Liên Sinh Phù
🪷 Những lá phù thần thánh
Văn tập: 247 Xuất bản: 05/2015 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Lời nói đầu của Liên Sinh Phù
Tôi đã có hai cuốn sách viết về phù lục: Linh Tiên Phi Hồng Pháp. Tiên Thiên Phù Bút. Những phù lục này, một số có được từ “tiên thọ” [nhận từ chư thiên đưa xuống], một số đến từ “sư thọ” [học và nhận từ thầy], có một số lại là “tự tâm tuôn chảy”.
Sau khi xuất bản sách đã dấy lên một sự chấn động lớn. Người học vẽ phù rất nhiều, người sử dụng phù lục đi giúp đỡ người khác cũng rất nhiều, lại cũng có người dùng để tu học Phật. Có rất nhiều người đến xin quán đảnh vẽ phù. Quán đảnh vẽ phù là sao? Đó chính là tôi lấy phù bút, dùng phù bút viết hai chữ “sắc lệnh” vào trong lòng bàn tay của người cầu pháp.
Chúng đệ tử xếp thành hàng dài, chắc phải có đến nghìn người. Tôi ngước đầu lên nhìn. Không ngờ trong đám đông, già trẻ lớn bé đứng đầy, trong đó có ông lão tám mươi, bà lão bảy mươi, và rất nhiều trẻ em ba, bốn tuổi. Tôi sửng sốt! Tôi nói: “Người già và trẻ nhỏ có thể vẽ phù không? Có biết vẽ phù không?” Một vị Thượng sư đứng bên cạnh nói: “Sư Tôn từ bi, để cho họ được kết duyên vậy!” Tôi nói: “Nghi quỹ vẽ phù phức tạp, người không hiểu không thể vẽ. Vẽ phù là kỹ thuật thiên nhân hợp nhất, người bình thường không phải muốn là có thể làm được!” Vị Thượng sư đứng bên cạnh nói: “Con sẽ dạy họ sau, xin Lư Sư Tôn từ bi!”
Lần đó. Tôi ban quán đảnh trao năng lực vẽ phù cho toàn bộ một đám người già yếu và cả phụ nữ, em bé ba bốn tuổi, thậm chí cả một người đám người già tàn tật bước đi cũng không nổi, có người còn ngồi xe lăn.
Kết quả: Đêm đó, Kim Đào Tôn Giả hạ giáng, sấm vang sét giật, thiên long bát bộ, ngũ bộ chính thần cùng giáng xuống. Tôi kinh ngạc. Kim Đào Tôn Giả giáo huấn tôi một trận: “Từ bi biến thành tùy tiện!” “Tùy tiện biến thành hạ lưu!” Kim Đào Tôn Giả lại dạy rằng: “Vẽ phù là sai khiến cả sấm sét lôi đình, cần phải là người có phẩm đức cao thượng mới có thể học tập vẽ phù. Bây giờ, ngài không phân rõ trắng đen đúng sai, quán đảnh vẽ phù cho tất cả mọi người, đáng bị tội gì?” Tôi đổ mồ hôi ròng ròng. Chao ôi! Tôi đã phạm vào luật trời rồi! Tại đây tôi xin khuyên những người học vẽ phù cần phải đọc kĩ “tổng thuyết về phù lục” mà tôi viết, nhất nhất khắc ghi trong tâm, mới không phạm phải sai lầm. Thanh tịnh họa đàn, giấy, bút, mực, nghiên, tất cả thanh tịnh. Người vẽ bỏ rượu bia thuốc lá, tắm rửa sạch sẽ. Khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh, ý thanh tịnh. Dâng cúng phẩm. Thỉnh thần. Chính tâm thành ý. Cầu nguyện rõ ràng. Người trời hợp nhất. Như vậy mới đặt bút xuống vẽ, cần chú ý “phù”, “chú”, “ấn”, “bộ”. Chúc: Linh nghiệm!
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Long khẩu hóa cốt phù
Có một lần. Thượng sư Liên Ấn mời tôi và thị giả đi ăn cơm, địa điểm ở Dã Quán, Đài Trung. Sư mẫu Thượng sư Liên Hương gọi một món cá hố. Con cá hố rất to, chặt thành khúc, đem chiên giòn, thơm phưng phức. Thịt tươi ngon nhưng xương cứng, xương cá rất nhọn. Khi tôi ăn cá, không cẩn thận đã nuốt cả miếng cá gồm thịt và xương. Thế là có vấn đề rồi đây. Xương cá kẹt ở trong cổ họng rất sâu, có vẻ như cắm chặt vào trong cổ họng của tôi, có hơi đau. Cứ nuốt là đau. Không nuốt cũng có cảm giác tưng tức, đó là một miếng xương nhọn lớn vừa phải. Tôi thử: Nuốt một miếng cơm trắng, hy vọng kéo theo xương cá vào trong bụng nhưng không hiệu quả, xương cá vẫn ở đó. Ăn một miếng mochi [bánh nếp Nhật Bản] muốn dùng cái dẻo của mochi để dính xương cá vào bụng nhưng xương cá vẫn còn. Lúc này tôi bắt đầu thấy căng rồi. Tôi liền lấy một ly nước, vẽ “long khẩu hóa cốt phù” trên mặt nước, rồi uống.
Tôi đợi mọi người ăn cơm xong, chúng tôi lái xe đi tìm phòng khám tai mũi họng. Bác sĩ kêu tôi mở to miệng ra rồi chụp X-quang. Bác sĩ nói: “Thấy xương cá cắm rất chặt ở trong cổ họng!” Bác sĩ lại nói: “Do xương ở sâu phía trong họng, cây kẹp của tôi không đủ dài nên không kẹp tới được, ông vẫn nên đến bệnh viện lớn thì tốt hơn!” Thế là chúng tôi lái xe đến bệnh viện Trung Sơn. Trên đường đi, tôi cảm nhận được xương cá trong cổ họng đột nhiên nóng lên một cái, rồi không còn cảm giác đau nữa. Nhưng chúng tôi vẫn đi gặp bác sĩ. Bác sĩ dùng ống camera điện nội soi, cắm từ lỗ mũi vào đến cổ họng rồi tìm xương cá thông qua máy tính. Kết quả, không tìm thấy xương cá. Lại chụp X-quang. Vẫn không tìm thấy xương cá. Xương cá biến đâu mất rồi? Rõ ràng vốn là có xương cá cắm vào chỗ rất sâu ở cổ họng, trước đó bác sĩ khoa tai mũi họng cũng nhìn thấy, lại còn vẽ hình thù của xương cá thế này “J”. Xương đã đi đâu rồi? Cảm giác lúc đó của tôi là pháp phù đã tiêu hóa xương cá rồi. Không thấy nữa! Tiêu hóa rồi! Tan biến rồi! Chính là lúc trên đường lái xe đến bệnh viện Trung Sơn, cổ họng nóng lên một cái, xương đã bị tiêu hóa. Toàn bộ miếng xương cá hoàn toàn biến mất không thấy nữa. Mọi người đi cùng thở phào nhẹ nhõm.
Kỳ lạ! Hóa cốt phù hiệu nghiệm! Chú ngữ: “Oản hoá đông dương đại hải, yết hầu hoá vạn trượng thâm đàm, cửu long quy động, ngô phụng Liên Sinh Hoạt Phật luật lệnh.” Phù vẽ trên nước. Hà một hơi chân khí. Lập tức hiệu nghiệm.
02. Liên Sinh phù và các phù thức khác
Trên thị trường có những sách phù khác, nhưng Liên Sinh phù và các phù thức khác đó không giống nhau, hơn nữa cũng không giống với những phù thức đã từng có trước đây. Đây là bởi vì: Trên thiên giới có một loại cây là cây phù. Trên tất cả các phiến lá đều vẽ hình dạng cách thức của phù. Muôn phần kỳ quái Phượng múa rồng bay. Vừa cong vừa xoắn. Vừa đứt vừa liền. Có một vị tiên nhân quản lý cây phù tên là Kim Đào Tôn Giả. Ngài hái quả của cây phù cho tôi ăn. Ăn xong, tôi có thể tự tâm tuôn chảy ra các loại phù thức, hơn thế nữa, mỗi ngày mỗi biến hóa. Đây chính là: Nay có Liên Sinh phù. Cứu độ chúng sinh linh. Tất cả đều linh nghiệm. Lợi chúng sinh hữu tình. Vì thế, chỉ cần tôi thiền định nội quán là tự nhiên có thể vẽ ra vô lượng vô tận phù thức. Đó chính là: Liên Sinh phù! Những người muốn học Liên Sinh phù, cần phải đọc tâm yếu vẽ phù Chân Phật Mật Pháp trong cuốn “Tiên Thiên Phù Bút” để tránh có sai sót.
Từng có một lão nông dân, cột sống mọc gai xương, nằm trên giường kêu la thảm thiết nhiều ngày. Bác sĩ kiểm tra, yêu cầu ông mổ. Nhưng nếu mổ không thành công thì cũng có rủi ro là sau đó sẽ phải ngồi xe lăn. Lão nông dân cầu thỉnh tôi giúp. Tôi nói: “Tôi có thể vẽ phù giúp ông, nếu như thành công, ông cần niệm Chân Phật Kinh một nghìn biến.” Lão nông dân hỏi: “Cần bao nhiêu tiền?” Tôi đáp: “Không cần!” Lão nông dân cảm kích rơi lệ. Lão nông dân nói: “Muốn mổ cần phải có một khoản chi phí lớn, khỏi hay không thì chưa biết, còn Liên Sinh phù của Lư Sư Tôn không cần tới tiền. Tôi thực sự quá cảm kích! Chỉ bảo tôi niệm mỗi Chân Phật Kinh.”
Chú ngữ: Chân long hạ giáng, yêu phệ thảo long. Thảo long tự khứ, toàn thân khai hoành. Cấp cấp như Liên Sinh Hoạt Phật luật lệnh.
Uống một tấm phù, qua một đêm, tự ra khỏi giường được. Đến bệnh viện lớn kiểm tra, kết quả là: Gai xương to đã biến mất! Lão nông dân liền niệm Chân Phật Kinh một nghìn lần. Những người trong thôn nghe nói chuyện này, toàn bộ đều quy Chân Phật Tông. Xương gai của phù trước là: xương cá. Xương gai của phù này là: tự xương cơ thể mọc ra xương.
Tôi thường xuyên khuyên người khác: “Có bệnh cần đi khám bác sĩ trước. Nếu như chữa trị không khỏi mới đến tìm Lư Sư Tôn - Phù Tử Tiên này!”
03. Tổng phù khoa thần kinh
Tôi luôn cho rằng nguồn gốc của phù lục là từ thời cổ đại, khi Phục Hy vẽ Bát quái. Bát quái này chính là phù hiệu, tượng trưng cho sự biến hóa liên tục không ngừng của vạn vật tự nhiên trong trời đất. Bát quái tức là: Thiên - Địa - Lôi - Phong - Trạch - Thủy - Hỏa - Sơn. Trong đó có dương có âm, từ đó âm dương sinh vạn vật. Những vị nghiên cứu thời cổ đại có: Bát Quái Tổ Sư, Phục Hy, Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, Vân Mộng Sơn Quỷ Cốc Tiên Sư… Sau này thậm chí còn có học thuyết: “Lấy côn trùng làm dấu mà ghép lại thành phù, lấy âm thanh cầm thú để gom tụ lại thành chú ngữ.” Trong đó: Có hợp có khắc. Có cát có hung. Âm dương Bát quái chuyển hóa thành sự vật hình dạng, thì trở thành Phật và ma, thần và quỷ. Hôm nay, trạng thái đầu óc tinh thần của rất nhiều người vẫn nằm trong phạm vi trạng thái bình thường, chúng ta gọi là “người bình thường”. Nhưng cũng có trạng thái đầu óc tinh thần của rất nhiều người khác nằm ngoài phạm vi bình thường, chúng ta gọi là “bệnh tâm thần”. Phạm vi của “bệnh tâm thần” này rất lớn, rất rộng. Có một số bệnh chữa khỏi được, có một số không chữa khỏi được.
Về phương diện Liên Sinh phù, có phù để trị “tẩu hỏa nhập ma” và “phạm âm” (phạm quỷ). Cũng chính là ma quỷ nhập vào trong người, dân gian thường nói là bị ma nhập - quỷ nhập, hay là bị chiếm thân (đoạt xá). Nếu mọi người từng xem bộ phim “Đại pháp sư” hoặc bộ phim “Người khử ma” [Người trục quỷ - The Excorcist - 1973] thì có thể thấy trên đời này thực sự có chuyện như vậy, chỉ là bệnh tình nhẹ hay nặng mà thôi.
Tổng phù khoa thần kinh này như sau:
Thông thường những người trục quỷ trừ ma của Thiên Chúa giáo sẽ dùng nước thánh, dùng thập tự giá, dùng kinh thánh, dùng niệm kinh văn để đuổi ma quỷ. Còn tôi thì đầu tiên sẽ hóa phù, cho người bệnh uống phù này rồi niệm chú ngữ. Người bệnh sẽ bình tĩnh trở lại rồi ngủ say, khi tỉnh lại thì đã trở thành “người bình thường”. Tôi dùng pháp này đã cứu được hàng nghìn hàng vạn người. Tuy nhiên có một số ma quỷ rất hung hãn. Lúc đó tay tôi kết ngũ lôi ấn, thỉnh Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn hoặc Bắc Phương Đãng Ma Thiên Tôn Huyền Thiên Thượng Đế, rồi tung ra ngũ lôi ấn! Những người bị bệnh thần kinh (bệnh quỷ thần) này ngay sau đó liền gục xuống đất không dậy nữa. Đợi khi tỉnh lại thì đã bình thường rồi.
Liên Sinh phù chữa bệnh thần kinh như sau:
Chú ngữ: “Thành tâm thỉnh Liên Sinh, ngũ phương thần cùng bảo vệ, đệ tử ... (tên người đọc chú) nguyện xin nhận sự gia hộ. Thiên ma ác quỷ cản khoái ly, khẩn khẩn thoái, khẩn khẩn hảo, mạc lưu cửu bệnh thọ phiền não, tiêu tai giải ách tận khoái hảo. Cấp cấp như luật lệnh.”
04. Liên Sinh Hoạt Phật hộ thân phù
Nhà văn nổi tiếng - cư sĩ Phùng Phùng từng xin phù của tôi. Đó là do Lại Văn Ngạn (Thượng sư Liên Cao) giới thiệu, trong đó có một tấm phù chính là Liên Sinh Hoạt Phật hộ thân phù.
Cư sĩ Phùng Phùng kể: Có một lần ông về nhà lúc nửa đêm, đi ngang qua một rừng thông tĩnh mịch tối đen, đột nhiên Phùng Phùng nhìn thấy xung quanh có du quỷ dã quỷ tiến gần chỗ ông. Lúc này con quỷ đứng sát người ông kêu: “Trên người ông ta có ánh sáng!” Một con quỷ khác kêu: “Có hộ thân phù!” Quỷ lại nói: “Là Liên Sinh Hoạt Phật hộ thân phù.” Thế là du quỷ dã quỷ ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Chỉ một lúc sau, toàn bộ đã bỏ chạy hết.
Tôi nghe xong cười ha ha ha! Tấm hộ thân phù này của tôi có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm. Từng có một đệ tử đeo hộ thân phù bằng đồng gặp băng cướp xã hội đen. Chúng móc súng ra bắn vào ngực của đệ tử tôi. “Pằng” một tiếng, bắn trúng ngay ngực của người đệ tử. Kết quả: Toàn thân đệ tử không bị tổn hại dù chỉ một cọng tóc. Điều trùng hợp chính là viên đạn bắn trúng vào miếng đồng hộ thân trước ngực của đệ tử. Miếng đồng hộ thân bị lõm vào, thực sự đã cứu được mạng của đệ tử! Còn nữa: Có đệ tử đeo Liên Sinh Hoạt Phật hộ thân phù đi vào nhà của một thầy tướng số. Thầy tướng số hôm đó xem tướng số hoàn toàn mất linh. Thầy tướng số là người nuôi nhĩ báo đồng tử (nuôi tiểu quỷ).
Sau đó: Thầy tướng số hỏi nhĩ báo đồng tử: “Tại sao không linh?” Nhĩ báo đồng tử đáp: “Lư Sư Tôn đến, cho nên chúng tôi chạy đi chỗ khác!” “Bản thân Lư Sư Tôn đâu có đến chứ!” Nhĩ báo đồng tử đáp: “Bản thân Lư Sư Tôn chưa đến, nhưng thẻ hộ thân đến, ánh sáng chiếu khắp phòng, chúng tôi đành phải bỏ chạy.”
Liên Sinh Hoạt Phật hộ thân phù như sau:
Chú ngữ: “Liên Sinh Hoạt Phật bản tính Lư, thủ nã bảo kiếm trảm yêu ma. Đệ tử kim nhật thành phụng thỉnh, si mị võng lượng tẩu mang mang. Liên Sinh Hoạt Phật bản tính Lư, thủ nã cương đao tứ phương du, Đệ tử kim nhật thành phụng thỉnh, yêu ma quỷ quái toàn đào độn. Liên Sinh Hoạt Phật bản tính Lư, thủ nã ma tuyến kiêm thiết toả. Đệ tử kim nhật thành phụng thỉnh, nhất thiết tinh mị toàn khổn bang. Liên Sinh Hoạt Phật cấp cấp như luật lệnh.”
Tôi nói với mọi người: Phù này có thể in với số lượng lớn, in trên giấy vàng hoặc in trên miếng đồng đeo trên người. Phù phải do Liên Sinh Hoạt Phật Lư Sư Tôn đích thân gia trì mới được. Hoặc: Do Thượng sư, pháp sư, cư sĩ của Chân Phật Tông gia trì, nhưng nhất định phải là người có tu hành. Phàm phu không gia trì được. Với bất cứ phù nào thì việc gia trì là quan trọng hàng đầu. Có gia trì rồi, cũng tức là thần binh thần tướng đã “bố quang” ở trên tấm phù đó. Nếu như không có “bố quang” thì phù cũng chỉ giống như giấy trắng mà thôi. Nhớ kĩ! Nhớ kĩ! Gia trì “bố quang” quan trọng số một.
05. Liên Sinh Hoạt Phật thỉnh thần phù
Trong văn chương “Hiên Viên Bổn Ký” có nhắc đến vua Hoàng Đế, một mặt bình loạn trị quốc, một mặt cũng luyện đan tu đạo. Sau này tới khi công đức viên mãn, ngài đã thăng lên trời tại Đỉnh Hồ. Ngoài ra: Vua Hoàng Đế khi đi tuần về phía Đông, gặp được Tử Phủ tiên sinh. Tử Phủ tiên sinh trao “Tam Hoàng Nội Văn” cho vua Hoàng Đế, có thể triệu thỉnh vạn thần. “Tam Hoàng Nội Văn” tức là thần phù. Trong “Đạo Giáo Bản Thủy Bộ” có viết: Phục Hy thọ nhận Đồ. Hiên Viên thọ nhận Phù. Cao Tân thọ nhận Thiên kinh. Hạ Vũ thọ nhận Lạc thư. (Về việc Hiên Viên thọ nhận phù, có truyền thuyết nói rằng, khi vua Hoàng Đế đại chiến với Si Vưu, Tây Vương Mẫu - Diêu Trì Kim Mẫu đã lấy phù tặng cho vua Hoàng Đế.) Diêu Trì Kim Mẫu đã gửi Cửu Thiên Huyền Nữ hạ giáng ban cho vua Hoàng Đế “Triệu thỉnh phù”. Hoàng Đế lập tức lên đàn thành triệu thỉnh, lấy được “Huyền ngư hàm phù” rút ra từ trong nước. Đó là sự việc Hoàng Đế bắt đầu được phù.
Ngoài ra: Đại Vũ trong thời cổ đại nhờ việc trị thủy mà nổi danh. Lạc thư mà ngài có được cũng là phù hiệu. Đại Vũ là nửa người nửa thần. Thiên Đế lúc bấy giờ cũng đem Lạc thư truyền cho Đại Vũ. Đại Vũ dùng Lạc thư trong tế đàn, có thể trì chú triệu thần. Nhờ vậy ngài đã trị được nước lũ. Lạc thư là lục văn phù hiệu rất quái dị. Độc giả nếu như thường xuyên đọc sách của tôi, chắc chắn sẽ biết: Đông Hoa Đại Đế. Diêu Trì Kim Mẫu. Liên Hoa Đồng Tử. Ba vị này vốn dĩ không thể tách rời. Mà Liên Hoa Đồng Tử tức là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.
Còn nữa: Con gái của Diêu Trì Kim Mẫu-Vân Hoa phu nhân, chính là phu nhân của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Vì vậy: Việc Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn không có gì kỳ lạ cả. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn có Thỉnh thần phù (Triệu thần phù) cũng là chuyện đương nhiên.
Triệu thần phù:
Chú ngữ: “Lôi đình hiệu lệnh, cấp như tinh hỏa, khoảnh khắc dao văn, Liên Sinh sắc lệnh, phần phù triệu thỉnh, linh quan truyền tấu, trị niên trị nguyệt trị nhật, thiên cung công tào thông linh thổ địa, văn triệu tức chí, hỏa tốc đáo đàn, thính ngô pháp chỉ, hữu sự sai khiển. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này có một điểm quan trọng: Chân phải bước vũ bộ. Đốt phù trước, rồi trì chú, sau đó bước vũ bộ. Cuối cùng chư thần từng vị một giáng xuống, người chủ sự nói rõ với chư thần việc muốn làm và thỉnh cầu chư thần đi giúp đỡ hoàn thành việc đó.
Đặc biệt phải chú ý: Phù này không phải tầm thường, do vậy không được khinh xuất, không được đùa giỡn, không được xem là trò chơi. Những linh phù trị bệnh thông thường vốn đã không thể tùy tiện rồi, “Thỉnh thần phù” lại càng cần phải trang trọng. Việc rất lớn mới được triệu thỉnh. Nếu tùy tiện triệu thỉnh thần sẽ bị trời trách phạt!
06. Phát tài phù
Ngày trước tôi đi ngang các cửa hàng, nhìn thấy trước cửa rất nhiều cửa hàng đều dán một tấm phù. Phù này là bản in, giấy màu đỏ, chữ màu đen, vô cùng ngay ngắn. Chữ là “nhật nhật kiến tài” [ngày ngày thấy tiền].
Phù này vừa nhìn vào là thấy ngay bốn chữ nhật, nhật, kiến, tài đem tổ hợp lại thành một chữ, vừa là chữ, cũng là phù. Nhưng mọi người phải biết là phù được in ấn cũng giống như dùng đĩa hát niệm Phật vậy. Có phù mà không có tâm, có tiếng mà không có tâm. Loại phù in ấn chế phẩm này không có bất cứ hiệu lực nào, trừ phi mời đại pháp sư đến dùng pháp lực gia trì thì loại phù được in ấn này mới có hiệu lực. Về việc vẽ phù, có câu rất hay: “Nếu biết vẽ phù giỏi, sẽ khiến quỷ thần sợ. Chẳng biết vẽ phù hay, sẽ khiến quỷ thần cười.” Vẽ phù nằm ở sự nhất tâm. Tâm của thần linh. Tâm của người vẽ phù. Tâm của người xin phù. (Ba tâm này hợp làm một tâm thì phù mới linh nghiệm.) Có một đệ tử nói: “Thỉnh Lư Sư Tôn vẽ một tấm phù, con mang đi in, sau đó thỉnh Lư Sư Tôn gia trì rồi phân phát cho hàng xóm láng giềng.” Tôi nói: “Hàng xóm láng giềng nếu như không có tâm thỉnh phù mà cố tặng phù cho họ thì phù này không có công hiệu đâu.” Vì vậy: Người xin phù. Người vẽ phù. Thông linh với thần linh. Đều là các yếu tố tạo nên sự linh nghiệm, thiếu một thứ cũng không được. Cái gọi là thông linh với thần linh cũng có nghĩa là thần linh mà người vẽ phù thỉnh đến có giáng xuống bố quang hay không? Có thì mới được, không có thì không linh nghiệm, chỉ vậy thôi! Tôi có một tấm phù:
Chú ngữ: “Bái thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật, Đại Phúc Kim Cang đại vô tỉ, uy linh hiển thập phương, chủ tể nhân gian tăng phúc sự. Vận lai Đông Nam Tây Bắc, nhất thiết tài. Nhật nhật tài, nguyệt nguyệt tài, niên niên tài, ngũ lộ ngũ phương tài. Hữu tài lai, vô tài khứ. Cấp cấp như luật lệnh.” Khi đốt giấy vàng có thể cho phù vào cùng đốt, hoặc đeo phù trên người cũng được. Tấm phù này vô cùng bí mật. Bình thường tôi không tùy tiện cho tặng bởi vì cần phải quan sát người xin phù. Đó phải là người tốt. Có thiện quang. Có thiên phúc. Có tài lộc. Do vì gặp một người lúc khốn đốn, tôi mới lấy phù mở kho báu của trời, ban phúc cho người đó. Liên Sinh ban tài đến. Người tốt tăng sắc quang. Hành thiện kèm bố thí. Phật pháp ở trong tâm.
07. Xuất môn bình an phù
Liên Sinh phù mà tôi vẽ, thực tế phân tách kĩ lưỡng ra sẽ có năm bộ phận, cũng tức là do năm điểm hợp thành: Đầu phù. Thần phù. Bụng phù. Ruột phù. Đuôi phù.
Tôi giải thích như sau: Ba điểm đầu phù: nhật, nguyệt, tinh. (thiên-địa-nhân) Thần phù: Liên Sinh Hoạt Phật. Bụng phù: Dùng vào việc gì, tác dụng gì. Ruột phù: Linh của phù Chân phù: Thần binh thần tướng.
Tôi đặc biệt giải thích, thần phù này dùng Liên Sinh Hoạt Phật sắc lệnh, ý nghĩa của nó rất rộng lớn. Hai chữ Liên Sinh tương ứng với chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên, đồng nghĩa là thỉnh mời khắp tất cả. Lại nữa: Liên Sinh tôi là hợp lực gia trì của Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật và Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng tượng trưng cho sức mạnh của ba Bổn tôn là Tiên Vương, Phật Vương, Địa Vương. Còn Hộ pháp Đại Uy Đức Kim Cang là Heruka, tất cả quỷ thần đều phải nghe lệnh. Tất cả chính là một, một chính là tất cả. Vì vậy hai chữ Liên Sinh chính là cách gọi chung của thần phù.
Tôi thuật lại một chuyện như sau: Có hộp đêm bị cháy, cửa thoát hiểm khẩn cấp lại bị khóa. Vốn dĩ không cách nào thoát hiểm, rất nhiều người bị chết trong đám cháy. Trong đó có một người bị người khác xô đẩy, cuối cùng lại từ cửa một phòng thay đồ có lửa cháy yếu hơn mà chạy được ra ngoài. Người này là đệ tử của tôi, trên người đeo phù Xuất môn bình an. Một đám cháy lớn. Một người thoát được. Người này đeo Liên Sinh Hoạt Phật xuất môn bình an phù. Phù này bảo hộ: Đi tàu xe bình an, máy bay bình an, rời nhà bình an, đến chỗ hiểm bình an, leo núi bình an, xuống nước bình an, ra công trường bình an, lái xe bình an.
Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Nhật cát tường, dạ cát tường, nhất nhật lục thời hằng cát tường, nhất thiết cát dạng trung chi giả. Kì thượng sư gia trì, Bổn tôn nhiếp thụ, Hộ pháp ủng đái. Cấp cấp như Liên Sinh Hoạt Phật luật lệnh.”
Liên Sinh Phù này có điểm đặc biệt, do những phù này là khi tôi nội quán sẽ từ tự tâm tuôn chảy. Phù từ trước đến nay chưa từng có, rất hiếm khi nhìn thấy. Đây là Liên Sinh Hoạt Phật thương xót chúng sinh, từ bi với chúng sinh thiên hạ, bảo hộ thiên hạ quần sinh, mong rằng người người xuất môn bình an, có thể đi ra khỏi nhà một cách vui vẻ, về nhà một cách vui vẻ. Bình an quan trọng nhất. Đeo phù này thì tâm an. Tâm an cũng tức là bình an. Phật thuyết: Vô thường vô thường! Còn chúng ta sống thì phải: Tâm an. Bình an.
08. Thanh tịnh phù
Muốn vẽ Liên Sinh phù nhất định phải giữ giới luật. Không giữ giới luật cũng chính là làm bừa, không có thành tâm thành ý. Không giữ giới luật, tâm có tà niệm, tư tưởng hỗn loạn, thân không sạch sẽ, thì vẽ phù chắc chắn vô hiệu!
Giới thứ nhất: Không được có tâm niệm bất chính: Muốn lừa tiền lừa sắc.
Giới thứ hai: Không được có tay miệng ô uế: Không rửa tay, không tắm rửa, không đánh răng. Tay hôi, thân hôi, miệng hôi, người sợ, thần cũng sợ.
Giới thứ ba: Không để giấy mực bất tịnh: Giấy vẽ, bút vẽ, mực nước, nghiên mực, mặt bàn, phải tăng cường giữ gọn gàng sạch sẽ.
Giới thứ tư: Phải nhất tâm thỉnh thần: Phải biết quán tưởng hình tướng của chư Phật. Phù Liên Sinh phải quán tưởng hình tướng của Liên Hoa Đồng Tử, trang nghiêm thần thánh.
Giới thứ năm: Không được nhìn trái nhìn phải: Nếu vẽ một hai đường lại dừng lại, vẽ một nửa lại nghỉ ngơi thì đều không được. Phải vẽ một mạch là thành.
Ngoài ra còn một số cấm kị: Kị thai phụ, kị chó mèo, kị quấy nhiễu, kị phù chú không hợp, kị ô uế không sạch sẽ.
Trên đây là giới luật của vẽ phù, đây là điều tôi đã nhắc nhở đi nhắc nhở lại, cần phải ghi nhớ!
Chú ngữ: “Nam-mô sa-man-tô mô-thô-nam wa-zư-la ta-mô sê. Phụng Liên Sinh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Nếu như gia trạch không thanh tịnh, có thể dùng phù thanh tịnh để thanh tịnh trước. Nếu như thân tâm không thanh tịnh, cũng có thể dùng phù thanh tịnh để thanh tịnh. Trong nhà có âm hồn, dùng phù thanh tịnh. Thân tâm vướng âm, dùng thanh tịnh phù.
Tác dụng của hai tấm phù này rất quảng đại, gia trạch đều có thể dùng, thân người cũng có thể dùng. Đem đốt pha vào nước, tưới khắp gia trạch, hoặc uống vào trong người. Phù không chỉ có thể thanh tịnh. Người có phù lực lớn cũng có thể dùng để khử tà đuổi quỷ, thanh tịnh tất cả vật phẩm.
Chú ngữ: “Nhất sái thiên nhất thủy, thiên thanh địa linh. Nhị sái thiên nhất thủy, gia trạch thanh minh. Tam sái thiên nhất thủy, thân tâm giai ninh. Phụng Liên Sinh Hoạt Phật. Cấp cấp như luật lệnh.”
09. Đột quỵ phù
Tôi thường nghe nói: Có người lái xe máy, đi được nửa đường, đột nhiên người lái ngã từ trên xe xuống. Vậy mà chết luôn! Có người đang họp, họp được nửa buổi, có chút mệt mỏi gục xuống mặt bàn. Vậy mà chết luôn! Có người đang ngủ, ngủ đến nửa giấc, chết luôn! Đệ tử của tôi là bác sĩ Phùng Cẩm Lương, nửa đêm phẫu thuật khẩn cấp cho bệnh nhân, khi phẫu thuật kết thúc, về đến nhà thì bị hôn mê dưới đất, sau đó bị đột quỵ. Theo như tôi biết, đột quỵ có rất nhiều loại, chủ yếu là đột quỵ não hoặc tắc nghẽn cơ tim. Não là bộ phận quan trọng, tim là bộ phận quan trọng. Hai bộ phận này bị tắc nghẽn hoặc nứt ra đều dẫn đến đột quỵ. Còn có rất nhiều nguyên nhân khác.
Vừa đột quỵ phải lập tức đưa đến bệnh viện ngay, bởi vì cứu chữa đột quỵ chỉ trong vòng tám giờ vàng. Huyết quản bị tắc nghẽn hoặc huyết quản bị vỡ nứt cũng đều là đột quỵ.
Dạo này thời tiết nóng lạnh phức tạp, lạnh thì co rút, nóng thì trương phình, người bị đột quỵ rất nhiều. Có đệ tử bị đột quỵ, lúc được chăm sóc từng xin Đột quỵ phù, kết quả là khỏi rất nhanh. Phù mà anh uống là phù Đột quỵ như sau:
Chú ngữ: “Thượng Thanh sắc lệnh, Thái Thanh sắc lệnh, Ngọc Thanh sắc lệnh. Nhất thiết trở ngại toàn bộ thanh. Nhất chính phá vạn tà, thần chí thanh thanh thanh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Trước là phù thức cũ. Còn phù mới - Liên Sinh phù như sau:
Phù thức cũ chỉ chữa đột quỵ não. Phù thức mới có chữa thêm tắc nghẽn cơ tim và đột quỵ não. Lớp ngoài là não, lớp trong là tim. Chú ngữ cũng khác nhau, chú là: “Phụng thỉnh Liên Sinh Hoạt Phật sắc lệnh, nguyên thủy an trấn, tảo đãng bất tường, nhất thiết trở tắc, nội ngoại túc thanh, các an phương vị, bị thủ đàn tràng, thượng não hạ tim, hồi hướng chính thường. Cấp cấp như luật lệnh.”
Người mới bị đột quỵ sẽ hồi phục nhanh nhất. Còn người bị đột quỵ lâu rồi cũng sẽ dần dần khỏe lại.
Hiện nay không phải chỉ có mỗi người già mới đột quỵ. Ngay cả thanh niên vẫn bị đột quỵ. Thậm chí mắt cũng bị trúng phong! Có rất nhiều người dây thần kinh ở mặt cũng bị trúng phong, miệng lệch mắt xếch, uống đột quỵ phù vào thì khỏi ngay!
Loại phù này dùng để uống, không phải dùng để dán, cũng không phải đeo trên người.
Còn trong trường hợp nhịp tim đập không đều, khi rất hồi hộp: Dùng tay phải vẽ vào lòng bàn tay trái. (Tay phải bắt kiếm ấn hoặc kim cang ấn rồi vẽ.) Niệm chú ba tiếng “Hum. Hum. Hum”. Tay trái đập vào chỗ tim bùm bùm, ấn hướng vào tim. Tim sẽ lập tức bình thường. Tôi dùng cách này chữa cho rất nhiều người bị nhịp tim không đều.
10. Phù trong lòng bàn tay
Phần trước tôi đã nhắc đến vẽ phù trong lòng bàn tay, đó là vì sự việc xảy ra nhanh chóng quá, vốn dĩ không kịp chuẩn bị công cụ. Luôn có một số sự việc đột ngột xảy ra mà không thể chuẩn bị từ trước. Thế là bó tay, không còn cách nào nữa! Phải làm sao đây? Là đại pháp sư thực sự thì vẫn có cách. Dùng ngón tay của tay phải vẽ vào lòng bàn tay của tay trái. Hà một hơi chân khí Ah. Ấn vào. Ví dụ: Nửa đường gặp ma. Tay phải vẽ phù vào lòng bàn tay trái. Dùng kiếm chỉ hoặc kim cang chỉ vẽ: Phù này là Liên Sinh Hoạt Phật sắc lệnh ngũ lôi phù.
Chú ngữ: “Đông khởi Thái Sơn lôi, Nam khởi Hoành Sơn lôi, Tây khởi Hoa Sơn lôi, Bắc khởi Hằng Sơn lôi, Trung khởi Tung sơn lôi, ngũ lôi tốc phát. Om. Hum. Hum.”
Nếu không kịp niệm chú dài, thì niệm chú: “Hum. Hum. Hum. Hum. Hum.” Niệm năm chữ “Hum” cũng được. Nếu vẽ phù cũng không kịp, cần vẽ nhiều nét như vậy thì phải làm sao? Thì vẽ một chữ đẩu cũng được, hình như sau:
Chữ Đẩu này chính là “quang minh”. Hà một hơi chân khí Ah. Lòng bàn tay trái ấn về phía ma quỷ, miệng đọc: “Hum. Hum. Hum. Hum. Hum”. Ma quỷ vẫn kinh sợ mà bỏ chạy! Những ma quỷ này gặp phải đại pháp sư thực sự, vừa nhìn thấy đại pháp sư tĩnh khí ngưng thần, tay phải vẽ lên tay trái, mở lòng bàn tay ra niệm chú, trong lòng bàn tay xuất hiện đại quang minh, thì liền bỏ chạy mất hút. Tôi nói cho mọi người biết. Chữ Đẩu bên cạnh là tinh tú, chữ Đẩu là quang minh, chữ Đẩu là thần tướng, chữ Đẩu là đại lực, chữ Đẩu là chư tiên. Tôi lại nói cho mọi người biết một chữ Thượng (ở phía dưới):
Trong chữ Thượng đại diện: Ba chấm là Tam Thanh, tức Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh. Khẩu chính giữa chính là sắc lệnh, luật lệnh, mệnh lệnh.
Chữ Thượng này không phải tầm thường, là phù chữ mà trước đây tôi từng nói. Những thứ trên tôi đã từng giới thiệu qua rồi. Những điều này đều là sự vi diệu được tạo ra của tự nhiên, vượt ra ngoài sự hiểu biết tính toán của con người, lại cũng có ý nghĩa tình lý của hình tượng cụ thể. Muốn biết vẽ phù thật ra cũng không đơn giản.
11. Vẽ trong hư không
Khi dùng pháp kết giới của Mật giáo, tôi thường dùng “cửu tự chân ngôn” làm kết giới. Cách này là vẽ trong hư không. Vẽ phù trong hư không, dùng cho kết giới. Kết giới là gì? Bức tường kim cang. Nền móng kim cang. Lưới võng kim cang. Nhà lửa kim cang.
Lấy một ví dụ: Giả định có một tòa nhà tụ tập cả đám ác quỷ ở bên trong, chúng ta sẽ dùng pháp thanh tịnh để thanh tịnh trước, sau đó làm kết giới.
Bốn mặt là tường kim cang:
Vừa niệm chú ngữ “Lâm binh đấu giả giai trận liệt tại tiền”, vừa vẽ bốn bức tường trong hư không, tổng cộng bốn mặt thành tường kim cang. Hướng về bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc để vẽ.
Sau đó hướng xuống đất vẽ nền móng kim cang:
Chú ngữ là: “Ah! Ah! Ah! Ah! Ah!”
Tiếp đến, hướng về hư không vẽ lưới võng kim cang. Lưới võng kim cang giống như một tấm lưới từ trong hư không chụp xuống dưới:
Chú ngữ: “Khang Khang Khang Khang Khang.” Hư không sẽ có lưới võng kim cang chụp xuống.
Rồi lại vẽ nhà lửa kim cang.
Cũng tức là ở dưới mặt đất của bức tường kim cang, bay lên ngọn lửa kim cang. Chỉ ở trong nền đất của bức tường kim cang, móc thành bốn chữ “V” tức là thắp cháy lửa kim cang, trở thành nhà lửa kim cang. Chú ngữ là: “Yang Yang Yang Yang Yang.”
Cũng chính là hình tượng căn nhà: (Mái nhà là lưới võng kim cang, tường là bức tường kim cang, đất là nền móng kim cang, không gian bên trong có nhà lửa kim cang.) Căn nhà như vậy một khi được kết giới, hung thần ác quỷ, quỷ ma tinh linh đều không dám vào nhà này.
Trên cơ thể người cũng có thể kết giới như thế. Xem thân thể người là căn nhà, tự mình sẽ có thể không cho ngoại linh xâm nhập và chiếm nhà nữa, đây là đại pháp phòng ma.
12. Cách dùng Liên Sinh phù
Theo cách sử dụng phù pháp, kì thực có rất nhiều cách dùng. Có cách dùng để đốt, có cách dùng để đeo trên người, có cách dùng để dán, có cách dùng để tắm rửa. Đốt: Chính là dùng để chữa bệnh. Dựa theo bệnh tình bệnh lý, vẽ ra tấm phù đối trị bệnh. Sau khi đốt sẽ uống. Có thể dùng lửa đốt trực tiếp, đốt từ đuôi phù (đốt từ dưới lên). Pha nước để uống. (Có một số bệnh nhân từ chối uống phù thì có thể lấy tro phù đem lọc bỏ đi, nước cho vào canh, trà, thức uống.) Đeo trên người: Chính là phù dùng để hộ thân, bảo vệ thân. Đem tấm phù gấp thành hình bát quái, sau đó dùng túi vải đỏ để đựng, bỏ vào trong túi áo túi quần hoặc là trong ví da. Nếu như phù chế bằng đồng hoặc kim loại, có thể dùng dây chuyền đeo trước ngực của mình. (Khi tắm có thể cởi ra, sau đó đeo lại là được. Đi vệ sinh cũng vậy. Nếu lỡ quên cũng không sao cả, không cần lo lắng.) Dán: Trực tiếp lấy phù dán ở trên cửa, cửa sổ, cột nhà, trên đàn thành, trên đầu giường hoặc phòng khách, nhà bếp, phòng ngủ, hay trên thùng gạo, trên vật dụng. Cũng có kiểu dán phù lên người, trực tiếp dán lên chỗ đau bệnh. Tắm rửa: Ví dụ nếu như vận khí không tốt, trực tiếp đem đốt phù cho vào bồn tắm, rồi vào bồn tắm ngâm mình. Đem đốt cho vào bồn rửa mặt, dùng rửa mặt. Một số có thể đem đốt, cho vào trong nước, rồi dùng 108 cánh hoa đỏ và trắng bỏ vào trong bồn tắm. Màu đỏ mang đến hỷ khí. (mang tới niềm vui) Màu trắng mang đến tiêu tai. (loại bỏ cái xấu)
Còn có những cách sử dụng đặc thù khác tôi không nói rõ ở đây. Ví dụ trong đó có cách như sau: Với tình huống nghiêm trọng có thể dùng chính thân người làm giấy phù. Trực tiếp lấy bút vẽ lên trên thân người có thể cứu được người đó. Ví dụ tâm thần của người này đã không còn tỉnh táo, hôn mê bất tỉnh. Đại pháp sư sẽ trực tiếp vẽ phù này giữa lồng ngực.
Đây là:
Dùng chú ngữ niệm: “Liên Sinh sắc lệnh, mang mang u minh trung, trùng trùng kim cang sơn, hóa xuất linh phù vô lượng quang, cửu u chi hồn phách, tùy quang lai phản hồn, nhất nhập thân tâm trung, tỉnh lai thân vĩnh an. Cấp cấp như Liên Sinh Hoạt Phật luật lệnh.”
Phù trên thân này đã cứu vô số người. Còn nữa:
Vẽ giữa lồng ngực. Chú ngữ là: “Si mị võng lượng, nhất thiết chúng quỷ, tốc tốc ly thử thân, hung uế tốc khứ, đạo khí trường tồn. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Đây là đám quỷ chúng đoạt xá (chiếm thân - chiếm nhà). Phù vẽ trên người, ra lệnh cho chúng quỷ dọn nhà. Phù này cứu người vô số. Phù này vốn dĩ không truyền, nay tôi đặc biệt vẽ ra. Phù này là trân bảo.
13. Phù tránh cảm cúm
Con người thời hiện đại sợ nhất là bệnh cảm, đặc biệt là người có khả năng miễn dịch kém, trong một năm kiểu gì cũng nhiều lần không khỏe. Còn có bệnh cảm rất phổ biến, chúng ta gọi là cảm cúm. Đến thời kỳ dịch cúm bùng phát, mọi người đều khó mà thoát được. Ho. Chảy nước mũi. Sốt. Những triệu chứng khác xảy ra cùng lúc cũng rất nhiều. Một trận cảm lan truyền rộng thì giết người mất mạng cũng không ít. Ngày nay không chỉ con người có cảm cúm, mà còn phổ biến cả cúm gia cầm. Gà, vịt, ngỗng v.v..., một khi bị cúm gia cầm thì gà, vịt, ngỗng bị bắt giết cả một trăm cả nghìn, cả triệu, cả mười triệu con mà vẫn vô cùng khó khống chế.
Con người không chỉ có cảm cúm. Còn có bệnh Sars đáng sợ nữa. Còn có Ebola v.v… Vi khuẩn thời nay vẫn luôn biến đổi, một khi biến đổi sang đến người lây người thì sẽ có khả năng giống như dịch tả gà, chỉ trong chớp mắt, toàn bộ nhân loại sẽ chết sạch.
Có người hỏi tôi, phải làm sao? Tôi đáp: Diêu Trì Kim Mẫu là thượng cổ thần tiên, ngài kiểm soát thần Ôn Dịch. Ngũ đại ôn thần sợ ngài nhất. Ngài biến thành Hổ Đầu Kim Cang, quản lý ngũ đại ôn thần. Phù thức như sau:
Chú: “Liên Sinh sắc lệnh, hổ thần uy linh, áp ngũ ôn thần, trấn ngũ ôn thần, khu ngũ ôn thần, tróc ngũ ôn thần. Trần uế tiêu trừ, nguyên hanh lợi trinh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này dùng để dán. Chuồng gà. Chuồng vịt. Chuồng ngỗng. Vì có hổ linh thần của Diêu Trì Kim Mẫu, virus cúm gia cầm liền tháo chạy! Có người hỏi: “Vậy người sợ cảm cúm phải làm sao?” Tôi nói: “Có thể chích ngừa từ trước, rồi đeo phù lên người.”
Phù thức như sau:
Chú: “Liên Sinh sắc lệnh, Kim Giáp Thần giáng, hộ hựu thân hóa, an định hồn thần, bệnh độc dịch chí, bất đắc vọng kinh, các an phương vị, nội ngoại túc thanh, thân bất nhiễm độc, tật bệnh toàn tiêu. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này đeo trên người. Phù Kim Giáp Thần này, nếu như cộng thêm áp ấn, sẽ càng thêm công hiệu. Ấn có: Lục đinh lục giáp ấn. Nguyên thủy thái cực ấn. Đô thiên lôi hỏa ấn. Liên Sinh giáo chủ ấn. Tam hoàng ấn.
Phù Kim Giáp Thần trước giờ không truyền, phù này rất hiếm có!
14. Quán tưởng và đường vẽ
Liên Sinh phù làm sao mà có được? Tôi đáp: “Có từ thiên nhân hợp nhất!”
Thiên nhân (trời người) hợp nhất như thế nào? Tôi đáp: “Minh tưởng (thiền), quán tưởng, nhập định.” Kết quả ra sao? Tôi đáp: “Tự tâm tuôn chảy!”
Vì vậy sự quán tưởng của Mật giáo trong pháp phù sẽ biến thành một loại sức mạnh của ý niệm. Bạch Ngọc Thiềm nói: “Bất cứ phù hiệu nào, toàn bộ đều là diễn hóa từ trong hư không mà ra. Nếu con người có thể quán tưởng, phù hiệu sẽ xuất hiện.” Đổng Xung Thư nói: “Quán tưởng nhập hư không, hư không tự có linh, là thiên nhân hợp nhất.” Tôi nói: “Vẽ phù có linh đều nhờ vào có linh khí. Phù có linh khí tự nhiên sẽ linh.” Nói một câu đơn giản là: “Có công hiệu!”
Còn về ý nghĩa của đường vẽ là: Đường thẳng: cương liệt. Đường cong: nhu hoãn. Đường tròn: trung hòa. Chú: cường đại ý niệm. Thủ ấn: kết hợp ý niệm. Bộ pháp: khí tụ ý niệm.
Chú ngữ: “Phụng thỉnh đại y vương, lôi lệnh đáo đàn tràng. Nhân hữu tai nạn lai cầu nhĩ, nhĩ họa tiên phù cứu vạn dân. Thu ác nguyệt, thu ác nguyệt, phiên phiên phúc địa, phúc địa phiên thiên, thu khởi ác nguyệt, viễn tẩu tha phương. Cấp cấp như luật lệnh.”
Đây là phù trị khối u, lành tính, ác tính đều tiêu trừ. Ác nguyệt tức là khối u. Phù này từng xuất hiện nhiều lần trong sách phù của tôi, thực sự linh nghiệm kỳ diệu phi phàm. Ngoài ra còn có phù sau. Chú ngữ giống câu chú ngữ của phù trước đó. Phù này tại sao lại không giống với phù trước? Dùng một chữ thủy thay thế ác nguyệt.
Tại sao thủy lại là ác nguyệt? Chúng ta thường nói, “thiên địa nhật nguyệt thủy hỏa”. Thiên: Dương Địa: Âm Nhật: Hỏa Nguyệt: Thủy Nguyệt tức là đại diện của thủy. Ác nguyệt là biểu thị của khối u không tốt. Hình tròn “O” trong phù đại diện cho khối u, từ đầu đến đuôi đều có thể chữa khỏi.
Tôi vẽ phù này đã cứu độ rất nhiều người rồi! Bệnh nhân có bệnh, thấy tôi hiện trong mơ đưa tay vào trong người lấy khối u ra. Bệnh nhân tỉnh dậy đến bệnh viện kiểm tra lại, phát hiện khối u khổng lồ không còn nữa, đã biến mất! Bác sĩ và bệnh nhân đều vô cùng kinh ngạc!
15. Phù bộ ấn
Khi tổ chức pháp hội hỏa cúng tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, sau khi đốt lửa xong, tôi bước lên phía trước pháp tọa. Đột nhiên tôi bước chân xoay một cái, thân người tạo thành vòng xoay 360 độ, rồi mới bước lên pháp tọa. Mọi người kinh ngạc. Có người hỏi: “Chuyện này là sao vậy?” Tôi đáp: “Đây là phá trừ toàn bộ chướng ngại, cái ấn xoay này là Thiên hạ thông chính ấn. Đó chính là Phù bộ ấn.
Phần lớn Phù bộ ấn có: Kiếm bộ: Hai chân một trước một sau, vừa tiến vừa lui. Đây là dùng để bái thỉnh thần linh, hoặc đốt phù, đốt sớ văn. Vũ bộ: Cũng chính là dùng cho bộ cương đạp khôi, hai chân ngang dọc làm thành bộ chữ đinh. Đây là dùng để triệu tướng. Hạc bộ: Hai chân tạo thành chữ số 8, đây là hành lễ. Thất ấn bộ: Chính là thất tinh bộ. Trước khi tôi gia trì, bước đi chính là thất tinh bộ, tổng cộng có bảy bước, tương tự như thất tinh Bắc Đẩu. Dùng để gia trì. Tôi có một tấm phù quét sạch những thứ không cát tường:
Chú ngữ: “Thiên hạ thông ấn tại thử, tà ma tiểu quỷ tẩu phân phân, thử phù năng thượng thiên, thử phù năng hạ địa, tảo nhất thiết bất chính quỷ thần. Đầu đỉnh Liên Sinh, cước thải cương ấn, nhân khán trường sinh, quỷ khán diệt vong. Cấp cấp như luật lệnh.” Phù này dùng để dán, quét sạch những thứ không may mắn.
Lúc tôi ở Biệt thự Cầu Vồng, vào mùa đông, trong núi có gió mùa, gió thổi rất gấp, thổi cây nghiêng về một phía. (Cành lá của cây bị thổi về một phía). Người bị thổi bạt đi, đất đá bay tứ tung, giương oai thanh thế với con người. Sau đó tôi treo một tràng phan trấn áp, bây giờ đã không còn gió mùa nữa.
Thất tinh trấn phong kỳ như sau:
Chú: “Vân lục thái hư, phong kiếp chi sơ, sạ hà sạ nhĩ, hoặc trầm hoặc phù. Phan huyền thất tinh, phổ lợi vô biên, trấn phong hỏa kỳ, thiên tội tiêu khiên. Các tôn pháp chỉ, bất đắc kê duyên. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Tôi vẽ tấm phù này. Gió mùa tự đi mất! Bây giờ Biệt thự Cầu Vồng gió nhẹ trời trong, trăm hoa đua nở, trở thành biệt thự đẹp nhất. Tôi cảm thấy: Vẽ phù thực sự không phải là một chuyện dễ dàng, không những phải cố gắng học tập mà còn phải có sư phụ truyền dạy. Trí huệ trời ban. Học đúng, người tốt. Chẳng phải trò đùa!
16. Bảy loại phù hiệu
Trong Liên Sinh phù của Lư Sư Tôn có bảy loại đại phù hiệu. Tôi nói rõ chi tiết như sau: Phù hiệu của Đạo: Loại phù hiệu thường gặp này, ở trong bất kì phép thuật nào cũng đều phổ biến, khi ở trong phù sẽ như sau:
Đây là chữ Vũ, thật ra chính là chữ Linh. Mọi người nghĩ xem, bất cứ sự vật gì đều có linh khí. Nếu không có linh khí sẽ mất đi Đạo. Linh khí chính là hóa sinh của Đạo. Bất cứ phép thuật nào cũng đều cần Đạo, cũng chính là bất cứ phép thuật nào cũng đều cần linh, đều cần linh nghiệm.
Phù hiệu của Tam Thanh: Dùng phù hiệu của Tam Thanh, biểu trưng Thái Thanh, Ngọc Thanh, Thượng Thanh. Cũng chính là thiên-địa-nhân, cũng tức là nhật-nguyệt-tinh. Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam hóa vạn vật. Trong phù có ký hiệu ba chữ “v” nhỏ và chữ thượng đều là phù hiệu của Tam Thanh, là Đạo hóa Tam Thanh.
Phù hiệu của Ngũ lôi: Sức mạnh lớn nhất trong nhân gian chính là lôi (sấm sét). Âm thanh lớn nhất là lôi, vang khắp thiên hạ cũng là lôi. Ngũ lôi là sự biến hóa của kim mộc thủy hỏa thổ. Có đại lực, đại pháp lực. (ruột phù) Trong phù là kỳ hiệu như sau:
Phù hiệu của Kim cang: Vốn dĩ phù hiệu của kim cang là mang ý nghĩa bất hoại, nhưng nó cũng dùng làm “sắc lệnh”. Kim cang là dùng cho sắc phù. Hoặc dùng bảo cái, để biểu thị không thể phá hủy. Phù hiệu như sau:
Phù hiệu của Quang minh: Phù hiệu này là cơ mật nhất, là đại phù hiệu tăng trưởng uy lực. Trước nay tôi không truyền, giờ viết nó ra đã gần như là tiết lộ thiên cơ rồi. Phàm là khi khai quang, khi sắc phép cho tượng thần, cộng thêm phù hiệu này sẽ tăng đại quang minh, vô thượng quang minh. Phù hiệu như sau:
Phù hiệu của Thanh tịnh: Phù hiệu này là một trong những cái thường thấy, tức quét sạch tất cả chướng ngại và ô uế, chuyển hóa thành thanh tịnh. Phù hiệu như sau:
Phù hiệu của Lão Quân: Phù hiệu này không thường thấy, cũng rất ít người biết đến, đây là phù hiệu của Thái Thượng. Khi tất cả đều vô hiệu mới dùng đến nó.
Dùng không đúng sẽ bị trời khiển trách. Nhớ kĩ!
17. Vẽ phù trên mặt nước
Thông thường vẽ phù đều là vẽ trên giấy, nhưng cũng có cách vẽ phù trên mặt nước. Ví dụ khi lên núi, có người bị thương chảy máu, máu chảy không ngừng, cần phải cầm máu ngay. Lúc này không chắc là có giấy bút, sẽ đành phải dùng tay làm bút, dùng kim cang chỉ vẽ trên mặt nước. Cho người bị thương chảy máu uống nước này lập tức. Hoặc đem nước này rưới lên vết thương sẽ có linh nghiệm.
Phù cầm máu như sau:
Chú ngữ: “Thái dương xuất lai nhất điểm hồng, Liên Sinh Hoạt Phật đảo kị long, hát chỉ trưởng giang thuỷ, mạch thuỷ vĩnh bất lưu. Cấp cấp như luật lệnh.”
Còn nữa: Khi chúng ta tưới nước cam lộ cúng dường chúng quỷ thần, có thể dùng kim cang chỉ vẽ trên mặt nước. Phù thức là:
Chú ngữ: “Đại bàng kim sí điểu, hoang dã quỷ thần chúng, la sát quỷ tử mẫu, cam lộ tất sung mãn. Ôm, mu-ti-li, sô-ha. Ôm, mu-ti-li, sô-ha. Ôm, mu-ti-li, sô-ha.” Ba lần. Hắt nước ra ngoài là được. Quỷ thần được lợi ích lớn.
Còn nữa: Nếu trẻ con bị kinh sợ, đêm khóc không ngừng, mặt trắng bệch, đi phân xanh, ta có thể lấy một ly nước, vẽ lên:
Chú ngữ: “Đài đầu khán thanh thiên, Liên Sinh tại nhãn tiền, chuyển đầu khán địa thượng, Liên Sinh tại thân biên, tứ phương nguyên thần lập phương vị, nhất thiết trùng phạm tốc khứ. Cấp cấp như luật lệnh.”
Nước lấy để uống hoặc vẩy lên người.
Còn nữa: Rách da muốn lành lại, vết thương muốn liền lại, bị viêm muốn hết viêm. Phải làm pháp thế nào? Phù thức là:
Chú ngữ: “Hoạ bì đắc bì, hoạ khẩu khẩu hợp, hoạ viêm viêm tiêu. Nhất thỉnh Liên Sinh Phật, nhị thỉnh Liên Sinh Phật, tam thỉnh Liên Sinh Phật, Phật Phật Phật. Thuỷ thần cấp cấp như luật lệnh.”
Nước rắc lên vết thương, nước dùng để uống. Những tấm phù vẽ trên mặt nước này, mục đích sử dụng rất rộng, danh mục rất nhiều, không thể đếm hết, cần tiếp xúc từng loại mới biết. Chắc chắn linh nghiệm!
18. Vợ chồng và kính ái - phân hợp
Tình cảm vợ chồng bất hòa, muốn tình cảm hòa hợp. Trước giờ tôi thường dùng phù thức này tặng cho người ta uống. Phù thức này là phù vợ chồng hòa hợp, có đôi có cặp, tình yêu bền vững. Phù này ở trong cuốn “Linh Tiên Phi Hồng Pháp” từng đăng rồi.
Phù thức như sau:
Nếu uống phù này vào vẫn không đủ hiệu nghiệm, tôi còn có một pháp khác. Pháp này vô cùng thần bí. Cần khẩu truyền. Lấy một vật của nam nữ. Cùng uống phù này vào. Chắc chắn linh nghiệm! (Nhưng đây là thứ cực kỳ cơ mật, không thể viết ra trên sách được.)
Lại nữa: Phù đào hoa dùng cho nam theo đuổi nữ, nữ theo đuổi nam. Ở đây tôi chỉ viết ra phù thức, chú ngữ thì phải mật truyền. Bởi vì e là nam nữ sẽ sử dụng tùy tiện, vi phạm ý trời, bản thân tôi sẽ tự chuốc lấy việc bị trời khiển trách. Người nam uống phù sau.
Phù thức hai: Người nữ uống phù sau.
Còn nữa: Thường hay nghe nói nam nữ “đào hoa thối” rất nhiều. (Không hạnh phúc nhưng do nhân duyên vẫn cứ phải dính lấy nhau.) Cũng có thuật sĩ trừ bỏ “đào hoa thối”. Về phương diện phù pháp thì có phù sau.
Chú ngữ: “Liên Sinh lai gia trì, nhất đao biến thập đao, thập đao biến bách đao, nhất thanh hát linh hạ, đào hoa tự lạc hạ, chiêu chiêu kỳ hữu, minh minh kỳ vô, đào hoa khô uỷ. Cấp cấp như luật lệnh.”
Còn nữa: Người tu đạo muốn thanh tâm quả dục, không muốn nhiễm phong trần, bao gồm cả người chủ nghĩa độc thân, thì có thể đeo phù này trên người.
Thường xuyên niệm chú. Tự nhiên có thể thoát khỏi bị đeo bám. Chú: “Tam quang hoán dĩ cửu, Phật quang tương giao thông, kim hoa chiếu quang cảnh, bất dữ thế tục đồng, độc siêu phong trần lộ, thân dữ nhật nguyệt hợp, tu đạo thượng thánh tiền, định tuệ bạch liên hoa. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.” Vừa niệm chú này. Sáng chói chang. Tròn chằn chặn. Không nhiễm hồng trần nữa!
19. Ngũ lộ tài thần phù
Trong khía cạnh nhân gian, tiền tài là nhất. Ở Đài Loan có thể bắt gặp rất nhiều miếu thần tài tổ chức pháp hội thần tài. Pháp hội thần tài, hương hỏa nghi ngút. Thuật sĩ niệm kinh niệm chú, gia trì các loại bảo vật tăng phúc tăng tuệ. Gia trì thần tài ăn uống. Gia trì thần tài áo quần. Gia trì thần tài nhà cửa. Gia trì thần tài đi lại.
Có một câu chú: “Thiên thương thương, địa mang mang: tài thần tại hà phương. Thái thượng thỉnh lai ngũ lộ tài, bái thỉnh Đông phương tài thần, bái thỉnh Tây phương tài thần, bái thỉnh Nam phương tài thần, bái thỉnh Bắc phương tài thần, bái thỉnh Trung ương tài thần, bái thỉnh ngũ lộ tài thần, văn tài thần, võ tài thần, thần thông đại vô tỷ, uy linh hiển thập phương, chuyên quản nhân gian thông tài sự, vận lai ngũ phương ngũ lộ tài. Nhật nhật tài, nguyệt nguyệt tài, niên niên tài, ngũ lộ ngũ phương tài, hữu tài tốc lai, vô tài tốc khứ. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Ở đây bao gồm phù của ngũ lộ thần tài và văn thần tài, võ thần tài. Trong đó “tây phương kim tài thần” cũng có thể viết thành “tây phương bạch tài thần”, cả hai đều thông dụng. Có thể chế thành đấu đăng (hộp đèn bài vị), mỗi ngày niệm chú một đến ba lần. Tài và người sẽ cảm ứng tương thông.
Tiền tài cuồn cuộn đến, tài đến, tiền đến, tiền nhiều nhiều, tài nhiều nhiều, ngày ngày tháng tháng năm năm, mang tài đến. Dùng không hết, tiêu không cạn, nhanh nhanh như luật lệnh. (Ngũ lộ thần tài và văn võ thần tài phù này là lần đầu tiên công khai.)
Còn nữa: Rất nhiều thuật sĩ đều biết muốn thỉnh được ngũ lộ thần tài thật ra không phải dễ dàng. Rất nhiều đại gia không phải một sớm một chiều là được. Đại gia cũng cần phải có công đức của rất nhiều đời mới có được của cải của nhân gian. Có câu “Nếu có số thì cuối cùng sẽ có, nếu không có số đừng cưỡng cầu”. Con người ăn bao nhiêu cơm, trời định sẵn. Con người có bao nhiêu tiền của, trời định sẵn. Vì vậy người giàu ít, người nghèo nhiều. Nếu muốn thay đổi vận mệnh cũng cần phải tu hành thật nhiều. Sao không niệm Cao Vương Kinh. (nghìn lần) Sao không niệm Chân Phật Kinh. (nghìn lần) Cầu phúc. Rồi đeo phù là có được phúc.
Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Ôm lién-sâng sit-đi chu-li.” Lâu ngày sinh phúc, tài đến.
20. Muốn làm Thiên y
Tôi nói cho mọi người biết, phù tử tiên xuất sắc nhất cũng giống như bác sĩ cõi trời vậy. Chúng tôi có một câu nói đùa: Bác sĩ nếu chữa không khỏi, phải tìm thổ ti. Thổ ti là cách chữa đơn giản, là các cách chữa bệnh dân gian. Thổ ti chữa không khỏi, phải tìm phù tử tiên.
Vị phù tử tiên này có nghiên cứu ra một bộ phương pháp giải quyết cuộc sống và sự sinh tồn của con người. Phù tử tiên cao minh cũng không dễ tìm, cần phải có “thiên phú”. Việc này không phải đơn giản. Tôi nói cho mọi người biết. Phù tử tiên tối thượng thừa là bác sĩ cõi trời (Thiên y). Mà sự tu hành của Thiên y là thiên đức. Thiên y - thiên đức là nhân quả của nhau, có thiên đức mới có Thiên y, vì thế phù pháp không phải chỉ là việc tùy tiện.
Tư cách của Thiên y: Nhân phẩm đoan chính. Con người trung hậu. Chịu được thử thách. Trời - người yêu thích. Tấm lòng từ bi. Thông minh xuất chúng. Tu được quả vị. Bảy điều trên đều có thể viên mãn mới được xem là Thiên y thượng nhân hay thiên đức thượng nhân. Nhưng thế gian khó tìm được nhân tài như thế.
Người xưa nói: “Nước trong quá thì không có cá, người xét kĩ thì chẳng có thượng nhân.” Ý muốn nói toàn bộ con người thế gian đều chỉ là dạng bình thường cả. Vì thế trên phương diện này, kẻ lừa gạt giả dối cũng đặc biệt nhiều!
Trên đời này: Thật rất ít, giả rất nhiều. Người thiện ít, người ác nhiều. Kẻ cứu người thì ít, kẻ hại người thì nhiều. Vì vậy cần phải mở to mắt nhìn, không nên bị kẻ giả mạo làm hại.
Giống như Thiên y xuy sát (xóa sát khí) để trị bệnh vậy, cao nhân như thế không phải không có, chỉ là vô cùng ít thôi. Chỉ có tu hành tới mức độ tương ứng, có được quả vị, lúc đó uống phù mới có thể làm được bác sĩ cõi trời chân chính.
Uống phù này 108 ngày, niệm chú 108 lần. (Mỗi một tấm phù niệm một biến.)
Chú ngữ: “Thiên y thuận hành, thiên đức thí nhân, tinh hoa nguyên linh, lưu bố vô đình. Quang huy xán lạn, giải ách giải sát, cứu nhân tật khổ, phù chú linh linh. Nhân gian vạn sự, nhất xuy tức thanh. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Còn nữa:
Chú ngữ giống câu trên. Uống 108 tấm phù, niệm chú 108 biến. Nếu người có tư cách Thiên y uống phù này, niệm chú này, dùng xuy sát pháp, có thể cứu vạn người. Hai tấm phù trên đều cực kỳ quan trọng! Phi nhân đừng dùng, sợ trời khiển trách!
21. Công khai pháp Kim quang phù
Hồ Thích tiên sinh có một cuốn sách nhắc đến một người đang đi bộ trong đêm khuya, đột nhiên một cơn gió to nổi lên. Gió to thổi cành cây bên đường phát ra âm thanh vù vù, cành cây lá cây như một bầy quỷ nhảy múa. Lại có đất cát bay tứ tung từ phía sau đuổi đến, đất đá bắn vào phía sau lưng, cảm thấy vô cùng đau nhức.
Trong cơn gió to lại có tiếng rú rít, giống như trăm nghìn người cùng gào thét, tiếng xùy xùy, tiếng pằng pằng, tiếng cha cha, tiếng hơ hơ, tiếng kêu thảm thiết, tiếng lùng bùng. Lại có bóng đen lấp ló thập thò, vô cùng đáng sợ!
Người này nhớ ra trên thân có phù, liền lấy tấm phù này ra, giơ lên trong hư không, kêu lên một tiếng: “Kim quang phù ở đây.”
Không ngờ gió đột nhiên dừng lại, đất đá không còn bay loạn xạ nữa, tiếng kêu gào bỗng dưng chấm dứt, những bóng đen đều biến mất. Ánh trăng sáng xuất hiện chiếu xuyên mây đen. Mọi thứ trở về yên tĩnh, chỉ còn tiếng côn trùng kêu rả rích. Hồ Thích nói: “Không ngờ kim quang phù nhỏ bé lại có sức mạnh lớn như vậy!”
Kim quang phù như sau:
Kim quang phù xuất hiện ba lần trong sách phù của tôi, từ đó có thể thấy được tính quan trọng của phù này. Kim quang phù có Kim quang thủ ấn: “Ngón giữa, ngón đeo nhẫn của hai tay đan vào nhau. Cặp ngón trỏ, cặp ngón út, cặp ngón cái chụm lại dựng đứng. Cặp ngón trỏ, cặp ngón út hướng lên trên, cặp ngón cái hướng xuống dưới.”
Khi bung thủ ấn ra có thể bung trên đầu của mình, chụp lấy toàn thân, hoặc có thể bung thủ ấn trên Kim quang phù. Chú: “Thiên địa huyền tông, vạn khí bổn căn, quảng tu vạn kiếp, chứng ngô thần thông, tam giới nội ngoại, duy đạo độc tôn, phù hữu kim quang, tráo hộ ngô thân, thị chi bất kiến, thính chi bất văn, bao la thiên địa, dưỡng dục quần sinh, thọ trì nhất biến, thân hữu quang minh, tam giới thị vệ, ngũ đế ti nghênh, vạn thần triều lễ, dịch sứ lôi đình, quỷ yêu táng đảm, tinh quái vong hình, nội hữu phích lịch, lôi thần ẩn minh, thông tuệ giao triệt, ngũ khí đằng đằng, kim quang tốc hiện, phúc hộ chân nhân. Cấp cấp như luật lệnh.”
Như vậy: Có phù, có chú, có ấn. Có thể tu pháp rồi! (Phương pháp tu nằm trong cuốn Tiên Thiên Phù Bút.)
Còn nữa: Trong Mật giáo cũng có “nhất tự kim luân pháp”, rất giống với pháp này:
Quán tưởng một chữ chú ở trên đỉnh đầu của hành giả, xoay tròn phóng quang. Tay kết ấn. (Kim quang ấn) Trì chú: “Om. Pulu.” (108 biến) Làm như vậy, kim quang sẽ chiếu bốn hướng. Tu hành lâu ngày thì hung thần ác sát xa lánh, ma quỷ tinh linh xa lánh, tang thần ai thần xa lánh. Từ đó ngày cát tường, đêm cát tường, một ngày sáu thời luôn cát tường, bách bệnh tiêu trừ, nghiệp chướng cũng tiêu đi. Hành giả tu pháp này. Công thành thăng thiên!
22. Triệu chứng của đau nhức
Khi tôi ở Mỹ hay Đài Loan, tại Lôi Tạng Tự, có rất nhiều người cầu xin sờ đầu. Mỗi lần sờ đầu, tôi tất nhiên sẽ luôn: Quán tưởng Bổn tôn hợp nhất. Trì Bổn tôn tâm chú. Thiền định. Sau đó mới lần lượt sờ đầu cho từng người, hy vọng nhờ lực gia trì của Bổn tôn để tiêu trừ bệnh tật đau nhức của các đệ tử. Cảnh tượng vạn người xếp hàng chờ được sờ đỉnh đầu tại Đài Loan Lôi Tạng Tự rất hoành tráng. Tôi luôn luôn phải mất tối thiểu một giờ mới có thể kết thúc việc sờ đầu. Có một số người không chỉ yêu cầu sờ đỉnh đầu mà còn yêu cầu chạm vào “đầu, tay, chân, lưng, eo, cánh tay, vai, bụng…” Các đệ tử nói: “Chỗ này đau!” “Chỗ đó đau!”
Tôi cảm nhận thấy chúng sinh thực sự đáng thương. Sao lại có quá nhiều người không phải chỗ này đau thì là chỗ khác đau. Thế là hai tay tôi múa may, vừa trì chú, vừa cầu nguyện: “Để Bồ Tát từ bi giải trừ cái đau của chúng sinh.”
Tôi ở đây vẽ ra Dừng đau phù (số 1):
Phù này chuyên trị đau nhức, bên trong có một hình người, có 9 dấu chấm, đau đầu chấm đầu, đau eo chấm eo, đau ngực chấm ngực, đau tay chấm tay, đau chân chấm chân...
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh, chúng sinh đa đông thống, oan thân nan giải trừ, ngã kim truyền phù chú, giải trừ chúng đông thống. Đông thống khứ, đông thống tiêu, đông thống trừ, đông thống chỉ. Cấp cấp như luật lệnh.”
(Người bệnh dùng để uống.)
Còn nữa: Đau nhức luôn có nguyên nhân. Có một số đau nhức do bệnh mà ra, do viêm mà ra, do vi khuẩn mà ra, tất cả đều có nguyên nhân cả. Chúng ta cần phải tìm ra nguyên nhân, sau đó uống thuốc đúng bệnh. Sau khi uống xong thuốc rồi cùng phối hợp với phù thức mới có thể giảm đau.
Có Chuyển di phù (phù chuyển cái đau đi chỗ khác) như sau:
Chú ngữ: “Liên Sinh lai sắc lệnh, đông thống trường dạ khổ, phiền não tam đồ trung, như kim thỉnh chuyển di, di nhập Đông phương thổ, di nhập Tây phương thổ, di nhập Bắc phương thổ, di nhập Nam phương thổ, di nhập Trung ương thổ, thổ thổ thổ thổ thổ, thổ thần lai đảm đương, đông thống tốc tiêu vong.”
Phù sẽ cần người bị đau nhức hà hơi vào ba lần, rồi đem phù chôn vào trong đất.
Còn có Dừng đau phù (số 2), cũng là dừng đau. Phù đem đốt cho vào nước để uống, chú ngữ giống chú Dừng đau phù thứ nhất.
23. Chú ngữ của Dược Vương
Có một câu chú được lưu truyền rộng rãi. Câu chú như sau: “Phụng Liên Sinh sắc lệnh, phụng thỉnh Dược Vương Thần Nông Đế, phụng thỉnh Dược Vương Tôn Tư Mạc, phụng thỉnh Dược Vương, Dược Thượng Bồ Tát. Tam môn thiên hạ luyện đan thành, kỵ long kỵ hổ du thế giới, thường giáng diệu dược tế chúng sinh, nhất thập tam đại minh y chủ, nhị thập bát đại Dược Vương Quân, chân đạo chân dược cứu quần sinh, điểm phù vi dược hiển thần thông, hữu nhân hữu nan lai thỉnh nhĩ, nhĩ hộ đệ tử cứu vạn dân, nhất thiết ôn ma thỉnh thoái khứ, thiên quỷ bách quỷ tốc hồi tị. Cấp cấp như luật lệnh.”
Thần Nông nếm bách thảo, là Dược Vương, tức Viêm Đế. Tôn Tư Mạc là danh y đạo trưởng, cũng là Dược Vương. Dược Vương, Dược Thượng Bồ Tát, là Y Vương Thích Gia. Vì vậy gọi là tam môn (ba nhà).
Chú này là chú chữa đau nhức. Đều có thể sử dụng.
Phù này dùng để treo hoặc dán vào: Chuồng lợn, chuồng bò, chuồng gà. Phòng các bệnh dịch như cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng, bệnh bò điên. Bên trong có ngũ quỷ, chính là ngũ ôn thần. Có người dán phù này trong nhà. Xung quanh những nhà khác đều bị dịch, riêng nhà dán phù không sao. Tránh được dịch bệnh đều nhờ vào công lực của phù này.
Còn nữa: Dịch cảm cúm khi có tính lây lan đã cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Khi dịch lây lan lớn đã làm rất nhiều người chết. Phù thức như sau:
Phù này dùng để phòng tránh cảm mạo, đeo trên người. Nếu đã bị cảm rồi thì đem đốt uống, có hiệu lực rất lớn.
Còn nữa: Khi có dịch bệnh lớn xảy ra, khi rất nhiều người bị nhiễm bệnh thì có một tấm phù với uy lực rất lớn. Phù trước giờ không truyền, nay tôi cố tình vẽ ra, có thể dùng phòng bệnh kiêm chữa trị. Phù có Phật chỉ, có tam quang.
Vì vậy: Không để đem cho người phi Phật giáo, không thể cho kẻ xấu, không thể cho kẻ phá giới, không thể cho kẻ phản thầy diệt tổ sử dụng. Đeo phù này và uống phù này bắt buộc phải giữ ngũ giới thập thiện.
24. Từ phù đến chú
Thỉnh thần chú ngữ: “Thiên linh linh, địa linh linh, vân thủ vụ quyển, thỉnh tiên giáng lâm, đại phát từ bi, phổ giáng cam lâm. Cấp cấp như luật lệnh.”
Đốt phù tiên giáng.
Tịnh thân chú ngữ: “Dĩ nhật hỏa tẩy thân, dĩ nguyệt thủy luyện hình, dĩ tinh quang mộc dục, nguyện ngã thanh tịnh, ngọc nữ tùy hành, nhị thập bát túc, dữ ngô hợp hình, thiên tà vạn uế, trục thủy nhi thanh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Tắm rửa làm thanh tịnh thân thể.
Nhãn minh chú ngữ: “Nhật phóng quang, nguyệt phóng quang, tinh phóng quang, bái thỉnh tam quang chí, nhất thiết vũ chướng giai khứ, mục hữu quang, nhãn hữu quang, thấu xuất tam quang. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Đốt uống mắt sẽ phát ra ánh sáng quang minh, dễ có được thiên nhãn.
Xuất môn cát tường chú ngữ: “Xuất môn hóa không, không không thập đại vĩnh vô tung: Ngô kim hư không tàng, hóa vi thụ đầu phong. Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Câu Trần, tứ linh thần tướng, hộ ngô thân tâm. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này đeo trên người khi ra đường. Không tai ương nạn kiếp. Tất cả cát tường.
Quán tâm thần chú: “Tháo thượng đài tinh, ứng biến vô đình. Khu tà phược mị, bảo mệnh hộ thân. Trí huệ minh tịnh, tâm thần an ninh. Tam hồn vĩnh cố, phách vô táng khuynh. Thung thử quan nhập. Bất động tịch tĩnh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù đây là dành cho trước lúc thiền định đốt uống trì chú.
Thiền định nhập tịch. Bất động. Từ một hóa không, nhập Không tính. Đây là đại pháp khẩu quyết trong tu hành.
25. Pháp môn Quán tâm
Pháp môn Quán tâm được người đời sử dụng để tu hành từ lâu rồi! Lúc ở Đài Loan, tôi sống tại chung cư. Một lần đi thang máy, có một cặp vợ chồng già nhìn thấy tôi bước vào thang máy. Hỏi tôi: “Hòa thượng tu pháp gì?” Tôi đáp: “Tu Mật giáo.” Tôi hỏi ngược lại cặp vợ chồng già: “Ông bà tu pháp gì?” Cặp vợ chồng già đáp: “Pháp môn Quán tâm.” Tôi nghe xong, thấy pháp môn Quán tâm là pháp môn trực chỉ vào tâm rồi, vô cùng quan trọng.
Phật nói: “Phật tại Linh Sơn, đừng cầu ở xa làm gì. Linh Sơn chỉ ở trong tâm các ông. Ai nấy đều có một Linh Sơn tháp, hãy khéo hướng về Linh Sơn tháp mà tu.” Lại có những câu: Đại đạo căn hành thức giả hy, Thường nhân nhật dụng thục năng tri. Vy quân chỉ xuất thần tiên quật, Nhất khiếu loan loan tự nguyệt my. (Cũng là tâm.) [Đây là tâm pháp Thanh tâm của Đạo giáo.]
Bản nguyên của chúng sinh, tâm địa, bồ đề, pháp giới, niết bàn, thanh tịnh, chân như, Phật tính, tổng trì, Như Lai tạng, viên giác, mật nghiêm đồ,… Cũng là tâm. Thế nên mới nói: Quán chiếu thử tâm, dục chiếu bản tâm. Thị thường khiếu lãng nguyệt huy minh, mỗi hướng định trung tuệ chiếu. [Sư Tôn trích dẫn trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn Thư”, bí kíp của Đạo giáo.] Luôn luôn ở trong trạng thái chưa phát thất tình. Luôn luôn giữ được cơ thể bát thức chưa nhiễm ô. Bên ngoài dập tắt các nhân duyên. Bên trong đoạn tuyệt các vọng niệm. Tâm tâm thường tại đây, không một sát-na quên quán chiếu. Đây là tu hành pháp môn Quán tâm.
Nếu nhiễm thất tình, muốn xin hồi tâm, thì dùng Hồi tâm phù. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Nhược nhân nhập tà đạo, nhiệt não tam đồ trung, sắc lệnh hồi chính đồ, điện thần tốc giáng lâm. Nhất chấn lệnh thanh tịnh, nhị chấn lệnh hối quá, tam chấn bất tái phạm, tốc tốc hồi tâm. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này: Kẻ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng tưởng, rượu bia có thể cho uống. Kẻ tham tài, tham sắc, tham danh có thể cho uống. Là sắc lệnh hồi tâm.
Còn nữa: Người bị mê lầm vào con đường sai trái cũng có thể cho uống phù này. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Mang mang thiên nhai lộ, trùng trùng kim cương sơn, thử lộ bất khả hành, hoán hồi tâm lượng quang. Liên Sinh sắc lệnh, tà tâm du thần tốc giác tỉnh, thân tùy phù linh hồi, định tuệ bạch liên hoa. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù khiến người lầm đường mau chóng thức tỉnh, có công lực rất lớn.
26. Tam hoa tụ đỉnh
Căn cứ theo Đạo gia Đan Kinh, có bốn tầng thứ tu hành: Luyện tinh phản khí. Luyện khí phản thần. Luyện thần phản hư. Luyện hư hợp đạo.
Khẩu quyết là: Thân bất động: tức tinh bất động. Tâm bất động: tức khí bất động. Ý bất động: tức thần bất động. Khi ba thứ này đều bất động, tiên thiên nguyên thần tự nhiên sẽ dồi dào, biến thành thanh hư tự nhiên. Đã có tam hoa tụ đỉnh, lại có ngũ khí triều nguyên. Sau đó mới luyện hư hợp đạo. Trong quá trình tu hành, khẩu quyết quan trọng nhất nằm ở “Động”.
Trương Tử Dương nói: “Hư tâm, thực phúc nghĩa câu thâm, chỉ vi hư tâm yếu thức tâm.” Tôi nói: “Hư tâm là tâm bất động, thực phúc là thân bất động, còn thức tâm chính là minh tâm.”
Lưu Hải Thiềm nói: “Trung ương thần thất bản hư nhàn, tự hữu tiên thiên chân khí đáo.” Tôi nói: “Nếu đạt được tam hoa tụ đỉnh, tiên thiên nguyên thần tự đến.”
Lã Thuần Dương nói: “Thủ trung tuyệt học phương tri áo, bão nhất vô ngôn thủy kiến giai.” Tôi nói: “Trong từng con chữ, Đạo gia hay Phật gia đều nói đến cả, là thiền định đến cảnh giới tịch diệt thì có thể thấy chân tính.”
Bước đầu tiên nhất trong tu hành của Đan Kinh chính là “luyện tinh”. Nam tinh - nữ huyết, chữ “tinh” này là chỉ toàn bộ bài tiết bên trong cơ thể. Đương nhiên tinh cũng là một thứ quan trọng trong đó. Tiên tinh bất động, sẽ kiên cố. Nếu có người hay bị mộng tinh, mơ thấy sắc dục, xuất tinh quá sớm, tâm động thân động ý động, thì tinh không kiên cố. Có một phù ngăn chặn:
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh, tâm bất mê, thân bất mê, ý bất mê, mê hồn mê phách đồng tử, khứ, ninh động thiên giang thủy, vật nhiễu đạo nhân tâm, phán kỳ phân minh, đại hiển uy linh. Cấp cấp như luật lệnh.”
Người tu hành nếu bị quỷ trộm tinh khí, mộng tinh liên miên, trở thành “vị tăng ướt giường”, thì thật tệ hại. Lập tức đốt phù này uống, tụng chú trên.
Mật giáo cũng có một pháp, dùng chỉ trắng, tụng chú Cát Tường Thiên Nữ: “Ôm, ma-ha, si-li-yê, sô-ha.” Niệm đủ 108 biến thắt một nút, tổng cộng thắt 20 nút, khi đi ngủ, buộc vào phần bụng, có thể tránh được ma quỷ trộm tinh khí. Tôi cũng có phù Tam quang tụ đỉnh, phù thức như sau:
27. Giấc ngủ thực sự rất quan trọng
Có một lần, tôi ở bệnh viện tâm thần Lưu Thiệu Hiền. Bác sĩ Lưu nói với tôi: “Ngài xem! Những người bên ngoài tới lui ra vào, chạy đông chạy tây, trong số những người này, cứ ba người là có một người bị mất ngủ.” Tôi nghe xong kinh ngạc! Nghe nói có một số người qua 40 tuổi, vốn dĩ giấc ngủ rất tốt nhưng dần dần xuất hiện hiện tượng mất ngủ. Bác sĩ nói: “Trước 40 tuổi, não bộ tiết ra hóa chất bình thường, giấc ngủ vô cùng tốt. Qua 40 tuổi rồi, não bộ tiết ra melatonin ít đi một nửa, giấc ngủ trở nên không dễ ngủ say, ngủ rất nông, chất lượng giấc ngủ không tốt, càng lúc càng khó ngủ.” Chướng ngại đối với giấc ngủ liền sản sinh ra. Rất nhiều người sau khi mắc chướng ngại về giấc ngủ, tất cả những triệu chứng kèm theo đều xuất hiện hết. Tôi vì vấn đề giấc ngủ này mà vẽ ra một tấm phù, mong có thể cứu người khẩn cấp. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh, tàng ngô thân, hóa ngô thân, ngô thân hóa vi bán thiên nhất đóa vân, phong xuy vân đầu đóa đóa động, bất tri na đóa thị ngã thân. Mộng trung khứ, mộng trung phi, hóa vi thanh phong xuy, nhân khán bất tri, quỷ khán bất kiến, tự tại, tự tại, thanh tịnh bình an. Cấp cấp như luật lệnh.”
Có một số người mơ giấc mơ đẹp. Tôi viết kệ: Món ngon hưởng trong mơ. Giác ngộ nhận diệu pháp. Tây quốc chẳng xa gì. Lướt đi như như nước chảy.
Giấc mơ xấu là: Gió thổi lại mưa bão. Nghìn quỷ đòi mạng gấp. Kinh hãi lại mệt mỏi. Tỉnh dậy tự khóc ròng. (Hai bài kệ này vốn được viết trong cuốn “Tiên Thiên Phù Bút”.)
Phù này giúp người ta mơ giấc mơ đẹp.
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh, họa phù tối linh, kim dạ mộng trung, hồn phách tối thanh, thăng thiên đạt, xuất u nhập minh, lai khứ nguyệt trung, bình an hiện hình. Cấp cấp như luật lệnh.”
Tôi có một phù giúp người ta đi vào giấc ngủ. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Kết đế. Kết đế. Ba la kết đế. Nhập mộng, nhập mộng. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này rất ít xuất hiện. Thực sự không cách nào ngủ được, bất đắc dĩ mới được sử dụng.
28. Tiểu chu thiên tự động chuyển
Về tu hành Thời Luân Kim Cang (Kalachakra) trong Mật giáo, vốn có tam luân: Ngoại thời luân: không gian, thời gian ở bên ngoài. Nội thời luân: sự luân chuyển bên trong cơ thể. Biệt thời luân: nội ngoại phối hợp tự động chuyển.
Đạo kinh nói: “Bát động pháp luân toàn nhật nguyệt, tu du hải kiệu khởi vân vũ, phong đào hung dũng ba trừng hậu, tán tác cam tuyền nhuận cửu cai.” Lại nữa: “Pháp thủy năng triều hữu bí quan, tiêu dao nhật dạ khiển luân hoàn, ư trung ủng trệ sinh chư bệnh, tài quyết thông lưu tiện trú nhan.” Lại nữa: “Toàn đẩu lịch ki. Hồi độ ngũ thường. Pháp thiên chi xu. Tiên thọ vạn ức.” Đạo gia tu hành, có đại chu thiên, tiểu chu thiên, tâm khí luân chuyển.
Tôi nhận thấy: Ngoại thời luân: đại chu thiên. Nội thời luân: tiểu chu thiên. Biệt thời luân: tâm khí luân chuyển.
Có người cho rằng đây chính là pháp luân. Khi bắt đầu tu pháp, dùng ý niệm đem khí xoay chuyển, sau đó khí sẽ tự động chuyển. Khẩu quyết 12 chữ chính là: “Bạch hổ ẩn ư Đông phương, thanh long tiềm ư Tây vị.”
Một câu một vòng, 36 vòng thì dừng. Từ bên ngoài xoay vào trong. Sau đó niệm đảo ngược: “Thanh long tiềm ư Tây vị, bạch hổ ẩn ư Đông phương.” Một câu một vòng, 36 vòng thì dừng, từ trong xoay ra ngoài. Phục quy thái cực là một tiểu chu thiên. Cách tu hành này là tâm khí xoay chuyển. Sau cùng không dùng ý mà khí sẽ tự xoay, xoay vòng không ngừng, tự động quay. Đây là tu hành tiểu chu thiên. Xoay không ngừng: không bệnh. Chuyển động bị trở ngại: có bệnh.
Lúc này phải uống một tấm phù, là Tuyền ki tự chuyển phù. Phù này Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôi mới có, người khác không có, ha ha! Phù thức là:
Chú ngữ: “Hạo tinh sinh pháp khí, nhân uân ngưng thiên trung. Lưỡng diệu cộng trừng triệt, ngũ vĩ tương giao thông. Tam quang hoán dĩ cửu, minh bảo ngưng tam cung. Đế hương hội cửu lão, yết phục bách hài phong. Kim hoa chiếu quang cảnh, thân dữ nhật nguyệt đồng. Pháp luân thường tự chuyển, thọ mệnh vô cùng thông, bách bệnh quân khiển khứ, đại đạo tự nhiên hoằng. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Đại pháp bí mật ở bên trong, người đời không thể biết. Đây là: Hình dĩ đạo toàn. Mệnh dĩ thuật diên. Phù này của tôi, có từ (vị được ghi phù hiệu ở dưới): Tôi hỏi: “Đây là phù hiệu của ai?” Biết không?
29. Đạo lý sinh và bất sinh
Dịch Kinh nói: “Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần. Nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh.” Đan Kinh nói: “Giao có nội giao, ngoại giao, cái gọi là nội giao chính là khảm ly long hổ giao. Ngoại giao, càn khôn tử ngọ giao.” “Nội giao sản dược, ngoại giao sản đan.” Đạo giáo nói: “Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.”
Lại nữa: “Phu long hổ giao cấu, là phương pháp tam nguyên hợp nhất. Cho nên mới có càn khôn, giao khảm ly, tộc âm dương, hợp tính mệnh, khiến hai thứ hợp thành một. Còn về cửu quan, bát quái, thất chính, lục vị, ngũ hành, tứ tướng, tam tài, nhị nghi, cuối cùng quay về một.” Trương Bình Thúc nói: “Rồng đến từ Đông hải, hổ hướng Tây sơn khởi, hai thú đấu một trận, hóa làm nhất hoằng thủy.” Những gì nói ở trên là nêu rõ lý lẽ về sự sinh và bất sinh của thiên địa, minh nguyệt, long hổ, âm dương, nam nữ, trong đó cũng có pháp để tu hành.
Tôi cảm thấy: Thuận sinh: nhất hóa vạn vật. Nghịch sinh: vạn vật hóa nhất. (Nghịch sinh tức là tu hành.)
Phù thức, vợ chồng hòa hợp:
Phù này giúp vợ chồng hòa hợp, đem đốt cho cả hai uống.
Chú ngữ: “Thái cực nhất phán, phân cư nhị thể, mậu kỷ hợp nhất, thiên kinh địa nghĩa, địa thiên thái, long hổ giao. Cấp cấp như luật lệnh.”
Lại nữa: Phù thức dưới là phù có thai:
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh tốc tốc sinh, yếu lai tốc lai hưu quan môn, nghênh tiến hảo nam cập hảo nữ, thanh thanh sở sở, linh linh lợi lợi, khinh khinh sảng sảng, hảo thuận lợi. Cấp cấp như luật lệnh.”
Rất nhiều người kết hôn nhiều năm rồi mà không có sinh đẻ, ngay đến một con gián cũng không sinh ra được. Sau khi dùng phù này, liên tiếp sinh hai ba lần, thậm chí sinh ba. Những trường hợp này nhiều đến đếm không hết.
Duy có một phụ nữ (sau khi uống phù) lại tức giận nói: “Sao tôi lại không sinh con!” Mọi người sửng sốt. Sau đó hỏi kỹ lại mới biết, người phụ nữ này đã cắt bỏ tử cung rồi.
30. Phù hiệu đặc thù ở trên trời
Chúng ta thường nói: “Trên biết thiên văn, dưới biết địa lý”. Bây giờ cuối cùng tôi đã biết, thì ra trên biết thiên văn là rộng lớn cỡ nào, trong đó có “thiên ý”, “thiên tâm”, “thiên phù”, “thiên tự”, mà “thiên tự” tức là phù hiệu đặc trưng ở trên trời.
Ví dụ: Nếu như ngước đầu lên nhìn trời, trên trời xuất hiện “thiên tự” này, chúng ta có thể hiểu rằng, đây là: “Trên trời đang vui vẻ.” Làm chuyện gì đều có thể thành.
Còn nữa: Khi tôi nhìn thấy chữ này, tôi tất nhiên biết là sẽ có đại hỷ sự sắp xảy ra rồi. Tôi nghĩ đến hai người nào đó, mà trên trời lại hiện chữ Hỷ, liền biết hỷ sự đã gần.
Còn nữa: Tôi đang nghĩ chuyện nào đó có làm được hay không? Ngẩng đầu nhìn trời, nếu như nhìn thấy phù hiệu như vậy, cho thấy sự nghiệp đó sẽ thành công, hơn nữa cũng rất thuận lợi.
Còn nữa: Khi mà hơi thở giận dữ không đều, nhìn thấy phù hiệu này trên trời, đó là ông trời đang gọi anh nói “Hãy chịu đựng một chút đi!”. Tôi thường xuyên nhìn thấy phù hiệu này. Đây là nhẫn nhục ba la mật.
Còn nữa: Có người hỏi tôi: “Tôi có thể làm lãnh tụ quốc gia không?” Tôi ngước đầu nhìn trời, trên trời xuất hiện chữ này, tôi sẽ nói với ông ấy: “Ông tuổi dê trong 12 con giáp phải không?” Nếu không phải! Vô vọng rồi! Bởi vì tổng thống sẽ phải là người tuổi dê.
Lại nữa: Có người xin làm ăn buôn bán, hỏi tôi được không? Tôi nhìn lên trời, trên trời hiện ra phù hiệu này. Tôi liền biết ngay, không thể làm được!
Bởi vì “bi ai” !
31. Chế tâm vào nhất quán thiên văn
Cá nhân tôi dù sao vẫn thấy mỗi người trong chúng ta đều là một (tiểu) trời đất. Có câu, trời đất tuy lớn, cũng chỉ là giống một con người. Nhật nguyệt vãng lai vận hành, thật ra chính là ở trong cơ thể của con người. Sự xoay chuyển vật đổi sao dời cũng là ở trong thân của ta. Cũng có nghĩa là sự sinh ra của con người chúng ta là một tập hỗn độn, và sự sinh ra của trời đất cũng là một tập hỗn độn.
Con người do “địa, thủy, hỏa, phong, không” cấu thành. Sự vận chuyển của trời đất. Sự vận chuyển của cơ thể người. Kỳ thực là cùng một sự vận chuyển. Đạo gia cho rằng: “Con người phải quay về lại với trời đất, phải đi ngược lại vào trong để mà tu tập, giống như từ nhiều biến lại thành một, rồi từ một biến thành không, thì hợp với Đạo.” Đạo gia chú trọng: “Sự tu luyện của tinh, khí, thần.” Di Giáo Kinh của Phật gia nói: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện.” (Kiểm soát tâm tại một chỗ, không việc gì là không làm được.)
Hành giả chúng ta muốn quán thiên văn biết chuyện thiên hạ, ở trên trời sẽ có dị tướng. Chúng ta đem dị tướng đó chiếu vào trong tâm là sẽ biết chuyện thiên hạ. Trời có phù hiệu, mà con người có thể hiểu được nó thì đều phải nhờ vào “chế tâm nhất xứ”. Đây chính là trên quán thiên văn.
Giả sử như tôi nhìn thấy phù hiệu trên xuất hiện ở trên trời, nếu hỏi chuyện thiên hạ thì là hỷ sự, mừng vì có một vị minh quân xuất hiện. Nếu hỏi vận mệnh tương lai của một người, có phù hiệu này xuất hiện cũng là đại hỷ, đây là người có sự nghiệp lớn, chắc chắn xuất chúng hơn người.
Nếu phù hiệu trên xuất hiện, cho thấy thần linh đang bảo vệ anh ta. Cho dù gặp khó khăn, sau này chắc chắn có gặp hung cũng hóa cát.
Nếu như hỏi sự nghiệp, tương lai, sinh con, thọ mạng, sức khỏe, nhìn thấy phù hiệu trên xuất hiện thì không cần hỏi nữa, phí sức mà thôi. Phù thức này là ấn ký “cầu mà không được”.
Quán thấy phù thức này, cứ nghiêm túc đi làm là được. “Cần” là khẩu quyết lớn nhất, tương lai chắc chắn thành công. (Cần ở đây là chuyên cần.)
Phù thức ở trên trời, có thể suy luận từ một thứ ra nhiều thứ. Có ý cảnh vô cùng ở trong đó.
32. Phù phụng thỉnh Na Tra Tam Thái Tử
Tôi thấy con người thời nay đã biến nhân vật anh hùng Na Tra Tam Thái Tử trong Phong Thần Bảng thành Điện Âm Tam Thái Tử.
Điện Âm Tam Thái Tử trở thành một con rối hợp nhất giữa người với thần. Đeo kính mát, vừa hát, vừa múa. Trêu tất cả khán giả, hoan hô vỗ tay không ngừng! Thậm chí lan ra tận hải ngoại, trở thành tập tục cúng tế dân gian và văn hóa giải trí của vô số nơi vui chơi.
Tôi cảm thấy không có gì đáng chê trách cả, cũng không nỡ khiển trách, dù sao đó cũng là một sự sáng tạo. Nhưng trong hàng ngũ thần, ngài cũng là một vị tướng quân tiên phong, là thái tử nguyên soái, là hóa thân hoa sen, ba đầu sáu tay, pháp lực vô biên. Hai người huynh trưởng của ngài, Kim Tra và Mộc Tra đều là nhân vật thần tiên. Một vị là đệ tử của Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn, còn một vị là đệ tử của Phổ Hiền Chân Nhân.
Na Tra Tam Thái Tử là đệ tử của Thái Ất Chân Nhân. Cha của ba anh em là Thác Tháp Thiên Vương Lý Tĩnh. Thái tử nguyên soái vốn là thần có địa vị khá cao, trong truyền ký của Phật giáo từng xuất hiện.
Cá nhân tôi cất giấu một phù thức, là phù phụng thỉnh Na Tra Tam Thái Tử. Phù này đem đốt, thái tử nguyên soái sẽ giáng lâm. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh, Khương công phong tướng, thái tử nguyên soái, công đức kim quang, liên hoa hóa sinh, hoa lưu kim hương, cước đạp nhị luân, tùy triệu tùy thỉnh, hạ giáng trần phàm, phổ cứu vạn dân. Cấp cấp như luật lệnh.”
Thái tử nguyên soái giáng lâm, bản lĩnh của ngài rất lớn, có thể hàng ma khử tà. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Thái tử nguyên soái bản tính lý, tam đầu lục tý đoàn đoàn chuyển, trảm ma quái, trảm tà quỷ, nhất thanh lệnh hạ, đáo thủ cầm lai, áp nhập Phong Đô Thành. Cấp cấp như luật lệnh.”
Không chỉ khử tà trói yêu, thậm chí có thể cầu mưa cầu gió, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, cầu trấn trạch, cầu nhân khẩu, cầu tài, cầu sức khỏe, cầu nhân gian phúc phần, cầu quang minh v.v…
Thái tử nguyên soái (Na Tra Tam Thái Tử) là thần hộ pháp của dân gian. Hễ có ai dùng phù này, chắc chắn ngài sẽ giáng lâm! Hình thể thật sự của thái tử nguyên soái (Na Tra Tam Thái Tử), đơn giản vài nét bút thì chính là hình dạng này, trọng điểm là “phong hỏa luân”.
33. Ngoại hô hấp và nội hô hấp
Phật nói: “Sinh mạng nằm ở giữa một hơi hít vào và một hơi thở ra.” Sự hít thở của phàm phu, là ngoại hô hấp. Sự hít thở của người tu hành, là nội hô hấp.
Tu hành của Đạo gia và tu hành của Mật giáo vô cùng xem trọng khí. Đạo gia là “tinh-khí-thần”, Mật giáo là “khí-mạch-minh điểm”. Ngoại hô hấp là chuyện của thân thể. Nội hô hấp là chuyện của pháp tính.
Đạo gia xem trọng: Thai tức. Mật giáo xem trọng: Bảo bình khí.
Tôi nói: “Mật giáo chúng ta tu hành là đem khí hít vào trong, trực tiếp đưa xuống đến hạ đan điền. Đây gọi là hô hấp hoàn toàn, sau đó bế khí, trong Đạo gia gọi là phục khí. Lúc này khí không có chỗ thoát ra, chỉ có xông thẳng lên trên, xông lên thượng đan điền. Thượng đan điền cũng không có chỗ thoát, lại xông xuống hạ đan điền. Sự chạy qua chạy lại như vậy chính là sự bắt đầu của nội hô hấp. Cho đến khi nín thở không được nữa, mới thở ra từ lỗ mũi.”
Làm vậy có lợi ích gì? 1. Công hiệu cứu hộ bổ ích. 2. Công hiệu mậu kỷ nhị thổ giao hợp. 3. Công hiệu thêm dầu kéo dài thọ mạng. 4. Công hiệu trợ hỏa tàng kim. 5. Công hiệu lửa cháy hừng hực. 6. Công hiệu nội đan mộc dục. 7. Công hiệu ôn dưỡng nội đan.
Vì vậy Mật giáo xem trọng tu khí vào hạ đan điền, trung đan điền, thượng đan điền, ngưng khí mà vào, trên dưới giao lưu. Đạo gia xem trọng thổ nạp (hít thở), tu khí vào dưới rốn bốn lóng tay, đến tim, đến thiên tâm. Trên dưới giao lưu.
Lã Trí Thường nói: “Một hơi thở tạm ngưng, không ra không vào, mới có thể mở ra được tạo hóa của trời đất.” Trình Y Xuyên nói: “Nếu không mở ra được sự huyền diệu của tạo hóa tự nhiên, làm sao có thể trường sinh?” Ông Bảo Quang nói: “Công phu một khắc khi thai tức đã có thể đạt được khí của trời đất cả một năm.”
Đương nhiên để có thể từ hô hấp thổ nạp mà bắt đầu tu hành, không thể bị bệnh về mũi, bệnh vặt về khí quản trong hô hấp, bệnh về tim mạch. Phù Liên Sinh của tôi có phù trị mũi, trị khí quản, trị tâm phế.
Chú ngữ: “Nhân thân khí tức trung, thường thường lộ bất thông, hạ nhật nùng vị thích, đông nhật thủy mông lung. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh. Thông, thông, thông.”
Chú ngữ: “Khí đao vô viêm thủng, vô trở diệc vô ngại, thượng hạ lưu thông. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.” Phù thức trị tâm phế, hen suyễn cũng có thể chữa.
Chú ngữ: “Vô ngại vô ngại hựu vô ngại, nhất khí quán nhật nguyệt sơn hải. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
34. Trưởng dưỡng thai tức
Có một lần tôi quán thiên văn, nhìn thấy trên trời xuất hiện sáu vết chân (lục túc):
Trong lòng tôi rất vui mừng. Vì tôi đang chuẩn bị khai giảng “Lục Tổ Đàn Kinh”. Lục túc, Lục Tổ, đây là sự gia trì của ông trời cho tôi. Đây là ấn ký tương ứng. Lại có một lần. Khi tôi chuẩn bị giảng “Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận”, khai giảng lần đầu tiên, tôi nhìn về hư không, trong hư không xuất hiện:
Ha! Đây là chữ “Tsong” của “Tsongkhapa”, điều này biểu thị tổ sư dòng Gelugpa sẽ đích thân đến gia trì cho tôi giảng “Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận”.
Tới khi khai giảng: Tsongkhapa đã hiện kim thân, xung quanh phóng chiếu vô lượng quang. Đây là những gì tôi chính mắt nhìn thấy. Tôi nhìn thấy phù hiệu của thai tức như hình sau:
Cái gì là thai tức? Tôi tổng hợp ý kiến của các đạo phái, khai thị như sau: Viên Thiên Cương: Nguồn gốc của Đại Đạo, mẹ của trời đất, một âm một dương, sinh dục vạn vật. Người học thai tức, dẫn tiên thiên khí nhập thai. Đạt Ma Tổ Sư: Thai từ trong phục khí mà kết, khí từ trong tiên thiên mà tức, tâm bất động niệm, không đến không đi, không ra không vào, tự nhiên trường trụ. Vương Tử Kiều: Định tâm bất động, nói chính xác là thiền. Thần thông vạn biến, nói chính xác là linh. Trí chu vạn sự, nói chính xác là tuệ. Đạo nguyên hợp khí, nói chính xác là tu. Tu này tức là thai tức. Hứa Tê Nham: Di khứ tam thi, khử trừ lục tặc, nạp khí vào đan điền, định tâm tại giác hải, khí trụ trong thai, trưởng dưỡng thai tức. Vương Phương Định: Định tâm khí, ngưng thai tức, hoàn đan không xa.
Cá nhân tôi cho rằng: Khẩu quyết học Phật không gì khác, nằm ở: Tâm định. Khí trụ. Vô niệm. Mà tiên thiên khi đi vào trong mạch, trưởng dưỡng ở ba đan điền: hạ, trung, thượng. Thai tức chủ yếu nhất nằm ở hạ đan điền. Đây là thai của tu hành. Cũng chính là thánh thai.
Thánh thai và phàm thai không giống nhau. Thánh thai: tiên thiên khí của người tu hành. Phàm thai: thiên khí của người thế tục. Người thế tục âm dương hợp nhất, sinh ra phàm thai. Có một loại phù Bình an, bắt đầu từ lúc có thai cho đến lúc sinh, đốt cho vào nước uống, thì thai nhi bình an, sinh đẻ bình an. Phù thức như sau:
Chú: “Trụ thai trưởng dưỡng khí, xuất sinh biến hậu thiên, nhập trụ cập xuất sinh, nhất thiết giai bình an. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.” Phù này rất trân quý.
35. Khẩu quyết tu hành của tôi
Đời này của tôi bước vào con đường tu hành, quanh quanh co co, lật lên lật xuống, điên điên đảo đảo, sóng khởi sóng dừng, không sinh không tử. Cứ như vậy tôi đã đi qua được hơn bốn mươi năm. Người ta hỏi tôi khẩu quyết? Tôi đáp một chữ “cần”. Tôi đích thực rất chuyên cần, vả lại dù có trăm nghìn trắc trở vẫn không thối chuyển, đạo tâm kiên cố. Phương pháp của tôi là: Thân không động, chính là giữ giới. Giữ giới thì tâm bình. Tâm bình thì khí hòa. Tâm khí có thể bình được, thì thần có thể kiên cố. Thần có thể kiên cố thì phóng quang. Phóng quang thì thanh tịnh. Thanh tịnh thì có thể vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thời gian. Tất cả đều không, tức khắc Phật tính tự hiển. Phật tính tự hiển thì minh tâm kiến tính.
Hòa thượng Bảo Chí nói: “Nếu có thể buông xuống, trong Không chẳng có vật gì, liền nhập vào trong Như Lai Tạng!” Tôi nói: “Tâm bình khí hòa có thể buông xuống!” Kinh Duy Ma Cật viết: “Đưa chân lên bỏ chân xuống đều là bước trên đường đạo!” Tôi nói: “Thân bất động, hoặc động, đều là trên đường đạo!” Kinh Pháp Tạng viết: “Trú tâm dạ tâm, thường du pháp uyển khứ!” Tôi nói: “Minh tâm, nhất thiết giai không vô sở hữu. Kiến tính, quang minh thanh tịnh Phật tịnh du.” Thơ: Tâm vô sở hữu, trạm nhiên kiến tính; Thể dụng như như, khuếch nhiên tương ấn. Tôi có một phù thức:
Chú ngữ: “Minh tâm hựu kiến tính, Phật quang tự đằng đằng, kim hoa chiếu quang cảnh, thân tâm nhật nguyệt đồng, chư thánh tại tiền hành, vạn kiếp thọ vô cùng, hữu thử nhất tự tại, pháp giới tự tại du. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Tôi còn có một tấm phù thiền định khác. Phù thức là:
Chú ngữ: “Hành giả cử túc ư đạo thượng, trú giả ngưng thần ư thái hư, tọa giả điều đan điền chi tức, ngọa giả bão tề hạ chi châu, thị giá cá, thị na cá hành, trú, tọa, ngọa, cá cá cá. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Phù này thù thắng, chưa từng tiết lộ. Đem đốt pha nước uống, quang minh sẽ hiện ngay. Phù này dùng để hỗ trợ cho thiền định, là phù thượng thánh, người trung căn và hạ căn đừng dùng.
36. Quang minh hiển hiện trong giấc mơ
Nói đến giấc mơ, đích thực là một chuyện rất kỳ diệu! Trong Mật giáo có pháp Miên quang là nói tới pháp tu mà hành giả Mật giáo ngủ trong ánh sáng. Phòng ma. Kết giới. Vô mộng. (Hoặc minh mộng) Tu pháp.
Về nguyên tắc, hiểu rõ là giấc mơ, khống chế được giấc mơ, sẽ có thể tu hành trong giấc mơ. Phù thức như sau:
Trong Đạo gia mà nói: Khi ngủ nếu không cảnh giác, nguyên tinh sẽ chảy ra từ phía dưới, còn khí sẽ từ phía trên bay mất, thần lúc này sẽ tự nhiên không có chủ mà chạy mất, không có chỗ dựa, chạy hết ra ngoài. Thần ở chỗ nào? Ban ngày ở mắt, lúc ngủ ở thận. Tinh-khí-thần tan biến mất là phàm phu. Tinh-khí-thần có thể kiên cố là Thánh hiền. Đạo gia nhận định: Hồn và thần tương hợp, khiến người ta tỉnh táo. Phách và thần tương hợp, khiến người ta hôn mê. Hồn là thần, là dương. Phách là quỷ, là âm.
Khẩu quyết nằm mơ là: “Trước lúc ngủ tuyệt đối không được vọng tưởng, như thế thần càng hư minh, cho dù trong mơ xuất hiện quấy nhiễu cũng vẫn có thể bình thường, tất cả chuyển thành thuận lợi.”
Người mơ thấy ác mộng liên miên là vì khí rất đục, vọng tưởng tán loạn, âm khí tương xâm, mặt quỷ mặt ma xuất hiện. Có một bài kệ: Triều lên, nước tới táp bờ sông Gió định, sông tâm lặng sóng dồn Tính lặng, tình không, tâm bất động Thiền không hôn tán, ngủ không ma.
Nếu như khí đục, dùng phù sau khắc chế:
Chú ngữ: “Thiên địa đồng sinh, nhật nguyệt đồng minh, hồn phách đồng tại, hoàn hình thái chân. Tảo uế khử khiên, mộng tại quang minh, huyền đài tử cái, sử ngã trường sinh. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Tôi lại có phù chấm dứt ác mộng. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Liên Sinh sắc lệnh. Tường quang oánh oánh. Ngô kim trì chú. Ngạc mộng tốc đình. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
37. Phù chú siêu độ
Khi siêu độ. Trước tiên trai cúng.
Khi trai cúng niệm chú: “Liên Sinh sắc lệnh, tự nhiên thiên thực trù, chử xuất thất vị hương, ngô kim lai gia trì, nhất lạp biến hà sa, nhất bàn biến vạn bàn, thập phương quỷ thần cộng. Cơ khát vĩnh tiêu diệt, thực chi như Dao Trì, kim đặc thi u hồn, công đức bất tư nghị. Nhất thiết hữu vi quỷ, cô hồn cập du quỷ, bạt độ tam đồ khổ, thi như cửu huyền thân, độ đàn thâu trì nhật, nhất thanh nam mô Phật, giai cộng thành Phật đạo. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù thức siêu độ như sau:
Khi siêu độ niệm chú: “Liên Sinh sắc lệnh, siêu nhữ đẳng cô hồn, nhất thiết du quỷ chúng, tứ sinh giai triêm ân. Hữu đầu giả siêu, vô đầu giả sinh, thương đao đấu sát, khiêu thủy huyền thằng, minh tử ám tử, oan khúc khuất vong, trái chủ oan gia, thao mệnh nhi lang, toàn quỵ ngô đài tiền, Bồ Tát phóng quang, tiêu trừ tội nghiệp, nhất thời thanh minh, siêu sinh Phật phương. Cấp cấp như luật lệnh.”
Hai lá phù trên có chú tự bí mật ở bên trong. Dát vàng lá đem đốt, có thể siêu độ cửu tộc!
Một lần, có người xem tướng soi xét tôi, thấy nửa thân tôi biến mất, thay vào đó là xuất hiện một con rồng. Rất nhiều người nói: “Lư Sư Tôn là rồng!”
Trong số đệ tử của tôi, có người tu hành thành tựu muốn vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì. Tôi có lúc sẽ viết tặng một chữ, chữ ở dưới:
Hà hơi vào chữ này, bỏ vào trong lòng bàn tay hoặc viết trong lòng bàn tay người muốn vãng sinh, người đó sẽ bay lên Phật quốc Ma Ha Song Liên Trì. Chú: “Liên Sinh sắc lệnh. Chú tự phóng quang. Nghiệp chướng tiêu trừ. Tốc tốc biến dị, phản hồi liên trì. Bạch vân pháp tọa. Giai đắc phi thăng. Song Liên thắng địa. Nguyên hanh lợi trinh.”
38. Cầu Long Vương giáng mưa
Nhớ có một lần Indonesia bị hạn hán, bốn tháng liền không có mưa. Tôi đến Indonesia tổ chức đại pháp hội. Địa điểm tại Senayan, Jakarta. Vào hôm pháp hội, trời vẫn nắng chói chang. Lúc tôi ở trong pháp hội, hướng về hư không vẽ một tấm phù. Niệm chú: “Động nhất cước, hảm nhất thanh, hảm đắc Long Vương tâm kinh kinh, thị ngã Liên Sinh tại thử hảm, cách sơn hảm sơn thần, cách thủy hảm thủy thần, hảm lai tứ hải đại Long Vương, ngã cước thải long đầu, hấp tận tứ hải thủy, ngã cước thải long yêu, ẩm tận giang hà, Long Vương a! Long Vương a! Ngã chỉ na phương, na phương hạ vũ, ngã chỉ tứ phương, tứ phương hạ vũ, cấp cấp hựu cấp cấp, khoái khoái hựu khoái khoái, hải thủy đảo lưu, giang hà tiết hạ. Cấp cấp như luật lệnh.”
Thế rồi tôi nói: “Sau khi pháp hội này kết thúc, cả nước Indonesia sẽ mưa lớn! Quả nhiên pháp hội vừa kết thúc được mười phút, toàn bộ cả đất nước Indonesia trút xuống một cơn mưa lớn. Chuyện này chấn động cả Indonesia. Tạp chí Asean cũng đưa tin. Phù thức như sau:
Hoặc sử dụng chú ngữ: “Xi-li, xi-li, xi-xi-li. Oa-la, oa-la, oa-oa-la. Liên Sinh sắc lệnh, long vũ cấp chí. Cấp cấp như luật lệnh.”
Còn nữa: Vào ngày 21 tháng 2 năm 2015, tôi ở Đài Loan Lôi Tạng Tự tổ chức pháp hội Hồng Tài Thần Hộ Ma (hỏa cúng). Năm đó Đài Loan hạn hán đã ở mức thiếu nước cấp hai. Tôi ở trên pháp tọa hát bài hát trời mưa. “Xi-li, xi-li, oa-la, oa-la. Mưa xuống đi thôi! Mẹ đưa ô đến đón con. Xi-li, xi-li, oa-la, oa-la, la-la-la.” Các đồng môn hát theo tôi. Tôi vẽ trong hư không, phù như sau:
Tôi nói: “Pháp hội kết thúc, mau chóng mưa xuống cho ta!” Kết quả là tới khi quán đảnh (lúc cuối kết thúc pháp hội), quả nhiên đã có mưa xuống! (Hàng vạn người có thể chứng minh.) Tôi đã rất nhiều lần cầu mưa được mưa, vô số lần như vậy rồi. Tại sao lại được như vậy? Tôi nói cho mọi người biết: Tôi tu đến: Tâm không một vật thì là hư, ý niệm không khởi thì là tịnh. Tôi là Tiên thiên nhân, không phải Hậu thiên nhân. Nói với mọi người một cách đơn giản, Liên Sinh Hoạt Phật không phải là hư danh, mà là thần tiên. Một tấm phù làm chứng, đây là phù hiệu gì, bạn có biết?
39. Hung trạch biến vượng trạch
Có một truyền thuyết, nhưng cũng là sự thật. Tôi nghiên cứu phong thủy địa lý, là chuyên gia cứu nghèo cứu khổ. Có đồng môn họ Trương, nhà nghèo rớt mồng tơi, đã vậy trong nhà liên tiếp xảy ra chuyện quái lạ. Người nhà thường xuyên bị tai nạn, không bị thương thì tàn tật, nếu không thì bị bệnh. Tôi đến nhà của anh Trương. Nhà này “trước cao sau thấp”. “Hướng Bắc có sát thủy”. “Đông Nam cao, Tây Bắc thấp”. Đây là gia trạch tam hung điển hình. Tôi muốn họ chuyển nhà đi. Anh Trương trả lời: “Không có tiền để chuyển nhà! Thực sự không có khả năng chuyển nhà.”
Tôi thấy anh Trương lương thiện, những người trong nhà cũng đều rất chất phác thật thà, nên đã quyết định giúp đỡ họ. Tôi đặt “long thần” ở hậu trạch của căn nhà này. Phù thức như sau (số 1):
Sát thủy ở hướng Bắc, đặt Tảo sát phù. Phù thức (số 2) như sau:
Về phương diện Đông Nam cao, Tây Bắc thấp, tôi dán một tấm phù ngay chính giữa căn nhà. Phù thức (số 3) như sau:
Ba phù trên đều cùng một câu chú. Chú ngữ là: “Tam phù thượng đạt ư thiên, tam phù hạ đạt nhất địa, nhất phù trấn thần quỷ, nhị phù trấn phong thủy, tam phù thị lôi cương. Nhân khán nhân trường sinh, quỷ khán quỷ diệt vong. Tiền môn tuy thị nhất trùng sơn, hậu môn khước thị nhất trùng thiên. Thủy lai tự áp sát. Nhân lai khán kiến Phật tổ điện, quỷ lai khán kiến Ngũ Đài sơn. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Sau khi đặt ba phù này rồi. Ba năm sau, anh Trương làm ăn cực kì phát đạt, tiền tài vào như nước, trở thành đại phú đại quý. Sáu năm sau, thành viên trong gia đình tăng lên, không bệnh không tai ương. Chín năm sau, người người trường thọ. Ba mươi năm sau, bốn đời cùng chung sống, năm đời cùng chung sống, người người thành gia lập nghiệp. Người làm bá chủ phương này, người làm đại gia phương kia. Nơi đâu cũng có thiện sĩ, nơi đâu cũng có lãnh đạo chính trị gia, họ đều xuất thân từ nhà này.
Chú ngữ: “Thiên chuyển chuyển, địa chuyển chuyển, chuyển lai chuyển khứ, quang minh tàng. Thử phù bội tự, vận tự chuyển, nguyên hanh lợi trinh.” Các đệ tử! Có nhận ra phù sau đây không?
40. Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang
Vào mùa xuân năm 2015, tôi tổ chức hai pháp hội lớn nhất. Tại Đài Loan Lôi Tạng Tự: Bản Sơ Phật (Adharma Buddha). Tại Trung Chính Kỷ Niệm Đường: Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang. Hai vị này rất ít thông tin được tìm thấy trong thông tin đại chúng. Những gì có thể tìm thấy chỉ được một phần rất ít mà thôi. Cũng rất hiếm ai truyền thụ pháp này. Vì vậy pháp duyên thù thắng.
Cao Vương Quan Thế Âm Kinh thịnh hành vào thời nhà Đường, có danh hiệu của vị Phật đầu tiên là Tịnh Quang Bí Mật Phật. Mọi người không biết là ai. Tôi giảng: “Đây chính là Bản Sơ Phật (Adharma Buddha), và hóa thân ra Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang.” Trong cuốn sách này có một phù thức:
Tôi nói cho mọi người biết: Hình tròn có chấm ở giữa, ở phía trên tượng trưng Bản Sơ Phật, là biểu tượng của tất cả chư Phật. Ba vân ở phía dưới là tượng trưng “Đại Huyễn Hóa Võng” là tất cả diễn hóa. Vị Đại Huyễn Hóa Võng này cũng chính là do Bản Sơ Phật hóa hiện ra, hình tướng gồm hai mươi mốt khuôn mặt, bốn mươi hai cánh tay, tám chân. Phật Mẫu có chín mặt, mười tay, bốn chân. Mỗi cánh tay cầm một gương sáng. Trong kính (gương) có bốn mươi hai vị Tịch Tĩnh. Bốn mươi hai vị Tịch Tĩnh bao gồm: Năm bộ Như Lai, năm Phật Mẫu, tám đại Bồ Tát, tám đại Bồ Tát Mẫu, bốn Minh Vương, bốn Phẫn Nộ Mẫu, sáu Thích Ca Năng Nhân, cộng thêm Bản Sơ Phật và Đại Tự Tại Phật Mẫu. Tổng cộng bốn mươi hai vị. Ngoài ra còn có vị Phẫn Nộ gồm năm mươi tám vị, cộng lại là một trăm vị Tịch Tĩnh Phẫn Nộ. Chú ngữ: “Ôm pê-cha chua-ta ma-ha-sê si-li hê-rru-ka hùm pây.” Thủ ấn: Hai tay chụm vào, để hở phía dưới. (như hình)
Có hình tướng, chú ngữ, thủ ấn, như thế là có thể tu pháp tụng niệm. Thật ra ý nghĩa chính, chỉ có hai chữ: “Phản bổn”. Nhân gian là “đại huyễn”, tất cả giống như “hóa võng”. “Phản bổn” chính là tu quay lại. Có thể đắc thành tựu được tam thân.
Phù thức của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, tôi vẽ như sau:
Phù này do tự tâm tôi tuôn chảy ra, cực kỳ cơ mật, là phù dùng để tu pháp này, uống hoặc đeo trên người đều được.
41. Pháp tu Bản Sơ Phật
Tôi chuẩn bị truyền thụ pháp tu Bản Sơ Phật Adharma Buddha. Tôi thuật trước ý chính: Trong Cao Vương Kinh, vị Phật đầu tiên tức Tịnh Quang Bí Mật Phật chính là Adharma Buddha (Bản Sơ Phật). Phật Đà nói: “Chúng sinh đều có đủ Phật tính.” Trong Kinh sách nói: “Ban đầu trước khi con người được cha mẹ sinh ra thì chỉ là hư không bản sơ mà thôi, đó cũng chính là vô cực, Phật tính, tính Không. Từ sau khi cha mẹ cấu tinh, nhất điểm linh quang hạ giáng, sau này biến thành khí và biến thành hình thể. Phần lớn con người chỉ biết là có thân thể và khí thần mà thôi, nhưng lại không biết có Phật tính nhất điểm linh quang. Sinh ra như vậy, chết đi như vậy, tự cho rằng đời người chính là như vậy.” “Nhưng người tu hành biết có nhất điểm linh quang, biết có thể tu quay về Phật tính, nhận biết bản lai diện mục, tu quay lại bản lai diện mục, hồi phục lại khí của hư không bản sơ, hồi quy Bản Sơ Phật.”
Chính giữa có một chấm là Bản Sơ Phật. Bên ngoài một vòng tròn là “thiên viên” (trời tròn), phía bên ngoài nữa là “địa phương” (đất vuông). Đây cũng tức là “thiên viên địa phương, luật lệnh cửu chương, ngã kim tu hành, quy hồi trung ương.”
Tôi viết ra nghi quỹ tu pháp như sau: Đại lễ bái. Đại cúng dường. Tứ quy y. Tứ vô lượng tâm. Các loại thất chi pháp. Kết duy nhất thủ ấn: Hai tay đan nội phộc, hai ngón cái giơ thẳng chạm vào nhau.
Quán tưởng chữ Ah màu trắng trong hư không, biến thành chữ Hum màu xanh lam. Rồi trong nháy mắt biến thành Bổn tôn Bản Sơ Phật màu xanh lam. Ngài có một mặt hai tay, hai tay đều cầm chày kim cang, trang sức trang nghiêm, hai chân ngồi theo thế kim cương kiết già. Trong tâm Phật Phụ chữ "Uân" trong một sát-na phóng ra một luồng ánh sáng lớn. Luồng ánh sáng lớn này quay lại ngự ở trên đùi kim cương kiết già hóa làm Đại Tự Tại Phật Mẫu. Hai vị ôm lấy nhau. Hai vị đeo trên đầu năm loại báu vật làm trang nghiêm, bông tai, vòng cổ, tóc hoa, đầy đủ tám loại báu vật trang nghiêm. Hai vị thị hiện chín loại vi diệu tịch tĩnh tướng: thon thả, tay chân mềm mại tròn trịa, eo thon nhỏ, trẻ trung, minh hiển, tỏa ánh hào quang, trang nghiêm, hoan lạc. Trọng điểm là: Phật Phụ Phật Mẫu phóng ra ánh sáng quang minh, trong mỗi tia sáng tỏa ra đều có một vị Phật, vô lượng tia sáng có vô lượng Phật, hàng nghìn màu sắc, hàng nghìn vị Phật. Ngoại quán giống như vậy. Nội quán bản thân là chữ “Uân”, tự hóa thành Bản Sơ Phật và Phật Mẫu. Niệm chú: “Ôm pê-cha a-ta-ơ-ma ta-tu sô-ha.” Càng nhiều càng tốt. Nhập định. (Đi vào hư không, tâm không một vật, một niệm cũng không khởi.) Xuất định hồi hướng. Đại lễ bái. Phù chú của Bản Sơ Phật là chữ “Uân”.
Chữ “Uân” này chính là chữ sau khi tôi hồi hướng (trong tu pháp) thường hô lớn tiếng một tiếng: “UÂN”.
42. Khẩu quyết quan trọng cần ghi nhớ
Tôi biết thế gian là “đại huyễn”, vạn tượng là “hóa võng”. Vì vậy mà ngộ Phật tính, minh tâm trong đại đạo, vô sở đắc, vô sở trụ, vô sở vị, vô sinh. Do ngộ nhập như thế, liền “biết” tính Không, đây mới là khai ngộ. Chuyện này hàng vạn người không thể “biết”, chỉ có vài người có thể “biết”. Ghi nhớ: Thượng bất lậu khí. (Pháp vô lậu) Hạ bất lậu tinh. (Pháp vô lậu) Nguyên thần có thể cố thủ ở thượng đan điền. Chỉ cần nguyên thần có thể cố thủ không chảy ra ngoài, lợi ích của nó rất lớn: Khí tự nhiên đi lên trên. (Pháp chuyết hỏa) Tinh tự nhiên dâng lên trên. (Pháp chuyết hỏa) Khẩu quyết trọng điểm: “Thủy hỏa ngưng kết”. (Pháp minh điểm) Khẩu quyết tối quan trọng là: “Tâm không một vật thì là hư, một niệm không sinh thì là tịnh.” (Pháp thiền định). Lúc này, trời mở ra, lỗ trên đỉnh đầu cũng mở ra, thần khí xuất hiện, giữ tới khi thành tựu ngọc mani vừa đỏ vừa tròn, nghìn Phật vạn Phật từ đó mà ra. Thân bất động: giữ giới. Tâm bất động: khí ngưng, tinh ngưng. Ý bất động: thần ngưng. (Tinh-khí-thần ba thứ hợp nhất.) Phù thức như sau:
Thứ tự tu hành trong Mật giáo là: Tụ khí trước. (Khí đi vào trung mạch.) Dùng khí thúc đẩy chuyết hỏa. Chuyết hỏa đi lên trên tiếp xúc với bồ đề tâm nguyệt dịch (chất lỏng). Thủy hỏa ngưng kết tại Tâm luân. Khai mở Tâm luân. Phật tính tại Tâm luân xuất hiện. Phật quang phóng chiếu khắp nơi. Trong quá trình này, phải có pháp vô lậu, pháp chuyết hỏa, pháp minh điểm. Bên ngoài phải khai ngộ minh tâm, bên trong phải tu tới Phật tính tự hiện. Khẩu quyết là: Thân bất động: tinh cố (thủy triều nguyên). Tâm bất động: khí cố (hỏa triều nguyên). Ý bất động: thần cố (thần triều nguyên). Tâm không một vật, một niệm không sinh, tinh-khí-thần đều ngưng tụ tại lỗ bí mật. Vì vậy nói, khẩu quyết của thiền định là ở “vô sự”, “vô tâm”. Chỉ sợ lòng người không kiên định. Đạo kia muốn thành phải chuyên tâm. Chỉ có chuyên nhất và tỉ mỉ. Nắm chắc dũng mãnh thẳng tiến lên. Gửi cho người thực tu: Nếu có thể học thuộc khẩu quyết tu hành của tôi, thực hiện từng cái, chắc chắn sẽ thành Phật. Tôi viết một phù thức (như bên), gia trì năng lực thiền định (đốt rồi uống).
43. Phụ khoa tổng phù và những cái khác
Trong cuốn “Linh Tiên Phi Hồng Pháp”, tôi có vẽ một tấm phù, tên là Phụ khoa tổng phù, chuyên trị bệnh phụ nữ. Phụ nữ trong thời kỳ sinh lý có nhiều triệu chứng: Chóng mặt. Đau nhức. Chướng bụng. Băng huyết. Buồn bực. Khó ngủ. v.v. Nếu như phát sinh ra các chứng bệnh thì càng không thể đếm hết được, trở nên vô cùng phức tạp. Ví dụ: lạc nội mạc tử cung, u nang buồng trứng, u xơ tử cung, các bệnh cổ tử cung, buồng trứng…
Phù thức chữa như sau:
Chú ngữ: “Đinh hành kí, chu chu phanh tinh chu, nguyên sinh chủ. Cấp cấp như luật lệnh.”
Cái gì là “đinh hành kí”? Đáp: Kí tức là khí, cũng tức là hành khí. Cái gì là “chu chu phanh tinh chu”? Đáp: Ý là trong chu kì hành kinh ra máu. Cái gì là “nguyên sinh chủ”? Đáp: Quay lại bình thường như ban đầu. Tôi dùng phù này chữa trị rất nhiều chứng bệnh phụ nữ. Hiệu quả khiến người khác phải kinh ngạc, có thể loại bỏ toàn bộ nỗi khổ của bệnh phụ nữ. Mười một chữ này là do sư phụ truyền thụ cho tôi, thuộc về phù chữ “thượng”, vốn vẽ thiếu một chữ, nay bổ sung. Thực ra nhiều hơn một chữ, hay thiếu mất một chữ, ý nghĩa của nó vẫn giống nhau.
Tôi lại có một phù thức:
Chú ngữ: “Chủ uế tiêu trừ, cửu khổng nguyên sinh, sử ngã biến dịch, phản hồi chính thân. Cấp cấp như luật lệnh.”
Phù này trị phụ khoa. Công hiệu thù thắng. Nếu như trị kiểu gì cũng trị không khỏi, vẽ hai tấm phù trên cũng vô hiệu, tôi sẽ cần phải: Sái tịnh. Trai giới. Quán thiên văn. Khi quán thiên văn, nếu trên trời hiện chữ sau:
Xuất hiện chữ này thì các pháp cứu không thể ứng nghiệm, bởi vì bệnh là oan trái sản sinh từ nhân quả, không ai có thể giải được.
44. Mắt và thận
Mắt ở trên cơ thể là rất quan trọng. Hoàng Cực Kinh nói: “Thần của trời nằm ở mặt trời, thần của người phát ra từ mắt.” Trương Tử Dương nói: “Đẩu cực kiến tứ thời, bát tiết vô bất thuận. Đẩu cực chí ngột nhiên, khôi tiêu tự di động. Chỉ yếu lưỡng nhãn hiệu, thượng hạ giao tương tống. Tu hướng tĩnh trung hành, mạc hướng mang lý tống.” Tôi nói: “Nhật nguyệt triều thiên, tức là hai con mắt nhìn lên trên.” Trong pháp Đại Viên Mãn của Mật giáo có pháp nhìn ánh sáng hay tụ quang, như quán mặt trời, quán mặt trăng, quán vì sao, quán đèn, v.v... Nếu như có bệnh mắt thì không thể quán được cái gì cả. Hỏa Hầu Ca có nói: “Dục thấu huyền huyền tu cẩn độc, cẩn độc công phu cơ tại mục.” [Muốn thấu tỏ những bí ẩn sâu xa thì phải cẩn thận từng chút một, công phu cẩn thận từng chút một nằm ở mắt.] Cũng vì thế người hiện đại nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.” Ví dụ: bệnh cận thị, viễn thị, đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, mắt mờ, viêm giác mạc, đau mắt đỏ v.v... đều có phù có thể trị. Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Ngã kim bái thỉnh nhật nguyệt tinh, tam quang khai nhữ vũ chướng ngại, sáp thời tự nhiên kiến quang minh, nhất thiết phong hỏa giai tiêu diệt, song mục y cựu phục thiên chân. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Còn nữa: Chúng ta biết rằng thần ở trong mắt, đó là vào ban ngày. Nhưng ban đêm khi ngủ, thần lại ẩn trong thận. Thận cũng rất quan trọng, quan trọng như mắt. Tôi nhận thấy thận có bệnh thường thuộc vào phạm “âm sùng” là nhiều nhất. Người Đài Loan là đất nước của chạy thận. Chạy thận là điều đáng buồn nhất của thế giới. Tôi dạy mọi người cách bảo vệ thận: Mỗi ngày buổi tối trước khi tắm, dùng hai bàn tay chà xát vị trí thận ở phía sau lưng, trên dưới khoảng dưới 200 lần. Một là massage thận, hai là để vị trí thận nóng lên, đề phòng suy thận, thận yếu. Lợi ích rất nhiều!
Nếu như thận có bệnh, phù thức như sau:
Chú ngữ: “Dĩ nhật tẩy thân, dĩ nguyệt luyện hình, thượng đạt ư mục, hạ đạt ư thận, thiên tà vạn uế, nhất nhất thanh minh, ngô kim phục phù, trục thủy nhi thanh. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Tôi quán thiên văn, nếu người cần xem phạm âm uế, sẽ xuất hiện một chữ như sau:
Phạm phải chữ này, cần giữ giới luật để trừ âm uế. Uống phù (để trừ âm uế) càng công hiệu hơn.
[Trong chương có các câu giảng của Đạo giáo rất vi diệu và uyên thâm, ám chỉ nhiều mật nghĩa, vốn không thể dịch hay chú thích đơn giản. Việc giải thích chi tiết cũng nằm ngoài phạm vi của cuốn sách này. Quý vị muốn tìm hiểu sâu xin mời tham khảo các tài liệu về Đạo giáo. ]
45. Phù hiệu của 16 địa Phật
Chúng ta biết Adharma Buddha - Phổ Hiền Vương Như Lai là Phật ở địa 16. Tại sao lại phân thành 16 địa? Tôi liệt kê như sau: Hai địa quán đảnh — dòng chảy pháp mười phương đều vào thân Phật, thân Phật lưu xuất ra dòng chảy pháp mười phương, quán đảnh lẫn nhau. Hai địa pháp vương — vũ trụ là số một, ta là vũ trụ, vũ trụ lại là chính ta, ban đầu hay kết thúc đều như nhau, đây là hai địa pháp vương. Hai địa đồng chân — linh mười phương cùng chung sống, trong một lúc đều đầy đủ, là hai địa đồng chân. Hai địa bất thối — thân không hai, tâm không hai, thân tâm hợp nhất, không tăng cũng không giảm, là hai địa bất thối. Hai địa chính tâm — không thị hiện tức không như Không, nếu thị hiện chính là tâm, thành Như Lai đại viên mãn, là hai cấp độ chính tâm. Hai địa phương tiện — nếu không thị hiện thì giống như ban đầu, nếu thị hiện thì cả nghìn nghìn vạn vạn tỉ tỉ Phật và vô số thế giới, phương tiện đầy đủ. Hai địa trí huệ — biết đầy đủ chu toàn, biết rộng phổ quát khắp mọi nơi, là hai địa trí huệ, có năng lực biết thông tỏ mười phương. Hai địa bí mật — địa Hiển, địa Mật - không có con người thế gian nào biết, là hai địa bí mật.
Xuất hiện phù hiệu như sau thì sẽ là:
46. Hành phù và Chỉ phù
Có một đệ tử Chân Phật thấy những người khác sau khi niệm đủ tám triệu biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, thực sự là có rất nhiều cảm ứng lớn. Có người đã tới được tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì. Có người đã tới được tịnh thổ Lưu Ly Quang. Có người đã tới được tịnh thổ Đâu Suất Nội Viện. Có người đã tới được tịnh thổ Thúy Vi. Có người đã tới được tịnh thổ Ngọc Diệp. Còn có một số người sau khi niệm đủ tám triệu biến Liên Hoa Đồng Tử tâm chú đã nhìn thấy Bổn tôn. Gặp được A Di Đà Phật. Gặp được Quan Thế Âm Bồ Tát. Gặp được Tôn Thắng Phật Mẫu. ….. Nhưng đệ tử Chân Phật này sau khi niệm đủ tám triệu biến thì không thấy đi tới tịnh thổ, cũng chẳng nhìn thấy Bổn tôn, cảm ứng gì cũng không có, niệm mà cũng giống như không niệm vậy. Anh đến tìm tôi nói: “Lư Sư Tôn! Con chẳng thấy cảm ứng gì cả?” Tôi không nói gì. Anh lại hỏi: “Tại sao con niệm đủ tám triệu biến, cảm ứng gì cũng không có vậy?” Tôi không để tâm. Thế là mỗi lần anh gặp được tôi đều hỏi câu hỏi tương tự. Tôi bị hỏi đến phiền luôn, liền kêu anh: “Anh niệm thêm nữa xem!” Một thời gian sau, anh lại hỏi: “Con vẫn không có cảm ứng gì cả?” Lúc này tôi không còn cách nào nữa, đành phải vẽ một tấm phù, kêu anh uống vào. Tấm phù này chính là Hành phù. Ý nghĩa của “hành” là “mau chóng có cảm ứng”.
Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Phù hựu hành hành, hành hành phù hựu, kim sắc quang chiếu, tự tại du hành. Cấp cấp như luật lệnh.”
Sau khi anh uống xong, quả nhiên thân bay lên, đi tới tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì. Tuy nhiên, sau này mỗi đêm đều đi, mỗi đêm đều xuất thần du hành tịnh thổ, không cách nào dừng lại được. Do vì nguyên thần của anh không thể tự chủ được. Anh hoảng sợ, mệt mỏi, không muốn mỗi đêm đều xuất thần đi nữa. Anh cầu xin Bổn tôn, Bổn tôn cũng không ngăn cản được. Anh cầu Hộ pháp, Hộ pháp cũng không ngăn cản được. Cuối cùng anh lại đến cầu tôi. “Lư Sư Tôn, con thần du không dừng, cầu xin ngài hãy cứu con!” Tôi cười lớn ha ha ha: “Muốn đi, đi không được, đã thực sự đi rồi, ngày ngày thần du, không dừng được, bây giờ lại cầu xin nữa.” “Lư Sư Tôn, làm ơn! Làm ơn!”
Tôi đành phải vẽ Chỉ phù (như sau):
Chú ngữ: “Thiên viên địa phương, luật lệnh cửu chương, Liên Sinh sắc lệnh, tốc chỉ du phương.”
Thế là đêm đó việc thần du lập tức dừng lại.
47. Tôi lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo
Học Phật đến nay, tôi đã nắm biết huyền chỉ của Phật Đà. Huyền chỉ của Phật Đà chính là “vô niệm” mà thôi! Phật Đà từng nói: “Ta ngay từ đầu, không đắc một pháp, cuối cùng định nghĩa, mới biết vô niệm. Nếu đắc được vô niệm, quán tất cả các pháp đều là vô hình, vì vậy mà đắc vô thượng chính đẳng chính giác.” Lại nói: “Người thế gian không thể thành đạo mà thoát khỏi được sinh tử, đích thực là do vọng niệm tạo nên chủng tử luân hồi.” Tôi nói cho mọi người biết: Nơi vọng niệm khởi tức là sinh diệt. Nơi vọng niệm tắt tức là Chân Phật. Huyền môn nói ngừng niệm, Phật lấy vô niệm làm tôn chỉ. Người vô niệm, là vô tà niệm, không phải vô chính niệm. Niệm có niệm không, tức là tà niệm. Không niệm có không, tức là chính niệm. Niệm thiện niệm ác, tức là tà niệm. Không niệm thiện ác, tức là chính niệm. Ngay cả sướng khổ, sinh diệt, giữ bỏ, oán thân, yêu ghét... toàn bộ đều là tà niệm. Không niệm những thứ như sướng khổ, mới là chính niệm.
Trong “Lục Tổ Đàn Kinh” có một câu nói rất hay: “Phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề. Bởi vì niệm trước còn mê nên là phàm phu. Niệm sau đã giác ngộ nên là Phật. Niệm trước dính mắc cảnh là phiền não, niệm sau thoát khỏi cảnh tức bồ đề.” Con người của tôi hiện nay: Phiền não là không, vô chướng vô ngại. Tất cả mộng huyễn không tồn trong tâm. Xúc cảnh động tình, động niệm nào cũng dừng hết. Tôi dùng “vô niệm”. Đốn siêu tất cả.
Có người hỏi tôi: “Vô niệm liệu có phù thức không?” Tôi đáp: “Vô niệm tức là không, vốn không có phù thức, nhưng nếu như muốn vẽ thì sẽ như sau.”
Chú ngữ: “Ôm chia-ti chia-ti pua-rưa-chia-ti sô-ha. Cấp cấp như Liên Sinh luật lệnh.”
Phù thức này có tác dụng gì? Nếu thường đốt để uống sẽ hiểu được nghĩa Không, cũng có thể khiến vọng niệm không sinh, có thể đạt đến không luân hồi. Còn nữa: Con người ai cũng có phiền não, bạn cần phải ngộ được rằng: Thân như mộng huyễn không thật có, việc như gió mây chẳng tồn lâu. Nếu đã hiểu thấu thì phải dứt, phiền não nếu khởi cũng là Không.
Muốn khử phiền não thì phù thức như thế nào? Phù thức như sau:
Chú ngữ: “Cổ kim biến hóa như lưu thủy. Sự sự như đồng cảnh trung hoa. Ngô phụng Liên Sinh lai gia trì, dĩ giác thân tâm thủy nguyệt vô. Cấp cấp như luật lệnh.” Phù này đoạn tuyệt phiền não!
48. Phù thức tu luyện
Đạo gia khi tu luyện, tôi phân chia ra như sau: 1. Luyện khí. 2. Luyện tinh. 3. Luyện thần. 4. Luyện hình. 5. Luyện hư. 6. Luyện đạo. Tôi chính là tu như vậy đó. Luyện khí chính là pháp Thổ nạp. Luyện tinh chính là pháp Vô lậu. Luyện thần chính là pháp Chuyết hỏa, pháp Minh điểm. Luyện hình chính là pháp Thần thủy. Luyện hư chính là pháp Phản bổn. Luyện đạo chính là pháp Đại viên mãn.
Tôi đem Đạo giáo cùng Mật giáo kết hợp lại với nhau. Điều kỳ lạ là, có rất nhiều pháp tu Mật giáo tu khí-mạch-điểm, so sánh với pháp của Đạo gia không ngờ lại vô cùng giống nhau. Khi hòa trộn với nhau, cả hai không đối kháng mà lại kết hợp chặt chẽ với nhau, không có phân biệt. Và cho dù là Mật giáo hay Đạo giáo, khẩu quyết quan trọng nhất trong đó đều là: không để tâm ở việc, không để việc ở tâm, vượt lên trên đại huyễn, đích xác là vị Phật. (Đây chính là thiền.) Chỉ có như vậy mới có thể trở nên nội ngoại tinh xảo, trong ngoài thông suốt, tâm hoa rực rỡ, Phật quang hiển hiện. Tôi đem phù thức tu luyện dựa theo từng loại mà vẽ ra, với nhân sĩ có tâm hoặc hành giả tu Mật sẽ có ích!
1. Luyện khí:
2. Luyện tinh:
3. Luyện thần:
4. Luyện hình:
5. Luyện hư:
6. Luyện đạo:
49. Phù hiệu của Lục thông
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Pháp tính vốn không tịch, không giữ cũng không thấy, tính Không tức là Phật, chẳng thể nào suy xét.” Lục Tổ nói: “Tất cả vạn pháp, không rời tự tính. Tự tính tự biết, tự tính tự thấy, tự tính tự ngộ, tự tính tự độ.” Cá nhân tôi cho rằng: “Khi tu hành đến nội ngoại minh triệt, một khi tự tâm tuôn chảy, trí huệ đạt đến mức độ rộng khắp, thì giống như hoa khai kiến Phật, cũng giống như tỉnh dậy từ trong giấc mơ, đột nhiên xuất hiện một vùng ánh sáng, trên trời dưới đất, kho tàng vô tận.” Tôi nói: “Đây là thần thông tự hiển lộ.” Tôi nhận thấy rằng lục thông (sáu thần thông) cũng có phù hiệu. Tôi đặc biệt vẽ ra phù hiệu của lục thông:
Thần túc thông:
Ra vào tự do, thần thông biến hóa đi đi lại lại khắp mười phương pháp giới.
Thiên nhãn thông:
Tâm khiếu khai mở, cả sơn hà đại địa giống như trong lòng bàn tay, trên nhìn thấy tứ thánh mười hai tầng trời, dưới nhìn hấy cả lục đạo tam đồ.
Thiên nhĩ thông:
Nghe được pháp âm của mười phương pháp giới như âm thanh ngay bên tai. Mười phương xa gần, Phật quốc tịnh thổ, chư tôn pháp ngữ đều có thể nghe được. Đây là cảnh giới của thiên nhĩ.
Tha tâm thông:
Thấu rõ tâm chúng sinh trong mười phương, biết những chuyện ẩn vi tế trong tâm người khác. Ý niệm vừa khởi liền biết trước hết tất cả.
Túc mệnh thông:
Quán thấu nhân quả của ba đời, mười đời, trăm đời, năm trăm đời, vô số kiếp.
Lậu tận thông:
Tất cả hữu lậu đều tận, vô thượng, vô đẳng đẳng.
Sáu tấm phù này đều có diệu dụng, nhưng cần phải là người tu đến tầng thứ cao mới có thể sử dụng. Để có thể thực sự nắm rõ, cần thỉnh thị người thực sự ngộ tính, chứng đạo. Những tấm phù này trân quý thù thắng, không thể nói hết.
(Hết)