Hãy mở lòng ra
🪷 Bí mật của khởi niềm tin
Văn tập: 226 Xuất bản: 02/2012 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Lời mở đầu
Vào tháng 10 năm 2011, tôi đã truyền pháp trong hai tháng tại Seattle Lôi Tạng Tự và chùa Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở Mỹ. Trong hai tháng này, những pháp được truyền đều là những khẩu quyết tinh yếu, nhiều điều rất quý giá.
Ngoài ra:
Tại Thường Hoằng Lôi Tạng Tự ở Panama, tôi đã truyền khẩu quyết thiết tự Cửu tự chân ngôn và pháp nhật nguyệt hợp bích của Thời Luân Kim Cang, đây là những điều hiếm có.
Tại Thánh Đức Lôi Tạng Tự ở Florida, Hoa Kỳ, tôi đã truyền pháp thiên nhất thần thủy - đây là bí mật trong những bí mật.
Tại Liên Nghiêm Lôi Tạng Tự ở Philadelphia, Hoa Kỳ, tôi đã truyền pháp lưu truyền thừa Liên Hoa Đồng Tử - điều này còn thâm sâu khó lường hơn nữa.
Tại Kim Cang Lôi Tạng Tự ở New York, Hoa Kỳ, tôi đã truyền pháp niệm tụng Đại Tùy Cầu Bồ Tát - thật sự là điều quý hiếm.
Tại Mật Nghi Lôi Tạng Tự ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, tôi đã truyền pháp ngũ luân và giảng giải về "tịch diệt vi lạc" - đây là điều hiếm được nghe trên đời. ….
Những giáo huấn và khẩu quyết thực tu này đều được truyền thừa từ các vị Căn bản Thượng sư của tôi, tôi xin đảnh lễ: Liễu Minh Hòa Thượng. Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 (Karmapa). Sakya Chứng Không Thượng sư. Thubten Dhargye Thượng sư. Cùng chư vị Thượng sư.
Việc tu hành của tôi cũng giống như việc viết sách, chưa từng gián đoạn, suốt bốn mươi năm như một ngày, có thể nói sự kiên trì và bền bỉ không nao núng trong thiền định như vậy, trong đời này kiếp này, đã rất khó thấy được, vì vậy mà lực gia trì của tôi liên tục không ngừng, tôi đã đạt được thành tựu tương xứng.
Tôi cũng có thể tiên đoán: 1. Đời này thành Phật. 2. Vãng sinh Tịnh độ. 3. Thường trụ ở thế gian chuyển pháp luân.
Trong đời này, tôi đã thực sự đạt được điều mong muốn là lợi ích cho hành giả đời sau, đây chính là tâm nguyện, cũng là lời thệ nguyện của tôi.
Nhớ lại cách đây hơn bốn mươi năm, tôi đã được sư cô Lâm Thiên Đại chỉ dẫn khi tình cờ gặp bà tại Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung. Được Diêu Trì Kim Mẫu giáng xuống, khai mở thiên nhãn.
Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Ta đã tìm kiếm con từ rất lâu rồi!" Lại nói: "Ta sẽ giúp con thuyên chuyển công tác, ở mãi tại Đài Trung." (Chỉ về cuộc đời trong quân ngũ.) Lại nói: "Khi có cơ duyên lớn, sẽ có đại pháp truyền cho con." Lại nói: "Một lòng học Phật, một lòng học pháp, một lòng hướng thiện." (Lúc đó, tôi 26 tuổi.)
Kể từ ngày đó, tôi gần như hàng ngày đều gặp những điều kỳ diệu, không thể kể hết. Tôi bay đến cõi Phật của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Trong các ngôi mộ cổ hoặc hang động. Liên Hoa Sinh nuốt tôi vào miệng, và tôi được sinh ra từ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hóa thành ánh cầu vồng, tôi đi vào trong ánh cầu vồng ấy, thọ nhận tất cả các quán đảnh do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thừa; Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã truyền tất cả pháp lưu truyền thừa, quán đảnh vào tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông của tôi.
Trải qua: Bầu trời nứt ra. Sơn hà đại địa chấn động. Tôi viết những trải nghiệm này ra, mọi người đều cho rằng tôi là "kẻ điên". (Đây là bí mật khởi niềm tin của tôi.) Mong rằng cuốn "Hãy mở lòng ra" này có thể giúp mọi người khởi tín tâm học Phật.
Địa chỉ liên lạc của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn:
Sheng-yen Lu
17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 U. S. A.
01. Tôi có phải là kẻ điên không?
Thực ra, tôi có vẻ hơi điên một chút, nhưng chưa đến mức phải vào bệnh viện tâm thần. Lý do điên là: Kết bạn với ma. Kết bạn với thần. Kết bạn với Bồ Tát. Kết bạn với Phật. Một người như vậy, tất nhiên sẽ bị hiểu lầm là gần như điên rồi, bởi vì những người bị nhốt trong bệnh viện tâm thần hầu hết đều thuộc dạng người này.
Có một câu chuyện cười như thế này: Viện trưởng bệnh viện tâm thần hỏi bệnh nhân: "Ai bảo anh là Chúa Jesus vậy?" Bệnh nhân trả lời: "Thượng Đế nói với tôi." Một bệnh nhân khác đi ngang qua, nói với người tự xưng là "Chúa Jesus": "Tôi đâu có nói với anh là anh là Chúa Jesus." Tôi đọc câu chuyện cười này, cười ha hả.
Vì vậy khi có người biết tình trạng của tôi mà gọi tôi là kẻ điên, tôi cũng không thể trách họ được. Bởi vì tôi cũng chẳng khác gì một kẻ điên là mấy.
Ngoài điều đó ra, tôi là một người bình thường. Khi đến giờ ngủ, tôi đi ngủ. Khi đến giờ tu pháp, tôi tu pháp. Khi đến giờ viết sách, tôi viết sách. Khi đến giờ vẽ tranh, tôi vẽ tranh. Mùa hè tôi không mặc áo lót dày, mùa đông tôi không bao giờ chỉ mặc mỗi áo thun, trời lạnh thì quàng khăn, trời nóng thì mặc áo mỏng. Cuộc sống của tôi rất bình thường. Không làm việc phạm pháp, không làm việc phạm giới, sinh hoạt rất có quy củ. Sáng 6 giờ ăn sáng, 12 giờ ăn trưa, tối 6 giờ ăn tối, giao tiếp với mọi người, tất cả đều bình thường.
Tôi nói: Tôi không phải là thánh nhân, tôi cũng chẳng vĩ đại gì, tôi chỉ là một người hết sức bình thường, mọi thứ đều rất tự nhiên, tự nhiên chính là đạo, Lão Tử nói: "Đạo pháp tự nhiên vậy." Tôi cho rằng: "Thánh nhân hẳn là người ngu ngốc nhất trên đời." (Tự trói buộc chính mình.) Tôi hiểu đạo lý trong Kinh Dịch: "Bậc đại nhân là người hợp đức với trời đất, hợp ánh sáng với nhật nguyệt, hợp thứ tự với bốn mùa, hợp cát hung với quỷ thần." 1. Giữ đạo đức. 2. Thân khẩu ý thanh tịnh. 3. Sống tự nhiên. 4. Hiểu rõ đạo lý lành dữ họa phúc.
Bốn điều này của tôi tương thông với đạo lý trong Kinh Dịch, tôi chỉ khác người thường ở một điểm, đó là kết bạn với quỷ thần, nên tôi là người biết được điều lành dữ.
Tôi có rất nhiều bạn là ma, họ đều là những người bạn rất tốt. Năm đó, tôi gặp phải một tai họa. Ma nói với tôi: "Đại họa sắp đến." Tôi hỏi: "Phải làm sao?" Ma đáp: "Chạy trốn!" "Chạy trốn như thế nào?" Ma đáp: "Dương Đông kích Tây." (Để mọi người tưởng bạn ở đây, nhưng thực ra bạn ở nơi khác, ha ha ha.)
Bạn ma của tôi giúp tôi, bạn thần của tôi cũng giúp tôi, để tôi vượt qua tai họa một cách bình an. Việc kết bạn với ma, với thần, với Bồ Tát, với Phật này, tôi không phải nói khoác đâu, bất kì ai cũng có thể làm được. Vua Nghiêu Thuấn là người, ai ai cũng có thể làm vua Nghiêu Thuấn, Phật Thích Ca Mâu Ni là người, bạn cũng có thể thành Phật Thích Ca Mâu Ni, điểm này, tôi không lừa bạn đâu!
02. Ma sống ở nhà tôi
Tôi nói, ở Seattle bang Washington của Mỹ, tôi đã chuyển nhà nhiều lần. Lần đầu tiên, từ Ballard chuyển đến Chân Phật Mật Uyển. Lần thứ hai, từ Chân Phật Mật Uyển chuyển đến Phantom Lake. Lần thứ ba, từ Phantom Lake chuyển đến Nam Sơn Nhã Xá. Lần thứ tư, từ Nam Sơn Nhã Xá chuyển đến Tân Nam Sơn Nhã Xá. Nhà ở Ballard có ma, ở tầng hầm, con ma này không mấy thân thiện với Phật Thanh và Phật Kỳ. Khi tôi chuyển đi, vẫn còn nghe thấy tiếng thở dài của họ từ tầng hầm.
Ngôi nhà cuối cùng Tân Nam Sơn Nhã Xá rộng hai mẫu, nhà khá lớn, có hai con ma sống ở Tân Nam Sơn Nhã Xá. Mỗi sáng khi thức dậy, tôi đi dọc hành lang, khi khách đi qua hành lang vào nhà vệ sinh, bên trong luôn có tiếng "cạch" rất to. Ngày nào cũng vậy. Thì ra ánh sáng của tôi chiếu vào họ khiến họ giật mình. Ban đầu chỉ có một con ma, sau này, khi tôi về Đài Loan ở lâu, Tân Nam Sơn Nhã Xá lại có thêm một con ma nữa. Hai con ma này vô hại đối với chúng tôi.
Trong số đó có một con ma, thật không ngờ lại chào tôi bằng "chào kiểu quân đội", hóa ra nó từng là lính Mỹ, biết tôi trước đây là sĩ quan cấp thiếu tá, nên cứ gặp tôi là chào theo kiểu quân đội. Tiếng giày va chạm cũng phát ra âm thanh "cạch". Con ma này giúp tôi rất nhiều. Mỗi lần tôi hóa cam lộ cúng dường: Đại bàng kim sí điểu. Hoang dã quỷ thần chúng La sát quỷ tử mẫu. Cam lộ đều tràn trề. Ôm mu-ti-yu sô-ha. Ôm mu-ti-yu sô-ha. Ôm mu-ti-yu sô-ha.
Con ma lính Mỹ này giúp tôi duy trì trật tự, nhận lãnh thực phẩm cam lộ của tôi cúng dường. Có một lần, một con ma ăn xin lang thang cũng muốn ở lại Tân Nam Sơn Nhã Xá, nhưng tính tình không tốt, trình độ không đủ, đã bị con ma lính Mỹ tóm cổ đuổi ra ngoài, bảo nó xéo đi.
Thực ra Chân Phật Mật Uyển cũng có ma, chỉ là những con ma này đều là đệ tử quy y của tôi. Họ đều rất tốt, cũng hiểu cách tu Mật giáo, giúp tôi rất nhiều việc. Những con ma ở Chân Phật Mật Uyển đều biết bay lượn, cũng biết biến hóa thần thông, gần như đã trở thành thần rồi. Tôi hỏi họ: "Làm ma có sướng không?" Họ đáp: "Sướng!" "Sướng chỗ nào?" Đám ma nói: "Ma không có hình hài, chỉ có tinh thần, không có hình hài thì ít bệnh tật phiền não, chúng tôi đều có chút thần thông, biết biến hóa, biết bay lượn, muốn đi đâu thì đi đó, tự tại quá, chúng tôi không muốn bị hình hài trói buộc, mọi thứ đều quá phiền phức." Tôi nói: "Ma cũng có người đầu thai làm người mà." Đám ma đáp: "Hiếm lắm, họ đầu thai làm người là do nhân duyên nghiệp lực. Thực ra, người là ma, ma là người, một bên có hình hài, một bên không có hình hài mà thôi, không có hình hài thì sung sướng hơn nhiều."
Có một lần tôi ra ngoài. Ma nói: "Nhớ mang theo ô đấy!" "Trời nắng chang chang mà mang ô!" - Tôi ngạc nhiên. "3 giờ chiều sẽ mưa!" - Ma nói.
Đến chiều, quả nhiên trời tối sầm. 3 giờ chiều, mưa như trút nước. Ma nói chính xác thật. Tôi hỏi: "Sao ngươi biết được?" Ma đáp: "Không phải ngài đã nói ma có ngũ thông sao?"
03. Ma giấu châu báu
Ai cũng biết Lư Sư Tôn kết bạn với ma quỷ, tương ứng với ma quỷ, giao lưu với ma quỷ và thân thiết với ma quỷ. Một ngày nọ, có một nữ ma già chậm rãi đến gặp. Con ma này vẻ mặt vô hồn, không biểu cảm, rất thê lương, cũng không nói gì, chỉ chỉ vào tim mình. Tôi hỏi: "Có tâm sự gì phải không?" Nó gật đầu. Nó muốn tôi đi cùng, muốn dẫn tôi đi. Thực ra tôi không muốn đi lắm, nhưng nghĩ mình võ công cao cường nên cũng mạnh dạn, cứ đi thôi, biết đâu con gái của nó là một nữ ma xinh đẹp thì sao! Đi vào một căn nhà. Nó chỉ vào cột gỗ dưới một cái bàn tròn. Nó nói: "Mở ra."
Cột gỗ mở ra, bên trong là rỗng, chứa một số lượng lớn châu báu. Mắt tôi sáng lên, nhìn kĩ: Có nhẫn kim cương, kim cương. Có thỏi vàng. Có vòng cổ ngọc trai. Có nữ trang. Có vòng ngọc. Một gói lớn, tất cả được cất giấu trong cột bàn rỗng, quả thật là nơi cất giữ châu báu tuyệt vời nhất.
Tôi hỏi: "Cho tôi phải không?" - Lòng tôi rộn ràng vui sướng. Nó đáp: "Không! Là cho con cháu đời sau!" Lần này, đến lượt tôi đờ người ra.
Vài ngày sau, có một gia đình họ Trang đến gặp tôi, trình bày có việc muốn nhờ: Khi bà nội còn sống có một số lượng lớn vàng bạc kim cương châu báu, sau khi mất, không biết để ở đâu. Lúc còn sống, bà có thói quen cất giấu đồ đạc, sợ bị trộm lấy mất hoặc bị cướp. Bà thường cất ở: Trần nhà. Tầng hầm. Phía sau bảng gỗ. Ngăn đá tủ lạnh. Ghế sofa. Bồn cầu. Bụng tượng Phật Di Lặc. Dưới gầm giường. Vỏ gối. ......
Do vội vã lúc lâm chung, không kịp nói ra, không có ai biết nơi cất giấu châu báu, vì vậy chúng tôi đặc biệt đến thỉnh giáo Lư Sư Tôn, không biết châu báu của bà nội rốt cuộc ở đâu? Tôi nghĩ thầm: "Cuối cùng cũng đến!" Đệ tử họ Trang nói: "Nếu chúng con tìm được, sẽ có hồng bao cúng dường cho Quỹ từ thiện Lư Thắng Ngạn, điều này chúng con nhất định sẽ làm." Tôi nghĩ thầm: "Thế này mới phải!" Tôi hỏi: "Các con đã tìm hết mọi nơi chưa?" "Dạ rồi, từ trần nhà đến tầng hầm, kể cả trong bụng tượng Phật Di Lặc, chỗ nào có thể giấu được chúng con đều đã lục tìm nhiều lần." Tôi nói: "Ở trong cột rỗng của bàn tròn."
Họ về tìm, quả nhiên tìm thấy. Đệ tử họ Trang hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Sao thầy biết được?" Tôi đáp: "Bà nội của các con đích thân đến nói cho ta biết." "Ôi! Chính xác quá!" Tôi nói với mọi người, thật sự có ma, có thần, có Bồ Tát, có Phật, chúng ta nên tin điều đó.
04. Thủy Thần của hồ Sammamish
Khi tôi sống ở Chân Phật Mật Uyển, thường hay đi dạo đến hồ Sammamish, hồ này là hồ lớn thứ hai của tiểu bang Washington.
Tôi đã từng viết một cuốn sách tên là "Thiên Đường Bên Hồ", kể về những câu chuyện xung quanh hồ này.
Có một lần. Tôi đi đến bến tàu ở công viên nhỏ bên hồ, bến tàu có những tấm ván gỗ nổi trên mặt nước, trải dài ra hồ. Tôi đi đến tận cuối bến, nhìn những cỏ nước dưới đáy hồ, trên đám cỏ có những con cá bơi qua bơi lại. Tôi vốn thích nhìn cá bơi lội, cá luôn trông rất vui vẻ, và lòng tôi cũng vui theo. Bỗng nhiên, tôi như thấy đáy hồ dần dần biến đổi, có hai con mắt to đang trừng trừng nhìn tôi. Phía trên đôi mắt có lông mày rậm. Có mũi, có đôi môi dày. Khuôn mặt đầy râu.
Tôi giật mình hoảng hốt, thoạt đầu nghĩ là ảo giác. Tôi nhìn những cây trong công viên, rồi nhìn ngọn núi đối diện, sau đó, lại nhìn xuống đáy hồ. Trời ơi! Khuôn mặt đó vẫn còn đó, đôi mắt to vẫn đang trừng trừng nhìn tôi, cứ nhìn qua nhìn lại. Dưới đáy nước có một khuôn mặt, kỳ lạ thật!
Sau đó, tôi từng ngồi thiền dưới gốc cây bên hồ. Một người bước về phía tôi, chính là vị khách lạ có bộ râu rậm ấy, ông ta hỏi tôi: "Ông nhìn thấy tôi sao?" Tôi đáp: "Nhìn thấy!" Ông ta nói: "Tôi thấy ánh mắt ông khác với người thường, mắt ông tỏa ra ánh sáng, có phải là âm dương nhãn không?" Tôi nói: "Không phải, tôi có thiên nhãn."
Ông ta rõ ràng rất vui mừng, vì thực sự có người nhìn thấy được mình, ông ta rất lịch sự, liền trò chuyện với tôi. Ông ta kể, năm đó vào mùa đông tuyết rơi dày, xe của ông trượt xuống dốc, phanh bị hỏng, xe trượt xuống đáy hồ. Ông ta đã trở thành ma nước.
Ông ta hỏi tôi: "Ma nước có đáng sợ không?" Tôi đáp: "Tôi là người tu hành, không sợ." Ông ta cười ha ha!
Ông ta tiếp tục kể, sau khi chết mới biết, hồ Sammamish vốn có không ít ma nước, những ma nước thấy ông ta thân hình lực lưỡng, đã suy tôn ông ta làm vua ma, chẳng bao lâu sau ông ta đã thống lĩnh tất cả ma nước ở hồ Sammamish.
Một năm nọ, trời cũng đổ tuyết lớn, lại có một chiếc xe rơi xuống hồ, đám ma mừng rỡ vì có ma mới đến. Vua ma bỗng khởi lòng từ bi. Ra lệnh cho đám ma đỡ chiếc xe đang chìm, mở cửa xe ra, để người bên trong thoát ra ngoài, rồi đỡ người đó bơi lên bờ, người đó đã sống sót một cách kỳ diệu. Tôi nói: "Thì ra ông cũng có lòng từ bi!" Ông ta đáp: "Ma cũng có kẻ không hại người." - Ông ta nói tiếp: "Tôi thấy làm như vậy rất tốt, đã cứu được không ít người. Sau này trời biết được, tôi từ vua ma đã trở thành Thủy Thần." Tôi chúc mừng ông ta.
Ông ta nói, ông ta cũng có hào quang, có thể bay lượn, tuy là Thủy Thần nhưng vẫn có thể đi lại trong nhân gian. Tôi hỏi: "Ông còn muốn làm người nữa không?" Ông ta đáp: "Con người à! Người cứu người thì ít, kẻ hại người thì nhiều, không muốn làm người đâu." Nghe xong, tôi không khỏi cảm khái!
05. Ma ở trên vai cô
Có một cô gái tên Lạc San An hỏi tôi: "Bố tôi lúc còn sống rất thương tôi, trước khi mất đã nói bên tai tôi rằng, sau khi chết nhất định sẽ về thăm tôi, nhưng tại sao đến giờ tôi vẫn chưa cảm nhận được gì?" Tôi đáp: "Bố cô đã thực sự về thăm cô rồi!" "Không có mà?" Tôi nói: "Ông ấy đang đứng trên vai cô đấy, sao lại không có?" "Á!" - Cô Lạc San An thét lên kinh ngạc.
Cô Lạc nói: "Trong buổi lễ tang, có một chuyện rất kỳ lạ xảy ra, đột nhiên có một con chim bay vào, giữa chừng buổi lễ, không nguyên cớ gì một con chim bay vào, kêu chíp chíp. Cuối cùng, nó đậu trên vai tôi, đậu rất lâu, lưu luyến không rời, dùng mỏ mổ nhẹ cổ áo tôi, rất là thân thiết, phải chăng đó chính là cha tôi về thăm tôi?" Tôi nói: "Đúng vậy!"
Tôi nói với cô Lạc: "Con chim đó chính là hóa thân của bố cô. Ông ấy đã thực hiện lời hứa của mình, đã về thăm cô rồi!" "Sao bố tôi lại biến thành chim được?" Tôi nói với cô Lạc: "Linh hồn vốn không có hình thể, nhưng chỉ khi nương vào thân thể của loài vật mới có thể trở về, để mọi người nhìn thấy và chứng kiến rằng họ thực sự đã về thăm." Tôi nói với cô Lạc: "Có một lần, tôi siêu độ cho một người thân, tôi nói rằng buổi siêu độ tối nay rất đặc biệt, tôi nhận được thông điệp là tất cả những người thân đã mất sẽ hẹn nhau về đây tối nay." "Có dấu hiệu gì không?" "Đến lúc sẽ biết!" - Tôi trả lời đầy bí ẩn.
Đến tối, trong buổi siêu độ, từ bên ngoài có một đàn kiến cánh bay vào. Kiến cánh có thể bay, có một đôi cánh dài, cả đàn ùa vào, thật là kinh ngạc. Tôi nói: "Đừng đập chết kiến cánh!" Tôi nói: "Tất cả chúng đều là sự nương náu của các linh hồn." Trong đó có một con kiến cánh bay đến đậu trên kinh tôi đang tụng và không chịu bay đi, hóa ra đó chính là người thân mới mất.
Tôi nói: "Nếu ngươi hiểu lời ta và là người thân, hãy bay đến ngọn nến trắng và bay vòng quanh ba lần." Con kiến cánh đó quả thật rất nghe lời, thật sự bay đến ngọn nến trắng và bay ba vòng. Những người tham dự buổi siêu độ đều vô cùng kinh ngạc.
Tôi nói với cô Lạc: Đại sư Marpa - tổ sư phái Bạch giáo Mật tông Tây Tạng, vì thực hiện nghi lễ không đúng thứ tự nên phải mất một người con. Khi con trai ngài ngã ngựa chết, Marpa đã dùng pháp thuật "đoạt xá", để linh hồn con trai nhập vào thân một con chim lớn, rồi ra lệnh cho chim bay đến Ấn Độ, tìm một cặp vợ chồng cao quý. Để đầu thai chuyển thế. (Chuyện này được lưu truyền rộng rãi trong Mật tông Tây Tạng.)
Tôi nói: Người chết thành ma. Ma sẽ trở về. Trở về trên bàn thờ tế. Ma trên bàn thờ tế nhập vào thân con vật, đừng vội giết chúng, vì rất có thể đó là sự nhập thân của người đã khuất. Sau khi bố cô Lạc mất, đã nương náu vào thân một con chim nhỏ, bay vào nhà tang, đậu trên vai cô Lạc, đây chính là sự thật về linh hồn, có tin không?
06. Trạm xá của ma tự sát
Tôi chưa bao giờ giấu giếm việc em trai tôi Lư Chiêu Dung đã tự tử. Em ấy từ nhỏ đã được nuông chiều quá mức. Những đứa trẻ được cha mẹ bảo bọc, lớn lên thường trở thành "thế hệ mong manh", tâm hồn và thể xác đều rất yếu đuối. Khi học cấp hai, em bị một nữ sinh lớp dưới dẫn dụ, hít hơi keo con voi, sống trong ảo giác. Cô nữ sinh đó đã tự tử, nhưng em vẫn chưa tỉnh ngộ. Sau khi tốt nghiệp trường kỹ thuật, em đi làm ở nhà máy kính, vẫn tiếp tục hít keo, bạn gái can ngăn không nghe, rồi chia tay. Em trai út của tôi, người em trai duy nhất, vì quá kích động đã uống kali xyanua tự vẫn. Cổ họng bị cháy nát, trong phút chốc hồn lìa khỏi xác. Lúc đó, tôi đã ở Mỹ.
Em trai tôi đã trở thành oan hồn tự tử, theo mẹ đến thăm nhà tôi ở Mỹ, trong một đêm, hiện hình ba lần. 1. Hiện ra cho mẹ xem, lúc đó mẹ vẫn còn. 2. Hiện ra cho Liên Hương xem, giơ tay xin tiền. 3. Hiện ra cho tôi xem, muốn tôi chữa trị cổ họng cho.
Tôi đã dùng bí pháp của Diệu Sắc Thân Như Lai, kết hợp với "khí" để giúp em trai, và thật kỳ diệu là giọng nói của em đã được chữa lành hoàn toàn. Sau khi tin này truyền ra, cả giới ma đều xôn xao. Nhiều hồn ma tự tử lũ lượt tìm đến tôi xin chữa trị, nhà tôi bỗng trở thành phòng khám cho những oan hồn tự vẫn. Người uống thuốc độc thì xin chữa nội tạng. Người nhảy lầu thì chữa tứ chi. Người treo cổ thì chữa cổ họng. Người đốt than thì chữa não. Người nhảy sông thì chữa phổi. ...
Một ngày nọ, một ma nữ có diện mạo rất xấu xí hiện hình, hóa ra cô ta đã tự thiêu, làn da đã hoàn toàn bị hủy hoại! Tôi nói: "Cô hãy đi tìm khoa da liễu đi!" Cô ta đáp: "Khoa da liễu vô dụng, nhất định phải tìm Lư Sư Tôn." Tôi hỏi: "Tại sao vậy?" Cô ta đáp: "Thầy có pháp Diệu Sắc Thân Như Lai, nương theo pháp này chắc chắn có thể chữa lành làn da bị thiêu rụi của tôi."
Thế là: Tôi thổi khí lên thân thể ma nữ, thổi một hơi, xuất hiện "làn da diệu sắc", thổi hai hơi, xuất hiện hai mảng. Khi thổi vào đầu ngực, cô ta tỏ vẻ khó xử. Khi thổi vào chỗ kín, cô ta cũng tỏ vẻ khó xử. Ba điểm đều được thổi xong. Sau khi thổi khí xong xuôi, ôi chao! Ma nữ xấu xí này bỗng trở nên đẹp như tiên nữ. Đến mức có thể làm cho một người tu hành như tôi phải mê mẩn! Cuối cùng, vị ma nữ đẹp như tiên nữ ấy đã phát nguyện làm thị giả của tôi, có được vị ma tiên nữ này rồi, những người đẹp trần gian trở nên tầm thường. May mà tôi có tu pháp quán bạch cốt. Nếu không, có khi đã cưới ma nữ làm vợ rồi!
Thật lòng mà nói, tôi thích ma quỷ hơn người thường. Tôi có rất nhiều đệ tử là ma quỷ, họ cũng là những kẻ theo đuổi Phật pháp, họ giúp đỡ tôi trong thế giới vô hình, đôi khi còn hơn cả thế giới hữu hình. Thế giới ma quỷ, tôi có thể thông suốt. Tất cả bọn họ đều biết có một vị Lư Sư Tôn.
Ở đây, tôi vẫn muốn khuyên người đời, đừng tự tử, sau khi tự tử nghiệp chướng càng nặng hơn, những thương tật do tự tử, dù có đầu thai cũng vẫn mang theo dấu vết khiếm khuyết. Tôi nói, sức mạnh của nghiệp lực thật không thể nghĩ bàn!
07. Ma sòng bạc rất nhiều
Người chơi mạt chược, phần lớn đều sẽ trải qua những chuyện kỳ lạ, sau khi gặp chuyện lạ, đều kêu lên: "Ván bài này có ma!" Thực ra chơi mạt chược cần bốn người, thiếu một không thành ván, mọi người đều nghĩ là bốn người đánh bài. Nhưng theo tôi thấy, là tám người, trong đó bốn vị là ma, hoặc thậm chí còn nhiều ma hơn nữa đang đứng bên cạnh xem.
Lại có một trải nghiệm khiến bạn khó quên. Người mới học mạt chược, rõ ràng không biết chơi, đánh bừa. Điều kỳ lạ là, hễ là người mới học đều thắng. Thắng đến nỗi cao thủ phải la ó om sòm. Tại sao người mới học lại thắng. Không gì khác, vì có ma giúp, lôi kéo bạn xuống biển cờ bạc, nghiện cờ bạc, mọi người cùng có cái để chơi! Tôi nhìn người đời, người đời đều có tính cờ bạc. Nhìn các ma, ma còn thích cờ bạc hơn.
Một lần nọ. Tôi đến thăm một sòng bạc ở Đông Nam Á, vừa bước vào, đám ma liền hô to: "Ma Vương đến rồi, mọi người tránh ra!" Quả nhiên đám ma chạy tán loạn. Tôi bắt một con ma hỏi: "Sao lại gọi ta là Ma Vương?" Ma đáp: "Sau ngón cái tay phải của ngài có ẩn Ma Vương mặt cười, khi ngài xuất hiện, chúng tôi không địch nổi, ngài sẽ thắng!" Tôi nói: "Ta không đến đây để đánh bạc." Lúc này đám ma mới lục tục kéo về. Tôi hỏi: "Tại sao các ngươi tụ tập ở sòng bạc?" Chúng đáp: "Chúng tôi là do thầy cúng làm phép, bắt chúng tôi giúp nhà cái thắng, hầu hết sòng bạc đều có ma thuật, khiến khách thua sạch. Chúng tôi sẽ dịch chuyển bài qua lại, chỉ để khách thua, nhà cái thắng." Tôi nghe xong bật cười.
Một lần khác, tôi đến xem show ở sòng bạc Las Vegas. Tình cờ có bốn bà đánh một ván. Tôi đứng phía sau trì chú. Chú Phổ Ba Kim Cang: "Ôm ben-za chi-li chi-la-ya sa-ơ-wa bi-ka-nê pằng hùm pây." Lại có Hùng Thiên Tôn Giả. Hai vị này là Đại Lực Quỷ Vương. Khiến đám ma cờ bạc hoảng sợ chạy tán loạn.
Trần Truyền Phương, Ngụy Tư Nhan, Tưởng Quán Dung, Tôn Ái Châu, bốn người đánh bài ván nào cũng thắng, nhà cái phải đổi liên tiếp bốn người chia bài. Quản lý sòng bạc chạy đến. Nhân viên bảo vệ chạy đến. Mỗi lần chia bài đều xảy ra kỳ tích, lần nào cũng đánh cho nhà cái thua thảm hại. Cả sòng bạc xôn xao. Khiến đối phương không còn cách nào. (Thực ra không phải vận may của chúng tôi tốt, mà là do hai vị Đại Lực Quỷ Vương "sắp đặt", đám ma cờ bạc không chống đỡ nổi ngã gục, chúng tôi không thua ván nào, khiến nhà cái cứ cười khổ không biết làm sao, liên tục thay người chia bài cũng vẫn thua.)
Có tôi là lão tổ tông của Ma Vương ở đây. Các tiểu quỷ nghe lệnh. Tôi nhất định phải thắng.
Tôi nói: Các sòng bạc ở Đông Nam Á, phần lớn đều mời cao nhân nuôi quỷ, dùng pháp thuật Ngũ Quỷ vận chuyển, khiến người chơi đều thua. Ngay cả sòng bạc phương Tây cũng có người nuôi quỷ. Vì vậy, những ai không có công lực thì tuyệt đối đừng bước chân vào sòng bạc, nơi say đắm vật chất và tiền bạc đó, một canh bạc lớn là có thể thua sạch túi, mọi người phải hết sức cẩn thận! Tốt nhất là đừng đánh bạc.
08. Ma quyến thuộc của bệnh viện lớn
Mỗi lần đến bệnh viện lớn, ma quỷ mà tôi nhìn thấy được thật giống như chợ vậy, ma đi tới đi lui, nối đuôi nhau không ngớt. Ma trong bệnh viện đủ loại đủ kiểu, ma già, ma tráng niên, ma trẻ, ma trẻ con, ma nam, ma nữ, ngoài ra còn có cả "dị hình". Mỗi lần thấy vô số ma đứng ngoài phòng bệnh hay trước giường bệnh, tôi biết ngay thời khắc của bệnh nhân đã đến! Tôi chỉ vào phòng bệnh hay giường bệnh nói: "A Di Đà Phật! Bệnh nhân sắp đi rồi!" Người bị tôi chỉ, thật sự trong vòng hai tiếng đồng hồ là qua đời.
Người ta hỏi: "Tại sao vậy?" Tôi đáp: "Tất cả ma quyến thuộc nghe tin mà đến, ma biết thời điểm đã tới, đến đón người thân đi." (Thật là chính xác!) Người ta hỏi: "Không phải do sai nha đến đón sao?" Tôi đáp: "Người bình thường thì ma quyến thuộc đến đón. Còn sai nha đến đón là những người nghiệp chướng nặng, bị dẫn xuống địa ngục!"
Có một lần, là người thân của tôi sắp đi, bệnh nhân nhìn thấy người chồng đã mất đến đón, thấy con trai đã qua đời cũng đến, thấy cả một đám người thân đã khuất đều tập trung đông đủ.
Tôi nói: "Không tốt rồi! Thế này là đi làm ma đấy!" Tôi lấy tràng hạt của mình, đưa cho người thân đeo. Người thân vừa đeo vào, tất cả ma quỷ đều biến mất. Chỉ thấy giữa bầu trời trong xanh, Tây phương Tam Thánh hiện thân, đưa người thân lên Tây Thiên.
Người thân này lúc lâm chung, đã tự miệng kể lại, ban đầu thấy tất cả người thân đã khuất đến, sau khi đeo tràng hạt của tôi thì nói ma đều biến mất hết, giờ được tiếp dẫn, sắp về Tây phương rồi.
Lại có một lần khác, tôi thấy một vị sai nha cầm còng tay, định đến bắt người. Viên sai nha đi qua đi lại, rồi bước vào một phòng mổ. Tôi nghĩ, bệnh nhân kia xong rồi, đang mổ dở thì sắp bị bắt đi. Nhưng không ngờ, người bị bắt lại không phải bệnh nhân. Người bị bắt đi là bác sĩ phẫu thuật. Chỉ nghe trong phòng mổ hỗn loạn một hồi. Người được khiêng ra không phải bệnh nhân, mà là một bác sĩ mặc áo blouse trắng. Nghe nói bác sĩ đang mổ dở thì thân thể không chịu nổi, ngất xỉu tại chỗ, đột tử. Người ta nói bác sĩ chết vì làm việc quá sức. Còn cảnh viên sai nha ra vào phòng mổ, tôi nhìn thấy rõ ràng.
Tôi lại thấy một hồn ma y tá, ma đội mũ y tá màu trắng, mặc áo y tá màu trắng. Điều kỳ lạ là, cô ấy đi đi lại lại trong bệnh viện, ra vào tất cả các phòng bệnh, thăm khám tất cả bệnh nhân, đo huyết áp, đo thân nhiệt, đắp chăn cho bệnh nhân, v.v. Tôi để ý thấy tên trên thẻ của hồn ma y tá là Ôn Thúy Hoa. Tôi hỏi: "Bệnh viện có một y tá tên Ôn Thúy Hoa phải không?" Nhân viên y tế trả lời: "Có." - Rồi nói thêm: "Cô ấy đã mất tuần trước, bị ung thư tụy, dù mắc bệnh ung thư nhưng vẫn làm việc không ngừng nghỉ cho đến lúc qua đời, tinh thần của cô ấy thật đáng khâm phục." Nhân viên y tế nói: "Cả bệnh viện từ trên xuống dưới đều ngưỡng mộ y tá này, cô ấy có trách nhiệm cao, luôn làm việc không quản ngại khó khăn vất vả." Tôi nói: "Tôi thấy cô ấy vẫn đang làm việc trong bệnh viện!" Nhân viên y tế nói: "Ông nói dối!" Tôi không nói được gì, vì y tá Ôn Thúy Hoa đang mỉm cười với tôi!
09. Hồn ma phía sau "Anh Bạch Tuộc"
Các bạn còn nhớ bản tin truyền hình không? Năm đó trong giải bóng đá thế giới, có một "bạch tuộc khổng lồ" trong thủy cung, nó có thể dự đoán đội bóng nước nào sẽ thắng. Khi hai đội thi đấu, người ta đặt hai hộp vuông dưới nước, trên đó ghi tên hai quốc gia thi đấu. Khi con bạch tuộc ngồi lên hộp nào, quốc gia đó sẽ thắng. Thắng một lần, có lẽ là sự trùng hợp. Thắng hai lần, có lẽ là xác suất may mắn. Thắng ba lần, có lẽ là do vận may. Thắng bốn lần, khiến người ta phải kinh ngạc. Thắng năm lần, thật không thể tưởng tượng nổi. …
Anh Bạch Tuộc tiên đoán quá chuẩn. Những quốc gia thua cuộc căm ghét Anh Bạch Tuộc đến nghiến răng nghiến lợi. "Làm sashimi bạch tuộc!" "Xào bạch tuộc sống!" "Nấu canh bạch tuộc!" "Thái lát chấm nước sốt ăn!"
Các quốc gia thua cuộc đều muốn ăn thịt Anh Bạch Tuộc, tôi xem mà cười ha hả. Bởi vì khi xem tin tức truyền hình, với thiên nhãn của mình, tôi đã thấy sau lưng Anh Bạch Tuộc có một con ma lớn. Con ma có đôi mắt xanh lục. Tròng mắt cứ lăn tròn lăn tròn. Thần kinh não phát triển, có khả năng tiên tri mạnh mẽ. Chính con ma phía sau điều khiển Anh Bạch Tuộc, nên tiên tri mới chuẩn xác đến vậy, chẳng liên quan gì đến Anh Bạch Tuộc cả!
Tôi, Lư Sư Tôn, đã sớm biết và nhìn thấy rằng, đằng sau sự tiến bộ của văn minh thế giới, khoa học, y học, các tác phẩm sáng tạo, những phát minh của các nhà phát minh, đều có ma. Bạn nên tin rằng: Có ma. Có thần.
Có một người mua xe mới. Khi lái xe, vô lăng tự rung lắc, rung rất mạnh, anh ta chạy đến công ty bán xe phàn nàn. Người bán xe nói: "Cùng thương hiệu, cùng một mẫu xe, chưa từng xảy ra chuyện này, chỉ có xe của anh là bị." Người bán xe thử lái. Không rung. Chủ xe lái. Rung. Thật kỳ lạ!
Người bán xe nói: "Chúng tôi sẽ sửa xe của anh cho đến khi vô lăng không còn rung nữa, đó là trách nhiệm của tôi." Sửa xe phải tìm nguyên nhân, nhưng không tìm ra nguyên nhân, biết làm sao đây, thợ kỹ thuật tự lái thử, không rung. Giao xe rồi. Chủ xe vừa lái, lại rung! Người bán xe và thợ sửa đều ngớ người ra.
Cuối cùng, họ mời tôi đến, tôi tụng: "Ôm ben-za chi-li chi-la-ya sa-ơ-wa bi-ka-nê pằng hùm pây." Tôi làm phép tịnh hóa xe. Tôi thấy một con ma thoát ra khỏi vô lăng, bay về hướng Đông Nam rồi biến mất! Tôi nói: "Vô lăng không rung nữa!" Chủ xe hỏi: "Thật vậy sao?" Tôi nói: "Thật đấy." Chủ xe lái thử, mặt mày hớn hở, quả nhiên đã hết! Phải tin rằng ma thật sự có tồn tại, điều này quả thật là sự thật.
10. Bóng ma xuất hiện trên sân bóng
Tôi vui vẻ đi xem một trận bóng, đến nơi thi đấu, người đông như nước, trận đấu này quả thật thu hút hàng vạn người, chỗ ngồi chật kín, người đứng cũng rất đông. Hai đội đều có fan hâm mộ, các nhóm cổ vũ thi nhau biểu diễn, không khí vô cùng sôi nổi. Cờ xí. Mũ nón. Còi. Thi nhau xuất hiện.
Sau khi quan sát một lúc, tôi lặng lẽ rời đi trước, không dám ở lại lâu. Tại sao vậy? Bởi vì tôi thấy rất nhiều ma cũng đến xem trận đấu, tất nhiên tôi biết, có nhiều ma như vậy ắt phải có chuyện, như câu "không có việc thì chẳng tìm đến cửa Phật". Nhiều ma, rất nhiều ma cùng xuất hiện, báo hiệu sắp có chuyện lớn xảy ra. Tôi đi đây! Không xem bóng đá nữa, bởi vì tôi là người không nán lại chốn thị phi, không đến chốn thị phi.
Sau đó. Tôi xem trên ti vi, khi trận đấu diễn ra được một nửa, vấn đề trọng tài không công bằng đã gây ra tranh cãi giữa các cầu thủ, rồi hai bên đánh nhau. Các fan hâm mộ cổ vũ cho đội của mình, ào xuống sân tiếp ứng, diễn ra cảnh hai phe đánh nhau, gậy gộc bay tứ tung. Tình hình mất kiểm soát, nhiều người bị thương tích, có người bị thương, thậm chí gãy xương, có người bị giẫm chết, thật là hỗn loạn. Mọi người trong chốc lát đã mất lý trí. Cảm xúc sôi sục. Sao lại bốc đồng như vậy? Câu trả lời của tôi là: "Ma quá nhiều, tất nhiên ai cũng mất kiểm soát."
Lại có một lần: Đó cũng là một trận đấu của các ngôi sao, khán giả đổ về như thủy triều, ngồi kín cả khán đài. Lần này, trận đấu hẳn sẽ bình an, vì không có nhiều "bóng ma" đến tham dự. Tôi cảm thấy rất mừng. Tôi chỉ thấy một "ma chướng ngại" đến. "Ma chướng ngại" này quen biết tôi.
Nó hỏi: "Lư Sư Tôn xem bóng đá à!" Tôi đáp: "Tôi là fan bóng đá." Nó hỏi: "Ngài đến xem bóng đá không phải có mục đích gì khác chứ!" Tôi đáp: "Có mục đích gì? Tôi chỉ đơn thuần xem bóng thôi." Nó hỏi: "Ngài sẽ không dùng pháp lực can thiệp tôi chứ?" Tôi đáp: "Chúng ta không nợ nần gì nhau, sao tôi lại can thiệp?" Ma chướng ngại nói: "Vậy thì tôi yên tâm rồi!"
Trên sân vận động, tôi thấy "ma chướng ngại" đột nhiên xuất hiện ở phía Đông, rồi phía Tây, phía Nam, phía Bắc. "Ma chướng ngại" chạy qua chạy lại, không biết làm gì?
Lúc này, có một tuyển thủ quốc gia đang chạy, tôi thấy "ma chướng ngại" dùng thân mình cản lại. Vị tuyển thủ này, chưa kịp phản ứng thì đã bị cản, người nghiêng đi, đè lên chân trượt, chân kêu "rắc" một tiếng, xương gãy, gân bị trật, lập tức nằm bất động dưới đất, phải được khiêng ra ngoài, nghe nói anh ấy phải nghỉ thi đấu một năm. Ma chướng ngại rất vui mừng. Tôi hỏi: "Sao phải làm vậy?" Ma chướng ngại đáp: "Hắn (tuyển thủ) nợ tôi."
11. Thượng sư Liên Trí kể chuyện ma cương thi
Đó là một bữa tiệc. Thượng sư Liên Trí kể câu chuyện thật về ma cương thi: Có một đồng môn thuộc một gia tộc lớn. Ban đầu, trong gia tộc có một người qua đời, sau khi lo xong tang sự, chỉ cách một tháng, lại có thêm một người qua đời. Họ nghĩ đó chỉ là sự trùng hợp, sau khi lo xong tang sự, mới được hai mươi ngày, người thứ ba qua đời. Điều kỳ lạ là người thứ ba này còn trẻ, lẽ ra không phải chết mà lại chết, khiến cả gia tộc náo động. Họ mời pháp sư đến làm lễ tịnh hóa, tưởng rằng mọi chuyện sẽ êm xuôi, không ngờ người thứ tư lại qua đời. Cả gia tộc hoang mang lo sợ, chưa đầy nửa năm đã có bốn người chết.
Điều kỳ lạ hơn nữa là: Người thứ năm cũng chết! Lại mời thầy cúng giỏi làm pháp thế thân, nghĩ rằng có thế thân rồi thì có thể yên tâm. Người thứ sáu cũng chết! Trời ơi! Chưa đầy một năm đã có sáu người chết, mời thầy phong thủy đến xem dương trạch, âm trạch, thầy phong thủy xem qua rồi điều chỉnh phong thủy. Người thứ bảy cũng chết! Mọi người gần như phát điên phát rồ, ai cũng bất an trong lòng, thấy là sắp đến lượt mình rồi. Lại thỉnh cao tăng tụng Lương Hoàng Bảo Sám, Đại Bi Sám, Thủy Sám, Pháp Hoa Sám, Du Già Diệm Khẩu, thí thực... Người thứ tám cũng chết! Cứu mạng với! Cứu mạng với! Chỉ cần nghe danh ai là mời hết - pháp sư, thầy cúng, thầy phong thủy, thầy âm dương, đạo sĩ, thầy xem mệnh, đại sư, thượng nhân, Hoạt Phật, thầy trừ tà...
Ngay cả bác sĩ và nhà khoa học cũng hoàn toàn bối rối, không hiểu tại sao, người vẫn khỏe mạnh bình thường vậy mà nói chết là chết. Người thứ chín cũng qua đời. Trời ơi! Trời ơi! Phải làm sao đây? Phải làm sao đây?
Lúc này, người đồng môn đã quy y Lư Sư Tôn mới chợt nhớ đến Lư Sư Tôn đang ở Seattle, Mỹ. Hơn một năm, đã có chín người chết. Thật đáng sợ phải không! Gần như ngày nào cũng phải lo tang sự. Tôi liền chiêm bói.
Thiên Quan, Địa Sát nói chắc như đinh đóng cột: "Ông cố và bà nội được chôn ở đất cương thi, đã biến thành ma cương thi, mỗi đêm bay ra hút khí của người sống, khi hết khí thì chết, cứ tiếp tục như vậy sẽ còn nhiều người chết nữa."
Tôi bảo Thượng sư Liên Trí mau đến giúp. Chọn ngày Trừ sau giờ Ngọ, mở quan tài. Tìm đất "bùn thối", rắc lên xác cương thi. Cứu họ như vậy.
Thượng sư Liên Trí theo lệnh của tôi, cùng với những người trong dòng tộc can đảm lên núi, vừa mở quan tài ra xem, quả thật khiến mọi người kinh hồn bạt vía! Ông cố và bà nội mặc áo thọ, mũ thọ, giày thọ, nằm đó như còn sống vậy. Tóc dài ra. (khiếp đảm) Móng tay dài ra. (khiếp đảm) Mặt mày như người sống, răng nanh lồi ra, đúng là ma cương thi. Mọi người vừa nhìn thấy, nháo nhào bỏ chạy, chạy mất mấy người. Số người còn lại, theo lệnh của tôi, ném "bùn thối" vào trong quan tài, rồi đóng lại.
Cách một tuần sau, mọi người mở quan tài ra lần nữa, lạ thay! Lạ thay! Thi thể đã bắt đầu phân hủy, quần áo vốn còn mới tinh đã bị côn trùng cắn rách, thật sự đã thành người chết.
Từ ngày đó. Gia tộc đã trở lại bình thường, không còn xảy ra chuyện chết chóc liên tiếp nữa. Tôi hỏi: "Sao lúc đầu không tìm tôi?" Anh ấy đáp: "Lư Sư Tôn ở Seattle tận nước Mỹ xa quá, lại bận rộn như vậy. Thực sự không còn ai để nhờ nữa mới nghĩ đến ngài."
12. Ngồi sau xe máy là ai?
Năm đó, tôi trở về Đài Trung, Đài Loan. Trên đường phố Đài Trung, tôi thấy một đệ tử đồng môn đang phóng xe máy vụt qua trước mặt tôi. Tôi nhìn thấy anh ta, nhưng anh ta không để ý thấy tôi. Tôi thấy phía sau xe có một cô gái tóc dài, mặc váy ngắn, để lộ đôi chân ngọc ngà, hai tay ôm lấy người đệ tử đồng môn. Trong lòng tôi nghĩ: "Được rồi! Ngày mai sẽ trêu chọc anh ta một phen." (Anh ta đã có vợ con, vậy mà còn chở gái đẹp đi khắp nơi.)
Ngày hôm sau. Tôi hỏi: "Hôm qua, khoảng 2 giờ chiều, anh chạy xe qua đường Ngũ Quyền phải không?" Anh ta đáp: "Sư Tôn nhìn thấy ạ?" - Anh ta tỏ ra tự nhiên. Tôi nói: "Phải, người ngồi sau xe anh là ai vậy? Cô ấy có quan hệ gì với anh?" Anh ta rất kinh ngạc. Tôi nghĩ là đã tóm được "thủ phạm" rồi. Anh ta nói: "Con không chở ai cả!" Tôi hỏi: "Tóc dài, váy ngắn bó, để lộ đôi chân ngọc ngà, tôi thấy rất rõ, cô ta còn ôm chặt eo anh, anh còn cố tình làm như không thấy tôi nữa." Anh ta hoảng hốt: "Thưa Sư Tôn, con thật sự không chở ai cả, có phải Sư Tôn nhìn nhầm không? Không thể vu oan cho đệ tử như vậy!" "Anh không được lừa Sư Tôn." "Con không dám lừa ạ."
Lần này tôi thật sự lo lắng, người đệ tử này không phải người hay nói dối, anh ta bảo không chở ai thì đúng là không chở thật. Nhưng vậy thì cái tôi nhìn thấy là gì? Chẳng lẽ là "ma đòi mạng"?
Tôi dùng thuật bấm ngón tay thần toán, hóa ra đúng là "ma đòi mạng" ngồi ở ghế sau, tôi đã nhìn thấy bằng thiên nhãn. Tôi muốn cứu đệ tử, tôi nói: Dùng vải đỏ, viết bát tự ngày sinh, họ tên, địa chỉ của mình; rồi cắt móng tay, tóc, gói lại, buộc bằng dây đỏ. Chọn ngày Trừ, sau giờ Ngọ. Treo trước ngực Quan Thế Âm Bồ Tát. Cầu nguyện gia hộ. (Làm như vậy sẽ không sao.) Trải qua một năm như thế, anh ta bình an vô sự.
Sau đó: Vào ngày 24 tháng Giêng âm lịch, anh ta đang đi xe máy, không có tai nạn gì, bỗng nhiên ngã khỏi xe, được đưa đi cấp cứu nhưng đã mất. Bác sĩ chẩn đoán là xuất huyết não (đột quỵ), chết đột ngột. Tôi nghe tin anh ta đã mất. Không thể tin được, anh ta còn trẻ như vậy. Tuy có "ma đòi mạng", nhưng tôi đã làm phép, có Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ, sao có thể chết được?
Tôi đến nhà anh ta. Tại đàn thành nhà anh ta, tôi thấy trước ngực tượng Quan Thế Âm Bồ Tát không có treo túi vải đỏ. Tôi hỏi vợ anh ta: "Túi vải đỏ đâu rồi?" Vợ anh ta đáp: "Có túi vải đỏ đó, nhưng dọn dẹp Tết, thấy túi vải đỏ dính bụi bẩn, cầm lên rồi tiện tay vứt đi luôn!" "Trời ơi!" Tôi kêu lên. Vợ anh ta hỏi: "Cái chết của anh ấy có liên quan đến túi vải đỏ sao?" Tôi đáp: "Đúng vậy!"
Tôi kể lại tường tận mọi chuyện cho vợ anh ta, giờ đây, anh ta đã bị "ma đòi mạng" bắt đi rồi, tôi phải dùng pháp lực để đưa anh ta về, rồi đưa anh ta đến cõi tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì!
13. Lư Phật Kỳ thấy gì?
Con dâu tôi là Lư San San có người cha vừa qua đời, con trai tôi là Lư Phật Kỳ cùng Lư San San từ Indonesia mang về một ít tro cốt của ông, đặt phía dưới đàn thành để tưởng nhớ.
Không ngờ rằng, linh hồn của cha vợ đã theo về, và ở luôn trong nhà của Lư Phật Kỳ tại Seattle, Mỹ. Lư San San có cảm thấy. Lư Phật Kỳ có cảm thấy. Ví dụ: Lư San San cảm nhận được cha mình nằm ngủ giữa hai vợ chồng, giữa Phật Kỳ và San San. Hai người thường xuyên giật mình tỉnh giấc giữa đêm, cùng lúc nhận thấy trong phòng ngủ có người thứ ba hiện diện.
Có một lần, nửa đêm. Lư Phật Kỳ đột nhiên thức giấc, nhìn sang Lư San San đang ngủ bên cạnh, vừa nhìn đã giật mình kinh hãi. Bởi vì gương mặt của Lư San San đã biến thành gương mặt của cha vợ. Một tiếng hét kinh hoàng. …
Một lần khác. Lư Phật Kỳ giật mình tỉnh giấc giữa đêm, thấy cha vợ đang lơ lửng giữa không trung, dần dần tiến đến gần mình. Lư Phật Kỳ hoảng hốt, miệng không tự chủ mà niệm: "Om guru liansheng siddhi hum." Đồng thời đẩy hai tay ra. Từ hai bàn tay phát ra một luồng hào quang trắng, bắn về phía trước, đẩy lùi cha vợ, trong chớp mắt, ông đã biến mất. Còn nữa: ...
Những hiện tượng linh dị này xảy ra với tần suất tương đối nhiều. Đây là cha của Lư San San, là bố vợ của Lư Phật Kỳ, là người thân của họ, nhưng xuất hiện quá thường xuyên, đã ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của hai vợ chồng.
Hai vợ chồng kể cho tôi nghe. Tôi đến nhà chúng. Trước tiên tôi làm phép tịnh thủy, tôi rảy nước tịnh đến đâu, ông ấy nhanh chóng tránh đi đến đó, tôi đã rảy tịnh khắp cả nhà. Ông ấy bị đẩy ra ngoài cửa. Ông ấy nói: "Lư Sư Tôn (thông gia), tôi không thể ở ngoài được, nếu bị thần ngày, thần đêm bắt gặp, sẽ bị bắt đi mất." Tôi nói: "Linh hồn về nơi linh hồn, cát bụi về nơi cát bụi, ông hãy đi tìm nơi của mình đi!" Ông ấy nói: "Tôi muốn chăm sóc con gái Lư San San." Tôi nói: "Ông muốn bảo vệ con gái, tôi không trách, nhưng hiện diện quá rõ ràng, ngược lại ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của hai đứa, hay là để tôi siêu độ ông về Phật quốc tịnh thổ nhé!" Ông ấy nói: "Tôi không quen, sợ lắm, không muốn đi." (Khi còn sống, ông ấy là tín đồ Thiên Chúa giáo, nhưng không mấy thành tâm, lên thiên đường không được, xuống địa ngục cũng không xong.)
Tôi hỏi: "Vậy ông muốn đi đâu?" Ông ấy đáp: "Ở bên cạnh San San!" Tôi nói: "Tôi sẽ biến tháp Thất Xảo Linh Lung thành nhà của ông, ông hãy vào ở trong đó! Nhớ nhé, vô hình thì phải vô hình, không được hiện thân nữa, âm dương phải phân biệt, người và ma khác nhau, ông ăn khí, người ăn thức ăn hữu hình; họ cúng dường ông, ông phù hộ họ, ông cũng không được ảnh hưởng đến hai cháu nội của tôi Lư Hoằng và Lư Quân, như vậy được không?" Ông ấy đáp: "Được!" Từ đó, hồn ma của nhạc phụ đại nhân không còn hiện thân nữa!
14. Đại pháp hội trên bãi biển
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2011, lúc 1 giờ 30 chiều, tôi đã chủ trì đại pháp hội phóng sinh tại bãi biển cảng Ô Thạch, thị trấn Đầu Thành, Nghi Lan. Pháp hội này do: Thượng sư Liên Duyệt. Thượng sư Liên Diệu. Thượng sư Liên Đăng. Sư tỷ Châu Nghi Lan. Thị trưởng thị trấn Đầu Thành. (Trần Tú Viên) Đứng ra tổ chức đại pháp hội ngoài trời đặc biệt trên bãi biển. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời tôi chủ trì đại pháp hội trên bãi biển đối diện với biển cả và đảo Quy Sơn, thật sự là một trải nghiệm độc đáo.
Những điểm đặc biệt là: Trên bãi biển dựng lên một pháp đài cao, với hệ thống âm thanh và ánh sáng có thể nói là hàng đầu. (Còn có trống Già La Thần, trống Cửu Thiên Thần) Bên cạnh bờ biển, xây dựng một mandala cát Thời Luân Kim Cang với khí thế phi phàm.
Trước mandala Thời Luân Kim Cang, dùng cát tạo nên một bức tượng Diêu Trì Kim Mẫu vô cùng tinh xảo, sống động. Xung quanh có ba mươi ba mandala cát nhỏ, tượng trưng cho Đế Thích Thiên và ba mươi ba vị thiên chủ. Cá giống được thả xuống biển theo phương thức tiếp sức, những cá giống này là đồng loại thả vào với đồng loại, nghĩa là thả những loại cá giống đặc trưng của cảng Ô Thạch.
Điều kỳ diệu là: Cảng Ô Thạch đã mưa lớn liên tục hơn nửa tháng, ngày nào cũng mưa to, chỉ riêng ngày diễn ra pháp hội thì mưa tạnh. Sau khi pháp hội kết thúc, trời lại tiếp tục mưa không ngừng. Ở cảng Ô Thạch, ngày nào cũng có gió giật cấp tám đến cấp mười, khi tôi bước lên pháp tọa. Tôi hô: "Gió ngừng!" Gió liền ngừng thổi. Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật) quả thật có thể hô phong hoán vũ. Bảo mưa ngừng, mưa liền ngừng. Bảo gió dừng, gió liền dừng. Có thể gọi đây là một phép màu vĩ đại, Thần Mưa, Thần Gió đều nghe theo mệnh lệnh của tôi.
Mọi người còn nhớ đại pháp hội Khổng Tước Minh Vương ở Đài Loan Lôi Tạng Tự không? Hôm đó ngoài trời nắng chói chang, tôi nói với Khổng Tước Minh Vương: "Mặt trời ơi! Ông muốn làm cho đệ tử của tôi bị bỏng da sao? Xin Khổng Tước Minh Vương hãy dang đôi cánh ra, che bớt ánh mặt trời đi!"
Chỉ trong tích tắc, hai đám mây đen khổng lồ, như đôi cánh chim, che phủ bầu trời nơi pháp hội, rồi từng cơn gió mát thổi về, khiến người nghe pháp thư thái, sảng khoái. (Chỉ riêng bầu trời trên Lôi Tạng Tự mới có mây.) Tôi nói: "Mây đến." Mây liền đến!
Còn nữa, Indonesia gặp đại hạn hán, năm tháng trời không mưa. Tôi đang ở pháp hội tại Senayan. Tôi gọi: "Mưa đến!" Mười lăm phút sau khi pháp hội kết thúc, mưa như trút nước, khiến cả Indonesia đều có mưa, Indonesia có hàng nghìn đảo, tất cả các đảo đều có mưa, giải trừ hạn hán. (Lần này, tạp chí ASEAN có đưa tin.)
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Tổ tiên của tôi là Khương Tử Nha được Nguyên Thủy Thiên Tôn ban tặng cờ Hạnh Hoàng, có thể triệu tập tất cả thần linh trợ giúp. Cờ Hạnh Hoàng vẫy lên, tất cả thần linh trong trời đất đều tuân lệnh.
Tôi không có cờ Hạnh Hoàng. Nhưng tôi có: Phật Tổ luật lệnh. (Phật Vương) Địa Tạng luật lệnh. (Địa Vương) Diêu Trì Kim Mẫu luật lệnh. (Tiên Vương) Ba đại luật lệnh này có thể sai khiến tất cả quỷ thần.
15. Phụ thân vãng sinh
Vào tháng 10 và đầu tháng 11 năm 2011, khi tôi còn ở Seattle, Hoa Kỳ, bố tôi là Lư Nhĩ Thuận lâm trọng bệnh. Ban đầu tôi đã định vội trở về Đài Loan thăm ông. Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Con cứ tiếp tục hành trình hoằng pháp theo kế hoạch, ta sẽ bảo hộ ông ấy. Đợi khi con về Đài Loan sẽ gặp mặt lần cuối, rồi sau đó để cha con vãng sinh."
Tôi đảnh lễ Diêu Trì Kim Mẫu, bước ra khỏi đại điện, cầu nguyện trước lư hương trời. Lần này, Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân, bảo tôi: "Con đừng lo lắng, ta và Kim Mẫu sẽ đích thân đến Đài Loan, tiếp dẫn cha con về cõi Phật tịnh độ." Nghe xong, tôi rất an tâm.
Vào lúc 7 giờ sáng ngày 3 tháng 11, tôi đã về đến Đài Loan, và ngay trong ngày đã vội đến bệnh viện thăm bố. Tôi đã dùng Mật pháp Quang uẩn thiên thức. Khai thiên môn. Đóng địa hộ. Bịt nhân đạo. Chặn quỷ lộ. Bên giường bệnh, tôi đã mở cửa trời cho bố; cửa trời này dẫn thẳng đến cõi Phật tịnh thổ. Không sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Không sinh vào cõi người. Không sinh vào cõi quỷ. (Như vậy tôi đã hoàn toàn yên tâm.)
Tôi về đến Đài Loan ngày mùng 3 tháng 11, chỉ ba ngày sau, ngày mùng 6 tháng 11, bố đã vãng sinh về cõi Phật.
Khi hỏa táng: Đã xuất hiện một viên xá lợi kim cang, bốn viên xá lợi cỡ trung và nhiều viên xá lợi nhỏ. Vô số vô số hoa xá lợi. (Chú thích: Người tiếp dẫn cha về cõi Phật là mẹ tôi Lư Ngọc Nữ, người đã tu thành Quan Thế Âm Bồ Tát.)
Khi cha tôi, Lư Nhĩ Thuận còn sống, tính tình cứng rắn, không tin bất cứ điều gì, việc tôi độ hóa ông rất khó khăn. Mãi đến khi ông già yếu mới dần dần phát tâm học Phật. Mỗi lần tôi về Đài Loan hoặc khi tôi ở lại Đài Loan một năm vào năm 2010, bất kì pháp hội nào của tôi, ông đều tham dự. Trở thành người theo Phật. Tiếp nhận quán đảnh từ mọi vị. Miệng thường niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Hạt giống Phật đã được gieo xuống. Chỉ chờ lớn mạnh.
Pháp sư Liên Đẳng phỏng vấn ông, hỏi: "Ông là phụ thân của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tại sao người cha lại đảnh lễ con trai?" Bố tôi trả lời: "Tôi không phải đảnh lễ con trai mình, mà là đảnh lễ trí huệ Như Lai trong con trai tôi, tức là đảnh lễ chân như Như Lai, như vậy ông có hiểu không?"
Sau khi bố vãng sinh, ông đã về thăm tôi một lần, vuốt ve chân tôi, đánh thức tôi dậy. Bố tôi hào quang rạng rỡ, mỉm cười trong không trung.
Tôi xin cảm ơn tất cả những người đã chăm sóc bố tôi: Tiểu Chương. Vương Tư Chủ. Vợ chồng Hứa Hồng Xuân. Bác sĩ Lý Gia Lâm. Bác sĩ Tạ. Pháp sư Liên Hạnh. Thượng sư Lạc Trí. Bốn người em gái và các em rể. Thân quyến của Sư Mẫu. Phó viện trưởng Thi của Bệnh viện Đại học Y dược Trung Quốc. ...
16. Tôi và Thành Hoàng là tri giao
Tôi sinh ra bên bờ sông Ngưu Trù ở Hậu Hồ, Gia Nghĩa. Năm 1945, khi máy bay Mỹ ném bom Gia Nghĩa, cha mẹ tôi đã lánh nạn đến trại gà ở sông Ngưu Trù, và tôi đã chào đời trong trại gà. Thật trùng hợp là: Chúa Jesus sinh ra trong chuồng ngựa. Lư Thắng Ngạn sinh ra trong chuồng gà.
Tôi là đứa trẻ sinh non nên khó nuôi, từng được gửi cho Thành Hoàng Gia Nghĩa nhận làm con nuôi. Ngay từ khi mới sinh, tôi đã kết được duyên lành với thần linh Thành Hoàng. Lành thay! Lành thay!
Sau này, tôi mới biết Thành Hoàng có nhiều cấp bậc: Đô Thành Hoàng. Phủ Thành Hoàng. Huyện Thành Hoàng. Ấp Thành Hoàng. (Đài Nam còn có một vị Tiểu Thành Hoàng.)
Sau khi khai mở thiên nhãn, tôi đã trở thành tri giao với Thành Hoàng ở đường Trung Hiếu, Đài Trung. Tôi nhớ khi ở Phật Giáo Liên Xã trên đường Dân Sinh, Đài Trung, một số đạo hữu như cư sĩ Uyển, cư sĩ Tưởng, cư sĩ Ôn và những người khác biết tôi có khả năng thông linh nên đã hỏi tôi việc.
Tôi an định tâm lại. Bỗng thấy từ trên không trung hiện ra một người, mặc áo đỏ, đầu đội mũ ô sa, tướng mạo chính trực trang nghiêm, chính là Thành Hoàng Đài Trung không thể nhầm lẫn. Các cư sĩ lần lượt hỏi việc. Tôi hỏi Thành Hoàng. Thành Hoàng lần lượt trả lời. Các cư sĩ giơ ngón tay cái lên, thốt lên: "Thần toán chuẩn quá!"
Lúc đó, khi tôi giúp người ở Đài Trung hỏi việc, hễ gặp khó khăn là tôi viết một mảnh giấy, trên đó ghi: "Xin Thành Hoàng gia hộ!" Người đến hỏi việc cầm mảnh giấy đó đến đền Thành Hoàng, đốt mảnh giấy cùng vàng mã. Việc liền được giải quyết dễ dàng. Bạn nói có lạ không.
Tôi dạy phương pháp cầu con cũng là cầu Thành Hoàng Đài Trung, năm đó, không biết có bao nhiêu người đã cầu con thành công từ Thành Hoàng Đài Trung. Năm đó, mũ của Thành Hoàng có thể chữa khỏi nhiều căn bệnh nan y, chỉ cần tháo mũ của Thành Hoàng, đội lên đầu bệnh nhân ba lần, bệnh nhân lạ thay đã khỏi bệnh hoàn toàn. Bạn nói có lạ không. Lúc đó, tôi vẫn còn trong quân ngũ.
Chuyện của phó đại đội trưởng Ngụy Thanh Bình, mọi người đều rất quen thuộc, tôi xin nhắc lại ở đây. Ngụy Thanh Bình và tôi cùng đến núi Củng Bắc ở Bành Hồ để đo đạc. Ngụy cầm tiền xu nói với tôi: "Sĩ quan đo đạc Lư này, trong tay tôi đang nắm một nắm tiền xu, anh tự nói mình có thể đoán được, vậy nếu đoán trúng, tôi sẽ tin anh. Nếu đoán không trúng, từ nay về sau, xin anh đừng nói chuyện Phật pháp gì trong đơn vị nữa!"
Tôi bị khích tướng. Chỉ còn cách bình tâm lại. Lúc này, Thành Hoàng Bành Hồ hiện đến, nói với tôi: "Mười bốn đồng." Tôi trả lời: "Mười bốn đồng." Phó đại đội trưởng Ngụy Thanh Bình mở tay ra, đếm từng đồng xu, đếm đến đồng thứ mười ba, trong tay còn lại một đồng, đúng là mười bốn đồng. Ngụy Thanh Bình nói: "Tôi tin rồi!"
Từ đó đến nay, Ngụy Thanh Bình không ngừng niệm Phật. Ông ấy đã hai lần làm chứng cho tôi; một lần ở sân vận động Đào Viên, một lần ở Đài Loan Lôi Tạng Tự.
Tôi thật lòng nói với mọi người, việc tôi kết bạn với thần linh là sự thật không thể chối cãi.
17. 36 vị tiểu Địa Tạng Bồ Tát
Tôi có nhân duyên sâu đậm với Địa Tạng Bồ Tát, ngài thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm của tôi; Ngài là người anh của tôi, tôi gọi Ngài là đại huynh Địa Tạng. Có khi như tri kỷ, tâm đầu ý hợp, như keo như sơn, không phân biệt ta người. Có khi lại như cha con.
Ngài là một trong ba Bổn tôn của tôi - Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát.
Địa Tạng Bồ Tát đối với tôi tốt vô cùng, tốt không thể tả, hơn nữa, khi tôi đến tịnh thổ của Địa Tạng Bồ Tát là tịnh thổ Thúy Vi, dường như chỉ có mình tôi mới có thể vào được.
Không những thế, Địa Tạng Bồ Tát còn phái một trong mười đại Quỷ Vương dưới trướng là Tiếu Diện Quỷ Vương theo bên tôi, hộ trì tôi độ chúng sinh ở nhân gian; những hung thần ác sát, hễ thấy Tiếu Diện Quỷ Vương xuất hiện là bỏ chạy tán loạn. Tiếu Diện Quỷ Vương ẩn thân trong ngón cái tay phải của tôi, trong vân tay ngón cái của tôi có tướng của Tiếu Diện Quỷ Vương.
Một đêm nọ. Đột nhiên xuất hiện ba mươi sáu vị tiểu Địa Tạng Bồ Tát, cả ba mươi sáu vị đều có gương mặt giống hệt nhau, tay cầm tích trượng, đội mũ ngũ Phật, tay kia cầm bảo châu, ngồi trên con Đế Thính. Các ngài nói với tôi: "Lư Sư Tôn, thầy nhất định phải thả chúng tôi ra, nhất định, nhất định." Tôi nghe xong giật mình. "Chuyện gì vậy?" Ba mươi sáu vị Địa Tạng đồng thanh: "Ngày mai sẽ rõ, nhất định phải thả ra."
Ngày hôm sau, tôi được một ngôi chùa mời đến xem địa lý chùa, ngôi chùa này quy mô không nhỏ, có thể nói là vàng son lộng lẫy. Trụ trì nói: "Ngôi chùa này vốn rất nhỏ, sau đó vì rất linh thiêng nên người dân địa phương quyên góp xây dựng thành ngôi chùa lớn. Sau đó tôi làm trụ trì, nhưng không ngờ, sau khi xây thành chùa lớn, ngược lại, hương khói thưa thớt, khách thập phương không đến, sân chùa vắng lặng."
Tôi đến lễ từng điện. Khi đến điện tháp Địa Tạng, thấy một tượng Địa Tạng Bồ Tát bằng vàng cao lớn sừng sững.
Tôi hỏi: "Chùa đã xây to như vậy, sao lại không thịnh vượng?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Phải đợi Lư Sư Tôn đến mới thịnh vượng!" Tôi hỏi: "Tại sao vậy?" Địa Tạng Bồ Tát đáp: "Ngày xưa chùa nhỏ mà thịnh vượng, ngày nay chùa to mà suy tàn. Chỉ vì người ta không hiểu đạo lý thịnh suy, không biết uống nước nhớ nguồn, ba mươi sáu tượng tiểu Địa Tạng vốn có xưa kia bị vứt bỏ trong phòng kho, không ai cúng bái, nên mới không thịnh vượng." Tôi hỏi: "Ba mươi sáu tượng tiểu Địa Tạng quan trọng đến vậy sao?" Ngài đáp: "Chùa nhỏ linh ứng là nhờ sức linh ứng của các tiểu Địa Tạng; xây thành chùa lớn, ba mươi sáu tượng tiểu Địa Tạng bị vứt bỏ trong kho, chùa làm sao không suy tàn?" Tôi hỏi: "Chẳng phải tượng Phật Bồ Tát hiện tại to lớn và trang nghiêm hơn sao?" Ngài đáp: "Bồ Tát không phân biệt to nhỏ, có linh lực là linh ứng."
Tôi hỏi vị trụ trì: "Các vị đã cất giữ 36 tượng tiểu Địa Tạng từ thời khai chùa phải không?" Trụ trì đáp: "Tôi không biết, vị trụ trì tiền nhiệm thấy đã có tượng Bồ Tát lớn rồi nên đem các tượng nhỏ cất ở đâu đó không rõ." Tôi nói: "Trong phòng kho."
Trụ trì dẫn tôi đến phòng kho, vừa mở cửa, một mùi ẩm mốc xộc lên, mạng nhện bụi bặm phủ đầy, đồ đạc chất đống, trong đống đồ đạc, phát hiện các tượng tiểu Địa Tạng, đếm thử, đúng là 36 tượng. Trụ trì kinh ngạc, nói: "Lư Sư Tôn quả nhiên lợi hại!"
18. Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Đãng Ma Thiên Tôn
Vào một ngày nọ tại Seattle Lôi Tạng Tự ở Mỹ. Có một bé gái từ California đến, dường như bị "nhập", "nhập" tức là bị tà linh xâm nhập. Nếu mọi người đã xem phim "The Exorcist" [Thầy trừ tà] sẽ hiểu đây là chuyện gì. Cô bé xinh xắn bỗng nhiên biến sắc, như một con người hoàn toàn khác. Mặt mày méo mó dữ tợn. Mắt long lên hung dữ. Há miệng thè lưỡi. Răng trắng nhởn muốn cắn người. Mọi người vừa thấy, kinh hãi, vội vàng tránh xa.
Lúc này, chỉ thấy Lư Sư Tôn vẫn điềm nhiên, kết ấn ngũ lôi, hà một hơi, phóng lôi ấn ra. Chỉ nghe "ầm" một tiếng, cô bé vốn đang vung vẩy chạy về phía tôi, bỗng ngã xuống đất, sùi bọt mép, sau đó tỉnh lại, trở về là cô bé xinh xắn như cũ. Mọi người vỗ tay.
Tuy nhiên, không lâu sau "tà linh" lại nhập vào, khuôn mặt lại biến thành quỷ muốn cắn người, lao về phía tôi. Lần thứ hai này, tôi không khách sáo nữa, Tiếu Diện Quỷ Vương xuất hiện, tôi kết ấn phi luân bằng hai tay, xoay vòng trên đầu cô bé, cô bé liền kêu lên: "Không dám nữa! Không dám nữa!" "Bịch!" - Cô bé lại ngã xuống đất. Tà linh quỷ vật thực sự đã chạy mất.
Lần này, cô bé mới thực sự trở lại bình thường, và tà linh không còn nhập vào nữa. Người mẹ đưa cô bé đến liên tục hỏi tôi: "Làm sao đây? Làm sao đây? Khi con bé về California, tà linh sẽ lại nhập vào, chúng tôi phải làm sao?" Tôi trầm ngâm một lúc. Nghe thấy một giọng nói: "Lư Sư Tôn! Việc này để tôi lo, mọi việc sẽ được giải quyết."
Tôi ngước nhìn lên đàn thành. Trên đàn thành, một vị tôn giả đội mũ tướng quân, mình khoác áo giáp, tay phải cầm bảo kiếm, chân đạp lên rùa và rắn. Pho tượng thần này, toàn thân tỏa hào quang, chính là Ngài đang mở lời. Ngài chính là: Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Đãng Ma Thiên Tôn.
Tôi vừa thấy, liền nói liên tiếp: "Lành thay! Lành thay! Cô bé đã được cứu rồi!" Tôi vẽ phù thượng yểm. Rồi gia trì cho cô bé. Nghe nói sau khi về California, hiện tượng "bị nhập" của cô bé ngày càng ít đi, cuối cùng hoàn toàn trở lại bình thường.
Một ngày nọ, họ quay trở lại Seattle Lôi Tạng Tự, đặc biệt đến để tạ ơn chư Phật Bồ Tát. Cô bé chỉ vào tượng Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Đãng Ma Thiên Tôn và nói: "Chính vị này đã cứu con." Trong lòng tôi thầm nghĩ: "Chính xác quá!" Bởi vì việc Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Đãng Ma Thiên Tôn sẽ bảo hộ cho cô bé, tôi chưa từng nói cho mẹ cô bé hay bất kỳ ai biết. Sau đó: Chính cô bé đã tự chỉ ra vị thần đã cứu mình, chính là: Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Đãng Ma Thiên Tôn. Đây chính là sự tương ứng.
(Ban đầu, khi cô bé bị nhập, họ đã tìm khắp các chùa, miếu, cung, điện ở California, cũng tìm hết tất cả danh y, tất cả người có khả năng thông linh nhưng vẫn không thể chữa trị được. Các đại pháp sư, Hoạt Phật, Thượng sư, đạo trưởng, đồng cốt... đều nói: "Không thể chữa được". Sau đó họ nghe tin tôi đang ở Seattle và muốn đến tìm tôi, một đại pháp sư nói: "Tìm Lư Thắng Ngạn cũng vô ích thôi, pháp lực của tôi còn lớn hơn Lư Thắng Ngạn". Kết quả sau đó thế nào, mọi người đều đã biết!)
Thật ra tôi - Lư Sư Tôn cũng không dám tự khoe pháp lực của mình lớn đến đâu, tôi chỉ thuận theo tự nhiên để độ hóa chúng sinh mà thôi, tôi chỉ là "luật lệnh tại đây, trăm thần tương trợ".
19. Mở miệng là linh nghiệm
Có một doanh nhân Hồng Kông là sư huynh Trịnh, tự nghiên cứu và phát minh nhiều pháp khí Mật giáo, những pháp khí này rất tinh xảo. Gồm có: Tràng hạt sáng đẹp. Hộ thân phù tinh tế. Chày kim cang thập tự. Bình cam lộ báu. Lư cúng khói. Và nhiều thứ khác nữa...
Không chỉ được chế tác tinh xảo, mỗi món pháp khí đều có họa tiết tôn quý, như hình ô lọng, tám cát tường, mây cát tường, trang nghiêm và toát lên khí chất cao quý. Pháp khí Mật giáo do sư huynh Trịnh nghiên cứu chế tạo là loại có thể tháo rời, từng bộ phận có thể tách ra và lắp ráp lại, giống như "robot biến hình", khiến chúng tôi phải trầm trồ thán phục.
Pháp khí của sư huynh Trịnh là quà tặng miễn phí, anh ấy đã giúp đỡ Quỹ Từ thiện Lư Thắng Ngạn rất nhiều, chỉ cần bạn cúng dường cho quỹ bao nhiêu tiền là có thể nhận được pháp khí tặng kèm từ sư huynh Trịnh. Những món quà quý giá này có giá trị không nhỏ. Những pháp khí này hoàn toàn không liên quan đến công ty của sư huynh Trịnh, anh ấy thuần túy bỏ tiền bỏ công sức vì Chân Phật Tông, tất cả đều tặng miễn phí, nên anh ấy tự gọi mình là "ngốc tử".
Tôi từng cười anh ấy: "Anh làm vậy, công ty chẳng phải sẽ phá sản sao?" Anh ấy đáp: "Không lo việc chính."
Thật kỳ lạ là, ngay khi tôi vừa nói đùa câu "công ty chẳng phải sẽ phá sản". Công ty của sư huynh Trịnh bỗng nhiên không còn đơn hàng nào, một đơn hàng cũng không có. Không có đơn hàng, dây chuyền sản xuất của công ty biết làm gì đây?
Sư huynh Trịnh lo lắng, anh ấy tìm đến tôi: "Lư Sư Tôn chỉ nói một câu 'công ty chẳng phải sẽ phá sản', mà giờ con không còn một đơn hàng nào, đúng như lời thầy nói rồi. Xin Sư Tôn giúp con, xin thầy nói trên pháp tọa, mở lời kim khẩu, nói rằng công ty của sư huynh Trịnh sẽ có đơn hàng! Con cầu xin thầy." Tôi hỏi: "Thật vậy sao?" Anh ấy đáp: "Lư Sư Tôn là Phật, Phật không nói chơi."
Ngày hôm đó, tôi thuyết pháp tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, trên pháp tọa tôi nói: "Hãy để công ty của sư huynh Trịnh có đơn hàng! Hãy để việc kinh doanh của anh ấy phát đạt!"
Thật kỳ lạ, vừa về đến Hồng Kông, anh ấy lập tức nhận được một đơn hàng lớn, hiện tại công việc kinh doanh khởi sắc, ngày càng phát đạt, thật đáng mừng. Vừa mở lời đã linh nghiệm? Thật là chuyện lạ. Tôi nói: "Phá sản!" Đối phương liền mất hết đơn hàng. Tôi nói: "Hưng thịnh!" Đối phương liền có đơn hàng. Thật kỳ lạ, miệng của tôi linh nghiệm đến vậy sao?
Ngoài ra: Tôi làm pháp hội tại bãi biển cảng Ô Thạch ở thị trấn Đầu Thành, Nghi Lan. Ba tuần trước đó, trời mưa lớn hàng ngày, nhưng khi tôi làm pháp hội, chỉ có ngày đó là tạnh mưa. Trên pháp tọa, tôi lại nói: "Pháp hội vừa xong, ông cứ tiếp tục mưa lớn đi!"
Nếu không nói câu này thì thôi, tôi vừa mở miệng, tối hôm đó trời đã bắt đầu mưa lớn. Thế là Hoa Liên, Đài Đông, Nghi Lan mưa lớn không ngừng, nhiều hoa màu bị ngập úng hoàn toàn, lại thêm đá lở, lũ bùn, ngập lụt, đường sá bị phong tỏa, suối nước dâng cao, nước ngập tới nóc xe, nhà cửa lại bị ngập nước.
Tôi nghĩ, mình không thể đùa bừa nữa, bởi vì dường như vừa mở miệng là linh nghiệm. Phật không nói chơi thật!
20. Miệng của Thủy Thiên Thần
Giữa tháng 11 năm 2011, nước Thái Lan ở Đông Nam Á gặp cơn đại hồng thủy, tổn thất thật sự không thể ước đoán. Nghe nói có ba nguyên nhân của cơn đại hồng thủy này: 1. Thời tiết khác thường. 2. Nhân tố địa lý. 3. Con người lơ là. Thời tiết khác thường là đổ mưa lớn. Nhân tố địa lý là sông ngòi chảy ra cửa biển Thái Bình Dương, lúc bình thường có thể chảy thông, nhưng vào lúc bất thường thì sẽ tràn ngập đê điều. Con người lơ là tức là công trình thủy lợi của cả nước Thái Lan không tốt, công trình chống lũ lụt tiêu thoát nước đều không đủ, không cách nào ứng phó. Trận lũ lụt ở Thái Lan, ngay cả thủ đô Bangkok cũng không có cách nào tránh được. Nói ra thì đã muộn, lũ ập đến thì nhanh, 30% khu vực Bangkok đã bị ngập nước, e rằng 70% khu vực còn lại cũng sắp bị ngập rồi. Ở Thái Lan, Chân Phật Tông có Mật Hành Đường, địa điểm ở Bangkok. Có một đệ tử cầu nguyện Liên Hoa Đồng Tử.
Đêm ấy. Lư Sư Tôn xuất hiện trong mơ của đệ tử, nói với đệ tử: "Anh đi theo tôi!" Lư Sư Tôn đưa đệ tử đến một nơi, nói: "Anh nhìn đi!" Nói đó hiện ra một hố nứt lớn. Tất cả nước lũ trở thành vòng nước xoáy lớn, liên tục bị hố nứt lớn trên mặt đất hút vào.
Ngày 23 tháng 11 năm 2011, cơn đại hồng thủy ở Bangkok đột ngột rút. Cơn lũ rút rồi, không hiểu vì sao lại rút! Vốn dĩ thành phố Bangkok đều sắp bị ngập hết rồi, kết quả là chỉ ngập 30% khu vực, còn 70% khu vực khác thì tất cả đều như bình thường. Đệ tử Chân Phật ở Mật Hành Đường đều lan truyền ca ngợi sự việc này, mặt đất nứt ra hố lớn, hút hết nước lũ vào đó.
Ở Thái Lan, tôi có sách xuất bản bằng tiếng Thái, đệ tử xuất bản sách bằng tiếng Thái của tôi là sư tỉ Trương Ngọc Phương, nhà cô ấy không bị ngập. Lành thay! Lành thay! Bangkok ngập lụt, chỉ ngập đến 30% thành phố thì nước lũ đã rút rồi, chuyện này là thế nào? Là vì đệ tử thỉnh cầu Liên Hoa Đồng Tử sao?
Theo như tôi biết: Đó là Liên Hoa Đồng Tử đã thỉnh Thủy Thiên Thần đến. Thủy Thiên tên tiếng Phạn là Bà La Na, là một trong mười hai thiên của Mật giáo, một trong tám phương thiên bảo vệ thế giới, canh giữ tại tây phương thiên, là vua của tộc Rồng.
Thủy Thiên Thần là đại thần của Ấn Độ giáo, là chủ của tất cả sông ngòi, thống trị tất cả nước của nhân loại. Lư Sư Tôn phụng thỉnh miệng của Thủy Thiên Thần nuốt hết nước lũ của Thái Lan. Tay tôi kết ấn Thủy Thiên: Tay trái nắm lại, ngón cái không đặt trong lòng bàn tay, ngón trỏ giơ ra và hơi cong lại. Trì chú phụng thỉnh Thủy Thiên: "Na-mô san-man-tô mô-tho-nan a-pan-hô-tô-ya sô-ha." Rồi: "Ôm pô-lô-na-ya sô-ha." Rồi: "Ôm mô-thô sư-li sô-ha."
Thế là, Thủy Thiên Thần há to miệng, nuốt tất cả đại hồng thủy. Những người từng đến thành phố Bellevue ở Seattle nước Mỹ đều biết trong mật đàn ở Nam Sơn Nhã Xá của tôi có thờ cúng Thủy Thiên Thần. Thủy Thiên Thần trong tám phương thiên, mười hai thiên, hai mươi thiên, là vị thiên thần xinh đẹp nhất. Ngài sống ở trong biển, đứng trên ốc biển. Một đầu hai tay. Trên đầu mọc ra rong rêu làm mũ miện. Tướng mạo xinh đẹp như tiên trời, thân trên để trần. Những đường cong đẹp lung linh quyến rũ, nửa dưới mặc thiên y váy xếp. Xung quanh có long tộc, thủy tộc, ngư tộc vây quanh, chắp tay hướng về Thủy Thiên Thần.
Lư Sư Tôn tôi mỗi ngày tu pháp, nhất định sẽ gọi tên của Thủy Thiên Thần, trì chú của Thủy Thiên Thần. Vì thế, Thủy Thiên Thần đã dùng miệng để nuốt hết đại hồng thủy, cứu tai họa lũ lụt ở Thái Lan.
21. Hai vị phúc thần đứng gác
Có lần tôi đến một nhà hàng ăn cơm, vừa bước vào cửa thì giật mình, bởi vì bên trong cửa có hai vị Phúc Đức Chính Thần (Thổ Địa Công) đang đứng. Tôi mỉm cười chào hai vị Phúc Đức Chính Thần. "Chào các ngài!" Lần này đến lượt hai vị phúc thần ngạc nhiên, không ngờ ở nhân gian lại có một người thực sự nhìn thấy được các ngài. Hai vị Phúc Đức Chính Thần cũng rất tự nhiên nói: "Mời khách ngồi."
Trong nhà hàng tôi nghe hai vị phúc thần thì thầm: "Vị đó là ai?" "Lư Sư Tôn đấy, ông không biết sao?" "Là thần thánh phương nào?" "Kiếp trước là Liên Hoa Đồng Tử, kiếp này độ chúng sinh." "Liên Hoa Đồng Tử là ai?" "Là hóa thân của Phật A Di Đà." "Ái chà! Không phải tay vừa. Bảo sao ông ấy nhìn thấy được chúng ta." "Ông ấy có rất nhiều sự tích thần kỳ."
Nghe đến đây, tôi không muốn nghe tiếp nữa, tắt luôn "thiên nhĩ thông" của mình. Tôi nói với đệ tử ngồi cùng bàn: "Nhà hàng này rồi sẽ rất thịnh vượng!"
Sau này, quả nhiên ứng nghiệm lời tôi tiên đoán, từ một cơ sở mở rộng thành hai cơ sở, rồi ba cơ sở, rồi bốn cơ sở, rồi năm cơ sở..., làm ăn phát đạt không tưởng, tài lộc dồi dào, kinh doanh thịnh vượng, tiền bạc cứ thế ùn ùn kéo về.
Tại sao tôi có thể tiên đoán nhà hàng sẽ thịnh vượng? Bởi vì: Có hai vị phúc thần đứng gác, làm sao mà không thịnh vượng được!
Nhiều năm sau. Tôi quay lại nhà hàng này, vừa bước vào cửa, tôi đã không còn thấy hai vị Phúc Đức Chính Thần nữa; thay vào đó, tôi thấy có vài "phi nhân" giống như hung thần ác quỷ, đang vội vã qua lại trong nhà hàng. Tôi hít một hơi, Cảm nhận toàn là "sát khí". Tôi thực sự kinh ngạc, chuyện gì đã xảy ra vậy? Hai vị Phúc Đức Chính Thần đã biến mất, thay vào đó là một đám hung thần ác sát. Tôi nói với đệ tử ngồi cùng bàn: "Xong rồi! Nhà hàng này sắp phá sản!"
Sau đó quả nhiên ứng nghiệm. Thức ăn trong nhà hàng có vấn đề, hàng trăm người bị ngộ độc tập thể, phải vào viện, danh tiếng tụt dốc không phanh. Ngày xưa, xe cộ tấp nập người đông. Ngày nay, vắng tanh vắng ngắt.
Trong lúc sửa chữa bên ngoài nhà hàng lớn, giàn giáo bất ngờ sập, khiến nhiều người chết và bị thương. Rồi hai chi nhánh nhà hàng vô cớ bốc cháy, ngọn lửa rất lớn, có người chết cháy, bị lệnh đóng cửa. Chủ nhà hàng đi sòng bài, thua một khoản tiền lớn! Chủ nhân sa đọa. (Chủ nhân dâm loạn với vợ con người khác.) Chủ nhà hàng chơi cổ phiếu bị thua lỗ nặng. Cổ đông mâu thuẫn. Kiện tụng liên miên. Tóm lại, chuyện xui xẻo cứ liên tiếp xảy ra, sự thịnh vượng bao năm chỉ trong vài năm đã trở về con số không.
Một ngày nọ, tôi gặp hai vị Phúc Đức Chính Thần. Tôi nhắc đến chuyện này, hai vị kể cho tôi nghe rằng, khi chủ nhân đang ở đỉnh cao của sự nghiệp. Vợ thất đức, dan díu với tài xế công ty. Chồng thất đức, bên ngoài có ba người tình. Nhà hàng thất đức, biết rõ thực phẩm hết hạn vẫn đem ra cho khách ăn, lại còn tham gia băng đòi nợ, kết giao bạn xấu. Ngày đêm đánh bạc. Cưỡng đoạt tiền bạc của các cổ đông. Hai vị Phúc Đức Chính Thần không chịu nổi, bèn bỏ đi! Thế là phúc phần cũng tiêu tan!
22. Mua hai mảnh đất nhỏ
Trong thời gian sống ở Mỹ, tôi đã mua hai mảnh đất nhỏ. Dĩ nhiên là do môi giới dẫn tôi đi xem rồi tôi mua.
Mảnh đất đầu tiên nằm rất xa nhà, theo quốc lộ số 5 đi về phía Bắc, đến lối ra 212 rẽ về phía Tây, đến một nơi mà tôi gọi là bán đảo Kermit, mất khoảng một tiếng rưỡi lái xe.
Khu đất này giáp Thái Bình Dương, là nơi tôi gặp Bát Đại Long Vương. Lúc đó khu vực này khá hoang vu, dân cư thưa thớt nên giá rất rẻ. Tôi mua để xây dựng Đại Học Chân Phật. (Lúc đó tôi nghĩ vậy.) Diện tích đất là 130 mẫu. Tôi tụng thần chú an thổ địa: "Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha." Tôi dậm chân trái xuống đất ba lần. Một vị Thổ Địa Công xuất hiện.
Tôi hỏi: "Mảnh đất này có thể mua không?" Ngài đáp: "Được." Tôi hỏi: "Liệu có tăng giá không?" Ngài đáp: "Sẽ tăng trưởng ổn định." Thế là tôi mua nó, và quả thật là "tăng trưởng ổn định", có tăng giá nhưng khá chậm.
Còn nữa: Mảnh đất thứ hai nằm ở phía Nam nhà, từ quốc lộ 405 đi về phía Nam, đến khu vực Kent, diện tích đất chỉ có 30 mẫu. Khi đó khu vực xung quanh cũng hoang vu không một bóng người, là một vùng rừng rậm, cỏ dại mọc um tùm. Gần đó chỉ có một siêu thị, không có một ngôi nhà nào. Mảnh đất này cũng rất rẻ. Tôi tụng thần chú an thổ địa: "Na-mô sa-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha." Tôi dậm chân trái xuống đất ba lần. Cũng có một vị Thổ Địa Công xuất hiện. Tôi hỏi: "Mảnh đất này có thể mua không?" Ngài đáp: "Được." Tôi hỏi: "Liệu có sinh lời không?"
Ngài không trả lời, chỉ tay vẽ một vòng tròn trên không trung. Tôi nhìn vào thật kinh ngạc, trời ơi! Từ trong vòng tròn hiện ra vô số con đường thương mại, các trung tâm mua sắm mọc lên san sát, xung quanh là những khu dân cư, nhà cửa san sát, xe cộ tấp nập, một cảnh tượng phồn hoa đô hội. Tôi giật mình. Hỏi: "Tăng giá được bao nhiêu?" Đáp: "Hai mươi lần." Tôi đương nhiên không nói thêm gì nữa, mua luôn.
Kết quả đúng là như vậy. Từ nơi hoang vu không một bóng người ban đầu, chính quyền quy hoạch thành khu thương mại, phía sau khu thương mại là khu dân cư. Chỉ vài năm sau đã trở thành một đô thị mới. Từ không thành có, từ hoang vu thành phồn hoa, mảnh đất nhỏ của tôi tăng giá gấp hai mươi lần. Trời ơi! Thật khiến người ta phải giật mình.
Lại nữa: Năm đó tôi đi ngang qua một mảnh đất. Tôi thấy mảnh đất ấy lóe sáng rực rỡ một cách kỳ lạ, đến nỗi mắt tôi không thể mở ra được. Tôi nói: "Đây là mảnh đất của người giàu nhất thế giới!" (Lúc đó tôi không có tiền để mua.)
Sau này quả nhiên ứng nghiệm, mảnh đất đó đã được Bill Gates mua lại và xây dựng công ty Microsoft. Bill Gates đã trở thành người giàu nhất thế giới, quả thật là "thần đoán siêu chuẩn".
23. Miệng tuôn ra hoa sen trắng
Một ngày nọ, khi đi ngang qua một ngôi chùa lớn, tôi nghe thấy tiếng tụng kinh vọng ra từ trong chùa, tò mò bước vào. Hóa ra trong chùa đang làm lễ, ở giữa có một vị mặc áo cà sa màu vàng, khoác bên ngoài là áo giới màu đỏ, đầu cạo trọc. Xung quanh có hai hàng nữ cư sĩ mặc áo màu xanh biển sẫm, mỗi vị đều ôm kinh tụng niệm. Phía sau các vị mặc áo xanh biển là một nhóm tín chúng, tuy không đông lắm nhưng cũng làm chật kín Đại Hùng Bảo Điện. Tôi lắng nghe kĩ thì thấy họ đang tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn của Quan Thế Âm Bồ Tát. Các tín chúng tụng kinh và lễ bái đều rất thành kính, cúi đầu, chỉ nghe thấy tiếng tụng kinh, không một âm thanh nào khác.
Trong Đại Hùng Bảo Điện có ba tôn tượng kim thân. Đó là: Ở giữa là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Bên phải là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Bên trái là A Di Đà Phật. Hai bên là Vi Đà Tôn Giả và Già Lam Tôn Giả.
Trên bàn thờ còn có một tôn tượng Quán Tự Tại bằng lưu ly, tượng Quan Âm này có màu xanh lam pha lẫn màu xanh lục, vô cùng trang nghiêm, vô cùng đẹp đẽ, có hào quang từ bi linh động, tựa như biển cả vậy. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy một giọng nói: "Lư Sư Tôn, thầy cũng tụng kinh đi."
Tôi nhìn theo tiếng nói. Ồ! Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trên bàn thờ đã hóa thân to lớn, tràn ngập cả Đại Hùng Bảo Điện, như bong bóng xà phòng vậy, trong suốt và nhiều màu sắc, hư ảo mà cũng thật. Tôi hỏi: "Tụng kinh gì ạ?" Bồ Tát nói: "Cứ tụng theo." Tôi thưa: "Thưa Bồ Tát! Tôi trước đây có học Phổ Môn Phẩm, biết cả tụng lẫn niệm, nhưng hôm nay không có kinh văn trong tay, làm sao tụng? Tôi biết Cao Vương Quan Thế Âm Kinh, thuộc làu, vậy tôi tụng Cao Vương Kinh nhé!" Bồ Tát gật đầu.
Tôi lại hỏi: "Tôi tụng kinh ở đâu ạ?" Bồ Tát nói: "Thầy hãy đến phòng bên phải, ở đó có một thư viện nhỏ, lúc này không có ai, thầy ngồi đó mà tụng kinh." Tôi hỏi: "Tụng cho ai ạ?" Bồ Tát đáp: "Tự biết." Tôi hỏi: "Tụng bao nhiêu biến ạ?" Bồ Tát đáp: "Một trăm biến." Tôi nói: "Một trăm biến ạ? Ngài muốn tôi khô miệng nứt môi sao, tôi còn chưa ăn cơm trưa nữa! Xin Ngài tha cho tôi, hai mươi lần thôi được không ạ!" Bồ Tát không trả lời, chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Ngày hôm đó, tôi tĩnh tâm lại và tụng một trăm biến Cao Vương Kinh. Tuy Cao Vương Kinh ngắn, nhưng tụng một trăm biến thì thành ra rất dài. Tôi ngồi trong thư viện suốt hơn sáu tiếng đồng hồ mới tụng xong trăm biến. (Mỗi biến mất năm phút, càng tụng càng nhanh.)
Trong lúc đó, có người vào tôi cũng chẳng để ý; có người hỏi tôi cũng chẳng đáp lại, tôi chỉ muốn hoàn thành nhanh công việc vất vả này thôi. Tôi nghe có người nói: "Người này lẩm bẩm gì trong miệng thế, có phải bị điên không?", nhưng chẳng ai đuổi tôi đi cả, chỉ có tôi thầm kêu khổ trong lòng.
Tối hôm đó, tôi đi ngủ. Thấy một trăm cái đầu người quỳ trước giường tôi. Tôi hỏi: "Làm gì vậy? Làm gì vậy?" Cả trăm người nói: "Đa tạ Lư Sư Tôn đã độ chúng con, một trăm người, thoát khỏi biển khổ u minh." "Cái gì?" Cả trăm người đáp: "Mỗi lần Lư Sư Tôn tụng một biến, từ miệng thầy lại hiện ra một đóa sen trắng, chúng con đã nương theo hoa sen để thoát khỏi biển khổ!"
24. Pháp y Dương Nhật Tùng
Tối ngày 23 tháng 11 năm 2011, trong giấc mơ, tôi thấy một người đến trước giường, người này mặc quần kaki màu vàng, áo sơ mi trắng, tóc thưa thớt, màu xám bạc, gương mặt hơi gầy, có nét góc cạnh, tôi không nhận ra đó là ai nên hỏi: "Ông là ai vậy?" Ông ấy đáp: "Dương Nhật Tùng." Tôi nói: "Dương Nhật Tùng? Tên nghe quen lắm nhưng vẫn không biết là ai." Ông ấy đáp: "Pháp y Dương Nhật Tùng."
Lúc này tôi chợt nhớ ra ngay, pháp y Dương Nhật Tùng là một chuyên gia khám nghiệm tử thi nổi tiếng của Bộ Tư pháp, rất có danh tiếng, có nhiều tin đồn về ông và ông đã phá được nhiều vụ án kỳ lạ.
Tôi hỏi: "Không biết ông tìm tôi có việc gì?" Ông ấy đáp: "Cần thầy đưa tiễn tôi một đoạn!" "Ông sao vậy?" "Chết rồi!" "Bệnh gì vậy?" "Ung thư ruột." Tôi hỏi: "Tại sao lại cần tôi đưa tiễn ông?" Ông ấy đáp: "Tôi phải đến Nhật Bản nhận nhiệm vụ, phải vượt biển, dưới biển có oan gia trái chủ, họ sẽ cản đường tôi, cần nhờ Phật pháp của Lư Sư Tôn để hộ trì. Thầy biết đấy, tôi cứu được một bên thì sẽ đắc tội bên kia, tôi là pháp y nên chuyện này là điều không tránh khỏi." "Sao ông lại đi Nhật Bản?" Ông ấy đáp: "Tôi có duyên với Nhật Bản, tôi đến đó làm Thành Hoàng cai quản vùng đó." Tôi kính cẩn đứng dậy, lập tức hộ tống ông ấy đi nhận nhiệm vụ.
Pháp y Dương Nhật Tùng của Đài Loan, thật không ngờ lại đến Nhật Bản làm Thành Hoàng cai quản vùng đó. Dọc đường đi, tuy có oan hồn nhưng đều là vô cớ gây rối, tôi dùng ba ánh sáng hộ trì cho Dương Nhật Tùng, nên chẳng có chuyện gì xảy ra. Dương Nhật Tùng nói: "Có một lần, sau khi khám nghiệm tử thi xong, tôi kết luận là tự sát; trên đường về nhà, linh hồn người chết đuổi theo, vỗ vai tôi một cái, tôi lập tức quay lại khám nghiệm tử thi lần nữa, quả nhiên phát hiện ra điểm đáng ngờ, cuối cùng xác định là án mạng. Đây là một vụ án mạng tinh vi, được ngụy trang thành tự sát, nếu không tinh ý thì không thể phát hiện ra được." Dương Nhật Tùng nói: "Kiếp trước tôi là bí thư cơ yếu của Diêm La Vương, vì vậy kiếp này tôi đầu thai làm pháp y, Diêm La Vương còn từng mời tôi đi ăn cơm đấy!" Dương Nhật Tùng nói: "Lại có một lần, tôi khám nghiệm một người nằm trên đường ray tự sát, ban đầu tưởng là tự sát, sau đó phát hiện linh hồn người chết đuổi theo tàu đòi mạng, mới biết đó lại là một vụ án mạng."
Tôi hỏi: "Ông nhìn thấy được à?" Ông ấy đáp: "Thấy được, có thần có linh." Tôi hỏi: "Có vụ nào oan uổng không?" Ông ấy đáp: "Dĩ nhiên là có, nhưng khi có thần có linh thì sẽ không sai sót được, trách nhiệm của pháp y thật sự rất lớn." Tôi hỏi: "Ông bị bệnh vết hoen tử thi à?" Ông ấy đáp: "Do tiếp xúc với tử thi quá nhiều nên bị nhiễm."
Khi Dương Nhật Tùng đến lãnh thổ Nhật Bản, cả người đều thay đổi, mặc áo choàng đỏ thẫm, đội mũ miện, diện mạo cũng khác, gương mặt tròn trịa, toát lên vẻ chính khí hiên ngang. Tôi tiễn Dương Nhật Tùng một đoạn đường khá xa. Khi tỉnh dậy, vẫn thấy mình nằm trên giường.
25. Thần Garuda
Thần Garuda là tên tiếng Phạn, trong tiếng Hán dịch là Ca Lưu La, Ca Lâu La, Già Lâu La, Kim Sí Điểu, Diệu Sí Điểu, Đại Bàng Kim Sí Điểu và các tên gọi khác.
Vị thần này trong Ấn Độ giáo là một đại bàng có pháp lực vô biên, rất mãnh liệt, là tòa cưỡi của Vishnu. Có hình dáng chim Ca Lâu Đạt. Mắt phẫn nộ. Mỏ sắc nhọn. Hai tay nắm giữ các rồng. Cánh được tạo thành từ các báu vật. Hai cánh dang rộng dài hàng nghìn dặm.
Tương truyền: Một cái vỗ cánh tạo thành bão táp. Pháp tòa của chư thần rung động. Thần Garuda lấy rồng làm thức ăn. Quốc huy của Indonesia lấy chim Garuda làm biểu tượng, nguồn gốc bắt nguồn từ chim Đại Bàng Kim Sí Điểu trong Ấn Độ giáo.
Chân ngôn của vị thần này: Ôm ca-si-pô sô-ha. Thủ ấn: Hai ngón cái bắt chéo nhau, bốn ngón còn lại như hình cánh, hướng ra ngoài, vỗ cánh ba lần như dáng bay.
🌟
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, tộc rồng Naga đã cầu xin Phật Đà: "Tộc rồng chúng con sắp bị chim đại bàng cánh vàng ăn hết rồi, xin Phật Đà cứu mạng!" Thế là Phật Đà triệu tập Đại Bàng Kim Sí Điểu và tộc rồng đến họp để hòa giải. Kim Sí Điểu nói: "Nếu không lấy rồng làm thức ăn, chúng tôi biết ăn gì đây?" Rồng nghe xong, sợ chết khiếp. Tộc rồng nói: "Nếu cứ ăn tiếp, chúng tôi sẽ bị tuyệt chủng, sau này tộc Kim Sí Điểu các người lấy gì mà ăn?" Lời này vừa thốt ra, Kim Sí Điểu cũng ngớ người ra.
Thế là Phật Đà nói: "Từ hôm nay trở đi, ta ra lệnh cho tất cả các đệ tử Phật trong thiên hạ, khi làm lễ cúng dường cam lộ rộng lớn, phải thỉnh mời Đại Bàng Kim Sí Điểu trước tiên, để thọ dụng cam lộ như mây, cam lộ này có thể no bụng, ngon miệng và thanh tịnh. Ngươi thấy thế nào?" Đại Bàng Kim Sí Điểu ăn xong, vô cùng hài lòng. Thế là ba bên đạt được thỏa thuận, Đại Bàng Kim Sí Điểu từ đó không ăn tộc rồng nữa mà chuyển sang ăn "cam lộ như mây".
Đại Bàng Kim Sí Điểu nhận sắc lệnh của Phật Đà, trở thành một trong những vị Hộ pháp của Phật giáo. Mỏ nhọn có thể trừ ma. Móng vuốt có thể bắt ma. Cánh có thể lật bay ghế ma. Cánh vàng có thể ban phúc cho chúng sinh, bởi được làm từ bảy báu.
Lư Sư Tôn làm lễ cúng dường hóa thực cam lộ vào giờ Ngọ: Tụng: Đại Bàng Kim Sí Điểu. Hoang dã quỷ thần chúng. La sát Quỷ Tử Mẫu. Cam lộ đều tràn trề. Ôm mu-ti-li sô-ha. Ôm mu-ti-li sô-ha. Ôm mu-ti-li sô-ha. Vẩy cam lộ ra.
Có một lần, bỗng thấy mặt trời bị che khuất, trời đất tối sầm, gió lốc nổi lên, sự biến đổi trong chớp mắt khiến tôi kinh hãi. Tôi nhắm nghiền mắt, không thể mở ra được. Đến khi mở mắt, mặt trời vẫn treo cao, không còn gió thổi, vậy mặt trời vừa bị che khuất là chuyện gì? Tôi hỏi Trực Nhật Công Tào. Trực Nhật Công Tào đáp: "Đó là Đại Bàng Kim Sí Điểu đến."
Mẫu thân tôi là Lư Ngọc Nữ, lần đầu cúng Đại Bàng Kim Sí Điểu, liền được Đại Bàng Kim Sí Điểu chở đi du ngoạn khắp thiên hạ, vui không tả xiết. Vị Đại Bàng Kim Sí Điểu này có thần túc thông lớn, du hành thế giới chỉ trong một niệm mà thôi!
26. Đông Nhạc Đại Đế
Có một đệ tử họ Hàn từ nước ngoài đến Đài Loan Lôi Tạng Tự gặp tôi, trình lên một tờ giấy viết đầy chữ giản thể, nội dung như sau: Đệ tử họ Hàn ly hôn, nuôi dưỡng ba đứa con. Sau ly hôn, anh ấy có được hai triệu đô la Mỹ. Anh có một người bạn rất thân thiết, vợ chồng người bạn này kinh doanh buôn bán châu báu, có vài cửa hiệu. Vợ chồng người bạn không chỉ là bạn học, cũng là hàng xóm, lại còn là bạn thân, thường xuyên cùng nhau đi du lịch, tâm sự, ăn cơm, có thể nói là bạn bè đã có mối giao tình 30 năm. Vợ chồng người bạn muốn mở thêm một cửa hiệu nữa. Mời anh ấy nhập hội. Anh ấy vui mừng đồng ý, dùng cách thức cho vay, giao hai triệu đô la Mỹ cho đôi vợ chồng bằng hữu 30 năm này.
Sau đó, họ nợ đọng lợi tức, nhiều lần khất nợ, có ý xa lánh, mấy lần đòi nợ nhưng đều không có kết quả. Không còn cách nào khác, anh ấy phải mời luật sư đưa đơn đòi nợ. Kể từ đó, vợ chồng người bạn đoạn tuyệt qua lại với đệ tử họ Hàn, ngay cả gặp mặt cũng không thể gặp được. (Vợ chồng người bạn dứt khoát chuyển nhà.) Đệ tử họ Hàn đau xót khẩn cầu tôi, sinh hoạt của anh ấy, học phí và sinh hoạt của ba đứa con kể từ đó rơi vào cảnh khốn khó. Anh ấy nói: "Tình bạn 30 năm nên chẳng nghi ngờ gì họ, ngay cả giấy cho vay tiền cũng không viết, chỉ có tấm chi phiếu hồi đó làm chứng, bây giờ gia cảnh càng ngày càng căng, không biết xử lý thế nào?" Tôi nghe xong thì khá xúc động, tôi nói: "Vấn đề có liên quan đến pháp luật, anh phải bàn bạc với luật sư, điểm này luật sư sẽ tương đối am hiểu. Về phần tôi, tôi sẽ vẽ cho anh một lá phù, đây là phù đòi nợ, anh lấy phù này, cùng với tiền giấy, vào ngày trực Thành, sau giờ Ngọ, hóa đốt trước miếu thổ địa, có thể sẽ có hiệu quả."
Tôi vẽ phù thức như sau:
Theo tôi được biết: Thổ Địa Phúc Thần đã nhận luật lệnh thì không dám sơ suất, vì là Lư Sư Tôn giao việc, sẽ mang luật lệnh đến miếu của Đông Nhạc Đại Đế. Đông Nhạc Đại Đế nổi giận: "Đầu trâu mặt ngựa mau bắt linh hồn của vợ chồng kia đến đây!"
Thế là hai vợ chồng này cùng mơ thấy đầu trâu mặt ngựa cầm lệnh bắt giữ bắt hai vợ chồng này đến trước mặt Đông Nhạc Đại Đế. Đông Nhạc Đại Đế uy nghiêm như núi, mặt đen, hai mắt trợn tròn, uy phong lẫm liệt, khiến người ta không dám nhìn. Hai vợ chồng quỳ xuống. Xung quanh có vua quỷ, lính quỷ, đầu trâu, mặt ngựa Thất Gia, Bát Gia, ai nấy đều cầm dụng cụ tra tấn, dọa cho đôi vợ chồng kia sợ chết khiếp. Đông Nhạc Đại Đế quát lớn một tiếng, giống như sấm nổ trên trời. Đôi vợ chồng này lập tức rập đầu như bổ củi. Thế rồi tất cả đều được gọi tới.
Đông Nhạc Đại Đế nói: "Sau khi trở về dương gian, lập tức trả tiền cả gốc lẫn lãi, bằng không sẽ đánh cho phải vào đại địa ngục A Tỳ." Lính canh ngục đưa hai vợ chồng đi xem đại địa ngục A Tỳ, khiến họ run rẩy khiếp sợ, liên tục kêu gào. Họ liên tục nói: "Sau này không dám nữa!" Hai vợ chồng cùng mơ giấc mơ này, tỉnh dậy cùng lúc, lúc tỉnh dậy thì toàn thân lạnh toát. Thế là họ vội vàng cộng hết hai triệu đô la Mỹ và tiền lãi đem trả cho đệ tử họ Hàn ngay trong đêm đó.
Sự việc này là do chính miệng đôi vợ chồng kia kể lại cho đệ tử Hàn, đệ tử Hàn còn bảo họ mau mau đến quy y Lư Sư Tôn, Lư Sư Tôn thật sự có pháp lực vô biên. Đệ tử họ Hàn hỏi: "Đông Nhạc Đại Đế là ai?" Tôi đáp: "Là vị đại thần ở âm gian, giống như Thái Sơn Phủ Quân." Sự việc này xảy ra vào ngày 26 tháng 11 năm 2011.
Chú thích của Tông Ủy Hội: Người sử dụng phù này không được dùng để đòi các khoản nợ nần phát sinh từ những hành vi vi phạm đạo đức tốt đẹp của xã hội như nợ cho vay nặng lãi, cờ bạc, nếu không sẽ bị Trời phạt.
27. Đáp án của trời
Tôi đã viết một cuốn sách có tựa đề "Thần Toán Siêu Chuẩn", cuốn sách này không phải là tự tâng bốc hay khoe khoang. Độ chính xác như thế nào thì bạn, tôi và mọi người đều biết rõ, thật không cần phải khoác lác.
Nhưng người đời vốn thường tự kiêu tự đắc, muốn tìm một người khiêm tốn thì quả là khó. Người đời đều nói: Văn chương thiên hạ thuộc Tam Giang. Văn chương Tam Giang thuộc quê tôi. Văn chương quê tôi văn chương em trai. Văn chương em trai học từ tôi.
Dù sao thì những thầy bói thời nay, ai cũng tự xưng mình là số một, người khác là số hai, có chuẩn hay không thì chỉ có trời mới biết.
Có người hỏi tôi: "Bầu cử tổng thống, thầy biết ai sẽ đắc cử không?" Tôi đáp: "Biết." "Thầy chắc chắn không?" "Chắc chắn!" Người ta hỏi: "Làm sao thầy biết chắc vậy?" Tôi đáp: "Câu trả lời của tôi đến từ trời." (Tôi ngước lên trời, tên của vị tổng thống sẽ hiện ra trên bầu trời.)
Mỗi lần nhìn lên trời, lần nào cũng chuẩn. Tôi chỉ nói cho một số ít người biết, khi có kết quả, mọi người đều mỉm cười hiểu ý.
Gần đây truyền thông đã viết nhiều bài về tôi, nói rằng tôi làm thầy bói dự đoán bầu cử tổng thống cho ai đó. Truyền thông chế giễu: "Không hỏi dân sinh, lại đi hỏi quỷ thần?" Giới truyền thông cứ bịa đặt lung tung về tôi. Còn về việc có ai đến hỏi tôi hay không, họ cũng toàn nói bừa, nói càn. Truyền thông hỏi tôi: "Có ai tìm thầy xem bói về bầu cử tổng thống không?" Tôi đáp: "Không có." Truyền thông hỏi: "Ai sẽ đắc cử?" Tôi đáp: "Tôi biết, nhưng không nói cho các vị." (Trong lòng tôi thầm cười, hóa ra người đến hỏi tôi xem bói về việc ai sẽ đắc cử tổng thống chính là giới truyền thông. Tôi biết ai sẽ đắc cử, nhưng đương nhiên không thể nói, nói ra chắc chắn sẽ gây náo loạn thiên hạ; hơn nữa, nếu đứng về một phía, ắt sẽ đắc tội với phía còn lại.)
Hơn nữa, những việc lớn như thế này, nếu truyền ra ngoài thì đối với một người xuất gia, một người tu hành như tôi, chẳng có lợi ích gì cả. Tôi là người chân tu, việc trong thiên hạ đã có người trong thiên hạ lo, tôi không muốn mượn việc này để nổi danh thiên hạ, tôi đã đủ nổi tiếng rồi. Nói ra chỉ thêm rắc rối lớn.
Người hỏi: "Thầy thật sự biết ai sẽ đắc cử tổng thống sao?" Tôi đáp: "Biết!" Người hỏi: "Là ai vậy?" Tôi đáp: "Trời biết! Ha ha." Người hỏi cười ha ha. Tôi cũng cười ha ha. Mọi người đều cười ha ha.
Bài viết này được viết vào ngày 27 tháng 11 năm 2011. Theo thăm dò ý kiến về cuộc bầu cử tổng thống, hai ứng cử viên chỉ chênh lệch nhau 0,4%, khoảng cách giữa hai bên chỉ có một chút xíu, tình hình bầu cử thật căng thẳng! Tôi nhớ ba tháng trước. Khoảng cách trong thăm dò giữa hai người còn cách nhau tới 20%! Lúc đó, tôi đã nói là sẽ "căng thẳng"! Ông Tăng Hải Đường của bộ phận chương trình đài Trung Thiên đã giơ ngón cái lên và nói: "Siêu chuẩn!"
28. Ánh đèn mờ ảo trong hành lang
Trong thời gian ở Đài Loan, khí hậu mùa đông se lạnh, tôi thường đi bộ vào khoảng 10 giờ tối, từ khu dân cư Thất Kỳ đến khu dân cư Ngũ Kỳ, đi mất khoảng 40 phút. Đoạn đường này, tôi dùng để vừa tập thể dục vừa niệm Phật. Từ Thất Kỳ đến Ngũ Kỳ, phải đi qua vài tòa cao ốc của Thất Kỳ, qua nhiều đoạn đèn giao thông, ba, năm con đường nhỏ, ba, bốn con đường lớn, tôi cố gắng đi trên vỉa hè càng nhiều càng tốt.
Thực tế, không thể đi hoàn toàn trên vỉa hè được, vì có những đoạn vỉa hè bị biển hiệu cản trở. Bị xe máy đậu cản trở. Bị ô tô đậu cản trở. Bị máy biến áp cản trở. Bị công trình xây dựng cản trở. Bị cây to cản trở. Vỉa hè mới lát thì còn đi được; vỉa hè cũ thì gập ghềnh không bằng phẳng, phải bước cao bước thấp. Thường phải đi vòng, ra đi trên mặt đường nhựa dành cho xe máy, thận trọng đi suốt bốn mươi phút.
Tôi thường đi trên đường Thị Chính Bắc số 2, sau khi đi qua vài tòa cao ốc thì rẽ từ đường Thị Chính Bắc số 2, đi xuyên qua hành lang của một tòa cao ốc để sang một đại lộ khác.
Đến 10 giờ tối, ánh đèn trong hành lang này trở nên mờ ảo, hành lang khá dài, là lối đi của tòa cao ốc, rất yên tĩnh, không một bóng người; tôi lặng lẽ đi qua đoạn hành lang này, đã đi được một thời gian và chưa từng gặp ai đi qua đoạn hành lang này.
Hành lang này thuộc một tòa cao ốc, có những tác phẩm điêu khắc, những chiếc đèn treo to và cao, nền lát gạch phẳng láng, đoạn đường này khiến người ta cảm thấy thoải mái và dễ chịu nhất. Ban đầu tôi đi một mình. Sau đó càng đi càng thấy có điều gì đó không ổn. Tôi cảm nhận được xung quanh có hai người lớn, ba đứa trẻ đang bước theo sau tôi. Với bản lĩnh cao cường, tôi chẳng để tâm. Tôi cũng không sợ hãi. Tôi cứ đi đường của tôi, họ đi đường của họ. Trong hành lang này, tôi bắt đầu niệm Phật, hoặc tụng Kinh Cao Vương, cuối cùng tụng chú vãng sinh...
Năm vị u linh này, ban đầu: Đi theo tôi. Vây quanh tôi mà đi. Sau đó biến thành những vệt sáng trắng bay múa trước mặt tôi, như năm dải lụa đang bay lượn trong không trung. Tôi không tụng chú, không kết ấn để đuổi họ đi. Họ cũng không có ác ý với tôi, hai bên đều bình an. Sau đó họ hỏi: "Thưa hành giả, ngài là ai vậy? Trên người ngài có ánh sáng." Tôi đáp: "Tôi là Lư Sư Tôn." Họ nói: "Ah! Thì ra là Lư Sư Tôn, ngưỡng mộ đại danh đã lâu, danh tiếng vang dội, không ngạc nhiên khi thấy trên người ngài có ánh sáng cầu vồng." Tôi hỏi lại họ: "Thế các vị là ai vậy?" Họ nói: "Theo quy hoạch đô thị ban đầu, khu vực Thất Kỳ là một vùng hoang vu, cỏ dại mọc um tùm, chó hoang thành bầy. Ở giữa có một số ngôi mộ cổ, chúng tôi nằm trong một ngôi mộ, chôn hai người lớn và ba đứa trẻ, chúng tôi đều là ma giữ mộ. Sau này Thất Kỳ được phát triển, cao ốc mọc san sát, mộ và hài cốt đều bị đào lên, phân tán đi, chúng tôi trở thành ma giữ nhà. Ban đầu chỉ lẩn quẩn trong nhà trống, sau khi ngài đến, được nghe ngài niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, được hưởng ánh sáng của ngài, nên cũng có thể tự tại bay lượn, nhờ vậy mới có thể ngưng tụ thành hình, thật sự cảm ơn ngài!" Tôi nói: "Gặp nhau ngoài đường cũng là có duyên, việc gì phải cảm ơn." - Tôi lại hỏi: "Các vị sẽ đi đâu?" Họ đáp: "Muốn theo Lư Sư Tôn tu hành." Tôi nói: "Được thôi! Tôi nhận các người làm năm đệ tử ma, theo bên cạnh tôi, tôi sẽ dùng ánh sáng che chở cho các người, cùng tôi đi tu hành!" (Tôi thật sự đã nhận năm con ma này.)
29. Đại từ bi của Bạch Không Hành Mẫu
Tôi nhận quán đảnh Vô thượng mật bộ từ Thượng sư Thubten Dhargye. Sau khi được Thượng sư quán đảnh, ngài đã truyền cho tôi khẩu quyết tu pháp.
Những điểm chính của khẩu quyết là: 1. Bí mật. 2. Cúng dường. 3. Điều hòa hơi thở. 4. Tu khí. 5. Cảm thọ. 6. Không - Lạc. 7. Chứng ngộ.
Mỗi lần đến chỗ Thượng sư Thubten Dhargye, ngài đều nhắc đi nhắc lại về tầm quan trọng của khẩu quyết. Ngài đã truyền thụ pháp tu Vô thượng mật bộ cho tôi một cách trọn vẹn không giữ lại, điều này cho thấy sự coi trọng của Thượng sư.
Mỗi lần tôi đến Tịnh Âm Phật Các, Thượng sư đều cho tôi vào trước, chỉ có Thượng sư, thị giả của Thượng sư và tôi, ba người ở riêng với nhau. Lúc đó, ngài mới truyền cho tôi những khẩu quyết quan trọng. Sau khi truyền thụ xong, ngài mới cho phép các đệ tử của tôi vào đảnh lễ Sư công Thubten Dhargye. Về mặt lý thuyết, tôi đã hiểu rõ Vô thượng mật bộ.
Nhưng về thực tu, tôi không có thủ ấn sự nghiệp của thế gian. Tôi thành thật nói với mọi người: Thủ ấn sự nghiệp của Mật giáo là phương tiện tối thượng trong các phương tiện tối thượng. Nó tượng trưng cho sự kết hợp bí mật giữa trí huệ và phương tiện. Thông qua sự kết hợp này. Cảm thọ của chúng ta đạt đến sự thọ dụng tối đa. Trí huệ tăng trưởng. Quang minh tăng trưởng. Đại lạc tăng trưởng. Tâm chúng ta an trú trong bầu trời bao la trong sáng, thể nghiệm tự tính vô tận. Tôi đã tương ứng với Bạch Không Hành Mẫu.
Tôi dùng thủ ấn triệu thỉnh: "Hai tay đan nội phộc, hai ngón trỏ duỗi ra, không chạm vào nhau, chỉ tạo thành vòng tròn, hai ngón cái cùng dựng đứng." (Hai ngón trỏ tượng trưng cho lá sen, hai ngón cái tượng trưng cho một đôi trong hoa sen.)
Quyển mười của Đại Nhật Kinh Sớ nói: "Bạch là tâm bồ đề vậy, an trú trong tâm bồ đề này, gọi là chỗ trú của Bạch Không Hành Mẫu, tâm bồ đề này là Phật bồ đề, thường sinh ra chư Phật, cũng là bộ chủ của Liên Hoa bộ."
Tại đây, tôi xin dùng "bí mật ngữ" để nói như sau: Bạch Không Hành Mẫu, dung mạo tuyệt vời, hoàn toàn không có chút tạo tác, khi Ngài giáng xuống, hương quang trang nghiêm. Trong hư không xuất hiện một đóa sen trắng lớn, cánh sen, nhụy sen mềm mại thơm tho thanh khiết. Thân tâm hành giả, như huyễn như hóa, đi vào trong đóa sen trắng lớn. Thân tâm Bạch Không Hành Mẫu, như huyễn như hóa, cũng ở trong đóa sen trắng lớn. Đóa sen trắng lớn đang nở, dần dần cánh sen khép lại, trở thành một nụ sen. (hoa sen chưa nở) Khiếu hợp với khiếu. Điểm tan vào điểm. Khí thông với khí. Mạch nối với mạch. Bạch Không Hành Mẫu đem tất cả thành tựu, quán đảnh vào toàn thân hành giả, từ đỉnh đến chân. Từ dưới lên trên. Lạc - Không song vận. (Thiền định thâm sâu)
Lúc này, đại lạc, quang minh và Không tính cùng xuất hiện. Trí huệ viên mãn, ánh sáng cầu vồng quấn quanh, chứng được chân như Phật tính.
Cảnh giới này không thể tìm thấy trong thế giới người, đó là sự thể nghiệm siêu việt của đại giác; quả nhiên, tâm bồ đề của Bạch Không Hành Mẫu sinh ra tất cả chư Phật.
Trong tu hành Mật giáo, tôi đã lần lượt thành tựu: Sự bộ. Hành bộ. Du già bộ. Vô thượng bộ.
30. Tương lai tiếp nhận cúng dường?
Pháp cúng dường trong Mật giáo là một mắt xích quan trọng trong việc tu tập Mật giáo, thậm chí có Thượng sư nói rằng cúng dường là trọng điểm của Mật giáo. Tổ sư Tsongkhapa nói: "Ba đại thành tựu của Mật giáo là: Thứ nhất, trì danh thành tựu. Thứ hai, Hộ Ma (hỏa cúng) thành tựu. Thứ ba, Tam muội địa thành tựu." Trong đó, Hộ Ma (hỏa cúng) chính là pháp cúng dường.
Pháp cúng dường trong Mật giáo có rất nhiều loại, ở đây không giới thiệu từng loại một, có ngoại cúng, nội cúng, mật cúng, mật mật cúng (chân như cúng) v.v...
Trong sinh hoạt hàng ngày khi ăn uống, tôi đều phải làm cúng dường, đó là cúng dường: Thượng sư: Bổn tôn. Hộ pháp. Trong lúc cúng dường, tôi có thể biết chắc chắn là các ngài có đến nhận cúng dường hay không. Sự "biết" này cũng có nhiều dạng khác nhau: 1. Thấy trực tiếp. 2. Nghe được. 3. Cảm ứng tâm linh.
Chúng ta phải triệu thỉnh trước, sau đó "thổi hơi", cuối cùng trì chú (kết thủ ấn), khiến phẩm vật cúng dường biến hóa như mây, vô cùng vô tận. Nói chung, khi tôi làm pháp cúng dường, mỗi lần Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp xuống nhận cúng, tôi đều có thể biết được, chắc chắn tuyệt đối không phải là hư giả.
Một ngày nọ. Tôi đang dùng cơm trưa tại Chùa Cầu Vồng Lôi Tạng, vào khoảng tháng 10 năm 2011, tôi làm lễ cúng dường trước. Triệu thỉnh Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp giáng lâm, lần triệu thỉnh đầu tiên, hoàn toàn không có cảm ứng gì. Lần triệu thỉnh thứ hai, các ngài vẫn chưa đến nhận cúng. Lần triệu thỉnh thứ ba, vẫn không đến.
Thông thường tôi triệu thỉnh ba lần, bình thường các ngài đều sẽ đến. Nếu đến ngay lần đầu, biểu thị rất hoan hỷ. Đến lần thứ hai, biểu thị bình thường. Đến lần thứ ba, phẩm vật cúng dường sơ sài. Nhưng, triệu thỉnh ba lần mà cả ba lần đều không đến, rất hiếm, rất hiếm. Lần đó, tôi triệu thỉnh ba lần, cả ba lần đều không đến. Tôi liền biết có vấn đề, chư tôn không đến nhận cúng, chắc chắn có vấn đề.
Tôi rất cẩn thận nếm thử thức ăn, và ăn đến một đĩa hàu! (tiếng Đài Loan), hóa ra hàu (oyster) đã bị ươn, không còn tươi nữa, thảo nào mà Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp không đến nhận cúng.
Tôi đã báo cho Thượng sư Liên Ấn, Thượng sư Liên Ấn nhắc nhở pháp sư Liên Vạn khi mở hàu cần phải đặc biệt chú ý. Hàu có vỏ. Các pháp sư tự mình mở.
Lại có một lần nữa, lần này mọi người đều biết. Chúng tôi một nhóm người đi chiêm bái tám Thánh địa của Đức Phật tại Ấn Độ, đến thành phố cổ năm nghìn năm tuổi Varanasi bên bờ sông Hằng. Thành phố cổ này là thánh địa của Ấn Độ giáo, có rất nhiều đền thờ Ấn Độ giáo, đền thờ Đại Phạm Thiên (thần Sáng Tạo), đền thờ Đại Tự Tại Thiên (thần Hủy Diệt), và đền thờ Biến Tịnh Thiên (thần Bảo Hộ), đều ở nơi đây. Brahma. Shiva. Vishnu. Ở Varanasi có màu sắc thần bí đặc biệt.
Sáng sớm hôm đó, lúc ăn điểm tâm. Tôi triệu thỉnh ba lần, cả ba lần Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp đều không đến nhận cúng, dù triệu thỉnh thế nào cũng không đến. Tôi nóng lòng, lại đặc biệt triệu thỉnh bằng ấn "tâm trong tâm", vẫn không đến.
Bữa sáng hôm đó, tôi không ăn. Sau đó, trong số đồng môn ăn sáng, chúng tôi có tổng cộng mười tám người tham gia, mười bảy người bị "Tào Tháo đuổi", cả hội chạy ùa vào nhà vệ sinh, tiêu chảy dữ dội. Chúng tôi đùa: "Vội-ra-nhà-xí (Varanasi) ơi!" Bạn nói có đúng không?
31. Phúc Đức Chính Thần mời tôi mua nhà
Vào khoảng năm 2000, tôi ẩn cư tại Đài Trung, Đài Loan. Khu quy hoạch đô thị Thất Kỳ Đài Trung lúc đó còn hoang vu, cỏ dại mọc um tùm, chó hoang thành bầy, một vùng ngoại ô không bóng người. Trên mảnh đất đó có một vài tòa nhà cao tầng đã được xây dựng, tên các tòa nhà là: Liên Tụ Hòa Bình. Thiên Tỷ. Hội trường Âm nhạc Quốc tế. Lĩnh vực Nhân văn. New Sydney. Lý Tính Cảm Tính. Ngoài sáu tòa nhà này ra, một vùng đất rộng lớn đều bỏ trống, đến đêm trở thành điểm mù an ninh và thiên đường của chó hoang.
Có một lần. Tôi mang báo (Chân Phật Báo), tạp chí (Nhiên Đăng Tạp chí) đến phát tại miếu Thổ Địa Công gần đó. (Đây là thói quen của tôi, thu thập một số tờ Chân Phật Báo và tạp chí Nhiên Đăng đã đọc, đợi tích góp được một thời gian thì ôm đến các miếu Thổ Địa khắp nơi để lưu giữ, chờ những chúng sinh có duyên đến lấy về đọc, đây cũng là một phương pháp độ chúng sinh.)
Một lần nọ. Tôi lại đến miếu Thổ Địa Công để phát báo và tạp chí. Khi đến miếu Thổ Địa Công ở Thất Kỳ Đài Trung, ngôi miếu này bị lõm xuống, trông giống như một vỏ sò. (Tôi gọi là động Vỏ Sò.) Phúc Đức Chính Thần bỗng nhiên hiện thân nói với tôi: "Sư Tôn Lư à, thầy phải mua nhà! Nhanh lên! Nhanh lên!" Tôi đáp: "Nơi này hoang vu, không tiện sinh sống." Phúc Đức Chính Thần lại nói: "Thầy phải mua nhà! Nghe tôi sẽ không sai đâu." Tôi đáp: "Tôi không có tiền." Phúc Đức Chính Thần nói: "Gom góp một chút." Trong lòng tôi không có ý định ở lâu tại Đài Loan, tôi phải quay về Seattle ở Mỹ, ở Đài Loan chỉ là tạm thời ẩn cư mà thôi, vì vậy tôi không để tâm.
Phúc Đức Chính Thần nói: "Hãy nhìn xem! Tương lai sẽ như thế này." Tôi vừa nhìn. "Á"! Giật mình kinh hãi. Một khung cảnh hiện ra trước mắt tôi. Một cảnh tượng huy hoàng thịnh vượng nhất hiện ra, tòa nhà này nối tiếp tòa nhà khác xuất hiện trước mắt tôi. (Nhiều đến không đếm xuể.) Đèn đóm rực rỡ. Kiến trúc hùng vĩ tráng lệ. Nhà cao tầng chọc trời. Phong cách vừa độc đáo vừa tinh xảo vừa đẹp. Tòa nào cũng là biệt thự sang trọng. Phúc Đức Chính Thần nói: "Khu Thất Kỳ Đài Trung này chính là khu Tín Nghĩa của Đài Bắc." Tôi nuốt nước bọt, nói: "Được rồi! Để tôi xem thử."
Lúc đó, tôi đã xem hết sáu tòa nhà, Liên Tụ Hòa Bình khá đắt, giá một phần là 190.000. Lý Tính Cảm Tính cũng đắt, gần như vậy, đắt tương đương. Thiên Tỷ, Hội trường Âm nhạc, Lĩnh vực Nhân văn, New Sydney, đều tương tự nhau. Khi tôi đứng trước một tòa nhà nọ, người môi giới mời chúng tôi mua. Tôi lấy đồng xu ra, dùng chén để xin keo, hướng về phía miếu thỉnh ý Thổ Địa Công xem có nên mua không? Ba chén thánh, có thể mua. Ba chén thánh này, tôi để cho Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương xem, quả thật Phúc Đức Chính Thần bảo tôi mua nhà. Cuối cùng chúng tôi đã mua! Đó là giá năm 2000. Đến năm 2010, giá đã tăng đúng năm lần. (Trong vòng mười năm, tăng gấp năm lần.)
Tôi rất cảm ơn Phúc Đức Chính Thần, đúng là Phúc Đức Chính Thần bảo tôi mua nhà; tuy Phúc Đức Chính Thần là vị thần nhỏ nhất trong thần vị, nhưng thần nhỏ cũng có thể lập công lớn. Lời Ngài nói chuẩn xác vô cùng!
32. Chuột kêu chít chít
Nơi tôi ở tại Mỹ, có một thời gian tôi sống ở vùng núi, tạm gọi là Nam Sơn. Đó là một khu dân cư nhỏ, khoảng 50 hộ gia đình, chủ yếu là người da trắng sinh sống, nhà cửa không xem là nhỏ, mỗi căn rộng khoảng 6000 mét vuông, nhà to, kiến trúc mỗi nhà một kiểu khác nhau, được xem là khu dân cư có tiếng.
Khi chúng tôi sống ở đó, mọi thứ đều rất thoải mái, đêm ngủ ngon lành, môi trường vô cùng thanh nhã, mở mắt ra là thấy cả sân trước sân sau một màu xanh mướt, khiến người ta cảm thấy tâm hồn thư thái, không một chút tiếng ồn.
Tôi phát hiện ra vài vỏ đậu phộng trong phòng để chăn mền của mình, tôi rất ngạc nhiên. Ai ăn vụng đậu phộng ở đây vậy? Không cần nghi ngờ ai cả, vì đậu phộng ai cũng có thể ăn, cũng chẳng bị cấm, không cần phải trốn vào phòng để chăn mền để ăn. Vậy là ai? Không cần nói cũng biết, chắc chắn là chuột. Nhất là khi phát hiện phân chuột ở cùng một chỗ. Tôi là người tu hành, không sát sinh, trước mắt cứ mặc kệ vậy.
Có một lần. Tôi đang tu pháp trong đàn thành, tu đến phần Chính hành, nhập Tam muội địa, khi nhắm mắt, tôi nghe tiếng chuột "chít chít chít chít chít", mở mắt ra nhìn, thấy hai con vật nhỏ lông xù đang đuổi nhau qua khe lan can cầu thang, lan can thẳng đứng, hai con chuột chạy theo hình chữ S, lúc nấp bên trái lúc núp bên phải, vừa chạy vừa kêu chít chít.
Tôi nhìn chằm chằm vào chúng. Chúng cũng nhìn lại tôi, chẳng hề sợ hãi, hai con mắt nhỏ như hạt đậu xanh, nhìn láo liên. Đối với màn trình diễn này của chúng, tôi vốn không thèm để ý, nhưng chúng đã biến lòng khoan dung nhẫn nại và phong cách cao thượng của người Phật tử thành cơ hội để chúng lộng hành. Chúng càng ngày càng quá đáng. Làm tổ trên ghế sofa. Phóng uế bừa bãi, đi tiểu lung tung. Phá phách trên bàn ăn. Cắn thủng ống dẫn nhiệt. Ban ngày còn chơi trốn tìm trong phòng khách. Cắn rách quần áo. Nhe răng múa vuốt với người.
Tôi nghĩ: "Không để ý thì chúng nghĩ có thể tự tung tự tác, trong núi không có cọp thì khỉ xưng vương. Nhà ta không nuôi mèo nên chuột cũng lên mặt!" Tôi tìm đến chuyên gia diệt chuột người Mỹ. Ông ta nói: "Khu núi này có rất nhiều chuột, một nhà ở phía trước núi, tôi bắt một lần được hai mươi bảy con." Tôi hỏi: "Bắt sống hay chết?" Ông ta đáp: "Dùng thuốc, rồi xuống tầng hầm tìm, tổng cộng hai mươi bảy con." Tôi nói: "Có thể bắt sống rồi thả lên núi khác không?" Chuyên gia diệt chuột nói: "Tôi không biết bắt sống, dùng thuốc thì chắc chắn chết. Có một loại thuốc, chuột rất thích ăn, ăn xong sẽ khát nước, chúng sẽ đi tìm nước uống và chết trong mương nước." Tôi hỏi: "Có thể rắc thuốc để ngăn không cho chúng vào không?" Chuyên gia nói: "Chuột rất thông minh, chúng có thể đào hang chui vào!" ...
Thật tình mà nói, lũ chuột nhà tôi, ngoại trừ không mở được tủ lạnh, còn thì chúng đã hoành hành không còn coi trời đất ra gì nữa, xưng vương xưng bá, gây náo loạn khắp nhà tôi, cả một đám chuột con theo sau, giương cờ gióng trống, kêu la ầm ĩ. Phải làm sao đây?
Tôi chợt nhớ ra Jambhala (Hoàng Tài Thần), Hoàng Tài Thần không phải đang nắm một con chuột nhả châu báu sao? Hoàng Tài Thần chắc chắn có thể đối phó với lũ chuột om sòm này. Tôi cung thỉnh: "Ôm chân-pa-la cha-lâng cha-na-yê sô-ha." Jambhala thả chuột nhả châu báu xuống, chuột nhả châu báu đuổi lũ chuột hề ra khỏi nhà. Ồ! Thật linh nghiệm quá! Chuột nhả châu báu đã đuổi được lũ chuột ngông cuồng đi, nhà tôi không còn chuột nữa!
33. Bình luận xoi mói Lưu Đức Hoa
Giải thưởng Kim Mã năm 2011, Lưu Đức Hoa đã đoạt giải Nam diễn viên chính xuất sắc, điều này khiến tôi chú ý đến ông ấy. Ông ấy ra mắt từ rất sớm, nổi tiếng liên tục, đến tận tuổi trung niên vẫn nổi tiếng. Năm mươi tuổi rồi mà trong giới điện ảnh, truyền hình, ca nhạc đều luôn rất tốt, người như vậy thật hiếm có. Tôi xem tướng mạo của ông ấy: Lông mày - như lông mày của bươm bướm. Mắt - như mắt diều hâu. Mũi - như mỏ diều hâu. Miệng - như miệng cá. Tai - như tai thỏ.
Cung huynh đệ ở lông mày, tính ra về mặt nhân sự thì rất viên dung, hợp tác ăn ý, quý nhân phù trợ. Cung thông tuệ ở mắt, ông ấy được xem là thông minh có trí tuệ, khá có khả năng nhìn thấu trước thời cơ. Cung tài bảo ở mũi, loại mũi này, người thường không dám khen ngợi. Bởi vì ai cũng biết, loại mũi này sẽ hại người. May mắn là ông ấy có mắt diều hâu bù đắp cho khuyết điểm của mũi diều hâu, tài vận trở nên tốt đẹp. Miệng là miệng cá, chỉ ở mức bình thường. Cung thọ mệnh ở tai, ông ấy có tai kiểu thỏ, hơi gây họa, tuổi thọ cũng tàm tạm, nhưng phải đề phòng tai nạn. Cung tình cảm ở phía sau lông mày và mắt, được xem là người tình nghĩa, nhưng khá kín đáo, có sóng gió nhưng vượt qua bình an. Cung nô bộc ở cằm, cằm của Lưu Đức Hoa được xem là loại tệ nhất, e rằng vận về già không tốt, có tướng không giữ được khi về già, loại cằm này đôi khi bị mọi người phản bội, người thân xa lánh. Cung quyền vị ở pháp lệnh, còn có quyền uy và địa vị.
Tôi chỉ phân tích đơn giản tướng mạo của Lưu Đức Hoa, điểm nổi bật nhất là mắt và mũi của ông ấy. Điểm kém nhất là cằm. Với tướng mạo như vậy, đáng lẽ chỉ nổi tiếng nhất thời, nhưng đến năm mươi tuổi vẫn nổi tiếng rực rỡ, đây là điều bất thường. Với tướng mạo này, cũng có thể chỉ là một người bình thường buôn gánh bán bưng, nhưng lại có thể trở thành nhân vật đứng đầu trong giới giải trí, quả thật là khác thường. (Chắc hẳn ông ấy đã rất nỗ lực.)
Theo quan sát của tôi, tôi xếp khuôn mặt này vào loại "nghiệp chướng", là dạng nghiệp chướng nặng nề, điều này được nhìn nhận dựa vào "tam đình". Nghiệp chướng nặng. Từ lúc sinh ra đến tuổi thanh niên không tốt. (Thượng đình) Từ chân tóc đến chân mày. Từ thanh niên đến trung niên không tốt. (Trung đình) Từ chân mày đến đầu mũi. Tuy nhiên, ông ấy rất chăm chỉ và tận tụy với nghề. Từ trung niên đến tuổi già càng không tốt. (Hạ đình) Từ đầu mũi đến cằm. Đây là nhìn từ "tam đình", cả ba đình già, trung, trẻ của ông ấy đều không tốt. (Ngắn và nhăn nheo.)
Điều kỳ lạ là: Hiện tại đã năm mươi tuổi mà vẫn nổi tiếng cực đỉnh, đây là do nguyên nhân gì? Theo lý mà nói, ông ấy đáng lẽ phải rất xui xẻo; thế nhưng, đến năm mươi tuổi, thời vận, mệnh vận, số vận của ông ấy, trong mắt người ngoài đều rất tốt, không những tốt, mà còn là nhân vật đỉnh cao, đứng trên tầng mây. Nghiệp chướng của ông ấy đã được thanh tịnh chăng? Tôi rất tò mò. Nghĩ mãi, nghĩ mãi, không thông, không thông.
Một đêm nọ, trong giấc mơ của tôi xuất hiện vị thần Uế Tích Kim Cang, vị Kim Cang này là Đại Quyền Thần Vương Phật. Ngài được hóa sinh từ tâm của Phật Đà. Chuyên trừ uế khí và chướng ngại.
Uế Tích Kim Cang vô cùng oai mãnh, pháp lực vô biên, trang nghiêm phi thường, ánh sáng của Ngài trừ uế không thể nghĩ bàn. Ngài chủ động nói với tôi: "Lưu Đức Hoa vốn là người có nghiệp chướng, điều này không sai, nhưng ông ấy đã làm người đại diện cho sản phẩm thiết bị vệ sinh HCG, hình ảnh của Lưu Đức Hoa được in trong nhà vệ sinh." Kim Cang Uế Tích lại nói: "Việc để ảnh trong nhà vệ sinh mà không lấy làm phiền, đó chính là công đức của Lưu Đức Hoa. Qua nhiều năm, uế khí đã tẩy sạch mọi nghiệp chướng của Lưu Đức Hoa, biến hung thành cát; nghiệp chướng được trừ, đại phúc giáng xuống, đó chính là lý do Lưu Đức Hoa có thể tránh hung gặp cát!"
Có thể để ảnh của mình trong nhà vệ sinh, đây là pháp trừ nghiệp chướng không thể ngờ (dùng uế để trừ chướng), có thể tiếp tục nổi tiếng. Tin hay không tùy bạn!
34. Mấy ngày này anh đừng bán cá
Tôi đến chợ cá ở cảng phía Tây, đó là một khu chợ cá lớn. Tôi bước vào trong, ai cũng biết mùi của chợ cá như thế nào, đúng là cái mùi đó. Tôi không phải đến để mua cá, mà là đi vòng quanh chợ cá một lượt, tụng niệm chân ngôn siêu độ. Trì chú. Kết ấn. Quán tưởng. Thần thức của những con cá tôm lần lượt bay lên, cả không gian tràn ngập những linh hồn được siêu độ. Che kín cả mặt trời đang lên.
Để miêu tả tình cảnh siêu độ này, tôi có một so sánh: trước đây tôi từng xem một bộ phim có tên là "Châu chấu di cư". Mọi người có thể tưởng tượng, hàng nghìn hàng vạn con châu chấu như đám mây đen che kín cả mặt trời. Việc siêu độ cho loài cá của tôi cũng giống như vậy.
Tôi đi dạo một vòng. Bỗng nhiên có một người bán cá tiến đến trước mặt tôi: "Lư Sư Tôn, sao thầy lại ở đây?" Tôi hỏi: "Ông là?" Người bán cá đáp: "Tôi là Liên Hoa Phúc Toàn, đệ tử của thầy." Tôi "À!" lên một tiếng, không ngờ ở chợ cá này cũng có đệ tử của mình. Người bán cá nói: "Lư Sư Tôn, thầy đến mua cá đi, tôi có cá tươi nhất, tôi xin cúng dường thầy cá sống." Tôi cười: "Tôi đến mua cá, nhưng không phải mua cá hữu hình, mà là mua cá vô hình." Người bán cá sững người: "Có loại cá vô hình sao?" Tôi đáp: "Có chứ. Chúng sinh đầy đủ, sao lại không có?" Tôi định bước đi, người bán cá lại nói: "Lư Sư Tôn, xin thầy để lại cho tôi một lời dạy."
Tôi nhìn người đệ tử bán cá này, ấn đường tối đen, tôi nói: "Mấy ngày này anh đừng bán cá nữa, được không?" Người đệ tử bán cá hỏi: "Mấy ngày nào ạ?" Tôi đáp: "Ba ngày này." "Có chuyện gì ạ?" "Không biết!" - Tôi đáp: Người bán cá nói: "Lư Sư Tôn, thầy phải cho tôi một lý do chứ, tôi có thể không bán, tôi nhất định nghe lời thầy; nhưng ba ngày không làm ăn, tôi cũng khó giải thích với gia đình lắm!" Tôi thấy ấn đường anh ta tối đen, muốn nói lại thôi, tôi bảo: "Có huyền cơ!" "Huyền cơ gì ạ?" "Không biết!" Tôi cười ha ha rồi bước đi. Tôi dặn người đệ tử bán cá: "Hãy tụng nhiều Cao Vương Kinh, để cầu may tránh họa, tiêu tan tai nạn." Người đệ tử bán cá đáp: "Khi nào rảnh tôi sẽ tụng ạ!"
Sau đó tin tức truyền đến: Người đệ tử bán cá không nghe theo lời dặn của tôi, vẫn cứ bán cá trong ba ngày; vào ngày thứ hai, anh ta bán được rất nhiều cá, trong đó có một con cá nóc, người mua đem về nhà nấu ăn, kết quả cả nhà bị ngộ độc, phải đưa đến bệnh viện điều trị. Cảnh sát theo dấu vết, tìm đến người đệ tử bán cá. Người đệ tử bán cá biện hộ: "Hoàn toàn không biết là có độc!" Nhưng, ai cũng biết cá nóc có độc, các đầu bếp ở nhà hàng Nhật Bản bán cá nóc đều biết cách xử lý để khử độc, nhưng các gia đình bình thường thì không biết. Vụ ngộ độc cá nóc khiến anh ta vướng vào kiện tụng. Người đệ tử bán cá rất hối hận, tại sao lúc đó lại không nghe lời khuyên của Lư Sư Tôn chứ!
35. Từ Vụ Phong đi đến Đại Khanh
Thời đại học tôi học chuyên ngành đo đạc, vì vậy tôi biết cách đọc bản đồ địa hình. Tôi nhìn thấy núi ở Vụ Phong nối liền với núi ở Đại Khanh.
Có một lần, tôi đến chơi ở Hội đồng tỉnh tại Vụ Phong. Bỗng nhiên tôi nảy ra một ý tưởng, nghĩ rằng nếu đi từ núi phía sau Hội đồng tỉnh, theo hướng Đại Khanh, chắc chắn sẽ đến được Đại Khanh. Tôi cho rằng: Thứ nhất là để luyện tập leo núi. Thứ hai là để vận động. Thứ ba là để xem phong thủy. Thứ tư là để thử sức mình. Thứ năm là vì tò mò.
Tôi nghĩ, dù sao cũng không phải núi cao hiểm trở, chỉ là vài ngọn đồi nhỏ, chắc không có gì nguy hiểm!
Một mình tôi, không mang theo thức ăn, không mang nước, không mang ba lô, không có dụng cụ leo núi, trước đây tôi từng là nhân viên đo đạc, núi lớn núi nhỏ đều đã từng thấy, mấy quả núi nhỏ này, với sức đi của tôi không phải vấn đề gì.
Tôi nghĩ thị lực của mình rất tốt, chỉ cần đi về hướng Bắc là chắc chắn sẽ đến được Đại Khanh. Thế là, có ý định thì phải hành động ngay, nói đi là đi, nhất định sẽ đến được Đại Khanh.
Đi theo một con đường mòn nhỏ, tôi bước vào trong núi; lúc mới vào núi, vẫn còn nhận biết được phương hướng, có vài căn nhà nông của người dân miền núi, tôi nghĩ có người ở nên càng thêm yên tâm. Thế là vượt qua một ngọn núi. Lại vượt qua một ngọn núi nữa. Rồi lại vượt qua thêm một ngọn núi. Lúc này, mới cảm thấy có điều gì đó không ổn.
Con đường mòn có người đi trước đây giờ càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng chỉ còn lại vết chân mờ. (Vết chân mờ tức là đường mòn nhỏ.) Sau khi vượt qua ba ngọn núi nhỏ, tôi bắt đầu thở dốc. Cảm thấy khát khô cổ. Mới vượt có ba ngọn núi, đứng trên đỉnh nhìn trước sau trái phải, phát hiện ra những đỉnh núi nối tiếp nhau không dứt, hoàn toàn không thấy điểm cuối, bốn phía đều như nhau. Từ vùng đất khô có người canh tác trên núi, tôi đã đi đến thung lũng hoang vắng không người.
Chợt giật mình nhận ra: Đã lạc mất phương hướng Đông Nam Tây Bắc. Sức lực đã cạn kiệt. Cảnh vật xung quanh thay đổi, thân mình lạc trong thung lũng. Bốn phía đều là núi, không biết ngọn nào dẫn đến Đại Khanh. Nếu cứ tiếp tục đi về phía trước, không quay đầu lại, liệu có càng lúc càng đi sâu vào trong núi không? Trong lòng mông lung. Lo lắng vô cùng.
Khi có cảm giác này, nỗi sợ hãi dâng lên, đưa mắt nhìn ra chỉ thấy một vùng rừng rậm, tôi kêu lên một tiếng: "Chết rồi!" Tôi vốn tài cao gan lớn, nhưng lần này có lẽ không về được nhà mất. Không dám đi tiếp nữa!
Nhưng hướng nào mới là đường về Hội đồng tỉnh đây, tôi đã rơi vào tình cảnh "sơn cùng thủy tận ngờ hết lối", nơi đâu là "liễu rủ hoa cười lại gặp làng"? Lúc này, tôi nghĩ sao không cầu xin sơn thần thổ địa? Tôi niệm chú an thổ địa chân ngôn: "Na-mô san-man-tô mô-thô-nam ôm đu-ru đu-ru tê-wấy sô-ha" ba lần. Chân trái dậm xuống đất ba cái. Chết rồi, chẳng có cảm giác gì cả, tôi chắc chắn sẽ chết trong núi mất.
Bỗng nhiên, tôi nhận ra phía sau có một cây to ở đằng xa, dưới gốc cây hình như có một người. Tôi di chuyển về phía cây to đó, quả nhiên dưới gốc cây có một cụ già đang ngồi hút thuốc, cởi trần nửa thân trên, mặc quần đùi đen, da ngăm ngăm màu đồng. Tôi hỏi: "Làm sao để đến Hội đồng tỉnh ạ?" Cụ già đáp: "Đi thẳng về bên phải, sẽ thấy một con đường mòn, đi theo đường mòn vòng quanh núi khoảng một tiếng rưỡi sẽ về đến Hội đồng tỉnh."
Tôi mừng rỡ khôn xiết, đi được vài bước, quay đầu lại định cảm ơn cụ già, nhưng cụ già đâu rồi? Chỉ trong tích tắc hai, ba giây, cụ già đã biến mất. Trời ơi! Sơn thần thổ địa quỷ thần đã hiển linh rồi! Cuối cùng tôi cũng đã về được đến đồng bằng! Tạ ơn trời đất!
36. Nhìn thấy thật sự
Kể từ khi khai thiên nhãn, tôi đã nhìn thấy vô số chư Phật Bồ Tát, đặc biệt là ngày đầu tiên khai thiên nhãn, từ Tứ Thánh đến Lục Phàm, tôi đã du hành qua khắp mười pháp giới, trời ơi! Thì ra là như vậy, thì ra là như vậy.
Tôi tự xưng là Liên Hoa Đồng Tử là có nguyên do, tôi thực sự đã nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử. Đây là điểm cốt lõi trong 226 cuốn sách tôi đã viết, nếu tôi Lư Sư Tôn nói dối. Theo tiếng Đài Loan: Chết tiệt!
Tất nhiên tôi không chỉ nhìn thấy Liên Hoa Đồng Tử, trong tam muội, tôi đều thấy một cách chân thật. Là huyễn giác chăng? Tôi nói không phải. Là tự lừa dối chăng? Tôi nói không phải. Là bóng ma chăng? Tôi nói không phải. Là ảo tưởng chăng? Tôi nói không phải. Là thất thường chăng? Tôi nói không phải. Là hồ đồ chăng? Tôi nói không phải. Là tưởng tượng chăng? Tôi nói không phải. Là mơ mộng chăng? Tôi nói không phải. Tôi chỉ có thể nói, những gì tôi nhìn thấy là nhìn thấy thật sự.
Lấy vài ví dụ nhỏ! Thứ nhất: Trên chuyến bay từ Bắc Kinh đến Thái Nguyên ở Trung Quốc đại lục, trong tam muội, tôi đã thực sự nhìn thấy A Di Đà Phật ở thế giới Tây phương Cực Lạc, sự vĩ đại, trang nghiêm, hào quang của Ngài không thể nào diễn tả được. Thật không thể nghĩ bàn! Đặc biệt là bàn chân của Ngài, đứng trên hoa sen, đẹp không thể tả. A Di Đà Phật dạy: "Trong mọi hành vi, giữ gìn giới luật, tự nhiên sẽ được bình an."
Thứ hai: Tại Gyeongju Hàn Quốc, tôi đã đến lễ bái Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, phủ phục lạy Ngài. Trên xe trở về, trong tam muội, tôi thực sự đã nhìn thấy Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát và mười hai Dược Xoa Thần Tướng. Mỗi vị đều hiện ra kim thân trang nghiêm vô song. Hào quang muôn nẻo. Khí lành nghìn tia. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật nói: "Bệnh của ngài sẽ khỏi!" Lúc đó tứ đại đang phân tán, não chia tám mảnh, nhưng sau đó thực sự đã bình phục hoàn toàn, thật là kỳ tích.
Thứ ba: Tôi đang ở Đài Loan. Lúc đó tôi đang vướng vào một sự việc bị liên lụy một cách vô cớ, tưởng chừng như không có cách nào cứu vãn, khó khăn chồng chất. Trong tam muội, tôi thực sự nhìn thấy Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát nở nụ cười hiền từ. Kim thân và hào quang của Bồ Tát đẹp không thể nào diễn tả được, vượt trội hơn tất cả những gì từng thấy, dung nhan không gì sánh được. Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi: "Mọi việc sẽ được giải quyết êm đẹp!" Ngay trong ngày nhìn thấy Bồ Tát, tin tức truyền đến, mọi việc đã được giải quyết xong.
Thứ tư: Tôi đang ở Seattle, Mỹ. Vào ngày đầu tiên, khi đang giảng "Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận", trong tam muội, tôi thực sự nhìn thấy Tổ sư Tsongkhapa, vị Tổ sư của phái Hoàng giáo Mật tông Tây Tạng (phái Gelugpa), xuất hiện trong hư không ngay trước chỗ ngồi của tôi. Hào quang của Tổ sư Tsongkhapa, mềm mại tinh tế chiếu rọi gia trì cho tôi, hào quang như vậy, thật không thể nào diễn tả được! Dày. Mềm. Tinh tế. Có lực. Tổ sư Tsongkhapa nói với tôi: "Gia trì cho Lư Sư Tôn giảng Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận!"
(Tôi kể ra bốn ví dụ nhỏ này, tất cả đều là sự thật vô cùng chân thật. Sau khi tôi kiến đạo khai ngộ, tôi hiểu rằng tâm sinh thì vạn pháp sinh, tâm diệt thì vạn pháp diệt. Tất cả tôi đều tự biết rõ ràng.)
37. Không thể cố chấp không có Liên Hoa Đồng Tử
Đại học Lan Châu ở Trung Quốc đại lục đã nghiên cứu tỉ mỉ về hang động Đôn Hoàng và cho ra đời cuốn sách "Những câu chuyện Phật giáo ở Đôn Hoàng", trong đó có đề cập đến Liên Hoa Đồng Tử. Đó là câu chuyện về quá trình tu hành thành Bồ Tát của hai vị Liên Hoa Đồng Tử thời Phật Kim Quang. Hai vị Liên Hoa Đồng Tử này, một vị là Quan Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Hơn nữa, nếu bạn đến Đôn Hoàng và hỏi người quản lý: "Trong các hang động, hang nào có Liên Hoa Đồng Tử?" Người quản lý đáp: "Hang nào cũng có Liên Hoa Đồng Tử." Hỏi: "Trong hang 314 đều là Liên Hoa Đồng Tử phải không?" Người quản lý đáp: "Đúng vậy."
Tại Đài Loan, ông Trương Minh Thông, một người say mê nghiên cứu lịch sử Phật giáo, đã đưa ra nhiều bằng chứng hơn nữa.
Ông đã liệt kê rất nhiều Liên Hoa Đồng Tử với đầy đủ hình ảnh và văn bản, và nói rằng: "Liên Hoa Đồng Tử nhiều không đếm xuể!"
Tôi thường giải thích như thế này: Kinh A Di Đà nói: "Phía Tây phương này có mười vạn ức cõi Phật, trong đó có một vị Phật hiệu là A Di Đà."
Mọi người hãy nghĩ xem: Mười vạn ức cõi Phật. Tức là có mười vạn ức quốc độ Phật (tịnh thổ). Mỗi cõi Phật đều có một vị Phật trụ trì, vậy bạn có biết danh hiệu của chư Phật trong mười vạn ức cõi Phật không?
Trong Cao Vương Kinh: Một nghìn năm trăm vị Phật - danh hiệu là gì? Một vạn năm nghìn vị Phật - danh hiệu là gì? Vô lượng chư Phật - danh hiệu là gì? Liệu đệ tử Phật có thể đếm hết được danh hiệu của chư Phật trong các cõi tịnh thổ không?
Hơn nữa: Lại còn có người chấp trước vào thức thứ tám Như Lai tạng thức (A-lại-da thức), đây là sáu bộ kinh của Duy thức học: Giải Thâm Mật Kinh. Hoa Nghiêm Kinh. Lăng Già Kinh. Hậu Nghiêm Kinh. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Kinh. Như Lai Xuất Hiện Công Đức Kinh. (Trên đây là sáu bộ kinh Duy thức.)
Thực ra, trong nghiên cứu về Duy thức học, các bậc thiện tri thức có nhiều thuyết về Duy thức: Thuyết một thức - Thành Thực Tông. Thuyết hai thức - Khởi Tín Luận. Thuyết ba thức - Lăng Già Kinh. Thuyết năm thức - Khởi Tín Luận. Thuyết sáu thức - Tỳ Bà Sa Luận, Câu Xá Luận, Năng Lượng Luận, Thích Lượng Luận. Thuyết tám thức - Duy Thức Tông. Thuyết chín thức - Nhiếp Đại Thừa Luận. Thuyết mười thức - Ma Ha Diễn Luận. Thuyết mười một thức - Thế Thân Nhiếp Luận. (Thậm chí còn có thuyết vô lượng thức trong luận Đông Mật Thai Tạng.) (Thuyết không thức - Lư Thắng Ngạn Luận.)
Theo cảm nhận của tôi, tám vạn bốn nghìn pháp môn của Như Lai được nói ra để đối trị với tám vạn bốn nghìn phiền não của chúng sinh. Hoàn toàn không câu nệ một khuôn mẫu nào, tùy bệnh cho thuốc, ứng cơ thuyết pháp, thể hiện trí tuệ phương tiện vô ngại của Phật giáo.
Chỉ biết chấp trước vào thức thứ tám cũng là không đúng, Đại thừa Phật giáo căn bản là phương tiện vô lượng vô ngã vô ngại.
Có người hỏi hòa thượng Triệu Châu: "Thế nào là Triệu Châu?" Hòa thượng Triệu Châu đáp: "Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc." (Đây chính là vô ngại, vô ngã, vô lượng, vô chấp.)
Tôi đã tự thân chứng ngộ Liên Hoa Đồng Tử, tôi đã tự thân chứng ngộ Hoa Quang Tự Tại Phật. Nếu bạn nói không có, đó là vì bạn chưa chứng ngộ, nếu bạn đã chứng ngộ rồi thì sẽ biết điều này không giả dối.
Nếu bạn chỉ biết có giếng mà không biết có biển cả, thật đáng thương thay!
38. Cô đừng đi ra bờ biển đấy!
Năm đó. Đệ tử họ Đào cùng phu nhân của ông đến thăm tôi. Đệ tử họ Đào làm trong ngành xây dựng, khá có tiếng tăm, là một đệ tử rất mộ đạo. Mỗi lần đến thăm tôi, ông ấy đều mang theo quà, như rượu vang, bánh quy, đặc sản địa phương. Một phần cúng dường Lư Sư Tôn, một phần cúng dường chư tôn nơi đàn thành, chưa bao giờ đến tay không.
Đệ tử họ Đào thường hỏi về những bí quyết tu hành, ví dụ: "Cảm nhận khi chuyển khí phương tiện thành khí trí huệ là gì?" "Khẩu quyết để đưa khí từ mạch trái phải vào mạch trung ương là gì?" "Khẩu quyết về việc hạ minh điểm...?" ... Tôi sẽ giải thích khẩu quyết và tâm pháp một cách ngắn gọn cho đệ tử họ Đào.
Lần này, đệ tử họ Đào dẫn theo vợ đến. Vợ của đệ tử họ Đào còn trẻ, không có tín ngưỡng, là một người theo thuyết vô thần, có dung mạo rất xinh đẹp quyến rũ. Mỗi lần đệ tử họ Đào tham gia pháp hội đều đi một mình. (Vì phu nhân không mấy hứng thú.) Lần này cô ấy đi cùng, là vì đệ tử họ Đào năn nỉ ba bốn lần, cô ấy mới miễn cưỡng đồng ý. Cô ấy toàn thân hàng hiệu, đứng trước đàn thành cũng không chịu chắp tay. Thấy đệ tử họ Đào năm vóc sát đất đảnh lễ tôi, cô ấy có chút khinh miệt. Khi đệ tử họ Đào nói chuyện Phật pháp với tôi, cô ấy chẳng có cảm xúc gì, vẻ mặt vô cùng lãnh đạm. Cô ấy chỉ nhìn ra xe cộ vội vã qua lại ngoài đường, rồi quay lại ghế ngồi, đánh giá tôi một lúc. Với vẻ chán chường, nhìn chiếc đồng hồ Chopard trên tay.
Khi đệ tử họ Đào sắp về, cô ấy đột nhiên hỏi tôi: "Nghe nói thầy xem tướng rất chuẩn, thật hay giả vậy?" "Người ta đồn đại vậy thôi." - Tôi nói. "Thầy xem vận mệnh của tôi thế nào?" "Rất tốt." "Có điều gì cần chú ý không?" - Cô ấy hỏi.
Tôi tập trung tinh thần một chút, nhắm mắt lại, thấy Thần Biển, đó chính là vị Thần Biển trong thần thoại Hy Lạp. Tôi giật mình kinh hãi.
Tôi nói với Đào phu nhân: "Cô đừng ra bờ biển đấy!" Đào phu nhân trả lời tôi: "Thầy yên tâm! Tôi không biết bơi nên sẽ không ra bờ biển bơi đâu. Đi du lịch bên ngoài, những trò chơi dưới nước như mô tô nước, lướt ván nước, lặn biển, thuyền đáy kính, dù lượn, chuối bay..., tôi đều không chơi hết. Ngay cả ở những câu lạc bộ sang trọng, bên hồ bơi, tôi cũng chỉ mặc đồ bơi, nằm phơi nắng bên hồ thôi, cũng không xuống nước, tôi chẳng có duyên với nước đâu." Đào phu nhân nói: "Lư Sư Tôn, có phải thầy đoán sai rồi không?" Tôi đáp: "Có lẽ vậy!" Nhưng, tôi vẫn khuyên cô ấy: "Cô đừng ra bờ biển đấy!" Đệ tử họ Đào lái xe sang đưa phu nhân ra về.
Một năm đã trôi qua, Đào phu nhân đã quên mất lời tôi dặn. Có lần, bà đi theo đoàn du lịch đến khu danh thắng của một nước nọ, mọi người đang chụp ảnh trên những tảng đá ven biển, hôm đó có gió mạnh cấp 11. Đào phu nhân muốn chụp ảnh một mình. Cô ấy chọn một tảng đá cao. Sóng phía sau bắn tung tóe như pháo hoa đang nổ bung, Đào phu nhân quay lưng về phía biển để chụp ảnh. Một cơn gió mạnh thổi qua. Sóng biển dâng cao. Chỉ trong chớp mắt, một đợt sóng lớn cuốn đến rồi rút đi, Đào phu nhân bị cuốn xuống biển, trong tích tắc, không thấy người nổi lên, đã bị cuốn xuống tận đáy biển. Tìm kiếm mãi cũng không thấy! Trời ơi! Đệ tử họ Đào khóc lóc thảm thiết, cầu xin tôi siêu độ cho vợ. Đệ tử họ Đào nói với tôi: "Đừng ra bờ biển nhé! Lời cảnh báo của Lư Sư Tôn, cô ấy đã quên mất!"
39. Một cảnh ở tiệm bánh bát Điếm Khẩu
Cuối tháng 11 năm 2011, tôi cùng với Thượng sư Liên Ninh, Thượng sư Liên Điếm, Liên Nhai, Liên Tặng và những người khác đến tiệm Bánh bát Điếm Khẩu gần Bảo tàng Mỹ thuật Đài Trung để ăn bánh bát. Tiệm bánh bát Điếm Khẩu này khá nổi tiếng, mỗi ngày vào buổi trưa đều đông nghịt người, nhiều khi muốn đến ăn còn phải đặt chỗ trước!
Tôi ngắm bức tranh và đôi câu đối hai bên tại tiệm Bánh bát Điếm Khẩu, ở giữa là bức tranh Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi. Đôi câu đối hai bên do nhà thư pháp Lữ Phật Đình viết. Vế sau là "Năng Nhân là thầy tôi".
Tôi hỏi: "Năng Nhân là ai vậy?" Liên Ninh, Liên Điếm, Liên Nhai, Liên Tặng và những người khác nhìn nhau, không ai nói gì. Tôi nói: "Năng Nhân chính là Phật Thích Ca Mâu Ni."
Tôi giải thích: Chúng ta tụng chân ngôn của Phật Thích Ca Mâu Ni. "Ôm mô-ni mô-ni ma-ha-mô-ni sa-kya-mô-ni sô-ha." Chữ "mô-ni" trong chân ngôn này chính là "Năng Nhân". Phân tích chú ngữ như sau: "Đại đạo sư của ý thức vũ trụ, năng hành nhân đạo; năng hành nhân đạo, đại năng hành nhân đạo; người năng hành nhân đạo của dòng họ Thích Ca, cát tường viên mãn."
Vì vậy tôi nói: "Năng Nhân chính là Phật Thích Ca Mâu Ni."
Khi tôi đang giải thích, có hai người phụ nữ đến trước cửa tiệm, họ vẫy tay với tôi và nói: "Chúng con là đệ tử!" Một người trong số họ nói: "Khoảng vài tháng trước, khi Lư Sư Tôn cùng đồng môn đến ăn bánh bát tại tiệm Điếm Khẩu, chúng con đã gặp được thầy. Con đã quỳ xuống cầu xin thầy gia trì, vì con đã kết hôn 11 năm mà vẫn chưa có thai. Con đã đi khám cả Đông y lẫn Tây y nhưng vẫn không có kết quả. Biết Lư Sư Tôn có đại pháp lực nên con đã cầu xin được gia trì." Người đệ tử lại nói tiếp: "Lúc đó, Lư Sư Tôn đã đứng dậy, đặt tay lên đỉnh đầu gia trì cho con, pháp lưu không ngừng chảy vào khắp cơ thể, trước mắt con tràn ngập ánh sáng. Sau khi về nhà, con đã có thai. Con thật sự cảm ơn Lư Sư Tôn, giờ con muốn cầu xin khi sinh nở được mẹ tròn con vuông."
Cuối cùng tôi cũng nhớ ra rồi. Người nữ đệ tử này cách đây vài tháng đã quỳ trước mặt tôi, cầu xin gia trì để có thai. Vì đã kết hôn 11 năm mà chưa có con.
Tôi nhắm mắt lại, thấy Phổ Hiền Bồ Tát trên tường phóng ánh sáng vào thai của nữ đệ tử. Ôi! Bàn tay tôi cảm nhận rất mạnh mẽ, đó là lực rung động khi Bồ Tát và tay tôi kết hợp với nhau. Trong ánh sáng, có một đứa trẻ đi vào thai của nữ đệ tử. Cuối cùng, vài tháng sau. "Đã có thai rồi!" Tôi nói với nữ đệ tử: "Sau này đứa trẻ này sẽ là bậc đại thánh hiền đấy!" Mọi người ở tiệm Bánh bát Điếm Khẩu đều chứng kiến cảnh này.
Ngoài ra: Có một nữ đệ tử sống ở một đất nước rất xa xôi, đã hai mươi năm không thể sinh con. Hai mươi năm, cộng với hai mươi năm trước khi kết hôn, tức là đã bốn mươi tuổi, liệu có thể sinh con được không? Cô ấy không nản lòng, cầu nguyện trước tượng Liên Hoa Đồng Tử và dâng lễ vật lớn nhất.
Tối hôm đó, cô thấy Liên Hoa Đồng Tử mặc áo trắng, trang nghiêm phi thường, đầu đội mũ Ngũ Phật, trên mũ có năm viên ngọc ngũ sắc, trong đó có một viên ngọc màu đỏ rơi vào tay Liên Hoa Đồng Tử, lập tức hóa thành một em bé xinh xắn đáng yêu. Liên Hoa Đồng Tử nói với nữ đệ tử: "Em bé này là cho cô đấy!" Trong mơ, bụng cô ấy bắt đầu to lên. Tỉnh dậy, cô nói với chồng rằng mình đã có thai. Chồng cô trả lời: "Ngày nghĩ gì đêm mơ thấy cái đó, làm sao mơ mà đúng được?"
Nhưng, từ ngày đó, nữ đệ tử thật sự có thai. Giờ đây, bố mẹ chồng của cô đều quy y, cả họ hàng bạn bè, rất nhiều người cũng đã quy y. Chỉ vì một giấc mơ mà có thai!
40. Tôi sẽ đưa bạn bay
Ngày 10 tháng 12 năm 2011, thứ Bảy, tôi đã chủ trì pháp hội Hộ Ma Bảo Nguyên Độ Mẫu tại Đài Loan Lôi Tạng Tự. Hôm đó có hơn mười nghìn người đến nghe tôi giảng về nguồn gốc của Bảo Nguyên Độ Mẫu.
Sau khi giảng pháp xong, tôi làm lễ quán đảnh Bảo Nguyên Độ Mẫu cho đại chúng. Trong lúc quán đảnh, tôi có một cảm nhận đặc biệt.
Bảo Nguyên Độ Mẫu hiện thân trong hư không với sắc vàng kim, hình tướng giống như Lục Độ Mẫu, bay lượn tự do trên phan quán đảnh. Dáng bay của Ngài không giống như chim, mà khi thì đứng khi thì ngồi, một tay kết ấn ban nguyện, tay kia cầm hoa upala, từ mười ngón tay và đóa hoa tỏa ra muôn màu ánh sáng.
Trong ánh sáng có nhiều bảo vật: Hoa sen. Xe báu. Đèn vàng. Quả cát tường. Hương xoa. Pháp luân. Nước tám công đức. Hương hoa. Phật quả. Diệu nhạc. Giày phi hành. Và nhiều thứ khác nữa.
Vô số vô số thất bảo, bát bảo, nhị thập nhất bảo, tam thập nhị bảo, tam thập thất bảo, từ trên không trung tuôn xuống, rơi trên thân các đệ tử. Còn tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, cũng nhặt được một bảo vật là "giày phi hành", tôi nhặt lên rồi cất vào lòng.
Bảo Nguyên Độ Mẫu hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, thầy đã biết bay rồi, cần giày phi hành làm gì?" Tôi đáp: "Tôi sẽ đưa người khác bay đi." Bảo Nguyên Độ Mẫu hỏi: "Bay đi đâu?" Tôi đáp: "Bay đến cõi tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì." Bảo Nguyên Độ Mẫu nói: "Sao không bay đến cõi tịnh thổ Phổ Hiền Vương Phật Mẫu, đó mới là nguồn gốc của Bảo Nguyên Độ Mẫu." Tôi đáp: "Tất cả cõi Phật đều thông suốt, tôi sẽ cúng dường cõi tịnh thổ Phổ Hiền Vương Phật Mẫu." Bảo Nguyên Độ Mẫu nói: "Lành thay! Lành thay!"
Sau pháp hội, có một đệ tử hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, con nghe nói thầy có thể thần hành đến mười phương cõi Phật phải không?" Tôi đáp: "Tôi biết bay." Đệ tử hỏi: "Thầy có thể đưa con bay cùng được không?"
Tôi chợt nhớ ra trong lòng mình có đôi "giày phi hành" do Bảo Nguyên Độ Mẫu ban tặng, thầm nghĩ thật là trùng hợp khi đệ tử hỏi vậy. Tôi đáp: "Tôi sẽ đưa bạn bay!" Đệ tử hỏi: "Khi nào ạ?" Tôi đáp: "Tối nay."
Ngày hôm sau, ngày 11 tháng 12 năm 2011, khi tôi đang làm pháp Du Già Diệm Khẩu tại Cam Lộ Tinh Xá, đệ tử đó cũng tham gia và kể với tôi:
Tối qua, con thật sự đã bay được, Lư Sư Tôn dẫn con bay, bay qua núi cao, bay qua biển lớn, bay qua bầu trời đầy sao, bay đến Ma Ha Song Liên Trì để thăm các vị Liên Hoa Đồng Tử đủ màu sắc.
Rồi từ trong nhụy sen của Ma Ha Song Liên Trì, chúng con bay vào cõi tịnh thổ của Phổ Hiền Vương Phật Mẫu, được diện kiến Phổ Hiền Vương Phật Mẫu, Vô Ngã Mẫu, Kim Cang Hợi Mẫu, Bạch Độ Mẫu, Lục Độ Mẫu và tất cả chư Phật Mẫu. Cảm giác bay thật kỳ diệu. Chỉ cần dang hai tay, đạp chân một cái là bay lên tự tại, thân nhẹ như chiếc lá rơi, như huyễn như mộng. Anh ấy nói: "Lư Sư Tôn, thầy có thể đưa con bay, quả nhiên là thật!" Tôi đáp: "Đương nhiên là thật."
41. Tào Thương Minh nói như vầy
Ngày 10 tháng 12 năm 2011, sau khi kết thúc pháp hội Hộ Ma (hỏa cúng) Bảo Nguyên Độ Mẫu, khoảng 6 giờ tối, tôi đang dùng bữa tại nhà ăn của Đài Loan Lôi Tạng Tự. Bên cạnh có một người ngồi, đó là anh Tào Thương Minh, anh ấy ngồi bên phải tôi. Anh ấy nói: "Con đã biết Lư Sư Tôn từ hơn 30 năm trước." Tôi giật mình, hỏi: "Lúc đó anh mấy tuổi?" Anh ấy đáp: "Lúc đó con còn học tiểu học." (Sư huynh Tào nay đã hơn 40 tuổi.) Tôi hỏi: "Sao học tiểu học mà biết được tôi?" Anh ấy đáp: "Mẹ con dẫn con đến gặp thầy để hỏi về chuyện của cha con, địa điểm ở đường Tiến Hóa. Con thấy Lư Sư Tôn rất hay nói đùa, người lớn nghe thầy nói chuyện ai cũng cười haha!"
Anh ấy nói: "Năm đó, cha con phục vụ trong ngành công an, là trưởng đồn công an gần hồ chứa nước Đức Cơ. Cha con và cha của Lư Sư Tôn, ông Lư Nhĩ Thuận, thường qua lại với nhau, cha con hay trò chuyện với cha của Sư Tôn, hai người rất thân thiết, chính vì vậy mà cha mẹ con mới đến thăm Lư Sư Tôn." Anh ấy nói: "Lư Sư Tôn đoán việc siêu chuẩn!" Tôi hỏi: "Chuẩn như thế nào?" Anh ấy đáp: "Cha con đang truy tìm một tội phạm, có xin ý kiến Lư Sư Tôn. Lư Sư Tôn nói, vào tháng đó ngày đó, đến huyện Yến Sào ở Cao Hùng, nhất định sẽ bắt được tên tội phạm này." "Thế kết quả sao?" Anh ấy nói: "Kết quả thật sự bắt được! Nhờ công lao trong vụ này mà cha con được điều từ huyện Đài Trung về thành phố Đài Trung. Cuối cùng cha con làm đến chức thanh tra rồi mới về hưu."
Anh ấy nói thêm: "Thầy Lư đoán về chú con thì chính xác nhất." "Sao vậy?" Anh ấy nói: "Thầy Lư tiên đoán chú con có thể lên đến chức thanh tra trưởng trong ngành công an, và quả thật chú con đã làm được đến chức đó. Thầy còn nói, phải cẩn thận khi đến tuổi 50." "Rồi sao nữa?" Anh ấy nói: "Đến năm 50 tuổi, chú con bất ngờ qua đời vì nhồi máu cơ tim!" Tôi hỏi: "Tôi đâu có nói là chú ấy sẽ mất phải không?" Anh ấy đáp: "Dạ không, thầy Lư chỉ nói là phải cẩn thận khi 50 tuổi thôi." Anh ấy nói thêm: "Chuyện chú con làm đến chức thanh tra trưởng rồi đột ngột qua đời vì nhồi máu cơ tim lúc 50 tuổi đã gây xôn xao một thời, báo chí đều đưa tin."
Tào Thương Minh nói: "Ngày đó, khi Lư Sư Tôn hỏi việc ở Đài Trung, rất nổi tiếng, ngày nào cũng có rất đông người vây quanh. Cả nhà chúng con đều đến xin lời chỉ dạy từ Lư Sư Tôn, cha, mẹ, dì, chú, chính xác nhất là việc bắt được tội phạm và việc chú con qua đời lúc 50 tuổi. Thời gian, địa điểm, tuổi tác, đều chính xác không sai chút nào." Tôi hỏi: "Cha anh đã từng đến Đài Loan Lôi Tạng Tự chưa?" "Có ạ, ông ấy luôn muốn gặp lại cha của Lư Sư Tôn, chỉ là có thể cha thầy đã quên ông ấy rồi. Khi biết tin cụ Lư Nhĩ Thuận qua đời, cha con những ngày đó rất đau buồn, cứ im lặng không nói gì." "Than ôi! Thời gian trôi nhanh quá! Không ngờ tôi đã 67 tuổi rồi, còn anh cũng hơn 40, lúc tôi xem tướng số mới hơn 20 tuổi, còn anh lúc đó mới học tiểu học." Có câu nói rằng: "Cuộc đời là một buổi trình diễn trực tiếp, và không có cảnh quay lại."
42. Hà Diệp Đồng Tử niệm tụng pháp
Từng có vị đại cư sĩ Phật giáo trong giới Phật giáo được hưởng danh tiếng cực lớn, Hiển Mật đều thông hiểu. Vị đại cư sĩ này cũng là một người giàu có, ông ấy quyên tiền xây chùa, quyên tiền in kinh sách, quyên tiền cúng dường tăng chúng, quyên tiền làm việc thiện, trong giới tôn giáo mọi người đều biết ông ấy.
Khi ông ấy trú tại New York đã in một cuốn kinh thư, cuốn kinh thư này rất ít người biết, không lưu truyền rộng rãi, tên sách là "Hà Diệp Đồng Tử Kinh". Vô tình tôi đã đọc được cuốn kinh này.
Trong kinh dạy người ta cúng dường Hà Diệp Đồng Tử, có lợi ích lớn: 1. Tăng phúc. 2. Tăng huệ. 3. Đại quyền uy. 4. Đại thần thông. 5. Kéo dài tuổi thọ.
Kim thân của Hà Diệp Đồng Tử muốn dùng gỗ, sứ, thủy tinh, đất, đá để làm đều được, tạc thành hình một đồng tử, trên đầu có hai búi tóc, đứng trên lá sen, hoặc là nam đồng, hoặc là nữ đồng. Một đầu hai tay. Hai tay đều giơ ngón trỏ ra, một ngón chỉ đất, một ngón chỉ trời. (Giống như kim thân đồng tử của Phật Đà trong Tết tắm Phật của Phật Thích Ca Mâu Ni.)
Chỗ khác nhau giữa kim thân này và đồng tử Phật Đà là đứng trên lá sen và trên đầu có hai búi tóc. Pháp niệm tụng cúng dường trong kinh điển đó là: Phải cúng dường tại mật thất. (Gà, chó, mèo… không được đi vào.) Cúng phẩm là hoa, hương, đèn, trà, quả và đồ chơi của trẻ con, kẹo, v.v… Một ngày ba thời thắp hương vào lúc sáng, trưa, tối. Sau buổi trưa thì tu một đàn pháp. Niệm tụng: (Thủ ấn: một tay chỉ trời, một tay chỉ đất.) "Thiên linh, địa linh, Hà Diệp Đồng Tử linh. Cấp cấp luật lệnh. Seh." (Càng nhiều càng tốt.) Nhập ngã - Ngã nhập. (Tương tự nhập Tam ma địa.)
Trên đây là pháp niệm tụng chủ yếu, những phần khác như lễ bái, cúng dường, cầu khấn… thì đều lượng sức mình mà làm. Cứ thế một ngày tu một lần hoặc một ngày tu ba lần, tùy ý của mỗi người mà làm, nhưng không nên gián đoạn. Phải niệm tụng đến khi Hà Diệp Đồng Tử xuất hiện trong giấc mơ của mình mới xem là có tương ứng.
Khẩu quyết: Hành giả phải ăn cúng phẩm. Cúng phẩm bị hỏng thì nên bỏ đi, đổi thứ tươi mới. Tâm yếu: Kiền thành. Tinh tấn.
Sau khi tương ứng, Hà Diệp Đồng Tử thường ở bên cạnh như hình với bóng. Hành giả hướng về Hà Diệp Đồng Tử cầu nguyện tài phúc, tài phúc sẽ đến; cầu nguyện danh lợi, danh lợi sẽ đến; cầu nguyện con trai nối dõi, con trai sẽ đến; cầu nguyện bạn trai bạn gái, bạn trai bạn gái sẽ đến; cầu nguyện hôn nhân, hôn nhân sẽ đến; cầu nguyện thi cử, thành tích thi cử sẽ tốt; cầu nguyện ăn uống, ăn uống sẽ đến. Sau khi tương ứng, cầu nguyện Phật huệ, đọc kinh sẽ hiểu nghĩa; cầu nguyện chư tôn, chư tôn sẽ hiện thân; cầu nguyện trí huệ tăng trưởng, trí huệ liền tăng trưởng; cầu nguyện có thần thông, thần thông cũng xuất hiện. Sau khi tương ứng, Hà Diệp Đồng Tử có thể báo mộng, có nghĩa là ở trong mơ nói cho biết mọi lành, dữ, họa, phúc, v..v..
Tại đây, Lư Sư Tôn thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, niệm tụng pháp của Hà Diệp Đồng Tử tương tự pháp Nhĩ Báo Đồng Tử, nhưng cao minh hơn một chút so với Nhĩ Báo Đồng Tử. Tôi xếp Hà Diệp Đồng Tử vào hạng thần minh, có ý nghĩa là vị thần sáng tỏ. Người học Phật đương nhiên không cần tu pháp Hà Diệp Đồng Tử. Nhưng nếu có thần lực của Hà Diệp Đồng Tử thì cũng có trợ lực nhất định đối với việc học Phật. Đích thực có Phật, Bồ Tát. Đích thực có chư thiên. Đích thực có Không hành. Đích thực có Hà Diệp Đồng Tử. Về thế tục đế thì đều là thật có, Phật pháp không xa rời pháp thế gian, chỉ như vậy mà thôi!
43. Báo mộng cho bạn biết
Một đệ tử của Chân Phật Tông tên Liên Hoa Xương Vũ, khoảng 50 tuổi, cùng với phu nhân là bà Trần Đình, được mời tham gia đoàn hành hương của ngôi chùa gần đó để đến chùa tổ dâng hương.
Dâng hương là một phong tục dân gian của Đài Loan, ví dụ như Ma Tổ ở Đại Giáp, mỗi năm một lần, từ điện Trấn Lan khởi hành đến điện Phụng Thiên ở Tân Cảng. Lễ hội này được xem là số một cả nước, với lượng người tham dự đông nhất, đón Ma Tổ, rước Ma Tổ, đi vòng quanh khu vực, thắp hương... Khi Ma Tổ Đại Giáp tuần du, ngoài Ma Tổ ra còn có Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ và các vị thần lớn nhỏ khác đi theo, đội ngũ rất đông đảo.
Lãnh đạo trung ương, lãnh đạo địa phương và hàng đoàn tín đồ, tạo nên một làn sóng người cuồn cuộn, có thể nói là sự kiện lớn nhất cả nước.
Tháng Ba ở Đài Loan, người ta cuồng nhiệt với Ma Tổ, đây không phải là chuyện nhỏ.
Về việc này: Khắp Đài Loan vốn có rất nhiều đền chùa lớn nhỏ, số lượng thần minh nhiều vô kể. Các đoàn dâng hương, xe buýt chạy tới chạy lui, người đông nghịt trong các lễ hội đền chùa, đội bát gia tướng, Đài Loan đã hình thành nên một nền tín ngưỡng tôn giáo dân gian đa dạng.
Vợ chồng Liên Hoa Xương Vũ tham gia đoàn dâng hương, khởi hành đúng giờ. Đêm trước khi khởi hành, hai vợ chồng đều nằm mơ.
Lư Sư Tôn xuất hiện trong giấc mơ, nói với vợ chồng họ: "Ngày mai đừng đi!" "Tại sao?" "Sẽ có tai nạn xe!" "Trên xe có kim thân Tam Thái Tử, kim thân Ma Tổ, kim thân Thành Hoàng, kim thân Vương Gia... Chư thần đều ở trên xe hộ trì, chắc sẽ không xảy ra chuyện gì." Lư Sư Tôn nói: "Kiếp nạn khó tránh!" Vợ chồng họ cùng mơ thấy lời cảnh báo của Lư Sư Tôn, nên đã do dự không quyết. Đi hay không đi?
Tuy nhiên. Liên Hoa Xương Vũ là một trong những trưởng đoàn, lại là người có tiếng tăm trong vùng, người đứng đầu mà không đi thì không ổn; đoàn dâng hương cũng do các bậc trưởng lão trong vùng đề xuất, nếu không đi thì có lỗi với bà con làng xóm. Muốn hủy bỏ cũng không thể được. Họ đành phải cắn răng tham gia. Họ nghĩ, đó chỉ là một giấc mơ, mơ chưa chắc đã là thật.
Cuối cùng họ đành đeo bùa hộ mệnh Liên Hoa Đồng Tử bên mình và đoàn dâng hương vẫn xuất phát như thường. Suốt chuyến đi diễn ra thuận lợi, có ba chiếc xe buýt đi cùng nhau, Liên Hoa Xương Vũ ban đầu ngồi xe số 1, sau đổi sang xe số 2, việc dâng hương cũng rất thuận lợi.
Trên đường về. Khi xe đang quay đầu ở lưng chừng núi A Lý Sơn, phanh của chiếc xe số 1 bỗng nhiên bị hỏng. Xe tự đâm vào lan can bên đường, lật nhào, lao xuống sườn dốc, nằm nghiêng bên vệ đường. Trời ơi! Tai nạn thật rồi! Xe cảnh sát, xe cứu thương đều đã đến! Trong số các tín đồ trên xe buýt, một người thiệt mạng, mười bảy người bị thương nặng nhẹ, tất cả được đưa vào các bệnh viện gần đó.
Cuối cùng. Liên Hoa Xương Vũ kể: Ban đầu anh cũng ngồi xe buýt số 1. Lúc về, khi anh lên xe buýt số 1, phát hiện chỗ ngồi của mình đã có người khác ngồi. Người đó nói không cần đổi chỗ đâu, anh cứ lên xe buýt số 2 ngồi chỗ của tôi. Thế là Liên Hoa Xương Vũ mới chuyển sang xe buýt số 2, cả vợ cũng đổi sang xe buýt số 2 luôn. Vấn đề là, người đổi chỗ với Liên Hoa Xương Vũ chính là người duy nhất thiệt mạng trong vụ tai nạn.
Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra vậy? Nếu Liên Hoa Xương Vũ không đổi chỗ, người chết có phải là anh ấy không? Là định mệnh chăng? Là ngẫu nhiên? Là do tác dụng của bùa hộ mệnh? Liên Hoa Xương Vũ nói: "Khi đoàn dâng hương đang đi xuống theo đường núi A Lý Sơn, tôi ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, phải chăng đó là Liên Hoa Đồng Tử đang che chở? Nhưng tại sao ngài không bảo hộ những người trên xe số 1?"
44. Ý nghĩa của sờ đầu gia trì
Khi ở Đài Loan, mỗi thứ Bảy lúc 3 giờ chiều, tại Đài Loan Lôi Tạng Tự ở núi Hổ, thị trấn Thảo Đồn, Đài Trung, có khoảng hàng vạn đệ tử tín đồ tụ họp. Họ tham gia lễ Hộ Ma do tôi chủ trì. Họ lắng nghe tôi giảng Kinh Lục Tổ Đàn và các kinh khác. Họ nhận quán đảnh từ chư tôn. (Cờ lọng của chư tôn quán đảnh.) Sau bữa tối, họ tự động xếp thành hai hàng, phần lớn đều quỳ xuống, tôi đi vào giữa đám đông, lần lượt sờ đầu gia trì cho từng người.
Miệng tôi tụng chân ngôn, trong tâm quán tưởng mình chính là Bổn tôn, tôi ban phúc cho chúng sinh: Xin tiêu trừ bệnh tật! Xin tăng thêm phúc báu! Xin trí huệ tăng trưởng! Xin kính ái viên mãn! Xin oán địch thoái lui! Xin hạnh phúc mỹ mãn! Xin không tai không nạn! Vân vân vân vân...
Nghi thức sờ đầu gia trì này kéo dài khoảng một giờ đồng hồ, tôi chuyên tâm sờ đầu gia trì cho các đệ tử. Sức mạnh gia trì của dòng truyền thừa, sức mạnh của Bổn tôn, sức mạnh của Thượng sư, sức mạnh của Hộ pháp, sức mạnh ý niệm, sức mạnh chân ngôn cùng nhiều sức mạnh khác, tất cả hội tụ lại và thấm vào thân tâm của đệ tử và tín chúng.
Đã có rất nhiều điều kỳ diệu xảy ra: Người mù đã thấy được! Người điếc đã nghe được! Bệnh tật đã tiêu trừ! Làm ăn đã phát đạt! Thi cử đã đỗ đạt! Gia đình đã viên mãn! Thăng quan phát tài! Tai ương đã tránh xa! Ước nguyện đã thành! Vân vân vân vân...
Lư Sư Tôn tin rằng mình có được năng lực này là vì nguồn lực gia trì của tôi tuôn chảy không ngừng. Tôi thực sự biết rằng, lực truyền thừa của tôi là chân thật không hư giả, Bổn tôn của tôi tương ứng với tôi, lực Bổn tôn là chân thật không hư giả, Hộ pháp của tôi thường xuyên ở bên cạnh, lực Hộ pháp là chân thật không hư giả. Ý niệm của tôi, ban phát cho chúng sinh. Chú lực của tôi, trao cho chúng sinh.
Có một lần, một đệ tử xin tôi giúp khai quang đàn thành mà anh ấy đã tự thiết lập. Tôi đã đồng ý. Nhưng tôi thực sự quá bận. Mỗi lần tôi sờ đầu gia trì cho đệ tử tín chúng, vị đệ tử này đều quỳ trong đám đông. Khi tôi đi đến gần, anh ấy ngước đầu nhìn tôi và nói: "Xin thầy hãy khai quang đàn thành cho con!" Tôi đáp: "Được!"
Tôi cầm gạo rắc vài hạt lên đầu anh ấy và lên tấm ảnh đàn thành anh ấy đang cầm trong tay. Tôi nói: "Tôi đã khai quang rồi đó!"
Khi về nhà, anh ấy bất ngờ phát hiện đàn thành ở nhà đã được rắc đầy gạo, gạo có cả trên đàn thành lẫn dưới đất, thật không thể tin được, không ai rắc gạo lên đàn thành, vậy mà gạo lại rải khắp nơi. Anh ấy nói: "Thần thông của Lư Sư Tôn thật không thể nghĩ bàn, đàn thành của con đã tự động được khai quang!" (Trong nghi thức khai quang Mật giáo có dùng rắc gạo.)
Hơn nữa: Có không ít người bị u bướu ung thư đã tự khỏi sau khi được sờ đầu gia trì! Một người đồn cho mười người, mười người đồn cho trăm người, trăm người đồn cho nghìn vạn người, ai ai cũng đến xin được sờ đầu gia trì!
Có một cô gái ngồi xe lăn, sau nhiều lần được sờ đầu gia trì, bây giờ đã đứng dậy được. Khi tôi đang chủ trì lễ Diệm Khẩu tại Cam Lộ Tinh Xá, cô ấy đã đứng và lại xin tôi sờ đầu gia trì!
45. Đều có hạt xá lợi
Sau khi bố tôi Lư Nhĩ Thuận viên tịch, ông được đưa đến Thủy Lý để hỏa táng, và từ tro cốt đã xuất hiện xá lợi hạt và xá lợi hoa. Lúc đó có rất nhiều Thượng sư, pháp sư, giáo thọ sư, đường chủ, giảng sư, trợ giảng, đồng môn... có mặt tại hiện trường. Mọi người đều rất kinh ngạc.
Những xá lợi hạt và xá lợi hoa này đã được pháp sư Liên Cần tỉ mỉ chọn lựa và thu thập. Bố tôi Lư Nhĩ Thuận sinh thời không tin bất kì tôn giáo nào, cũng không niệm Phật, càng không tu tập Mật giáo. Bố thường nói với tôi: "Chết rồi! Là hết tất cả!" Ông không tin có thiên đường, không tin có địa ngục. Ông từng nói với người khác: "Vì con trai tin Phật, học Phật, lại còn hoằng pháp độ sinh, nên tôi ít nói chuyện, không muốn đối đầu với con."
Về già. Bố tôi có chút thay đổi, khi tôi tập trung đại chúng hoằng pháp, ông đến nghe và cũng nhận quán đảnh. Khi được mời niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, ông cũng thuận miệng niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Ông cũng nhận sự gia trì và sờ đầu của tôi. Và thế là: "Bố cũng có xá lợi hạt và xá lợi hoa." Thật là kỳ diệu.
Hơn nữa: Từ rất lâu trước đây, tại Nhà tù Changi ở Singapore, nơi giam giữ rất nhiều tử tù, có những tử tù nghe danh tiếng của tôi. Vì thế, các tử tù lần lượt quy y theo tôi. Họ dán ảnh nhỏ của tôi lên tường trong tù. Họ đảnh lễ trước ảnh. Tụng: "Om guru liansheng siddhi hum." Thế là tiếng tụng chú vang vọng khắp nơi. Nghe nói tụng đến khi tường bắt đầu tỏa sáng. Nhiều tử tù trong giấc mơ đều thấy Lư Sư Tôn đến thăm, họ vô cùng phấn khởi.
Sau khi bị treo cổ. Khi hỏa táng, những hạt xá lợi tròn lăn tứ tung trên mặt đất, các hạt xá lợi xếp thành hình như bát quái, từ lớn đến nhỏ, tạo thành một vòng tròn lớn. Tử tù có được xá lợi. Gây chấn động toàn thế giới. Những tử tù này chỉ quy y Lư Sư Tôn, đảnh lễ trước pháp tướng, tụng: "Om guru liansheng siddhi hum." Cứ như thế, như thế. Từng người một hỏa táng đều có xá lợi.
Lại nữa: Một bé gái ngồi xe lăn, bẩm sinh tàn tật, suy đa tạng, nghe danh Lư Sư Tôn. Lúc sắp mất, xin được quy y. Miệng tụng: "Om guru liansheng siddhi hum." Sau khi mất, hỏa táng có xá lợi ngũ sắc và xá lợi hoa. Gia đình vô cùng kinh ngạc. Hỏi tôi: "Có thật không ạ?" Tôi đáp: "Thật."
Gia đình hỏi: "Dù ngồi xe lăn, không thể kết ấn, không biết tu pháp, chỉ một lòng mong muốn quy y, lúc lâm chung niệm chú Thượng sư không ngừng. Vậy mà lại có xá lợi ngũ sắc và xá lợi hoa, thật không thể tin được!" Tôi đáp: "Một lòng tin kiên định là đủ!"
Tôi thành thật nói với mọi người rằng, nếu ai một lòng cung kính Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, lễ bái, cúng dường, trì chú, cầu nguyện, thì năng lực sinh ra không thể nghĩ bàn, sau khi chết vãng sinh không thể nghĩ bàn, được xá lợi hạt, xá lợi hoa, không thể nghĩ bàn, tất cả đều là chân thật không giả dối.
46. Bọ sư tử ăn thịt sư tử
Trong thời gian ở Đài Loan, có một lần sau buổi pháp hội, tôi sờ đầu gia trì cho tất cả tín chúng. Trong lúc đang lần lượt sờ đầu gia trì, tôi bỗng cảm nhận được một người đàn ông liếc xéo mắt nhìn tôi, người này đứng bên ngoài hàng người đang xếp hàng. Nhìn qua diện mạo của người đàn ông này: 1. Râu tóc xồm xoàm. 2. Tuổi đã ngoài năm mươi. 3. Ăn mặc kỳ quặc. 4. Ánh mắt tà khí.
Tôi vừa nhìn thấy vậy, liền có tiếng nói báo cho tôi biết. "Sớm muộn gì hắn cũng gây chuyện thôi, giống như bọ sư tử ăn thịt sư tử vậy!" Trong lòng tôi giật mình, nhưng tôi không để tâm.
Nghe nói người đàn ông này tự xưng là người có khả năng thông linh, chuyên xem bói cho người khác. Mặc dù đã quy y dưới danh nghĩa của tôi, nhưng anh ta không thực sự giữ giới luật, không thực tu, chỉ là người lai vãng qua lại mà thôi. Sau đó, quả nhiên xảy ra chuyện. Anh ta vi phạm pháp luật.
Từ sự việc này, tôi muốn viết bài này để cảnh tỉnh mọi người. Tôi đã phát một lời nguyện: "Không bỏ rơi một chúng sinh nào!" Nghĩa là bất cứ ai muốn đến quy y với tôi, tôi đều không từ chối, tất cả đều được chấp nhận. Vì vậy, đệ tử của tôi tốt xấu lẫn lộn. Có những đệ tử rất xuất sắc, nhưng cũng có những đệ tử phẩm chất thấp kém, rồng rắn lẫn lộn, phàm thánh chung sống. Vì thế, tôi có rất nhiều đệ tử.
Trong số các đệ tử, có cả người lương thiện lẫn kẻ bất lương, thậm chí có cả những người từng là côn đồ, và cả những người từng là kỹ nữ. Tù nhân quy y với tôi còn nhiều hơn nữa, có tội phạm lừa đảo, cướp bóc, ma túy, xâm hại tình dục...
Tại nhà tù nữ, chúng tôi cũng có Thượng sư hoằng pháp trong tù, nam nữ phạm nhân quy y rất đông. Như mọi người đã biết về tử tù có xá lợi, có thể thấy tôi nhận cả tử tù làm đệ tử. Sự giáo hóa của tôi là như vậy đó! Chính vì thế, người làm thầy như tôi đây khó tránh khỏi bị các đệ tử liên lụy.
Có những đệ tử tuy đã quy y theo tôi, nhưng những thói hư tật xấu cũ vẫn chưa hoàn toàn được gột rửa, chỉ có thể nói là đang dần dần được thanh lọc, tính tham vẫn còn, tính sân vẫn còn, tính si vẫn còn, trong một sớm một chiều không thể từ phàm thành thánh được. Dù tôi đã kiên nhẫn chỉ dạy. Nhưng họ chỉ để ngoài tai.
Tôi dùng lòng từ bi vô lượng của chư Phật Bồ Tát, cùng với sự chỉ dạy bằng trí tuệ, chỉ dạy bằng pháp lực, hy vọng các đệ tử có thể tương ứng với chư tôn Mật giáo, để từ đó cứu độ chúng sinh.
Tôi thường nhấn mạnh: Chân Phật Tông là tín ngưỡng tôn giáo có lý trí nhất dưới sự hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Tất cả đều phải tuân theo đạo tình, đạo lý và giáo pháp để hoằng dương lòng từ bi và trí huệ của Phật Đà. Đệ tử quy y phải tuân thủ pháp luật. Đệ tử quy y phải giữ giới luật Mật giáo, không chỉ giữ Ngũ giới, Bát giới, Bồ Tát giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, mà còn phải giữ cả "Sự sư pháp ngũ thập tụng", "Mười bốn giới căn bản Mật giáo" và nhiều giới khác nữa. Giới luật của Mật giáo còn nhiều hơn cả Hiển giáo.
Chân Phật Tông của chúng ta rất chú trọng giới luật, những ai phạm giới luật đều phải thành tâm sám hối cho đến khi thấy được tướng sám hối. Biết lỗi mà sửa, không gì tốt hơn thế! Chúng ta nhấn mạnh: Đại lễ bái pháp. Đại cúng dường pháp. Đại quy y pháp. Đại sám hối pháp. Phát tâm bồ đề tối thượng.
Tôi mong rằng, các đệ tử phạm lỗi phải chấp nhận sự trừng phạt của pháp luật, không chỉ phải chịu hình phạt mà còn phải hối lỗi sâu sắc, vĩnh viễn không tái phạm. Tôi yêu cầu các đệ tử phải tuân thủ pháp luật, giữ gìn giới luật, tuyệt đối không được làm bừa!
Mọi người phải hiểu rõ pháp luật, cũng phải hiểu rõ giới luật, tuyệt đối không được vi phạm pháp luật, cũng phải giữ gìn giới luật, có như vậy mới không trái với "một niệm thiện tâm" lúc quy y.
47. Một lá thư cảm ơn
Sư Phật kính yêu!
Đệ tử Liên Hoa Viên Viên cùng con gái nhỏ Liên Hoa Hân Duyệt đảnh lễ khấu bái Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật vô thượng tôn quý! "Om guru liansheng siddhi hum!"
Đệ tử vĩnh viễn không thể nào quên ngày rằm tháng Tám âm lịch năm nay, cũng chính là ngày Tết Trung Thu. Cơn đau đầu của con gái nhỏ Liên Hoa Hân Duyệt đột nhiên trở nên trầm trọng, chúng con lập tức đưa cháu đến bệnh viện để làm đủ các xét nghiệm, kéo dài gần ba tuần mà vẫn không tìm ra nguyên nhân.
Ngoài cơn đau đầu dữ dội vào ban ngày, đến đêm con bé còn đau đến mức phải đập đầu mình, không thể ngủ được. Với thể trạng vốn yếu ớt, con bé nhanh chóng gầy đi, mắt thẫn thờ, mặt tái xanh. Chúng tôi đành bất lực nhìn đứa con đáng thương bị cơn đau hành hạ như vậy. Là một người mẹ, tôi đau đớn tột cùng, nếu có thể, tôi thậm chí sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu con!
Cuối cùng, nhờ sự sắp đặt của chư Phật Bồ Tát, sau nhiều lần tìm kiếm, chúng tôi may mắn được liên lạc với sư tỷ Trần ở Vancouver. Dưới sự giúp đỡ tận tình của sư tỷ Trần, chúng tôi đã thu xếp làm chủ cầu Hộ Ma, và vào ngày 2 tháng 10, chúng tôi đã đích thân trao thư cầu xin gia trì cùng ảnh chụp đến Sư Tôn.
Chỉ thấy Sư Tôn khẽ nói: "Quan Thế Âm Bồ Tát làm chủ". Sau đó, Ngài đưa tấm ảnh của đứa bé lên ấn vào trán. Hành động tưởng chừng vô tình này lại mang ý nghĩa vô cùng quan trọng và sâu sắc đối với đứa bé, một nguồn pháp lực vô hình mạnh mẽ liên tục gia trì cho con bé, và sau đó, triệu chứng đau đầu của con gái tôi cuối cùng đã biến mất.
Nhìn con bé hớn hở đeo ba lô đến trường, khuôn mặt nhỏ nhắn dễ thương lộ nụ cười đã lâu không thấy, đệ tử làm sao không biết ơn ân cứu mạng của Sư Tôn? Đây là lòng biết ơn không có ngôn từ nào có thể diễn tả được!
Vào tối ngày 17 tháng 10, đệ tử mơ thấy Sư Tôn đích thân đến nhà để gia trì. Trong mơ, Sư Tôn bóp mũi đệ tử, làm chảy ra một chút dịch, sau đó đệ tử hỉ ra một đống như đờm đặc. Vài ngày sau, đệ tử vui mừng phát hiện căn bệnh viêm mũi dị ứng đã khiến đệ tử khổ sở nhiều năm bỗng nhiên tự khỏi!
Hết lần này đến lần khác đều chứng minh rằng Sư Tôn chính là Phật! Là chân thật không giả! Chính ánh sáng Phật quang thanh tịnh rạng ngời gia trì cho đệ tử, giúp chúng tôi thoát khỏi khổ nạn! Sư Tôn đã cứu đệ tử, cũng cứu cả gia đình chúng tôi!
Năng lực gia trì của Sư Tôn thật thù thắng biết bao! Là đệ tử của Chân Phật, tôi thật may mắn, được quy y Sư Phật quả là niềm tự hào và hạnh phúc vô thượng của đệ tử!
Sự cứu độ của Sư Tôn giúp đệ tử hiểu sâu sắc hơn rằng nhân quả thật đáng sợ! Đời người là khổ não, sinh mệnh thật mong manh và ngắn ngủi! Nếu không tuân theo lời dạy của Sư Tôn, thực tâm tu hành, tìm kiếm phương pháp giải thoát căn bản, quả thật là phí phạm cuộc đời này biết bao!
Đệ tử Liên Hoa Viên Viên một lần nữa cùng con gái Liên Hoa Hân Duyệt thành tâm đảnh lễ tạ ơn Sư Tôn!
Tuy đệ tử không biết dùng ngôn từ hoa mỹ để bày tỏ lòng biết ơn đối với Sư Tôn, nhưng đệ tử nguyện dâng trọn thân khẩu ý của mình cúng dường Sư Tôn, đời đời kiếp kiếp theo Sư Tôn tu hành, lấy sự nghiệp bồ đề làm trách nhiệm của mình, dốc hết sức mình dù nhỏ bé để hoằng dương Phật pháp, độ hóa chúng sinh!
Nguyện Sư Phật pháp thể an khang, không nhập niết bàn! Đại chuyển pháp luân! Phổ độ chúng sinh!
Đệ tử Liên Hoa Viên Viên cùng gia đình khấu bái. Om guru liansheng siddhi hum. 25/10/2011
Thêm nữa: Một bài kệ tạ ơn của bệnh nhân ung thư sau khi bình phục:
Đảnh lễ dưới chân Phật: Đại Y Vương Phật khéo chữa bệnh. Con nay dâng lời tôn kính nhất. Mắc bệnh ung thư tâm bất an. Sư Phật hiện về trong giấc mộng. Dạy rằng: Giác ngộ duyên khởi thù thắng nhất. Không duyên làm gì cũng như không. Không có khối u tự dưng có. Đưa tay lấy vật dễ như không.
Lấy khỏi thân con bệnh ác duyên. Giờ đây tất cả đã không còn. Đời này chỉ có thầy vô địch. Cảm ơn, cảm ơn, lại cảm ơn.
Ngày 17 tháng 12 năm 2011. Liên Hoa Ứng Thành trăm lạy.
48. Cảm ứng sau khi sờ đầu
Thứ nhất: Liên Hoa Ấn Đường nói: Tay cầm tượng Hồng Tài Thần, con để Lư Sư Tôn sờ lên đầu tượng Hồng Tài Thần. Chỉ thấy Lư Sư Tôn niệm một câu: "Ôm ga-na-pa-ti-yê sô-ha."
Khi về đến nhà, con ngửi thấy một mùi hương kỳ lạ, cả đàn thành đều thơm ngát, một tuần sau vẫn chưa tan. Mùi hương này cả đời con chưa từng ngửi thấy, thật là kỳ diệu quá. Kết quả: "Trúng giải đặc biệt!"
Thứ hai: Liên Hoa Nhất Trưng nói: Con đã mang thai được sáu tháng, siêu âm thấy thai nhi nằm ngược. Bác sĩ nói rằng con cần phải tập thể dục đặc biệt để giúp thai nhi nằm đúng tư thế. Bác sĩ cũng nói nếu không tập thể dục, việc sinh nở sẽ khó khăn.
Nghe xong thật lo lắng, vì vậy con đã lên núi Hổ, đến Đài Loan Lôi Tạng Tự để nghe Sư Tôn giảng Kinh Lục Tổ Đàn. Khi được Sư Tôn sờ đầu gia trì, con xin Ngài sờ vào bụng con. Thấy Sư Tôn vỗ nhẹ một cái và nói: "Xong rồi!"
Hai ngày sau, khi đi khám siêu âm với bác sĩ. Bác sĩ nói: "Thai nhi đã nằm đúng vị trí!" Thực ra con còn chưa kịp tập thể dục mà thai nhi đã nằm đúng vị trí, con xin cảm ơn Sư Tôn.
Thứ ba: Liên Hoa Song Song nói: Tôi vốn bị đục thủy tinh thể, đã chuẩn bị phẫu thuật để loại bỏ đục thủy tinh thể và cũng đã sắp xếp thời gian, ngày tháng.
Khi Sư Tôn Lư sờ đầu, tôi buột miệng nói: "Xin Sư Tôn sờ vào mắt." Chỉ thấy Sư Tôn thuận tay sờ nhẹ vào mắt, chỉ là một cái phất nhẹ qua thôi.
Khi khám trước phẫu thuật, bác sĩ đột nhiên nói: "Đục thủy tinh thể biến mất rồi!" Tôi nghe xong, không thể hiểu nổi! Tôi hỏi: "Sao lại biến mất được?" Bác sĩ cũng không biết tại sao.
Thứ tư: Liên Hoa Năng Từ nói: Ngày hôm đó, Sư Tôn Lư sờ đầu con, vỗ hai cái lên đỉnh đầu, ban đầu chỉ định sờ một cái thôi, nhưng lại vỗ hai cái, có lẽ vì sau khi sờ xong, con chưa đứng dậy ngay nên Ngài lại sờ thêm một cái!
Hôm đó về nhà tu pháp, cảm giác khác hẳn mọi khi, một luồng "chân khí" từ đỉnh đầu chạy thẳng xuống, toàn thân như có điện chạy, tràn đầy pháp hỷ, tự cảm thấy nhẹ nhàng an lạc.
Cảm giác sảng khoái đó không chỉ có khi tu pháp, mà sau khi tu pháp xong vẫn còn, điều này không thể nghi ngờ, cảm giác bí mật sinh khởi đó vẫn còn mãi, thật là kỳ diệu không thể tả! Cảm ơn Sư Tôn Lư!
Thứ năm: Liên Hoa Nhất Gia nói: Khi được sờ đầu, con đã cầm chuỗi hạt của mình cho Lư Sư Tôn chạm vào, sau khi về nhà, con đặt chuỗi hạt lên bàn thờ, tắt đèn đi, kết quả bàn thờ tỏa ra ánh sáng cầu vồng.
Con quay lại nhìn thì thấy chính chuỗi hạt đang phát ra ánh sáng nhiều màu, điều này con chưa từng thấy bao giờ, không biết có phải mắt con có vấn đề không? Con nhìn ra ngoài cửa sổ thì thấy mọi thứ bình thường, nhìn lại bàn thờ vẫn thấy ánh sáng cầu vồng; ánh sáng cầu vồng này kéo dài bảy ngày mới tan.
Thứ sáu: Liên Hoa Đức Kim nói: Khi Sư Tôn sờ đầu, con nhớ đến cha và ước gì cha cũng được Sư Tôn sờ đầu, vì cha con vừa mới mất không lâu, trong lòng con vô cùng đau buồn, không biết cha đã đầu thai về đâu? Không ngờ đêm đó con mơ thấy cha. Cha nói với con: Thầy của con đã tiếp dẫn cha về tịnh thổ rồi, con cứ yên tâm, ngay trong khoảnh khắc được sờ đầu, cha đã vào cõi Phật. Cha trông vừa vui vẻ vừa trẻ trung. Cha đích thân nói: "Thầy của con là Phật tái thế."
49. Bí mật phát khởi lòng tin
Viết cuốn sách "Hãy mở lòng ra" này là để mọi người khởi niềm tin, đó chính là mục đích của cuốn sách. Đối với tôi, trọng tâm cuộc sống là "viết sách" và "tu tập", từ khi còn trẻ cho đến năm 67 tuổi vẫn luôn như thế, không hề thay đổi. Phật pháp xuyên suốt cả cuộc đời tôi. Còn lại: "Chẳng có gì cả!"
Phật pháp bắt đầu từ niềm tin, nên dù đã viết đến 226 cuốn, tôi vẫn viết về khởi niềm tin, bởi niềm tin là mẹ của mọi công đức. Những năm qua, vì tâm không trú vào đâu, không mong cầu, không vướng bận, tôi đã bước vào cảnh giới thanh tịnh đạm bạc, tự thấy cuộc đời như vậy đã rất mãn nguyện rồi. Mọi phiền não trong quá khứ đều tan biến, giờ nhìn thế gian càng thêm thấu suốt, sau khi minh tâm kiến tính: "Đốn nhập tịch tĩnh."
Tôi hiểu được Phật pháp về: Không. Không tính. Phân biệt Không tính.
Tôi thấu tỏ: Bát nhã. Trung quán. Duy thức.
Cuốn sách này của tôi là sách "khởi niềm tin", nên đây là một pháp môn tiện lợi. Theo tôi, dù có rất nhiều câu chuyện cảm ứng, nhưng tôi dùng những câu chuyện cảm ứng chân thật này để dẫn dắt mọi người vào cảnh giới "chính tín" của Phật pháp. Ngũ uẩn tính Không. Nhập vào tam muội thậm thâm, hiểu tất cả pháp như hư không. Tôi đây, Dù biết rằng tất cả quốc thổ đều là "huyễn hóa", nhưng tôi vẫn có thể dùng diệu hạnh thanh tịnh để trang nghiêm cõi Phật. Dù biết rằng chư Phật Bồ Tát đều là "huyễn hóa", nhưng tôi vẫn có thể dùng diệu hạnh thanh tịnh để trang nghiêm chư Phật Bồ Tát. Dù biết rằng cuộc đời như "huyễn hóa", nhưng tôi vẫn có thể dùng diệu hạnh thanh tịnh để mỹ hóa cuộc đời. Dù biết rằng nhân quả luân hồi niết bàn đều là "huyễn hóa", nhưng tôi vẫn dùng diệu hạnh thanh tịnh để giải thích. Tôi đã hiểu rằng: Tất cả các pháp đều tịch tĩnh, không sinh không diệt. Sinh tử và niết bàn, phàm phu và chư Phật, đều là tướng không hoa. (Đây là cảnh giới tột cùng của Không.)
Nhưng: Tôi dùng tất cả những điều huyễn hóa để khơi dậy niềm tin nơi con người. Nếu không như vậy, Phật tính tịch diệt sẽ không thể diễn tả được. Tôi chỉ tùy theo các loại chúng sinh khác nhau mà thuyết các pháp khác nhau.
Trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thụ: Các pháp do duyên sinh, ta nói tức là Không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung đạo. Do có nghĩa Không, nên tất cả pháp đều thành, nếu không có nghĩa Không, tất cả đều không thành. Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sinh, cho nên tất cả pháp, không pháp nào chẳng Không. Phật Thích Ca Mâu Ni còn được gọi là Không Vương Phật.
Kinh Lục Tổ Đàn có mấy câu quan trọng, cũng như thế:
Diệu tâm của người đời vốn không, không có một pháp nào có thể đắc được, tự tính chân không, cũng là như thế. Nếu ngộ được ba thân không có tự tính, tức là thông tỏ tứ trí bồ đề. Bản tính của ngươi như hư không, hoàn toàn không một vật có thể thấy, đó gọi là chính kiến; không một vật có thể biết, đó gọi là chân như.
Sau khi minh tâm kiến tính, tôi chỉ biết hai chữ: 1. Không. 2. Huyễn.
Nhưng sự thấu tỏ này có được là nhờ 40 năm nghiên cứu sâu sắc Phật pháp trong cõi người. Nếu không nhờ nhân duyên mà sinh làm người; nếu không nhờ nhân duyên mà nghiên cứu sâu đến tận cùng chân lý Phật pháp; nếu không nhờ nhân duyên mà khởi tín; nếu không nhờ nhân duyên mà tương ứng; nếu không nhờ nhân duyên mà có thần thông; nếu không nhờ nhân duyên mà có trí tuệ, thì làm sao tôi giải thoát được?
Phật xuất thế, thật đáng tin thay!
(Hết.)