nói rõ: Tôi có một đệ tử rất sùng đạo, có lần do vô tình mà phạm vào mười bốn tội cơ bản của Mật giáo. Trong lòng đệ tử này vô cùng lo lắng, chỉ nghĩ đến chuyện tự mình đến gặp Lư Sư Tôn để sám hối. Khoảng cách từ đất nước anh sống đến đất nước Lư Sư Tôn sống rất xa. Đơn vị mà anh làm việc cũng rất khó để xin nghỉ phép. Các giấy tờ của anh từ đầu tới cuối đều không thể xin được Visa đi Mỹ. Còn nhiều vấn đề khó khăn nữa… Sau đó, anh ở tại đàn thành nhỏ trong nhà mình dùng hết tất cả những gì có thể có để cúng dường. Cúng đèn, cúng hoa, cúng hương, cúng trà, cúng quả… Sau đó vô cùng cung kính đảnh lễ. Trì Tứ Quy Y chú 108 biến. Hai tay anh chắp lại, quỳ xuống, miệng tự thuật lại việc đã phạm vào mười bốn đều cơ bản Mật giáo. Sau đó anh niệm bài kệ sám hối. Làm như vậy xong trong lòng anh mới thấy nhẹ nhõm được. Đêm đó, trong giấc mơ, anh nhìn thấy Lư Sư Tôn xuất hiện với kim thân cao sáu trượng, trên đỉnh đầu tỏa sáng, giữa hai mày tỏa sáng, hai tai tỏa sáng, ở tim phát ra ba tia ánh sáng quang minh, hai tay tỏa sáng, hai chân tỏa sáng. Hai tay Lư Sư Tôn xoa lên đầu an ủi đệ tử. Đệ tử cảm thấy một cảm giác mát mẻ từ đỉnh đầu dội xuống, trong chốc lát đã mát lạnh toàn thân, toàn thân cảm thấy hoàn toàn tự do thoải mái. Trong một sát-na, đệ tử dường như cảm thấy tội chướng đều đã tiêu tan, toàn thân cũng nhẹ bỗng. Trong mơ còn nhìn thấy cảnh tượng Lư Sư Tôn cưỡi thiên mã chở anh bay lên không trung. Anh tỉnh lại, trong sâu thẳm tự mình hiểu rõ Lư Sư Tôn đã hoàn toàn biết được sự sám hối của anh, cũng đã quán đảnh cam lộ, hoàn tịnh lại cho chính anh. Anh còn nghe thấy Lư Sư Tôn nói: "Hoàn tịnh rồi! Hoàn tịnh rồi!" Thông thường trong Mật giáo có "cảnh giới quy y" dùng để quán tưởng: Tại hồ chứa bát công đức thủy có trồng một cây như ý. (*) Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên những nhánh cây phía trước, và thập phương tam thế hiền kiếp thiên Phật ở xung quanh. Căn bản Thượng sư Lư Sư Tôn ngồi ở trung tâm của cây như ý, ở trên là các tổ sư của dòng truyền thừa. Phía trên cao nhất của các vị tổ sư truyền thừa là Đại Nhật Như Lai, Phật Nhãn Phật Mẫu, Phật A Di Đà, Liên Hoa Đồng Tử. Trên nhánh cây phía bên phải căn bản Thượng sư là Tam Hộ Chủ gồm Văn Thù Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát. Và có tám vị đại Bồ Tát. Trên nhánh cây phía bên trái căn bản Thượng sư là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đứng đầu các đại thanh văn. Hai bên trái phải phía trên của căn bản Thượng sư là Diêu Trì Kim Mẫu, Phật A Di Đà, Địa Tạng Bồ Tát - là các vị bổn tôn. Thẳng dưới căn bản Thượng sư là hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cương đứng. Xếp hàng ngang hai bên trái phải của Đại Uy Đức Kim Cương là Ngũ Đại Kim Cương, Bát Đại Minh Vương. Ở mọi khoảng trống giữa cành lá đều có Không Hành Dũng Phụ và Không Hành Dũng Mẫu. Không Hành Dũng Mẫu là nữ thần bảo vệ bốn phương, nữ thần bảo vệ tám hướng, nữ thần bảo vệ hai mươi cõi trời. Phía sau căn bản Thượng sư có thể sắp đặt tam tạng thập nhị bộ kinh tạng và các kinh sách Mật giáo. … Nếu đệ tử dựa vào những hình ảnh này để quán tưởng cảnh giới quy y, cúng dường cảnh giới quy y, đảnh lễ cảnh giới quy y, quy y cảnh giới quy y, thực hành pháp sám hối trước cảnh giới quy y cho đến khi tướng sám hối xuất hiện, đây cũng chính là pháp hoàn tịnh. Tu pháp trong Mật giáo dựa chủ yếu vào quán tưởng, trì chú, nhập tam ma địa. Quán tưởng vô cùng quan trọng. Khi không thể gặp được căn bản Thượng sư thì dựa vào quán tưởng mà tu pháp hoàn tịnh cũng có thể được.
33. Pháp hộ thân của Mật tông
Hỏi: "Ngày nay tình hình an ninh công cộng rất tồi tệ, tin tức đưa tin đều là trộm cướp, bạo lực, các vụ án giết người, liệu có mật pháp nào có thể giúp tự bảo vệ được không?" Tôi trả lời: Trong những lần tôi xem bói hỏi chuyện, có một ví dụ vô cùng đặc sắc như thế này: Có một người đàn ông đến hỏi chuyện, tôi vừa ấn linh quang thì liền biết ngay có chuyện gì sắp xảy ra. Toàn thân tôi bỗng lạnh toát. Tôi nói: "Có một chuyện cực xấu sắp sửa xảy ra." Người đàn ông nói: "Cả đời tôi thực hiện trách nhiệm công dân và tuân thủ luật pháp, không có thị phi, không kết thù oán với ai, những chốn thị phi cũng không tìm đến, tôi tin rằng chẳng thể có chuyện xấu gì mới đúng." Tôi nói: "Nhân gian thường có những chuyện ngoài ý muốn, con người muốn nghĩ cũng chẳng thể nghĩ được." Người đàn ông đáp: "Có phải Lư Sư Tôn đang đe dọa không, muốn kiếm được nhiều tiền hơn phải không?" (Người đàn ông bộc lộ ánh mắt đầy nghi ngờ.) Tôi cười lớn ha ha ha. Tôi nói: "Tôi cho anh một tấm bài hộ thân bằng đồng, có thể tránh được họa, anh cần đeo trên người mới được!" Người đàn ông hỏi: "Bao nhiêu tiền?" "Miễn phí!" "Thật sự là miễn phí à?" Tôi nói: "Tấm bài hộ thân này hoàn toàn được làm ra để tặng, vốn là miễn phí mà." Người đàn ông bán tín bán nghi rời đi. Sau đó vài ngày. Người đàn ông này đích thân đến cảm ơn, ông ta nói: "Thật là linh nghiệm, thật sự là có linh có nghiệm, quá chuẩn, quá chuẩn!" Sự tình hóa ra là như thế này: Người đàn ông đi siêu thị thì gặp ngay một người đang cướp siêu thị. Người của siêu thị đang giằng co với tên cướp, tên cướp bất ngờ rút ra một cây súng chĩa về phía người ta và nổ súng. Ngay lập tức có hai người trúng đạn, một người trong số đó chết thảm ngay tại chỗ, người còn lại thì chính là người đàn ông này. (Người bị chết thảm là cửa hàng trưởng.) Người đàn ông vốn nghĩ rằng bị trúng đạn thì chắc chắn sẽ chết, nhưng phát hiện ra là mình vẫn còn không sao, sờ toàn thân đều không có chỗ nào chảy máu. Anh ta lại kiểm tra kĩ hơn, không ngờ là tấm thẻ đồng hộ thân bị thủng một lỗ, viên đạn đã bắn trúng vào tấm thẻ đồng mà bắn ra ngoài. Ngay sau đó, tên cướp cũng bị bắt! Người đàn ông thì sợ toát cả mồ hôi. Anh ta nói: "Tấm thẻ đồng này đã cứu mạng tôi rồi!" (Ghi chú: tấm thẻ đồng này có luật lệnh của Kim Mẫu, có Phật quang, có chữ Hum, linh nghiệm khác thường.) Trên thực tế có rất nhiều pháp hộ thân trong Mật giáo. Pháp mặc giáp hộ thân. Pháp kết giới. Pháp dây thừng kim cương. Pháp tiêu tai. Tu hộ pháp. Có một cách tu pháp như sau: Hành giả nhìn vào Thượng sư của mình, đứng thẳng, hóa thành chày kim cương ba đoạn. Bản thân hành giả chắp hai tay lại, đặt lên đỉnh đầu, hai chân cong lại, chụm hai gót chân sau lại. (Toàn thân tướng của hành giả cũng giống như là chày kim cương ba đoạn.) Hành giả quán tưởng chày kim cương của Thượng sư hóa thành một chữ Hum màu trắng đi vào trong tim của chính mình, và chính mình biến thành chày kim cương màu trắng như chữ Hum. Tụng lục tự chân ngôn (om mani padme hum) 108 biến. Tụng xong giải thân ấn. Tất cả ma địch không thể làm hại, tất cả oan địch đều phải rút lui, tất cả ma chướng được tiêu trừ. Đây chính là đại hộ thân pháp.
34. Việc tố cáo liệu có tạo duyên ác không?
Hỏi: "Trên góc độ của Phật pháp, có thể tố cáo những vi phạm (giao thông, bảo vệ môi trường…) không? Làm như vậy có phải là tạo duyên ác với người bị tố cáo hay không?" Tôi trả lời: Tôi lấy ví dụ của chính mình để nói rõ: Danh tiếng của Lư Sư Tôn cũng không phải là nhỏ, do vậy cũng thường gặp những chuyện tố cáo. Người ta kể rằng có một người nộp đơn tìm việc làm nhưng không được chọn vào làm việc tại Lôi Tạng Tự, do vậy đã oán hận Lôi Tạng Tự. Anh ta cho rằng Lôi Tạng Tự là của Lư Sư Tôn, do vậy lại càng oán hận Lư Sư Tôn. Trên thực tế, đối với chuyện tuyển nhân viên làm việc tại Lôi Tạng Tự, tôi chẳng hề hay biết. Do vậy tôi gặp phải những chuyện bị tố cáo mà tôi cũng chẳng hiểu được, như là: Tội đe dọa. (Lấy những hình phạt của địa ngục để đe dọa tín chúng đến nghe pháp.) Tội lừa đảo. (Lấy những bệnh do ma quỷ vô hình không nhìn thấy tạo ra để lừa gạt những người bị bệnh, nói là bị xung phạm.) Tội phá hoại. (Lấy pháp lực vô hình để phá hoại thiết bị âm thanh và xe máy của anh ta, anh ta cho là dùng pháp lực phá hoại.) Tội hủy báng. (Anh ta cho rằng trong sách tôi viết "đi trại" đi bệnh viện tâm thần, ý là nói đến anh ta.) … Người tố cáo này quả thực tôi chẳng hề quen biết. Nhưng những tố cáo của anh ta liên tiếp nhắm vào tôi. Phải làm sao? Chỉ có thể tùy người tùy việc mà xử thôi. Thật may, kết quả của những việc tố cáo này đều là kết thúc vô sự, nhưng tôi cũng cần nói ở đây. Hình phạt trong địa ngục - lấy từ kinh Địa Tạng. Bệnh do quỷ thần - cũng chính là bệnh do nhân quả. Pháp lực vô hình - tôi không hề ra tay. Đi trại do tâm thần bệnh hoạn - là nói người khác. Người tố cáo này và Lư Sư tôn liệu có tạo ác duyên không? Câu trả lời của tôi là "không". Bởi vì tôi không để tâm đến những chuyện này. Trong tâm tôi cơ bản là chẳng có cái người tố cáo này. Tôi cũng không biết anh ta, đồng thời tôi cũng không tạo ác duyên với người ta. Ngược lại nếu như tôi phản lại anh ta rằng anh ta vu cáo, thì như vậy sẽ tạo duyên ác. Trái lại tôi cảm kích anh ta đã khiến tôi trong lúc giảng pháp, viết sách, trong hành vi, trong tu pháp, lại càng phải cẩn trọng hơn! Còn đối với việc tố cáo người khác với những vi phạm giao thông, phá hoại môi trường hoặc xây dựng trái phép,v.v. thì cần xem có đúng thực hay không. Tuyệt đối không được vu oan cho người tốt thì mới được. Dựa trên ý tốt thì là thiện. Dựa trên ý xấu thì là ác. Thiện có thiện báo, là việc tốt. Ác có ác báo, sẽ tạo ác duyên. Nghĩ tất cả là thiện, thì sẽ thiện; nghĩ tất cả là ác, thì sẽ ác. Mọi thứ là như vậy mà thôi. Sự khác biệt ở đây chỉ là một đường kẻ thôi. Tôi lấy góc độ Phật pháp để đánh giá thì dựa trên thiện ý sẽ không tạo duyên xấu, dựa trên ác ý thì sẽ tạo ra duyên xấu. Người học Phật cần phải: Quan trọng việc có đầy đủ tín tâm. Quan trọng việc biết hổ thẹn. Quan trọng việc sống theo luật pháp. Quan trọng việc sống với tâm từ bi. Quan trọng việc sống với tâm vui vẻ. Quan trọng việc sống với tâm xả ly. Có hoàn thiện tâm quy y ngay thẳng, có đầy đủ tinh tấn, có đầy đủ an tịch. Nhiệt tình làm các việc công ích xã hội đương nhiên là tốt, nhưng cần phải có tâm thương xót để giữ được sự trung thực. Dùng tâm vô vi để cứu độ trí huệ chúng sinh để hiểu rõ có thể đi tố cáo hay không.
35. Tại sao cần quy y?
Hỏi: "Vì sao nhất định phải quy y? Không quy y thì không thể tu pháp phải không?" Tôi hỏi: Câu hỏi này lẽ ra là đơn giản nhất, nhưng trên thực tế lại không đơn giản chút nào. Nếu như suy ngẫm kĩ, để có thể trả lời một cách viên mãn cũng không dễ. Cha tôi là đệ tử quy y của tôi. Mẹ tôi là đệ tử quy y của tôi. Em gái tôi là đệ tử quy y của tôi. Họ hàng tôi là đệ tử quy y của tôi. v.v. Nói chung, muốn độ hóa người thân quy y thì cũng không dễ dàng, vì sao vậy? Bởi vì sống cùng nhau, mỗi lời nói mỗi hành động của ta người thân đều nhìn thấy rõ ràng, các tập tính cũng đều thấy rõ hết. Người Đài Loan nói: "Trên người, dưới mông bạn có bao nhiêu sợi lông, người thân đều biết. Người thân nhìn bạn, chẳng nhìn ra bạn là một người giác ngộ, là Bồ Tát, Thanh Văn gì hết… Người thân sẽ cảm thấy bạn cũng chỉ là một người bình thường như mọi người khác mà thôi, chẳng có gì là phi thường cả." Do vậy, "khó độ người thân!". Đặc biệt, bạn là người tu hành thì một sợi tơ sợi tóc cũng không được sai lầm, một khi có sai sót thì toàn bộ người thân cũng sẽ từ bỏ bạn. Vốn dĩ người thân khó độ, khi một biểu hiện của bạn không thể làm cho người thân hài lòng, người thân sao có thể quy y bạn? Do vậy, muốn người thân quy y buộc phải có điều gì khiến họ bị thuyết phục, phải có sức ảnh hưởng lớn. Quy y là cần thiết, bởi vì mở cánh cửa vào chính pháp chính là việc quy y. Quy y là nền tảng của mọi con đường tâm linh linh thiêng. Không quy y thì sư phụ không thể truyền dạy chính pháp cho bạn được, và bạn sẽ tu luyện như mù, sẽ đi rất nhiều con đường sai lầm. Điều này đặc biệt đúng trong Mật giáo. Mật giáo quan trọng khẩu truyền, khẩu quyết, phương pháp. Không quy y bạn sẽ không thể có được những điều trên, không thể tu. Do vậy nhất định phải quy y, không quy y không thể tu thành tựu. Ngoài ra, Mật giáo quan trọng truyền thừa, truyền thừa giống như hạt giống, không có hạt giống làm sao nảy mầm, mọc thành cây, ra hoa kết quả đây? Mật giáo tu Thượng sư tương ứng pháp, Thượng sư gia trì gốc rễ, không có dòng chảy pháp gia trì, hành giả không thể trưởng thành được. Tôi nói: Hành giả Mật giáo phải dựa vào chỉ một vị thầy (Thượng sư). Có quán đảnh. Có dòng chảy truyền thừa. Có lực gia trì. Có chính pháp. Có khẩu quyết. Như vậy mới có thể thành tựu. Nếu như không quy y một vị thầy thì tất cả những điều trên đều không có được, không thể thành tựu. (Ở đây chính xác là đơn giản như vậy.) Chúng ta biết rằng: Quy y cần có tín tâm, gặp được một vị cao tăng đại đức với đức tướng trang nghiêm mà sinh ra tín tâm không gì sánh bằng thì được gọi là lòng tin thanh tịnh. Đã nghe về sinh tử luân hồi, cũng như giải thoát khỏi khoái lạc, phát khởi tín tâm, thì được gọi là lòng tin dục lạc. Biết rõ công đức của Tam bảo Phật, Pháp, Tăng và sau khi được gia trì, tin tưởng sâu sắc rằng Tam bảo có thể giúp bạn giải thoát, không có phương pháp nào khác, thì được gọi là lòng tin tín giải. Để được giải thoát thành Phật, phổ độ chúng sinh, đó là quy y ở hạng thượng sĩ. Để thoát khỏi luân hồi, đắc quả vị niết bàn, đó là quy y ở hạng trung sĩ. Để không rơi vào ba đường ác, có được sự an lạc của thiên nhân, đó là quy y ở hạng hạ sĩ. Quy y Phật, pháp, tăng. Quy y Thân, Khẩu, Ý. Quy y khí, mạch, minh điểm. Quy y Phật tính, chính pháp, thanh tịnh. Những việc này đều là quy y, và quy y chân chính là quy y bản tính thanh tịnh của pháp thân Phật, báo thân Phật viên mãn, trăm nghìn tỷ hóa thân Phật, là tự tính quy y Tam bảo.
36. Ma ma ma ma ma
Hỏi: "Phim ma nào có vẻ giống thực tế nhất? Ở đâu có nhiều ma nhất?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ có thật. Trong thời kì tôi xem bói hỏi chuyện, có một phụ nữ đến hỏi xem chồng của cô tình hình dạo này ra sao. Khi tôi ngẩng đầu lên lập tức nhìn thấy một màn khói, trong màn khói hiện lên một cảnh tượng thực tế. Một vụ tai nạn xe do xe đâm vào hàng rào chắn bảo vệ ở trên đường, sau đó xe lăn mấy vòng rồi rơi xuống biển. Tôi nhìn thấy người trong xe bị tai nạn không thoát ra được, vùng vẫy hết sức, kết quả là chết đuối. Điều khiến tôi kinh hãi là: Bảy lỗ (hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng) trên mặt của người đàn ông trong xe đều chảy máu, toàn thân ướt đẫm, sắc mặt xanh đen, tất cả xuất hiện trước mắt tôi. Tôi trả lời: "Chồng của cô chết rồi!" Cô hỏi: "Chết thế nào?" Tôi đáp: "Người cùng xe rơi xuống biển chết." Người phụ nữ kêu khóc thất thanh, hỏi: "Có thể tìm thấy người và xe không?" Tôi đáp: "Biển rất sâu, e rằng không tìm thấy." Người phụ nữ hỏi: "Linh hồn chồng tôi đi đâu rồi?" Tôi đáp: "Đang ở ngay đây." Người phụ nữ hỏi: "Có thể nhìn thấy không?" Tôi đáp: "Nhìn xuống dưới tay áo tôi mà xem." Người phụ nữ vừa nhìn thì vô cùng sợ hãi hét lên: "Ma, ma, ma, ma, ma……………." rồi chạy mất! Điều tôi muốn nói là: "Người chết thành ma, ở nơi nào cũng có ma cả!" Bộ phim ma nào tương đối giống thực tế nhất? Nói thật lòng thì cá nhân tôi bây giờ rất hiếm khi xem phim, lúc còn trẻ tôi xem cũng khá nhiều. Phim ma tôi đã từng xem thì không nhiều, ấn tượng sâu đậm nhất là: Thiện nữ u hồn. (bản Trung Quốc) Tứ cốc quái đàm. (bản Nhật) Nhân bì. (phim ma Liêu Trai) Ba phim này đều có ấn tượng mạnh, hơn nữa chúng cũng có nội dung sáng tạo và tính nghệ thuật, Thiện nữ u hồn rất thống thiết xót xa, Tứ cốc quái đàm rất rùng rợn, Nhân bì có tính giáo dục. Nếu như xét trên tính hiện thực thì phim Nhật Tứ cốc quái đàm mặc dù thần kì nhưng vẫn có tính hiện thực, sâu sắc khắc ghi trong lòng tôi. Nơi nào có nhiều ma quỷ nhất? Theo như tôi biết thì là: nghĩa địa, rừng vứt xác, nhà xác, miếu thờ, nhà tang lễ, bệnh viện, nhà tù, nơi hành hình. (Những nơi kể trên tôi phân loại là nhiều số một.) Khách sạn lớn, rạp chiếu phim, sòng bạc, vũ trường, câu lạc bộ đêm, quán rượu, nhà trọ. (Những địa điểm trên tôi phân loại là nhiều thứ hai.) Nhà hàng, bách hóa, đại siêu thị, nhà chung cư, công ty, nhà xưởng, nhà ở. (Những địa điểm trên tôi phân loại là nhiều thứ ba.) Tôi cho rằng ma là mặt trái của người sống. Người thì hữu hình, ma thì vô hình. Ma có ngũ thông, công lực lớn thì là thần, công lực nhỏ thì là quỷ, do vậy sự khác biệt giữa thần và quỷ không phải là lớn. Thế giới của ma và thế giới của người không khác biệt. Người có trăm hạng người, ma có trăm loại ma. Ma biết tu hành thì cũng có thể thành thần.
37. Tháng ma quỷ
Hỏi: "Tháng ma quỷ có thật là có chuyện thế thân không? Tháng ma quỷ mở cửa âm phủ là chuyện thế nào? Cần phòng thân ra sao?" Tôi trả lời: Có một lần, tôi ở chỗ ngài Địa Tạng Bồ Tát chứng kiến một cuộc tổng động viên ở dưới âm phủ, ở trên cao nhất có mười vị đại Diêm Ma Tôn Vương, ở dưới thấp nhất là binh lính ma quỷ, toàn bộ tổng động viên. Trong lòng tôi vô cùng kinh hãi, hỏi Địa Tạng Bồ Tát: "Là nguyên nhân gì vậy?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Ở nơi đó nước đó có một trận động đất lớn, số người chết lên tới cả vạn người, do vậy âm phủ rất bận rộn." Tôi vô cùng thương xót hỏi: "Có cách nào tránh được không?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Cộng nghiệp khó tránh." "Thành phố đó cũng là nơi Phật giáo thịnh hành, vì sao một nơi Phật pháp phổ biển như vậy không ngờ lại có tai họa lớn như thế?" - Tôi hỏi. Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Bề ngoài Phật pháp phổ cập, người người tin Phật, nhưng người thực tu Phật pháp rất ít, người giữ giới luật rất hiếm, con người hiện đại quá lo lắng về danh lợi, cướp giết dâm vọng, cộng nghiệp nặng vô cùng!" Tôi thở dài. Sau đó, tôi đọc báo cáo tin tức, địa phương nói đến ở trên gặp động đất lớn, quả nhiên đã chôn sống cả vạn người. Còn nữa. Lại có một lần, ở trong mơ tôi nghe thấy hai con ma nói chuyện với nhau. Ma A nói: "Tôi đang đợi ông X nhảy lầu đây!" Ma B nói: "Ông ta liệu có nhảy không?" Ma A nói: "Nhanh lên! Nhanh lên!" Ma B nói: "Chỉ cần ông ta nhảy là anh lập tức có thể đầu thai rồi, chỉ còn lại mỗi mình tôi, cô đơn làm sao." Ma A nói: "Anh có thể đợi thêm mà!" "Đợi đến khi nào đây?" Ma A nói: "Cũng nhanh thôi, con trai nhà hàng xóm bên phải nhà ông X chạy xe máy, cũng sắp xảy ra chuyện rồi!" Sau đó, ông X thực sự đã nhảy lầu tự tử. Con trai nhà hàng xóm bên phải nhà ông X chạy xe máy bất ngờ gặp tai nạn chết. Tôi giải thích như sau: Thế thân (giao thế) là việc có thật, nhưng không cứ là phải vào tháng ma quỷ. Vì sao lại có chuyện giao thế? Tôi chỉ có thể giải thích thế này, cũng giống như những lính gác trong quân đội thay phiên nhau, nhóm mới đến thì nhóm cũ có thể đi. Thế thân (giao thế) thường xuyên xảy ra, nhưng trên thực tế bình thường cũng có, không nhất định phải vào tháng ma quỷ. Mọi người nói vào tháng ma quỷ mới có chỉ là bởi vì tháng ma quỷ đã có ấn tượng sâu sắc trong tâm trí mọi người mà thôi. Còn nữa: Tháng ma quỷ cửa ma mở ra là ý chỉ ma quỷ bị nhốt, vào tháng ma quỷ thì mới được thả ra, giống như tù nhân trong ngục được thả ra vậy. Cũng do vậy vào tháng ma quỷ đặc biệt có nhiều ma. Mở cửa ma là do đạo sĩ làm pháp, đóng cửa ma cũng là do đạo sĩ làm pháp, đây là tập tục của dân gian. Không phải là cửa địa ngục rộng mở, mà là cửa ma quỷ trong các miếu thờ được mở ra. Việc mở cửa ma là có giới hạn, mười tám tầng địa ngục đích thực cơ bản là không mở. Tháng ma quỷ cũng là một tập tục dân gian, còn hành giả Mật giáo tu pháp hộ thân hàng năm hàng tháng hàng ngày hàng giờ, không có gì phải sợ hãi cả. Nói thật thì ma quỷ cũng không có gì để mà phải sợ.
38. Tượng Phật nhất định phải khai quang?
Hỏi: "Có phải tượng Phật nhất định cần khai quang mới có thể thờ cúng không?" Tôi trả lời: "Không cần thiết." Tôi lấy hai ví dụ để nói rõ. Ví dụ thứ nhất: Lúc tôi mới tin Phật, ở hiệu sách Nghĩa Sĩ trong tòa nhà tổng hợp Đài Trung, tôi đã thỉnh về một bức tượng Quan Âm Bồ Tát. (Tòa nhà tổng hợp đã đóng cửa, hiệu sách Nghĩa Sĩ từ lâu đã ngừng kinh doanh, không rõ rời đi đâu.) Bức tượng vị Quan Âm đó tôi mua chỉ có 15 Đài tệ, sự việc này xảy ra vào 40 năm trước. Tôi trở về kí túc xá của đơn vị phục vụ (Liên đội trắc lượng Nam Môn Kiều), tiện thể đặt bức tượng này thờ cúng ngay trên bệ cửa sổ, lúc đó tôi còn chưa hiểu lễ nghĩa, thắp lên một nén hương. Đêm đó, tôi nhìn thấy trên mặt biển, một bông hoa sen đang trôi, trên hoa sen là tượng Quan Âm mà tôi thỉnh về với hằng hà sa số hào quang. (Đến tận bây giờ ấn tượng vẫn khắc sâu. Tôi vô cùng hoan hỷ.) Bức tượng Quan Âm này, tôi hoàn toàn chưa khai quang, nhưng đã có cảm ứng thường xuyên rồi. Ví dụ thứ hai: Đệ tử của tôi đã tiêu rất nhiều tiền để xây đàn thành thờ cúng bổn tôn và hộ pháp trong nhà mình, sau đó mời tôi đến khai quang an tọa. Tôi đến nơi, vừa nhìn thì thấy hóa ra bổn tôn và hộ pháp đã ngồi tọa trong đàn thành từ lúc nào rồi, không mời cũng đã tự đến. Tôi nói: "Không cần khai quang, các vị đã tự đến rồi." Chủ nhân đàn thành nói với tôi: "Sau khi tôi sắp đặt đàn thành, lập tức thắp một nén hương để cúng, đợi Lư Sư Tôn đến khai quang. Vào một đêm nằm mơ đã nhìn thấy bổn tôn và hộ pháp lần lượt hiện thân, nói với tôi là họ tự đến. Bây giờ Lư Sư Tôn cũng nói là các ngài tự đến, đây thực là cảm ứng lớn." Việc các ngài đã tự đến này hoàn toàn không cần khai quang nữa. Tuy nhiên, vì sao tượng Phật nếu được khai quang thì thờ cúng sẽ tốt hơn, việc này là có lý do gì đây? Theo tôi được biết, có một số người bản thân nghiệp chướng sâu nặng, oan thân trái chủ (vô hình) luôn theo sát xung quanh họ. Những người này vô tình nghe hiểu Phật pháp, muốn thờ cúng tượng Phật, thế là thỉnh tượng Phật về nhà an vị. Nhưng nếu không mời người tu hành có công lực thâm sâu đến an tọa khai quang, người có nhiều oan thân trái chủ nghiệp chướng sâu nặng sẽ bị oan thân trái chủ lợi dụng tượng Phật chưa khai quang để chiếm lấy làm chỗ ở, chiếm được tượng Phật rồi sẽ hưởng thụ hương khói cúng dường của nhân gian. (Đây là lý do đầu tiên.) Ngoài ra, có một số loại tà thần tà ma trông thấy tượng Phật chưa khai quang cũng xâm nhập để chiếm chỗ. Vốn là tượng Phật nhưng lại bị tà thần tà ma xâm nhập chiếm lấy tượng Phật, chuyện này xảy ra thì sẽ có tà thần tà khí làm cho gia đình bất an, mọi việc đều không cát tường. Vì vậy bắt buộc cần thỉnh người có đạo hành cao thâm đến khai quang, bởi vì khai quang đón Phật để mời Phật Bồ Tát đến mới là đúng, sẽ không đón ma tà đến. (Đây là lý do thứ hai.) Tôi nhấn mạnh bốn chữ "đồng thanh tương ứng". Người tu hành có đạo hạnh cao thâm khai quang có thể chiêu gọi được đúng Phật và Bồ Tát đến. Do vậy việc mời cao tăng là cần thiết và quan trọng. Nếu như không khai quang, nhưng bản thân hành giả tâm thanh tịnh, tự nhiên sẽ có Phật "thật" tự đến. Nếu như hành giả không thanh tịnh, tượng Phật không khai quang, tự nhiên thần quỷ tà ma ngoại đạo sẽ đến trú ngụ. Đây chính là đạo lý của "đồng thanh tương ứng". Những ví dụ thế này rất nhiều, hoặc là thỉnh mời đại hành giả đã giải thoát, đại hành giả đã khai ngộ, đại hành giả thần thông lớn là Liên Sinh Thánh Tôn đến khai quang, như thế cũng sẽ được an toàn.
39. Giới cấm trong Phật học
Hỏi: "Người học Phật có thể hút thuốc không? Có thể ăn trầu không?" Lại hỏi: "Vì lý do sau khi quy y phải giữ giới sắc, không thể xem phim khiêu dâm, nên một người bạn của tôi chưa muốn quy y, liệu có giải pháp gì cho người đó không?" Tôi trả lời: Chúng ta biết rằng "giới" chính là để phòng và chặn những suy nghĩ xấu, không chỉ là không được làm việc xấu mà thậm chí cả suy nghĩ xấu cũng không được có. Giới còn được gọi là thanh lương để giúp con người có thể dừng ác làm thiện, từ đó mà lương tâm trong sạch, trong lòng không có gì phải hổ thẹn, cũng từ đó mà tâm không nóng giận phiền não, có được sự trong sáng tươi mát. Giới, định, huệ còn được gọi là Tam vô lậu học. Giới là ngăn chặn, từ bỏ việc xấu. Định là định tâm một chỗ. Huệ là phá bỏ vọng tưởng chứng được chân lý. Hành giả học Phật chúng ta biết rằng: Nhất giới, nhì định, tam huệ, tứ giải thoát, ngũ giải thoát tri kiến. Năm điều trên được gọi là Ngũ phần pháp thân. [ND: Ngũ phần pháp thân: là 5 phần công đức của pháp lý, của Như Lai hợp lại thành pháp thân.] Có rất nhiều các loại giới: ngũ giới, bát giới, thập giới, Bồ Tát giới, xuất gia giới, sa di giới. Các giới cho tỳ kheo là 250 giới, các giới cho tỳ kheo ni là 348 giới. Theo quan sát của tôi, con người ngày nay bị "tâm sắc" phá hủy, hành vi biến thái loại nào cũng đều có. Ví dụ như xem phim khiêu dâm, chuyên lấy trộm quần áo lót của phụ nữ, lén nhìn trộm phụ nữ đi toilet, có hành vi khiếm nhã vỗ vào dưới váy phụ nữ, thò những bàn tay lang sói sờ ngực sờ mông phụ nữ. Thậm chí là bạo lực, cưỡng hiếp. Ngay cả đến trẻ sơ sinh cũng không tha. Ngay cả đến phụ nữ mang thai cũng không tha. Ngay cả đến phụ nữ đang có kinh nguyệt cũng không tha. Ngay cả người tàn tật câm điếc cũng không tha. Ngay cả người tâm thần bệnh hoạn cũng không tha. Càng khủng khiếp hơn là: Ngay cả xác phụ nữ đông lạnh trong trong nhà xác cũng không tha. Những hành vi biến thái này phần lớn trong số đó đều do ảnh hưởng từ phim ảnh có tính chất khiêu khích quá độ. Các phim khiêu dâm cũng ảnh hưởng không hề ít. Tôi cho rằng: Đương nhiên không thể xem phim khiêu dâm, người học Phật lại càng phải đoạn tuyệt với thói quen xem phim khiêu dâm. Muốn quy y chắc chắn phải đoạn tuyệt, không có giải pháp nào cả. Ngoài ra, có thể hút thuốc không? Tôi đã từng đi đến núi Koya ở Nhật Bản thấy các hòa thượng ở Nhật thực sự có hút thuốc. Theo người Nhật mà nói thì hút thuốc là thói quen phổ biến. Nhưng đứng từ lập trường tác hại của hút thuốc mà nói thì: hành giả nên bỏ thuốc lá. Hành giả không nên tự hủy hoại sức khỏe của bản thân, cũng không nên hủy hoại sức khỏe của người xung quanh. Ý thức được rằng hút thuốc chỉ có hại không có lợi, vậy vì sao cứ phải hút thuốc? Đối với người tu hành mà nói thì sẽ đánh mất sự trang nghiêm. Chúng ta cấm hút thuốc. Còn nữa: Nhai trầu có được không? Tôi có rất nhiều đệ tử là người dân tộc, một trong những tập tục của họ là ăn trầu. Trong một nghi lễ của họ ở Đài Đông cũng có mời Lư Sư Tôn tôi thử ăn trầu một lần. Tôi nhai trầu cảm thấy rất vô vị. Do vậy tôi cũng không có thói quen nhai trầu, bởi vì không cảm thấy có gì hay cả. Các báo cáo của y học cận đại cho thấy việc ăn trầu dường như có thể dẫn đến các bệnh tật trên cơ thể. Có chướng ngại đối với sức khỏe! Tôi cho rằng: có thể cấm thì cấm!
40. Hình phạt ở địa ngục
Hỏi: "Các mánh khóe tội phạm ngày nay mỗi ngày một tinh vi hơn, vậy thì các hình phạt ở địa ngục có phải là cũng thay đổi theo không?" Tôi trả lời: Có một câu chuyện cười như thế này: Có một người xuống địa ngục, lính canh ngục đưa người này đi xem địa ngục, trước mặt anh ta hiện ra ba cánh cửa. Cánh cửa thứ nhất mở ra, bên trong là địa ngục dầu sôi, ném người vào trong các chảo dầu, bên dưới lửa bốc lên, bên trong chảo dầu là dầu sôi, rất nhiều người sẽ giống như những chiếc quẩy được rán trong chảo vậy, la hét quằn quại, da thịt đều bị rán đến cháy đen thành một khối đen sì. Người kia vừa trông thấy thì lắc lắc đầu, không dám đi vào. Cánh cửa thứ hai mở ra, bên trong là địa ngục hàn băng, bão tuyết thổi rất mạnh, đánh vào người bị phạt vừa đói vừa lạnh, trong bão tuyết mờ mịt trước mắt không có thức ăn, không có quần áo ấm, không có nhà và lò sưởi để tránh rét. Con người trong địa ngục này cứ từ từ mà chết đói, hoặc không thì cũng bị cái lạnh của bão tuyết làm cho lạnh cóng mà chết, thành những tảng băng hình người. Người kia vừa trông thấy thì lắc lắc đầu, không dám đi vào. Cánh cửa thứ ba mở ra, bên trong là một câu lạc bộ ấm áp, những người chịu hình phạt thì đang uống cà phê thơm ngon, hơn nữa lại còn được ăn xúc xích, mọi người đều biểu lộ sự vui vẻ. Người kia vừa trông thấy, cho rằng có thể chấp nhận được, vậy là bèn đi vào. Kết quả là: Cà phê hóa ra là nước tiểu. Xúc xích hóa ra là phân thối. Tất cả đều hôi thối không gì so sánh bằng. Quản ngục bắt họ phải uống đến khi trương phềnh bụng, ăn đến no căng, đến khi không thể chịu nổi nữa thì ruột và bụng cũng vỡ, nước tiểu và phân trào ra mà chết. Tôi nói: Mặc dù đây là một câu chuyện cười, nhưng hình phạt của địa ngục rõ ràng là có thay đổi. Có một lần tôi xuất thần đi xuống địa ngục, nhìn thấy một loạt những tấm chảo sắt rất lớn, nhưng tấm chảo sắt này đã bị nung nóng đỏ. Rất nhiều người chịu hình phạt vừa rơi lên những tấm sắt nóng đỏ đó thì hai chân trần đều nhảy cật lực, nhảy tới khi kiệt sức thì nằm bẹp trên tấm chảo sắt đó, bị nướng không khác gì miếng thịt bò bít-tết bị nướng trên chảo teppanyaki. [ND: Teppanyaki: là một cách chế biến món ăn của Nhật trên một mặt phẳng kim loại lớn được làm nóng, món ăn sẽ được chiên, nướng, xào trên đó.] Quản ngục nói với tôi đây là một địa ngục mới được tạo ra dành cho những người thích khiêu vũ. "Khiêu vũ mà cũng có tội ư?" Quản ngục đáp: "Khiêu vũ không có tội, nhưng nhảy trên giường thì cũng trở thành có tội." [ND: Nhảy trên giường: ở đây ý nói về việc quan hệ tình dục bừa bãi.] Lại có lần khác tôi ở trong địa ngục trông thấy một nhóm người chịu hình phạt đang xếp hàng, từng người từng người một thè lưỡi ra, lưỡi thè dài đến hết mức, sau đó lấy nước tương, hành, tỏi đặt lên lưỡi. Quản ngục sẽ chặt đứt lưỡi. Người chịu hình phạt này đau đến mức chết đi sống lại, máu chảy thành dòng. Quản ngục sẽ đem lưỡi bỏ lên chảo sắt mà chiên, cuối cùng sẽ có được món "bánh lưỡi người". Tôi hỏi: "Đây là tội gì vậy?" Quản ngục đáp: "Đây là hình phạt mới dành cho những tập đoàn lừa đảo, trên trần gian chẳng phải có món bánh lưỡi bò đó sao? Vậy thì ở âm phủ chúng tôi cũng có món bánh lưỡi người. Hễ người nào lừa gạt vàng bạc châu báu tài sản của người khác, đến địa ngục âm phủ thì lưỡi đều bị cắt để làm món bánh lưỡi người." Còn nữa: Trên trần gian người nào làm kinh doanh khiêu dâm thì đến âm phủ đều bị trói đầu lâu xương cốt quanh người mà ngủ. Những đầu lâu xương cốt này ban đầu đều là những cô cái xinh đẹp, khi bị ôm vào thì sẽ cắn vào lưỡi, cắn vào các cơ quan sinh dục của người kia. Biến hóa một cái, cô gái lập tức trở thành một bộ đầu lâu xương sọ, khiến những người chịu hình phạt sợ thất kinh mà chết!
41. Vướng vào ái hận tình thù
Hỏi: "Người mình yêu không thích mình thì phải làm sao? Hôn nhân có thực sự là số trời định sẵn không?" Lại hỏi: "Người mình không yêu thường xuyên bám theo làm phiền mình, hoặc người yêu không muốn chia tay, đối xử với nhau một cách bạo lực, phải làm sao?" Tôi trả lời: Xin nói đùa một câu. Chưa cưới còn theo đuổi. Cưới xong chỉ muốn đuổi. Ly hôn thì đuổi giết. Còn nữa: Kết hôn là sai lầm. Độc thân là giác ngộ. Ly hôn là tỉnh ngộ. Tái hôn là mê lầm khỏi nói. Không có người yêu là vô dụng. Tôi luôn cảm thấy thế gian này vô cùng vô cùng hư huyễn. Cực kì giống một trò chơi, cực kì giống một giấc mộng. Nói tóm lại là tất cả đều không phải là thật. Duyên phận giữa người và người giống như mây luôn biến đổi. Người hữu duyên trở thành vô duyên. Người vô duyên trở thành hữu duyên. Trước là thiện duyên, sau là ác duyên. Trước là ác duyên, sau là thiện duyên. Hữu duyên, vô duyện, thiện duyên, ác duyên… Bây giờ hễ tôi nhắc đến hôn nhân là nỗi sợ hãi trong lòng khiến tôi sởn cả gai ốc. Trong Phật điển có nhắc đến tám loại khổ: Khổ do Sinh. Khổ do Lão. Khổ do Bệnh. Khổ do Chết. Khổ do Yêu mà phải xa cách. Khổ vì Oán ghét mà phải gần. Khổ vì Muốn mà không được. Khổ vì Xác thân và Tâm trí. "Người mình yêu không thích mình phải làm sao?" chính là muốn không được nên khổ. "Người mình không thích cứ bám riết làm phiền mình." chính là khổ vì oán ghét. "Người yêu không muốn chia tay, nhưng đối xử bạo lực." chính là ái hận tình thù. Tất cả đều là: khổ, khổ, khổ, khổ, khổ. Người ta hỏi: Phải làm sao? Phải làm sao? Phải làm sao? Phải làm sao? Tôi trả lời: "Chả làm sao cả!" Chuyện tình cảm là chuyện khó nắm bắt nhất thế gian. Trong lòng yêu sâu sắc một người, nhưng thực tế họ xem mình là kẻ thù. Trong lòng rất căm ghét người này, nhưng sớm tối cứ phải chạm mặt. Tình cảm là thứ có thể thay đổi, khi nóng khi lạnh, khi có khi không. Hết yêu lại hận, hết hận lại yêu, tình đến tình đi, cũng chính là giết qua giết lại nhau. Hôn nhân có phải là số trời định không? Trả lời: "Đúng vậy." Bởi vì trong chuyện hôn nhân có liên quan đến nhân duyên quả báo, là chuyện trả ơn, là chuyện báo oán, rồi lại xảy đến để tiếp tục báo ân báo oán. Sự phức tạp rối rắm của nó bạn hay tôi đều không thể tưởng tượng được. Phật giáo giảng nhân duyên quả báo, hôn nhân một cách tự nhiên đã là một số trời đã định. Nếu không như vậy thì: Tất cả số phận đều không chính xác. "Người mình yêu không thích mình thì phải làm sao?" Tôi trả lời: Tu pháp Ái Nhiễm Minh Vương và pháp Phật Mẫu Kurukulle để cầu xin được gia trì thêm vậy! "Người mình không thích cứ bám riết lấy mình thì phải làm sao?" Tôi trả lời: Tu pháp Uế Tích Kim Cương hoặc pháp Bất Động Minh Vương, hồi hướng, nhanh chóng cắt đứt phiền nhiễu. "Đối xử bạo lực?" Tu pháp hộ thân.
42. Nhân duyên của thú cưng
Hỏi: "Nghe nói thú cưng trong nhà phần lớn là người thân chuyển kiếp có đúng không?" Tôi trả lời: Tôi thấy là không chỉ con người mới có thú cưng, Phật Bồ Tát cũng đều có thú cưng cả, ví dụ: Quan Âm cưỡi rồng - rồng là thú cưng. Quan Âm cưỡi cá - cá là thú cưng. Bồ Tát Văn Thù - sư tử là thú cưng. Bồ Tát Phổ Hiền - voi là thú cưng. Bồ Tát Địa Tạng - đế thính (ngựa một sừng) là thú cưng. Diêu Trì Kim Mẫu - đà điểu là thú cưng. Đại Uy Đức Kim Cương - trâu là thú cưng. Khổng Tước Minh Vương - khổng tước là thú cưng. Nhị Lang Thần - chó trời là thú cưng. Mã Đầu Quan âm - ngựa là thú cưng. Đại Cát Tường Thiên - ngựa là thú cưng. Còn nữa… Ngoài ra, còn có Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế, rùa rắn đều là thú cưng. Đa Văn Thiên Vương (Hoàng Tài Thần) có chuột nhả tài bảo là thú cưng. … Phật Bồ Tát Kim Cương Hộ Pháp Không Hành Chư Thiên trên thực tế đều có nhiều thú cưng. Nếu như nghiên cứu về thú cưng của Phật Bồ Tát thì cũng có thể viết được một bộ sách lớn. Nếu như độc giả đọc kĩ sẽ nhận thấy Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân các nhân vật chính trong đó đều là: Đường Tam Tạng - người. Sa Ngộ Tĩnh - quái vật của sông Lưu Sa. Tôn Ngộ Không - khỉ. Chư Bát Giới - lợn. Ý Mã - ngựa. Toàn bộ các nhân vật chính trong Tây Du Ký gần như đều là động vật. Hơn nữa, các yêu quái trong Tây Du Ký phần lớn cũng đều là động vật. Ngưu Ma Vương - trâu. Yêu tinh nhện - nhện. Ngoài ra còn có nhiều vật nuôi mà Phật và Bồ Tát cưỡi trốn xuống hạ giới sống trong các hang núi và gây nên những rắc rối phiền nhiễu. Long Vương, yêu quái núi Hắc Phong, cá sấu, cá, trâu, sư tử, hà mã, thỏ ngọc… Những yêu ma quỷ quái hạ giáng xuống trần gian để quấy nhiễu làm hại Đường Tam Tạng đó hầu hết tất cả hoặc đa số đều có nguồn gốc là thú cưng của Phật Bồ Tát. Phật Bồ Tát. Thú cưng. Viết thành cuốn Tây Du Ký. Trong vấn đề nhân duyên quả báo, khi tôi xem bói hỏi chuyện, có một việc kì lạ thế này: Một đệ tử đến hỏi, cô ấy nuôi một con chó, từ trong sâu thẳm cô cảm nhận rằng con chó này chính là người chồng quá cố của cô chuyển kiếp. Chồng cô thích ăn kem, con chó cũng đặc biệt thích ăn kem, thế làm hai người cùng ăn kem. Chồng cô thích cô mặc quần áo màu đen, con chó mỗi ngày đều ngậm quần áo màu đen đem ra cho cô mặc. Chồng cô buổi sáng có thói quen mở cửa lấy báo, mỗi ngày sáng sớm con chó cũng mở cửa gặm tờ báo đem vào nhà. Chồng cô ra khỏi nhà lái xe, trước tiên ngồi vào ghế lái, con chó cũng ngồi vào ghế lái trước như vậy, sau đó mới nhường ghế. Chồng cô biết trong nhà tất cả đồ đạc để ở đâu, khi cô tìm đồ gì, chắc chắn con chó đã ở đó trước rồi. Chồng cô và cô phân chia phòng ngủ, con chó cũng tự hiểu điều này, đi đến phòng mình mà ngủ. Càng kì lạ hơn là tiếng sủa của con chó, cái âm thanh mà nó phát ra, nghe giống tiếng chồng cô khi còn sống gọi cô. Tôi trả lời cô: "Đúng là chồng cô đó." Tôi nói: Không sai! Vật nuôi trong nhà là người thân kiếp trước, đều là có duyên mà lại đến gặp lại.
43. Tội nặng hơn cả tội sát sinh
Hỏi: "Ngoài tội sát sinh ra, phạm vào giới gì thì nghiệp chướng sẽ nặng?" Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ để giải thích. Tôi từng xuất thần đi đến địa ngục, gặp lúc Diêm Vương đang xử tội phạm. Diêm Vương phán kẻ phạm tội phải đọa vào địa ngục vô gián, địa ngục vô gián này là hình phạt không gián đoạn. (Tội nặng nhất.) Tội phạm kháng nghị nói: "Tôi chưa từng giết người sát sinh, vì sao bị phán tội nặng như vậy?" Diêm Vương đáp: "Giết một sinh mệnh con người chỉ là giết chết thân xác của họ, tội rõ ràng là nặng. Nhưng anh phỉ báng thánh tăng, khiến cho đệ tử của thánh tăng thối lui đạo tâm, kết quả là đánh mất đạo tâm của vô số người, cũng tương đương như giết huệ mệnh của con người. Tội giết huệ mệnh của con người so với tội giết thân xác của con người càng nặng hơn, do vậy phạt vào địa ngục vô gián." Diêm Vương lại nói: "Con người trần gian ngu muội không hiểu đạo, trên thực tế, tội phá vỡ sự hòa hợp tăng so với tội nặng như núi Tu Di còn nặng hơn. Bởi vì khiến cho người xuất gia thối lui và mất đi đạo tâm, tội này là nặng nhất. Ban đầu vốn là một tăng đoàn hòa hợp, anh ở trong kích động khiến tăng đoàn phân rẽ, cũng chính là giết huệ mệnh con người. Nghiệp tội này là vô thượng, không có nghiệp tội nào nặng hơn tội này." Tôi nghe xong cảm cảm thấy kinh sợ! Chúng ta hiểu rằng ngũ giới gồm có: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm. Không vọng ngữ. Không uống rượu. Trong năm giới này thì nặng nhất là giới sát sinh, nhẹ nhất là giới uống rượu. Nặng hơn cả tội sát sinh chính là: Giết cha. Giết mẹ. Giết A La Hán. (Thánh Tăng) Giết Phật chảy máu. (Giết người giác ngộ.) Phá hòa hợp tăng. Đây là "ngũ nghịch tội", phạm vào bất kì điều nào đều phải xuống địa ngục vô gián. Phật Đà khi còn tại thế, vào những năm cuối đời, Điều Đạt Sư (Đề Bà Đạt Đa) muốn ép Phật Đà phải thoái vị. Thế là Đề Bà Đạt Đa tự mình lãnh đạo tăng đoàn, ông ta đưa ra tuyên ngôn ngũ pháp, chỉ ra sai lầm của Phật Đà: Không nhận cúng dường. Không ăn đồ ăn ngon. Mặc quần áo may bằng vải thô. Sống ở giữa mồ mả, sống dưới cây lớn. Không di chuyển bằng xe. Do vậy đã chia rẽ tăng đoàn của Phật Đà, có 500 vị A La Hán (ý chỉ rất rất nhiều tăng nhân) đi theo Đề Bà Đạt Đa, bỏ Phật Đà mà đi, kể từ đó tăng đoàn tan rã. Đề Bà Đạt Đa đã phạm vào tội phá vỡ sự hòa hợp tăng, rốt cuộc Đề Bà Đạt Đa đã phải xuống địa ngục vô gián.
Tôi cực kì thương tiếc thay khi con người ngày nay thể hiện sự nhạo báng đối với người xuất gia, đối với người xuất gia không đủ tôn trọng. Thậm chí coi người xuất gia như "sâu gạo", chỉ biết ăn không ngồi rồi. Phải thừa nhận rằng người xuất gia có người tốt kẻ xấu. Nhưng có thể khoác lên người áo phúc điền, đi trên con đường tu hành thì rốt cục cũng là người thuộc hàng số một! [ND: Áo phúc điền: tu sĩ xuất gia, sống cuộc sống tu hành trong sạch là ruộng phúc đối với dân chúng. Ai cung kính, tôn trọng, cúng dường họ thì sẽ được phúc lớn.]
Nhận định rằng: Con người thế gian trong ái dục luôn đòi khỏi không giới hạn. Con người chỉ sinh một lần chết một lần, một lần đến một lần đi. Đời người buồn vui giống như một giấc mộng huyễn, vốn không phải là một trạng thái thường hằng. Con người vì theo đuổi niềm vui thế tục, theo đuổi giấc mơ đẹp, liên tục ở trong sự biến hóa thiện ác, không có cách nào tự giải phóng bản thân. Đi con đường thế gian, chỉ có luân hồi mà thôi! Đi con đường xuất thế gian, cắt đứt phiền não, có được vãng sinh. Vì sao chúng ta không lợi dụng cuộc đời ngắn ngủi này nỗ lực tu thiện, nỗ lực tu hành, nỗ lực thoát khỏi khổ luân. Nếu không làm bây giờ thì còn đợi đến khi nào?
44. Không uống thuốc mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng
Hỏi: "Có tông giáo chủ trương khi mắc bệnh không khám bác sĩ, không khám bệnh uống thuốc, phải chịu đựng bệnh khổ mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng. Có chuyện như vậy không?" Tôi trả lời: Tôi lấy một ví dụ: Có một phụ nữ họ Trương từ lúc trẻ đã một lòng tin Phật, cả đời ăn chay, mặc dù có kết hôn, sau khi sinh con trai con gái xong thì vợ chồng cũng ngủ riêng. Bà Trương cho rằng: Không ở cùng phòng với chồng, từ bỏ dâm niệm, bởi vì tinh trùng là "mặn". Dù ăn mặn một miếng cũng không để bị nhiễm. Bà Trương cho rằng đây mới là phạm hạnh thanh tịnh. Bà tu tịnh độ, hàng ngày niệm "Phật thuyết đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác kinh". Niệm Phật đủ năm thời: sáng sớm, mặt trời mọc, chính ngọ, chiều tà, trước khi ngủ. Có một lần bà Trương nhập viện, các bác sĩ cần phẫu thuật truyền máu. Bà Trương cương quyết không thể truyền máu, bà cho rằng máu của người khác là "mặn". Nếu truyền máu thì sẽ là phá giới, cả đời ăn chay coi như uổng công. Bà Trương cùng với bác sĩ và người nhà vì chuyện này mà tranh luận không ngớt. Cuối cùng người nhà đến xin ý kiến tôi. Tôi nói: "Gây mê cho bà ấy rồi truyền máu. Đợi đến khi bà ấy tỉnh lại thì việc phẫu thuật cũng xong rồi." Người nhà hỏi: "Có cần phải nói là đã truyền máu không?" Tôi trả lời: "Nói là không truyền máu." Người nhà hỏi: "Đây chẳng phải là nói dối sao?" Tôi đáp: "Để cứu người thì nói dối không được xem là phạm giới!" Mọi người có thể từ ví dụ này của tôi để thấy tôi là một người tùy thuận. Bà Trương khăng khăng nói tinh trùng là "mặn". Bà Trương khăng khăng nói máu là "mặn". Bà Trương khăng khăng nói thịt là "mặn". Tại đây tôi xin hỏi: "Trứng là "mặn" hay "chay"? Máu và thịt của người ăn chay thì là mặn hay chay? Hỡi ôi là ăn chay, khi nào thì bà mới biến thành chay vậy?" Tôi cho rằng: Tâm làm điều ngay thẳng, thì là chay. Tâm làm điều tà ác, thì là mặn. (Tôi chủ trương "tâm chay", còn đối với việc chay mặn biểu hiện ở bên ngoài, tôi không lấy làm quan trọng.) Đối với việc không khám bác sĩ, không uống thuốc không chữa trị bệnh, bạn nghĩ làm như vậy thì bệnh nghiệp mới có thể tiêu trừ được ư? Biểu hiện bề mặt dường như có vẻ đúng. Thực tế thì không phải vậy. Tinh thần tùy thuận của tôi là: Khám bác sĩ cũng là tiêu trừ nghiệp chướng, uống thuốc cũng tiêu trừ bệnh nghiệp, chẩn trị lại càng tiêu trừ bệnh nghiệp. Khám bác sĩ phải tốn tiền, uống thuốc cũng là khổ, phải chịu chữa trị cũng là khổ, đều là tiêu trừ nghiệp chướng. Khám bệnh có thể chữa khỏi là vận. (điều may) Khám bệnh không thể chữa khỏi là mệnh. (số phận) Đây là tùy thuận, cũng là tiêu trừ nghiệp chướng. Chúng ta sống trong thế gian phải chịu đủ loại nỗi khổ, tôi cho rằng đi khám bác sĩ cũng là một việc rất đau đớn, không còn cách nào khác mới phải đi, việc này không phải khổ sao? Khám bác sĩ, tiêm thuốc, uống thuốc, phẫu thuật chính là tiêu trừ nghiệp chướng! Không khám bác sĩ, không uống thuốc, không tiêm thuốc, không phẫu thuật, hai cái khổ này cũng như nhau thôi. Tôi cho rằng phải nằm trên giường bệnh trong bệnh viện là khổ nhất. Chính xác là tiêu nghiệp chướng! Bạn thì nghĩ sao?
45. Tà tà tà tà tà
Hỏi: "Làm sao phân biệt tà giáo? Người nhà tin vào tà giáo thì phải làm sao?" Tôi trả lời: Trước tiên tôi dựa theo Phật điển để nêu ra: Tà ngoại - viết tắt của tà ma và ngoại đạo. Tà dâm - chỉ các hành vi dâm dục ngoài vợ chồng. Tà phiến - kích động người tin theo tà giáo. Tà quán - có cái nhìn không công bằng về pháp. Tà kiến - không hiểu rõ nhân quả, vi phạm tất cả các kiến giải lý luận đúng đắn. Tà kiến võng - tà kiến nhiều như mắc võng, bị lưới võng giữ lại không dễ giải thoát được. Tà mệnh - làm những công việc bất chính để kiếm sống. Tà mệnh thuyết pháp - giảng Phật pháp để mưu sinh. Tà tính định tụ - xác lập tính xấu, quyết định xấu, tập hợp các quyết định xấu, tụ tập nhóm xấu. Tà ma ngoại đạo - Tà ám chỉ đạo không chính thống. Chính là người không hiểu rõ Phật pháp, ma ám chỉ ma đạo, người làm phương hại đến Phật pháp. Hễ là người không hiểu rõ Phật pháp, người làm tổn hại Phật pháp, cũng như người hướng tâm ra ngoài cầu pháp, đều được gọi là tà ma ngoại đạo. Tôi lại lấy ví dụ trên thế giới: Hãy xem Shoko Asahara người sáng lập giáo phái Chân Lý Nhật Bản. Những người sùng bái Chân Lý Giáo đã dùng khí gas độc hại để làm hại những người dân vô tội trên tàu điện ngầm. Phản nhân tính. Sát sinh. Gây tổn hại. Đây đều là những hành vi không đúng đắn, hễ là những hành vi không đúng thì chính là tà giáo. Lại nói về Nhân Dân Hội Đường ở nước Mỹ. Bọn họ cho rằng tự sát tập thể có thể cùng lên thiên đường. Tự sát là tự giết Phật tính. Kích động. Tư tưởng xấu. Về cơ bản đây chính là những đặc điểm của tà giáo. Những đặc điểm của tà giáo là: Cho rằng mình là chính, người khác là tà, lại còn đi hãm hại người dân vô tội. Vi phạm vào ngũ giới của Phật giáo. Các công việc bất chính là: Sòng bạc. Nhà chứa khiêu dâm. Nghề giết mổ. Buôn bán ma túy. … Các công việc kinh doanh bất chính này không nên làm, hành giả chân chính nên tránh xa. Tôi thực lòng nói cho mọi người biết, việc phân biệt ma giáo tà giáo là rất dễ. Hoàn toàn nhập thế, là tà giáo. Không phát bồ đề tâm, là tà giáo. Sát sinh, là tà giáo. Vi phạm các phong tục tốt lành, là tà giáo. Vi phạm các phép tắc tự nhiên, là tà giáo. Tâm cầu pháp bên ngoài, là tà giáo. Nhấn mạnh tự sát là đến được thiên đường, là tà giáo. Không hiểu rõ nhân quả, là tà giáo. Phát động giết người, là tà giáo. Làm pháp hại người, là tà giáo. Hành vi chung chạ bừa bãi tập thể, là tà giáo. Lừa đảo, là tà giáo. Có tính cưỡng ép, là tà giáo. Lừa tiền, là tà giáo. Tôi nhớ Trung Quốc có một điển cố "Hà bá lấy vợ", nước sông dâng lên thành trận lụt, người dân cho rằng thần sông muốn lấy vợ, phải ném gái đẹp xuống nước sông để trừ tai họa, việc này là do những thầy đồng cốt nghĩ ra. Người ngu muội tin theo cho rằng là thật, vậy là bèn ném người con gái đẹp xuống sông để ngăn chặn cơn tức giận của thần sông. Đây là việc không hiểu nhân quả. Đây là sát sinh. Đây là vi phạm phong tục tốt đẹp. Đương nhiên chính là tà giáo. Người nhà tin theo tà giáo thì phải làm sao? Đưa cho họ đọc đoạn văn này của tôi.
46. Tình yêu đồng tính có phải là tà dâm không?
Hỏi: "Tình yêu đồng tính có phải là tà dâm không? Nhưng chính tôi lại thích đồng tính, vậy phải làm sao?" Tôi trả lời: Lúc tôi ở Seattle nước Mỹ, có một hôm tôi xem bói hỏi chuyện, một anh chàng đi õng ẹo đến chỗ tôi. Anh chàng này toàn thân mặc một tấm áo khoác đen, quần ống dài đi giày cao gót, tóc gọt cao, mặt thoa phấn, bôi son, lại còn kẻ cả mí mắt, lần đầu gặp mặt tôi cũng thấy sốc. Sau đó tôi biết anh ta là người đồng tính. Lúc hỏi chuyện, thỉnh thoảng anh ta còn nháy mắt đưa tình, người ngoáy bên nọ lắc bên kia, giọng nói bẽn lẽn. "Vì sao lại như vậy nớ?" Lúc chia tay, anh ta đưa cho tôi một cái kẹo. "Lư Sư Tôn! Cho ngài một cái kẹo ăn chơi nè!" Lúc quay đầu đi còn chần chừ nháy mắt đưa tình tiếp. Anh ta lấy từ trong túi ra một cái khăn tay, nói tạm biệt, trong phòng lẫn lộn mùi nước hoa, mùi son phấn và mùi mồ hôi hôi nồng. Tối đó, tôi chẳng thể ăn nổi miếng cơm nào. Anh chàng đó vốn dĩ là loại "cong". Còn người yêu của anh ta lại là một bác sĩ thuộc loại "thẳng". Cặp đôi này là người đồng tính, có trình độ học vấn cực kì cao, đều tốt nghiệp đại học Havard. Đều là tiến sĩ. Nếu xét theo giới luật mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã định ra, "phi khí" tức là tà dâm. "Phi khí" nghĩa là gì? Chính dâm là vợ chồng, nhưng nếu vợ chồng sử dụng "phi khí" thì cũng là tà dâm. "Phi khí" là: Dùng đạo cụ. (Ví dụ dùng dương vật giả, v.v.) Uống thuốc kích thích. (Thuốc kích dục.) Dùng miệng lưỡi. Dùng tay. Không đúng lỗ. (Đi vào hậu môn.) v.v. Tất cả những hành vi trên đều là tà dâm. Do vậy, trong giới luật của hệ thống Phật giáo thì tình yêu đồng tính chắc chắn xếp vào loại tà dâm. Theo như tôi biết, thời đại của Phật Đà hẳn là chưa có cụm từ "đồng tính luyến ái". Nhưng lịch sử tình dục của Ấn Độ cũng dài như lịch sử của đất nước. Từ thời kì ban đầu ở Ấn Độ rất lâu về trước đã có "Ấn Độ dục kinh" (Kamasutra). Cuốn sách "Tây Tạng dục kinh" của vị Lama Tây Tạng Gendün Chöpel đến từ cuốn "Ấn Độ dục kinh". Thời đại của Phật Đà từ sớm đã có kỹ viện. Trong kinh điển thì nơi gọi là kỹ viện này giống như chốn hưởng lạc, gái bán dâm đã sớm xuất hiện. Phật Đà vì muốn thuận lợi cho cư sĩ tại gia tu hành nên mới đề xuất ra các điều khoản về "chính dâm". Còn trên thực tế, Phật Đà chủ trương hoàn toàn bỏ dâm dục. Tuy nhiên, trong thời đại đổi mới, có một vài quốc gia đã đồng ý rằng người đồng tính luyến ái kết hôn là hợp pháp. Hôn nhân đồng tính đương nhiên là "phi khí". "Phi khí" đương nhiên là "tà dâm". Ở đây nếu phải xét giữ theo giới luật của hệ thống Phật giáo thì thực sự là vấn đề khó. Tuy nhiên Mật giáo lại không giống như vậy. Trong tất cả các pháp Mật giáo, quan điểm của Vô Thượng Mật Bộ là tất cả đều là thanh tịnh. Dùng chú ngữ, quán tưởng, thủ ấn, biến hóa thanh tịnh. Tình yêu đồng tính là: Quán tưởng, nam biến thành nữ, nữ biến thành nam, cơ quan sinh dục cũng có thể quán tưởng, biến biến hóa hóa, dương vật biến thành chày kim cương, âm vật biến thành hoa sen. Niệm chú thanh tịnh. Biến hóa ra thủ ấn "kính ái". Do vậy tình yêu đồng tính trong pháp Song thân của Mật giáo là giống như pháp, chỉ cần hiểu được để ứng dụng. Tuy vậy, Thượng sư Mật giáo hiểu được một cách chân chính pháp Song thân từ lâu đã không có nhiều. (Lư Sư Tôn là cực kì hiếm có rồi!)
47. Nghiệp chướng của ăn cá sống ba món
Hỏi: "Ăn đồ vừa mới giết mổ, ví dụ như ăn cá sống ba món, có phải là nghiệp chướng sẽ càng nặng hơn không?" [ND: Cá sống ba món: người ăn tùy chọn cá còn đang bơi, sau đó nhà hàng sẽ bắt đem chế biến thành ba món ăn.] Tôi trả lời: Trước tiên tôi lấy một ví dụ để nói rõ: Trong số các ông tổ của phái mũ trắng Mật tông, có một bức tượng của một vị tổ sư tay trái nắm một con cá sống. Con cá này đương nhiên không phải là vật nuôi của lão tổ sư, mà là cá được nuôi trong trại cá của tổ sư. Mỗi ngày vị tổ sư này lấy tay chẻ một con cá ra, rồi ăn luôn ruột của con cá sống. Việc này so với việc ăn cá sống ba món thì còn khủng khiếp hơn nhiều.
Vị tổ sư này tiếng tăm lẫy lừng, là một nhân vật rất quan trọng. Ngài ăn ruột cá sống (sashimi), rồi liền hà một hơi mạnh, đưa con cá đến Phật quốc tịnh độ. Vị lão tổ sư này có mắc nghiệp chướng không? Tôi lại lấy một ví dụ nữa. Liên Hoa Sinh đại sĩ tới thành phố giết mổ. Đàn ông ở thành phố này vô cùng hung bạo, nghiệp chướng rất nặng, không thể cứu độ. Vậy nên Liên sư đến một hang động trong núi lập đàn tu pháp, dùng pháp hàng phục. Đàn ông ở thành phố này lao vào chém giết lẫn nhau, toàn bộ đàn ông đều chết hết. Liên sư liền đem toàn bộ linh hồn của đàn ông ở thành phố giết mổ, lần lượt độ cho từng người một đến Phật quốc tịnh độ. Đây là Liên sư đã giết người. Xin hỏi Liên Sinh đại sĩ có mắc nghiệp chướng không? Còn nữa: Tôi từng đến một nhà hàng ở khu vực gần hồ chứa nước Thạch Môn, bảng hiệu của họ là "Cá sống ba món". Tôi đã ăn thử rồi! Những con cá này, tôi dùng pháp lực của mình, dùng pháp siêu độ lên từng con một đưa đến Phật quốc thanh tịnh. Tôi quán tưởng. Tôi trì chú. Tôi hà hơi. Khi chắc chắn những con cá sống này đã được tiếp dẫn đến tịnh độ Phật quốc rồi, tôi mới xuống đũa ăn cá. Lư Sư Tôn tôi có mắc nghiệp chướng không? Giới luật của Thích Ca Thánh Giáo là không thể sát sinh, sát sinh là tội nặng số một, hơn nữa nghiệp chướng cũng nặng nhất. Phật Đà đương nhiên là mong muốn người bình thường không sát sinh. Nhưng chính vì việc không sát sinh này đã phát triển đến mức Lương Vũ Đế hạ mệnh lệnh, lệnh cho tất cả những người xuất gia, tỳ kheo, tỳ kheo ni, không được ăn mặn, chỉ có thể ăn chay. Đây chính là nguồn gốc dẫn đến việc ăn chay của tăng nhân trong Hiển giáo Trung Quốc. Còn tỳ kheo, tỳ kheo ni ở các nước Đông Nam Á khác, tăng nhân Tây Tạng, tăng ni Nhật Bản, đều có ăn mặn. Phật giáo nhằm tạo thuận lợi đã đưa ra ba thứ thịt thanh tịnh. Không nhìn thấy cảnh giết mổ. Không nghe thấy tiếng giết mổ. Không tự mình giết. Ba thứ thịt thanh tịnh này cư sĩ tại gia có thể hưởng thụ được. Phát triển cho đến ngày nay thì: Người xuất gia theo Hiển giáo vẫn chỉ có thể ăn chay, không có ngoại lệ. Trừ Tiểu thừa. Nhật Bản thì có một số tăng lữ ăn chay, một số ăn mặn. Cư sĩ tại gia có một số người ăn chay. Có một số người vào ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng mới ăn chay. Có một số người thì vào ngày đản sinh của Phật mới ăn chay. Có một số người thì ăn ba thứ thịt thanh tịnh. Có một số người hoàn toàn không ăn mặn. (Không phải tất cả.) Tôi cho rằng: "Cá sống ba món" khả năng nghiệp chướng nặng hơn một chút! Bởi vì là giết ngay tại chỗ, phạm vào tội sát sinh. Tuy nhiên nếu tu luyện đến công lực thâm sâu rồi thì có thể trong một ý niệm đã có thể đưa cá sống vãng sinh Phật quốc tịnh độ rồi. Hành giả thuộc loại này là ngoại lệ. Nếu bạn là một hành giả hoàn toàn bình thường, tôi khuyên bạn không nên ăn cá giết tại chỗ, hãy ăn ba thứ thịt thanh tịnh vậy!
48. Đốt tiền vàng mã, nhà giấy, xe giấy có tác dụng gì?
Hỏi: "Đốt vàng mã, nhà giấy, xe giấy cho người đã chết có tác dụng gì không? Phải đốt bao nhiêu mới là đủ?" Tôi trả lời: Còn nhớ lúc tôi còn nhỏ, có lần thầy giáo giảng bài có kể một câu chuyện cổ về việc đốt vàng mã. Thầy giáo kể: Có một nhà buôn giấy, việc buôn bán của ông không tốt, thế là ông bèn nghĩ ra một ý tưởng. Đầu tiên ông ta ra lệnh cho vợ giả vờ lâm bệnh. Sau đó mời thầy bói đến nhà để xem bói, thầy bói nói: "Phu nhân có bệnh là do nợ âm phủ một số tiền, cần đốt tiền giấy để đổi lấy vận may, làm như vậy thì bệnh của phu nhân mới khá lên được." Thế là nhà buôn giấy nghe theo chỉ thị của thầy bói mà sản xuất ra tiền giấy, sau đó chọn ra một ngày để đốt rất nhiều tiền giấy. Mọi người bu xung quanh xem. Sau khi nhà buôn giấy đã đốt hết toàn bộ tiền giấy vàng, vợ ông ta nằm ốm trên giường cả tháng trời lập tức từ trong phòng đột ngột nhảy lên, hoàn toàn hết bệnh. Mọi người trong làng vô cùng kinh hãi. Hết người này đến người khác mua giấy vàng mã do nhà buôn giấy sản xuất ra đem về đốt, thế là việc buôn bán của nhà buôn giấy thu được món lời lớn. Kể từ đó, việc đốt vàng mã đã trở thành một tập tục dân gian. Đây là câu chuyện do thầy giáo tiểu học của tôi kể lại. Là chuyện thật? Hay là chuyện giả? Cũng đáng để thảo luận. Sau này lúc tôi mới gặp người phụ nữ mặc áo xanh Lâm Thiên Đại, mỗi lần bà dẫn vong hồn cũng đều đốt tiền vàng mã. Mỗi lần đốt là cả một đống to. Có linh hồn thì đem túi lớn túi nhỏ đến để lấy đi. Có linh hồn thì không lấy được gì bởi vì bị người khác cướp mất. Thế là phải cần ghi rõ tên là để dành cho ai để thần linh bảo vệ, tránh khỏi bị người khác lấy đi mất. Người phụ nữ mặc áo xanh đốt vàng mã là có thật. Cá nhân tôi thấy rằng: Với Pháp khói cúng trong Mật giáo. Xếp đặt bột hương, bên trong có một mẩu giấy nhỏ màu đỏ có in hình quần áo, xe, nhà, rồi châm lửa đốt. Sau đó nhờ tu pháp Quan Âm Tứ Thủ để gia trì, bố thí cho tất cả oan thân trái chủ, khiến cho tất cả các oan hồn có được Phật pháp, có được quần áo, nhà ở, xe cộ, có được vàng, bạc, châu, báu, được vui vẻ mà đi. Cảm ứng của Pháp khói cúng vô cùng thù thắng. Đây cũng là sự thật. Trên phương diện đốt vàng mã, con người ngày nay càng làm càng tinh xảo. Nhà giấy. Tủ lạnh giấy. Két sắt giấy. Xe giấy. Người hầu giấy. Quần áo giấy. Vàng bạc châu báu giấy. Thậm chí máy giặt giấy, ti vi giấy, ghế sofa giấy, đồ đạc bằng giấy, v.v. Tất cả mọi vật dụng cần có đều có. Cá nhân tôi đưa ra một điểm quan trọng. Có "tâm" thì có tác dụng, vô "tâm" thì không có tác dụng. Làm sao mà chẳng biết, đời người là huyễn, âm phủ cũng là huyễn, vốn là hệ quả của "thức", không thể nói là thật, cũng không thể nói là giả, tất cả chỉ là do tâm tạo nên! Cần đốt bao nhiêu? Tùy tâm mà làm. Đốt rất nhiều mà không có "tâm" thì cũng vô dụng thôi! Pháp khói cúng trong Mật giáo chỉ cần một lư hương, từ nhỏ biến thành nhiều, có thêm sự gia trì của Quan Âm Tứ Thủ thì sẽ biến một lần cúng dường nhỏ nhưng được công đức lớn, việc này vô cùng quan trọng. Con người hiện đại chủ trương bảo vệ môi trường, không thể đốt quá nhiều vàng mã để tránh ảnh hưởng đến môi trường. Do vậy sự gia trì của Phật Bồ Tát là vô cùng quan trọng, đồ cúng ít nhưng có thể được viên mãn vượt xa tất cả công đức. Bạn nghĩ sao?
49. Ma hóa thành Phật
Hỏi: "Có một đồng môn tự xưng là Thượng sư, rộng rãi thu nhận đệ tử Chân Phật Tông. Hắn gây rắc rối khắp nơi như vậy, nghe nói là theo chỉ thị của Phật, Sư Tôn nghĩ thế nào?" Tôi trả lời: Trước đây đã từng xảy ra chuyện như vậy rồi. Có một người đệ tử rất tôn kính, tu pháp vô cùng tinh tấn. Có một buổi đêm Phật xuất hiện trong mơ của anh ta. Phật hiện thân thuyết pháp, truyền dạy chú ngữ, thủ ấn, quán tưởng và các giáo thị đặc biệt khác. Vị Phật này thọ kí cho anh ta "Kiến Mi đồng tử" và còn cho anh mũ Ngũ Phật. Bởi vậy anh tuyên bố: "Tôi đã khai ngộ rồi!" Trước tiên anh ta tìm đến Lư Sư Tôn để ấn chứng, tôi nhập tam ma địa quan sát thì thấy rằng đó là "ma hóa thành Phật", đến để quấy phá pháp mạch Chân Phật Tông. Tôi khuyên anh ta nên nhận ra pháp nghĩa để tránh việc thuyết pháp rời xa khỏi chính kiến. Anh ta không tin. Anh ta rộng rãi thu nhận người của Chân Phật Tông làm đệ tử, phạm vào Mười bốn đại giới của Mật giáo. Rốt cục, anh ta bị ma bắt đi! Lư Sư Tôn biết ma hóa thành Phật hoặc ma hóa thành bổn tôn, người bình thường không hiểu pháp nghĩa rất khó phân biệt được thật giả. Tôi nhận thấy: Thậm chí là đại tu hành giả cũng rất khó phân biệt được có phải là ma không? Hay là Phật? Phần lớn những người này xuất hiện là ma biến thành chướng ngại cản trở việc hoằng dương thánh đạo, cố ý làm cho một số người tự thấy mình có thần thông, tự tin rằng mình là người đã khai ngộ, làm loạn pháp mạch. Những người này rất dễ nhận thấy là: Tự lập ra truyền thừa. (Truyền thừa không thật) Tự xưng là Thượng sư. Bóp méo pháp nghĩa. Bắt chước bên này bắt chước bên kia. Rộng rãi thu nhận đồng môn. (Phạm vào mười bốn đại giới) Vọng truyền Phật pháp. (Ma pháp) Luôn nghĩ rằng bản thân mình tu hành nhanh nhất. (Dễ cảm ứng nhất) Mật giáo tu học Phật pháp, từ lúc mới phát tâm đế khi chứng quả, mỗi người đều sẽ gặp rất nhiều chướng ngại. Nếu như không phát tâm đúng đắn, cùng với người thông đạt Phật pháp, rất dễ đi vào ma chướng. Bài thử nghiệm lợi hại nhất là: Ma hiện thân Phật. Ma hiện bổn tôn. Ma này một khi xuất hiện thì sẽ đưa ra những kiến giải không đúng đắn, thường nghĩ cách để tuyển thêm đệ tử, dẫn dắt người khác đi vào con đường sai lầm. Nói chú ngữ vô nghĩa. Nói pháp nghĩa vô nghĩa. Nói tu pháp vô nghĩa. Nói thọ kí vô nghĩa. Nói khai ngộ vô nghĩa. Hơn nữa những người này vẫn luôn cho rằng mình là tu hành chân chính! Trên thực tế là đã đảo lộn chính pháp. Truyền thừa Thượng sư của tôi đã nói: Phải phân biệt Phật và ma thì quan trọng nhất là đi sâu vào pháp nghĩa, phải có lý giải rất sâu sắc đối với kinh Phật, với các bộ kinh sau đây: "Hiện quán trang nghiêm luận", "Nhập trung luận", "Thích lượng luận", "Câu xá luận", "Giới kinh". Phải có cái nhìn "trung quán". Phải có sự hướng dẫn của truyền thừa Thượng sư chân chính. Đây chính là: Pháp nghĩa. Trung quán. Truyền thừa Thượng sư. Mới có thể phân biệt được là Phật hay là ma. (Nghiệp chướng con người thế gian rất nặng, si mê vô trí, không những không nghiên cứu kĩ càng giáo lý của Hiển Mật kinh thư, lại còn phá vỡ lung tung giới nguyện samaya, giới luật đều không giữ gìn bảo vệ. Nhìn thấy huyễn cảnh cho rằng là Phật, cho rằng đã thành tựu. Do vậy tự xưng mình là Thượng sư, rộng rãi thu nhận đồng môn làm đệ tử, đây là ma nạn lớn nhất.)
(Hết)