Lư Thắng Ngạn và những bí mật lớn
🪷 Một lòng hướng thiện
Văn tập: 234 Xuất bản: 07/2013 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Tác giả nay đã 70 tuổi rồi. Quay đầu nhìn lại những năm tháng đã đi qua, tôi cũng không nén nổi những tiếng thở dài. Có một số chuyện nên nói ra, có một số chuyện vẫn cần giữ bí mật mới tốt. Nhưng sau khi ngẫm nghĩ, tôi thấy chi bằng đem tất cả những chuyện siêu bí mật hé lộ toàn bộ ra. Tôi nghĩ như vậy là để cho những độc giả của tôi biết được:
- Tôi là con người rõ ràng minh bạch.
- Cuộc đời của tôi đã thấu triệt như vậy.
- Mỗi ngày của tôi trải qua như thế nào.
- Tôi là một người hết mực chân thành.
- Tôi không giả tạo.
Tôi sâu sắc cảm thấy rằng tôi đang hé lộ tất cả mọi điều bí mật một cách chi tiết thận trọng, lấy chính trải nghiệm của bản thân mình để truyền dạy cho người khác, để cho nhóm độc giả của tôi sau khi đọc xong có thể hoàn toàn hiểu rõ về tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) - con người cả một đời sống và làm vì nghĩa này. Tôi nghĩ, đối với lối sống của con người thế gian cũng sẽ có chút lợi ích, chí ít người ta cũng sẽ không nghi hoặc nữa!
Những cảnh giới giác ngộ của tôi, người chưa tu đến mức độ giác ngộ tương đồng thì rất khó có thể hiểu được. Người bình thường muốn hiểu được cũng rất khó. Tôi nói rằng:
Tôi không phải là Lư Thắng Ngạn.
Tôi không sáng lập Chân Phật Tông.
Tôi chưa từng viết 234 cuốn sách.
Tôi chưa từng thuyết pháp.
Tôi không có dù chỉ một đệ tử.
Tôi chưa từng sống.
Tôi chưa từng chết.
Những lời này là chân lý, nhưng e là không có nhiều người có thể hiểu được. Tôi rất muốn dùng những lời lẽ thẳng thắn minh bạch nhất để giải thích, dùng những lời văn rõ ràng nhất, đơn giản mà không tầm thường để đưa ra những đạo lý về minh tâm kiến tính, cân nhắc về thời điểm thích hợp để hé mở ra những huyền chỉ [ ND: mục đích bí mật ] chân chính của Phật giáo. Mặc dù tiêu đề của cuốn sách là "Lư Thắng Ngạn và những bí mật lớn", thế nhưng những bí mật lớn này cũng là những điều rõ ràng minh bạch, chính xác chân thực. Muốn hiểu được con người này của tôi chỉ cần đọc cuốn sách này, sau khi hiểu được rồi thì chẳng còn gì khó khăn nữa!
Tôi thích câu nói này của Lục Tổ:
Bồ Đề tự tính
Vốn dĩ thanh tịnh
Biết dùng tâm này
Thành Phật được ngay.
Tôi nói rõ hơn ý nghĩa của câu này thành:
Nào có Bồ Đề, nào có tự tính!
Chẳng có bản lai, chẳng có vị lai!
Thanh tịnh ô trọc, chẳng có chẳng có!
Mơ mơ hồ hồ, Phật ở đây rồi!
Mặc dù đã chứng ngộ tính Không bằng cách này nhưng con người huyễn sinh huyễn thọ cần đem mọi thứ của đời người hóa thành ánh sáng, ánh sáng chính là hình tướng, dựa vào ánh sáng để chiếu sáng vạn tượng. [ ND: vạn vật hiện tượng của tự nhiên ]
Thân thể của tôi là tính không.
Hình tướng của tôi là ánh sáng.
Những gì tôi dùng là vạn tượng.
Bây giờ tôi muốn viết hết ra vạn tượng của mình, đây chính là những bí mật lớn của tôi. Tôi biến những thứ bí mật lớn thành những thứ minh bạch rõ ràng.
Nhân đây, tôi muốn gửi đến những độc giả của tôi lời cảm ơn sâu sắc và sự trân trọng lớn nhất.
Chúc bạn mở sách ra là được lợi lạc!
Chúc phúc mọi người!
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Bí mật về truyền thừa Đại Thủ Ấn
Bây giờ tôi muốn hé lộ bí mật lớn nhất về truyền thừa Đại Thủ Ấn.
Thật bất ngờ tôi lại là ông lão tổ sư của truyền thừa này. Lần này thì lại là một tiếng gầm tiếng hét lớn dọa đến cả dòng Mũ trắng của Tạng mật rồi, khiến chúng sinh thất kinh!
Tôi nói cho mọi người biết:
Người sở hữu pháp Đại Thủ Ấn sớm nhất là vị Kim Cương Trì, có địa vị của Bản Sơ Phật, ngài đã truyền pháp Đại Thủ Ấn cho Bảo Ý Đồng Tử.
Trời ạ!
Vị Bảo Ý Đồng Tử này lại truyền pháp cho Bảo Thượng Đồng Tử, lại truyền cho vị Saraha……
Các đệ tử biết rằng:
Bảo Ý Đồng Tử và Bảo Thượng Đồng Tử đến từ "Quan Thế Âm Bồ Tát thọ giới kinh".
Bảo Ý Đồng Tử, Bảo Thượng Đồng Tử là đồng tử hóa sinh ra từ hoa sen, hai vị đồng tử này đã làm một việc đại sự, đó là: tiếp dẫn vua Đại Uy Đức đi quy y Kim Quang Phật.
Vua Đại Uy Đức chính là kiếp trước của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế cho nên: Liên Hoa Đồng Tử chính là người thầy đã tiếp dẫn Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đó là còn chưa kể đến:
Người kế thừa đầu tiên của pháp Đại Thủ Ấn của Bản Sơ Phật, lại cũng là Bảo Ý Đồng Tử, rồi lại truyền cho Bảo Thượng Đồng Tử.
Truyền cho Saraha.
Truyền cho Niguma.
Truyền cho Tilopa.
Truyền cho Naropa.
Truyền cho Marpa.
Truyền cho Milarepa.
Truyền cho Gampopa.
Truyền cho Đại Bảo Pháp Vương đời thứ nhất Düsum Khyenpa…. Rồi cứ thế truyền đến vị Đại Bảo Pháp Vương thứ mười bảy Ogyen Trinley Dorje và Trinley Thaye Dorje.
Bây giờ xin hỏi:
Bảo Ý Đồng Tử tức Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử.
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử tức Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.
Hơn nữa Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn lại có:
- Thầy tiếp dẫn của Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Lão tổ sư của pháp Đại Thủ Ấn.
Đây chẳng phải là bí mật lớn và sự thật lớn sao?
Đại Thủ Ấn có Thực Trụ Đại Thủ Ấn và Hằng Hà Đại Thủ Ấn, cái đầu tiên là pháp Tiệm [ND: pháp tu tập đạt tới sự thành tựu từ thấp lên cao, theo lộ trình], cái sau là pháp Đốn [ ND: pháp thành tựu, giác ngộ lập tức ], thứ tự của nó là:
- Chuyên nhất du già.
- Ly hí du già.
- Nhất vị du già.
- Vô tu du già.
Pháp Đại Thủ Ấn vận dụng bốn loại quán đảnh, dùng tự tính phóng quang, tu đến khi vô niệm thì phóng ra vô số ánh sáng, đưa minh điểm dung hòa thành ánh sáng. Tứ đại và ngũ uẩn cũng như vậy mà chuyển hóa thành thân ánh sáng cầu vồng.
Tôi thực lòng nói cho mọi người biết:
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôi đây kể từ khi mở thiên nhãn, lúc đó đã biết mình là "cốt Phật" rồi. Lai lịch của tôi rất vĩ đại.
Là người thầy tiếp dẫn của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Là lão tổ sư của pháp Đại Thủ Ấn dòng Mũ trắng Mật tông Tây Tạng.
Là…
Tại đây tôi có lời khuyên tới các quý ông quý bà, hoàn toàn chân thực chính xác, rõ ràng minh bạch, rằng đây là lai lịch của truyền thừa từ xưa đến nay không hề thay đổi, có thể lưu truyền thiên thu vạn thế.
Thảo nào mà sư huynh Trương Minh Thông khi nghiên cứu về Liên Hoa Đồng Tử đã phát hiện ra từ thời xa xưa, Liên Hoa Đồng Tử đã đứng ngang hàng với chư Phật, Trương Minh Thông cảm thấy vô cùng kì lạ.
Chẳng có gì lạ cả!
Bởi vì Liên Sinh Hoạt Phật chính là Phật.
Nương dựa duy nhất vào Liên Sinh Hoạt Phật, tức thành Phật thành Bồ Tát, thì có gì khó đâu?
02. Bí mật về Âm tào địa phủ
Thời gian này viết cuốn "Lư Thắng Ngạn và những bí mật lớn", tôi cân nhắc cả nửa ngày trời xem cần viết cái gì cho hay nhỉ? Vì cuốn sách này mà tôi ban ngày nghĩ, ban đêm cũng nghĩ, trong lúc tu pháp cũng nghĩ, ở tại đàn thành cũng nghĩ, cần viết gì đây?
Có một hôm, tôi nằm phủ trên bàn (nằm trên mặt bàn), hai mắt nhắm lại, tôi lập tức nhìn thấy chư thần hiện thân, gồm có: Thái Sơn Phủ Quân, Đông Ngạc Đại Đế, Thập Điện Minh Vương, Văn Xương Đế Quân, v.v…
Các vị nói:
"Kính thỉnh Lư Sư Tôn đi vào địa phủ."
Tôi hỏi:
"Mệnh tôi sắp hết à?"
Các vị đáp:
"Vẫn chưa."
Tôi hỏi:
"Thế đến Âm tào địa phủ làm cái gì?"
Các vị đáp:
"Đi vào Âm tào địa phủ để cho ngài viết cuốn sách về những điều đại bí mật này đó."
Tôi hỏi:
"Âm tào địa phủ thì có gì mà đại bí mật?"
Các vị cười:
"Người trong dương thế chẳng có cái gì là bí mật, chỉ có Âm tào địa phủ chúng tôi mới là có lắm điều bí mật. Tại sao lại không viết vào sách để nói rõ cho thiên hạ biết, để cho thế nhân hiểu rõ những bí mật lớn trong đó, khiến bí mật thành minh bạch rõ ràng. Nhờ đó có thể tuyên giảng khắp nơi để khai ngộ cho những đám người mê lầm cùng chứng được Phật quốc tịnh độ. Xin Lư Sư Tôn vui lòng viết ra."
Tôi nói:
"Cũng được!"
Thế rồi họ mới lần lượt tản đi. Tôi ngủ gục trên bàn một lúc, không ngờ lại có được linh cảm này, thật là vô cùng hài lòng.
Sau việc này tôi nghĩ:
"Thọ mệnh của tôi hết thì tôi cũng chẳng thể nào đi vào địa ngục được. Tôi tu đạo hạ sĩ, có thể lên trời; tu đạo trung sĩ, có thể đến được Phật quốc tịnh độ; tu đạo thượng sĩ có thể thành Phật Bồ Tát. Tôi xuống Âm tào địa phủ, ý định ban đầu là xem những bí mật của địa ngục, viết vào sách, mục đích là để cảnh tỉnh con người thế gian."
Tôi nghĩ:
Bởi vì người ta vốn dĩ cũng biết những chuyện báo ứng, nhưng đại bộ phận đều lờ đi. Phản ứng này của con người rất dễ hiểu, cũng giống như dùng búa đánh chuông vậy.
Đánh mạnh tiếng to.
Đánh nhẹ tiếng nhỏ.
Có đánh thì có tiếng.
Không đánh thì không tiếng.
Có cảm ứng không? Tôi đáp: "Đương nhiên có."
Nhân quả báo ứng có không? Tôi đáp: "Đương nhiên có."
Đạo lý này quá rõ ràng rồi.
Ban ngày tôi là Lư Thắng Ngạn, ban đêm tôi đến Âm tào địa phủ, các vị cho tôi một phong hiệu là: "Mật Mật Mật Như Lai trụ Âm Tào Địa Phủ giám sát đặc sứ".
Tôi cười. Phong hiệu này có thể nói là danh thực tương phù. [ ND: tên gọi phù hợp, đúng với thực tế ]
Ban đêm tôi đến Âm tào địa phủ. Ban ngày tôi ở nhân gian sáng tác văn chương. Tất cả những gì tôi nhìn thấy nghe thấy đều là đại bí mật. Tên tuổi những nhân vật xuất hiện trong cuốn sách này có đôi lúc tôi sẽ dùng tên giả, tạm thời giấu đi tên thật để tránh khỏi những đối tượng có tật giật mình, sẽ làm tăng thêm không ít phiền não.
Trong sách có thiện.
Trong sách có ác.
Họa phúc chẳng có cửa, chỉ do người ta tự tạo.
Thân phận của tôi trong cuốn sách này chính là: "Mật Mật Mật Như Lai trụ Âm Tào Địa Phủ giám sát đặc sứ".
Oa! Mật hiệu này thật là vĩ đại làm sao!
03. Bí mật về Thành Cát Tư Hãn
Tôi ở Âm tào địa phủ gặp được một nhân vật anh hùng, không ngờ lại chính là thủy tổ của đế quốc Đại Mông Cổ nổi danh trong lịch sử - Thành Cát Tư Hãn (Thiết Mộc Chân). [ ND: tên khai sinh của Thành Cát Tư Hãn Genghis Khan ]
Vị đại Khan đời thứ nhất của đế quốc Mông Cổ là hoàng đế Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn có xây chùa, đặt tên là Thái Miếu. Nguyên Võ Tông ban cho ông danh hiệu là: Pháp Thiên Khải Vận Thánh Võ Hoàng Đế.
Tháng 12 năm 1999, tuần san Times [ ND: tờ Thời Đại ] của Mỹ đã bình chọn ông là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của Thiên niên kỉ thế giới. Thành Cát Tư Hãn được xếp hạng là một trong số những nhân vật của Thiên niên kỉ, là người ở vị trí thứ 22 của châu Á, người ở vị trí thứ 17 là ngài Gandhi của Ấn Độ.
Ngày sinh: 31 tháng 5 năm 1162.
Ngày mất: 25 tháng 8 năm 1227.
Thủy tổ của đế quốc Đại Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn này lúc còn tại nhân gian đã được nghìn nghìn vạn vạn người sùng bái. Thời học tiểu học tôi đã từng đọc những truyền kì về ông, rằng ông là một anh hùng, một đại anh hùng. Ông đã chinh phục được rất nhiều quốc gia, xâm lấn vào châu Âu, chiếm phía bắc biển Đen, chiếm nhiều vùng lãnh địa Âu Á.
Tôi ở trong Âm tào địa phủ gặp được nhân vật lớn này, hóa ra là ông ta ở trong địa ngục, chẳng biết khi nào mới được ra. Tiền kiếp của tôi có một kiếp là Lý Hiển – vị hoàng đế cuối cùng của vương triều nhà Tây Hạ.(*) Hồi đó, trong di chiếu của Thành Cát Tư Hãn có nói muốn chặt đầu Lý Hiển. Tôi chính là người bị chặt đầu - Lý Hiển.
Hôm nay.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đối thoại với đại hoàng đế Thành Cát Tư Hãn, chẳng phải là nhân duyên trùng hợp hay sao?
Tôi hỏi Thành Cát Tư Hãn:
"Ông có hối hận không?"
Đáp: "Hối hận. Thực sự nghiệp sát quá nặng."
Hỏi: "Rốt cục là ông chết thế nào?"
Đáp: "Cưỡi trên lưng ngựa, bị sét đánh trúng, ngã ngựa mà chết."
Hỏi: "Vì sao mà bị sét đánh trúng?"
Đáp: "Giết người máu chảy thành sông. Tôi đã giết nghìn nghìn vạn vạn người, xâm chiếm vô số quốc gia, phần lớn đều là tàn sát hàng loạt."
Hỏi: "Đây là nhân quả chăng?"
Đáp: "Là nhân quả."
Thành Cát Tư Hãn tự mình nói:
"Tâm phục thù của tôi rất mạnh, bởi vì gia tộc Thiết Mộc Chân đã từng ba lần bị tấn công, nhà tan cửa nát, người chết gần hết. Tôi thề báo thù cho gia đình, mất răng đền răng, mất mắt đền mắt, do đó sau khi mở rộng thế lực lớn, tôi trở nên khát máu, một lòng muốn tiêu diệt kẻ khác, thống nhất thế giới."
Hỏi: "Có ai khuyên nhủ ông không?"
Đáp: "Có."
Hỏi: "Là ai?"
Đáp: "Là chân nhân Khâu Trường Xuân (Khâu Sở Cơ). Là Toàn Chân Giáo của đạo gia bắc phái."
[ ND: Toàn Chân Giáo, còn gọi là Toàn Chân Đạo, nghĩa là giáo phái toàn hảo, là một giáo phái của Đạo giáo ở phương bắc. Tôn chỉ của Toàn Chân Giáo là quên mình phục vụ xã hội, cứu giúp chúng sinh, tôn trọng sự thật, được dân chúng rất kính trọng. ]
Hỏi: "Ông ấy khuyên điều gì?"
Đáp: "Đừng giết quá nhiều người, đặc biệt là những người vô tội, nhưng, tôi đã không nghe."
Hỏi: "Ông bị nhốt trong địa ngục này bao lâu mới có thể được ra?"
Đáp: "Chẳng thể nào ra được!"
Hỏi: "Vì sao vậy?"
Đáp: "Tôi biết ông là Lý Hiển, cũng là bị tôi hạ lệnh giết. Người đã giết Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn còn có thể nào thoát ra khỏi đây được sao?"
(*) Trong lịch sử, có Lý Hiển (Tây Hạ Mạt Chủ Nam Bình Vương Lý Hiển), là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tây Hạ, bị Thành Cát Tư Hãn ra lệnh giết theo di chiếu (vào tháng 8 - năm 1227 sau Công nguyên).
04. Bí mật về Độc Nê Châu
Tôi đã đến Độc Nê Châu, chứng kiến một đầm lầy xa tít mù tắp. Kì thực nó không phải là một đầm lầy mà là một vùng đất lầy lội rộng mênh mông, nhìn thì tưởng là đất, nhưng lại không thể đi trên đó được. Bởi vì hễ đi lên là bùn sẽ lún xuống, nuốt sống lấy người và súc vật, đầu tiên là chân, rồi đến bụng, rồi đến cổ, cuối cùng là đầu, thế là chết! Nhưng, trong chốc lát, cái chết này lại lặp lại từ đầu.
Ở đây đầy ắp:
Sự kinh hãi.
Nỗi ghê sợ.
Cái chết đau đớn.
Vùng vẫy.
Phía trên của Độc Nê Châu có vô số muỗi độc, côn trùng độc, chỉ cần có kẻ tội nhân nào thò đầu lên là muỗi độc, côn trùng độc sẽ lao vào đốt cắn, đau đớn không gì sánh bằng. Còn thụt đầu xuống là sẽ bị bùn độc lấp đầy mũi, chẳng có cách nào thở được, bị ngạt mà chết.
Tôi chỉ thấy:
Độc Nê Châu đầu người trồi lặn như sóng cuồn cuộn, cái này nổi lên cái khác lại chìm xuống.
Tôi hỏi:
"Vì nguyên nhân gì?"
Minh sứ đáp:
"Ngày xưa có một con thuyền lớn chở mấy trăm người đâm phải đá ngầm, thuyền bị chìm xuống nước, mấy trăm người rơi xuống biển. Bờ biển gần đó có một ngôi làng, trưởng làng là Hoàng Nguyên Thọ, ông ta tận lực hô hoán thanh niên trai tráng đi cứu người. Nhưng trong làng cũng có một kẻ độc ác, tên là Diêu Nam Giả, kêu mọi người đừng đi cứu người."
Trưởng làng hỏi:
"Vì sao không cứu người?"
Diêu Nam Giả đáp:
"Chẳng được thưởng tiền thì cứu người làm gì?"
Trưởng làng nói:
"Cứu một mạng người công đức lớn như xây bảy ngôi chùa. Nay ở đây tôi có ba mươi hai nén bạc, đem chia cho mọi người đi cứu người."
Diêu Nam Giả đáp:
"Không đủ để chia cho mọi người!"
Trưởng làng hét lên:
"Cứu người là chuyện khẩn cấp, mau đưa thuyền cá ra cứu."
Nhưng tất cả thanh niên trai tráng đều nghe theo Diêu Nam Giả, đứng im bất động, khoanh tay không cứu. Trưởng làng một mình lái bè trúc đi ra biển cứu người.
Toàn bộ thanh niên trai tráng trong làng cười lớn ha ha ha, chế giễu trưởng làng là ngu ngốc, chuyên làm những việc chẳng có lợi gì cho mình. Kết quả là trưởng làng Hoàng Nguyên Thọ bị lật bè trúc và cũng bị chôn sống trong lòng biển.
Còn Diêu Nam Giả kia không những thấy người gặp nạn không cứu, lại còn bảo người khác không cứu. Sau đó Diêu Nam Giả lên làm trưởng làng, hơn nữa còn chiếm đoạt luôn cả toàn bộ tài sản của vị trưởng làng cũ.
Minh sứ nói:
Vị trưởng làng Hoàng Nguyên Thọ đó chính là tiền kiếp của ngài. Hơn nữa Độc Nê Châu hóa hiện lên cũng chính là tái hiện lại sự việc lật thuyền. Cả ngôi làng đó, Diêu Nam Giả và những thanh niên trai tráng đều ở trong Độc Nê Châu, chính là những người hết nổi lại chìm kia.
Về sau:
Hễ ai thấy người chết mà không cứu, đều sẽ bị tống xuống Độc Nê Châu, chịu cảnh chết đi sống lại, sống rồi lại chết.
Minh sứ hỏi:
"Thế còn Diêu Nam Giả kia, ngài biết là ai không?"
Tôi nhập định một lát thì đã hiểu ra rồi.
Tôi nói:
"Là XXX."
Minh sứ đáp:
"Chính là XXX."
Tôi nghe xong mà kinh hãi. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nhân quả này cũng giống như cái bóng của con người ta, luôn luôn theo sát bên ta, tuyệt đối đừng phạm lỗi lầm. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôi đây trong một kiếp là Hoàng Nguyên Thọ, cho dù cứu người không thành, nhưng đã phát tâm cứu, việc này đã trở thành tư lương cho việc tôi chứng ngộ Phật tính sau này.
Chuyện này thật khiến người ta thở dài cảm thán!
[ND: Độc Nê Châu: đây là tên gọi của một cõi giới địa ngục, tên gọi này cũng có ý nghĩa là vùng đầm lầy độc địa.]
05. Bí mật về Thánh Teresa
Trong cuốn "Thiên cung mật lục" [ ND: sổ ghi chép của cõi trời ], tôi đọc được một đoạn thông tin có liên quan đến thánh Teresa, nói rằng Teresa hiện đang ở trong địa ngục. Tôi đọc thấy mà kinh ngạc.
Thánh Teresa của Ấn Độ, lúc còn sống là người rất quảng đại, có tấm lòng từ bi, thường im lặng ít lời, là một con người chất phác, chưa từng phụ người. Cả một đời Teresa tham gia vào các công tác cứu tế người nghèo, phục vụ mỗi con người như phục vụ thượng đế. Sự nghiệp tế thế từ bi của bà nổi danh khắp thế giới.
Bà chưa từng nói xấu người ta, chưa từng làm việc gì xấu đối với người khác. Số người được bà cứu và cảm hóa đương nhiên là rất nhiều. Bà đã đạt giải thưởng Nobel. Sau khi qua đời, Thiên Chúa Giáo đã phong cho bà là Thánh.
Thánh Teresa - mọi người đều nghĩ rằng hẳn là bà đang ở trên thiên đường cùng với Thượng Đế.
Hoan hỷ.
Vui vẻ.
Hưởng phúc.
Thế nhưng Thánh Teresa lại không hề đang ở trên thiên đường hưởng phúc, mà lại ở trong địa ngục, làm sao mà chẳng khiến người ta không ngớt kinh ngạc!
Tôi đã gặp bà ở Uổng Tử Thành [ ND: thành phố của những người chết oan uổng ]. Tôi hỏi:
"Bà không ở thiên đường, lại ở địa ngục làm gì vậy?"
Bà đáp:
"Tôi là người sống trong địa ngục."
Tôi hỏi:
"Chỗ này là thế giới bẩn thỉu, nhơ nhuốc, khổ nạn và u tối, chẳng có người nào thánh tiết đến đây cả."
Bà đáp:
"Tôi không ở chốn tươi sáng, tôi vĩnh viễn phải ở nơi tăm tối."
Tôi hỏi:
"Vì sao vậy?"
Bà đáp:
"Nơi u tối nhất mới là thiên đường của tôi."
Tôi hỏi:
"Không ở thiên đường mà lại ở địa ngục, thật là khó hiểu!"
Bà đáp:
"Tôi từ bi tế thế, không phải là để được lên thiên đường nên mới từ bi tế thế, không phải là để hưởng phúc nên mới từ bi tế thế, không phải là muốn vui vẻ nên mới từ bi tế thế, không phải vì muốn được gọi là Thánh nên mới từ bi tế thế."
Tôi hỏi:
"Thế mục tiêu của bà là gì?"
Bà đáp:
Đơn giản - cả một đời giản dị, không mong cầu, không mục tiêu.
An tịnh - âm thầm, lặng lẽ làm việc.
Nền tảng - cơ bản là tấm lòng từ bi.
Phúc - có thể được như thế này chính là phúc.
Tôi nghe xong rất cảm động.
Tôi nhìn dáng dấp Thánh Teresa từ phía sau lưng gầy gầy nhỏ nhỏ, bà ở trong Uổng Tử Thành này mà vẫn giữ được tinh thần như vậy, dựa vào sức mạnh này của bà để an ủi và giúp đỡ những chúng sinh khổ nạn ở nơi đây.
Tôi bỗng nhiên nhớ đến ba cấp bậc tu đạo.
Hạ sĩ đạo - đến được cõi chư Thiên đẹp đẽ.
Trung sĩ đạo - đến được Phật quốc tịnh độ.
Thượng sĩ đạo - thành Phật Bồ Tát.
Vậy thánh Teresa là cấp bậc tu đạo nào?
Tôi hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát:
"Thánh Teresa vì sao lại đọa thân dưới địa ngục?"
Địa Tạng Vương Bồ Tát đáp:
"Có hai loại người xuống địa ngục, một là người có nghiệp tội rất nặng, hai là người có nguyện lực cực lớn. Thánh Teresa là người có nguyện lực rất lớn, con người thuộc dạng này chính là Bồ Tát chân chính đó!"
Tôi hỏi:
"Thánh Teresa liệu có ra khỏi địa ngục không?"
Địa Tạng Vương Bồ Tát đáp:
"Bà ấy sẽ không ra. Ra khỏi địa ngục để làm gì?"
[ND: Thánh Teresa: một nữ tu và nhà truyền giáo Công giáo Roma người Ấn Độ gốc Albania. Bà sáng lập ra Dòng thừa sai bác ái, hơn 40 năm chăm sóc cứu tế người nghèo. Năm 1979 bà đã được trao giải Nobel Hòa bình.]
06. Bí mật về người què chân
Có một hôm tôi đến khu vực đình Long Thần, phát hiện thấy có rất nhiều ác quỷ tụ tập tại ngôi đình này.
Tôi gọi một ác quỷ lại hỏi:
"Các người tập trung lại ở đây làm gì vậy?"
Ác quỷ đáp:
"Nghe hai đệ tử của ông buôn chuyện!"
"Buôn chuyện gì?"
"Chuyện tầm phào."
Tôi hỏi:
"Các người thích nghe buôn chuyện tầm phào à?"
Ác quỷ đáp:
"Ác quỷ chúng tôi đúng là thích chuyện tầm phào, loài người các ông chẳng phải là rất thích ngồi lê đôi mách sao."
Tôi á khẩu không nói.
Tôi hỏi:
"Thế hai đệ tử này buôn chuyện tầm phào gì vậy?"
Ác quỷ đáp:
"Bọn họ buôn vài chuyện thị phi của nhân viên hoằng pháp chùa XX, còn kể là nhân viên hoằng pháp chùa XX này tham tiền như thế nào, nhân viên hoằng pháp chùa XX tham sắc thế nào, việc nhân viên hoằng pháp tranh quyền lực, tranh giành địa bàn."
Tôi hỏi:
"Có phải sự thực không?"
Ác quỷ đáp:
"Đương nhiên là nghe đồn thôi, người nghe đồn xong thì đi buôn chuyện khắp nơi. Một phần thật, chín phần giả, tin đồn chính là như vậy." Tôi nói:
"Đệ tử nên giữ năm giới, tối kị nói lời hai lưỡi, ác khẩu, lời ong bướm, vọng ngôn, nếu làm vậy sẽ có báo ứng đó."
Ác quỷ đáp:
"Đương nhiên là có rồi."
Nửa đêm, tôi đi xuống địa ngục. Tôi trông thấy một hồn một phách của hai đệ tử nọ ở trong địa ngục bị trói chặt, chân bị đóng đinh. Hai đệ tử kêu la thảm thiết.
Minh sứ bèn hỏi:
"Đệ tử học Phật cần phải cẩn thận lời nói hành động, luôn phải niệm Phật trì chú, đọc kinh sách, phát Bồ Đề tâm, nói những lời tốt đẹp. Hai người các ngươi chuyên môn nói xấu người ta sau lưng, bởi vậy đóng đinh vào chân các người để cảnh cáo, để xem lần sau các người còn dám phạm tội không?" Hai đệ tử liền hét to:
"Không dám! Không dám!"
Kể ra cũng kì lạ. Hai đệ tử này kẻ trước người sau đều bị què chân, kêu la oai oái vì đau. Họ tìm đến tôi xin gia trì. Tôi nắn nắn vào chân họ, nắn vài lần thì chân họ cũng đỡ hẳn.
Họ hỏi:
"Vì sao chúng con lại bị què chân?"
Tôi đáp:
"Phạm giới vọng ngữ, cần cẩn thận lời nói hành động."
Tôi nói cho mọi người hay:
Phàm là một hành giả mà bàn luận những chuyện tầm phào của thế gian, đặc biệt là nhục mạ tăng chúng xuất gia, đã khiến cho quỷ thần phẫn nộ, nói gì đến việc nhục mạ tăng nhân, vậy là phạm vào giới luật của Phật Đà. Người xuất gia sẽ có sự thưởng phạt từ vị trưởng lão xuất gia.
Người tại gia không thể lo chuyện của người xuất gia.
Điều này là giới luật của tăng đoàn.
Con người trong xã hội ngày nay không hiểu giới luật của Đức Phật, những ác nghiệp được tạo ra bởi thân, khẩu, ý cao như núi, sâu như biển. Do vậy vô hình trung khiến cho quỷ thần phẫn nộ, việc này rất nghiêm trọng. Buôn chuyện tầm phào.
Hé lộ chuyện riêng tư của người khác.
Đều là những nghiệp tội rất nặng. Cẩn thận! Cẩn thận!
07. Bí mật về Tổ sư Đạt Ma
Theo truyền thuyết của Mật giáo Tây Tạng:
Tổ sư Đạt Ma ở Đông Thổ sau khi truyền pháp xong đã bị Lưu Chi Tam Tạng hạ độc sáu lần, lần cuối cùng thì đã mất mạng. Sau khi được mai táng, ngài liền dùng pháp độn thổ để rời bỏ Đông Thổ, trở về Tây Tạng.
Về sau khi mở quan tài của ngài ra, người ta chỉ thấy có một chiếc dép cỏ. Tổ sư Đạt Ma trở về Tây Vực liền được gọi là "Quảy dép về Tây". Tổ sư Đạt Ma trên đường trở về Tây Trúc đã đi qua Tây Tạng, ngài liền ở lại Tây Tạng truyền pháp, pháp mà ngài truyền được gọi là pháp Cổ Lý Tát, thành lập phái Hy Giải.
Danh hiệu của Tổ sư Đạt Ma ở Tây Tạng được gọi là: Dampa Sangye.
Trong truyền thuyết:
Dampa Sangye và tổ sư phái Mũ trắng Milarepa đã từng gặp mặt nhau. Phái Hy Giải ở Tây Tạng bây giờ không còn tồn tại nữa. Nhưng pháp của phái Hy Giải lại có ảnh hưởng rất lớn đến Tạng mật. Pháp này có tư tưởng của Thiền tông. Đệ tử năm đó rất nhiều, cũng từ phái này mà xuất hiện rất nhiều đại thành tựu giả, ví dụ như Mã Cát Lạp Tôn cũng là một trong số đó.
Tôi ở Âm tào địa phủ.
Tổ sư Đạt Ma đến địa phủ để thuyết pháp, tôi cũng tham dự pháp hội này. Ban đầu tôi ẩn thân dưới một cột trụ lớn, lúc sau tôi mới nhập vào trong đám linh hồn ma quỷ. Tôi đảnh lễ Tổ sư Đạt Ma.
(Bởi vì trong truyền thừa của Thiền tông, tại một kiếp quá khứ, tôi đã từng là đệ tử truyền đời thứ sáu của Tổ sư Đạt Ma, vậy nên cần đảnh lễ Tổ sư Đạt Ma. Hơn nữa trong kiếp hiện tại của tôi, vị thầy cạo đầu xuất gia cho tôi là đại hòa thượng Quả Hiền, cũng là một sư phụ của phái Lâm Tế Tông. Bởi vì hai điểm này nên tôi cần phải đảnh lễ Tổ sư Đạt Ma mới là phải phép.)
Nhưng tôi vừa đảnh lễ thì xảy ra chuyện kì lạ. Tôi không ngờ lại biến thành Tổ sư Đạt Ma. Hơn nữa, lại không ngờ là Tổ sư Đạt Ma đang ngồi trên pháp tọa đã biến thành Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Hai người hoán đổi vị trí cho nhau.
Tôi hỏi:
"Sao lại thành ra thế này nhỉ?"
Tổ sư Đạt Ma đáp:
"Bây giờ thân phận của ngài khác rồi, ngài là Mật Mật Mật Như Lai, là địa vị của Phật, tôi nên đảnh lễ ngài mới đúng."
Tôi nói:
"Trong quá khứ, tôi là đệ tử truyền đời thứ sáu của Tổ sư, còn kiếp này, tôi được pháp sư Quả Hiền xuống tóc, tôi nên đảnh lễ ngài mới đúng." Tổ sư Đạt Ma nói:
"Ngài phục vụ tôi nhiều, tôi phục vụ ngài ít, tôi nên đảnh lễ ngài!"
Tôi nói:
"Ai đảnh lễ ai?"
Tổ sư Đạt Ma dùng thiền cơ đáp:
"Bản lai vô nhất lễ." [ ND: vốn dĩ chẳng có cái gì là đảnh lễ ]
Tôi nói:
"Vạn tượng thâm nghiêm, có trước có sau, lễ chẳng thể mất."
Hai người cười lớn ha ha.
Tổ sư Đạt Ma ở tại Âm tào địa phủ giảng về đạo hiếu. Tổ sư Đạt Ma nói:
Thiên địa quân thân sư, thế nhân nghi cung kính, nếu không, luân thường sẽ mất.
[ ND: con người thế gian cần kính trọng trời đất, vua, cha mẹ, thầy, nếu không thì sẽ chẳng còn giữ được những mối quan hệ đúng đắn giữa người với người ]
Cũng không thể chỉ biểu hiện cung kính bên ngoài, còn trong lòng thì lại đầy một bụng phỉ báng. Bên ngoài thì giống như quân tử khiêm nhường, nhưng trong lòng thì lại phỉ báng, như vậy gọi là một bụng phỉ báng.
Thế gian bây giờ, con người ác nghiệt nhiều, người rộng lượng thì ít, bởi vậy người lên trời thì ít, người xuống địa ngục thì nhiều.
Con người đừng học thói ác nghiệt!
Hãy học cách rộng lượng!
Người ác nghiệt thì bản thân cao ngạo tự phụ, thường thường không để ý đến quan hệ tình cảm, thế nhưng lại tự ảo tưởng cho rằng bản thân mình là thánh hiền quân tử.
Người học Phật nếu như cũng ác nghiệt thì không những càng ngày càng xa rời Phật, mà kì thực cũng chẳng phải là học Phật, mà là học ma.
Các bạn nói xem có đúng vậy không?
08. Bí mật về hang rắn
Tôi từng đi qua một hang rắn trong địa ngục, gặp một bầy rắn cuộn xoắn chồng chéo lên nhau, thực sự khiến người ta sợ đến vỡ mật, phải có đến cả nghìn cả vạn con rắn độc. Chúng tụ lại một chỗ, con mắt lóe lên hung dữ, lưỡi thò thụt ra ngoài, khiến tôi thất kinh.
Loài động vật mà tôi sợ nhất trong đời này chính là rắn. Tôi thường nghĩ nếu như có người ném tôi vào trong bầy rắn, chúng chẳng cần cắn, tôi cũng đã chết vì sợ rồi.
Tôi trông thấy có một người ở trong hang rắn, bị bầy rắn trói chặt, toàn thân bị trăn quấn chặt, miệng anh ta bị rắn bịt lại, hai mắt bị rắn cắn nát. Tứ chi, da thịt đều bị rắn cắn tới mức nát bấy lộ cả xương trắng, cuối cùng chỉ còn lại một bộ xương khô. Xương khô này chỉ cần một cơn gió thổi qua là lại sống lại. Sau đó "màn biểu diễn" này lại bắt đầu lại từ đầu.
Trong lòng tôi không thể chịu đựng được khi nhìn cảnh này. Tôi hỏi:
"Người này vì sao bị như vậy?"
Minh sứ đáp:
"Người bị tống vào hang rắn chỉ bởi vì tâm tính của anh ta độc địa như rắn thôi!"
Tôi hỏi:
"Đã phạm tội gì?"
Minh sứ đáp:
"Thế gian có một loại người tự cho mình là có chút tài cán và trí thức, thích bình luận những chuyện thị phi của người ta, thậm chí là văn nhân khẩu nghiệp, cho rằng mình có tài ăn nói và tài văn chương, khoa trương ăn nói, cười cợt chế giễu những điểm yếu của người khác cho sướng mình, để lộ ra những chuyện riêng tư của người khác, khiến suy giảm âm đức." "Người cực kì ác độc được gọi là Phật khẩu tâm xà, tâm địa gian trá, một bụng mưu mô hại người, bất trung, bất hiếu, bất tín, bất nghĩa, tâm của họ giống như rắn bọ cạp, bởi vậy sẽ gặp phải ác báo như vậy."
Tôi hỏi:
"Đây có phải khẩu nghiệp không?"
Minh sứ đáp:
"Chính là khẩu nghiệp."
Vọng ngôn --- những gì nói ra toàn là lời dối trá, lời suy đoán, lời đoán mò, cơ bản chẳng phải là sự thật.
Ỷ ngữ --- dùng hoa ngôn xảo ngữ để mê hoặc người khác, nói lời ong bướm, nói lời tán tỉnh phong hoa tuyết nguyệt.
Ác khẩu --- mở miệng ra là nói lời ác, hạ bút là viết lời thô tục, hung bạo, hận thù, độc địa, ác khẩu ác văn, lời nói giống như dao như kiếm, muốn đẩy người khác vào chỗ chết, dẫm đạp lên nhân cách của người khác.
Hai lưỡi --- mượn A chửi B, mượn B chửi A, xúi bẩy kích động chuyện thị phi của người khác, bêu riếu khiếm khuyết của người khác, soi mói chuyện riêng tư của người khác.
Những việc này đều là khẩu nghiệp.
Tôi hỏi:
"Cái người vừa bị đẩy vào hang rắn kia là ai?"
Minh sứ cười đáp:
"Ông ta là Thái Thuận."
"Á! Là ông ta!"
Minh sứ nói:
"Ông ta là người công kích ngài sớm nhất, thấy ngài viết sách mà nổi danh bèn nghĩ kế hãm hại ngài. Làm người nham hiểm xảo trá, khi còn trẻ, ông ta có chút tài hoa, do vậy đã viết sách để phỉ báng ngài."
Minh sứ lại nói:
"Lấy vợ thì vợ chết, đến những năm cuối đời thì con trai, con gái đều gặp tai nạn xe mà chết, chỉ còn lại một thân một mình ông già nghèo đói, sa sút đến mức không đủ cơm ăn áo mặc. Ông ta thỉnh cầu Thành Hoàng vì sao lại như vậy?"
Minh sứ nói tiếp:
"Thành Hoàng Thần Minh nói với ông rằng, ông đã nhục mạ thánh hiền, ông đã tạo ác nghiệp rồi, nên mới có ngày hôm nay, vợ bệnh chết, con trai con gái bị tai nạn xe chết. Nay thọ mệnh của ông cũng sắp hết rồi, ông vẫn cho rằng chỉ là nhà tan cửa nát mà thôi, chỉ là cuộc sống nghèo đói mà thôi. Nhưng thực ra ông đã sắp xuống địa ngục rồi, bị đọa vào hang rắn chết đi sống lại nghìn vạn lần, cho dù có chuyển thế thì cũng chỉ làm kẻ hạ tiện mà thôi."
Tôi nghe mà thất kinh.
Tôi hỏi:
"Việc này cần làm sao cho tốt?"
Minh sứ đáp:
"Ngài có thể dùng pháp lực siêu độ cho ông ta, như vậy thì sau này ông ta chắc chắn sẽ là đệ tử của ngài!"
09. Bí mật về nhà sắt nung
Tôi đã từng đến địa ngục nhà sắt nung, đó là một căn phòng bốn mặt bằng sắt. Nhà sắt này làm tôi nghĩ đến những căn nhà tổ hợp ở Đài Loan.
Tôi hỏi:
"Ở đây cũng có nhà tổ hợp à?"
Minh sứ đáp:
"Đây không phải nhà tổ hợp, mà là nhà sắt nung của địa ngục."
"Nó dùng để làm gì?"
Minh sứ đáp:
"Để nhốt phạm nhân, sau đó nhà sắt sẽ từ từ nóng lên, tốc độ tăng nhiệt không nhanh, nhưng cũng không chậm. Nhiệt từ từ tăng lên, phạm nhân ở trong cái lò đóng kín giống như con kiến trong lò lửa không có lối thoát, kêu gào van xin thảm thiết, da bị nung chảy máu. Khi nóng nhất, toàn thân cháy xém, trở thành cục than đen, mùi khét lẹt khắp nơi, đến cuối cùng thì tất cả đều cháy hết, chỉ kịp hét lên một tiếng là chết!"
Tôi nghe mà thất kinh!
Minh sứ nói:
"Đây là một kiểu hình thức khác của vạc dầu sôi. Đến khi phạm nhân chết rồi, nhà sắt nung sẽ nguội, tử thi chỉ cần một cơn gió thổi qua là lại sống lại. Nhà sắt nung lại nóng lên, nóng đến khi đốt cháy phạm nhân thành than cốc, cứ như vậy sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, trải qua vô số kiếp, chẳng biết đến ngày nào mới thoát ra được."
Tôi nghe mà cũng túa mồ hôi.
Tôi lại gần một nhà sắt nung, đi vào ngó xem, bên trong chẳng có thứ gì cả, bốn phía đều là tường sắt, không một bóng người.
Tôi hỏi minh sứ:
"Phòng này không có người à?"
Minh sứ đáp:
"Phòng này vẫn đang đợi khách!"
"Đợi ai?"
Minh sứ cười:
"Một phụ nữ."
"Phụ nữ à?" - Tôi hỏi.
"Đúng vậy, là nữ."
Minh sứ nói:
"Người nữ này dâm niệm rất nặng, nội tâm không thanh tịnh, hành dâm với vô số đàn ông, đi tới đâu là phá thai tới đó, hại chết không biết bao nhiêu thai nhi. Không chỉ như vậy, cô ta có tính đố kị rất mạnh, tính ghen tuông rất mạnh, đàn ông hễ muốn rời bỏ là cô ta bày kế hạ tiện để làm hại anh ta. Không phải là chỉ lên cơn tức tối một lúc mà là tức giận đến mức làm hại đàn ông, từ đó chiếm đoạt tiền bạc."
Tôi nhớ trong "Nhập Bồ Tát Hạnh" có viết:
"Bất luận bạn đã từng làm bao nhiêu việc thiện, ví dụ như cúng dường chư Phật hoặc bố thí cho chúng sinh, mấy nghìn kiếp tích tập thiện nghiệp đều có thể bị hủy hoại hết chỉ trong một phút lên cơn tức giận."
"Nhập Trung Luận" có viết:
"Trong tích tắc nổi lên lòng sân hận thì cũng đủ để phá hủy hết thiện nghiệp tích lũy trong hàng trăm kiếp."
Minh sứ nói:
"Người nữ này phạm vô số dâm nghiệp, hơn nữa lại còn nhân đó mà chiếm đoạt tiền tài, hại chết vô số thai nhi. Nếu đàn ông nào không theo cô thì cô liền đố kị, ghen tuông, hãm hại, những việc ác cô đã phạm phải vô cùng vô tận."
Còn nữa:
"Người nữ này ác tâm không dừng dứt, ác niệm không dừng dứt, việc ác không dừng dứt, sau khi chết sẽ lập tức rơi vào địa ngục nhà sắt nung."
Còn nữa:
"Đây không phải là lửa sân hận trong chốc lát mà là lửa sân hận đại ác, bởi vậy mới rơi vào địa ngục này."
Tôi nhớ đến những lời vàng của cổ nhân:
Đừng có tâm nham hiểm.
Đừng có tâm hận thù.
Đừng có tâm soi mói chuyện riêng tư của người khác.
Đừng có tâm soi mói khuyết điểm của người khác.
Đừng có tâm đố kị với tài năng của người khác.
Đừng có tâm phỉ báng thánh hiền.
Đừng có ghen tức với thành công của người khác.
Đừng có tâm bày kế hãm hại người khác.
Đừng có tâm lừa người chiếm đoạt tài sản.
Còn cảm tưởng của tôi thì:
Ôi phòng sắt nung! Ôi phòng sắt nung!
Mặt trắng phù dung (*) cũng chỉ là đầu lâu đắp thịt!
Dù xưa phong lưu, giờ cũng ở đây!
Ngọn lửa sân hận, chớp mắt chẳng còn!
(*) Mặt trắng trẻo xinh đẹp và mong manh như đóa hoa phù dung.
10. Bí mật về yêu ma
Tôi đến Hắc Sâm Lâm [ ND: khu rừng sâu đen tối ] trong địa ngục, ở nhờ nhà của một quỷ dân, quỷ dân trong nhà này thường xuyên bị yêu ma quấy nhiễu. Tôi hỏi minh sứ:
"Hộ gia đình này cũng là quỷ dân, thế mà lại vẫn bị quấy nhiễu?"
Tôi cảm thấy rất kì lạ.
Minh sứ đáp:
"Thế gian có một loại người tâm niệm bất chính, nhưng vẫn không tạo nghiệp ác lớn, sau khi chết thì sẽ bị rơi vào địa ngục Hắc Sâm Lâm, chịu cảnh bị yêu ma quấy nhiễu."
Tôi vô cùng kinh ngạc:
"Chỉ là tâm niệm bất chính, thế mà phải chịu quấy nhiễu, thật là quá kì lạ."
Minh sứ đáp:
"Tâm niệm bất chính, ma quỷ liền nhập vào, vốn dĩ là như vậy."
Tôi lại hỏi:
"Yêu ma từ đâu đến, địa ngục có không?
Minh sứ đáp:
"Yêu ma đến từ tâm, tự chính tâm mình đã dẫn dắt yêu ma của Hắc Sâm Lâm đến."
Đêm đó, tôi ở tại Hắc Sâm Lâm. Đêm đó yêu ma không xuất hiện. Người chủ gia đình thấy vô cùng kì lạ, bởi vì yêu ma đêm nào cũng tới quấy nhiễu, tại sao trong nhà có khách thì yêu ma liền không đến nữa. Họ hỏi minh sứ: "Vì sao có khách đến, yêu ma không đến nữa?"
Minh sứ đáp:
"Người khách này không thể xem thường, yêu ma không dám tới."
Quỷ dân hỏi:
"Là khách nào?"
Minh sứ đáp:
"Mật Mật Mật Như Lai trụ Âm tào địa phủ giám sát đặc sứ."
Quỷ dân sững người:
"Là Như Lai ở nhà tôi!"
Lúc tôi ở nhà anh ta, yêu ma đều không tới. Tôi vừa đi khỏi, yêu ma lại tới. Cuối cùng, quỷ dân cầu xin tôi viết một thẻ chữ dán ở trong nhà anh ta.
Tôi nghĩ một lúc rồi viết xuống mấy chữ:
"Kiến tự như kiến nhân." [ ND: thấy chữ như thấy người ]
Kí tên: "Mật Mật Mật Như Lai trụ Âm tào địa phủ giám sát đặc sứ." Lần này, thực sự yêu ma lại không dám đến quấy nhiễu nữa.
Mọi nhà quỷ dân khác ở trong Hắc Sâm Lâm nghe được tin tức này liền lũ lượt đến cầu xin tôi viết chữ. Tôi lần lượt viết cho họ.
Minh sứ nói:
"Tất cả tà ma, yêu ma đều bởi vì tâm niệm bất chính của con người nên mới nhập vào quấy nhiễu. Nếu như là một chính nhân quân tử, quang minh thanh tịnh, thì thần minh sẽ bảo vệ họ, khiến cho yêu ma ác quỷ không dám xâm phạm. Việc này nghĩa là tà không thể thắng chính. Ở đây là hễ nhìn thấy chữ của Lư Sư Tôn liền tránh xa."
Tôi tổ chức một pháp hội tại Hắc Sâm Lâm. Tôi dạy quỷ dân tu pháp Cửu tiết Phật phong.
- Cửu tiết Phật phong là cơ sở tu luyện của Mật giáo, ý nghĩa của nó vô cùng quan trọng.
- Tập trung vào hơi thở, lỗ mũi trái, lỗ mũi phải, hai lỗ mũi, hít thở một vòng tuần hoàn đủ chín lần.
- Hít vào là nghiệp tốt màu trắng, thở ra là nghiệp xấu màu đen.
- Trải qua chín lần biến chuyển sẽ làm cho người tu hơi thở tập trung vào sự ra vào của hơi thở mà có thể chặn lại những suy nghĩ tà ác.
- Tinh thần hoàn toàn tập trung.
- Chính là dựa vào nhất niệm mà phá bỏ vọng niệm.
- Có thể nhập định.
- Tạo lập căn cơ làm nền tảng cho thiền định.
Tôi khiến cho toàn bộ quỷ dân của Hắc Sâm Lâm đều luyện Cửu tiết Phật phong, quỷ dân chỉ cần luyện từ nửa năm đến một năm thì tất cả mọi suy nghĩ tà ác đều không còn nữa. Thật bất ngờ, quỷ dân không còn sợ yêu ma của Hắc Sâm Lâm nữa.
Nghe nói quỷ dân có thể rời khỏi địa ngục rồi.
Vạn tuế! Vạn tuế!
11. Bí mật về đất nước người tí hon
Tôi thực sự đã thấy đất nước người tí hon rồi, hơn nữa không phải là ở dương gian đi thăm quan địa danh của người lùn đâu.
Người lùn ở dương gian là do tỉ lệ người của họ bị thu nhỏ lại, trở thành người lùn, khiến cho người ta thích thú đến thăm quan những phiên bản con người thu nhỏ hoàn hảo có thật. Du lịch tới đất nước người lùn khiến người ta giật mình vì những điều kì lạ.
Còn như bây giờ là tôi ở âm gian cũng gặp được đất nước người tí hon, khiến cho tôi thật sự không ngớt kinh ngạc. Làm sao mà nơi đây cũng lại là một địa điểm tham quan nhỉ?
Minh sứ nói:
"Đây không phải là đất nước người tí hon cho dịch vụ du lịch tham quan đâu, người của đất nước người tí hon này là đất nước người sống thật sự." Tôi hỏi:
"Người sống thật, mà lại biến thành nhỏ thế này à?"
Minh sứ đáp:
"Ngài nhìn kĩ lại xem, đất nước này khiến cho những con người nhỏ bé kia đau khổ vạn lần."
Tôi đưa mắt nhìn chăm chú. Ồ! Quả nhiên là như vậy.
Rất nhiều người, đầu cực kì nhỏ, giống như một tấm thẻ treo trên cổ vậy, lắc lư lắc lư.
Rất nhiều người, tay cực kì ngắn, bàn tay gần như dính liền thân, chẳng có cách nào với tay ra, làm sao nắm được đồ vật?
Rất nhiều người, chân cực kì ngắn, đi bộ giống như chim cánh cụt, lắc bên đông, lắc bên tây, rất buồn cười.
Rất nhiều người, cơ thể gần như không có, chỉ có đầu, tay, chân gắn lại với nhau thành một khối, chẳng nhìn thấy thân người đâu.
Rất nhiều người, không mắt.
Rất nhiều người, không tai.
Rất nhiều người, không mũi.
Rất nhiều người, không miệng.
Rất nhiều người, không thân.
Rất nhiều người, không não.
Người trong đất nước người tí hon này cao cỡ ba thốn đinh, mệnh sống của họ chỉ là sáng sinh tối chết, tối chết sáng sinh, thậm chí có khi chết theo giây, chết theo phút, chết theo giờ, chết theo ngày.
Bệnh khổ thì không dừng dứt.
Từ xa nhìn vào, đất nước người tí hon này giống như một đám sâu bọ trên mặt đất, bò tới bò lui, bò đi bò lại.
Tôi hỏi minh sứ:
"Vì sao lại như vậy?"
Minh sứ đáp:
"Bọn họ đều là tiểu nhân, vốn dĩ là như vậy."
Tôi hỏi:
"Tiểu nhân như thế nào?"
Minh sứ đáp:
"Tự làm tự chịu mà thôi!"
Minh sứ nói:
Làm ăn giả dối, bớt xén một hai, là tiểu nhân về tay.
Không biết thật thà, quen thói giả mạo, là tiểu nhân về não.
Bớt xén vật liệu, là tiểu nhân không thân người.
Luôn suy nghĩ hại người, là tiểu nhân không não.
Trộm cắp, là tiểu nhân về tay.
Khoác lác lừa người thành thói là tiểu nhân về miệng.
Chuyên bới móc khuyết điểm của người khác là tiểu nhân về mắt.
Thích nghe chuyện ngồi lê đôi mách là tiểu nhân về tai.
Chuyên môn nói điều thị phi về người khác là tiểu nhân về miệng.
Ỷ lớn bắt nạt bé là tiểu nhân về thân.
Lừa gạt tiền của người khác là tiểu nhân về chân.
Lập mưu hại người là tiểu nhân về não.
Lừa ăn lừa uống là tiểu nhân về miệng.
Buôn bán hương thơm giả là tiểu nhân về mũi.
Lừa gạt phụ nữ để cướp đi trinh tiết là tiểu nhân về thân.
Lừa gạt đàn ông cũng tương tự.
Tham tiền là tiểu nhân, tham danh là tiểu nhân, tham sắc là tiểu nhân…
Trên đời này kẻ tiểu nhân rất nhiều, thế nên mới làm nên thế giới người tiểu nhân.
Tôi nghe xong mà lòng đau đớn vô cùng!
Tôi nói: "Đừng lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử!"
12. Bí mật về kẻ đi ngược
Tôi gặp một loại người, họ là những người đi ngược, nghĩa là hình dạng bên ngoài của họ bị lộn ngược. Đầu quay về phía trước, chân quay về phía sau.
Nói cách khác là đầu và chân họ không giống như người bình thường. Người bình thường thì đầu hướng về phía trước, chân cũng hướng về phía trước, nhưng loại người này thì đầu hướng về trước, còn chân lại quay ra đằng sau. Bởi vậy khi đi đường, đầu họ quay về đằng sau 180 độ.
Nhìn kĩ hơn thì thấy mắt của họ có tròng trắng, nhưng lại không có con ngươi [ tròng đen ], đúng thực sự là có mắt không tròng. Bởi vậy họ cũng giống như là người mù có mắt không tròng vậy.
Những người này ở trên đỉnh núi cao mò mẫm loanh quanh, bốn xung quanh đều là sườn núi dốc đứng, hễ không cẩn thận là sẽ rơi từ đỉnh núi xuống vực sâu, thế là thịt nát xương tan, đau đớn tới mức kêu la oai oái, thế rồi chết.
Rồi cứ như thế mà lặp đi lặp lại việc này. (Nếu xong ở địa ngục này thì lại chuyển sang địa ngục khác.)
Tôi hỏi minh sứ:
"Đây là địa ngục gì vậy?"
Minh sứ đáp:
"Địa ngục phản nghịch."
Tôi vô cùng kinh ngạc.
"Những người này có mắt không tròng, hơn nữa còn đi ngược, chắc chắn là sẽ bị rơi xuống sườn núi mà chết, chẳng phải thế sao?" Minh sứ đáp:
"Những người phản nghịch thì đều rơi vào địa ngục này."
Tôi hỏi:
"Là loại người kiểu gì?"
Minh sứ nói:
Đề Bà Đạt Đa - kẻ phản đồ của Phật Thích Ca Mâu Ni. (quay lại công kích thầy) Lưu Chi Tam Tạng - kẻ đối địch của Tổ sư Đạt Ma.
Thao Phổ Geshe - đệ tử phản nghịch đầu độc Milarepa.
Khô Đôn - kẻ phản nghịch của Atisha Tôn giả.
Lục sư, Chiến Già, Tôn Đà Lợi, v.v… những kẻ công kích Phật giáo vào thời của Đức Phật.
Tần Cối - kẻ đã bẫy hại Nhạc Phi.
Bàng Quyên - kẻ đã bẫy hại Tôn Tẫn.
……
Tôi hỏi:
"Trần Quýnh Minh mưu hại Quốc phụ Tôn Trung Sơn cũng là như vậy phải không?" Minh sứ đáp:
"Đương nhiên cũng là như vậy."
Minh sứ nói tiếp:
"Những kẻ phản nghịch thì đều khó chạy thoát được khỏi địa ngục này."
"Thế còn bất hiếu với cha mẹ?"
"Phản nghịch."
"Thế còn bất kính với sư trưởng?"
"Phản nghịch."
Tôi bỗng dưng nhớ tới có một ni sư già đã lập nên một ngôi chùa lớn, thu nhận một số đồ đệ, trong số đó có một đồ đệ không thích ni sư già bởi ngài tuổi đã cao, không thể làm được việc, liền lập mưu làm hại ni sư già. Ấy vậy mà đồ đệ này còn là một đại đệ tử đó!
Đại đồ đệ này trước tiên đã bôi một lớp xà phòng lên sàn nhà tắm của ni sư già, xà phòng rất trơn, chỉ cần dẫm chân lên là trượt ngã tới mức tứ chi chổng lên trời, ni sư già chắc chắn sẽ chết mà không có chút nghi ngờ gì.
Ni sư già đi vào phòng tắm, chân vừa dẫm lên sàn, trượt một cái, quả nhiên là tứ chi chổng lên trời, đầu đập xuống bậc đá, mất mạng một cách đầy bi ai!
Đại đồ đệ danh chính ngôn thuận lên làm trụ trì. Ngày ngồi lên nhậm chức, quan lại tụ tập rất đông.
Tôi hỏi minh sứ:
"Ni sư già vãng sinh nơi nào? Đại đồ đệ này sau này vãng sinh về đâu?" Minh sứ đáp:
"Ni sư già trong tâm có Phật, đã vãng sinh đến Phật quốc tịnh độ. Còn đại đồ đệ này phản nghịch, chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục này!"
Tôi nghĩ đến:
Người tu hành mà vẫn tranh danh đoạt lợi như vậy, vậy thì chẳng gọi là biết tu hành, lại càng chẳng biết thế nào nham hiểm xảo trá.
Lòng người thật đáng sợ!
Lòng người thật ghê gớm!
13. Bí mật về thành phố Cực Lạc
Tôi bất ngờ phát hiện thấy Âm tào địa phủ cũng có thành phố Cực Lạc. Phát hiện này khiến tôi vô cùng kinh ngạc.
Thành phố Cực Lạc này bốn bề hương thơm, ngửi thấy, như say như mê. Thành phố Cực Lạc này âm nhạc quyến rũ, nghe thấy, đắm đuối quay cuồng. Thành phố Cực Lạc có vô số "soái ca", thành phố Cực Lạc có vô số "lạt muội".
[ ND: "soái ca" là những anh chàng "hot boy" đẹp trai hấp dẫn, "lạt muội" là những cô gái "hot girl" xinh đẹp quyến rũ ]
Nam nam nữ nữ trong thành phố Cực Lạc nhảy múa hát ca, hôn hít thủ thỉ. Rất nhiều cặp nam nữ nhanh chóng không kiềm chế được, lộ liễu diễn "cảnh nóng". Thành phố Cực Lạc này giống như "home party" của hàng nghìn vạn người vậy. [ ND: home party - mở tiệc tại nhà ]
Miệng kề miệng.
Lỗ kề lỗ.
Lưỡi kề lưỡi.
Làm những chuyện "bí mật".
Tư thế của họ có đứng, có ngồi, có quỳ, có nằm, có thẳng, có lộn, có nghiêng, có thế "cắt kéo", có thế "kẹp giấy", có miệng kề lỗ, có lỗ kề miệng, đảo lộn lẫn nhau…..
Những khối thịt đó cùng nhau lăn lộn như những con trùng.
Rên rỉ nỉ non.
Muốn chết vì sướng.
Hỏa dục phừng phừng.
Kích thích kêu la.
Đây chính là khoái lạc lớn nhất của nhân gian, là trò vui của nhân gian, là cực lạc của nhân gian, lạc lạc lạc lạc lạc….
Những nam nữ này khi đến đỉnh điểm cao trào thì cùng nhau thăng hoa, sung sướng kiệt sức, dâm thủy ồ ạt, ôm nhau cùng ngủ.
Nhưng, sau khi tỉnh dậy thì mọi thứ hoàn toàn khác.
Thành phố Cực Lạc có bốn cửa.
Người đi ra cửa đông -- thân mọc đầy lông, biến thành các loài dê cừu chó. Người đi ra cửa tây -- thân mọc thêm cánh, biến thành các loài chim gà vịt. Người đi ra cửa nam -- thân mọc thêm miệng nhọn, biến thành các loài ruồi muỗi côn trùng.
Người đi ra cửa bắc -- thân mọc thêm vảy, biến thành các loài cá tôm cua. Bò trên đất.
Bay trên không.
Bơi trong nước.
Sinh ra trong bào thai, sinh ra nơi ẩm thấp, sinh ra trong trứng, sinh ra từ hóa sinh.
Những loại người này biến thành động vật, súc vật, cầm thú.
Tôi hỏi minh sứ:
"Những ai vào địa ngục này?"
Minh sứ đáp:
Thương Trụ Vương.
Ngô Phù Sai.
Đường Minh Hoàng.
Đường Bá Hổ.
v.v………………
Đều từng rơi vào địa ngục này.
Tôi nói:
"Họ đều là những người thân mang áo bào đầu đội mũ quan sao?"
Minh sứ đáp:
"Nếu không chịu tu thân, dưỡng tính, khắc chế, tự kiểm điểm mình, thì đều rơi vào địa ngục này, rơi vào tam đồ hắc đạo."
Tôi thở dài:
"Hoàng đế và anh hùng tuấn kiệt đều vốn là những người có vị trí cao, hưởng hết phúc báo ở nhân gian, nhưng lại chìm đắm trong thanh sắc thì cũng rơi vào tam đồ, bi ai làm sao!"
Minh sứ đáp:
"Cho dù có là thiên tử của 33 cõi trời, thì do đã hưởng cạn thiên lạc, cũng sẽ rơi vào trong đạo súc sinh."
Tôi hỏi:
"Những khi dối lòng nơi phòng tối, trời cũng vẫn biết sao?"
Minh sứ đáp:
"Cho dù có tìm cách bí mật, thì cuộc đời của con người đều có quỷ thần giám sát, ví dụ Tam Thái Thần, Bắc Đẩu Thần. Mỗi người đều có ba vạn sáu nghìn vị thần đi theo, hễ đi, đứng, ngồi, nằm, khởi tâm, động niệm, chẳng có gì là các vị không biết. Con người cho rằng chẳng có ai biết thì đó là tự lừa mình lừa người mà thôi."
Tôi nói:
"Hành giả có ba loại nghề không thể làm!"
- Nghề giết mổ.
- Tổ chức cờ bạc.
- Kinh doanh sắc tình.
14. Bí mật về hoàng đế Ung Chính
Tôi đi qua một ngọn núi nọ, trên đỉnh núi có một con nửa người nửa thú sống ở đó. Đột nhiên nó biến thành cực to, rồi cũng đột nhiên lại biến thành cực nhỏ; đột nhiên nó bay vút lên, rồi cũng đột nhiên lại lẩn xuống đất. Tôi trông thấy cảnh tượng này cũng có phần thấy kì lạ.
Minh sứ thấy tôi ngạc nhiên, chỉ nói:
"Đó là hoàng đế Ung Chính."
Tôi lại càng tò mò:
"Hoàng đế Ung Chính, vì sao lại có thể ở đây?"
Minh sứ nói:
"Ông ta là King Kong biến hình ở Âm tào địa phủ của chúng tôi đó."
Tôi ngạc nhiên nói:
"King Kong biến hình?"
Minh sứ đáp:
"Hoàng đế Ung Chính, hỷ nộ bất định."
"Dận Chân [ ND: tên húy của Ung Chính ] biểu hiện bên ngoài là không tranh giành ngôi vị hoàng đế, nhưng lại bí mật đấu tranh mãnh liệt."
"Tự gọi mình là người nhàn nhã nhất thiên hạ, nhưng lại câu kết với Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa để tăng trưởng thế lực."
"Khi hoàng đế Khang Hy băng hà, Long Khoa Đa tuyên chiếu truyền ngôi vị, truyền ngôi cho ai thì chỉ có bốn người biết."
"Ung Chính kế vị, đối với anh em ruột của mình thì bất nhân bất nghĩa, cho người giám sát mọi lúc mọi nơi, giáng xuống làm thường dân, thủ đoạn cay độc."
"Hoàng đế Ung Chính đối với ân nhân của mình là Niên Canh Nghiêu đã ban cho cái chết, đối với ân công của mình cũng ban cho cái chết, tất cả đều chết."
"Hoàng đế Ung Chính đã mở rộng nhà tù văn hóa, hại chết vô số sĩ tử, ví dụ như Cảnh Kì và Tiền Minh Thế."
"Ung Chính bị phê phán là đã trở thành một hoàng đế tàn nhẫn và vô tình, Ung Chính bị vạch trần là soán vị, đầu độc chết phụ thân, làm mẫu thân tức giận mà chết, không làm những việc ngay thẳng, đấu tranh với những người chống đối, nhưng ở âm gian lại có người phân xử."
"Trên thực tế, hoàng đế Ung Chính đã cải tổ không ít những bất lợi trong chính sách lỏng lẻo của hoàng đế Khang Hy. Nhưng hoàng đế Ung Chính chăm lo việc chính sự, lần lượt cải cách mọi thứ đi vào quỹ đạo đúng đắn, từ đó mới có thể khiến cho hoàng triều Mãn Thanh kéo dài liên tục nhiều năm như vậy. Ông chăm lo việc chính sự thì không có vị hoàng đế nào sánh bằng, đây là điểm đặc biệt duy nhất."
Tôi hỏi:
"Vì nguyên nhân gì mà Ung Chính bị đọa vào địa ngục?"
Minh sứ đáp:
"Nghi ngờ và đố kị!"
Tôi hỏi:
"Ông ta rất chăm lo việc chính trị cơ mà?"
Minh sứ đáp:
"Nhưng tâm địa tàn độc."
Tôi hỏi:
"Đọa địa ngục rồi sẽ thế nào?"
Minh sứ đáp:
"Thành King Kong biến hình, thế thôi!"
Tôi hỏi:
"Làm sao ông ta ra khỏi địa ngục?"
Minh sứ đáp:
"Hoàng đế Ung Chính tín ngưỡng Phật giáo, ông ta và Dalai Lama có giao tình không ít, lại qua lại thân mật với Chương Gia Hoạt Phật. Bản thân ông cũng có những ghi chép trên phương diện Phật học, cũng nghiên cứu Kim Cang Kinh và Ngũ Đăng Hội Nguyên, chỉ là ông chưa thể thực sự minh tâm kiến tính. Diêm Vương cho rằng chỉ cần hoàng đế Ung Chính minh tâm kiến tính thì tự mình có thể thoát khỏi thân làm Kinh Kông biến hình, nhờ đó có thể thoát khỏi tam đồ ác đạo."
Tôi hỏi minh sứ:
"Ông ta có thể làm được không?"
Minh sứ đáp:
"Khó lắm."
Tôi hỏi:
"Vì sao?"
Minh sứ nói:
"Hoàng đế Ung Chính ở trong địa ngục còn có thời gian rảnh rỗi mà tu hành sao? Có tám nơi không thể tu hành được. Đó là đạo địa ngục, đạo ngạ quỷ, đạo bàng sinh, nơi biên giới xa xôi, nơi cõi trời trường thọ, nơi người có tà kiến, nơi không có Phật xuất thế, và nơi người câm."
Tôi hỏi:
"Vì sao ông ta lại thành King Kong biến hình?"
Minh sứ đáp:
"Bởi vì tâm ông ta biến hình."
15. Bí mật về địa ngục hàn băng
Tôi nghe Trần Gia Bình nói:
Khi anh ta đi làm việc tại Cát Nhĩ Mộc tỉnh Thanh Hải, trời lạnh đất đóng băng, nhiệt độ là -27 độ C, chân bị đông cứng, tất cả các đầu ngón chân đều không còn cảm giác gì, những chỗ bị đóng băng thì các tế bào đều bị hoại tử.
Còn nữa:
Một đồng nghiệp cũ làm ở công ty công trình Trung Hưng, khi lên đỉnh núi Chomolungma, bỗng dưng cảm thấy mũi mình rất ngứa, dùng tay gãi gãi một cái, mũi liền rơi xuống, bỗng nhiên mất luôn cả mũi. Rồi tay bị đóng băng, chân bị đóng băng, tế bào hoại tử, bỗng nhiên tứ chi bị cắt cụt, trở thành người chỉ còn thân, khi đó nhiệt độ gần -100 độ C!
Tôi lại nghe nói:
Phương bắc Trung Quốc có bão tuyết.
Nhật Bản có bão tuyết.
Nước Mỹ có bão tuyết.
Nước Nga có bão tuyết.
Châu Âu có bão tuyết.
v.v……
Trong những tin tức báo cáo:
Có người ném một sợi dây vào trong thùng nước, sau đó ném ra ngoài cửa sổ, sợi dây không ngờ biến thành một cây gậy thẳng tưng, y như cây gậy dây.
Có người để chuối ở bên ngoài, chỉ sau tích tắc cầm vào, quả chuối mềm không ngờ trở nên cứng như búa sắt có thể dùng để đóng đinh. Đem áo khoác bỏ vào trong nước, rồi lại nhấc lên, không ngờ lập tức biến thành băng, quần áo trở thành một khối băng cứng đặc. Có người đem nước máy hất ra ngoài, nước lập tức biến thành sương băng rồi trở thành trạng thái như phấn bột.
Trời ạ! Thực sự là lạnh ghê gớm!
Tôi lại nói về Âm tào địa phủ, ở đó có địa ngục hàn băng. Người sống trong địa ngục hàn băng khổ sở nhiều lần, mức độ lạnh hơn nhiều lần. Tôi hỏi minh sứ:
"Người thế nào thì phải sống ở địa ngục hàn băng?"
Minh sứ đáp:
"Người máu lạnh!"
Tôi hỏi:
"Người máu lạnh nghe hơi chung chung, có thể nói rõ hơn được không?"
Minh sứ đáp:
"Giết người không chớp mắt, tàn nhẫn không ghê tay, thì được gọi là máu lạnh. Đối với cha mẹ, thầy cô, ông chủ, ân nhân đều không chùn tay hạ thủ, thuộc loại người hoàn toàn vô tình vô nghĩa."
Còn nữa:
"Hoàn toàn không trung thành với anh em bạn hữu, không biết thương xót người neo đơn cô độc, không biết kính già yêu trẻ, tâm hoàn toàn không chút xót thương người khác, không giúp người lúc gặp nguy cấp, thấy chết không cứu, chỉ cần đạt được việc mình muốn thì không từ bất kì thủ đoạn hại người nào. Những người này đều thuộc loại máu lạnh."
Còn nữa:
"Chiến tranh tình ái."
"Không cứu người chết đói chết lạnh."
"Không cứu người bị bệnh."
"Trộm cắp giết người hàng loạt."
Đây đều là những người máu lạnh, chắc chắn rơi vào địa ngục hàn băng.
Tôi nói:
"Trong "Trung Dung" [ ND: tên một trong bốn cuốn sách về triết học Khổng Tử, cũng là tên gọi của một học thuyết Nho giáo ] có câu nói rằng: "Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo" [ ND: mệnh trời gọi là tính, phát triển thuận theo tính gọi là đạo ]
Tôi xếp loại chúng sinh hữu tình là đều ở giữa tính và tình, làm mọi việc đều chân thành, không lừa người khác dù chỉ một chút. Còn đối với tính tình kiếm khuyết thì chính xác là máu lạnh rồi."
Minh sứ nói:
"Đúng vậy, đúng vậy."
Minh sứ nói:
"Người có tính tình nhiệt huyết, phúc báo chắc chắn được hưởng dài. Người có tính tình lãnh cảm, khả năng được hưởng phúc rất ít."
Người phải vào địa ngục hàn băng là loại người máu lạnh kiểu này.
Địa ngục hàn băng có những bí mật lớn gì?
Lạnh đến mức không có tai, mũi.
Lạnh đến mức không có tứ chi.
Lạnh đến mức máu đông lại không chảy.
Sau đó lại lặp lại một lần, lặp lại hai lần, lặp lại ba lần, vĩnh viễn bị lạnh bị cóng đến chết, vòng tuần hoàn không bao giờ chấm dứt. Tojo Hideki [ ND: nhà lãnh đạo quân đội Nhật Bản ] vĩnh viễn phải ở trong địa ngục này, không có ngày thoát ra.
16. Bí mật về sông Nại Hà
Tôi đi qua sông Nại Hà, hỏi minh sứ:
"Vì sao gọi là Nại Hà?"
Minh sứ đáp:
"Nại Hà đúng thực là nại hà."
Tôi hỏi:
"Cái gì lại là nại hà đây?"
Minh sứ đáp:
"Người dương gian đến âm gian chịu những đau khổ của địa ngục, đều chẳng phải là "vô khả nại hà" đó sao!"
[ ND: cụm từ "vô khả nại hà" có nghĩa là chẳng có cách nào thoát ra, chẳng có lựa chọn nào khác. Ở đây có sự chơi chữ của hai chữ “hà” đồng âm khác nghĩa. ]
Tôi hỏi:
"Ai ai cũng biết Âm tào địa phủ là nơi cực khổ nhất, thế mà sao cứ cố tình đi vào địa ngục cực khổ này?"
Minh sứ đáp:
"Một suy nghĩ mà thôi!"
Minh sứ kể cho tôi nghe một chuyện cũ.
Từng có một người rất thù hận bạn gái vì đã thay đổi tình cảm. Người này mang dao đến nơi ở của bạn gái, dự định chém bạn gái thành tám mảnh. Ngay khi anh ta xuất phát, hung thần ác quỷ [vô hình] đã đi theo anh, khiến cho anh càng tăng thêm ác tâm.
Anh ta hừng hực phẫn nộ chạy đến nhà bạn gái nhưng chưa đi vào trong ngay, mà đi một vòng ở bên ngoài. Anh ta nhìn thấy bạn gái đang rót trà mời cha già, mẹ già, lại còn tự mình làm bánh cho cha mẹ ăn, giúp cha mẹ già mặc quần áo, chuẩn bị chăn màn cho cha mẹ lên giường ngủ. Bạn gái rất cẩn thận, lời nói nhẹ nhàng đầy hiếu kính đối với cha mẹ già.
Anh ta nhìn thấy, quay đầu đi nghĩ ngợi. Nếu như ta giết bạn gái, rồi bản thân mình cũng tự sát, thế thì cha mẹ già của cô sẽ sống làm sao? Nghĩ như vậy, anh lập tức mềm lòng. Lúc này hung thần ác quỷ, vốn dĩ là đến để xem chuyện hay, không ngờ hung thủ lại mềm lòng, liền lần lượt rời đi.
Lúc này, Sơn thần Thổ địa cát tường xuất hiện, lão Thành Hoàng cũng đến, thần may mắn xuất hiện, tẩy sạch đi sát khi trên người kẻ hung thủ vốn định giết người, hóa sát khí thành quang minh.
Anh ta nghĩ:
Giết một người, hại nhiều người, sẽ khiến cho cả nhà cô ấy sầu muộn như mây giăng.
Giết một người hại nhiều người, chi bằng không giết.
Bản thân không nên vì chuyện riêng của cá nhân mà lại giết người!
Hay là tự mình làm lại từ đầu, làm lại cuộc đời của mình, nói không chừng tương lai lại càng thành công hơn.
Thế là anh ta từ bỏ ý định giết người, quay đầu trở về nhà. Lúc này, trên mặt anh ta có ánh sáng vui vẻ cát tường. Bởi vì một khi suy nghĩ thay đổi thì sẽ có cát thần chiếu rọi quang minh thôi mà!
Tôi hỏi minh sứ:
"Nếu như anh ta không đổi ý thì sao?"
Minh sứ đáp:
"Thì Nại Hà chờ anh ta đến!"
Tôi hỏi minh sứ:
"Nại Hà có đau khổ gì?"
Minh sứ đáp:
"Sông Nại Hà sâu không thể đo hết, một sợi tóc cũng không thể nổi. Dưới sông có cá sắt ăn thịt người, răng như cái móc, lần lượt ăn thịt hết sạch những chúng sinh rơi xuống, ngay cả một miếng xương dính thịt cũng ăn sạch sẽ tinh tươm. Người chết rồi lại sống, sống dậy lại chết, cứ như vậy luân hồi không ngừng dứt. Lúc chết không phải bị nuốt chửng một cái là xong, mà là bị nhai từ từ từng chút một, đau khổ không gì sánh bằng, toàn bộ nước sông Nại Hà đều là máu."
Tôi nói:
Yêu hận dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Uống rượu dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Mong muốn ích kỉ dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Phẫn nộ dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Đố kị dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Ghen tuông dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Đa nghi dễ dẫn đến cực đoan, hãy cẩn thận.
Đừng ghi nhớ mối thù hận.
Hiểu được đến đây mới là quan trọng nhất nhất.
17. Bí mật về bệnh chân tay cong
Từng có một đệ tử bị mắc chứng bệnh tay cong chân cong kì lạ. Anh ta được người khác dùng xe lăn đẩy đến trước mặt tôi, cầu xin tôi gia trì.
Tay cong là tay bị cong hướng vào trong, không có cách nào duỗi thẳng ra, ngón tay không thể điều khiển được, tay trở nên gầy còm, hai cánh tay cong hướng vào ngực, không thể cử động được.
Chân cong là chân gầy khô dơ xương, gan bàn chân bị cong biến dạng, bàn chân quái dị, hai cẳng chân cong hướng vào trong, giống như con cua bị bó càng lại vậy.
Con người anh ta nhìn giống như là con cua bị bó lại vậy, anh kêu la vì đau đớn.
Tôi cầu nguyện bổn tôn. Tôi dùng tay sờ lên chỗ cong ở chân tay anh. Nghe nói anh đỡ đau được một ngày, nhưng sang ngày thứ hai lại vẫn như trước. Anh lại đến xin tôi gia trì, cũng chỉ đỡ được một ngày, ngày thứ hai lại đau tới mức không thể chịu được, không thuốc nào chữa được.
Ở Âm tào địa phủ, tôi hỏi minh sứ:
"XX này vì sao tay chân lại cong như vậy?"
Minh sứ đáp:
"XX đang ở đây, tôi đưa ngài đi xem!"
Tôi đi theo minh sứ, đi qua địa ngục bát nhiệt, địa ngục bát hàn, địa ngục cận biên, rồi mới đến địa ngục cô độc. Hóa ra cư dân của địa ngục cô độc rất thưa thớt, có người sống trên mỏm núi, có người sống trong hang đá, có người sống trên băng tuyết, có người sống ở khe núi, có người sống trong rừng sâu, thậm chí có người sống trong tường đá…
Tôi được minh sứ đưa đến đáy sông. Tôi thấy một vị Diêm Vương đang ở đó. Phía dưới nơi Diêm Vương ngồi có có hàng trăm nghìn vạn con cua, càng to càng nhỏ bị bó chặt cong queo hết lại. Kì thực chẳng phải là cua, mà là người, nam nữ đều có cả.
Minh sứ chỉ vào một người trong số đó:
"Đó chẳng phải là XX sao?"
Tôi vừa nhìn, quả nhiên là XX. Tôi thất kinh, sao mà anh ta lại rơi vào trong địa ngục này, thảm rồi!
Tôi nhìn thấy xung quanh những "người cua" này có rất nhiều rất nhiều hài nhi nhỏ đang hướng về người lớn kêu gào:
"Trả mạng cho ta!"
"Trả mạng lại cho ta!"
"Trả mạng sống tại nhân gian cho ta!"
Tôi hỏi:
"Sao lại vậy?"
Minh sứ đáp:
"Những nam nữ này do đã sinh nhiều con cái rồi, liền đem những đứa con mới sinh bé xíu ném xuống vực núi. Có người thì đi phá thai, giết chết những đứa bé trong bào thai, có người thì để cho thai nhi cho chết đuối. Nhiều nam nữ chưa thành niên đã làm chuyện "vụng trộm" với nhau, có thai là dùng thuốc sảy thai, sau đó đi toilet cho nước dội đi. Có người thì trong nhà không đủ tiền để nuôi trẻ nhỏ, liền giết chết rồi đem chôn. Có người ngoại tình mà có thai, liền tìm cách đầu độc chết thai nhi. Có những cha mẹ bởi vì trẻ nhỏ quấy nhiễu quá, lỡ tay đánh chết trẻ nhỏ. Có những cha mẹ thì vì quá tức giận mà ném chết con. Rất nhiều người nữ háo dâm, hễ có con liền đem bỏ. Cũng có cả những bác sĩ chuyên môn phá thai. Những việc kiểu này không chỉ có một mà là rất nhiều."
Minh sứ còn nói:
"Đối với những cha mẹ và bác sĩ kiểu này, Diêm Vương đều gông họ lại, lần lượt trói chặt, một chút cũng không thể cựa quậy được."
Tôi hỏi:
"XX phải làm sao?"
Minh sứ đáp:
"Anh ta ở dương gian chịu khổ, ở âm gian cũng phải chịu khổ, đây chính là hoàn cảnh ở địa ngục cô độc."
Tôi hỏi:
"Có thể cứu không?"
Minh sứ đáp:
"Sám hối, siêu độ, vãng sinh chú, Địa Tạng kinh. Người phạm phải tội nặng thì trải qua số năm nhiều ít không giống nhau, đợi đến khi nghiệp tiêu hết rồi mới có thể thoát ra."
Tôi cảm thương:
"Cần cảnh tỉnh thế nhân thôi! Đừng giết hại sinh mệnh!"
Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở bang Washington nước Mỹ có cúng dường Thủy tử linh, đây chính là một pháp sám hối.
18. Bí mật về sát sinh
Tôi trông thấy địa ngục vô gián, một địa ngục cực kì đau khổ, đáng sợ hơn hẳn các địa ngục khác. Vì sao các địa ngục khác đều "thua xa" địa ngục vô gián?
Bởi vì:
Thời gian vô gián --- sự bi thảm và đau khổ của nó không gián đoạn, từng giây từng phút không dừng.
Không gian vô gián --- một khi đã rơi vào địa ngục này, bản thân bạn sẽ phân ra làm vô số thân, tất cả đều phải chịu đau khổ bi thảm.
Kiếp đời vô gián --- không biết khi nào có thể ra khỏi nơi này, tù chung thân.
Tôi hỏi minh sứ:
"Nghiệp sát sinh nặng nhất, đặc biệt là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu."
Minh sứ đáp:
"Đúng vậy. Những đại ác nghiệp này đều trực tiếp xuống địa ngục vô gián."
Còn nói:
"Sát sinh bao gồm giết người và giết bàng sinh. Giết người không nhất định là phải cầm hung khí, mà kích động người khác giết người, khởi lên ý nghĩ giết người, đều nằm trong phạm vi sát sinh. Đặc biệt là giết bàng sinh, thường là trong lúc ta cố ý hoặc vô ý thì đã xảy ra rồi, do vậy cần luôn luôn giữ tâm sám hối."
Tôi hỏi:
"Có khi nào sát sinh mà không rơi vào địa ngục không?"
Minh sứ đáp:
"Có."
Tôi hỏi:
"Ai?"
Minh sứ đáp:
"Phật Thích Ca Mâu Ni."
Minh sứ nói:
Phật Thích Ca Mâu Ni có một kiếp là thương nhân, có lần ngài cùng năm trăm thương nhân vượt biển đi giao thương. Khi lênh đênh trên biển, có một tên cướp tên gọi là Đoản Mâu Hắc Nhân, tên này vô cùng tàn nhẫn, tâm tưởng vô cùng tà ác. Tên trộm Đoản Mâu Hắc Nhân này thấy tài sản của năm trăm thương nhân vô cùng khổng lồ bèn nghĩ cách tìm cơ hội giết chết năm trăm thương nhân, sau đó sẽ chiếm đoạt tài sản của họ. Tên ác nhân này nghĩ:
- Dùng thuốc độc.
- Cho đắm thuyền.
- Dùng thuyền cướp biển để phá thuyền của thương nhân.
Nhưng việc này đã bị Phật Thích Ca Mâu Ni biết được, vì Phật Thích Ca Mâu Ni có "tha tâm thông".
Phật Đà nghĩ:
"Năm trăm thương nhân này đều là người tốt, sẽ đạt đến quả vị Bát Địa Bồ Tát, thế nhưng nếu để tên Đoản Mâu Hắc Nhân này giết chết năm trăm thương nhân, hắn sẽ rơi vào địa ngục chịu vô số kiếp, hơn nữa chẳng có ngày thoát ra, gần như vĩnh viễn không siêu sinh. Thực sự đây là một việc rất nghiêm trọng."
Phật Đà nghĩ:
"Nếu như ta giết tên Đoản Mâu Hắc Nhân, hy sinh thân mình, ta có thể cứu được năm trăm thương nhân, đồng thời cũng cứu được tên Đoản Mâu Hắc Nhân không phải sống lâu trong địa ngục, để cho chính ta vào địa ngục là được rồi."
Thế là, Phật Đà vào một đêm tối gió mạnh, tìm cơ hội đẩy tên Đoản Mâu Hắc Nhân rơi xuống biển lớn.
Việc đã xảy ra là:
Phật Thích Ca Mâu Ni không rơi vào địa ngục vì tội giết người.
Năm trăm thương nhân tránh khỏi bị giết chết.
Đoản Mâu Hắc Nhân cũng không phải vĩnh viễn ở địa ngục.
Minh sứ nói:
"Phật Thích Ca Mâu Ni giết người không có liên quan tới dục vọng cá nhân, xuất phát điểm của ngài hoàn toàn là để cứu người. Không phải là ác nghiệp, ngược lại, lại là thiện nghiệp."
Thay vào đó, việc làm này của Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm viên mãn tư lương của bảy vạn kiếp, giúp Phật Đà sớm thành Phật. Do vậy thiện và bất thiện đều từ một cái "tâm" mà thôi!
Từ câu chuyện này, tôi nghĩ đến pháp hàng phục của Mật giáo.
Hàng phục một con người đại ác.
Giải cứu vô số đệ tử Phật.
Có nên làm chăng?
Không nên làm chăng?
Nghĩ xem, nghĩ xem!
19. Bí mật về "cày lưỡi"
Tôi trông thấy trong địa ngục cận biên có một địa ngục tương đối rộng lớn. Tôi đến gần hơn để nhìn thì cũng có phần bị "sốc". Hóa ra đó là địa ngục “cày lưỡi”.
Người của địa ngục này hễ mở miệng là lưỡi thè ra. Đầu lưỡi kéo dài ra giống như cánh đồng. Cai ngục sẽ lấy trâu và lưỡi cày móc vào đầu lưỡi họ, trâu lập tức bắt đầu cày ruộng (lưỡi), dao sắc cắt một cái là một dòng máu xổ ào ra, thành hào thành sông, hơn nữa phạm nhân lập tức đau đớn tới mức hóa điên.
Phạm nhân ở đây nhiều không đếm hết.
"Địa ngục cày lưỡi, máu từ lưỡi chảy ra hết, người chết rồi, chỉ cần một cơn gió thổi qua, lại sống lại, thế rồi lại "cày lưỡi" từ đầu. Thế rồi lại kêu la oai oái không dừng dứt!
Tôi nhìn thấy tình trạng bi thảm này cảm thấy chúng sinh thật đáng thương, chút xíu nữa là mặt tôi đã đẫm nước mắt rồi!
Những người này đã phạm phải khẩu nghiệp, khẩu nghiệp có bốn loại: Vọng ngữ --- thông thường vọng ngữ là chỉ những ngôn ngữ lừa bịp thông thường, đại vọng ngữ là những bình luận phỉ báng Phật pháp. Ngoài ra có vọng ngữ thuyết pháp, nghĩa là lấy Phật pháp làm vỏ ngoài để lừa bịp đại chúng. Ví dụ:
Giả hành giả.
Giả tăng nhân.
Giả Phật pháp.
Giả thần côn.
Lưỡng thiệt ngữ --- có lời nói công khai, có lời nói trong bí mật, thông thường rất dễ gây chia rẽ, lời nói hai lưỡi nặng nhất là phá hòa hợp tăng, ở trong đám tăng nhân khiến tăng nhân chia rẽ. Người phạm tội nặng thì xuống địa ngục vô gián, người phạm tội nhẹ thì bị đưa xuống địa ngục cày lưỡi, tội này là cực lớn cực nặng.
Ác ngữ --- mở miệng là nói lời hạ lưu bỉ ổi, tiết lộ chuyện riêng tư, tiết lộ điểm yếu của đạo nhân, làm hại người khác, chửi bới thô tục.
Ỷ ngữ --- chỉ những lời nói vô vị, buôn dưa lê, làm phiền người khác, quấy nhiễu tu hành.
Những khẩu nghiệp này rất dễ mắc phải, bởi vì con người khi còn chưa biết chân tướng sự việc thường hay liên tưởng, đưa ra phán đoán, hơn nữa trên thực tế sự việc lại không hề như vậy, nhưng họ đã tiện mồm bình luận rồi. Khẩu nghiệp kiểu này cực kì nhiều, thực sự rất đáng sợ.
Tôi ở địa ngục cày lưỡi nhìn thấy trâu và lưỡi cày nhàn nhã nằm một bên.
Tôi hỏi minh sứ:
"Sao lại không sử dụng vậy?"
Minh sứ đáp:
"Đợi người đến."
Tôi hỏi:
"Là ai?"
Minh sứ đáp:
"Người chửi ngài, người phỉ báng ngài, người chia rẽ Chân Phật Tông, người ác khẩu, người chế nhạo ngài, người đoán mò không đúng, người nói ngài là tà giáo, người trộm văn, người đạo văn, người làm ô nhục tăng nhân, người đoán bừa cảnh giới của ngài..."
Tôi hỏi:
"Những thứ chưa dùng đến này đều sẽ móc lên lưỡi của họ à?"
Minh sứ đáp:
"Đúng vậy."
Tôi nói:
"Không đúng, không đúng, những người kiểu này từ khi tôi xuất đạo cho tới nay đều luôn có, có khi cũng tới nghìn vạn người. Việc này chẳng phải là bởi vì có tôi nên đã hại rất nhiều chúng sinh phải vào địa ngục cày lưỡi sao?"
Minh sứ nhất thời á khẩu, sau đó nói:
"Thế ngài định làm gì?"
Tôi nói:
"Để Mật Mật Mật Như Lai tôi siêu độ cho họ thoát khỏi khổ luân, hơn nữa tôi sẽ độ hóa cho họ một lần nữa."
Minh sứ nói:
"Ngài cũng bạo gan đó. Thế nhưng, chỉ dựa vào một câu nói này thì công đức cũng đã vô lượng rồi."
20. Bí mật về ăn mày
Dương gian có ăn mày. Ở âm gian tôi cũng trông thấy ăn mày, khiến tôi giật mình kinh ngạc. Trong địa ngục này cũng có ăn mày, thật là chuyện vô cùng kì quái!
Tôi nhìn thấy ăn mày ở địa ngục tôn giáo đi khất thực hóa duyên, nhưng người trong địa ngục khó có thể tự đảm bảo được cho bản thân, làm sao còn có thể đi hóa duyên xin ăn được thứ gì, người này tới người khác lần lượt đói quá mà chết, bị chết đói, người chết đói vô số. Những kẻ ăn mày này sau khi chết lại sống lại, rồi lại đi ăn mày, vòng tuần hoàn cứ như vậy không dừng dứt.
Tôi ngạc nhiên hỏi minh sứ:
"Trong địa ngục sao lại có ăn mày?"
Minh sứ đáp:
"Những kẻ ăn mày này không phải là ăn mày, toàn là một số Thượng sư, Phật sống (Rinpoche), Pháp Vương."
Tôi hỏi:
"Thượng sư, Phật sống, Rinpoche, Pháp vương đọa xuống âm gian làm ăn mày là vì nguyên nhân gì vậy?"
Minh sứ đáp:
"Lẽ nào ngài không biết sao? Rất nhiều thượng sư trình độ thấp, rất nhiều Phật sống trình độ về Phật học không cao, danh hiệu Rinpoche có được do "đóng góp" (bỏ tiền mua) mà có, Pháp vương đối với Phật pháp cũng chỉ là dạng "nghiệp dư". Những người này có cuộc sống Phật pháp vô cùng nghèo nàn, tùy tiện lạm dụng danh hiệu thượng sư, Phật sống, Rinpoche, Pháp vương, sau khi chết sẽ đến âm gian đi ăn xin sống qua ngày. Nguyên nhân chính là như vậy!"
Tôi hỏi:
"Họ đều có giấy chứng nhận cả mà!"
Minh sứ đáp:
"Đương nhiên là có thượng sư có nền tảng về Phật pháp, có Phật sống có trí thức về Phật học, có Rinpoche là vị tái sinh chuyển thế thực sự, có Pháp vương đã khai ngộ kiến tính, những người như vậy thì là danh thực tương phù [ ND: danh vị tương hợp đúng thực tế ]. Nhưng cũng có một số người là nghiệp dư giả chuyên gia, học được một số kiến thức nông cạn, dùng tiền để mua giấy chứng nhận, những người này sẽ bị đọa địa ngục."
Tôi nói với minh sứ:
Tôi nhớ có một chuyện tương tự như vậy. Có một người ở Dharamsala bên Ấn Độ cũng hành nghề ăn xin ăn mày, ông ta bị chứng hoang tưởng nặng. Ông mặc đồ theo kiểu Lama Tây Tạng, giống như kiểu một vị Lama khổ hạnh.
Ông tranh thủ được một cơ hội để đến Đài Loan. Vào thời điểm đó có rất nhiều các vị Lama của Mật tông Tây Tạng đến Đài Loan. Lama ăn mày này cũng đến Đài Loan.
Người Đài Loan vừa trông thấy Lama khổ hạnh là liền đảnh lễ và cúng dường, Lama khổ hạnh niệm một câu:
"Om. Ah. Hum."
Rồi lại niệm một câu:
"Om mani padme hum."
Người Đài Loan nghe xong thì vui lắm, hỏi:
"Ngài có phải là Pháp vương không?"
Lama ăn mày gật gật đầu.
Kẻ ăn mày này không ngờ chỉ cần lắc người một cái là đã biến thành đại pháp vương rồi, tự gọi mình là Giác ngộ minh tâm đại Kim Cương Trì Tôn giả, đi đến đâu cũng quán đảnh cho người ta, truyền dạy những Phật pháp quái dị (khẩu quyết), nhận vô số vô số cúng dường.
(Vị Giác ngộ minh tâm đại Kim Cương Trì tôn giả này chính là một trò cười lớn, ăn mày biến thành Pháp vương, ha ha ha.)
Tôi kể xong câu chuyện truyền kì này, minh sứ nói:
"Bây giờ vị pháp vương này cũng chính là ăn mày ở âm gian. Phàm người nào tùy tiện lạm dụng danh hiệu Thượng sư, Phật sống, Rinpoche, Pháp vương đều trở thành ăn mày của âm gian. Ở Âm tào địa phủ, loại người kiểu này rất nhiều. Người giả thì nhiều, người thật thì ít. Kì thực là có thượng sư, Phật sống, Rinpoche, Pháp vương nổi tiếng, và cũng có rất nhiều người là hàng giả."
Trời ạ!
Việc này phải làm sao?
Minh sứ nói:
"Hành giả nên hiểu rằng cần phải đi từ minh tâm, minh tâm thực tu sẽ kiến chứng được Phật tính, đây mới là Pháp vương."
Tôi nói:
"Lừa mình lừa người, chắc chắn xuống địa ngục làm ăn mày!"
21. Bí mật về lợn đội mũ Phật
Ở âm gian, tôi trông thấy một con lợn sinh ra từ "bàng sinh". Điều thú vị ở con lợn béo này là trên đỉnh đầu của nó có đội một chiếc mũ Ngũ Phật Bảo Quán. Trông thấy tôi, nó rụt đầu lại lẩn sang một bên trốn.
Tôi hỏi minh sứ:
"Trong tam đồ, người tham lam rơi vào đạo ngạ quỷ, người ngu si rơi vào đạo súc sinh. Vì sao trong đạo địa ngục lại có bàng sinh?"
Minh sứ đáp:
"Việc này là chỉ đại bộ phận là như vậy, nhưng cũng có ngoại lệ. Cái khổ của nhân quả luân hồi là tuần hoàn trong lục đạo. Cũng có người tham dâm thì rơi vào bàng sinh làm gà, có người sân hận thì bàng sinh làm rắn, đương nhiên cũng có người ngu si rơi vào đạo địa ngục. Bởi vì trong đám chúng sinh, người tham sân si rất nhiều, do vậy người luân chuyển đến đi trong tam đồ ác đạo rất nhiều."
Tôi hỏi:
"Thế còn con lợn đội mũ Ngũ Phật Bảo Quán này thì sao?"
Minh sứ đáp:
"Đây là một vị Thượng sư."
Tôi kinh hãi:
"Thượng sư?"
Minh sứ đáp:
"Đúng vậy. Thượng sư này giảng dạy Phật pháp, người dựa vào ông ta tương đối nhiều, đệ tử của ông thực tu đạt được thành tựu lớn. Nhưng bản thân Thượng sư thì lại chạy theo tiền tài hưởng lạc mà chẳng hề thực tu, do vậy đọa vào đạo địa ngục, trở thành con lợn đội mũ Phật. Thượng sư cùng lúc có cả tham sân si, chết đi có được hình dạng là lợn đội mũ Phật, trở thành đối tượng cho người ta chê cười."
Ngũ Phật Bảo Quán là Thượng sư.
Không có thực tu là lợn ngu.
Người khác khuyên giải liền nổi giận.
Bởi vậy biến thành Phật Quán Trư. [ ND: Lợn đội mũ Phật ]
Tôi nhớ đến một câu chuyện cũ của Tây Tạng. Có một Thượng sư dẫn theo nhiều đệ tử đến bên bờ của một con sông. Họ muốn vứt qua sông, nhưng ở đây không có bến phà, không có một chiếc phà nào cả. Thượng sư ra lệnh cho đệ tử A qua sông.
Đệ tử A có niềm tin thanh tịnh vào Thượng sư, tu Cửu tiết Phật phong, tụng chú Kim Cương, bảo bình khí, khí đi vào trung mạch, do đó mà có được thần thông. Đệ tử A vừa nghe mệnh lệnh của Thượng sư liền đưa khí lên, hiển lộ thành chuồn chuồn chạm nước, trong chốc lát đã qua được sông.
Đệ tử B có niềm tin thanh tịnh vào Thượng sư, cũng bởi đã có khí đi vào trung mạch, đạt được minh tâm tính không, nên có thể trực tiếp bay trên sông mà qua sông.
Đệ tử C có niềm tin thanh tịnh vào Thượng sư, khí đi vào trung mạch, cũng đạt được minh tâm tính không, dùng chuyết hỏa hóa thành ánh sáng, một tia sáng lóe lên là đã bay qua sông rồi.
Đệ tử D có niềm tin thanh tịnh vào Thượng sư, từ lâu đã tu thành tựu kim cương luyện, đã luyện ánh sáng thành cây cầu rồi dạo bước qua sông.
Thượng sư này thấy đệ tử đều có được thành tựu thì rất vui. Thượng sư cho rằng đệ tử đều có thể qua sông, huống chi bản thân mình là Thượng sư, đương nhiên càng có thể qua sông. Ông ta vừa bước lên mặt nước thì "chủm" một tiếng, ông ta chìm xuống sông và chết đuối.
Thượng sư này bản thân dạy Mật pháp, biết tu khí, mạch, minh điểm, Cửu tiết Phật phong, tụng chú kim cương, bảo bình khí, trung mạch quang minh, mở năm luân xa. Nhưng bản thân Thượng sư không thực tu, chỉ tham cúng dường và hưởng lạc. Chẳng ngờ đệ tử thì đều thành tựu, còn Thượng sư thì vẫn chẳng thành tựu.
Do vậy Thượng sư bị đọa vào đạo địa ngục và đạo bàng sinh, trở thành lợn đội mũ Phật.
Minh sứ nói:
"Có niềm tin thanh tịnh chính là đã có được sức mạnh rồi."
Còn nữa:
"Khí đi vào trung mạch thì thần thông tự có thể hiển hiện!"
Tôi nói:
"Người dạy Phật học chỉ giảng suông mà không dung nhập Phật pháp vào trong cuộc sống hàng ngày, không dựa theo thứ tự tu hành để có được chứng nghiệm, thì cho dù có hiểu Phật pháp thế nào cũng chẳng có cách nào thoát khỏi luân hồi."
22. Bí mật về sách khiêu dâm
Tôi ở âm gian gặp được một người quen, ông ta năm đó là một trong những người bạn văn chương của tôi, họ Đàm. Phong cách viết văn của ông nhẹ nhàng trôi chảy, viết tiểu thuyết có ý cảnh đặc biệt, tôi thích tiểu thuyết có tính đặc biệt và mới lạ của ông ta.
Nay ông ta bị dìm trong ao phân giòi, mỗi lần đói bụng thì lấy giòi và phân làm thức ăn.
Da bị chảy máu.
Bụng trương đầy giòi.
Toàn thân thối rữa.
Cứ thế rồi chết.
(Chết xong lại sống, lấy đồ hôi thối làm thức ăn, toàn thân bốc mùi, thống khổ vô cùng.)
Tôi trông thấy mà kinh hãi.
Tôi nói với minh sứ:
"Tôi muốn cứu ông ta!"
Minh sứ đáp:
"Không được."
Tôi hỏi:
"Vì sao?"
Minh sứ đáp:
"Ông ta viết vô số sách khiêu dâm, hại người không hề ít!"
Minh sứ lại nói:
"Người họ Đàm này là một người văn tư tài học rất ưu tú, vốn dĩ sẽ có tiền đồ tương lai rất lớn, thọ mệnh cũng rất dài, công danh sự nghiệp cũng rất hanh thông, phúc lộc thọ đều có thừa. Đáng tiếc là thiện nghiệp được vun trồng bởi tổ tiên mấy đời đều đều bị hủy hoại trong lòng bàn tay của người này." "Ông ta đã làm việc ác gì?"
Minh sứ đáp:
"Ông ta viết sách khiêu dâm." - Minh sứ nói tiếp: "Nhà xuất bản Bất Hiếu mời ông ta viết tiểu thuyết khiêu dâm về người lưỡng tính, trả cho ông nhuận bút rất hậu hĩnh. Ông ta tham tiền liền đánh mất lương tâm mà viết, do vậy đã làm suy tổn âm đức. Sách khiêu dâm của ông ta khiến thanh niên trẻ đọc được thì thần hồn phiêu đãng, dẫn dắt người ta trở thành kẻ nghiện tình dục, làm bại hoại phong tục, hủy hoại hạnh kiểm con người không ít. Người trẻ tuổi đọc sách khiêu dâm của ông ta xong liền học theo cái xấu."
"Như say như mê
Mong chết thành tiên
Thích thú dâm lạc
Đức hạnh bại hoại."
Tác giả họ Đàm này sau khi chết đã đọa vào địa ngục phân giòi.
Tôi nhớ cái chết của ông ta là như thế này. Có một hôm ông ta chạy xe máy trên đường. Trời đổ mưa rất to, nước mưa trút xuống như thác. Xe máy của ông ta đi qua một con sông, nước sông dâng lên nhanh chóng, cuốn theo cả người cả xe nhấn chìm xuống lòng sông. Con sông này thông ra biển, thế là ông ta đã bị cuốn trôi ra biển, theo dòng thủy triều, cuối cùng được tìm thấy ở ngoài biển Nghi Lan. [ ND: Nghi Lan (Yilan) là một thành phố ở đông bắc Đài Loan. ]
Tôi chỉ biết ông là một tác giả lớn. Ông ta ẩn danh viết tiểu thuyết "màu vàng", tôi không hề biết. [ ND: tiểu thuyết "màu vàng" là tiếng lóng ở Đài Loan, ám chỉ sách khiêu dâm ]
Còn bây giờ:
Người đã ở trong địa ngục phân giòi.
Quá thảm rồi!
Nhân đây tôi khuyên thế nhân:
Đừng viết ngôn từ dâm dục.
Đừng viết ca khúc diễm tình.
Đừng viết sách khiêu dâm.
Đừng viết điều bạo lực.
Đừng làm phim khiêu dâm.
Đừng viết kịch khiêu dâm
Đừng viết chuyện dâm dật.
Những thứ này đều hại người ta rất nặng nề, không chỉ hại đương thế mà còn hại hơn đến hậu thế, là tội hãm hại người khác. Nếu đã từng làm rồi thì từ nay về sau đừng làm nữa, mau mau quy y Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.
Học tập pháp Tứ Gia Hành của Mật giáo:
- Pháp đại lễ bái.
- Pháp đại cúng dường.
- Pháp tứ quy y.
- Pháp sám hối Kim Cang Tát Đỏa.
Trong pháp Kim Cang Tát Đỏa có thể sám hối hoàn tịnh.
23. Bí mật về cát vàng sỏi bay
Tôi trông thấy một cảnh tượng, đó là cát sỏi bay mù mịt, giống như là bị bão vòi rồng cuốn đi vậy, nhưng, điều không giống là, cát là cát mịn và có màu vàng kim, những viên sỏi thì cũng biến thành sỏi vàng kim. Những cát vàng sỏi vàng này đều hướng về phía người mà bay tới.
Những người đó bị cát vàng bủa vây.
Những người đó bị sỏi vàng bay trúng.
Sỏi vàng bay trúng thì vỡ đầu chảy máu, đám người kia bị sỏi đánh cho tới mức toàn thân máu thịt nát be bét, người trong đám bụi mù đó thì hoảng hốt tháo chạy.
Cát vàng tấn công, sức mạnh của nó giống như dao cắt. Những hạt cát vàng bé xíu đó có sức mạnh xuyên thấu vô cùng mạnh, đau tới mức quỷ khóc thần kêu.
Trước tiên bị cắt da.
Tiếp theo bị cắt thịt.
Thứ ba bị cắt lục phủ ngũ tạng.
Thứ tư bị cắt xương.
Cuối cùng xương cốt cũng hóa thành tro bụi, tất cả đều tan biến hết rồi! Tôi nhìn thấy cực kì khủng khiếp.
Tôi còn nhớ trước đây:
Điều tôi nhìn thấy là những người nuốt ngấu nghiến "nước thép", đó là những tham quan ô lý đã đến địa ngục.
Cai ngục sẽ lấy tiền xu (bằng kim loại), nung ở nhiệt độ cao cho tan chảy thành "nước thép", rồi ép những tham quan ô lý phải nuốt ngấu nghiến "nước thép" này. Nước thép đỏ rực đó theo miệng của tội phạm đổ thẳng vào trong.
Đầu tiên là miệng bị đốt cháy.
Thực quản bị đốt cháy.
Dạ dày bị đốt cháy.
Tội phạm chỉ kịp hét to một tiếng là chết. Chết xong, một cơn gió thổi qua là lại sống lại, rồi lại tiếp tục chịu đau khổ của việc bị dội "nước thép".
Tôi hỏi:
"Trước đây là chỉ có dùng nước thép dội vào người thôi."
Minh sứ đáp:
"Con người hiện đại tâm tham càng lớn, do vậy mới dùng cát vàng, sỏi vàng. Sỏi vàng đánh tới là máu thịt be bét, cát vàng xuyên vào bên trong, hồn bay phách tán, nhức nhối vô cùng, ngay cả xương cũng bị cắt vụn."
Tôi nghe xong mà thấy lòng nặng trĩu. Tôi hỏi:
"Ai sẽ đọa vào địa ngục cát vàng sỏi bay?"
Quản ngục đáp:
"Ví dụ như Thạch Sùng và Vương Khải triều đại nhà Tấn, hai người họ đều là đại tham quan, đại ô lý."
Nghe nói:
Thạch Sùng và Vương Khải, hai người này thường ganh đua ai có nhiều tiền nhất. Vương Khải dùng chất liệu tơ đắt tiền nhất làm thành một tấm chướng bằng tơ màu tím, chiều dài đến bốn mươi lý. [ ND: lý là đơn vị đo chiều dài của người xưa, một lý khoảng 500m ] Thạch Sùng cũng dùng loại vải tơ tương tự làm một tấm chướng bằng tơ màu tím, dài năm mươi lý, thế là Thạch Sùng đại thắng.
Vương Khải đem ra khối san hô đường kính tới một xích [ ND: 33cm ] mà hoàng đế ban cho, Thạch Sùng cũng đem ra thỏi vàng như ý, đập vỡ vụn khối san hô đó. Vương Khải phẫn nộ đùng đùng, đòi Thạch Sùng bồi thường.
Thạch Sùng cười lớn ha ha, mở ngân khố ra, san hô để trong đó cả nghìn khối, vạn khối, hơn nữa không chỉ đường kính rộng một xích, mà toàn là những khối san hô đường kính rộng tới hai, ba xích. Thạch Sùng lấy ra một khối đền cho Vương Khải. Vương Khải chỉ còn có cách nhận thua.
Vàng bạc châu báu mà Thạch Sùng tham lam thu về thậm chí còn nhiều hơn cả hoàng đế, thực sự là giàu có sánh ngang với tiền bạc của cả một đất nước! Về sau Thạch Sùng bị giết, tất cả gia sản đều bị xung công.
Khuyên những người làm quan:
Đừng chỉ theo đuổi lợi ích của bản thân.
Đừng nhận tiền "hoa hồng" môi giới.
Đừng lấy những đồng tiền sai trái.
Đừng gây khó dễ cho những thương nhân đàng hoàng.
Đừng trộm của công bớt xén vật liệu.
Đừng hoang phí khi làm việc công sự.
Tôi nói:
"Quan môn hảo tu hành đó!"
[ ND: "Quan môn hảo tu hành" là một câu thành ngữ, ý nói rằng ở vào vị trí làm quan chức thì rất có lợi cho việc tu sửa những hành vi đạo đức của bản thân vì đây là vị trí mà rất nhiều người nhờ cậy vào, và là vị trí thay mặt cho nhiều người. Làm một vị quan chức tốt, không những tu sửa bản thân trở nên thiện lành hơn, mà những quyết sách do quan chức đưa ra có thể làm lợi ích cho người dân. ]
24. Bí mật về thầy phù thủy
Tôi trông thấy một bầy quỷ vây xung quanh một người "bất ngờ ngã xuống đất". Những con quỷ này đều rất phẫn nộ.
Một con quỷ lật người kia lại, quay mặt người hướng lên trời. Một con quỷ khác thì cầm dao chiến đâm vào ngực và bụng người này một nhát, ngay lập tức phanh ngực mổ bụng, máu túa ra ào ào. Người kia hét lên một tiếng kêu thảm thiết.
Lại có một con quỷ thè lưỡi ra liếm hết sạch máu xung quanh. Quỷ cầm dao chiến, mỗi người cắt lấy một miếng thịt, ăn sống một cách đầy ngon miệng. Còn người nằm dưới đất kia không ngừng kêu lên những tiếng đau đớn.
Lúc này, bầy quỷ từng con một vươn cánh tay với móng sắc nhọn ra, con thì tóm lấy quả tim, con thì móc phổi, con thì cắt gan, con thì moi ruột, con thì tóm lấy hai quả thận, con thì uống dịch nồng, ăn tươi nuốt sống sạch sẽ lục phủ ngũ tạng của người này.
Còn một con quỷ khác cầm dao bổ dưa hấu cắt đứt đầu, cắt đứt tứ chi của người này. Tứ chi thì ném cho bầy quỷ, đầu thì chặt phanh ra cho lũ quỷ ăn não. Tiếp đó bầy quỷ này dựng lên một cái bếp, đem tất cả những gì còn lại của người kia như lông tóc xương cho vào trong nồi, nổi lửa cháy phừng phừng để nấu chín mắt, tai, mũi, miệng, v.v. Tất cả biến thành món canh sủi bọt, sau đó cả bầy quỷ chia nhau ăn.
Người này đã bị ăn sạch sẽ.
Khi sự việc này diễn ra, có một hàng người xếp hàng đều tận mắt chứng kiến thảm cảnh này. Đám người sợ hãi tột độ. Bởi vì đám người này xếp hàng là để chờ nhóm quỷ khác đến ăn thịt họ, làm sao mà không run sợ kinh hoàng.
Tôi hỏi một người:
"Các người đã làm cái gì vậy?"
Người đó đáp:
"Chúng tôi là những thầy phù thủy."
Tôi sửng sốt:
"Á! Là những thầy phù thủy chuyên môn hại người ta."
Tôi nghĩ đến những thầy phù thủy ở khu vực Đông Nam Á.
Có một lần.
Tôi đến Penang ở Malaysia hoằng pháp. Bởi vì danh tiếng của tôi quá lớn nên có một thầy phù thủy cực kì không phục. Ban đêm ông ta làm pháp, phái năm, sáu con quỷ miệng nhọn răng sắc đến đối phó với tôi.
Đến khi tôi trở về khách sạn, tôi liền cảm thấy không khí có gì đó không ổn. Lúc sắp đi ngủ:
Tôi niệm: "Lang". [Ram] Thân thể của tôi bị lửa đốt thành tro.
Tôi niệm: "Yang". [Yam] Lúc này tro bị gió thổi bay sạch không còn dấu vết.
Tôi niệm: "Kang". [Kham] Trên chiếc giường đã chẳng còn thứ gì, trở thành
hư không.
Tôi nghĩ đám quỷ này có thể sẽ đi hại người khác. Tôi lại quán tưởng bản thân mình biến thành chày kim cương cứng như thép, hơn nữa kim cương là bất hoại. Đám quỷ mồm nhọn răng sắc đó cắn vào tôi một cái là "ka-cha", răng nanh của chúng vỡ ngay, đau tới mức kêu "oa oa"! Bầy quỷ lao vào cắn, răng đều vỡ hết cả.
Ngày hôm sau tỉnh dậy, tôi chẳng hề xảy ra chuyện gì, còn thầy phù thủy kia thì bị mất đi năm, sáu con quỷ.
Đại bộ phận các thầy phù thủy đều là nuôi dưỡng ma quỷ. Họ có tà thuật có thể hại người, lấy tiền của người ta, còn giúp người ta hại người khác. Bản thân việc hại người đã là ác nghiệp rồi, đến Âm tào địa phủ tự nhiên sẽ có báo ứng thôi.
Dương gian, anh sai bảo quỷ.
Âm gian, anh bị quỷ ăn.
(Đây là lời thề ràng buộc lẫn nhau như vậy.)
Tôi nghe nói các thầy phù thủy đều phải phát ra lời thề độc vì họ dùng pháp thuật đen. Năm xưa, Milarepa - vị đại thành tựu giả của Bạch giáo, ban đầu đã học pháp đen, sau này mới học "pháp trắng".
Tôi nói:
"Không thể có tâm hại người!"
25. Bí mật về hoa sen trong lửa
Trong một biển lửa rộng lớn, những thi thể bị lửa thiêu đốt thành than đen rất nhiều, than đen làm thành cả một cánh đồng mênh mông. Trong biển lửa có một đóa hoa sen màu đỏ, vô cùng đẹp đẽ tươi tắn, nổi bật trong đám xương cốt.
Tôi hỏi minh sứ:
"Trong địa ngục biển lửa, sao lại có một bông hoa sen trong lửa thế kia?" Minh sứ đáp:
"Đại bộ phận chúng sinh ở âm phủ, một khi rơi vào địa ngục biển lửa này thì chẳng có một người nào có thể thoát mạng được. Một khi đã rơi vào biển lửa là người nhanh chóng biến thành giống con mực nướng ngay. Chỉ kêu lên được một tiếng thảm thiết, muốn khóc cũng chẳng có nước mắt, thân thể lập tức co quắp lại, tay chân vặn xoắn, thân thể rút nhỏ lại, da thịt từ đỏ chuyển thành đen, trút hơi thở cuối cùng, bi thảm lắm thay! Còn bông hoa sen trong lửa này là một tăng nhân, là cao tăng."
Tôi hỏi:
"Cao tăng này là ai?"
Minh sứ đáp:
"Là người mà ngài biết đó."
"Ai vậy?"
Minh sứ đáp:
"Là Thích XX."
Tôi thở hắt ra một tiếng, không ngờ đây lại là một đại trưởng lão mà tôi tôn kính, là đại trưởng bối, lần này thì tôi bị làm cho giật bắn mình rồi. Tôi hỏi minh sứ:
"Đại trưởng lão cả một đời độ vô số chúng sinh, phạm hạnh thanh tịnh, không có lầm lỗi gì, vì sao lại rơi vào địa ngục biển lửa?"
Minh sứ đáp:
"Thích XX khi còn trẻ có một thị giả là một tiểu sa di, ông ta đối xử hà khắc với tiểu sa di, bảo tiểu sa di một ngày chỉ được ngủ ba tiếng, còn lại là làm việc bạt mạng. Nếu làm việc không chăm chỉ thì sẽ bị đánh mắng. Có một hôm, tiểu sa di ngủ gật, ông ta dùng tay kéo tiểu sa di đi đập đầu vào tường, không ngờ mạnh tay quá, tiểu sa di ngã lăn ra, đập đầu vào đá nhọn, não bị tổn thương, không lâu sau thì chết."
Tôi hỏi minh sứ:
"Đây là tội gì?"
Minh sứ đáp:
"Tội hà khắc sát sinh."
"Thế còn ở dương gian?" - Tôi hỏi.
"Vô tội." - Minh sứ đáp. "Thích XX chỉ nói là tiểu sa di bị ngã, rồi chết bất ngờ! Thích XX sau khi chết vì tuổi cao, linh hồn vào địa ngục, bị ném vào địa ngục biển lửa."
Nhưng: Thích XX có thể nhập tứ thiền. Một khi nhập tứ thiền thì trở thành Hỏa quang định. Toàn thân ông bốc cháy.
Là ngọn lửa mát lành.
Lửa biến thành hình dạng hoa sen, cánh hoa sen là lửa đỏ, tám cánh hoa sen lửa, co lại thành nụ hoa bao bọc xung quanh Thích XX. Hơn nữa Thích XX lại ở trong hoa sen trong lửa mà thiền định, mặc dù không có chút đau khổ nào, nhưng phải ở trong biển lửa đợi đến khi kiếp số hết rồi mới có thể giải thoát ra khỏi địa ngục này.
Tôi quan sát thấy:
Thích XX thiền định trong hoa sen trong lửa, tâm tính của ông có cả phần "không", cũng có cả phần "hữu". Phần "hữu" chính là tâm tính quang minh, chính là lửa. Lửa này có thể chiếu soi tất cả vạn vật thế gian. Phần "không" chính là pháp thân Phật. Phần "hữu" chính là lửa.
Thích XX đã thuần tịnh vô nhiễm, tâm tính quang minh có thể chiếu soi tất cả, từ trong Phật tính của ông sinh ra ngọn lửa của ngọc quý mani, hóa thành hoa sen tồn tại vĩnh viễn không thay đổi.
Ông đã tu được thiền định cửu thứ đệ: từ sơ trụ đến tục trụ, từ tục trụ đến hồi trụ, từ hồi trụ đến cận trụ, từ cận trụ đến phục trụ, từ phục trụ đến tịch trụ, từ tịch trụ đến tối tịch trụ, từ tối tịch trụ đến chuyên trụ, từ chuyên trụ đến đẳng trụ.
Sơ thiền.
Nhị thiền.
Tam thiền.
Tứ thiền.
Tôi nói:
"Hoa sen trong lửa, thật thù thắng, là kì hoa trong biển lửa đó!"
26. Bí mật về đầu to
Tôi đến địa ngục đầu to. Người ở địa ngục này đầu to như cái thúng, thân người thì rất ngắn, tay chân lại càng ngắn. Thực sự là một cái đầu này có thể đỡ được ba thân người lớn.
Con người hiện đại chúng ta rất ưa chuộng "búp bê", có loại đầu rất to, tay chân và thân người thì tương đối nhỏ. Những người kia cũng có chút giống vậy.
Đầu to thì đi đứng không vững, lắc lắc lư lư.
Đầu to thì hay bị "bầm dập", không phải vì ngã, mà do cứ va trái đụng phải. Đầu to thường không đứng dậy được, hễ ngã lăn ra là tay chân trầy xước, trầy xước cả nửa ngày trời cũng vẫn không đứng dậy được. (Giống con rùa, không sao tự lật thân mình được.)
Đầu to mắc bệnh mất ngủ, bởi vì đầu to quá, nghĩ quá nhiều, ban đêm không thể ngủ được.
Đầu to mắc bệnh đau đầu, đau một cách dị thường.
Đầu to mắc bệnh chấn động não, ngã lăn ra rồi co giật mà chết.
Đây là những cảnh tượng không thể nào tránh khỏi ở địa ngục đầu to. Nếu người đầu to ngã chết, hoặc đau đầu mà chết, hoặc mắc những bệnh khác mà chết, thì thông thường cách một ngày hoặc hai ngày là lại sống. Sau đó lại sống những ngày tháng loạng choạng đảo điên.
Địa ngục này nhìn từ phía xa trông giống như một ruộng dưa vậy. Tôi hỏi minh sứ:
"Là do nguyên nhân gì lại có địa ngục này?"
Minh sứ cười lớn:
"Sự sáng tạo này đến từ dương gian. Loài người các ngài có không ít người bị mắc bệnh đầu to đâu."
"Thật không thể tưởng tượng được!"
Minh sứ nói:
"Nhìn chung đó là những người thích quyền lực địa vị, tranh chấp không ngừng, người dùng quyền lực để mua chuộc, dùng tiền để mua phiếu ủng hộ, dùng thủ đoạn bất chính để tranh giành danh vị. Có được danh vị rồi thì dùng danh vị để lợi dụng lừa gạt người khác. Có được tiền tài rồi thì dùng tiền tài để chèn ép người nghèo, tác oai tác quái. Những loại người kiểu này đều đến địa ngục đầu to."
Tôi nói:
"Xin lấy một ví dụ."
Minh sứ đáp:
Triều đại nhà Đường có một người là Đậu Quỹ. Đậu Quỹ này là đường huynh của hoàng hậu Đại Mục của vua Đường Cao Tông, dựa vào mối quan hệ của em gái mà tranh giành leo lên được chức đô đốc cai quản Lạc Châu. Quyền lớn thế lớn.
Thế là lợi dụng vị thế mà hà hiếp người khác. Ông ta đã hại chết thượng thư Vi Vân Khởi.
Lúc ông tuyên án:
Đối với người phạm tội nhỏ thì phán cho hình phạt nặng.
Đối với người phạm tội lớn thì phán cho tội chết.
Những hình phạt này đã giết chết rất nhiều người dân vô tội và học giả. Ông ta đương chức được hai năm thì phát bệnh. Trong lúc mơ màng, ông ta trông thấy rất nhiều người dâng lên những chiếc đĩa, trong đĩa đều đặt một quả dưa hấu to. Rất nhiều dưa đem cúng cho ông ta.
Đậu Quỹ rất thích. Nhưng nhìn kĩ lại, hóa ra không phải là những quả dưa to, mà là từng cái từng cái đầu người rất to hướng về ông ta đòi mạng. Đậu Quỹ hét lên một tiếng to rồi chết. Sau khi chết thì xuống địa ngục đầu to, chịu cảnh chợt sống chợt chết.
Minh sứ nói:
"Có một số người sau khi dùng những thủ đoạn phi pháp để tranh giành quyền lực, liền vi phạm luân thường, hoặc vô tình vô nghĩa, hoặc tác oai tác quái, hoặc chua ngoa ác nghiệt, hoặc cứng đầu ngạo mạn, hoặc lừa người tư lợi, hoặc tham tài háo sắc, hoặc chèn ép dân thường…….."
Tôi hỏi:
"Chỉ là như vậy thôi sao? Có phải là quá dễ dàng không, địa ngục đầu to chỉ là chịu mỗi cảnh đầu to sao?"
Minh sứ đáp:
"Đối với người làm quan, ban đầu thì xuống địa ngục đầu to. Sau đó sẽ dựa theo nguyên nhân quả báo khác mà bị chuyển tới địa ngục khác. Đau khổ lần lượt từng cái từng cái kéo đến, không lọt đi đâu được cái nào!"
Tôi nói:
"Thiện ác báo ứng, như bóng theo thân."
27. Bí mật về chim mổ mắt
Tôi nhớ có một câu chuyện cũ thế này:
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni sống tại tịnh xá Trúc Lâm, có một người xây nhà bên cạnh tịnh xá. Phật Đà đi qua xem, trông thấy một đốc công đang đứng trên thang để lợp mái nhà. Phật Đà muốn độ cho người đốc công này liền nói: "Đốc công, đốc công, anh có thời gian rảnh sao không đến tịnh xá Trúc Lâm để nghe giảng Phật pháp?"
Đốc công đáp:
"Bây giờ tôi đang bận đây này! Làm gì có thời gian để mà đi nghe ngài giảng Phật pháp."
Phật Đà hỏi:
"Thế anh khi nào mới có thời gian rảnh?"
Đốc công đáp:
"Đợi tôi lợp xong mái ngôi nhà này thì sẽ nói!"
Phật Đà chỉ còn biết quay người trở về tịnh xá Trúc Lâm.
Đợi đến khi nhà lợp xong mái.
Người đốc công này lại tiếp tục lợp mái cho ngôi nhà thứ hai.
Phật Đà lại đến hỏi:
"Đốc công, đốc công, anh đã lợp xong một ngôi nhà rồi, có thể đến nghe ta giảng Phật pháp được rồi đó!"
Đốc công đáp:
"Ngài không nhìn thấy tôi đang bận đây à? Căn nhà thứ hai mới bắt đầu làm, không có thời gian đâu mà nghe ngài thuyết pháp."
Phật Đà nói:
"Luôn luôn có thể dành ra được một chút thời gian mà!"
Đốc công đáp:
"Một chút thời gian cũng không có, ngài đừng làm phiền tôi nữa!"
Phật Đà không nỡ vô tình quay trở về tịnh xá Trúc Lâm. Phật Đà gặp Xá Lợi Phất, nói với Xá Lợi Phất rằng:
"Đốc công này mệnh sắp hết rồi, ta muốn cứu anh ta, nhưng anh ta luôn chẳng có thời gian rảnh, làm sao đây! Làm sao đây!"
Xá Lợi Phất đáp:
"Đốc công cơ bản là không biết ngài là Phật đó!"
Sau đó, người đốc công kia trong lúc làm việc đã bị ngã xuống đất, chết rồi!
Tôi kể lại câu chuyện cổ này là muốn nói rằng, khi tôi ở Âm tào địa phủ, đã trông thấy địa ngục chim mổ mắt.
Ở địa ngục này, dòng người cuồn cuộn. Một bầy chim sắt bay đến, chuyên mổ vào nhãn cầu mắt của người ta. Mọi người kêu la, chạy nháo nhào. Thế nhưng chim sắt đuổi theo rất nhanh, bao nhiêu con mắt đều bị chim mổ ra, xếp thành một hàng. Máu từ trong hốc mắt người chảy ra. Chim sắt nuốt sống luôn những con mắt này. Đám người kêu gào thảm thiết.
Trước tiên chim sắt mổ mắt, sau đó mổ từng bộ phận trên người, đám người chạy đông chạy tây, cuối cùng thì máu khô hết mà chết.
(Nếu có ai từng xem bộ phim kinh dị của Alfred Hitchcock "Những con chim", thì chắc chắn có thể liên tưởng đến tình huống này, thực sự là cực kì bi thảm.)
Địa ngục chim mổ mắt, thật quá đáng sợ!
Minh sứ nói:
Đề Bà Đạt Đa, mặc dù là đệ tử của Phật Đà, học Phật cũng gần như xong hết rồi, nhưng tín tâm không đủ, không tin rằng Phật Đà đã thành Phật, do vậy cũng đã bị xuống địa ngục chim mổ mắt, là loại người có mắt không tròng.
Người đốc công kia cũng là loại người có mắt không tròng, không muốn theo Phật, Phật muốn độ anh ta, nhưng anh ta không tiếp nhận.
Trên đời này, loại người như vậy nhiều lắm thay!
Vợ không biết chồng đã thành Phật!
Con cái không biết cha đã thành Phật!
Bạn học không biết bạn học ngày xưa đã thành Phật!
Chị em gái không biết anh trai đã thành Phật.
Thậm chí:
Đệ tử không biết sư phụ đã thành Phật!
Tôi nói:
"Có mắt không tròng, không biết chân Phật, thế thì con mắt, dùng để làm gì?"
28. Bí mật về lưng gù
Tôi nhớ có một bài kệ như thế này:
Tất cả mọi phiền não,
Chẳng bao giờ dừng lại.
Đến đều như soi gương.
Nên ở nơi quang minh,
Lời Phật đừng phê phán,
Đạo gia không tranh giành.
Đường sống vui thì có,
Thế gian ít người đi.
(Bài kệ này ý nói rằng, người tu tâm, phát tâm thanh tịnh thì sẽ hợp với đạo chân chính. Nếu khởi lên dù chỉ một suy nghĩ tức giận, ngọn lửa tức giận một khi đã nhen lên, thì lửa này cũng sẽ thiêu trụi cả rừng công đức. Thế là, tất cả việc tu tâm đều trôi theo dòng nước, từ đó thần khí mờ đục, thiện niệm cũng hoàn toàn tiêu tan.)
Phật giáo chúng ta giảng: "Không tranh chấp."
Đạo gia giảng: "Đừng tranh đấu."
Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất của người tu hành. Trong lục độ, nhẫn nhục là điều cực kì quan trọng. Có thể nhẫn nhịn mọi thứ thì chính là thánh hiền đó!
Tuy nhiên, "thế gian ít người đi" nghĩa là sao? Là bởi vì con người thế tục không biết tu nhẫn nhục, người hiếu chiến nhiều, thật đáng thương! Thật đáng thương!
Tôi thấy rất nhiều người:
Cá tính người nọ cứng rắn hơn người kia, người nọ cố chấp hơn người kia, người nọ hiếu thắng hơn người kia.
Lời nói: chua cay ác nghiệt.
Lời viết: phẫn nộ chửi bới.
Những người này vẫn cho rằng bản thân là kẻ chính nghĩa chẳng làm gì sai bao giờ sao? Kì thực chỉ là một đám "tiểu nhân" thôi!
Cá nhân tôi cho rằng:
Oan oan tương báo bao giờ hết.
Kiếp kiếp đeo bám chẳng ngẫu nhiên.
Chi bằng lòng yên khí sẽ hòa.
Lập chí thành Phật về tây phương.
Tôi đã trông thấy địa ngục lưng gù. Lưng gù là sao? Lưng gù không phải chỉ là cái bướu trên lưng lạc đà thôi đâu. Hình ảnh ngược lại của lưng gù chính là con rùa, lưng con rùa mang một cái mai to, chúng ở trong sa mạc chậm chạp bò, chậm chạp đi, loạng choạng, lảo đảo.
Mặt trời chiếu gay gắt.
Không có nước.
Không có thức ăn.
Đám người đông đúc này trên lưng mang tấm mai rùa lớn, nhưng không phải là mai rùa, mà là một tấm lưng gù lớn. Trời ơi! Những người này bò lê trên sa mạc rộng lớn, bò đến khi sức tàn lực kiệt mà chết, chết xong lại sống lại. Rồi lại bò.
Rồi lại chết.
Tôi hỏi minh sứ:
"Là vì nguyên nhân gì? Mà bị lưng gù to đến thế này?"
Minh sứ đáp:
"Chửi trời, chửi đất, chửi người, chửi Phật, chửi Bồ Tát, chửi A La Hán, lại còn nhổ nước bọt, còn chỉ ngón tay, còn phóng uế… Đây đều là những hành động ác. Nếu sự việc là đúng thì còn có thể nói. Đằng này nếu chỉ là nghe đồn thì đều là những hành động phỉ báng vô căn cứ. Phỉ báng cao như núi thì cái lưng gù cũng cao to như núi. Phỉ báng giống như cái lưng gù, khiến cho những người này phải mang cái lưng gù to như mai rùa bò trên sa mạc. Bò đến khi nào chết thì thôi."
Tôi nói:
"Tôi chưa từng nghe nói đến địa ngục lưng gù?"
Minh sứ nói:
"Mới được tạo ra."
"Vì sao vậy?"
Minh sứ:
"Người thế gian bây giờ ngày càng thích đưa chuyện thị phi, lấy việc phơi bày chuyện riêng tư của người khác làm thú vui."
"Ai sẽ phải xuống địa ngục này?"
Minh sứ đáp:
"Nhiều lắm thay!"
29. Bí mật về cửa cầm thú
Tôi đi đến một nơi, trông thấy một cánh cửa cao sừng sững, ở trên đó viết ba chữ "Cầm Thú Môn" [ ND: cửa cầm thú ]. Một đám nam nữ ai nấy đều đang bò lom khom, bò qua Cầm Thú Môn. Ở giữa cửa có cai ngục, cai ngục sẽ khoác lên mỗi người nam nữ một bộ lông, gắn thêm đuôi, gắn thêm sừng. Cũng có người sẽ bị thay đầu.
Một số người sẽ bị thay thân.
Có người thì được gắn thêm lông, cánh.
Sau khi đi qua cửa này thì họ sẽ biến thành bàng sinh, chuyển thế thành những loài chim thú.
Tôi hỏi minh sứ:
"Bàng sinh có noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Vì sao lại còn có bàng sinh ở cửa cầm thú?"
Minh sứ đáp:
"Bàng sinh phân ra làm rất nhiều loại, tùy theo nghiệp chướng nặng nhẹ mà phân loại. Ai nên noãn sinh thì cho noãn sinh, ai nên thai sinh thì cho thai sinh, ai nên thấp sinh thì cho thấp sinh, ai nên hóa sinh thì cho hóa sinh. Nhân quả bất khả tư nghì, bốn hình thức tái sinh này cũng bất khả tư nghì, nói ra thì dài lắm."
Minh sứ lại nói:
"Ba nghiệp độc tham, sân, si, kì thực cũng không đơn thuần. Cần phải biết tham, sân, si biểu hiện bên ngoài là ba thứ, nhưng thực tế cũng chỉ là một. Nghĩ mà xem, tham thì cũng là ngu si, sân hận thì cũng là ngu si, ngu si cũng là tham, ngu si cũng là sân hận... Ba thứ này gắn liền với nhau tạo thành nhân quả."
Minh sứ nói:
"Nghiêm khắc mà nói thì tội tà dâm cũng sẽ phải đi vào cửa cầm thú, chẳng phải trong vạn điều ác thì tà dâm đứng đầu sao? Tham sắc cũng là ngu si, thất tình lục dục, rất dễ thành bàng sinh cầm thú."
Tôi hỏi:
"Tà dâm đứng đầu trong vạn tội ác, sẽ gặp hoạn nạn gì?"
Minh sứ đáp:
- Hại danh tiết con người -- danh tiết con người một khi bị hủy hoại thì cũng giống như cầm thú.
- Hại thanh danh -- thanh danh một khi bại hoại thì thể diện cũng mất hết.
- Hại môn phường -- làm mất mặt người thân, xấu hổ bạn bè thân quyến.
- Hại sinh mệnh -- tức mà chết, xấu hổ mà chết, phẫn nộ mà chết, tự sát mà chết.
- Hại phong tục -- làm tổn hại đạo đức xã hội, bại hoại phong tục.
- Hại tâm thuật -- huyễn vọng, tham đắm, sinh tâm cơ hội.
- Hại âm đức -- tổn hại đến luật của trời đất, hủy hoại lương tri, cạn kiệt ruộng phúc.
- Hại danh lợi -- mất hết danh dự, mất hết niềm vui, mất hết lợi ích.
- Hại tuổi thọ -- tinh khô, khí tán, giảm thọ.
- Hại tổ tiên -- công đức của tổ tiên đều tiêu tán.
- Hại người thân bạn bè -- vợ bỏ con rời, xấu hổ với bạn bè.
Những điều trên đều là những việc rất tệ hại.
Tôi hỏi minh sứ:
"Có ví dụ không?"
Minh sứ đáp:
"Có." Minh sứ nói:
"Thời hiện đại có một người họ X, khi anh ta sinh ra, Thiên đế ban cho anh ta một ngọc ấn. Anh ta rất thông minh, là người có trí huệ lớn, thành tích rất ưu tú, đi học luôn đứng nhất, sự nghiệp cũng vô cùng thuận lợi, lẽ ra có thể trở thành một người lãnh đạo đất nước. Nhưng rốt cuộc thì anh ta cũng chẳng có được gì."
Tôi hỏi:
"Vì sao vậy?"
Minh sứ đáp:
"Anh ta từng nhìn trộm phụ nữ nhà hàng xóm tắm."
"Anh ta từng gian dâm với một người con gái nhà lành."
"Anh ta từng chơi gái."
"Anh ta từng gian dâm với thư kí nữ."
"Anh ta có rất nhiều tình một đêm."
"Do vậy ngọc ấn làm lãnh đạo của anh ta đã bị Thiên đế thu hồi lại."
Tôi thở dài một tiếng:
"Tiếc thay! Tiếc thay!"
Tôi nói:
"Mỗi người cần có: một là tâm địa trong sạch, hai là giữ giới luật đạo đức, ba là cần kính trời kính Phật, bốn là cần tu thân dưỡng tính, năm là cần quyết tâm thành Phật."
30. Bí mật về rắn hai đầu
Khi còn nhỏ, tôi đã đọc được một câu truyện cổ:
Tôn Thúc Ngao khi còn nhỏ tuổi đã nhìn thấy một con rắn hai đầu đang uốn éo bò trên bãi cỏ, hai cái miệng rắn đều thò thụt cái lưỡi bất thình lình. Vừa trông thấy rắn ông đã thất kinh. Bởi vì những lời đồn đại dân gian ở quê ông cho rằng hễ ai nhìn thấy rắn hai đầu thì rất mau chóng sẽ bị chết bất ngờ. Tôn Thúc Ngao đã trông thấy nó rồi, lập tức cầm lấy cục đá ném chết con rắn hai đầu. Sau đó, ông đào một cái hố rồi chôn nó xuống.
Sau khi về nhà, ông âu sầu không vui. Mẹ ông hỏi:
"Vì sao không vui?"
Tôn đáp:
"Nhìn thấy rắn hai đầu rồi, chắc chắn sẽ phải chết, không còn nghi ngờ gì nữa." Mẹ hỏi:
"Thế sau đó thì sao?"
Tôn đáp:
"Bởi vì con sợ người khác trông thấy nó rồi cũng sẽ bị chết, thế nên đã ném chết nó, đem chôn rồi!"
Mẹ nói:
"Con tuổi còn nhỏ đã có lòng tốt nghĩ cho người khác, ông trời nhất định sẽ bảo vệ cho con không chết, hơn nữa tương lai chắc chắn có thiện báo."
Về sau:
Tôn Thúc Ngao quả nhiên không chết, sau này còn làm đến chức Tể Tướng, cai trị đất nước đều rất hợp nhân tình đạo nghĩa.
Tôi kể câu truyện cổ này là có nguyên nhân của nó. Bởi vì tôi cũng nhìn thấy rất nhiều rất nhiều rắn hai đầu, nhện hai đầu, chim hai đầu, cá hai đầu, chó hai đầu… ở Âm tào địa phủ.
Tôi rất ngạc nhiên. Minh sứ nói với tôi:
“Sự tranh đấu lẫn nhau giữa người với người quá nhiều, sự hòa hợp giữa người và người quá ít.”
Có người nói: con người vốn dĩ là bất hòa.
Con người kị nhất là:
Che giấu ác tâm.
Khắc sâu thù hận.
Ghen tị với tài năng.
Ghen tị với người cao quý.
Nói lời làm tổn thương người khác.
Vu oan giá họa.
Tự rèn mình khỏi tính xấu thì kém.
Bắt bẻ người khác thì giỏi.
Minh sứ nói:
"Thế nhân, người đố kị ghen tuông thì nhiều, tiểu nhân thì luôn ôm mối thù hận, đeo bám lẫn nhau cho đến chết cũng không buông."
Cắn nhau không buông tha.
Diêm Vương phán quan rất khó xử lý họ, ở dương gian thì họ cắn nhau không chịu buông, ở âm gian cũng cắn nhau không chịu buông như vậy.
Thế là âm phủ phán cho làm:
Rắn hai đầu.
Nhện hai đầu.
Chim hai đầu.
Cá hai đầu.
Chó hai đầu.
………….
Kì thực đây đều là tiểu nhân với tiểu nhân cắn nhau mãi không buông mà biến hiện ra.
Lấy rắn hai đầu làm ví dụ: mắt đối mắt, lưỡi đối lưỡi, răng đối răng, cứ thế cắn lẫn nhau không ngừng. Cuối cùng đôi bên đều chết. Chết xong lại sống. Rồi lại mắt đối mắt, miệng đối miệng, răng nhọn đối răng nhọn, cũng lại cắn mổ lẫn nhau, rồi cùng nhau mất mạng.
Tôi hỏi:
"Những cặp song sinh liền thân ở thế gian thì sao?"
Minh sứ đáp:
"Đã lộ tin tức này đến nhân gian sao!"
Tôi nói:
"Con người ai cũng có lúc mắc lỗi, nếu có thể tha thứ thì nên tha thứ, sẽ tránh được cảnh oan oan tương báo biết khi nào dứt."
31. Bí mật về “trùng nhân”
Triều đại nhà Minh có một vị là Mạo Khởi Tông, ông ta đã kể lại không ít những câu truyện cổ để khuyên đời, trong đó có một truyện như sau:
Ấp Phù Lương ở phương bắc có một người tên là Trương Minh Tam, theo cha làm quan đến huyện Quỳnh Nhai. Quan xá của cha anh và nhà của chỉ huy họ Lý ở gần nhau. Chỉ huy họ Lý có hai người con gái rất xinh đẹp đáng yêu. Trương Minh Tam này liền quyến rũ tán tỉnh.
Đến khi nhiệm kì làm quan của cha đã hết, lúc quay trở về quê hương, Minh Tam liền bí mật đưa hai cô gái lên thuyền. Thuyền chuẩn bị rời đi thì chỉ huy họ Lý đuổi kịp, Minh Tam sợ sự việc bại lộ, trong lòng lo lắng, không ngờ đã đẩy hai cô gái xuống biển. Sự việc này trôi qua được mười năm.
Minh Tam mắc bệnh, buổi đêm nằm mơ thấy hai cô gái trẻ đến đòi mạng, hai cô gái này đã trở thành "trùng nhân". Trùng nhân nói rằng mắt của hai cô gái trẻ có trùng bò ra, mũi có trùng bò ra, tai có trùng bò ra, trong miệng có trùng bò ra, lỗ chân lông khắp người đều đầy trùng bò ra. Cảnh tượng vô cùng ghê rợn.
Minh Tam vừa nhìn thấy hai cô gái đã biến thành "trùng nhân" thì trong mơ hét ầm lên, miệng kêu "tha mạng". Minh Tam rốt cục cũng biến thành "trùng nhân", mắt, tai, mũi, lưỡi đều có trùng bò ra bò vào, lỗ chân lông trên toàn thân đều có trùng bò ra bò vào, khắp đầu khắp thân toàn là trùng. Anh ta hét to một tiếng rồi chết.
Tôi ở dưới Âm tào địa phủ không ngờ cũng nhìn thấy "trùng nhân", cả một đám lớn "trùng nhân" tụ tập lại với nhau.
Nghe nói:
Những người này sau khi đến địa phủ, phán quan địa ngục sẽ đưa hai con trùng cho kẻ phạm tội nuốt vào bụng, sau đó hai con trùng này sẽ đẻ trứng bên trong người phạm nhân. Trứng lại nở thành trùng, thế là trùng sẽ ăn dần từ trong ra ngoài toàn bộ thân thể phạm nhân. Sau khi nuốt trùng vào thì phạm nhân mắc phải đủ mọi bệnh khổ, những con trùng này sẽ ăn sạch mắt, tai, mũi.
Tiếp đó:
Đám trùng sẽ từ lỗ chân lông bò ra.
Phạm nhân toàn thân trở thành "trùng nhân".
Cuối cùng chỉ còn lại xương trắng chất một đống.
Cứ như vậy, chết rồi lại sống, sống rồi lại chết, cái đau khổ của "trùng nhân" cũng là một kiểu khổ khác. Khổ không lời nào tả xiết.
Tôi hỏi:
"Trùng nhân phạm tội gì?"
Minh sứ đáp:
"Nam không trung thành lương thiện, nữ không mềm mỏng ôn hòa.”
Minh sứ nói:
Đàn ông tâm thuật bất chính, bất trung, không thật thà, cũng không làm việc thiện, thích hưởng biếng làm, chỉ dám làm những việc lén lút trong bóng tối, thân không sạch sẽ, tâm không lương thiện, mở miệng là nói tục chửi bậy. Đàn bà cực kì hung hãn, ví dụ như giống phụ nữ hung tợn, đối với người khác không có chút hòa nhã nào. Cũng có thể là người, một là hay khóc lóc, hai là dễ làm loạn lên, ba là dọa treo cổ, hoặc là có những hành động tàn bạo, hoặc nói lời dối trá, phẩm chất đạo đức bất lương, tham dâm, tham tiền, có tính tắt mắt trộm vặt, mồm năm miệng mười nói lời hung tợn cay độc. Những loại người này sau khi chết sẽ rơi vào địa ngục "trùng nhân".
Tôi hỏi:
"Còn có loại người nào biến thành trùng nhân nữa?"
Minh sứ đáp:
Buôn bán hàng giả thay thế hàng thật.
Vàng giả, bạc giả, tiền giả, thuốc giả, hàng hóa giả.
Vàng pha chì, muối pha cát, rượu pha nước, sơn pha dầu, gạo pha ngô.
Còn nữa:
Thực phẩm hại đến tính mệnh người khác, lén buôn bán thuốc phiện, buôn bán gian lận, lập sòng cờ bạc, làm giả giấy tờ, buôn bán người, dụ người làm gian, giả văn tự hợp đồng, giả bằng cấp, giả làm người tu hành, giả làm thương nhân, giăng bẫy người khác, v.v.
Tôi nói:
"Trời ạ! Toàn là lừa đảo, lừa đảo, lừa đảo."
32. Bí mật về tiếng kêu "chiu chiu"
Tôi đến một khu rừng rậm, khu rừng này cứ phát ra một thứ âm thanh lớn "chiu chiu". Tiếng kêu "chiu chiu, chiu chiu chiu" cứ vang mãi bên tai không ngớt. Tôi lại gần hơn để xem. Trên mỗi một cái cây, cành cây, lá cây, nhánh cây đều là ve sầu bò chi chít. Tôi lại nhìn kĩ hơn, thấy đầu của những con ve sầu này không ngờ lại là đầu người, có ngũ quan rõ ràng. Mắt, tai, mũi, lưỡi cực kì rõ rệt, ngoài cái đầu ra thì toàn thân lại là thân ve sầu.
Những con "người ve" này phát ra âm thanh:
"Chiu chiu!"
"Chiu chiu! Chiu chiu chiu!"
Những con ve mang đầu người không có cách nào để dừng kêu được. Chúng kêu đến mức giọng khàn sức cạn, miệng nôn ra máu, sau đó thì chết. Đến khi chúng sống lại thì lại tiếp tục kêu, một khi đã kêu thì sẽ lại kêu suốt đến khi nôn ra máu mà chết. Vòng tuần hoàn cứ như vậy không dừng dứt. Tôi trông thấy mà cực kì kinh ngạc.
Minh sứ nói:
"Việc này không có gì là nghiêm trọng quá cả, người thích khích bác chia rẽ người khác nhiều mà. A nói với B là C nói xấu anh ở sau lưng đấy, A lại nói với C rằng B nói xấu anh ở sau lưng đấy. Thế là B và C trở thành kẻ thù, một việc ác đã được tạo ra. Sau khi A chết thì sẽ biến thành người ve."
"Những phụ nữ xinh đẹp nhất thì lại càng hay nói láo."
"Nói láo là thiên tính của phụ nữ."
Nhưng, trên thực tế:
"Đàn ông hiện đại cũng nói láo nhiều chẳng khác gì, nam nữ như nhau, cũng rất hay buôn dưa lê về những chuyện thị phi."
"Loại đàn ông này còn giỏi hơn cả phụ nữ, đều là những cái loa phát thanh, chuyện tốt còn chưa hay nhưng chuyện xấu thì đã lan truyền xa nghìn dặm."
"Buộc tội vô căn cứ."
"Mới trông thấy đầu đã tự vẽ thêm đuôi."
"Lời người đáng sợ, đáng sợ."
"Lời nói láo mà nói ra trăm lần thì cũng biến thành thật, lời người thật đáng sợ!"
"Mười cái miệng chín cái mông." (Mồm miệng đều rất thối.)
"Truyền đi truyền lại, dây cỏ cũng biến thành rắn rồi."
"Đao môi kiếm lưỡi."
"Họa từ miệng mà ra."
"Phá hòa hợp tăng."
Những loại người này sau khi chết đều xuống địa ngục ve đầu người, bọn họ sẽ kêu chiu chiu chiu.
"Chiu chiu! Chiu chiu chiu!", kêu đến khi nôn ra máu mà chết.
Tôi nghe xong, kinh hãi!
Tôi nhớ có một chuyện thế này:
Có một anh con trai lấy được một cô vợ xinh đẹp, nhưng cô vợ này có thiên bẩm là chuyên gia nói láo. Cô nói với anh con trai: "Cha anh thường quấy rối em!" Con trai nghe xong vô cùng tức giận.
Cô vợ xinh đẹp này lại nói với bố chồng rằng, con trai ông ở sau lưng rất bất hiếu với ông, nói những lời không thể nào nghe lọt tai được. Bố chồng cực kì phẫn nộ.
Tình cảm giữa hai cha con đã trở thành thù địch. Đến cuối cùng thì con trai giết chết cha, gây ra một thảm kịch cho gia đình, gây nên chấn động lớn.
Con trai đương nhiên là xuống địa ngục. (địa ngục vô gián)
Cô vợ cũng xuống địa ngục rồi thành "người ve".
Còn nữa:
Vốn dĩ là bạn bè nhiều năm, sau đó có một người bạn xấu thích nói láo xen vào. Bạn tốt bỗng trở thành kẻ thù, việc này rất nhiều.
Tôi nói:
Người tu hành kị nhất là tâm khẩu bất nhất, tâm khẩu bất nhất cũng là kẻ tiểu nhân. Kẻ đạo đức giả cũng là quân tử giả mạo.
Khẩu Phật tâm xà, chắc chắn là một kẻ bất trung, bất hiếu, bất tín, bất nghĩa.
Tu hành Mật giáo thì khẩu thanh tịnh là cực kì quan trọng.
Tuyệt đối ghi nhớ! Tuyệt đối ghi nhớ!
33. Bí mật về thịt viên
Tôi đi theo Minh sứ đến một nơi cực kì tanh hôi, người bình thường mà đi đến nơi này thì có lẽ không thể thở được. Nhưng Minh sứ và tôi thì không bị như vậy, nguyên nhân là vì chúng tôi có thành tựu của việc tu trì, tu đến mức độ là người bình đẳng nhất vị rồi, thơm hay thối đều không có ảnh hưởng gì cả.
Cái mùi tanh hôi này rất đặc thù, giống như là:
- Mùi thối của tử thi.
- Mùi thối của răng sâu.
- Rãnh nước bị ứ đọng.
- Cá chết lên giòi.
- Chuột chết lên giòi.
- Mùi thối của bệnh nứt kẽ ngón ngân.
Mùi hôi thối tổng hợp này có thể gọi là tập hợp toàn bộ hết thảy mọi mùi hôi thối, người bình thường mà ngửi thấy mùi thối này thì chắc chắn sẽ nôn thốc nôn tháo. Đúng rồi, nó cũng giống như cả bãi nôn của người nữa, nôn ra những thứ nhầy nhụa rồi kết hợp với không khí mà bốc mùi lên, thành thứ mùi lảng vảng trong không khí.
Tôi quay người đi thì nhìn thấy một đống lớn thịt viên, cơ man là nhiều, vô cùng vô tận thịt viên. Cái mùi thối này quả nhiên là bốc ra từ cái đống thịt viên này.
Tôi thất kinh, hỏi:
"Đám thịt viên này là cái gì?"
Minh sứ nói:
"Ngài không cần hỏi trước, ngài nhìn kĩ xem thịt viên là cái gì?"
Tôi đưa mắt nhìn kĩ hơn, trời ạ! Thịt viên là người, không chân không tay, tuy vẫn có mắt, tai, mũi, lưỡi bé tí tí, từng viên từng viên thịt rung lên giống như là đang tức giận đến cực điểm.
Minh sứ nói với đám thịt viên:
"Ta đã mời Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn đến đây, đặc biệt sờ đầu gia trì cho các người, để các người có thể trở về dương gian!"
Đám thịt viên nhảy tưng tưng hoan hô.
Tôi hỏi minh sứ:
"Vì sao lại thối như vậy?"
Minh sứ đáp:
"Đây là do tâm thù hận mà sinh ra, trên đời này tâm thù hận là thối tha bẩn thỉu nhất, thối nhất thối lắm."
Tôi hỏi:
"Vì sao muốn tôi sờ đầu?"
Minh sứ đáp:
"Giúp cho thịt viên được hoàn dương."
Tôi đưa tay ra sờ đầu, từng viên từng viên thịt lăn đến, bàn tay tôi vừa chạm vào thì thịt viên cũng biến mất luôn. Một tiếng "viu", thế là được hoàn dương rồi. Thịt viên đến nhanh, đi lại càng nhanh.
"Viu!"
"Viu!"
"Viu!"
Chuỗi âm thanh bất tuyệt!
Tôi tò mò hỏi Minh sứ:
"Đám thịt viên này sau khi trở về dương gian thì sẽ làm gì?"
Minh sứ đáp:
"Báo thù!"
"Sao lại báo thù?"
Minh sứ nói:
"Thịt viên hoàn dương, sẽ đến nhà mà nó thù hận, sẽ đi vào trong nhục thể của kẻ thù, thế rồi trở thành các khối ung thư."
"Ung thư!" - Tôi sợ đến giật mình.
"Đúng vậy."
Tôi nói:
"Vậy chẳng phải là tôi đã trở thành kẻ hành hình sao?"
Minh sứ nói:
"Đây không phải lỗi của ngài, ngài chỉ giúp cho họ sớm được thoát khỏi đây và làm giảm đi mối thù hận giữa bọn họ mà thôi, ngài chỉ là Chuyển Luân Thánh Vương, ngài khiến cho ái hận bình đẳng."
Tôi chẳng còn lời gì đáp lại.
Tôi chỉ muốn nói thêm rằng:
"Thù hận là cái gốc rễ của lục đạo luân hồi, thế nhân nên sớm tỉnh ngộ lại đi!"
34. Bí mật về người trong giếng
Ở Âm tào địa phủ, tôi cũng trông thấy từng cái từng cái giếng khô hình bát giác, không phải giếng hình tròn. Nhìn xuống đáy giếng, độ sâu của nó là không thể đo được. Tôi dùng Phật nhãn để nhìn thì thấy đáy giếng không có nước, mà có một đạo nhân ngồi trong đó. Miệng người này cứ lẩm nhẩm niệm mãi hai chữ: "Khai ngộ!".
Một người khác cũng ngồi dưới đáy giếng, miệng niệm mãi hai chữ: "Đắc đạo!". Lại một người khác ngồi dưới đáy giếng, là một đại sư, cứ ngồi niệm: "Thiên hạ đệ nhất!"
Một người khác ngồi dưới đáy giếng, là một thượng nhân, cứ ngồi niệm: "Cứu giúp chúng sinh!"
Một người khác ngồi dưới đáy giếng, là Phật sống, cứ ngồi niệm: "Chứng ngộ vô sinh!"
Lại một người khác ngồi dưới đáy giếng, là Thượng sư, cứ ngồi niệm: "Sư phụ vô thượng!"
Tôi thấy trong đó có một người mà tôi quen, là một đại thiền sư, ông cũng ngồi trong một cái giếng hình bát giác, nhìn hướng về chân trời, nhưng chân trời đương nhiên chỉ to bằng cái miệng giếng, còn miệng ông thì lẩm nhẩm: "Đã hiểu sinh tử!"
Tôi nhìn mà kinh ngạc. Những con người ngồi trong giếng này năm đó đều là những người tu hành lớn danh tiếng chói ngời, tên tuổi lớn, đệ tử đông. Khi còn tại thế đều là đại hòa thượng, đại thượng nhân, đại Hoạt Phật, đại Thượng sư, đại thiền sư với quyền lực điên đảo một thời, là những đại thành tựu giả, đại pháp vương được thế nhân tôn kính.
Còn bây giờ, tất cả đều ngồi dưới đáy giếng hình bát giác.
Tôi hỏi:
"Vì sao lại như vậy?"
Minh sứ đáp:
"Lừa gạt người đời trộm lấy hư danh."
"Còn chưa đắc đạo đã nói đắc rồi."
"Còn chưa chứng ngộ đã nói chứng rồi."
"Kiêu căng ngạo mạn."
"Người mù dắt người mù."
Tôi nhớ có một sự việc thế này.
Trước đây ở Đài Loan có một nhóm đệ tử của tôi đã mời một đại thiền sư đến Trung Sơn Đường để nói chuyện về pháp thiền. Vị đạo sư này ở nước ngoài, được mời về Đài Loan để thuyết pháp. Vị đại thiền sư này vẫn chưa biết ai là người đưa ra lời mời này, hễ có người mời là ông sẵn sàng lên pháp tọa thuyết pháp.
Không ngờ rằng…
Ông lên pháp tọa, chẳng nói chuyện thiền. Mà ông lại nói chuyện về Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Phê phán tới, phê phán lui.
Người ngồi dưới pháp tọa nghe bài giảng không ngờ phần lớn là đệ tử của tôi, đệ tử ngồi đó cứ nhấp nhổm không biết nên ngồi tiếp hay đứng dậy. Người mời thiền sư đến thì cực kì bối rối.
Đệ tử Chân Phật mời đại thiền sư đến để nói chuyện về pháp thiền, pháp thiền thì chẳng thấy nói, lại thấy chửi Căn bản Thượng sư của họ, đây chẳng phải là đảo lộn hết cả hay sao?
Sau đó:
Đại thiền sư viên tịch.
Chưa thành tựu quả vị, cũng chưa đến được Phật quốc, cũng chẳng đến được cõi trời, ngược lại lại đọa xuống giếng bát giác khô ở Âm tào địa phủ. Tôi trông thấy ông thì chỉ biết lắc đầu.
Ông ta không biết rằng, "nhân ngoại hữu nhân, sơn ngoại hữu sơn, thiên ngoại hữu thiên". [ ND: những câu tục ngữ này đều có chung một ý là người tài ắt có người tài hơn ]. Cho rằng bản thân đã cực kì tuyệt đỉnh rồi, kì thực là chẳng hơn được ai. Lúc trụ thế còn chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào là khai ngộ, thế nhưng khi nói ra thì lại cố tình làm lẫn lộn điểm chính, chưa chứng ngộ đã nói là chứng ngộ rồi, chưa đắc đạo đã nói là đắc đạo rồi, chẳng phải là sỉ nhục chết người không cơ chứ.
Những thể loại đại tu hành giả này đều ngồi đáy giếng bát giác khô, chỉ có thể nhìn được một mảnh trời trên miệng giếng, miệng thì lầm rầm. Bị đói mà chết, chết rồi lại sống, sống rồi lại chết. Dưới giếng nhìn trời, thương thay thương thay!
Tôi nói:
"Buôn bán Như Lai, buôn bán Phật pháp, buôn bán tăng bảo đều thuộc về loại người này, kiêu căng ngạo mạn, đều xuống địa ngục hết!"
35. Bí mật về việc chém đầu
Tôi từng đến thăm thành Tsuruga của Nhật Bản [ ND: lâu đài Hạc Trắng Tsurugajo ], nghe hướng dẫn viên du lịch nói về tinh thần võ sĩ đạo của Nhật Bản.
Võ sĩ đạo Nhật Bản nếu phạm tội thì sẽ dùng cách tự xử mình, phần lớn sẽ dùng con dao nhỏ giắt ở đai lưng lưng mình mà mổ bụng tự sát.
Quỳ xuống.
Hai tay cầm dao.
Rạch từ phải qua trái.
Ruột đứt máu tuôn.
Hơn nữa phía sau lưng còn có một võ sĩ khác cầm một cây đao võ sĩ dài, chém xuống một nhát là đầu rơi ra, đầu và thân mỗi thứ một nơi. Người võ sĩ đứng ở sau lưng này tin rằng làm như vậy sẽ giúp cho người tự sát không phải chịu đau đớn quá lớn (đau đớn trước khi chết). Một nhát dao chém xuống là nhanh chóng kết thúc rồi.
(Các võ sĩ tự kết liễu đời mình đều là như vậy.)
Người còn thành còn.
Thành mất người mất.
Tôi ở Âm tào địa phủ cũng thấy địa ngục chém đầu, nhưng việc chém đầu ở đây rất khác các võ sĩ đạo Nhật Bản. Nói chung, võ sĩ Nhật Bản khi chém đầu là đầu và thân lìa khỏi nhau, thế là chết luôn, là xong luôn, không đau đớn gì nữa. Nhưng việc chém đầu ở địa phủ thì khác.
Người phạm tội sẽ được đao phủ trói chặt trên sàn hành hình, toàn thân run bần bật vì sợ hãi. Lưỡi dao lóe lên, một nhát chém xuống là đau đến chết luôn. Tiếp đó cổ của phạm nhân lại mọc ra một cái đầu khác.
Lại chém một nhát. Rú lên một tiếng!
Rồi lại mọc ra một cái đầu nữa.
Lại chém một nhát.
Lại mọc ra một cái đầu nữa.
Cứ như vậy mà chém mãi không dừng.
Âm thanh gào rú vì đau đớn hết lần này đến lần khác không ngừng dội vào tai. Tôi nhìn mà kinh hãi!
Những người nhận hình phạt này đương nhiên là càng đau khổ hơn, bởi vì không chỉ là chém đầu một lần mà là vô số lần. Biết rằng bản thân mình phải chịu chém đầu nghìn lần, vạn lần, tỉ lần... làm sao mà không sợ muốn chết!
Chết rồi vẫn còn tốt, nhưng chỉ e là chết cũng chẳng chết được, chỉ có chém, chém, chém, chém, chém, chém…
Khổ lắm!
Tôi hỏi minh sứ:
"Việc chặt đầu này là vì sao?"
Minh sứ nói:
"Có một loại người thích thề độc, thường xuyên đến trước các chùa miếu chặt đầu gà để lập lời thề, đưa ra lời nguyền, nói rằng nếu bản thân họ đã làm cái việc đó thì sẽ bị giống như con gà kia, lập tức chặt đầu. Nói như vậy họ sẽ có được lòng tin của người ta, nhưng sự thật là họ có làm cái việc đó. Trước chùa thề độc.
Chỉ trời thề độc.
Chỉ sao thề độc.
Trước thần thề độc.
Trước Phật thề độc.
Tuy những lời thề độc này xem ra có vẻ không làm sao cả, nhưng kì thực đã có chú thần ghi nhận lại. Nếu sự việc là thật, thì tự nhiên sẽ vô sự. Nếu sự việc là giả thì nghiệp tội rất lớn, sẽ đều phải vào địa ngục chém đầu.
Nhìn chung, một câu nói, một hành động, một thời điểm đều có quỷ thần ở bên cạnh.
Người lương thiện sẽ không dám lừa bịp, mọi việc ác sẽ không làm, chỉ chuyên làm việc thiện.
Còn người ác thì vì tư lợi, tâm không thành thật, mua danh chuộc tiếng, vì muốn có được hư danh mà tùy tiện phát lời thề độc. Chú thần sẽ lập tức ghi lại, những người này chắc chắn sẽ gặp tai họa, sau khi chết sẽ xuống địa ngục chém đầu!
Tôi khuyên thế nhân:
Đừng cuồng vọng điên đảo mà tùy tiện phát lời thề độc, đừng chỉ trời chỉ đất mà thề thốt.
Đừng thề thốt, nếu không sẽ bị Lôi Công [ ND: thần sét ] đánh chết.
Đừng thề sẽ bị xe đâm chết.
Đừng tự nguyền rủa mình và nguyền rủa người khác, đừng đưa ra lời thề sẽ xuống địa ngục.
Những lời thề kiểu này đều không có ý nghĩa gì cả.
36. Bí mật về bạch quang đạo
Chúng ta biết rằng thiên thượng giới là cõi cực lạc, cõi nhân gian thì nửa buồn nửa vui, tam ác đạo thì cực khổ. Thiên nhân ở thiên thượng giới, phúc báo dài rất dài, nhưng khi phúc báo đã hưởng hết thì cũng có khả năng đọa vào đạo địa ngục.
Đây là năm biểu hiện sút kém của thiên nhân:
- Thiên y nhiễm bụi.
- Thân đổ mồ hôi.
- Hoa trời khô héo.
- Thiên tâm bồn chồn hoảng hốt.
- Không còn vui khi thực hành pháp.
Năm hiện tượng sút kém này sẽ khiến thiên nhân đọa vào chốn nhân gian hoặc đạo địa ngục, nguy cơ trực tiếp đến thế giới cực ác cực khổ của tam ác đạo cũng tương đối nhiều. Do vậy, thiên thượng giới vẫn chưa phải là cứu cánh. [ ND: đích đến cuối cùng ]
Mặt khác, thiên nhân có thể bị xuống tam ác đạo, vậy thì có chuyện ngược lại là chúng sinh ở tam ác đạo có thể trực tiếp lên cõi trời không?
Đáp án là: "Có."
Tôi ở Âm tào địa phủ trông thấy bạch quang đạo - đường ánh sáng trắng, chiếu thẳng lên thiên giới. Bạch quang đạo này nằm ở phía sau Tịnh thổ Thúy Vi.
Nếu có chúng sinh ở tam ác đạo, dù nghiệp chướng vẫn còn nặng, nhưng khi nhận những khổ đau tột cùng đã phát tâm sám hối thực sự. Tâm sám hối thực sự này rất kiên cố thì ánh sáng tự tính hiển hiện. Lại cộng thêm có chư Phật Bồ Tát thánh nhân hiền sĩ hạ giáng xuống nơi ác thú để độ hóa chúng sinh.
Có tâm sám hối rồi. Lại cộng thêm những lời giảng pháp của Phật Bồ Tát thánh nhân hiền sĩ, tự tính quang minh sẽ tương hợp với đạo cõi trời. Thế là những chúng sinh này sẽ theo bạch quang đạo trực tiếp lên thiên đình.
Tuy nhiên, phần lớn chúng sinh ở cõi u minh sẽ không nghĩ như vậy, cũng chẳng biết pháp sám hối là thế nào, do đó chẳng biết thế nào là ánh sáng của tự tính. Bởi vậy, cơ bản là rất ít người đi trên bạch quang đạo. Ngược lại, người đọa xuống địa ngục thì càng ngày càng nhiều, thực tế này thật khiến người ta phải cảm thán!
Tôi thấy nhân gian cõi Ta Bà thực sự là đáng thương ghê gớm! Người cố chấp bảo thủ tương đối nhiều.
Không giữ giới luật.
Vọng tưởng điên đảo.
Cố chấp với cái ác.
Bới móc chuyện riêng tư của người khác.
Phê bình phỉ báng.
Hoàn toàn bất chấp luân thường lương tri.
Tạo vô số nghiệp ác.
Con người của cõi nhân gian, bản tính khó sửa đổi, không tự kiểm điểm mình ba lần mỗi ngày, mọi cử chỉ động niệm đều tạo ra nghiệp. Thực sự là khó điều chỉnh thay đổi. Do vậy chúng sinh cực khổ của cõi địa ngục cũng giống nhưng cõi nhân gian thôi, muốn chúng sinh của địa ngục sám hối ư, nói thì dễ làm thì khó. Kể cả Phật Bồ Tát, ví dụ Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, một vị thường ở trong địa ngục, một vị thường đi đến địa ngục thuyết pháp khuyên răn, nhưng bạch quang đạo kia vẫn rất hiếm người đi.
Bồ Tát có thừa: bi tâm, trí huệ, vô nhiễm, cứu độ. Nhưng cũng khó cứu được những chúng sinh khổ não ngoan cố ở dưới địa ngục, ngay cả phương tiện đại thiện xảo cũng không cứu được bọn họ.
Tôi nhìn bạch quang đạo, bạch quang đạo rất ít người đi. Ngược lại, hắc quang đạo dẫn xuống địa ngục thì đầy ứ nghẽn đặc là người.
Tham dục.
Vô minh.
Ngã kiến.
Chính là ba đại ác nghiệp này khiến nhân gian và tam ác thú mãi chìm trong hố đen tăm tối. [ ND: tam ác thú chính là tam ác đạo, ba đường ác ]
37. Bí mật về hình phạt đánh roi
Chúng ta xem ti vi hoặc xem phim thấy cảnh diễn về quan phủ thời xưa (nha môn) thường thấy:
Quan viên ngồi ở giữa.
Nha dịch đứng hai bên, mỗi người cầm một cây gậy gỗ to.
Phạm nhân quỳ phía dưới.
Quan viên giận dữ quát:
"Lôi ra ngoài, đánh một trăm trượng."
Thế là phạm nhân bị cởi quần ngay tại sân đình, hai nha dịch chấp hành một trái một phải đứng nện bình bịch tới tấp, đánh cho phạm nhân kêu la ầm ĩ, đánh tới toét da hở thịt, đau tới mức kêu oai oái. Đây chính là hình phạt đánh roi.
Nghe nói chính phủ Singapore vẫn áp dụng chế độ đánh roi này đối với phạm nhân, thực sự là xưa nay cũ mới vẫn vậy.
Tôi ở Âm tào địa phủ cũng trông thấy cảnh đánh roi.
Diêm Vương ngồi ở giữa.
Minh sứ đứng hai bên.
Diêm Vương quát lệnh:
"Lôi ra ngoài đánh!"
Minh sứ chấp hành lệnh, dùng roi sắt đánh ngay tại chỗ, đánh cho phạm nhân tới mức bảy phần choáng tám phần say. [ ND: tinh thần hoảng loạn ]
Tôi hỏi:
"Người bị đánh là ai?"
Có người nói với tôi:
"Người bị đánh là đệ tử của ngài đó!"
Tôi kinh ngạc:
"Đệ tử của tôi sao lại bị đánh?"
Người kia nói:
"Đệ tử này vẫn còn ở dương gian, bởi vì anh ta đã chỉ trích thầy của mình ở sau lưng, cũng nhục mạ thầy mình, do vậy phải chịu phạt đánh roi ở âm gian." "Có chuyện như vậy à?"
"Có."
Sau đó, đệ tử này quả nhiên đến tìm tôi, nói:
"Có một buổi tối, mơ thấy đi vào địa ngục, đột nhiên bị Diêm Vương ra lệnh cho Minh sứ dùng gậy sắt đánh cho 50 gậy. Buổi sáng tỉnh dậy thấy da bị bầm xanh bầm đỏ, đau đớn dị thường, bôi cao cũng không hết, xin Lư Sư Tôn gia trì."
Tôi vẫn gia trì cho anh ta. Tôi nói:
"Sau này khi nói lời gì hãy nghĩ ba lần!"
Anh ta gật gật đầu.
Tôi nhớ có hai câu chuyện xưa thế này.
Chuyện thứ nhất:
Triều đại nhà Minh, phủ Nam Xương sửa sang lại miếu Khổng Tử, rất nhiều người muốn dịch chuyển tượng thánh của Khổng Tử nhưng không thể dịch chuyển được. Có một quan viên đứng bên cạnh nhìn liền nói đùa:
"Chả trách mà không nhấc được Khổng Tử, bởi vì Khổng Tử còn có tên gọi là Trọng Ni mà, ha ha ha! Nếu Khổng Tử tên gọi là Thanh Ni thì các người mới có thể nâng được!"
[ ND: Trọng Ni 仲尼, âm tiếng Hán là Zhòng Ní - đồng âm với từ 重泥 nghĩa là đất nặng (nên không bê được). Còn Thanh nghĩa là nhẹ, Thanh Ni là đất nhẹ. (ở đây có sự chơi chữ) ]
Vị quan viên này đêm đó lập tức bị xuống địa phủ, bị đánh roi, khi tỉnh lại, đầu đau như muốn vỡ tung ra, không thể tiếp tục làm quan viên được nữa.
Chuyện thứ hai:
Có một vị quốc sư giảng kinh thuyết pháp cho các quan viên, trong đó có một người vốn dĩ không tin Phật pháp.
Quan viên nói:
"Toàn là một đống phân to, không hiểu thực tế, Phật pháp là cái thá gì, chẳng qua chỉ là tăng nhân kiếm cái ăn mà thôi. Tôi chẳng hề tin việc tu hành, tu hành thì có tác dụng quái gì, chết rồi thì cái gì cũng hết, cực lạc thế giới cái gì, địa ngục cái gì, đều là lừa bịp hết."
Đêm đó, quan viên này xuống địa ngục, cũng bị đánh roi như vậy, bị đánh tới mức hai chân tàn phế luôn.
Quan viên tỉnh dậy, hai chân không thể nào cử động được, tìm thầy thuốc khắp nơi, thầy thuốc đều không biết phải chữa thế nào, chữa cũng không chữa khỏi được. Cuối cùng chỉ có cách từ quan, lui về tu dưỡng!
Tôi nói:
"Bằng mọi giá không bao giờ được phỉ báng thánh hiền đó!"
38. Bí mật về hố bẫy
Tôi đến một vùng núi, nơi đây toàn là rừng rậm. Cai ngục đang truy đuổi một can phạm đã chạy trốn vào rừng sâu trong núi. Rừng rậm của núi này bên ngoài thì không có gì, chỉ là rừng cây lá rụng phủ ken dày cả ngọn núi mà thôi. Nhưng điều người ta không ngờ tới là can phạm này chạy vào trong rừng rậm thì lúc này sự việc bi thảm mới xảy ra đây.
Hóa ra bên dưới lớp lá rụng đầy rẫy những hố bẫy. Can phạm này dù có cẩn thận bước đi thì chỉ cần dưới chân lún xuống một cái là rơi ngay xuống hố bẫy.
Bên trong hố bẫy có đầy dao gươm, mũi dao đều chĩa thẳng lên trên.
Bên trong hố bẫy có tre nhọn, mũi tre nhọn chĩa thẳng lên trên.
Bên trong hố bẫy có nước độc, chỉ cần chạm vào là da sẽ bị hủy hoại.
Bên trong hố bẫy có dung nham, xương cốt đều đốt tan chảy hết.
Bên trong hố bẫy có rắn độc, cắn người cho đến chết.
Bên trong hố bẫy có mãnh thú, cắn xé vô số người.
…….
Tôi chỉ thấy can phạm chạy vào rừng rậm, hết người này tới người khác đều rơi xuống hố bẫy, âm thanh kêu la thảm thiết khắp nơi.
Có người máu chảy không dừng, cạn máu mà chết.
Có người da nát thịt nhũn, chỉ còn lại bộ xương khô.
Có người toàn thân cháy xém, xương cốt cũng chẳng còn.
Có người không ngừng gào thét, vì bị cắn xé.
Trong lòng tôi không thể chịu đựng được. Tôi muốn cứu một can phạm, từ trong tâm hóa hiện ra một đóa hoa sen trắng, hoa sen trắng sẽ nâng đỡ can phạm này, không bị rơi vào trong hố bẫy nữa.
Cai ngục nói với tôi:
"Dừng! Dừng! Dừng! Đây là sự hóa hiện của nhân quả, không thể cứu độ can phạm này được."
Tôi hỏi:
"Những người này phạm tội gì?"
Cai ngục đáp:
"Bọn họ kiếp trước đều là những kẻ đi săn, sát sinh vô số. Cũng có người là ngư dân, có người là dân câu cá, có người thì chuyên làm lồng chim, có người chuyên môn rèn dao săn, làm súng săn, có người chuyên môn làm các dụng cụ săn bắt, vì thế mà có quả báo này!"
Cai ngục nói:
Những người gặp hoạn này, biểu hiện bên ngoài là họ làm việc để mưu sinh, nhưng trên thực tế là họ lại làm việc "mưu tử".
Xạ phi trục tẩu
Phát trập kinh thê
Điền huyệt phúc sào
Thương thai phá noãn.
Nghĩa là:
Bắn chim đuổi thú
Phá tổ rung cây
Lấp hang lật tổ
Hại trứng phá thai.
Đây đều là những kẻ không chút nhân từ, người tu hành đương nhiên không thể làm, người thế tục bình thường làm vậy thì cũng không có gì tốt đẹp. Đối với kiến côn trùng, chúng ta cũng không thể tùy tiện làm hại. Hễ là chúng sinh có huyết khí thì đều giống như loài người chúng ta, chúng đau ta cũng đau, chúng thảm ta cũng thảm, đây là tấm lòng trắc ẩn. Trong năm giới thì sát sinh là tội nặng nhất.
Tôi còn nhớ:
Triều đại nhà Tống, Tô Thức đã tự làm nhà ở cho mình ở huyện Đông Pha, do vậy người đời gọi ông là Tô Đông Pha. Nơi ông ở người ta thích trồng trúc, bách và hoa cỏ, chim đến làm tổ trên cây rất nhiều. Tô Đông Pha cấm trẻ con và người hầu không được bắt chim, cũng không được phá hoại tổ của chúng. Thế là chim làm tổ càng ngày càng thấp, con người chỉ cần bước tới là liền trông thấy trứng trong tổ chim. Đây chính là tấm lòng nhân từ của cư sĩ Tô Đông Pha.
Còn nữa:
Có một vị sa di được một hòa thượng có thần thông đoán rằng bảy ngày nữa sẽ chết. Sa di liền trở về nhà tạm biệt mẹ, nhưng bảy ngày trôi qua mà vẫn chưa chết, vẫn tiếp tục sống. Hòa thượng có thần thông thấy rất kì lạ, hỏi tiểu sa di xem có chuyện gì.
Tiểu sa di nói:
"Trên đường về nhà, gặp cơn mưa lớn, tổ kiến bị nhấn chìm trong nước lớn, trăm nghìn con kiến nổi trên mặt nước, thế là sa di bèn dùng phiến trúc để cho kiến bám vào, đám kiến đều được cứu."
Hòa thượng có thần thông cảm thán:
"Nhờ âm đức này, mà không phải chết!"
Tôi nói:
"Muốn độ sinh, đừng sát sinh!"
39. Bí mật về Đại thượng sư
Ở Âm tào địa phủ, tôi nhìn thấy một nhà nhỏ trong rừng trúc, có một người tu hành sống ở đó. Tôi thấy kì lạ, bởi vì địa ngục u minh là chốn cực khổ, sao lại có được hoàn cảnh nho nhã này? Đây chẳng phải là quá kì lạ sao.
Tôi đi qua một cây cầu nhỏ bắc ngang qua dòng nước, từ cửa sổ nhìn vào trong, tôi thấy một tấm lưng rất quen thuộc. Đây…? Đây là…?
Người tu hành này quay đầu lại, trời ạ! Quả nhiên là một trong những vị Thượng sư kết duyên của tôi. Nhìn thấy Thượng sư của mình ở trong u minh địa phủ, tôi kinh ngạc không kể xiết, vì sao lại thành như vậy? Tôi đảnh lễ Thượng sư.
Đại thượng sư vừa nhìn thấy tôi cũng rất kinh ngạc, sao mà Lư Thắng Ngạn cũng lại đến Âm tào địa phủ nhỉ?
Khi tôi hướng về Thượng sư đảnh lễ, có một sức mạnh vô hình đã chặn tôi lại không cho quỳ xuống, chỉ nhẹ nhẹ nâng tay lên, đỡ lấy thân tôi dừng lại. Vị Thượng sư này là người thầy kết duyên, trên phương diện lễ nghĩa thì nhất định cần đảnh lễ, nhưng tôi đã quên mất thân phận của bản thân. Tôi bây giờ có thân phận là Mật Mật Mật Như Lai, đây là thân phận đối đãi bình đẳng, chỉ có chắp tay lại thôi.
Tôi hỏi Thượng sư:
"Sao thầy lại ở đây?"
Thượng sư nói:
"Ta đã làm một việc vô ích lợi."
"Chuyện gì?"
"Ta nói rằng kinh Cao Vương Quan Thế Âm là kinh giả."
"Á! Trời ạ!"
Thượng sư nói:
"Từ đầu đến cuối ta nghĩ rằng chỉ có những kinh điển nào do chính miệng Đức Phật tuyên thuyết thì mới được gọi là Kinh Phật, còn không phải do chính miệng Đức Phật tuyên thuyết thì tự nhiên sẽ là kinh giả, ta đã khuyên đệ tử đừng niệm."
Thượng sư nói:
"Khi đó, ngài đang ủng hộ việc đọc Cao Vương Kinh, đọc Chân Phật Kinh, ta đã cực lực chửi bới ngài."
Tôi nói:
"Thực lòng xin lỗi."
Thượng sư nói:
"Ngài cũng không cần phải tự trách mình, bây giờ tôi đã biết, Cao Vương Kinh mặc dù không phải là từ miệng Phật tuyên thuyết nhưng cũng là của bậc Như Lai từ trong hư không đi vào trong giấc mơ của con người mà tuyên thuyết. Chân Phật Kinh cũng không phải từ miệng Phật tuyên thuyết nhưng cũng là Như Lai trong tâm ngài tuyên thuyết. Do vậy tôi đã phạm phải tội vô lợi ích."
Tôi hỏi:
"Trong địa ngục lại có nhà nhỏ thanh nhã thế này?"
Thượng sư nói:
"Do công đức của tôi hóa thành."
Tôi hỏi:
"Thầy ở trong địa ngục này làm gì?"
Thượng sư nói:
"Sao chép Cao Vương Kinh và Chân Phật Kinh."
Tôi hỏi:
"Cần chép bao lâu?"
Thượng sư nói:
"Cần chép 36 vạn tỷ, 11 vạn, 9 nghìn, 5 trăm biến."
"Đây chỉ là con số thiên văn thôi!"
Thượng sư nói:
"Đúng vậy, chỉ cần nói một lời vô lợi ích thì đều phạm tội này."
Tôi nói:
"Đại Chu Hồng hòa thượng cũng chửi Cao Vương Kinh đúng không?"
Thượng sư nói:
"Đúng vậy, ông ta cũng đang phải chép kinh đó!"
Tôi nghe xong mà giật mình! Hóa ra một lời nói sai liền bị xuống Âm tào địa phủ, người tu hành hãy thận trọng, thận trọng.
Tôi nói:
"Sao không dùng pháp Thiên chuyển luân?"
Thượng sư nói:
"Âm phủ không thể chuyển được. Nơi đây nghiệp nặng, bất kì đại la thần tiên nào cũng đều không chuyển được."
Tôi nghe xong mà thở dài. Tôi nói:
"Bản thân không biết thì cũng không thể tùy ý buông lời kết luận được!"
40. Bí mật về tấm bia mục tiêu
Tôi còn nhớ thời thanh niên, tôi đã được huấn luyện tại trung tâm huấn luyện số 5 ở núi Đông Qua thuộc Đài Trung. Chúng tôi là những sinh viên mới nhập ngũ của năm trường học. Năm trường học bao gồm các học viện như Viện y học quốc phòng, Học viện trắc lượng, Học viện pháp luật quân đội, Học viện tài vụ.
Sau này thì:
Học viện công binh.
Học viện công trình hải quân.
Học viện trắc lượng.
Đã hợp lại thành Học viện khoa học công nghệ Trung Chính.
Đây là việc rất lâu trước đây rồi.
Ở trung tâm số 5, tôi thường được huấn luyện môn "bắn bia", đó là huấn luyện kết hợp ba thứ: người - súng - bia. Người và súng cần phải "hợp nhất", bắn trúng vào hồng tâm của tấm bia.
Ở phương diện con người thì sẽ bao gồm tư thế và hơi thở, nhắm mục tiêu bằng mắt.
Ở phương diện súng thì phải điều chỉnh được điểm chuẩn, nòng súng, mỗi cây súng đều cần phải điều chỉnh.
Quan trọng là người - súng phải hợp nhất, khi đã phối hợp chặt chẽ với nhau thì khi bắn sẽ đều đúng hồng tâm. Hồng tâm chính là giấy dán trên tấm bia mục tiêu.
Ở Âm tào địa phủ tôi cũng trông thấy trường bắn. Nhưng tấm bia mục tiêu ở đây là con người. Con người bị trói lên tấm bia mục tiêu.
Thế nhưng có một nhóm cai ngục không cầm súng mà cầm phi tiêu để bắn người. Phi tiêu bắn vào đầu, thân, chân tay người, sau đó sẽ để cho máu từ từ chảy xuống.
Máu chảy cho đến khi chết.
Chết xong sống lại.
Rồi lại bị làm tấm bia mục tiêu để bắn.
Rồi lại từ từ chảy máu mà chết.
Cũng có lúc bắn không trúng, nhưng những người làm tấm bia mục tiêu đó không phải bị bắn trúng mà chết, mà là sợ đến mức vỡ gan vỡ mật mà chết. Thực sự như vậy cũng đã đủ thảm rồi!
Tôi lại nhớ xưa kia:
Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, hai cánh tay bị những chiếc đinh to đóng chặt trên thanh gỗ ngang của thập tự giá, hai chân thì bị đóng cùng vào thanh gỗ dọc, đinh xuyên qua chân ghim chặt vào gỗ. Trên đầu đội một chiếc vòng gai.
Pháp hành hình cho máu nhỏ từ từ mà chết này thực sự là quá bi thảm! Khi đó, có binh sĩ thương xót cho cảnh máu nhỏ dần mà chết này thảm quá mức chịu đựng, thời gian cho tới lúc chết rất dài rất lâu, thế là binh sĩ cầm gươm nhọn thọc vào mạng sườn Jesus một nhát, khiến cho Jesus được chết nhanh hơn một chút, thoát khỏi đau khổ của việc chết từ từ. Nghe nói binh sĩ này cuối cùng cũng được cứu độ.
Tôi nói:
Tại nhân gian, trở thành một chính nhân chính là cơ sở của tu hành. Chúng ta cần theo đuổi mười việc đem lại lợi ích lớn cho chúng sinh:
- Giúp đỡ người khác.
- Giữ tâm yêu quý và tôn trọng người khác.
- Giữ đức tính làm người đẹp đẽ.
- Khuyên người khác làm việc thiện.
- Cứu người lúc nguy cấp.
- Xây dựng những lợi ích lớn.
- Góp tiền làm phúc.
- Hộ trì chính pháp.
- Kính trọng bề trên.
- Trân trọng sinh mệnh.
Tôi khuyên con người đừng đi hại người khác, hại động vật, hại sinh mệnh. Đôi khi không phải bạn trực tiếp sát hại sinh mệnh nhưng thân, khẩu, ý của bạn làm hại người khác thì cũng không thể được.
Nếu bạn thường xuyên lưỡi kiếm môi dao làm hại người khác. (khẩu nghiệp)
Nếu bạn thường xuyên đánh người khác bị thương. (thân nghiệp)
Nếu bạn dùng văn chương, tranh vẽ gây hại cho người khác. (ý nghiệp)
Thì quả báo sau này sẽ là đọa vào địa ngục làm tấm bia mục tiêu.
Hỡi những kẻ thường làm hại người khác, hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!
41. Bí mật về quỷ vương
Trong "Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh", các vị Diêm La Vương tán thán phẩm đệ thứ tám, các quỷ vương được ghi lại trong đó gồm:
Ác độc quỷ vương. Đa ác quỷ vương. Đại tránh quỷ vương. Bạch hổ quỷ vương. Huyết hổ quỷ vương. Xích hổ quỷ vương. Tán ương quỷ vương. Phi thân quỷ vương. Điện quang quỷ vương. Lang nha quỷ vương. Thiên nhãn quỷ vương. Đạm thú quỷ vương. Phụ thạch quỷ vương. Chủ háo quỷ vương. Chủ họa quỷ vương. Chủ thực quỷ vương. Chủ tài quỷ vương. Chủ sức quỷ vương. Chủ cầm quỷ vương. Chủ thú quỷ vương. Chủ mị quỷ vương. Chủ sản quỷ vương. Chủ mệnh quỷ vương. Chủ tật quỷ vương. Chủ hiểm quỷ vương. Tam mục quỷ vương. Tứ mục quỷ vương. Ngũ mục quỷ vương.
…..
Mỗi quỷ vương này đều đến cùng với trăm nghìn tiểu quỷ vương, ở nhân gian hay địa ngục đều có họ.
Ví dụ Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ở trong ngón tay cái bàn tay phải của ngài có giấu một vị Tiếu diện quỷ vương. Tiếu diện quỷ vương phụng sắc lệnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát sống ở trong người tôi, trợ giúp tôi độ hóa chúng sinh. Vị Tiếu diện quỷ vương này không thể rời khỏi thân tôi.
Tôi nhìn thấy một cảnh tượng ở Âm tào địa phủ:
Có một đám linh hồn đang vừa chạy vừa gào thét bởi vì có rất nhiều rất nhiều quỷ vương lớn nhỏ đang truy đuổi đám linh hồn. Quỷ vương lớn nhỏ biểu hiện ra:
Những con mắt hung dữ.
Những chiếc răng nanh sói.
Những móng vuốt sắc nhọn.
Những chiếc lưỡi dài.
Phi thân bay lên.
Giương súng ngắm bắn.
Bọn họ truy đuổi những linh hồn rơi xuống địa ngục, những linh hồn này không có chỗ nào có thể lẩn trốn, chỉ có chạy tán loạn và gào thét. Trong khi những linh hồn này chạy và gào thét, hễ nhìn thấy cái hang nào liền chui xuống. Hang động.
Hang đất.
Hốc cây.
Hố cây.
Hang đá.
Đám linh hồn bị truy đuổi vào núi, đám linh hồn bị truy đuổi vào rừng sâu, đám linh hồn bị truy đuổi vào ao, hồ, biển, sông, suối.
Tôi kinh ngạc phát hiện ra:
Những linh hồn chui vào trong hang núi và hang đất đều biến thành các loại động vật sinh ra từ trứng.
Những linh hồn chui vào hố cây hốc cây đều biến thành các loài chim lớn nhỏ sinh ra từ trứng.
Những linh hồn chui vào hang đá biến thành những con thú lớn cao to. Những linh hồn chui xuống ao hồ sông suối biển thì biến thành các loài cá tôm cua sinh ra từ trứng…
Những cái hang mà tôi nhìn thấy vốn là hang noãn sinh. Đám linh hồn không biết, lần lượt bị quỷ vương truy đuổi, tìm cách trốn vào trong các hang động, nhưng chỉ trong tích tắc đã bị "sập bẫy", bị mắc kẹt trong noãn trứng, biến thành các loài động vật chim thú sinh ra từ trứng.
(Kì thực các loại chim thú sinh ra từ bào thai cũng là từ các linh hồn trốn trong các hang động tăm tối mà sinh ra.)
Thế còn các quỷ vương và tiểu quỷ vương thì đều có nhiệm vụ to lớn là truy đuổi đám linh hồn.
Tôi khuyên con người:
Sinh nhật đừng nên sát sinh.
Sinh con đừng nên sát sinh.
Cúng tế tổ tiên đừng nên sát sinh.
Đám cưới đừng nên sát sinh.
Đãi tiệc đừng nên sát sinh.
Cúng thần đừng nên sát sinh.
Kiếm sống đừng nên sát sinh.
(Nếu biết pháp siêu độ thì trước tiên nên siêu độ, như vậy có thể tránh được tội.)
42. Bí mật về áo sắt
Tôi trông thấy có một đám người cùng leo núi. Leo núi là một hoạt động rất tốt, có thể rèn luyện thể trạng, tăng trưởng thể lực, khỏe mạnh sống lâu, hít thở không khí trong lành.
Nhưng việc leo núi ở âm gian thì không giống như ở dương gian.
- Người leo núi đều mặc áo sắt.
- Leo núi bằng cả tứ chi.
- Áo sắt được làm từ gang đúc vừa dày vừa nặng.
- Giống như phải vác thêm một gánh nặng lớn.
- Thở phì phì như trâu.
- Tay chân run rẩy.
- Leo cho đến khi kiệt sức mà chết.
- Bụng đói thì ăn phân.
- Miệng khát thì uống nước tiểu.
- Cuối cùng là chết.
Chết xong sống lại, sống rồi lại chết, cứ tuần hoàn như vậy không dừng.
Đây chính xác là hoạt động leo núi ở âm gian, cũng không phải là huấn luyện ma quỷ trong quân đội, mà là dựa theo nghiệp chướng của chúng sinh cõi u minh, dựa theo nghiệp lực lớn hay nhỏ mà chế tạo ra những bộ áo sắt. Vác nặng. Leo núi. Chết.
Tôi đọc một bài kệ cực kì hay, ghi lại như sau:
Tích được nhiều việc thiện
Hơn là tích nhiều tiền
Tích thiện thành người tốt
Tích tiền thành họa tai.
Thạch Sùng xưa giàu có (*)
Mua lấy họa giết thân
Đặng Thông vẫn chết đói (*)
Ích chi cả núi đồng.
Buồn thay những người giàu
Chẳng biết mở to mắt
Miệng luôn nói tích tiền
Cười kẻ ngốc tích thiện
Bao nhiêu kẻ có tiền
Họa đến rồi kêu ai.
Con người ngày nay, người tích thiện thì ít, người tích tiền thì nhiều. Quan chức thì tham ô, người làm kinh doanh thì đẩy giá cao, cán bộ thì chèn ép bóc lột dân thường, thương lái và người buôn bán thì ăn cướp trắng trợn, bày ra món hời lớn để dụ bạn bè đánh bạc, v.v…
Cũng có loại thương nhân, ép mua ép bán, tranh giành chiếm đoạt, cướp của làm giàu, thủ đoạn xảo trá.
Cũng có loại thương nhân, tung hô nhà đất, đẩy giá bất động sản, hời được không ít tiền.
Cũng có loại chính khách có được chức quan, lại càng muốn leo cao nữa, âm mưu đoạt chức cao hơn, tham ô làm tiền, giả mạo việc công, ăn trộm bớt xén công trình, đu bám mong đạt được danh lợi.
Cũng có loại lái buôn chiếm đoạt sức lao động, trả giá lao công thấp, làm việc ngoài giờ, sản xuất hàng giả để thu được nhiều tiền.
Những người này sau khi chết thì con cháu cũng đều hư hỏng bất tài.
Chúng ta cần biết rằng phú quý tại thiên [ ND: việc giàu có là nhờ phúc trời cho ], chỉ nên cố gắng hết sức, năng làm việc thiện, tu nhiều âm đức, tự tránh được họa.
Xảo trá.
Chiếm đoạt.
Cưỡng ép.
Tích tiền.
Ích gì?
Tôi thấy rất nhiều người giàu có đều phải mặc áo sắt. Tiền càng nhiều thì áo sắt càng to nặng, đè những kẻ giàu có này không sao thở được, mà những kẻ giàu này vẫn cứ phải leo núi. Từng người từng người nôn ra máu mà chết.
Còn con cháu chắt đời sau của họ vẫn còn đang tranh chấp tài sản đó! Kì thực từ lâu mà biết giúp người nghèo khổ một chút, có phải đã tránh được nghiệp tội này không?
Càng là người giàu có. Càng làm ít việc thiện.
Tỉ lệ này thật không nên.
Tôi nói cho mọi người biết:
"Càng giàu có càng cần bố thí nhiều. Trúng được tài sản lớn càng cần bố thí nhiều. Giàu có ít thì bố thí ít."
Bố thí, bố thí, bố thí……..
Tôi nói:
"Nếu không sẽ đến lúc phải mặc áo sắt thì thảm rồi đó!"
[ND: Thạch Sùng, Đặng Thông: đều là những quan chức giàu có số một số hai thời đại Trung Quốc phong kiến.]
43. Bí mật về lột da
Khi xưa đọc sách, tôi đã biết được một hình phạt rất đặc thù, đó chính là lột da của người còn đang sống.
Trình tự của việc này là:
Đem chôn tội phạm xuống đất đến nửa thân người. (Không thể chôn ngập tới tim vì nếu chôn tới tim thì người cũng chết rồi.)
Đầu tiên là cắt lớp da đầu. (Da người rất mỏng, dính vào xương thịt, việc cắt da đầu trước là kĩ thuật chuyên môn.)
Dùng thủy ngân đổ vào giữa da và thịt, giữa da và xương. (Thủy ngân có trọng lượng, tự động sẽ phân tách da và thịt, da và xương, đi thẳng xuống dưới.)
Tự nhiên tội phạm sẽ cảm thấy ngứa ngáy vô cùng, sẽ vùng vẫy, càng vùng vẫy thì da càng tự động bị tuột ra. Tội phạm từ từ vùng vẫy trồi lên trên, thủy ngân sẽ phân tách da và thịt ra.
Một tiếng "bịch".
Một "người máu" máu me ướt đẫm từ dưới đất vùng vẫy ngoi lên, rồi nhảy liên tiếp. Không được lâu. "Người máu" vẫn còn sống này không có lớp da bảo vệ thì từ từ sẽ chết. Đây là những ghi chép lại về hình phạt lột da.
Ở Âm tào địa phủ cũng có địa ngục lột da.
Cai ngục lôi một người đến. Tôi vừa nhìn thì thất kinh. Hóa ra là một người đàn bà bán rau ở chợ mà tôi có biết.
Người đàn bà vừa trông thấy tôi thì hét to:
"Lư Sư Tôn cứu tôi!"
Tôi nói với cai ngục:
"Có thể tha cho bà ta không?"
Cai ngục đáp:
"Quả báo thiện ác, như bóng như hình, việc này không tha được."
"Chỉ tha một người thôi!"
"Không công bằng!"
Cai ngục nói:
"Người đàn bà này bán rau ở chợ, cân đong điêu chác, dùng cân giả, đã lừa được vô số người rồi, đương nhiên cũng lừa được vô số tiền. Việc này là đại họa mà bà ta tự chuốc lấy."
"Việc này phạm vào địa ngục lột da sao?"
Cai ngục nói:
"Chính là lột da!"
Tôi trông thấy:
Người đàn bà bán rau bị biến thành lợn.
Cai ngục biến thành đồ tể. Rất nhiều cai ngục đều biến thành đồ tể, đem những con lợn sống này cắt sạch toàn bộ da lợn. (Lúc sống thì "lột da" người khác, sau khi chết cũng bị lột da.)
Tôi lại nhìn thấy một Thượng sư tiến vào, tôi nhảy dựng lên vì kinh ngạc.
Thượng sư kia vừa trông thấy tôi liền cúi đầu không nói.
Cai ngục nói:
"Ông ta cũng cần lột da!"
"Vì sao vậy?"
Cai ngục cười:
"Khi còn sống, ông ta ỷ vào danh nghĩa Thượng sư để kêu gọi đồng môn chuyển tiền xây chùa, chùa xây xong rồi liền chiếm luôn chùa làm tài sản riêng, rời bỏ tông phái mà đi. Ông ta đã "lột da" rất nhiều đồng môn, đương nhiên bị xuống địa ngục lột da."
Tôi hỏi:
"Ông ta cũng biến thành lợn sao?"
Cai ngục đáp:
"Ông ta không biến thành lợn."
"Thế thì…?"
Cai ngục đáp:
"Thượng sư thì biến thành gấu, gấu thì to hơn lợn mà!"
Cai ngục hỏi:
"Ngài có muốn xem ông ta biến thành gấu rồi bị lột da không?"
Tôi nói:
"Tôi không xem."
Tôi thở dài thôi! Đừng cho rằng chỉ có lợi dụng đồng môn, hóa ra việc chiếm đoạt chùa cũng đều bị lột da hết!
44. Bí mật về hành động phỉ nhổ
Tôi nhớ khi Phật Đà còn tại thế, có một người đến nói với Phật Đà rằng có người ở bên ngoài đã mắng chửi ngài.
Phật Đà nói:
"Đó là loại ác nhân phỉ nhổ lên trời, nhổ vào hư không, kết quả là đờm vẫn rơi xuống, lại rơi trúng mặt kẻ ác nhân đó thôi."
Tôi nói:
"Những ví dụ kiểu này nhiều không kể hết, cực kì nhiều ví dụ. Khi Phật Đà tại thế, bởi vì tăng đoàn lớn, người đông, người đông thì miệng lưỡi phức tạp, không chỉ có người ngoài phỉ báng Phật Đà mà ngay cả đến người trong tăng đoàn cũng phỉ báng Phật Đà. Cách mà Phật Đà đã dùng chính là hai chữ "không nhận". Đệ tử của chính mình phạm lỗi, Phật Đà cũng chỉ "không nhận", không mảy may để ý.
Trần Hy Di triều Tống nói:
"Từ xưa đến nay, tiếng tăm vẫn là thứ con người thích nhất, nhưng, tiếng tăm lại là thứ mà trời đất quỷ thần rất kị. Bởi vậy trên đời này, chẳng có người nào có thể được hưởng thụ danh tiếng hoàn hảo. Ngày nay, nếu danh tiếng của bạn càng ngày càng sáng chói thì người ngoài sẽ càng đố kị với bạn, người xung quanh bạn cũng ghen tị với bạn, bởi vậy cần đặc biệt cẩn thận và thận trọng đó!"
Tôi nhớ có một chuyện cũ thế này:
Vào triều Minh. Có một người tên là Uông Hội Đạo, thiên tính thông minh hơn người, đọc sách chỉ cần xem một lần là nhớ, hơn nữa lập tức có thể đọc thuộc lòng, viết văn chương mượt mà và có lý lẽ.
Uông Hội Đạo có học một thầy giáo. Đến khi học biết hết các thứ của thầy giáo, liền từ bỏ thầy, cho rằng thầy giáo lẩm cẩm rồi, không thể sánh bằng bản thân mình được. Ông đã dùng khẩu khí ngạo mạn mà nhục mạ thầy. Ông ta ỷ mình tài giỏi mà ngạo mạn nên đã không ngớt lời chửi rất nhiều vị thầy giáo.
Một hôm, ông ngồi một mình trong thư phòng, ngáp một cái. Từ trong miệng có một vị Bắc Đẩu bay ra. Vị Bắc Đẩu này nói:
"Uông Hội Đạo, ông vốn dĩ có thể trở thành một ngôi sao khuê trong thiên hạ, thi đỗ được trạng nguyên, nhưng ông lại tức giận mọi thầy giáo, không kính trọng thầy, nói rằng thầy không bằng ông, nên ông trời đã cắt bỏ lộc vị của ông rồi. Bắc Đẩu ta vốn là ở đây để giúp đỡ ông, nhưng giờ ta cũng đi đây!" Nói xong thì cũng biến mất.
Từ sau hôm đó, Uông Hội Đạo đầu óc luôn trống rỗng. Sách ông từng đọc trước đây ông đều quên hết cả. Ngay cả chữ cũng quên luôn. Thế là ông trở thành kẻ mất trí.
(Bất kính với thầy, ngạo mạn chửi người, thì thần may mắn cũng tránh xa!)
Tôi ở Âm tào địa phủ trông thấy một kiểu người, những kiểu người này đã làm thành một "bộ tộc phỉ nhổ".
Mỗi ngày đều phỉ nhổ vào hư không.
Khiến cho toàn thân đều là đờm.
Sau đó tìm một cái hồ sạch để tắm rửa.
Vừa bước xuống nước.
Không ngờ dưới nước có quỷ, kéo chân những kẻ thích phỉ nhổ.
Lần lượt từng người của bộ tộc phỉ nhổ đều bị chết đuối!
Chết đuối xong lại sống.
Lại phỉ nhổ.
Lại chết đuối.
Đây đều là những hậu quả của việc bất kính với thầy giáo!
Tôi nhớ đến:
Khi Phật Đà tại thế, bên ngoài thì bị sáu vị thầy ngoại đạo mắng chửi sỉ nhục, bên trong thì lại bị thiếu nữ Chiến Già, bị phu nhân Tôn Đà Lợi nói những lời vu khống nhơ bẩn, ngoài ra còn bị những người thân thiết của mình phản bội. Sau khi Phật Đà viên tịch, lại có một đám đệ tử cao giọng hét:
"Hoàng Diện Lão Tử chết rồi, từ nay chúng ta được tự do rồi."
[ ND: Hoàng Diện Lão Tử là một tên gọi khác của Đức Phật Thích Ca, do ngài sinh ra ở thành Ca Tì La Vệ, tên gọi của thành có nghĩa là chỗ ở vị tiên đầu vàng. ]
Thử nghĩ mà xem, Phật Đà giáo hóa chúng sinh, vậy mà chúng sinh đối xử lại với ngài như vậy, không biết phải nghĩ sao đây?
Kì thực, người làm đệ tử chỉ cần học được từ sư phụ dù chỉ một chữ hay nửa chữ, ví dụ như học được một cách quán tưởng, một câu chú, một thủ ấn, có được một pháp tu, thì sư phụ chính là sư phụ rồi. Cho dù có rời xa thì vẫn phải cung kính, không thể coi thường. Nhưng con người hiện đại thì khác, lòng người đã trở nên bại hoại rồi, hễ rời xa thầy là phỉ báng thầy, nhục mạ thầy, coi như kẻ thù.
Như vậy thì, luật trời ở đâu!
Thế là những loại người thích phỉ nhổ này khiến cho tôi nghĩ đến những thị phi của chốn nhân gian.
Tôi biết:
"Rất khó để hiểu rõ chân tướng."
Tôi biết:
"Đại bộ phận con người đều hay tự suy đoán."
Đặc biệt là khẩu nghiệp của văn nhân, những ỷ ngữ và vọng ngữ cực kì nhiều, cậy vào tài ăn nói và đầu óc văn chương của anh ta mà thể hiện trí tưởng tượng, dùng miệng và bút mà phê bình cười chê khuyết điểm của người khác rồi lấy thế làm vui, việc này sẽ dẫn đến kết quả là tổn hại âm đức. Tôi thường thấy những người văn học tài hoa nhưng luôn luôn cả một đời lao đao bần cùng, đều vì nguyên nhân là khẩu nghiệp quá nặng.
Đại bộ phận những văn nhân kiểu này đều là những kẻ ngờ nghệch, rất thích nghe chuyện thị phi, nghe khuyết điểm, thích loan truyền điểm yếu của người khác ra công chúng, rồi thêm thắt những đoán mò của bản thân, thậm chí là bịa thêm, tô vẽ thêm làm tổn thương đến danh tiết con người, làm như vậy cũng tự tổn hại âm đức.
Con người kiểu này dù có nói vào đầu thì vẫn còn chưa biết đâu! Đặc biệt là những kẻ bám chấp, tự cho rằng mình là kẻ sĩ chính nghĩa, thì chính là đang bị tà lấn át chính đó! Anh ta vẫn còn chưa biết mình đã phạm vào giới vọng ngữ rồi.
Bản thân không nhìn thấy.
Chỉ là nghe nói.
Bạn có thể biết được có bao nhiêu sự sai khác giữa trời đất này không? Trông thấy cũng còn chưa chắc là thật, huống hồ chỉ nghe nói?
Con người ngày nay lại càng hay thêm thắt phỏng đoán của bản thân, vậy thì lại càng quá trớn rồi!
Ví dụ:
Chiến Già mỉa mai phỉ báng Phật Đà.
Tôn Đà Lợi mỉa mai phỉ báng 500 La Hán và Phật Đà.
Hai người đàn bà này xém chút nữa là hủy hoại cả tăng đoàn của Phật Đà.
Các vị thánh triết ngày xưa đã có lời rằng:
"Tĩnh tọa thường tư kỉ chi quá, nhàn đàm mạc luận nhân chi phi."
[ND: Ngồi yên thường ngẫm nghĩ lỗi mình, rảnh rỗi đừng bàn lỗi người ta.]
Người tu hành đương nhiên cần như vậy.
Bình luận thị phi về người khác chỉ có tổn hại âm đức của bản thân. Sao không là người vui với đạo, thiện ngôn thiện hành, ca ngợi người tốt việc tốt, tăng thêm người làm việc thiện, người người đều vui, có thể thay đổi được những phong tục xấu.
45. Bí mật về vị trí của địa ngục
Trước tiên tôi đọc một bài kệ:
Cúi đầu sát đất lòng thanh tịnh
Từ bi chư Phật ẩn khắp nơi
Nam phương thế giới hương vân cuộn
Mây hoa mưa hoa tỏa ngát hương.
Mây mưa trân quý vô số loại
Điềm triệu tốt lành hóa trang nghiêm
Thiên nhân hỏi Phật nguyên nhân ấy
Phật nói Địa Tạng Bồ Tát vừa đến đây
Như Lai tam thế cùng tán thán
Thập phương Bồ Tát lại quy y
Nay tôi nhờ thiện duyên từ trước
Tán dương công đức Địa Tạng Vương.
Theo như bài kệ này đã chỉ ra thì địa ngục chính là ở phương nam.
Còn nữa:
Thánh nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc:
"Địa ngục ở đâu?"
Vô Độc đáp:
"Trong ba biển lớn là đại địa ngục, trong đó có hàng trăm nghìn địa ngục khác, mỗi địa ngục đều khác nhau. Địa ngục được coi là lớn thì có mười tám địa ngục, tiếp theo có 500 địa ngục, khổ đau vô lượng. Tiếp theo nữa là trăm nghìn địa ngục, đau khổ cũng vô cùng tận."
Theo như đoạn nói chuyện này thì địa ngục ở phương nam nằm dưới ba biển lớn.
Còn nữa:
Phu nhân Maya hỏi Địa Tạng Bồ Tát:
"Xin ngài nói xem địa ngục vô gián là thế nào?"
Địa Tạng Bồ Tát đáp:
"Tất cả địa ngục đều ở trong núi Thiết Vi. Có mười tám đại địa ngục, tiếp theo có 500 địa ngục, mỗi địa ngục đều không giống nhau. Tiếp theo nữa là trăm nghìn địa ngục, mỗi địa ngục cũng khác biệt. Địa ngục vô gián, chu vi của ngục thành này hơn tám vạn lý, tường thành bằng thép nguyên chất cao một vạn lý…"
Theo như đoạn nói chuyện này thì địa ngục ở phương nam nằm dưới ba biển lớn bên trong ngọn núi Thiết Vi.
Còn pháp đại viên mãn của Mật giáo thì chỉ ra:
Địa ngục bát nhiệt.
Địa ngục bát hàn.
Địa ngục cận biên.
Địa ngục cô độc.
Địa ngục cận biên ở xung quanh địa ngục vô gián.
Thế còn địa ngục cô độc thì ở đâu?
Đáp: vị trí của địa ngục cô độc không cố định, có thể ở nơi vách đá, hoặc ở bên trong những hang đá lớn, hoặc ở trong núi băng, hoặc ở trong những cây lớn, hoặc ở nơi hoang dã, hoặc ở bờ biển, hoặc ở sa mạc, hoặc ở trong nước sôi, hoặc ở bệnh viện, hoặc ở trong rãnh nước hôi thối, hoặc ở trong thác nước…….
Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết:
Địa ngục ở khắp mọi nơi, tất cả đều là sự huyễn hóa của tâm bạn. Tôi nói như vậy, bạn có hiểu không?
Ngày xưa, tôi từng trông thấy một người bị kẹp giữa bức tường đá. Tôi hỏi:
"Anh ở giữa bức tường đá làm gì vậy?"
"Nóng nở lạnh co."
Tôi hỏi:
"Cái gì mà nóng nở lạnh co?"
Đáp: "Khi trời nóng, đá sẽ nứt vì nở ra, tôi sẽ bị ép tới mức không thể nào thở được. Khi trời lạnh, các khe đá nứt đã rộng ra, khí lạnh luồn vào, tôi sẽ bị lạnh đến chết, rơi vào trong khe núi, cái khổ ở đây là như vậy."
Ha! Đây cũng là địa ngục. Thế còn bệnh viện cũng là địa ngục sao?
Những người mổ não, mổ tim, mổ gan, gắp sỏi thận, chạy thận, bị cắt cụt tứ chi, cắt tay, cắt chân, mổ bụng, thụt rửa, luồn ống qua khí quản, phù nề, mọc nhọt, kéo xương, gắn đinh sắt, cứu ngải, rửa ruột, mổ mắt, nhổ răng, phanh bụng, v.v…
Đây là gì?
Là địa ngục cô độc đó.
46. Bí mật về địa ngục có trước hay sau
Từng có người hỏi tôi:
"Địa ngục có trước, hay là Địa Tạng Vương Bồ Tát có trước?"
Tôi đáp:
"Có ác nghiệp thì sẽ có địa ngục, địa ngục là nghiệp cảm.
[ ND: nghiệp cảm nghĩa là sự chiêu cảm của tâm ta từ đó tạo ra địa ngục tương ứng ]
Còn đối với việc địa ngục có trước hay Địa Tạng Vương Bồ Tát có trước, tôi lấy ví dụ như sau:
Phật nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
Vào một kiếp rất rất lâu trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát tiền thân là một vị trưởng giả, ngài trông thấy một vị Phật là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hành Như Lai. Vị trưởng giả thấy Phật có hình tướng rất đẹp nên hết mực trang nghiêm hỏi Phật rằng cần làm gì để có được hình tướng đẹp như vậy?
Phật đáp, muốn chứng được thân này thì cần phải dành thời gian rất dài để cứu độ giải thoát tất cả mọi chúng sinh chịu khổ đau.
Trưởng giả phát nguyện:
"Tôi sẽ dùng đến tận cùng giới hạn của tương lai, không tính được bao nhiêu kiếp, sẽ vì lục đạo chúng sinh chịu tội khổ mà có mặt khắp nơi tận lực giải thoát, còn thân này của tôi chỉ hướng về Phật đạo."
Vị trưởng giả này chính là tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Từ lời nguyện này có thể thấy:
"Lục đạo chúng sinh có trước. Địa Tạng Bồ Tát có sau."
Còn nữa:
A tăng tì kiếp là bất khả tư nghì. Vào một thời có Phật, hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, khi đó có một cô gái Bà-la-môn vốn có rất nhiều phước, ai nấy đều ngưỡng mộ. Nhưng mẹ của cô gái Bà-la-môn này lại tin theo tà, thường coi thường Tam Bảo, khi mẹ của cô gái này chết, quỷ thần đã đọa bà xuống địa ngục vô gián. Thế là, cô gái Bà-la-môn làm một lễ cúng dường rất lớn để cúng dường đến Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai.
Sau đó, Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai nói với cô gái Bà-la-môn hãy quay trở về nhà và ngồi thiền, cô có thể biết được mẹ cô đã đi về đâu. Cô gái Bà-la-môn ngồi thiền một ngày một đêm, cô đã đến được địa ngục và ở địa ngục đó đối đáp với Vô Độc Quỷ Vương. Sau đó cô mới biết, mẹ của cô, bà Duyệt Đế Lợi, nhờ việc cô gái đã làm đại cúng dường mà đã lên trời được ba ngày rồi. Còn cô gái Bà-la-môn này chính là tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong tương lai.
Từ câu chuyện này:
Địa ngục có trước.
Địa Tạng Vương Bồ Tát có sau.
Bởi vậy Phật Đà nói:
Vô Độc Quỷ Vương là Tài Thủ Bồ Tát.
Cô gái Bà-la-môn là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Còn nữa:
Vào thời đại của Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, trong hình tượng pháp, có một vị La Hán đã độ phúc cho chúng sinh. Có một cô gái tên là Quang Mục cúng dường La Hán.
La Hán hỏi:
"Cô muốn biết việc gì?"
Quang Mục đáp:
"Người mẹ đã chết sinh về nơi nào?"
La Hán nhập định quan sát thấy mẹ của cô gái Quang Mục đã đọa vào địa ngục, chịu bao cực khổ.
Quang Mục hỏi:
"Làm sao để cứu mẹ?"
La Hán đáp:
"Cần chí thành niệm Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, kèm thêm đúc tượng, vẽ hình tướng Phật để cúng dường."
Cô gái Quang Mục mơ thấy Phật đến nói:
"Mẹ của cô sẽ sinh về nhà cô…"
Sau này:
Cô gái Quang Mục vì cứu mẹ mà phát đại nguyện:
"Trong trăm nghìn vạn tỷ kiếp, xin thề nguyện cứu giúp hết các chúng sinh của tất cả thế giới, tất cả địa ngục và tam ác đạo, giúp họ tránh xa được địa ngục ác thú, súc sinh, ngạ quỷ, cho đến khi những người mắc phải tội báo đều đến hết được cảnh giới Phật, thì khi đó tôi mới thành Chính Giác."
Phật Đà nói:
Vị La Hán độ phúc chính là Vô Tận Ý Bồ Tát.
Mẹ của Quang Mục chính là Giải Thoát Bồ Tát.
Cô gái Quang Mục chính là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Do vậy tôi nói:
Địa ngục có trước (nghiệp cảm).
Địa Tạng Vương Bồ Tát có sau.
47. Bí mật về bộ xương
Tôi đến một nơi gặp một cảnh tượng khủng khiếp, đó là một anh con trai ôm một bộ xương người.
Bộ xương người trông vô cùng tục tĩu, sự dâm ô bẩn thỉu đến mức cực điểm. Anh con trai này dùng lưỡi hôn một cách điên cuồng những con dòi trong miệng của bộ xương. Rồi anh ta lại hôn cả vào lỗ tai của bộ xương, trong tai cũng đầy những dị vật. Miệng anh ta dính với miệng của bộ xương để mút đầy dịch thử thi. Hai tay cũng không có quy củ, một tay thì vuốt ve ngực của bộ xương, một tay thì với ra để xoa vào bên dưới giữa hai chân của bộ xương. Bộ phận sinh dục của anh ta thì đặt vào giữa hai mông của bộ xương. Trông như con ếch.
Trông như cây gậy èo uột.
Tôi nhìn cảnh tượng này mà kinh hãi.
Minh sứ nói với tôi:
"Vẫn còn phần sau nữa!"
Tiếp theo tôi thấy bộ xương nữ đó mở to miệng để lộ hàm răng ra, cắn đứt lưỡi của anh kia, thế là một tiếng "ka-cha"! Lưỡi đứt lìa, máu tuôn ra xối xả, bắn đầy mặt, anh ta thét lên đau đớn.
Hai mắt của bộ xương khô bốc lửa, đốt cháy mặt anh kia thành than đen.
Bộ xương cũng dùng hai bên mông kẹp chặt cái "của quý" của anh chàng kia, cũng "ka-cha" một tiếng, thế là gẫy. Bộ xương cũng dùng hai tay bóp chặt cổ anh kia lại, trong chốc lát anh ta không thể nào thở được, bị ngạt mà chết.
Tôi hỏi:
"Anh chàng này sao có thể dâm ô tục tĩu đến vậy?"
Minh sứ đáp:
"Cái chúng ta thấy là một bộ xương, nhưng trong mắt của anh kia thì bộ xương đó là một cô gái điếm rất xinh đẹp quyến rũ. Tất cả những điều này đều là huyễn hóa mà ra. Kì thực những kẻ nghiện sex xuống đến địa ngục sẽ có kết cục kiểu như thế này. Có người bị đứt lưỡi, bộ phận sinh dục cũng gãy, đau đớn quá mà chết.
Minh sứ nói:
"Những kẻ nghiện sex khi xuống địa ngục sẽ giao cấu với những bộ xương, cho đến khi tinh huyết cạn khô mà chết cũng rất là nhiều."
"Đây chẳng phải là chết vì khoái lạc sao?"
"Chính là chết vì khoái lạc."
"Mã thượng phong?"
"Chính là mã thượng phong."
"Đây đâu phải là hình phạt?"
"Chính là hình phạt."
Minh sứ nói:
"Kẻ háo dâm thì làm gì cũng chỉ vì mĩ sắc. Đến khi anh ta cô ta sống lại sẽ được nhìn thấy đối tượng thực sự là ai, lúc đó thì ai cũng dậm chân đấm ngực mà hối hận không ngừng."
"Tà dâm cùng với bộ xương sao?"
"Thỉnh thoảng thì cùng với loài dị hình."
"Dị hình giống như trong các bộ phim à?"
"Đúng vậy."
Tôi nói:
"Một chữ "dâm" này đã hại hết sạch anh hùng hảo hán trong thiên hạ. Chưa gặp tà duyên liền sinh tâm vọng tưởng, dụ dỗ không được liền sinh tâm lập mưu, hơi có chút chướng ngại liền sinh tâm sân hận, yêu đến điên cuồng liền sinh tâm tham chiếm, ghen tị khi người khác có tình yêu thì sinh tâm đố kị, tình duyên cưỡng ép thì sinh tâm sát hại. Đây đều là những việc làm mất hết liêm sỉ, hoàn toàn không còn luân lý."
"Phật thuyết tứ thập nhị chương kinh" có viết:
Coi người già như mẹ.
Coi người lớn như chị.
Coi trẻ nhỏ như em.
Coi em bé như con.
[ ND: đây là những lời Phật dạy về việc cần cẩn thận khi tiếp xúc với nữ sắc, nếu có phải nói chuyện hay tiếp xúc với giới nữ thì cần giữ tâm ngay thẳng và quán tưởng như trên. ]
Tôi hỏi:
"Thế còn loạn luân thì sao?"
Minh sứ đáp:
"Địa Ngục Căn Miêu, Nghiệt Hải Hồng Ba, phần lớn đều đọa thành chim thú."
"Người tu hành trước tiên nên giữ năm giới, không được sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu."
Ở dương gian: "Là nhục trùng giao triền!"
Ở âm gian: "Là xương khô đánh lộn!"
48. Bí mật về người cây
Nghe nói rằng:
Một nơi ở khu vực Đông Nam Á có cây cao su, mủ của nó màu trắng, đây là nguồn nguyên liệu để làm ra các loại nhựa. Người ta sẽ trồng cây lớn đến một mức độ phù hợp thì dùng một con dao cong rất sắc để cắt thành một rãnh xiên xiên, từ đó mủ trắng sẽ theo rãnh này mà chảy ra một vệt màu trắng. Bên dưới dòng keo trắng này người ta đặt một cái thùng chứa, thùng chứa sẽ hứng toàn bộ mủ cây chảy xuống. Người lấy mủ sẽ gom những thùng chứa này lại để bán. Đây chính là nguồn gốc của mọi sản phẩm nhựa.
Mỗi một cây (cây cao su) chỉ có thể cắt ở phía trước một nhát, cắt phía sau một nhát là mủ sẽ chảy ra cho đến khi hết. Rồi những cây này cũng từ từ mà già chết! Sau đó sẽ bị con người chặt đi. (Quá trình này gọi là quá trình cạo mủ.)
Những gì tôi thấy ở âm gian cũng có một dạng hình phạt như vậy, thực sự là khủng khiếp.
Tôi đến một khu rừng lớn. Nhìn kĩ hơn thì hóa ra không phải cây, mà là người mang hình cây, mái tóc xõa xuống giống như những cành cây liễu, có mặt mũi, có cả nam cả nữ. Còn thân cũng có tay có chân, nhưng bị trói lại, nhìn thực sự giống một cái cây. Hóa ra từng cái cây đang đứng sừng sững đó đều là người cây.
Bọn họ đều không thể di chuyển dù chỉ nửa bước, bị cố định trong hình dạng một cái cây. Trên thân của họ đều bị lính quỷ dùng dao rạch hết vết sẹo này đến vết sẹo khác, mỗi lần rạch xuống một được là một dòng máu chảy ra. Lính quỷ dùng bát để hứng máu rồi nộp cho quỷ vương uống.
Trong địa ngục có rất nhiều đại quỷ vương, bọn họ đều uống máu, máu chính là thức ăn chính của họ. Trong lúc rạch người cây, hễ rạch xuống một nhát là một tiếng kêu thét lên, rạch xuống hai nhát là hai tiếng kêu thét lên. Cả một rừng người cây, khắp nơi đều là những tiếng thét thảm thiết, vô cùng khủng khiếp.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của một lần chặt đầu.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị tên bắn trúng.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị núi đè.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị xe đâm.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị chiên trong chảo dầu.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị thiêu sống.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ của bị móc mắt.
Cái khổ này, còn hơn cả cái khổ bị rơi xuống vách núi.
………
Cá nhân tôi cảm thấy, những chuyện bí ẩn bí mật trong địa ngục có kể mãi cũng chẳng hết. Muốn viết hết những bí ẩn bí mật này ra thì cả đời cả kiếp cũng chẳng viết xong được. Những tư tưởng ác, suy nghĩ ác, hành động ác của con người thế gian, tất cả đều tạo ra những sự hóa hiện của địa ngục.
Biển nghiệp mênh mang.
Địa ngục hàng hàng.
Bụi trần hỗn tạp.
Khổ nạn ẩn tàng.
Nếu bạn uống máu người ta, nhai xương người ta, ăn thịt người ta, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục người cây đó!
Người tốt cần nghiêm khắc giữ giới luật:
Đừng phá hoại thành tựu của người khác.
Đừng bớt xén của người làm lợi cho mình.
Đừng dùng cái xấu đánh tráo lấy cái tốt.
Đừng ích kỉ mà phá hỏng lợi ích của cộng đồng.
Đừng vừa chỉ mới giàu lên đã ngạo mạn.
Đừng ác tâm lén lút tích trữ của riêng.
Đừng xâm phạm người khác.
Đừng sát hại sinh mệnh.
Bằng mọi giá cần phải chú ý, đừng hại người, đừng làm bị thương người khác, đừng hại sinh mệnh.
Nghìn nghìn vạn vạn lần khuyên bạn cần chú ý, cần phải từ bi hỉ xả, như vậy mới không đọa vào địa ngục.
49. Ba câu hỏi và trả lời của Liên Hoa Trung Chính
Xin quỳ gối trước Sư Tôn vĩ đại.
A Di Đà Phật!
Tạ ơn, tu hành, vui vẻ!
Cuốn văn tập mới của Sư Tôn "Câu chuyện huyền bí về giải thoát", những tâm đắc mà Sư Tôn đã truyền tải đến đệ tử, ngoài ra còn phần tự hỏi tự đáp phía sau, đã cho đệ tử nhiều lời khuyên. Kì thực cũng giống như đệ tử được trực tiếp Sư Tôn chỉ cho biết phương hướng. Mặc dù đã vô cùng rõ ràng minh bạch, đệ tử vẫn đọc hết sức cẩn thận, ngẫm đi ngẫm lại. Có ba câu này đã trở thành châm ngôn tu luyện của đệ tử.
Hỏi: "Thầy hát khúc hát của ai?"
Đáp: "Khúc hát của mình." Còn thêm lời bình luận "tự tin". Giống như Sư Tôn đang thưởng thức đồ ăn ngon, muốn đệ tử đến ăn cùng, để tử hỏi đông hỏi tây xem mùi vị thế nào? Có thể ăn đủ no không? Sư Tôn nói, con tự mình đến ăn sẽ biết thôi. Đệ tử cho rằng, nhờ có tín tâm vào thầy mà con đã tìm được cái gốc của sự tự tin, tự tin mới là mẹ của tất cả mọi công đức.
Hỏi: "Tông phái để ai thừa kế?"
Đáp: "Đầu to thì đuôi to", thêm lời bình luận "cứ thẳng tưng". Phong cách dạy dỗ của Sư Tôn là đầu to đuôi to, rộng lượng khai ngộ, rộng lượng truyền pháp, rộng lượng độ chúng sinh, rộng lượng giải đáp, bị chửi khắp nơi, chịu đựng tất cả, khắp nơi bình phẩm, khắp nơi nói cười. Đầu to đuôi to là ý muốn đệ tử không bao giờ nên đầu hổ đuôi rắn, đừng bao giờ sợ hãi rụt rè.
Sư Tôn truyền pháp giống như quân tử, không có chuyện gì là bí mật, không có đạo lý nào là bí mật. Thậm chí có là cảnh giới Tam quán khiến người nghe bị sốc, con người thế tục nhất thời khó tiếp nhận, nhưng Sư Tôn vẫn nói thẳng, nói rất khéo, tôi nói là việc của tôi, anh nghe là việc của anh. Cứ thẳng tưng, là tự thu về với chính bản thân mình, mặc kệ vạn người chĩa mũi nhọn vào mình, là chuyên nhất, tinh tấn, thiền định…
Hỏi: "Chứng ngộ Phật thế nào?"
Đáp: "Một cú nhảy thôi", thêm lời bình luận "thử ngạn tức bỉ ngạn" [ ND: bờ sông bên này cũng chính là bờ sông bên kia ], nhậm vận. Tu hành tại thế gian này, giặc đến thì đánh - lũ đến thì ngăn [ ND: mỗi tình huống xảy đến sẽ vận dụng cách xử lý phù hợp ], cái tốt, cái xấu đều chấp nhận hết, mà cũng là chẳng nhận cái gì cả. Giống như người kị sĩ điều khiển ngựa hung, thắng yên thật chặt, hai chân ấn chắc, phần thân trên buông lỏng, vừa lên là phi nước đại. Sư Tôn từ bi chỉ ra "thử ngạn tức bỉ ngạn", người hiểu được chính là nhất thời, vô gián, di lục hợp, do vậy đâu đâu cũng là tịnh thổ.
Nhậm vận là khẩu quyết Đại Viên Mãn, là tự tại viên mãn mọi lúc, ngay lúc này tiêu trừ đối vị, khiến cho hai con trâu đất đều biến mất. Cảnh giới vi diệu này đệ tử dù vẫn chưa thể đến nhưng trong lòng đã mong mỏi rồi!
Kính chúc
Luôn hé miệng cười!
Đệ tử Liên Hoa Trung Chính đảnh lễ.
21/2/2013.
50. Phật Mẫu Kamala kí tên thư cảm ơn
Liên Sinh Hoạt Phật và Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư tôn quý!
Xin cảm tạ các vị đã mời tôi đến tham dự pháp hội cầu phúc tại Lôi Tạng Tự. Chứng kiến bốn vạn người đến tham gia pháp hội hôm nay và biết được mỗi thứ bảy đều có hơn vạn người đến đồng tu tại Lôi Tạng Tự, tôi cảm thấy thật bất khả tư nghì, pháp duyên quả là thù thắng.
Điều này đã chứng minh rằng đại trí huệ của Liên Sinh Hoạt Phật có thể dựa vào những cách nói đơn giản nhất để giải thích những ý nghĩa sâu sa ảo diệu của Phật pháp. Trong lúc thuyết pháp, phong cách hài hước của Liên Sinh Hoạt Phật cũng đầy ắp, khiến người ta cảm thấy rất vui vẻ lắng nghe. Liên Sinh hoạt Phật là một Mật hành tôn giả đại thành tựu vô cùng đầy ắp trí huệ và kiến thức đối với Phật pháp và Mật giáo.
Pháp hội ngày hôm nay tôi cảm thấy tràn đầy pháp hỷ, cảm tạ Liên Sinh Hoạt Phật đã giới thiệu Chatral Rinpoche với đệ tử Chân Phật Tông, kết nên thiện duyên. Tôi đã thể hội được quá trình học tập khó khăn gian khổ của Liên Sinh Hoạt Phật, tích tập được những kinh nghiệm tu hành phong phú. Chatral Rinpoche cũng đã từng kinh qua một thời gian dài học tập gian khổ mới có thể tích lũy được những kinh nghiệm phong phú để hướng dẫn cho học trò. Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư và tôi đều là hai người hộ trì trung thành nhất của hai tông phái lớn. Phật Mẫu của Mật Tông đều là những thị giả xinh đẹp, tinh tấn, và trung thành ở bên cạnh các Hoạt Phật.
Chatral Rinpoche và tôi thỉnh nguyện Liên Sinh Hoạt Phật và Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư khỏe mạnh trường thọ, pháp luân thường chuyển, cát tường như ý. Đồng thời Chatral Rinpoche và tôi thỉnh nguyện các đệ tử Chân Phật Tông đều khỏe mạnh trường thọ, đạo tâm kiên cố, tu hành thành tựu. Xin nguyện cho phái Nyingma của Tạng Mật và Chân Phật Tông hữu nghị trường tồn.
Phật Mẫu Kamala.
(kí tên)
51. Trai tăng đại nghi quỹ
- Nghênh thỉnh các vị trưởng lão núi vào hội trường. Hoan nghênh…., hoan nghênh…. 2. Dùng cành liễu rẩy nước tẩy tịnh.
- Đại bi chú - hồi hướng đến hộ pháp Long Thiên.
- Bắt đầu đại hội -- đánh trống, rập chuông, hát thỉnh Tam Bảo.
- Trưởng lão phát biểu.
- Dâng mười cúng phẩm (tụng bài tán thán hoặc hát) -- cư sĩ xếp hàng để dâng cúng -- hương, hoa, đèn, đồ hương, quả, trà, thức ăn, đá quý, ngọc châu, y áo (áo cà sa).
- Đọc bài kệ Lư hương tán.
- Vu lan bồn kinh và Thất Phật diệt tội chân ngôn -- hồi hướng (Vu lan bồn pháp hội).
- Làm đại cúng dường trước chư Phật -- giới định chân hương.
- Niệm sớ văn.
- Cúng thực phẩm ngon đến nhà bếp của trời.
- Bảy đệ tử đại diện cung thỉnh Tân Đầu Lư tôn giả ứng cúng (lập bài vị, ngồi vị trí thứ nhất).
- Trai tiệc trong hai tiếng, nghi quỹ kết thúc trai tiệc.
- Bài hát tán thán tăng.
- Khách quý phát biểu.
- Hồi hướng.
- Cung tiễn các vị trưởng lão núi.
Buổi chiều
Đồng tu sám hối hoặc tụng kinh, hoặc niệm Phật / Kinh Nhân Vương hộ quốc / Thuyết pháp khai thị.
Khóa tu buổi tối / Phóng đại mông sơn.
Kết thúc viên mãn.
52. Thư của Thượng sư Liên Ha
Sư Tôn muôn vàn kính yêu,
Chào Sư Tôn! Đệ tử Liên Ha nhất tâm đảnh lễ Sư Phật! Xin đem thân khẩu ý này cúng dường Sư Phật!
Xuân mới năm con rắn vừa đến rồi, trước tiên đệ tử với tấm lòng kiền thành nhất xin kính chúc Sư Phật: Năm mới hạnh phúc! Thân tâm an khang! Trường trụ thế gian! Đại chuyển pháp luân! Như ý tự tại!
Sư Tôn kính yêu, khoảng thời gian gần đây đệ tử trước khi tu pháp thường ngồi trước đàn thành, đối diện với tượng kim thân và ảnh của Sư Tôn, suy ngẫm rất sâu về ân đức của Sư Phật.
Đệ tử nhớ lại, đời này nếu không có Sư Phật, đệ tử căn bản là không thể có được cơ duyên đi vào điện đường Mật giáo thâm sâu ảo diệu. Sư Phật, Thầy là khởi nguồn của tất cả mọi thứ!
Chính là Sư Phật, là sách Phật tuôn chảy từ trong tâm của Sư Phật, đã gợi lên một sự rúng động tới nơi sâu nhất trong nội tâm của đệ tử. Phật duyên nghìn năm nhờ có sự xuất hiện của Thầy mà thức tỉnh các mầm sinh!
Chính là Sư Phật đã dạy dỗ đệ tử khởi động tu hành từ cơ bản nhất là Tứ gia hành, cho đến Thượng sư pháp, Bổn tôn pháp, Bảo bình khí, chuyết hỏa, minh điểm, vô lậu, thậm chí là Thời luân pháp, Mật mật pháp, cho đến cuối cùng là đại pháp khai ngộ thành Phật. Đều là Sư Phật đã truyền thụ những Mật pháp trân quý không gì sánh bằng này.
Còn nhớ năm 1996, đệ tử lần đầu tiên đến Seattle, ở trong phòng hỏi chuyện, chính là Sư Phật đã dạy cho đệ tử khẩu quyết của pháp Bảo bình khí. Cho đến tận bây giờ đệ tử vẫn có thể nhớ rất rõ ràng hoàn cảnh năm đó khi Sư Phật truyền dạy khẩu quyết cho đệ tử. Cho đến tận bây giờ mỗi sáng sớm, khi đệ tử hướng về mặt trời để luyện tập pháp Bảo bình khí, khẩu quyết mà Sư Phật truyền dạy mười bảy năm trước vẫn rất mới mẻ trong kí ức đệ tử, hơn nữa càng tu càng cảm thấy được tầm quan trọng của khẩu quyết!
Đệ tử cũng nhớ khi đó Thầy đã rất quan tâm hỏi thăm người học trò nghèo này, từ trong ví của mình, Thầy đã lấy ra năm trăm đô-la Mỹ tặng cho đệ tử. Đệ tử không chỉ cảm động rớt nước mắt lúc đó, mà cho đến tận ngày hôm nay của mười bảy năm sau hồi tưởng lại chuyện này, đệ tử vẫn nước mắt nhạt nhòa!
Một người thầy từ bi như Sư Phật, dưới bầu trời này có thể đi đâu để tìm được đây?
Sư Phật kính yêu, đệ tử vẫn nhớ Sư Phật vì truyền thụ Thời Luân Kim Cang Quyết pháp tối bí mật mà đã khóc, đệ tử chúng con cũng đều khóc theo. Nếu không phải vì Thầy đã truyền dạy cho chúng sinh pháp bí mật thần kì như vậy, sức lực nghèo nàn cả đời này của chúng con làm sao có thể đủ để tương ứng với pháp Thời Luân Kim Cang tôn quý vô thượng như vậy đây?
Còn pháp Nhật Nguyệt Luân trân quý không gì sánh bằng, chính là Sư Phật đã truyền dạy câu nói: "Nhật Nguyệt hợp bích, huyền cơ đình luân, âm đến cực điểm, nhất dương lai phục" [ ND: mặt trời mặt trăng hòa hợp, cơ duyên huyền bí sẽ dừng bánh xe, âm đến cực điểm thì mặt trời sẽ trở lại ], khiến cho đệ tử khổ tu mười năm nhưng chuyết hỏa vẫn hoàn toàn bặt vô âm tín này có được sự thay đổi hoàn toàn! Khẩu quyết của sư phụ thực sự còn trân quý hơn cả sinh mệnh đó!
Đệ tử vẫn còn nhớ năm mà Sư Phật mới trở về sau khi ẩn cư, ở Biệt Thự Cầu Vồng, Sư Phật đã vì đệ tử mà đích thân một mình minh họa pháp vô lậu Sakya sáu thế chuyển ba thức bí mật và Kim Mẫu thần thủy pháp. Năm đó đệ tử xuất gia, tại Chân Phật Mật Uyển, Sư Phật đã truyền pháp Khai đỉnh, pháp Chú kiếm, còn tự tay vẽ cho đệ tử hình tượng Thời Luân Kim Cang tại tâm luân để quán tưởng. Đệ tử sao lại may mắn đến vậy!
Đây đều là những mật pháp trân quý mà vô số hành giả ngày đêm mong mỏi muốn có được!
Những mảng kí ức này đệ tử cả đời này sẽ khắc ghi vào trong tâm, không chỉ vậy, những vô thượng mật pháp này càng là sức mạnh tinh thần cho đệ tử có thể bền bỉ tu hành đến tận cùng cuộc đời này, ngày ngày thực tu!
Chính những mật pháp này đã giúp cho đệ tử được thân tâm an lạc, vô lậu kiên cố, khí mạch thông suốt, tâm luân khai mở, đã đem đến cho đệ tử những thay đổi lớn về toàn bộ thân tâm.
Chính là Sư Phật đã tự tay vẽ bức đồ án Thời Luân rất chi tiết đó khiến cho việc thiền định của đệ tử có tiến bộ vượt bậc. Khi đệ tử an trụ tại tâm luân, bức Thời Luân chi tiết đó phóng quang, khi quán tưởng đạt đến mức độ cực điểm, tất cả suy nghĩ đều dừng lại, có một luồng ánh sáng trắng cực mạnh xuất hiện, cường độ mạnh như mặt trời, còn ở giữa luồng ánh sáng đó có một cột ánh sáng màu xanh lam.
Sư Phật, chính là khẩu quyết của Thầy đã đem đến cho đệ tử tất cả mọi cảm nhận này.
Sư Phật kính yêu, Thầy đã liên tục gia trì quán đảnh cho chúng con một cách đầy tỉ mỉ cẩn thận. Thầy giảng giải chi tiết những pháp yếu vi diệu, dặn dò rồi lại khích lệ, chúng con sao mà may mắn đến thế, có một người Thầy như thế này! Chúng con có đức năng gì mà nhận được Phật ân từ Thầy như vậy, chúng con đời này làm thế nào mới có thể báo đáp được Phật ân này?
Điều khiến cho tâm cảnh của đệ tử thay đổi hoàn toàn chính là nhờ có Sư Phật khai sáng giúp đệ tử tham thiền khai ngộ. Dưới sự chỉ bảo khai sáng của Sư Phật, ngộ cảnh của đệ tử đã có được sự biến đổi và thăng hoa cực kì to lớn.
Cuộc đời này nếu như không có bàn tay chỉ dạy của Sư Phật, đệ tử làm sao có thể “thể ngộ” được Phật tâm? Nếu như không phải vì Sư Phật đã khổ tâm viết nhiều thiền sách như vậy, đệ tử làm sao có thể lĩnh ngộ được chân đế của Phật pháp?
Còn nhớ khi đệ tử đi khắp các nẻo chân trời để tìm thầy, cuối cùng gặp được Sư Phật, Sư Phật truyền thụ cho đệ tử dựa vào tứ không tâm yếu, bây giờ nghĩ lại mới thấy quan trọng làm sao!
Còn có tâm chú đại diện cho truyền thừa Chân Phật nữa, đệ tử thật là có phúc ba đời rồi!
Chính nhờ sự dạy dỗ của Sư Phật mà đệ tử từ một học trò đa sầu đa cảm ngày xưa đã trở thành một hành giả không còn sợ hãi và tất cả đều vô vị. Tất cả mọi phiền não của trần thế đều tiêu tan, tất cả mọi chướng ngại thế tục đều tan biến thành hư không.
Bây giờ đệ tử có thể hiểu được sâu sắc mỗi lời khai thị của Sư Phật, không chỉ là "một con người trên mặt trăng", mà còn là "chẳng có người nào trên mặt trăng", bởi vì vô nhân vô pháp mới là Chân Như!
Sư Phật kính yêu, mỗi lần đệ tử hồi tưởng lại đời này được vô số lần Sư Phật ban phúc cho, trong lòng đệ tử ngập tràn sự xúc động và biết ơn. Đệ tử biết rằng hai việc quan trọng nhất để báo đáp Phật ân chính là: mạnh mẽ tinh tấn cho đến khi thành tựu viên mãn, và phát đại bồ đề tâm để đẩy mạnh sự nghiệp Chân Phật Bồ Đề.
Do vậy, đệ tử mỗi ngày bất luận thế nào đều bền bỉ bốn lần ngồi thực hành pháp chuyết hỏa, bốn lần ngồi thực hành pháp Thời luân, luôn thực hành pháp bảo bình khí, chú kiếm, vô lậu, thể công. Đồng thời mỗi ngày bất luận thế nào đều dốc toàn lực đẩy mạnh sự nghiệp Chân Phật, đặc biệt là việc phát triển công tác tuyên truyền, trong đó có:
Cuốn sách "Hành hương đến các đạo tràng Chân Phật Tông thế giới" đang được triển khai lan truyền nhanh như lửa cháy, hiện tại đã được gửi đi đến toàn bộ các chùa Lôi Tạng Tự thế giới, ngày ngày đều bận rộn viết bản thảo, thu thập tài liệu, công việc tiến triển với tốc độ rất tuyệt vời.
Thế còn trang web "Chân Phật Hộ Pháp viên địa" dưới sự đồng lòng nỗ lực của mọi người cũng đã đi vào quỹ đạo, không chỉ có được tỉ lệ nhấn vào trang cao đến 120 vạn lần, mà về cơ bản đã có thể bảo đảm mỗi ngày có được hai bài viết mới nhất. Đồng thời, "Sư Phật truyền kí" cũng đang trong quá trình biên tập khẩn trương, tìm kiếm người có chuyên môn giúp đỡ, hơn nữa cũng bắt đầu thu thập tư liệu có liên quan…
Sư Phật kính yêu, một năm mới đã bắt đầu rồi, đệ tử chỉ một lòng cầu xin Sư Phật dùng đại uy thần lực và đại từ bi gia trì cho đệ tử trong năm mới này tu hành tiến bộ, thành tựu viên mãn!
Xin gia trì cho sự nghiệp Chân Phật Bồ Đề tiến triển thuận lợi, công đức viên mãn!
Một lần nữa toàn tâm kính chúc Sư Phật khỏe mạnh trường thọ! Hạnh phúc tự tại!
Năm mới như ý cát tường!
Đệ tử Liên Ha kính lạy.
16/2/2013. São Paulo, Brazil.
(Hết)