Những lời vàng
🪷 Câu chuyện của những lời vàng
Văn tập: 266 Xuất bản: 07/2018 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
Lời mở đầu
Tôi là Guru chuyển thế
Cả cuộc đời tôi đều tìm cầu chân lý tối cao. Tôi nói với mọi người: "Linh thể là vĩnh hằng, vật chất là cực kì tạm thời!" Cũng có thể nói như thế này: "Phật tính là vĩnh hằng, thế giới Ta Bà là huyễn hóa!" Tôi nghiêm túc nói với người đời: "Đến lúc phải thức tỉnh rồi, nếu không thức tỉnh, bạn chỉ có luân hồi trong huyễn tướng hết đời này đến đời khác!" Tôi nói: "Mỗi người cần phải có một vị đạo sư tâm linh của mình - người có thể nâng cao tâm linh của bạn."
🌟
Lúc nhỏ. Bố tôi cực kì bạo lực. Đương nhiên việc này là có nguyên nhân, bởi vì mẹ tôi kết hôn chưa đến 10 tháng thì tôi đã ra đời rồi. Bố tôi cho rằng tôi không phải là con do ông sinh ra. Vì thế, Tôi có một tuổi thơ rất bi thảm! Mẹ tôi kể với tôi một sự việc có thật. Khi tôi ba tuổi. Có một lần bị ốm, mẹ tôi đút thuốc cho tôi uống. Tôi không uống. Bố tôi từ phía sau lưng trong nháy mắt nhấc tôi khỏi ghế ngồi, quát lên đầy giận dữ: "Không uống! Thế thì chết đi!" Sau đó giống như quăng quả bóng rổ, ông ném tôi ra ngoài sân bê tông. Mẹ tôi hét lớn: "Lần này chết chắc rồi!" Tôi bị ném ra ngoài theo hình vòng cung và đập xuống sàn bê tông do gia tốc trọng lực. "Binh" một tiếng! Về lý mà nói, tôi sẽ bị vỡ sọ, dịch não và máu sẽ chảy đầy mặt đất, gãy xương, tứ chi tách rời, chỗ này đỏ chỗ kia bầm, bảy lỗ chảy máu, máu thịt bầy nhầy. Mẹ tôi ôm tôi lên. Áp tai nghe, nói: "Tim vẫn đập, Thắng Ngạn vẫn còn sống."
🌟
Sau này, khi tôi trở thành Guru. Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: "Sàn bê tông đã biến thành tấm thảm mềm mại." "Thần bảo hộ của ngài, Tứ Đại Thiên Vương đã dùng tám cánh tay để đỡ lấy ngài, nhẹ nhàng đặt lên tấm thảm." Vì thế, Tôi vẫn còn sống. Vì sao tôi sống tiếp? Bởi vì tôi có thiên mệnh, vị Guru là tôi đây phải đến thế giới Ta Bà độ hóa đệ tử hữu duyên! Rất nhiều người cần nương dựa vào tôi để thành Phật. Tôi từ sau 26 tuổi, trọn đời phải trang nghiêm tuyệt diệu, phải chiếu sáng xưa nay, phải kham nổi vai trò là thầy của trời người. Tôi là vị Guru chân chính. Tôi giống như những Guru chân chính khác, giáng sinh đất này, đều là đến để thức tỉnh thế nhân. Tôi là báu vật. Báu vật cần đánh thức báu vật đang ngủ say.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Cầu nguyện phải rất chân thành
Lúc nhỏ, tôi theo người ta đi nhà thờ. Chỉ bởi vì tiểu thư Cao Thuần Tâm ở con ngõ nhỏ phía sau nhà tôi đi nhà thờ, đó là Giáo Hội Trưởng Lão quận Tân Hưng, Cao Hùng. Học trường học ngày chủ nhật. Sau đó tôi lại trở thành thầy giáo của trường học ngày chủ nhật. Làm thầy giáo lớp kiểm tra kinh. Đội hát thánh ca. Văn cầu nguyện mà tôi đọc là: "Chúng con ở trước Cha trên thiên đường, mong tên của Cha được tôn làm Thánh, mong đất nước của Cha giáng lâm, mong ý chỉ của Cha được thực hiện trên mảnh đất này, giống như thực hiện trên thiên đường. Ăn uống thường ngày của chúng con, hôm nay hãy ban cho chúng con. Tha thứ tội lỗi của chúng con, giống như chúng con tha thứ cho người đắc tội với chúng con. Đừng để chúng con gặp phải thử thách, cứu chúng con thoát khỏi hung ác. Bởi vì đất nước, quyền hành, vinh quang, đều là của Cha, từ nay cho đến vĩnh viễn. A men!" Tôi nói với mọi người: "Cầu nguyện phải rất chân thành." Đây đích thực là điều vô cùng quan trọng! Khi tôi còn ở trong Cơ Đốc giáo, Cha, Con, Thánh linh trên thiên đường, thật sự đều nghe thấy lời cầu nguyện của tôi.
🌟
Bố tôi dự định ngày mai sẽ đánh tôi. Tôi cầu nguyện Chúa Trời: "Con ở trước Cha trên thiên đường, xin lắng nghe lời cầu nguyện của con, để cho người cha ở mặt đất của con dập tắt cơn phẫn nộ của ông ấy đi!" Kỳ lạ là. Công ty điện lực đã cử bố tôi đi công tác xa. Tôi đã tránh được một trận đòn. Còn nữa: Bố tôi lại muốn đánh tôi tiếp. Tôi cầu nguyện Chúa Trời: "Thiên Chúa, bố con lại muốn đánh con rồi, xin tha cho con khỏi bị đánh đi! A men!" Quả nhiên lại linh nghiệm. Cánh tay phải của bố tôi đột nhiên bị sưng đau, tay không giơ lên được, tôi đã tránh được một trận đòn đau đớn. Còn nữa: Bố tôi trở về nhà trong cơn tam bành. Nhìn thấy tôi, ông liền xông đến, lại muốn đánh tôi. Tôi vừa chạy vừa cầu nguyện: "Chúa ơi! Mau mau tha cho con tai nạn này đi! A men!" Đột ngột có một cuộc điện thoại. Là cấp trên của bố tôi gọi đến, bố tôi được thăng chức rồi. Cơn tức giận của bố tôi lập tức tiêu tan. Bố tôi nói: "Thằng oắt con, tha cho mày một lần!"
🌟
Có một lần, trên bãi đất trống bên trái bệnh viện Ngoại khoa của bác sĩ Từ có rất nhiều bạn học và các em nhỏ đang chơi thả diều. Trời xanh mây trắng. Không khí mát mẻ. Trên bầu trời có sáu, bảy con diều giấy đang bay lượn. Có con diều bay rất cao, có con diều bay rất thấp. Diều giấy liệng trái liệng phải. Lúc cao lúc thấp. Có con diều nhiều màu sắc, có con diều một màu sắc, cũng có con diều chỉ mỗi màu trắng. Tôi nhìn thấy một con diều có hình con rết, rất nhiều chân, thật sự là nó bay lượn rất đẹp. Là vua trong đám diều. Tôi đứng ngắm, tôi chẳng có một xu trên người, tôi chỉ nhìn, rất say mê ngưỡng mộ. Tôi cầu nguyện: "Thượng Đế! Con thích con diều hình rết đó quá, A men!" Sau đó, con diều kia bay xuống, bỗng dưng lao trúng vào người tôi. Chủ nhân của con diều chạy tới, nhìn thấy trên tay tôi cầm con diều giấy bèn nói với tôi: "Cho cậu con diều này đấy! Tớ vẫn còn một con diều mới!" Oa! Vạn tuế! (Chân thành cầu nguyện rất linh ứng.)
02. Trong giấc mơ của tôi bao hàm ý nghĩa sâu xa
Lúc còn nhỏ, tôi có hai giấc mơ, tôi từng kể rồi, bây giờ thuật lại như sau:
Giấc mơ thứ nhất: Tôi ở trong lớp học, có tất cả các bạn học trong lớp, có cả thầy giáo. Có một nữ thần bay đến, toàn thân tỏa hào quang, xán lạn xinh tươi, trực giác của tôi là cô ấy đến từ cõi trời. Cô ấy muốn chọn một đạo sư tâm linh. Thầy giáo bảo lớp trưởng đứng dậy. Cô ấy lắc đầu. Thầy giáo gọi bạn học có thành tích học tập tốt nhất đứng dậy. Cô ấy lắc đầu. Thầy giáo gọi bạn học cao nhất đẹp trai nhất đứng dậy. Cô ấy nói: "Không phải." Thầy giáo gọi một bạn học nữ xinh nhất đứng dậy. Kết quả là cũng không phải. Lúc này, nữ thần đưa ánh mắt hiền từ nhìn quanh các bạn học trong lớp, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên thân thể nhỏ thó của tôi. Tôi cái gì cũng chẳng phải. Vóc dáng lại bé nhất lớp. Chẳng có cái gì xuất sắc. Trốn trong một xó của lớp học không có gì nổi bật. Trong mắt thầy giáo, tôi là một đứa học trò rất bình thường. Nhưng, Nữ thần lại chọn trúng tôi. Nữ thần nói: "Người này mới đúng." Thầy giáo hỏi: "Tại sao lại là Lư Thắng Ngạn nhát như thỏ đế chứ?" Nữ thần đáp: "Cậu ấy là vàng ẩn trong khoáng thạch đó!" (Sau này tôi mới biết, vị nữ thần này là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn hoặc Quan Thế Âm Bồ Tát.)
🌟
Giấc mơ thứ hai của tôi là như thế này: Thân hình nhỏ bé của tôi không ngờ lại biến thành cực kì to lớn, cực kì to lớn, to lớn giống như một ngọn núi lớn vậy. Tôi đặt thân thể to lớn như núi của mình nằm giữa hai ngọn núi, giống như là đầu gác trên ngọn núi này, chân đặt trên ngọn núi kia. Còn mọi người thì từ trên thân thể tôi đi từ ngọn núi này sang ngọn núi đối diện. Người giống như kiến. Lần lượt bò trên người tôi. Đi từ bờ bên này đến bờ bên kia.
🌟
Từ hai giấc mơ này tôi đã hiểu: Tôi thuộc về chân lý tối cao, tôi cần tìm kiếm Thượng sư của chính mình, tôi cần quy y học tập chân lý. Tôi nương dựa vào rất nhiều Thượng sư. Tôi tìm kiếm vị Guru - Thượng sư chân chính. Tương lai, tôi nhất định sẽ là một Avatar hợp nhất với ý thức tối thượng. Tôi yêu cầu chính mình: Trí huệ viên mãn. (từ nhập thế đến xuất thế) Tôi và Bổn tôn hợp nhất. (trời - người hợp nhất) Thiền định. Giới luật. Tôi giáng sinh chính là phải đến để độ hóa chúng sinh, chính mình giác ngộ, cũng phải hướng dẫn rất nhiều người giác ngộ. Chính tôi giải thoát, cũng phải đưa người khác đến giải thoát. Chính tôi thành tựu bồ đề, cũng phải dẫn dắt người khác thành tựu bồ đề. (Tôi thường xuyên mơ thấy hai giấc mơ này, là một dạng khai sáng, truy ngược về tiền kiếp, hiện tại, vị lai.) Phải vượt qua sự liên kết của thời gian và không gian. Tôi là một vị Guru chân chính!
03. Chân bị đinh sắt đâm thủng
Lúc còn nhỏ, tôi luôn nghĩ thế giới vũ trụ này hẳn là có một "sức mạnh toàn năng", sức mạnh toàn năng này không dễ dàng hiển hiện. Nhưng, sức mạnh toàn năng lại ở xung quanh chúng ta. Thế giới mà chúng ta sinh tồn đã là một thế giới rất kỳ diệu rồi. Mỗi con người, vì sao lại có con mắt để nhìn thấy. Có tai để nghe thấy. Có mũi để hít thở. Có lưỡi để nếm vị. Có tứ chi. Có tư tưởng, có thể nhớ, có thể hồi tưởng, có thể nghĩ. Cùng là người, cùng có ngũ quan, chỉ là một sự sắp xếp tổ hợp mà biến thành những khuôn mặt không giống nhau. Còn có thế giới bên trong thân thể, lục phủ ngũ tạng, mỗi bộ phận đều có công dụng riêng. Tôi cảm thấy huyền diệu vô cùng. Và cả những nỗi tò mò không thể nói ra được. Thế giới vũ trụ này làm sao mà có? Nhân loại chúng ta làm sao mà có? Hoàn cảnh bên ngoài từ đâu đến? Núi sông mặt đất từ đâu đến? Hoa cỏ cây cối từ đâu đến? Mặt trời thì sao? Mặt trăng thì sao? Tôi tin rằng nhất định có một sức mạnh toàn năng, sức mạnh toàn năng này không đâu là không có, không gì là không thể. Khó tưởng tượng một cách không thể dị nghị.
🌟
Có một lần, tôi đi chân đất, bị một cây đinh sắt dài đâm vào lòng bàn chân, đầu nhọn của đinh nhô ra ở mu bàn chân. Ôi! Tôi đau chết mất! Nước mắt ròng ròng. Tôi kêu la ầm ĩ: "Ôi mẹ ơi! Ối mẹ ơi!" Chúng tôi mời một bác sĩ Đông y đến thăm khám, nhổ cái đinh sắt ra, cầm máu, rửa sạch miệng vết thương. Đắp lên một mớ thảo dược. Dùng vải trắng băng bó lại. Tôi không thể đi lại, chỉ có thể đứng trên một chân và dựa vào gậy chống. Bác sĩ nói: "Phải thay thuốc nhiều lần mới có thể phục hồi như cũ." Tôi cam chịu số phận rồi! Tôi đi một chân, dựa vào gậy chống để lên lớp, bạn cùng lớp và bạn khác lớp đều trêu tôi là: "Lý Thiết Quải!" (Một vị trong Bát Tiên.)
🌟
Có một buổi tối, tôi đi ngủ gác chân lên cao, tôi lặng lẽ khóc thầm, con người chỉ cần đau đớn một chút đã rất bi thảm rồi. Tôi nghĩ đến sức mạnh toàn năng. "Sức mạnh toàn năng nhất định có thể chữa khỏi chân tôi!" Tôi cầu nguyện: "Chúa trời, bậc toàn năng, con thành tâm cầu nguyện ngài, xin hãy chữa khỏi chân con, con cầu xin ngài đấy!" (Toàn tâm toàn ý, không có một chút thất lễ nào.) Tôi nhìn thấy: Xung quanh cái chân giơ cao có ánh lửa như sao. Sau đó tập hợp lại thành một quả cầu lửa, ở trên cái chân đau của tôi đốt cháy, một lúc sau, tôi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau tỉnh dậy. Tôi tò mò cởi vải băng bó ra xem, lá thuốc rơi ra, một bàn chân trắng ngần, hoàn hảo như ban đầu, không có lỗ đinh, không có sưng tấy. Bác sĩ Đông y nói: "Không thể nào!" Tôi nói: "Không thể tưởng tượng được!" Các bạn học nói: "Giả vờ bệnh!" Tôi công nhận: "Chỉ cần hợp nhất với sức mạnh toàn năng, không gì là không thể!"
04. Mỗi lần kiểm tra đều là 60 điểm
Tôi thừa nhận, thời tiểu học, trung học cơ sở, tôi đều không thích đi học. Tôi thích đọc sách linh tinh. Thích chơi. (Tôi từng bị lưu ban hai lần khi học năm nhất trung học cơ sở.) Sau đó tôi bị chuyển từ trường Trung học cơ sở Cao Thị số hai đến trường Trung học cơ sở Cao Thị số ba, hiệu trưởng trường số hai là ông Lâm Thủ Bàn, hiệu trưởng trường số ba là ông Trần Định Các. Tôi có xem là học sinh có vấn đề không. Đáp án là: Đúng vậy. Nhưng, tôi không phải là cá biệt. (học sinh lưu manh) Chỉ là tôi thích chơi, thích chơi, thích chơi… Chơi đến mức trời đất tối tăm, hết ngày hết đêm, đầu óc mụ mị, bỏ trường bỏ lớp đến công viên. Đợi đến giờ tan học, tôi sẽ về nhà đúng giờ. Khi có họp phụ huynh, thầy giáo đưa tờ giấy đỏ ghi tôi bỏ học cho bố mẹ tôi xem, bố mẹ tôi mới biết là tôi đi học ở công viên, đi học ở bờ suối, đi học ở ga tàu hỏa, đi học ở bùng binh. Đương nhiên, một trận đòn chí mạng.
🌟
Tiểu học, trung học cơ sở có rất nhiều bài kiểm tra. Kiểm tra tuần, kiểm tra ngắn, kiểm tra tháng, kiểm tra giữa kỳ, kiểm tra cuối kỳ. Còn có kiểm tra đột xuất khi mà giáo viên hứng lên. Đó là khoảng thời gian đau đầu. Tôi không thích đi học, đương nhiên không thể làm bài kiểm tra. Nhưng mà, tôi có thể cầu nguyện.
Có một lần, tôi nghiêm túc cầu nguyện. Buổi tối cùng ngày, tôi mơ thấy một mình tôi ở trong lớp học, thầy giáo đến, thầy đứng trước bảng đen bắt đầu viết chữ. Những thứ thầy giáo viết là: Trọng điểm trong sách giáo khoa. Những điểm mù dễ bị bỏ qua trong sách giáo khoa. Và cả những thứ ngoài sách. Viết kín cả tấm bảng đen. Tôi nói: "Thưa thầy! Vì sao thầy dạy có mỗi mình con?" Thầy giáo nói: "Ôn tập cho trò." Tôi hỏi: "Đây là đề kiểm tra sao?" Thầy giáo đáp: "Bớt nói linh tinh, học thuộc đi!" Tôi nói: "Con không thể thuộc được nhiều như vậy, buổi học này làm sao con có thể nhớ hết được?" Thầy giáo nói: "Thầy tận lực, trò tận lực." Thầy giáo dạy xong, quay đầu cười với tôi một cái, nụ cười ấy vô cùng rạng rỡ, thầy giáo cao lớn đẹp trai, trên mặt có ánh sáng. Thầy giáo kết thúc buổi học rồi nói với tôi: "Bởi vì trò là Lư Thắng Ngạn, thầy mới đặc biệt lên lớp cho trò, trò đúng là rất phiền phức!" Thế là tôi tỉnh giấc mơ.
Sự việc kỳ lạ và thần kỳ đã xảy ra rồi, đề mục của bài kiểm tra ngày hôm sau chính là đề kiểm tra mà thầy giáo đã viết lên bảng đen ở trong mơ, trời ơi! Sao lại trùng hợp như vậy? Nhưng mà tôi biết, cho dù có nói cho tôi biết toàn bộ đề mục ôn tập, trong một đêm tôi cũng không thể nào nhớ được nhiều như vậy. Tôi chỉ nhớ sáu phần. Vì thế, thành tích bài kiểm tra của tôi luôn là 60 điểm, vừa đủ để đạt mà thôi. Tôi từng có ý tốt nói cho một người bạn thân, đề văn là: "Giữa động và tĩnh." Cậu ấy không tin. Nhưng, đề làm văn vừa đưa ra, quả nhiên là "giữa động và tĩnh". Cậu bạn nói: "Cậu là thần ư!?"
05. Một sợi dây cứu mạng
Hồi nhỏ tôi đã biết bơi rất giỏi. Nhớ lại thời tiểu học, trường Tiểu học Đại Đồng có một bể bơi ở phía bên trái cổng trường. Lần đầu tiên, thầy giáo thể dục đẩy chúng tôi xuống nước. Rất nhiều bạn chật vật khổ sở, có người hoàn toàn không dám xuống nước; có người vừa xuống nước đã vội ngoi lên ngay; có người bị sặc nước, kêu gào ầm ĩ; có người bơi được vài cái là vội vã trèo lên.
Khi thầy đẩy tôi, tôi "tõm" một cái nhảy xuống nước, điều kỳ lạ là: Tôi có thể vung vẫy tay chân. Đập chân. (kiểu tự do) Nín thở. Mở mắt. Tôi bơi về phía bờ bên kia. Thầy giáo và các bạn học đứng trên bờ thấy tôi chìm xuống nước, không ngoi lên hay bơi lên ngay. Họ nhìn thấy bóng dáng gầy nhỏ của tôi lặn dưới nước, dần dần bơi xa hơn, từ gần đến xa, từ chỗ nông đến chỗ sâu, chỉ trong chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Thầy giáo hơi lo lắng. Các bạn học đứng ngẩn người nhìn. Bất ngờ tôi nhô đầu lên, trèo lên từ bờ bên kia. Lúc đó, tiếng vỗ tay vang dội như sấm. Thầy giáo nói: "Lư Thắng Ngạn, cậu bé nhỏ con này, sinh ra đã biết bơi."
🌟
Chính vì thế, tôi đã học được: Bơi tự do. (thở) Bơi ếch. (ngẩng đầu) Bơi ngửa. Bơi bướm. Bơi nghiêng. Bơi kiểu cá. Bơi lặn. (với bình dưỡng khí, kính bơi, chì đeo, chân vịt) Bơi thẳng đứng. Tôi còn biết cả bơi kiểu chó.
Tôi vốn thích nước, nên cũng học được cả nhảy cầu. Vì thế, bể bơi, suối, bãi tắm biển, hồ. Thậm chí: Vực sâu dưới thác nước. Đê chắn sóng. Giữa biển khơi. Tôi đều đã từng bơi qua. (Ngay cả khi gió to, mưa giông, sấm sét, bể bơi đóng cửa, tôi cũng lén lút trèo vào, chỉ để được bơi.)
🌟
Có một lần, tôi đến bãi tắm biển Khẩn Đinh ở miền Nam, có một bảng thông báo: "Sóng to gió lớn, vui lòng không xuống nước". Tôi mỉm cười khinh thường rồi vẫn bơi. Tôi bơi từ chỗ nông ra chỗ sâu, rồi lại từ chỗ sâu bơi về bãi cát. Bỗng nhiên tôi cảm thấy có gì đó không ổn. Bơi mấy lần mà không thể quay vào bờ được. Nước mặt biển đẩy về phía trước. Nước dưới chân thì dồn nhanh ra giữa biển. Một đẩy một kéo. Lực kéo rất mạnh, như thể đang hút vào, ngay cả cát trên bãi biển cũng bị hút ra biển sâu. Tôi dùng hết sức lực, vẫn không thể bơi vào bờ được. Thử mấy lần, sức lực đã cạn kiệt.
Tôi lo lắng quá, chết rồi! Tôi cầu nguyện: "Thượng Đế! Cứu con!" - Tôi thét lên một cách thê thảm, ai oán. Bỗng nhiên, tai tôi nghe thấy tiếng nói: "Lặn xuống dưới".
Tôi không chút do dự lặn xuống đáy, lực hút vẫn còn mạnh, tôi dùng hai tay bới cát, chộp được một sợi dây thừng to, tôi nắm chặt lấy dây, nước biển kéo xuống, tôi vẫn giữ chặt. Đến khi dòng nước ngừng, tôi kéo dây bước được vài bước về phía bờ. Cứ thế tôi bò về phía bãi cát, lên được bờ. (Sợi dây là dây buộc thuyền.)
Tôi ghi nhớ bài học: "Không được tự phụ về khả năng của mình." "Phải kính trọng năng lực tối cao."
06. Nỗi kinh hoàng dưới bánh xe lớn
Bố tôi là trưởng phòng tại Công ty Điện lực Đài Loan, ông đã làm việc cả đời tại công ty điện lực cho đến khi về hưu. Bác trai Phật Tục là Phó Tổng Giám đốc công ty. Anh rể cả Phúc Khí là trưởng phòng Tổng vụ. Cậu Anh Thanh là trưởng phòng Nghiệp vụ. Các thành viên trong gia đình họ Lư chúng tôi đều phục vụ tại công ty điện lực, kể cả các em gái tôi, tất cả đều làm việc tại công ty điện lực.
Trong kỳ nghỉ đông và nghỉ hè thời trung học cơ sở và trung học phổ thông, tôi đều vào công ty điện lực làm việc bán thời gian. Tôi từng làm: Nhân viên ngoại vụ phòng Thi công - dựng cột điện ở khu Thảo Nha, Cao Hùng. Nhà máy Nhiệt điện miền Nam - xưởng sửa chữa. (máy tiện, máy xoay, máy bào) Trạm kiểm định công tơ điện - Chi nhánh Hoa Liên. Xưởng sửa chữa - sửa chữa máy biến áp. (Hoa Liên) .............
🌟
Đây là câu chuyện xảy ra khi tôi làm việc tại Nhà máy Nhiệt điện miền Nam: Ông Trương - Trưởng xưởng sửa chữa đưa cho tôi phiếu lĩnh dầu, bảo tôi cầm thùng đi lĩnh dầu. Từ xưởng sửa chữa đến kho dầu phải đi qua một đoạn đường ray rất dài, trên đường ray có một đoàn tàu dài đằng đẵng. Đoàn tàu chở than. Tôi xách thùng không, cứ thế đi bộ, vòng qua đoàn tàu để đến lĩnh dầu. Sau khi lĩnh xong dầu. Tôi ôm thùng dầu bằng cả hai tay, lúc này mới biết thùng đã đổ đầy dầu nặng đến nhường nào. Mới đi được vài bước, hai tay tôi đã tê cứng, phải dừng lại nghỉ một chút. Từ xưởng sửa chữa đến chỗ lĩnh dầu thực ra không xa lắm, chỉ cần bước qua đường ray là tới. Nhưng, Trên đường ray có một đoàn tàu dài thượt, ít nhất phải dài đến hai trăm mét, chở toàn than đá. Muốn về xưởng sửa chữa, nhất định phải đi vòng qua đoàn tàu mới về được. Thùng dầu lại nặng thế này. Không biết phải đi vòng đến bao giờ?
Lúc này tôi nghĩ: Tàu đang đứng yên trên đường ray, không có dấu hiệu sẽ chạy. Sao mình không chui qua gầm tàu nhỉ. Trước tiên đặt thùng dầu xuống gầm. Rồi đẩy sang bên kia. Mình cũng chui qua gầm, rồi chui ra, là sẽ thấy xưởng sửa chữa.
Lúc đó tôi không nghĩ nhiều. Cứ thế làm luôn. Trước tiên ôm thùng dầu, chui vào gầm tàu, rồi đẩy thùng dầu lên bờ bên kia. Nói thì chậm nhưng việc xảy ra rất nhanh. Tôi bỗng thấy bánh xe khổng lồ của tàu từ từ bắt đầu quay, tôi hoảng hốt. Hồn vía lên mây! Tôi cong người lại, như tên bắn, nhảy vọt ra khỏi gầm tàu. Vừa kịp rút chân ra. Bánh xe khổng lồ đã lăn qua. Tàu ầm ầm rầm rầm, ầm ầm rầm rầm, ầm ầm rầm rầm, lao vút đi!
Tôi đứng chết trân tại chỗ, mồ hôi nhễ nhại, toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh, tay chân run rẩy vì sợ hãi. Nếu chậm một phút, hay chỉ vài giây thôi, thì đầu tôi đã lìa khỏi cổ, hoặc chân tôi đã không còn nữa. Tôi ngước nhìn trời! Tôi thét lên: "Thượng Đế! Người để con sống, chắc chắn con còn việc lớn phải làm!" Tôi đã nhận ra: "Đất nước nguy nan chớ vào, nơi nguy hiểm chớ ở, việc nguy hiểm chớ làm. Cẩn thận! Cẩn thận!"
07. Người ánh sáng đưa tôi vào hang động
Một lần nọ. Một người ánh sáng xuất hiện ở đầu giường tôi. Người ánh sáng này có đôi mắt long lanh sáng ngời, trong ánh sáng, người này toát lên vẻ trang nghiêm và thiêng liêng. Tôi ngạc nhiên hỏi: "Ngài là ai?" Người ấy đáp: "Ta là Đấng Tối Cao." Tôi hỏi: "Đấng Tối Cao là ai?" Người ấy đáp: "Đấng Tối Cao chính là Đấng Duy Nhất." Tôi nghe xong nửa hiểu nửa không, thôi, không để tâm nữa.
Người ánh sáng đưa tôi vào trong không gian hư vô, rồi bắt đầu bay lên, chỗ chúng tôi đứng không giống như đang đạp trên hoa sen, cũng không phải cưỡi mây, càng không phải cưỡi gió. Mây vun vút bay qua. Gió rít bên tai. Chỉ trong chốc lát đã đến một ngọn núi, hạ xuống, đi vào một hang động, hang động thực ra không lớn, không sâu, cũng không cao, người bình thường phải cúi người mới vào được. Bên trong chỉ chứa được ba người, nếu là năm người thì quá chật, trong hang trống không.
Người ánh sáng nói: "Đây là hang động nơi ngươi từng tu hành!" Tôi hỏi: "Tôi tu gì trong hang động này?" Người ánh sáng đáp: "Thiền định." Tôi hỏi: "Thiền định là tu gì?" Người ánh sáng đáp: "Tu đến cảnh giới tối thượng chính là Nhất thể." Tôi hỏi: "Con nửa hiểu nửa không?" Người ánh sáng nói: "Sớm muộn gì ngươi cũng sẽ hiểu thôi, đây chính là hang động nơi ngươi từng tu hành thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngươi chính là hóa thân của ngài Xá Lợi Phất, ta tiên đoán, tương lai ngươi sẽ quay về thăm hang động này." Người ánh sáng ấn một cái lên trán tôi. Trong thoáng chốc, tôi như trở về thời Đức Phật, tôi nhớ ra hang động của A Nan. Tôi nhớ ra hang động của Tân Đầu Lư.
Tôi hỏi: "Người ánh sáng, ngài có phải là Phật Đà không?" Người ánh sáng không trả lời. Tôi lại hỏi: "Ngài là Phật Đà, tôi biết ngài là Phật Đà." Người ánh sáng đáp: "Người đời đều không hiểu, mỗi người đều có sự khác biệt, chỉ khi hợp nhất với Đấng Tối Cao mới biết được rằng, Phật Thích Ca Mâu Ni, Allah, Thượng Đế, Chúa Jesus, Elijah đều là Đấng Tối Cao." Người ánh sáng nói: "Ta tiên đoán, tương lai ta sẽ xuất hiện lần nữa ở đầu giường ngươi, nói với ngươi rằng, con đường ngươi đi, và con đường ta đi, là như nhau. Lúc đó thân phận của ta chính là Chúa Jesus."
Tôi hoang mang quá! Tôi hỏi: "Vậy tôi cầu nguyện với ai, với đấng nào?" Người ánh sáng đáp: "Với chính mình." Tôi hỏi: "Tôi là ai?" Người ánh sáng đáp: "Duy ngã độc tôn."
08. Cuộc đối thoại giữa tôi và người ánh sáng
Tôi và người ánh sáng đã trò chuyện một số điều trong hang động, tôi nghĩ đáng để ghi lại. Tôi nói: "Tương lai tôi phải đi con đường nào?" Ý tôi là: Cơ Đốc giáo - Chúa Jesus. (Tân Ước) Phật giáo - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thiên Chúa giáo - Thiên Chúa. (Chúa Trời) Hồi giáo - Đấng Muhammad. Ấn Độ giáo - Bhagavan. Kinh Vệ Đà. Do Thái giáo - Thiên Chúa. (Cựu Ước) Đạo giáo - Lão Tử. ................
Đây chỉ là phân chia sơ lược của tôi. Thực ra tôn giáo trên thế giới nhiều vô kể, mỗi vị tiên tri, hay đạo sư, hay hóa thân, hay những bậc hoằng pháp tiêu biểu, tôi phải chọn thế nào đây, tôi hoang mang quá, tương lai tôi sẽ theo đuổi điều gì?
Người ánh sáng mỉm cười, người ánh sáng hiểu ý tôi, người ánh sáng nói: "Ngươi đang đi trên con đường ánh sáng?" Tôi hỏi: "Con đường ánh sáng là gì?" Người ánh sáng đáp: "Con người sống trên trái đất nhờ ánh mặt trời, không khí và nước, còn ngươi nhờ vào ánh sáng tối thượng, thế là đủ rồi." Tôi hỏi: "Ý tôi là, phải theo tôn giáo nào?" Người ánh sáng đáp: "Tối thượng." Tôi hỏi: "Tu như thế nào?" Người ánh sáng đáp: "Hợp nhất."
Tôi đã từng hoang mang về thế giới tôn giáo, trong đầu rất rối loạn, không thể sắp xếp được mạch suy nghĩ, thật là hỗn loạn vô cùng, tôi vẫn không hiểu được sự khai thị của người ánh sáng. Rốt cuộc tôi phải theo đạo nào? Tôi phải tu như thế nào? Người ánh sáng chỉ muốn tôi tin vào Đấng Tối Thượng. Hợp nhất với Đấng Tối Thượng. Phóng quang. Người ánh sáng nói: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Chúa Jesus, Moses, Muhammad, John the Baptist, Lão Tử, Krishna... tất cả đều là hóa thân của ánh sáng tối thượng."
Điều này càng khiến tôi hoang mang hơn. Bởi vì trong thế giới hiện đại, mỗi tôn giáo đều tự cho mình là đúng. Ví dụ như Cơ Đốc giáo chỉ trích Phật giáo thờ tượng là ma quỷ. Hồi giáo cho rằng chỉ có Allah mới là tất cả. Phật giáo chia thành Hiển giáo và Mật giáo. Hiển giáo cho rằng không được tu khí, mạch, minh điểm. Duy Thức tấn công Trung Quán. Trung Quán tấn công Duy Thức. Các tông phái Phật giáo không qua lại với nhau. Phật giáo cho rằng Đạo giáo là ngoại đạo. Diêu Trì Kim Mẫu lại được xếp vào Đạo giáo. Lại còn có Nhất Quán Đạo. Ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế cũng chia thành hai phái, Huyền Khung Cao Thượng Đế và Huyền Linh Cao Thượng Đế. ............
Trong tất cả những điều đó, người ánh sáng chỉ nói: "Hãy tin vào Đấng Tối Thượng." "Tu ánh sáng." "Hợp nhất với Đấng Tối Thượng." (thiền định)
09. Thần ếch và những cái khác
Hồi nhỏ khi trốn nhà, tôi thường chạy đến nhà bạn học Hoàng Kim Hùng để ngủ. Những ngày đó, tôi và Hoàng Kim Hùng là bạn thân, tình bạn của chúng tôi kéo dài cho đến khi tôi 38 tuổi sang Mỹ.
Cha của Hoàng Kim Hùng kinh doanh phụ tùng xe hơi, gia đình khá giả. Ở đại lộ Trung Chính số 4 tại Cao Hùng năm đó, ông mở hai cửa hiệu Vĩnh Mậu và Vĩnh Thái. Hoàng Kim Hùng là con nhà giàu, biệt danh là Mặt Tròn vì cậu ấy mập mạp, nhưng người không cao. Khuôn mặt đoan chính. Còn tôi thì gầy gò nhỏ bé, thẳng thắn mà nói, gia đình thu nhập ít, chi tiêu nhiều, thuộc diện nghèo. Tôi được Hoàng Kim Hùng giúp đỡ rất nhiều. Ví như khi mang cơm hộp, trong hộp cơm của Hoàng Kim Hùng có đầy đủ gà vịt cá thịt trứng, bày biện gọn gàng. Còn tôi, chỉ có hai củ khoai lang. Cậu ấy mặc quần đùi hiệu Nicotine. Tôi mặc quần bát quái. (Ý nói cái quần may từ bao bột mì, rách rồi vá đi vá lại, khâu tới khâu lui, thành hình mạng nhện, chúng tôi đùa gọi là quần bát quái.) Hoàng Kim Hùng về mặt kinh tế luôn giúp đỡ tôi.
🌟
Một lần nọ. Tôi trốn nhà đến ở nhà Hoàng Kim Hùng. Đêm đó, đúng vào đêm rằm tháng Tám âm lịch. Mấy bạn học chơi trò "xem thần bốn chân", "thần bốn chân" chính là thần ếch.
Đầu tiên, mỗi người cầm một nén hương. Một bạn học giả làm con ếch, quỳ xuống, hai tay chống đất, đầu cúi sát đất, mắt nhắm lại. Mọi người đi vòng quanh người bạn đó, đọc: "Thần bốn chân, linh linh linh, xin mời rằm tháng Tám đến làm thần." Vừa hát. Vừa đi vòng quanh. Chỉ trong chốc lát, bạn học đóng vai ếch đã bị nhập, toàn thân bắt đầu run rẩy, rồi nhảy nhót như ếch, nhảy khắp nơi, miệng kêu tiếng ếch: "Cốp... cốp... cốp." "Ộp... ộp... ộp." Rất là vui.
🌟
Tất cả các bạn học mời tôi tham gia chơi "thần bốn chân". Tôi cùng họ cầm hương và đọc: "Thần bốn chân, linh linh linh, xin mời rằm tháng Tám đến làm thần." Nhưng người bạn học đóng vai ếch lại không hề cử động. Mọi năm vừa đọc là đã động. Năm nay lại không động. Lạ thật! Hoàng Kim Hùng nói: "Năm nay rằm tháng Tám không thấy động, chắc chắn có lý do, nếu có người đang mang thai hoặc để tang phải tránh đi. Ngoài ra, người có mệnh số cao ở đây cũng sẽ khiến thần không nhập. Còn nữa, có đại thần ở đây cũng sẽ khiến thần không nhập."
Phụ nữ đang mang thai - không có. Người đang để tang - không có. Người có mệnh số cao - không có. Có đại thần ở đây - không có. Họ nhìn tôi, vì đây là lần đầu tiên tôi tham gia, họ bảo tôi tránh ra một chút. Khi lại xem "thần bốn chân", lần này thì động. Họ hỏi: "Tại sao khi Lư Thắng Ngạn có mặt ở đây thì không động?" Thần ếch đáp: "Người ấy là Phật! Ánh sáng của người đã trấn áp ta." Các bạn học rất kinh ngạc! Lư Thắng Ngạn là Phật sao?
10. Câu chuyện của Bồ Tát đất
Có ba đứa trẻ.
Ở khoảng đất trống bên cạnh nhà tôi, chúng đắp ba bức tượng người bằng đất, không lớn lắm, chỉ nhỏ xíu thôi. (Giống như những con rối trong múa rối.) Bọn trẻ nghịch ngợm, bắt chước người lớn cầm hương lễ Phật, y như người lớn vậy, quỳ lạy trước tượng ba lạy chín khấu đầu, tay cầm nén hương, miệng lẩm bẩm những lời vô nghĩa. Tất nhiên, bọn trẻ chỉ đang bắt chước động tác của người lớn mà thôi.
Nhưng, chuyện kỳ lạ đã xảy ra. Sau một làn hương thoảng qua, ba đứa trẻ bỗng nhiên biến thành đồng cốt, dân gian gọi là kê đồng. Thân thể run rẩy. Miệng lẩm bẩm không ngừng. Tay đập vào người. Có người đi đường ngang qua, nhận thấy điều bất thường.
Người đi đường hỏi: "Vị thần nào đang ở đây vậy?" Một đứa trẻ đáp: "Là Trung Đàn Nguyên Soái Na Tra Tam Thái Tử đang ở đây." Người đi đường hỏi: "Còn hai vị kia là ai?" Đứa trẻ đáp: "Một vị là Mộc Tra, một vị là Kim Tra, là anh cả và anh hai của ta."
Ba vị Thái tử đều có lai lịch: Mộc Tra - đệ tử của Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn. Kim Tra - đệ tử của Phổ Hiền Tôn Giả. Na Tra - đệ tử của Thái Ất Chân Nhân. Người đi đường hỏi: "Đến đây làm gì?" Đứa trẻ đáp: "Thao luyện binh pháp."
Lúc này, người đến xem càng lúc càng đông, ai cũng đến để xem náo nhiệt. Ba đứa trẻ đắp ba bức tượng đất, bắt chước người lớn lễ Phật, không ngờ lại có ba vị thần là Mộc Tra, Kim Tra, Na Tra nhập vào người ba đứa trẻ. Ba đứa trẻ trở thành đồng cốt (kê đồng), biểu diễn ngay tại khoảng đất trống. Người nghe tin đến xem càng lúc càng đông, đứng chật kín không còn chỗ trống, nhưng không ai giải thích được chuyện gì đang xảy ra.
Người từ đền miếu cũng đến, họ cũng thấy rất kỳ lạ. Ba pho tượng đất. Ba đứa trẻ, chỉ lễ bái một lần. Đã thành đồng cốt. Cuối cùng ngay cả phóng viên tin tức cũng đến.
Tôi ở gần đó. (số 77 đường Lâm Sâm Hoành, thành phố Cao Hùng) Tôi cũng chạy ra xem cảnh náo nhiệt, chen qua khe người để vào trong, thấy ba đứa trẻ nhảy nhót lung tung, như đồng cốt vậy.
Tôi vừa nhìn một cái. Ba đứa trẻ liền im lặng, một đứa nằm xuống, chúng đã kiệt sức. Có người hỏi: "Vừa rồi là chuyện gì vậy?" Bọn trẻ đáp: "Không biết." Có người hỏi: "Sao lại nhảy lung tung vậy?" Bọn trẻ đáp: "Tự nhiên vậy thôi. Cũng không biết." Tôi vừa nhìn thì mọi chuyện dừng lại, đám đông giải tán, lúc đó, tôi đã thấm thía sâu sắc một câu: "Thần linh ở khắp mọi nơi! Ngay cả trong đất đá, keo sơn cũng có!"
11. Bói đĩa cũng thịnh hành
Vào thời cấp ba của tôi, trò bói đĩa rất thịnh hành. Gần như toàn bộ người dân Đài Loan đều mê mẩn trò này.
Thầy giáo của tôi cũng chơi, nhưng thầy nói: "Hai người kia không động đậy, tay tôi đẩy nó thì nó mới di chuyển." Thầy giáo của tôi nói: "Bói đĩa là giả!" Có thật là giả không? Tôi sẽ giải thích dưới đây: Khi trò bói đĩa đang thịnh hành, bạn đến cửa hàng tạp hóa mua đạo cụ bói đĩa, chỉ cần hai thứ: Một cái đĩa sứ. (nhỏ như đĩa đựng nước tương) Một tờ giấy trắng có viết Thiên Tự Văn.
Cách chơi là: Đặt đĩa sứ vào giữa tờ Thiên Tự Văn (úp ngược xuống), vẽ một mũi tên. Ba người dùng ngón trỏ, nhẹ nhàng đặt lên mép đáy đĩa sứ. Ba người tập trung tinh thần. Chỉ đọc: "Kính mời thần đĩa giáng lâm!" Khi thần đĩa giáng lâm, đĩa sẽ tự di chuyển, có lúc chậm, có lúc nhanh. Khi đĩa di chuyển, như thể đang trôi nhẹ trên tờ Thiên Tự Văn. Một người hỏi việc. Thần đĩa trả lời. Khi nghỉ, mời thần đĩa uống trà, ăn trái cây, bánh ngọt. Sau đó, có thể hỏi tiếp. (Mũi tên của thần đĩa sẽ chỉ vào chữ hoặc thành ngữ.)
🌟
Mẹ tôi là Lư Ngọc Nữ, mời hàng xóm đến chơi trò bói đĩa, tôi đứng bên cạnh xem. Một lúc lâu sau, đĩa không động đậy. Tôi bước ra ngoài cửa, ngửi thấy một làn hương thoảng qua, linh tính tôi chợt động, tôi nói với mẹ: "Thần đĩa đến rồi!" Quả nhiên đĩa liền chuyển động.
Vì tôi, mẹ hỏi vài việc, rất chuẩn xác. Một, hỏi "Thắng Ngạn sau này sẽ đi học ở đâu? Sự nghiệp thế nào?" Thần đĩa đáp: "Học ở Đài Trung, sự nghiệp cũng ở Đài Trung." Kết quả: "Tôi học trường Trắc Lượng Đài Trung (bậc đại học), phục vụ trong đơn vị Đo Đạc và Vẽ Bản Đồ quân đội. Đều ở Đài Trung."
Hai, hỏi "Thắng Ngạn bốc trúng lính hải quân tàu chiến, nó có phải đi lính không?" Thần đĩa đáp: "Không cần! Nó sẽ đi học trường quân sự. Cần gì phải đi lính!" Ồ! Thật chuẩn xác! Mẹ bảo tôi, thần đĩa tự nói, vị đến là Bồ Tát Quan Thế Âm.
🌟
Tôi đã đọc một bài viết về thần đĩa do một nhà văn nổi tiếng viết, đại ý như sau: Nhà văn hỏi: "Ngài từ đâu đến?" Thần đĩa đáp: "Từ hồ Nhật Nguyệt đến." Hỏi: "Vì sao ngài ở hồ Nhật Nguyệt?" Thần đĩa đáp: "Vì tình duyên trắc trở nên nhảy xuống hồ tự vẫn." Hỏi: "Ngài học hành đến đâu?" Thần đĩa đáp: "Khoa Văn Trung Quốc trường đại học X." Hỏi: "Ngài có biết làm thơ không?" Thần đĩa lập tức viết ra từng chữ một bài thơ ai oán động lòng người, vô cùng tuyệt mỹ.
🌟
Sau khi đọc xong, tôi vô cùng xúc động. Thần đĩa là có thật hay không? Những ai đã từng chơi tự khắc hiểu rõ. (Về sau quá thịnh hành nên thần đĩa bị cấm. Ở Mỹ, thần đĩa được gọi là "bàn cầu cơ".) Tôi có một cảm nhận: "Bánh xe thời gian nghiền nát sinh tử, nhưng linh hồn con người dường như vẫn tiếp tục tiến về phía trước."
12. Từ Đại Cảng đến vịnh Tây Tử
Khoảng thời cấp hai của tôi. Chi nhánh Cao Hùng của Công ty Điện lực Đài Loan tổ chức một hoạt động tắm biển ở vịnh Tây Tử. Cha mẹ tôi không tham gia. Lúc đó tôi rất thích bơi lội. Khi xe chở mọi người từ Đại Cảng khởi hành, tôi đứng bên đường vẫy tay chào tiễn họ. Tôi không được tham gia, buồn lắm! Sau đó, tôi nghĩ: "Sao mình không chạy bộ từ Đại Cảng đến vịnh Tây Tử nhỉ, đợi hoạt động bơi lội kết thúc rồi đi xe về cùng mọi người."
Người Cao Hùng ai cũng biết: Chạy từ quận Tân Hưng, phải đi qua quận Tiền Kim, từ quận Tiền Kim đến quận Diêm Trình, từ quận Diêm Trình đến quận Cổ Sơn, từ quận Cổ Sơn đến quận Kỳ Tân. Sau đó vòng quanh núi Thọ Sơn, chạy quanh co đến vịnh Tây Tử. Quãng đường này rất dài. Chạy từ phía Đông sang phía Tây. Rất nhiều, rất nhiều ngã tư đường.
Tôi nhớ lúc đó có xe buýt số "○" chạy từ khu Tân Hưng ở Đại Cảng đến vịnh Tây Tử. Nhưng tôi không có tiền. Chỉ còn cách chạy bộ. Thế là tôi thật sự bắt đầu chạy, men theo biển báo xe buýt số "○", cứ thế tiến lên. Trong lòng tôi có một ý nghĩ: "Chỉ cần tiến lên, dù xa đến đâu, tôi nhất định sẽ đến được."
Tôi chạy rồi dừng, dừng rồi lại chạy, thở hổn hển thì dừng, hết thở dốc thì lại chạy. Tôi bước từng bước một. Không nghỉ không ngừng. Khát cháy cổ. Tôi cầu nguyện đấng tối cao của mình: "Hỡi đấng quang minh của con, con khát đến chết mất. Người đã từng nói, chỉ cần tin vào Người, con sẽ không khát, Người nhất định sẽ cho con nước uống, để con được no đủ."
Một lúc sau. Tôi thấy một nhà nọ, trước cửa có để thùng gỗ đựng nước, trên thùng viết hai chữ "Mời uống". Tôi thật sự được uống nước rồi! Đến một chỗ khác, tôi lại khát cực kỳ. Ở khúc quanh thuộc quận Kỳ Tân. Lại có người "Mời uống" cho khách qua đường. Tôi lại được giải khát!
Thời đó, lòng người thuần phác, nhiều người làm việc thiện, họ thường đặt nước ở lối vào núi, ngã tư đường, thôn xóm hẻo lánh, đầu làng, để người đi đường có nước uống. Thường viết hai chữ "Mời uống". Từ đây, tôi ngộ ra: "Tạo thuận tiện cho người, chính là tạo thuận tiện cho mình." "Cho đi còn phúc hơn nhận lại." "Chỉ cần con người bỏ được lòng tư lợi, tương lai mới có thể được như ý."
Tôi thật sự chạy đến được vịnh Tây Tử. Tôi xuống nước bơi. Hàng xóm thấy tôi thì giật mình kinh hãi. Họ hỏi: "Con đến đây bằng cách nào? Ca Tử (tên thời thơ ấu), con đến đây bằng cách nào?" Tôi đáp: "Con chạy bộ đến đây!" Họ rất ngạc nhiên! "Chạy được sao? Xa như vậy?" Tôi nói: "Con thật sự chạy đến đây!" Tôi nói: "Con người có lòng kiên trì và nghị lực, không gì không đạt được!"
13. Đừng đánh đứa trẻ này
Khi tôi đi học là thời kỳ giáo dục bằng đòn roi thịnh hành nhất, thầy cô đánh học sinh là chuyện bình thường. Thi được một trăm điểm thì không bị đánh. Thiếu một điểm bị đánh một cái. Thiếu bao nhiêu điểm thì bị đánh bấy nhiêu cái. Công cụ thầy cô dùng để đánh học sinh là roi tre hoặc roi mây, đánh vào lòng bàn tay, mu bàn tay hoặc bắp chân sau.
Có thầy còn hung dữ hơn, đánh đòn vào mông, bắt học sinh nằm sấp xuống, lấy roi đánh "bốp bốp". Tại sao lại có tiếng "bốp bốp"? Bởi vì nhiều học sinh biết mình điểm kém sẽ bị đánh, nên đã nhét giẻ rách vào trong quần từ trước. Nhưng, vẫn bị thầy lôi ra. Rồi bị đánh một trận tơi bời.
Tôi có chiến thuật riêng của mình. Khi thầy gọi tất cả học sinh bị đánh ra xếp hàng, tôi sẽ vội vàng xếp ngay sau lưng bạn Trần Đồng Nhân. Tại sao phải xếp sau lưng Trần Đồng Nhân? Bởi vì bố của Trần Đồng Nhân là chủ tịch Hội phụ huynh học sinh của trường. Khi thầy đánh đến chỗ cậu ấy. Đột nhiên dừng lại. Thầy nói: "Tay tôi mỏi rồi! Thôi đánh đến đây thôi, các em còn lại không phải đánh nữa, về chỗ đi!" Hì hì! Đây là kế hay của tôi đấy. Thầy phải nể mặt con trai của chủ tịch Hội phụ huynh học sinh là Trần Đồng Nhân ba phần. Nhờ cách này, tôi đã thoát được mấy lần tai họa roi mây, cũng như tránh được cảnh bị "măng xào thịt" (ý nói bị đòn).
🌟
Một lần nọ. Trong giờ Công dân, có một thầy giáo to cao vạm vỡ mới đến, họ Tăng. Thầy dùng "mắt đồng" nhìn quét vài vòng. Tôi thấy run rẩy sợ hãi. Thầy Tăng giơ bàn tay dày của mình lên, vung vẩy trong không khí và nói: "Sau này học sinh nào không chú ý học sẽ bị tôi tát hai cái!" Thầy Tăng nói: "Tôi sẽ làm mẫu trước!"
Ánh mắt thầy quét một vòng rồi dừng lại ở tôi, lúc đó tôi vừa gầy vừa thấp vừa nhỏ, ngồi bàn đầu tiên hàng đầu tiên. Thầy bước xuống bục giảng. Đứng trước mặt tôi. Không nói hai lời, thầy giơ tay phải định đánh tôi, tôi tự nhiên né mặt sang bên kia. Nhưng, nhanh như chớp, bàn tay trái dày của thầy đã quạt mạnh vào mặt tôi, khiến tôi ngã lăn ra, trên mặt lập tức hằn năm vết ngón tay. Tôi kêu lên một tiếng đau đớn! Rồi nén lại ngay, ngẩng đầu ưỡn ngực. Cả lớp học sinh đều sững sờ, im lặng như tờ.
🌟
Vài ngày sau, lại là giờ Công dân. Thầy Tăng gọi tôi ra ngoài lớp. Thầy nói với tôi: "Hôm đó, sau khi đánh em, tối đó tôi nằm mơ thấy mình chạy trốn dưới sấm sét, sét đánh trúng người tôi, có tiếng nói rằng không được đánh đứa trẻ này. Nó là con của thần." Thầy Tăng hỏi: "Em rốt cuộc là ai?" Tôi đáp: "Em là Lư Thắng Ngạn!" (Câu châm ngôn của tôi là: "Hãy sống thẳng lưng, sống cho thật đẹp và có ích!")
14. Xuyên thấu âm dương giới
Bạn cùng lớp thời tiểu học Lý Chân Chính. Bạn học này có tính cách hướng nội, thuộc típ người xa lánh đám đông, theo thuật ngữ hiện đại gọi là "tự kỷ". Mềm yếu. Ít nói. Không thích đông người, không tham gia hoạt động. Lúc nào cũng trốn tránh.
Một ngày nọ, tôi thấy bạn ấy một mình, ở một góc lớp học, đang âm thầm nức nở. Nước mắt chảy dài. Vẻ mặt ủ rũ. Khóc đến nỗi toàn thân run rẩy.
Tôi bước đến gần, định hỏi thăm bạn ấy: "Bạn sao vậy?" Từ trước đến nay, bạn ấy chỉ có mình tôi là bạn, vì cả hai chúng tôi đều là những kẻ yếu thế trong lớp. Lý Chân Chính nói với tôi: "Bà nội mất rồi! Mình buồn lắm!"
Tôi biết sơ về quá khứ của bạn ấy. Bố mẹ ly hôn. Bạn ấy được gửi đến ở với bà nội, do bà nội chăm sóc, một bà một cháu, hai người nương tựa vào nhau mà sống. Bà không phải là người giàu có, bà nhặt ve chai, kiếm được không nhiều tiền. Bà rất thương người cháu này, tất cả số tiền kiếm được đều dùng để nuôi Lý Chân Chính ăn học.
Một buổi tối nọ. Bà nội mua một tô mì hoành thánh, dù bà đang rất đói, nhưng nhìn thấy Chân Chính gầy gò nhỏ bé, bà đã nhường hết tô mì cho cậu, còn mình chỉ uống nước. Lý Chân Chính để lại một viên hoành thánh, đưa cho bà. Hai bà cháu ôm nhau khóc. Nhà của Lý Chân Chính là một công trình xây dựng trái phép, chỉ có một ngọn đèn, Lý Chân Chính đang làm bài. Tôi cũng đến nhà bạn ấy làm bài. Bà nội hỏi: "Nhà Lư Thắng Ngạn không có đèn sao?" Lý Chân Chính đáp: "Bạn ấy ở ký túc xá công ty điện lực, có đến bảy ngọn đèn cơ!" Bà nội chỉ "ồ" một tiếng, không nói gì thêm!
Giờ đây, người bà thân thương của cậu ấy đã qua đời, cậu không biết phải sống tiếp thế nào nữa? Lý Chân Chính nói: "Mình muốn biết bà đã đi đâu?" Tôi nói: "Để mình cùng bạn cầu nguyện nhé?" "Liệu có hiệu quả không?" Tôi nói: "Miễn là bạn thành tâm cầu nguyện thì nhất định sẽ có hiệu quả." Tôi nắm tay cậu ấy, cùng nhau cầu nguyện. Lý Chân Chính bỗng nhiên nhìn thấy bà của mình, mặc áo mới, cưỡi mây, nhẹ nhàng bay lượn, dáng vẻ vô cùng uyển chuyển, gương mặt rạng ngời hào quang.
Bà nói: "Người bạn Lư Thắng Ngạn của cháu không phải người thường đâu, nó có lai lịch lớn lắm, cháu hãy học theo nó." Nói xong, bà liền biến mất. Lý Chân Chính nhìn thấy bà thăng thiên, cũng yên tâm rồi. Sau đó, Lý Chân Chính chuyển trường. Không biết đã đi đâu? Việc Lý Chân Chính nhìn thấy được cũng là điều quý hiếm, liệu cậu ấy cũng có lai lịch gì chăng? Tôi lĩnh ngộ được một câu: "Chuyên tâm nhất niệm là vô cùng quan trọng!"
15. Cuộc đời đi học
Thời kỳ học sinh trong cuộc đời tôi được liệt kê như sau: Tiểu học - Trường Tiểu học Đại Đồng (Cao Hùng). Trung học cơ sở - Trường THCS Số 2 Thành phố Cao Hùng (Cao Hùng). (Do học lớp 6 bị lưu ban hai lần, nên bị chuyển sang lớp dạy nghề.) Trung học cơ sở - Trường THCS Số 3 Thành phố Cao Hùng (lớp dạy nghề). (Tôi tốt nghiệp lớp dạy nghề với thành tích tốt.) Trung học phổ thông - Trường Công nghiệp Cao Hùng (ngành đúc). (Đứng đầu lớp) Đại học - Trường Trắc Lượng (ngành Đo đạc). (Đài Trung) (Kỹ sư)
🌟
Đó là quá trình học tập trong cuộc đời tôi. Khi học tiểu học và trung học cơ sở (năm thứ nhất), thành tích học tập của tôi không tốt do không thích học. Vì vậy, tôi đã phải học lại lớp 6 hai lần. Tôi được chuyển đến lớp dạy nghề dành cho học sinh lưu ban, khi đó được đặt tại Trường THCS Số 3 Thành phố Cao Hùng. Do là lớp tập trung các học sinh lưu ban, tôi được xem là một trong những học sinh khá hơn, và vì thế thành tích học tập đã trở nên xuất sắc. Khi lên Trường Công nghiệp Cao Hùng, tôi thể hiện còn tốt hơn nữa, được giáo viên chủ nhiệm đánh giá là "đạo đức và học tập đều xuất sắc". Đứng đầu lớp. (Được miễn học phí.) Nhận được học bổng dành cho học sinh nghèo của Công ty Xi măng Gia Tân. Tổng cộng sáu lần.
Khi học đại học, tôi học trường quân đội, cụ thể là khoa Đo đạc của trường quân sự. (Tại sao lại học trường quân đội? Vì học phí đại học thông thường rất cao, dù có thi đỗ cũng không có tiền theo học. Chỉ có học trường quân đội là được miễn toàn bộ học phí.) Về sau, trường Đo đạc sáp nhập thành Học viện Kỹ thuật Trung Chính, sau đổi tên thành Đại học Quốc phòng. Tôi tốt nghiệp khóa 32 của trường Trắc Lượng. Tôi tốt nghiệp khóa 28 của Học viện Kỹ thuật Trung Chính.
🌟
Sau khi tốt nghiệp Đại học Quân sự, tôi phục vụ trong ngành đo đạc và bản đồ trong mười năm. Khi giải ngũ, tôi 34 tuổi với cấp bậc thiếu tá.
Trong thời đi học, giáo viên thường cho chúng tôi đề văn là: "Ước mơ của em." Mỗi lần như vậy, trong bài văn của tôi, ước mơ của tôi luôn là muốn trở thành giáo viên. Giáo viên! Giáo viên! Giáo viên!
🌟
Thời trẻ, tôi có khát vọng mãnh liệt muốn trở thành giáo viên, bởi trong thời học sinh, người vĩ đại nhất mà tôi từng thấy chính là thầy cô giáo. Ý niệm đã quyết, thì cứ thế mà thực hiện. Điều này cần ý chí và lòng can đảm. Tôi không thể yếu đuối! Tôi phải mạnh mẽ lên! Tôi không ngừng tự nhủ với bản thân, phải khỏe mạnh, phải vững vàng, phải có một tâm hồn mạnh mẽ. Là một người thầy, tôi không thể rơi vào rừng dục vọng, điều đó không xứng với tư cách một người thầy. Tôi phải có sự tu dưỡng thực chất mới có thể cảm hóa được học trò. Tôi muốn khởi lòng từ bi với tất cả chúng sinh hữu tình. Tôi muốn nở hoa kết trái. Tôi muốn tìm kiếm vị Guru (thầy) của mình, học hỏi từ thầy, và cuối cùng cũng trở thành một vị Guru (thầy). Tìm kiếm vị Thượng sư của tôi. Tôi muốn trở thành một vị Thượng sư thực sự có năng lực. Tôi muốn dùng thiền định để thấy được ánh sáng trong tâm mình. Thắp lên ngọn đèn tâm. Để ngọn đèn tâm được truyền tiếp mãi mãi!
16. Bàn tay kỳ diệu
Thời học sinh của chúng tôi, có một thời gian, mọi người thịnh hành nuôi tằm, đó là những con sâu màu trắng, ăn lá dâu. Nuôi từ tằm nhỏ thành tằm lớn. Tằm lớn nhả tơ. Kết thành kén tằm to bằng hạt lạc. Màu trắng, long lanh trong suốt. Hầu như học sinh nào cũng nuôi tằm. Con tằm lớn nhất, khoảng bằng ngón út. Con tằm nhỏ nhất, bằng con kiến. Bên trong kén tằm là: Con nhộng. Nghe nói con nhộng sẽ biến thành bướm, nhưng tôi chưa từng thấy. Tôi cũng tự nuôi tằm, dùng hộp giấy nhỏ để đựng, hộp giấy nhỏ có kích thước như hộp cơm ngày nay. Mua lá dâu về, rửa sạch lau khô, trải ở đáy hộp cơm cho tằm ăn. Nhìn tằm con ăn lá dâu, thật thú vị!
🌟
Lúc đó, tôi chú ý một điều: Chỉ cần tôi đưa tay lên phía trên hộp cơm đựng tằm, những con tằm đang ăn lá dâu liền đứng yên bất động. Tôi rút tay lại. Tằm lại tiếp tục ăn lá dâu một cách ngon lành. Tôi không tin. Tôi lại đưa tay lên lần nữa. Lần này cũng giống vậy, tằm lại như vào trạng thái thiền định, không hề cử động. Tôi cảm thấy rất kinh ngạc!
Tôi đến trường. Các bạn cùng lớp đều mang hộp tằm của mình ra, mọi người cùng xem. Khi tôi đưa tay lên phía trên hộp tằm, tằm liền đứng yên bất động, hoàn toàn không cử động. Điều này xảy ra với hộp tằm của bất kì bạn nào. Các bạn đều cảm thấy rất kỳ lạ, không thể tin được! Nhưng khi các bạn khác bắt chước tôi, đưa tay lên trên hộp tằm, những con tằm vẫn cứ nhúc nhích như bình thường. Nghĩa là: Tôi vừa đưa tay lên, tằm liền đứng yên! Các bạn đưa tay lên, tằm không có phản ứng gì, vẫn cứ động đậy. Chuyện này là sao? Mọi người đều cảm thấy khó hiểu.
🌟
Tôi nhớ lại một câu chuyện đã được nghe: Có một người tu hành ở dãy Himalaya, công lực của vị này rất cao thâm, râu trắng dài, khuôn mặt từ bi trang nghiêm, thường du hành khắp nơi, không có chỗ ở cố định. Ngài sống trong hang đá. Ăn trái cây trên núi, uống nước suối trên núi. Mặc áo vải rách. Đi lại giữa các hang động. Ngài thường gặp hổ, gấu, báo, voi... và các loài thú khác. Ngài vẫn điềm nhiên, và khi gặp ngài, những con hổ cũng đứng yên bất động. Khi ngài đi. Hổ liền quay đi. Rắn gặp ngài cũng quay đầu bò đi. Vị tu sĩ này có thể biến những con hổ dữ thành mèo hiền. Có người từng thấy ở cửa hang của vị tu sĩ này có hai con hổ canh giữ cho ngài. Tôi lĩnh ngộ: "Linh quang ẩn hiện, vạn vật trong thiên hạ đều bình đẳng."
17. Cú đánh home run
Hồi nhỏ, tôi rất thích chơi bóng chày. Từ bé tôi đã có thị lực rất tốt, chưa từng đeo kính, đến tận bảy mươi tư tuổi vẫn không cần đeo kính. Nhờ có thị lực tốt. Tôi đánh bóng chày rất chuẩn xác, vung gậy một cái là thường: Home run. Safe hit. Tệ lắm thì cũng là Ground ball. Thỉnh thoảng cũng đánh ra Foul ball. Hiếm khi nào pitcher ném bóng mà tôi vung gậy lại không đánh trúng. Chuyện "three strikes out" không bao giờ xảy ra với tôi. Vì có sức đánh mạnh. Khả năng bắt bóng cũng khá tốt. Vì thế, tôi rất say mê bóng chày.
🌟
Có một lần, tôi chơi bóng chày. Các bạn trong lớp chia thành hai đội, một đội đội mũ trắng gọi là đội trắng, một đội đội mũ xanh gọi là đội xanh. Tôi ở đội trắng. Một người bạn thân của tôi ở đội xanh, cậu ấy tên là Trương Khang Chi. Tôi và Trương Khang Chi thường hay ở cùng nhau, tính cách và tình bạn đều rất hòa hợp. Trương Khang Chi là một tài năng ở vị trí bắt bóng. Đến lượt tôi đánh bóng, quả đầu tiên, tôi đánh lệch, là một quả foul ball. Quả thứ hai là bad ball, tôi không đánh. Quả thứ ba, tôi vung gậy thật mạnh, đánh trúng ngay giữa, bóng bay qua đầu người chơi ngoài sân. Bay vào khu khán giả. Một cú home run hoàn hảo.
Tôi ném gậy bóng chày ra sau, chuẩn bị chạy qua các chốt một, hai, ba và cuối cùng về đích. Đang lúc tôi phấn khởi và đồng đội đang reo hò cổ vũ, thì Trương Khang Chi ở vị trí bắt bóng bỗng nổi giận. Tôi quay đầu nhìn lại. Chết rồi! Người bạn thân của tôi, trên trán đã sưng một cục to, một tay Trương Khang Chi đang ôm chỗ sưng, tay kia thì đuổi theo tôi để đánh. Tôi chạy phía trước. Cậu ấy đuổi theo phía sau. Cậu ấy đã bị gậy bóng chày đập trúng. Vừa khóc vừa la thảm thiết, vừa đuổi theo tôi để đánh.
Tôi vừa chạy vừa la: "Trương Khang Chi, xin lỗi!" "Trương Khang Chi, xin lỗi!" "Trương Khang Chi, xin lỗi!" "Tôi không cố ý đâu!" Trương Khang Chi đang nổi trận lôi đình: "Đau chết tôi rồi! Lư Thắng Ngạn chết tiệt, đau chết tôi rồi! Tôi phải đánh cho cậu một trận!" Người bắt bóng Trương Khang Chi được đưa đến phòng y tế để cầm máu, bôi thuốc và dán băng keo. Tôi lo lắng đến thăm cậu ấy. Mắt cậu ấy vẫn còn hằn học, nhưng cơn giận đã nguôi bớt. Tôi hỏi: "Bác sĩ nói bao lâu thì khỏi? Xin lỗi nhé!" Trương Khang Chi nói: "Một tuần."
Tôi bỗng nói: "Cục sưng của cậu, ngày mai sẽ khỏi!" - Tôi đưa tay sờ lên miếng băng keo. Trương Khang Chi tức giận nói: "Ma mới tin!" Nhưng kết quả thật kỳ diệu, cục u đỏ to của Trương Khang Chi đã biến mất hoàn toàn chỉ sau một đêm. Thật không thể tin được! Trương Khang Chi nói: "Lư Thắng Ngạn nói một ngày là một ngày, lạ thật!"
18. Một đời sáng tác
Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Thầy bắt đầu viết từ khi nào?" Tôi đáp: "Từ tiểu học." Người ta hỏi: "Thật vậy sao?" Tôi đáp: "Thật."
Thời tiểu học, trường có hai loại ấn phẩm cho học sinh đọc, tên của hai ấn phẩm đó là: Một, Nhật báo Quốc ngữ. Hai, Tạp chí Bạn Học.
Hai ấn phẩm này rất đặc biệt, Nhật báo Quốc ngữ có ký hiệu phát âm bên cạnh mỗi chữ. Tạp chí Bạn Học có nghĩa là "người bạn của học sinh", nội dung các bài viết phù hợp với lứa tuổi của chúng tôi. Tại sao tôi lại nhắc đến hai ấn phẩm này, vì chính hai ấn phẩm này đã khơi dậy động lực "viết lách" trong tôi. Tôi thấy trên báo chí tạp chí có đăng dòng chữ "Mở cửa đón nhận, hoan nghênh cộng tác", lúc đó, như có tia chớp lóe lên, hai chữ "cộng tác" in sâu vào tâm trí tôi, đặc biệt là dòng chữ "nhuận bút hậu hĩnh, nhất định nhận bài" càng thu hút tôi hơn nữa.
Tôi đọc được trong mục truyện cười có: Bố nói: "Có được một người vợ tốt, cuộc đời đã thành công được một nửa." Tiểu Minh nói: "Vậy con lớn lên, con sẽ cưới hai người vợ." Đọc xong, tôi cười ha hả. Tôi nghĩ, cái này mình cũng viết được. Tôi động não, nghĩ ra vài mẩu "truyện cười" để gửi đăng. Bài của tôi thật sự được đăng. Thầy giáo dùng bút đỏ khoanh tròn truyện cười của tôi, dán lên bảng tin, các bạn đều nói: "Lư Thắng Ngạn là nhà văn!" Đặc biệt là các bạn nữ đều muốn làm quen với tôi. Trong lòng tôi thầm sung sướng. Từ đó, khao khát sáng tác và đăng bài của tôi ngày càng mạnh mẽ, và điều này đã trở thành cả cuộc đời sáng tác của tôi.
🌟
Khi học trung học cơ sở và trung học phổ thông, tôi đã gửi bài cho Báo Tin tức Đài Loan ở Cao Hùng, Báo Tân Sinh Đài Loan ở Đài Nam, và Báo Chiến sĩ Trẻ ở miền Bắc.... Thời trung học phổ thông: Tôi là tổng biên tập tạp chí Thanh niên Hùng Công. Tổng biên tập tạp chí Văn Túy Thanh niên Cao Hùng. Các bài viết của tôi được đăng trên chuyên mục phụ " Vịnh Tây Tử" và chuyên mục nghệ thuật "Mưa Tây Bắc" của Báo Tin tức Đài Loan.
Khi tôi đến nhận nhuận bút. Tổng biên tập Lâm Hải Cầu, tổng biên tập Tiểu Ngư và nhà văn chuyên mục Doãn Tuyết Mạn nhìn thấy tôi, ai cũng giật mình. "Lư Thắng Ngạn, nhỏ thế này!" Trong thời trung học phổ thông, tôi gửi bài cho các tờ báo tạp chí lớn nhỏ khắp tỉnh, và nhận được nhiều lời khen ngợi.
🌟
Khi vào khoa Đo đạc của trường Đại học, một cách tự nhiên tôi trở thành tổng biên tập Văn Nghệ Trắc Lượng". Tại Đài Trung, tôi có một chuyên mục trên Báo Dân Thanh: "Thư ngắn gửi người đẹp". Trên Báo Đài Loan ở Đài Trung, tôi có một chuyên mục: "Thế giới tâm linh". Tôi đã xuất bản bốn cuốn sách đầu tiên: Tập thơ khói mỏng. Lời thì thầm trong vườn mộng. Giấc mộng xanh đã tan. Lá bay trong gió.
Lúc đó có một tạp chí tên là Tạp chí Gió Hoang, mỗi kỳ đều đăng bài viết hoặc thơ của tôi. (Tại trường Trắc Lượng, tôi đã giành được Giải thưởng Văn nghệ Voi Vàng, bằng khen nhiều vô số kể.)
Sau này khi tôi học Phật, cuốn "Mạn đàm linh cơ thần toán" vừa xuất bản đã gây chấn động khắp nơi. Tôi nói: "Không có việc nhỏ thì sao có việc lớn? Làm tốt từng việc nhỏ, chính là làm việc lớn!"
19. Thêm một chương về cắm trại
Hồi nhỏ, cả lớp chúng tôi đi cắm trại. Tôi nhớ mình đã viết về chuyện này rồi, nhưng vì rất quan trọng nên xin kể lại một lần nữa. Ba người ngủ chung một lều. Chúng tôi có đốt lửa trại, chơi rất vui, rồi cũng mệt, vừa vào lều, hai người bạn của tôi đã ngủ say như chết. Chỉ có tôi đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ. Tôi thấy: Tấm vải che lều bị kéo ra. Một bà lão trông rất quái dị bước vào. Nhe răng vàng ra. Cúi người xuống. Đối diện với hai người bạn của tôi, hít vào, miệng bà ta đặt gần mũi các bạn. Hít... hít... hít... Bà ta còn cười quái dị khe khẽ... khe khẽ... khe khẽ... với vẻ thích thú không thể kìm nén được. Mẹ ơi! Tôi sợ đến toàn thân tê liệt. Nhìn thấy bà lão quái dị sắp hút hơi thở của tôi, tôi căng thẳng đến không biết phải làm sao. Đột nhiên. Có tiếng nói vọng vào từ bên ngoài lều: "Đứa trẻ này không thể hút được, nó có thiên mệnh, ngươi không được hút khí nó." Chính câu nói bất ngờ này đã ngăn bà lão quái dị hút hơi thở của tôi. Bà lão kêu chí chí, nhe răng trợn mắt một hồi rồi tức giận bỏ đi. Sau đó, hai người bạn cùng lều với tôi, không lâu sau đều qua đời. Tôi (Lư Thắng Ngạn) là người duy nhất còn sống sót.
🌟
Lúc đó, tôi không biết "thiên mệnh" là gì? Sau này mới hiểu ra: Tôi không phải là một người phàm tục bình thường, tôi là người từ trên trời xuống, tôi đến đây với một sứ mệnh. Giống như Chúa Jesus. Sinh ra trong "máng cỏ". Còn tôi! Sinh ra trong "chuồng gà". (Năm 1945, năm kết thúc Thế chiến II, để tránh bom đạn, tôi được sinh ra trong một trang trại gà.) Jesus được thụ thai bởi Thánh Linh.
Còn tôi? Bố mẹ tôi mới cưới được bảy tháng thì tôi đã chào đời. Mẹ tôi nói: "Thắng Ngạn là đứa trẻ sinh non." Bố tôi không tin. Ông cho rằng tôi không phải con của mình. Chuyện này gây ồn ào lớn, bà ngoại tôi tức đến chết. Từ nhỏ tôi được gửi cho dì nuôi. (Nuôi đến khi dì tôi kết hôn mới thôi.) Tôi được sinh ra như thế nào? Chẳng lẽ cũng là do Thánh Linh thụ thai?
🌟
Tôi hiểu "thiên mệnh", tôi phải học những điều mà nhân loại chưa từng biết đến, rồi truyền dạy lại cho chúng sinh. Tôi phải giải quyết những vấn đề không thể tưởng tượng được, và đem đến cho chúng sinh những câu trả lời vượt ngoài sức tưởng tượng. Phải có được sức mạnh vĩ đại, để khi nhập thế có thể cứu độ nỗi khổ của chúng sinh. Tôi phải làm những việc mà người thường không thể làm được. Tôi phải giải mã sinh tử, làm chủ sinh tử. Rồi truyền phương pháp cho những đệ tử có duyên. Jesus là giáo chủ của một tôn giáo. Tôi là tông chủ của một tông phái.
20. Gặp cô Chiyo
Sau khi tốt nghiệp trường Trắc Lượng (bậc Đại học), tôi đã nhận được bằng kỹ sư. Sau đó tôi được phân công đến đơn vị công tác. Tôi thực sự rất may mắn. Tôi đến doanh trại Vệ Võ ở Phụng Sơn để báo cáo có mặt, chuẩn bị nhận phân công, vị sĩ quan phụ trách phân công hỏi tôi: "Anh từ đâu đến?" Tôi trả lời: "Đài Trung." Vị sĩ quan nói: "Vậy thì về Đài Trung đi!" (Đại đội Đo đạc 5802 ở cầu Nam Môn, Đài Trung.) Tôi nói: "Cảm ơn!"
Trời ơi! Đó là đơn vị lý tưởng nhất, tôi học đo đạc, được phân về đơn vị đo đạc Đài Trung, hơn nữa, nhà tôi cũng ở Đài Trung, bố tôi được điều đến hồ chứa Đức Cơ, thật không gì thích hợp hơn. Tại sao lại là lý tưởng nhất? Mọi người có biết không? Hơn 40 bạn cùng lớp tôi được phân về: Có người đến Thủy quân Lục chiến. Có người đến Không quân. Có người đến Hải quân. Có người đến Lục quân. Có người đến Hậu cần Liên quân. Tất cả đều là học một đằng làm một nẻo, còn tôi thì được học đâu dùng đó, quả thật là đủ may mắn rồi.
Tại Đại đội Đo đạc ở cầu Nam Môn, chỉ có ba người may mắn. Phó Tư Khiêm. Từ Diệu Đường. Lư Thắng Ngạn. (Đơn vị này cần phải có "quan hệ" mới vào được, vậy mà tôi cũng chen vào được, dù tôi chẳng có chút quan hệ nào cả.)
🌟
Tôi đã gặp được cô Chiyo! (Chiyo là phiên âm từ tiếng Nhật, gần giống với Thiên Đại.) Đó là ngôi miếu nhỏ Ngọc Hoàng Cung gần nhà tôi. Cô Chiyo. Cô A Nha. Cô A Liên. Lý Thiên Tứ. (Bốn vị trưởng bối này làm "cầu vong" tại Ngọc Hoàng Cung, thường gọi là hội âm dương.) Tôi và mẹ đến xem. Không ngờ điểm chuyển ngoặt của cuộc đời lại xảy ra tại Ngọc Hoàng Cung.
Cô Chiyo đột nhiên kêu lên: "Có ai tên là Ca Tử, có ai tên là Ca Tử, Diêu Trì Kim Mẫu đang tìm người ấy, Diêu Trì Kim Mẫu đang tìm người ấy!" Ôi! Ca Tử là tên gọi hồi nhỏ của tôi, trong tiếng Nhật nghĩa là Thắng. Tôi bị đẩy ra. Tôi ngơ ngác không hiểu gì! Cô Chiyo nói với tôi: "Diêu Trì Kim Mẫu đã tìm anh rất lâu rồi, rất lâu rồi, Người muốn anh xuất hiện để độ chúng sinh!" Tôi hết sức kinh ngạc: "Tôi chẳng biết làm gì cả."
Cô Chiyo nói: "Chỉ cần anh quỳ xuống là sẽ biết tất cả!" Tôi thực sự quỳ xuống. Những việc xảy ra sau đó được viết trong cuốn sách "Mạn đàm linh cơ thần toán", rất chân thực.
Tôi từ Cơ Đốc giáo, bước sang Đạo, rồi bước sang Phật. Đây chính là điểm ngoặt của cuộc đời tôi. Cô Chiyo, cô A Nha, cô A Liên, Lý Thiên Tứ đều đến từ phân đường Thạch Bích ở Hoa Liên. Cô Chiyo nói: "Việc Ca Tử được phân về đơn vị ở Đài Trung là do Diêu Trì Kim Mẫu sắp đặt, thậm chí cả cuộc đời của cậu ấy đều do Diêu Trì Kim Mẫu sắp đặt." Trời ơi! Tất cả đều là sự thật.
21. Cô Chiyo nói như vầy
Cô Chiyo nói: "Lư Thắng Ngạn là cốt Phật!" Mẹ rất lo lắng: "Vậy con trai tôi có thể kết hôn không?" (Đây là vấn đề quan trọng nhất với mẹ.) Cô Chiyo đáp: "Được. Trước tiên cậu ấy sẽ độ chúng sinh với thân phận người phàm, sau này sẽ độ chúng sinh với thân phận xuất thế." Cô Chiyo lại hỏi: "Khi Lư Thắng Ngạn (Ca Tử) sinh ra có điềm báo gì không?" Mẹ sững người, cứ trầm ngâm suy nghĩ mãi.
Cô Chiyo nói: "Ví dụ như, khi Giáo chủ Phật giáo ra đời, Hoàng hậu Maya mộng thấy voi trắng sáu ngà vào thai. Khi Chúa Jesus - Giáo chủ Cơ Đốc giáo ra đời, có ngôi sao lớn tỏa sáng chiếu rọi Người, và nhiều điềm lạ khác." Mẹ nói: "Khi sinh Ca Tử, tôi còn quá trẻ, mới 18 tuổi, không nhớ những chuyện đó nữa. Nhưng có một điều kỳ lạ. Ca Tử sinh ra được bọc trong lớp màng trắng, phải dùng dầu lau rất lâu mới sạch." Cô Chiyo hỏi: "Còn chuyện kỳ lạ nào khác không?" Mẹ nói: "Ca Tử vừa sinh ra khóc suốt ngày, muốn dỗ nó nín, chỉ có cách bế ra ngoài, hướng về trời, về trăng, về sao, nó mới thôi khóc và nhoẻn cười." Cô Chiyo nói: "Đó cũng là một điềm báo, dù sao cũng là từ trời sinh xuống. Còn gì nữa không?" Mẹ đáp: "Lúc Ca Tử còn nhỏ rất khó nuôi, từng thấy một vị thần bảo hộ nó, vị thần đó chính là Thành Hoàng ở Gia Nghĩa." Cô Chiyo hỏi: "Sau đó thì sao?" Mẹ đáp: "Thờ cúng Thành Hoàng Gia Nghĩa, cho Ca Tử làm con nuôi của ngài." Cô Chiyo trầm ngâm suy nghĩ.
🌟
Từ sau khi tôi được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn: Lên trời xuống đất: (Tận mắt thấy cõi tịnh thổ Ma Ha Song Liên Trì, tận mắt thấy Liên Hoa Đồng Tử. Lên các cõi trời gặp chư Thánh. Lại xuống địa phủ, du hành khắp linh giới.) Tam Sơn Cửu Hầu truyền pháp: Hằng đêm đến dạy pháp. Kết ấn. Học các loại bộ pháp. Chú. Ấn. Khẩu quyết.
Cổ Phật dạy: Ngũ minh: Nhân minh. Thanh minh. Y phương minh. Công xảo minh. Nội minh. Thể rắn. Thể lỏng. Thể khí. Pháp lực. Năng lực. Linh lực. Sinh mệnh. Chư Phật. Bồ Tát. Kim Cang. Hộ Pháp. Không Hành. Chư Thiên. Nhân loại. Động vật. Thực vật. Khoáng vật. Địa ngục. Ngạ quỷ. Súc sinh. Tinh linh. Quỷ. Vật chất. Tâm linh. Tám loại nguyên tố: Đất, nước, lửa, gió, ất thái, hành vi, tâm linh, cá thể.
Diêu Trì Kim Mẫu bảo tôi đi tìm Guru. Tôi đã bái rất nhiều sư phụ: Đạo. Hiển. Mật. Tôi nương dựa trong Mật giáo: Liễu Minh Hòa thượng, Sakya Chứng Không Thượng sư, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Thubten Dhargye Thượng sư. (Tôi học tập vạn pháp.)
22. Yoga bí mật của tôi (1)
Trong cuốn sách này, tôi sẽ công bố yoga bí mật mà tôi tu luyện.
1. Yoga Vô ngã. A. Điều hòa hơi thở. (mảnh, chậm, dài) B. Tỳ Lô thất chi tọa. (Chân có thể ngồi kiết già thì ngồi kiết già, không thể ngồi kiết già thì ngồi bán già, hoặc ngồi tùy ý, hai gót chân chạm vào Mật luân. Vẫn không được nữa thì ngồi tự do, thu cằm dưới, thân vươn thẳng.) C. Nhớ kĩ, hít thở phải đến rốn, hoặc đến gót chân. D. Khi hít vào, niệm câu thứ nhất - Thử. (niệm thầm) E. Khi thở ra, niệm câu thứ hai - Ngã. (niệm thầm) F. Khi hít vào, niệm câu thứ ba - Phi. (niệm thầm) G. Khi thở ra, niệm câu thứ tư - Ngã. (niệm thầm) H. Tuần hoàn lặp lại như vậy. I. Thử, Ngã, Phi, Ngã…. Trọng điểm như sau: Đây là huấn luyện Yoga chuyên nhất, thứ nhất là tập trung vào hít thở, thứ hai là tập trung niệm "cái ta này không phải ta". Cái gọi là "cái ta này không phải ta" này cũng chính là "vô ngã". Xét về quan niệm thì nhục thể này đang hô hấp, không phải là ta.
Cách tu luyện này tốt nhất mỗi lần thiền định cần làm 7 phút, phân thành 3 đoạn, tổng cộng là 21 phút. Cũng tức là một tọa là 21 phút. Người bình thường một ngày ngồi một tọa, hai tọa. (cư sĩ tại gia) Người tu hành, một ngày ngồi ba tọa, bốn tọa. Sư phụ nói: "Nhân năng thủ nhất, vạn sự tất." (lời của Lão Tử) [Con người có thể tập trung vào một thứ thì mọi việc đều làm được.] Phật Đà nói: "Chuyên tâm nhất trí, vô sự bất biện." [Chuyên tâm nhất trí, không có việc gì là không làm được.] Tôi nói: "Đây là luyện tập Yoga chuyên nhất." (Chú thích: về mặt thời gian, 7 phút là một tiết, 3 lần 7 tức 21 là một tọa, nhưng có thể điều chỉnh tùy theo mỗi người, thời gian càng dài càng tốt. Linh tính tâm linh sẽ tăng trưởng.)
2. Yoga vô niệm
A. Điều hòa hơi thở. B. Tỳ Lô thất chi tọa. C. Nhớ kĩ, hít thở phải đến rốn, hoặc đến gót chân. D. Khi hít vào, niệm câu thứ nhất - Thử. (niệm thầm) E. Khi thở ra, niệm câu thứ hai - Niệm. (niệm thầm) F. Khi hít vào, niệm câu thứ ba - Phi. (niệm thầm) G. Khi thở ra, niệm câu thứ tư - Niệm. (niệm thầm) H. Tuần hoàn lặp lại như vậy. I. Thử, Niệm, Phi, Niệm.…. Trọng điểm như sau: Pháp tu luyện kiểu này đương nhiên cũng là pháp Yoga chuyên nhất, quan niệm của nó là: chuyên nhất. "Ý niệm này không phải ý niệm" này chính là "vô niệm". Nhục thể không phải của ta. Ý nghĩ cũng không phải của ta. Nếu "vô ngã", "vô niệm" đạt đến chuyên nhất, thân tâm đều sẽ khỏe mạnh. Sức mạnh tâm linh nâng cao. Tâm bình khí hòa. Sinh mệnh được chuyển hóa. Nhờ có tác dụng của hít thở, và tác dụng của "vô ngã", "vô niệm" sẽ đạt đến sự khai phát của linh tính. Nhục thể thô ráp sẽ biến thành nhục thể vi tế. Trên nguyên tắc, trước tiên tu luyện Yoga vô ngã cực kì thuần thục, sau đó tu luyện Yoga vô niệm đến khi thuần thục. Tọa pháp giống như trên. Thời gian giống như trên. Đương nhiên càng lâu càng tốt. (Tu luyện ở giai đoạn này đều là Yoga chuyên nhất, thành tựu chuyên nhất trước ắt có kỳ tích.) Tôi nói: "Đây là bí mật, bí mật của tôi."
23. Yoga bí mật của tôi (2)
3. Yoga âm "Ah":
A. Điều hòa hơi thở. B. Ngồi tư thế Tỳ Lô thất chi tọa. C. Quán tưởng: (Một vùng màu lam trong hư không, trong màu lam có hoa sen trắng, trong hoa sen có chữ Ah màu đỏ.) D. Quán tưởng: (Tề luân của hành giả, vị trí dưới rốn bốn lóng tay, có hoa sen màu trắng, trong hoa sen có chữ Ah màu đỏ.) E. Miệng hô âm thanh "Ah", âm thanh này phải chấn động toàn thân hành giả, tổng cộng làm bảy lần. F. Khi hô chữ "Ah", phải phối hợp hơi thở. G. Vào lần hô chữ "Ah" thứ bảy, thở chữ "Ah" trong hoa sen ở Tề luân ra. H. Quán tưởng: (Âm "Ah" ở Tề luân bay vào trong hư không, hợp làm một với chữ "Ah" trong hoa sen trắng trong hư không.) I. Lặp lại pháp này bảy lần gọi là một tọa pháp. J. Nếu cảm thấy quá mãnh liệt, có thể tĩnh lại, cách một khoảng thời gian mới lại làm pháp.
Trọng điểm như sau: Chữ "Ah" trong hư không là Bổn tôn. Chữ "Ah" trong thân hành giả là linh mệnh của chính mình. Lấy chữ "Ah" hợp với chữ "Ah". Tức là chính mình và Bổn tôn hợp nhất, không hai không khác. Đây chính là yoga âm thanh chữ "Ah". Dựa vào pháp này nhập Tam ma địa. (Thời gian nhập Tam ma địa có thể từ bảy phút đến 21 phút, hoặc lâu hơn.) Chú ý: Chữ "Om" là vũ trụ tối thượng. (Om) Chữ "Ah" là hóa hiện Bổn tôn. (Ah) Chữ "Hum" là chúng sinh. (Hum) Đây là pháp yoga tương ứng chữ "Ah" ấn chữ "Ah". Sau khi tu luyện thành thục pháp này có thể thành thánh thành hiền, bay đến Phật quốc tịnh thổ không khó. Hai người hợp làm một lâu ngày. Sẽ có được tướng của Bổn tôn, thể của Bổn tôn, dụng của Bổn tôn, pháp lực tương đồng với pháp lực của Bổn tôn. (Nhất vị du già)
24. Pháp nghĩa của pháp Yoga
Yoga của Mật giáo và Yoga bí mật có những điểm tương đồng. Phần Yoga chuyên nhất: Cửu tiết Phật phong và Yoga vô ngã, vô niệm có điểm giống và khác nhau. Kim cang tụng và Yoga âm Ah có điểm giống và khác nhau. Kim cang tụng và Yoga âm Ah, tôi xếp cả hai vào pháp tu luyện Ly hý Yoga và Nhất vị Yoga. Bảo bình khí và Yoga ngưng thần có điểm giống và khác nhau. Tôi xếp vào pháp tu luyện Vô tu và Nhất vị.
Ở đây tôi đề cập đến pháp nghĩa của Yoga như sau: Yoga chính là trời người hợp nhất, chính là Tiểu ngã nhập vào Đại ngã, chính là tương ứng. Yoga là hoạt động tâm linh bên trong. Khí động. Mạch động. Minh điểm động. Linh động.
Hoạt động bên trong là một sự giải phóng, có thể giải thoát nghiệp lực bên ngoài, nghiệp lực là sự trói buộc, và tu luyện là cởi bỏ sự trói buộc, như chim bồ câu thoát khỏi lồng.
Yoga có thể kích hoạt năng lượng của bạn, năng lượng này có thể đạt đến vô hạn. Trong quá trình tu luyện, có năng lượng của thần, có năng lượng của chư thiên, có năng lượng của Bồ Tát, có năng lượng của Kim Cang, có năng lượng của Phật, cho đến năng lượng tối thượng (năng lượng vô hạn).
Yoga là phương pháp tu hành. Nghiêm khắc. Thanh tịnh. Tự chế. Ổn định. Tâm linh. (Hoàn toàn không liên quan đến vật chất.) Tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Không liên quan đến yoga.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hành giả tu yoga cần tránh rơi vào cạm bẫy của tham, sân, si. Dục vọng phải diệt tận. Niềm vui của giác quan phải diệt tận. Cảnh giới của yoga không phải ngôn ngữ và văn tự có thể diễn tả được, pháp nghĩa này cũng chỉ là bề mặt. Yoga chính là tuyệt đối. Yoga không phải là nhị nguyên luận. Yoga chính là khai ngộ. (Phải tin vào ý thức tối thượng của vũ trụ, phải tin vào Guru yoga của bạn, phải tin vào Căn bản Thượng sư của bạn.)
Bởi vì chỉ có như vậy, pháp yoga của bạn mới có thể tu luyện một cách kiên định, cho đến khi đạt được thành tựu rốt ráo.
Tại sao có người phát điên? Bởi vì: Đi vào đường tà. Tương ứng với quỷ. Ma chướng. Trong tâm còn dục vọng. Không thể xả bỏ lạc thú của giác quan. Thái độ hành giả không cung kính. Tình cảm không đúng đắn. Những điều này..., đều có thể gây tổn hại cho hành giả. Sức tự chế, sức chuyên chú và sức bền lâu là vô cùng quan trọng, quá trình tu luyện này thường là một hành trình dài. Khai ngộ. Tự tại. Giải thoát. Hợp nhất. Hành giả có thể đạt được tất cả trong tu luyện, chứ không phải bằng suy tưởng. Tôi nói: "Đây là những lời vàng!"
25. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (1)
Tôi đến từ Ma Ha Song Liên Trì. Tương lai tôi cũng sẽ trở về Ma Ha Song Liên Trì. Thế giới Chân Phật của Liên Hoa Đồng Tử nằm trong Ma Ha Song Liên Trì. Bạn còn nhớ bài kệ này không? Liên Hoa Đồng Tử gặp Kim Tiên Khắp cả hư không hoa rơi xuống Vượt mây nghe tiếng trời vi diệu Lời nào tả xiết lạc cõi thiên.
Tịnh thổ của Liên Hoa Đồng Tử nằm trong Tây phương Cực Lạc tịnh thổ của Phật A Di Đà. Thuộc cảnh giới Bát Công Đức Thủy. Tịnh thổ này có nhiều tên gọi: Chân Phật tịnh thổ. Hoa Quang tịnh thổ. Công Đức tịnh thổ. Bát Thủy tịnh thổ. Thanh Lương tịnh thổ. Thủy Nguyệt tịnh thổ. Hương Quang tịnh thổ. Gọi chung là Ma Ha Song Liên Trì.
Vốn là hóa sinh từ hai con mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu, cũng là tịnh thổ nơi Phật A Di Đà hóa sinh Liên Hoa Đồng Tử. Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì là vị đồng tử hóa sinh bất thoái chuyển. Trừ phi Ngài muốn đến thế giới Ta Bà để độ chúng sinh, việc Ngài đến nhân gian du hóa đều mang theo thiên mệnh. Ngài cần phải tu luyện tâm linh, thanh tịnh tất cả nghiệp lực của thân, khẩu, ý. 1. Cứu độ chúng sinh. 2. Cứu chuộc chúng sinh. 3. Từ bi với chúng sinh.
Sự giáng sinh của tôi ở nhân gian chính là để giúp đỡ chúng sinh nơi đây. Chỉ dạy chúng sinh thoát khỏi cái kén nghiệp lực bao bọc tâm linh, dạy chúng sinh thuận theo pháp tắc vũ trụ, thoát ly nhục thân, bay đến Ma Ha Song Liên Trì hóa sinh. (Đây là thiên mệnh của Liên Hoa Đồng Tử Lư Thắng Ngạn.)
Cảnh giới nơi đây giống như thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Không có khổ đau, chỉ hưởng vui sướng.
Bảy lớp lan can. Bảy lớp lưới báu. Bảy lớp hàng cây. Toàn bằng bốn loại báu vật. Ao bảy báu. Nước tám công đức. Bốn bên thềm đường (vàng, bạc, lưu ly, pha lê). Lầu gác (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não). Hoa sen to như bánh xe. Màu xanh ánh xanh, màu vàng ánh vàng, màu đỏ ánh đỏ, màu trắng ánh trắng. Hương thơm vi diệu thanh khiết. Nhạc trời. Mưa hoa mandala từ trời rơi xuống. Bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già và chim cộng mạng cùng cất tiếng hót du dương. Gió nhẹ thổi qua, các hàng cây báu và lưới báu phát ra âm thanh vi diệu như trăm nghìn loại nhạc. Hào quang vô lượng. Thọ mạng vô lượng. Trong đó còn có vô số cảnh tượng tịnh thổ cực lạc khác, tôi sẽ lần lượt giải thích.
Tôi nói: "Đây là những điều trong kinh điển. Tôi biết rằng, Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì dùng Phật tính phi hành như một luồng ánh sáng, qua lại các cõi Phật, còn nhanh hơn cả sóng điện từ."
26. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (2)
Khi đến Ma Ha Song Liên Trì, hành giả sẽ nhận ra rằng nhục thân con người thuở xưa chỉ là "thân thể nhân quả" thô thiển. Đặc tính của nhục thân con người là: Mang nghiệp lực nhân quả. Sẽ già. Sẽ bệnh. Thô thiển không có gì đáng kể. Còn đặc tính của thân thể ở Ma Ha Song Liên Trì là: Thân ánh sáng. Thân ánh sáng vô cùng tinh tế. Không còn nghiệp lực nhân quả. Không già. Không bệnh. Không sinh không tử. Hành giả có thể hiển hiện hình tướng báo thân Phật. Trang nghiêm và đẹp đẽ. Như thiên y, váy xếp, và các báu vật trang nghiêm.
🌟
Thân ánh sáng muốn đến các cõi Phật tịnh thổ khác. Bay bằng thân ánh sáng. Cưỡi hoa sen muôn màu. Qua lại các cõi Phật tịnh thổ, nhanh hơn điện, nhanh hơn ánh sáng, nhanh hơn tia phóng xạ. Không thể tưởng tượng nổi. Không thể diễn tả được. Chỉ trong một niệm là đến nơi. Tôi tự biết rằng: Ma Ha Song Liên Trì là thân ánh sáng. Cõi của thiên nhân là thân ý. Cõi của người là nhục thân.
Thân ánh sáng là cao nhất, thân ý là thứ hai (vẫn còn nhân quả luân hồi), còn nhục thân là thấp nhất, là nơi linh tính (Phật tính) bị giam cầm, khi nhục thân già nua hư hoại, linh tính mang theo nghiệp chướng nhân quả, tùy theo nghiệp trôi lăn vào trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong sáu nẻo này luân hồi không được nghỉ ngơi.
🌟
Cảnh tượng của Ma Ha Song Liên Trì là: Được tạo thành từ vô số dao động của những sắc quang vi tế. Sắc quang vô lượng. Phạm vi của Ma Ha Song Liên Trì gấp hàng triệu lần thế giới loài người. Ánh sáng của Ma Ha Song Liên Trì như cực quang. Rất rực rỡ. Rất dịu dàng. Rất an tường. Rất thanh tịnh. Rất an lạc.
Ma Ha Song Liên Trì tất cả đều xinh đẹp thanh tịnh, các vị Liên Hoa Đồng Tử đủ màu sắc, ngăn nắp trật tự. Liên Hoa Đồng Tử đồng tâm. Liên Hoa Đồng Tử đồng đức. Liên Hoa Đồng Tử đồng thiện. Liên Hoa Đồng Tử đồng lạc. (Tuyệt đối không có ý muốn tách rời.) Cảnh giới này không có cỏ dại, vi khuẩn, côn trùng, rắn, thú dữ. Bốn mùa như mùa xuân, không thể diễn tả. Hoa trời bay trong không trung. Hương thơm khiến thân ánh sáng hoan hỷ. Mưa ánh sáng bảy màu. Cảnh sắc biến hóa vô cùng. Có lầu vàng, có lầu bạc. Nước ao như cầu vồng. Đế võng minh châu sáng ngời. Lư Sư Tôn nói: "Đây là thế giới Chân Phật tuyệt mỹ!"
27. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (3)
Tôi xin nói với mọi người, Ma Ha Song Liên Trì thật không thể nghĩ bàn, vô cùng khó tưởng tượng và khó hiểu.
Ở thế giới con người: Cá phải ở dưới nước. Chim phải ở trên trời. Động vật ở trên mặt đất. Con người phải ở trên đất. Côn trùng ở trong đất.
Nhưng tại Ma Ha Song Liên Trì: Thân ánh sáng có thể tự do biến hóa. Tất cả hình tướng đều có thể tự do biến hóa.
Tôi xin giải thích như sau: Hoa cỏ kỳ lạ có thể ở giữa không trung. Chim có thể ở dưới nước. Thân ánh sáng có thể tự do đi lại trong đất, nước, lửa, gió. Lầu vàng, lầu bạc có thể biến hóa, cũng có thể di chuyển biến hóa trong đất, nước, lửa, gió, thân ánh sáng muốn ở đâu thì ở đó. Biến hóa vô tận. Tùy theo tâm muốn.
Lấy một ví dụ, khi thân ánh sáng bỗng muốn ăn na, một cây na liền mọc lên, kết ra rất nhiều quả na, bạn có thể hái xuống ăn ngay. Ngon tuyệt. Thơm ngọt. Khi thân ánh sáng không muốn ăn nữa, liền tùy ý hóa đi, kể cả trái cây cũng hóa đi. Bởi vì tất cả đều là "linh chất". Thân ánh sáng muốn ăn gì, liền hóa hiện ra thứ đó. Biến hóa đến. Biến hóa đi. Ví dụ: Tuổi thơ, thiếu niên, thanh niên, trung niên, tuổi già, đều có thể hoán đổi cho nhau. Nam giới, nữ giới, có thể hoán đổi cho nhau.
Tuy nhiên, Hòa thuận. Bình đẳng. Các vị Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì chỉ là hình tướng thường có trong sự biến hóa. Thân ánh sáng hóa sinh từ hoa sen. Thường uống nước công đức của trời đất, vị ngọt ngào, tươi mát như rượu tiên, nước ngọc. Liên Hoa Đồng Tử là đồng tử hóa sinh, giao tiếp với nhau không chướng ngại. Ở nơi đây: Không có xung đột của thế gian. Không có chiến tranh của thế gian. Thân ánh sáng ở đây, tất cả đều là những người thiện và hành giả, tu hành mà đến được tịnh thổ.
Ví dụ về nơi ở: Có thể ở trong nụ hoa. Cũng có thể ở trong lầu vàng. Có thể ở trong lầu bạc. Thậm chí có thể ở tại các tịnh độ khác. Cổ thành. Hoàng cung. Lầu gác bằng vàng bạc bảy báu. Cung rồng. Cung trời. Tất cả những điều này đều do biến hóa mà thành. Không cố định. Không giới hạn. Vạn sự vạn vật sinh ra từ ánh sáng, theo sự biến hóa mà đến, theo sự biến hóa mà đi. Đây là tịnh độ Báo thân của Phật A Di Đà. Thân ánh sáng không phải do phụ nữ sinh ra, mà là Phật tính của chính mình, từ trong công phu tu tập, theo đường kinh mạch trung tâm, từ đỉnh đầu, bay ra như chim bồ câu. Tôi nói: "Đây là Phật tính thoát ly khỏi nhục thân, trở về ngôi nhà cõi linh giới."
28. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (4)
Cực lạc của Ma Ha Song Liên Trì đến từ đâu? Tôi xin nói trước: Thân ánh sáng chỉ là ánh sáng của Phật tính. Không chịu ảnh hưởng của nóng lạnh. Không có phân, nước tiểu. Thân ánh sáng chính là ánh sáng của hoa sen nghìn cánh, hấp thu năng lực và ánh sáng tối thượng. Là lượng tử sự sống tinh tế. Chúng ta có thể nói, đó là hoa sen nghìn cánh, hóa hiện thành Liên Hoa Đồng Tử, là thế giới Chân Phật. (Địa vị bất thoái chuyển.)
Trong thế giới này, không có năm tướng suy hoại của chư thiên: 1. Hoa trên đầu héo úa (mũ miện và tóc kết hoa khô héo). 2. Không còn thích chỗ ngồi của mình (chán ghét bảo tòa). 3. Y phục cõi trời dơ bẩn (thiên y không còn thanh tịnh, sinh ra dơ bẩn). 4. Thân thể chư thiên hôi thối (thân thể chư thiên trở nên hôi). 5. Nách đổ mồ hôi (mồ hôi tiết ra). Đây là hiện tượng luân hồi của cõi trời (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Bởi vì linh thể của chư thiên vẫn là thể nhân quả.
Vậy hồn ma là gì? Đó là thể linh thô thiển và dơ bẩn nhất, thể linh của Quỷ Bà chính là loại thể linh này, là thấp kém nhất. Thân ánh sáng ở Ma Ha Song Liên Trì là vĩnh hằng, vì vậy là hạnh phúc nhất. Không có ma chết. (Không sinh không tử) Không có ma phiền não. (Không phiền não nào có thể sinh) Không có ma bệnh. (Không sinh bệnh) Không có thiên ma. (Thiên ma không thể đến) Đó chính là cực lạc.
Tôi xin nói với mọi người. Chư thiên cũng hạnh phúc, chúng ta có thể thấy được niềm vui trong trò chơi của chư thiên qua thiên nhãn của thân ánh sáng. Vì vậy: Niềm vui của con người. Niềm vui của chư thiên.
Thân ánh sáng đều có thể thấy được, như thể thân ánh sáng đang xem một vở kịch, và việc xem kịch này chính là cực lạc. Thân ánh sáng là trạng thái linh tính cao nhất. Bề ngoài đẹp đẽ và tinh khiết, tuy không chú trọng hình tướng, nhưng khi gặp người thân hay bạn bè đến Ma Ha Liên Trì, cũng sẽ biến hóa thành xinh đẹp rạng ngời. (Người thân và đệ tử tu hành thành tựu cũng đến được Ma Ha Song Liên Trì.) Cũng có tiệc chào đón. Các vị Liên Hoa Đồng Tử ở Ma Ha Song Liên Trì cũng có lễ hội, tập hội thân ánh sáng. Tấu lên nhạc trời. Loại nhạc trời này không thể nào diễn tả được. Đây chính là cực lạc. Đi. Đứng. Ngồi. Nằm. Ăn. Mặc. Tất cả đều là cực lạc. Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán, thân ánh sáng của bốn cõi thánh, cũng đến tịnh độ Ma Ha Song Liên Trì, đó thực sự là một cuộc hội tụ tối thượng. Niềm hoan hỷ này thực sự là cực lạc. (Các bậc thánh ở cõi người phải nhập Tam ma địa, tiến vào Tam ma địa mới thấy được Ma Ha Song Liên Trì, điều này cũng có, nhưng rất rất hiếm.) Những cuộc hội tụ của các bậc thánh hiền này. Ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau. (tâm thông) Thực sự là cực lạc.
29. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (5)
Ở Ma Ha Song Liên Trì, thân ánh sáng rất dễ dàng nhận ra cha mẹ, anh chị em, bạn đời, bằng hữu từ kiếp trước.... Bởi vì có "tâm thông". Ngoài ra, Tình thân và tình yêu chính là tình bạn bất diệt. Chúng ta rất dễ dàng gặp được Phật A Di Đà, bởi vì Ngài chính là Bổn tôn của Ma Ha Song Liên Trì. Liên Hoa Đồng Tử chính là hóa thân của Bổn tôn.
Vì vậy có: Ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn, năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Bổn tôn có thể tùy ý biến hóa thân tướng, Liên Hoa Đồng Tử cũng vậy, các ngài có hình tượng tối thượng vô thượng, cũng có thể hiện ra đủ loại hình tướng, thậm chí vượt ngoài sức tưởng tượng. Trực giác của thân ánh sáng có thể thấu suốt tất cả tịnh thổ. Bởi vì các cõi tịnh thổ đều thông với nhau.
Ví dụ: Thân ánh sáng có thể tinh vi quan sát cõi trần thế, cũng như quán sát các cõi trời. Tuy nhiên, cõi người không thể biết được Ma Ha Song Liên Trì, trừ phi người đó có thể chứng nhập: Hữu dư Tam ma địa. Vô dư Tam ma địa. Những bậc thánh này có thể quan sát được Ma Ha Song Liên Trì, hoặc đến Ma Ha Song Liên Trì như một vị khách hay lữ khách tạm thời. Đợi khi bậc thánh từ bỏ nhục thân thô thiển, dùng thân ánh sáng để vào tịnh độ. Ma Ha Song Liên Trì và cõi trời là khác nhau. Ma Ha Song Liên Trì là thân không mê muội nhân quả, bất thoái chuyển.
Các cõi trời là thân nhân quả. Cõi người là nhục thân luân hồi nhân quả. Địa ngục. Ngạ quỷ. Súc sinh. (Tất cả đều là thân ác quỷ.) Thân trung ấm là linh hồn, là thân huyễn đang chờ đợi luân hồi nhân quả. Cõi trời cũng giống vậy sẽ phiền não rối loạn, như cõi Dục giới thiên, họ cũng phạm sai lầm trong nhận thức và hành vi. Cõi Sắc giới thiên có ít lỗi lầm hơn. Cõi Vô sắc giới còn ít lỗi lầm hơn nữa. Chỉ có từ cõi Vô sắc giới trở lên mới là thế giới vô tội nghiệp bất thoái chuyển. Tịnh độ Ma Ha Song Liên Trì là tịnh thổ vô nghiệp.
🌟
Ma Ha Song Liên Trì hoàn toàn được tạo thành từ những hạt ánh sáng tinh vi, có thể tâm tâm tương thông, không cần văn tự. Không cần ngôn ngữ. Không cần hít thở. Ở cõi người cần ăn, mặc, ở, đi lại; cần thể rắn, thể lỏng, thể khí. Cõi người mới cần "năng lượng".
Còn năng lượng của Ma Ha Song Liên Trì đến từ ánh sáng tối thượng của vũ trụ (ánh sáng của Phật A Di Đà). Nhưng để du hý. Thể rắn. Thể lỏng. Thể khí. Có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Tu hành Mật giáo, trước tiên chuyển thể rắn thành thể lỏng, rồi chuyển thể lỏng thành thể khí, sau đó chuyển thể khí thành thần, chuyển thần thành ánh sáng, đó mới gọi là thành tựu. Tôi nói: "Đây là bí quyết tu hành, tối quan trọng! Tối quan trọng!"
30. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (6)
Tôi nói: Thân ánh sáng ở Ma Ha Song Liên Trì, như tôi đã nói, chỉ dùng ánh sáng tối thượng làm thức ăn. Thậm chí có thể không ăn không uống. Nếu có hội tụ, có thể dùng những thứ hóa hiện như quả tiên, nước tiên, cam lộ, ngọc dịch... Tự nhiên xuất hiện, tự nhiên biến mất. Năng lực của thân ánh sáng. Hóa hiện vườn hoa ngát hương. Hóa hiện cung điện cõi trời. Hóa hiện trăm nghìn vạn triệu hoa sen đủ màu sắc. Hóa hiện những nơi vui chơi. Đại Liên Hoa Đồng Tử. Trung Liên Hoa Đồng Tử. Tiểu Liên Hoa Đồng Tử. Thương yêu lẫn nhau, rạng rỡ phi thường, nơi đây không có sân hận, không có ganh ghét, không có đố kỵ. Các bậc thiện nhân tụ hội một nơi. Tịnh thổ thân ánh sáng ở Ma Ha Song Liên Trì, thọ mạng vô hạn, thân ánh sáng vô hạn. (Chính là vô lượng quang, vô lượng thọ của Phật A Di Đà.)
Cõi trời thì khác! Một nghìn tuổi. Năm trăm tuổi. Cao nhất là vài nghìn tuổi. So với cõi người, tuổi thọ ở cõi trời dài hơn rất nhiều, dài gấp năm lần, mười lần, trăm lần, nhưng vẫn luôn có giới hạn. Chỉ có Ma Ha Song Liên Trì là vô hạn. Thân ánh sáng thanh tịnh, không bị hoại diệt: Không chết vì bệnh. Không chết vì già. Không chết đột ngột. Không chết vì tai nạn.
Chỉ có một ngoại lệ: Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử của Ma Ha Song Liên Trì, nhận sự ủy thác của chư Phật, quay ngược con thuyền từ bi, nhận được thiên mệnh, mới giáng sinh xuống cõi người, truyền dạy Mật pháp, rồi trở về Ma Ha Song Liên Trì. Đây chính là: Vô duyên đại từ. Đồng thể đại bi. Nhưng cũng giống như Phật có ba điều không thể: 1. Không thể độ người vô duyên. 2. Không thể độ ác quỷ. (không thể diệt định nghiệp) 3. Không thể độ hết thảy chúng sinh.
Tôi dạy chúng sinh: Tiêu trừ dục vọng. (tham, sân, si.) Tiêu trừ khoái lạc giác quan. (sắc thanh hương vị xúc) Đây mới chính là điều kiện để trở về thế giới thân ánh sáng.
Tôi nói: "Nói cụ thể, hai điều kiện này chính là yếu chỉ của việc tu hành!" Tất nhiên, nhất định phải tu: Pháp Tam ma địa. (chính định) Khai ngộ. (chính tuệ) Giải thoát. (thanh tịnh) Bồ đề. (giải thoát chính trí)
Lúc này thân ánh sáng là: Công đức thần thông. Sức mạnh quang minh. Vô úy. Bổn tôn A Di Đà Phật hóa sinh ra Liên Hoa Đồng Tử, Ma Ha Song Liên Trì trang nghiêm thù thắng vi diệu, vượt trội mười phương. Có ao báu lớn, rộng lớn mênh mông, đáy ao cát vàng, trên ao có lầu vàng, lầu bạc, nghìn tầng vạn lớp, rộng lớn tuyệt đẹp, quang minh vô tận. Tôi nói: "Ma Ha Song Liên Trì, vĩ đại thay!"
31. Ấn tượng về Ma Ha Song Liên Trì (7)
Trong Thế giới Chân Phật: Không có tam ác đạo, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Không có tham, sân, si. Không có bát khổ. Không có bát nạn. Không có cửu não. Không có thập triền. Mà có: Thiên y, thiên hương, thiên hoa, thiên hội, thiên nhạc. Về thiên hội được đề cập ở đây: Là những bức tranh cực kỳ tuyệt mỹ trong không gian, hiếm thấy ở nhân gian, khiến người không thể không thán phục. Trang nghiêm phi thường. Mỹ lệ phi thường. Vi diệu phi thường.
Thiên nhạc được đề cập ở đây là: Âm thanh hòa nhã. Âm thanh trong trẻo. Âm thanh vang vọng. Âm thanh nhịp nhàng. Tuôn ra vô lượng vô biên âm thanh vi diệu, âm thanh ấy tràn ngập khắp nơi. Những âm thanh này phát ra từ bảy tầng hàng cây. Phát ra từ chim anh vũ, khổng tước, cộng mạng, ca-lăng-tần-già. (Những loài chim này do Phật A Di Đà hóa hiện, không phải là đạo súc sinh.) Xem thiên họa, hiểu về hạnh thù thắng của ba thừa. Nghe thiên âm, đạt giải thoát vô lượng. Trong Thế giới Chân Phật chỉ có cực lạc. Các loại thần thông, đều từ tâm niệm mà thành tựu.
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử chính là chủ tôn của Ma Ha Song Liên Trì, là hóa thân của Bổn tôn A Di Đà Phật. Công đức quang minh. Uy thần tướng đẹp. Trang nghiêm rực rỡ. Giữa chân mày có hào quang trắng, công đức tăng thắng, như ánh mặt trời tỏa chiếu, không đâu không chiếu đến. Trong ánh sáng. Hóa Phật. Hóa Bồ Tát. Hóa A La Hán. Mỗi vị đều phóng hào quang, chiếu đến trần gian, thu nhận chúng sinh.
Tịnh độ của Phật A Di Đà có bốn cõi: Cao nhất là Thường Tịch Quang Thổ của Pháp thân Phật. Bậc trên là Thực Báo Trang Nghiêm Thổ của Báo thân Phật. Bậc trung là Phương Tiện Hữu Dư Thổ của Ứng thân Phật. Bậc thấp là Phàm Thánh Đồng Cư Thổ - cõi Hoan Hỷ Địa. Mà thân ánh sáng của Thế giới Chân Phật thì ở trong cõi Thường Tịch Quang và cõi Thực Báo Trang Nghiêm. Thật là thù thắng vô cùng.
Vì vậy tôi nói: "Pháp thân ở cõi trời bên ngoài cõi trời, còn hiện tại đang lưu luyến cõi trần." Tôi dạy đại chúng: Thân khẩu ý thanh tịnh. Dùng thân ánh sáng trực tiếp vào Thế giới Chân Phật. Viên mãn ba tâm. Giữ giới. Oai nghi. Trực tâm. Tiến lên trước. Nương tựa Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, trì tâm chú Liên Hoa Đồng Tử, quán Ma Ha Song Liên Trì, vô lượng trang nghiêm thù thắng vi diệu cảnh giới, hoặc quán tám vạn tướng đẹp công đức, thân quang minh thanh tịnh. (kim thân của Phật A Di Đà) Một niệm, mười niệm, trăm nghìn vạn niệm. Nhất tâm bất loạn, liền có thể đến tịnh độ của Phật A Di Đà và Liên Hoa Đồng Tử. Tôi nói: "Tây phương Tam Thánh hiện toàn thân tiếp dẫn."
32. Chân Phật đại cảm ứng
Bài viết của Liên Hoa Quý Khiêm
Bác sĩ: "Trong tử cung của chị có một khối u 3,9cm, và 3 polyp có kích thước từ 1,1 đến 1,8cm. Với khối u lớn như vậy, nó sẽ không tự rụng ra được. Chúng ta cần phải phẫu thuật cắt bỏ, rồi đem đi xét nghiệm xem có tế bào ung thư hay không."
Nếu bạn là tôi, còn 1,5 tháng nữa mới đến ngày phẫu thuật, bạn sẽ làm gì?
🌟
Vào tháng 10 năm 2017, lần đầu tiên kinh nguyệt của tôi không đến đúng hẹn. Hai tuần sau, vào ngày 7 tháng 11, kinh nguyệt mới đến, nhưng lần này kéo dài liên tục 65 ngày không thể ngừng, trở thành rối loạn kinh nguyệt nghiêm trọng.
Ban đầu, tôi tưởng là kinh nguyệt tháng 10 và tháng 11 cùng đến một lúc, nhưng thời gian càng kéo dài, tôi càng cảm thấy có điều không ổn.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2017, tại Đại Pháp Hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang Hộ Quốc ở Kuala Lumpur, Malaysia, tôi đã đăng ký làm người chủ cầu cho việc siêu độ vong linh theo thân của mình. Khi xếp hàng chờ dâng khăn khata lên Sư Tôn, trong lòng tôi đắn đo không biết có nên mở lời thưa với Sư Tôn hay không, nhưng xung quanh Sư Tôn có nhiều người, hàng người xếp hàng cũng dài, và chuyện này nói ra cũng hơi khó mở lời...
Không sao, tôi thầm nguyện, Pháp thân của Sư Tôn hiện diện khắp mười phương pháp giới, chắc chắn Ngài sẽ nghe được, tôi tự an ủi mình như vậy.
Thế nên, trong lúc xếp hàng, tôi vừa nhìn Sư Tôn vừa lặp đi lặp lại lời cầu nguyện: Xin Sư Tôn gia trì cho kinh nguyệt của con ngừng lại và hoạt động bình thường trở lại.
Trong pháp hội, khi thần chú Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang vang lên, Sư Tôn đã dùng 5 phút để gia trì tiêu trừ nghiệp bệnh cho đại chúng. Tôi dùng tay xoa bụng dưới, vừa trì chú vừa quán tưởng Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang phóng quang gia trì cho bản thân.
🌟
Tôi lo lắng trong lòng, uống thuốc Đông y hai tuần mà kinh nguyệt vẫn không ngừng.
Ngày 7 tháng 1 năm 2018, tôi đến Bệnh viện Phụ sản KK Singapore khám bệnh, bác sĩ cho tôi uống thuốc nội tiết trong 3 tuần, cuối cùng cầm máu được.
Ngày 26 tháng 1, tôi lại đến bệnh viện siêu âm và soi, kỹ thuật viên X-quang với vẻ mặt nghiêm trọng nói rằng, trong nội mạc tử cung của tôi có u và polyp. Lòng tôi chùng xuống. Ngày 27 tháng 1, kinh nguyệt của tôi lại bắt đầu ra. Ngày 28 tháng 1, vừa đúng lúc hoàn thành đàn thứ 200 - đàn cuối cùng của tứ gia hành, hồi hướng cho vong linh theo thân.
Vào buổi chiều tối, tôi bị đau bụng kinh dữ dội... chưa từng có. Tôi co ro trong xe, không ngừng kêu đau, quán tưởng Sư Tôn phóng hào quang trắng gia trì vùng bụng dưới của tôi. Đột nhiên, cảm thấy từ phía dưới dần dần tống ra một khối lớn, đến nhà vệ sinh kiểm tra, ngạc nhiên phát hiện đó là một mảng mô máu lớn, dài đến 15cm, dày khoảng 1cm.
Ngày 29 tháng 1, tôi đến bệnh viện, bác sĩ phân tích kết quả siêu âm và soi, nói rằng trong tử cung của tôi có bốn khối u và polyp. Khối lớn nhất là 3,9cm, có lẽ đó là nguyên nhân khiến tôi chảy máu không ngừng, bác sĩ hỏi tôi khi nào muốn phẫu thuật. Tôi kể cho bác sĩ nghe về việc tống ra khối mô máu, bác sĩ nói đó là nội mạc tử cung, nhưng cũng nói với tôi rằng những khối u và polyp lớn như vậy không thể tự rụng ra được (vì chúng đã bám rễ bên trong).
Khi bác sĩ khám vùng kín của tôi, còn nói rằng ở cửa âm đạo dường như có một polyp kích thước 1,1cm, phù hợp với kết quả soi. Đúng lúc sắp đến Tết Âm lịch, lúc đó tôi chưa thể quyết định, trong lòng nghĩ nhất định phải viết thư cho Sư Tôn, trì tụng Cao Vương Kinh đủ 1000 biến rồi mới vào phòng mổ. Bác sĩ kê thêm cho tôi ba tuần thuốc nội tiết.
Về nhà, tôi bắt đầu trì tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, và phát nguyện sám hối với Sư Tôn.
Ngày 5 tháng 2, dù tôi không dùng đợt thuốc nội tiết thứ hai, kinh nguyệt vẫn tự nhiên ngừng lại.
Tôi cũng đi hỏi ý kiến bác sĩ Đông y, bác sĩ Đông y cũng khuyến khích tôi phẫu thuật. Ông ấy nói không có thuốc nào có thể loại bỏ được u và polyp, để lâu trong người, e rằng sẽ bị viêm. Ông ấy khuyên sau khi phẫu thuật, hãy quay lại để dùng thuốc Đông y điều dưỡng cơ thể.
Ngày 5 tháng 3, kinh nguyệt lại đến, nhưng sau 7 ngày đã tự nhiên ngừng lại!
Tôi bắt đầu nghĩ, có phải vì đã tống ra phần nội mạc tử cung dư thừa nên u và polyp đã biến mất, khiến kinh nguyệt đã trở lại bình thường? Nhưng nhớ lại lời bác sĩ nói, khối u lớn như vậy không thể tự biến mất, và theo kinh nghiệm của bà ấy, may mắn lắm thì cũng chỉ dần dần nhỏ đi, chứ không thể đột nhiên "biến mất không dấu vết".
Nghĩ lại, với nhiều giới luật mà mình đã phạm phải trong quá khứ, lại không được xem là tinh tấn, làm sao phép màu có thể dễ dàng xảy đến với mình được?
Trong một tháng rưỡi chờ đợi phẫu thuật, tôi đã cố gắng hết sức tiêu trừ nghiệp chướng cho bản thân.
1. Thầy của tôi (cũng chính là vị thầy dẫn dắt tôi quy y Liên Sinh Hoạt Phật) đã đăng ký cho tôi làm người chủ cầu trong pháp hội Ái Nhiễm Minh Vương vào tháng 2.
2. Tôi đã ba lần làm livestream trên Facebook, giới thiệu bằng tiếng Anh các tuyển tập sách thiện của Sư Tôn, gồm "Tập Sống Từng Phút Giây", "Liễu Phàm Tứ Huấn", "Ngọc Lịch Bảo Sao", và... tự bỏ tiền túi mua khoảng 30 cuốn sách thiện, gửi cho những người bạn Facebook có quan tâm, không phân biệt quốc gia. Tôi chỉ có khoảng 396 người bạn, thuộc các chủng tộc ở Singapore, nhưng phần lớn không biết đến Sư Tôn.
3. Tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh 1000 biến, hồi hướng mong không phải phẫu thuật, u và polyp sẽ biến mất, nếu bắt buộc phải phẫu thuật thì cầu nguyện bệnh nguyên được giải trừ, phẫu thuật thuận lợi, hồi phục nhanh chóng.
4. Viết thư sám hối với Sư Tôn và cầu xin gia trì. Trong thư hồi âm có hai lá phù "tiêu cơ u" và "tiêu bệnh phụ nữ". Tôi trì chú uống vào đêm trước khi phẫu thuật.
5. Thấy Chân Phật Bát Nhã Tạng đang tìm người đọc sách để thu âm tuyển tập văn của Sư Tôn, tôi đã kéo sư huynh nhà mình đi đăng ký. Sau khi được chọn, tôi mua thêm thiết bị mới để chuẩn bị thu âm, cũng tìm thầy giáo có kinh nghiệm để luyện đọc.
6. Đốt vài lần tiền giấy Chân Phật.
🌟
Người có thành tâm, Phật ắt cảm ứng! Cuối cùng, ngày phẫu thuật cũng đến...
Ngày 22 tháng 3 năm 2018, tôi nhập viện để phẫu thuật. Lúc đó trong lòng thấp thỏm bất an, chưa bao giờ tôi kết giới nhiều lần như vậy trong một ngày. 1. Trước khi ra khỏi nhà, cầu nguyện chư tôn nơi đàn thành, sau đó kết giới, rắc cát kim cang lên đỉnh đầu. 2. Trong phòng thay đồ, tụng "Om Ah Hum" cho áo phẫu thuật, quán tưởng hào quang trắng thanh tịnh, khoác áo giáp, thoa chút tro Hộ Ma vào bên trong áo. 3. Tụng "Om Ah Hum" cho giường bệnh, quán tưởng hào quang trắng thanh tịnh, làm thủ ấn kim cang tránh tà. 4. Khi bác sĩ đưa thuốc vào cơ thể, tụng "Om Ah Hum", quán tưởng hào quang trắng thanh tịnh hóa thuốc. 5. Tụng "Om Ah Hum" cho chăn và tất, mặc áo giáp. 6. Liên tục quán tưởng Sư Tôn trụ đỉnh. 7. Trì tụng tâm chú Hộ pháp, tâm chú Đại Lực Kim Cang và chú cấm quỷ. 8. Bốn tiếng sau, tôi được đẩy vào phòng phẫu thuật, phải đi qua một quãng đường dài, còn phải đi thang máy nữa. Trong lòng tôi thầm cầu nguyện với Sư Tôn, Bổn tôn và Hộ pháp: sau khi thuốc mê có tác dụng, xin tam căn bản gia trì bảo hộ. Nếu có bất trắc gì, xin tiếp dẫn. Vãng sinh Tịnh độ, siêu sinh thoát khổ, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật.
Tôi cố nén nỗi sợ hãi trong lòng, tự nhủ không thể làm mất mặt đệ tử Chân Phật, dù thế nào cũng phải trang nghiêm đối mặt với ca phẫu thuật và những biến chứng có thể xảy ra.
Khi phẫu thuật, không được đeo bùa hộ mệnh, lúc vào phòng mổ, quang cảnh thật giống như trong phim truyền hình, tôi chợt cảm thấy vô cùng cô đơn, nhớ đến lời Sư Tôn dạy, con người thật sự chẳng có gì cả. Khi bác sĩ gây mê đặt mặt nạ thở lên mũi tôi, tôi lại một lần nữa cầu xin Sư Tôn, xin giao phó toàn bộ thân tâm cho Ngài làm chủ.
Sau khi tỉnh dậy sau ca phẫu thuật, bác sĩ điều trị không đến thăm tôi. Một mình trong phòng bệnh vào đêm khuya, tôi suy nghĩ rất nhiều, mơ màng xem lời khai thị của Sư Tôn, trong lòng vô cùng biết ơn Ngài đã dạy chúng con rất nhiều pháp môn để tự bảo vệ mình, tiêu nghiệp tăng phúc, từ phàm vào thánh.
Tôi tự biết nghiệp chướng không nhẹ, tuy rất muốn được như một số sư huynh sư tỷ khác - khối u tự biến mất không cần phẫu thuật, ung thư tự khỏi không cần thuốc... nhưng con người phải biết tự lượng sức mình, tôi không nghi ngờ pháp lực của Sư Tôn, chỉ trách bản thân mình không cố gắng.
Sáng hôm sau, một bác sĩ trẻ vào nói với tôi: "Bác sĩ phẫu thuật nói trong tử cung chị không có u hay polyp nào cả." Ông ấy còn đưa cho tôi một tấm ảnh chụp bên trong tử cung, chứng minh bên trong hoàn toàn sạch sẽ. Sau đó, một bác sĩ khác cũng vào nói điều tương tự.
Vài giờ sau, bác sĩ điều trị vào phòng bệnh: "Tin tốt đây! Trong tử cung chị không có u hay polyp nào cả! Chúng tôi đã kiểm tra đi kiểm tra lại nhưng không tìm thấy gì. Niêm mạc tử cung hơi dày nên tôi đã nạo một chút để xét nghiệm. Nhưng theo tôi thấy, bên trong không có dấu hiệu của tế bào ung thư hay khả năng ung thư hóa. Có thể những khối u và polyp đó đã theo kinh nguyệt ra ngoài rồi."
Nghe bác sĩ nói vậy, tôi không biết nên khóc hay cười. Không phải họ đã nói khối u to như vậy không thể tự rụng ra sao? Giờ thì ngay cả một polyp nhỏ bằng hạt gạo cũng không tìm thấy, chẳng phải tôi phẫu thuật vô ích sao! Trời ơi! Thật là tiêu nghiệp chướng!
Tôi đã bị kinh nguyệt 65 ngày mà cũng không thấy những thứ đó rớt ra, thuốc hormone cũng không có khả năng loại bỏ u và polyp, nếu không phải là pháp lực siêu phàm của Sư Tôn thì còn là gì nữa?
🌟
Năm 2006, tôi đã quy y với Sư Tôn dưới sự dẫn dắt của sư phụ tôi. Lúc đó, tôi chỉ mới đọc quyển "Sống Từng Phút Giây Rực Rỡ" nên chưa hiểu nhiều về Sư Tôn, trước đó cũng chưa từng nghe danh hiệu của Ngài. Có một người phụ nữ tặng tôi một quyển sách, khi về nhà đọc mới biết đó là một quyển sách viết toàn những điều xấu về Sư Tôn, nào là lừa đảo tiền bạc, ham mê sắc dục, rồi còn làm trò thần thông. Tôi hoảng hốt trong lòng, không lẽ mình đã quy y với một vị thầy giả mạo!
Nhưng sư phụ tôi là người rất chính trực, lại có huệ nhãn, làm sao có thể ngốc nghếch tin nhầm thầy được! Vì vậy, tôi đeo kính của Sherlock Holmes vào, đọc lại quyển sách một lần nữa và phát hiện ra logic của tác giả có rất nhiều điểm thiếu sót, những gì được viết đều không có bằng chứng xác thực, chỉ dựa vào cảm nhận và sự bất mãn của bản thân, cùng những suy đoán của người khác mà viết bừa một mớ.
Thật đáng ghét! Xúc phạm trí tuệ của tôi và còn phỉ báng Sư Tôn của tôi! Tôi đã chọn một ngày trực Trừ, dùng lửa đốt sạch cuốn sách tà đạo đầy chuyện thị phi đó.
Sau khi chồng tôi quy y cùng năm đó, trong một giấc mơ, vấn đề cong vẹo cột sống của anh ấy đột nhiên được cải thiện rất nhiều. Lời chứng của anh ấy được ghi lại trong bài "Cột sống bị cong vẹo" trong tập 253 của Văn tập Liên Sinh Hoạt Phật có tựa đề "Mơ thấy Lư Sư Tôn".
Bà ngoại tôi qua đời vào mùa thu năm 2006. Trong suốt bốn mươi chín ngày của thất thất, tất cả người nhà đều lần lượt mơ thấy bà, chỉ riêng tôi là không. Tôi thấy băn khoăn trong lòng, lúc đó đang ở New York, quyết định không làm pháp đạn kim cang tránh ma mà cứ thế đi ngủ.
Tối hôm đó, tôi liền mơ thấy bà ngoại, giấc mơ vô cùng rõ ràng. Bà ngoại gọi tôi, bảo tôi quy y cho ông ngoại (đã mất hơn mười năm), tôi biết bà ngoại ý nói quy y với Liên Sinh Hoạt Phật. Bản thân bà ngoại trước khi lâm chung cũng đã quy y với Sư Tôn. Tôi gật đầu đồng ý, rồi tỉnh dậy.
Khi trở về Singapore, tôi đến trước bài vị tổ tiên và xin xăm hỏi ông ngoại xem có nên quy y với Liên Sinh Hoạt Phật không, thật sự nhận được một chuỗi xăm thượng cát! Tôi không khuyến khích mọi người bắt chước tôi ngủ mà không kết giới, người vào mộng bạn chưa chắc đã là bà ngoại của bạn, nhưng điều này cũng cho thấy pháp đạn kim cang tránh ma có truyền thừa lực mạnh mẽ đến nhường nào, danh tiếng của Sư Tôn ở âm giới vang dội biết bao, ngay cả ông ngoại tôi cũng biết đến!
Mẹ tôi là người không thích thần Phật. Giữa tôi và mẹ, đã từng có rất nhiều bất đồng quan điểm. Sau này, khi tôi tụng đủ 100.000 biến thần chú Thượng sư để hồi hướng, mẹ tôi vốn nóng tính bỗng đồng ý quy y với Sư Tôn!
Tôi đã từng nhầm tin vào Quỷ Bà, cúng rất nhiều tiền cho miếu thờ tà thần của bà ta. Sau khi tham dự pháp hội Tết năm 2014 của Sư Tôn, tôi đã dẫn mẹ và chồng tôi đến nơi ở của Quỷ Bà ở Đài Loan, tham dự pháp hội của bà ta hai tiếng đồng hồ, và còn tham gia các hoạt động của bà ta ở Singapore.
Khi quy y với Sư Tôn, tôi không cầu xin Ngài ban phúc lành gì cả. Lúc đó, tôi chỉ muốn học hỏi thế nào là Phật pháp chân chính, và làm sao để dẫn dắt bản thân cùng song thân đến bờ giác ngộ. Cho đến bây giờ tôi vẫn có chút không dám tin, những phép màu đọc được trong sách thực sự đã xảy ra với mình.
Tôi muốn nói rằng, trên con đường tu hành, chúng ta đều sẽ gặp nhiều thử thách, chỉ cần chúng ta làm theo những gì Sư Tôn dạy bảo, ắt sẽ hóa giải được hết thảy.
Trong đời tôi đã làm sai rất nhiều điều, nhưng sau 12 năm phong sương, tôi vẫn cảm thấy, quy y với Pháp Vương đương đại Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật, tin tưởng Ngài, tuyệt đối là quyết định đúng đắn nhất trong đời tôi. Cảm ơn Sư Tôn đã không bỏ rơi con!
33. Khối u biến mất rồi
Có một quý bà Elizabeth đến từ Indonesia. Bà ấy có một khối u trong não. (Kết quả khám từ bệnh viện.) Cơn đau hành hạ không dứt. Bà ấy bay đến chùa Lôi Tạng ở Seattle để cầu xin tôi. Khi đến Seattle, bà ấy nằm mơ: Mơ thấy mình được đưa vào phòng mổ của bệnh viện, và được bác sĩ phẫu thuật (người mặc áo choàng trắng) tiến hành phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật xong, vị bác sĩ mặc áo choàng trắng tháo khẩu trang ra, không ngờ đó chính là Lư Sư Tôn. Lư Sư Tôn nói: "Bây giờ khối u ung thư của bà đã được lấy ra rồi, nhưng còn sót lại một chút, phần còn sót lại này bà phải tự mình loại bỏ." Nói xong thì tỉnh giấc.
Sau đó. Bà Elizabeth đến gặp tôi. Tôi nói: "Khối u của bà đã khỏi rồi, cơn đau đầu cũng hết rồi! Còn sót lại một chút, chỉ là phần thịt ngoài thôi, không có gì đáng ngại." Bà ấy thật sự không còn đau đầu nữa! Khi về Indonesia, bà đi bệnh viện kiểm tra. Bác sĩ kinh ngạc: "Khối u đã biến mất rồi!"
Bà ấy cảm kích Lư Sư Tôn, và tặng: Một bức tranh Kim Cang Du Già Mẫu. Một bức tranh Thắng Lạc Kim Cang. Một bức tranh Diêu Trì Kim Mẫu. Bà Elizabeth biết vẽ tranh thangka, nét vẽ của bà rất tinh tế, nhân vật sống động, những bức thangka của bà đẹp như chính con người bà vậy. Ba bức thangka này hiện được treo trong phòng Chân Phật Mật Uyển của tôi.
Câu chuyện khối u của bà Elizabeth biến mất đã được nhiều người biết đến và lan truyền rộng rãi.
🌟
Có một sư tỷ tên Liên Hoa Nhất Lệ. Cô ấy là bệnh nhân ung thư vú. Bác sĩ yêu cầu cắt bỏ, sau khi cắt bỏ, phải hóa trị vì đã vào giai đoạn ba. Cô ấy đã đến Seattle tìm tôi. Cô ấy mơ thấy người mẹ đã khuất, mẹ nói với cô: "Nếu thành tâm niệm danh hiệu Liên Hoa Đồng Tử, nhất định sẽ được cứu."
Thế là: Cô ấy nhất tâm kính lễ Liên Hoa Đồng Tử. Tụng thần chú Liên Hoa Đồng Tử: "Om guru liansheng siddhi hum." Cô vừa khóc vừa tụng niệm. Sau khi đến Seattle, cô ấy cũng nằm mơ: Thấy Lư Sư Tôn đến bên giường, đi tới đi lui, cô thấy Lư Sư Tôn hóa thành ánh sáng trắng rực rỡ, luồng ánh sáng trắng ấy quay cuồng khắp căn phòng.
Luồng ánh sáng trắng đi vào cơ thể cô ấy, chạy khắp toàn thân, cô ấy cảm thấy chóng mặt, ánh sáng phồng lên trong cơ thể, dần dần, cô ấy mất đi ý thức. Khi tỉnh dậy, cô ấy cảm thấy tinh thần sảng khoái, khỏe khoắn. Cô ấy đến gặp tôi. Tôi nói: "Luồng ánh sáng trắng đã đi vào cơ thể cô!" Cô ấy kinh ngạc: "Lư Sư Tôn! Sao thầy biết được?" Tôi nói: "Bệnh của cô đã khỏi rồi!" Liên Hoa Nhất Lệ trở về nước, đi kiểm tra, bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, ung thư vú đã biến mất, di căn cũng không còn, chỉ số ung thư bình thường.
Tôi nói: "Thành kính là quan trọng nhất!" "Những lời vàng chính là thần chú Thượng sư."
34. Đại sư bắt ma
Tôi được Diêu Trì Kim Mẫu khai thiên nhãn. Tôi còn được Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh truyền pháp, được Cổ Phật truyền pháp, và được các bậc Guru ở nhân gian truyền mật pháp. Khi mới xuất đạo, tôi nổi tiếng với tài bấm ngón tay hỏi việc. Tôi cũng thường xuyên bắt ma, tiếng tăm vang dội. Nhiều người gọi tôi là: "Đại sư bắt ma." "Tổ tiên của ma quỷ."
🌟
Tôi đã đọc trong Kinh Thánh: Có một người bị bệnh tâm thần được đưa đến trước mặt Chúa Jesus. Chúa Jesus nói với người bệnh tâm thần đó: "Nhân danh Đấng Tối Cao, ta ra lệnh cho ngươi rời khỏi thân xác người này." Con quỷ liền rời đi. Quỷ nhập vào thân xác lợn. Nhiều con lợn lồng lên phát điên. Chúng nhảy xuống vách đá, chết hết. Còn người bệnh tâm thần trở lại bình thường.
🌟
Phương pháp của tôi hơi khác với Jesus. Khi tôi hợp nhất với Diêu Trì Kim Mẫu, tôi dùng tay vỗ vào lưng bệnh nhân. Vỗ liên tục như thế. "Bốp... bốp... bốp..." vang lên. Ma quỷ không thể ở trong thân xác người được nữa. Phát ra tiếng nôn từ miệng. Ma quỷ chạy ra ngoài. Bệnh nhân tâm thần liền khỏi. Tôi đã từng nói như thế này: "Ngày xưa, số bệnh nhân tâm thần (những người bị ma nhập) mà tôi đã chữa khỏi, dùng tàu hỏa chở cũng không hết." Nhưng Diêu Trì Kim Mẫu đã nói với tôi: "Những bệnh nhân tâm thần bị bệnh trên 6 năm, ngài đừng chữa, vì khó lành được." (Tôi biết đây là do tế bào não đã chết và tổn thương quá nhiều.) Ngài còn nói: "Những người sinh vào tháng hai âm lịch và tháng mười một âm lịch, có người cũng khó chữa, ngài phải chú ý." (Tại sao sinh tháng hai và tháng mười một lại khó chữa, nguyên nhân vẫn chưa rõ)
Phương pháp vỗ lưng khi tôi hợp nhất với Bổn tôn rất nổi tiếng. Ngay cả bác sĩ ở bệnh viện tâm thần cũng nói: "Bệnh nhân tâm thần chữa không khỏi, sao không thử tìm đến Lư Thắng Ngạn!" Tôi đã từng chữa cho: Một người đàn ông lực lưỡng bị còng tay xiềng chân, và cả một cô gái yểu điệu bỗng nhiên thay đổi tính tình. Nổi tiếng nhất là chuyện tôi chữa khỏi cho phu nhân của "Đại Vương Sữa Đậu Nành" ở Đài Trung, tin tức lan truyền khắp tỉnh.
🌟
Gần đây, có một Quỷ Bà nuôi rất nhiều loại ác quỷ, những con ác quỷ này đi khắp nơi tìm "vật chủ". Người mất ngủ. Người ảo giác. Người rối loạn tâm thần. Người tự tử. Ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy, người đến xin tịnh hóa, xin chữa trị đông như cá vượt sông, tôi dùng pháp hợp nhất với Diêu Trì Kim Mẫu để tịnh hóa từng người một. Rất nhiều người đã khỏi! Tôi cũng không cần liệt kê từng người. Tôi nói: "Đây là sức mạnh của sự tương ứng giữa tôi và Bổn tôn!"
35. Phân thân ở khắp nơi
Cuối cùng tôi đã hiểu được thế nào là hiện diện khắp nơi. Và thế nào là phân thân. Một hành giả, chỉ cần tương ứng với Bổn tôn ở cõi linh giới, sẽ có được năng lực của Bổn tôn. Bổn tôn có thể phân thân. Hành giả cũng có thể phân thân. Hơn nữa, Một hành giả hợp nhất với ý thức tối cao của vũ trụ, năng lực của ý thức tối cao vũ trụ là hiện diện khắp nơi. Hành giả cũng hiện diện khắp nơi như vậy.
Ví dụ: Ánh mặt trời chiếu khắp nơi. Ánh trăng chiếu khắp nơi. Không khí có mặt khắp mọi nơi. Xuyên tường vượt vách, lên non xuống biển. Đến từ nước, về với nước. Đến từ lửa, về với lửa. Mười pháp giới của tứ thánh lục phàm, có thể đi lại khắp nơi. (Tứ thánh là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán. Lục phàm là trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.)
Tuy nhiên, Sự tương ứng cũng có cấp độ cao thấp khác nhau. Tương ứng với Phật, có thể đi lại trong mười pháp giới. Tương ứng với Bồ Tát thì thấp hơn một chút. Tương ứng với A La Hán lại thấp hơn nữa. Tương ứng với chư thiên chỉ có thể đi lại trong lục đạo. Cứ thế mà suy ra.... Có người tương ứng với ma trung ấm, chỉ có thể đi lại giữa người và ma, đây là cấp độ thấp nhất.
🌟
Liên Hoa Ngọc Liễu từng nhìn thấy: Vào ngày giờ nào đó, Lư Sư Tôn sẽ đi đến ngã tư đường Trung Hoa và đường Công Viên ở thành phố Đài Trung. Liên Hoa Ngọc Liễu đưa cho con gái một gói đồ để chuyển cho Lư Sư Tôn. Đây là một phép màu. Ngày hôm đó, tôi tình cờ đang ở đường Công Viên, mua vài tấm vải, sau khi mua xong, đi đến ngã tư đường Công Viên và đường Trung Hoa. Đúng vào giờ đó. Con gái của Liên Hoa Ngọc Liễu đi xe máy đợi ở ngã tư. Tôi hỏi: "Sao cô lại ở đây?" Cô ấy đáp: "Mẹ con dặn, ngày giờ này, thầy nhất định sẽ xuất hiện." Liên Hoa Ngọc Liễu đã nhìn thấy phân thân của tôi xuất hiện ở ngã tư không sai một giây.
🌟
Sư huynh Cao Minh Lộc. Ông ấy nhìn thấy phân thân của tôi ở nhà mình. Cao đến hai tầng lầu (chiều cao). Mặc y phục Lama, ngay cả túi hương cũng rất rõ ràng. Phân thân xuất hiện rất lâu, đến nửa tiếng đồng hồ. Ngoài ra, Ông ấy đến lễ bái trước tượng Liên Hoa Đồng Tử khổng lồ cao bằng người thật. Ông ấy nhìn thấy Lư Sư Tôn bước ra từ trong tượng Liên Hoa Đồng Tử. Đó là những gì ông ấy nhìn thấy. Điều này đã chứng minh sự việc phân thân. Còn có nhiều câu chuyện về phân thân và hiện diện khắp nơi khác nữa. Tôi là một vị Guru chân chính. Tôi là một Avatar. Avatar được dịch là "người bán thần". Tôi nói: "Tương ứng. Trời người hợp nhất là khẩu quyết quan trọng hàng đầu!"
36. Vấn đề tối hậu của kiếp người
Sứ mệnh của cuộc đời tôi vốn là để độ hóa chúng sinh hữu duyên, điều tôi cần giải quyết là: "Vấn đề tối hậu của kiếp người." Và sau đó: "Tự giác giác tha, giác hành viên mãn." Các bậc thánh nhân vượt trên tam giới là: 1. A La Hán - bậc tự giác. 2. Duyên Giác - bậc nương duyên mà giác ngộ. 3. Bồ Tát - bậc tự giác giác tha. 4. Phật - bậc giác hành viên mãn.
Còn tôi, là người tự mình giác ngộ, và sứ mệnh của tôi là phải giúp người khác giác ngộ.
Phật giáo chia ra: Tiểu thừa - tự mình giác ngộ. Đại thừa - tự mình giác ngộ rồi dạy người khác giác ngộ. Kim cương thừa - dùng Mật pháp đặc biệt, có thể nhanh chóng thành Phật, sau khi giác ngộ đạt đến cứu cánh.
Hôm nay, cuối cùng tôi đã hiểu được "vấn đề tối hậu của kiếp người", tôi có thể giải quyết các vấn đề của cuộc đời.
Ví dụ: Điều gì sẽ xảy ra sau khi chết? Có thật sự tồn tại cõi vô sắc, cõi sắc, cõi dục, cõi người, cõi atula, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh không? Sau khi chết, con người sẽ đi đâu? Có linh hồn không? Linh hồn là gì? Linh hồn có nhận ra được nhau không? Có thể gặp lại người thân không? Người sống và người chết còn có liên hệ với nhau không? Nếu muốn vào bốn cõi thánh thì phải làm sao? Nếu muốn lên cõi trời thì phải làm sao? Ai sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh? ................. Và nhiều vấn đề tương tự như vậy,
Tôi đều có thể giải thích rõ ràng cho bạn. Phân tích sơ lược như sau: Giữ năm giới - sinh vào cõi người. Tu mười pháp thiện - sinh lên cõi trời. Tu bốn diệu đế (khổ, tập, diệt, đạo) - thành A La Hán. Tu mười hai nhân duyên - thành Duyên Giác. Tu sáu độ - thành Bồ Tát. Tu tám chính đạo - thành Phật. (Trên đây chỉ là phân tích sơ lược, còn nhiều chi tiết vi tế hơn.) Đây mới chính là những pháp do Đức Phật giảng dạy.
Về thần thông: Thiên nhãn. Thiên nhĩ. Tha tâm. Túc mệnh. Thần túc. Lậu tận. (Chỉ có lậu tận "diệt sạch phiền não" là Phật pháp, những cái khác chỉ là trò chơi mà thôi.)
Tôi hiểu rằng trò chơi chỉ là tạm thời. Chỉ khi nào diệt sạch phiền não mới có thể đạt đến tột cùng. Sứ mệnh của tôi là đánh thức chúng sinh khỏi giấc mộng mê, thông qua Mật pháp mà tôi truyền dạy để đạt đến tột cùng.
Tôi truyền dạy: Bình quán đảnh — Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng, Bổn tôn tương ứng. Hồng bạch hoa quán — vô lậu, chuyết hỏa, minh điểm. (khí, mạch, điểm) Vô thượng mật — Kim cang pháp, khai ngũ luân pháp, quang minh pháp. Đại viên mãn — pháp rốt ráo thành Phật. Khẩu quyết học tập là: Chuyên nhất, ly hý, nhất vị, vô tu. Tôi nói: "Chuyên nhất rất quan trọng, tâm lâu dài rất quan trọng."
37. Làm cho hoa héo lại nở
Một lần nọ. Tôi đi ngang qua vườn hoa hồng ở Chân Phật Mật Uyển, thấy hoa hồng đang nở rộ. Tôi ghé mũi lại gần nhụy hoa, ngửi từng bông một, quả thật là hương thơm của hoa hồng, rất thanh khiết. Ngoài ra, Có vài cây hoa đã héo tàn. Tôi không ngửi chúng. Tôi dùng tay khẽ chạm vào cánh hoa, những cánh hoa ấy đã bạc màu, như tờ tiền phai màu, mất đi vẻ rực rỡ. Tôi nói: "Hãy phấn chấn lên, hãy nở lại đi!" - Tôi nói với từng bông hoa.
Điều khiến tôi ngạc nhiên là: Sáng hôm sau. Những bông hoa héo tàn mà tôi chạm vào hôm qua đã thực sự nở lại một lần nữa. Trong khóm hồng không còn một bông hoa héo nào, tất cả đều nở rộ. Tỏa ra hương thơm tươi mát của hoa hồng. Tôi kinh ngạc nhìn xuống đất, xem có cánh hoa héo nào không, thật không ngờ là chẳng có cánh nào. Thì ra là thật, thật sự đã làm cho những bông hoa héo nở lại.
Tôi hỏi Kim Mẫu: "Tại sao lại như vậy?" Kim Mẫu đáp: "Đó là do vị yogi đã dẫn lượng tử sinh mệnh từ thân mình, sắp xếp lại lượng tử sinh mệnh của hoa, giúp cho những đóa hồng héo úa nở lại." Thế là, nhiều đồng môn đến hỏi chuyện đều mang theo chậu hoa ở nhà đến nhờ tôi gia trì từng chậu một. Theo nguyên lý này, khi tay Lư Sư Tôn chạm vào thân thể người bệnh, nhiều đồng môn bị bệnh cũng được khỏi một cách kỳ diệu.
Tôi phát hiện ra: Ý niệm của tôi có thể sắp xếp, tổ hợp lại, để tái tạo cơ thể của người bệnh. Dùng quán tưởng. (Ý) Dùng tay. (Thân) Dùng thần chú. (Khẩu) Thật không ngờ có thể giúp người bệnh hồi sinh. Thì ra pháp hoàn tịnh của tôi là như vậy. Pháp của tôi là chân thật, chỉ cần kích hoạt để sắp xếp lại lượng tử sinh mệnh của người bệnh, là có thể phục hồi sinh lực.
Tôi nghĩ đến XX. Thì ra XX dùng thôi miên. Đó là huyễn tướng, không phải sự thật. Điều tôi dùng là sự thật. XX dùng huyễn tướng.
Emerson đã viết một bài thơ "Huyễn tướng": "Ảo giác bền chắc khôn phá, Đan thành vô số lưới giăng, Lời dối đẹp như đường phủ, Chồng chất lớp lớp, hoa trong sương mù, Tin vào phép mê hoặc ấy, Là kẻ cam tâm bị lừa."
Tôi muốn nói với mọi người: "Hành giả yogi theo đạo nghĩa khác xa với lòng tham và dã tâm, điều này có thể so sánh được." "Hành giả yogi cần có hai loại năng lực, một đến từ Bổn tôn, một đến từ truyền thừa." "Nâng cao tâm linh con người quan trọng hơn những phép màu và thần thông."
38. Qua lại cõi âm dương
Tại sao có thể "qua lại cõi âm dương"? Câu trả lời là: Linh thể của Lư Sư Tôn có thể tách rời khỏi thân xác, trở thành hai phần riêng biệt. Linh thể là gì? Người thường gọi là linh hồn, người tu hành gọi là hồn phách, nhà Phật gọi là Phật tính. Có người gọi là tự tính. Có người gọi là nguyên thần. Có người gọi là khí. Có người gọi là chân ngã. Thân xác là gì? Lư Sư Tôn trả lời: Thân xác chính là vẻ bề ngoài của con người, là lớp vỏ biến đổi từ hài nhi mới sinh thành người già. Thân xác là lớp vỏ của con người, là sự kết hợp của đất nước lửa gió diễn biến sinh già bệnh chết. Đó chỉ là cái bình thủy tinh đựng "chân ngã". Cũng chẳng qua chỉ là một bộ quần áo mà thôi! Là thứ dùng xong rồi vứt bỏ.
Nói thì quan trọng, quả thật là rất quan trọng, bởi vì chúng ta phải mượn thân xác để tu hành, tu luyện để "chân ngã" hiển lộ, rồi "chân ngã" mới có thể trở về nguồn cội. Nói một cách đơn giản: Dùng thân giả để tu chân ngã, chân ngã tương ứng với Bổn tôn, hợp nhất với Bổn tôn, chân ngã trở thành Bổn tôn. Chân ngã hợp nhất với đấng tối cao của vũ trụ, chân ngã chính là đấng tối cao. Đó chính là thành tựu. Còn thân xác (cái vỏ con người) thì vứt bỏ đi. Đáng tiếc thay, phần lớn người đời đều cho rằng "thân xác" chính là bản thân mình. Từ bỏ chân ngã, chấp trước vào cái ngã giả của thân xác. Vì vậy chúng ta phải quay về từ mê muội để giác ngộ.
Lư Sư Tôn tu tập vô lậu, chuyết hỏa, minh điểm, khai mở trung mạch ngũ luân, vận dụng hơi thở để đẩy chân ngã ra khỏi thân xác. Do đó, Có thể đến tịnh thổ trên trời, cũng có thể đến ba cõi của linh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tôi có thể vào địa ngục cận biên của phủ XX, đó chính là sự thâm nhập của chân ngã. Tôi có thể hiểu rõ mọi điều về Ma Ha Song Liên Trì cũng là vì lẽ đó. Tại sao quỷ của XX khiến người ta tự sát, khiến nhiều người nhảy lầu như vậy? Bởi vì quỷ của XX trước tiên cho thấy ảo ảnh rằng sau khi tự sát, linh hồn sẽ bay lên trời. Vì thế những người nhảy lầu tự tử không còn sợ hãi nữa. Đó là đã mắc vào kế của quỷ.
🌟
Lư Sư Tôn đã hứa với người nhà của Liên Hoa Kính Hợp rằng sẽ lên thiên giới tìm cha của họ. Cuối cùng đã tìm được. Người cha nói: "Di chúc của tôi ở trong tủ quần áo, ngăn kéo giữa, bên trong có một ngăn bí mật, phải kéo hết ngăn kéo ra, ngăn bí mật nằm trong cùng, di chúc của tôi được viết bằng chữ đỏ." Sau đó, Di chúc thật sự nằm ở ngăn kéo giữa, kéo hết ra, quả thật có ngăn bí mật. Mở di chúc ra, đúng là được viết bằng bút đỏ. Lúc này cả nhà đều bái phục! Tôi nói: "Việc xuất thần của tôi có căn cứ rõ ràng!"
39. Linh thể ở thiên giới có hình tượng ra sao?
Có người hỏi tôi: "Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán, chư thiên, linh thể của các ngài có hình tượng như thế nào?" Tôi đáp: "Không phải là điều người thế gian có thể tưởng tượng được!" Hỏi: "Tại sao vậy?" Đáp: "Biến hóa vô cùng!" Hỏi: "Có thể giải thích thêm không?" Đáp: "Ở cõi người, sống càng lâu càng già, còn ở trên trời, linh thể càng lâu càng trẻ." Hỏi: "Trẻ trung có nghĩa là gì?" Đáp: "Hoàn mỹ." Hỏi: "Linh thể như thế nào mới được coi là hoàn mỹ?" Đáp: "Linh thể vốn dĩ không hình không tướng, hoặc hiển hiện thành thể ánh sáng, chỉ thuần có quang minh. Nhưng khi cần hiển hiện thực sự, sẽ xuất hiện hình tướng của thiếu niên, thiếu nữ, hoặc thanh niên." Hỏi: "Có giống người không?" Đáp: "Nói chung, vô cùng tuấn tú, vô cùng mỹ lệ, trang nghiêm, từ bi, toàn thân trang sức, hào quang rực rỡ, không thể diễn tả được." Hỏi: "Có phải giống như hình tượng các đấng được điêu khắc ở thế gian không?" Đáp: "Khác xa lắm!" Hỏi: "Có phải giống như hình tượng mà các nhà ngoại cảm nhìn thấy các đấng không?" Đáp: "Đó là chư Phật Bồ Tát hiển hiện theo hình tượng trong tâm trí của nhà ngoại cảm mà thôi." Hỏi: "Khi người tu hành lên tịnh thổ, muốn tìm cha mẹ người thân, thì cha mẹ người thân phải hiện ra hình dáng như lúc còn ở thế gian để con cái nhận ra đó là cha mẹ mình, có phải vậy không?" Đáp: "Ngươi thật thông minh, đúng là như vậy." Hỏi: "Cũng có những trường hợp không cần như vậy, có phải không?" Đáp: "Đúng vậy! Nhiều linh thể khi gặp nhau, tâm ý tự nhiên thông suốt, đều có cảm nhận và biết được đối phương là ai, đó là quy luật của cõi trời." Hỏi: "Diêu Trì Kim Mẫu rốt cuộc là già hay trẻ?" Đáp: "Diêu Trì Kim Mẫu mà tôi nhìn thấy ở thiên giới là một thiếu nữ mười sáu tuổi, vô cùng xinh đẹp và trang nghiêm. Như tôi đã nói, càng lâu càng trẻ." Hỏi: "Tại sao trong nhận thức của người đời, Ngài đều mang hình tượng trung niên, thậm chí là hình tượng của người già?" Đáp: "Vì các nghệ nhân điêu khắc không biết!" Hỏi: "Vậy có phải Diêu Trì Kim Mẫu mà Lư Sư Tôn thờ phụng đều là hình tượng trẻ trung?" Đáp: "Đúng vậy, đúng vậy. Người đời khó mà tưởng tượng được!"
40. Yêu em nghìn vạn năm
Có người hỏi: "Trên thiên giới có chế độ hôn nhân không?" Đáp: "Chuyện này nói ra dài lắm, có nơi có, có nơi không, dựa theo những gì tôi biết thì như sau:" Chân thân (không) Pháp thân Phật (không) Báo thân Phật (có) Ứng thân Phật (có) Bồ Tát (có) Duyên Giác (có) A La Hán (A La Hán tu Tiểu thừa thì không) Vô Sắc giới thiên (có) Sắc giới thiên (có) Dục giới thiên (có) Ma Ha Song Liên Trì tịnh thổ (có), ở giữa cõi Bồ Tát và Báo thân Phật.
🌟
Hỏi: "Thật thú vị, ở thế gian, mọi người đều nói yêu em nghìn vạn năm, hóa ra là sự thật." Đáp: "Ở thế gian, yêu em nghìn vạn năm là điều không thể. Nhưng ở thiên giới thì có thể." Hỏi: "Hình thức hôn nhân là như thế nào?" Đáp: "Đây cũng là điều không thể nghĩ bàn, tôi chỉ có thể nói rằng, những linh thể tinh tế nhất không phân biệt nam nữ, nên không có hình thức hôn nhân. Chỉ khi nào có sự phân biệt nam nữ ở quả vị đó thì mới có hình thức hôn nhân."
Tôi nói thêm: "Ở cõi Ma Ha Song Liên Trì, giữa các linh thể ánh sáng với nhau, có phân biệt nam nữ, linh thể có thể thật sự nhận ra người mình yêu thương nhất, từ đó ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau, hòa hợp thành một, đó chính là yêu em nghìn vạn năm, gắn bó nghìn vạn năm, hoặc lâu hơn thế nữa." "Không còn vướng bận không khí, thức ăn, giấc ngủ. Chỉ hòa hợp cùng tình yêu, trở thành một linh thể ánh sáng song nguyên." "Bản thân linh thể ánh sáng đã là một niềm vui, niềm vui của âm thanh vi diệu, niềm vui của ánh sáng rực rỡ muôn màu, niềm vui của sự tiếp xúc và rung động, kết hợp bằng nhiều cách thức như hình thái ánh sáng, niềm vui của ý thức, niềm vui của giấc mộng."
Tôi nói: "Ở cõi Dục giới thấp nhất, linh thể tuy tốt hơn nhục thể, nhưng vẫn còn cảm xúc, trí tuệ, ngã chấp, cảm giác, tâm thức, sắc thanh hương vị xúc. Vẫn còn sinh sản, bài tiết, nói chuyện, kỹ năng, ngôn ngữ, tăng trưởng, hình thành, hấp thụ, phân giải, trao đổi chất, tuần hoàn." Tôi nói: "Cõi Dục giới, niềm vui vượt xa cõi người, có thể sống từ năm trăm đến một nghìn tuổi, hoặc nghìn tuổi vạn tuổi, có tướng nam nữ, nên có thể có hôn nhân, đây là loại linh thể thô thiển nhất."
Tôi phân chia linh thể như sau: Thô thiển. (Thiên giới) Thanh tịnh. (A La Hán, Bồ Tát, Duyên Giác) Tinh tế. (tịnh thổ) Tinh tế nhất. (tối thượng, Pháp thân Phật) (Chỉ có các cõi trời thô thiển còn bị thoái chuyển, các cõi khác đều không thoái chuyển.) Hỏi: "Vẫn chưa hiểu rõ lắm?" Đáp: "Thế giới linh giới là vô tận, trí óc con người không thể tưởng tượng được. Chư thiên thì nhiều vui ít khổ, nhưng dưới chư thiên còn có trung ấm (ma), và thấp hơn nữa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đó là nhiều khổ không vui." Tôi nói: "Ma ở giữa chư thiên và địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, là cõi trung gian."
41. Lời thánh (1)
"Yoga chính là sự tương ứng, hợp nhất. Từ ngàn xưa đến nay, các bậc thánh hiền đều tu tập điều này." "Phương pháp của hành giả Yoga là không để cho giác quan che mờ, tăng trưởng năng lượng tâm linh, kết nối với ý thức vũ trụ." "Âm OM trong thần chú chính là năng lượng vô hạn, là tần số rung động của tâm linh.」 "Guru chính là chân ngã." "Phạm Thiên chính là Đức Chúa Trời Jehovah, Thiên thần, Chúa Jesus." "Khi nhập vào Tam ma địa thâm sâu, gần như tất cả đều trống không, nhưng có thể cảm nhận được cột sống, não bộ và cam lộ quán đảnh." "Ý nghĩa của người xuất gia là từ bỏ tất cả vật chất, bước vào nhà của thánh hiền." "Mi tâm luân mới chính là con mắt tâm linh, đó là nơi có hoa sen nghìn cánh, ý thức thường trụ tại luân xa này." "Ngã chấp nhất định phải buông bỏ, đó là vô minh lớn nhất của hành giả." "Huyễn tướng là ảo giác, con người vì huyễn tướng mà rời xa chính đạo, lầm tưởng huyễn là thật, như Quỷ Bà chính là như vậy." "Avatar chính là tiên tri, còn gọi là bán thần, đến để cứu độ chúng sinh, như Lư Sư Tôn chính là như vậy."
"Có rất nhiều phương pháp tu hành lệch lạc, ví dụ như: Tắm rửa hàng ngày để đạt được sự thanh tịnh Vậy cá voi có được không? Nếu ăn cỏ cây, trái cây mà giác ngộ được Vậy dê cừu đã giác ngộ chưa? Lần tràng hạt trì chú để đạt cõi Phật, Đó chỉ là cầu nguyện mà thôi. Nếu lễ bái tượng thần mà thấy được Phật, Thì chỉ cần đi lễ núi đá. Nếu chỉ uống sữa mà thấy được Thượng Đế, Thì bò cái đã thấy từ lâu rồi. Muốn thấy Phật, thấy thần, chỉ có: Thiền định."
Bài thơ của Tagore: "Hãy tỉnh thức và vươn lên! Từ bỏ giấc mộng trần gian! Những kẻ phàm tục kiêu ngạo, Toàn là tranh cãi vô minh. Hãy dạy những kẻ tự mãn Vượt qua bề ngoài vật chất. Tất cả các Guru tụ hội, Làm đại hỏa cúng. Tìm kiếm chân ngã. Tu tập những gì? Buông xả. Tương ứng. Hợp nhất. An tịnh. Vô dục. Vô tranh. Thanh tịnh. Trở về cảnh giới tối thượng, Trở thành Guru cứu độ chúng sinh."
"Nguyên tử là một thái dương hệ thu nhỏ nhất; thân người cũng là thái dương hệ của thể xác; còn thái dương hệ biểu hiện chính là thái dương hệ; ý thức tối thượng của vũ trụ là thái dương hệ vô hạn." "Phân chia đơn giản: Linh thể cõi trời. Linh thể cõi trung giới. Linh thể cõi địa hạ." "Linh thể cõi trời là thiên đường cao hơn chư thiên. Linh thể cõi trung giới là quỷ thần chúng. Linh thể cõi địa hạ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh." Tôi nói với mọi người: "Tu hành là quay về với Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, chư thiên; chứ không phải quỷ thần chúng hay tam đồ."
41. Lời thánh (2)
"Chúng ta ăn thực vật, thực vật có diệp lục tố, nghĩa là đang ăn năng lượng mặt trời. Chúng ta ăn động vật, động vật cũng ăn diệp lục tố, thế nên chúng ta vẫn đang ăn năng lượng mặt trời. Con người thực ra cũng đang ăn năng lượng mặt trời, điều này cho thấy thể xác phải nương tựa vào ánh sáng mặt trời, không khí và nước." "Thể xác con người ăn năng lượng bức xạ; còn về linh thể, sự tăng trưởng tâm linh cũng là năng lượng bức xạ. Vì thế thể xác và linh thể là một. Xuất thế và nhập thế là một." "Nếu có người có thể trực tiếp điều khiển năng lượng bức xạ, người đó chính là thánh hiền, cũng là Guru, mới thực sự là Hoạt Phật." "Điều vinh quang nhất của con người là yêu thương tất cả đồng loại, tình yêu vĩ đại nhất là yêu thương đến tột cùng với vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Nhưng không thể yêu cái này mà lại khiến cái khác phải chịu khổ nạn." (Ý tôi muốn nói là, yêu ác quỷ nhưng lại buông thả cho ác quỷ hại chúng sinh.)
"Tuân thủ quy luật tự nhiên của vũ trụ, tức là giới luật, pháp luật và công lý. Như vậy có thể tránh được đọa lạc và khổ đau, đây cũng là nền tảng của sự tương ứng trong tu hành." "Giữa người với người, hay giữa người với muôn loài, điều quan trọng nhất là trạng thái hài hòa." "Điều đáng sợ nhất của người hiện đại là phá vỡ sự hài hòa, lại còn khoe khoang vũ khí sát nhân, ngay cả các quốc gia cũng vậy, thật đáng buồn thay." "Nhiều người biết người nổi tiếng, nhưng lại không biết chính mình, Lư Sư Tôn dạy người ta nhận biết chính mình." "Trong văn tự và ngôn ngữ, vĩ đại nhất là thiên thể." "Không sát sinh là đức hạnh căn bản." "Người có năng lượng bức xạ chính là Guru, Hoạt Phật, Avatar, tiên tri, bán thần, thiên mệnh. Nhưng, người như vậy rất hiếm, còn kẻ giả mạo lại rất nhiều." "Lư Sư Tôn chịu hết mọi phỉ báng của chúng sinh, nhưng ý thức tối thượng không phỉ báng ngài. Ngài cũng không vì phỉ báng mà dao động, bởi vì ngài chính là ý thức tối thượng."
"Những lời dạy của Lư Sư Tôn: Không sát sinh. Không trộm cắp. Tiết dục. Không nói dối. Kiểm soát khẩu dục. Vô úy. Tôn trọng bình đẳng. Vô sở đắc. Tận lực độ chúng sinh." "Vốn không có sinh tử, sự sống và sự chết của con người trên bề mặt đều là giả tướng. Xưa nay không có sinh tử, cũng không có sinh tử để buông bỏ."
"Tôi gánh chịu nghiệp của đệ tử, nên tôi có bệnh. Nhưng sinh lão bệnh tử, tất cả đều là giả tướng." "Tôi đồng tọa với chân ngã, đồng tọa với ý thức tối thượng." "Con người đọa lạc là vì dục, chính là dục vọng của giác quan." "Tôi ở nhân gian, tu luyện để diệt trừ dục vọng của bản thân, đồng thời cũng dạy người khác diệt trừ dục vọng." "Thể xác là vật chứa của linh thể." "Từ nhỏ như nguyên tử đến lớn như vũ trụ, tất cả đều là đất, nước, lửa, gió, không." "Tại sao phải tôn trọng bình đẳng? Bởi vì mọi người đều có liên hệ với nhau." "Thiền định liên tục rất quan trọng, chỉ có như vậy mới có thể tương ứng và hợp nhất." "Chỉ có trí tuệ mới có thể sinh ra năng lượng bức xạ." "Tôi biết rằng: Chúng sinh độ không hết. Vô duyên không thể độ. Nghiệp lực rất khó chuyển. Ngã chấp rất khó dời. Than ôi!"
43. Lời thánh (3)
"Nhiều bậc thành tựu đã thực hiện ba lời vàng: Chân như. Tình thương. Thiện hạnh." "Ba điều quan trọng nhất của người xuất gia là: Thiện hạnh. Trì chú niệm Phật. Thiền định." "Trong cõi nhân gian, muốn tu hành thành tựu cần trải qua bốn giai đoạn, mọi người nên ghi nhớ: 1. Kiểm soát ái dục. 2. Giúp đỡ chúng sinh. 3. Tu tập yoga chính pháp. 4. Giải thoát thành thánh."
"Trong tiền đề lớn của sự giải thoát, những thành tựu về kinh tế, chính trị, khoa học, văn học, nghệ thuật, xã hội, đều chỉ là những giá trị thứ yếu." "Con người cần nhận ra rằng, chỉ có một điều vĩnh hằng duy nhất, đó là giải thoát thành thánh. Còn những giá trị thứ yếu kia đều không thể tồn tại mãi mãi." (Lư Sư Tôn nói chân như là vĩnh hằng, những thứ khác đều chỉ tồn tại tạm thời.) "Ví dụ: Đế quốc Alexander. Đế quốc Macedonia. Đế quốc Mông Cổ. ………."
"Tất cả đều từng vang danh thiên hạ, nhưng giờ đây chẳng còn gì." "Nhiều người không hiểu gì về chân như, dù có nghiên cứu đến đâu cũng chỉ như người mù sờ voi." "Con người cần hiểu rằng, thân thể của các bạn chính là cung điện của chân như, minh tâm kiến tính chính là thấu hiểu chân như, nếu không hiểu được điều này, bạn mãi mãi chỉ là phàm phu."
"Lư Sư Tôn cho rằng: Cá trong nước không bao giờ khát. Chim bay trên trời không sợ rơi. Chân như cũng vậy Nó ở khắp mọi nơi, chỉ là người ta không để ý đến." "Tu hành là tìm kiếm chân như trong thiền định, không phải trong kinh điển, không phải trong ngôn ngữ văn tự, không phải tìm trăng trong nước hồ, mà là quán chiếu nội tâm." "Khi theo một vị Guru, điều quan trọng là phải hiểu được khả năng nâng cao tâm linh của vị ấy. Chứ không phải: Người nổi tiếng. Người giàu có. Người chú trọng bề ngoài. Người phô trương thần thông. Kẻ lừa đảo. Phù thủy. v.v..............."
44. Lời thánh (4)
"Đệ tử thân thương, xin hãy mãi ghi nhớ lời dạy của Lư Sư Tôn: Hãy yêu thương chính mình, cũng hãy yêu thương người khác; hãy giúp đỡ chính mình, cũng hãy giúp đỡ người khác." "Đệ tử thân thương, xin hãy mãi ghi nhớ lời dạy của Lư Sư Tôn: Hãy quán tưởng Bổn tôn và Căn bản Thượng sư là một thể, mãi mãi an trụ trên đỉnh đầu bạn." "Đệ tử thân thương, xin hãy mãi ghi nhớ lời dạy của Lư Sư Tôn: Tất cả thiện hạnh, nhất định phải tùy hỷ; tất cả ác hạnh, tuyệt đối không được làm, ngay cả ý niệm cũng không được khởi ác." "Xin lưu ý, bạn có thể dễ dàng khám phá nhân quả và đạo lý trong trật tự tự nhiên." "Nếu bạn nhận biết chân như: Vô úy. Không sợ hãi. Tầm nhìn vô hạn. Lời nói không lệch chân như. Tự tại. Không lạc lối. Tư tưởng và hành vi hoàn hảo. Bước vào đại quang. Sẽ đi đánh thức chúng sinh!"
"Khi hành giả đạt đến trạng thái tịch tĩnh, họ sẽ hiện diện khắp mọi nơi, nhiều bậc thánh hiền đều như vậy." "Hãy để ý chí dừng lại ở Mi tâm luân, đó là nơi của hoa sen nghìn cánh, khi phóng chiếu ra ngoài, giống như dòng điện tuôn chảy, khiến tâm lý người khác tiếp nhận được những làn sóng tư tưởng." "Có bốn phương pháp vĩ đại nhất để chuyển di thần thức khi thân xác chết: Chuyển di thần thức qua tướng. Chuyển di thần thức qua ánh sáng. Chuyển di thần thức qua chữ chú. Pháp bảy ngày thành Phật. Phải học điều này!" "Hãy thiền định! Hãy thiền định! Hãy thiền định! Một ngày nào đó nhất định sẽ đạt được thiền định chân chính." "Thiền định có nhiều biểu hiện: 1. Hợp nhất. 2. Hòa hợp. 3. Bình đẳng. 4. Tịch tĩnh.
"Hành giả trong quá trình tu hành, thường chia thành các giai đoạn: Giai đoạn tại gia. Giai đoạn xuất gia. Giai đoạn phạm hạnh. Giai đoạn ẩn cư. Giai đoạn khổ hạnh. Giai đoạn ngộ chân. Giai đoạn độ chúng." (Cuộc đời của Đức Phật.) "Hữu dư Tam ma địa là chỉ còn có phân biệt, chịu ảnh hưởng của thời gian, chịu ảnh hưởng của biến động. Vô dư Tam ma địa là không còn phân biệt, không chịu ảnh hưởng của thời gian và không gian, bất biến, hợp nhất với tối thượng. Đó là vô niệm." "Bát chính đạo là báu vật của cuộc đời: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định."
"Cảnh giới tối thượng: Không tâm, không ngã, không giác, Không trời, không đất, không vật. Không có khởi đầu của sinh, Không có kết thúc của mệnh, Ta vô hình. Thường hằng tự tại, Hành trì vô tận, Không có ràng buộc, Hợp nhất với tối thượng, tối thượng! tối thượng! Ta là tối thượng!"
45. Lời thánh (5)
"Xin lưu ý, để tu tập Mật pháp, cần phải theo thứ tự: Tứ gia hành. Pháp tương ứng với Thượng sư. Pháp Bổn tôn. Nội pháp. Vô thượng mật. Đại viên mãn." (Mỗi pháp đều có phần chi tiết.)
"Pháp Tứ gia hành bao gồm: Pháp Đại lễ bái. Pháp Đại cúng dường. Pháp Tứ quy y. Pháp Tứ vô lượng tâm." (Pháp sám hối Bách tự minh Kim Cang Tâm, cần phải tu tập hàng ngày.) "Pháp Gia hành là nền tảng của Mật giáo, không có nền tảng thì lấy đâu ra rường cột?" "Tương ứng vô cùng quan trọng, bởi chỉ cần tương ứng với Thượng sư, tương ứng với Bổn tôn, việc vãng sinh sẽ có được sự bảo đảm."
"Nội pháp bao gồm: Tu yoga khí. Cửu tiết Phật phong, Kim cang tụng, Bảo bình khí. Vô lậu. Chuyết hỏa. Thông trung mạch. Pháp minh điểm. Khai ngũ luân. Khai đỉnh. Quang minh hiển hiện." "Vô thượng mật chỉ sự song vận của từ bi và trí huệ, từ bi và phương tiện song vận, lý trí song vận, quang minh song vận, v.v..."
"Pháp Đại viên mãn là chỉ: Tính Không. Chuyển thức. Hợp nhất. Dung nhập. Tự tại." "Có người đưa pháp tương ứng Thượng sư và pháp sám hối vào gia hành, gọi là pháp Lục gia hành." "Có người tu pháp Bổn tôn và Nội pháp cùng lúc, hoặc tu song song cả hai." "Bất kể tu pháp nào, nhập Tam ma địa (thiền định) là điều quan trọng nhất." "Liên Hoa Sinh Đại sĩ nói, Bảo bình khí là tất cả công đức." "Bất kể là pháp gì, Thượng sư đều có tâm yếu khẩu quyết, đệ tử phải nương theo tâm yếu khẩu quyết mà tu." "Tu cho toàn thân phóng quang minh, cốt yếu cốt yếu!" "Quán Căn bản Thượng sư thành chư Bổn tôn, cũng là cốt yếu!" "Phỉ báng Căn bản Thượng sư tức là phỉ báng Phật, pháp, tăng. Bởi vì Căn bản Thượng sư là nghĩa tổng trì."
"Ba pháp lìa khỏi thân xác: Chuyển di thần thức qua tướng. Chuyển di thần thức qua ánh sáng. Chuyển di thần thức qua chữ chú." "Phái Thắng Luận chú trọng: Tự nhiên. Linh thể. Giải thoát." "Lòng thành kính đối với Căn bản Thượng sư vô cùng quan trọng." "Hãy xem khẩu quyết và tâm yếu do Căn bản Thượng sư truyền dạy như báu vật." "Lưu ý: Khi tương ứng với một Bổn tôn, sẽ tương ứng với nhiều Bổn tôn." "Từ vô lậu và khí tu thành chuyết hỏa, từ chuyết hỏa tu thành minh điểm, từ chuyết hỏa minh điểm khai ngũ luân, từ ngũ luân sinh ra quang minh, từ quang minh dung nhập tối thượng." Lành thay! Lành thay! Hãy thực hành đi!
46. La Thiên Đại Tiếu (Nghi quỹ giản lược)
Tôi (Lư Sư Tôn) xin trình bày nghi quỹ La Thiên Đại Tiếu theo cách đơn giản, kính mong mọi người lưu ý.
1. Khởi thỉnh. Chú: "Ôm ah hùm sô-ha".
A. Khởi thỉnh mười phương, tất cả chư Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang Hộ Pháp, Không Hành chư Thiên, vô lượng Thánh Hiền.
Nay Liên Sinh dùng "Phật chỉ" đại từ bi lực:
B. Triệu thỉnh mười phương, tận hư không giới, tam đồ địa ngục, các nẻo ác thú, quỷ chúng hoang dã, tất cả ngạ quỷ, ngũ đại quỷ chúng, vong linh vô chủ.
C. Các ti Diêm La, Thiên tào Địa phủ, nghiệp đạo minh quan, chư đạo tiên nhân. Duy nguyện chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư Thiên, Thánh Hiền, nguyện ban uy quang, gia trì hộ niệm. Duy nguyện: (Diêu Trì Kim Mẫu, đại hiển pháp lực)
Pháp vị tối thượng. Cam lộ thanh tịnh. Ẩm thực no đủ. Tưới đẫm tâm điền. Phúc đức trí tuệ. Phát bồ đề tâm. Mãi lìa tà hành.
Quy y Tam Bảo. Hành đại từ bi. Lợi ích hữu tình. Cầu vô thượng đạo. Không thọ luân hồi. Lìa ác khổ quả. Vãng sinh Cực Lạc.
Xướng kệ: Thập phương nhất thiết sát, Chư Phật Bồ Tát chúng, vô lượng chư Thánh Hiền, cùng chư nghiệp đạo quan, duy nguyện đại từ bi, giáng lâm nơi pháp hội, nhiếp thọ đại cúng dường. Nam mô Bảo Đàm Hoa Bồ Tát Ma Ha Tát.
🌟
Xướng kệ:
Cành liễu nước tịnh, rải khắp ba nghìn, tính Không tám đức lợi trời người. Ngạ quỷ miễn nuốt kim, diệt tội trừ lỗi, lửa cháy hóa sen đỏ. Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát.
🌟
Khởi thỉnh: Hắc Linh Kỳ Chủ. Tiêu Diện Quỷ Vương và chư vị Quỷ Vương trong Kinh Địa Tạng. Triệu thỉnh thập phương tam thế vô chủ cô hồn đến đây. Xướng kệ: Bờ biển chiên đàn, lò thơm danh hương, mẹ con Da Du không tai ương, trong lửa được thanh lương, chí tâm hôm nay, một nén hương khắp mười phương. Nam mô Tiêu Diện Quỷ Vương Đại Sĩ Ma Ha Tát.
🌟
Chú: "Ôm xi-tiên-tô man-tô-la pa-thô-yê sô-ha." Thỉnh Cam Lộ Vương Như Lai. Thỉnh Đa Bảo Như Lai. Thỉnh Quảng Bác Thân Như Lai. Thỉnh Diệu Sắc Thân Như Lai. Duy thừa Tam Bảo lực, nương nhờ mật ngôn lực, giờ phút hiện tiền, quang lâm pháp hội.
Niệm: Nam Kha một giấc tựa hoàng lương, tiếc thay đời người chẳng được trường. Có sinh có tử đều do mệnh, không giàu không khó cũng vô thường. Hồn bay phách tán về nơi đâu, tính sáng tâm không nhớ cố hương. Hướng về hư không dần triệu thỉnh, thấm nhuần kinh chú hướng Tây phương.
Tụng: Kinh Cao Vương. Tâm Kinh. Vãng sinh chú. Niệm Phật.
Tụng Chân ngôn giải oan kết: "Ôm san-thô-la cha-thô sô-ha." Thí thực. Hoa hương đèn trà quả. Cam lộ. Núi gạo. Pháp thí.
🌟
2. Điểm trọng yếu khai thị của Thượng sư chủ đàn:
A. Chân không tĩnh lặng, vốn không thế giới chúng sinh. Tự tính thiên nhiên, nào có quả báo các pháp. Các ngươi mê chấp có, mê chấp không. Sinh tử vô cùng, tam đồ thống khổ. Hãy giải thoát, cùng sinh Cực Lạc.
B. Thỉnh mời Tam Bảo, quang lâm đàn thành. Tam Bảo vô thượng, công đức rộng lớn. Các ngươi quy y Tam Bảo. Quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.
C. Sám hối, khi xưa đã tạo bao ác nghiệp, là vì vô thủy tham sân si, đều sinh ra từ thân ngữ ý, tất cả nghiệp chướng đều sám hối.
Khi tâm diệt rồi, gốc tội liền diệt.
D. Phát nguyện, cho người an vui, cứu người khổ não, hoan hỷ mãi mãi, buông xả tất cả.
E. Tất cả Bồ Tát trong quá khứ đã thọ, đã học, đã hiểu, đã hành, đã thành. Tất cả Bồ Tát trong tương lai đã thọ, đã học, đã hiểu, đã hành, đã thành. Tất cả Bồ Tát trong hiện tại đã thọ, đã học, đã hiểu, đã hành.
Các ngươi có thể thọ nhận không?
Đáp: Có thể thọ nhận.
F: Các ngươi quy y Tam Bảo, phải thọ năm giới:
Thứ nhất, bỏ không sát sinh. Thứ hai, bỏ không trộm cắp. Thứ ba, bỏ không tà dâm. Thứ tư, bỏ không nói dối. Thứ năm, bỏ không uống rượu.
G. Chân ngôn hồi hướng phổ khắp:
"Ôm sa-ma-la sa-ma-la mi-ma-la sa-ha-la-ma-ha cha-ha-la hùm."
🌟
3. Kết nguyện niệm Phật hồi hướng.
A Di Đà Phật thân sắc vàng. Tướng đẹp quang minh không gì sánh. Bạch hào uyển chuyển năm Tu Di. Mắt biếc trong xanh bốn biển lớn. Trong quang hóa Phật vô số ức. Hóa Bồ Tát chúng cũng vô biên. Bốn tám nguyện độ chúng sinh. Chín phẩm đều khiến lên bờ giác. Nam mô ba mươi sáu vạn tỷ một mười một vạn chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. (Nương nhờ Phật lực gia trì, pháp lực gia trì, tăng lực gia trì, kinh lực gia trì, chú lực gia trì, Căn bản Thượng sư gia trì. Cứu độ đại u linh chúng.)
47. Nghiên cứu về tháp Phật
【Hai nhà khảo cổ học hàng đầu Indonesia cùng đến thăm Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật】(Liên Hoa Huệ Quân biên tập)
Nhà khảo cổ học Đại học Indonesia: Giáo sư Danh dự Prof.Dr.Noerhadi Magetsari, hiện 80 tuổi. Ông là bậc nguyên lão được giới khảo cổ học Indonesia kính trọng.
Chuyên gia chính thức về Borobudur thuộc Cục Du lịch Indonesia, nhà khảo cổ học: Tiến sĩ Dr.Hari Untoro Drajat.M.A., hiện 62 tuổi.
Giáo sư Danh dự Noerhadi đã từng viết một tác phẩm về tháp Borobudur có tên: Gandavyuha Kawedhar. "Gandavyuha" (Hương Nghiêm) là tên một bộ kinh, thực chất là phẩm "Nhập Pháp Giới - Thiện Tài Đồng Tử 53 tham vấn" trong Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, được xem như một bộ kinh độc lập (giống như Phẩm Phổ Môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa).
Ngày 19 tháng 2 năm 2018, Giáo sư Danh dự Noerhadi Magetsari và Tiến sĩ Hari Untoro Drajat, cùng với sự tháp tùng của Thượng sư Liên Nguyên và nhiều đệ tử Chân Phật tại Thánh Luân Lôi Tạng Tự Indonesia, đã đến Đài Loan chiêm bái và tham dự tiệc. Hai vị khảo cổ học gia đã tặng Thánh Tôn những món quà kỷ niệm như mô hình tháp Borobudur, và Sư Tôn cũng đặc biệt tặng hai vị tượng Phật bằng vàng và những món quà khác để lưu niệm.
Họ cũng muốn thỉnh vấn Sư Tôn: Vật nhọn ở trên đỉnh của Đại Phật Bảo Tháp Borobudur tượng trưng cho điều gì? Vì bảo tháp này đã có từ rất lâu đời, nếu vật ở đỉnh tháp bị rơi mất thì nên khắc phục như thế nào... và nhiều vấn đề khác.
Trong buổi tiệc, sư tỷ Miya đầu tiên giới thiệu khách quý với Sư Mẫu, và cũng đề cập rằng hai vị đại sư khảo cổ học đã nghiên cứu Phật pháp để tìm hiểu về Borobudur....
Về ý nghĩa tượng trưng của tháp Phật, Thánh Tôn đề cập: Ngày xưa tháp Phật Ấn Độ, trên đỉnh có bảo cái với nhật luân, nguyệt luân. Thậm chí sau này, nguyệt luân đã được Hồi giáo lấy làm biểu tượng của họ. Nguyên thủy tháp ở Ấn Độ dùng mặt trời mặt trăng làm biểu tượng. Tháp Phật này có 3 biểu tượng, đại diện cho Bản Sơ Phật, tượng trưng cho toàn thể vũ trụ.
Việc nối lại phần tháp bị đứt là có thể, nhưng không được dùng cái mới để nối, mà phải tìm phần nguyên bản đã rơi ra để nối lại.
Như tháp Borobudur, chia làm ba tầng: tầng dưới trong Mật giáo gọi là nền móng kim cang, tầng giữa là mandala (xem thử là mandala của vị nào), tầng trên cùng chính là vũ trụ. Stupa đại diện cho "Đạo".
Tất cả các mandala gần như đều như vậy.
Tiến sĩ Dr. Hari Untoro Drajat M.A., chuyên gia chính thức về Borobudur thuộc Cục Du lịch Indonesia và là nhà khảo cổ học, đã bày tỏ sự khâm phục sâu sắc với lời chỉ dạy của Sư Tôn và nói rằng: "Sau khi nghe Sư Tôn giải thích, chúng tôi không cần phải giải thích gì thêm. Những điều Sư Tôn vừa giảng giải đều có cơ sở khoa học."
Ông đã trình bày một bài thuyết trình chi tiết bằng slide:
Borobudur là di sản thế giới, được công nhận toàn cầu vào năm 1991. Công trình này được xây dựng với sự kết hợp của hình tròn và hình vuông.
Lần đầu tiên chúng tôi phát hiện ra ngôi tháp Phật này, nó đã bị vỡ nát và không còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn từng bước phục chế. Những điều Sư Tôn vừa giải thích, tinh túy đã nằm trong đó.
Borobudur được xây dựng vào năm 847 Công nguyên, cùng thời kỳ với các tháp ở Ấn Độ. Tháp Phật đã hòa nhập vào văn hóa Indonesia, có đến 160 ngôi tháp. Tuy nhiên, không phải tất cả đều có bảo cái. Ngoài ra ở Java có 4 di sản thế giới...
Indonesia có nhiều nền văn hóa. Phía dưới Borobudur có đền tháp Ấn Độ giáo. Bởi vì bản thân Indonesia có tính đa nguyên tôn giáo. Borobudur là một loại mandala, thể hiện hành trình từ phàm phu đến thành Phật.
Thân tháp Borobudur là mandala Kim Cang Mật Tập, ban đầu Phật A Súc ngồi ở giữa, nhưng sau này người xây dựng đặt Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi ở giữa.
Tầng một đến tầng bốn thể hiện hình tượng Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm đại diện cho Đại thừa, thủ ấn của tượng Phật đại diện cho Mật giáo, ba tầng đại diện cho tam giới. Tầng hai có Kinh Bổn Sanh của Đức Phật... Tầng ba là Vô Sắc giới. Do đó, Borobudur đại diện cho sự hợp nhất giữa Kim cương thừa và Đại thừa.
Indonesia cổ đại xây dựng mạn-đà-la như thế nào?
Xung quanh Borobudur có năm ngọn núi và hồ nước ở gần, nhưng hiện nay đã có rất nhiều người dân sinh sống ở khu vực lân cận. Bên trong Borobudur cũng có màu sắc của Ấn Độ giáo, Borobudur đại diện cho tam giới vũ trụ, tầng dưới cùng đại diện cho Dục giới, nơi chúng sinh bị ràng buộc bởi dục vọng. Bên trên là Sắc giới, đã giải thoát khỏi nhân quả nhưng vẫn còn chấp trước vào tướng, tầng trên cùng là Vô sắc giới. Tầng cao nhất là bất sinh bất diệt.
Borobudur tọa lạc tại điểm giao nhau của hai con sông.
Trong kinh điển Ấn Độ giáo có câu chuyện về Bạch Liên Hoa Vương, cũng xảy ra tại điểm giao nhau của hai con sông. Trong nghi thức tôn giáo, nước là yếu tố rất quan trọng.
Bảo cái của tháp Phật Borobudur trước đây đã từng bị sét đánh, vì vậy một phần bảo cái đã biến mất, do đó, tại đây chân thành cầu xin Sư Tôn gia trì và chỉ dạy những điều cần chú ý khi tu sửa...
Sau khi nghe báo cáo chi tiết như trên, Sư Tôn giải thích thêm: Như tháp Phật Borobudur to lớn đứng sừng sững trên mặt đất, ở giữa có đại mandala, nhất định có bốn phương, xa hơn nữa có tám mandala, vì Phật giáo nói: ở giữa là núi Tu Di, rồi chia thành bốn đại châu tám tiểu châu, có 7 biển nước. Ba vòng tròn vũ trụ (lần lượt to dần) đại diện cho "Đạo". Để biểu trưng cho thế giới tức là: một mặt trời và mặt trăng.
Phù điêu mandala có tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành Bồ Tát đạo, là câu chuyện bản sinh của Như Lai. Như Thiện Tài Đồng Tử cũng có trong kinh điển. Cuối cùng tìm thấy là Bồ Tát Di Lặc, Ngài đại diện cho vô hạn. Cõi tịnh thổ Di Lặc ở cung trời Đâu Suất là không có điểm tận cùng. Thiện Tài Đồng Tử cũng từng tham bái các vị thầy ở Dục giới thiên, Sắc giới thiên. Tham bái đến Bồ Tát Di Lặc đại diện cho sự bất tử vô hạn.
Nhật nguyệt trên tháp Phật đại diện cho ngày đêm, thuộc về âm dương, một âm một dương đại diện cho "Đạo".
Những lời chỉ dạy sâu sắc như vậy khiến các vị khách có mặt tại hiện trường phải thốt lên chưa từng được nghe. Cuối cùng, hai vị chuyên gia khảo cổ học cùng đại chúng đã dâng khăn khata lên Sư Tôn, cầu xin Sư Tôn gia trì xoa đảnh, và chụp ảnh lưu niệm, tất cả đều viên mãn cát tường.
Sau khi trở về Indonesia, Giáo sư Tiến sĩ Noerhadi Magetsari vẫn không ngừng tán thán về kiến thức Phật học phi thường và công lực tu trì cao thâm của Liên Sinh Hoạt Phật.
Vì vậy, Chân Phật Thánh Tôn quả thật là bậc học thức uyên bác, chứng lượng hùng hậu, ngay cả các bậc đại sư khảo cổ học cũng phải kính ngưỡng tán thán!
48. Chiều quá hóa hư
Bài viết của Trần Nhân Hòa
Sư Tôn thường nhắc đến trong các tác phẩm của Ngài về một số người hoằng pháp không như pháp, tham tiền, tham sắc, ham danh, mở rộng địa bàn, tự sáng tạo Mật pháp và xa rời truyền thừa. Trước đây chúng ta không rõ đó là những ai, nhưng giờ đây họ lần lượt lộ diện, để chúng ta thấy rõ tất cả. Tuy nhiên, chúng ta không khỏi phải hỏi, tại sao mọi việc phải đến lúc khó xử lý mới bùng nổ? Tại sao không ngăn chặn ngay từ khi nó mới manh nha phát triển? Đây là thắc mắc của nhiều người, bài viết này sẽ bàn luận về vấn đề đó.
Giáo pháp nhà Phật chủ trương vô tranh, tịch diệt. Trong quá trình thành lập Chân Phật Tông luôn bị Phật giáo truyền thống phỉ báng và tấn công, nhưng Sư Tổ Liên Sinh Hoạt Phật đã chọn cách nhẫn nhục không đáp trả, cũng không tố cáo ai. Các đệ tử cũng quen với điều đó, không chủ động bảo vệ danh dự và phẩm giá của Sư Tôn. Cho đến sự kiện "Con khỉ trên mạng" cách đây vài năm, Bồ Tát Ma Lợi Chi Thiên đã đánh cược với Sư Tôn rằng trong số 500 vị xuất gia của tông phái, không có ai sẽ viết một bài văn để hộ pháp, và kết quả là Sư Tôn đã thua. Từ sự việc này, Sư Tôn đã dạy mọi người rằng: Sư Tôn không màng đến tất cả, nhưng đệ tử không thể như Sư Tôn mà bất động như như, mà phải chủ động hộ pháp và bảo vệ Sư Tôn. Chỉ từ đó, môn đồ mới đoàn kết một lòng đối phó với bên ngoài.
Đối với bên ngoài, chúng ta đều đồng lòng nhất trí, nhưng đối với nội bộ thì sao? Chúng ta luôn bị giới hạn bởi giới luật "không nói lỗi của tứ chúng" và lời dạy của Sư Tôn rằng "chưa đại triệt đại ngộ thì đừng phê bình bất kì ai". Vì vậy, chúng ta đã im lặng nhẫn nhịn trước những vị hoằng pháp hay đồng môn nghiêm trọng phạm giới, và từ đó họ càng trở nên ngông cuồng, cuối cùng nuôi hổ để rồi gặp họa, gây tổn hại đến thân tâm và tuệ mạng của chúng sinh, cũng như gây rối loạn tông phái và thêm phiền não cho Sư Tôn. Do đó, bài viết này đưa ra cách tư duy đúng đắn giữa việc hộ pháp bảo vệ Sư Tôn và giữ gìn giới luật, để làm tham khảo cho đồng môn trong việc hộ pháp.
Giữa việc nói và không nói lỗi của tứ chúng, cần xem xét mức độ lỗi lầm của người đó. Nếu lỗi lầm thuộc về thiếu sót trong tu tập cá nhân và không xâm phạm đến người khác, thì chúng ta không nên nói ra.
Ngược lại, nếu những người hoằng pháp hoặc đồng môn có hành vi gây tổn hại cho chúng sinh, làm tổn hại danh dự tông phái, khiến Sư Tôn không thể hoằng pháp tốt, thì dù họ có lai lịch lớn thế nào (là Phật nào đó, Bồ Tát nào đó, Liên Hoa Đồng Tử màu sắc nào đó, A La Hán nào đó), có danh vị cao đến đâu (Thượng sư, Pháp Vương, bậc khai ngộ, pháp sư, giáo sư, giảng sư, trợ giảng...), miễn là có đủ bằng chứng phạm tội, bất kì ai cũng có lý do đứng ra ngăn chặn hành vi đó mà không cần nêu đích danh, để không để tổn hại lan rộng, đặc biệt là những người có lai lịch càng lớn, danh vị càng cao, dựa vào sự ngưỡng mộ và yêu mến của mọi người, thì tổn hại gây ra càng lớn.
Những trường hợp sau đây đã từng xảy ra hoặc có thể xảy ra trong tương lai, cần phải được ngăn chặn ngay lập tức (tuy nhiên, không cần nêu đích danh, và vẫn để chỗ cho đối phương cơ hội sửa đổi).
1. Truyền bá tà kiến: Hiện nay, mọi người đều có kiến thức Phật học cao, không ai phủ nhận nhân quả, nhưng vì một số mục đích nào đó (không ngoài tiền tài và sắc dục), họ sẽ dùng lời văn hoa mỹ để che đậy, ví dụ như: tài trợ cho một đạo tràng vài trăm triệu đồng, với công đức này bạn không cần tu tập vẫn có thể vãng sinh thiên đường hay Phật quốc; hoặc những kẻ háo sắc lừa gạt các cô gái xinh đẹp, nói rằng mình đã đắc được quán đảnh Tam quán Vô thượng mật, chỉ cần song tu với họ, không cần tu tập vẫn có thể tức thân thành Phật. Tất nhiên còn có một số tà kiến khác ẩn giấu trong những lời giảng của người có dụng ý, cần phải phân biệt cẩn thận mới có thể hiểu rõ.
2. Phá hòa hợp: Trong những năm gần đây, có những kẻ xấu bụng đã công khai hoặc lén lút lan truyền những lời đồn xấu về Tông Ủy Hội, khiến nhiều đồng môn thiếu hiểu biết mất lòng tin vào Tông Ủy, hoặc nói xấu về Sư Mẫu và thị giả của Sư Tôn, khiến mọi người hiểu lầm rằng Sư Tôn bị Sư Mẫu và thị giả kiểm soát, không được tự do. Những hành vi có chủ ý phá hoại sự đoàn kết của tông môn như vậy, người trí tuệ nghe qua đã biết là lời dối trá, nhưng cũng có nhiều người nhẹ dạ cả tin và còn giúp lan truyền. Khi chúng ta nghe được những lời đồn nhằm phá hoại sự hòa hợp như vậy, phải lập tức truy tìm nguồn gốc, tìm ra kẻ tạo ra tin đồn, vạch trần sự thật và luôn phải nâng cao cảnh giác, không để nó tiếp tục lan truyền, làm tổn hại đến không khí hòa thuận của tông môn.
3. Phóng đại thần thông để lừa tiền: Những người tự xưng có khả năng thông linh, do lòng tham tiền bạc, phương pháp kiếm tiền tốt nhất của họ đều giống nhau, đó là phóng đại thần thông, nói rằng nghiệp chướng của bạn rất nặng, đời trước đã làm bao nhiêu việc xấu, phải cúng dường họ bao nhiêu tiền mới tiêu được nghiệp chướng. Lừa một lần chưa đủ, họ còn bịa ra trường học ở âm phủ cho các vong linh thai nhi đi học, từ cấp một đến đại học, như vậy hàng năm phải đóng học phí, để có thể lừa được nhiều năm, dù sao tín đồ không có thần thông, họ muốn nói gì thì nói. Đối với kiểu lừa đảo biến tướng này, cách đơn giản nhất là viết thư hỏi Sư Tôn xác nhận, nếu câu trả lời là phủ định, chúng ta có thể vạch trần bộ mặt giả dối của họ.
4. Tạo sự sùng bái cá nhân: Đặt bản thân lên hàng đầu, Sư Tôn xuống hàng thứ hai, hoặc bề ngoài tôn kính Sư Tôn nhưng ngầm giới thiệu các vị Hoạt Phật và Thượng sư Mật giáo khác, cố ý dẫn dắt đồng môn ra khỏi Chân Phật Tông. Đối với những người hoằng pháp có những khuynh hướng này, không cần khách sáo mà hãy dũng cảm tố cáo họ.
5. Cố ý hoặc vô ý gây tổn hại đến Sư Tôn hoặc đại chúng: Đây là tội nghiêm trọng nhất, bất kì ai biết được việc này có thể xảy ra, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải ngăn chặn nó.
Tuy đã liệt kê năm điều này, nhưng những kẻ lừa đảo đều rất thông minh, mọi trò lừa đảo đều xảy ra một cách âm thầm. Những người có hiểu biết khi thấy được không nên giả vờ thanh cao, mà phải đứng ra ngăn chặn hành vi xấu xa của họ. Nếu không, cứ tiếp tục dung túng thì kết quả là sẽ có thêm nhiều người bị hại.
Trong kiếp trước, Đức Phật vì cứu 500 thương nhân mà đã tiêu diệt một tên cướp. Khi Đức Phật quyết định tiêu diệt tên cướp này, Ngài không hề xem xét đến thân phận địa vị của hắn, lúc đó hắn chính là tên cướp có ý đồ cướp của giết người. Tương tự, nếu có người có ý đồ làm hại đại chúng hoặc Sư Tôn, bất kể người đó có chức vị gì trong tông môn, lúc đó mọi người đều phải bảo vệ Sư Tôn và giáo pháp, không cần khách sáo. Ai dám đứng ra, người đó sẽ được công đức hộ pháp, được đại chúng kính trọng, được chư thiên tán thán!
(Hết.)