📗

272. Sự vỗ về của Tịnh Quang

image

Sự vỗ về của Tịnh Quang

🪷 Giữa lời hỏi đáp

Văn tập: 272 Xuất bản: 07/2019 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Giờ đây tôi muốn viết ra những cảm nhận về việc tu thiền của mình. Tôi tập hợp một vài cảm nhận này lại thì cũng thành cả một cuốn sách. Tôi lấy tên cho cuốn sách này là: "Sự vỗ về của tịnh quang". Việc tu thiền của tôi là như thế này: Thân thể và tâm linh của tôi hợp nhất. (Ta hợp nhất với chính ta.) Đối với tôi mà nói, việc tu thiền là quan trọng nhất, bởi vì chỉ duy nhất có tu thiền thì mới được gọi là tu hành.

Tôi muốn nói với mọi người: Thế nào là tâm linh? Tâm linh chính là ý niệm. Bạn có thể nhận thấy được rằng ta đang có vọng niệm, tạp niệm, bạn nhìn thấy rõ được những vọng niệm, tạp niệm này. Bạn cũng không cần phải chủ tâm chạy theo chúng. Bạn chỉ là quan sát chúng. Chúng là tự nhiên, không ngừng tạo ra ảnh hưởng đến bạn, thế rồi tự nhiên chúng biến mất.

Lúc này: Tâm của bạn không còn tán loạn nữa. Bạn trụ vững trong "nhất tâm bất loạn". Nhất tâm bất loạn còn được gọi là "thủ nhất". Người nào có thể giữ cho cả nghìn vạn sự việc hoàn toàn chấm dứt, tinh thần thống nhất, thì chẳng có gì phải bàn nữa. Ta và chính ta hợp nhất, đây là điểm mấu chốt quan trọng nhất.

Cho đến cuối cùng là: Ta và người khác hợp nhất. Ta và núi sông đại địa hợp nhất. Ta và núi sông đại địa hợp nhất. Ta và tự nhiên rộng lớn hợp nhất. Ta và thần hợp nhất. Ta và Bổn tôn hợp nhất. Những việc này hiển nhiên như tự nhiên. Cái gọi là "pháp nhĩ bản nhiên" chính là đạo lý này.

Trong khi tôi ở trong trạng thái "thủ nhất", rất tự nhiên, tịnh quang liền xuất hiện. Tịnh quang phủ xuống. Bao trọn lấy tôi. Tôi và tịnh quang hợp làm một. Tôi bèn gọi hiện tượng này là: "Sự vỗ về của tịnh quang".

Điều tôi muốn nói với mọi người là: Tịnh quang ở đây là lần lượt từng vị Bổn tôn, có lúc là vị Phật Nguyên Thủy (Phật A Đạt Nhĩ Mã), có lúc là Phật Thích Ca Mâu Ni, có lúc là Ngũ Phương Phật, có lúc là Phật A Di Đà, có lúc là Diêu Trì Kim Mẫu, có lúc là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Tôi có thể nói như thế này: Chư Phật, Bồ Tát, Kim cang, Hộ pháp, Không hành, chư Thiên, đều có thể hạ giáng để vỗ về bạn. Có các Bổn tôn: Tức tai. Tăng ích. Hàng phục. Kính ái. Sẽ nói cho bạn biết chân đế (chân lý). Tôi nói cho mọi người biết, những sự việc này là sự thật, là những gì chính tôi đã trải nghiệm qua.

Rất nhiều Không Hành Mẫu hạ giáng. Không Hành Mẫu có khi là tuyệt thế mỹ nhân, có khi là tiên nữ trong thần thoại. Nhưng cũng có cả những Bổn tôn phẫn nộ, không phải các ngài tức giận với bạn, mà là các ngài vốn dĩ là có tướng mạo hiển hiện ra như vậy.

Chúc độc giả: Mở sách ra được lợi ích.

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

Tháng 07/2019

01. Nói to hết mức

Chúng tôi cùng đến nhà hàng phương Tây tên là KR dùng cơm. Sư tỉ họ Nhân người Indonesia, tạng người to béo, giọng nói cũng to nhất, nói chuyện cổ họng mở rộng, cô cười lớn mấy tiếng "khà khà khà".

Chúng tôi nghe nói chuyện cũng cười: "Ha! Ha! Ha!" "Ka! Ka! Ka!" "Kha! Kha! Kha!" Cười vang cả một tràng. Một tràng rồi lại một tràng cười nữa.

🌟

Không lâu sau, người bồi bàn khẽ nói với chúng tôi: "Khách ngồi xung quanh có ý kiến, mong các vị nói nhỏ tiếng một chút, đừng làm ồn ào ảnh hưởng đến họ!"Chúng tôi lập tức "phanh lại", im re như thóc. Nhân sư tỉ nói: "Nếu theo bản tính tôi trước đây, tôi sẽ lập tức đi tìm đối phương để nói cho ra lẽ!" Tố Nhân sư tỉ cũng nói: "Tính khí của tôi cũng không tốt! Hôm nay do Sư Tôn ở đây, nên tôi mới nhịn!" Nhân sư tỷ người to khỏe, hai cánh tay lực lưỡng, tay huơ huơ trong không trung giống như cánh tay võ sĩ quyền anh vậy.

Lại có một lần, cũng ở tại nhà hàng KR, một vài người đồng môn chúng tôi cùng ăn cơm. Chúng tôi ăn rất yên lặng. Ngồi cạnh đó có một nhóm thanh niên nam nữ nói chuyện với âm điệu rất cao, cười nói rần rần, hết tràng này tới tràng khác. Hi hi ha ha. Mỗi thanh niên đều nói to hết mức. Sự ồn ào hết đợt này tới đợt khác như sóng dội vào tai chúng tôi vậy. Chúng tôi nhìn nhau ngán ngẩm, nhưng cũng không dám nói gì với bồi bàn. Nhịn. Nhịn. Nhịn.

🌟

Một tối nọ, tôi tu thiền. 1. Ngồi tĩnh lặng. 2. Luyện hơi thở. 3. Nhất niệm. 4. Tan vào hư không (tăng trưởng như không khí). Có một đường ánh sáng thanh tịnh từ trên trời rọi xuống, bao trọn lấy toàn thân tôi. Tịnh quang này là luồng ánh sáng màu trắng rất lớn. Trong tịnh quang xuất hiện Diệu Âm Thiên Nữ, một đầu hai tay, tay trái nâng đàn tỳ bà, tay phải gảy lên những âm thanh vi diệu. Vị thiên nữ này đẹp tuyệt trần. Thiên y váy xếp. Trâm ngọc trang nghiêm. Đàn tỳ bà gảy lên âm thanh "sa ra sa ti". Âm thanh tuyệt đẹp. Nàng có mái tóc dài màu lam buông xuống mềm mại như thác nước, tỏa hương thơm rung động lòng người. Tiếng cười cất lên như tiếng chuông bạc, đôi mắt khóe môi đều khẽ cười. Nàng nói: "Âm thanh của ta thế nào?" Tôi vui vẻ nói: "Diệu âm."

Tôi nhớ đến hai lần ở nhà hàng KR, tôi muốn kể với Diệu Âm Thiên Nữ. Nàng nói: "Ta đã biết rồi!" Tôi hỏi: "Gặp phải đám ồn ào thì cần làm gì?" Nàng nói: "Chẳng phải ngài biết hợp nhất sao? Hợp nhất cùng tiếng ồn, dần dần, ngài sẽ chẳng nghe thấy tiếng ồn nữa!"

02. Chuyển hóa và đoạn diệt

Tôi nhớ pháp sư Hải Đào trong lúc thuyết pháp có nhắc đến chuyện: Có một nữ cư sĩ nọ sau khi đi ra ngoài trở về nhà, nhón chân nhón tay khe khẽ mở cửa phòng ngủ, bất ngờ trông thấy một cảnh tượng đầy bối rối. Chồng của cô cùng với một người phụ nữ khác đang làm "chuyện ấy", đúng lúc "cao trào", đúng lúc "sung sướng muốn chết".

Nữ cư sĩ này nhẹ nhàng khép cửa lại. Cô lập tức chuyển đổi suy nghĩ: "À! Đây là mình đang nằm mơ." "Đây là giả thôi." "Đây là mắt tôi gặp nghiệp chướng." Sau đó, nữ cư sĩ này đi vào Phật đường của mình, một mình ngồi tĩnh lặng, tu tập thiền định. (Tôi nhớ nôm na câu chuyện là như vậy.)

Tôi nhận thấy: "Đây là sự chuyển đổi suy nghĩ."

🌟

Trước đây, tôi học tập Mật pháp cùng với một vị Thượng sư Mật giáo. Thượng sư hỏi tôi một vấn đề: "Nếu con tình cờ nhìn thấy sư phụ mình cùng một người phụ nữ đang "hòa hợp", con sẽ nghĩ sao?" Tôi "a" lên một tiếng, không biết phải trả lời thế nào.

Đúng lúc khó xử, ú a ú ớ, mơ mơ hồ hồ, vị thầy Mật giáo của tôi nói với tôi một cách chắc nịch: Con cần phải biết rằng đây là: "Sư phụ đang gieo trồng hạt giống Phật tử!" "Sư phụ đang truyền pháp gia trì!" "Sư phụ đang tu trì Phật pháp song thân!" "Sư phụ đang tu pháp song song hóa quang! Khí hợp với khí. Mạch hợp với mạch. Điểm hợp với điểm. (Đây là pháp song thân của Mật giáo, khí của hai người cùng thông với nhau, mạch của hai người liên kết với nhau, minh điểm của hai người dung hợp với nhau.)

Dùng pháp song thân có thể đạt đến: Thông mạch (khí đi vào trung mạch). Nâng chuyết hỏa (ma sát). Khai đỉnh (khí chạm đỉnh đầu). Minh điểm hạ xuống, chuyết hỏa nâng lên (lửa tham nâng lên hạ xuống). Mở luân xa kinh mạch (minh điểm trắng và đỏ gặp nhau). Hóa thành ánh sáng (luân xa và kinh mạch vừa mở ra thì ánh sáng lập tức xuất hiện). …

Vị thầy Mật giáo nói: "Đây là tu pháp, không phải là tà dâm. Là tu hành như pháp, hoàn toàn không giống với việc hành dâm của thế tục." Mặc dù tôi hiểu, nhưng, nhất định nếu tu pháp này cần phải hợp pháp, như pháp. Không thể làm bừa!

🌟

Trong lúc tôi thiền quán, có một bí mật lớn thế này. Mã Cát Lạp Tôn và tôi cùng ở trong tịnh quang, đây là một cảm giác rất mới mẻ. Tôi được khơi dậy lên cảm nhận. Mã Cát Lạp Tôn rung lên đầy hoang dã, lửa của tôi cháy hừng hực. Tôi và Mã Cát Lạp Tôn hoàn toàn hợp nhất. Sau đó: Mã Cát Lạp Tôn hóa thân thành Kim Cang Mẫu màu đen tướng phẫn nộ, ngài chặt đầu, tay chân và thân thể tôi thành nhiều đoạn, ném vào trong lửa Hộ Ma. Sau đó ngài nói: "Đây là lấy dục trị dục!" "Đây là đoạn diệt!" "Đoạn diệt mới có thể chứng minh vô ngã!"

03. Bà Tu Mật Đa Nữ nói như vầy

Tôi được một vòng tịnh quang màu đỏ bao trùm. Tịnh quang này giống như một khối cầu tròn trịa từ từ mọc lên từ chân trời. Phía chân trời có một vườn hoa tuyệt đẹp, đây không phải là vườn hoa của chốn nhân gian, mà là vườn hoa của cõi trời. Kỳ hoa. Dị thảo. Khiến cho tôi nghĩ đến nơi mà chúng ta vẫn gọi là thiên đường, có lẽ cũng gần giống như thế này. Trong vườn hoa đó chỉ có một người con gái. Nàng nói với tôi: "Tôi là Bà Tu Mật Đa Nữ!" Tôi ngạc nhiên: "Nàng là Bà Tu Mật Đa Nữ, một trong 53 vị thiện tài đồng tử ư?" Cô gái gật gật đầu. Tôi nhìn kĩ cô gái.

Cô gái này không giống như dâm nữ Bà Tu Mật Đa Nữ, một trong 53 vị thiện tri thức của Thiện Tài Đồng Tử được nói đến trong kinh Hoa Nghiêm. Nàng mới chỉ 16 tuổi. Nàng dịu dàng nhẹ nhàng, duyên dáng, mặc váy dài màu đỏ. Khuôn mặt nàng xinh đẹp như tiên nữ trên trời. Khuôn mặt sáng ngời như mặt trời, đôi chút ửng hồng. Tôi kéo nàng lại gần, nàng cũng chẳng hề cự tuyệt. Mái tóc của nàng lướt nhẹ trên mặt tôi. Tôi đã hoàn toàn say mê nàng rồi. Sau đó, Bà Tu Mật Đa Nữ dẫn tôi đi vào trong một khu rừng rậm, nơi đó hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Thế rồi cả người nàng dán chặt lên thân thể tôi, váy đỏ của nàng hóa thành màn sương đỏ, chúng tôi cùng ở trong màn sương. Hòa quện vào nhau. Khăng khít chặt chẽ. "Hố đen" của "mặt trời" hết lần này tới lần khác "vỡ òa". Một hồi lâu sau. Nàng nhìn tôi với ánh mắt đầy trìu mến, nói với tôi rằng nàng đã cảm nhận được niềm vui sướng chẳng thể nào mô tả được bằng lời nói. Khuôn mặt của nàng áp lên ngực tôi, mái tóc thơm dày mượt buông xõa trên thân thôi. Nàng nói: "Ngài! Thực sự là một vị tôn giả vô lậu." Tôi nói: "Đúng vậy." Nàng nói: "Ta chính là Minh phi trí huệ của ngài." Tôi nói: "Đúng vậy." Nàng nói: "Ngài đã thể hội được đại lạc, quang minh, tính Không rồi đúng không?" Tôi nói: "Đúng vậy." Nàng nói: "Việc này hoàn toàn không phải là sự hợp nhất thế tục, mà là hợp nhất thắng nghĩa, có thể hóa thành ánh sáng nhập vào tính Không." Tôi nói: "Đúng vậy." Tôi hỏi ngược lại nàng: "Nàng vì sao lại đến tìm ta?" Nàng cười: "Ta thấy Mã Cát Lạp Tôn Không Hành Mẫu đã ở cùng với ngài, do vậy ta bèn tới!" Nàng nói: "Ta nói với Thiện Tài Đồng Tử rằng, đây là pháp yếu, là lạc hóa minh, minh hóa Không, hai người cùng nhập vào tính Không vĩnh cửu." Tôi hỏi: "Đây cũng là Phật pháp?" Nàng đáp: "Cái gì không phải là Phật pháp đây?"

04. Vầng sáng nghìn tay nghìn mắt

Vầng sáng đó dày và rực rỡ, giống như tịnh quang đủ mọi màu sắc cùng cuộn xoắn lại với nhau. Tịnh quang trùng điệp.

Tôi đã vẽ hơn ba nghìn bức tranh, tôi hiểu sự trùng điệp của màu sắc, tôi có thể tạo ra vầng sáng mới, thậm chí còn đặc sắc hơn.

Vầng sáng đó liên tiếp phủ xuống người tôi, giống như những chiếc lá phong đung đưa trong hư không rơi rụng xuống vậy. Một ngọn gió thổi đến là rơi xuống trên người tôi. Đó là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện trước mặt tôi. Vị Bồ Tát này thuộc gia tộc Quan Thế Âm Bồ Tát, có lẽ là vị tôn quý nhất.

Ngài có mười một đầu. Tương đương với Bồ Tát ở địa thứ mười một. Địa thứ mười là Đẳng Giác. Địa thứ mười một là Diệu Giác. Diệu Giác là Chính Giác, tương đương với Phật. Nghìn cánh tay của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát đều chuyển động. Nghìn con mắt cũng chuyển động. Vầng sáng đó thực sự chẳng thể miêu tả thành lời. Bởi nó vừa mãnh liệt vừa dịu dàng duyên dáng.

Ngài nói: "Hư không vô tận." Tôi nói: "Tôi đã độ được năm triệu đệ tử!" Tôi nói tiếp: "Tôi đã lập được sáu mươi, bảy mươi tòa Lôi Tạng Tự!" Tôi còn nói: "Tôi đã viết được hai trăm bảy mươi hai cuốn sách!" Tôi còn nói: "Tiếng tăm của tôi rất vang dội. Tôi đi trên đường, rất nhiều người dường như đều nhận ra tôi."

Tôi thấy nghìn con mắt của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát đều bộc lộ ánh mắt khinh thường. Tôi nói: "Tôi có tam quang, là bạch quang, linh quang, Phật quang."

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát dường như chẳng buồn nghe tôi nói mấy điều này. Ngài dùng nghìn cánh tay xoa đầu tôi. Ngài vẫn chỉ nói: "Hư không vô tận."

Nghìn con mắt của ngài từ trên nhìn xuống, giống như gương soi chiếu trọn lấy tôi. Tôi thấy sự nhỏ bé của mình, sự yếu đuối của mình, cái bóng nhỏ chỉ như một chấm bé xíu của mình, dường như bản thân tôi chỉ là một con sâu nhỏ. Ngài nói: "Hư không vô tận." Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi: "Con người nhân gian có được một tí xíu đã sinh tính ngạo mạn rồi. Ngài sắp bị sự ngạo mạn nuốt mất bản thân rồi, đồng thời ngài cũng nuốt luôn cả sự ngạo mạn. Kì thực, gần như tất cả mọi người tự cho rằng mình đã học được rất nhiều, thực ra chỉ hiểu được có chút xíu mà thôi." Tôi hỏi: "Vì sao vậy?" Ngài đáp: "Con người không biết rằng hư không vô tận!" Tôi hỏi: "Làm sao để hiểu được hư không vô tận?" Ngài đáp: "Chẳng cần phải đi tìm kiếm ở bên ngoài làm gì cho mất công, ngài hãy quán chiếu nội tại của chính mình." Tôi hỏi: "Quán chiếu cái gì?" Ngài đáp: "Ngài không thấy hư không chẳng có gì sao? Khi ngài tìm không được chính mình thì mới là hư không vô tận."

05. Luồng tịnh quang màu vàng số một

Tôi nhớ từ rất lâu trước đây, khi tôi giảng về "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận", vừa mới bắt đầu giảng thì lập tức thấy ngài Tsongkhapa phóng xuống hàng trăm vòng ánh sáng liên tiếp, không ngừng chiếu tới gia trì cho tôi.

Trăm vòng ánh sáng đó như những sợi tơ dài liên tiếp rung lên, còn ngài Tsongkhapa thì ngồi ở giữa. Sau đó, luồng ánh sáng thấm vào toàn bộ thân tôi, khiến tôi tăng trưởng trí huệ, lại càng giúp tôi hiểu rõ hơn "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận".

Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy đại sư Tsongkhapa. Ngũ quan của ngài thanh tú. Con mắt trí huệ có sức mạnh xuyên thấu. Tai ngài vừa rộng vừa dài. Nét mặt khẽ cười ấm áp. Đây là ấn tượng đầu tiên của tôi khi nhìn thấy ngài Tsongkhapa.

🌟

Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi! Tôi lại gặp lại đại sư Tsongkhapa. Ngài vẫn giống hệt như ấn tượng của tôi khi lần đầu tiên tôi gặp ngài. Ngài chiếu ánh sáng tịnh quang màu vàng xuống tôi, tôi tắm mình trong tịnh quang màu vàng. Đồng thời toàn thân cũng lập tức thư thái dễ chịu. Đại sư Tsongkhapa nói: "Liên Sinh, ngài có bệnh đúng không?" Tôi đáp: "Có." Đại sư nói: "Bệnh ở nhân gian của ngài chính là bệnh ở nhân gian của ta, là bệnh giống nhau." Tôi "ồ" lên một tiếng, hiểu rồi! Tôi hỏi: "Đại sư! Thảo nào hoàng đế triệu kiến ngài, ngài nói bị bệnh nên không đi ứng triệu." Đại sư đáp: "Đúng vậy. Nhưng ta đã phái Thích Ca Dã Thất thay mặt ta, đi tiếp kiến hoàng đế." Tôi hỏi: "Ngài bệnh có nặng không?" Đại sư đáp: "Vẫn gượng được." Tsongkhapa nói: "Loại bệnh này chỉ có thể cùng hợp nhất với bệnh, không có cách chữa trị nào khác!" Tôi nói: "Tôi cũng làm đúng như vậy, tôi cùng bệnh hợp nhất, bệnh chính là bạn đạo của tôi, đã cùng nhau hợp nhất lâu rồi, bởi thế nên không có gì nghiêm trọng nữa rồi." Tôi nói: "Tôi dựa vào chế độ ăn uống và vận động để khống chế bệnh." Đại sư nói: "Ngài nói đúng."

Rồi đại sư Tsongkhapa nói tiếp: "Vào thời đại đó của ta, ta và các đệ tử chỉ có thể tu Phật pháp trường thọ để trị lại bệnh nghiệp của ta." Tôi hỏi:

"Đại sư Tsongkhapa, cuộc sống khi đó của ngài, có thể dùng câu từ gì để hình dung đây?" Đại sư đáp: "Ta chẳng hề phí thời gian vào những việc vô bổ." Đây là một câu nói rất bình thường, nhưng nó thực sự cứ vang vọng mãi trong đầu tôi. Đúng vậy, con người hiện đại đều đang phí thời gian vào những việc vô bổ.

🌟

Tôi thực lòng thực sự nói với mọi người: Thành tựu tiền bạc. (Chẳng đem đi được.) Thành tựu địa vị. (Chẳng đem đi được.) Thành tựu tiếng tăm. (Chẳng đem đi được.) Thành tựu khoa học kỹ thuật. (Chẳng đem đi được.) Thành tựu y học. (Chẳng đem đi được.) ... (Bởi vì cuối cùng chúng đều chẳng phải là thứ ta có được.)

Đại sư Tsongkhapa nói: "Theo đuổi những thứ này đều là phí thời gian vào những việc vô bổ."

06. Đối thoại với Liên Hoa Sinh Đại Sĩ

Có một quãng thời gian tôi rất nhớ Đức Phật A Di Đà, tôi luôn mong chờ ánh sáng tịnh quang của Đức Phật A Di Đà vỗ về tôi. Tôi chờ! Chờ mãi! Một luồng tịnh quang màu đỏ phủ trùm lấy tôi, trong lòng tôi mừng thầm, chắc chắn là Phật A Di Đà đến rồi. Nhưng thật thất vọng! Người đến không ngờ lại là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Vóc dáng ngài cao lớn, cường tráng, ngài quấn quanh mình tấm áo cà sa, để lộ ra hai chân trần. Nét mặt ngài khá nghiêm túc, nhìn đúng chất một vị Tổ sư tông phái một thời, nhãn quang trí huệ, mũi cao, mặt rộng và sáng, da sẫm, để râu.

Liên Sư nói: "Ngài thất vọng sao?" Tôi nói: "Tôi nhớ Bổn tôn A Di Đà Phật!" Liên Sư nói: "Ta chính là A Di Đà Phật đây, ngài là Liên Hoa Đồng Tử cũng chính là A Di Đà Phật." Tôi nói: "Sao lại đều là A Di Đà Phật?" Liên Sư nói: "A Di Đà Phật hóa hiện rất nhiều, như câu Namo ba mươi sáu vạn tỉ mười một vạn chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật đó. Ngài và ta đều là A Di Đà Phật." Tôi cười: "Thế là tự mình nhớ mình!" Liên Sư nói: "Tất cả Bổn tôn đều là tự tâm ta hóa hiện ra. Câu nói này là chân đế." Tôi đột nhiên tỉnh ngộ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Ngài muốn học Phật pháp không?" Tôi nói: "Đương nhiên." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Phật pháp ở ngay trong não ngài đó!" Tôi nói: "Đừng nói đùa chứ!"

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Ta chẳng đùa chút nào. Năm xưa ta cũng đã đem những terma Phật pháp giấu trong não của vua Trisong Detsen. Ngài chỉ cần lấy terma trong não ra, Phật pháp sẽ liền hiển hiện trước mắt." Tôi nói: "A! Việc này có lẽ đúng, tôi chỉ cần nghĩ đến một cái thì tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết xong!" Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hỏi tôi: "Ngài tu pháp thiền gì?" Tôi đáp: "Khí mạch minh điểm." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hỏi: "Tu khí mạch minh điểm như thế nào?" Tôi đáp: "Khí đi vào trung mạch, mạch thông suốt, minh điểm ở trung mạch cũng thông suốt và dung hòa." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Tâm yếu khẩu quyết là gì?" Tôi đáp: "Thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hỏi: "Còn gì nữa không?" Tôi đáp: "Khí thanh tịnh, mạch thanh tịnh, minh điểm thanh tịnh." (Liên Sư nói: BINGO)

07. Rất nhiều người đều không tu Tứ gia hành?

Tôi, Lư Sư Tôn, nói thật lòng rằng, bản thân tôi trước khi tu thiền, thỉnh thoảng tôi có tu Tứ gia hành, thỉnh thoảng không tu Tứ gia hành. Việc này tùy thuộc vào: Có nhiều thời gian thì tu. Có ít thời gian thì không tu. Hoặc là, không gian không đủ rộng. (Ví dụ như trên máy bay, tôi trực tiếp tu vào phần Chính hành, không tu Tiền hành của nghi quỹ Tứ gia hành.)

Nhưng tôi dạy đệ tử thì là: Cần tu Tứ gia hành. Tứ gia hành gồm có: đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, và pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát. (Tứ gia hành ở đây bao gồm: niệm chú Phật, kệ hồi hướng, thanh tịnh đàn thành, ngồi tĩnh lặng, hít thở Cửu tiết Phật phong, phát tâm, quy y, cúng mandala, niệm Bách tự minh chú, v.v…)

🌟

Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ phóng tịnh quang màu đỏ chiếu tới tôi, tôi dùng khẩu khí của người bình thường hỏi ngài rằng: "Tứ gia hành có quan trọng không?" Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Quan trọng số một." Hỏi: "Đại lễ bái có gì quan trọng?" Đại Sĩ đáp: "Cung kính, sám hối, điều chuyển thân tâm." Hỏi: "Khi làm đại cúng dường, Bổn tôn có đến ăn đồ cúng không?" Đáp: "Không." Hỏi: "Các ngài không đến ăn thì vì sao vẫn cần phải cúng dường?" Đáp: "Ngài thỉnh cầu Bổn tôn gia trì, Bổn tôn hợp nhất, Bổn tôn làm tất cả mọi pháp, mà ngài chẳng có cúng phẩm gì, vậy có được không?" Liên Hoa Sinh Đại Sĩ  nói: "Đây là vấn đề lễ nghĩa." (Quan trọng nằm ở sự kiền thành.)

Hỏi: "Vì sao cần niệm chú Tứ quy y?" Đáp: "Dòng truyền thừa là quan trọng số một, do vậy cần phải ghi nhớ Phật, pháp, tăng, căn bản Thượng sư. Có như vậy dòng chảy pháp mới có thể đi vào trong thân ngài, ngài mới có thể thấm đẫm được dòng chảy pháp." Hỏi: "Vì sao cần tu pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát?" Đáp: "Sám hối không quan trọng ư?" Tôi nói: "Quan trọng." Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Pháp đó là nguồn gốc để có được thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh." Hỏi: "Theo góc nhìn của Liên Sư thì phần Tiền hành của Tứ gia hành là cái gì?" Đáp: "Vận động để làm nóng toàn thân." Hỏi: "Phần lớn người ta đều không làm Tứ gia hành thì sao?" Đáp: "Sẽ dễ bị thương!" Hỏi: "Có cần niệm văn thỉnh cầu không?" Đáp: "Đó là phần đẹp đẽ tuyệt diệu nhất, tôi rất thích."

🌟

Tôi nói: Không có Tứ gia hành, lễ nghĩa không hoàn chỉnh, tu thiền sẽ có chướng ngại!

08. Sở duyên cảnh

Tôi rất khát khao được như: Long Thụ Bồ Tát, tại tháp sắt ở Nam Thiên Trúc đã gặp được Kim Cang Tát Đỏa. Thử nghĩ mà xem: Kim Cang Tát Đỏa đã chuyển giao pháp Kim Cương Giới, Thai Tạng Giới cho Long Thụ Bồ Tát. Đây là một bối cảnh cực kì đẹp đẽ. Đương nhiên tôi rất khát khao được trông thấy Kim Cang Tát Đỏa, để xem xem Kim Cang Tát Đỏa trao cho tôi món quà gì đây?

🌟

Điều tôi không ngờ đến đã xảy ra. Tôi bị một luồng tịnh quang màu trắng bao trùm, tịnh quang màu trắng này biết nuốt vào và nhả ra. Tịnh quang nuốt tôi vào, rồi lại nhả tôi ra. Lại nuốt tôi vào, lại nhả tôi ra. Tôi kêu to: "Việc này là sao đây?" Một âm thanh xa xăm vọng lại, tôi nhìn về phía nguồn phát ra âm thanh. Một hình ảnh lóe lên trước mắt tôi, đó là Kim Cang Tát Đỏa. Ngũ Phật trên đầu. Anh tuấn tự tại. Tay phải cầm chày, đặt trước ngực. Tay trái cầm chuông, đặt trên đùi trái. Thế ngồi hoa sen. Tôi hỏi: "Vì sao lại nuốt tôi vào, rồi lại nhả tôi ra?" Kim Cang Tát Đỏa đáp: "Sở duyên cảnh." Tôi hỏi: "Sở duyên cảnh là cái gì?" Ngài đáp: "Lư Sư Tôi chính là sở duyên cảnh của ta." Ngài hỏi: "Sở duyên cảnh tu quán của Lư Sư Tôn là gì?" Tôi đáp: "Là đếm hơi thở!" (trong tâm niệm thầm một hơi, hai hơi,…….) Ngài nói: "Ngài đếm hơi thở được mấy lượt rồi quên mất luôn con số, thế rồi ngủ gật mất. Ha ha ha!" Ngài nói: "Ta biết sở duyên cảnh của Lư Sư Tôn là gì." "Là gì?" - Tôi hỏi. Ngài nói: "Mỹ nữ." Tôi đỏ mặt. Ngài lại nói tiếp: "Có lần thì là Mã Cát Lạp Tôn, có lần thì là Kim Cang Hợi Mẫu, có lần là Bạch Độ Mẫu, có lần là Lục Độ Mẫu, đúng không?" Tôi gật gật đầu. Kim Cang Tát Đỏa nói: "Tu quán đừng nhắm mắt, bởi vì vọng niệm sẽ bay mòng mòng trong đầu (trạo cử), hoặc không thì ngủ gật (hôn trầm). Hơi hé mắt, mắt nhìn cố định vào sở duyên cảnh, như vậy mới có thể nhất tâm bất loạn." Tôi hỏi: "Có khẩu quyết không?" Ngài đáp: "Quán chiếu sở duyên cảnh là quan trọng nhất. Trước đây ngài lễ kính Bổn tôn, bây giờ vẫn cần lễ kính Bổn tôn, cầu thỉnh Bổn tôn hạ giáng để chỉ dạy. Bây giờ ngài chưa nhìn thấy Bổn tôn, sau này nhất định sẽ nhìn thấy Bổn tôn, thậm chí chết rồi cũng có thể nhìn thấy Bổn tôn."

Tôi hỏi: "Kim Cang Tát Đỏa, ngài tặng quà cho Long Thụ Bồ Tát, ngài sẽ tặng cho tôi món quà gì đây?" Ngài cười lớn: "Sung sướng, hạnh phúc, vui vẻ."

09. Tìm kiếm tính Không

Tôi nhớ Thiền tông có đoạn đối thoại giữa tổ sư Đạt Ma và nhị tổ - Thiền sư Huệ Khả. Huệ Khả nói: "Tâm con tán loạn, xin thầy an tâm cho con!" Đạt Ma nói: "Con lấy tâm ra đây, ta sẽ an nó giúp con." Huệ Khả nói: "Con tìm kiếm thế nào cũng chẳng tìm thấy tâm của con!" Đạt Ma nói: "Ta đã giúp con an tâm rồi đó!"

Theo như tôi hiểu: Trên thế tục đế, mọi thứ đều có tâm. Trên thắng nghĩa đế, tất cả đều là vô tâm. Hai khẩu quyết lớn của thiền định là: vô sự, vô tâm.

🌟

Còn nữa: Lúc tổ sư Đạt Ma mới gặp Lương Vũ Đế. Vũ Đế nói: "Ta đã xây vô số chùa, cúng dường vô số tăng, làm vô số pháp sự, thì có công đức gì?" Đạt Ma đáp: "Chẳng có công đức gì cả." Vũ Đế hỏi: "Ta là ai?" Đạt Ma đáp: "Là ai!" (không biết)

Theo như tôi hiểu: Trên thế tục đế, Lương Vũ Đế có công đức. Trên thắng nghĩa đế, thì không có công đức. Trên thế tục đế, có một người là Lương Vũ Đế. Trên thắng nghĩa đế, chẳng có Lương Vũ Đế nào.

Tôi thường dạy đệ tử: Nếu trên mặt trăng chẳng có một người nào, tôi hỏi mọi người, thế thì: Cái gì là Phật? Cái gì là ma? Cái gì là thiện? Cái gì là ác? Cái gì là công đức? Cái gì là không có công đức? Cái gì là lành? Cái gì là dữ? Cái gì là đúng? Cái gì là sai? ... Nơi đó hoàn toàn cách xa cái "Có". Là cái "Không" tuyệt đối.

🌟

Kim Cang Tát Đỏa hỏi tôi: "Ngài tu thiền là vì cái gì?" Tôi đáp: "Tìm kiếm tính Không." Kim Cang Tát Đỏa hỏi tôi: "Đã tìm thấy chưa?" Tôi đáp: "Chưa tìm thấy!" Kim Cang Tát Đỏa hỏi: "Đã biết là không tìm thấy, hà tất phải tu thiền?" Tôi đáp: "Nếu không tu thiền, làm sao biết được tìm Không thấy?" Ha ha ha! Tôi và Kim Cang Tát Đỏa đều cười vang.

Kim Cang Tát Đỏa nói: "Bất luận là Quảng hành phái hay Thâm kiến phái, ta dạy cho ngài một cách tu quán đơn nhất, sự đơn nhất này có thể tận hưởng mãi không hết." Tôi nói: "Tôi hiểu." Kim Cang Tát Đỏa nói: "Bất kể như thế nào, ngài chỉ cần hợp nhất với Bổn tôn, thì chính là đã tu thiền rất sâu rồi." (Nhất chính là thiền định.)

10. Tôi thiền quán

Mẹ tôi qua đời tại Seattle nước Mỹ. Tôi thiền định quan sát, nay kể lại như sau: Mẹ tôi cứ quanh quẩn ở trong những đám mây trên cao, miệng không ngừng la lớn: "Tiền của tôi! Tiền của tôi! Tiền của tôi!" Sau đó cứ thế nhìn xuống nhân gian.

Đúng lúc này. A Di Đà Phật ngồi trên ngai vàng, một pháp tọa dát kín bằng những viên kim cương lớn xuất hiện. A Di Đà Phật hỏi: "Bà đang tìm gì vậy?" Mẹ tôi đáp: "Tìm tiền của tôi!" A Di Đà Phật hỏi: "Bảo tọa của ta làm bằng vàng, kim cương viên nào viên nấy to như quả trứng gà, bảo tọa của ta có hơn tiền tài chốn nhân gian của bà không?" Mẹ tôi đáp: "Hơn nhiều chứ!" A Di Đà Phật nói: "Bà không cần tìm nữa, ta tặng cho bà bảo tọa này!"

Mẹ tôi sướng như điên. A Di Đà Phật lập tức biến mất. Mẹ tôi liền lên bảo tọa của A Di Đà Phật ngồi. Sau đó, mẹ tôi (Lư Ngọc Nữ) liền xuất hiện tại Nam Hải Phổ Đà Lạc Gia Sơn, trở thành quyến thuộc của Quan Thế Âm Bồ Tát. Mẹ tôi vốn là chim thái bình của Bồ Tát chuyển thế. Sau đó, mẹ tôi trở thành Tống Tử Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi cảm thán: A Di Đà Phật dùng phương tiện thiện xảo, đã độ hóa cho mẹ tôi rồi. Tôi lại cảm thán, sự bám chấp của con người thực sự rất đáng thương. Con người sống trong sự bám chấp sẽ quên mất việc tu trì hàng ngày.

🌟

Tôi thiền định rất có quy luật, sức mạnh tập trung rất ổn định và tăng trưởng, hơn nữa thời gian cũng rất dài. Bởi vì nghị lực của tôi ngày càng yên tịnh. Pháp lưu thấm đẫm toàn thân. Cơ thể vững chắc như núi. Toàn thân như lửa bùng cháy. Chân lý thực sự thấy ngay. Tôi có thể giải quyết tất cả mọi hoàn cảnh khó khăn nhất. Tôi phát hiện ra, tôi có thể hợp nhất với tất cả.

Lại có một luồng tịnh quang bao vây lấy tôi. Trong ánh sáng xuất hiện Bạch Độ Mẫu. Bạch Độ Mẫu là một trong các vị Không Hành Mẫu rất thân thiết với tôi. Tôi và Bạch Độ Mẫu hợp nhất. Bạch Độ Mẫu nói: "Ngài hẳn là đã hợp nhất cùng tình yêu rồi!" Tôi nói: "Đúng vậy." Bạch Độ Mẫu nói: "Hợp nhất cùng với kẻ thù của ngài nữa!" Tôi nói: "Tôi có thể." Bạch Độ Mẫu nói: "Hợp nhất cùng người phỉ báng ngài, oán hận ngài nữa!" Tôi nói: "Tôi có thể."

Tôi phát hiện ra, khắp xung quanh tôi tràn ngập tình yêu, tình yêu tràn đầy đối với tất cả mọi người, không phân biệt bất kì ai, không phân biệt quốc gia. Tôi nhận ra ai nấy cũng đều là chính mình. Bạch Độ Mẫu nói: "Vậy là ngài đã thể hội được chân đế. Chân đế là không phân biệt!"

11. Hỏi đáp về cái chết

Tôi năm nay đã 75 tuổi. Tôi đã biết trước thời điểm chết của mình, bởi vì Diêu Trì Kim Mẫu đã nói cho tôi biết vào năm bao nhiêu tuổi thì tôi sẽ chết. Do vậy, mỗi tối tôi đều luyện tập phương pháp vãng sinh. Tôi luyện tập hai thứ:

Thứ nhất, khi Bổn tôn hiện thân đến đón tiếp tôi, tôi sẽ dùng pháp "nhập ngã ngã nhập" để đi vào trong tâm của Bổn tôn, hoặc Bổn tôn đi vào trong tâm tôi, bằng cách này tôi sẽ đến được tịnh thổ của Bổn tôn.

Thứ hai, tôi dùng khí để thông trung mạch, đem ánh sáng Phật tính ở tâm luân theo trung mạch đến lỗ trên đỉnh đầu, phóng ra ánh sáng cầu vồng, lập tức thành Phật.

Mỗi ngày tôi đều luyện tập như vậy, để tránh cho khi thời điểm chết đến tay chân tôi lại cuống hết cả lên.

🌟

Đêm khuya thanh vắng, tôi đang luyện tập. Một mùi hương thơm đưa tới, đem theo một vùng ánh sáng, trong ánh sáng có một người ngồi ở giữa. Người này rất trang nghiêm, sự trang nghiêm được tạo nên bởi sự vững chắc và kiên định. Ánh mắt của người này màu nâu. Người này tạo cho tôi ấn tượng: Tuyệt đối nghiêm khắc. Cẩn thận chỉn chu. Uy lực mạnh mẽ. Trí huệ vững chắc. Người này chính là Diêm La Vương của Dạ Ma Thiên. Diêm La Vương nở nụ cười nhẹ đầy ấm áp lẫn bi thương. Ngài hỏi: "Muốn nói chuyện cùng ta không?" Tôi nói: "Thế nhân chỉ biết chuyện sinh, chẳng biết chuyện chết. Ngài có thể nói về những hiện tượng sau khi chết không?" Ngài đáp: "Được. Ngài hỏi tôi đáp." Tôi hỏi: "Người ta sau khi chết, thực sự có linh hồn không?" Diêm La Vương đáp: "Có." Tôi hỏi: "Linh hồn rốt cục là cái gì?" Diêm La Vương nói: "Khí trở về với khí, đất trở về với đất." Tôi hỏi: "Ý ngài là khí chính là linh hồn. Còn đất chính là da, máu, xương thịt, các cơ quan, lông tóc?" Diêm La Vương đáp: "Đúng vậy. Khi người ta chết, khí sẽ thoát ra, tùy theo nghiệp chướng mà lưu chuyển đi. Những linh hồn này đều tập trung trên tay tôi. Tôi sẽ tùy theo nghiệp chướng mà gửi linh hồn đi đến lục đạo." (nhân duyên quả báo) Tôi hỏi: "Ngài phán xét thế nào?" Diêm La Vương đáp: "Kì thực cũng chẳng cần phán đoán. Mỗi linh hồn có nghiệp riêng. Chúng ta chỉ cần xem nghiệp của linh hồn, tự nhiên dựa vào nghiệp lực mà mỗi linh hồn sẽ tự phân về các nhóm mà đi tới lục đạo." Tôi hỏi: "Có ai không bị ngài quản không?" Diêm La Vương đáp: "Là linh hồn tự mình hiển hiện được Bổn tôn. Linh hồn tự mình hóa thành ánh sáng chói lọi, nhập vào tứ Thánh giới." Tôi hỏi: "Người tự sát thì sẽ thế nào?" Diêm La Vương đáp: "Người đó sẽ phải chờ tại địa điểm tự sát đó chịu khổ, cho đến khi sinh mệnh gốc kết thúc thì mới luân hồi được." Diêm La Vương nói: "Bằng mọi giá đừng bao giờ tự sát, linh hồn tự sát bị tan vỡ thành nhiều mảnh, khi chuyển thế cũng tán loạn, không thể thành hình dạng gì được."

12. Các loại nghiệp

Tôi hỏi Diêm La Vương: "Tôi muốn biết về nghiệp ra sao?" Ngài đáp: "Nghiệp được gọi là biển nghiệp, phạm vi cực kì rộng lớn, rất phức tạp, rất ít người có thể hiểu được." Hỏi: "Có thể nói một cách đơn giản không?" Đáp: "Mọi sự đều có nhân, mọi sự đều có quả." Tôi hỏi: "Làm sao để không phạm tới nhân quả?" Ngài đáp: "Hỏi Phật đi!" (Tôi nghĩ ngay cả ngài ấy cũng chẳng biết.) Tôi hỏi: "Nhân từ đâu đến?" Ngài đáp: "Đến từ quá khứ." Tôi hỏi: "Quả đến từ đâu?" Ngài đáp: "Quả đến từ nhân."

Tôi có chút "nóng mặt" rồi: "Tôi hỏi cả nửa ngày trời, hỏi cũng bằng không, rốt cuộc là nhân nhân quả quả, nhân biến ra quả, quả biến ra nhân, cả một đám nhân quả, cả một đám nghiệp khiến tôi lú lẫn mất rồi!" Ngài nói: "Không cần phải tức giận, đây là số học, cộng trừ nhân chia, khai căn, vi tích phân, v.v… Kết quả sẽ cho ra đáp án.” Tôi hỏi: “Có thể thay đổi không?” Ngài đáp: “Đương nhiên.” Tôi hỏi: “Làm sao để thay đổi?” Ngài đáp: “Chạm vào, ấn, biến thành nhẹ, cắt bỏ, thêm vào các nhân tố khác...” Tôi hỏi: “Là ý nói về tâm sao?” Ngài đáp: “Đúng vậy. Tổng hợp từ suy nghĩ thứ nhất đến suy nghĩ cuối cùng, đây chính là cái gọi là biển nghiệp.”

Tôi hỏi: “Suy nghĩ thứ nhất là gì?” Ngài đáp: “Suy nghĩ của người cha cộng thêm suy nghĩ của người mẹ, trở thành suy nghĩ đầu tiên của cuộc đời này.” Cuối cùng tôi đã hiểu ra rồi. Tôi hỏi: “Tôi có thể lựa chọn cha mẹ không?” Ngài đáp: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” A, hình như tôi lại hiểu ra rồi, tất cả dường như có một số mệnh định sẵn. Tôi nói: “Đây là định số sao?” Ngài đáp: “Nói là định số cũng không sai, nhưng có thể thay đổi, đại tu hành giả đều có thể thay đổi định số.” Tôi hỏi: “Nếu không phải là đại tu hành giả thì sao?” Ngài đáp: “Thì là định số.” Tôi hỏi: “Vậy sao cùng cha mẹ sinh ra mà vận mệnh mỗi nguời lại không giống nhau?” Ngài đáp: “Vẫn là câu nói cũ rích, có giống có khác, cần xem nhân duyên, sẽ biết được định số.”

13. Diệu Âm Thiên Nữ ca hát

Hôm đó, tôi ngồi trên ghế sofa lớn trong phòng khách, hai chân tôi bắt chéo trong tư thế hoa sen, hai tay đặt tự nhiên trên đùi, tôi ng Một màn tịnh quang đã phủ xuống toàn thân tôi. Có một chú âm vọng đến bên tai tôi. “Om sarasati ye soha.” Chú âm này rất du dương, rất đẹp đẽ vi diệu. Hóa ra là Diệu Âm Thiên Nữ đến. Trên đầu thiên nữ kết đầy hoa. Đôi mắt to. Mũi cao thẳng. Môi đỏ mọng như trái anh đào. Trên tay thiên nữ cầm đàn tỳ bà. Gương mặt xinh đẹp, dáng người duyên dáng. Hai chân vắt chéo, ngồi trên hoa sen màu đỏ. Toàn thân được trang điểm bởi ngọc ngà châu báu lấp lánh. Thiên nữ rất thùy mị dịu dàng, hiền hậu.

Tôi hỏi: “Nghe nói Đại Phạm Thiên Vương thích nhất là nghe nàng hát, khúc “Gió nhẹ thổi qua Nam Hải Phổ Đà Sơn”, đúng vậy không?” Thiên nữ đáp: “Đúng vậy.” Tôi thỉnh cầu thiên nữ: “Có thể hát cho ta nghe được không?” Thiên nữ đáp: “Ta chính là đặc biệt tới đây để hát cho ngài nghe đó.” Thiên nữ vừa gảy đàn vừa hát. Trước tiên nàng hát bài kệ tán thán về mình: "Thế là Như Lai tôn quý diễn thuyết diệu pháp. Thanh âm cõi trời tuyệt diệu điều phục trời người. Tùy duyên tùy hiện mà nên Biện Tài Thiên Nữ. Viên mãn ý nguyện phủ khắp ba nghìn thế giới. Nhất tâm chính niệm đạt được diệu trí đại nguyện. Vang lên chú ngữ vô thượng tối thắng giữa trời người. Thỉnh cầu gia hộ tùy tâm lễ kính chư Phật. Thần thông trí huệ tất cả mau chứng Bồ Đề." Thiên nữ hỏi: “Có hay không?” Tôi nói: “Rất hay! Nhưng không phải bài Gió thổi Phổ Đà!” Thiên nữ lại đàn hát: "Mùa đã sang thu Gió thổi ngọn trúc xanh Lên cao Rồi đến Phổ Đà. Thổi qua núi Thổi qua vòng nước. Mơn man. Phật Quan Thế Âm. Ánh kim quang mỏng manh Ánh mặt trời ấm áp Chỉ ra Tiếng pháp cồng vang vọng. Như đàn chim bay Như đàn cá lượn Hạnh phúc Chính phút giây ngân nga này."

Tôi nghe xong, như say như mê. Khúc hát này chỉ có cõi trời mới có. Diệu Âm Thiên Nữ nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Nếu cùng Diệu Âm hợp nhất thì thanh tịnh thân tâm, cũng là thiền đó."

14. Hai Phật hiện toàn thân

Có hai vòng tròn ánh sáng cùng bay trên không, hai vòng ánh sáng này là vô lượng quang màu đỏ. Có khi, hai vòng ánh sáng này hợp lại. Có khi, hai vòng ánh sáng này tách rời. Gần như chiếm cả một nửa bầu trời, thậm chí có lúc là cả bầu trời đều nhuộm một màu đỏ, màu đỏ thấm đẫm một vùng rộng lớn, vô cùng tráng lệ.

Khi hai vòng tròn ánh sáng đỏ hạ xuống trên người tôi, tôi không cảm thấy nóng, chỉ cảm thấy một cảm giác mát mẻ. Trong một sát-na, tôi nhìn thấy chủ nhân của tịnh quang màu đỏ này, tôi giật mình sửng sốt, không ngờ là: A Di Đà Phật. Trường Thọ Phật. Hai Phật hiện toàn thân. Hai Phật hiện hình tượng Phật, tóc búi cao, gương mặt tỏa ánh sáng, vừa rực rỡ vừa ấm áp. Hai vị đều không gầy gò, khuôn mặt tròn đầy, dáng người không gầy không béo, nhưng rất mảnh mai, mỗi vị đều đứng trên một bông hoa sen màu đỏ. Vị đứng trước kết định ấn. Vị đứng sau tay cầm bình cam lộ. Đương nhiên tôi biết Trường Thọ Phật là hóa thân của Phật A Di Đà, hai vị chỉ là một, nhưng phân ra làm hai. (Phật A Di Đà là Bổn tôn của tôi.)

Tôi lập tức đảnh lễ. Hai vị đưa tay đỡ tôi đứng dậy. Sau đó, tôi nhìn thấy Trường Thọ Phật hòa nhập vào trong thân của Phật A Di Đà, hai vị trong tích tắc đã biến thành một vị. Phật A Di Đà hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Hôm nay ngài tu thiền được bao lâu?" Tôi đáp: "Hai mươi phút." Phật A Di Đà nói: "Một ngày hai mươi tư giờ, mà chỉ thiền có hai mươi phút?" Tôi đáp: "Xin lỗi! Hôm nay thực sự bận quá, tôi đã tới Lôi Tạng Tự cùng tu Hộ Ma Trường Thọ Tam Tôn (hỏa cúng), buổi tối rất muộn mới trở về nhà." Phật A Di Đà hỏi: "Buổi sáng thì sao?" Tôi đáp: "Tôi dành khá nhiều thời gian để cạo tóc, đi vệ sinh, ăn sáng, luyện tập mắt, luyện tập răng, luyện tập tai. Buổi sáng còn viết sách, làm các việc buổi sáng. Thế là cũng hết sạch cả buổi sáng rồi." Phật A Di Đà hỏi: "Ngài có niệm Phật không?" Tôi đáp: "Tôi thường niệm Phật trong lúc làm việc." Phật A Di Đà gật gật đầu, nói: "Lư Sư Tôn! Ngài biết cái chết là thế nào không?" Tôi đáp: "Già mà chết ư?" Phật A Di Đà nói: "Không phải là chết vì già, mà là các kiểu chết, ví dụ: Vừa ra khỏi thai mẹ là chết! Nhiễm trùng rất nhẹ cũng chết! Trượt chân xuống hồ băng cũng chết! Bị ngã mà chết! Bị cháy mà chết! Bị lở đất mà chết! Bị động đất chôn sống! Bị sặc chết, bị đâm xe chết, bị chém chết, bị ngã từ trên cao xuống mà chết,… và nhiều kiểu chết khác." Tôi đương nhiên biết. Phật A Di Đà nói: "Ngài cần chuẩn bị cho cái chết mọi lúc mọi nơi, ngài đã chuẩn bị tốt chưa? Cần nỗ lực chuẩn bị nhiều hơn, một ngày không thể nào chỉ tu có hai mươi phút, ngài hiểu không?" Tôi gật gật đầu.

15. Làm sao để sống lâu

Hai vị Phật hợp làm một, là Phật A Di Đà và Phật Trường Thọ hợp lại làm một vị. Sau khi dạy bảo tôi xong, khuôn mặt của Phật A Di Đà đột nhiên lại biến thành Phật Trường Thọ. Trên tay của Phật Trường Thọ cầm bình nước cam lộ. Phật Trường Thọ hỏi thẳng: "Lư Sư Tôn, ngài có muốn sống lâu không?" Tôi có chút do dự. Thứ nhất, Diêu Trì Kim Mẫu đã nói với tôi về thời điểm tôi sẽ chết. Thứ hai, tôi sống lâu hơn để làm gì? Thứ ba, tôi đã 75 tuổi rồi, ở tuổi này, sống lâu thêm nữa có thể làm gì nữa đây? Bởi vậy tôi trầm ngâm im lặng, không đáp lại. Phật Trường Thọ nói: "Lư Sư Tôn! Rất nhiều đệ tử của ngài đều thay ngài thỉnh cầu, hy vọng ngài có thể sống lâu khỏe mạnh!" Tôi hỏi ngược lại: "Sống lâu vẫn có thể khỏe mạnh sao?" Phật Trường Thọ nói: "Người sống lâu phần lớn đều không thể khỏe mạnh. Nhưng cũng có người được chăm sóc tốt thì có thể khỏe mạnh." Tôi hỏi ngược lại: "Làm sao để khỏe mạnh?" Phật Trường Thọ đáp: "Y học tiến bộ, Mật pháp cao sâu, thân tâm thanh tịnh, sự tái sinh của tế bào, chức năng cơ thể mạnh hơn, nhập vào thiền định thậm thâm, việc "ngủ đông" của con người, ân từ của cõi trên ban cho…." Tôi nói: "Những việc này tôi cũng có biết đôi chút, nhưng, ân từ của cõi trên là cái gì?" Phật Trường Thọ đáp: "Là Phật Bồ Tát gia trì cho ngài!" Tôi hỏi: "Gia trì sống lâu có điều kiện gì?" Phật Trường Thọ đáp: "Chẳng có con người nào tránh được cái chết, xưa nay chẳng có. Nhưng sống lâu thì có thể được. Có ba điều kiện lớn: 1. Ngài vẫn còn trách nhiệm chưa hoàn thành. 2. Ngài muốn sống lâu. 3. Ngài có được sự gia trì từ ý thức tối cao. Nói cách khác là có sự mong muốn, nỗ lực và ân điển." Tôi hỏi: "Cái gì gọi là nỗ lực?" Phật Trường Thọ đáp: "Sống lâu bằng tự sức mình. Coi trọng các phương pháp khỏe mạnh, nỗ lực tập luyện." Tôi hỏi: "Cái gì gọi là ân điển?" Phật Trường Thọ đáp: "Là sự yêu mến của tha lực." Tôi hỏi: "Tha lực?" Phật Trường Thọ đáp: "Khi ngài liên kết với ý thức tối cao sẽ thấy rằng hành giả có được sự giúp đỡ vô hạn. Sức mạnh lớn lao và trí huệ vĩ đại sẽ cùng lúc được mở bung ra." Phật Trường Thọ nói: "Sự hóa hiện ở khắp mọi nơi sẽ liên kết với bệnh lâu năm trên thân thể ta mà hóa thành khói tan biến đi. Ngài có thể biến bệnh ung thư của người khác thành không còn, lẽ tự nhiên cũng có thể khiến chính mình sống lâu khỏe mạnh." Phật Trường Thọ lại nói: "Hãy thanh tịnh thân tâm đi! Chỉ cần tu hành cho thân tâm thanh tịnh, tự nhiên có thể sống lâu!" Tôi hỏi: "Làm sao để liên kết với ý thức tối cao?" Phật Trường Thọ đáp: "Thanh tịnh ý thức của chính mình!"

16. Khuynh hướng

Trong thiền định. Lần tu thiền này, tôi có thể bay, việc bay đi bay lại của tôi rất duyên dáng, đó là tôi đứng và lướt bay nhẹ nhàng. Dưới chân tôi không có hoa sen. Tôi từ cửa bước ra ngoài, bỗng nhiên tôi thấy mình đứng trôi trên hư không. Phía trên thành phố, tôi bước đi trong hư không. Rất nhiều người trong thành phố ngẩng đầu nhìn tôi. Tôi khiêu vũ trên đỉnh núi cao. Tôi khiêu vũ trên mặt biển rộng. Tôi muốn đến đâu liền bay đến đó. Đây chính là "khiêu vũ trên không".

Tôi gặp Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài ngồi trong vòng tròn ánh sáng, vòng tròn ánh sáng màu vàng, rực rỡ và tráng lệ. Địa Tạng Vương Bồ Tát đội mũ miện Ngũ Phật, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng bảo châu, ngồi trên tòa hoa sen quý. Ngũ quan ngài thanh tú. Mắt nhìn xuống, khuôn mặt từ bi. Ngài trông thấy tôi liền gọi: "Lư Sư Tôn! Chào!" Tôi nói: "Chào ngài!" Tôi hỏi: "Ngài đang đi đâu đấy?" Ngài đáp: "Ta đặc biệt tới tìm ngài đây." Tôi hỏi: "Tìm tôi có chuyện gì à?" Ngài đáp: "Chẳng có chuyện gì cả!" Tôi chưng hửng: "Chẳng có chuyện gì thì ngài đi kiếm chuyện à!" Ngài nói: "Chỉ là tán gẫu thôi." Tôi hỏi: "Tán gẫu chuyện gì?" Ngài đáp: "Nói về khuynh hướng đi!" Ngài hỏi tôi: "Ngài có nhận thấy rằng, khi ngài đến gần một con chim, chim liền bay mất, khi ngài đưa ngón tay chỉ vào con cá, cá liền lặn đi mất không?" Tôi đáp: "Chính là như vậy." Ngài nói: "Đây chính là khuynh hướng, bởi vì mọi động vật đều sống trong nỗi sợ hãi, sợ hãi chính là bản chất của động vật." Tôi hỏi: "Bao gồm cả con người đúng không?" Ngài đáp: "Con người là động vật, nhưng cũng không phải là động vật. Chí ít là tư tưởng của con người cũng vượt trội so với động vật khác. Động vật khác sợ hãi là bởi vì mọi lúc mọi nơi chúng đều sợ bị ăn thịt." Tôi nói: "Động vật thuộc về chuỗi thức ăn, lại còn bị con người ăn chúng, động vật ngày ngày đều chạy trốn để khỏi bị ăn thịt." Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: "Vì sao lại có lục đạo luân hồi, ngài biết chứ?" Tôi nói: "Tôi đã biết rồi, đó chính là do khuynh hướng."

Tôi phân tích: Người tham lam, khuynh hướng sẽ rơi vào pháp giới ngạ quỷ. Người sân hận, khuynh hướng sẽ rơi vào pháp giới địa ngục. Người ngu si, khuynh hướng sẽ rơi vào pháp giới súc sinh. Địa Tạng Vương Bồ Tát đáp: "Phân tích của ngài mặc dù vẫn chưa bao quát hết, nhưng cũng gần gần như vậy. Lư Sư Tôn! Hãy nói cho con người biết đừng nên có những khuynh hướng tạo nghiệp này thì mới có thể giải thoát được!"

17. Sự rực rỡ của ngọc lục bảo

Một sát-na nhập vào thiền định, tôi chẳng có một chút cảm nhận nào, chẳng nhìn thấy cái gì, cũng chẳng nghe thấy cái gì, ngay cả một suy nghĩ cũng dừng lại (vô niệm).

Căn bản là tôi chẳng còn là tôi nữa. Thể rắn biến thành thể lỏng. Thể lỏng biến thành thể khí. Thể khí biến thành sương khói. Khói bị gió thổi tan đi. Bởi vậy, hoàn toàn không còn tồn tại! Chính là như vậy. Thời gian chẳng còn, không gian chẳng còn. Dường như chính là: Không. Hư không rộng lớn. Hoàn toàn trống rỗng. Tất cả đều không. Sau đó, tôi lại từ trong trạng thái "tất cả đều không đó", từ từ tôi có một sự nhận biết, sự nhận biết về một hương thơm rất tinh tế thanh cao mà chẳng thể nào dùng bút và mực để mô tả hình dung được. Mùi hương bao trùm lấy toàn thân tôi. Trong phút chốc, ánh sáng tịnh quang màu ngọc lục bảo rực rỡ bốn phía ôm ấp lấy tôi, rất mật thiết, rất sâu đậm, sự gắn kết giống như keo như sơn, chẳng có điểm nào phân tách. Mặt áp với mặt. Ngực áp với ngực. "Mật" áp với "mật". Nàng giống như con bạch tuộc quấn chặt lên thân thể tôi, thế là tôi thể hội được cảm giác: Sướng. Rất sướng. Cực sướng. Sướng tuyệt đỉnh. (Sướng chính là cực lạc.)

Tôi vốn là một tôn giả vô lậu, có thể trải nghiệm được "tứ Hỷ tứ Không", điều này người thế tục bình thường không có được.

🌟

Tôi chú ý đến nàng: Mái tóc nàng dài đen mượt, phủ xõa trên hai vai tôi. Cơ thể nàng đẹp đẽ duyên dáng. Đôi mắt thanh xuân đẹp mê hồn. Trên đầu đội mũ miện Ngũ Phật nhỏ xinh. Những dải ruy-băng màu xanh lục diễm lệ buông dài hai bên. Toàn thân đều có trang sức châu ngọc. (Hoa tai, vòng cổ, vòng tay, lắc chân, phần eo lưng là đủ loại đá quý.) Nàng là nữ thần. Một nữ thần viên mãn tràn đầy. Từ chính giữa hai chân mày, ánh sáng lấp lánh của bảy loại đá quý phát ra tám vạn bốn nghìn tia sáng chiếu khắp bốn phía. Tôi niệm văn cầu thỉnh của nàng: "Tôi cùng chúng hữu tình Thành tâm xin cầu thỉnh Thánh tôn Lục Độ Mẫu Trừ chướng ngại lâu nay Tài phúc và trí huệ Cầu gì đều như ý."

Nàng chỉ cần khẽ lắc cái eo thon nhỏ quyến rũ là tôi đã lập tức trải nghiệm được tứ Hỷ và tứ Không rồi. Cả người tôi đã biến đổi rồi. Nàng nói: "Ta thật sự rất yêu ngài." Tôi nói: "Ta cũng vậy." Nàng nói: "Lư Sư Tôn, ngài hiểu được tình yêu không?" Tôi nói: "Ta hiểu." Nàng nói: "Nói cho ta nghe xem!" Tôi nói: "Ta yêu trẻ nhỏ, yêu vợ con, yêu anh em, yêu người đời, yêu người có duyên, yêu người vô duyên, yêu kẻ thù oán ghét, yêu tất cả…." Nàng nói: "Đó là tình yêu thật sự!" (tình yêu lớn)

18. Lục Độ Mẫu và tôi trò chuyện

Chủ đề cuộc trò chuyện giữa Lục Độ Mẫu và tôi, chẳng ngờ lại là "tình yêu". Lục Độ Mẫu nói: "Tình yêu lớn của ngài là thật không?" Tôi nói: "Thật." Lục Độ Mẫu nói: "Nếu có một người đàn ông, từ đầu đến chân bốc mùi hôi thối, mắt đỏ ngầu, mũi thò lò, miệng hôi rình, da lở loét, chân ghẻ ngứa... Ngài sẽ thực sự độ hóa cho anh ta không?" Tôi nói: "Ta sợ nhất là người hôi miệng!" Lục Độ Mẫu hỏi: "Ngài có thể chịu đựng được người mà nội tạng thối rữa, từ đầu đến chân bốc mùi hôi thối, cứ lẽo đẽo lẵng nhẵng bên ngài nói suốt hai tiếng đồng hồ không?" Tôi nghĩ, tôi thực sự chịu không nổi. Lục Độ Mẫu nói: "Người ta, Thánh Teresa ấy, xem tất cả người bệnh như Thượng Đế, cẩn thận tỉ mỉ chăm sóc chữa trị. Người ta, bác sĩ pháp y Dương Nhật Tùng ấy (*), còn dùng miệng nếm thử nước chảy ra từ thi thể người chết để tìm ra nguyên nhân chết, việc này ngài có thể làm được không?" Tôi nói thật lòng: "Khó quá!" (Tôi nghĩ đến đã muốn nôn rồi.) Lục Độ Mẫu nói: "Có một người con gái yêu ngài sâu sắc, ngài cũng yêu cô ấy sâu sắc. Sau khi trải qua thời gian rất dài, dây đàn đã chùng, nhạc khí cũng cũ rồi, âm thanh đã thay đổi. 1. Từ yêu thành thích. 2. Từ thích thành không thích. 3. Từ không thích thành ghét. Lư Sư Tôn! Ngài liệu có hiện tượng này không?" Tôi nói: "Việc này ta sai rồi!" Lục Độ Mẫu nói: "Ngài không sai, bởi vì hiện tại thế giới con người mà ngài đang tồn tại chẳng có gì là cố định không biến đổi cả, tất cả đều biến hóa vô thường. Người thế tục cũng vậy, chỉ có thần thánh là ngoại lệ." Tôi nói: "Ta chỉ là một avatar thôi!" (người bán thần) Lục Độ Mẫu nói: "Ta không chỉ trích ngài, ngài là người siêu việt. Nhưng trên phương diện tình yêu thì ngài đúng là có khuyết điểm." Tôi nói: "Ta cần phải sửa đổi khuyết điểm của mình." Lục Độ Mẫu nói: "Vậy mới là tình yêu lớn!" Lục Độ Mẫu lại nói: "Ngài thường nói, trên báo bốn ơn sâu, dưới cứu ba đường khổ. Ngài có biết ba đường khổ là thế nào không?" Tôi nói: "Một, đường địa ngục đều là người khổ vì bệnh tật. Hai, đường ngạ quỷ đều là những kẻ mong cầu mà không được. Ba, đường súc sinh đều là những kẻ luôn sợ hãi." Lục Độ Mẫu nói: "Ngài làm thế nào để yêu họ đây?" Tôi nói: "Nói đơn giản là việc này khó như lên trời!" Lục Độ Mẫu nói: "Lư Sư Tôn, ngài chỉ có thể dùng tịnh quang để chiếu tới con người ở tam ác đạo, tạm hoãn lại những bệnh khổ, cho họ thức ăn, loại bỏ sự sợ hãi." (trao cho họ ánh sáng ấm áp) Tôi nói: "Tịnh quang của tôi thì sao?" Lục Độ Mẫu nói: "Tấm lòng từ bi và tình yêu lớn được thực hành một cách đúng đắn mới có khả năng phóng ra ánh sáng tịnh quang."

(*) Dương Nhật Tùng (1927 - 2011): là bác sĩ pháp y nổi tiếng người Đài Loan, ông đã có những đóng góp rất lớn vào việc tìm ra nguyên nhân của rất nhiều vụ án mạng hình sự tại Đài Loan, được mệnh danh là Dương Thanh Thiên, bởi ông là người ngay thẳng chính trực, mong muốn góp sức để tìm ra sự thật và công lý.

19. Ba triệu thần binh

Có người nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Ngài viết cuốn "Phật Đà mà tôi biết" rất rõ ràng dễ hiểu, đọc rất hay." Tôi nói: "Cảm ơn!" Người này nói: "Tôi muốn hiểu được Phật Đà, nhưng tôi đọc kinh điển cả nửa ngày trời mà vẫn chẳng hiểu được. Tôi đọc kinh thì đều thấy buồn ngủ." Tôi nói: "Kinh văn tốt nhất là dùng lời nói để giải thích, nếu đọc những bản dịch cũ thì không dễ gì để hiểu được." Người này nói: "Xin Lư Sư Tôn viết thêm nhiều sách về phương diện này!" Tôi nói: "Được."

🌟

Phật Đà từng nói với tôi: "Ngài công khai cả ngày tháng năm sinh của mình trong sách, thế thì người khác rất dễ lấy đồ của ngài." Tôi nói: "Tôi đã công khai ngày tháng năm sinh của tôi từ rất lâu rồi, đó là giờ Ngọ ngày 18 tháng 5 năm 1945 Âm lịch. Nhưng người khác lấy cái gì của tôi?" Phật Đà nói: "Ví dụ, tóc, móng tay, mũ miện, long bào, nội y, giày... Rất nhiều người "thỉnh" các món đồ của ngài, do vậy, rất nhiều người sẽ làm bùa phép giáng đầu ngài, làm pháp, dùng bùa chú lên ngài, ngài hoàn toàn không nghĩ như vậy sao?" Tôi nói: "Đúng vậy." Tôi nói tiếp: "Tôi tin tưởng các đệ tử của tôi sẽ không làm như vậy." Phật Đà nói: "Ngài không thể tin được hết, tôi cũng có rất nhiều đệ tử phản nghịch, ngài cũng có rất nhiều đệ tử phản nghịch đó!" Tôi nói: "Tôi không đề phòng tâm địa con người." Phật Đà nói: "Ngài nên cảm ơn ba triệu thần binh ở xung quanh ngài." Tôi nói: "À! Tôi biết rồi, hóa ra là cả ngày lẫn đêm tôi đều được ba triệu thần binh bảo vệ tôi." Phật Đà nói: "Ngài còn có cả Đại Uy Đức Kim Cang, Bất Động Minh Vương, Đại Lực Kim Cang nữa!" Tôi nói: "Các vị thần Hộ pháp, thần Kim cang, thần binh thần tướng, tôi đều muốn triệu thỉnh, cúng dường, cung kính các vị." Tôi hỏi ngược lại Phật Đà. "Phật Đà! Ngài muốn tôi truyền dạy điều gì cho thế nhân?" Phật Đà đáp: "Thế nhân có rất nhiều tà tri tà kiến, tôi muốn Lư Sư Tôn hãy phá bỏ chúng!" Tôi hỏi: "Có thể lấy ví dụ không?" Phật Đà nói: "Ví dụ: rất nhiều người cho rằng chết là hết, sau khi chết cũng chẳng có kiếp sau. Còn nữa, trước khi sinh ra cũng chẳng có kiếp trước. Bây giờ tạo nghiệp, sau khi chết cũng sẽ chẳng phải nhận quả báo. Hại người hại mình cũng vẫn có thể tu thành chính quả. Dùng bùa ngải không bị xem như tạo nghiệp… Những điều đó đều là tà tri tà kiến, cần mau mau thức tỉnh thế nhân!"

20. Luôn ở cùng Bổn tôn

Tôi nghe được một câu chuyện. Câu chuyện này có tính chất khai sáng.

Có một người nọ là thanh niên trẻ tuổi, sống tại vùng nông thôn. Cha đã qua đời vì bệnh tật. Mẹ già không còn khả năng làm việc. Anh ta đưa ra một lời ước nguyện, ước rằng đến được thành phố, học trường y khoa, sau khi học hành thành tài sẽ trở về quê hương phục vụ người già và người bệnh ở nông thôn. Nguyên nhân là ở vùng nông thôn đó ngay đến một bác sĩ cũng không có, người trong thôn già bệnh đều chẳng có ai đến chăm sóc cả.

Cuối cùng anh đã thi đỗ ba trường y khoa, nhưng trường nào cũng đều yêu cầu phải vượt qua bài kiểm tra nói mới có thể được nhập học. Trường thứ nhất, kì kiểm tra nói anh không vượt qua được. (Bởi vì anh trả lời có chút ấp úng.) Trường thứ hai, kì kiểm tra nói anh cũng không vượt qua được. (Bởi vì anh vội vàng quá nên đã trả lời sai.) Đến kì kiểm tra nói ở trường thứ ba, bản thân anh tự cảm thấy rằng đã thất bại ở hai ngôi trường kia rồi, đến trường cuối cùng này nếu không thi đỗ, ước nguyện của anh cũng coi như tiêu tan. Bởi vậy anh rất lo buồn. Ngồi trên tàu hỏa, anh nghĩ đến Thượng Đế, anh chắp hai tay lại, rất kiền thành cầu nguyện, hy vọng Thượng Đế sẽ giúp anh vượt qua kì thi nói, anh vừa cầu nguyện vừa rơi nước mắt. Một người trung niên ngồi đối diện với anh nhìn anh bằng ánh mắt rất tò mò khi thấy người thanh niên này vừa cầu nguyện vừa khóc. Người trung niên hỏi người thanh niên: "Khi anh cầu nguyện, vì sao nước mắt lại đầm đìa vậy?" Người thanh niên xấu hổ kể rõ tường tận tỉ mỉ cho người trung niên nghe chuyện, người trung niên nghe xong rất cảm động. Người trung niên nói: "Thượng Đế đã nghe được lời thỉnh cầu của anh rồi! Chúc anh thi nói thành công."

Người thanh niên đến trường đại học. Có ba vị giáo sư phỏng vấn anh. Người thanh niên ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ vị giáo sư ngồi ở giữa chính là người trung niên ngồi đối diện với anh trên tàu hỏa. "Thật trùng hợp!"

Cuối cùng, người thanh niên đã vào học tại ngôi trường y khoa đó, sau đó tốt nghiệp với thành tích cực kì xuất sắc. Anh trở về quê hương khởi nghiệp, giúp đỡ dân làng. Những người già bị bệnh trong làng nay đã có được sự chăm sóc chu đáo thực sự.

🌟

Phật Thích Ca Mâu Ni nói với tôi: "Ngài độ chúng sinh cũng như vậy." Phật Đà nói: "Ước nguyện của ngài là người người thành Phật." Phật Đà còn nói: "Ngài tinh tấn hoằng pháp, nỗ lực cũng đủ rồi." Phật Đà lại nói: "Ngài cũng từng ngày từng giờ ở cùng Bổn tôn, do vậy ngài sẽ thành công." Phật Đà nói: "Rất nhiều người có ước nguyện, cũng rất nỗ lực, nhưng thiếu mất lực gia trì từ thiên thượng, do vậy mà thất bại. Thành công thực sự là: Ước nguyện. Nỗ lực. Bổn tôn ban phúc. Đây là ba điều kiện lớn và quan trọng của sự thành công."

À! Tôi đã hiểu rồi! Đây chẳng phải là trời giúp, người giúp, tự mình giúp sao? Trong sự nghiệp 50 năm hoằng pháp của tôi, chẳng phải là có rất nhiều sự "trùng hợp" sao? Rất nhiều hiện tượng thần thông, rất nhiều sự trùng hợp tình cờ không thể giải thích được. Bổn tôn lúc nào cũng ở bên tôi, tôi có được rất nhiều rất nhiều ân từ! Ôi! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

21. Yêu kẻ thù của bạn

Bản ghi chép này là cuộc đối thoại giữa tôi và Chúa Jesus. Jesus nói: "Hãy yêu kẻ thù của bạn!" Tôi nói: "Làm được rất khó." Jesus nói: "Chính vì làm được rất khó, nên mới gọi là tu hành." Tôi hỏi: "Có rất nhiều phương pháp tu hành, yêu kẻ thù của bạn cũng xem là tu hành sao?" Jesus đáp: "Chính xác." Tôi hỏi: "Giải thích thế nào?" Jesus nói: "Người có lòng thù hận thì không thể lên thiên đường."

🌟

Tôi đã hiểu rồi. Tôi ngộ ra rồi. Tôi nói: "Bởi vì, một khi có kẻ thù, chắc chắn trở thành nguyên nhân của luân hồi!" Jesus nói: "Yêu kẻ thù của bạn là điều vô cùng quan trọng." Tôi nói: "Không còn một chút tức giận, không còn một chút sân hận, thì mới có thể giữ cho tâm hoàn toàn an bình, đây mới gọi là thiền." Jesus nói: "Ngài hiểu nhanh thật!" Jesus giải thích: 1. Nếu không như vậy, chắc chắn sẽ luân hồi trong sinh tử. 2. Nếu không như vậy, trong lòng chắc chắn sẽ có oán ghét. 3. Nếu không như vậy, chắc chắn có gánh nặng. 4. Nếu không như vậy, chắc chắn có xung đột. 5. Nếu không như vậy, quang minh sẽ chẳng bao giờ chiếu tới.

Tôi nói: "Nếu không có cách nào để yêu được kẻ thù của bạn, bạn chắc chắn sẽ phải chịu đựng nỗi đau, trong lòng bạn chắc chắn sẽ oán ghét và tràn đầy tâm lý muốn báo thù, tâm trí chẳng có cách nào thanh tịnh được, bạn nhất định sẽ bị quấy nhiễu." Tôi lại nói tiếp: "Bạn chắc chắn muốn tránh xa kẻ thù, nhưng, cứ cho là bạn tránh xa kẻ thù rồi, nơi ở mới chắc chắn lại sẽ có kẻ thù mới. Trên thực tế, bạn sẽ càng ngày càng gặp nhiều kẻ thù." Tôi hỏi Jesus: "Làm sao để yêu được kẻ thù của mình?" Jesus đáp: "Tha thứ!" - Còn nói: "Hãy khoan dung với kẻ thù của bạn!" Tôi nói: "Người bình thường không làm được sao?" Jesus nói: "Nhưng với người có chí, việc sẽ thành." Jesus lại nói: "Nếu không như vậy, bạn sẽ vĩnh viễn bị kẻ thù làm cho mệt mỏi, chẳng có cách nào để giải phóng mình được." Tôi nói: "Giống như tôi và Quỷ Bà vậy." Jesus nói: "Tha thứ cho bà ta! Khoan dung với bà ta! Nếu ngài khoan dung tha thứ cho bà ấy, bà ấy từ nay về sau sẽ bị loại bỏ ra khỏi tâm trí ngài, ngài mới có thể an bình thanh tịnh." Tôi ngẫm nghĩ: "Đúng vậy. Thực sự là vậy." Jesus nói: "Ngài không từ bỏ một chúng sinh nào, chính là như vậy." Tôi hỏi: "Jesus! Ngài có yêu kẻ thù của ngài không?" Jesus đáp: "Có. Bởi vì những gì mà họ làm, họ không biết."

22. Thiên nhãn thông

Tôi nghĩ đến một vấn đề. Vấn đề này đã tồn tại trong tâm trí tôi rất lâu rồi, chẳng có một vị guru nào có thể giải đáp được thắc mắc của tôi. Tôi hỏi một pháp sư có tiếng. Pháp sư nói: "Vấn đề này, ngài đi tra trong kinh điển một chút sẽ hiểu thôi." Tôi nói: "Chính vì tôi đã đọc kinh điển rồi, không tìm thấy lời giải đáp, nên mới hỏi sư phụ." Pháp sư nói: "Đi! Đi! Đi! Ta… Ta… Ta… không trả lời ngài đâu. Sau này ngài sẽ hiểu." Tôi rời khỏi ngôi chùa đó, bất lực bỏ đi.

🌟

Nhiều năm trôi qua. Cuối cùng tôi đã gặp được Phật Đà. Tôi hỏi Phật Đà: "Tôi có một điều thắc mắc muốn hỏi Phật Đà, không biết có làm ngài giận không?" Phật Đà đáp: "Có việc thì hỏi, không cần do dự!" Tôi hỏi: "Khi Phật xuất thế, trái đất chịu sáu lần chấn động lớn, được gọi là Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt. Sự chấn động này chẳng phải đã làm hại vô số chúng sinh sao, chúng sinh chẳng phải thật tội nghiệp sao?" Phật Đà đáp: "Ngài có thắc mắc, tôi giúp ngài giải thích." Phật Đà nói: "Kinh Phật nói rằng, khi Phật nhập bào thai, Phật ra khỏi bào thai, Phật xuất gia, Phật thành đạo, Phật chuyển pháp luân, Phật nhập niết bàn. Sáu lần này đều có động đất lớn. Sáu phương chấn động là: Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc sụt, Bắc trồi Nam sụt, ngoài trồi trong sụt, trong trồi ngoài sụt. Chấn động lớn có sáu biểu hiện: Chuyển động, tuôn trào, rung lắc, gãy vỡ, ầm ầm, nổ tung. Tôi nói: "Chính là như vậy, sáu cơn chấn động lớn này khiến dân chúng làm sao có thể tránh khỏi tai ương, không biết chết và bị thương bao nhiêu nữa?" Tôi nghĩ trong số động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, cuồng phong, thì tai nạn động đất là kinh khủng nhất, số người chết và bị thương là nghiêm trọng nhất. Tôi hỏi: "Vì sao lại tàn nhẫn như vậy?" Tôi hỏi: "Đây chẳng phải là lợi ích chúng sinh, mà là giết hại chúng sinh sao?" Phật Đà cười, rồi Phật Đà nói: "Trái đất sáu lần chấn động, đây không phải là nói tới chấn động nhân gian. Mà là sáu lần chấn động lớn ở trên thiên thượng giới. Chỉ có người có "thiên nhãn thông" mới có thể biết và nhìn thấy được. Sáu lần này đều là các dấu hiệu báo hiệu điềm lành, là dấu hiệu cát tường. Thiên thượng giới chấn động, lập tức thiên nhân biết có Phật, Kim Tiên xuất thế rồi. Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt. Chuyển động, tuôn trào, rung lắc, gãy vỡ, ầm ầm, nổ tung. Chấn động một cái, rồi lại bình thường ngay! Giống như mây biến đổi vậy. Còn thiên nhân ở thiên thượng giới thì giống như em bé ngủ trong nôi vậy, sự rung lắc như vậy thì khiến họ dễ chịu hơn thôi. Bởi vậy mới nói, sáu cơn chấn động lớn này không phải là chỉ nhân gian, mà là chỉ thiên nhân ở thiên thượng giới. Chấn động là điềm lành, không phải là điềm xấu. (Tiếng trống lớn, tiếng chuông lớn.) Người có thiên nhãn thông là biết ngay thôi!”

23. Đo lường tương đối

Tôi lại phát hiện ra một vấn đề nữa.

Tôi ở trong cõi địa ngục đã trông thấy một ngôi làng nhỏ. Đám ma quỷ sống tại ngôi làng này không ngờ là một tập hợp những linh hồn ma quỷ đã giết cha giết mẹ. Tôi rất ngạc nhiên, bởi vì kinh Phật đã nói với chúng ta rằng: Ngũ nghịch tội tức là: Giết cha. Giết mẹ. Giết A La Hán Làm thân Phật chảy máu. Phá hòa hợp tăng. Năm trọng tội này là những hành vi tội ác tột cùng, chỉ cần phạm vào một tội là lập tức đọa vào địa ngục vô gián, bởi vậy còn được gọi là nghiệp vô gián. Vấn đề ở đây là: Ngôi làng nhỏ đó là nơi ma quỷ giết cha giết mẹ sống, mà không phải là địa ngục vô gián. Địa ngục vô gián nghĩa là: Chịu đau khổ liên miên không gián đoạn. Chịu khổ không có ngày thoát ra. Là địa ngục cực kì cực kì đau khổ. Tôi còn thấy rằng, nơi đây sẽ là nơi mà tương lai Quỷ Bà sẽ tới, bởi vì bà ta đã phạm phải hai tội nặng: Một là, làm thân Phật chảy máu — Bà ta lợi dụng ma quỷ, giết thầy diệt tổ. Hai là, phá hòa hợp tăng — Bà ta chia rẽ tăng lữ trong Chân Phật Tông. (Còn những tội khác, ví dụ như dùng ma quỷ hại người ta, giết huệ mệnh của con người, đe dọa để đoạt tiền, phá thai giết trẻ sơ sinh, buôn bán người.)

🌟

Tôi bị một vùng tịnh quang màu vàng bao trùm lấy. Chủ nhân của tịnh quang này không ngờ là tổ sư Tsongkhapa. Tôi nói: "Sao lại là ngài?" Tsongkhapa nhếch nhếch khóe miệng, cười nói: "Là vì trong tâm ngài có ta." Tôi nói: "Ngài đến có chuyện gì đấy?" Tsongkhapa đáp: "Vì ngài có nghi vấn nên tôi mới đến!" Tôi hỏi: "Nghi vấn gì?" (Chính tôi cũng quên mất.) Ngài đáp: "Trong cõi địa ngục có ngôi làng toàn ma quỷ giết cha giết mẹ đó, chẳng lẽ ngài lại có vấn đề gì mới khác hay sao!" Tôi nói: "À phải rồi." Tổ sư Tsongkhapa giải thích: Đây là sự đo lường tương đối. Bình thường người giết cha giết mẹ là vì căm hận cha mẹ của chính mình (ác niệm cực đoan), cho dù cha mẹ đã có công dưỡng dục. Việc giết người này đương nhiên sẽ phải xuống địa ngục vô gián. Nhưng, cũng có người vì những nguyên nhân xuất phát từ lòng tốt mà đã giết cha giết mẹ. Ví dụ, cha mẹ vì mắc bệnh nặng mà phải nằm liệt giường, đau tới mức không muốn sống nữa, mỗi ngày đau tới mức kêu trời kêu đất, thực sự muốn được chết nhưng vẫn không chết được. Cứ như vậy kéo dài nhiều năm, bác sĩ cũng bó tay. Những lời rên rỉ vì đau bệnh liên miên không dừng, khiến con cái đau lòng, bệnh cũng sẽ chẳng tốt lên. Bởi vậy, con cái đã quyết định để cho cha mẹ chết. Giết cha mẹ chính là trọng tội, nhưng nguyên nhân từ thiện tâm mà giết cha mẹ, nên trên sự đo lường tương đối, thì đây không phải là trọng tội. Bởi vậy mà trong cõi địa ngục mới có ngôi làng của người đã giết cha giết mẹ.

Tôi nghe Hiểu rồi! Hiểu rồi! Đo lường tương đối hóa ra là như vậy. Ở đây có một bài học rất sâu sắc. Khởi tâm động niệm đều tạo ra nghiệp, nghiệp cũng có sự đo lường tương đối. Ví dụ giết một bác sĩ cứu người và giết một con chó hoang, đo lường tương đối chính là hai nghiệp này không giống nhau!

24. Diêu Trì Kim Mẫu dạy về Nhận thức luận

Bổn tôn Diêu Trì Kim Mẫu của tôi là một vị Kim Tiên của Đạo gia, ngự ở phương Tây, phương Tây thuộc về yếu tố kim, bởi vậy mới gọi ngài là Kim Mẫu. Đạo gia có Ngũ Lão, tức là Mộc Công, Kim Mẫu, Thủy Thanh, Hỏa Đức, Trung Thổ, tương đương với Ngũ Phương Phật.

Ngũ Phương Phật là:

Ở trung tâm là Tỳ Lô Giá Na Phật. Ở phương Đông là A Súc Phật. Ở phương Tây là A Di Đà Phật. Ở phương Nam là Bảo Sinh Phật. Ở phương Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật.

Diêu Trì Kim Mẫu là Đại La Kim Tiên từ thời thượng cổ, có thể xem như là Tiên Vương. Cõi tịnh thổ của ngài chính là Diêu Trì Tiên Cảnh. Lư Sư Tôn tôi đã từng đến cõi tịnh độ của Diêu Trì Kim Mẫu, nơi đây đẹp đẽ sánh ngang với cõi tịnh thổ Tây phương.

Tôi được chính Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn, Diêu Trì Kim Mẫu là Bổn tôn đầu tiên mà tôi tương ứng. Cái gọi là tương ứng, nói một cách đơn giản, chính là mọi lúc mọi nơi đều ở cùng với Bổn tôn. Rất nhiều cung điện có thờ phụng Diêu Trì Kim Mẫu. Pháp tướng của ngài là hình tượng Lão Mẫu, hoặc hình tượng trung niên. Diêu Trì Kim Mẫu của tôi thì khác, ngài ở hình tướng mỹ nữ mười sáu tuổi. Có người hỏi:

"Vì sao lại như vậy?" Tôi đáp: "Đại La Kim Tiên vốn không có hình tướng, mà là thiên biến vạn hóa, thế nhân làm sao có thể biết được. Do vậy, Diêu Trì Kim Mẫu của tôi đẹp như tiên trời, vẻ đẹp chẳng thể mô tả được." Còn nữa, rất nhiều người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Vì sao người tốt thường chẳng sống lâu?" "Lư Sư Tôn! Vì sao người tốt thường mắc ác bệnh, phải chịu giày vò đau đớn?" "Lư Sư Tôn! Vì sao người tốt thường phải chịu khổ?" "Lư Sư Tôn! Vì sao người tốt lại bị chết một cách thảm thương?" Tôi ấp a ấp úng, bởi rất khó đưa ra câu trả lời. Tôi biết, đây là vấn đề nhân duyên quả báo, nhưng trong một lúc chẳng thể nói rõ.

🌟

Diêu Trì Kim Mẫu giải thích: Nhân duyên quả báo có rất nhiều nguyên tắc: 1. Thiện có thiện báo. (nhân thiện xuất hiện trước) 2. Ác có ác báo. (nhân ác xuất hiện trước) 3. Thiện nhỏ quả báo lớn. (nhân thiện trở thành cây to) 4. Ác nhỏ quả báo lớn. (nhân ác trở thành cây to) 5. Thiện không có quả báo. (nhân thiện không lớn lên) 6. Ác không có quả báo. (nhân ác không lớn lên) 7. Thiện có ác báo. (nhân ác xuất hiện trước) 8. Ác có thiện báo. (nhân thiện xuất hiện trước)

Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Những nguyên tắc này là bắt nguồn từ suy nghĩ hoặc hành vi là thiện hay là ác, giống như tám nguyên tắc gieo trồng hạt giống vậy." Còn nữa: "Thiện báo, ác báo có phân biệt trước sau, lại có nhân quả nhiều kiếp, lại có nhân quả ba kiếp." Còn nữa: "Người tốt phải khổ, là bởi vì nhân ác từ kiếp trước đến trước. Người xấu hưởng phúc là bởi vì nhân thiện từ kiếp trước đến trước." Còn nữa: "Thiện không có quả báo, ác không có quả báo, là vẫn chưa đến lúc. Nếu nhân duyên đã đủ thì chắc chắn sẽ có quả báo." Còn nữa: "Nhân duyên quả báo đan xen phức tạp, con người bình thường không thể hiểu được, chỉ có người có túc mệnh thông mới có thể hiểu được." Còn nữa: "Nhân nhân quả quả của mỗi người là sự tích tụ trăm kiếp nghìn kiếp vạn kiếp, chỉ có Phật mới có thể biết được thôi." Tôi nói: "Đây chính là Nhận thức luận." (một phần của Nhận thức luận)

25. Hành khúc sau khi kết hôn

Có một câu chuyện cười. Tiểu Mỹ hỏi mẹ: "Mẹ ơi! Sau này làm sao con tìm được người bạn đời?" Mẹ đáp: "Phải là người đầu duyên!" [nghĩa là người tâm đầu ý hợp] Tiểu Mỹ hỏi: "Người đầu bẹt thì không được sao?" [Ở đây có sự chơi chữ, đầu duyên âm có âm là tou yuan, đồng âm với từ đầu tròn.] Ha ha ha.

🌟

Có đệ tử hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Làm sao để con tìm được người bạn đời?" Tôi trả lời: "Phải là người đầu duyên!" Đệ tử hỏi: "Vì sao duyên phận của con đã lâu như vậy rồi mà vẫn chưa tới?" Tôi trả lời: "Vấn đề duyên phận, có người thì đến sớm, có người thì đến muộn, có người thì cơ bản là chẳng có duyên phận, có người thì cơ bản lại quá nhiều duyên phận…." (Quá là phức tạp.)

🌟

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Liên quan đến việc tìm bạn đời?" Diêu Trì Kim Mẫu nói: "Duyên phận đến thì bạn đời tự đến. Nhưng khi sống cùng với bạn đời thì cũng có rất nhiều trạng thái xảy ra. 1. Hoàn mỹ, nhiệt tình, thân mật, hưng phấn. 2. Tình cảm nhạt dần, chẳng còn hứng thú. 3. Việc sống cùng nhau chỉ còn lại là thói quen. 4. Tình cảm đã nguội lạnh như băng rồi. 5. Chiến tranh lạnh bắt đầu. 6. Thù ghét đối phương. 7. Sống riêng. 8. Ly hôn. Ây! Ây! Duyên phận đã hết rồi!"

Diêu Trì Kim Mẫu còn nói: "Thời nay, "hành khúc" sau khi kết hôn phần lớn đều là như vậy. Có lúc duyên phận dài hơn một chút, có lúc duyên phận ngắn hơn một chút. Người có thể sống với nhau đến đầu bạc răng long thì cũng bởi vì có các "điều kiện". Điều kiện là: Về kinh tế. Về xã hội. Về địa vị. Về con cái. Về sở thích. Về công việc. ..."

Diêu Trì Kim Mẫu lại nói: "Yêu và hận là cùng chung một nguồn gốc. Yêu thông thường bị hiểu lầm là chiếm hữu, ỷ lại. Yêu thực sự phải là sự chúc phúc. Hận là: Mong cầu mà không có được. Không có được thứ mình muốn có. Không thỏa mãn. Thất bại.”

Tôi hỏi Diêu Trì Kim Mẫu: "Làm sao để sống hòa thuận cùng bạn đời?" Kim Mẫu đáp: "Trước tiên cần phải hiểu mình và người bạn đời đang ở vào giai đoạn nào." Tôi hỏi: "Rồi có thể làm gì?" Kim Mẫu đáp: "Nghĩ cho người đó, đặt mình vào vị trí người đó." Tôi hỏi: "Việc này là sao?" Kim Mẫu đáp: "Cùng thấu hiểu, cùng cảm thông, cùng yêu thương. Cứ như vậy mà điều chỉnh."

26. Bài học về mặt trăng

Có một chuyện cười thế này: Một người nọ vào tiệm mì, gọi một bát mì thịt bò. Người này cứ thế ăn, bỗng phát hiện ra chỉ có mì, chẳng hề có thịt bò. Người này nói: "Ông chủ! Trong mì thịt bò mà lại chẳng có thịt bò?" Ông chủ khẩu khí rất tự tin nói: "Ông ăn bánh mặt trời, bên trong có mặt trời không?" Rồi bảo: "Ông ăn bánh trung thu, bên trong có mặt trăng không?" Người khách á khẩu. Ha ha ha!

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) thường hỏi mọi người: "Mặt trăng có Phật pháp không?" (Trên mặt trăng chẳng có một người nào sống cả.) Mọi người nói: "Không có." Tôi hỏi: "Trên mặt trăng có cái gì là thiện, có cái gì là ác không?" Mọi người đáp: "Không có." Tôi hỏi: "Trên mặt trăng có chuyện thị phi không?" Mọi người đáp: "Không có." Tôi hỏi: "Trên mặt trăng có giới luật không?" Mọi người đáp: "Không có."

Sau khi tôi hỏi xong những điều này, tự tôi luôn cảm thấy chúng có tính khai ngộ rất cao, bởi vì mặt trăng là một thế giới "vô", thế giới "không". Tôi muốn mọi người hiểu được: "Hư không." "Hư vô."

🌟

Một hôm, một vệt sao rạch ngang chân trời, vệt sao càng ngày càng lớn, trở thành một vòng tròn lớn, bên trong vòng tròn có Hư Không Tạng Bồ Tát đang ngồi. (Tôi vừa nhìn là nhận ra ngay, trên đầu ngài là mũ Tỳ Lô, tay phải cầm kiếm, ngồi tư thế hoa sen.) Tướng mạo ngài từ bi nhưng vẫn mang vẻ trang nghiêm. Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi tôi: "Ngài có biết vì sao con người mắc bệnh ung thư không?" Tôi đáp: "Do sát sinh." Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Ngài có biết vì sao con người nghèo khổ không?" Tôi đáp: "Do trộm cắp." Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Ngài có biết vì sao con người phải rơi vào đạo súc sinh không?" Tôi đáp: "Do tà dâm." Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Con người vì sao luôn không có lối thoát, cả đời đau khổ?" Tôi đáp: "Do vọng ngữ." Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Vì sao các mối quan hệ của con người luôn đầy thị phi không dừng dứt?" Tôi đáp: "Do say rượu." Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Lư Sư Tôn! Những điều tôi hỏi, ngài trả lời một cách chuẩn xác nhất. Trả lời như vậy dù không sai, nhưng trong đó liên quan rất nhiều đến nhân duyên quả báo. Ngài không thể chỉ nói về cái "không" của Thứ tự viên mãn, cũng cần phải nói về cái "có" của Thứ tự sinh khởi. Như vậy mới có thể hoàn hảo được."

27. Thiện Quang Như Lai

Rất hiếm người biết về Thiện Quang Như Lai. Tuy vậy, trong sách của tôi, tôi đã từng nhắc đến ngài đôi chút rồi. Ngài tỏa ra ánh sáng của trăm loại trân bảo, dạy con người tu hành từ những bước đi đầu tiên. Tôi biết: Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có một người công chúa tên là công chúa Thiện Quang. Tất cả các vị Phật được nói đến trong kinh điển, có một vị Phật tên là Thiện Quang. Trong 88 vị Phật có một vị Phật tên là Kim Thiện Quang Phật. ...

Nhưng, vị Thiện Quang Như Lai mà tôi nói đến ở đây là Văn Xương Đế Quân, người sau khi thành tựu Phật quả đã lấy Phật hiệu này. Tôi từng thỉnh giáo Thiện Quang Như Lai một số vấn đề liên quan đến việc tu hành "hành thiện" như thế nào. Tôi kể lại như sau: Tôi hỏi: "Tôi có rất nhiều đệ tử kinh doanh nhà hàng, họ chẳng có cách nào tách mình ra khỏi công việc kinh doanh này, xin hỏi, làm sao để không sát sinh?" Ngài đáp: "Họ cần trì chú vãng sinh, trì chú để thay thế cho nghiệp sát của chính mình. Việc này tương đương với siêu độ cho những sinh linh bị giết chết, niệm càng nhiều càng tốt." (Thiện Quang Phật vốn hy vọng những người mang nghiệp sát này có thể từ bỏ công việc này, nhưng thực tế họ không thể từ bỏ được, do vậy mới phải trì chú vãng sinh.) Ngoài ra, ngài nói: "Cũng cần phải bảo vệ sinh mệnh." (phóng sinh và bảo vệ) Tôi nói: "Vừa giết vừa bảo vệ, chẳng phải mâu thuẫn sao?" Ngài đáp: "Đây là giải pháp trong hoàn cảnh không có giải pháp nào cả!" Tôi hỏi: "Làm sao để không trộm cắp?" Ngài đáp: "Đây là vấn đề về tu dưỡng, cần phải bắt đầu từ việc giáo dục, rằng cái gì của người khác thì cần phải tôn trọng, bằng mọi giá không được lấy đồ của người khác. Cần phải nghĩ rằng nếu người khác lấy tài sản của mình thì mình sẽ cảm thấy thế nào?" (Ngài còn nói: cần bố thí.) Tôi hỏi: "Làm sao để không tà dâm?" Ngài đáp: "Hãy đặt mình vào vị trí của người khác, mình có muốn bạn đời của mình đi với người khác không? Cần tôn trọng bạn đời của người khác." (Thiện Quang Phật còn nói, trừ phi chính mình có khả năng, có thể dùng pháp song thân để độ hóa người tham dục trở nên thành tựu, còn lại những hoàn cảnh khác đều không được phép.) Tôi hỏi: "Làm sao để không vọng ngữ?" Ngài đáp: "Chỉ được nói sự thật." (trung thực) Tôi hỏi: "Làm sao để không nói lời hai lưỡi?" Ngài đáp: "Không nói lời khiến cả hai bên đều bị tổn thương, chỉ nên niệm Phật thôi." Tôi hỏi: "Làm sao để không ác khẩu?" Ngài đáp: "Dùng lời nói yêu thương để khắc chế ác khẩu." (dùng lời lẽ mềm mỏng) Tôi hỏi: "Làm sao để không nói lời ong bướm?" Ngài đáp: "Đừng buôn chuyện phiếm, điều nói ra phải là những lời có ý nghĩa." (Hãy tu pháp đi!) Tôi hỏi: "Nghiện rượu hoặc nghiện thuốc thì sao?" Ngài đáp: "Dùng sức mạnh ý chí để khắc chế, những việc làm tổn hại đến thân tâm của chính mình thì không được làm." Tôi hỏi: "...?" Ngài đáp: "Lư Sư Tôn! Kì thực ngài đã biết rõ hết rồi, nhưng nói ra cũng là để dạy cho những người khác có thể hiểu được vậy."

28. Liên quan đến việc "đầu tư" của tôi

Một ngày nọ, có một chuyên gia quản lý tài chính của ngân hàng ngồi trên ghế sofa trong phòng khách của tôi, còn tôi ngồi đối diện với cô. Cô nói: "Lư Sư Tôn! Việc đầu tư này là hoàn hảo nhất, tuyệt đối sẽ không có mất mát gì." Cô còn nói: "Nó tương tự một dạng gửi tiết kiệm, mỗi tháng có được rất nhiều lợi tức." Cô lại nói tiếp: "Việc đầu tư này còn không phải trả thuế nữa." Cuối cùng, cô nói: "Một kì là sáu năm, sau đó có thể tiếp tục." Trước mặt tôi bày một đống lớn giấy và bút, tôi chỉ cần đọc nội dung cẩn thận một chút, cần bút ký tên, thế là việc đầu tư này như vậy là xong xuôi rồi. Tôi không đọc nội dung, cũng chẳng cầm bút ký tên. Tôi chỉ cười.

Tôi có một suy nghĩ, năm nay tôi đã 75 tuổi rồi, cả cuộc đời làm sự nghiệp hoằng pháp này cuối cũng sắp đến hồi kết thúc. Tôi đã tự biết được thời điểm chết của mình, Diêu Trì Kim Mẫu đã nói cho tôi hay. Trong cuộc đời chẳng có cách nào tránh được việc này, khi thời điểm đó gần kề thì sẽ: Sinh bệnh. Lão hóa. Chết.

Tôi nói thẳng với chuyên gia quản lý tài chính: "Tôi không biết đầu tư, tôi từ trước tới nay chẳng đầu tư gì." Cô hỏi: "Vì sao lại không chứ? Một vốn bốn lời đó!" Tôi đáp: "Tôi không cần tiền, tôi cũng sắp chết một cách vui vẻ rồi!" Cô nói: "Lư Sư Tôn! Ngài sẽ trường thọ! Ngài sẽ không chết đâu!" Tôi đáp: "Tôi tự biết thời điểm chết của mình, sẽ không sống lâu đâu. Mà kể cả sống lâu thì tôi cũng chẳng dùng gì đến tiền." Cô nói: "Có thể để lại cho con cháu!" Tôi đáp: "Con cháu tự có phúc của con cháu." Cô nói: "Đầu tư đi mà! Chỉ có lời mà không có mất, cũng không ảnh hưởng gì đến ngài!" Tôi nói: "Nói như vậy thì cũng có ý nghĩa gì đâu." Cô nói: "Người khác đều đầu tư đấy." Tôi nói: "Tôi rồi cũng sẽ chết, tranh đấu bất kì việc gì đối với tôi cũng đều là việc vô ích." Chuyên gia quản lý tài chính nói: "Thế ngài còn làm gì nữa?" Tôi nói: "Tôi chỉ đợi đến lúc thân tâm tôi phóng quang, cùng làm bạn với tất cả Phật Như Lai, đi đến thế giới khác!" Cô nói: "Tôi không hiểu!" Tôi nói: "Để tôi dạy cô Phật pháp nhé!" Thế là cô ấy tức giận đùng đùng bỏ đi!

🌟

Thiện Quang Như Lai nói: Việc tu hành tốt nhất là "hành thiện" và "bố thí", giúp người khác vui vẻ, giải tỏa những đau khổ của người khác, có được tác dụng trực tiếp. Dùng cách nghĩ trực tiếp, ví dụ: Tập trung. Sáng tạo. Đơn thuần và vui vẻ. Để đón tiếp "niết bàn" đến!

29. Tôi hoàn toàn không có nhu cầu

Mấy năm nay. Tôi đã tiến tới thời điểm hoàn toàn không còn nhu cầu gì. Tôi chủ yếu sống tại hai nơi. Từ tháng 5 đến tháng 11, tôi sống ở Mỹ, thành phố Seattle tại bang Washington. Từ tháng 11 đến tháng 4, tôi sống tại Đài Loan, thành phố Đài Trung. Ở Seattle: Ăn — tại Seattle Lôi Tạng Tự. Mặc — trang phục Lama. Ở — tại Nam Sơn Nhã Xá. Đi lại — xe Maserati. (Tôi tự lái xe.) Ở Đài Trung Đài Loan: Ăn — đệ tử cúng dường. Mặc — trang phục Lama. Ở — tại tòa nhà chung cư bảy tầng. Đi lại — xe Mercedes - Benz. (Thị giả lái.)

Ăn, mặc, ở, đi lại, hầu như tôi chẳng có yêu cầu gì. Tôi không cần đồ ăn đặc biệt. Tôi không cần các loại quần áo khác. Tôi không cần một nơi ở tốt hơn.

Ở Đài Loan, tôi không dám tự lái xe bởi vì ở Đài Loan nhiều xe cộ quá, xe máy, xe đạp, người đi bộ đều đông đúc. (Họ tương đối không tuân thủ quy tắc giao thông.) Ở Mỹ tôi mới tự lái xe, bởi đường rộng mà lại toàn xe ô tô. (Xe máy, xe đạp, người đi bộ đều rất hiếm gặp.)

Vì sao tôi lại "chạy qua chạy lại" giữa hai nơi? Bởi vì tôi thích mùa đông của Đài Loan, không thích mùa hè của Đài Loan. Tôi thích mùa hè của Seattle, nhưng lại không thích mùa đông của Seattle. (Mùa đông của Đài Loan cũng gần như mùa hè ở Seattle.) Ngoài ra, tôi ở Đài Loan hoằng pháp thì sẽ tiện lợi cho các đệ tử ở Đông Nam Á, Đông Bắc Á… Đệ tử ở Đài Loan rất nhiều. Đệ tử ở Seattle tương đối ít, bởi vì việc xin được visa nhập cảnh vào Mỹ bị kiểm soát.

Trên phương diện cuộc sống, tôi đã đến mức độ hoàn toàn chẳng còn nhu cầu gì cả. Danh đã đủ hài lòng. Lợi đã đủ hài lòng. Địa vị thì là người sáng lập Chân Phật Tông (Căn bản Thượng sư). Sắc đã đủ hài lòng. (Tôi đã 75 tuổi rồi.) Ăn đã đủ hài lòng. Ngủ đã đủ hài lòng. ... Tôi cũng chẳng cần phải cầu xin Phật Bồ Tát cho tôi cái gì nữa, tôi đã thỏa mãn, thỏa mãn, thỏa mãn rồi. Bây giờ tôi chỉ còn "chờ chết"! Ha ha ha!

🌟

Tôi chỉ muốn viết một bài thơ. Bài thơ này cũng là do Tài Nghệ Thiên Nữ (Diệu Âm Thiên Nữ) gợi ý cho tôi.

Tên bài thơ: Chỉ còn lại một con đường.

"Đi xa Về nước Hành lý của tôi chẳng hề thay đổi Không thêm không bớt Cân lên Như nhau. Hành trình trên con đường này Mỗi người đều cần một lần đi đến cuối cùng Tôi nên nhẹ nhàng thư thái Bởi vì Chẳng có nhu cầu đặc biệt gì Khác chi làn khói kia Nhẹ tan."

30. Bốn bài thơ hiện đại

Xuyên việt

Trong một buổi tiệc tối Một cô gái nói với tôi Hiện đại đang lưu hành Xuyên việt Tôi hỏi xuyên việt là gì Cô đáp Thời không Ồ tôi hiểu rồi. Không gian hiện tại. Không gian quá khứ. Không gian tương lai. Tùng tùng tùng. Chiêng trống nổi lên Lại Tùng tùng tùng.

🌟

Tôi là ai

Tôi hỏi người ta Tôi là ai Người khác thấy tôi tuyệt vời chẳng thể mô tả Tự tôi cũng thấy xấu hổ Tôi tự hỏi lòng mình Phần nào biết được (tôi là) Xá Lợi Phất Liên Hoa Sinh Long Thụ Naropa Tsongkhapa Còn nữa... Diệu kỳ!

🌟

Một phù hiệu

Tôi chỉ là một tấm phù hiệu Lư Thắng Ngạn chẳng phải là gì hết Liên Sinh Hoạt Phật là con khỉ sống Hoa Quang Phật Đứng đầu ba nghìn vị Phật nhảy tưng tưng Ai biết được Cuộc đời ngày này qua ngày khác Năm này qua năm khác Một thế kỷ trôi qua Lại một thế kỷ nữa Thế là Quên sạch.

🌟

Ha ha ha

Rốt cục tôi đã khai ngộ rồi Trước khi khai ngộ Tôi tuyệt vời chẳng thể mô tả Trong khi khai ngộ Tôi là con khỉ lăng xăng Sau khi khai ngộ Tôi hoàn toàn tĩnh tịch an yên Bạn hỏi tôi Khai ngộ là gì Tôi... Tôi... Tôi... Ha ha ha Rốt cục tôi chết quách mất rồi!

31. Mọi thứ đều là khí

Trong lúc tôi thiền quán. Một dòng chảy tâm linh rất lớn từ trên đỉnh đầu dội xuống, chảy lan khắp đỉnh đầu, họng, tim, rốn, lỗ bí mật, tứ chi. Toàn thân tôi hóa thành một ngọn núi. Bất động. Vững chãi. Xung quanh thân thể tôi có một khối cầu ánh sáng bảy sắc cầu vồng, chuyển động rung rinh, ánh sáng tỏa khắp. Đây là một cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ, khiến người ta không ngừng xuýt xoa cảm thán.

Tôi nghe thấy tiếng chú âm: "Om ah ra pa cha na dhi." Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thân. Tôi tụng bài kệ tán thán: "Vẻ đẹp thanh xuân đầy trong sáng Vòng ngọc trang nghiêm đèn bát nhã Soi sáng ba cõi tối u mê Đại trí Văn Thù tôi đảnh lễ."

Lúc này, ánh sáng phủ chiếu khắp toàn thân tôi. Tôi nghe thấy một câu nói rất nhẹ: "Mọi thứ đều là khí!" Văn Thù Bồ Tát nói với tôi bí quyết thành công sáu pháp của Naropa. 1. Phowa khai đỉnh — khí lấp đầy lỗ trên đỉnh đầu. 2. Chuyết hỏa — dùng khí để thắp lửa ở luân xa rốn. 3. Huyễn quán — vận chuyển khí đi vào não. 4. Tịnh quang — vận chuyển khí tới minh điểm trắng và đỏ. 5. Mộng quán — khí theo vào cùng giấc mơ. 6. Quang uẩn thiên thức (ánh sáng tập trung lại để vận chuyển ý thức) — mệnh khí thoát ra khỏi lỗ đỉnh đầu.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với tôi: "Mọi thứ đều là khí, nhưng cần phải tiến hành từng bước một cách rõ ràng." Ngài còn nói: "Khí không chỉ ở trên thân thể mỗi người. Khi sức mạnh của khí đủ lớn, ngài có thể ra khỏi chính mình để đi giúp đỡ bất kì người nào khác." Ngài nói: "Khí đạt đến cực điểm thì sẽ có hiện tượng khí hợp nhất cùng linh hồn, có cảnh giới thần hóa, khi đó có thể đến được tất cả mọi nơi trong pháp giới. Ví dụ: Bay trên trời. Đi dưới biển. Vào bên trong con người. Vào được hang của động vật. Biển lớn, rừng cây, các hang động dưới lòng đất. Thành phố, thôn quê. Các hành tinh khác. Các cõi tịnh thổ." Ngài nói: "Trên báo bốn ân sâu, dưới giúp ba đường khổ, đây cũng là tác dụng của khí. Việc tu hành của ngài có sức mạnh giải thoát đau khổ và ban phát niềm vui. Ví dụ, ngài sờ đầu cho mọi người, ngài tập hợp mọi người lại, sắp xếp mọi người, chính là đang điều chỉnh lại khí của mọi người." Ngài nói: "Ngài dùng khí để bố thí, cống hiến, việc này cũng tương đương với phát bồ đề tâm rồi." Tôi hỏi: "Tu khí như thế nào (tu nguyên tố gió)?" Văn Thù Sư Lợi đáp: "Cửu tiết Phật phong, Kim cang tụng, Bảo bình khí. Liên kết minh điểm trắng đỏ, mở năm luân xa, phong mạch tỏa sáng, toàn thân phóng quang, quang khí đi đến thập phương pháp giới." Tôi hỏi: "Hành giả chúng ta có thể dùng quang khí để độ hóa chúng sinh sao?" Ngài đáp: "Đúng vậy." - Ngài nói: "Dùng quang khí để chiếu rọi chúng sinh, đến trên thân thể họ, dùng quang khí để hướng dẫn, đưa họ ra khỏi tam đồ, tiến vào trong ánh sáng rộng lớn hơn."

32. Giữa người với người

Tôi nhập vào thiền quán. Tôi nhận thấy một vùng biển ánh sáng, trong biển ánh sáng có trùng trùng điệp điệp núi non, trùng trùng điệp điệp rừng trúc, trùng trùng điệp điệp cung điện, trùng trùng điệp điệp mây sương, trùng trùng điệp điệp ánh sáng màu sắc. Vẻ đẹp huy hoàng lúc mặt trời lặn cũng chẳng thể so sánh được với vẻ đẹp của nơi đây. Ráng chiều đỏ rực bầu trời cũng chẳng là gì. Trăm hoa đua nở cũng thua sắc. Đại dương rộng lớn xinh đẹp cũng đứng ngoài rìa. ... Tôi chẳng có cách nào miêu tả được hết cảnh giới này, chỉ có thể nói rằng cảnh giới này chỉ có ở cõi trời mới có, nhân gian rất khó gặp được.

Có một tuyệt thế mỹ nhân xuất hiện. Mái tóc đen buông dài. Đôi mắt to sâu thăm thẳm. Hình thể khỏe đẹp. Có quang khí của tiên nữ. Trang sức kiều diễm. Khi nàng cười dường như cả thế giới đều đang cười. Nàng cất giọng nói rất đỗi dịu dàng: "Nơi đây là Phổ Đà Lạc Gia Sơn." Tôi "a" lên một tiếng. "Nàng là Quan Thế Âm Bồ Tát." Nàng nói: "Đúng vậy." Nàng còn nói: "Ta ở nhân gian chính là mẹ của ngài." Tôi kinh ngạc: "Hoàng Ngọc Nữ?" (Tôi gọi thẳng tên của mẹ tôi.) Nàng nói: "Đó là tên gọi ở nhân gian."

Có một khoảng thời gian tôi không gặp được mẹ tôi. Dù tôi có nghĩ thế nào cũng chỉ có thể nghĩ được hình dáng ở nhân gian của mẹ tôi thôi, nhưng dù nghĩ thế nào thì cũng chẳng thể tưởng tượng được là bây giờ bà lại có diện mạo như thế này. Tôi hỏi: "Phổ Đà Lạc Gia Sơn có bao nhiêu Quan Thế Âm Bồ Tát?" Mẹ tôi đáp: "Vô số." Tôi hỏi: "Mẹ có gì dạy bảo không?" Mẹ tôi kéo tay tôi đi, tôi cảm giác trỗi lên một cảm xúc thân tình. Chúng tôi đi vào một cung điện rất lạ thường, quang ảnh rực rỡ, nơi đây đã tách biệt khỏi thế giới nhân gian rồi. Người mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi: "Ta muốn dạy con chuyện giữa người với người." Tôi nói: "Việc này có gì hay để dạy?" Mẹ tôi nói: "Đừng coi thường vấn đề này. Giữa người với người chẳng bao giờ tồn tại chuyện không có xung đột, tất cả đều hoàn mỹ đâu." Tôi nói: "Việc này con biết, con người với nhau rất khó hòa hợp." Mẹ tôi nói: "Người ta tranh chấp với con, mỉa mai, tức giận, phẫn nộ với con, con sẽ làm gì?" Tôi đáp: "Nhẫn nhục!" (một trong lục độ) Mẹ tôi nói: "Như vậy cũng được. Nhưng, ngược lại, con cũng cần xem người khác như chính mình." Tôi hỏi: "Vì sao vậy?" Mẹ tôi nói: "Nhân gian không có một quan điểm đồng nhất. Mỗi con người là do nhiều nhân tố tổng hợp lại mà thành, ví dụ như hoàn cảnh sinh ra, thời thơ ấu, khí hậu sinh sống, thức ăn, môi trường xung quanh… Mỗi người là một cá thể. Bởi vậy con cần phải học được trong sự tranh chấp, mỉa mai, tức giận và phẫn nộ, để tìm ra sợi dây liên kết giữa con và người khác. Cần từ tốn học tập như vậy mới có thể hoàn thiện được." Tôi nghe xong, chẳng thể nói gì hơn. Tôi cảm tạ lời dạy vĩ đại của mẹ.

33. Người mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát của tôi dạy

Mẹ tôi (Hoàng Ngọc Nữ) bây giờ là Quan Thế Âm Bồ Tát. Mẹ nói: "Mỗi người, bởi các nguyên nhân như hoàn cảnh sinh ra, thời thơ ấu, trường học, thầy cô, bạn học, bạn bè, nghề nghiệp, gia đình, con cái... Khác nhau, do vậy hành vi, suy nghĩ đều khác nhau. Bởi vậy mà sinh ra đủ mọi vấn đề giữa người với người." Tôi nói: "Con hiểu." Mẹ nói: "Thế nên, lời dạy của ta, con nên hiểu rõ, không chỉ có mỗi nhẫn nhục là đủ đâu." Tôi nói: "Con đã hiểu rồi." Mẹ nói: "Người ta tranh chấp, mỉa mai con, con phải làm sao?" Tôi nói: "Coi như gió xuân thổi nhẹ qua." Mẹ nói: "Người ta tức giận, phẫn nộ với con, con phải làm sao?" Tôi nói: "Coi như nghe khúc nhạc giao hưởng." Mẹ nói: "Con thể hiện cảm xúc thế nào?" Tôi đáp: "Chăm chú lắng nghe!" Mẹ nói: "Người ta đánh con, con phải làm sao?" Tôi đáp: "Người ta đánh vào má bên trái, con sẽ đưa má phải cho họ đánh nốt." (Điều này Chúa Jesus đã từng nói đến, tôi đã hiểu rõ.) Mẹ nói: "Những điều này con đều cần thực sự làm được." Tôi nói: "Con lúc nào cũng luôn nỗ lực." Mẹ nói: "Mẹ nói cho con một khẩu quyết quan trọng, khi con bị người ta lừa gạt và khinh thường con, con cần luôn nghĩ đến ưu điểm của người này. Hãy chú ý đến tài năng thiên bẩm chắc chắn có ích, con cần phải nghĩ đến ưu điểm của người đó." Tôi nói: "Cảm ơn mẹ chỉ dạy." Mẹ nói: "Cho dù chỉ có một tí xíu ưu điểm, con cũng cần phải nghĩ đến điều đó." Tôi nói: "Vâng ạ." Mẹ nói: "Hãy nhớ kĩ! Kết nối ưu điểm của mỗi người chính là độ chúng sinh."

Tôi nói:

"Con đã hiểu!"

Mẹ nói:

"Tấm lòng đại từ đại bi của Quan Thế Âm Bồ Tát là không từ bỏ một chúng sinh nào, bình đẳng cứu độ tất cả." Tôi nói: "Con thực sự hiểu rồi!" Mẹ nói: "Lời thề nguyện của con là không từ bỏ một chúng sinh nào, trên phương diện này con vẫn còn phải học nhiều hơn nữa." Tôi nói: "Đúng vậy." - Tôi nói tiếp: "Mẹ à! Quan Thế Âm Bồ Tát, con muốn trở về Ma Ha Song Liên Trì, mẹ nhất định phải đến đón con." Mẹ nói: "Mẹ luôn ở bên con. Đón nhận cả vô số thánh chúng của con!" Mẹ nói: "Mẹ phải đi rồi! Bảo trọng!" Tôi cảm tạ sự chỉ dạy của mẹ! Thực sự cảm động quá!

34. Phật Đà dạy tôi nhận thức về "cái khổ"

Phật Đà hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, ngài có biết cái khổ của con người không?" Tôi đáp: "Tôi biết có ba khổ, tám khổ và vô số loại khổ khác." Phật Đà hỏi: "Thế nào ba loại khổ, tám loại khổ?" Tôi đáp: "Trước hết tôi nói về tám khổ, đó là sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, mong cầu mà không được là khổ, yêu mà phải xa cách là khổ, oán hận là khổ, bị ngũ uẩn thiêu đốt là khổ. Ba khổ là: khổ khổ [khổ vì những cái khổ của thế tục], hoại khổ [khổ vì sự thay đổi], hành khổ [cái khổ bao trùm tam giới sáu cõi].” Phật Đà hỏi: "Nguyên nhân của cái khổ là gì?" Tôi nói: "Xin ngài nói rõ." Phật Đà đáp: "Là vì chúng ta đem đến đau khổ cho người khác, nguyên nhân chính là như vậy. Sau đó, ngay chính mình cũng sẽ đau khổ." Tôi hỏi: "Đây là vòng tuần hoàn của khổ nhân khổ quả sao?" Phật Đà nói: "Đúng vậy." Tôi nói: "Thì ra căn nguyên thật sự của tất cả mọi đau khổ chính là việc chúng ta làm cho người khác đau khổ." Phật Đà nói: "Chính xác là như vậy." - Phật Đà còn nói: "Giờ đây ngài độ chúng sinh, ngài dùng tâm gì?" Tôi đáp: "Tâm từ bi! Tâm bồ đề!" Phật Đà hỏi: "Ngài là tự học không cần thầy dạy sao?" Tôi đáp: "Không phải. Điều này là Thượng sư của tôi dạy." Phật Đà nói: "Thượng sư của ngài là bậc thiện tri thức chân chính." Tôi nói: "Phật Đà, tôi nên cho chúng sinh cái gì?" Phật Đà hỏi ngược lại: "Ngài cho chúng sinh cái gì, ngài tự mình nói xem?" Tôi nói: "Phật pháp." Phật Đà: "Mới chỉ tạm được." Tôi lại nói: "Cho chúng sinh niềm vui, giải trừ bệnh khổ, làm cho con người mãi mãi hạnh phúc, bình đẳng cứu độ." Phật Đà nói: "Những việc này là biểu hiện bên ngoài." Tôi lại nói: "Cho chúng sinh tình yêu, yêu chúng sinh." Phật Đà nói: "Cho chúng sinh một ngọn đèn, chỉ dẫn họ đến nơi không còn đau khổ nữa." Tôi nói: "Tôi hiểu ra rồi!" - Tôi rất sung sướng. Phật hỏi: "Ngài có thể trở thành một Thượng sư chân chính như thế nào?" Tôi đáp: "Trước tiên tôi tu tam nghiệp thanh tịnh, để làm cho tôi thanh tịnh. Chúng ta còn cần yêu người khác hơn cả yêu chính bản thân mình." Phật hỏi: "Ngài làm sao để yêu chính mình và còn yêu người khác hơn thế nữa?" Tôi đáp: "Tôi tu pháp xả thân của Mã Cát Lạp Tôn đó!"

35. Tịnh quang màu xanh lam của Dược Sư Như Lai

Khi Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật đến gần tôi, tôi cảm nhận được tịnh quang màu xanh lam của ngài bao trùm lấy tôi. Tôi nghĩ đến: Mỗi ngày thứ bảy, sau pháp hội tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, tôi lại sờ đầu cho từng đệ tử. Lúc sờ đầu, đệ tử xếp thành hai hàng, tay phải và tay trái tôi đều hoạt động, lần lượt sờ đầu gia trì từng người một. Nói chung, thời gian sờ đầu thường kéo dài một tiếng, có đôi lúc kéo dài tới hai tiếng. Cảnh tượng này cũng tương đối ấn tượng.

Tôi phát hiện ra một thực tế. Những đồng môn chờ được sờ đầu này có rất nhiều người phải chịu khổ vì tuổi già, chịu khổ vì bệnh. Trong lòng tôi cảm thấy xót xa!

🌟

Tôi kính lễ Dược Sư Như Lai, tôi nói: "Chúng sinh có bệnh, tôi có bệnh." Dược Sư Phật hỏi tôi: "Ngài có niềm tin rằng có thể chữa khỏi bệnh của mỗi đồng môn không? Bằng việc sờ đầu của ngài?" Tôi trả lời thật lòng: "Không thể!" (Cho dù là bác sĩ cũng chẳng thể chữa khỏi bệnh cho một trăm phần trăm bệnh nhân.) Dược Sư Phật hỏi: "Có đồng môn thì vừa được sờ đầu đã khỏi, có đồng môn thì vừa được sờ đầu đã có cải thiện, cũng có đồng môn phải sờ đầu nhiều lần mới đỡ. Rồi cũng có đồng môn dù có sờ đầu thế nào cũng chẳng khỏi được, ngài có biết vì sao không?" Tôi đáp: "Là bởi nghiệp lực!" Dược Sư Phật nói: "Đúng vậy. Nghiệp lực phân ra có nặng, vừa, nhẹ, ngoài ra còn rất nhiều các nhân tố khác nhau, khiến cho việc sờ đầu của ngài chẳng thể phát huy 100% công lực." Tôi nghe xong, lòng đầy u buồn. Dược Sư Phật nói: "Ngài cũng không cần phải tiêu cực. Ngài chỉ cần tận lực là được rồi. Phần lớn người ta chẳng quan tâm đến bệnh tật của người khác, hoặc nếu có quan tâm một chút thì cũng chỉ là một kiểu lịch sự mà thôi." "Chăm chú lắng nghe người già nói chuyện về bệnh tình của họ, nhưng nghe xong rồi thì cũng thờ ơ coi như chẳng ảnh hưởng gì đến mình." Tôi gật gật đầu. Dược Sư Phật nói: "Người già nói thao thao bất tuyệt về bệnh tình của họ, người khác chỉ là nghe và biết thế thôi. Nhưng người ta có nghĩ được rằng, đến khi chính họ già và ốm bệnh, họ cũng sẽ rơi vào tình cảnh giống như vậy thôi." Tôi nói: "Đúng vậy." Dược Sư Phật nói: "Lư Sư Tôn! Ngài cần phát tâm chân thành mà cầu nguyện ta!" Tôi nói: "Phải rồi." Dược Sư Phật nói: "Ngài muốn dùng sức mạnh sinh mệnh của chính mình để sờ đầu gia trì cho người bệnh sao?" Tôi nói: "Đúng vậy." Dược Sư Phật nói: "Tự lực cộng thêm tha lực, có như vậy việc sờ đầu gia trì này mới có đủ lực được!" Tôi nói: "Đúng vậy. Thực tế là tôi đã làm như vậy." Dược Sư Phật nói: "Không thể rút lại việc mà ngài đã phát tâm lúc buổi đầu. Việc phát tâm dài hạn sẽ giúp ngài trưởng thành. Hành động ban phát giúp đỡ chúng sinh của ngài sẽ có được sự gia trì của Phật Bồ Tát, sức mạnh sẽ càng tăng lên." Tôi cảm tạ Dược Sư Phật. Dược Sư Phật nói: "Không được quên bệnh khổ của chúng sinh!" Tôi cảm tạ Dược Sư Phật, ngài đã dạy tôi về cái tâm chân thành.

36. Phật Đà dạy "tam luân thể không"

Sáu ba-la-mật (lục độ) là: Bố thí (dana). Giữ giới (sila). Nhẫn nhục (santi). Tinh tấn (virya). Thiền định (dhyana). Trí huệ (prajna).

"Tam luân thể không" là: Dựa trên việc bố thí mà nói, thì người bố thí, người nhận bố thí, bất kì vật gì dùng để bố thí, được gọi là tam luân. Khi bố thí, nếu trong tâm có tam luân, thì là hữu tướng bố thí. Khi bố thí, nếu trong tâm không có tam luân, thì là vô tướng bố thí. Vô tướng bố thí là tam luân thể không, tức là bố thí ba-la-mật. [Tam luân thể không là không thấy có người bố thí, không thấy có người nhận bố thí, không thấy có tài vật bố thí.]

🌟

Phật Đà hỏi: "Lư Sư Tôn! Ngài có giữ giới không?" Tôi đáp: "Có giữ!" Phật Đà hỏi: "Ngài giữ giới như thế nào?" Tôi đáp: "Mắt không nhìn sắc đẹp, tai không nghe âm thanh, mũi không ngửi hương thơm, lưỡi không nếm mùi vị, thân không chạm tiếp xúc, ý không nghĩ lung tung." Phật Đà nói: "Ngài nói dối! Phạm giới vọng ngữ rồi đó!" Tôi nói: "Tôi cố gắng làm hết mức có thể, tôi cũng không phải là thánh nhân!" Phật Đà nói: "Mật giáo tu thân, khẩu, ý thanh tịnh, kì thực chính là tu giới thân, khẩu, ý. Ở đây đã bao gồm tất cả rồi." Tôi nói: "Tôi dạy Chân Phật Mật Pháp chính là dạy về thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh." Phật Đà hỏi: "Ngài biết gì về phương diện liên quan đến giới?" Tôi đáp: "Giới lực, giới hạnh, giới phẩm, giới tướng, giới kinh, giới học, giới thể, giới định huệ………" Phật Đà nói: "Những gì mà ngài vừa nói chỉ là phạm vi của giới thể mà thôi." Phật Đà hỏi: "Vì sao cần phải xem trọng giới luật?" Tôi đáp: "Phật giảng rằng hãy lấy giới luật làm thầy, điều này chính là đặc biệt coi trọng giới luật." Phật Đà nói: "Không sai. Bởi vì từ giới mà sinh ra định, bởi vì từ định mà sinh ra huệ, bởi vì từ huệ mà thể nghiệm được tính Không." Tôi nói: "Phật Đà chính là đang dạy tôi về Tam luân thể không của giới luật đó." Phật hỏi: "Cái gì là tam luân của giới?” Tôi đáp: "Giới thể, giới kinh, giới hạnh." Phật Đà hỏi: "Có công đức hay không?" Tôi đáp: "Chẳng có công đức gì!" (sáu ba-la-mật là công cụ) Phật Đà nói: "Nếu dựa theo Thứ tự sinh khởi thì là có công đức, còn nếu dựa theo Thứ tự viên mãn thì chẳng có công đức." Tôi nói: "Tôi đã hiểu rồi!" (giới mà cũng là không có giới)

🌟

Phật Đà căn dặn tôi: Giới kinh, giới thể, giới hạnh là tam luân. Khi việc giữ giới đạt đến mức độ nhất cử nhất động đều là giới hạnh, thì sẽ thể hội được giới cũng là không. Tức là tam luân thể không. Tôi nói: "Trên mặt trăng thì cái gì là giới?" (Câu hỏi này xin nghĩ kĩ.) Phật Đà nói: "Ngài đúng là đồ trẻ con!" Thế rồi Phật cười.

37. Khai thị tuyệt đỉnh

Theo tôi được biết, Phật ở địa thứ mười sáu trong Phật giáo được gọi là: Bản Sơ Phật. A Đạt Nhĩ Mã Phật. Phổ Hiền Vương Như Lai. Tịnh Quang Bí Mật Phật. Nguyên Thủy Phật. ...

Phật ở địa thứ mười ba chính là: Tỳ Lô Giá Na Phật. Đại Nhật Như Lai. Kim Cang Đỉnh Phật. Tiếp theo là: A Súc Phật. A Di Đà Phật. Bảo Sinh Phật. Bất Không Thành Tựu Phật. (Ngũ phương ngũ Phật)

🌟

Lư Thắng Ngạn tôi trong lúc thiền định đã từng có được "mật ngữ" của Bản Sơ Phật. Tôi cho rằng đây là khai thị tuyệt đỉnh. Tôi kể ra đây như sau. Bản Sơ Phật hỏi: "Cái gì là Thường?" Tôi đáp: "Trời xanh vạn dặm là Thường." Bản Sơ Phật hỏi: "Cái gì là Lạc?" Tôi đáp: "Trời xanh vạn dặm, gió trăng mỗi ngày mỗi khác." [Vạn lý thanh không, nhất triêu phong nguyệt, vế sau bắt nguồn từ câu thiền ngữ "vạn cổ trường không, nhất triêu phong nguyệt" xuất phát từ ngài Sùng Huệ.] Bản Sơ Phật hỏi: "Cái gì là Ngã?" Tôi đáp: "Một giọt nước rơi vào biển lớn." Bản Sơ Phật hỏi: "Cái gì là Tịnh?" Tôi đáp: "Quan niệm là Tịnh." Bản Sơ Phật nói: "Like! Like! Like!" [Nguyên văn Hán Việt là "tán", cũng là tiếng lóng chỉ nút "Like" được dùng trong mạng xã hội Facebook.]

Bản Sơ Phật hỏi tôi: "Vì lẽ gì mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói "vô ngã tướng"?" Tôi đáp: "Mọi thứ có hình tướng đều là huyễn." Bản Sơ Phật hỏi: "Cái gì là huyễn?" Tôi đáp: "Là hữu vi pháp." Bản Sơ Phật hỏi: "Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni nói "vô nhân tướng"?" Tôi đáp: "Như mộng huyễn ảo ảnh." Bản Sơ Phật hỏi: "Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni nói "vô chúng sinh tướng"?" Tôi đáp: "Như sương cũng như điện." Bản Sơ Phật hỏi: "Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni nói "vô thọ giả tướng"?" Tôi đáp: "Một giờ cũng là không." Bản Sơ Phật nói: "Like! Like! Like!"

🌟

"Mật ngữ" của Bản Sơ Phật là: Hễ có suy nghĩ là tạo nhân. Không phải thiện nhân. Mà là ác nhân. Lư Sư Tôn lấy "vô niệm" làm Chính giác Phật bảo. Thiện tai! Thiện tai! Like! Like! Like!

38. Giác hạnh viên mãn?

Theo phân tích chung thì: Giữ năm giới — người. Làm mười điều thiện — trời. Tu tứ đế — A La Hán. Sáu ba-la-mật — Bồ Tát. Tự giác — Độc giác. Tự giác giác tha — Kim Tiên. (Bồ Tát) Giác hạnh viên mãn — Phật.

Tôi hỏi Bản Sơ Phật: "Thế nào là một vị Phật giác hạnh viên mãn?" Bản Sơ Phật đáp: "Đã giác ngộ, hơn nữa còn thực hành hạnh bồ đề, đạt đến cảnh giới viên mãn, là Phật." Tôi hỏi: "Bố thí có thể viên mãn được không?" (viên mãn chúng sinh) Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi hỏi: "Giữ giới có thể viên mãn được không?" Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi hỏi: "Nhẫn nhục có thể viên mãn được không?" Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi hỏi: "Tinh tấn có thể viên mãn được không?" Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi hỏi: "Thiền định có thể viên mãn được không?" Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi hỏi: "Trí huệ có thể viên mãn được không?" Bản Sơ Phật đáp: "Không thể." Tôi nói: "Tôi cũng biết là không thể. Bởi vì cho dù bố thí thế nào thì thế gian cũng vẫn có người nghèo. Cho dù có giữ giới thế nào thì thế gian vẫn có người phạm tội sát sinh. Cho dù có nhẫn nhục thế nào thì thế gian vẫn có tranh đấu. Cho dù có tinh tấn thế nào thì thế gian vẫn có người bất tín. Cho dù có thiền định thế nào thì thế gian vẫn có người tán loạn. Cho dù có trí huệ thế nào thì thế gian vẫn có người ngu si." Bản Sơ Phật nói: "Giác hạnh viên mãn, chẳng phải bên ngoài." Tôi hỏi: "Vậy là chỉ điều gì?" Bản Sơ Phật nói: "Bên trong." Tôi cười: "Vậy thì thế nào là cứu độ chúng sinh, là sự viên mãn của hạnh?" Bản Sơ Phật đáp: "Thực sự cũng đã bố thí hết tất cả mọi thứ của ta. Ví dụ pháp xả thân của Mã Cát Lạp Tôn chính là sự viên mãn của hạnh." Tôi hỏi: "Chúng sinh vẫn là chúng sinh thôi!" Bản Sơ Phật đáp: "Chúng sinh vẫn là chúng sinh, là bởi vì họ vẫn chưa đi qua quả báo của lục độ." Tôi nói: "Tôi hiểu rồi!" Ví dụ: Khi tôi tổ chức pháp hội độ chúng sinh, (mỗi lần có tới ba vạn người), các nhân vật chính trị đến tham gia. Tôi vừa mới bắt đầu thuyết pháp thì các nhân vật chính trị đã mau chóng rời đi rồi. (Bởi vì lịch trình làm việc của họ đã kín mít.) Tôi chẳng thể độ họ được. Nhưng, nội tại của tôi thì đã viên mãn rồi. Phải thế không?

39. Phật Đà cầm hoa

Ngày xưa, lúc Phật Đà ở Linh Tiên Hội Thượng, Phật Đà đưa tay cầm một bông hoa cho mọi người thấy. Chẳng nói một lời. Tất cả con người và thiên nhân tại Linh Tiên Hội Thượng nhất thời đều bối rối hoang mang, không biết nên làm gì. Lúc này chỉ có mỗi Ca Diếp tôn giả hiểu mà mỉm cười một cái. Phật Đà nói: "Pháp môn này giao phó cho Đại Ca Diếp!" Phật Đà hỏi tôi: "Việc cầm bông hoa này là có ý gì?" Tôi đáp: "Là một bông hoa." (thoại trung hữu thoại) [Trong lời nói còn có ý nghĩa khác.] Phật Đà nói: "Ngài lấy hoa để nêu lên bản chất." Tôi nói: "Hoa cũng có tính tượng trưng." Phật Đà nói: "Đây là tính biến kế sở chấp của ngài." [Biến kế sở chấp là một trong ba tính (tam tự tính) của hiện hữu được Duy thức tông nêu ra. Theo Duy thức tông thì tất cả những ngoại cảnh, những vật bên ngoài đều là cái chính mình tưởng ra, là thức biến, không thật. Biến kế sở chấp là đối với những sự vật không có thực chất, lại khởi phân biệt, chấp trước, gán cho chúng những danh tự, so đo, tính toán, yêu ghét.]

Tôi hỏi: "Hoa có sinh mệnh thứ ba không?" Phật Đà nói: "Sự biến hóa của hoa là vô cùng." Tôi đáp: "Hoa có thể chưa nở, nở hé, nở to, hơi héo, héo hẳn..." Phật Đà nói: "Bất kì người nào nhìn hoa, nghĩ gì thì sẽ thành như thế." Tôi hỏi: "Xin hỏi tôn giả Đại Ca Diếp đã nhìn thấy gì?" Phật Đà đáp: "Tính Không." Tôi nói: "Rõ ràng là một bông hoa mà!" Phật Đà nói: "Lẽ nào ngài không biết về sinh mệnh sao? Lẽ nào ngài không biết một bông hoa một thế giới sao?" Phật Đà còn nói: "Từ một bông hoa thấy được sự vĩnh hằng, thấy được toàn nhân loại, thấy được Phật, thấy được Bồ Tát." Cuối cùng Phật Đà nói: "Thấy được tính Không." Tôi hỏi: "Tôn giả Đại Ca Diếp nhìn thấy gì?" Tôi đáp: "Tính Không." Phật Đà nói: "Bingo!" Tôi hỏi: "Vì sao vậy?" Phật Đà đáp: "Quá khứ của hoa, hiện tại của hoa, tương lai của hoa." Tôi nói: "Quả, hoa nở, héo tàn." Phật Đà nói: "Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng vậy." Tôi nói: "Cuối cùng tôi vứt hoa đi rồi!" Phật Đà nói: "Tính Không cũng vứt luôn!" Tôi nói: "Tất cả đều yên tịnh viên mãn rồi!" Phật Đà nói: "Đó chính là đạo niết bàn." Tôi nói: "Thật hay quá! Cảm tạ Phật Đà khai thị."

40. Một cụ già gầy gò

Ngày hôm đó. Tinh thần của tôi cực kì yên bình. Tôi nhập vào trạng thái thiền định. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã đến một hang đá trong núi. Tôi ngồi yên lặng dưới một gốc cây khuynh diệp trước cửa hang đá. Phía trước hang đá có một con lạch nhỏ. Nước suối chảy vào con lạch tạo nên thanh âm róc rách thật dễ chịu. Nơi đây là nơi nào vậy? Tôi ngỡ ra rồi: Nội tâm tôi đang dâng trào cảm xúc. Dòng suy nghĩ trở về nơi xa xăm. Những ký ức và mong ngóng vương vấn trong tâm tưởng. Bởi vì nơi đây là hang động của ngài Xá Lợi Phất.

🌟

Năm đó. Phật Đà ở núi Linh Thứu, chúng tôi đi theo Phật Đà, mỗi một hành giả đều có một hang động. Hang động của ngài A Nan ở phía sau hang của tôi. Hang động của ngài Tân Đầu Lư cách hang của tôi rất gần. Hang động của ngài Đại Ca Diếp cách hang của tôi rất xa. Chúng tôi đều ở trong hang động học tập tu thiền, và tiếp nhận những tư tưởng dạy dỗ của Phật Đà. Nói một cách nghiêm túc thì: Phật Đà không phải là nhà tôn giáo. Phật Đà cũng không phải là nhà triết học. Phật Đà không phải là nhà lý luận học. Thân phận thực sự của Phật Đà chính là nhà tư tưởng, tiếp đó là đưa tư tưởng vào thực tiễn.

🌟

Tôi ngồi ở cửa hang động của ngài Xá Lợi Phất. Đột nhiên. Một cụ già gầy gò từ từ tiến lại gần. Lúc đầu tôi nghe tiếng bước chân. Cụ già đi đến trước cửa hang động của tôi, cụ hoàn toàn kiệt sức rồi. Cụ gầy gò khắc khổ. Khuôn mặt đầy nếp nhăn. Lòng bàn tay đen nhẻm. Ngón chân giống như móng diều hâu. Mái tóc lưa thưa, sợi trắng sợi xám lẫn lộn. Đôi vai còng xuống. Khóe miệng thô cứng. Đôi mắt vô hồn. Cụ nói: "Xá Lợi Phất, xin cứu tôi!" Tôi hỏi: "Cụ là…?" Cụ đáp: "Người anh em! Ngài không nhận ra tôi sao, tôi là Mục Kiền Liên năm xưa đây." Tôi thất kinh. "Cụ là tôn giả Mục Kiền Liên ư?" Cụ đáp: "Đúng vậy. Tôi đã đi qua những năm tháng vô tình, kiếp này tôi chỉ là một lão già, bao nhiêu kiếp rồi, tôi càng ngày càng bại hoại….." Cụ vươn tay ra bám vào tôi. Tôi nói: "Cụ làm sao mà ra nông nỗi này?" (Mục Kiền Liên tôn giả đệ nhất thần thông.) Cụ đáp: "Lời nói chẳng thể kể hết. Tôi vẫn luôn ở gần núi Linh Thứu, tôi biết ngài sẽ trở về hang động của Xá Lợi Phất, ngài cho tôi về cõi trên với! Bây giờ ngài là thiên sứ, ngài dùng ánh sáng đưa tôi trở về đi!" Tôi nói: "Tâm quang của cụ thì sao? Thần thông của cụ thì sao?" Cụ đáp: "Tất cả đều bị nghiệp lực nuốt chửng rồi!"

Tôi dùng ánh sáng của tôi xoa dịu gương mặt của cụ, dùng ánh sáng chiếu phủ toàn thân cụ, tôi thắp lên ngọn đèn tâm cho cụ. Nguyên khí của cụ dường như có chút sức sống rồi. Tôi nói: "Mục Kiền Liên, ngài hãy ở lại trong hang động của tôi mà tu hành, chúc ngài mau chóng thành tựu, trở về bên cạnh Phật Đà."

41. Phật tử giao lưu

Trong cuốn sách "Phật Đà mà tôi biết", tôi đã viết về một Đức Phật chân chính. Ngài sáng chói không gì sánh bằng. Ngài tràn đầy sức mạnh. Ngài vô cùng từ bi. Ngài vô cùng trí huệ.

Tôi hiểu thế nào là một Phật tử, ở đây là tôi nói đến Phật tử chân chính. Phật tử chân chính là người hiểu được tư tưởng của Phật Đà, hơn nữa còn đem tư tưởng của Phật Đà vào thực tiễn cuộc sống. Không phải là biểu hiện cúi lạy bên ngoài. Không phải là xây chùa lớn. Không phải là cầu tiền tài, cầu con cái, cầu sống lâu. Không phải là xem mệnh bốc quẻ. Không phải là phong thủy địa lý. Không phải là "mua bán Như Lai". [Ý nói mua bán các vật phẩm, tranh tượng các vị Phật.]

🌟

Có một luồng ánh sáng chiếu rọi để tôi có thể đọc được mấy bài thơ, khiến tôi càng hiểu rõ hơn thế nào là một Phật tử chân chính.

Bài thơ thứ nhất:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Chẳng phải nói rằng tôi lương thiện thuần khiết hơn người khác Mà là tôi có quá nhiều phiền não vô minh cần phải loại trừ Tôi cần có trí huệ của Đức Phật.

Bài thơ thứ hai:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Chẳng phải nói rằng tôi có trí huệ hơn người khác Mà là tôi đã bị quá nhiều ngạo mạn bao vây Tôi cần phải khiêm nhường cảm nhận thế giới rộng lớn.

Bài thơ thứ ba:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Càng chẳng phải vì tôi tốt hay xấu hơn người khác Mà là muốn tôi hiểu được chúng sinh bình đẳng không khác biệt Tôi càng phải đi độ hóa chúng sinh.

Bài thơ thứ tư:

Khi tôi nói tôi là Phật tử

Bởi vì tôi chỉ có thể yêu người mà mình yêu.

Còn Phật Đà có thể yêu người mà ngài hận.

Hơn thế nữa còn giúp họ có được trí huệ và từ bi.

Bởi vậy tôi chọn lựa học Phật.

Bài thơ thứ năm:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Không phải vì cầu tài được tài Cầu cầu cầu Mà là vì cắt bỏ sự bám chấp vào mọi dục vọng của bản thân.

Bài thơ thứ sáu:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Không phải vì một cuộc đời thuận buồm xuôi gió Mà là vì thản nhiên tiếp nhận sự vô thường Ở vào bất kì cảnh ngộ thảm khốc thế nào Cũng vẫn ung ung như quân vương.

Bài thơ thứ bảy:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Không phải nói rằng là bởi vì yêu thương Mà sinh lòng ép buộc người khác Mà là dùng trí huệ thấu đáo Trong lúc tùy thuận chúng sinh mà lợi mình lợi người.

Bài thơ thứ tám:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Chẳng phải vì tôi muốn trốn chạy khỏi nhân gian, tìm đến hư vô Mà là tôi hiểu thấu đáo cuộc sống thường ngày đâu đâu cũng là đạo tràng Sống ngay tại lúc này chính là tu hành.

Bài thơ thứ chín:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Cuộc sống của tôi chẳng phải là từ nay sẽ chẳng gặp phải bất trắc gì nữa Nhưng có Phật pháp làm bạn rồi Thì bất trắc lần lượt chuyển hóa thành nhân duyên giúp tôi trưởng thành.

Bài thơ thứ mười:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Trong lòng tôi tràn ngập sự biết ơn vô hạn Chỉ nghĩ đến đời này có duyên sinh ra làm con người Có được năng lực tu hành Lại có cơ hội gặp được thiện tri thức Để có thể được nghe Phật pháp Thì sâu thẳm trong tim đã cảm động trước nhân duyên bất khả tư nghì này.

Bài thơ thứ mười một:

Khi tôi nói tôi là Phật tử Chẳng phải là vì có thần linh ở bên ngoài Mà là tôi phát hiện ra vốn dĩ đã luôn có Phật tính.

🌟

Tôi đọc xong mười một bài thơ, tôi cảm thấy chúng đã nói lên được nội nghĩa của một Phật tử chân chính. Tôi rất hoan hỷ.

Mấy ngày nay có một vị giáo sư lớn nghiên cứu về Phật giáo của trường đại học Oxford đã từ nước Anh bay tới Đài Loan. Ông ấy chính là học giả Richard.

[Ở đây Sư Tôn nói đến giáo sư Richard Francis Gombrich, sinh năm 1937, là một học giả chuyên nghiên cứu Phật giáo và tiếng Sankrit, tiếng Pali. Ông là giáo sư giảng dạy tiếng Sankrit tại đại học Oxford từ năm 1976 - 2004. Năm 2019 ông đã đến Đài Loan Lôi Tạng Tự tham gia một số buổi pháp hội của Sư Tôn.]

Có một luồng ánh sáng đã dẫn dắt tôi đọc được những câu thơ này, hóa ra chúng là những bài thơ của giáo sư Richard. Điều khiến người ta không ngớt thán phục là, Phật học phức tạp như vậy, mà mấy câu thơ này của ngài đã nói "trúng" rồi. Còn có cả tiến sĩ Trịnh Định Hà, thạc sĩ Trần Bỉnh Vĩ muốn tới phỏng vấn, cầu nguyện chính pháp sẽ tồn tại mãi mãi.

image

Giáo sư Richard tới thăm Sư Tôn

42. Thập phương tam thế

Tôi tu thiền quán không giống như người bình thường tu thiền quán, bởi vì tôi quán "thập phương tam thế". Có người hỏi tôi: "Cái gì là thập phương?" Tôi đáp: "Chúng ta lấy mặt phẳng chia làm tám phương hướng, giống như la bàn Bát Quái, thêm phương ở trên và phương ở dưới, như vậy chính là đủ mười phương." Có người hỏi tôi: "Thế còn cái gì là tam thế?" Tôi đáp: "Tam thế chính là đời quá khứ, đời hiện tại và đời tương lai." Hỏi: "Phật giáo thường nói thập phương tam thế là vì sao?" Đáp: "Thập phương chính là không gian, tam thế chính là thời gian." Hỏi: "Tôi không hiểu cái gì là chư Phật tam thế?" Đáp: "Vào thời kỳ thành lập Phật giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là vị Phật hiện tại. Tất cả các vị Phật trước thời Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Phật quá khứ, các vị thành Phật từ sau thời Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Phật tương lai." Hỏi: "Cái gì là tam tế nhất như?" Đáp: "Tam tế chính là tam thế, tam thế có sự liên quan với nhau nên gọi là nhất như." Hỏi: "Cái gì là mười phương ngang?" Đáp: "Là nói về ý nghĩa thập phương thế giới dựa trên hệ tọa độ trục tung trục hoành, thập phương cũng tương đương với một không gian." Hỏi: "Kinh Kim Cang có nhắc đến tam thế bất khả đắc, là ý nghĩa gì?" Đáp: "Kinh Kim Cang nói: tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm tương lai bất khả đắc, là chỉ ra rằng những gì của quá khứ đã qua thì đã qua rồi, những gì của tương lai thì chưa tới, những gì của hiện tại cũng chẳng ở lại, trong một sát-na đã thành quá khứ rồi. Do vậy nên là tam thế bất khả đắc." Hỏi: "Vậy cái thực sự có được là gì?" Đáp: "Cái thực sự có được, chính là vô sở đắc!" Hỏi: "Hóa ra là vô sở đắc! Có ý nghĩa gì?" Đáp: "Anh đã đến gần với khai ngộ rồi. Chứng được vô sở đắc thì chấm dứt phiền não." Hỏi: "Lư Sư Tôn! Vậy thì học Phật có ý nghĩa gì?" Đáp: "Hết hẳn phiền não vô minh, từ bi cứu độ chúng sinh, đây chính là ý nghĩa của việc học Phật." Hỏi: "Xin giải thích đơn giản hơn!" Đáp: "Học trí huệ của Phật, học từ bi của Phật." Hỏi: "Loại người nào không thể học Phật?" Đáp: "Người người đều có thể học Phật. Nhưng có người phạm vào bảy nghịch tội thì không thể thọ Bồ Tát giới." Hỏi: "Cái gì là bảy nghịch tội?" Đáp: "Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết hòa thượng, giết A-xà-lê. Bảy tội nặng này là những tội nặng nhất, không thể thọ Bồ Tát giới."

Tôi nhắc mọi người hay, Quỷ Bà chính là người đã phạm bảy nghịch tội, bởi vậy muốn quay đầu cũng khó đó!

43. Làm sao tương ứng cùng Bổn tôn?

Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết, bất kể là học Hiển giáo, hay là học Mật giáo, sự tương ứng giữa người tu hành và Bổn tôn là điều quan trọng số một.

Muốn vãng sinh đến cõi tịnh thổ của Bổn tôn, nhất định cần tương ứng với Bổn tôn. 1. Thiền tông — tương ứng với ý thức cao nhất của bản thân hành giả. 2. Tịnh độ tông — tương ứng với Tây phương Tam Thánh. 3. Mật tông — hành giả và Bổn tôn tương ứng. 4. Luật tông — hành giả nghiêm khắc tuân thủ giới luật và tương ứng với Đại Ngã.

Trong chương sách này tôi sẽ nói cụ thể cho mọi người biết về "vấn đề tương quan của việc làm sao để tương ứng cùng Bổn tôn".

🌟

Hỏi: "Thế nào là Bổn tôn?" Đáp: "Trên thực tế, Bổn tôn là một tên gọi chung, ngài có thể là chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên. Cũng có thể gọi đó là ý thức vũ trụ, ý thức tối cao, đại năng, đại trí, đại ngã, là Thần, v.v….." Hỏi: "Bổn tôn sống ở đâu?" Đáp: "Tôi nghĩ rằng có hai nơi: một là cõi tịnh thổ của Bổn tôn, hai là nơi thâm sâu trong nội tâm hành giả. Câu trả lời này không hẳn là chuẩn. Bởi cũng có thể nói rằng Bổn tôn tồn tại ở khắp mọi nơi." Hỏi: "Thế nào gọi là Bổn tôn tương ứng?" Đáp: "Bổn tôn trong hư không, tự thân của hành giả, và Bổn tôn trong nội tại của hành giả, ba thứ này cùng liên kết với nhau, tương ứng, hợp nhất. Đó chính là Bổn tôn tương ứng." Hỏi: "Lư Sư Tôn đã tương ứng với Bổn tôn rồi sao?" Đáp: "Chắc chắn." Hỏi: "Hiện tượng tương ứng là gì?" Đáp: "Giống như tôi viết cuốn sách này thôi. Tôi có thể cùng trò chuyện với Bổn tôn. Mối quan hệ thân mật này giống như: Vợ chồng. Cha con. Mẹ con. Anh chị em. Tri kỷ. Thậm chí tôi hợp nhất cùng từng vị Bổn tôn một, mãi mãi ở cùng nhau, có người nói giống như đêm đêm cùng ngủ, sáng sáng cùng dậy. Nói cách khác là, tôi và Bổn tôn vốn dĩ không phân biệt, tôi chính là Bổn tôn, Bổn tôn chính là tôi, không hai không khác." Hỏi: "Làm sao để tương ứng cùng Bổn tôn?" Đáp: "Tôi trả lời đơn giản như sau: Thiền tông — nhập vào thiền tam muội, cùng Bổn tôn tương ứng. Tịnh độ tông — niệm Phật đến khi nhất tâm bất loạn, cùng Bổn tôn tương ứng. Mật tông — thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, cùng Bổn tôn tương ứng. Luật tông — dựa vào việc giữ giới luật để tương ứng cùng Bổn tôn." Hỏi: "84 nghìn pháp môn như ta vẫn nói đều có thể cùng với Bổn tôn tương ứng sao?" Đáp: "84 nghìn pháp môn chỉ là công cụ, quan trọng nhất là cần phải tương ứng được cùng Bổn tôn." Hỏi: "Con người thế tục có hiểu được những điều này không?" Đáp: "Không hiểu được! Con người thế tục sống trong tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, làm sao hiểu được những đạo lý này." Hỏi: "Ai có thể hiểu được?" Đáp: "Người phát tâm tu hành, cùng với sự giảng giải của thiện tri thức, mới hiểu đạo lý cùng Bổn tôn tương ứng." Hỏi: "Cùng Bổn tôn tương ứng có lợi ích gì?" Đáp: "Lợi ích lớn nhất là lúc lâm chung có thể đến được cõi tịnh thổ của Bổn tôn, có thể thành tựu Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên. Chỉ cần tương ứng được thì chắc chắn có thể đi đến nơi đó!" Hỏi: "Còn gì nữa không?" Đáp: "Bổn tôn là một dạng sức mạnh, là một dạng ân điển vô hình, nếu như tương ứng cùng Bổn tôn, bạn sẽ thấy được kỳ tích, hoặc những sự trùng hợp kỳ dị, rất nhiều hiện tượng bất khả tư nghì sẽ phát sinh." (hiện tượng thần thông) Hỏi: "Có thể lấy ví dụ minh họa không?" Đáp: "Ví dụ: tôi tương ứng với Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu giống như người mẹ của tôi. Tôi tương ứng với Phật A Di Đà, Phật A Di Đà giống như người cha của tôi. Tôi tương ứng với Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát giống như người anh em của tôi. Tôi tương ứng với Không Hành Mẫu, Không Hành Mẫu giống như người vợ của tôi." (Các vị đều giúp đỡ hành giả.) Hỏi: "Lợi ích thì sao?" Đáp: "Tôi hướng về Bổn tôn cầu nguyện, trên phương diện thế tục thì cầu tiền tài có tiền tài, cầu con cái có con cái, cầu danh vị có danh vị, cầu tuổi thọ có tuổi thọ…. Trên phương diện tu hành thì ngoài việc đến được cõi tịnh thổ của Bổn tôn, thậm chí Bổn tôn còn có thể giúp bạn tu khí, tu mạch, tu minh điểm. Thân thể bạn cũng sẽ khỏe mạnh……" Hỏi: "Người tương ứng cùng Bổn tôn, ngoài giúp cho chính mình ra, có thể giúp người khác sao?" Tôi đáp: "Đúng vậy. Giống như Lư Sư Tôn." (Chú ý: Bổn tôn đến từ Phật tính nội tại của hành giả.)

44. Tâm đắc với văn tập "Phật Đà mà tôi biết"

Pháp sư Liên Anh (tác giả)

"Trên trời dưới đất, mình ta độc tôn", đây là cuốn sách đáng kinh ngạc số một trong thiên hạ!

Trong suy nghĩ của tôi, đây là một cuốn sách mà dù có được đặt bên dưới một vạn cuốn sách chất chồng thành đống cao thì vẫn thấy được sự tỏa sáng lấp lánh của nó. Nó tuyệt đối là một cuốn sách tỏa sáng trên hàng nghìn cuốn sách, thậm chí có thể sánh ngang với một cuốn kinh thư!

Trong cuốn sách có rất nhiều điều "Phật nói…, Phật nói…",  tôi nghĩ lời của Sư Tôn là những lời chú thích thực sự cho những điều "Phật nói" đó! Phật là người nói thật, nói điều "như nó là", là người không nói dối, là người không nói lời sai khác, hơn nữa Sư Tôn là một vị thành tựu giả, một vị Phật đương đại. Dựa theo tôn giáo thì cuốn sách này càng là một cuốn sách khiến cho bạn và tôi đều được tâm quang phát lộ.

Trong hai chương sách "Xá Lợi Phất có biết phong thủy không?" và "Thông minh tuyệt đỉnh" có nhắc đến hai vị tôn giả đại trí huệ là Xá Lợi Phất và Tì Xá Li (Vaisali), khiến cho tôi có những liên tưởng và cảm xúc sâu sắc. Thường xuyên có người hỏi tôi, thậm chí chính tôi cũng từng tò mò rằng, khi phục vụ bên cạnh Sư Tôn có phải là sẽ thường xuyên phát hiện thấy Sư Tôn thể hiện thần thông hoặc thần tích ở khắp nơi hay không, hoặc có phải là sẽ phát sinh ra rất nhiều sự việc kỳ quái huyễn hoặc hay không? Bây giờ thì chính người ở gần quan sát Sư Tôn là tôi đây có thể nói rằng, Sư Tôn không giờ khắc nào là không âm thầm tạo ảnh hưởng, âm thầm vận thần thông để độ chúng sinh, do vậy đương nhiên sẽ có những trò chơi thần thông của bản thân một vị Phật.

Bỏ qua việc bên cạnh Sư Tôn có Diêu Trì Kim Mẫu và tất cả các vị Bổn tôn, Hộ pháp, Không hành vô hình thường xuyên trợ giúp ra (như trong chương sách "Đội quân tàng hình" có đề cập đến), thì điều khiến tôi ngạc nhiên nhất chính là Sư Tôn đã bộc lộ khả năng ghi nhớ và trí huệ quan sát tuyệt diệu đối với các sự vật sự việc và thời gian với mức độ siêu cường khiến người ta phải nể sợ!

Cũng giống như Xá Lợi Phất và Tì Xá Li, những ai có thể đoán trước được việc như các vị đó đều thực sự đều có năng lực quan sát sắc bén và thấu đáo! Đối với mọi việc, Lư Sư Tôn trước tiên sẽ hiểu rõ toàn cảnh logic, nguyên tắc đạo lý, nguyên nhân hệ quả, rồi mới thêm vào thiên văn địa lý, y học khoa học, chính trị văn hóa, quan sát nhân vật, biến động thời sự, hơn nữa còn có cả những cơ sở và chứng lượng Phật học thâm hậu và rộng lớn. Điều này khiến cho Sư Tôn luôn luôn không cần dùng đến sức mạnh thần thông cũng đã có thể phân tích, quyết định rất nhiều sự việc lớn nhỏ, nói đâu trúng đó, nói một lời là trúng tâm sự, lý giải được bức tranh toàn cảnh của sự việc.

Tuy nhiên, điều hiếm có và đáng quý trọng nhất, khiến tôi cực kì ngưỡng mộ là Sư Tôn luôn chân thành "tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã" [Câu nói của Khổng Tử, nghĩa là hiểu biết mà biết là mình hiểu biết, thì gọi là hiểu biết, không biết mà tự biết là mình không biết, thì như vậy cũng chính là hiểu biết.]

Pháp Vương có thể không xấu hổ ngần ngại mà học hỏi từ đệ tử bởi vì Sư Tôn nói thầy không ngừng học tập. "Tri thức vô bờ, sự học cũng vô biên." Những việc chưa hoàn toàn hiểu rõ, Sư Tôn vẫn luôn luôn thỉnh giáo các chuyên gia, tôn trọng chuyên môn nghiệp vụ của họ, hơn nữa Sư Tôn không bao giờ biểu hiện là mình dường như là người biết hết mọi thứ. Ngược lại, việc này khiến cho việc giúp đỡ lẫn nhau giữa các đồng môn càng thêm sâu sắc. Bước vào quần chúng, quan tâm đến chúng sinh luôn là tinh thần bền bỉ của Pháp Vương.

Ở bên cạnh Sư Tôn, điều tôi thấy được là thầy luôn làm việc nghĩa một cách chân thực, hết lòng, vui vẻ và tự tại, hoàn toàn không phải là thị hiện những điều kỳ dị để lừa mị chúng sinh nhằm mưu cầu cuộc sống. Người sư phụ như vậy cũng là một vị đại trí huệ chân chính, chúng ta cần noi gương, ngưỡng mộ, tôn kính. Người sư phụ như vậy cũng mới có thể dẫn dắt chúng ta đi trên con đường giải thoát vô thượng.

Lại lấy ví dụ hai chương sách "Pháp uyên thâm nhất là gì?" và "Dưới gốc cây bồ đề" để nói một chút về những gì tôi tâm đắc. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và các vị tổ sư đại đức các thế hệ trước đều nhấn mạnh rằng Mật pháp coi trọng "thứ tự".

Sư Tôn lại càng khẩn thiết khuyên răn, khai thị giảng giải những điều thiết yếu nhất, rằng Mật pháp nghiêm túc cần phải dựa theo nhân duyên cá nhân, căn khí và truyền thừa, cần chú ý đến những bước tiến và tâm yếu trong quá trình tu học của người đó, không được mơ hồ và lẫn lộn.

Quan niệm về thứ tự giúp chúng ta trên con đường học Phật có được những nguyên tắc có thể tuân thủ theo, và có được cảm ứng, ấn chứng mà chứng ta có thể dựa theo.

Ngoài ra, tôi thực sự học được rằng, thứ tự không phải là thứ được lấy ra để ganh đua với người khác hoặc để khoe mẽ. Phật Đà cho Sư Tôn tám câu chân ngôn, trong đó cũng có thứ tự, vẫn là cốt lõi chính xác của triết lý tu hành. Nếu tu pháp mà không tu tâm, không cải chính hành vi, thì đó cũng chỉ là luyện thép theo phương pháp truyền thống, xa rời chân đế. Có cao thì có thấp, có to thì có nhỏ, chúng ta học tập Phật pháp cần phải thực tế và nghiêm túc, trung thực thật thà, thì tự nhiên sẽ có công đức. Nếu vẫn có tâm ganh đua và khoe mẽ, tôi nghĩ thành quả của việc tu hành cũng sẽ chỉ rơi vào bên trong cái bẫy của thế giới nhị nguyên, tiếp tục tạo nghiệp, làm sao có thể thoát khỏi luân hồi?

Chương sách "Dưới gốc cây bồ đề" đã hé lộ những bí mật lớn nghìn năm về trải nghiệm thành Phật của Phật Đà, tuyệt diệu vô cùng! Trong bản văn có nói về nhân duyên thành Phật của Ngài, đặc biệt là 500 kiếp thực hiện hạnh Bồ Tát đã tích tập vô lượng phúc phần và công đức chính là duyên khởi quan trọng nhất để thành Phật. Quá trình thành đạo trải qua những khảo nghiệm quan trọng, ngài dựa vào sức mạnh thiền định to lớn để quan sát ngoại cảnh thối nát bên ngoài, đây là sự tu luyện nội tại cho đến khi hiển lộ chứng lượng.

Khi Ngài gặp ma quỷ vô hình đến để khảo nghiệm việc tu luyện của mình, Hộ pháp đã xuất hiện để bảo vệ, việc này chính là sự hiển lộ của sức mạnh ngoại tại tập trung lại cùng với sức mạnh công đức. Nội và ngoại kết hợp, thân người và vũ trụ tương ứng, trí huệ vượt trội và không còn sợ hãi, chính trí chính kiến hành đạo, cuối cùng Ngài đã chứng đắc được trí siêu việt của Pháp giới, rời bỏ tất cả bám chấp, tâm quang phát lộ, đạt thành tựu là bậc đạo sư vĩ đại của trời người, là đại viên mãn!

Tôi cho rằng cuộc đối thoại giữa Sư Tôn và Phật Thích Ca là một giáo thị và thiền cơ cực kì trân quý, là trực tâm nhất, là khúc ca không hề tâng bốc, là chính xác và toàn diện nhất, là chú ngữ kinh thiên động địa nhất, từng câu từng chữ đều là quang minh và trí huệ! Cuộc đối thoại này cũng dạy chúng ta thể ngộ được trí huệ tính không, thúc đẩy ta tinh tấn luyện tập.

Tôi nhận thấy ý chỉ tôn giáo của Phật Đà và tôn chỉ của Chân Phật Tông về căn bản là không sai không khác, đều là "minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử". Ngày nay Chân Phật Mật Pháp có truyền thừa thanh tịnh thực sự, có trình tự nghi quỹ hoàn chỉnh, cùng với việc thành Phật mà Phật Đà đã nói cần phải có nhân duyên chín muồi mới thành, tôi xin được hỏi không phải chúng ta cần kính sư, trọng pháp, thực tu ngay bây giờ thì còn chờ đến khi nào đây?

Đọc xong cuốn sách này, tôi có hai sự liên tưởng. Thứ nhất là tôi nghĩ đến bài khai kinh kệ được viết bởi Võ Hậu [Võ Tắc Thiên]: "Phật pháp rộng sâu rất nhiệm màu Trăm nghìn vạn kiếp khó tìm cầu Tôi nay nghe thấy xin trì tụng Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm sâu."

Thứ hai là tôi nghĩ đến chữ "Long" trong bài thơ Thanh Ngọc Án của Tân Khí Tật. [Nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc thời Nam Tống.]

"Đêm ấy gió xuân pháo hoa bay Lên cao rơi xuống mưa sao sáng Hương thơm khắp phố xe ngựa chạy Phụng tiêu thánh thót vọng đâu đây Bình ngọc xoay chuyển muôn tia sáng Cá rồng múa lượn suốt đêm vui. Mũ ngài lấp ló hàng tuyết liễu Phảng phất hương thơm tiếng nói cười Tìm người chốn đông còn chưa thấy Bất chợt ngoảnh đầu mới biết hay Người ấy vẫn còn ở nơi đó Bình yên bên ánh lửa đèn tàn."

Cuối cùng, cho phép tôi được dùng một câu nói để biểu đạt tâm đắc hoàn chỉnh của tôi: "Tôi nguyện không tiếp tục tìm kiếm nữa, từ bình minh đến tối khuya, cho dù phải qua nghìn sông vạn thủy, bằng mọi giá tôi hướng tâm mong chứng không tịch. Bụi bám tăng y, nâng bình đỡ bát, đi đứng ngồi nằm đều sẽ chẳng rời xa Thầy!"

45. "Ngôn ngữ đến từ Phật quốc"

Tâm đắc với "Chuyển hóa là khẩu quyết"

Pháp sư Liên Anh (tác giả)

Trong cuốn sách này [cuốn "Ngôn ngữ đến từ Phật Quốc" - văn tập số 249 của Sư Tôn], Sư Tôn có nhắc rất nhiều đến những điều cốt yếu và khẩu quyết liên quan đến việc tu hành, câu nào cũng là kinh điển, chương sách nào cũng là bảo bối, bởi vì những điều đó chính là những kinh nghiệm thực tu mà một vị thành tựu giả đã trải qua, hơn nữa đó còn là quá trình nhập thánh siêu phàm.

Từ "tâm linh thô ráp" chuyển hóa thành "tâm linh nhạy bén", từ "ý thức hỗn loạn" đến "ý thức quang minh", từ phàm phu chuyển hóa thành Phật, minh tâm kiến tính, đây là con đường không có lối quay về, cũng là một pháp môn duy nhất để giải thoát.

Từ sau khi tôi có những suy nghĩ và ý niệm đầu tiên về Phật giáo, tôi thường suy ngẫm về: xã hội ngày nay tồn tại bao nhiêu người mắc chứng trầm cảm và chứng bệnh tâm thần. Bỏ qua nhân quả và các bệnh do quỷ thần gây ra chưa bàn tới, cá nhân tôi cho rằng đại đa số các trường hợp mắc phải chứng bệnh trầm cảm đều là bởi vì hoàn cảnh xã hội, cuộc sống, gia đình, công việc, mối quan hệ giữa con người khiến họ bị nhiều chỉ trích, chịu đựng nhiều đau đớn, sau khi đột ngột gặp nhiều thay đổi, gặp nhiều thất bại, trải qua một khoảng thời gian không có cách nào thoát khỏi trạng thái cảm xúc tiêu cực đó, cuối cùng tích tụ lại mà thành bệnh.

Bình thường khi nghe có người nói: "Nghiệp không nặng thì không sinh vào cõi Ta Bà", không sai. Phật nói chúng sinh đến với thế giới Ta Bà chính là phải đến để trả nghiệp. Đáng tiếc rằng, ngũ trọc ác thế chính là đầy rẫy những điều khiến người ta không thể chịu nổi, đau khổ nhiều vượt xa vui sướng. Cái xã hội rộng lớn nói không hết đi không cùng này, dưới sự bện xoắn của những hoàn cảnh đơn lẻ và nhân quả sẽ sinh ra áp lực, nên dung hòa như thế nào đây? Đáp án chính là như Sư Tôn nói: "Chuyển hóa."

Trong "Diêu Trì Kim Mẫu định huệ giải thoát chân kinh" có một đoạn kinh văn nhắc đến: "Thành Tiên thành Phật từ người làm nên". Thế nhưng, cần làm thế nào? Kì thực nên bắt đầu từ việc thay đổi chính mình, bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt lặt vặt nhất, bắt đầu từ những quan niệm cụ thể chi tiết mà bản thân vốn dĩ khó ý thức thấy được, bắt đầu từ trạng thái vô minh, từ đó dung nhập trí huệ Phật chân chính vào cuộc sống, quán triệt những lời dạy vàng ngọc của Sư Tôn đối với thân tâm, đi vào thực tiễn, chính là một dạng chuyển hóa.

Người tu hành chân chính chắc chắn hiểu được sự chuyển hóa, nếu không thì tuyệt đối không được xem nhẹ việc tu hành của bản thân, bởi vì tu hành chính là tu tâm, tâm còn chưa tu tốt thì bằng mọi giá đừng xem nhẹ. Cũng không nên khua môi múa mép nói rằng mình đã tương ứng với chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên trong hư không rồi.

Thay đổi quan niệm nói thì dễ, trên thực tế để làm được lại rất khó, và cũng có các mức độ của nó. Sau khi tôi lắng nghe và cung kính đọc những khai thị và văn tập của Sư Tôn trong suốt thời gian dài, tôi phát hiện ra: thay đổi quan niệm chính là một quá trình "nhận biết vô ngã", "hoán đổi mình với người khác", "hiểu rằng thậm chí thân thể này của chính mình cũng là Không".

Nói cách khác, bởi vì sâu sắc thể hội được vô thường, vô ngã, vô tự tính thì mới có thể bước ra khỏi thế giới nhị nguyên đối lập, loại bỏ được "chấp ngã". Bởi vì trầm cảm, bi thương, buồn bã, mệt mỏi thường thường đều bởi "chấp ngã" mà sinh ra, bởi vì "tham", "sân", "si", "nghi", "mạn" mà sinh ra.

Nói một cách đơn giản, chính là đem những quan niệm Phật pháp đúng đắn vào trong nhu cầu cơ bản ăn, mặc, sống, đi lại, để trở nên phóng khoáng hơn, khách quan hơn, dịu dàng hơn, ôn hòa và rộng lượng hơn, nhìn sự việc tích cực hơn, từ đó không bị cái tôi nhỏ bé bó chặt. Hơn nữa, ngẫm nghĩ xem Phật nghĩ thế nào về sự tình, Bổn tôn nghĩ thế nào về sự tình, bằng cách đó tâm linh tự nhiên sẽ được "nâng cấp" lên, hướng về cảnh giới cao hơn. Tôi nghĩ đây chính là chuyển hóa, hơn nữa đây cũng là một dạng tu hành trên thực tế.

Thực tế ai ai cũng đều hiểu về sự "chuyển hóa", ví dụ như: khi gặp lúc xung đột, tâm tính bất thường, vô minh, thường thường người ta hay nói do họ mê muội, người trong cuộc thì mù quáng, người ngoài cuộc thì tinh tường, chúng ta đều chẳng có cách nào tự kéo mình ra khỏi trạng thái đó. Nhưng đợi đến khi sự việc qua rồi, có người thì cần ba giờ, ba ngày, hoặc ba tháng, bỗng nhiên sẽ cảm thán và suy nghĩ rằng: "Kì thực khi đó không cần phải như vậy", "có lẽ nên có thái độ khác", "hối hận về việc đã làm", kiểu tâm lý thay đổi như vậy.

Có thể thấy mỗi người chúng ta vốn dĩ đều có khả năng tự vấn lương tâm mình, cũng như biết dùng những góc độ khác nhau để xem xét sự tình mà không cần phải đến mức độ rối tung lẫn lộn, thậm chí là bị mắc chứng trầm cảm như vậy. Tuy nhiên, những ví dụ tôi nói đến ở trên không có liên quan gì đến Phật pháp. Nếu có tiếp xúc với Phật pháp trân quý thì cần hiểu được sự chuyển hóa lập tức, hoặc nỗ lực hướng đến sự chuyển hóa ngay lúc này, đem toàn bộ thời gian dành cho những âu sầu, bi thương, nghi hoặc, mê lầm, buồn chán, trầm cảm để đi làm những việc có ý nghĩa hơn như bố thí, hành thiện và tu hành, giống như trong câu kinh đã nói: "Một ngày qua đi, mệnh cũng ngắn lại, như cá thiếu nước, vậy còn vui gì, tuổi già ập đến, bệnh liền tới thân, xuân sắc suy tàn."

Kết luận là: bất kể có phải là người tu hành hay không đều cần học cách chuyển đổi suy nghĩ, chuyển hóa. Những lợi ích mà chuyển hóa mang lại là rất nhiều, nó làm cho tâm linh ta phong phú, có được tầm nhìn rộng mở, là một triết học ứng xử trong xã hội khéo léo và viên dung, giúp chúng ta tránh xa được bệnh trầm cảm. Người tu hành càng cần học kỹ năng chuyển hóa, nó vừa là phương tiện nhập thế, vừa là trí huệ xuất thế. Phật pháp không tách rời thế gian, tu hành, bắt đầu từ "mới mẻ", bắt đầu từ "tâm".

Cảm tạ những áng văn chương của Sư Tôn đã giúp chúng ta hiểu được sự thù thắng của "chuyển hóa", mở mang những tầng tư tưởng ở sâu bên trong mỗi chúng ta. Hoan nghênh mọi người cùng đọc thật nhiều văn tập của Sư Tôn, chắc chắn "mở sách ra là có lợi ích", pháp hỷ vô hạn.

46. Tâm đắc khi đọc văn tập số 269 "Trò chơi thần thông"

"Tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí"

Pháp sư Liên Anh (tác giả) - 10.1.2019

Trước tiên tôi mở đầu bằng một bài thơ của Sư Tôn: "Pháp thân vốn ở ngoài trời đất Tháp xá lợi xưa vẫn nơi đây Chỉ vì nhân gian sự nghiệp lớn Lưu luyến hóa thân làm tăng nhân."

Nếu muốn thử xem Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử hóa thân của A Di Đà Phật ở Tây phương Cực Lạc thế giới ở tại thế giới Ta Bà quảng độ trời người như thế nào, thì hãy đọc cuốn văn tập số 269 của Sư Tôn - cuốn "Trò chơi thần thông"!

Theo suy nghĩ kém cỏi của cá nhân tôi, hai chương đầu cuốn sách "Vũ điệu nghê thường của Hằng Nga" và "Đọc thuộc tâm kinh" chính là triết lý quan trọng nhất được truyền đạt trong cuốn sách này. Pháp vị vô tận trong đó khiến người ta không thể nào không suy ngẫm về những ý vị sâu sắc. Quá khứ có Chính Pháp Minh Như Lai, hiện tại có Quan Thế Âm Bồ Tát đã dùng phương pháp nhĩ căn viên thông, thông qua quá trình nghe, nghĩ, tu mà đạt đến giác ngộ cuối cùng. Đối với bên ngoài, Ngài không nương nhờ vào thanh sắc bụi trần, không chấp vào không-hữu, mọi suy nghĩ đều không xa rời việc nghe và nghĩ, dựa vào chính kiến viên mãn để nhập vào Tam ma địa chân thực, hơn nữa ở trong Tam ma địa, cởi bỏ nút thắt từ gốc, từ từ đi sâu vào nữa, nên gọi là chứng viên thông.

Thực chứng quả vị, sau khi lý giải được Sắc-Không không khác, Không-Hữu song vận thì mới dùng sức mạnh đại thần thông để làm các pháp với tất cả phương tiện thiện xảo để quảng độ chúng sinh. Cái này gọi là đại thần thông chân thực và vô lậu. Cũng bởi có lệnh cho Hằng Nga một hóa trăm, trăm hóa nghìn, trò chơi thần thông với điệu múa duyên dáng, việc này có thể thấy thần thông thanh tịnh không chút âu lo, vô lậu này hoàn toàn khác hẳn với quỷ thông của Quỷ Bà XX. Tôi nghĩ đây cũng là sự dạy bảo chân thành của Sư Tôn, cũng như chính tri chính kiến mà Sư Tôn truyền đạt cho đệ tử thông qua từng chữ từng lời bát nhã.

Ở đây, tôi hy vọng đồng môn ngoài việc nhúng mình trong từng câu chuyện kể dưới ngòi bút của Pháp Vương, những câu chuyện khiến người ta phải thốt lên kinh ngạc, mở to mắt sửng sốt, thì đừng quên mục đích chính và mong muốn gốc của Phật chính là giống như những lời khai thị và nhắc nhở của các vị Bồ Tát bằng đất sét nói đến trong sách, đó là dựa vào duy nhất Thất bồ đề phần, thực hành bát chính đạo, tám loại bố thí, xuất ly âm, bồ đề tâm, trung quán chính kiến, khi đó sẽ có thể đến được tám nơi thù thắng, thậm chí là tất cả mọi nơi, cho đến cuối cùng là nhập niết bàn mới là nơi quay về cuối cùng của các đệ tử Phật.

Các bài viết trong sách này rất nhiều, dưới đây tôi liệt kê ra một số phần đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất để chia sẻ với mọi người.

Mọi người có thể thấy rằng Sư Tôn đều ghi lại những nhân vật, sự kiện, thời gian, địa điểm, sự việc mà Sư Tôn đã gặp trong những bối cảnh không gian thời gian khác nhau, xem chúng như những kinh nghiệm độ chúng sinh vừa quý giá vừa thần kỳ. Tôi thể hội được rằng những điều này thực sự là "trò chơi thần thông".

Sao lại nói vậy? Giống như chương thứ hai "Thần tích của pháp đoạt xá", nói thẳng ra là trong Mật giáo có trăm nghìn loại pháp Yết ma có thể giúp đệ tử lấy lại tiền, ví dụ: trì tụng Cao Vương Kinh hoặc Chân Phật Kinh một nghìn biến, tụng chú Ma Lợi Chi Thiên Phật Mẫu để bắt buộc đối phương nghe lệnh trả tiền, đem theo phù đòi tiền, v.v… đều là những phương pháp có thể dùng được. Tuy nhiên Sư Tôn lại lựa chọn "đoạt xá pháp" đã được sử dụng bởi đại đa số các Hoạt Phật chuyển thế trước đây để xử lý việc này. Hơn nữa, pháp này chính xác là nói là làm, người làm pháp cần có được thành tựu với pháp Phowa (thì mới có thể xuất được dương thần), mới có thể đi tới đi lui ở trạng thái trung ấm, đã thực chứng được mộng tam muội (yoga giấc mộng), tôi nghĩ đây cũng đã là một duyên phận và kinh nghiệm vô cùng thù thắng rồi. [Phowa còn gọi là pháp dịch chuyển thần thức.]

Ở đây tôi thêm vào một câu chuyện nhỏ có liên quan tới lão tổ sư Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 đã khiến tôi ấn tượng sâu sắc. Bạch Ngọc Thu Trúc Rinpoche (Tarthang Choktrul Rinpoche) đã nói: "Năm 1961, bà của tôi mắc bệnh và qua đời trong trạng thái hôn mê, ông tôi đã chạy đi tìm Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16 để tu pháp Phowa. Khi đó, Đại Bảo Pháp Vương trầm tư một lúc rồi nói: "Ông quay về đi! Có lẽ bà nhà vẫn chưa chết đâu, tôi không tìm thấy linh hồn bà ấy ở đâu cả." Ông tôi nói: "Chắc chắn đã chết rồi, chết đã hơn một tiếng rưỡi rồi."

Đại Bảo Pháp Vương lại dừng lại một lúc, vẫn dứt khoát nói: "Chưa chết, nếu không phải vậy thì tôi cũng không biết. Tôi không có năng lực tìm được linh hồn của bà nhà, nếu không thì hẳn là bà ấy đã tức thân thành Phật rồi. Có ba loại linh hồn sẽ tìm không thấy. Thứ nhất là tức thân thành Phật, không có linh hồn, linh hồn mà không có thì tất cả đều kết thúc không có gì cả. Thứ hai là trực tiếp đọa xuống ngay địa ngục Kim cang. Thứ ba là chưa vãng sinh, sẽ không có linh hồn." Linh hồn phải tách rời khỏi thân xác thì mới được gọi là linh hồn, đây cũng là một kiến thức, dù sao thì Đại Bảo Pháp Vương cũng không tìm thấy.

Ông tôi chẳng còn cách nào khác, sau khi trở về nhà thì bà tôi đã tỉnh lại, thực sự là chưa chết, chỉ là bị xỉu đi mà thôi. Do vậy, người thực sự tu pháp Phowa phải đạt đến được cảnh giới này."

Điều tôi muốn nói là, đây chính là minh họa thực tế về sự thị hiện trò chơi thần thông của bậc đại thành tựu giả là Căn bản Thượng sư và lão tổ sư Đại Bảo Pháp Vương. Đối với bậc đại thành tựu giả thì miệng không nói lời sáo rỗng, các ngài luôn phát tâm bồ đề tuyệt đối để giúp đỡ chúng sinh cho dù có phải lao vào nước sâu lửa cháy.

Chương thứ tư "Đại Uy Đức phẫn nộ", tôi thấy được "hai không" và "ba cần".

"Hai không" là không thể có tâm hại người và không thể ngây thơ mà không đề phòng người khác. "Ba cần" là cần coi trọng tam bảo Phật - pháp - tăng, cần kính sư - trọng pháp - thực tu, cần sức mạnh của hành giả Mật giáo. Tuy nhiên "ba cần" này có sự liên kết chặt chẽ với nhau, gần gũi không thể tách rời, đây là một sự mở rộng trên phương diện logic, hơn nữa chúng càng là sự liên kết trên phương diện truyền thừa của Mật pháp.

Nói đến đây, tôi lại kể ra một chuyện nhỏ xảy ra với chính tôi để chứng minh những lời nói của Sư Tôn không hề có gì giả dối, bởi vì những chuyện thiên kỳ bách quái trên thế gian này ngày càng xuất hiện nhiều không dừng dứt, người nào chưa từng gặp phải thì sẽ cho rằng chúng chỉ là truyện kể "nghìn lẻ một đêm" thôi, thế nhưng việc Hộ pháp đấu nhau với Hộ pháp thực sự là có. Cũng chính bởi vì tôi đã trải qua rồi, tôi mới càng trân trọng truyền thừa Chân Phật. Tôi cũng càng hiểu hơn về tầm quan trọng và phương pháp tu pháp hộ thân, giống như trong chương văn Sư Tôn đã nói, cần "tu tập như pháp, không thể gián đoạn".

Còn nhớ năm xưa khi tôi học năm thứ ba ở trường trung học Gia Nghĩa, ngày nào tôi cũng bù đầu vào bài vở để chuẩn bị cho kì thì vào trường Đại học khoa trắc lượng. Tuy nhiên, quãng thời gian đó cũng lại chính là thời kỳ gia đình tôi trải qua nhiều đau khổ nhất. Ngoài việc Căn bản Thượng sư nói gia đình tôi từng chịu ảnh hưởng bởi Quỷ Bà XX ra, kì thực chúng tôi còn phải đối diện với việc bị các nhân vật thối nát không ngừng dùng ác thuật giáng đầu tấn công, tình trạng thê thảm khi bị tấn công từ hai phía. (Sự việc này, vào năm 2014 tại Chân Phật Mật Uyển đã được Sư Tôn chứng thực, chi tiết thế nào tôi không nhắc lại.)

Tối đó tôi trở về nhà, sau khi dùng bữa tối xong thì chuẩn bị đọc sách, đột nhiên tôi thấy trời đất quay cuồng, đứng không vững, chỉ cảm thấy chóng mặt buồn nôn, một cảm giác vô cùng khủng khiếp và ghê tởm xộc lên đầu. Theo kinh nghiệm trong thời gian đó, tôi lập tức làm "bia giáp hộ thân" để kết giới và quán tưởng như bình thường tôi vẫn hay làm. Tôi cầu nguyện sự bảo vệ và ngăn chặn của vị Hộ pháp gốc của tôi. Thật không ngờ là không hề có một chút cải thiện nào, khi tôi nín thở định thần thì trông thấy một vị Đại Hắc Thiên Mahakala màu đen với sáu cánh tay. Tuy nhiên, khi đó tôi vẫn chưa biết rằng có thể có Hộ pháp tà ác nên tôi còn chuẩn bị đảnh lễ vị đó. Nhanh như chớp không kịp trở tay, vị Đại Hắc Thiên hung mãnh đó nhổ một đám khói đen về phía tôi, lập tức đầu tôi đau như có một quả bom nổ tung trong đầu vậy. Hơn thế nữa, tôi còn mất đi toàn bộ niềm tin và sức mạnh.

Chính ngay lúc tôi cho rằng chẳng còn cứu vãn được gì và cũng chẳng thế phản ứng lại, tôi mơ hồ nhìn thấy một vị Quan Thế Âm Bồ Tát mặc đồ trắng, ngài nói: "Đối phương không có sức mạnh gia trì của dòng truyền thừa, con có sức mạnh gia trì của truyền thừa, con nên cầu nguyện Thượng sư trụ trên đỉnh đầu, niệm tụng Thượng sư tâm chú, chắc chắn hóa giải được." Lập tức tay tôi kết thủ ấn Liên Hoa Đồng Tử, niệm thâm tâm chú của Sư Tôn (khi đó toàn thân tôi không còn chút sức lực). Tôi trông thấy Quan Thế Âm Bồ Tát ngay lập tức biến hóa thành một vị Mahakala khác với sáu cánh tay, thân màu xanh đen còn to lớn và dũng mãnh hơn, miệng thét lên phẫn nộ, đột nhiên tôi cảm thấy sức mạnh toàn thân hồi phục. Hơn nữa, tôi còn cảm thấy từ đầu tới chân đều có cảm giác nóng rần rần. Thế là tay tôi kết thủ ấn Đại Hắc Thiên, có sức mạnh trì tụng Mahakala tâm chú vô số biến liên tục trong vài phút. Linh vật bất thiện kia cuối cùng đã tan đi như khói sương.

Sự việc này khiến tôi bị chấn động mạnh mẽ. Thứ nhất, tôi hiểu rằng hóa ra Hộ pháp chính hay tà phụ thuộc vào tâm niệm chính hay tà của người thực thi Phật pháp. (Tất nhiên hiện tượng này đáng kinh ngạc dị thường thậm chí vượt xa cả tưởng tượng của tôi, nhưng về sau khi được đọc trong sách Sư Tôn giải thích về khái niệm đó, thì cuối cùng tôi mới giải đáp được sự nghi hoặc của mình.)

Do vậy, nếu chỉ tu pháp thuật, không tu tâm tính thì sẽ rời xa chính đạo, mà e rằng còn rơi vào ma đạo. Ngoài ra, việc này càng chứng minh sự tồi tệ khi đánh mất dòng truyền thừa. Thứ hai, sức mạnh gia trì của truyền thừa vĩ đại và nhanh chóng như vậy, chỉ trong một sát-na khi tôi nghĩ đến việc niệm chú Căn bản Thượng sư, sự gia trì này đã phục hồi năng lượng tích cực cho tôi. Hơn thế nữa, trong một sát-na, có một vị Hộ pháp càng uy mãnh hơn hiển hiện, giải cứu sinh mệnh của tôi trong phút chốc. Điều càng hay hơn là tôi khi đó còn chưa có nhiều khái niệm sâu về Phật học. Sau sự việc này, tôi lên mạng tìm hiểu mới phát hiện ra hóa ra Mahakala chính là hóa thân phẫn nộ của Quan Thế Âm Bồ Tát. Việc này chứng minh việc tôi nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiển hiện là có cơ sở. Sau này tôi cũng gián tiếp nghe được rằng Hộ pháp mà các nhân vật bất chính kia đã dùng để đánh ông ngoại tôi cũng chính là Mahakala.

Tiếp sau đây, tôi muốn chia sẻ về bốn chương sách "Truyền kỳ về xá lợi tóc", "Phẫu thuật trong mơ", "Cỏ gọi hồn", và "Vợ chồng mười ba năm không có con". Sự thù thắng và hy hữu của xá lợi tóc không nằm ở việc tóc trên đầu mỗi người đều có thể được gọi là xá lợi tóc. Xá lợi tóc của Lư Sư Tôn nổi trội hẳn chính là vì Sư Tôn là một vị tức thân thành Phật, việc tu hành của ngài đã đạt đến được cảnh giới thực sự tương ứng không khác biệt về thân, khẩu, ý, khí, mạch, minh điểm với trí huệ Bổn tôn của hư không trung, ngài đã trở thành "thân đàn thành" [thân người chính là đàn thành] (Chương sách "Tín đồ tôn giáo khác quy y" có nhắc đến.) Linh quang của chư tôn có thể tự do đến đi, hoan hỷ tiếp nhận, an trụ phóng quang. Do vậy tôi xem xá lợi tóc của Căn bản Thượng sư là thứ hội tụ đầy đủ "linh lực", "sinh trưởng lực" và "gia trì lực". Nó tượng trưng cho mầm sống, bao hàm ý nghĩa về sự tái sinh của vạn vật trước ánh sáng bình minh. Do vậy khi nhân duyên chín muồi, nó sẽ tự sản sinh ra kỳ tích.

Trong bản văn có lấy ra ba ví dụ để chứng minh truyền kỳ về xá lợi tóc, tôi nhận thấy điểm quan trọng là: phương tiện thiện xảo của "pháp vô định pháp". Bởi vì, không có bất kì nghi quỹ nào hướng dẫn về việc sử dụng xá lợi tóc như thế nào, nhiều nhất thì cũng chỉ là hướng dẫn cho xá lợi tóc vào tháp xá lợi để thờ cúng hoặc dùng để cho vào bên trong tượng Phật. Thông thường, để được gọi là pháp thuật linh nghiệm cần có điều kiện: tâm thành tắc linh (người cầu nguyện), chư tôn phóng quang (sự gia trì), nghi thức chu toàn (làm nghi thức đúng như pháp). Chẳng ngờ rằng đồng môn tùy ý sử dụng, thế mà vẫn có thể đuổi ma, biến hóa (tái sinh), mọc tóc. Tôi nghĩ là bởi vì người trong câu chuyện đều là người thành tâm (hoàn toàn tin tưởng vào Lư Sư Tôn), bản thân xá lợi tóc đã là linh vật (vật có thể tỏa ra ánh sáng), nghi quỹ thì tùy theo thời gian, địa điểm mà tự sắp xếp. Tất cả đều dựa vào cái tâm, vạn pháp do tâm tạo nên, vô hình trung đã kết hợp lại thành những yếu tố tạo nên sự linh nghiệm của pháp thuật, bởi vậy đã tạo nên truyền kìỳvề xá lợi tóc như vậy.

Chương "Phẫu thuật trong mơ" và "Cỏ gọi hồn" càng khiến người ta kinh ngạc. Sư Tôn từng nói "Một giấc mơ, một pháp giới". Tôi nhận thấy điểm quan trọng là "Mật giáo chú trọng nguồn gốc", "vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" [đừng vì việc thiện nhỏ mà không làm, đừng vì việc ác nhỏ mà vi phạm] (giữ giới, bố thí gieo trồng ruộng phúc), "chứng nghiệm yoga giấc mộng". Người cứu người là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, người được cứu là người có nhân duyên. Bởi vì Lư Sư Tôn đã tu trì thành tựu yoga giấc mộng, do vậy có thể xuất nguyên thần, đi vào trong mơ, biết được giấc mơ, chuyển đổi giấc mơ, điều chỉnh giấc mơ, còn người được cứu thì có nhiều phúc đức, công đức, và thiện nhân duyên (nguồn gốc thiện, nhân duyên tiền kiếp), cứ thế cứ thế mà xuất hiện những kỳ tích này, thiếu một yếu tố cũng không thành được. (Phúc đức, công đức, và thiện duyên có được từ việc giữ năm giới và làm mười điều thiện.)

Phải thừa nhận rằng thần tích khiến người ta mê hoặc, thán phục, nhưng phía sau cũng có những đạo lý và điểm mấu chốt của nó. Chúng ta không thể chắc chắn kỳ tích liệu có xảy ra trên chính chúng ta không, chỉ có thực tu mới có thể cải thiện được vận mệnh.

Trong chương "Vợ chồng mười ba năm không có con", không biết các bạn có hiểu được câu chuyện này hay không, đó chính là vì sao Sư Mẫu Quan Âm không trực tiếp đi tìm hai vợ chồng người đệ tử làm nghĩa công tốt bụng đó, mà lại muốn Sư Tôn cầm túi da đi tìm hai người họ?

Việc này lại khiến tôi liên tưởng đến một câu chuyện khác. Có đệ tử Chân Phật Tông luôn lo sợ gặp phải kẻ trộm, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát biết được chuyện này (nguyên do là vì trong nhà của đệ tử này có thờ cúng Phật Mẫu Ma Lợi Chi Thiên). Thế là Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát bảo Lư Sư Tôn đi giúp đỡ đệ tử này tránh được nạn bị trộm. Một vị Quan Âm, một vị Phật Mẫu, tại sao hai vị đại Bồ Tát này lại không tự mình trực tiếp đi giúp đệ tử, mà lại nhất định muốn Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn giúp một tay? Tôi cho rằng đây là nhân duyên gần nhất, bởi vì trong các pháp yoga Sư Tôn nhắc đến: "Căn bản Thượng sư là hóa thân của tất cả thập phương tam thế chư Phật, Bồ Tát, Kim cang, Hộ pháp, Không hành, chư Thiên." Thêm nữa, sự gia trì của Lư Sư Tôn cũng là nguyên nhân chính cho việc tiêu trừ phiền não và nghiệp chướng của đệ tử. Tất cả đệ tử Chân Phật Tông khi đã quy y và mọi duyên phận với chư tôn đều đến từ Căn bản Thượng sư, đây gọi là truyền thừa, cũng là pháp nghĩa chân thực.

Lấy một ví dụ nhỏ, trong vai trò là thị giả, việc đầu tiên khi gặp Sư Tôn mỗi ngày chính là chúng tôi cần đảnh lễ Căn bản Thượng sư. Trong lúc đợi Sư Tôn, chúng tôi sẽ trì tụng Thượng sư tâm chú bảy biến (hoặc nhiều hơn), tiếp đó là trì chú của Bổn tôn, sau đó là chú của Hộ pháp, tiếp nữa là phụng thỉnh Hộ pháp, Không hành, chư Thiên theo bên mình (nếu thời gian cho phép thì chúng tôi đều niệm chú).

Tiếp theo, khi Sư Tôn bước ra khỏi thang máy, tôi sẽ quán tưởng Sư Tôn và Bổn tôn Hộ pháp của tôi và tất cả chư tôn hữu duyên, toàn bộ đều dung hợp trên thân Sư Tôn, một vị cũng tức là nhiều, nhiều vị cũng tức là một.

Lúc này, khi tôi đảnh lễ Sư Tôn, tôi hiểu rằng chính là mình đang đảnh lễ thập phương tam thế tất cả chư Phật Bồ Tát Kim cang Hộ pháp Không hành chư Thiên (trong ý niệm thì sẽ giống như đảnh lễ tất cả các Bổn tôn trí huệ và Hộ pháp Không hành đi theo phục vụ bên Căn bản Thượng sư). Tôi cúi đầu đảnh lễ với tất cả lòng thành của mình. Kì thực, xem Thầy như Phật, như Bổn tôn, như Hộ pháp, Không hành, chư Thiên là điều ta cần ý thức ở mọi lúc mọi nơi. Chỉ là tôi mượn việc mỗi buổi sáng sớm đảnh lễ Căn bản Thượng sư để từng chút từng chút một củng cố vững chắc lòng tin và đạo tâm của bản thân.

Cuối cùng, tôi kết thúc bài viết này bằng chương sách "Có người hỏi tôi chuyện thần thông", cũng như lấy một bài thơ hiện đại xem như cảm tưởng tâm đắc của bản thân. Đối với "thần thông", có người thì tò mò, có người thì đoán, có người thì bình luận, thậm chí có người thì phỉ báng, như vậy cũng không có gì lạ, bởi vì xưa nay vẫn vậy. Tuy nhiên, suy xét cẩn thận từ tình bạn giữa Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ đến Lư Sư Tôn trong hiện tại thì sẽ phát hiện ra phía sau thần thông có chân đế của nó.

Tôi cho rằng thần thông cũng giống như một môn học rất rộng lớn và vô hạn, nó còn vượt trội cả khoa học. Nó vừa giống như điện, lại giống như ánh sáng, vừa giống lửa lại vừa giống không khí, người bình thường không nhìn thấy cũng không thể chạm vào, nhưng lại khó có thể phủ nhận được sự tồn tại của nó.

Phật giáo nhấn mạnh vào tính logic, ví dụ như "Nhân minh" trong giáo lý Ngũ Minh chính là môn học logic. [Ngũ minh là năm môn học xưa của Ấn Độ, bao gồm Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh, Nội minh. Nhân minh là thuyết minh về lý lẽ chính, tà, thật, giả.] Ngoài ra, Thánh Tôn còn nhắc đến "Thánh ngôn lượng", "Bỉ lượng", và cả "Chứng lượng", những điều này có thể khảo nghiệm được. Thông qua việc tu học chính pháp mà nâng cao sức mạnh tâm linh, phá bỏ chướng ngại của sáu thức, thần thông sẽ "tự nhiên hiển hiện". Ở đây quan trọng là hai chữ "tự nhiên", thần thông không phải tìm kiếm mà sẽ tới.

Nếu như vận dụng thần thông đúng đắn thì sức mạnh tâm linh cộng với trí huệ sẽ trở thành đôi cánh để độ chúng sinh. "Tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí" [trước tiên lôi kéo con người bằng những dục vọng của họ, sau đó dẫn nhập vào trí huệ Phật] mới là trò chơi thần thông vĩ đại nhất. Do vậy tôi cho rằng đệ tử Phật nên có nhãn quang và tâm cảnh đúng đắn để xem xét, ngẫm nghĩ về những đạo lý phía sau. "Pháp môn vô biên thề nguyện học, chúng sinh vô biên thề nguyện độ."

Tôi viết bài thơ ghi lại cảm tưởng như sau:

"Thiên linh linh, địa linh linh Kể bao chuyện kỳ quái khiến bạn và tôi cảm thán Giống như bộ phim "thần quỷ truyền kỳ" Biến hóa, phi không, nhập mộng, trị bệnh Đều là phương tiện thiện xảo Là trò chơi thần thông của Phật mà thôi. Muôn thần tích như hoa đêm chợt nở Phải chăng ánh sáng quang minh rực rỡ Khiến bạn, khiến tôi cảm động đến rơi lệ Hoa mắt sững sờ! Nhưng Phật dạy rồi Vẫn cần chăm chỉ tu hành thật sự Bởi cuối cùng, vốn dĩ Bên ngoài gió mưa thì ta vẫn là ta. Đạo lý phi hữu phi không thâm sâu ảo diệu có ẩn ý "Đọc thuộc Tâm Kinh" sớm đã chỉ ra Thượng sư tương ứng, Tứ gia hành Mật pháp thứ tự vẫn là điều cốt yếu. Nhưng chỉ cần Bổn tôn hòa nhập với tâm ta Đi đứng ngồi nằm đều có gia trì lực Vậy bạn nói xem có phải thần kỳ chăng? Không mong cầu phi thiên độn thổ Giải thoát luân hồi mới chính là chân lý Trân trọng thời gian khi còn được gặp Phật Trên bồ đề đạo đừng nảy sinh thành kiến Bảo nhậm thanh tịnh đồng tử tâm Thiên hà thắng cảnh là thành tựu Đợi bạn và tôi cùng nắm tay quay về."

47. Ô nhiễm không khí và huệ mệnh

Pháp sư Liên Anh (tác giả) - 18/3/2019

Tôi tin rằng các đệ tử Phật giáo đều không còn xa lạ gì với điển cố kể về khi xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni sau sáu năm khổ hạnh ở núi Tuyết đã ngộ ra rằng "khổ hạnh là phi đạo". Sự giáo thị của chính Đức Phật đã khiến cho các đệ tử hiểu được khổ hạnh chỉ chú trọng vào biểu hiện bên ngoài của cơ thể vật lý, sự thanh tịnh của tâm mới là điều quan trọng, vượt lên trên sự bám chấp vào thân thể xương thịt này, mở rộng tâm linh mới là con đường giải thoát. Cũng như trong Mật giáo lại càng chú trọng hơn đến "huệ mệnh song tu", đối với việc tu hành Nội pháp về khí, mạch, minh điểm của thân thể hành giả đều có môn đạo và thứ tự đặc thù. Đây là một pháp môn vô cùng thâm sâu ảo diệu, hành giả Mật giáo cũng xem khí, mạch, minh điểm như Tam Bảo Phật - pháp - tăng chân chính.

Pháp tu trì khí - mạch - minh điểm có thể khiến hành giả chứng đắc được mức độ thành tựu cao nhất là tức thân thành Phật, hóa thân cầu vồng (Sắc-Không điều hòa), sau đó là có thể tự mình gặp được Bổn tôn và quyết định được việc vãng sinh, thậm chí là chứng đắc Báo thân. Hơn nữa còn giúp cho tinh khí thần đầy ắp, thân thể kiện toàn, khí huyết lưu thông.

Hơn nữa, đệ tử Chân Phật Tông càng có may mắn là được chứng kiến Sư Tôn của chúng ta, mặc dù nay đã ở vào tuổi ngoài bảy mươi, nhưng mỗi ngày ngài đều chống đẩy 200 cái. Thứ bảy hàng tuần tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, ngài vẫn chủ trì đại pháp hội Hộ Ma với cả vạn người tham dự, đích thân quán đảnh cho chúng sinh. Sau bữa cơm tối ngài còn sờ đầu lần lượt từng người một (mỗi lần như vậy thông thường đều mất một tới hai giờ đồng hồ).

Đó là còn chưa kể Sư Tôn thường xuyên bận rộn và vất vả đi lại giữa các địa điểm hoằng pháp giúp lợi ích chúng sinh theo lời mời của các đạo tràng Chân Phật Tông trên khắp thế giới ở châu Á, châu Âu, châu Úc và châu Mỹ. Điều này thể hiện rằng, Sư Tôn của chúng ta không chỉ thực tu thực chứng, đã viên mãn Ngoại pháp, Nội pháp (Cửu tiết Phật phong, Bảo bình khí, Kim cang quyền pháp), Mật pháp, Mật mật pháp, là một bậc đại thành tựu giả huệ mệnh song tu, là bậc tôn giả vô lậu chân chính, mà hơn nữa ngài còn là bậc Đại Trì Minh Kim Cang Acharya chứng đắc ngũ thân cụ túc (đại lạc trí huệ, tự tính, pháp thân, báo thân, ứng thân).

Tuy nhiên, năm nay dự đoán là hòn đảo ngọc Đài Loan cũng gặp nhiều biến đổi. Bầu trời nửa phía Tây của Đài Loan cũng giống như tâm trạng lo lắng, sợ hãi và bất lực của chúng ta, đã nhuộm một lớp màn dày màu xám của khói bụi không thể loại bỏ được. Tôi còn nhớ ngày trước khi học về khoa học đời sống, thầy giáo luôn lặp đi lặp lại rằng ánh nắng, không khí, nước là ba nguyên tố chính không thể thiếu được của cuộc sống. Trước năm 25 tuổi, tôi còn chẳng hề tin lắm vào lý thuyết này…

Vùng đất Đài Loan nằm ở ranh giới giữa khu vực khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới. Đường hạ chí tuyến chạy ngang qua quê tôi ở Gia Nghĩa, Cao Hùng và Hoa Liên ở phía Đông. Phía Nam của đường hạ chí tuyến thuộc về khí hậu nhiệt đới gió mùa, phía Bắc thì thuộc về khí hậu cận nhiệt đới gió mùa. Nhìn chung nhiệt độ toàn bộ Đài Loan khá cao, nhiều nắng, nền nhiệt độ trung bình cả năm là khoảng 22 độ C, điều kiện lợi thế vốn có này giúp cho nông nghiệp, công nghiệp cây ăn trái của Đài Loan phát triển rực rỡ, danh tiếng vang lừng thế giới.

Còn nữa, lượng mưa trung bình hàng năm của Đài Loan là khoảng 2500mm, so với lượng mưa trung bình toàn cầu thì nhiều hơn gấp 2,6 lần, tương đương với các quốc gia có lượng mưa phong phú. Nhưng bởi vì các nhân tố như đất hẹp người đông, núi cao vực sâu, cũng như có nhiều cơn bão lớn, nên không có cách nào lợi dụng được toàn bộ hiệu quả của lượng mưa lớn, do vậy đồng thời cũng có những lo lắng ngầm về nguy cơ thiếu nước tiềm ẩn.

Nhưng nói về chất lượng nước thì nước máy của Đài Loan nhìn chung đạt tiêu chuẩn, thực tế là không hề thua kém các nước tiên tiến như châu Âu, Mỹ, Nhật. Theo số liệu thống kê về nước sạch của Đài Loan, kết quả kiểm nghiệm nước sạch trong 5 năm trở lại đây đều đạt tiêu chuẩn trên 99,94% (chắc chắn xếp hạng top 5 thế giới). Do vậy người dân sống tại Đài Loan nên cảm thấy vui mừng và tự hào về điều này.

Cuối cùng, nhắc đến không khí thì không thể khiến người ta nén nổi tiếng thở dài. Khi còn nhỏ tôi sống ở ngoại ô Gia Nghĩa, mặc dù cuộc sống có đôi chút thiếu thốn, nhưng trong vùng có một vườn mít rất rộng lớn, nó chẳng khác gì tiên cảnh chốn nhân gian. Đối với tôi mà nói nó chính là đào hoa viên. Những buổi chiều cuối tuần tôi cùng cha mẹ chơi đánh cầu lông ở quảng trường công cộng. Quả cầu lông bay một đường parabol trên không trung rồi rơi xuống giống như sắp chạm vào mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống, trong không khí phảng phất mùi hương hoa nhài và hương thơm đặc biệt từ vườn cây mít. Nhưng tôi khi đó sống trong hạnh phúc mà chẳng biết mình may mắn, đến nay tôi mới biết trân trọng và hoài niệm về hương vị đẹp đẽ, tinh khiết và trong lành của quê hương, hương vị đến từ tự nhiên bao la, đó là hơi thở của trái đất rộng lớn này.

Sau khi tôi đảm nhận vai trò thị giả thì chuyển tới Đài Trung. Sư Tôn, Sư Mẫu và mấy người thị giả chúng tôi đều không dám há miệng để hít không khí, không dám ra ngoài vận động, đôi khi phải miễn cưỡng đeo khẩu trang dù chẳng dễ dàng hít thở chút nào. Mỗi ngày khi đón tiễn Sư Tôn, sau khi lên xe, việc đầu tiên Sư Tôn thường quan tâm hỏi là: "Hôm nay chất lượng không khí thế nào rồi?" Điều đáng buồn là chỉ số ô nhiễm không khí luôn luôn không là màu cam thì là màu vàng, thậm chí có lúc còn vượt quá giới hạn màu đỏ (tương đương với tình trạng khí độc). Càng bất thường hơn là có vài lần trên đường lái xe đến Đài Loan Lôi Tạng Tự, trên đường cao tốc số 74, chúng tôi đưa mắt nhìn ra phía xa nhưng còn chẳng thể trông thấy nổi tòa nhà phức hợp bảy tầng ở gần đó, không thể trông thấy trùng điệp những dải núi phủ cây xanh, khói bụi đã che phủ cả thành phố, tôi thậm chí còn khó phân biệt được biển chỉ đường, nhưng khi kiểm tra biểu đồ không khí thì không ngờ chỉ là màu cam. Tiêu chuẩn đo lường cảnh báo như vậy, bạn có an tâm không? Bạn có tin được không?

Hơn nữa, tin tức trên truyền hình, báo cáo trên báo chí truyền thông mỗi ngày đều là những tin gây sốc, không phải chuyện nam thanh niên chạy bộ nhiều năm ở trường học bỗng nhiên chết vì mắc bệnh ung thư phổi thì lại là chính sách "Nam điện Bắc tống" khiến dân cư ở Đài Trung nổi dậy phản đối, v.v… [Chính sách tập trung sản xuất điện ở khu vực phía Nam rồi truyền tải điện lên phía Bắc, chấp nhận người dân ở Nam bộ chịu ô nhiễm không khí để đổi lấy sự phát triển kinh tế ở Bắc bộ.]

Giáo sư kiêm viện trưởng học viện đại học Y Dược Lâm Hương Vấn - Trung Quốc còn báo cáo với Sư Tôn rằng, bởi vì ảnh hưởng của không khí ô nhiễm mà các chứng bệnh cần chữa trị bằng y học như bệnh ung thư phổi, hen suyễn, ung thư tuyến phổi đã tăng lên gấp đôi!

Những tin tức này đều cùng có sự liên quan to lớn đến các chính sách thúc đẩy quốc gia phi hạt nhân và khởi động nhiệt điện, tiêu chuẩn đời sống của người dân đã xuống mức rất thấp. An cư lạc nghiệp, an thân lập mệnh, tám chữ này thực sự đã trở thành nỗi khát khao mạnh mẽ, thậm chí trở thành một niềm hy vọng xa xỉ.

Tin tức thực sự không có gì đáng sợ, đáng sợ nhất là thói quen của người dân đối với trạng thái cuộc sống này, nhưng họ cũng chẳng có khả năng phản kháng. Tin tức trở thành những câu chuyện cũ trôi qua theo thời gian, cuối cùng cũng chẳng còn ai biết đến, cứ thế mà bị bỏ qua. Không chỉ tin tức chẳng phát huy được tác dụng gì, mà đây còn là một vấn đề nghiêm trọng và đau thương cực kì lớn. Chúng ta không nên sống giống như con ếch bị nấu chín (hy sinh thân mình) trong nước sôi (không khí ô nhiễm). Chúng ta cần có ý thức tự chủ và ý thức về nguy cơ, bởi vì không khí ô nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh mệnh của chúng ta.

Đối với vấn đề ô nhiễm không khí, tôi nghĩ các đồng môn Chân Phật đều rất đồng cảm, bởi vì Sư Tôn ở trên pháp tọa từng một lần tuyên bố rằng, nếu như trong vòng một tháng, tình trạng ô nhiễm không khí không cải thiện, Sư Tôn và Sư Mẫu sẽ quay trở về Seattle sớm hơn dự định. Quyết định này khiến cho các đệ tử trong lòng nhấp nhổm, mặt mày lo âu, nhưng cũng chẳng biết cần phải làm gì, tay chân xụi lơ.

Mặc dù cuối cùng Sư Tôn và Sư Mẫu vẫn ở lại thêm, nhưng đó là vì các ngài từ bi, thương xót không nỡ rời bỏ các đệ tử nhiệt tình và kiền thành ở Đài Loan và các nước Đông Nam Á, còn vấn đề ô nhiễm không khí thì vẫn chẳng có chút gì cải thiện. Do vậy những người là đệ tử chúng ta không nên lơ là cảnh giác, cũng không nên làm những việc vô nghĩa. Để hưởng ứng phần đã nói ở trên, Đài Loan xinh đẹp dù là đất nước nhỏ, nhưng một Đài Loan được thiên nhiên ưu đãi có thừa đủ ánh sáng mặt trời và nước sạch, vì sao có thể đánh mất một yếu tố là không khí trong sạch đây?

Tôi còn nhớ đã đọc một câu chuyện lịch sử mà ai nấy đều biết. Đường Thái Tông nói với thị thần: "Ngươi lấy đồng làm gương soi, có thể chỉnh sửa trang phục, lấy chuyện xưa làm gương soi, có thể nâng cao hiểu biết, lấy người khác làm gương soi, có thể thấy rõ được mất. Trẫm thường gìn giữ ba tấm gương này phòng khi cần tránh phạm sai lầm. Nay Ngụy Chinh đã qua đời, vậy là đã mất đi một tấm gương rồi!"

Đường Thái Tông tại vị 23 năm, những thành tựu xuất sắc của ông nhận được sự kính trọng của người đời nhiều thế hệ sau. Rốt cục, mặc dù có nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn không thể tách rời ông với tư tưởng "gìn giữ ba tấm gương, phòng khi cần dùng đến". Việc "thường giữ ba tấm gương" này khiến ông có thể giữ được tư tưởng phóng khoáng rộng mở, có tầm nhìn chính trị rõ ràng, cái nhìn bao dung và các quyết sách cẩn mật mà vẫn chính xác, điều này mới tạo nên một thời kỳ hưng thịnh của "Trinh Quán chi trị" [tên gọi khác của triều đại Đường Thái Tông, Trinh Quán là niên hiệu của ông]. Hy vọng chính phủ của chúng ta có thể quan tâm lắng nghe nỗi lòng của người dân, nhân dân chính là một tấm tương soi trân quý và chân thực đó!

48. Liên Hoa Đại Bàng gửi thư cho Lư Sư Tôn

Nhất tâm kiền thành đảnh lễ Căn bản truyền thừa Thượng sư Thánh tôn Liên Sinh Hoạt Phật!

Đệ tử và gia đình đã kết thúc chuyến hành hương kéo dài 10 ngày đến đến Đài Loan để thỉnh kinh, giờ đây chúng con đang ngồi trên chuyến bay trở về Thụy Điển. Nhìn ra bầu trời rộng lớn mênh mang toàn một màu mây trắng bên ngoài cửa sổ, con hồi tưởng lại giọng nói và nụ cười của Sư Phật khi thầy tận tâm giảng pháp, tấm lòng cảm kích vô hạn từ lâu đã dấy lên trong lòng con chẳng có cách nào an tịnh được. Bởi vậy con đặc biệt cầm bút viết thư cho Sư Phật để bày tỏ tâm tình của đệ tử lúc này cho thầy được hay.

Con ngồi an nhiên tại chỗ ngồi trong khoang máy bay, xung quanh vô cùng yên tĩnh. Máy bay dường như đứng im tại chỗ không chuyển động, thế nhưng tốc độ bay lúc này cũng đang là 900km/h. Tạm thời con chẳng còn bất kì can hệ gì với thế giới dưới mặt đất, giống như Sư Phật từng so sánh, trên mặt trăng có thiện ác không? Như con bây giờ đang ở trên không trung nơi độ cao trên 1.500m nhìn xuống chúng sinh dưới mặt đất, ai sẽ quan tâm lo lắng cho họ đây? Nếu như con cứ như vầy mà rời khỏi thế gian, vậy thì con vẫn sẽ lo lắng cho thế giới này được không? Vẫn sẽ phiền não vì lựa chọn được mất cá nhân được không?

Sinh mệnh thật nhỏ bé, nhưng vì cái tôi tự tính mà sinh mệnh trở nên to lớn không gì so sánh bằng, tâm có thể an trụ trên độ cao ngay tại lúc này không? Sư Phật dạy chúng con cuộc đời là vô thường, là khổ, là hư không, là vô ngã, làm sao để chứng ngộ.

Lần này đến Đài Loan tham gia đại pháp hội mùa xuân, đại pháp hội thủy cúng Long Thụ Bồ Tát, và đại pháp hội Hộ Ma Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu do Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật chủ trì, đồng thời con cũng tham gia lớp nghiên cứu và học tập do các nhân viên hoằng pháp của Tông Ủy Hội tổ chức, con đã học được rất nhiều.

Trong đại pháp hội mùa xuân, Sư Phật đã truyền thụ đại pháp Mã Cát Lạp Tôn, hướng dẫn các đệ tử tu pháp bố thí, tu pháp xả thân, dung nhập vào trong ánh sáng thanh tịnh căn bản. Vậy thì cái gì là bố thí chân chính đây? Đệ tử nghĩ rằng "buông bỏ" chính là bố thí từ bên trong, tất cả đều buông bỏ, xả bỏ tất cả những tạp niệm vọng tưởng trong tâm trí, đây là nguyên tắc lớn của tu pháp. Càng rộng hơn nữa là, tất cả mọi suy nghĩ đều dành để xem xét các sai lầm của chính mình, từ bỏ tất cả mọi tâm tính bất hảo, không còn khởi tâm động niệm dù chỉ một chút lỗi lầm, loại trừ hết mọi bám chấp vào cái tôi.

Trong khi tu pháp, quán tưởng thân thể bị xả ra làm nhiều mảnh và bị thiêu cháy hoàn toàn để bố thí, hóa thành cam lộ màu đỏ, màu trắng để cúng dường lục phàm tứ thánh của thập pháp giới và oan thân trái chủ nhiều kiếp, khiến họ được hoan hỷ. Sư Tôn truyền dạy pháp này là để cho các đệ tử chuyên tâm dùng pháp này vào việc hiểu về nhân sinh, cũng như các loại biến hóa về thân tâm. Mặc dù chúng ta học Phật pháp đã lâu như vậy rồi, nhưng khi tu pháp, khi ngồi thiền thì tinh thần chẳng có cách nào tập trung được, hơn nữa cũng không nỗ lực kết hợp đạo lý của Phật học vào việc tu pháp.

Trong pháp hội Long Thụ Bồ Tát và các hoạt động nghiên cứu học tập, Sư Tôn luôn lặp đi lặp lại lời cảnh báo đệ tử phương pháp tu tập "Trung quán", chỉ - quán song vận là chân lý tuyệt đối. Đối với pháp Duyên khởi, không những cần thấy được cái vô tự tính (tính Không), mà còn cần thấy được giả thiết (giả Hữu). Bởi vì vô tự tính mới là giả thiết, bởi vì giả thiết mới là không. Cần thấy được pháp Duyên khởi như vậy thì mới không chấp Hữu (cái thực có), cũng không chấp Không (cái Không hư vô). Phật hay ma là như nhau, thánh hay tục là như nhau, không hay có là như nhau, khổ hay vui là như nhau, sống hay chết là như nhau. Bởi vì con vẫn chưa ngộ ra được bản thể nên không có cách nào hiểu được lý luận của Trung quán.

Nếu như đệ tử có thể ngộ ra được bồ đề chính giác, cắt bỏ được những vô minh tự thân trên thân thể này đi, thì thứ còn lại chính là Phật tính. Trung quán chính kiến chính là không rơi vào lưỡng biên, không lạc lối, nhờ vào tất cả mọi pháp, tướng để đưa tâm tính lên đến điểm cao nhất để quan sát sự biến hóa của vạn sự vạn vật thế gian, không nghiêng về Không cũng không nghiêng về Hữu, tỉnh táo trong giấc mộng trò chơi cuộc sống này, đó là Trung quán.

Trong cuộc gặp gỡ kéo dài hai ngày của các pháp sư, giảng sư, trợ giảng, Tông Ủy Hội đặc biệt cảnh báo các nhân viên hoằng pháp cần chú trọng tư tưởng của truyền thừa, nhấn mạnh sự quan trọng của giới luật, cần đọc về giới.

Ta mỗi ngày tự xét bản thân mình về ba điều, bản thân đã phạm giới thì cần sám hối từng việc một, hy vọng không tái phạm nữa. Hành vi của hành giả đều phải hợp với pháp luật, mọi suy nghĩ đều ở đây. Nhìn rõ tư tưởng, suy nghĩ của bản thân, chỉ có thể nghĩ đến những điều thiện, không sinh ra những ác niệm, phát tứ vô lượng tâm.

Các đệ tử nếu như có bất kì tiến bộ nào đều là nhờ vào lực gia trì của Căn bản Thượng sư, truyền thừa là quan trọng nhất. Căn bản Thượng sư là chỗ dựa cho sự thành tựu của chúng ta, là duy nhất. Luôn nghĩ về Sư Phật, các đệ tử mới có thể tiếp nhận được dòng chảy pháp chân thực phủ xuống, có được sự gia trì của Căn bản Thượng sư để mà thành tựu.

Đệ tử nghĩ rằng, "kính sư" là luôn luôn tâm niệm cần ngưỡng mộ, đi theo, tin tưởng và noi theo những thành tựu của Sư Phật, dùng những lời dạy của Sư Phật để nhắc nhở bản thân mình.

"Trọng pháp" là hợp nhất, hợp nhất giữa giáo pháp mà Sư Phật truyền dạy với sự hành trì của đệ tử, ngoài ra kết hợp "vô thường, khổ, không, vô ngã, thập nhị nhân duyên, chư hành vô thường, là pháp sinh diệt, sinh diệt đã hết, tịch diệt là vui" để vận dụng vào cuộc sống, hiểu được, đưa vào thực tiễn, tu và chứng kết hợp lại. Khổng Tử đã nói "cùng lý, tận tính, dĩ chi mệnh" [xét đến cùng về lý, hiểu tường tận về tính, cho đến tận cùng là mệnh] chính là ứng dụng Phật học lên chính thân tâm, đây chính là trọng pháp.

"Thực tu" là việc tu trì chân chính cần có sự soi xét bản thân một cách trung thực, danh và lợi không dễ gì loại bỏ. Mặc dù chúng ta đang sống trong thời kỳ mạt pháp, nhưng thật may mắn lại sống cùng thời với đại thành tựu giả Liên Sinh Thánh Tôn, người đã trở thành vị đạo sư của chúng ta. Chân lý là vĩnh viễn không thay đổi, vậy thì cần xem chúng ta có phải là pháp khí đang tiếp nhận pháp nhũ hay không? [Pháp nhũ là dòng sữa pháp, ẩn dụ cho giáo lý của bậc đạo sư.]

Nếu là pháp khí đúng, thì tâm sẽ không đặt bên ngoài mà sẽ nhanh chóng tập trung tu trì pháp mà Sư Phật đã truyền dạy, bắt đầu tu trì từ cơ bản với Tứ gia hành, Bách tự minh chú, Thượng sư tương ứng pháp, tu pháp sám hối, kết hợp với điều khí để nhập thiền định. Đồng thời, nhất định cần phải đọc khối lượng văn tập khổng lồ của Sư Tôn, thâm nhập vào kinh tạng để hiểu rõ Như Lai thực tướng.

Phật nói: "Tất cả chúng sinh, đều là ta cả. Chìm trong lạc thế, chẳng có huệ tâm. Tam giới không yên, khác gì nhà cháy." Phật yêu tất cả chúng sinh, cũng giống như yêu chính đứa con của mình vậy. Tất cả chúng sinh tham thú vào sự ngắn ngủi tạm thời của thế gian này mà không biết đến niềm hạnh phúc chân thực, vậy là không có trí huệ. Bởi con người sống trong tam giới, không khác gì bị đau khổ giày vò bên trong ngôi nhà bốc cháy, từng ngày, từng giờ, từng giây đều phải chịu đau khổ.

Tấm lòng yêu thương đệ tử của Sư Phật chưa bao giờ thay đổi, ngài dùng mọi loại phương pháp để đánh thức những đứa con đang chìm sâu trong giấc ngủ, nguyện cứu chúng sinh thoát khỏi ngôi nhà cháy. Các đệ tử của Sư Phật cần kiên tâm thỉnh Phật trụ thế, thỉnh Phật trụ thế, thỉnh Phật trụ thế. Tu tập để hiểu được phương pháp thoát khỏi sinh tử, quay về tịnh độ Ma Ha Song Liên Trì.

"Tinh chân diệu minh, bản giác viên tịnh", giác trong "bản giác" không phải là một thức gì đó khác được thêm vào, mà là thứ mà vốn dĩ ta đã có, thứ này vốn dĩ là thanh tịnh. "Trung quán" là không tách rời khỏi sinh tử, không phải là không có sinh tử, sinh là có, tử cũng là có, chỉ là sinh tử vô hại, không giữ lại ta cũng không cản trở ta, không bẩn không sạch, không có quan hệ gì.

Nhớ tú tài Trương Chuyết năm xưa đã ngộ ra rằng "Niết bàn sinh tử đẳng không hoa" (*) Không chỉ có sinh tử giống như hoa không khí, mà cả niết bàn cũng giống như hoa hư không [không tồn tại]. Nếu ta nhận thấy niết bàn là một thứ gì đó, thì niết bàn chính là sinh tử. Sinh tử vốn dĩ là hư huyễn, sinh tử chính là niết bàn. Hóa ra thân này của ta cũng tức là đạo tràng. Tất cả thực tướng chung mà thế giới này có đều nằm trong quá trình sinh diệt, biến hóa không ngừng. Trước khi biến đổi và sau khi biến đổi, thậm chí trong quá trình biến động, vốn dĩ chính là nằm trong niết bàn, vốn dĩ chính là tịch diệt, là thanh tịnh.

Lần này hành hương về Đài Loan được nghe Sư Phật bằng diệu âm khai thị, được quán đảnh đề hồ [“đề hồ” nghĩa gốc là kem phô-mai, một loại thực phẩm được tinh chế cao cấp, bổ dưỡng, câu này là một ẩn dụ nói về việc được nghe và quán đảnh những trí tuệ tinh hoa của Phật pháp], pháp hỷ tràn đầy. Buổi tối trong pháp hội ngày thứ bảy trước ngày con rời khỏi Đài Loan, đệ tử đã thỉnh cầu và may mắn được Sư Tôn từ bi gia trì quán đảnh trì chú Đại Luân Kim Cang, cho phép con ở đâu cũng có thể cùng nhập vào tất cả mandala. Lúc nhận quán đảnh, đệ tử cảm nhận được Thầy đã triệu thỉnh Đại Luân Kim Cang đến gia trì, dòng chảy pháp tràn ngập khắp toàn thân, cảm thấy từ đầu tới chân đều có khí lực mạnh mẽ, cảm nhận này từ trước tới nay con chưa từng có. Sự ưu ái và hy vọng của Sư Phật đối với đệ tử, đệ tử cảm tạ khôn xiết. Đệ tử đem theo sức mạnh này trở về nước, nhất định cần tu trì tinh tấn hơn nữa, để mọi sự được viên thông, có được đại pháp hỷ.

Một lần nữa cảm ơn Sư Phật, đệ tử nguyện chúc Sư Phật Phật thể an khang, trường thọ tự tại, thường trụ thế gian, pháp luân thường chuyển, quảng độ chúng sinh. Kiền thành đảnh lễ Sư Phật.

Đệ tử Liên Hoa Đại Bàng từ Thụy Điển.

Ngày 3 tháng 5 năm 2019.

(*) Câu cuối cùng trong bài kệ cho chính Trương Chuyết làm nói về "thứ" mà anh đã ngộ ra sau khi gặp sư Thạch Sương (806-888). Mời quý vị xem thêm bài kệ đầy đủ, bản dịch của trang thuongchieu.net như sau:

Quang minh lặng chiếu khắp hà sa Phàm thánh hàm linh vốn chung nhà. Một niệm chẳng sinh toàn thể hiện Sáu căn vừa động bị che lòa. Phá trừ phiền não càng thêm bệnh Tìm đến chân như âu cũng tà. Tùy thuận các duyên không chướng ngại. Niết bàn sinh tử thảy không hoa.

49. Sự hồi sinh của thai nhi không có nhịp tim

Tường Tường (tác giả)

Người bình thường chắc chắn không thể nghĩ rằng một thai nhi không còn nhịp tim, ngay cả đến bác sĩ cũng đã kết luận rằng cần bỏ thai nhi này, nếu không phải là được Sư Tôn gia trì, thì làm sao có được kỳ tích này?

Chị dâu tôi (Trầm Chi Quân) khi đó đang mang thai được 12 tuần mà thai nhi vẫn không đo được nhịp tim (bình thường khoảng 6-8 tuần là có thể đo được nhịp tim của em bé rồi). Do vậy, bác sĩ khoa phụ sản của một bệnh viên đông y ở Đài Trung đã kết luận là em bé không có nhịp tim, nên đã yêu cầu chị dâu tôi uống thuốc phá thai để đưa thai nhi ra ngoài cơ thể. Nhưng chị dâu tôi vô cùng yêu thương đứa con đó, không nỡ lòng nào dùng cách làm này, lại càng không muốn uống thuốc phá thai. Cách một ngày sau khi kiểm tra, chị dâu tôi tham gia pháp hội Địa Tạng Vương Bồ Tát do Sư Tôn chủ trì, chị cũng rất thành tâm cầu xin cho em bé có thể sống lại, có thể khỏe mạnh.

Sau khi tham gia pháp hội, buổi đêm hôm đó chị dâu mơ thấy một bạn nhỏ nói với chị: "Mẹ ơi, con rất khỏe mạnh đó!" Nhưng chị dâu cho rằng chị ban ngày nghĩ sao thì đêm mơ vậy, nên cũng không quan tâm lắm. Kết quả là ngày hôm sau, chị lại mơ thấy Sư Tôn nói với chị: "Em bé rất khỏe, khỏe mạnh như các người vậy!" Sau khi tỉnh giấc mơ, chị dâu bắt đầu có niềm tin.

Vốn dĩ cho dù chị kiểu gì cũng không đành lòng, nhưng đứa trẻ đã không có nhịp tim thì cuối cùng cũng vẫn phải đưa ra ngoài cơ thể thôi. Hơn nữa chị đã đi đến trung tâm y học, tiếp tục chờ thêm kết quả mấy tuần nữa đều như vậy, đúng lúc chị đang lưỡng lự suy nghĩ xem nên xử lý thế nào…

Thế nhưng sau khi có niềm tin, chị đi đến bệnh viện kiểm tra lại. Em bé thực sự đã có nhịp tim. Cuối cùng chị đã bình an sinh con. Cho đến nay em bé đã 1 tuổi rồi.

Chị cũng vốn dĩ lo lắng đã muộn như vậy mới có tim thai thì em bé có thể có khả năng bị mắc bệnh tim bẩm sinh. Nhưng sự thực đúng như Sư Tôn nói, em bé hoàn toàn khỏe mạnh!

Chị dâu vô cùng cảm tạ sự giúp đỡ của Sư Phật đã giúp cho em bé có nhịp tim, cũng giúp cho em bé bình an khỏe mạnh như vậy. Sức mạnh gia trì của Chân Phật thật sự là bất khả tư nghì!

50. Thư của sư tỉ Trương Mẫn Trăn

Lý do: bởi tôi đã tham gia vào câu lạc bộ trực tuyến đọc sách văn tập của Sư Tôn đã lâu, tôi đã thu nhận được những chỉ dẫn rất bổ ích. Bởi vậy tôi sâu sắc cảm thấy bản thân mình vẫn cần phải tăng cường sự thâm nhập vào Chân Phật Mật Pháp, như vậy mới có thể tiến bộ, hơn nữa tất cả mọi vấn đề gặp phải, trong khi thực tu thiền định sẽ có được linh cảm về mật án.

Thực tu Mật pháp không chỉ để làm tư lương cho việc vãng sinh, mà còn có thể bảo vệ cuộc sống của chúng ta nữa! Đặc biệt là trong những lúc nguy nan, chỉ cần thành tâm hướng về Sư Tôn thỉnh cầu, Sư Tôn sẽ lập tức đến giúp gia trì cho ta để giải nguy!

Tôi quy y Sư Tôn vào năm dân quốc thứ 84 (năm 1995), năm 85 thì tôi đến chùa tổ ở Seattle, sau khi trở về thì tôi đến tham gia đồng tu ngày thứ bảy tại Tam Nghĩa Chân Minh Đường.

Hễ Sư Tôn có pháp hội tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, tôi trước nay đều chưa vắng mặt lần nào, dù có ốm bệnh cũng vẫn đến tham gia pháp hội. Ngày mừng đại thọ 80 tuổi của mẹ tôi, tôi cũng không có mặt ở buổi lễ mừng thọ, vì tôi vẫn đến tham gia hộ trì pháp hội của Sư Tôn. Em trai út của tôi kết hôn, tôi gửi tiền mừng, và cũng không tham gia hôn lễ để còn tham dự pháp hội của Sư Tôn. Những lần ấy tôi đều bị nói bị chửi, tôi chỉ có thể nuốt nước mắt ngược vào trong lòng. Với bất kì ai tôi đều nói, tôi đặt Sư Tôn lên thứ nhất, ai nói gì cũng đều thế thôi.

Từ trước đến nay, mỗi ngày thứ bảy, sau khi hộ trì pháp hội do Sư Tôn chủ trì xong, tôi đều cùng các sư huynh sư tỉ buổi tối trở về Chân Minh Đường, dùng cơm xong thì đồng tu!

Thế còn khi Sư Tôn trở về chùa tổ ở Mỹ, đường chủ của chúng tôi cứ 9 giờ tối thứ bảy là đồng tu. Các sư huynh sư tỉ trong Phật đường của chúng tôi đều rất đoàn kết, cũng rất nghiêm túc niệm kinh chú. Các sư huynh sư tỉ chúng tôi, mỗi ngày thứ bảy tại pháp hội ở Đài Loan Lôi Tạng Tự đều luôn chủ động đứng ở bên ngoài để nghênh đón Sư Phật, tiếng hô rất lớn! Trên hai cái cột lớn ở trước cửa Chân Minh Đường của chúng tôi có viết:

Kính sư trọng pháp cần thực tu! Có linh có nghiệm là Chân Phật!

Do vậy lần này tôi mắc bệnh nặng, bởi vì thể chất của tôi rất mẫn cảm, rất nhiều loại thuốc tôi không uống được, đến bệnh viện kiểm tra cũng không tìm ra bệnh, nên tốt nhất chỉ có tu pháp xong thì bói chén để thỉnh cầu chỉ thị của Sư Tôn. Việc cầu xin Sư Tôn cho tôi có cảm ứng, không ngờ thường thường đều vô cùng linh nghiệm!

Có một lần tim của tôi rất yếu, toàn thân toát mồ hôi, hít thở khó khăn, hít một hơi gần như cũng không thể. Tôi lập tức hướng về Sư Tôn thỉnh cầu cứu mạng, thế là lập tức cảm thấy dễ chịu. Sau khi nhận được quán đảnh của Sư Tôn tại pháp hội vào thứ bảy tuần trước, tôi lại thỉnh cầu Sư Tôn gia trì, do vậy tôi mới khỏe lại nhanh như thế. Hàng xóm đều nói: thật bất khả tư nghì. Họ còn nói thẳng: Sư Tôn của các chị thật là linh nghiệm đó!

Tôi cảm thấy thân làm một hành giả Mật giáo, nhất định cần hiểu việc kính thầy, như vậy mới coi trọng pháp của Sư Tôn, mới có thể chăm chỉ thực tu. Sư Tôn cứ mỗi 500 năm mới đến thế giới Ta Bà, là một vị minh sư Phật pháp chân chính. Chúng ta duy nhất nương dựa vào Căn bản truyền thừa Thượng sư, càng cần chăm chỉ thực tu Chân Phật Mật Pháp, Sư Tôn sẽ rất vui mừng. Mọi người chúng ta càng cần trân trọng Sư Tôn và hộ trì Sư Tôn, thỉnh Phật trụ thế!

Cầu nguyện Sư Tôn Phật thể an khang! Trường thọ tự tại, thường trụ thế gian, thường trụ Đài Loan, đại chuyển pháp luân, quảng độ chúng sinh, mọi người chúng ta cùng thỉnh Phật trụ thế!

(Hết)

Mục lục