Chìa khóa của cõi trời
🪷 Mở cửa thiên đường
Văn tập: 260 Xuất bản: 08/2017 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Tôi ngồi thiền trong nhà. Có một thiên nhân từ trong hư không nơi tôi tọa thiền bay qua, thiên nhân này nhìn thấy trước mặt phát ra ba luồng ánh sáng, ba luồng ánh sáng này chính là: Phật quang. Linh quang. Bạch quang.
Thiên nhân này giật thót mình, đến trước mặt tôi. Hỏi: "Xin hỏi tôn giả, ngài là người gì đấy?" Tôi đáp: "Tôi không biết." Thiên nhân hỏi: "Trong hư không hiện lên Phật quang, linh quang, bạch quang, ba ánh sáng này tỏa ra, vậy thì tôn giả lẽ nào là Phật, Như Lai, Thế Tôn?" Tôi đáp: "Không! Tôi không phải là Phật, Như Lai, Thế Tôn!" Thiên nhân hỏi: "Thế ngài nhất định là Đại La Kim Tiên rồi?" Tôi đáp: "Không! Tôi không phải là Đại La Kim Tiên!" Thiên nhân lại hỏi: "Tôn giả không phải Phật, cũng không phải Kim Tiên, thế nhất định là một vị Đại Bồ Tát, đúng không?" Tôi đáp: "Không! Tôi không phải là Bồ Tát!"
Cuối cùng, thiên nhân hỏi: "Thế rốt cục ngài là ai?" Tôi đáp: "Tôi thật sự càng ngày càng không hiểu mình rốt cục là ai. Nhưng tôi có thể buông bỏ tất cả, chỉ là một con người, không bị thế gian nhiễm bẩn."
Thiên nhân nghe xong. Cười lớn ha ha ha rồi bỏ đi, vừa cười vừa nói: "Không bị thế gian nhiễm bẩn, không bị thế gian nhiễm bẩn, như thế là đã có chìa khóa của cõi Trời rồi, có thể đến tất cả mọi nơi, thảo nào, thảo nào!" Thiên nhân bay lên hư không, nói: "Tôi biết tôn giả là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn rồi!" Tôi nói: "Đó chỉ là phù hiệu thôi." Thiên nhân nói: "Tôi chỉ biết có một người, nhiều lần hạ sinh ở nhân gian, bảo vệ chính nghĩa, tiêu diệt tà ác, xây dựng chính pháp, trong tay của ngài ấy nắm giữ chìa khóa của cõi Trời, có thể đến tất cả pháp giới, tôi xin đảnh lễ trước tôn giả." Tôi nói: "Thiên nhân cao quý, vậy thì người hãy đảnh lễ hư không đi! Người sẽ hiểu được ý của tôi." Thiên nhân nói: "Đúng vậy, đúng vậy."
Thơ: Hư không "Ai là tôi? Tôi là ai? Quên hết tất cả chẳng bận lòng Đông cũng có Tây cũng có Nắm chìa khóa trong tay Ở khắp chốn Bạn hỏi tôi Tôi hỏi bạn Chưa bao giờ từng phụ lòng nhau."
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Phật Đà là người thế nào?
Tôi từng nghĩ mãi: "Phật Thích Ca Mâu Ni là người thế nào?" Điều tôi nghĩ đến là lai lịch. Về sau, tại thế giới Ta Bà, tôi đã gặp được Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi đã từng viết trong một cuốn sách trước đây. Từ "Bản Sinh Kinh" của Phật Đà, tôi đã đi tìm hiểu về sự ra đời của Đức Phật. Rồi lại từ những lời nói và việc làm sau khi giác ngộ dưới gốc cây bồ đề của Phật Đà, tôi đã đi tìm hiểu về Đức Phật, biết được Phật Đà có hai việc: 1. Sau khi giác ngộ lập tức muốn rời khỏi thế gian. 2. Sau khi giác ngộ không muốn thuyết pháp. Sau khi giác ngộ, Phật Đà từng nghĩ: Pháp thâm sâu không dễ. Chẳng cần dạy chúng sinh. Tham sân trói con người. Khó mà hiểu được pháp. Người tham lam ngu muội. Chẳng thấy chính pháp này. Pháp này ngược sự đời. Ảo diệu thực khó biết. Phật Đà hiểu như vậy. Chẳng muốn truyền Phật pháp. Đây là cách nghĩ của Phật Đà sau khi đã ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề. Bởi vì Phật pháp quá thâm sâu, quá khó hiểu, lại không giống với các pháp thế gian, do vậy Phật Đà không muốn tuyên thuyết Phật pháp. Vì thế, Phật Đà thấy, vì đã không muốn tuyên thuyết Phật pháp, nên cũng không muốn lưu lại thế gian này, ở lại cũng vô ích, do vậy nghĩ chi bằng lúc đó đi luôn. (Sau đó, Đại Phạm Thiên Vương khuyên thỉnh, Phật Đà mới thuyết pháp, sự việc này những người học Phật đều biết.) Điều tôi muốn nói với thế nhân là: 1. Phật không phải là người. 2. Phật biết quá khứ, hiện tại, vị lai. 3. Phật là Như Lai, Như Khứ, tất thảy đều là Như như. Ngài có chìa khóa của cõi Trời, có thể đến mọi nơi tùy ý. 4. Phật là bậc Thiên nhân cực đỉnh. Nói theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay thì: "Phật Đà là người ngoài hành tinh đỉnh của đỉnh." Tôi nói: "Tôi cũng vậy." Câu nói này của tôi hôm nay có thể khiến cho xã hội ngứa tai. Phật Thích Ca Mâu Ni là người ngoài hành tinh cực đỉnh, Chúa Jesus cũng là người ngoài hành tinh cực đỉnh, còn có rất nhiều rất nhiều người là người ngoài hành tinh cực đỉnh nữa…. Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) nói: "Tôi từ Thiên Hà Thắng Cảnh Xứ hạ sinh ở nhân gian, tôi không phải là người ngoài hành tinh cực đỉnh thì là cái gì?" Tôi nói: Diễm Đế --- Thần Nông Thị. Hoàng Đế --- Hiên Viên Thị. (Con cháu của Diễm Đế, Hoàng Đế là tổ tiên của người Trung Quốc.) Ngoài ra: Phục Hy Thị, Nữ Oa Thị, Toại Nhân Thị, Hữu Sào Thị, được xưng là sáu vị thần cổ đại, đều là từ trên trời hạ giáng. Do vậy: "Họ đều là người ngoài hành tinh." Cách nghĩ của tôi là rất chính xác. Từ xưa đến nay, rất nhiều người tài giỏi làm nên những việc phi thường, đều là những chuyện "thiên ngoại thiên". Thiên ngoại thiên chính là những chuyện bên ngoài trái đất! Người ngoài hành tinh, chẳng phải thế sao? Phật giáo có một cuốn sách là "Nguyên Nhân Luận", chỉ ra nguồn gốc của nhân loại là từ cõi trời Quang Âm đến. Quang Âm Thiên là ngoài hành tinh. Chúng sinh chẳng phải là người ngoài hành tinh sao. Điều tôi muốn nói với mọi người là, người ngoài hành tinh cực đỉnh, trí huệ rất cao, cao tới mức không thể đo lường được. Bởi vì cao tới mức không thể đo lường, ngộ cảnh của Phật Đà là bất khả tư, bất khả nghì. Hôm nay, tôi đã hiểu được: "Tôi ngày xưa cũng là người ngoài hành tinh cực đỉnh."
02. Chúng sinh đang làm gì?
Tôi thường nghĩ thế này: Chúng sinh ở thế giới Ta Bà đang làm gì? Sinh ra. Đi học. Đi làm. Kết hôn. Nuôi dạy con cái. Con cái kết hôn. Già. Chết. Tôi nói: Biết bao chúng sinh đều chạy, chạy, chạy theo cùng một cách này, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Con đường từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi này, mọi người cứ chạy theo quỹ đạo này bao lâu rồi! Con đường này cũng chưa chắc là thuận lợi, có biết bao nhiêu chướng ngại, tôi lấy ví dụ đơn giản: Mắc bệnh. Chết yểu. Tai vạ bất ngờ. Chết oan. Vướng vào kiện tụng. Yêu phải xa cách. Ghét vẫn phải gặp. Mong cầu không được. Vân vân... (Vô thường) Nhân đây, tôi hỏi mọi người, bạn có từng nghĩ: "Rốt cục bạn là ai?" "Bạn từ nơi nào đến?" "Chết sẽ đi về đâu?" "Rốt cục sống vì cái gì?" "Sống chết rốt cuộc là chuyện gì?" "Cái gì là giá trị của việc sinh ra và giá trị của việc chết đi?" Bạn đem những câu hỏi này đi hỏi tổng thống, hoặc đi hỏi những doanh nhân lớn, hỏi các chuyên gia đại học, hỏi những người nổi tiếng. Họ sẽ đều chẳng trả lời được, bởi vì bọn họ cũng ở trong biển sinh tử chẳng khác gì bạn, như khúc gỗ trôi dạt. Bạn chỉ có thể hỏi ai? Chỉ có thể hỏi Phật Đà, Phật Đà nói: Pháp mà ta đã ngộ được vô cùng sâu rộng, tịch nhiên thanh tịnh, vượt lên sinh tử, vô sinh vô tử. Thế nhân chẳng dễ gì hiểu được, cũng chẳng dễ gì lĩnh ngộ được, thực sự chẳng có sinh tử, chỉ có Thánh nhân mới hiểu. Chúng sinh tham chấp thực dụng, chẳng có cách nào hiểu được. Đại pháp này là: Phá hủy tiền bạc. Phá hủy sắc đẹp. Phá hủy danh lợi. Phá hủy tham ăn. Phá hủy tính cách. Phá hủy mạng sống. Nhân duyên đại sự này, chúng sinh chẳng có cách nào hiểu được. Ai có thể hiểu được Phật Đà? Ai có thể ngộ được điều Phật đã ngộ? Tôi đáp: "Tôi (Lư Sư Tôn)." Có rất nhiều người đi trên con đường tu hành, nhưng rất buồn cười, người tu hành lại yêu tiền, người tu hành lại háo sắc, người tu hành tranh danh đoạt lợi, người tu hành không biết nhân cách, người tu hành không biết về cuộc sống. Đó đều là giả tu hành, là mượn việc tu hành để lừa bịp, tội lỗi tăng thêm một cấp, càng dễ đọa vào tam đồ. Do vậy: Tu hành thì đầy như đất trên mặt đất. Thành tựu thì như đất in dấu chân chim. Ai có thể thực sự nắm được "Chìa khóa của cõi Trời"?
03. Tổng tập chìa khóa của cõi trời
Phật Đà dạy Phật pháp là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo (Tứ Thánh Đế) --- chứng A La Hán. Diệt được vô minh thì diệt được Hành, diệt được Hành thì diệt được Thức, diệt được Thức thì diệt được Danh sắc, diệt được Danh sắc thì diệt được Lục nhập, diệt được Lục nhập thì diệt được Xúc, diệt được Xúc thì diệt được Thọ, diệt được Thọ thì diệt được Ái, diệt được Ái thì diệt được Thủ, diệt được Thủ thì diệt được Hữu, diệt được Hữu thì diệt được Sinh, diệt được Sinh thì diệt được Tử, sầu bi, khổ não, diệt được sự tuyệt vọng, như vậy thì mọi cái khổ đều được diệt sạch. (Thập nhị nhân duyên) --- chứng thập nhị nhân duyên (Duyên Giác). Bố thí. Trì giới. Tinh tấn. Nhẫn nhục. Thiền định. Trí huệ. (Lục độ) --- chứng Bồ Tát. Chính kiến, chính tư duy, chính ngộ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. (Bát chính đạo) Tôi nói: "Chiến thắng tất cả, giác ngộ tất cả, không chấp vào tất cả, xả bỏ tất cả, chế tâm vào một chỗ, tự giác tất cả." Còn nói: "Độc chứng viên giác, thanh lương an yên, chuyển động pháp luân, phổ hóa chúng sinh." "Chứng hữu dư, vô dư niết bàn." Đó chính là Phật. Ngoài ra: Cá nhân tôi thường đi dạo trong các khu nghĩa địa, đi thăm lần lượt từng ngôi mộ (trông như những chiếc bánh bao). Tôi nghĩ đến: "Có sinh tất có tử." "Chỉ có nghiệp theo thân." Tôi nghe bác sĩ Trịnh Sâm Long nói: "Trong bệnh viện của tôi, trong vòng một năm, có bốn bác sĩ trẻ, vì mắc bệnh ung thư, tuổi còn trẻ nhưng đã lìa xa cõi đời rồi." (Đó là vô thường.) Còn có rất nhiều: Tai nạn giao thông. Đột tử. Chết thảm. Tự sát. Bị sát hại. (Cuộc đời này thật chẳng hề có trạng thái thường hằng, bởi vậy mới nói là vô thường. Một khi vô thường xảy đến thì cũng không biết khi nào sẽ chết.) Còn có một câu nói mà tôi ghi nhớ kĩ, đó là (Trung Luận): Vì duyên mà sinh pháp Tôi nói tức là không. Cũng chỉ là tên giả. Đó là nghĩa trung đạo. Chưa từng có pháp nào Chẳng sinh bởi nhân duyên. Bởi vậy chẳng pháp nào Chẳng phải là hư không. Từ những câu này, tôi nghĩ đến "vô tự tính", ta là một sự giả hợp, nhà cửa là một sự giả hợp, xe cộ là một sự giả hợp, núi sông đại địa chẳng có cái nào không phải là giả hợp. Nếu như phân tách ra khỏi nhân duyên thì đó chính là "Không". Chúng ta thấy là "người". Nhưng đất nước lửa gió khi phân tách ra thì chính là "Không". Xương thịt, dịch thể, nhiệt độ, hô hấp, lần lượt phân tách hết ra, thì con người cũng chẳng tồn tại nữa. Từ đó thấy được rằng: Vô ngã. Vô thường. Khổ không. Những điều này đều là nguyên nhân khiến chúng ta cần tu hành. Phật Đà vì một nhân duyên đại sự mà đến. Tôi có thể lĩnh ngộ được, bởi thế tín thọ phụng hành.
04. Thế nào là Trung quán?
Cá nhân tôi không muốn dùng pháp nghĩa thâm sâu để giải thích về Trung quán. Tôi nói như thế này: Nhân thế gian có hai loại tà kiến: Tà kiến thứ nhất: "Con người chỉ có một kiếp, chết rồi thì tất cả đều kết thúc!" Người theo phe này cho rằng chết chính là không còn tồn tại bất kì cái gì nữa, vì thế sinh ra những tư tưởng suy diễn từ điều này như: 1. Không có thiên đường, địa ngục, không có lục đạo luân hồi. 2. Tôn giáo là ngu muội. 3. Đạo đức chỉ là bịp bợm. 4. Chủ nghĩa hưởng lạc. 5. Chủ nghĩa buông thả theo dục vọng, tự tư tự lợi, thỏa thích hưởng thụ thế giới này, trộm, cướp, lừa lọc đều có thể làm. 6. Hưởng lạc tới điểm cao nhất chính là một sự vinh quang. 7. Không phân biệt thủ đoạn, tranh đấu đến quyền lực và địa vị cao nhất. 8. Kiếm tiền là số một, cực kì vô lương tâm. 9. Dù gì cũng chẳng có kiếp sau, không có nhân quả, chỉ cần có lợi ích cho bản thân thì sẽ làm. Tà kiến thứ hai: "Muốn thành tựu Phật quả, cần phải chịu những khổ hạnh lớn nhất. Nghĩa là muốn đạt đến giải thoát thì chỉ có khổ hạnh nghiêm khắc mới có thể đạt được." 1. Ngày ăn một bữa. Hoặc tuyệt thực. Hoặc ngày ăn một hạt kê. 2. Mặc quần áo vá chằng vá đụp. Hoặc lõa thể. 3. Sống trong hang động, dưới cây, đất trống. Không đảo thiền (chỉ ngồi, không nằm). 4. Đi lại bằng chân đất. 5. Treo ngược. 6. Đi vào nước. 7. Đi vào lửa. 8. Đốt ngón tay. 9. Học tập những hình dáng của động vật. 10. Tự đâm chọc vào người. 11. Cắt xẻ thân thể. 12. Dùng đủ loại khổ hạnh nhằm đạt đến mục đích giải thoát. Tôi nói: "Đây là hai loại tà kiến, cần phải loại bỏ lý luận về một kiếp, cũng cần phải loại bỏ khổ hạnh." "Đó chính là Trung quán." Phật Đà nói: "Trung quán chính là bát chính đạo." "Chính kiến" tức là cần có sự không bám chấp vào hai thứ cực đoan, cần xả bỏ hưởng lạc và khổ hạnh, từ bi thế nhân, cần có tư tưởng vô hại đối với bạn, với ta, với người khác. "Chính tư duy" chính là đối trị với sự ích kỉ, ác ý, tàn nhẫn. "Chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh", ba cái này chính là đạo đức giúp viên mãn đời người. "Chính tinh tấn" tức là tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp. "Chính niệm" tức là tự thanh tịnh ý nghĩ của mình. "Chính định" tức là nhất tâm bất loạn, chế tâm một chỗ. Phật Đà từng dùng hình tượng dây đàn để so sánh với Trung quán. Dây đàn căng quá thì dễ đứt. Dây đàn lỏng quá thì không phát ra âm thanh. Không căng không lỏng là vừa đẹp nhất! Trung quán chính là không quá căng, không quá lỏng, thì sẽ tạo ra âm thanh đẹp đẽ tuyệt diệu nhất. Không lệch về sự sôi sục, không lệch về sự lỏng lẻo, đó chính là Trung quán. Phật Đà nói: Mọi điều ác không làm. Hãy làm mọi điều thiện. Tự thanh tịnh tâm ý. Đó là điều Phật dạy. Trong lời kệ này, "tự thanh tịnh tâm ý" là quan trọng nhất. Kinh Pháp Cú: Từ tham lam mà sinh ra buồn rầu, từ yêu mà sinh ra sợ hãi, rời bỏ dục vọng thì không còn lo âu buồn rầu, càng không còn sợ hãi.
05. "Thiền tu" nghĩa là gì?
Từng có lần trong thang máy, tôi gặp một người học Phật, tôi hiếu kì hỏi: "Anh tu cái gì?" Anh ta đáp: "Thiền tu." Tôi lại hỏi: "Thiền tu là cái gì?" Anh ta đáp: "Quán tâm." Tôi mới hỏi được hai câu thì thang máy đã đến nơi rồi. Do vậy, tôi muốn viết một chút về "thiền tu". Bản thân tôi thường xuyên trong lúc dạo bộ, hoặc lúc ngồi, lúc nằm thực hiện "thiền tu" (hoặc còn gọi là thiền quán). Mục tiêu của việc này là đạt đến "bất nhị pháp môn", thế bất nhị pháp môn là cái gì? Tôi nói: Đó là cảnh giới tuyệt đối, không có sự đối lập, lưỡng biên, cũng có thể nói như thế này, đó là pháp giới sâu thẳm nhất của cùng cực mọi pháp. Cũng có rất nhiều tên gọi khác tùy theo các phái: Như Lai tạng. Vô phùng tháp. Tam ma địa. Quang minh tạng. Tịch diệt hải. Tổng trì môn. Chân như cảnh giới. Viên giác hải. Pháp vương thành. Bất động đạo tràng. Nhưng làm sao để tu đây? Cá nhân tôi cảm thấy nên tu "nhất". Kinh sách nói: Sự đạt được đạo, ấy là nhờ vào sự tập trung chuyên nhất. Người học Phật do nhất tâm bất loạn mà đắc đạo. Người theo Nho giáo đắc đạo thì do từ sự nhất tâm mà quán chiếu được thông suốt. Tôi nói: Con người có thể thủ nhất thì vạn sự hoàn tất. Phật Đà có nói: Con người có thể thủ nhất, chế tâm một chỗ, thì không việc gì là không làm được. Muốn minh tâm kiến tính cần chế tâm một chỗ, nhập tam ma địa nhất tâm bất loạn, mới có thể thành công. (Theo kinh nghiệm thực tu của tôi, chỉ cần có thể thủ nhất thì chính là tam ma địa, rồi lại từ một hóa không, dòng chảy pháp trí huệ giữa vũ trụ sẽ từ hư không đổ xuống, tưới đẫm toàn thân ta, giống như làm thân thể này tan rã, rồi chính thân này hòa nhập vào trong hư không rộng lớn.) Mọi người có thể lấy kinh nghiệm này của tôi để tham khảo. Thiền tu. Quán tâm. Dừng suy nghĩ. Các cách gọi khác nhau, nhưng kì thực đều là một. Quán tưởng của Mật giáo chính là một phương pháp, ví dụ chúng ta quán tưởng một chú tự. Chữ "Hum"
Đầu tiên ghi nhớ toàn bộ chữ này trong tâm. Tiếp đó, quán tưởng chữ Hum thiếu phần
Tiếp đó, quán tưởng chữ Hum thiếu phần
Tiếp đó, quán tưởng chữ Hum thiếu phần
Sau đó, chỉ còn lại
Thế rồi, chỉ còn lại
Rồi chỉ còn
Cuối cùng là:
Lúc này ta đã tiến vào cảnh giới "không" rồi. Hoặc là: Quán tưởng mặt của Bồ Tát, rồi lại hóa thành không. Quán tưởng pháp khí, chú tự, rồi lại hóa thành không. Khi bạn đã định vào một, hoặc hóa thành không thì đây chính là thiền tu, cũng tức là quán tâm, hoặc là dừng suy nghĩ. Khẩu quyết của pháp này là dùng sự trợ giúp của việc hít thở. Pháp này là đại bí mật vô thượng. Tu quán lâu ngày rất dễ nhập vào tam ma địa. (cảnh giới định)
06. Các phương pháp chế ngự tâm ở một chỗ
Bàn về hai loại tà kiến, phân tích một cách đơn giản là: 1. Mê đắm vào hưởng thụ thanh sắc khuyển mã, sống cuộc đời xa hoa đồi trụy, như vậy là đê hèn, thấp kém, dung tục và vô bổ. 2. Bám chấp vào tu mọi khổ hạnh, tự đày đọa bản thân, đây là nếm hết tất cả vị đắng, nhưng không phải là giải thoát thật sự, cũng là việc vô ích. Phật Đà đã lĩnh ngộ được Trung quán. Phật Đà nhờ vào việc chế tâm một chỗ mà lĩnh ngộ được: Trí huệ vô thượng. Bồ đề tâm. Niết bàn tịch tĩnh. Trung quán tức là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. (bát chính đạo) Vì sao lại khổ? Bởi vì tham. Vì sao lại tham? Bởi vì tập tính. Phật Đà cho rằng chỉ có nhờ chế tâm một chỗ mới có thể đạt đến trí huệ, bồ đề tâm, niết bàn. Cá nhân tôi cho rằng có rất nhiều cách thức để chế ngự tâm ở một chỗ: Khi tôi tu hành ở chỗ của Đôn Chu Rinpoche, tôi đã trông thấy một miếng vải đỏ, ở giữa có vẽ một vòng tròn màu trắng. Địa điểm là ở bang New Jersey. Hình vẽ như sau:
Đôn Chu Rinpoche dùng hình tròn, quán tưởng vòng tròn để kiểm soát tâm tại một chỗ. Phương pháp của tôi là: "Nhất duyên thiền định pháp", thắp một que hương, cắm vào trong lư hương. Như hình vẽ sau:
Hành giả tập trung sức chú ý vào điểm màu đỏ trên đầu que hương, không rời suy nghĩ về điểm màu đỏ này, lâu lâu sẽ có thể chế tâm một chỗ đó! Còn có pháp tu Cửu tiết Phật phong. Hít khí vào từ lỗ mũi trái, phải. Chiếu theo phương thức chín bước để khiến cho sức mạnh tinh thần tập trung vào chín bước này. Như vậy sẽ có thể chế tâm một chỗ. Còn có pháp tu niệm tụng Cao Vương Kinh. Ở trước đàn thành, niệm tụng từng chữ từng chữ của Cao Vương Kinh, tinh thần tập trung, cố gắng hết sức không để cho những vọng niệm thô ráp xen vào.Nhờ sức mạnh tinh thần đều tập trung vào những chữ trong bản kinh mà cũng có thể chế tâm một chỗ. Còn nữa: Nhờ quán tưởng một chú tự như đã nói trong chương sách trước, ta tập trung vào chú tự:
Làm như vậy cũng có thể chế tâm một chỗ. Còn nữa: Nhờ quán tưởng Bổn tôn, thân tướng, cánh tay, pháp khí, v.v… của Phật Bồ Tát mà tinh thần tập trung, cũng có thể chế tâm một chỗ. Còn nữa: Đại lễ bái. Đại cúng dường. Tứ quy y. Tứ vô lượng tâm. ... Đều có thể khiến cho con người chế tâm một chỗ. Còn nữa: Những điệu hát kim cương, điệu múa kim cương, múa tóc kim cương, trò chơi kim cương đều có thể chế tâm một chỗ. Tóm lại, bất kì một phương pháp nào, cách thức nào, chỉ cần có thể khiến bạn tập trung được tinh thần, thì đều có thể luyện được việc chế tâm một chỗ. Việc chế tâm một chỗ có thể khiến ta quên đi sướng khổ, được mất, khen chê, đúng sai, tất cả đều biến mất. Có lợi ích lớn lắm đó!
07. Lợi ích lớn lao của nhất tâm bất loạn
Trong kinh A Di Đà, con người muốn đến được Phật quốc tịnh thổ thì phải niệm Phật nhất tâm bất loạn, khi ấy Tây phương Tam Thánh là A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ hiện lên trước mặt, tiếp dẫn chúng sinh được vãng sinh đến cõi tịnh độ. Đây là một lợi ích của việc nhất tâm bất loạn. Cực kì quan trọng. Cực kì quan trọng. Mọi người nghĩ xem, vào lúc sinh mệnh sắp chấm dứt thì ùa ra rất nhiều cảm xúc phức tạp chua cay mặn ngọt đắng đủ cả, những vọng niệm trong lòng người rất rối bời và hỗn loạn. Muốn nhất tâm bất loạn là rất khó khăn đó! Tuy vậy, chỉ cần lúc bình thường bạn luyện tập có hiệu quả thì vào lúc lâm chung, hãy nhớ đến Bổn tôn của mình. Miệng tụng chú của Bổn tôn. Không để cho ngoại cảnh làm phân tán. Liên tục nhất tâm bất loạn cho đến khi Bổn tôn hiện lên trước mặt, cả hai dung nhập hòa tan vào lẫn nhau, tự nhiên hoa sen nở ra sẽ thấy Phật. Đây chính là lợi ích lớn nhất. Kì thực, hành giả sống ở nhân gian, đương nhiên cuộc sống cần phải không màng danh lợi, cố gắng hết sức để giảm bớt dục vọng. Loại bỏ những sự phiền nhiễu từ các mối quan hệ giữa người với người. Loại bỏ những rắc rối về ham muốn tình cảm. Tránh những chuyện thị phi lôi thôi. Tốt nhất là sống ở chùa, ở trên núi, ở những nơi yên tĩnh, nơi tinh thần dễ tiến vào trạng thái trống rỗng yên tịch. Thế mới gọi là: Người kém thì ở núi. Người giỏi thì ở chợ. Ý của hai câu này có nghĩa là, nếu người nào đã có thể chế tâm một chỗ, nhất tâm bất loạn thì vẫn có thể nhập thế để độ chúng sinh. Thế mới nói là: "Điềm tĩnh nhắm mắt quan sát bên trong thì trong lòng tự nhiên sẽ sáng suốt, không điều gì có thể làm phiền hà, nhờ đó được thái bình an yên." "Bên trong mà giữ được kiên cố cái chân thật thì trong hư vô sẽ điềm nhiên mà thành thần tiên." Nhất tâm bất loạn có lợi ích to lớn lắm thay! Có thể giữ được tinh khí. Có thể vận chuyển khí. Có thể hiển thần. Có thể vui vẻ. Có thể sống lâu. Có thể khỏe mạnh. Nhất tâm bất loạn, chế tâm một chỗ, tinh thần thủ nhất là một khối hoàn chỉnh. Trên phương diện tâm linh: Có thể hợp nhất với đạo. Có thể tương ứng với Bổn tôn. Có thể thông hiểu đạo lý huyền diệu. Có thể thông linh. Có thể thành tựu tam ma địa. Cũng có nghĩa là có thể đạt được "định". Tam vô lậu học của Phật pháp là: Giới - không màng danh lợi. Định - nhất tâm bất loạn. Huệ - minh tâm kiến tính. Còn nữa: "Không màng danh lợi, không nuôi dưỡng những ham muốn phồn hoa, ăn uống huyền khí thì có thể trường sinh." Còn nữa: "Sống ẩn mình, biểu hiện ra ngoài khác với thế nhân thông thường, hưởng niềm vui của tam Thần nhờ vào việc ẩn cư, vậy sao không lên núi tu tính mệnh, sống ở nơi sâu thẳm tĩnh mịch xanh mướt của những chân nhân. Vào núi nào đâu có khó mà còn chần chừ, nhân gian đâu đâu cũng xấu xa thối nát mà thôi." Kinh nghiệm của cá nhân tôi là, con người chỉ cần tu đến nhất tâm bất loạn, tự nhiên tất cả sẽ đều sáng tỏ thông suốt, ta có thể cùng Bổn tôn hòa tan vào nhau, dòng chảy pháp từ hư không sẽ đổ xuống, tưới đẫm toàn thân ta, ta có thể chứng đắc được: Đất --- kiên cố. Nước --- thanh tịnh. Lửa --- sáng chói. Gió --- thần biến. Đối với tu hành, cá nhân tôi tu giới trước, rồi mới tu định, chỉ cần có thể định được thì trí huệ sẽ tự đến mà thôi. Các thánh đệ tử à! Có hiểu không?
08. Thế nào là tương ứng thật sự?
Mật giáo chúng ta khởi đầu bằng việc tu pháp tương ứng. Mặc dù đó là ngoại pháp, thuộc loại pháp về phần thô, tuy nhiên, đây lại là nền móng của Mật pháp. Ý nghĩa của nó là: Thân thanh tịnh --- thủ ấn. Khẩu thanh tịnh --- trì chú. Ý thanh tịnh --- quán tưởng. Khẩu quyết khi tu pháp này là "nhất tâm". Tôi có nhớ một bài kệ: Nội tâm quán tâm tìm bản tâm Tâm tâm đoạn tuyệt thấy chân tâm Chân tâm thấu suốt thông tam giới Ngoại đạo thiên ma chẳng dám gần. Bài kệ này vô cùng quan trọng, đặc biệt là câu "tâm tâm đoạn tuyệt" chính là khẩu quyết chí yếu. Khi hành giả kết thủ ấn của Bổn tôn, miệng tụng chú ngữ của Bổn tôn, ý niệm quán tưởng Bổn tôn thì: Bổn tôn ở tại hư không. Bổn tôn di chuyển đến trên đỉnh đầu hành giả. Bổn tôn hóa thành điểm sáng dung nhập vào bản thân. Bổn tôn và hành giả không hai không khác. Không hai không khác ở đây chính là: "Tương ứng." Sự tương ứng lúc này chính là: "Ta tức là Bổn tôn, Bổn tôn tức là ta." Ở đây là muốn nói đến: Khí và khí hòa tan. Mạch và mạch thông nhau. Điểm và điểm hợp lại. Lúc này, nguyện vọng (lời thề) của Bổn tôn cũng chính là lời thề của hành giả, là một. Đương nhiên thân là thân của Bổn tôn, khẩu là khẩu của Bổn tôn, ý là ý của Bổn tôn. Tâm tâm biến thành nhất tâm. Kinh Bảo Tích viết: Chư Phật từ tâm đắc giải thoát. Tâm thanh tịnh gọi là vô cấu. Ngũ đạo trong sạch không nhiễm bẩn. Người đã đạt được sự giải trừ này thì sẽ thành tựu đại đạo. Kinh Hoa Nghiêm viết: Con người muốn biết cảnh giới Phật Ý cần thanh tịnh như hư không Rời xa vọng tưởng và mọi vật Tâm hướng về đâu đều chẳng khó. Còn nữa: Vì mọi pháp đều Không nên tâm ta Không. Vì tâm ta Không nên mọi pháp đều bình đẳng. Mọi pháp và tâm ta không phải là những bản thể khác biệt. Tất cả chỉ nằm trong một ý niệm ngay lúc này. Có người hỏi tôi: "Có người tự nói rằng đã tương ứng với Căn bản Thượng sư rồi! Là thật hay là giả?" Tôi đáp: "Hành vi giống với thầy, ngôn ngữ giống với thầy, suy nghĩ giống với thầy, như thế tức là đồng tâm đồng đức." Hỏi: "Nếu vẫn chưa tương ứng thì sao?" Tôi đáp: "Rất đơn giản, hành vi sẽ sai lầm, ngôn ngữ sẽ đi ngược với lời của sư phụ, càng đi càng xa, bất đồng trong suy nghĩ, sẽ đi vào tà pháp, mất đi tín niệm đối với Căn bản Thượng sư, hành sự ích kỉ tự tư tự lợi, đã mất đi sự ngay thẳng, công bằng, chính trực. Loại người này đương nhiên là tương ứng giả, người minh nhãn nhìn là biết ngay." Tôi nói: "Người tương ứng thật thì một khi đã quy y, sẽ luôn hành sự dựa theo những lời của Lư Sư Tôn, giữ đúng theo "Sự sư pháp ngũ thập tụng", người nào đi ngược lại là chưa tương ứng, hãy nhớ rõ! Hãy nhớ rõ!"
09. Khẩu quyết của pháp tương ứng
Hỏi: "Khẩu quyết của pháp tương ứng là gì?" Đáp: "Thực tu!" (hàng ngày) Hỏi: "Cần có quan điểm thế nào?" Đáp: "Kính sư!" Hỏi: "Trong cuộc sống có điều gì cần chú ý không?" Đáp: "Trung quán và Bát chính đạo." Hỏi: "Tương ứng với Thượng sư, rồi tương ứng với Bổn tôn, có phải là mù quáng quá không?" Đáp: "Không phải là tín ngưỡng mù quáng, cũng không phải là tu như đui mù, mà là tu bằng lý trí." Hỏi: "Cần giới định huệ không?" Đáp: "Giới định huệ là con đường duy nhất dẫn đến niết bàn." Hỏi: "Pháp tương ứng là Trời - Người hợp nhất phải không?" Đáp: "Trời và người có quan hệ mật thiết, nhưng sự mở rộng của tâm càng quan trọng hơn, nếu tự tâm mình đã rộng mở thì trời sẽ tự đến!" Hỏi: "Thế nào là tương ứng thật sự?" Đáp: "Nhất tâm." Hỏi: "Thế làm sao biết được đã nhất tâm?" Đáp: "Cần minh tâm." Hỏi: "Minh tâm là cái gì?" Đáp: "Là đã hiểu thấu về sinh tử luân hồi, hiểu rõ chân lý của núi sông đại địa, chứng đắc đạo lý thật sự của thế gian." Hỏi: "Kiến địa thì sao?" Đáp: "Hoàn toàn từ sự giác ngộ của bản thân, dựa vào cái thấy của con mắt chân thực, chính là kiến địa." Hỏi: "Làm sao để biết đã đi vào tà đạo?" Đáp: "Thật sự hiểu rõ Tứ thánh đế và Bát chính đạo và đưa vào thực tiễn, nếu không thì chính là đã đi vào tà đạo." Hỏi: "Bát chính đạo có sức mạnh gì?" Đáp: "Pháp lực của Bát chính đạo có thể đẩy lùi tham sân si tiềm ẩn trong mỗi cá nhân cũng như tất cả mọi tà tư ác niệm." Hỏi: "Chứng đắc của pháp tương ứng là như thế nào?" Đáp: "Tuyệt đối thanh tịnh." Hỏi: "Tương ứng được rồi thì sao nữa?" Đáp: Phật Phật đồng đạo đồng chí đạo Tâm tâm chân khiết khiết chân tâm. Âm thanh uy mãnh tự khuếch tán Ngày dài tháng rộng biển càng sâu. Tôi nói: "Nếu như vẫn không hiểu thì có thể đến hỏi tôi!"
10. Thuyết "Vô Ngã" của Phật Đà
Tam Pháp Ấn của Phật Đà là: Chư hành vô thường. Chư pháp vô ngã. Niết bàn tịch tĩnh.
Chúng ta đứng trên tư tưởng về sự vô thường, từ đó mà mọi hiện thực đều có thể lý giải được. Ví dụ về vô thường thì đầy rẫy, đâu cũng có: Động đất. Lũ lụt. Núi lửa. Mưa bão.
Bài kệ cảnh giới người đời của Phổ Hiền Bồ Tát: "Mỗi ngày qua đi Mệnh lại giảm bớt Như cá thiếu nước Còn có gì vui?"
Phật Đà nói: Có sinh tất có tử. Có mạnh tất có yếu. Có thịnh tất có suy. Cái này sinh ra thì cái kia sẽ lụi tàn. Thế gian là vô thường.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Sinh mệnh nằm trong sự vô thường, vô thường là chân đế, đời người như mộng huyễn, như ngọn đèn trước gió, một trận gió thổi qua thì lửa cũng lụi tàn.
Còn nữa: Chúng ta lại bàn về chân đế "Vô Ngã". Tôi ngồi trên pháp tọa tuyên thuyết cùng đại chúng rằng: Thân thể này có phải là của ta không?
Tôi nói: Thân thể này chẳng phải là của ta, nó chỉ là ngũ đại giả hợp: Đất --- là xương thịt. Nước --- là máu, là chất dịch. Lửa --- là nhiệt độ. Gió --- là hô hấp. Không --- là linh hồn. Nếu như ngũ đại giả hợp này mà phân tán thì ta tồn tại thế nào được?
Nếu thân thể này là của ta, thì sao ta lại không thể hoàn toàn khống chế được nó? Đôi khi ta muốn nó vận động nó lại bất động, muốn nó chạy nó lại chẳng có cách nào chạy được, muốn nó không sinh bệnh thì nó lại sinh bệnh, muốn nó không đau ốm thì nó lại đau ốm, muốn nó không chết thì nó vẫn chết. Thân thể này sao có thể là của ta được đây?
Bạn cho rằng bạn có thể quyết được mọi chuyện?. Sự thật là: "Bạn chẳng thể quyết được mọi chuyện." Do vậy, cái thân này có phải là của bạn không? Thân này có phải là thứ mà bạn sở hữu không?
Phật Đà nói: Vô ngã. Vô ngã sở. Thọ tưởng hành thức và sắc, cũng là như thế thôi. "Ta có phải là của ta không?" Đáp: "Không phải." "Ta có phải là cái mà ta sở hữu không?" Đáp: "Đương nhiên là không."
Trong Kinh Vô Ngã, Phật Đà nói: "Người nên hiểu rõ hết thảy bản chất của thọ-tưởng-hành-thức, bất luận là quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hay ngoài, thô hay tinh, cao hay thấp, xa hay gần. Những cái này không phải là cái ta sở hữu, không phải là ta, không phải là thần ngã."
"Tất cả các thánh đệ tử hiểu biết sâu rộng, vì biết như vậy mà chán ghét và rời xa sắc-thọ-tưởng-hành-thức, rời xa ác nghiệp. Dựa vào sự vô chấp mà đạt đến giải thoát, sau đó tri kiến sẽ sinh ra, cái Ngã chứng được giải thoát, khi đã sáng rõ thì luân hồi kết thúc, lấy phạm hạnh làm chủ, những gì tạo tác ra đều xử lý được hết thì sẽ không còn kẹt trong cảnh giới này nữa."
Tôi nói: "Vì vô ngã, xa rời phiền não!" "Vì vô ngã, xa rời cái khổ!" "Vì vô ngã, xa rời tất cả!"
11. Nhân gian như nhà cháy
Sau khi Phật Đà chứng đạo, đầu tiên Ngài đã nói mấy bộ kinh, trong đó có: Kinh chuyển pháp luân. Kinh vô ngã. Kinh nhất thiết nhiên thiêu. Có người hỏi tôi: "Cái gì là Nhất thiết nhiên thiêu?" Tôi đáp: "Nhân gian như nhà cháy, cần nghĩ là phải thoát khỏi nó!" Người hỏi: "Vì sao nhân gian lại như nhà cháy?" Tôi đáp: "Bạn nhìn thấy mỹ nữ thì con mắt bốc hỏa. Bạn nghe thấy âm nhạc khiêu gợi thì đôi tai bốc hỏa. Bạn ngửi thấy mùi son phấn đàn bà thì mũi bốc hỏa. Bạn nếm thấy vị ngon thì đầu lưỡi bạn bốc hỏa. Thân thể bạn chạm vào thân của mỹ nữ thì thân thể bốc hỏa. Những ý niệm dục hỏa của bạn dâng lên thì ý niệm bốc hỏa." (Đây chỉ mới nói đến việc gặp mỹ nữ.) Ngoài ra còn có: Tiền tài. Tên tuổi. Địa vị. Hưởng thụ. Xe hơi, nhà lầu, v.v… Tất cả đều khiến con người bốc hỏa. Vì nguyên nhân này mà nhân gian như nhà cháy, tất cả tham, sân, si, sinh, lão, bệnh, tử, bi ai, khổ não, ghen tuông, đố kị một khi khởi lên thì đều như thiêu đốt. Người hỏi: "Vì sao tôi không có cảm giác bị thiêu đốt?" Tôi đáp: "Đó là khi anh đang gặp hoàn cảnh thuận lợi." Người hỏi: "Tôi sẽ gặp nghịch cảnh sao?" Tôi đáp: "Chắc chắn có nghịch cảnh, trong nghịch cảnh thì sẽ sinh ra lửa phiền não. Phật Đà nói, có thuận tất có nghịch." Người hỏi: "Xin lấy ví dụ để chứng minh được không?" Tôi đáp: "Ví dụ như ông Trần Thủy Biển, ông ta làm đến chức lãnh đạo tối cao, nhưng cuối cùng lại trở thành tù nhân." "Lại ví dụ như tỉ phủ Vương Vĩnh Khánh, ông ta là thần kinh doanh, nhưng cuối cùng tài sản phân tán hỗn loạn." "Lại ví dụ như Thôi Đài Thanh năm xưa, cô ấy là một đại mỹ nữ, cuối cùng cũng trở thành mỹ nữ xế chiều." Bởi vậy, Nhân gian là nhà cháy, tất cả đều đang thiêu đốt. Người hỏi: "Nếu đã là như vậy thì vì sao người người đều nhảy vào nhà cháy?" Tôi đáp: "Con người chỉ biết đến biểu hiện bên ngoài, không biết đến cái bên trong, do vậy, ở trong sự thiêu đốt vẫn giết người, cướp của, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu." Người hỏi: "Vì sao Phật Đà lại biết tất cả mọi sự thiêu đốt?" Tôi đáp: "Phật Đà là bậc giác ngộ. Do vậy, Phật Đà mới chuyển pháp luân." Người hỏi: "Phật Đà khi chuyển pháp luân thì đầu tiên là chuyển cái gì?" Tôi đáp: "Pháp luân về Tứ thánh đế. Khổ, tập, diệt, đạo." Người hỏi: "Cái gì đang thiêu cháy? Trong bốn thánh đế?" Tôi đáp: "Khổ, tập đang thiêu cháy." Người hỏi: "Cái gì là diệt, đạo?" Tôi đáp: "Xuất ly và chứng quả."
12. Người tu hành không được nói dối
Phật Đà từng giảng một bộ Kinh La Vân. Đó là kinh dạy người tu hành không được nói dối, cũng dạy người tu hành cách sống ra sao. Hành giả chúng ta cần giữ giới luật, bằng không sẽ trở thành phá hỏng pháp khí. Ví dụ: Một chiếc bát vỡ - dù có bao nhiêu pháp nhũ đổ vào thì cũng sẽ chảy ra hết. Một chiếc bát bẩn - dù có bao nhiêu pháp nhũ đổ vào thì cũng vẫn bẩn. Một chiếc bát đậy chặt nắp - dù có bao nhiêu pháp nhũ đổ vào thì cũng chẳng có cách nào thu nạp được. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Không được nói dối. Lời nói dối không có bất kì ý nghĩa nào cả. Không được nói dối. Điều này là vô cùng nhục nhã. Không được nói dối. Điều này là ngược lại với tu hành. Lời nói dối rất trống rỗng. Lời nói dối rất giả tạo. Nói dối thì dẫn tới không từ việc xấu xa nào. Nói dối một lần, vì muốn che giấu, lại phải nói dối thêm nhiều lần nữa để bưng bít. Đây là hành vi của sự vô trí tuệ. Tôi nói như thế này: Tôi có một đệ tử, người đó đã làm ba việc cực kì xấu xa: Người đó nói dối, đe dọa để lừa tiền. Người đó nói dối, ngụy tạo nên những chuyện thần thông. Người đó nói dối, nuôi quỷ nhưng nói đó là thần tướng. Đệ tử đó đã làm ba việc ác, khiến rất nhiều người gặp phải đau khổ. Đệ tử này đã không chỉ phá hỏng pháp khí mà còn làm tổn hại đến sự tu hành của bản thân, cũng làm tổn hại đến người khác và người thân bạn bè của người khác, v.v… Đây là điều rất không nên. Có thể làm điều gì: Việc lợi mình, lợi người thì có thể làm. Việc không lợi mình, nhưng lợi người thì có thể làm. Việc không lợi mình, cũng không lợi người thì không được làm. Việc lợi mình, nhưng không lợi người thì không được làm. Những điều này cần thường xuyên suy nghĩ. Việc thiện nên làm nhiều. Việc xấu không làm. Khẩu nghiệp cũng vậy. Thân nghiệp cũng vậy. Ý nghiệp cũng cũng vậy. Phật Đà nói: Phải thường xuyên sám hối khẩu nghiệp, phải thường xuyên sám hối thân nghiệp, phải thường xuyên sám hối ý nghiệp. Cần phải biết từ bỏ! Những tài, sắc, danh, thực, thụy mê hoặc con người, năm thứ dụng vọng lớn này cần phải coi nhẹ. Đây là nguồn gốc của việc đoạn trừ khổ, đoạn trừ phiền não. Cần rời xa thị phi, thường sống trong cô độc. Không tham lam ăn uống, giữ trung đạo là tốt nhất. Không chú trọng việc ăn, mặc, ở, đi lại, giản dị là tốt. Cần giữ giới, nguyên nhân là để tiết chế ngũ căn. Rời xa những thứ khơi gợi sự tham dục. Cần có chính niệm, chính niệm làm cho hành giả tịch tĩnh an lạc. Chế tâm một chỗ. Nhất tâm bất loạn. Vô ngã. Chứng Thánh quả. Người ta hỏi tôi, nếu như không làm được như thế này thì sẽ ra sao? Tôi đáp: Nếu như lúc nào cũng nghĩ tham thì trong lòng sinh phiền não, chướng ngại chưa được loại trừ thì không thể thấy đạo. Không chỉ như vậy, cái lưới của dục niệm sẽ trói buộc ta, càng ngày càng chặt, sẽ đọa vào tam ác đạo. Ta sẽ buông thả, không còn tinh tấn nữa. Giống như cá mắc vào lưới, cầu sống chẳng được. Giống như cua rơi vào nồi nước sôi, cái chết cận kề. Không an ổn. Ma chướng đến. Nhiều quấy nhiễu. Đánh mất tư cách tu hành.
13. Xá Lợi Phất trong mắt tôi
Vào thời Đức Phật, Ngài có hai đại đệ tử. Hai đại đệ tử này, một người là Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất, người kia là Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất. Khi Xá Lợi Phất ra đời có truyền thuyết rất đặc biệt: Cả căn phòng có hương thơm kì lạ. Ánh sáng rực rỡ tỏa ra. Thiên nữ tung hoa. Mái nhà phát sáng. Khi mẫu thân của Xá Lợi Phất mang thai, bà trở nên vô cùng thông minh, mở miệng ra là nói những điều đầy trí tuệ, không ai có thể bắt bẻ, biện tài vô ngại. Sau khi ngài sinh ra: Đã học tập trí huệ của Bà la môn. Có nhân sinh quan hoàn toàn mới mẻ. Lại có trí huệ chín chắn. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trong rất nhiều kiếp đã là bạn bè chí cốt, và kiếp này cũng là bạn bè sinh tử. Hai người bạn thân thiết này từ lâu đã hiểu sự khoái lạc của ngũ dục cũng chẳng khác gì hư huyễn, chỉ là ngắn ngủi tạm thời. Hai người đều muốn tìm kiếm đạo giải thoát. Đầu tiên, hai người họ quy y Sa Giả Da, học pháp đốt lửa tế trời, cũng gần gũi với các đại thiện tri thức, nhưng vẫn chưa đạt được đạo lý giải thoát. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng có những nhóm đệ tử riêng của mình. Một hôm, Xá Lợi Phất ở thành Vương Xá, tình cờ gặp một đệ tử của Phật Đà, đệ tử này là A Thế Thị. A Thế Thị nói một bài kệ: Mọi pháp bởi duyên sinh Cũng bởi duyên mà diệt Thầy tôi đại sa môn Thường nói lời như vậy. Xá Lợi Phất vừa nghe thấy thì lập tức ngộ ra, đây chính là luật nhân quả, nhưng chỉ nghe hai câu trước đó thì đã có ngay ngộ cảnh rồi. Xá Lợi Phất nói với Mục Kiền Liên, hai người liền đến nương nhờ và quy y Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì việc quy y của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên mà tăng đoàn của Phật Đà nhờ đó mà hưng thịnh. Phật Đà giảng Thọ Phúc Kinh. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều đạt đến cảnh giới A La Hán. Ý của Phật Đà là: Tìm kiếm chính mình. Tìm được tâm của chính mình. Hiểu rõ tâm tức là Phật. Phát triển thành đệ nhất nghĩa đế. Không có Phật cũng chẳng có tâm. Lúc này, chân tâm mới có thể xuất hiện. Xá Lợi Phất là đại đệ tử chân chính của Phật Đà, được Phật vô cùng coi trọng. Cả đời kính sư. Không trái lệnh thầy. Ngài ấy là người giác hành viên mãn, đến những năm về già, Xá Lợi Phất đã đến gặp Phật để cáo lão về quê. Đầu tiên, ngài ấy đã độ hóa cho những người thân và quyến thuộc của mình. Sau đó đã tọa hóa trước Phật Đà. Phật Đà thọ kí cho ngài ấy là Hoa Quang Phật. Là vị Phật đứng đầu trong số ba nghìn vị Phật tương lai. Cha của Xá Lợi Phất là một người Bà-la-môn cố chấp, mẹ của ngài cũng cảm thấy Xá Lợi Phất không đúng. Tuy nhiên, khi Xá Lợi Phất bay lên hư không, từ các lỗ chân lông trên người phóng ra nước và lửa thì lúc này cha mẹ của Xá Lợi Phất đều lập tức quy y ngài. Cha mẹ quy y con trai. Thế gian hiếm thấy. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn ngày nay, cha và mẹ đều quy y ông ấy, các chị em gái đều quy y ông ấy. Đây là điều vĩ đại của Phật pháp.
14. Tì kheo ni hỏi tôi về Bát kính pháp
Có một tì kheo ni đến hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài không cảm thấy thời đại đã tiến bộ rồi, bây giờ nam nữ đã bình đẳng rồi, có cần thiết phải tuân theo Bát kính pháp của Phật Đà nữa không?" Tôi đáp: "Nam nữ bình đẳng, nữ quyền lên ngôi. Thế nhưng thật ra quan điểm của Phật Đà vẫn không có gì sai cả." Tì kheo ni hỏi: "Vì sao lại không sai?" Tôi đáp: "Bát kính pháp của Phật Đà đã nêu lên những điểm yếu của giới nữ, giới nữ thực sự có một vài điểm yếu, đây là cách nhìn nhận của Phật Đà. Từ xưa tới nay, những điểm yếu này vẫn còn tồn tại." Tì kheo ni hỏi: "Lư Sư Tôn, đó là những điểm yếu nào?" Tôi đáp: "Thể lực của nữ không thể sánh bằng nam. Khả năng hành tịnh của nữ tương đối không thể lâu dài. Nữ giới có thân rò rỉ. Nữ giới có thời kì kinh nguyệt. Nữ giới tương đối có nhiều cảm xúc tình cảm. Nữ giới tương đối dễ nói dối. Nữ giới ghen tuông và đố kị..." Tôi không dám nói tiếp, bởi vì vẻ mặt của tì kheo ni đã lộ vẻ giận dữ! Ha ha! Tì kheo ni hét lên: "Thế nam giới thì không có sao?" Tôi nói: "Nữ giới tương đối nhiều hơn." Tì kheo ni nói: "Thực tế chứng minh các tăng đoàn tì kheo ni có ảnh hưởng đến tăng đoàn của Phật Đà không?" Tôi đáp: "Phật Đà từng nói, nếu tăng đoàn không có tì kheo ni thì tăng đoàn y theo pháp và luật mà thực hành phạm hạnh, Thánh pháp sẽ tiếp tục một nghìn năm, chỉ vì cho phép phụ nữ xuất gia nên hành tịnh không thể tồn tại lâu, Thánh pháp chỉ có thể tiếp tục được năm trăm năm." Tôi nói: "Phật Đà từng nói, chính xác giống như một người xây hồ chứa nước để đề phòng nước tràn, nên ta đưa ra các quy định về Bát kính pháp cho tì kheo ni trước, để cho họ trọn đời không vi phạm." Tì kheo ni nói: "Bát kính pháp trọng nam khinh nữ, Lư Sư Tôn không cảm thấy thế sao?" Tôi đáp: "Tôi biết, nhưng đây là do Phật Đà vì những điểm yếu trong tính cách của nữ giới mà đưa ra." Bát kính pháp như sau: 1. Tì kheo ni 100 tuổi cũng vẫn phải kính lễ trước tì kheo mới xuất gia. Phải cung kính, nghênh đón, tận lực thực hiện nghĩa vụ. 2. Tì kheo ni không được ở nơi mà tì kheo an cư. 3. Mỗi nửa tháng tì kheo ni phải đến tăng đoàn tì kheo để xin ý kiến về nghiệp, thỉnh cầu tì kheo khai thị. 4. Nghi thức kiết hạ của tì kheo ni phải được tiến hành trước sự chứng kiến tại chỗ của chúng tì kheo và tì kheo ni. 5. Không được phạm đại giới là ở cùng chỗ với tì kheo. 6. Sa di ni thọ sáu giới phải thọ nhận đại giới ở chỗ tăng đoàn của tì kheo và tì kheo ni. 7. Tì kheo ni không được chỉ trích tì kheo. 8. Tì kheo ni không nên khuyến cáo tì kheo, còn tì kheo thì nên khuyến cáo tì kheo ni. Tì kheo ni hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, những điều này quá không công bằng rồi?" Tôi đáp: "Thế gian này làm gì có chỗ nào công bằng?" Tì kheo ni hỏi: "Vậy phải làm sao?" Tôi đáp: "Tận lực mà làm thôi!"
15. Tôi chịu trách nhiệm về sự thẳng thắn của mình
Tôi thường suy nghĩ thế này: Tôi sống cuộc đời này là vì điều gì? Rõ ràng tôi biết đời người là: khổ, không, vô thường, vô ngã. Nhưng tôi vẫn kiên trì độ hóa chúng sinh. Kinh Pháp Cú có một câu: Cũng như hòn đá chắc, chẳng vì gió mà rung. Phỉ báng và khen ngợi, trí giả chẳng động lay. Tôi lập ra Chân Phật Tông. Vì vậy, cuộc đời này của tôi đầy ắp những sự phỉ báng và ca ngợi, tôi đã huấn luyện bản thân mình quên đi bản ngã, quên hết mọi phỉ báng, quên hết mọi ca ngợi. Tôi nói thẳng: Tôi là Liên Hoa Đồng Tử. Tôi thật sự đã gặp Liên Hoa Đồng Tử. Bổn tôn của tôi nói Lư Thắng Ngạn là Liên Hoa Đồng Tử. Tôi còn biết: "Liên Hoa Đồng Tử là hóa sinh của A Di Đà Phật." Đây chính là sự đoan chắc và thẳng thắn của tôi, tôi chịu trách nhiệm đến cùng về sự thẳng thắn của tôi. Các đệ tử đến từ khắp nơi trên thế giới, có năm triệu tín chúng, có người ở tầng lớp cao cấp nhất, có người ở tầng lớp thấp cấp nhất, tầng lớp cao nhất thì có những người như Tổng thống, tầng lớp thấp nhất thì có những người như gái điếm. Tôi kính trọng mỗi một cá nhân, bởi vì họ đều mang trong mình Phật tính vốn có. Tôi thực hành độ hóa các nước trên thế giới, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Tôi đã đưa ra lời thề nguyện lớn: Không bỏ rơi một chúng sinh nào. Phân thân xả cốt độ chúng sinh. Địa ngục chưa sạch, thề không thành Phật. Đời đời kiếp kiếp độ hóa chúng sinh. Bởi vậy: Tôi chưa từng kiện ai. Tôi chẳng vào tòa án. Tôi chẳng vào nhà lao. Tôi nguyện cả đời tuân theo pháp luật, phụng sự việc công. Thượng sư của tôi nói với tôi, không được mở miệng ra đòi tiền người khác, cuộc đời này tôi đã thề giữ giới này. Tôi cũng từng viết một bài nói rằng: "Không cần cúng dường Lư Sư Tôn!" Tuy nhiên, việc cúng dường của mọi người là tự phát. Cúng dường hoặc nhiều hoặc ít, hoặc rất rất ít, thậm chí là chẳng có cúng dường, thì tôi vẫn đối đãi bình đẳng. Tín chúng thuộc các tầng lớp tôn kính tôi, tôi rất cảm kích, họ tranh nhau sợ mất phần phục vụ tôi. Tôi cũng tận tâm tận lực phục vụ những đệ tử đã vì tôi và cả những chúng sinh vẫn còn chưa quy y tôi, chẳng hề có sự không công bằng và thành kiến. Tôi thật sự đã dùng tấm lòng khiêm nhường nhất để biểu đạt niềm cung kính của tôi đối với chúng sinh. Đương nhiên, Chân Phật Tông cần phải đương đầu trước những sự công kích và phê phán vô tình đến từ các giáo phái truyền thống, đã phải chịu những nỗi đau lớn nhất. Sự đấu tranh của những người phản đối! Những lời bình luận cay nghiệt! Những sự sỉ nhục ngang nhiên! Thậm chí là bắt chẹt, sát hại, v.v... Những sóng gió này của Chân Phật Tông, từng cơn từng cơn, chưa bao giờ ngừng dứt. Tôi không biết những tông phái khác đã từng trải qua những phong ba như vậy hay chưa, nhưng Chân Phật Tông thì thực sự là như vậy. Ngoài ra còn có rất nhiều những người theo Chân Phật Tông nhưng lại tự thành lập cơ sở riêng. Đối với cá nhân tôi mà nói: Pháp mạch của tôi là thật. Ngộ cảnh của tôi là thật. Tôi vì người khác là thật. Tôi chịu trách nhiệm về sự thẳng thắn của mình, cũng là thật.
16. Có người hỏi tôi về Phật tính
Có một học giả là đại thiện tri thức đến chỗ tôi hỏi tôi về Phật tính. Anh ta nói: "Lư Sư Tôn! Ngài đã từng giảng Lục Tổ Đàn Kinh, ngài cho rằng Lục Tổ Huệ Năng có bản lĩnh gì?" Tôi đáp: Lục Tổ nhận định rằng: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. (Bản tính tự có trí huệ bát nhã.) Bản chất con người vốn thanh tịnh, bởi vì có vọng niệm nên Phật tính mới bị che lấp. Chỉ cần rời xa vọng niệm thì bản tính sẽ lại thanh tịnh. Còn nữa: Tận cùng của vạn pháp là Phật tính. Phật tính bát nhã ở khắp nhân gian, chỉ vì tâm mê muội nên không thấy Phật tính. Nếu tâm mê không còn thì Phật tính sẽ tự hiển lộ. Có nghĩa là: Người mê là chúng sinh. Người ngộ là Phật. Anh ta hỏi: "Lư Sư Tôn, tôi lại hỏi ngài, "Niết Bàn Vô Trí Luận" do hòa thượng đưa ra, ngài nghĩ thế nào?" Tôi đáp: Phật tính phi văn tự. Phật tính phi ngôn ngữ. Có nghĩa là: "Phật tính phi đồng dị Thiên đăng cộng nhất quang Tăng chi ninh giải dật Giảm trứ thả vô thương. Thủ xả câu vi quá, Phần phiêu tổng bất phương. Kiến văn tri giác pháp, Vô nhất khả sai lượng." Dịch nghĩa: "Phật tính chẳng giống khác Nghìn đèn đều rạng soi. Tăng cũng chẳng thể tràn Giảm cũng chẳng tổn hao. Giữ hay bỏ cũng xong Cháy hết đâu trở ngại. Pháp kiến văn tri giác, Chẳng pháp nào lường đo." [ND: Đây là một trong sáu bài tụng về Tính Địa.] Tôi từng viết: Phật tính là biển. Cuộc đời là những con sóng. Bạn và tôi nổi trôi giữa những con sóng. Cuối cùng, Vẫn là trở về với biển. "Niết Bàn Vô Trí Luận" thuộc về sự đại viên mãn hết thảy. Tuy nhiên, bản thân tôi cho rằng: Vô dư niết bàn --- vô tri. Hữu dư niết bàn --- hữu nguyện. Phật tính --- vô tác vô vi vô tri. Phật tính --- tiếng vọng trong hang trống, biến hóa thành có. Anh ta hỏi: "Phật quả do ai nhận lấy?" Tôi đáp: "Báo thân Phật." Anh ta hỏi: "Tu hành có tác dụng gì?" Tôi đáp: "Tri huyễn li huyễn." [ ND: biết cái huyễn để rời xa cái huyễn. ] Anh ta hỏi: "Có tồn tại Thánh nhân hay không?" Tôi đáp: "Có tồn tại người khai ngộ!" Anh ta hỏi: "Ai biết về không và có?" Tôi đáp: "Lư Sư Tôn biết." Anh ta hỏi: "Biết thì có tác dụng gì?" Tôi đáp: "Mọi việc ác không làm, hãy làm mọi việc thiện!" Anh ta hỏi: "Phật tính làm gì có thiện ác?" Tôi đáp: "Mặc dù không có thiện ác, nhưng huyễn thân huyễn thụ, người đại ác thì vẫn phải gặp Diêm Vương." Tôi trả lời như vậy, các thánh đệ tử nghĩ thế nào? Xin cho ý kiến!
17. Tuyên ngôn về năm pháp của Đề Bà Đạt Đa
Trước tiên tôi nói rõ một chút: Tăng đoàn của Phật Đà từ đầu chẳng có giới luật nào cả. Sau này là do các tì kheo đã có những sai lầm. Có một sai lầm thì sẽ chế định ra một điều giới luật. Cứ như vậy tích lũy lại nên trở thành càng ngày càng nhiều giới luật, bởi vậy mà thành Giới luật học. Cá nhân tôi hiểu rằng: Giữ giới mới có thể định. Giữ giới mới có thể huệ. Giữ huệ mới có thể quang. (quang minh) Giữ quang mới dung nhập. Do vậy, Phật Đà nói: "Giới, định, huệ là Tam vô lậu học." Cá nhân tôi cho rằng đây là ba nấc thang để thành Phật. Chúng ta cũng biết rằng, quan hệ giữa Phật Đà và người đệ tử Đề Bà Đạt Đa của Phật Đà không hề nông. 1. Đề Bà Đạt Đa là em họ của Phật Đà. 2. Đề Bà Đạt Đa là em trai của Da Du Đà La. Ban đầu, Đề Bà Đạt Đa ở trong tăng đoàn sống dựa trên phạm hạnh (thực hành thanh tịnh), là một người tu hành ưu tú. Xá Lợi Phất ca ngợi Đề Bà Đạt Đa. Nhân duyên của Đề Bà Đạt Đa còn tốt hơn cả Xá Lợi Phất. Sau đó, Đề Bà Đạt Đa đã chứng đắc thần thông thế gian, cũng nổi danh. Có người nói, Phật Đà có 32 tướng tốt thì Đề Bà Đạt Đa có 30 tướng tốt. Điều này có thể chứng minh thành tích của Đề Bà Đạt Đa không tồi. Phật Đà thọ kí Đề Bà Đạt Đa tương lai thành Phật, Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai. Nhưng cuối cùng, danh lợi của thế gian đã ăn mòn tâm của Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa đố kị với Phật Đà. Muốn lãnh đạo tăng đoàn. Rốt cuộc, quả nhiên đã muốn sát hại Phật Đà. Phá hòa hợp tăng đoàn. Tăng đoàn chia thành hai phe. Đề Bà Đạt Đa cuối cùng đã gặp báo ứng, phải đọa địa ngục. Đề Bà Đạt Đa từng đưa ra "Tuyên ngôn về năm pháp" để đối phó với Phật Đà. "Tuyên ngôn về năm pháp" này là: 1. Tì kheo phải sống ở trong núi. 2. Tì kheo phải mặc quần áo rách nát. (Vải rách tìm ở bãi rác hoặc các khu mộ.) 3. Tì kheo phải khất thực để sống. 4. Tì kheo phải ngủ dưới cây, trên mặt đất. 5. Tì kheo không được ăn thịt cá. Những giới luật này có gì sai không? Tôi đáp: "Không sai!" Tuy nhiên, đó là dành cho những ai mới xuất gia, cần huấn luyện giữ giới luật, thuộc về giới luật của thế tục. Thế nhưng, Phật Đà thâm niên từ lâu đã đắc được đạo lý xuất thế gian, là thành tựu giả không dựa vào giới thủ. Phật Đà sống ở Trúc Lâm tịnh xá, trong vườn Cấp Cô Độc (trang viên). Phật Đà mặc áo gấm (long bào). Phật Đà nhận cúng dường của đệ tử, ăn cơm. Phật Đà đeo vàng đeo ngọc. (Đây đều là đệ tử cúng dường, Phật Đà tiếp nhận, Phật Đà lúc này đã không còn sự phân biệt nào.) Đề Bà Đạt Đa dựa vào những lý do này để công kích Phật Đà, hạ thấp Phật Đà, giành được sự ủng hộ của tăng chúng. Khi Phật Đà đi vắng thì Đề Bà Đạt Đa ngồi lên pháp tọa của Phật Đà. Quần áo và đồ trang sức của Phật Đà thì Đề Bà Đạt Đa lấy ra mặc, đeo. Đề Bà Đạt Đa có được sự hỗ trợ của Vua A Xà Thế, đã chia rẽ hòa hợp tăng, gây nên sự chia rẽ lớn nhất trong tăng đoàn. Cá nhân tôi nghĩ như thế này: Con người thế gian có tâm phân biệt, muốn tu đến khi tâm không còn phân biệt là rất khó! Phật xuất thế gian, đã không còn những biểu hiện của thế gian, đây mới là chân đế. (Điều tôi nói, các thánh đệ tử có hiểu được không?)
18. So sánh của Phật Đà
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni hoan hỉ thuyết pháp đã dùng so sánh. Ngài đã dùng những sự so sánh để dạy những cư sĩ tại gia cần tu trì như ra sao. Ví dụ: Nói như việc bố thí. Cúng dường Như Lai và chúng xuất gia (cúng cơm), công đức rất lớn. Tuy nhiên, xây dựng chùa cho tăng chúng ở và tu hành thì công đức còn lớn hơn việc cúng cơm. Công đức của cư sĩ độ người khác quy y Phật - pháp - tăng còn lớn hơn việc xây chùa, xây tịnh xá. Thế nhưng công đức của việc giữ giới (giữ năm giới) còn lớn hơn công đức của việc độ người quy y. Công đức của việc tu trì thiền định còn lớn hơn công đức của việc giữ năm giới. Cuối cùng, công đức của sự chứng nhập vô thường, vô ngã còn lớn hơn công đức của thiền định. Bởi vậy: Đây là những so sánh của Phật Đà: Cúng cơm. Xây chùa. Quy y. Giữ giới. Thiền định. Chứng ngộ. Những việc này đều có công đức cả. Cúng cơm có công đức nhưng không thể sánh bằng công đức của việc xây chùa, quy y, giữ giới, thiền định, chứng ngộ. Công đức của sự chứng ngộ là to lớn nhất. Phật Đà đã chỉ ra năm loại niềm vui của cư sĩ tại gia: Kiếm được đồng tiền chính đáng, giữ được của cải - đây là niềm vui có của. Giữ được của cải chính đáng, làm việc thiện - đây là niềm vui của sự giàu có. Giữ được của cải chính đáng, không nợ nần - đây là niềm vui của việc không nợ nần. Giữ được của cải chính đáng, không tham sân si - đây là niềm vui của việc không mắc sai lầm. Giữ được của cải chính đáng, ngộ được trí huệ - đây là niềm vui của trí huệ. Phật Đà cũng chỉ ra bảy loại vợ: 1. Vợ ác độc. 2. Vợ hoang phí. 3. Vợ lười nhác. 4. Vợ lương thiện. 5. Vợ hiền đức. 6. Vợ trung thành. 7. Vợ đức hạnh. Phật Đà cho rằng, lấy phụ nữ làm vợ thì ba loại phụ nữ đầu tiên không thể lấy, bốn loại phụ nữ sau có thể lấy. Phật Đà cũng nói: 1. Phụ nữ thích buôn chuyện, không phù hợp. 2. Phụ nữ thích nói láo, không phù hợp. 3. Phụ nữ thích nói chuyện thị phi, không phù hợp. 4. Phụ nữ thích vay mượn lung tung, không phù hợp. 5. Phụ nữ không lễ phép, không phù hợp. 6. Phụ nữ ức hiếp kẻ yếu, không phù hợp. 7. Phụ nữ vô trách nhiệm, không phù hợp. 8. Phụ nữ không thận trọng, không phù hợp. 9. Phụ nữ không biết điều, không phù hợp. Phật Đà rất biết quan sát thế gian, có thể nhìn nhận vô cùng thấu đáo cả trăm trạng thái của cuộc sống. (Bản thân tôi cũng rất ghét những người phụ nữ nói láo, đặc biệt là những người phụ nữ hay buôn chuyện thị phi, tự cho rằng bản thân mình là nữ nhân vĩ đại nhất. Trong số đệ tử của tôi cũng có loại phụ nữ này, gây cho tôi rất nhiều phiền phức.) Phật Đà không chỉ nói về những người phụ nữ xấu, Ngài cũng nói về những phụ nữ tốt. Ngài nói: Không nói lời ác độc. Có hứng thú với đời. Có trí tuệ. Có đạo đức tốt. Khéo léo, thông minh, nhạy bén, không tham lam. Dịu dàng. Biết giữ của cải. (Đó là những người phụ nữ tốt.)
19. Phật Đà tu nhẫn nhục
Có cô gái Ma Đăng Già cực kì xinh đẹp, cha mẹ của cô muốn gả cô cho Phật Đà. Phật Đà nói: Đã ngộ về tham dục Ái dục ta đâu còn. Thân pháp này đâu thể Dính toàn thứ bẩn nhơ. Dù chỉ một ngón chân Cũng chẳng muốn ô nhiễm. Vì thế, cô gái Ma Đăng Già cho rằng đây là một sự sỉ nhục vô cùng. Khi cô có được quyền thế lớn, cô bèn liên tục phỉ báng Phật Đà, lại còn xúi giục người khác phỉ báng Phật Đà. Thế là, Phật Đà bị bêu danh là: Cường đạo. Ngu si. Đồ ngốc. Con lừa. Đần độn. Hạt giống của địa ngục. Súc sinh. Chẳng được giải thoát. Ác thú. V.v... Lúc này, A Nan tôn giả không thể chịu đựng nổi sự nhục mạ nữa, liền nói với Phật Đà hãy đi đến nơi khác, ngài nói: "Thế Tôn! Con người ở nơi này sỉ nhục chúng ta, chúng ta chuyển đến nơi khác đi!" Phật Đà nói: "Đi đến thành phố khác, nếu như người ở nơi đó cũng sỉ nhục chúng ta, thế thì ta lại đi đâu?" A Nan nói: "Thì lại đi đến thành phố khác." "Không nên nói như vậy. Vấn đề phát sinh ở chỗ nào thì giải quyết ở chỗ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đến được nơi khác. Nhưng mà, ai đang chửi ta?" - Phật Đà hỏi. A Nan nói: "Thế Tôn! Tất cả mọi người. Ngay cả người hầu cũng chửi chúng ta!" Phật Đà cảnh cáo A Nan tôn giả: "Con voi trên chiến trường có thể chịu đựng được những mũi tên nhiều như châu chấu, ta sẽ dùng cách tương tự để chịu đựng sự nhục mạ, thế gian này thật sự có quá nhiều những kẻ ngang ngược coi trời bằng vung..." Phật Đà nói: "Hành giả chúng ta cần ngồi trên lưng những con lừa, ngựa, voi chưa được thuần hóa." Cuối cùng, Phật Đà nói: "Đừng sợ sự phỉ báng, bởi vì phỉ báng lâu ngày cũng xẹp xuống, tất cả đều sẽ qua hết thôi." (Bản thân tôi rất yêu thích đoạn đối thoại này.) Còn nữa: Phật Đà đang đợi cúng dường của người ta. Người cúng dường nói: "Tôi có được cơm ăn là vì có ruộng đất, có trâu, có cày, có lao động, thì mới có cơm ăn." Phật Đà nói: "Tôi cũng vậy." Người kia nói: "Nhưng có người nào trong chúng tôi nhìn thấy ngài có lưỡi cày, có vai cày, có trâu cày, roi điều khiển trâu, ngài cày ruộng thế nào được?" Phật Đà trả lời: "Niềm tin là hạt giống, giới là nước mưa, trí huệ là vai cày, trung đạo là lưỡi cày, ý chí là dây cương, tịnh niệm là roi điều khiển. Lời nói và việc làm thận trọng, ăn uống vừa phải, lấy sự chân thành như làm cỏ, thiền định vì sự giải thoát, tinh tấn là xe tải chở đến nơi niết bàn. Nỗ lực canh tác, kết quả bất tử." Người cúng dường giật mình kinh ngạc. Hoàn toàn khâm phục. Người cúng dường nói: "Đây mới là vị Thánh giả mà tôi đáng cúng dường." (Tôi nhận cúng dường cũng như vậy.)
20. Trí huệ của đời người (Phật huệ)
Trí huệ của Như Lai không phải là trí huệ của người bình thường, hai thứ này khác nhau. Có người hỏi tôi trí huệ của Như Lai là trí huệ gì? Người hỏi: "Con người vì sao lại đến thế gian này?" Tôi đáp: "Trả nghiệp." (Điều Phật Đà nói.) Người hỏi: "Có chúng sinh phỉ báng ngài, ngài ứng đối như thế nào?" Tôi đáp: "Im lặng." Người hỏi: "Nếu như sự phỉ báng vĩnh viễn không dừng thì sao?" Tôi đáp: "Nhẫn nhục." Người hỏi: "Một số đệ tử ngang ngược và xấu xa, không có cách nào cứu độ, phải làm sao?" Tôi đáp: "Tôi không bỏ rơi một chúng sinh nào, dùng tất cả mọi phương tiện để độ hóa, cũng có thể là hết kiếp này đến kiếp khác vẫn không từ bỏ." Người hỏi: "Nếu như đã dùng hết mọi cách mà vẫn không thành thì sao?" Tôi đáp: "Phật nói âm thầm bỏ đi, tôi nói im lặng." Người hỏi: "Cái gì là thứ quý giá nhất của đời người?" Tôi đáp: "Phật pháp." Người hỏi: "Cái gì là hạnh phúc vĩnh hằng?" Tôi đáp: "Đến được Phật quốc tịnh thổ cực lạc." Người hỏi: "Thế nào là một cuộc đời có giá trị nhất?" Tôi đáp: "Tu hành chính kiến." Người hỏi: "Làm sao để có thể vứt bỏ phiền não?" Tôi đáp: "Vô ngã, vô sinh." Người hỏi: "Làm sao để có thể đạt đến thanh tịnh?" Tôi đáp: "Tri huyễn li huyễn." Người hỏi: "Phải dùng cái gì mới có thể đạt được tri huyễn li huyễn?" Tôi đáp: "Trí huệ (Phật huệ)." Người hỏi: "Phật huệ là gì?" Tôi đáp: "Là trí huệ đã minh tâm kiến tính." Người hỏi: "Làm sao để biết người này đã minh tâm và kiến chứng Phật tính?" Tôi đáp: "Loại người này có bốn phẩm chất: chân thành, thiện đức, tinh tấn, bố thí." Người hỏi: "Thiếu một thứ thì sao?" Tôi đáp: "Thì không phải." Người hỏi: "Vì sao ngài viết sách phê bình đệ tử XX trước đây của ngài?" Tôi đáp: "Vì người đó nói láo, tà kiến, khủng bố người ta." Người hỏi: "Ngài đã vứt bỏ đệ tử đó rồi sao?" Tôi đáp: "Đặt người đó vào chỗ nguy hiểm chết người hòng tìm đường thoát, vẫn là một cách để cứu người đó."
21. Một ngày của Lư Thắng Ngạn
Người ta hỏi tôi, một ngày của tôi diễn ra như thế nào? Người hỏi: "Buổi sáng của ngài diễn ra như thế nào?" Tôi đáp: "Thông thường buổi sáng tôi có ba việc lớn, thứ nhất là viết sách, viết một chương sách." "Thứ hai là tu tập Phật pháp (Bổn tôn pháp)." "Thứ ba là thiền định (tọa vong)." [ ND: Tọa vong là ngồi ngay thẳng và yên lặng mà qua đời. Đây là cảnh giới của Đạo gia, Đạo giáo, trong đó tâm và pháp ứng hợp với nhau, vật và mình cả hai đều quên. Theo luận Tọa vong do Đạo sĩ Tư Mã Thừa Trinh soạn vào đời Đường thì điểm then chốt của việc tu luyện hình khí, dưỡng hòa tâm linh, sống lâu mạnh khỏe là nhờ ở công phu định tĩnh, tức là pháp Tọa vong an tâm. ] Người hỏi: "Buổi chiều của ngài diễn ra như thế nào?" Tôi đáp: "Thông thường buổi chiều tôi có hai việc lớn: Thứ nhất là vận động. Thứ hai là thiền định (vong ngã).'' [ ND: thiền định quên đi và loại bỏ bản ngã ] Người hỏi: "Buổi tối của ngài diễn ra như thế nào?" Tôi đáp: "Buổi tối tôi không đi ra ngoài, tôi có rất nhiều việc cần làm vào buổi tối, rất nhiều việc đều là dùng tâm linh để làm việc." "Rất nhiều giới vô hình đến tụ tập để lắng nghe Phật pháp, thông thường là lúc chập tối." "Nửa đêm mới là lúc tôi thật sự nghỉ ngơi. Ở trong sự quang minh, tôi tiến nhập vào trạng thái niết bàn (vô tri)." "Vào lúc đêm muộn, tôi thần hành, bất kể là xa hay gần, tôi xuất hiện trong giấc mơ của rất nhiều đệ tử, hoặc dặn dò, hoặc triết lý, hoặc thuyết pháp, hoặc dẫn chứng, hoặc giảng giải để cảm hóa hết thảy chúng sinh hữu tình." Đây là một ngày bình thường của tôi. Vào thứ bảy và chủ nhật, là ngày nghỉ của người ta thì tôi lại bận rộn nhất. 1. Tôi phải làm Hộ Ma (hỏa cúng). Thuyết pháp cho tín chúng đệ tử nghe. 2. Tôi phải lên pháp tọa. (Giảng kinh thuyết pháp) 3. Tôi phải hướng dẫn Đạo quả. 4. Tôi phải giảng nghi quỹ. 5. Tôi phải giải thích những câu kinh khó hiểu. 6. Tập hợp các đệ tử tu pháp Bổn tôn. 7. Giải quyết những khó khăn của đệ tử. (Bệnh tật và khốn khó) 8. Sờ đầu. 9. Quán đảnh. 10. Gia trì. 11. Tôi phải kí tên sách. 12. Tôi phải gia trì thư tín. Vân vân và vân vân. Người hỏi: "Ngài thuyết pháp gì cho đệ tử mới nhập môn?" Tôi đáp: "Giảng giới luật, giảng bố thí, giảng gia hành, giảng Bổn tôn." Người hỏi: "Đối với người có căn cơ tầm trung thì ngài thuyết pháp gì?" Tôi đáp: "Giảng về bất thiện của ngũ dục, trừ bỏ ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp, và tiến nhập vào nội pháp, phương pháp tu trì khí, mạch, minh điểm. Người hỏi: "Đối với người có căn khí cao thì ngài truyền thụ pháp gì?" Tôi đáp: "Pháp khai ngộ minh tâm, pháp quang minh xuất hiện, pháp thông thân thị nhãn, pháp vô thượng mật bộ, pháp kiến chứng Phật tính, pháp cứu cánh thành Phật, v.v…" Người hỏi: "Dựa theo cái gì mà xây dựng?" Tôi đáp: Tư lương đạo. Gia hành đạo. Kiến đạo. Tu hành đạo. Cứu cánh đạo. (Mặc dù rất bận, nhưng tâm bình tịnh, ngày này qua ngày khác.)
22. Quản lý Chân Phật Tông để không suy vong.
Đối với Chân Phật Tông mà tôi sáng lập, tôi có kì vọng là nó sẽ không suy vong. Để Chân Phật Tông tiếp tục phát triển, tôi đề nghị như sau: 1. Tông Ủy Hội phải kiện toàn. 2. Các ủy viên phải hòa hợp thống nhất. 3. Hoàn thành các pháp vụ của Chân Phật Tông. 4. Nhất nhất cần đầy đủ chu đáo. 5. Toàn thể nhân viên phải giữ giới luật. 6. Cần cúng dường người già, để họ được an cư. 7. Không được tranh giành địa bàn. 8. Không chấp vào tham, sân, si. 9. Tu trì chính niệm là điều cốt yếu. 10. Không gần gũi với người phá giới, người có tà kiến để tránh bị ô nhiễm. Nếu có thể giữ được mười điều như trên thì Chân Phật Tông sẽ không tiêu vong, bằng không thì chắc chắn sẽ có ngày tàn lụi, như tà dương, ráng chiều, mặt trời lặn, tất cả sẽ quay đầu về không, chỉ như một dải cầu vồng xuất hiện rồi tan biến. Tôi cũng khuyên nhủ các hành giả Chân Phật: 1. Cần làm chính nghiệp. 2. Đừng buôn chuyện tào lao. 3. Đừng hút thuốc, uống rượu. 4. Đừng để nhiễm hành vi thế tục suy đồi. 5. Không được tham tiền, không được tạo khởi những cám dỗ thế tục cũng như không để bị chúng cám dỗ. 6. Không kết giao với bạn xấu và bạn ác. 7. Không ở cùng với những người phá giới. 8. Không làm bạn với người có tà kiến. 9. Kính sư, trọng pháp, thực tu. 10. Không hiển dị hoặc chúng. [ ND: tạo ra những chuyện dị thường để huyễn hoặc chúng sinh ] Nói chung, các cấp quản lý và hành giả Chân Phật, các ủy viên đang giữ chức vụ và hành giả Chân Phật, đôi bên không được phân biệt, tình cảm phải rất hòa hợp, có sợi dây nối liền bền chặt mới có thể giải quyết được những khốn khó trên thực tế của hành giả Chân Phật. Chú ý: Dân có thể chở thuyền. Dân có thể lật thuyền. Còn nữa: Những lời căn dặn này của tôi thuộc về pháp nhập thế, đó là những lời càm ràm của cá nhân tôi, tóm lại là luôn hy vọng Chân Phật Tông sẽ không diệt vong. Tuy nhiên, Có thể nào vì tôi rời xa thế giới Ta Bà này mà sẽ có người có dụng tâm chiếm lấy và thao túng khiến cho Chân Phật Tông tan rã, đây là điều có thể dự báo được. (Chân Phật Tông chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, còn thực tế đã mất.) Đương nhiên tôi cũng biết, khả năng xảy ra cảnh ngộ này là: từng cá nhân sẽ tự độc lập bỏ đi, chùa ra chùa, đường ra đường, hội ra hội, chẳng dính dáng gì đến nhau, chẳng hề có quan hệ phối hợp. Cũng có khả năng: Khi tôi vừa rời xa thế gian Ta Bà thì tất cả đều trở về con số không tròn trĩnh. Không chỉ là quả trứng tròn cũng chẳng có mà ngay cả vỏ cũng chẳng còn, các đệ tử đều chạy sạch. Những suy nghĩ này thật khiến người ta lo lắng không yên. Còn nữa: Vốn dĩ tôi đã là một Đạo nhân vô tâm rồi. Tôi dựa theo pháp xuất thế gian mà kể ra như sau. Tôi là một người khai ngộ. (minh tâm) Tôi là một người kiến tính. Thơ của Vương An Thạch: "Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa." Tôi đã chẳng còn mưu cầu gì đối với tất cả mọi thứ rồi! Do vậy, tôi viết Chân Phật Tông có tiêu vong không ư? Là do tôi tự mình lắm lời thôi, cũng là những lời nói mớ của tôi thôi. Hết thảy vì duyên sinh. Hết thảy vì duyên diệt. Tôi là một đại thành tựu giả, lẽ nào lại không biết? Căn bản chẳng có Chân Phật Tông! Căn bản chẳng có Lư Sư Tôn! Đã biết như vậy rồi thì anh còn mong cầu cái gì?
23. Sẽ có một ngày tôi biến mất
Tôi nói với mọi người: "Sẽ có một ngày, tôi sẽ chỉ còn đón tết Thanh Minh thôi!" Mọi người nói: "Lư Sư Tôn! Ngài sẽ không như vậy đâu! Không như vậy đâu!" Tôi nói: "Tôi chắc chắn sẽ thế!" (Hết thảy vì duyên sinh, hết thảy vì duyên diệt.) Tôi nói với mọi người: "Tôi đã ý thức được tương lai không xa nữa, tôi sẽ không thấy mọi người, mọi người cũng sẽ chẳng nhìn thấy tôi nữa." Mọi người vẫn nói: "Sẽ không vậy đâu! Sẽ không vậy đâu!" Tôi nói: Kể cả là Phật Đà thì cũng vẫn có bệnh, cũng vẫn bị bệnh đau nửa đầu, bệnh gai xương và bệnh đau dạ dày. Đến năm Phật Đà 80 tuổi, Phật phải cần có thị giả đỡ thì mới có thể đi được. Thân thể giống như một chiếc xe hỏng. Nét già yếu đã hằn rõ trên khuôn mặt Ngài. Phật Đà nói: "Nay ta đã 80 tuổi rồi, thân già sức yếu, đã đi đến điểm cuối của đời người rồi. Giống như một cỗ xe hỏng, chỉ có buộc vào dây vải kéo đi thì mới di động được. Cũng như thế, thân thể của Như Lai cũng phải được dìu đỡ thì mới có thể đi được, nhưng ta vẫn có thể nhập sâu vào thiền định, nhất tâm bất loạn, đoạn trừ vọng niệm và tán loạn, mọi thứ vẫn rất vững chắc." Mọi người hãy chú ý câu nói này: "Định, nhất tâm bất loạn, vô vọng vô loạn, vững chắc." Phật Đà nhắc đến: Cần dựa duy nhất vào Phật. Cần dựa duy nhất vào Pháp. Cần dựa duy nhất vào Tăng. Có một điểm gợi ý rất quan trọng: "Phải dựa vào chính bản thân mình, bởi vì quan trọng nhất là Phật, pháp, tăng ở trong tâm bạn." Lại nói: "Cần tinh tấn, cần chính tư duy, cần tỉnh giác, không được có tham niệm." Lại nói: "Lấy giới làm thầy." Lại nói: "Quy y Phật pháp tăng, là Phật mới có thể chỉ rõ giải thoát, pháp là phương pháp, tăng là tấm gương của cuộc sống." Phật Đà nói: Ta truyền dạy chân lý chân chính là: Tứ niệm xứ. Tứ chính cần. Tứ thần túc. Ngũ căn. Ngũ lực. Thất bồ đề chi. Bát chính đạo. (Ba mươi bảy đạo phẩm.) Lấy giới, định, huệ làm Tam vô lậu học. Lại nói: Thế nào là Phật thuyết, thế nào là phi Phật thuyết, làm thế nào để phân biệt chính tà? Phật nói: Nếu như đối chiếu với kinh luật, nếu như tương hợp với kinh điển, thống nhất với giới luật, thì có thể khẳng định là lời do Thế Tôn nói. Phật nói: Phải cung kính Phật Đà như thế nào? Phật nói dựa vào chính pháp để tu hành, chính là sự cung kính lớn nhất. Tôn kính, đảnh lễ, sùng bái, tán dương chỉ là những biểu hiện bên ngoài thôi. Tu tập chính pháp là sự cung kính lớn nhất, đây mới là biểu hiện bên trong. Giáo huấn cuối cùng của Phật Đà là: Chúng đệ tử, hãy lắng nghe, ta nhắc nhở mọi người, hết thảy pháp hữu vi, đều là vô thường. Hãy nỗ lực tinh tấn tu pháp giải thoát.
24. Cái gì là Phật giáo?
Tôi nhớ đệ tử của tôi, tiến sĩ Trương Trừng Cơ, có viết một cuốn sách tiêu đề là: "Cái gì là Phật giáo?" Thế nhưng, Lý Bỉnh Nam (cư sĩ Tuyết Lư) đã rất tức giận nói với tôi: "Tôi muốn hỏi anh ta xem Phật giáo là cái gì?" Lúc đó, tôi chỉ: Im lặng. Bởi vì: Một người là đệ tử của tôi. Một người là tiền bối của tôi. Tôi đều vô cùng tôn trọng cả hai người. Thời điểm đó, cả hai người đều từng trải hơn tôi rất nhiều. Có người hỏi tôi: "Phật giáo là gì?" Tôi đáp: "Cái gì cũng đều là Phật giáo, cũng như cái gì cũng chẳng phải là Phật giáo!" Người hỏi: "Phật giáo là dạy người ta làm việc thiện phải không?" Tôi đáp: "Làm việc thiện là điểm khởi đầu, nhưng không phải là điểm cuối cùng." Người hỏi: "Phật giáo có phải là triết học không?" Tôi đáp: "Phật giáo là triết học trong triết học, tuy nhiên, sau cùng thì vẫn không phải là triết học." Người hỏi: "Phật giáo có phải là tôn giáo không?" Tôi đáp: "Phật giáo không phải là tôn giáo, nhưng cũng có thể nói là tôn giáo hoàn mỹ nhất trong các tôn giáo." Người đến hỏi phủi phủi mũi, bỏ đi! Tôi cười lớn ha ha ha. Bởi vì: Phật giáo đích thực rất khó lý giải! Mọi người cần biết rằng: Phật giáo không phải là nghi thức, mà là một sự giác ngộ. Đừng hoài nghi Phật giáo. Cũng đừng lấy Phật giáo ra làm giáo điều. Phật giáo không phải cái thường thấy. Phật giáo không phải là chặt đứt cái thấy. Phật giáo không phải là khổ hạnh. Phật giáo cũng không phải dạy ta hưởng lạc. Phật giáo tuyệt đối không bi quan. Phật giáo cũng tuyệt đối không lạc quan. Không duy vật. Không duy tâm. Phật giáo không phải là hiện thực. Phật giáo không phải là siêu hiện thực. Phật giáo không tìm kiếm ra bên ngoài. Phật giáo cũng không hoàn toàn tìm kiếm ở bên trong. Phật giáo không phải là sùng bái Phật, không phải là sùng bái thần. Phật giáo cũng không phải là sùng bái ham muốn vật chất. Ở đây, tôi đặc biệt nói cho mọi người biết rằng: "Phật giáo là một phương pháp giải thoát, nếu như bạn đã giải thoát rồi thì không có cái gì là phải cả." Phật Đà nói: "Pháp còn nên bỏ, huống chi không phải là pháp!" Tôi nói: "Tôn giáo còn nên bỏ, huống chi không phải là tôn giáo!" Nếu theo Trung Quán Luận thì Bát chính đạo chính là trung quán, là vi diệu nhất. Nếu theo Duy Thức Luận thì A-lại-da-thức chính là duy thức, là vi tế của vi tế nhất. Cái Không không phải là tất cả đều chẳng có gì. Mà là hốt hoảng lờ mờ. Tôi nói: Nếu như có người hiểu được chương sách này, coi như là đã kiến đạo rồi, cách kiến tính không còn xa nữa đâu!
25. Câu hỏi không cần thiết
Tôi thường lấy việc "Hoạt Phật trả lời khách hỏi" làm chủ đề để giải thích những thắc mắc nghi ngờ của chúng sinh. Nhưng có một số câu hỏi, tôi không trả lời. Ví dụ: "Thế gian này là vô thường, đương nhiên trái đất cũng vô thường, xin hỏi, trái đất khi nào sẽ diệt vong?" Còn nữa: "Sư Tôn, ngài từng nói, anh - tôi - người ta là một, không khác biệt, xin hỏi Sư Tôn, khi nào người đời mới có thể biết là một?" Còn nữa: "Sau khi Như Lai niết bàn, là hữu tri? Hay là vô tri?" Còn nữa: "Sau khi Như Lai niết bàn, là phi hữu hay là phi phi hữu, xin Hoạt Phật giải thích?" Đối với những câu hỏi này, tôi giao phó cho hư không, chẳng muốn trình bày, bởi vì chúng chẳng có ý nghĩa gì đối với sự giải thoát. Đối với tôi mà nói, những câu hỏi này không cần thiết phải trả lời. Tôi lấy một ví dụ: Chính là những lời nói mò của người mù xem voi. Một người mù sờ thấy vòi voi, liền nói: "Con voi giống như ống nước, ống nước là voi." Một người mù sờ thấy ngà voi, liền nói: "Voi như gươm sắc, gươm sắc chính là voi." Một người mù sờ thấy thân voi, liền nói: "Voi như một bức tường, tường chính là voi." Một người mù sờ thấy đuôi voi, liền nói: "Rắn chính là voi." Một người mù sờ thấy tai voi, liền nói: "Cái quạt chính là voi." ... Tranh luận kiểu như thế này thì cũng vô ích thôi. Lại ví dụ: Có một người bị trúng tên. Bác sĩ muốn phẫu thuật để rút mũi tên ra để điều trị. Bệnh nhân hỏi: "Ai là người bắn tôi? Tôi cần phải điều tra rõ trước đã." Lại hỏi: "Người ta vì nguyên nhân gì mà lại muốn bắn tôi?" Lại hỏi: "Mũi tên dài bao nhiêu?" Lại hỏi: "Có chất độc gì không?" Khi bác sĩ vẫn còn chưa giải thích được rõ ràng thì bệnh nhân đã chết rồi. Do vậy, quan trọng là phải rút mũi tên ra trước. Những câu hỏi khác thì từ từ nói sau. Còn có một số câu hỏi căn bản là chẳng có gì quan trọng, cũng không cần thiết phải hỏi, ví dụ: "Nhà tôi nuôi gà, vì sao lũ gà lại không ăn gạo?" "Lư Sư Tôn, đứa con tôi vì sao vẫn chưa biết nói, nó đã ba tuổi rồi?" "Lư Sư Tôn, con gái tôi vì sao ruột không nhúc nhích?" Tôi hỏi: "Những việc này có quan trọng không?" Họ đáp: "Quan trọng." Thế nên tôi vì những việc này mà tốn rất nhiều thời gian. Trên thực tế, những việc này không có liên quan quan trọng gì đối với Phật giáo, có thể bỏ qua. Nhưng tôi vẫn phải gắng gượng mà giải đáp! Cá nhân tôi có tâm trí vượt trội, đương nhiên những điều này chính là thần thông. Nhưng mà chúng ta không thể hiển dị hoặc chúng, không thể hiển lộ tùy tiện, bởi vì rất nhiều người sẽ cho rằng "thần thông chính là Phật pháp". Một khi như vậy thì người người sẽ theo đuổi thần thông, như thế thì sẽ đi ngược với đạo rồi! Nếu là: "Chính đạo", có thể hỏi. "Phi đạo", không nên hỏi. "Phi phi đạo", kì thực không nên hỏi, nhưng vì phương tiện thiện xảo nên tôi mới hỏi giúp bạn.
26. Nhất định bạn phải hiểu Tứ Thánh Đế
Các tín đồ Phật giáo đều biết khi Phật Đà mới chuyển pháp luân, trong kinh Chuyển Pháp Luân nói đến Tứ Thánh Đế trước tiên. Tuy nhiên, Có khả năng mọi người đều không biết rằng, bài thuyết pháp cuối cùng của Phật Đà vẫn là Tứ Thánh Đế. Có thể thấy được tầm quan trọng của Tứ Thánh Đế. Đây là pháp mà Phật Đà đã thực sự chứng được bằng trí tuệ, là Phật pháp không có gì sánh bằng. Bởi vậy, bạn nhất định cần phải hiểu rõ ràng thấu đáo. Thánh Đế thứ nhất là Khổ. "Có sinh là khổ", đây là sự tri kiến thật sự của Phật Đà về bản chất của tất cả sự vật. Có người cho rằng hưởng thụ vật chất là sướng nhất. Có người cho rằng thỏa mãn dục vọng là sướng nhất. Có người cho rằng địa vị cao quý là sướng nhất. Kì thực đây cũng là nguyên nhân của khổ. Bởi vì: Hưởng thụ không phải là vĩnh hằng. Dục vọng vĩnh viễn không bao giờ thỏa mãn. Địa vị không thể mãi mãi vững chắc. Lại cộng thêm: Tất cả chúng hữu tình đều có sinh, có sinh ra tất có già đi, già rồi thì có bệnh, có bệnh rồi đều chết. Bạn biết không? Người mà bạn ghét sống ở xung quanh khiến bạn khổ. Người bạn mà yêu sống ở xung quanh cũng là khổ. (vì sợ mất họ) Cầu không được, lại càng khổ. Được rồi mất, cũng là khổ. Cần biết rằng, có tiền, có quyền, có vinh quang, có chinh phục, đều phải dùng đau khổ để đổi mà có được, nhưng những thứ này cũng sẽ mất đi, vốn dĩ người chiếm hữu cho rằng là hạnh phúc, nhưng kì thực chúng cũng là căn nguyên của đau khổ và bi thương. Tôi nói để mọi người biết: Thân mang ngũ uẩn là nhân của khổ. Mọi sự theo đuổi là nhân của khổ. Giữ mãi cái được là nhân của khổ. Được rồi lại mất là nhân của khổ. (người sẽ già, sắc sẽ tàn) Phật Đà nhận định: Chỉ có vượt lên cái khổ thì mới kết thúc khổ. Thánh Đế thứ hai là Tập. Nghiên cứu nguyên nhân của khổ, đó là tham, là bám chấp, đây chính là Thánh Đế thứ hai về Tập. Tham dục là bản tính của con người, cũng là căn nguyên lớn nhất trong số các nhân của khổ. Dục vọng sinh ra lo buồn. Dục vọng sinh ra sợ hãi. Tập hợp đủ loại tham dục và bám chấp là nhân của khổ. Thánh Đế thứ ba là Diệt. Tận lực xa rời dục. Như vậy cũng có thể không lo không sợ nữa. Nếu cái gốc triệt để của khổ kết thúc thì chính là Diệt. Dừng tham chính là diệt. Diệt tức là niết bàn, là thực hiện hoàn toàn dừng tham. Vứt bỏ tất cả tham và bám chấp, thực hành toàn diện triệt để, chính là diệt. (Tham sinh sân, sân sinh si.) Thánh Đế thứ tư là Đạo. Đạo cũng chính là đạo trong Bát chính đạo. Chính kiến. Chính tư duy. Chính ngữ. Chính nghiệp. Chính mệnh. Chính tinh tấn. Chính niệm. Chính định. Hiểu được Tứ thánh đế rồi thì mới hiểu hết tận cùng bản thân mình, vì dừng tham và dừng bám chấp thì mới có thể chứng đắc quả vị. Nếu không tu được như vậy thì vĩnh viễn trong lục đạo luân hồi, không có hồi kết.
27. Sự bất bình đẳng của bất bình đẳng
Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Ngài thường nói, bình đẳng, không phân biệt. Nhưng tất cả mọi hiện tượng trên thế gian này đều là bất bình đẳng, là vì nguyên nhân gì?" Tôi đáp: "Một chữ thôi, Nghiệp." Người hỏi: "Có thể nói rõ hơn về Nghiệp không?" Tôi đáp: "Phật nói Nghiệp là bất khả thuyết. Có một lần, A Nan nói với Phật, cuối cùng con đã hiểu được về Nghiệp rồi! Phật nói với A Nan, ngài mới chỉ biết về biểu hiện bên ngoài của nó mà thôi!" Người hỏi: "Nguyên nhân gì tạo nên sự bất bình đẳng giữa con người trên thế gian này? Chúng ta làm sao để giải thích về sự bất bình đẳng trong thế giới không thể có được sự an ninh này?" Tôi đáp: "Nghiệp!" Tôi nói: "Thật ra để nói về sự bất công bình, bất bình đẳng thì cũng khó mà kể cho hết!" Ví dụ: Chiến tranh, có những đất nước gặp nạn trường kì, có đất nước thì lại hòa bình an ninh (bất bình đẳng). Động đất, có đất nước bị động đất hại, có đất nước thì không hề có động đất (bất bình đẳng). Bão, có đất nước thì hay có bão, có đất nước thì không biết bão là gì. Lũ lụt, núi lửa, lở đất. Trên phương diện cá nhân nhỏ bé thì: Có người vinh hoa phú quý, có người cùng khổ lao đao. Có người thông minh tuyệt đỉnh, có người ngu si dốt nát. Có người thiện đức thanh cao, có người gian manh xảo trá. Có người thân thể cường tráng, có người bệnh tật liên miên. Có người là thiên tài, có người là đồ ngốc. Có người là viện sĩ, tiến sĩ, có người vừa mù vừa điếc. Có người kiện toàn, có người dị dạng. Vân vân và vân vân. Phật Đà trả lời rằng: "Tất cả chúng sinh hữu tình đều có nghiệp của riêng mình, do nghiệp mà nhận quả báo của họ, do nghiệp mà sinh ra nhân, gắn chặt với nghiệp, dựa vào nghiệp, địa vị cao thấp của chúng sinh hữu tình là do tự nghiệp mà tạo ra sự phân định." Còn tôi nói rằng: "Bình đằng không phân biệt." Là đứng trên góc độ: Phật tính bình đẳng. Là đứng trên góc độ: Phật tính không phân biệt. Trên góc độ pháp xuất thế gian trí huệ "Đại viên kính" và "Bình đẳng tính trí". Cũng tức là: Huyễn không. (thế gian) Chân không. (xuất thế gian) Tôi xin trích Kinh Nhân Quả Ba Đời đơn giản nhất và cũng là trực tiếp nhất của Phật Đà như sau: Kinh Nhân Quả Ba Đời: Một thời, A Nan tôn giả ở tại Linh Sơn Hội Thượng cùng với một nghìn hai trăm năm mươi người. A Nan chắp tay đảnh lễ, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi chắp tay quỳ xuống thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: "Hết thảy chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này, đến thời mạt pháp, phần lớn sẽ trở nên bất thiện, bất kính với Tam Bảo, không tôn trọng cha mẹ, không giữ tam cương, ngũ luân lộn xộn, bần cùng hạ tiện, lục căn không đủ, suốt ngày sát sinh hại mệnh, phú quý bần cùng và bất bình đẳng, là quả báo gì? Mong Thế Tôn từ bi vì đệ tử mà giải thích tường tận! Phật bảo A Nan và các đại đệ tử rằng: Lành thay! Lành thay! Các người hãy lắng nghe, ta sẽ vì các người mà giải thích rành rọt. Trên thế gian này, tất cả nam nữ già trẻ, giàu nghèo sang hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phúc vô tận đều là do báo ứng nhân quả từ đời trước. Nguyên nhân vì đâu mà như vậy? Trước tiên cần hiếu kính cha mẹ, kính tín Tam Bảo, tiếp đó cần bỏ giết chóc, cần phóng sinh, niệm Phật bố thí, có thể trồng ruộng phúc cho hậu thế. Phật nói bài kệ nhân quả: "Phú quý đều do mệnh Kiếp trước đã tu nhân. Người thọ trì kinh này Đời đời hưởng phúc lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Nghe niệm kinh Nhân Quả Ba Đời Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói chân ngôn chớ xem thường. Đời này làm quan do nhân gì? Kiếp trước dát vàng lên tượng Phật Kiếp trước tu nên kiếp này hưởng Áo tía đai vàng cầu nơi Phật. Trang điểm thân Phật, trang điểm ta Làm đẹp Như Lai, làm đẹp ta Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Kiếp trước không tu lấy đâu ra? Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước xây cầu tu sửa đường. Mặc áo gấm lụa do nhân gì? Kiếp trước tặng áo giúp người nghèo. Có ăn, có mặc do nhân gì? Kiếp trước cơm nước giúp người nghèo Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân gì? Kiếp trước chút ít cũng chẳng chia. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Kiếp trước đem gạo tới cúng chùa. Phúc lộc đủ đầy bởi nhân gì? Kiếp trước xây chùa xây chòi mát. Tướng mạo đoan trang do nhân gì? Kiếp trước hoa tươi dâng cúng Phật. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước tụng kinh thường niệm Phật. Vợ hiền thiếp đẹp do nhân gì? Kiếp trước Phật môn kết thiện duyên. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Kiếp trước tràng phan dâng cúng Phật. Có đủ mẹ cha do nhân gì? Kiếp trước kính trọng người cô độc. Không cha không mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. Đông con nhiều cháu do nhân gì? Kiếp trước mở lồng thả chim thú. Nuôi con không được do nhân gì? Kiếp trước luôn hận thù người khác. Đời này không con do nhân gì? Kiếp trước ghét bỏ con cháu người Đời này sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. Đời này mạng ngắn do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. Đời này không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham gian vợ người ta. Đời này góa bụa do nhân gì? Kiếp trước khinh thường kẻ trượng phu. Làm thân nô bộc do nhân gì? Kiếp trước vong ân và bội nghĩa. Đời này mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. Đời này đui mù do nhân gì? Kiếp trước ham đọc sách khiêu dâm. Đời này môi sứt do nhân gì? Kiếp trước hay nói lời thị phi. Đời này câm điếc do nhân gì? Kiếp trước ác khẩu chửi mẹ cha. Đời này lưng gù do nhân gì? Kiếp trước nhạo báng người bái Phật. Đời này tay cong do nhân gì? Kiếp trước đã từng đánh mẹ cha. Đời này chân cong do nhân gì? Kiếp trước phá cầu đập đường xá Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Kiếp trước nợ nần nhưng không trả. Thân làm chó lợn do nhân gì? Kiếp trước rắp tâm lừa gạt người. Đời này nhiều bệnh do nhân gì? Kiếp trước cười cợt người bất hạnh. Đời này khỏe mạnh do nhân gì? Kiếp trước cho thuốc cứu người đau. Đời này ngồi tù do nhân gì? Kiếp trước thấy nguy mà chẳng cứu. Đời này chết đói do nhân gì? Kiếp trước cười nhạo kẻ ăn mày. Bị người đầu độc do nhân gì? Kiếp trước ngăn sông hại chết cá. Cô độc bơ vơ do nhân gì? Kiếp trước ác tâm mưu hại người. Đời nay thấp bé do nhân gì? Kiếp trước khinh thường kẻ hầu hạ. Đời này thổ huyết do nhân gì? Kiếp trước thường gây chuyện chia rẽ. Đời này bị điếc do nhân gì? Kiếp trước nghe Pháp rồi chẳng tin. Điên loạn lở loét do nhân gì? Kiếp trước hành hạ thân súc sinh. Thân này hôi thối do nhân gì? Kiếp trước đố kị ghen ghét người. Đời này treo cổ do nhân gì? Kiếp trước hại người cầu tư lợi. Góa bụa neo đơn do nhân gì? Kiếp trước vợ con chẳng thương yêu. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Kiếp trước phỉ báng người tu hành. Hổ nhai rắn cắn do nhân gì? Kiếp trước thường hay kết oán thù. Muôn việc ta làm là ta chịu Chịu khổ địa ngục còn trách ai? Đừng nói nhân quả nào ai thấy Xa ứng cháu con, gần ứng ta. Bất tín Tam Bảo chẳng bố thí Cái lợi trước mắt cứ bám vào Kiếp trước tu sao đời này chịu Đời này tích đức dành về sau. Nếu ai phỉ báng kinh Nhân Quả Hậu thế sa đọa mất người thân. Tin và thực hành kinh Nhân Quả Phúc lộc thọ tinh chiếu tới nhà. Ai đem truyền bá kinh Nhân Quả Đời đời gia cảnh được thịnh hưng. Ai thường đem theo kinh Nhân Quả Tai họa bất hạnh chẳng đến gần. Ai đem giảng giải kinh Nhân Quả Đời đời kiếp kiếp được thông minh. Ai thường đọc tụng kinh Nhân Quả Kiếp sau người người đều cung kính. Ai đem in ấn kinh Nhân Quả Kiếp sau được làm thân Đế Vương Theo kinh Nhân Quả hỏi đời trước Chính sự thụ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời sau Chính là nhân tạo ở kiếp này. Nếu như nhân quả không báo ứng, Mục Liên cứu mẹ là vì đâu? Ai tin sâu sắc kinh Nhân Quả. Đồng sinh Cực Lạc ở tây phương Nhân quả ba đời nói không hết Trời, rồng chẳng bỏ người thiện tâm. Tu trồng ruộng phúc nơi Tam Bảo Một nhân hỉ xả hưởng muôn vàn. Gửi kho kiên cố chẳng mất hỏng Đời đời kiếp kiếp phúc vô cùng. Muốn biết nhân đời trước, Xem sự hưởng đời nay, Muốn biết quả đời sau, Xem việc làm kiếp này. Tôi nói: "Kinh Nhân Quả Ba Đời" này là do Phật Đà thuyết, hơn nữa Phật Đà còn thuyết giảng tường tận "Kinh Ba Mươi Hai Tướng", 32 tướng này đều có nhân duyên. Đó là do trong quá khứ, Phật Đà đã tập hợp đủ mọi loại công đức của Ngài mà có được 32 tướng tốt của bậc vĩ nhân. Từ "Kinh Ba Mươi Hai Tướng" này, chúng ta có thể thấy rõ ràng tốc độ dòng chảy của nghiệp lực, quả nhiên bao gồm: Nhục thể. Khí quan. Da thịt. Hình dáng. Có thể thấy nghiệp lực có thể tinh vi tới mức vô cùng vi tế. Có một câu nói của Phật Đà khiến con người chấn động là: "Chúng ta là những người kế thừa nghiệp của mỗi một chúng sinh, không có ai là ngoại lệ." Ở đây, tôi đặc biệt nói rõ thêm rằng: Phật Đà đã xác nhận rõ: 1. Có nhân duyên ba đời. 2. Sự bất khả tư nghì của nghiệp. Tuy nhiên Phật Đà không thích chúng sinh tu Túc mệnh thông, cũng không muốn các đệ tử nói về nhân quả ba đời. Nguyên nhân là gì? Phật Đà cho rằng: Đời quá khứ đã qua rồi. (Tâm quá khứ bất khả đắc.) Đời hiện tại cũng sẽ thành quá khứ. (Tâm hiện tại bất khả đắc.) Đời tương lai còn chưa đến. (Tâm vị lai bất khả đắc.) Phật Đà cho rằng: Sống tại ngay lúc này là tốt nhất. Ngay lúc này làm việc thiện, ngay lúc này tu pháp, ngay lúc này giúp đỡ người, ngay lúc này phát tâm, ngay lúc này chính niệm, ngay lúc này chính hành, ngay lúc này chính kiến, mỗi ngày trân quý thời gian. Ví dụ, giống như điều tôi nói: Sống một ngày, vui vẻ một ngày. Sống một ngày, tu hành một ngày. Sống một ngày, cảm ơn một ngày. Không cần phải nghĩ về quá khứ, không cần nghĩ về hiện tại, không cần nghĩ về tương lai. Vì sao? Nghĩ thì có tác dụng gì? Các thầy tướng số hoặc thông linh ngày nay đều dùng nhân quả ba đời để mà: "Lừa người!" "Đe dọa hòng lấy tiền." "Đổi vận." "Chuyển vận." XX chính là một ví dụ. "Kiếp trước anh đã nợ tôi rất nhiều tiền!" "Kiếp này anh phải trả lại tôi tiền!" "Bằng không, kiếp sau anh phải xuống địa ngục!" "Bằng không anh sẽ chết!" "Bằng không anh sẽ gặp tai nạn lớn!" Dọa tới mức người tới hỏi chuyện sợ chết khiếp, mau lẹ dâng tiền cho XX. Đây là những kẻ đại thần côn lợi dụng nhân quả ba đời để đe dọa lừa tiền của người khác. Cá nhân tôi chủ trương: Sống tại ngay lúc này. Sử dụng hoàn mỹ nhất thời gian của ngay lúc này. Ngay lúc này mỗi ngày đều tu hành. Chính nghiệp. Chính niệm. Chính hành. Chính kiến. Còn như quá khứ ra sao ra sao? Hiện tại ra sao ra sao? Tương lai ra sao ra sao? Đừng nghĩ ngợi làm gì. Tránh bị những thầy tướng số, thầy bói có cơ hội đe dọa lừa tiền, sẽ hối hận mãi thôi.
28. Bạn suy nghĩ về đời người như thế nào?
Trong chương sách này, tôi sẽ dạy bạn làm sao để suy xét về đủ mọi vẫn đề tồn tại trong cuộc đời. Vì sao Lư Sư Tôn cho rằng đời người là khổ? Tôi nói: Bởi vì Phật Đà nói, chúng ta sinh ra để trả nghiệp, trả nghiệp thì có gì vui để mà nói đây! Tuy nhiên, nếu bạn tu hành giải thoát thì tất cả mọi cái khổ đều có thể chuyển hóa thành căn nguyên của niềm vui. Vì sao mỗi người sinh ra đều không bình đẳng? Tôi nói: Bởi vì mỗi người có nghiệp lực khác nhau, do vậy mới không bình đẳng, nói một cách rất đơn giản là: Sinh ra ở đất nước nào. Sinh ra ở dòng họ nào. Sinh ra ở gia đình nào. Nghiệp lực khác nhau, nơi sinh khác nhau, thêm nữa, khuôn mặt của mỗi người đều khác nhau, đây là do nghiệp và luân hồi khác nhau. Vì sao có người là thiên tài, có người lại ngu dốt? Tôi nói: Vẫn là vấn đề nghiệp lực, thiên tài và kẻ ngốc, sinh ra đã không bình đẳng rồi. Việc này có thể tự hiểu được. Vì sao sinh đôi, sinh ra trong cùng một gia đình, cùng một hoàn cảnh, tất cả đều tương tự, nhưng vận mệnh cuối cùng cũng khác nhau? Tôi nói: Trường hợp sinh đôi có rất nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên cũng vẫn có khác biệt. Bởi vì trong cái giống cũng có cái khác, bởi vì đó là hai con người, mỗi người có vận mệnh riêng của mỗi người. Điều này cũng có thể chứng minh mỗi người do mẹ sinh ra, mỗi người trưởng thành trong mỗi gia đình, thành tựu tương lai đều khác nhau. Vì sao Lư Sư Tôn dạy rằng có người căn khí cao, có người căn khí trung, có người căn khí thấp? Tôi nói: Căn khí cao - bẩm sinh đã có trí lực tốt. Căn khí trung - bẩm sinh trí lực ở mức bình thường. Căn khí thấp - bẩm sinh trí lực kém cỏi. Tuy nhiên, người tinh tấn thì vẫn có thể cần cù bù thông minh. Con cái trong cùng một gia đình có nghiệp lực riêng, nên sinh ra có khả năng trí tuệ khác nhau. Vì sao khi còn là trẻ sơ sinh đã có những biểu hiện tham, sân, si? Tôi nói: Sinh ra đã có, là vì nghiệp lực và luân hồi. Tôi bài trừ tư tưởng "nhân chi sơ, tính bản thiện". Tôi bài trừ tư tưởng "nhân chi sơ, tính bản ác". Tôi bài trừ tư tưởng "nhân chi sơ, tính bất thiện, tính bất ác". Bởi vì: Nhân chi sơ, vì nghiệp mà đã không bình đẳng rồi. Vì sao người ta mới gặp mặt nhau đã có cảm giác thích và không thích? Tôi nói: Là hiệu ứng từ trường, có lực hấp dẫn lẫn nhau, và có lực bài trừ nhau. Cảm giác này không nhất định là chính xác. Có liên quan đến duyên. Có liên quan đến từ trường. Vì sao người có phẩm cách lương thiện tốt đẹp lại xuống địa ngục, còn người tà ác cũng có thể thành Thánh giả? Tôi nói: Nghiệp lực thay đổi. Buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật. Phẩm cách thiện lương, nhưng bị mê hoặc, nghiệp lực đổi thay. Vì sao con người vừa mới đây đã chết rồi? Tôi nói: Vẫn là nghiệp lực. Vẫn là hung sát. Vẫn là tai ách.
29. Pháp thập nhị nhân duyên của Phật Đà
Dưới cây bồ đề, Phật Đà đã từng ngộ ra pháp Thập nhị nhân duyên, sự sản sinh đau khổ và sự kết thúc đau khổ. Thứ tự và giải thích về pháp Thập nhị nhân duyên thì đã có rất nhiều các vị đại đức từng nói rồi, ở đây tôi chỉ đưa ra những tổng kết toàn diện thôi. Vì vô minh, sinh ra nghiệp Hành. Vì nghiệp Hành, sinh ra Thức tái sinh. Vì Thức tái sinh, sinh ra Danh sắc. Vì Danh sắc, sinh ra Lục nhập. Vì Lục nhập, sinh ra Xúc. Vì Xúc, sinh ra Thụ. Vì Thụ, sinh ra Ái. Vì Ái, sinh ra Thủ. Vì Thủ, sinh ra Hữu. Vì Hữu, sinh ra Sinh. Vì Sinh, sinh ra Già chết. Buồn rầu, bi thương, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. (Đây là sự sinh ra đau khổ.) Cá nhân tôi cho rằng: "Ái." "Thủ." "Hữu." Đây là ba căn nguyên chủ yếu của đau khổ. Người tu hành chúng ta, chỉ cần loại bỏ được Ái, Thủ, Hữu thì mới có thể giải trừ được đau khổ. Trong 12 nhân duyên, thứ tự như sau: Trừ được vô minh, nghiệp Hành chấm dứt. Trừ được nghiệp Hành, Thức tái sinh chấm dứt. Trừ được Thức tái sinh, Danh sắc chấm dứt. Trừ được Danh sắc, Lục nhập chấm dứt. Trừ được Lục nhập, Xúc chấm dứt. Trừ được Xúc, Thụ chấm dứt. Trừ được Thụ, Ái chấm dứt. Trừ được Ái, Thủ chấm dứt. Trừ được Thủ, Hữu chấm dứt. Trừ được Hữu, Sinh chấm dứt. Trừ được Sinh, thì lão, tự, sầu, bi, khổ, não, tuyệt vọng chấm dứt. (Bởi vậy, đau khổ đã được giải trừ rồi.) Trong kiếp quá khứ là: Vô minh. Nghiệp hành. Trong kiếp hiện tại là: Tái sinh. Danh sắc. Lục nhập. Xúc. Thụ. Ái. Thủ. Hữu. Trong kiếp tương lai là: Sinh. Lão. Tử. Cá nhân tôi thể ngộ như thế này: Các hành vi thiện ác chính là nghiệp Hành. Ái, Thủ, Hữu là tất cả phiền não. Ở đây kì thực chính là có lòng tham. Còn vô minh là nguồn gốc của tất cả mọi thứ. Quả là cái gì? Tái sinh là quả. Già chết là quả. Từ pháp Thập nhị nhân duyên, chúng ta hãy suy ngẫm, sẽ có được trí huệ. Nếu trí huệ thay thế được vô minh thì hành giả sẽ được giải thoát. Bởi vì vô minh khiến người ta ở trong sinh tử luân hồi, lặp đi lặp lại, liên miên không dừng. Duy có người đại trí huệ thì mới vô sinh và vô tử.
30. Bài kệ luân hồi
Gần đây, tôi bỗng nhớ tới: Mỗi năm lại thêm già Ngày sống dần giảm bớt. Xòe ngón tay tính đếm Sắp sửa kết thúc rồi. Và: Mắt trông người ta chết. Như lửa đốt trong lòng. Chẳng nóng vì người khác. Mà lo tới lượt mình. Và: Lần này lại lần khác, mãi trầm luân không dừng. Lần này lại lần khác, lại sinh rồi lại chết. Lần này lại lần khác, người đưa ta đến mộ. Tôi cảm thán rằng: Trong kiếp quá khứ của tôi, tôi từng là Quốc vương, cũng từng là người tu hành, rồi thương nhân, cũng từng là nô bộc. Trong lục đạo, trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tôi đều đã từng luân hồi qua cả. Từng cả bầy thê thiếp. Từng lăn lộn ăn mày. Từng tu hành trong núi. Từng vô số giang sơn. Trong kiếp này, tôi đã hiểu thông hiểu thấu, hiểu triệt để quá khứ, hiện tại, tương lai của tôi. Tôi đã hiểu luân hồi và niết bàn là một. Tôi đã hiểu Phật và ma là một. Tôi đã hiểu một tức là tất cả, tất cả tức là một. Tôi đã hiểu một quy về không. Không quy về hư không. Hư không quy về đạo. Kiếp này, cuối cùng tôi đã thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác, tôi đã trở thành Phật Đà thời hiện đại. Khi tôi thành tựu Phật Đà thời hiện đại, tôi lập tức hiểu được rất nhiều những điều khó hiểu của những điều bất khả tư nghì. Vì sao Phật có ba điều không thể làm được? Không thể độ hết chúng sinh. Không thể diệt định nghiệp. Không thể độ người vô duyên. Cho dù là luân hồi cũng có rất nhiều kiểu chết và nguyên nhân chết. 1. Cái kết của sinh mệnh cực ác: Thụ. Tưởng. Hành. Tham. Người sống mà có bốn thứ này chủ đạo thì khi chết sẽ đọa vào tam ác đạo. 2. Cái kết tự nhiên của tuổi già. Thông thường mà nói thì cái này rất phổ biến, tuổi già đến thì sức sống trở nên yếu ớt, do vậy mà chết. Người làm việc thiện nhiều thì thăng lên trời làm thiên nhân. Người làm việc thiện ác tương đương nhau thì lại tái sinh làm người. Người làm nhiều việc ác thì đơn giản là vừa chịu khổ vừa tái sinh. 3. Nghiệp lực đã hết, thọ mệnh cũng chấm dứt. Vì không còn nghiệp lực nên thọ mệnh cũng dừng. Không còn khả năng tái sinh, thế nên nhập vào niết bàn. 4. Thọ mệnh chưa hết, nhưng gặp phải nghiệp lực rất lớn: Đây gọi là chết tức thời. Ví dụ như chết do tai nạn xe, lở đất, mưa bão, lũ lụt, hỏa hoạn, cái chết tức thời. Chết yểu, đột tử. Các cái chết từ phần 1 đến phần 3 là đến lúc thọ mệnh hết thì sẽ chết. Còn cái chết ở phần 4 là chết tức thời. Hiểu được những điều này sẽ cố gắng hơn để mà "mọi việc ác đừng làm, hãy làm mọi việc thiện, tự thanh tịnh ý niệm", cũng có nghĩa là trừ bỏ nghiệp lực, nghiệp lực đã hết thì tự có thể chứng được đạo.
31. Câu hỏi của một vị trưởng lão học Phật
Ông hỏi: "Lư Sư Tôn! Tôi có băn khoăn, có thể hỏi ngài được không?" Tôi đáp: "Được." Ông hỏi: "Khi ngài ở Đài Loan, có người Hồng Kông hỏi chuyện, và một người New Zealand hỏi chuyện, về mặt thời gian thì là giống hay là khác?" Tôi đáp: "Giống." Ông hỏi: "Hồng Kông gần Đài Loan, New Zealand thì rất xa, vì sao hỏi ở hai nơi mà thời gian lại giống nhau?" Tôi đáp: "Khi ý thức của ông nghĩ đến mặt trời, rồi lại nghĩ đến mặt trăng, mặt trời cách trái đất rất xa, mặt trăng cách trái đất tương đối gần hơn, xin hỏi nghĩ đến mặt trời, nghĩ đến mặt trăng có khác nhau không?" Ông đáp: "Tôi hiểu rồi!" Ông nói: "Về mặt ý thức thì không có phân biệt xa gần." Ông lại hỏi: "A Di Đà Phật có thế giới Cực Lạc, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật có thế giới Lưu Ly, Di Lặc Bồ Tát có thế giới Đâu Suất, xin hỏi Lư Sư Tôn, cõi tịnh thổ nào tốt?" Tôi đáp: "Cái gọi là tịnh thổ thực sự chẳng có xấu tốt. Ví dụ Tây phương Phật quốc thì việc ăn uống đi lại cũng giống như du hành khắp mười phương Phật quốc vậy." Ông hỏi: "Đi đến Phật quốc nào cũng đều có vấn đề về mặt thời gian sao?" Tôi đáp: "Ở giữa một tấc vuông." Tôi lấy một ví dụ để nói cho trưởng lão nghe. "Có hai con chim bay đến một cái cây to. Một con đậu ở cành cao, một con đậu ở cành thấp, ánh mặt trời chiếu tới, bóng của chúng in lên mặt đất, xin hỏi bóng của con chim nào ở mặt trước, bóng của con chim nào ở mặt sau?" Trưởng lão đáp: "Như nhau." Tôi đáp: "Đúng vậy. Chính là như thế." Ở đây, tôi xin viết ra một kiến thức bất khả tư nghì. Đại thừa, Tiểu thừa, Kim cương thừa, kì thực là một thừa, phân ra làm ba, hợp lại là một. Kim cương thừa thường nói, tương ứng một vị thì tương đương tương ứng trăm, nghìn, vạn vị. Đời quá khứ, đời hiện tại, đời tương lai kì thực là một đời, có nghĩa là: Thụ cùng tam tế. Hoành biến thập phương. [ ND: Dọc cùng khắp ba đời, ngang trọn khắp thập phương. ] Không có hạn chế về thời gian, không có hạn chế về không gian. Trưởng lão lại hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Tôi có một nghi vấn vẫn luôn để trong lòng, có Thánh giả nói "tức tâm tức Phật", lại có Thánh giả nói "phi tâm phi Phật", xin hỏi, cái nào mới đúng?" Tôi đáp: "Chẳng phải một cũng chẳng phải hai." Trưởng lão hỏi: "Có bằng chứng gì mà dám nói như vậy?" Tôi đáp: "Thanh Tịnh Đạo Luận." Trưởng lão hỏi: "Trong đó nói gì?" Tôi đáp: "Vô ngã." "Thế thì cũng chính là phi tâm phi Phật mà!" - Trưởng lão nói. "Ngay cả "phi" cũng chẳng có!" - Tôi nói.
32. Tư tưởng của tôi
Bạn có nhớ triết học của phương Tây không? Tôi nghĩ, nên tôi tồn tại. Bởi vậy, tôi viết: Tư tưởng, tức là nhà tư tưởng. Chúng ta biết rằng: Con người sinh ra là do tâm pháp và sắc pháp cấu thành, cũng có nghĩa là linh hồn và đất nước lửa gió hợp thành. Đất là xương thịt. (vững chắc) Nước là huyết dịch. (thanh tịnh) Lửa là nhiệt độ. (độ nóng ấm) Gió là hô hấp. (tuần hoàn) Chúng ta cho rằng linh hồn mang nghiệp của kiếp trước từ đó mà lưu chuyển đến tái sinh. Tuy nhiên: Trong cuốn sách "Chủ nghĩa hành vi" có nói: "Chẳng ai có liên quan đến linh hồn, cũng chẳng có ai từng nhìn thấy nó từ trong ống nghiệm khoa học cả, lại càng chẳng có ai trong cuộc sống thường ngày phát sinh ra quá nhiều liên hệ với linh hồn cả. Cho dù là như vậy, rất nhiều người tin rằng có linh hồn, người thông linh có rất nhiều kinh nghiệm." Bạn có tin có linh hồn không? Bạn có tin không có linh hồn không? Thuyết hữu thần? Thuyết vô thần? Cha tôi (Lư Nhĩ Thuận) hồi đầu đã bác bỏ tôi: "Anh nói là có Phật, vậy đưa Phật ra đây cho bố xem, nếu như không đưa ra được thì nghĩa là không có. Con người chết đi rồi thì chẳng còn gì nữa, linh hồn ở đâu ra!" Trong tư tưởng của Phật Đà không có nói đến linh hồn, nhưng đề cập đến "thức". Còn thời Ấn Độ cổ đại, các Thánh giả Ấn Độ có nhắc đến một thứ không thể tách rời, nó được gọi là "nguyên tử", hay còn gọi là "sơ lượng". Cá nhân tôi nghĩ thế này: Nguyên tử. Sơ lượng. Thức. Linh hồn. Phật tính. Điều mọi người cần hiểu rõ là: Thức là thứ cứ trôi đi không dừng, không bị chướng ngại, hơn thế lại còn thay đổi khôn lường, cũng bị ô nhiễm, dòng chảy sinh mệnh này đối với các nhà duy thức học mà nói thì đó là tổ hợp của nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, ý căn, A-lại-da. Trong Như Lai Tạng có Như Lai. A-lại-da là Như Lai. A-lại-da là Phật tính. Do vậy, tu hành là đãi vàng từ trong quặng sắt, luyện ra vàng, lúc đó nó không còn là quặng sắt nữa rồi. Đó chính là Phật rồi! Tôi nhận thấy như sau: Nếu như sắc thân sau khi chết, hỏa thiêu thành một đống tro, nếu không có linh hồn thì làm sao có lục đạo luân hồi? Nếu không có lục đạo luân hồi thì lý luận của Phật gáo không tồn tại nữa. Không có linh hồn thì làm sao có vãng sinh Phật quốc? Có người đề xuất: "Linh hồn mới cộng thêm nhục thể mới sẽ tạo thành một thể sinh mệnh mới. Còn nhục thể cũ thì đã chết từ lâu, cũng đã tự mất rồi. Do vậy, kiếp trước với kiếp này chẳng có liên hệ gì với nhau." Đối với lý luận kiểu này, tôi không tùy tiện đồng tình. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Trả nghiệp!" Tôi nói: "Nếu kiếp trước, kiếp này chẳng có can hệ gì, thì nghiệp từ đâu đến?" Tôi nói: "Sinh ra là bắt đầu của cái chết, chết cũng là mở đầu của sinh ra, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, cứ thế luân hồi mãi không dừng." Tôi từng trông thấy, trong quá trình hoán đổi linh hồn, có người so sánh: Lấy loại bướm làm ví dụ. Đầu tiên nó là trứng. Sau đó nó là sâu róm. Cuối cùng lại biến thành bướm. Trứng, sâu róm, bướm, hình tượng của ba thứ này quá khác nhau, xem ra chẳng có mối tương quan nào. Tuy nhiên, Chúng có tính tiếp diễn và tính cùng chung. Ba thứ khác nhau. Trong cái khác có cái chung. Còn nữa: Lấy đèn dầu làm ví dụ. Khi chúng ta mới bắt đầu thắp đèn, trong quá trình đèn cháy. Có khi màu xanh. Có khi màu đỏ. Có khi tóe ra những tia lửa rất nhỏ. Ba thứ này khác nhau. Nhưng đèn dầu có tính tiếp diễn và tính cùng chung suốt cả đêm. Cuối cùng trở thành khô kiệt. Màu xanh, màu đỏ, tia lửa nhỏ khác nhau. Nhưng, trong cái khác có cái chung. Tôi lấy đời người làm ví dụ. Thời sơ sinh. Thời nhi đồng. Thời thanh niên. Thời trung niên. Thời lão niên. Bạn cho rằng thời nào đại diện cho Lư Thắng Ngạn? Tôi thật lòng nói với mọi người, thật sự là chẳng có thời nào. Tuy nhiên, một đời Lư Thắng Ngạn có tính tiếp diễn và tính cùng chung. Do vậy, linh hồn, hai thứ khác nhau, trong cái khác biệt có cái chung.
33. Vô số điều trải qua của con người
Phật Đà nói: "Một người ở tại thế gian này, kì thực đã tích lũy xương cốt chồng chất cao như núi Tu Di, những đám xương người này là bất diệt, vĩnh viễn chồng chất tại cõi Ta Bà." Và nói: "Một người ở tại thế gian này, kì thực không đâu là không thấy khổ, thân ly tử biệt đầy rẫy khắp nơi. Cha chết, mẹ chết, anh chị em chết, thậm chí là con cái chết, muôn kiếp vẫn thế, nước mắt đã chảy từ lâu đã tích lũy lại đầy như nước bốn biển rồi." Còn nói: "Một người ở tại thế gian này, những việc từng trải qua trong đời quá khứ, hoặc làm trâu, hoặc làm ngựa, hoặc làm chó, hoặc làm cừu, hoặc làm đủ loại sinh vật lớn nhỏ, trải qua đủ mọi sự cắn xé lẫn nhau, quá trình đào thải tự nhiên, cá lớn nuốt cá bé, máu đã đổ ra qua những lần bị chặt đầu từ lâu đã nhuộm đỏ cát của toàn bộ đại địa này." Còn nói: "Một người ở tại thế gian này, có khi đã từng giết người, có khi là giặc cướp, có khi là tiện nhân thê thiếp, có khi lừa bịp người khác để cướp tiền, có khi ly gián, có khi phá hòa hợp tăng, có khi giết hại Thánh giả, có khi táng tận lương tâm, có khi lừa thầy diệt tổ, có khi áp bức người lương thiện, tham, sân, si, không gì là không phạm phải, tội lỗi đã tạo ra còn cao hơn cả núi Tu Di, sâu hơn biển, lục đạo luân hồi vĩnh viễn không có hồi kết!" ... Phật Đà nói xong những lời này, lại nói: Một người ở tại nhân thế gian này. Đau khổ. Đày đọa. Bất hạnh. Bệnh tật. Thân ly. Khổ, khổ khổ, khổ khổ khổ. Bây giờ bạn chỉ còn một con đường có thể đi: "Tỉnh ngộ và giải thoát chính mình." Con người đọa vào địa ngục, nguyên nhân chủ yếu là tham. Con người đọa vào ngạ quỷ, nguyên nhân chủ yếu là sân. Con người đọa vào súc sinh, nguyên nhân chủ yếu là si. Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Người minh nhãn có thể nhìn ra: Sự tồn tại của con người chỉ là sự tồn tại tạm thời của nghiệp lực tạm thời ngắn ngủi, sự tồn tại của nó chỉ là tiếp nối nghiệp báo của đời trước. Ai từ Trời mà đến. Ai từ Người mà đến. Ai từ A-tu-la mà đến. Ai từ đạo Địa ngục mà đến. Ai từ đạo Ngạ quỷ mà đến. Ai từ đạo Súc sinh mà đến. Đều có thể từ hình dạng bên ngoài mà nhìn ra được. Lấy đạo Súc sinh làm ví dụ: Thân người có thể hiện lên những đặc tính của súc sinh. Điều này tương tự như việc nghiệp lực ác vẫn chưa bị trừ bỏ tận gốc, nên bất chợt sẽ lộ ra. Kẻ hay cắn bậy người khác - từng là rắn. Kẻ nóng nảy - từng là khỉ. Kẻ gian xảo - từng là lang sói. Kẻ tham ăn - từng là lợn. Kẻ giết người - từng là hổ báo. ... Ví dụ: Đề Bà Đạt Đa là một vương tử cao quý, là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong tăng đoàn chủ yếu của Phật Đà, cũng có đầy đủ thần thông và pháp lực, thế nhưng vẫn không địch nổi lòng tham của nội tâm, muốn lãnh đạo tăng đoàn, bởi thế mà muốn giết hại Phật Đà. Do vậy, Thánh nhân cũng có thể ngay ngày mai biến thành tội nhân độc ác. Tương tự, tội phạm cũng có thể thay đổi trở thành Thánh nhân. Đó là vì biết sám hối, hạt giống thiện ấy đã tạo ra sự thay đổi lớn.
34. Xin đừng đi vào con đường sai lầm
Trước tiên, tôi công bố một lá thư để làm bằng chứng: Những lá thư kiểu này nhiều vô cùng, tôi xử lý chúng đến tối tăm mặt mũi, trời u đất ám. Chỉ vì trong tông phái chúng ta xuất hiện một Quỷ Bà XX, Quỷ Bà này đã đi vào con đường sai lầm, hại người vô số. Sư Tôn kính mến, xin chào Thầy! Đệ tử là Lệ Linh, nhà ở khu dân cư mới tên là Hồng Lâm ở Tân Giới (Hồng Kông). Nay có sự việc này, cầu thỉnh Sư Tôn gia trì và hóa giải. Vào tháng 8 năm 2016, cả nhà đệ tử từng tham gia pháp hội của Thượng sư XX. Kể từ ngày hôm đó, sư huynh Đức Minh của con có xuất hiện linh chướng, có huyễn thính huyễn thị, trông thấy linh hồn xuất hiện và nói chuyện, sau đó liên tục có khuynh hướng bạo lực và suy nghĩ tự sát. Sau đó, bản thân anh ấy cũng có đến Đài Loan Lôi Tạng Tự tham gia pháp hội hoàn tịnh, nhưng tình hình chuyển biến tốt đẹp chỉ được vài tháng, rồi lại xuất hiện những hiện tượng kể trên. Bây giờ kinh tế gia đình con cũng đã xuất hiện khó khăn, cầu thỉnh Sư Tôn từ bi gia trì cho gia đình chúng con vượt qua được cảnh khốn khó này. Những người trong gia đình bị ảnh hưởng: 1. Đức Minh: sinh ngày ? tháng 12 năm 1973. 2. Lệ Linh: sinh ngày ? tháng 8 năm 1967. 3. Học Lễ: sinh ngày ? tháng 3 năm 2012. 4. Học Nghiên: sinh ngày ? tháng 5 năm 2004. Đệ tử Lệ Linh chắp tay đảnh lễ. Kính chúc Sư Tôn Phật thể an khang. Lá thư này tôi đã sửa đi họ tên, che đi địa chỉ, che đi ngày sinh, để tránh cho họ bị Quỷ Bà theo dõi và làm hại. Quỷ Bà này nuôi quỷ, năm con quỷ trùm sò này như sau: Kobayashi. (Quỷ người Nhật) Nakamura Kazumu. (Quỷ người Nhật) Watanabe Chirou. (Quỷ người Nhật) Lâm Lương Tri. (Quỷ người Hoa) Hoàng Kim Tuyền. (Quỷ người Hoa) Mỗi tên đầu sỏ lại dẫn theo trăm, nghìn, vạn quỷ binh quỷ tốt để sát hại nhân gian. Quỷ Bà này làm ba điều đại ác: 1. Khủng bố lừa tiền. 2. Nuôi quỷ hại người. 3. Thần thông nói láo. Những ngôi chùa mà Quỷ Bà từng đến đều biến thành miếu quỷ. Quỷ Bà làm pháp hội, quỷ sẽ bắt người hoán đổi. Quỷ Bà gia trì thì quỷ lập tức chiếm lấy thân xác. Người đi theo Quỷ Bà đều là những người bị ma quỷ ám, tương lai sẽ đều đọa vào quỷ giới. Tôi nói: Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên trong Phật giáo đều có thể thờ cúng, lễ bái, tu pháp…. Quỷ Bà thì khăng khăng muốn cung phụng năm con quỷ đầu sỏ, đó là đã đi vào con đường sai lầm rồi. Con đường sai lầm là: Theo đuổi quỷ đạo thấp kém. Sử dụng thần thông quỷ nhơ bẩn. Có quỷ sống ở trong tâm. Đánh mất bồ đề tâm. Đánh mất giới, định, huệ. Liên tục đi vào tam đồ ác đạo khổ nạn. Không nghe theo lời kêu gọi của các bậc Thánh triết. Lạc đường lạc lối.
35. Liên Hoa Đồng Tử không được thừa nhận
Tôi còn nhớ đó là một sự việc từ rất nhiều năm, rất nhiều năm trước. Địa điểm là ở Seattle Lôi Tạng Tự. Tôi nhận ra một vị Liên Hoa Đồng Tử là Xa Diệu Chi. Tôi kêu cô đứng dậy. Kết quả là có một người phụ nữ mặc váy bó màu xanh tím đến từ Vancouver, Canada đã đứng dậy. Đương nhiên là Xa Diệu Chi không dám đứng lên nữa. Khi đó, trong lòng tôi rất mâu thuẫn. Ý của tôi là muốn Xa Diệu Chi đứng lên, nhưng cô ấy lại chậm mất một bước. Không ngờ lại là một người phụ nữ khác đứng dậy. Thế nên tôi cũng sững người ra. Tuy nhiên, tôi lập tức nghĩ, tình huống lúc này rất gượng gạo, để hóa giải sự gượng gạo, tôi nhanh chóng quyết định nếu là phúc thì chẳng phải họa, nếu là họa thì trốn cũng không được. Tôi liền nói: Đây là X Liên Hoa Đồng Tử. Hy vọng bà ấy có thể đảm đương sứ mệnh. Một ngóng, hai trông, ba chờ đợi. Hy vọng biến thành tuyệt vọng. Kết quả là, người giả thì vẫn là người giả. Bà ta muốn độc lập tách ra, giống như Đề Bà Đạt Đa thời Đức Phật vậy, muốn giết Phật để trở thành thủ lĩnh tăng đoàn. Vào lúc tôi xác nhận X Liên Hoa Đồng Tử, có một phu nhân họ Diêu đến gặp tôi, nói: "Lư Sư Tôn, ngài nhận nhầm người rồi! Bà X ấy là bạn chơi bài với tôi. Bà ấy có ba khuyết điểm lớn: 1. Nói láo giỏi nhất. 2. Chửi người ta giỏi nhất, chuyên môn thọc gậy bánh xe. 3. Nhân phẩm bà ta rất đê hèn, vô liêm sỉ. Nếu như XX này là Liên Hoa Đồng Tử thì Diêu Mỗ tôi và chồng tôi lập tức rời khỏi Chân Phật Tông!" Tôi nghe xong, chỉ nói nhàn nhạt: "Hy vọng bà ấy sẽ thay đổi!" Phu nhân họ Diêu hậm hực bỏ đi, phu nhân họ Diêu và chồng đã rời bỏ Chân Phật Tông, chuyển sang Thiên Chúa giáo. Rất nhiều năm đã qua rồi! X Liên Hoa Đồng Tử này cũng chính là Quỷ Bà XX ngày hôm nay. Chao ôi! Quỷ Bà vẫn là Quỷ Bà, tất cả đã chứng minh bà ấy là Liên Hoa Đồng Tử giả, có lộn ngược đầu lại cũng vẫn là Liên Hoa Đồng Tử giả. Phân biệt được điều này rất đơn giản: Các Liên Hoa Đồng Tử hóa thân của A Di Đà Phật tại Ma Ha Song Liên Trì là cùng tâm cùng đức. Là vui vẻ. Là thanh tịnh. Là vĩnh hằng. Là phạm hạnh. Là vui đùa cùng nhau. Chẳng có cái gọi là sự "đánh lẻ", muốn độc lập, muốn lãnh đạo tất cả Liên Hoa Đồng Tử khác. Tôi xin khuyên XX một câu: Người không ngủ thấy đêm dài. Người mệt mỏi thấy đường xa. Kẻ ngu chẳng hiểu nhân quả. Biển khổ mênh mông vô biên. Quỷ Bà lựa chọn kính quỷ, lại còn sử dụng ác quỷ đi hại các đệ tử Chân Phật Tông lương thiện. Tôi nói để bà hay: Có người lựa chọn chuyển thế làm thiên nga. Có người lựa chọn chuyển thế làm khỉ vượn. Có người lựa chọn chuyển thế làm diều hâu. Quỷ Bà lựa chọn chuyển thế làm ma quỷ. Tất cả đều có linh hồn, tất cả đều là linh hồn, vì ý muốn và quy luật mà phải tuân theo chạy đi chạy lại trong lục đạo, bà không chọn tứ Thánh và chư Thiên, lại chọn làm quỷ hung ác, Quỷ Bà đê hèn như bà đây chỉ có thể chuyển thế đến Quỷ Thành mà thôi. Hãy mau mau sám hối đi! Quỷ Bà!
36. Lời xằng bậy của Tiên nhảm
Quỷ Bà XX nói: Có lần bà ấy đi Calgary, Canada thuyết pháp. Bà ấy đến nhà của sư tỉ họ Lôi. Trong nhà của Lôi sư tỉ có đàn thành. Thổ Địa Công của đàn thành nói với Quỷ Bà rằng: "Tôi ở đây đợi XX, tôi đã chờ suốt 500 năm rồi, bây giờ cuối cùng đã gặp được bà, tôi muốn quy y bà." Lôi sư tỉ nghe xong rất vui mừng. Quỷ Bà XX lại càng vui mừng hơn. (Sự việc này do Thượng sư Triệu Thiếu Đông viết ra.) Tôi nghe xong sự việc này, trong lòng nghĩ: "Lại là trò nhảm nhí!" Người khác hỏi tôi: "Vì sao lại nhảm nhí?" Tôi đáp: Rất đơn giản! Trong số các loại Thần thì Thổ Địa Công thuộc loại Thần nhỏ, là Thần bảo vệ thôn xóm. Ngạn ngữ nói: "Đầu thôn cuối thôn Thổ Địa Công." Thổ Địa Công trong một nhà là Phúc Đức Chính Thần bảo vệ ngôi nhà đó. Nhìn chung mà nói thì người ta thờ cúng Thổ Địa Công ở vị trí thấp nhất trong nhà. Ở Đài Loan, chúng ta gọi là Thổ Địa Công. Ở Trung Quốc, có người gọi là Xã Công. (Xã Công - Thần bảo vệ một phường.) Trong các cấp độ Thần thì đây là vị nhỏ nhất, tuy vậy cũng vẫn nên tôn trọng. Theo tôi được biết, thần lực của Thổ Địa Công là nhỏ nhất, chỉ có thể biết được chuyện của bảy ngày trước, bảy ngày sau. Là vậy đó! Vị Thổ Địa Công của gia đình này đợi Quỷ Bà đã 500 năm, đây chính là điều mà Quỷ Bà bốc phét. Nói cách khác là, Thổ Địa Công, vì đã đợi Quỷ Bà 500 năm, vậy Thổ Địa Công này có thể biết được 500 năm trước và 500 năm sau, thần thông quảng đại như vậy, thật là oai phong lẫy lừng. Tất cả Thần minh chẳng làm được. Thành Hoàng cũng chẳng có năng lực thần thông này. Cảnh Chủ cũng chẳng có năng lực thần thông này. Vương Da Công cũng chẳng có năng lực thần thông này. Mã Tổ Bà cũng chẳng có năng lực thần thông này. Tôi lại nói để mọi người biết: Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, người đứng đầu tất cả chúng Thần cũng chẳng có năng lực thần thông này. Dục Giới Lục Thiên cũng chẳng có năng lực thần thông này. Điều này cần phải là: Vô Sắc Giới Thiên mới có năng lực thần thông này. Đại Tự Tại Thiên. (Thần hủy diệt) Đại Phạm Thiên. (Thần sáng tạo) Biến Tịnh Thiên. (Thần bảo hộ) Thì mới có năng lực thần thông như vậy! Ngũ Bất Hoàn Thiên cũng có năng lực thần thông này. Rất đơn giản mà nói, Thổ Địa Công nhỏ nhỏ trong gia đình này mà có thể biết được chuyện 500 năm sau thì tôi nghe xong cũng muốn đảnh lễ ông ta. Cung kính. Cúng dường. Còn quỷ bà XX khoa ngôn trâng tráo, nói Thổ Địa Công đã ở đó đợi bà ta 500 năm rồi, và muốn quy y Quỷ Bà. Lại là khoác lác. Bốc phét. Tiên nhảm! Ngay cả năm con quỷ đầu sỏ mà chính bà ta cung phụng cũng chẳng có được năng lực thần thông này. Ngày cả chính bản thân bà ta cũng chẳng có được năng lực thần thông này. Ngu. Ngu. Ngu. Đồ tiên nhảm!
37. Niết bàn có tồn tại không?
Có người hỏi Phật: "Niết bàn có tồn tại không?" Phật đáp: "Niết bàn là vô giới, vô vi, bất khả tư nghì, viên mãn, chí cao vô thượng, cứu cánh, là nơi tốt lành nhất để trở về, yên ổn, bình an, thanh tịnh tuyệt đối, xuất thế giới, bất tử, giải thoát, an lạc." Người kia nói: "Cảnh giới Niết bàn như vậy, e rằng chỉ là một điều lý tưởng mà thôi?" Phật đáp: "Đây là điều có thật." Người kia nói: "Chưa từng trông thấy!" Phật đáp: "Thật sự là có." Người kia nói: "Tôi không tin." Phật im lặng không nói, người kia cười hả hê rồi bỏ đi! Tôi biết, rất nhiều người không hiểu về Niết bàn, tôi từng nói chuyện với một bác sĩ về Niết bàn. Bác sĩ nói: "Niết bàn chính là chết." Tôi nói: "Không phải." Bác sĩ nói: "Người xuất gia chết đi thì gọi là nhập Niết bàn!" Tôi nói: "Niết bàn có chân nghĩa, người thế tục không hiểu." Bác sĩ nói: "Xin Lư Sư Tôn có lời dạy bảo xem sao?" Tôi lấy một ví dụ: Đây là một ẩn dụ. Có một con cá đã sống cả đời ở biển cả. Con cá gặp người bạn tốt của nó là con rùa biển, hai người bạn rất lâu không gặp, bèn nói chuyện với nhau. Cá hỏi rùa: "Anh đã đi đâu?" Rùa đáp: "Lục địa." Cá kinh ngạc: "Tôi chưa từng biết lục địa là gì, lục địa có rất nhiều cá đang bơi không?" Rùa đáp: "Không có, chỉ có người!" Cá hỏi: "Người là cái gì? Họ có vây không?" Rùa đáp: "Không có." Cá sửng sốt: "Họ không có vây, thế họ di chuyển thế nào?" Rùa đáp: "Họ có chân." Cá hỏi: "Chân là cái thứ gì? Mau mau nói cho tôi biết, còn cái gì đặc biệt nữa, chỗ họ có sóng không?" Rùa đáp: "Lục địa không có sóng." Cá hỏi: "Chắc là có dòng biển!" Rùa đáp: "Cũng không có." Cá hỏi: "Cái này cũng không, cái kia cũng không, tôi thật sự chẳng hiểu nổi lục địa." Rùa đáp: "Thật sự là anh không có cách nào hiểu được đâu!" Cá nói: "Căn bản là tôi chẳng tin có lục địa!"
38. Người tại gia và người xuất gia
Có người hỏi tôi: "Tôi có nên xuất gia không?" Tôi đáp: "Đừng hỏi tôi, hãy hỏi chính bản thân mình." Người đó nói: "Vì tôi chẳng thể tự quyết định được!" Tôi đáp: "Trước tiên anh hãy tự hỏi bản thân xem anh có tự nguyện không, hơn nữa đã từng chấp nhận những phạm hạnh thanh tịnh chưa." Người xuất gia trước tiên cần hiểu về việc giữ bốn giới luật: 1. Giới luật về tu luyện tâm trí. 2. Giới luật về cuộc sống đức hạnh. 3. Giới luật về những điều thiết yếu của cuộc sống. 4. Giới luật về cuộc đời thanh tịnh. Có người hỏi tôi: "Người tại gia tốt hay người xuất gia tốt?" Tôi đáp: "Người tại gia giống như sống trong ngôi nhà nhiều tranh chấp, luôn đầy những đòi hỏi và đắng cay. Còn người xuất gia thì chẳng còn mong cầu gì cả, giống như sống ở trên trời vậy, tự tại và cao vời vợi." Người đó nói: "Ý Lư Sư Tôn là muốn tôi xuất gia sao?" Tôi nói: "Cũng không hẳn là vậy!" Tôi giải thích: Người xuất gia dựa vào sự thanh tịnh của nội tại và cuộc sống mẫu mực, từ đó mà đạt được quả thắng lợi. Còn người tại gia phải đối diện với những quyến rũ từ bên ngoài, nhưng nếu có thể giữ vững được thân tâm không bị ô nhiễm, đạt được thắng quả, thì càng khiến người ta thán phục. Phật Đà nói: Cho dù là đeo vàng đeo ngọc, và sống một cuộc đời sung sướng, nhưng hành vi thì: Điềm tĩnh. Yên lặng. Kỉ luật. Tự tin. Thuần tịnh. Không làm hại tất cả chúng sinh hữu tình. Người những người tại gia như vậy còn hơn cả những người xuất gia. Người kia hỏi: "Có những người tại gia như vậy sao?" Tôi nói: "Thời đại Phật Đà, trưởng giả Cấp Cô Độc đã chứng đắc quả vị Tư Đà Hàm, những phú hào nổi danh của gia tộc Thích Ca đã chứng đắc quả vị Nhất Lai, những công nhân làm gốm sứ bằng lòng cầm rìu làm việc thay vì giăng lưới bắt chim thì đã chứng đắc quả vị Bất Hoàn, vua Tịnh Phạn đã chứng đắc quả vị A La Hán…." Có rất nhiều người tại gia đắc quả vị. Người kia hỏi: "Lư Sư Tôn! Ngài nghĩ sao, ngài muốn chúng tôi xuất gia hay tại gia?" Tôi đáp: "Một người, nếu như có thể thanh tịnh, bỏ dâm dục, tình nguyện xả bỏ, khiêm tốn, giản dị, vô tư, kỉ luật, nhẫn nhục, từ bi, không hại chúng sinh thì xuất gia hay tại gia đều tốt cả." Người kia hỏi: "Thế nào là một hành giả tệ hại nhất?" Tôi đáp: Buông thả trong việc hành dâm. Vừa trộm vừa cướp. Sát sinh. Giả thần thông. Dùng quỷ thông nhưng lại tự nói là Thần đạo. (Đây là việc tệ hại nhất.) Người kia hỏi: "Xuất gia đại diện cho việc gì?" Tôi đáp: "Một khởi đầu của sự tu hành! Ngoài ra, không đại diện cho cái gì cả! Chỉ là việc xuất gia tượng trưng cho phạm hạnh thôi."
39. Tri lượng, bỉ lượng, Thánh ngôn lượng
Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Làm sao biết được một người tu hành đã đi vào con đường sai trái?" Tôi đáp: "Rất đơn giản." Người hỏi: "Là phương pháp đơn giản sao?" Tôi đáp: "Là tri lượng, bỉ lượng, Thánh ngôn lượng." Người hỏi: "Vì sao nói như vậy?" Tôi đáp: Tri lượng --- khả năng tri thức. Chúng ta thấy một người tu hành đi vào con đường sai trái thì có thể phân biệt được, ví dụ như anh ta không giữ giới luật, giết người, cướp của, tà dâm, vọng ngữ, nghiện rượu, từ hành vi, lời nói đều có thể nhìn ra được. Ví dụ: XX bất kính với thầy. XX diệt Tổ. XX đang thôn tính địa bàn của Chân Phật Tông. XX nhục mạ Sư Mẫu. Đâu đâu cũng thấy. Từ việc khoác lác mà gây nên chia rẽ, từ việc bịa đặt chuyện hoang đường, từ phẩm chất đạo đức đê hèn mà có thể nhìn ra được. Ví dụ như đe dọa để chiếm đoạt tiền, v.v… Bỉ lượng --- khả năng tư duy logic. XX nói, Địa Mẫu đã dán lên mặt bà mấy chữ "Bà nói là được", nghĩa là bà nói thế nào thì sẽ là thế ấy. Chúng ta dùng phương pháp tư duy có thể biết được bà ta đang nói láo. Bởi vì: Địa Mẫu cũng không thể "nói là sẽ được", ở trên còn có Thiên Công, Thiên Công cũng chẳng thể nói là được, trên nữa còn có Không Cư Thiên, Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên. Phi Tưởng Giới Thiên cũng không thể nói là được, trên nữa còn có Tứ Thánh, A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Phật cũng chẳng thể nào "nói là được". Phật có ba điều không thể: Không thể độ người vô duyên. Không thể độ hết giới chúng sinh. Không thể tiêu diệt định nghiệp. Thế thì làm sao XX có thể nói là xong được, có thể thấy đây là lời khoác lác của ma quỷ. Thánh ngôn lượng --- những lời mà Thánh hiền ngày xưa đã nói. Ví dụ: XX nuôi quỷ. XX thờ cúng tượng vàng của quỷ. XX dùng quỷ để sát hại người. Những việc này đều chỉ ra rằng XX từ lâu đã rời xa những lời nói của Thánh hiền, lệch khỏi những lời trong kinh, luật, luận của Thánh nhân - Không hề dạy bạn nuôi quỷ. Điêu khắc tượng kim thân. Treo kim bài. Những con quỷ của bà ta biết tìm vật chủ. Mất ngủ. Huyễn thị, huyễn thính. Tinh thần thất thường. Tự sát. Có rất nhiều ví dụ có thể làm bằng chứng. XX đe dọa đoạt tiền. XX nuôi quỷ giết người. XX bịa chuyện thần thông để dọa người. Những điều này đều trái ngược với Thánh ngôn lượng, cho thấy từ lâu đã đi vào con đường sai trái rồi. Bởi vậy tôi nói: Đây không phải là những hành vi việc làm của người tu hành, mà là mượn danh nghĩa tôn giáo mà hình thành nên tập đoàn tôn giáo lừa đảo. Chỉ có một mục đích --- tiền và địa vị. Đây chính là tri lượng, bỉ lượng, Thánh ngôn lượng.
40. Phụ lục - Cuộc đối thoại
Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật tiếp nhận lời mời phỏng vấn của ông Nhan Liên Vũ, một nhân vật truyền thông thâm niên ở Hồng Kông. Vào ngày 27 tháng 4 năm 2017, dưới sự giới thiệu của Thượng sư Liên Hoa Thiếu Đông, Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật đã tiếp nhận lời mời phỏng vấn của ông Nhan Liên Vũ, một nhân vật truyền thông thâm niên ở Hồng Kông, cuộc đối thoại như sau: Ông Nhan: Năm 2012, có một đoàn thể tôn giáo đã nghênh thỉnh hạt xá lợi đến Hồng Kông phục vụ cho hoạt động của họ, khiến cho thời tiết chuyển biến tốt hơn, nhưng khi vừa gửi trả hạt xá lợi thì thời tiết lại chuyển thành xấu, xin hỏi tình huống này là như thế nào? Là trời ban dị tượng sao?... Sư Tôn: Hạt xá lợi có từ trường đặc biệt, do vậy, đôi khi sẽ xảy ra hiện tượng thời tiết tốt, khi xá lợi không còn ở đó thì thời tiết sẽ quay trở lại xấu như lúc trước. Cá nhân tôi thì khá tự nhiên, bất kể là rất nóng, hay rất lạnh, trời mưa gió thổi, tôi cũng chưa hề lo lắng. Bởi vì dù có gió to thì chúng tôi vẫn có thể làm pháp hội được. Khi trời mưa to thì cũng vẫn có thể làm tốt được pháp hội. Thời tiết rất nóng thì cũng vẫn làm tốt được pháp hội. Do vậy, chúng tôi cứ tùy theo tự nhiên. Ông Nhan: Bởi thế mà Sư Tôn cứ ung dung, nếu như đã ung dung thì tôi xin hỏi bình thường hàng ngày mấy giờ Sư Tôn ngủ dậy? Sư Tôn: Mỗi sáng bình thường tôi đều ngủ dậy lúc 7 giờ. Ông Nhan: Việc đầu tiên ngài làm là gì? Sư Tôn: Việc đầu tiên đương nhiên là đánh răng, rửa mặt, bình thường sau khi làm xong những việc này thì mới làm những việc khác. Ông Nhan: Sau đó thì sao? Các việc khác bao gồm những việc gì? Sư Tôn: Đôi khi tôi phải cắt tóc, khi cắt tóc thì tôi sẽ xem ti vi. Ông Nhan: Ngài xem ti vi ư? Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Xem chương trình ti vi gì? Sư Tôn: À, luôn là xem tin tức. Ông Nhan: Ok, nếu như ngài xem tin tức thì các chương trình ti vi khác ngài sẽ không xem, phải không? Sư Tôn: Rất hiếm. Ông Nhan: Rất hiếm, nhưng nếu có lúc đệ tử kể với ngài nội dung các thứ thì ngài có xem không? Đệ tử nói chuyện về những nội dung đó thì cũng không xem ư? Sư Tôn: Không xem. Ông Nhan: Sau khi ngài xem tin tức, ví dụ như hôm nay tôi xem thấy tình hình thế giới rất loạn, còn có rất nhiều những nội dung tin tức là sự thật. Có đôi khi, rất nhiều tin tức không vui vẻ gì, chiến tranh này, thiên tai này, họa do con người gây ra này. Tôi nghĩ không biết Sư Tôn của chúng ta khi xem những tin tức này, cảm giác trong lòng ra sao? Sư Tôn: Khi tôi xem những tin tức như vậy, tôi vẫn luôn niệm Phật. Những thiên tai, hoặc những vụ án mạng, tai nạn giao thông này... Mục đích tôi xem tin tức chủ yếu là để niệm Phật, niệm chú giúp những người đó, hy vọng người bị thương nhẹ thì có thể khỏe nhanh, người bị thương nặng cũng sẽ thành nhẹ. Còn người đã chết thì hy vọng họ được vãng sinh. Tôi một lòng chỉ muốn giúp đỡ, những người gặp khó khăn khổ nạn trên ti vi, gặp tai nạn, gặp thiên tai, những người này cũng có thể xem là chúng sinh có duyên nên tôi mới xem thấy, do vậy tôi nhất định cần trì chú để giúp họ. Ông Nhan: Vậy thì khi ngài xem tin tức, nhất định là vẫn rất bận bịu? Sư Tôn: Đúng, bởi vì tôi vẫn luôn giúp họ chuyển hóa. Ông Nhan: Đúng đúng đúng. Sư Tôn, vì ngài chính là nhân sĩ tôn giáo mà. Nhưng nếu như những người như chúng tôi đây, những người dân bình thường, có thể cũng chẳng có tín ngưỡng gì, hoặc là có thể tư tưởng không được trưởng thành như vậy, thì khi xem thấy những tin tức này, tâm trạng của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng đó, vậy thì chúng tôi nên xử lý thế nào đối với những sự việc như vậy? Sư Tôn: Theo Phật pháp mà nói thì thật ra, ví dụ những sự việc kiểu này, nếu như đối với một vị thành tựu giả mà nói thì họ sẽ coi như cơ bản là chẳng có sự việc như thế. Đó là cảnh giới rất cao. Ông Nhan: Đương nhiên rồi. Sư Tôn: Có khi, ví dụ như tôi đang ở trong khu chợ, tìm thấy một cái ghế, những âm thanh ở xung quanh vô cùng ồn ào, nhưng tôi vẫn có thể ngồi trên cái ghế đó, chỉ một chốc là tôi sẽ có thể tĩnh tâm được, tất cả mọi âm thanh đều biến thành không còn gì nữa. Còn năm nay, bản thân tôi cũng đã dành cho năm nay một chữ, chữ này chính là "loạn". Ông Nhan: Loạn ư? Sư Tôn: Vâng, là loạn. Ông Nhan: Thật ra thế giới của chúng ta mỗi ngày đều loạn mà! Sư Tôn: Trên thế gian rất nhiều sự việc đều là loạn. Nhưng cái loạn của năm nay thuộc về cái loạn của quốc gia. Bởi vì bản thân tôi đã ngửi thấy mùi của khói lửa chiến tranh. Đó là vào năm 2016, ngày 15 tháng 8 âm lịch, chúng tôi dùng phương pháp xem quẻ, phương pháp mà Phật Bồ Tát chỉ thị, mà biết được vào năm 2017, đó là hiện tượng của toàn bộ các quốc gia. Do vậy khi đó, tôi đã dự đoán năm nay có chiến tranh, tôi đã ngửi thấy mùi khói lửa của chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn đang cố gắng hết sức để hóa giải chúng, hy vọng có thể không xảy ra việc gì. Do vậy, năm nay cũng có đài truyền hình phỏng vấn tôi rằng: Ngài nói xem năm nay sẽ phát sinh sự việc gì? Tôi nói: Tôi ngửi thấy mùi khói lửa chiến tranh. Nhưng hy vọng là bản thân tôi có thể dùng sức mạnh của mình để hóa giải được những cuộc chiến tranh này. Ông Nhan: Chúng ta giải trừ như thế nào? Ví dụ như nói về người dân thường như tôi đây? Sư Tôn: Thật ra đó cũng chính là điều Phật Đà đã nói, một chữ "nghiệp" thôi. Ông Nhan: Chữ "nghiệp"? Sư Tôn: Nghiệp trong sự nghiệp, là chữ nghiệp đó. Bởi vì Phật Đà từng nói, có người hỏi Ta: Con người đến thế giới này để làm gì? Phật Đà đáp, chính là để trả nghiệp, chữ trả trong đáp trả. Ông Nhan: Trả nghiệp ư? Sư Tôn: Đúng, chữ nghiệp trong sự nghiệp. Con người đến thế gian này là bởi vì có nghiệp, cần phải hoàn trả lại nghiệp này, do vậy mới đến với thế giới Ta Bà này, gọi là trả nghiệp. Ông Nhan: Đến chính là để trả nghiệp. Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Như thế thì có gì vui? Chúng ta đến đây... Sư Tôn: Nên mới nói là đời người là khổ. Bởi vì Phật nói: Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Đây chính là tinh thần chủ yếu của Phật Đà. Cái thứ nhất chính là Khổ, bởi vì cái khổ này mà bạn cần phải trừ bỏ nó, chính là Tứ thánh đế mà tôi nói đến: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cái thứ nhất, bởi vì bạn biết Khổ, do vậy phiền não vì cái Khổ. Bạn muốn giải thoát, phương pháp duy nhất là bạn phải khiến mình trở thành một thành tựu giả đã giải thoát thì bạn mới có thể giải thoát khỏi cái Khổ này, cần phải loại bỏ Khổ. Ông Nhan: Có thể được sao? Sư Tôn: Có thể được. Ông Nhan: Có bao nhiêu người có thể làm được như vậy? Sư Tôn: Rất ít. Tuy nhiên nếu như có thể trở thành một thành tựu giả, bởi cái Khổ này là do cái Ngã, do vậy mới có Khổ. Vì bạn có cái Ngã cho nên mới sinh ra cái Khổ. Nếu như bạn không còn cái Ngã nữa thì Khổ sẽ không tồn tại nữa. Ví dụ, cũng giống như mắc bệnh: bạn có thân thể này thì mới có việc mắc bệnh. Thân thể này mà không còn nữa thì sẽ chẳng có bệnh. Ông Nhan: Tôi hiểu rồi. Sư Tôn: Do vậy, về mặt tâm lý, bạn cần phải có tư tưởng Vô Ngã. Ông Nhan: Nhưng mà con người có thể làm được không? Sư Tôn: Rất ít, rất hiếm. Nhưng những thành tựu giả có thể làm được. Bởi vậy, trong vấn đề này có nhắc đến một cái là Chết khổ. Chết là một việc rất bình thường, bởi vì Phật đã nói rồi, có sinh thì tất có tử. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Có lúc khỏe mạnh thì tất sẽ có lúc suy yếu. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Sự nghiệp này có được thành tựu thì cũng có một ngày sẽ không còn. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Đây chính là Vô thường đó. Ông Nhan: Có câu châm ngôn là, con người có điểm kì lạ, đó là "Chúng ta cố đấm ăn xôi", ngài đã nghe qua chưa? Khi thua thì chúng ta không phục, khi thắng thì cái gì cũng muốn. Sư Tôn đáp: À đúng rồi. Giống như người mắc bệnh vậy, khi ấy người đó giống như là đã thua rồi. Ông Nhan: Thật ra, cũng ta đều là người bệnh cả! Sư Tôn: Không sai. Ông Nhan: Có bao nhiêu người sáng suốt? Ví dụ như tôi nhớ có một lần, trong sách của ngài, tôi có đọc được một mẩu đối thoại, hình như là tự ngài đối thoại với chính mình, nghĩa là tự mình soi gương, gọi là gương soi... bản thân ta trong gương là bản thân ta thực sự, hay là ta ở bên ngoài gương mới là ta thật sự đây? Khi tôi đọc mẩu đối thoại này, tôi cảm thấy vô cùng thú vị. Xin hỏi đâu mới là bản thân ta thật sự đây? Sư Tôn: Thật sự là chẳng hề có bản thân ta. Ông Nhan: Tôi đang nghĩ, nếu như ta thử trả lời đâu hỏi này, cái nào mới thật sự tồn tại? Tôi cảm thấy không biết là hình ảnh ở trong gương mới là thật sự tồn tại, hay là hình ảnh ở ngoài gương mới thật sự tồn tại đây? Tôi thì nghĩ nếu không có bên ngoài gương, nếu như không có ta ở bên ngoài gương, thì ở trong gương căn bản là chẳng có gì. Do vậy, khi tôi trả lời câu hỏi này thì lại thấy là bên ngoài gương thật sự có tồn tại. Nhưng mà tôi dường như cảm thấy cái mà ngài muốn truyền đạt trong bài viết đó là kì thực cả hai đều không tồn tại. Sư Tôn: Cả hai đều không tồn tại. Ông Nhan: Tôi không hiểu được rõ, xin ngài giải thích thêm một chút. Sư Tôn: Bởi vì nếu cả hai đều không tồn tại thì đó là tốt nhất. Bởi vì cũng sẽ chẳng có khổ, khổ không còn nữa, cũng chẳng có phiền não. Bởi vì căn bản là bạn không tồn tại. Điều tôi đang muốn nói đến là, dựa vào cái Tôi này để nói, cái gì mà "Tôi nghĩ, tôi đang nghĩ..." ấy nhỉ... Ông Nhan: "Tôi nghĩ nên tôi tồn tại" đúng không? Sư Tôn: "Tôi nghĩ nên tôi tồn tại." Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Vậy thì suy nghĩ của ta, người mà đang nghĩ, cũng có nghĩa là, ta chính là người đang nghĩ. Người đang nghĩ, ta đang suy tưởng, do vậy cái Ta này mới có thể tồn tại. Nếu như con người này không suy nghĩ thì bản thân người đó không tồn tại rồi. Sau đó, ta nói cái Ta này, vì sao không tồn tại? Bởi vì mọi người cho rằng đó là Ta, Ta của hiện tại chính là Ta. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Thật ra khi anh trải qua lúc anh là một em bé, sau đó tới lúc ấu thơ, tiếp đó là thời thiếu niên, tiếp theo nữa là thời thanh niên, tiếp theo là lúc trung niên, tiếp nữa là lão niên. Tiếp sau nữa là lúc thành người bệnh sắp chết. Xin hỏi đâu mới là anh? Ông Nhan: Mỗi một người đó đều là tôi. Sư Tôn: Mỗi người đều là anh ư? Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Kì thực tất cả đều khác nhau. Mỗi một anh đều không giống nhau, chẳng có một người nào giống nhau cả, sao có thể nói mỗi người đều là anh được? Ông Nhan: Mỗi người đều là tôi, đều là do bản thân tôi thay đổi mà ra mà. Mỗi một tôi đều là một quá trình thay đổi mà. Sư Tôn: Đó chính là vô thường, đúng không? Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Nhưng trong quá trình này, chỉ có diễn ra cho chính anh, cũng không thể diễn ra cho người khác. Bản thân anh cũng sẽ không tồn tại. Ông Nhan: Đương nhiên. Sư Tôn: Bởi vì sau này sẽ chẳng còn nữa. Ông Nhan: Đúng đúng. Tôi hiểu rồi. Sư Tôn: Mỗi ngày đều đang thay đổi. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Bởi vì mỗi ngày đều có tế bào sinh ra, mỗi ngày đều có tế bào chết đi. Ông Nhan: Vậy tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu hỏi. Ngài nói đúng, mỗi ngày đều đang thay đổi. Dường như chúng ta tồn tại là phải đối mặt với sự thay đổi mỗi ngày, đang phải xử lý, phải đối diện, rất mệt phải không? Còn cái mà "Tôi nghĩ, nên tôi tồn tại". Vì chúng ta có suy nghĩ mà. Đôi khi, vấn đề phiền não của chúng ta chính là do chúng ta nghĩ nhiều quá, vậy phải làm sao đây? Sư Tôn: Anh có thể không nghĩ nữa không? Ông Nhan: Cảm xúc tình cảm khó mà tự kiềm chế được. Sư Tôn: Tôi có thể không nghĩ. Ông Nhan: Ngài có thể, vì ngài là Sư Tôn, tôi không phải mà. Sư Tôn: Bởi vì chỉ cần anh ngồi yên lặng lại, dừng mọi suy nghĩ, thật ra anh đang ở đâu? Ví dụ như nói, buổi tối anh đi ngủ, anh đang nằm mơ, lúc đó anh đang ở đâu? Ông Nhan: Ở trên giường. Sư Tôn: Nhưng khi đó anh lại không cảm thấy mình đang ở trên giường. Khi anh đang mơ, anh đang nằm mơ, thì làm sao có thể ở trên giường được? Ông Nhan: Tôi đang nằm trên giường và mơ mà! Sư Tôn: Thế nhưng, trên thực tế, anh không có cảm giác rằng anh đang nằm trên giường, có đúng không? Ông Nhan: Nếu như cảm thấy mình đang nằm trên giường... Sư Tôn: Vậy thì là tỉnh rồi. Ông Nhan: Vậy thì không phải là đang mơ? Sư Tôn: Đúng rồi. Ông Nhan: Đúng, vậy thì đúng là tôi đang ở trong mơ. Sư Tôn: Đúng vậy. Trong mơ, lúc đó anh đang ở đâu? Ông Nhan: Không biết. Tùy ý thôi. Sư Tôn: Đúng rồi. Ông Nhan: Đúng thật. Sư Tôn: Nếu như anh có thể thiền định thì bản thân anh sẽ không còn nữa. Hiện tượng này, khi anh đang thiền định, bản thân anh không còn nữa. Khi đó, cũng không có khổ, cũng chẳng có vui, cũng chẳng có phiền não, cũng chẳng có bệnh. Bản thân Phật Đà đã nói rồi, kì thực Ngài ấy đang giảng về Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, bốn điều này đều là tư tưởng của Phật Đà. Ông Nhan: Vậy thì Sư Tôn, sau khi nghe xong những lời này của ngài, tôi lại nghĩ, kì thực chúng ta đều sợ chúng ta chẳng có cái gì nữa. Sư Tôn: Bản thân tôi không sợ. Người sợ chính là người còn cái Tôi thì mới sợ. Nếu như anh vận dụng tư tưởng Vô ngã thì anh còn sợ cái gì? Anh sẽ còn bị cái gì làm tổn thương sao? Thân anh còn mắc bệnh nữa sao? Còn việc gì đáng để anh phải phiền não nữa sao? Ông Nhan: Rất nhiều việc đáng để tôi phiền não đó. Sư Tôn: Phiền não, chính là vì còn cái Tôi, thì mới có phiền não. Ông Nhan: Kì thực mỗi con người... Sư Tôn: Không còn cái Tôi thì chẳng còn phiền não gì cả. Ông Nhan: Tôi hiểu rồi. Sư Tôn: Giống như các cuộc chiến tranh thế giới này, rất nhiều người rất lo lắng. Thậm chí ở Mỹ, có người đào một công trình dưới đất để tránh đạn hạt nhân, ở nơi rất sâu. Có thể tồn tại được nửa năm, hoặc 10 năm, hoặc trong vòng vài năm, anh ta đều có thể sống ở dưới đất này, bởi vì anh ta sợ đạn hạt nhân. Vì mạng sống của chính mình mà dẫn tới điều này. Trước đó thì anh ta có ý thức về nguy cơ, do vậy mới làm cái việc như vậy. Ông Nhan: Có đúng không? Cách làm như vậy có nên không? Có hợp lý không? Sư Tôn: Tôi cho rằng điều này hơi uổng công vô ích. Ông Nhan: Vì sao vậy? Sư Tôn: Theo tôi mà nói thì trên cả trái đất này, tôi thấy cả địa cầu này, căn bản là chẳng có nhân loại. Ông Nhan: Vì sao lại nói như vậy? Sư Tôn: Anh xem, trên mặt trăng có người không? Ông Nhan: Tôi không biết. Sư Tôn: Trên mặt trăng, chúng ta biết rằng, trên mặt trăng không có người. Ông Nhan: Tôi không dám nói chắc, như trước đây thì tôi sẽ trả lời, còn hôm nay thì tôi sẽ không trả lời, không dám nói là liệu trên mặt trăng… Sư Tôn: Anh thấy không, trên mặt trăng có cái gì? Có người có thể đi đến mặt trăng, có thể có được cái gì? Ông Nhan: Đây vẫn còn là một dấu chấm hỏi mà! Sư Tôn: Đây là một dấu chấm hỏi, không sai. Nếu trên mặt trăng căn bản là không có người thì có còn phiền não không? Có còn thiện ác không? Thiện ác cũng không còn. Ông Nhan: Thế nên, phiền não đều là đến từ con người chúng ta sao? Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Bởi vậy không có con người thì sẽ không có phiền não. Sư Tôn: Đúng. Thế nên anh xem, trên mặt trăng căn bản là không có người. Tôi thường đi đến mặt trăng. Ông Nhan: Sao cơ? Ngài thường đi đến mặt trăng? Sư Tôn: Tôi chính là mặt trăng. Ông Nhan: Ngài chính là mặt trăng ư? Vì thế nên gần đây ngài viết cuốn sách là "Chìa khóa của cõi trời" sao? Sư Tôn: Đúng. Tôi nói cho anh biết nhé, tư tưởng của bản thân tôi chính là tôi biến mình thành một người sống trên mặt trăng. Cách nghĩ của tôi là như vậy. Ông Nhan: Không cô đơn, không trống vắng sao? Sư Tôn: Làm gì có chứ. Tôi nghĩ bản thân đang ở trên mặt trăng, trên mặt trăng chẳng có phong cảnh gì. Ông Nhan: Nhưng chẳng có ai cùng ngài chia sẻ nhỉ? Sư Tôn: Một mình tôi là đủ rồi. Tôi rất vui vẻ. Ông Nhan: Thật sao? Vậy thì các đệ tử của ngài có dành cho ngài không gian riêng nhất định không? Sư Tôn: Tôi nói để anh biết, trong tư tưởng của tôi, không có Lư Thắng Ngạn. Trong tư tưởng của tôi không có Chân Phật Tông. Trong tư tưởng của tôi, căn bản tôi chẳng hề truyền pháp. Trong tư tưởng của tôi, tôi cũng chưa từng thuyết pháp. Do vậy, tôi vẫn luôn sống với trạng thái đó. Thế nên tôi chẳng có khổ, cũng chẳng có vui, luôn luôn ở trong trạng thái không tịch. Giống như chỉ có một mình tôi sống trên trái đất này. Ông Nhan: Thế nhưng ngài có vui không? Sư Tôn: Vì sao tôi lại vui? Ông Nhan: Hay là không có gì vui, không vui? Sư Tôn: Bởi vì tôi xem trò chơi ở nhân gian này, tôi cảm thấy rất vui. Ông Nhan: Cũng hay, có cơ hội để xem mà. Sư Tôn: Cũng được. Ông Nhan: Đúng, ngài nói đúng. Nhưng tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu, đó là có vài người bạn xem tôi làm chương trình, từng hỏi một vấn đề, đó là vì sao cuộc đời này đâu đâu cũng thấy phiền não? Sư Tôn: Điều này thật ra đã nằm ở trong câu trả lời ở trên rồi. Bởi vì Phật Đà đã nói, bạn đến thế gian này là để trả nghiệp. Chữ "trả" này, bản thân nó đã là phiền não rồi. Nghiệp, bản thân chính là nguyên nhân. Bạn sống tại nhân gian chính là vì nghiệp này. Bạn có phiền não, chính là vì phải "trả". Ông Nhan: Đây chính là câu trả lời, phải không? Sư Tôn: Đây chính là câu trả lời. Ông Nhan: Sư Tôn ngài có biết không, câu hỏi này, tôi chưa từng bao giờ trả lời họ trong các chương trình của mình, đợi ngài trả lời đó. Bởi vì tôi chẳng biết trả lời câu hỏi này đó mà. Sư Tôn: Đúng thế, đúng thế. Ông Nhan: Sau đây là một câu hỏi khác. Đó là, Sư Tôn, mỗi ngày ngài đều viết sách sao? Đã bao nhiêu năm rồi? Hơn 30 năm, 40 năm? Mỗi ngày ngài đều viết sách ư? Sư Tôn: Tôi đã viết sách 50 năm rồi. Ông Nhan: 50 năm ư? Có nhiều thứ để viết thế sao? Sư Tôn: Có rất nhiều thứ. Ông Nhan: Sáng nay ngài đã viết gì thế? Sư Tôn: Sáng hôm nay thì tôi viết về việc mà tôi mới nói đến, về việc của Quỷ Bà. Ông Nhan: Đôi khi tôi cảm thấy, nếu như hàng ngày phải viết các thứ thì tôi sẽ viết về những chuyện thị phi đúng sai. Sư Tôn: Thật ra, tôi nói cho anh biết, tôi viết nhiều sách như vậy cũng chẳng khác gì không viết sách. Ông Nhan: Hẳn là vậy. Điều này tôi hiểu, đều là việc của ngày hôm qua, đều là việc của một phút trước. Sư Tôn: Không hẳn vậy. Bởi vì những cuốn sách chân chính này là "không có văn tự", cái đó gọi là "Vô tự thiên thư". Ông Nhan: Vô... cái gì cơ? Sư Tôn: "Vô tự thiên thư". Ông Nhan: Điều này phải người có trí huệ rất cao mới hiểu được, thầy ạ. Sư Tôn: Không sai. Bởi vậy tôi... Ông Nhan: Cảnh giới của ngài cao như vậy. Sư Tôn: Do vậy tôi muốn nói với anh chính là..., thật ra cũng chẳng có cảnh giới cao, chỉ là vì đã giác ngộ, đã ngộ đạo thôi. Ông Nhan: Thật ra ngộ đạo mà ngài vừa nói, chữ ngộ này… Sư Tôn: Anh nói xem, tôi đã viết sách 50 năm rồi. Thật ra cuối cùng tôi lại bảo, căn bản là tôi chẳng hề viết sách! Ông Nhan: Không hề viết, tôi đã nghe rồi. Sư Tôn: Đúng. Anh hiểu được tâm cảnh của tôi. Tôi căn bản là không hề viết sách. Do vậy, Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói một câu: "Ta ở thế giới Ta Bà này không hề thuyết pháp, chưa từng nói một chữ nào!" Ông Nhan: Vậy tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu hỏi, vừa nãy ngài nói, bao nhiêu năm nay, nếu như bản thân Sư Tôn cảm thấy không hề viết sách, không hề truyền đạo… Sư Tôn: Như vậy thì mới vui vẻ. Ông Nhan: Tôi biết. Nếu như ngài nói như vậy thì tôi muốn hỏi ngài một câu, đó là chúng ta đang đọc cái gì, chúng ta đang nghe cái gì? Nếu như ngài không hề giảng, không hề viết, thế thì xin hỏi Sư Tôn chúng ta đang đọc cái gì, đang nghe cái gì? Sư Tôn: Tôi nói cho anh nhé, tôi không hề viết sách, cũng không hề thuyết pháp. Nhưng cái mà anh nghe, cái mà anh đọc, chính là: hướng dẫn anh biết vì sao tôi lại không hề viết sách, không hề thuyết pháp. Mục đích cuối cùng của tôi chính là muốn nói cho anh biết: "Tôi đã viết sách rồi, nhưng vì sao lại nói là không hề viết sách?" Rõ ràng anh biết có một người tên là Lư Thắng Ngạn, nhưng vì sao lại nói là không hề có Lư Thắng Ngạn nhỉ? Rõ ràng có một tông phái gọi là... Ông Nhan: Gọi là Chân Phật Tông. Sư Tôn: À, Chân Phật Tông, True Buddha School. Vì sao lại bảo là không có Chân Phật Tông? Trò chơi con chữ này là muốn anh hiểu rõ: không có Lư Thắng Ngạn, không có Chân Phật Tông, không có thuyết pháp, không có viết sách. Ông Nhan: Tôi vẫn phải về nhà suy nghĩ thêm một chút. Sư Tôn: Đúng rồi. Ông Nhan: Thật đó, tôi rất thẳng thắn. Còn nữa, đó là tôi muốn biết, vừa rồi Sư Tôn nói đến "ngộ", là "ngộ" trong từ "lĩnh ngộ". Sư Tôn: Là "ngộ" trong "lĩnh ngộ". Ông Nhan: Đôi khi, làm sao chúng ta biết được bản thân mình đã "ngộ" rồi? Sư Tôn: Tôi nói cho anh nhé. Ông Nhan: Vâng. Sư Tôn: Phật Đà đã nói đến một cái là Phật tính. Khi anh tiếp xúc được tới Phật tính thì mới gọi là "ngộ". Nhưng như người khai ngộ chúng ta thì giữa Phật và Phật sẽ biết ngay. Phật sẽ biết ta đã khai ngộ, ta cũng có thể biết Phật đã khai ngộ. Thế nhưng, nếu như có người tới bảo rằng, cái mà họ gọi là khai ngộ nằm ở một khía cạnh khác, khác với cái "ngộ" của Phật. Sau khi bạn đã ngộ rồi thì bạn sẽ nhận thức được Phật, Phật cũng nhận thức được ta. Khi cái "ngộ" ở một khía cạnh khác này sinh ra, chúng ta nhìn là biết người này chưa khai ngộ. Ông Nhan: Hiểu rồi. Vậy thì, Sư Tôn, có người hỏi một câu hỏi là: "Đời người như thế nào mới được coi là viên mãn đây?" Sư Tôn đáp: Thật ra, câu trả lời của tôi là như thế này. Khi anh ngộ rồi, thì sẽ biết chẳng hề có đời người. Chỉ có "không có đời người" thì mới là viên mãn. Nếu như có đời người thì vẫn chưa viên mãn. Ông Nhan: Thế đời người là cái gì? Sư Tôn: Đời người chính là trả nghiệp. Ông Nhan: Chính là trả nghiệp. Nếu như không có đời người thì sẽ không cần phải trả nghiệp nữa ư? Sư Tôn: Lúc đó thì không còn nghiệp nữa. Lúc đó là thành Phật rồi. Ông Nhan: Nhưng chúng ta đến là để trả nợ mà, đến để trả nghiệp mà. Sư Tôn: Đúng. Cần phải trả nợ hết. Đúng lúc mà anh trả hết nợ thì sẽ vãng sinh rồi, khi đó anh thành Phật rồi. Ông Nhan: Thành Phật có gì hay? Sư Tôn: Thành Phật, Phật nói tịch diệt là hạnh phúc. Tịch diệt, không còn phiền não, thế rồi thấy chúng sinh phiền não, thế là anh thấy vui sướng. (cười) Ông Nhan: Ngài nói câu này hay lắm, nhưng cũng có cái không hay. Ngài nói lại lần nữa được không? Sư Tôn: (cười) Ông Nhan: Ngài thấy chúng sinh phiền não... Sư Tôn: Tôi thấy chúng sinh phiền não, còn bản thân tôi thì chẳng còn phiền não nữa... Ông Nhan: Thế nên ngài thấy vui sướng? Sư Tôn: (cười) Thế nên tôi thấy vui! Ông Nhan: Ngài nói câu này là có ý gì? Xin ngài nói lại lần nữa đi! Sư Tôn: Tôi nói cho anh biết nhé. Ông Nhan: Ok ok. Sư Tôn: Đó là chẳng có ý gì cả. (mọi người cười) Đó chính là chẳng có ý nghĩa gì cả. Ông Nhan: Thật ra tôi cũng đã nghe ngài trả lời câu hỏi này rồi, thật ra tôi muốn nói là, một điều rất thực tế là, đối với tôi mà nói là một câu trả lời rất nhập thế đó. Nghĩa là, điều tôi chưa cảm thấy hài lòng là, tôi thấy chúng sinh phiền não, tôi thì chẳng phiền não, nên tôi cảm thấy vui sướng, bởi vì tôi đi trước anh một bước. Vì sao con người đều có tính cách này? Sư Tôn đáp: Bởi vì chúng ta rất vui sướng. Giống như tôi nói, tôi sống rất vui vẻ. Nhưng tôi cũng vẫn phát bồ đề tâm. Bồ đề tâm này chính là để giải quyết những phiền não của chúng sinh, tôi đến để giúp đỡ chúng sinh. Ông Nhan: Vậy thì chúng ta nên... Sư Tôn: Đương nhiên là nên vui sướng rồi. Ông Nhan: Tôi hiểu rồi. Vậy tôi nghe theo lời ngài nói như vậy, chúng ta nên đem cái tâm vui vẻ đó đi giúp người khác, hay là đem tâm từ bi đi giúp người khác? Sư Tôn: À, đem tâm vui vẻ đi giúp người khác, nên đem cái tâm vui vẻ đi giúp đỡ người khác. Đó chính là Bồ đề tâm, đó cũng là từ bi rồi. Ông Nhan: Vâng. Có người nói, đời người lên voi xuống chó, lên cao lại xuống thấp, kéo theo rất nhiều nỗi buồn phiền của chúng ta. Chúng ta nên xử lý như thế nào đây? Ngài không cần phải nói lại là trả nghiệp nữa nhé. Sư Tôn: Vậy tôi nói với anh nhé, tôi không nói trả nghiệp nữa. Ông Nhan: Ok, tốt. Sư Tôn: Bởi vì vốn dĩ việc này chính là trả nghiệp rồi. (mọi người cười) Ông Nhan: Tôi biết rồi! Ngài đã trả lời tôi rồi, đúng không? Sư Tôn: Tôi đã trả lời rồi đó. Ông Nhan: Vậy tôi hỏi thế nào nhỉ, làm sao để xử lý những phiền não của… Sư Tôn: Bởi vì Phật đã nói rồi, thế giới Ta Bà này là thành phố tạo nghiệp. Con người sống tại thế giới Ta Bà này cũng vì nghiệp mà tới đây. Ông Nhan: Đúng, hay là ngài trả lời... Sư Tôn: Tất cả mọi phiền não, toàn bộ đều là nghiệp. Tất cả mọi khổ đau cũng là nghiệp. Ông Nhan: Hay là vì như ngài vừa nói ban nãy, vì vẫn còn cái Tôi, đúng không? Sư Tôn: Đúng, vẫn còn có cái Tôi. Ông Nhan: Ngài nói đúng. Vậy đối với Sư Tôn mà nói thì sinh mệnh là cái gì? Sư Tôn: Sinh mệnh à, trước nay tôi chưa từng nghĩ về vấn đề này. Ông Nhan: Thế tốt quá! Ngài chưa từng nghĩ về câu hỏi này, hôm nay tôi có vinh hạnh để hỏi câu này rồi. Sư Tôn: (cười) Nhưng tôi chưa từng nghĩ về vấn đề này nên tôi cũng không thể trả lời câu hỏi này của anh được. (mọi người cười) Ông Nhan: Tốt thôi! Tôi cũng vui mừng, bởi vì hóa ra nếu như có một vài vấn đề mà đến ngài cũng không thể trả lời được thì đúng là đời người không viên mãn được mà, tôi biết rồi. Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Vậy một vấn đề khác, tôi muốn hỏi là, Sư Tôn, tôi nghĩ ngài cũng có xem tin tức nhỉ. Vậy đời sống xã hội của chúng ta càng ngày càng chính trị hóa, chúng ta nên làm thế nào đây? Sư Tôn: Thật ra cũng chẳng có làm thế nào cả. Ông Nhan: Vì thỉnh thoảng, hoàn cảnh tương đối chính trị hóa sẽ ảnh hưởng đến những hứng thú của chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta mà. Sư Tôn: Anh nói không sai. Nhưng tôi cũng chẳng bận tâm đến nó lắm. Ông Nhan: Không bận tâm như thế nào? Sư Tôn: Không bận tâm lắm, giống kiểu như là gặp phải vấn đề gì, chúng ta liền giải quyết vấn đề đó. Thế nhưng vấn đề này không thể giải quyết, vậy thì hãy để nó không thể giải quyết đi. Có thể giải quyết thì giải quyết nó. Không thể giải quyết thì không giải quyết nữa, chính là như vậy. Ông Nhan: Vậy ngài cũng có những vấn đề không giải quyết được sao? Sư Tôn: Tôi ư? Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Tôi cũng chưa từng gặp phải. Ông Nhan: Thế thì thoải mái nhỉ. Sư Tôn: Sống rất vui vẻ. Ông Nhan: Ngài nói đúng. Có đôi khi, rất nhiều sự tình quyết định chúng ta nên xem xét vấn đề như thế nào, đúng không? Nếu anh xem nó là vấn đề thì là có vấn đề, anh xem nó là không có vấn đề thì là không có vấn đề gì. Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Thế giới như vậy tốt biết mấy. Thế nhưng thế giới này có rất nhiều định luật, có rất nhiều phép tắc đang ảnh hưởng đến chúng ta. Vậy phải làm sao đây? Như tôi vừa nói, anh xem nó là vấn đề thì là có vấn đề, anh xem nó là không có vấn đề gì thì là không có vấn đề gì. Thế nhưng đôi khi, chúng ta ở trong đời sống này, thỉnh thoảng, bất luận là anh xem nó là không có vấn đề nhưng vẫn phải đối mặt với nó, cần phải giải quyết nó. Sư Tôn: Không sai. Kì thực giống như một quốc gia vậy, tôi muốn đến một quốc gia khác. Thế nhưng tôi chẳng có cách nào xin được visa của đất nước đó, thế thì tôi không đi nữa. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Tôi rất thích đi tới quốc gia đó, nhưng tôi không có cách nào xin được visa của đất nước đó, thế là xảy ra vấn đề rồi. Ông Nhan: Phiền não rồi, muốn mà không được. Sư Tôn: Đúng, chính là muốn mà không được. Khi ấy thì cần phải giải quyết vấn đề này. Vậy thì vĩnh viễn không thể có được visa của đất nước đó, mà anh lại rất muốn đi chơi, vậy phải làm sao đây? Ông Nhan: Phải làm sao, xem ti vi thì sao? Sư Tôn: Cũng không xem ti vi, cũng không xem về đất nước này, lập tức quên luôn sự việc này đi. Ông Nhan: Nói thì rất dễ dàng. Sư Tôn: Anh hãy học cách như vậy đi. Ông Nhan: Dĩ nhiên đây là một cách làm rất thực tế. Sư Tôn: Tôi hoàn toàn quên luôn việc đó. Ông Nhan: Quên nó luôn. Sư Tôn: Đúng. Ông Nhan: Đúng. Xem xem anh có thể làm được không, phải không? Hay là anh nói đúng nhưng... Sư Tôn: Tôi có thể quên ngay sự việc đó, không đi là không đi. Ông Nhan: Không đi là không đi, trái lại, đây lại thành tổn thất của họ, đúng không? Sư Tôn: (cười) Họ cũng chẳng có tổn thất gì. (mọi người cười) Ông Nhan: Có, bởi vì ngài là Sư Tôn mà, đâu phải tôi. (mọi người cười) Ông Nhan: Vậy sau đây tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu hỏi, đó là khi chúng ta đang sống, thân là phàm phu, có rất nhiều sự đối kháng, dường như là không có cơ hội đối thoại, vậy phải làm sao? Thật ra chúng ta rất muốn giữa người và người có nhiều cơ hội đối thoại, nhưng tôi phát hiện ra rất nhiều khi con người ở cùng với nhau, họ không phải là đang đối thoại với nhau, mà nhanh chóng trở thành đối kháng nhau. Sư Tôn: Đó là vấn đề của "từ trường". Ông Nhan: Vấn đề "từ trường" ư? Sư Tôn: Vấn đề từ trường. Bởi vì thân thể mỗi người có thể sinh ra một lực từ. Khi anh ở cùng với người có duyên với anh, thì từ trường của người đó và anh giống nhau. Ông Nhan: Vậy còn xã hội nhiều đối kháng này thì sao đây? Vậy đó đều là vấn đề từ trường sao? Sư Tôn: Đúng, giống như có người đi đến chỗ này, bầu không khí ở đó tự nhiên có vấn đề. Ông Nhan: Hôm nay... Sư Tôn: Người với người ở cùng nhau đôi khi... Ông Nhan: Bầu không khí hôm nay có gì không đúng sao? Sư Tôn: Bầu không khí không đúng, bầu không khí với người đó đúng hay không đúng, có hợp nhau không, hay là không hợp nhau, với tính cách này, với thói quen sinh sống này, tất cả đều là vấn đề. Nhưng với người giống như tôi đây thì tôi chẳng có vấn đề gì. Bất kì người nào có đối kháng, đối trọng gì với tôi, hoặc là phỉ báng tôi, mọi người nghĩ xem, Phật Đà cũng nói, cái gọi là "châm biếm, phỉ báng", tất cả những cái mà có thể nói là, tất cả những vấn đề xuất hiện, tôi đều quên hết. Ông Nhan: Vì đây là Sư Tôn... Sư Tôn: Tôi không để ở trong lòng nữa. Ông Nhan: Đúng. Đây là cách nhìn của Sư Tôn. Đôi khi, đệ tử hoặc một số chúng sinh... Sư Tôn: Thì khác. Ông Nhan: Đúng, họ sẽ đi tới trước mặt ngài, họ đều muốn ngài giúp họ giải quyết vấn đề đi. Sư Tôn: Đúng. Tôi có thể giúp họ được thì sẽ tận lực giúp đỡ họ. Nhưng nếu không thể giúp được thì vẫn không thể giúp. Ông Nhan: Nói ví dụ như, đệ tử của ngài, ngài thấy anh ta khá là cố chấp, tương đối bi quan. Vậy ngài sẽ làm sao đây? Anh ta cầu xin ngài giúp đỡ, thay anh ta giải quyết. Có đôi lúc, một số vấn đề trong cuộc sống của chúng ta đều đến từ tính cách của chúng ta. Sư Tôn: Không sai không sai. Đây chính là nguyên nhân của việc thuyết pháp. Ví dụ chúng ta giảng một vài pháp để anh ta nghe, để anh ta có thể giải thoát, tháo gỡ những khúc mắc trong tâm của anh ta. Thuyết pháp chính là vì lý do này mà mới thuyết pháp. Nếu như tôi đã nói rất nhiều, rất nhiều rồi, mà những nút thắt trong tâm của anh ta vẫn chưa tháo gỡ được, thì phải làm sao? Ông Nhan: Phải làm sao? Sư Tôn: Bây giờ tôi muốn phỏng vấn anh đó. Ông Nhan: Thật sự tôi chẳng biết phải làm thế nào cả. Bởi vì ngài có trí huệ cao hơn tôi, tôi nghĩ ngài nên trả lời đi, tôi chẳng trả lời được đâu. Sư Tôn: Thì tôi cũng thế thôi, cũng chẳng trả lời được giống như anh đó. (mọi người cười) Ông Nhan: Cảm ơn ngài, Sư Tôn…. Sư Tôn: Bởi vì tôi đã nói pháp, đã nói nhiều như vậy rồi, ngày ngày nói với anh ta như vậy rồi... Ông Nhan: Đúng, đúng. Sư Tôn: Mà anh ta vẫn không sao cởi bỏ được những nút thắt trong tâm. Ông Nhan: Vậy ngài có cảm giác thất bại không? Sư Tôn: Lập tức quên việc này luôn, quên luôn sự việc này đi. Ông Nhan: Ok. Vậy một số người sẽ nói rằng, chà, thế thì ngài chẳng có tâm từ bi? Sư Tôn: Ồ, điều này cũng chẳng phải sợ, vì sao? Bởi vì họ nói thì họ cứ nói thôi. Tôi đâu có nghe thấy. Ông Nhan: Ok, vậy Sư Tôn, tôi lại hỏi một câu nữa, đó là: đời người, con người có thể không có tín niệm không, có thể không có tín ngưỡng không? Sư Tôn: Vấn đề trên phương diện tín ngưỡng là như thế này, thật ra Phật giáo cũng không phải là một tôn giáo! Ông Nhan: Thế là cái gì? Sư Tôn: Là những lời Phật dạy, không coi là một tôn giáo. Thật ra cũng không phải là một tôn giáo đâu. Đó chỉ là lời Phật dạy. Bạn nghe theo thì đến cuối cùng bạn sẽ đạt đến được cảnh giới của Phật, nên không coi là một tôn giáo. Bởi vậy nên nói là, nếu như bạn có thể đạt đến "định" thì trí huệ của bạn sẽ sản sinh ra. Nếu trí huệ của bạn sinh ra thì trí huệ này đến từ Phật. Tiếp đó, bạn sẽ tương ứng cùng với Phật, bạn sẽ trở thành Phật. Ông Nhan: Vậy thì chúng ta có thể không cần phải có tín ngưỡng nhỉ? Sư Tôn: Không cần tín ngưỡng Phật giáo, bạn chỉ cần theo phương pháp mà Phật dạy mà làm theo. Ông Nhan: Hiểu rồi. Con người có thể không có tín niệm không? Sư Tôn: Bạn làm theo phương pháp mà Phật dạy, thì kì thực tự nhiên sẽ sản sinh ra một dạng tín niệm. Do vậy, trên vấn đề tín niệm mà nói thì ví dụ như bạn tin theo đạo Hồi, bạn tin theo Đạo giáo, bạn tin theo đạo Cơ Đốc, bạn tin theo đạo Thiên Chúa, đây là sự lựa chọn của mỗi người. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Nhưng chúng ta cảm thấy rằng, vì sao Phật giáo tương đối toàn vẹn hơn, tương đối hoàn mĩ hơn, là vì như Phật đã dạy ta. Những điều Phật dạy có thể giải trừ đau khổ của bạn, giải thoát bạn khỏi mọi phiền não, có thể giúp cuộc đời bạn vô cùng viên mãn, hơn nữa còn giống như hư không vậy. Ông Nhan: Cái gì không? Sư Tôn: Hư không. Giống như hư không. Ông Nhan: À, ok, tôi hiểu rồi. Sư Tôn: Bạn có được một dạng trí huệ giống như hư không... Ông Nhan: Cái này... Sư Tôn: Đó chính là viên mãn đó. Ông Nhan: Cái này... Sư Tôn: Trên thiên đường, mọi người đều tập trung ở trên thiên đường. Lúc còn sống không hợp nhau, hai người cùng lên thiên đường, lúc còn sống không hợp nhau, lên thiên đường lại gặp mặt nhau, đến Thượng đế thấy cũng đều chán ngán. (mọi người cười) Một ngày từ sáng tới tối toàn cãi nhau. Ông Nhan: Lên thiên đường rồi vẫn còn cãi nhau sao? Sư Tôn: Lên thiên đường rồi thì có đỡ hơn một chút. Ông Nhan: Tôi nghĩ là thế. Sư Tôn: Tuy nhiên, có hai người lúc còn sống không hợp nhau, lên thiên đường vẫn cãi nhau. A Di Đà Phật cũng thấy phiền chết mất (cười) Thượng đế cũng bị mấy người này làm cho phiền chết mất. Bởi vì họ chưa đạt đến sự viên mãn thật sự. Ông Nhan: Vậy thì Sư Tôn, ngài thấy những thanh niên ngày nay như thế nào? Có người nói họ khá yếu đuối. Ngài thấy vấn đề tự sát của thanh niên ngày nay như thế nào? Sư Tôn: Đúng vậy. Nên nghĩ cách giảng Phật pháp cho họ nghe, để họ giảm bớt áp lực của họ. Tôi vẫn luôn giúp đỡ, bởi vì nhiều người tự sát quá. Ông Nhan: Đúng. Sư Tôn: Tôi vẫn luôn nghĩ cách để tình trạng tự sát này, lấy ví dụ như người tự sát, vào một ngày nào đó, anh ta lại phải diễn lại một lần. Những đau khổ tương tự lại nảy sinh trên bản thân anh ta. Bởi vậy, căn cứ theo toàn bộ giai đoạn này mà nói thì khi tự sát cũng không thể đầu thai được. Anh ta sẽ luôn luôn chịu khổ ở bên đó, mãi cho đến khi đạt đủ số tuổi, đạt đến cái tuổi sinh mạng của anh ta, thì anh ta mới có thể đầu thai được, luôn phải chịu khổ. Chúng ta dùng cách này, dùng đủ mọi phương pháp để giúp đỡ họ, để họ không muốn đi tự sát nữa. Họ nghĩ rằng tự sát là một sự giải thoát, rũ bỏ hết áp lực. Trên thực tế không phải vậy, ngược lại còn là tăng thêm cái khổ cho họ. Nói cho họ nghe những điều này, họ sẽ có thể giảm bớt tự sát. Ông Nhan: Đây cũng là việc, là một phần công việc mà hiện tại ngài đang làm sao? Sư Tôn: Đúng. Bởi vì sau khi tự sát, anh muốn chuyển thế, nhất định anh phải đi hết thọ mệnh của anh. Ví dụ như anh có thể sống tới 64 tuổi, nhưng 30 tuổi anh đã tự sát rồi. Vậy thì anh phải tiếp tục 34 năm nữa mới đầu thai được. Trong 34 năm này, anh phải chịu đau khổ của việc tự sát, mỗi ngày phải diễn lại trò tự sát, như thế thì anh càng khổ. Thế nên hãy khuyên bảo họ đừng tự sát. Ông Nhan: Tôi hiểu rồi. Vậy nhìn từ một góc độ khác, ví dụ như trong nhà có người trẻ tuổi tự sát, cha mẹ của người đó, hoặc là người thân của người đó sẽ rất đau lòng. Đối với bộ phận này, tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu hỏi: nên xử lý thế nào, làm sao đối diện với cái chết của người thân hay người ở bên cạnh họ? Làm sao để giải quyết nỗi đau buồn của bản thân, làm sao để đối mặt với cái chết của họ? Sư Tôn: Nếu người thân của tôi, ví dụ như cha mẹ tôi... Ông Nhan: Hoặc là con cái ngài. Sư Tôn: Hoặc là anh chị em tôi, hoặc em trai tôi, sự việc này, tôi không nghĩ ngợi gì. Đây chỉ là một cái duyên thôi. Giống như nói là, người thân của anh chết rồi, cha chết rồi, mẹ chết rồi, em trai chết rồi, đây là hiện tượng của bản thân tôi. Em trai tôi chết rồi, cha tôi cũng chết rồi, mẹ tôi cũng chết rồi. Nhưng bản thân tôi gần như cũng không hề sinh ra áp lực nào cho chính tôi. Bởi vì với bản thân cha tôi, chết là một sự giải thoát, mẹ tôi chết cũng là một sự giải thoát. Bản thân em trai tôi là người tự sát. Ông Nhan: Đó có phải là giải thoát không? Sư Tôn: Tôi nói cho anh biết nhé, bởi vì tôi dùng phương pháp của tôi, dùng phương pháp mà tôi cứu em trai tôi, để chỉ dẫn cho nó. Nó trở thành đội trưởng của đám quần chúng tự sát, tôi để nó lãnh đạo những người tự sát này. Sau đó, ngược lại, bản thân nó trở nên tốt hơn, là như vậy đó. Bởi vậy, tôi dùng phương pháp của tôi để giúp em trai tôi, sau đó để em trai tôi trở thành người đội trưởng của tất cả rất nhiều những người tự sát, dùng cách thức của nó để lại tiếp tục cứu những người tự sát này. Ông Nhan: Ngài có phương pháp của ngài, nhưng đối với chúng tôi mà nói, nghĩa là những người dân thường, thì phải làm sao đây? Sư Tôn: Vậy thì, nếu như lúc nào đó, bạn có thể nghe được Phật pháp của tôi thì bạn sẽ giảm bớt suy nghĩ tự sát. Đó chỉ là những người có duyên ở cùng bạn, những người có duyên ở cùng bạn trong cuộc đời này, có duyên hơn những người bình thường, họ trở thành thân quyến của bạn. Kì thực, giống như Phật giáo có nói, cái đó gọi là "vô duyên đại từ", người nào không có duyên thì thật ra cũng chính là những người thân của bạn. Có thể nói, toàn bộ nhân loại này, đều là người thân của bạn. Bạn có được cái tâm "vô duyên đại từ" này thì mới là một vị Bồ Tát. Bạn sẽ vì những chúng sinh này mà tới, vì tất cả mọi người mà tới, không phải đơn thuần là vì người thân của bạn mà tới. Người thân chỉ là tương đối có duyên với ta hơn mà thôi. Do vậy, tinh thần của Phật là "vô duyên đại từ", nói cách khác là bất kể bạn rất có duyên với tôi, hoặc là không có duyên với tôi, thì đều bình đẳng mà cứu độ hết. Ông Nhan: Vâng, khi ngài nói về bình đẳng, tôi có một câu hỏi, đó là người người sinh ra là bình đẳng, nhưng chúng ta đều có cái "tâm phân biệt". Sư Tôn: Không sai. Ông Nhan: Vậy làm sao để xử lý cái tâm phân biệt này của bản thân? Sư Tôn: Theo bản thân những gì Phật đã giảng là như thế này, vì sao con người lại bình đẳng? Đó là bình đẳng trên phương diện Phật tính. Trên phương diện Phật tính là bình đẳng, thế nhưng khi bạn vẫn chưa phát hiện ra Phật tính của bản thân thì sẽ có tâm phân biệt. Một khi tâm phân biệt này sinh ra thì sẽ có cái cao, thấp, đẹp, xấu, mọi sự phân biệt này đều xuất hiện ra hết. Ông Nhan: Còn có cả địa vị cao thấp. Sư Tôn: Đúng, địa vị cao thấp thế nào cũng đều sinh ra hết. Bản thân Phật nói, cái gọi là "bình đẳng" là Phật tính bình đẳng. Khi bạn đã thấy được Phật tính rồi, khi đã kiến chứng được Phật tính rồi, thì tất cả sẽ trở thành hoàn toàn bình đẳng. Bạn đối đãi với chúng sinh đều bình đẳng. Nếu bạn vẫn còn chưa thật sự kiến chứng Phật tính, bạn đối đãi với chúng sinh tuyệt đối sẽ không bình đẳng được. Ông Nhan: Hiểu rồi. Vậy chúng ta nên yêu người khác ra sao, yêu bản thân ra sao? Sư Tôn: Vậy thì cần học tinh thần của Bồ Tát. Ông Nhan: Là như thế nào? Sư Tôn: Tnh thần của Bồ Tát đều là nghĩ vì người khác, không nghĩ vì bản thân. Tôi có thể cứu năm trăm người, hy sinh bản thân mình. Ông Nhan: Vậy thì đây chính là biểu hiện của việc yêu người sao? Sư Tôn: Đó chính là tình yêu, là từ bi. Ông Nhan: Vậy thì yêu bản thân như thế nào? Sư Tôn: Tôi nói cho anh biết nhé, người học Phật thì không còn bản thân nữa. Bồ Tát là vị không còn bản thân nữa. Ông Nhan: Nhưng mà chúng ta đều nghe một câu nói là…. Sư Tôn: Thế nên mới phải nói đến bốn điều kiện: Có lợi ích cho người, không có lợi ích cho mình, bạn nên làm; Có lợi ích cho người, có lợi ích cho mình, bạn càng nên làm; Có hại cho người, có lợi cho mình, không được làm; Có hại cho người, có hại cho mình, càng không thể làm. Đây chính là tinh thần của Bồ Tát. Ông Nhan: Hiểu rồi. Bây giờ vừa hay tôi muốn hỏi Sư Tôn một câu hỏi. Chúng ta yêu bản thân như thế nào, ngài nói không có bản thân, nhưng mà chúng ta thường nghe nói một câu là "đối xử tốt với bản thân". Vậy xin hỏi Sư Tôn giải thích câu nói này thế nào? Sư Tôn: "Đối xử tốt với bản thân", muốn giải thích câu nói này thì rất đơn giản thôi. Ông Nhan: Vâng. Sư Tôn: Đối xử với bản thân tốt một chút, để lĩnh ngộ Phật pháp, sau đó bạn có thể tương ứng cùng Phật, thấy được Phật tính của chính mình, đây mới là "đối xử tốt với bản thân". Ông Nhan: Đọc nội dung trong sách của Sư Tôn, từ thế giới văn chương của ngài mà nhìn thế giới này, sau đó sống trong cuộc sống này, có đôi khi, chúng ta có cảm giác rất mệt mỏi. Có đôi khi, tôi lại nghĩ có một số người lựa chọn rời xa thế giới này, hoặc tự sát, có người nói là họ chán đời. Thế nhưng có đôi khi, chúng ta muốn bỏ đi, nhưng không phải vì chán đời, chỉ là cảm thấy sống mệt quá rồi. Nếu chúng ta cảm thấy sống mệt mỏi quá rồi thì phải làm sao? Sư Tôn: Đó vẫn là do có liên quan đến vì bản thân thì mới cảm thấy sống là mệt mỏi. Nếu bạn vì chúng sinh thì sẽ cảm thấy rất vui. Làm bất kì việc gì cũng đều thấy rất vui. Bởi vì bạn vì cá nhân mình nên mới thấy sống mệt mỏi quá. Thế nên tôi cảm thấy là, rất nhiều người phỏng vấn tôi, các câu hỏi đều giống nhau, tôi cũng cảm thấy sống mệt mỏi quá rồi. (mọi người cười) Ông Nhan: Tôi hiểu rồi. Vậy hôm nay ngài rất mệt rồi nhỉ, tôi biết, đúng thế không? Sư Tôn: Không phải không phải, là tôi muốn đi ngủ mà thôi. Ông Nhan: Tôi biết, còn có hai câu hỏi nữa, ngài đừng lo. Đôi khi tôi nghĩ là, bạn yêu một người, khi bạn để ý đến người đó, bạn sẽ vì người đó mà làm rất nhiều việc. Đặc biệt là bạn đối với người mình yêu, người mà mình quan tâm, bạn làm rất nhiều việc vì người đó, không chỉ dừng lại ở việc bạn sẽ tạo nên áp lực cho đối phương mà thật ra chính bản thân bạn cũng có áp lực, bởi vì bạn có mong cầu mà. Rốt cục, chúng ta có thể yêu người khác như thế nào, đối với người mình quan tâm có thể thoải mái hơn một chút ra sao? Ví dụ như cha mẹ đối với con cái... Sư Tôn: Đúng đúng đúng đúng đúng đúng đúng. Bây giờ tôi đang nghĩ đến quan điểm về tình yêu của tôi. Mặc dù Sư Tôn đã 72, 73 rồi, 73 tuổi rồi, nhưng tôi vẫn có tình yêu đấy. Ông Nhan: Nhưng mà người ta nói tình yêu khiến người ta phiền não, tình yêu khiến người ta chẳng còn thoải mái nữa. Sư Tôn: Không sai. Nhưng quan điểm tình yêu của tôi khác mọi người. Ông Nhan: Tôi nghe đây. Sư Tôn: Bạn cảm thấy cá nhân bạn đây có thể khiến một người phụ nữ hạnh phúc. Vậy thì bạn có thể tự cho mình điểm số xem mình có thể cho cô ấy được bao nhiêu hạnh phúc. Nếu như là 70, 80 điểm, thì cũng coi như là đạt yêu cầu. Nhưng người đàn ông khác cũng yêu người phụ nữ này, anh ta có thể làm được cho cô ấy tới 90 điểm hạnh phúc, vậy thì, quan điểm tình yêu của tôi là như thế này - Nhường. Hãy để cho người mà bạn yêu kết hôn với người đàn ông kia, bởi vì tình yêu của anh ta đem tới nhiều hạnh phúc hơn tình yêu của bạn dành cho cô ấy. Ông Nhan: Kì thực rất nhiều khi, chúng ta đều sẽ... Sư Tôn: Thế thì ta sẽ không có phiền não nữa. Ông Nhan: Tôi biết. Nếu như điểm số của chúng ta đạt được rất cao thì phải làm sao? Sư Tôn: Thì tôi sẽ nhường người mình yêu cho người khác. Ông Nhan: Tôi biết chữ "nhường" này của ngài rất tốt, chính là chữ "nhường". Tôi thích cái chữ này. Thế nhưng có đôi khi, chúng ta tự cho điểm bản thân, chúng ta sẽ tự cho mình điểm cao mà. Sư Tôn: Cũng không chắc đâu. Ông Nhan: Tôi nói... Sư Tôn: Bởi vì... Ông Nhan: Tôi không phải là Sư Tôn mà! Sư Tôn: Anh luôn cần hiểu rõ bản thân mà. Ông Nhan: Có bao nhiêu người thật sự hiểu rõ bản thân đây? Sư Tôn: Chính những người học Phật là cần phải hiểu rõ bản thân trước hết. Ông Nhan: Tôi hiểu rồi, do vậy từ đầu tới cuối vẫn là một câu, tôi hiểu hết rồi. Sư Tôn: Thật ra anh hỏi nhiều câu như vậy, chỉ có một vấn đề thôi. Ông Nhan: Tôi biết, tôi biết, là từ đầu tới cuối tôi chưa hề hỏi câu hỏi nào nhỉ? (mọi người cười) Sư Tôn: Không sai, anh hỏi cũng giống như là chẳng hỏi gì. Ông Nhan: Tôi biết mà! Đời người chính là như vậy. Câu hỏi cuối cùng, làm sao để đạt được sự thoải mái tự tại? Sư Tôn: Giống như tôi đây là sống thoải mái tự tại rồi, có đúng không? Anh sẽ không còn khổ nữa. Rõ rành rành là anh yêu, tôi nói cho anh biết nhé, yêu chính là sinh ra khổ đó. Ông Nhan: Bởi vì có lòng tham nhỉ. Sư Tôn: Nhưng mà tình yêu này của anh là "tình yêu lớn", là anh mở rộng cái tâm mình ra, tấm lòng anh rộng lớn như hư không, cái gì cũng có thể khoan dung tha thứ. Đây mới là tình yêu lớn đích thực. Ông Nhan: Có tình yêu lớn thì có thể thoải mái tự tại. Sư Tôn: Đúng, không sai. Bởi vì anh có tình yêu lớn rồi, anh biết người mà anh yêu nhất đã đi theo người khác rồi, nhưng anh cũng đồng ý để cho cô ấy đi theo người khác, hơn nữa anh còn chúc phúc cho cô ấy nữa. Đây mới gọi là tình yêu lớn chân chính. Ông Nhan: Hiểu rồi. Có được tình yêu lớn thì có thể thoải mái tự tại. Sư Tôn: Còn nếu như anh hẹp hòi, thì đó là... Ông Nhan: Tình yêu... Sư Tôn: Ngọc nát đá tan. Ông Nhan: Ngọc nát đá tan, tôi hiểu rồi. (mọi người cười) Sư Tôn: Đúng mà, anh hãy nhìn những nam nữ thế tục đó. Ông Nhan: Đúng rồi. Sư Tôn: Cô gái kia không yêu anh ta, anh ta liền... Ông Nhan: Đúng đúng đúng đúng. Sư Tôn: Anh ta liền giết cô ấy. Ông Nhan: Đúng, hoặc là cả hai cùng chết. Sư Tôn: Đúng, cả hai cùng chết. Nhưng cô gái này yêu anh này, anh này lại không yêu cô, cô liền gào lên tố cáo anh ta là quấy rối tình dục cô ấy! Ông Nhan: Tôi cảm thấy Sư Tôn ngài rất vĩ đại. Hôm nay nói chuyện cùng ngài, tôi đã học được rất nhiều. Mặc dù đều giống như là những lời nói mãi đã nhàm tai, nhưng từ một góc độ khác thì trí huệ của chúng ta đã được mở rộng. Chẳng hạn như làm sao để bản thân được thoải mái tự tại, chính là cần tình yêu lớn. Điều này tôi tán đồng, còn những cái khác không phải là tôi không tán đồng đâu nhé. Còn cả điều mà ngài vừa nói về quan điểm tình yêu, nói một cách rất chắc nịch. Quan điểm tình yêu của ngài chính là một chữ "nhường" - chữ "nhường". Cái này rất hay - "nhường". Đúng, nếu như bạn biết nhường, bạn sẽ vui vẻ. Sư Tôn: Đúng, hiểu được chữ "nhường". Người ta yêu cô gái ấy hơn anh mà. Ông Nhan: Đôi khi là vì chúng ta không biết nhường. Sư Tôn: Đúng, "nhường" rồi là tốt, sẽ không sao nữa. Ông Nhan: Hôm nay cũng cảm ơn ngài đã để cho tôi được ngồi cạnh ngài một khoảng thời gian, học được rất nhiều. Cảm ơn Sư Tôn, cảm ơn. Sư Tôn: A Di Đà Phật. Bởi vậy tôi mới là "đạo nhân vô sự", chẳng có chuyện gì cả. Ông Nhan: Vô sự... Sư Tôn: Vô sự, không có việc gì. Ông Nhan: Ồ, tôi hiểu, đạo nhân vô sự. Hay, đạo nhân vô sự. Vậy thì cần phải có trí huệ rồi. Sư Tôn: Bởi có trí huệ rồi thì mới có thể trở thành đạo nhân vô sự đó. Ông Nhan: Đương nhiên, đương nhiên. Tôi đã học được rất nhiều. Cảm ơn. Cảm tạ, cảm kích, cảm kích.
41. Phụ lục - Phân tích lá thư
Xin quỳ gối dưới chân Sư Tôn đại nhân. A Di Đà Phật! Đảnh lễ cầu thỉnh Trường lạc vĩnh khang Trường kì trụ thế Tục truyền Chân Phật Mật Pháp Vì đời tiêu tai giải nghiệp! Tết Xuân năm nay, Sư Tôn nhận lời phỏng vấn của truyền thông, như thường lệ dự đoán vận mệnh của năm nay. Những dự đoán liên quan đến thảm họa quân sự khu vực thì đã ứng nghiệm rồi! Trong số đó, "sự cố bán đảo Triều Tiên" có vẻ là nhiều nhất, và nó đang ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ngoài ra, ngày 18 tháng 3, Sư Tôn chủ trì pháp hội Hộ Ma khai thị A Đạt Nhĩ Mã Phật, khiến cho các đệ tử một lần nữa khẳng định được rằng Sư Tôn đứng số một thế giới về việc khai thị Phật pháp. Phần hay nhất là Sư Tôn lấy chuyện viên tịch của Thượng sư Liên Đặng để khai thị, trước tiên là để an ủi Thượng sư Liên Diệu, người luôn hỗ trợ ở hậu trường, sau đó nhắc chuyện Thượng sư Liên Đặng luôn luôn đặt dòng truyền thừa căn bản trên đầu, mọi thứ đều không sợ, từ đó cho thấy rõ điểm tốt và quan trọng của dòng truyền thừa căn bản. Đoạn hay nhất là: 1. Sư Tôn nói, Thượng sư Liên Đặng không sợ chết, sau khi mắc bệnh, vẫn không hề rơi một giọt nước mắt nào. Sư Tôn thì lại cứ nỉ non vì mắc chứng sưng viêm, cứ hướng về Bổn tôn mà khóc mãi, hướng tới chúng sinh mà khóc mãi. Sư Tôn nên học tập theo ông ấy! 2. Thượng sư Liên Đặng có thể không biết là Sư Tôn khóc. Có lẽ ông ấy biết, nhưng cho rằng, thì ra Sư Tôn cũng biết khóc đấy. Chuyện vui về thiền cơ có ứng dụng vào thực tế. Những người phụ nữ ăn lẩu nổi giận. Ngày 18 tháng 2 năm nay, Sư Tôn chủ trì pháp hội Hộ Ma khai thị Bát Nhã Phật Mẫu tại Đài Loan, có kể câu chuyện cười về những người phụ nữ ăn lẩu nổi giận. Khi những người phụ nữ đang ăn lẩu, ăn tới mức môi son đều bay mất, phải tới phòng rửa tay để tháo đồ hóa trang, không ngờ mấy người phục vụ lại tưởng họ giả mạo. Câu chuyện cười này ngoài sự châm biếm ngầm rằng "người già thích hóa trang" và có sự chê bai "càng hóa trang càng chẳng hợp" ra thì còn nêu ra: 1. Người bình thường chỉ coi trọng vẻ ngoài của người khác. 2. Những quan niệm chính đã sớm ăn sâu vào đầu thì sẽ khiến người ta đánh giá sai tình thế. Câu chuyện cười này có thể giải thích là Tứ Đại Sơn Đầu [ ND: bốn phái Phật giáo lớn nhất ở Đài Loan ] hiện nay là "vô pháp", thuần làm các việc thế gian, phần lớn vẫn chỉ có thể khen ngợi là thúc đẩy làm việc thiện, gần như chẳng có dính dáng gì đến tu hành. Tình hình này càng ngày càng bị người trong nước nhìn ra. Còn tông phái chúng ta, cho dù là Phật pháp phong phú, giáo dục tất cả mọi người bất kể hoàn cảnh xuất thân, thế nhưng vẫn chưa được truyền thông và xã hội hoàn toàn tiếp nhận. Trên thực tế, nguyên nhân sâu xa là kết quả của nhiều thập kỷ trước, tông phái chúng ta, dòng truyền thừa gốc của chúng ta đã bị các tông phái lớn liên minh chính trị và truyền thông liên tục bôi nhọ. Con người vì những quan niệm về ấn tượng ban đầu khó thay đổi, hơn nữa nhận thức về Phật pháp nông cạn mà nhất thời khó phân biệt được. Duy mấy năm gần đây, mỗi lần tín chúng Đài Loan nhận được quán đảnh của Sư Tôn, thể hiện tín chúng nô nức hăng hái, nam nữ già trẻ đến từ nhiều nơi, mới khiến người ta thấy phấn khởi hơn. Trộm cắn một miếng ngập ba phân: Trong câu chuyện cười về việc "Đau bụng tiêu chảy dọa thực khách chết khiếp", đệ tử gần đây mới suy ra được ý vị chân thực của câu chuyện cười này: kẻ cắp thì thường hay la làng, hơn nữa rất dễ xảy ra vàng thau lẫn lộn. Khi thực tướng còn chưa rõ ràng, những thực khách thích sinh sự nếu có thể bình tĩnh từ tốn chất vấn chủ quán vì sao quán lại chẳng có khách đến ăn? Còn ông chủ quán ăn bị hại thì lại trốn sau quầy hàng, đưa đầu ra chịu tội. Những việc kiểu này trên thế gian đâu đâu cũng thấy. Đệ tử và Liên Hoa Trung Tam thường khích lệ nhau rằng, đời này có được Sư phụ thù thắng, Phật pháp thù thắng, hoàn cảnh sống yên ổn, thật khó mà có được, không thể phụ ơn phúc huệ này. Anh ấy cũng nói, xử lý các sự vụ cho tông phái chính là nghiêm khắc hành trì khảo nghiệm, không chỉ tự động toàn tâm dốc sức mà còn phải cân nhắc mọi thứ để đạt được lợi ích tốt nhất, điều đó không dễ dàng vì nó cần phải vượt ra ngoài "sở thích và không thích cá nhân". Ví dụ như vụ kiện "tố cáo truyền thông phỉ báng", dựa vào kinh nghiệm thì khó thắng kiện, nhất là "tông phái kiện truyền thông" thì hầu như không có cơ hội thắng kiện ở một nước dân chủ. Truyền thông, đặc biệt là truyền thông mạng, có những sai sót mù quáng về chính nghĩa công bằng, dễ bị lợi dụng khiêu khích. Thay vào đó, các phương tiện truyền thông có thể tổ chức họp báo bất cứ lúc nào để tăng cường sự vu khống. "Trộm cắn một miếng ngập ba phân, miệng lưỡi thế gian xói chảy vàng, điều tiếng dư luận làm lay chuyển cả những người có niềm tin vững chắc. Theo tông phái của chúng ta, dường như có "nhân viên pháp vụ" cho rằng tiêu tiền là có thể thuê luật sư để khởi kiện, huống hồ luật sư còn tán thành tiếp tục vụ kiện? Mạnh mẽ chất vấn rằng: "Thắng kiện rồi hà tất phải rút đơn kiện? Thế thì công lý ở đâu?" Đây thật sự là vì suy nghĩ đơn giản và không nghi ngờ gì về những gian ác của thế gian. (Luật sư dựa vào kiện tụng để kiếm tiền, có được tiền thì hầu hết họ sẽ chẳng e dè cơ hội kiếm tiền. Gặp bên đương sự ủy thác tự nguyện khuếch trương tranh tụng thì càng hay.) Đệ tử phát hiện ra, cho dù biết đạo lý "vô sở đắc", ngày ngày vẫn có rất nhiều phiền não tuôn trào ra, giống như trong pháp hội Hộ Ma Địa Tạng Vương Bồ Tát, Sư Tôn đã dặn dò đi dặn dò lại rằng: "Phật tính không thiện không ác", biết rõ là không được, nhất định phải thành tựu xong thì nhận định này mới chắc chắn được. Kinh nghiệm của đệ tử là sự bám chấp của thiện niệm không dễ tẩy trừ. Lập tức khảo nghiệm bản thân, luôn phải "động tâm nhẫn tính". Thời nhà Nguyên, lão nhân Vạn Tùng từng khai thị: "Từng bước lên cao thì dễ, hạ thấp tâm xuống thì khó". Sư Tôn cũng từng nhấn mạnh, học tập cần làm đến nơi đến chốn, cần phải giống như cây cỏ nhỏ trưởng thành, mỗi ngày lớn lên một chút. Do vậy, đệ tử và Trung Tam cũng thường cảnh tỉnh lẫn nhau cho dù có nắm chắc được căn bản truyền thừa "nhất tâm hộ trì", thỉnh thoảng có trình báo, cũng đều nên tự nghiêm khắc cân nhắc thêm, chứ đừng bám chấp quá đáng. Và cũng không thể lăng xa lăng xăng, chỉ gây thêm phiền phức. Con xin bẩm báo như vậy. Kính chúc Sư Tôn Ngày ngày vui vẻ! Luôn nở nụ cười! Đệ tử Liên Hoa Trung Chính đảnh lễ 27/04/2017
(Hết)