📗

279. Lời bộc bạch dưới ngọn đèn đơn

image

Lời bộc bạch dưới ngọn đèn đơn

🪷 Thổ lộ tiếng lòng

Văn tập số: 279 Xuất bản năm: 27/08/2020 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Lời bộc bạch dưới ngọn đèn đơn Về cuốn sách này: Thời điểm viết cuốn sách này là giữa tháng 4 và tháng 5 năm 2020. Địa điểm là dưới ngọn đèn cô độc tại Nam Sơn Nhã Xá, thành phố Redmond, bang Washington, Hoa Kì. Người viết sách là Lư Thắng Ngạn. Hoàn cảnh sáng tác là: Virus Corona lưu hành khắp thế giới, tàn phá nhân loại, người người đều cực kì sợ hãi. Hàng triệu triệu người nhiễm bệnh. Hàng triệu người chết. Bang Washington Mĩ tuyên bố tất cả mọi người đều phải "cấm túc tại nhà", không có việc cần thì không ra khỏi cửa. Do vậy, Một mình tôi tịnh tâm lại, ngồi viết cuốn sách này. Tôi đang cấm túc. Tâm tôi cấm túc. Thân tôi cấm túc. Khẩu tôi cấm túc.

🌟

Ở vào hoàn cảnh như thế này, đối với người khác có thể buồn chán đến mức phát cuồng, nhưng đối với tôi mà nói thì tôi tự cảm thấy đây là một điều may mắn. Việc tu thiền của tôi càng tinh tấn hơn. Việc viết sách của tôi càng được tập trung hơn. Tôi đọc được nhiều sách hơn. Khi tất cả mọi thứ đều bị "cấm túc", chỉ có tâm tính của tôi (Phật tính) là tự do. Tôi gần như đã hiểu và ngộ được những tâm yếu tột cùng nhất trong tám vạn bốn nghìn pháp môn sâu rộng. Tôi là người đã chứng đắc bồ đề. Giống như Tsongkhapa từng nói: Xuất li tâm. Bồ đề tâm. Trung quán chính kiến. Tôi đều có thể khắc ghi rõ vào tâm.

🌟

Tôi nói rất thẳng thắn: Tôi đi trên con đường tu hành tất nhiên là có nguyên nhân, đó là một thời điểm then chốt. Tôi nhờ có Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn. Tôi du hành khắp mười phương pháp giới. Tôi là Liên Hoa Đồng Tử. Đây chính là xuất thân thật sự của tôi, tôi đã dựa vào hoàn cảnh xuất thân này để làm thành điểm cốt lõi của mình. Tôi thâm nhập vào số mệnh của mình, tôi đã tận mắt gặp Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Vô Cấu Hữu [Vimalamitra], Tỳ Lô Giá Na,... Trong đầu tôi có những bảo tạng [terma] về tâm yếu khẩu quyết. Vì thế mà tôi đã viết cuốn sách về tâm yếu khẩu quyết của con đường giải thoát. Từng bảo tạng lần lượt xuất hiện. Tôi là một vị Đại Trì Minh Kim Cương Thượng Sư chân chính. Mặc dù vậy, tôi vẫn kính lễ bốn vị Thượng sư của tôi: Liễu Minh Hòa Thượng. Sakya Chứng Không Thượng Sư. Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 Karmapa. Thubten Dhargye Thượng Sư.

🌟

Điều tôi muốn viết trong cuốn sách này là: "Những phân tích về thơ thiền." Những tinh yếu khẩu quyết của tôi đều nằm trong đó. Chúc mọi người: Mở sách ra có được lợi ích.

(Tháng 5 năm 2020)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Bạn là ai?

Bát Chỉ Đầu Đà [Thích Kính An (1851 - 1912), một tăng nhân, thi sĩ yêu nước thời cận đại] đã viết một bài thơ, lời thơ rằng:

"Đại thiên nhất khí chuyển hồng quân Khô mộc khai hoa tượng ngoại xuân Bạo trúc nhất thanh phiên tự tiếu Kim niên nhân thị khứ niên nhân."

Dịch thơ: "Đại thiên nhất khí chuyển hồng quân Cây khô hoa nở tựa thêm xuân Nghe tiếng pháo nổ cười một tiếng Người của năm này chính người xưa."

Bài thơ này đương nhiên là viết về "tức cảnh năm mới". Hồng quân là chỉ sự bắt đầu của một năm mới. Cũng là nói về tạo hóa. Có ý nghĩa về sự khởi đầu mới mẻ. Giống như cây khô nở hoa, mùa xuân đã đến rất gần rồi. Tôi nghĩ rằng câu quan trọng nhất trong bài thơ này là: "Người của năm này chính người xưa." Ở đây, tôi muốn nói với mọi người rằng, sao mọi người không thử nghĩ mà xem, bạn rốt cục là ai?

Tôi đã trải qua 76 năm cuộc đời rồi. Cứ mỗi một năm qua đi, người của năm nay cũng chính là người của 76 năm về trước, chẳng sai một điểm nào. Ai cũng biết về một Lư Thắng Ngạn từ lúc là đứa trẻ sơ sinh đến nay là một ông già. Nhưng, Bạn có biết bạn là người nào không? Sống cả một đời, Mà bạn vẫn không rõ sao, vẫn không biết rõ sao? Thế thì bạn chính là một người hồ đồ đó!

🌟

Tôi là ai? Tôi đáp: "Bản thân người người đều là Phật, sao phải đặc biệt lễ bốn phương." Tôi là: Xá Lợi Phất. (Đại đệ tử số một của Phật Đà) Vua Trisong Detsen. (Vua Tán Phổ của Tây Tạng) Long Thụ Bồ Tát. (Tổ sư của phái Trung quán) Naropa. (Tâm tử của Tilopa) Tsongkhapa. (Người sáng lập phái Gelugpa Tây Tạng) Lư Thắng Ngạn. (Người sáng lập Chân Phật Tông) Còn có người bảo tôi là: Atisa Tôn giả. (Người sáng lập phái Kadampa Tây Tạng) ...

Ôi! Ôi! Hic! Hic!

Có một bài thơ rằng: "Nhật nguyệt mọc lặn tựa chuyển luân Chẳng có lí gì ta xuất thế Từ nay lão tăng thôi nhiều lời Hậu thế cần thì hỏi hậu nhân."

Đối với câu hỏi Lư Thắng Ngạn là ai, bản thân tôi từ nay cũng thôi nhiều lời, tự hiểu là được rồi. Không cần phải nói với người khác, để người ta khỏi nói tôi là tự cao tự đại. Ha ha ha, tự lòng mình hiểu là được rồi.

Tỳ Lô Giá Na Phật - Phật Nhãn Phật Mẫu - A Di Đà Phật - Liên Hoa Đồng Tử - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Chà! Thật là một mối quan hệ truyền thừa pháp rất lớn. Những điều này tôi không cần phải nhiều lời nữa!

🌟

Bây giờ tôi muốn hỏi chính là bạn. "Bạn là ai?" Mỗi người tu hành cần phải mở ra mạch luân của mình, sau khi đã mở được mạch luân của bản thân rồi thì bạn sẽ từ trong "túc mệnh thông" mà biết được về chính mình. Mật giáo dựa vào "chuyết hỏa" và "bồ đề tâm nguyệt dịch" để mở năm luân xa. Bạn sẽ tự mình chứng nhận được về mình. Lúc này, bạn sẽ biết được diện mạo thật sự của mình, thậm chí là cả diện mạo thật sự của tôi.

Pháp này tôi gửi người tâm phúc Trong tam ma địa chói linh quang Đứng tại trung tâm nơi đàn thành Ngồi ngó mười phương máu như bùn.

02. Nhất ẩm nhất trác giai hữu định số

Tôi (Lư Sư Tôn) tin rằng: "Nhất ẩm nhất trác giai hữu định số." [Một miếng ăn miếng uống cũng đều có định số.] Vì sao nói như vậy? Tôi lấy Thiệu Khang Tiết của triều Tống làm ví dụ. Sách do Thiệu Khang Tiết viết có rất nhiều, gồm "Thiệu Tử dịch số", "Ngư tiều vấn đáp", "Quán vật", "Hoàng cực kinh thế", "Y xuyên kích nhưỡng tập", "Tiên thiên dịch", "Hậu thiên dịch", v.v… "Tiên thiên dịch" do Phục Hy Thị làm chủ. "Hậu thiên dịch" do Văn Vương làm chủ. (Chu Văn Vương) Còn "Thiệu Tử dịch số" và "Hoàng cực kinh thế" được người đời sau này chuyển thành "Thiết bản thần số".

Tôi rất ngưỡng mộ Thiệu Khang Tiết. Tôi tin rằng ông ấy đã hiểu được "số trời". Theo "Thiết bản thần số" mà nói thì lấy phút, giờ, ngày, tháng, năm mà ta sinh ra, năm con số này sẽ được đưa vào một công thức, sau khi gia giảm cộng trừ thì sẽ có được mấy con số. Dựa vào những con số này để tra theo các điều văn trong sách "Thiết bản thần số" của Thiệu Khang Tiết thì có thể tìm ra được thông tin về cuộc đời của bạn. Ví dụ: Cha cầm tinh con gì, mẹ cầm tinh con gì. Anh chị em có mấy người. (mấy người còn, mấy người mất) Tương lai bạn sẽ làm nghề gì? Hôn nhân ra sao, vợ chồng họ gì? Khi bao nhiêu tuổi thì bạn sẽ kiếm được tiền và bao nhiêu tiền? Có vướng phải kiện tụng gì không? Bạn liệu có bị người khác quỵt nợ không, người quỵt nợ họ gì? Sức khỏe bạn có tốt không? Bao nhiêu tuổi thì bạn sẽ chết?

🌟

Tôi đã từng tính toán theo "Thiết bản thần số" và có được đáp án khiến tôi kinh ngạc. Điều văn đó viết rằng: "Chân Phật giáng thế, vạn người quy y!" Trời ạ! Chuẩn thế sao! Cá nhân tôi nghĩ rằng chỉ cần có được phút, giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người là có thể hiểu được số mệnh của người đó. Giống như Thiệu Khang Tiết, Viên Thiên Cương, Lưu Bá Ôn, Đông Phương Sóc, v.v… những nhân vật này đều có thể xưng là "người bán thần".

Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, Quỷ Cốc Tử của Trung Quốc, tôi cũng cho rằng họ đều là "người bán thần". Họ đều hiểu về thiên số. "Nhất ẩm nhất trác giai hữu định số." Định số có thể thay đổi được không? Tôi đáp: Có thể! Làm việc đại thiện có thể thay đổi định số! Làm việc đại ác có thể thay đổi định số! Tu hành nghiêm túc có thể thay đổi định số! (Hãy đọc cuốn sách "Liễu Phàm tứ huấn" để càng thấy rằng có thể thay đổi định số.)

🌟

Mệnh số của tôi (Lư Sư Tôn) là: "Chân Phật giáng thế, vạn người quy y." "Ất Bính Đinh, địa tam kỳ." "Mộc hỏa tương sinh tam thập niên." "Càng già càng vượng." Những điều này đều vô cùng chuẩn xác! Tự tôi hiểu rõ chính mình, tôi cũng là "người bán thần".

Thơ dự đoán của Thiệu Khang Tiết rất chuẩn: "Sương mây mênh mông một cõi trời Tiếc thay tây bắc nổi khói báo Bạo lực đằng đông cướp đằng tây Bao kẻ hồ đồ còn trước mắt."

Còn nữa: "Rốt cục anh hùng mang áo vải Cửa đỏ chưa phải kinh đô cũ Chim én bay tới vốn chuyện thường Hoa mận mới nở xuân đã chê."

03. Có thể đốt ngón tay cúng Phật không?

Bát Chỉ Đầu Đà từng viết một bài thơ: "Bởi cắt thịt đốt đèn cúng Phật Hiểu ra thân này bọt nước thôi Như nay mười ngón còn lại tám Khác chi rồng trời trúng hai đao."

Trong bài thơ này có một câu: “Như nay mười ngón còn lại tám.” Câu này chỉ ra rằng Bát Chỉ Đầu Đà vốn có mười ngón tay, bây giờ chỉ còn lại tám ngón tay. Hai ngón tay còn lại thì sao?

Theo như tôi biết: Vị tăng nhân này đã hạ quyết tâm học Phật, để thể hiện tín tâm vững chắc nên đã chặt ngón tay để biểu thị ý chí kiên định. Ông đã đi đến Thiên Đồng Tự. Dùng vải buộc chặt hai ngón tay lại. Nhúng vải vào xăng. Châm lửa đốt. Đợi cho hai ngón tay hoàn toàn cháy hết. Dùng một cái gắp sắt để bấm đầu xương của hai ngón tay đi. "Cạch" một tiếng. Thế là chỉ còn lại tám ngón tay. Do vậy, ông mới tự lấy hiệu là Bát Chỉ Đầu Đà. [thầy tu hành khất tám ngón tay]

Quá trình thực hiện việc đốt ngón tay cúng Phật này đương nhiên là rất khốc liệt, đương nhiên là đau thấu tim gan, khiến người ta phải rúng động.

🌟

Có người hỏi tôi: "Bát Chỉ Đầu Đà đốt ngón tay cúng Phật, Lư Sư Tôn nghĩ sao?" Tôi trả lời như sau: Tôi rất bái phục tinh thần này. Khi Phật Đà làm Bồ Tát đạo cũng có một sự việc tương tự: Xẻ thịt cho chim ăn. Xả thân cho hổ ăn. Đây đều là những nghị lực vô cùng dũng cảm. Không hề dễ dàng. Tôi nghe nói, trên đỉnh vàng của núi Nga Mi có Phật quang hiển hiện, rất nhiều người nhìn thấy chính mình trong Phật quang, thế là liền nhảy vào trong Phật quang. Còn có "vực xả thân". Ngoài ra, Thời kỳ đầu học Phật, Không Hải Đại Sư cũng có một lần nhảy xuống vách núi để hiểu được cái chí của mình. Phật Đà trải qua sáu năm ở Tuyết Sơn, cũng dùng khổ hạnh để thể hiện ý chí của mình. Thần Quang cầu pháp từ Tổ sư Đạt Ma, không ngờ cũng tự chặt đứt cánh tay.

Các hình thức khổ hạnh rất nhiều: Treo ngược. Ngồi trong rừng gai. Học theo cách đi lại của động vật. Không ăn không uống. Nuốt lửa. Ngồi trong nước. v.v...

Phật Đà thực hành khổ hạnh sáu năm tại Tuyết Sơn, cuối cùng đã kết luận một câu rằng: "Khổ hạnh là phi đạo."

Tôi (Lư Sư Tôn) sau khi học tập Trung quán, tôi cảm thấy khổ hạnh lệch theo hướng cực đoan là không tốt, điều đó là quá mức.

Tuy nhiên, ăn no, ngủ kĩ, chơi chán chê thì sẽ trở thành "Tam Bão hòa thượng" [bão trong từ bão hòa, nghĩa là no nê, đầy ứ]. Vậy thì lại quá buông lỏng bản thân, không tốt, điều này cũng không được.

Tóm lại, tu hành vừa khéo là tốt nhất! Không căng! Không lỏng! Tinh tấn một cách ôn hòa chính là tinh thần của tôi. Giống Hư Vân lão hòa thượng, đi ba bước thì lạy một lần, từ núi Potalaka cho đến Ngũ Đài Sơn, cứ đi và lạy như thế. Tôi rất ngưỡng mộ.

Tôi viết một bài thơ: "Lưỡi dài rộng tiếng suối Sắc núi chẳng đổi thay Tôi thuyết pháp tĩnh tịch Còn lại tùy người nghe."

04. Tâm hành xứ diệt

Chương trước có nhắc đến "khổ hạnh là phi đạo", nguyên nhân chủ yếu của điều này là rốt cục thì khổ hạnh cũng chỉ là hình tướng bên ngoài, không có can hệ gì đến chính đạo. Điều quan trọng nhất là: "Tâm hành xứ diệt." [Câu nói đầy đủ là "ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt", đây là điển ngữ của ngài Long Thụ, nghĩa đen là con đường ngôn ngữ đã dứt, cái nơi tâm hoạt động đã mất, nói về cảnh giới vắng lặng, không còn suy tư phân biệt.]

Việc tu hành của tôi (Lư Sư Tôn) không có gì khác ngoài "tâm hành xứ diệt" mà thôi! Tôi nói để mọi người biết, cái tâm chân thực của tôi đã tịch diệt rồi. Không phải là tâm bất động. Mà là ngay cả việc động tâm cũng tịch diệt rồi. Việc này là thật sự vô tâm. Câu nói "động tâm cũng tịch diệt" của tôi cũng chẳng dễ dàng để hiểu được, chỉ có khi nào bạn đạt đến cảnh giới đó thì mới hiểu được.

Tôi thường nói: "Khi có một con người trên mặt trăng." Cái gì là thiện? Cái gì là ác? Cái gì là khổ? Cái gì là lạc? Cái gì là Phật? Cái gì là ma? Nếu như bạn có thể trả lời được, hơn nữa còn biến thành thực tiễn điều này, thì cũng đã tiến gần đến đạo rồi đó!

Tôi thường nói: Đừng căng thẳng! Không sao cả! Không phải lo! Không vấn đề! Bạn có thể hiểu được không? Bạn hiểu được cũng tốt, không hiểu được cũng tốt, cứ thẳng trước mà đi! Thế là tốt. (Ở đây cũng chính là thiền cơ.)

Tôi thích bài "Thơ vô sự" do tăng nhân Xiển Thừa viết: "Mộc ngư xao toái mộng Thanh khánh phủ viên tâm Nhất trụ hương liễu nhiễu Linh cơ vô cổ kim."

Dịch thơ: "Cá gỗ phá cơn mơ Tiếng chuông an ủi lòng Cột khói hương cuộn xoắn Linh cơ chẳng xưa nay."

Bài thơ này đã đến gần với cảnh giới "tâm hành xứ diệt". Chẳng có sự vật gì cả, nếu nói là có sự vật thì cũng chỉ là: Cá gỗ. Đèn sáng.

Tăng nhân Hành Lạc viết: "Chùa cổ trên vách đá Lặng lẽ vị Thế Tôn Mưa tạnh mây nên hình Gió lặng nước đứng yên Đơn độc chim trắng bay Huyên náo bầy ve hát Khói bồi thêm tĩnh tọa Vừa sáng đây đã chiều."

Bài thơ này có trạng thái tĩnh, cũng có trạng thái động, bất kể là trạng thái động hay trạng thái tĩnh thì đều quy về việc ngồi thiền và niệm kinh.

Trạng thái động là: Mây thành hình. Ve huyên náo.

Trạng thái tĩnh là: Nước đứng yên. Đơn độc bay.

Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết, việc tu trì của tôi, ngay cả trong những động tác mãnh liệt nhất thì tôi cũng vẫn có thể định tâm tại một chỗ. (Kim cang ca, kim cang võ, kim cang hý, kim cang phát man.)

Cũng chính là như Phật Đà đã nói: "Bất kì lúc nào cũng đều đang thiền định!" Khi tôi bế quan, có thể thiền định. Khi tôi xuống phố, cũng là thiền định.

Xin có lời khuyên thế nhân: Đức hạnh tu vượt tám trăm Phước lực tích đầy ba nghìn. (Công đức bên ngoài.)

Nhất niệm nhập với vô niệm, Diệt sạch vô lượng nhiễm ô. (Công đức bên trong.)

Pháp "tâm hành xứ diệt" ở đây của tôi, nhà cháy chốn nhân gian cũng đã khó mà giam giữ nổi tôi. Mọi người, mọi việc, mọi nơi, mọi sự vật, tôi đều xem là vô sự. Vạn hiện tượng cũng đều không có hình tướng. Ở đây, chỉ có Phật là hiểu thôi.

05. Điển cố về am Chôn Sống

Trong đạo Phật mà nói, chùa, am, lan nhược [cách gọi chùa Phật giáo, phiên âm từ tiếng sankrit của từ aranyakah], tịnh xá đều là những đạo tràng tu hành. Các chùa của Chân Phật Tông đều được gọi tên là Lôi Tạng Tự. Hồi mới đầu, nhà tôi ở Đài Loan được tôi đặt tên là Linh Tiên tịnh xá. Còn lan nhược, ở Gia Nghĩa Đài Loan có Diệu Vân lan nhược là nơi ở của Ấn Thuận đạo sư. Gia Nghĩa cũng có am Địa Tạng, thờ cúng Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Trong truyền thuyết: Tại An Huy, Trung Quốc, có một am được lấy tên là am Chôn Sống. Có tăng nhân tên là Tung Đình đề thơ ở am Chôn Sống như sau: "Ai đặt tên là am Chôn Sống? Hoài công bao người đoán xưa nay Ta nay nào phải muốn tự sát Chỉ vì đã chết mà tới đây."

Tôi cảm thấy cái tên gọi am Chôn Sống này khiến người ta rùng mình. Hơn nữa, tăng nhân Tung Đình đề thơ cũng rất hài hước. Bài thơ này mọi người đọc đều hiểu được vì nó nói rất thẳng: Vì sao cái am này lại được đặt tên là Chôn Sống? Khiến cho mọi người phải bàn tán xôn xao. Ta là người muốn tự sát chăng? Chỉ là vì trước đây ta cũng là một người đã từng chết mà thôi! Điểm quan trọng nằm ở câu cuối cùng, thử hỏi, có người nào không phải là người đã từng chết?

Tôi tự biết: Tôi sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, không biết đã luân hồi bao nhiêu lần? Tôi cũng là người đã từng chết. Chúng ta đều là người đã từng chết. Tôi thường nói: "Người xưa chính là người nay, người nay chính là người xưa." Bài thơ của tăng nhân Tung Đình đề rất hay. Nhưng tôi cho rằng hai chữ "Chôn Sống" vẫn còn có ý nghĩa sâu xa hơn!

Tôi nghĩ rằng ý nghĩa của hai chữ "Chôn Sống" là như sau:

  1. Mặc dù con người đang sống, nhưng tâm đã trở về với Phật thì cũng như người sống nhưng tâm đã chết.
  2. Thoát ly khỏi thế tục nhân gian, hoàn toàn không còn hý luận gì nữa. [hý luận nghĩa là ngôn luận phi lý vô nghĩa, nói chuyện vô bổ]
  3. Có gì đáng thương hơn khi tâm đã chết. [một tư tưởng của Trang Tử]
  4. Bước vào am tức là đã chôn vùi quá khứ.
  5. Quá khứ đã chết, hôm nay sẽ được tái sinh.
  6. Giết bỏ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
  7. Diệt sắc, thân, hương, vị, xúc, pháp.
  8. Tất cả đều tịch diệt. ...

Cũng có cả một chút ẩn ý về việc đặt vào nơi chết rồi sau đó tái sinh. Tóm lại, người đã lấy tên gọi là am Chôn Sống cũng nhất định là một nhân vật đã trải qua một cái chết vĩ đại.

Tôi bỗng nảy ra một suy nghĩ rằng tôi cũng muốn đặt một cái tên cho am, sẽ gọi là: am Tất Tử. Xem ra so với cái tên am Chôn Sống thì còn rùng mình hơn, bởi vì là chôn sống nên đương nhiên sẽ "chết chắc".

Tôi nói: Từ xưa tới nay, ai ai cũng đều phải chết, chẳng có người nào là bất tử, phải chết là quy luật của trời đất rồi. Chỉ là thế nhân ham sống sợ chết, né tránh chữ "chết", chữ "chết" bị xem là rất xui xẻo. Nhưng tôi lại cho rằng chết có khi cũng là một điều may, duy có cái chết mới là thời khắc quan trọng của sự giải thoát.

Phật Đà đã dạy cần đối diện với cái chết, hiểu được ý nghĩa thực sự của cái chết, hơn nữa cần tu luyện trong cái chết. Như hành giả chúng ta bình thường chính là luyện tập pháp chuyển dịch thần thức trong trung ấm. Làm cho ta quang minh. Làm cho ta bay lên. Làm cho ta hóa thành cầu vồng. Làm cho ta giải thoát. Thật đáng ca ngợi! Am Chôn Sống! Am Tất Tử! Vạn tuế!

06. Sự giác ngộ của Trương Bá Đoan

Trương Bá Đoan trong Đạo gia được gọi là Tử Dương Chân Nhân. Nhờ được một dị nhân truyền cho đan pháp nên trong Đạo gia có được địa vị rất cao. Nhưng, Tôi đọc những lời thơ của ông thì phát hiện ra ông cũng có những ngộ cảnh đặc sắc đối với Phật pháp, không thể xem thường.

Ngôn từ của ông như sau: "Vọng tưởng không cần cưỡng ép diệt Chân như hà tất phải tìm cầu Bản nguyên tự tính Phật chăm tu Mê ngộ chỉ là chuyện sau trước. Ngộ rồi phút chốc là thành Phật. Mê thì vạn kiếp vẫn luân lưu. Nếu như có thể tu chuyên chú Vô lượng nghiệp tội diệt sạch ngay."

(Tôi tán thưởng câu thơ số một và số hai của ông. Không cần phải tìm cách đối trị với những vọng tưởng, cũng không cần phải diệt sạch những vọng tưởng của bản thân. Chỉ cần thuận theo nó mà đến, thuận theo nó mà đi. Giống như xem phim vậy, xem phim xong, vọng tưởng vẫn là vọng tưởng, ta là ta, chẳng có chút can hệ nào, đây chính là cảnh giới rất cao của sự tu hành.)

(Chân như hà tất phải tìm cầu, câu thơ này lại càng khiến tâm tôi rung động. Chân như vốn dĩ đã tồn tại rồi, tìm cái gì đây? Chân như và thân, khẩu, ý của tôi cũng giống như trên, chẳng có một chút can hệ nào. Tu chỉ là tu thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, khi thời điểm đến thì chân như đã ở đó rồi. Nói cách khác là, chân như vốn dĩ vẫn tồn tại, đây cũng chính là cảnh giới cao nhất. Nhưng với câu nói này thì đã cho thấy ông đã ngộ thấu rồi.)

Còn nữa: "Ta vốn chẳng sinh chẳng diệt, Cứ cố phân biệt sinh diệt Chỉ như tìm xem tội hay phúc từ gốc nào mà ra. Bản thể vi diệu vốn chưa từng tăng giảm. Ta có một tấm gương sáng Trước nay chỉ để phân định những khi mờ mịt Nay đem lau sạch chiếu khắp đất trời. Vạn tượng siêu nhiên khó mà ẩn giấu."

Tôi nói: Câu thứ nhất "Ta vốn chẳng sinh chẳng diệt", câu này đã rất lợi hại rồi. Đây chính là tâm pháp khẩu quyết của vô sinh vô diệt. Vô ngã. Vô nhân. Vô thọ giả. Vô chúng sinh. Chính là vô sinh vô diệt. Cũng không có cái gọi là tội hay phúc. Còn nếu như "Cứ cố phân biệt sinh diệt", thì sẽ rời rất xa ra khỏi Phật rồi! Hiểu không?

Còn nữa: "Nhân ngã chúng sinh thọ giả, Nào có phân biệt thấp cao. Pháp thân chiếu thông chẳng phân biệt ta - anh Chăm chăm phân biệt giống hay khác Thấy là thế có chắc đã là thế Nghe là không chưa chắc đã là không. Những thứ đến đi bởi thế cũng chẳng biết được. Sinh tử ai có thể tránh đây." ...

Ở đây, tôi chỉ ra rằng: Ba bài thơ này đều thể hiện những ngộ cảnh cao siêu, không gì sánh bằng. Ở bài thơ thứ ba có viết: "Pháp thân chiếu thông chẳng phân biệt ta - anh", đây là một câu có tính chất khai ngộ. Còn đối với câu: "Thấy là thế có chắc đã là thế Nghe là không chưa chắc đã là không." Đây thực sự là quang minh biện chiếu rồi.

Ôi Trương Bá Đoan! Trương Bá Đoan! Ba bài thơ này của ông. Khiến tôi tán thưởng!

07. Thân xuất gia? Tâm xuất gia?

Bài thơ của Hư Cốc hòa thượng: "Khi thân tại gia tâm xuất gia Thị phi đúng sai chẳng phân biệt. Cuộc đời đáng quý có thể hiểu Một nhành hoa như một áng mây."

Bài thơ này khiến tôi nghĩ đến chuyện: Khi tôi ngồi trên pháp tọa, tôi hỏi những người muốn xuất gia ở bên dưới: "Ai bảo các bạn xuất gia?" Có người đáp: "Chính mình!" Tôi hỏi: "Chính mình là ai?" Người bị hỏi sững người lại. Có người đáp: "Là thầy bạn bảo tôi xuất gia!" Tôi hỏi: "Nếu thầy bạn không bảo anh xuất gia thì anh sẽ không xuất gia sao?" Người kia: "..." Có người đáp: "Vì nhân duyên đã đến nên tôi xuất gia thôi!" Tôi nói: "Tạm cho qua."

🌟

Đối với việc thân xuất gia, tâm vẫn chưa xuất gia thì anh vẫn là một tục khách. Tâm xuất gia, thân vẫn chưa xuất gia, thì thiếu mất sự uy nghi. Thân tâm đều xuất gia là đẹp nhất. Trước đây, có một người thường chửi người xuất gia là: "Vô công rồi nghề! Đồ mọt gạo!" Tôi đáp: "Dạy dỗ chúng sinh bỏ ác theo thiện. Dạy dỗ chúng sinh thoát khổ được vui. Dạy dỗ chúng sinh giải thoát luân hồi. Đây là sự nghiệp vĩ đại của Như Lai. Sự nghiệp này chí đại chí cao, không thể có sự so sánh với kẻ vô công rồi nghề được."

Hư Cốc hòa thượng nói: "Có thể ngộ ra là điều đáng quý nhất!"

Còn nữa: Hư Cốc hòa thượng viết: "Vạn hài cốt khô người chưa ngộ Trung hồn nghĩa phách cũng hồ đồ Che lòng nên ở ngoài tam giới Ngơ ngơ ngẩn ngẩn đám dân thường."

Tôi cho rằng đây là một bài thơ cảm hoài.

Tôi thường nhìn những khu nghĩa địa đầy ắp. Từng đám từng đám đất trồi lên. "Mắt thấy người ta chết, Trong lòng nóng như lửa, Chẳng phải lo người khác, Lo sắp tới lượt mình."

Người nằm trong những gò đất đó, bất kể là sự nghiệp có làm hoành tráng đến bao nhiêu thì vẫn chỉ giữ lại được ở thế gian. Vì sao không muốn thành Phật tác tổ, siêu phàm nhập thánh, đạt đến cảnh giới của chân đế?

Chúng ta tu hành cần phải vượt lên Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Đến được tứ Thánh giới. Đừng nên làm người thế tục ngẩn ngẩn ngơ ngơ.

Còn nữa: Tôi (Lư Sư Tôn) bây giờ là: "Cười vào cuộc đời, ha ha ha! Chuyện đời đều chẳng bận tâm nữa Hưng vượng tử tuyệt mặc thăng trầm, Tại thế gian tùy mặc, Có duyên thì đến, Vô duyên thì đi. Đói thì ăn, khát thì uống. Hoặc ngồi trước đàn hát ca. Nước sâu vẫn luôn tĩnh lặng. Thập phương pháp giới tùy ta đi."

08. Chuyên nhất và ly hí

Thiền sư Văn Giác có hai bài kệ: Bài một: "Rời bỏ cõi Ta Bà Cùng mây làm bạn hữu Ăn gió rồi ngủ sương, Thoát cảnh trăm năm tù."

Bài hai: "Nhà cao ngọn đèn sáng, Canh năm lặng như tờ, Ngồi thiền tâm chìm lắng, Lạnh ấm chẳng bận tâm."

Sau khi tôi (Lư Sư Tôn) đọc xong hai bài thơ này, tôi nhanh chóng liên tưởng đến "chuyên nhất" và "ly hí".

Mật giáo có nói: Chuyên nhất du già cần lên núi. Ly hí du già cần bế quan.

Hai bài thơ này, bài thứ nhất chính là lên núi, bài thứ hai chính là bế quan. Còn tôi, cả hai điều này tôi đều đã trải qua rồi.

Có người hỏi tôi: "Vì sao tu hành lại cần lên núi?" Tôi đáp: "Thiền sư Văn Giác nói rất hay, "thoát cảnh trăm năm tù". Chúng ta có thể thử nghĩ xem: Trăm năm ở cõi nhân gian, Đầu tiên là bị cầm tù trong trường học. Tiếp theo là bị cầm tù ở nơi làm việc. Tiếp nữa là bị cầm tù trong hôn nhân gia đình. Bị trói buộc vào con cái. Bị trói buộc vào tiền bạc. Bị trói buộc vào danh lợi địa vị. Bị trói buộc vào sức khỏe. Từ khi sinh ra cho đến khi chết, có lúc nào là không bị trói buộc, có khi nào bạn được là một cái thân tự do?

Nghĩ mà xem, lên núi rồi thì đâu còn bị tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngủ trói buộc nữa. Một câu nói của thiền sư Văn Giác "thoát cảnh trăm năm tù" cũng giống như một tiếng gầm của sư tử, thức tỉnh những con người đang ngủ mê.

Lên núi rồi thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mới có thể chuyên nhất và thanh tịnh. Mắt không nhìn nên sạch. Tai không nghe nên sạch. Mũi không ngửi nên sạch. Lưỡi không liếm nên sạch. Thân không chạm nên sạch. Ý không loạn nên sạch. Vì như vậy nên có thể tu luyện thành công Chuyên nhất du già.

Còn nữa: Có người hỏi tôi: "Vì sao tu hành cần bế quan?" Tôi đáp: Điểm quan trọng nằm ở việc nhập tam ma địa. Con người có thể chuyên nhất, chuyên nhất chính là tam ma địa. Khẩu quyết của việc nhập tam ma địa chính là vô sự, vô tâm.

Khi bế quan thì: Không có bất kì việc gì vướng bận trong đầu, cũng chính là vô sự. Vô tâm rồi thì không để ý đến chuyện nóng lạnh hay tình cảm. Quên hết bao nhiêu suy nghĩ hỗn tạp về nhân gian, trong đầu chỉ quy về con số không. Đây chính là thiền định tam ma địa. Thiền tam ma địa cũng chính là rời xa hết thảy hí luận. Ở thế giới Ta Bà toàn là những hí luận.

Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết: Thế gian là huyễn cảnh. Từ tâm tục mà ra. Nhập vào tam ma địa. Chói sáng như Văn Thù. Đợi đến khi hành giả đã đạt được thiền định và trí huệ rồi, không bị thế tục mê hoặc nữa, có thể độ chúng sinh được rồi, thì lúc đó hãy xuất quan xuống núi đi!

09. Nhân duyên với Thiền tông của tôi

Nhân duyên sớm nhất với Thiền tông của tôi là: Pháp sư Lạc Quả - vị sư phụ mà tôi quy y. Pháp sư Lạc Quả nói với tôi: "Dòng kế thừa pháp này là Tào Động tông, qua 27 đời đã phát triển đến thế hệ thứ năm, thuộc về phái Đại Tự." Nhưng theo như tôi biết: "Tục gọi Lục Kim Cương. Tăng hiệu Thích Lạc Quả. Chỉ giảng dạy thiên thai. Bộc lộ đại bát nhã. Vẫn hướng về tịnh độ. Thường niệm A Di Đà." Từ đây có thể thấy rằng, lão pháp sư Lạc Quả không chỉ là tu Thiền tông mà ngài cũng có cả giáo pháp của Thiên Thai tông, lại cũng truyền dạy cả đại bát nhã pháp, thậm chí là liên tông tịnh độ.

Theo tôi được biết: Rất nhiều đệ tử của pháp sư Lạc Quả đã định vị pháp sư là Thiên Thai Chính Tông đời thứ 44. Cũng chính là: giáo diễn Thiên Thai, hành trì tịnh thổ, thâm toản lăng nghiêm, khắp nhập kim cang.

Quên mất cả việc ngài cũng là người thừa kế pháp của Tào Động tông của Thiền tông.

Lão pháp sư Lạc Quả nói với tôi: "Thân này chẳng phải thân, tâm này chẳng phải tâm." Đây cũng là một câu nói thiền.

Còn nữa: Vị thầy cạo đầu xuống tóc cho tôi là đại hòa thượng Quả Hiền. Đại hòa thượng Quả Hiền là người cạo đầu cho tôi. Nhưng, Ông ấy cũng quy y tôi. Chúng tôi là "vừa thầy vừa trò, vừa trò vừa thầy". Ha ha ha!

Mọi người hãy xem chữ Quả trong tên của đại hòa thượng Quả Hiền thì sẽ biết đó là một nhánh xuất phát từ Lâm Tế tông của Thiền tông. Đại hòa thượng Quả Hiền thường nói với tôi: "Không sao cả, đừng căng thẳng, không vấn đề." Ba câu này cũng là ngôn ngữ thiền. Tôi nghe những điều này rồi cũng trở thành: "Chẳng can hệ!" Bởi vậy, tôi cũng có nhân duyên của Lâm Tế yông (Lâm Thế Nghĩa Huyền).

Còn nữa: Tôi viết hơn mười cuốn sách về "Ngũ đăng hội nguyên", tôi khá tâm đắc đối với những quan điểm của Thiền tông. Có người hỏi tôi: "Cái gì là thiền?" Tôi đáp: "Phân chó." Lại hỏi: "Phân chó là cái gì?" Tôi đáp: "Dẫm phải chính là cái đó." Lại hỏi: "Xin Lư Sư Tôn giải thích rõ đại ý?" Tôi trả lời bằng một bài thơ: Huệ Khả chăm chỉ thích ở núi, (Nhị Tổ Huệ Khả) Học tập Hi Thiên ghét đọc sách (Hi Thiên là Thạch Đầu hòa thượng) Giác ngộ trở thành Phật đời này, Lùm tre phiến đá là nhà ta.

Hỏi: "Câu nào trong bài này quan trọng?" Tôi đáp: "Giác ngộ trở thành Phật đời này." Hỏi: "Xin Lư Sư Tôn giải thích rõ hơn thế nào là ngộ?" Tôi liền giơ tay, đứng trên một chân nói: "Kim kê độc lập!" [Kim kê độc lập nghĩa là gà vàng đứng trên một chân, đây là một tư thế trong thái cực quyền.] Tư thế gà đứng một chân này của tôi cũng như Phật Đà cầm hoa, là thiên long nhất chỉ, là Ca Diếp khẽ cười. Là "tiền tam tam, hậu tam tam" của Văn Thù Bồ Tát. Hiểu không?

10. Bận bận bận bận bận

Có đệ tử hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Tôi là người quản lý nhà hàng, ngày nào cũng cực kì bận rộn, từ sáng sớm đến tối mịt, xin hỏi, làm sao tu hành?"

Tôi hỏi: "Bận cái gì?" Anh ta đáp: Bận mua hàng. Bận bếp núc. Bận khách khứa. Bận tiền nong. Bận dọn dẹp. Bận trông coi. Bận nhân viên. ...

(Rất nhiều việc lặt vặt khác liên quan đến trông coi nhà hàng.) Cuối cùng tôi đã hiểu được, những người làm kinh doanh hóa ra thật sự là rất bận, muốn dành ra một chút thời gian để tu một đàn pháp quả thực nói dễ hơn làm. Mọi người thường đều bận tới tận đêm khuya, mở cửa hàng, đóng cửa hàng, ngày hôm sau lại bận rộn như thế.

Ngày thứ bảy lại càng bận hơn. Ngày chủ nhật càng bận hơn nữa.

Tôi nhớ đến bài thơ của Thạch Liên hòa thượng: Chỉ nhìn mây vội nước cũng vội, Chẳng phải bận làm lúa làm dâu, Diệt trừ cỏ đã bao bận rộn, Tranh bận lẫn nhau giấc mơ thôi.

Người ta hỏi tôi tu thế nào? Tôi dạy họ cách đưa tu hành vào trong công việc.

  1. Ăn cơm thì tu cúng dường.
  2. Mặc quần áo thì tu kết giới.
  3. Biến nhà hàng thành cung điện.
  4. Khách hàng hóa thành Bồ Tát.
  5. Dùng đồ ăn ngon tu siêu độ.
  6. Trong mọi hành động luôn có Bổn tôn.
  7. Đi ngủ tu miên quang.

Lấy quán tưởng, trì chú dung nhập vào hoàn cảnh công việc, những việc này là có thể làm được, tôi nhắc lại bài “Mộng thơ” của Vương An Thạch: Biết đời như mộng chẳng mong cầu, Tâm không mong cầu được thanh tịnh. Khi ở trong mộng theo cảnh mộng, Công đức thành tựu cũng huyễn thôi.

Kì thực, người làm kinh doanh cho dù là bận rộn đến đâu thì cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi, cần phải hiểu được cách dung nhập thì mới tốt.

Có người nói: "Xin lấy nhà hàng làm ví dụ, Lư Sư Tôn dạy chúng tôi cách tu quán như thế nào?" Tôi nói: Hãy trì chú vãng sinh siêu độ cho những thịt cá mua về. Quán tưởng nhà hàng thành đàn thành. Quán tưởng khách hàng là Bồ Tát. Bạn tự mình quán tưởng chính mình là A Di Đà Như Lai. (hoặc Bổn tôn) Làm việc gì cũng trì chú Bổn tôn. (niệm thầm) Thậm chí là rửa bát đĩa cũng trì chú đại bi, để thanh tịnh thân tâm chính mình. (Quán tưởng chính mình hóa thành bát đĩa.) ...

Hãy quán tưởng, hãy trì chú, nhập tam ma địa, tinh thần tập trung.

Tôi viết một bài thơ: "Bận rộn tới ngập đầu Quán tưởng rồi trì chú. Huyên náo hóa viên dung. Trừ bỏ mọi ô nhiễm." (Cho dù là đầu bếp nấu ăn trong bếp thì cũng dựa vào quán tưởng và trì chú để hóa giải nghiệp sát của bản thân.)

Tôi nói: "Ở thế giới Ta Bà, Người người đều bận rộn. Vui vẻ mà chấp nhận, Đàn tràng là mọi nơi." Tôi hết lòng hết lời dạy mọi người như vậy, không biết mọi người có thể làm được hay không đây?

11. Người "răng sắt"

Tôi từng gặp một người rất là "răng sắt". [Răng sắt là từ lóng, chỉ những người nghi ngờ và không tin vào những chuyện siêu nhiên, tâm linh hay quỷ thần.]

Ông ta nói: "Tôi không tin những gì ông nói." Tôi hỏi: "Không tin cái gì?" Ông ta đáp: "Tôi không tin thiên đường, tôi không tin địa ngục, tôi không tin quỷ thần, tôi không tin nhân quả luân hồi..."

Tôi hỏi: "Thế ông tin cái gì?" Ông ta đáp: "Người chết như đèn tắt, chẳng còn gì nữa." Tôi hỏi: "Thế ông tìm tôi để làm gì?" Ông ta đáp: "Ông đến độ tôi mà! Xem ông độ như thế nào." Tôi cười một cái. Tôi nói: "Ông về đi! Rảnh thì đến chơi!" Ông ta bối rối ra về.

Tôi nhớ đến một bài thơ. "Ngộ rồi đừng cầu tịch diệt Tùy duyên chỉ tiếp người mê Những thứ tà kiến tầm thường Dễ dàng quy về thực tế Ngũ nhãn tam thân tứ trí Lục độ vạn hành tu tề Như ngọc mani tròn sáng Lợi người thêm cả lợi ta."

Cá nhân tôi (Lư Sư Tôn) chỉ là tùy duyên mà độ những người mê muội, lấy tâm bình thường mà độ chúng sinh. Có duyên thì anh đến, Không có duyên thì anh đi. Tất cả, tất cả, tất cả đều chưa bao giờ miễn cưỡng. Không tăng, Không giảm. Tôi đã độ bao nhiêu chúng sinh? Tôi không độ bao nhiêu chúng sinh? Hoàn toàn tôi không để ý đến. Anh tin cũng được! Không tin cũng được! Cứ kệ đi!

Rốt cục tôi đã hiểu điều gì? Để tôi nói cho bạn biết! Đây là ngộ cảnh chân chính của tôi. "Xem ra tất cả đều hư vọng, Bồ Đề cũng là tên giả lập nên, Bởi vì, Sắc - không - sáng - tối vốn là một. Tôi cũng chẳng phân biệt không hay giả Đã ngộ thì sẽ mang tên tịnh thổ Càng chẳng phải Thiên Trúc Tào Khê Ai bảo Cực Lạc ở Tây Thiên Hiểu rồi thì biết Tôi là Phật chân chính Chẳng phải nghi ngờ."

Tôi đã nói với rất nhiều người rằng: "Tôi hoàn toàn không bỏ rơi người "răng sắt" đó, tôi có bảo ông ta có thời gian rảnh thì đến chơi, tất cả sẽ từ từ mà tới, tôi không vội, vội cũng chẳng làm được gì. Tôi nhập vào trong mộng của ông ta, chơi một chút trò chơi trong mộng." Tôi cũng không thấy có gì phiền não. Điều này rất quan trọng.

Bài thơ của Như Can hòa thượng: "Trà xanh một chén thấm ngọt họng Lễ Phật lâu ngày tâm mắt sáng Cần cù tinh tấn bỏ tham sân Thực tu ấy là chẳng phiền não." (Chẳng còn phiền não cũng là điều cốt yếu.)

12. Từng muốn làm một du tăng

Sau khi tôi xuống tóc xuất gia, tôi từng muốn là một du tăng, nói cách khác là: Một bát cơm muôn nhà, Một mình đi vạn dặm.

Cũng tức là: Thôn này qua thôn khác Bưng bát tới từng nhà Chắp tay niệm tên Phật Quảng truyền lòng từ bi.

Mặc dù tôi có ý nghĩ quảng đại bao la như trời biển ấy, nhưng trong xã hội hiện đại này đã không còn thực hiện được.

Bài thơ của Đại Sán hòa thượng: "Viễn du có gì hay? Bốn mùa đầy hứng thú Xuân hạ cầm gậy lê Thu đông khoác áo bông, Theo núi tìm chùa cũ, Gặp nước thấy con thuyền. Chân trời đầy chướng khí Lo lắng phải làm sao."

Bài thơ này có thể xem như là bài thơ của du tăng, du tăng hoàn toàn không có sự tự tại như vẫn tưởng tượng. Vẫn còn nhiều chướng khí. Vẫn còn nhiều nỗi lo. Nếu mắc bệnh rồi thì sẽ càng khó chịu đựng!

Chi bằng: "Ai bảo đỉnh Thứu khó gặp Phật, Phật ở trong tâm nào thấy đâu? Vượt núi băng sông cũng công cốc, Chi bằng ngồi nghiêm tại nhà mình." (Bài thơ của hậu duệ Phật.)

Kì thực, vào lúc tôi còn thanh niên trai tráng, tôi đã đi đến khắp các phân đường ở Đài Loan, đi đến khắp các phân đường trên thế giới, dấu chân tôi có ở khắp năm châu. Vì truyền pháp Thời Luân Kim Cang mà tôi đã đi truyền pháp khắp nơi trên thế giới.

Giờ đây thì tôi sống cố định tại Nam Sơn Nhã Xá, không muốn lại nay đây mai đó nữa. Tuổi trẻ có cách nghĩ của tuổi trẻ, bây giờ có cách nghĩ của bây giờ. Mặc dù, Tây Ban Nha mời tôi đến. Mặc dù, Brazil mời tôi đến. Mặc dù, New Zealand mời tôi đến. (Australia mời tôi đến.) Mặc dù, Đài Loan mời tôi đến. Mặc dù, Sri Lanka mời tôi đến. Mặc dù, Campuchia mời tôi đến. ...

Tôi ngưỡng mộ hai bài thơ của Diệu Thanh hòa thượng: "Bước chân tham đi khắp, Núi sông địa linh này. Gió lay bờ lau trắng, Mưa gột ngọn trúc xanh. Cánh đồng rộng ngoài thành Bãi chợ vắng người qua Cảnh yên ắng thanh tịnh, Đáng ở lại trăm năm." (Nam Sơn Nhã Xá của tôi cũng chính là nơi mà tôi muốn dừng và ở lại trăm năm.)

Còn nữa: "Cầm bát ngắm tà dương, Nơi này ta dừng bước Nghe vi vu gió thổi, Mưa tạnh thấy hoa thơm. Chọn một chốn tham thiền, Đạo tràng Phật tìm đến. Từ bi ngộ thế gian, Thời gian đừng lãng phí."

Khi sống tại Nam Sơn Nhã Xá, tôi đã biết tôi không cần chuyển nhà nữa. Tâm tôi đã định rồi. Cuộc đời này của tôi dừng lại ở nơi đây. Đây là điểm cuối của tôi. Hai bài thơ của Diệu Thanh hòa thượng chính là mô tả bức chân dung của tôi. Tôi sẽ ở tại đây mà quy mệnh về hư không.

Mỗi ngày, ban ngày tôi sẽ vì đệ tử mà tu pháp tiêu tai, tăng ích, kính ái, để cứu độ chúng sinh khỏi khổ ách. Mỗi ngày, ban đêm tôi sẽ vì đệ tử mà tu pháp hàng phục, kiêm tu siêu độ.

Tôi siêu độ cho những linh hồn chết vì dịch cúm Corona năm 2020, dùng thuyền pháp lần lượt đưa họ về cõi tịnh độ. Tâm tôi đã dừng lại nơi này. Thân tôi cũng dừng lại nơi này. Om mani padme hum.

13. Thơ về sáu pháp Naropa

Bài 1: "Xung đỉnh xạ pháp mạch phải thông Khí tụ hòa hợp phải tương đồng Như tên bắn ra, Bay vào không trung."

Chú thích: sau khi lỗ trên đỉnh đầu mở rồi thì mỗi tháng chỉ tu pháp một lần, pháp này tu quá nhiều sẽ mắc bệnh. Đầu tiên cần thông trung mạch, sau đó khí xung lên đỉnh đầu. Pháp Bảo bình khí, lúc tán khí, đầu tiên cũng phải xung lên đỉnh đầu.

Bài 2: "Đạo của chuyết hỏa là thần thánh, Khẩu quyết quan trọng là điều chuyển Nung đỏ kim sắt hoặc kim đồng Ngọn lửa tự nhiên, Qua chiếc cầu, Con đường công phu này chẳng hề xa. Sống trên núi cao. Sống nơi thành thị. Đều có thể tu pháp này."

Chú thích: Đạo lý của pháp Chuyết hỏa trong Mật tông và Đạo gia đều tương thông, một bên gọi là chuyết hỏa, một bên gọi là ôn dưỡng. Giống như chức năng của bễ lò rèn, dùng ý như lửa, dùng khí như gió, minh điểm trắng đỏ là củi đốt. Đầu tiên là từ một điểm, rồi thành một sợi, rồi thành một mặt phẳng, thế rồi tràn đầy khắp tam giới.

Bài 3: "Thân này quý giá, Nhưng vẫn là huyễn. Lời như tiếng vọng, Cũng là chẳng có. Nhìn thấu nhân duyên hội hợp, Ý niệm, Vô sở cầu."

Chú thích: một con người cũng giống như một huyễn ảnh, như trăng trong nước, như ảnh màu, như ngọn lửa, như giấc mơ, như tiếng vọng nơi hang cốc, như ảo ảnh, như mây, như cầu vồng, như điện, như bong bóng, như ảnh trong gương. Pháp này tịnh trừ hết mọi bám chấp mê muội của phàm phu.

Bài 4: "Mật giáo tu mộng là chí yếu, Tri mộng, Minh mộng, Chuyển mộng, Theo thứ tự, Căn bản Thượng sư chỉ dạy bí quyết. Nội ngoại biến chuyển chẳng bằng phương thuốc thông thường."

Chú thích: nếu vẫn chưa nhận biết được giấc mơ, chưa hiểu về giấc mơ, chưa chuyển đổi được giấc mơ, thì hãy hướng về Thượng sư, Bổn tôn mà phát tâm hối lỗi sám hối, thành khẩn xin gia trì. Tại nơi cổ họng, dùng bốn chữ a, lu, ta, la, di chuyển mạnh mẽ theo vòng tròn hướng từ phải qua, miệng cũng tụng chú, bốn chữ này đi vào trong chữ Om. Chữ Om biến thành ánh sáng đỏ vô lượng, tràn đầy toàn thân, cứ như vậy đi ngủ chắc chắn sẽ có hiệu quả kì diệu.

Bài 5: "Đức hạnh tu đến tám trăm, Âm công tích đủ ba nghìn, Tự tính trụ vững trong tam ma địa, Một sát-na, Quang minh tự tại hiển hiện, Lập tức giải thoát chẳng thoái lui khỏi cõi trời."

Chú thích: khi khoảnh khắc tịnh quang xuất hiện, như mặt trời và ánh sáng, tự tính tự hiển hiện, không phải do thứ khác đưa tới. Lúc này có thể lập tức giải thoát, chỉ trong một sát-na, có thể đạt đến địa trang nghiêm kiên cố, sau đó tiếp tục đi lên đến cảnh giới hư vô.

Bài 6: Dịch chuyển thần thức thân trung ấm. (Chỉ truyền dạy trực tiếp.)

14. Bài ca khuyên đời của Liên Trì đại sư

Người trong giới Phật giáo đều biết đến đại sư Liên Trì của triều đại nhà Minh. Ông chính là hòa thượng Châu Hoằng.

Ông đã viết sáu bài thơ ca, đặt tên là "Đông gia phụ", là để độ cho người vợ của mình là Dương Thị. [Đông gia phụ nghĩa là người đàn bà của ta.]

Những gì ông viết đều nói về sự việc vô thường xảy đến nhanh chóng để cảnh tỉnh con người. Lời thơ súc tích, dễ hiểu, có pháp vị, có thể đọc tụng thành tiếng.

Thơ như sau:

"Người đàn bà của ta, khỏe như hổ, bụng chửa vẫn đếm tháng ngày. Đêm qua còn một mình đứng tựa cổng làng, sớm nay đã về với đất vàng.

Người bây giờ, vẫn thế chăng, nơi chốn xa xôi nào thể biết. Hỏi thăm bạn bè thân thích, năm qua năm tới chết bao người?

Thư vừa đến, thơ Tử Dương, lời nói ra thật chẳng dám tin. Qua còn cưỡi ngựa trên phố, sớm nay đã ngủ trong quan tài.

Người lanh lợi, đừng ngủ quên, nghĩ rằng người khác và ta cùng một loại. Cô nhi nhìn nhau chẳng ai hơn ai kém, nhìn việc trước mắt mà làm ví dụ.

Chui bụng ngựa, nhập thai trâu, địa ngục buồn đau ôi thê thảm. Nếu vẫn muốn có được thân người, từ biển Đông câu lên cái chũm chọe mà chơi.

Ta làm gái hát, thật khổ lắm thay, nước mắt rơi, máu tươi chảy. Giao tình một đời mấy câu nói, theo hay không theo chàng tự quyết."

Đọc "Đông gia phụ", tôi nhớ đến người thân của mình, họ cũng đều đã đi xa cả rồi, sao không khỏi cảm thấy thê lương!

Khi tôi học tiểu học, bà nội tôi ở Cao Hùng mắc bệnh thận, đau đớn vô cùng. Sau đó bà thấy có người muốn đưa bà đi. Bà liền đem búa tạ ra đánh. (Búa tạ thật sự.) Sau đó người nhà lấy lại cây búa tạ. Bà nội liền qua đời! (Bà nội tôi là người con gái bị bó chân, bà luôn đưa cơm hộp đến trường cho tôi.)

Mẹ tôi bị trúng phong, sau đó chữa khỏi. Bà sang Mỹ tìm tôi. Một hôm, vào buổi trưa, bà tự mình đi tắm (việc này hoàn toàn không giống với thói quen của bà), rồi còn tự mình lau tóc, huýt sáo. Đến khi mọi việc xong xuôi. Bà bị trúng phong lần thứ hai, rồi đi luôn. (Mẹ tôi là người tôi mong nhớ mãi mãi.)

Bố tôi cũng mắc bệnh thận, phải chạy thận rất lâu. Nhiều năm chạy thận. Đột ngột một ngày, ông cũng đi luôn. (Bố mẹ tôi đều quy y tôi.)

Dì của tôi, khi tôi còn nhỏ, dì đã chăm sóc cho tôi rất nhiều. Sau khi tôi lớn, tôi cũng thường sống ở nhà dì. Dì giống như người mẹ thứ hai của tôi. Khi tôi học cấp ba, mỗi dịp nghỉ hè nghỉ đông, dì đều trông nom chăm sóc tôi. Sau này, vì tôi qua Mỹ nên nhiều năm không gặp mặt dì.

Có một lần, tôi trở về Đài Loan, làm pháp hội tại nhà tưởng niệm Tưởng Giới Thạch, dì bất ngờ xuất hiện, đưa tay kéo lấy tay tôi. Bỗng chốc, tôi nhớ đến những ân tình mà dì dành cho tôi, thật sự cảm nhận rất sâu sắc. Không lâu sau, dì cũng ra đi!

Cậu trẻ của tôi, chính là người hay đưa tôi đến các sàn nhảy. Cậu rất chịu chơi. Mượn cớ tìm tôi đi chơi, kết quả là cậu đưa tôi đi đến sàn nhảy, tôi biết khiêu vũ cũng là từ cậu mà ra. Cậu đưa bạn gái của cậu đến tham gia pháp hội của tôi. Rồi có một năm, cậu cũng ra đi rồi! (Tôi vẫn còn nhớ gương mặt tươi cười của cậu.)

Còn nữa, con gái của bác tôi, chị gái tôi, anh rể tôi, lúc tôi nhỏ họ cũng đều chăm sóc tôi rất nhiều. Họ đều ra đi cả rồi! (Họ từng đỡ đần cho cuộc sống của bố mẹ tôi.) (Tôi đã lần lượt siêu độ cho từng người.)

15. Vạn lự nhất khuông vong

Triều Minh, hòa thượng Bản Dĩ có một bài thơ: "Buổi sớm nơi tịnh xá Gió mát và hoa thơm Vững lòng tin thanh tịnh Quên hết mọi nghĩ suy."

Bài thơ "Vạn lự nhất khuông vong" của hòa thượng Bản Dĩ rất hợp với lòng tôi. Tôi của năm 76 tuổi này mới có thể hiểu được hết câu nói này. [Vạn lự nhất khuông vong nghĩa là vạn suy nghĩ đều quên hết.]

Người hỏi tôi: "Chân Phật Tông tương lai ra sao?" Tôi đáp: "Không biết!" Người hỏi: "Đài Loan Lôi Tạng Tự tương lai ra sao?" Tôi đáp: "Không biết!" Người hỏi: "Tây Thành Lôi Tạng Tự tương lai ra sao?" (Seattle) Tôi đáp: "Không biết!" Người hỏi: "Cầu Vồng Lôi Tạng Tự tương lai ra sao?" Tôi đáp: "Không biết!" Người hỏi: "Lư Sư Tôn! Chẳng phải là ngài biết thần toán sao? Vì sao toàn trả lời là không biết?" Tôi đáp: "Cho dù là tôi có đoán, cát hung họa phúc, sinh vượng tử tuyệt, đoán rồi thì sao đây? Không đoán thì sao đây? Tất cả mọi thứ của thế giới Ta Bà chẳng có can hệ gì đến tôi cả."

Người hỏi: "Con cái của ngài, cháu trai, cháu gái của ngài thì sao?" Tôi đáp: "Mặc kệ chúng thôi!" Người hỏi: "Toàn bộ các đồ đệ của ngài thì sao?" Tôi đáp: "Mặc kệ họ thôi!" Người hỏi: "Còn bản thân ngài thì sao?" Tôi đáp: "Cũng kệ thôi!" Người hỏi rất ngạc nhiên: "Lư Sư Tôn! Sao ngài có thể cũng mặc kệ bản thân được, đây gọi là kiểu thiền gì?" Tôi đáp: "Thiền quên hết!"

Bài thơ "Vạn lự nhất khuông vong" này chính là tâm trạng của Lư Sư Tôn đó! Một câu "chẳng can hệ" là xong hết.

Hòa thượng Bản Dĩ còn viết: "Nước hồ mùa thu tĩnh lặng, Mây thu trên núi nhàn tênh. Thanh xuân trả về hư vô, Đi hết một vòng tuần hoàn. Mọi sự giờ đây đã ngộ, Sao chẳng biết thế mà lo? Ẩn cư bao điều lý thú Giống như chặn hết ưu phiền."

Tôi nói: Ẩn cư. Đóng cửa chặn hết ưu phiền. Chính là vừa tĩnh vừa nhàn. Điều chúng ta cần lĩnh ngộ được là, bất kì sự việc gì rồi cũng qua đi trở thành quá khứ, là bởi vì nhìn thấu được vạn sự rồi thì thấy là cũng chẳng có việc gì cả!

Người đọc lịch sử đều biết rằng: Bao nhiêu việc ngày xưa, Chỉ còn trong câu chuyện. Bao nhiêu việc ngày nay, Đều lại thành lịch sử. Cười lớn ba tiếng ha ha ha!

16. Thật sự không khác biệt

Thơ của hòa thượng Đại Đồng: "Mênh mông khách thập phương, Cần mẫn lễ hòa thượng, Chẳng biết nhân ngã tướng, Sao biết đại tiểu thừa."

Thơ của Trương Bá Đoan: "Ngã tính nhập vào Phật tính, Mọi phương Phật tính như nhau Suối lạnh in bóng trăng mảnh Một trăng nghìn ảnh khắp nơi. Nhỏ thì một phân chẳng biết, To thì đầy khắp ba nghìn. Cao thấp chu vi chẳng giảm. Nói gì dài ngắn nông sâu."

Tôi nói: Hai bài thơ này xem ra thì chẳng hề giống nhau. Bài đầu thì nói về không có nhân ngã tướng, không có đại tiểu thừa. Bài sau thì nói về trăng trong nước. Hai bài thơ này khác nhau. Nhưng triết lý trong đó thì là một.

Cá nhân tôi thích vạn thứ quy về một, một quy về 0, 0 quy về Phật tính.

Ví dụ: Đầu tiên tôi theo đạo Cơ Đốc, sau đó lại học Đạo giáo và Ngũ thuật, sau đó học Phật môn Hiển giáo, cuối cùng mới học Mật giáo. (Tôi cũng đọc kinh Koran.)

Trong những thứ tôi đã học qua, tôi chưa bao giờ vứt bỏ. Tôi nói Thượng đế, Jesus là Guru của tôi.

Mật giáo Đại viên mãn có chín thừa: Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, Sự Bộ thừa, Hành Bộ thừa, Vô Thượng thừa, Ma Ha Du Già thừa, A Nô Du Già thừa, A Để Du Già thừa. Đây là một kiểu thứ tự của con đường đạo. Từ cơ sở đi đến tột cùng. Tiểu thừa, Đại thừa, Kim cương thừa cũng như vậy.

Dân gian thích nói rằng: Nho giáo. Đạo giáo. Thích giáo. Tôi thì cho rằng: Nho giáo là Phật giáo Nhân thừa, Đạo giáo là Thiên thừa, là Phật giáo của Thần Tiên thừa, còn Thích giáo là Phật giáo viên mãn.

Thơ của Trương Bá Đoan:

"Pháp pháp pháp vốn không pháp, Không không không cũng chẳng không. Yên tĩnh ồn ào, nói hay im lặng, vốn như nhau. Trong mơ đã từng nói mơ. Dụng trong hữu dụng cũng có vô dụng, Công trong vô công cũng đã mang công. Quả chín tự nhiên sẽ đỏ. Đừng hỏi cần trồng ra sao."

Tôi thích: Quả chín tự nhiên đỏ. Đừng hỏi trồng ra sao.

Tôi nhìn ra rằng: Con đường tu hành này rối rắm phức tạp, học theo tông phái này lại công kích tông phái khác. Phân biệt tông phái. Phân biệt các thừa. Phân biệt tôn giáo. Mỗi "đỉnh núi" đều phân biệt lẫn nhau.

Nhưng tôi thì khác: Tôi tôn trọng giới luật của Tiểu thừa. Tôi tôn trọng trí huệ của Đại thừa. Tôi tôn trọng sự viên mãn của Kim cương thừa. Nếu như cứ công kích tới công kích lui, anh phá tôi, tôi phá anh, thì làm sao có cái gì là vĩnh viễn, sao đạt đến thiên trường địa cửu? Thế nào là quả chín tự nhiên đỏ?

17. Một chương về bài thơ "Thềm nghe suối"

Hòa thượng Tông Lặc có một bài thơ “Thềm nghe suối” như sau: "Nếu có người tai chỉ nghe suối, Tiếng róc rách cứ chảy qua tai, Vui qua ngày từ rừng ra suối, Tiếng đàn tơ chẳng dứt bao giờ. Bên tai này âm thanh tìm đến, Trong tĩnh lặng hướng vọng ra ngoài. Đêm sâu thẳm đèn xanh hắt bóng Tựa khung cửa ngắm ánh trăng lên."

Tôi nói: Đọc bài thơ này có thể tưởng tượng ra một vị hòa thượng ngồi yên lặng bên ngờ suối, tai chỉ nghe âm thanh tiếng suối chảy. Dòng âm thanh chảy róc rách này xuyên qua rừng chảy ra thiên nhiên rộng lớn, bay lên tận trời xanh. Âm thanh tiếng suối này vĩnh viễn không dừng dứt, giống như tiếng đàn dây tơ vậy.

Cuối cùng thì: Hữu thanh biến thành vô thanh. Vô thanh tuyệt hơn cả hữu thanh. Tiến nhập vào cảnh giới: Tất cả đều tiêu trừ hết. Tính Không yên tĩnh. Một mình tựa vào khung cửa Đêm sâu thẳm.

Bài thơ này đã thật sự mô tả tâm cảnh của thiền, từ có thành không, từ hữu thanh nhập vào vô thanh. Cuối cùng là thiền định. (tam ma địa)

🌟

Trong vườn hoa của Biệt thự Cầu Vồng, tôi đã xây dựng một mái hiên hình lục giác, tôi đặt tên là: Thềm nghe mưa.

Mỗi khi trời mưa có thể đứng ở trong mái hiên này để nghe tiếng mưa. Tí ta tí tách, Tí tách tí ta, Lúc to lúc nhỏ, Lúc nhỏ lúc to, Bỗng nhiên mưa tạnh, Âm thanh ngừng bặt. Vọng nhìn trời xanh, Một biển mây trắng.

Tôi từng nghe mưa ở thềm nghe mưa, nên tôi hiểu được tiếng lòng của hòa thượng Tông Lặc. Tôi viết một bài thơ: "Tiếng mưa hóa thành vô tận, Nghe mưa, Vui hân hoan miên man, Theo mưa mà đi, Bất kể đông tây nam bắc. Bỗng chốc mưa tạnh, Trước mắt dường như thông suốt. Nhập sâu vào tam ma địa, Kiến chứng bản chất sự thật. Có mưa lùng bùng, Chẳng mưa trống không."

🌟

Hòa thượng Tông Lặc còn có một bài thơ: "Chẳng thể bảo ánh trăng, soi vào trong lễ đường Chẳng thể hẹn mây trắng, đợi trên ngọn tùng kia. Điều này giờ đây khó, sau này gặp dễ hơn. Minh Triều ở Đông Quách, cách sông vẫn nghe chuông." [Minh Triều là triều đại nhà Minh, Đông Quách vừa là tên gọi cũ của Trung Quốc, vừa có nghĩa là ngoài thành phía đông.]

Tôi nói: Ánh trăng, mây trắng là đạo của tự nhiên. Gặp mặt là chuyện khó, Xa cách là lẽ thường. Đây đều là những chuyện tự nhiên bình thường.

Chúng ta phải: "Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên đạo tự nhiên. Vô câu vô thúc!" [Trích câu nói trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, câu đầy đủ là Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên, dịch nghĩa đơn giản là người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên. Chúng ta cần tự do tự tại.]

18. Một điểm linh khí

Vào triều đại nhà Nguyên, có một hậu duệ của Liêu Đông Đan Vương tên là Gia Luật Sở Tài, ông là một người đọc rộng nhiều loại sách. Nguyên Thái Tổ cho gọi ông, rất trọng dụng. Ông làm quan đến chức: Khai Châu Đồng Tri. Trung Thư Lệnh. Nguyên Tướng. Giành được sự ân sủng của Hoàng Đế.

Vào những năm cuối đời, Gia Luật Sở Tài đến học hỏi hòa thượng Hành Tú, đạt được ngộ cảnh. Từ đó, ông rời xa mọi đám đông, từ bỏ tất cả những gì ông có, ban đêm tham thiền, cứ như thế ngót nghét ba năm tròn. Sau này, hòa thượng Hành Tú đã ấn chứng cho ông, truyền cho ông áo tổ, ban cho pháp danh là Tòng Nguyên.

Hòa thượng Tòng Nguyên có hai bài thơ: Bài 1: "Hành trình vạn dặm đầy gió cát, Nam bắc đông tây đều là nhà. Trong lòng không chút niềm run sợ. Trong tâm ngưng đọng bạch liên hoa."

Bài 2: "Vừa nhập Không Môn lòng vui thay Danh lợi phù vân đều quên hết Vô tâm trước gương ai biết được Trong lửa nở đóa upala."

Tôi thích một điểm linh khí trong thơ của Gia Luật Sở Tài (hòa thượng Tòng Nguyên). Linh khí nằm ở đâu? Linh khí của bài thơ đầu tiên nằm ở tâm ngưng đọng. Thế nào gọi là ngưng đọng? Chuyên nhất chính là ngưng đọng. Hòa tan chính là ngưng đọng. Tam ma địa chính là ngưng đọng. Thu lại thành một điểm. Phóng ra tới hàng nghìn. Chính là vì không còn run sợ mới có thể sản sinh ra tâm ngưng đọng. Đây chính là một điểm linh khí.

Thế còn, điểm linh khí của bài thơ thứ hai nằm ở đâu? Chính là quên hết. Chính là vô tâm. Chính là hoa nở.

Chúng ta học Phật cần phải quên hết tài sắc, danh lợi, ăn ngủ. Tâm theo đuổi danh lợi vốn là theo đuổi những thứ vừa không vừa huyễn, đáng tiếc thay người thế tục lại cứ theo đuổi cho đến chết cũng không dừng. Đó vốn chính là những thứ chẳng thể có được, cũng có nghĩa là chẳng khi nào biết đủ.

Thế còn "vô tâm": Tôi (Lư Sư Tôn) chính là một đạo nhân vô tâm. Thiên tính mỗi người đều là Phật Sao phải nhọc công lễ thập phương Đối nhân xử thế cũng như vậy Xưa nay cứ thế mà làm theo.

Đây chính là một điểm linh khí. Còn nữa: "Hoa nở." Hoa nở chính là thấy Phật đó!

Tôi nói: Muốn thấy được chân tâm, trước tiên cần phải vô tâm, vô tâm thì tự nhiên sẽ quên hết, vô tâm mới có thể nở hoa. Pháp thân thanh tịnh không nằm ở bên ngoài, không nằm ở bên trong, cũng không nằm ở giữa, cũng không cần phải tìm cầu. Loại bỏ trong ngoài, loại bỏ ở giữa, mới là hoa nở. Có biết không?

19. Hiệp sĩ độc hành

Chính vào thời gian này, vì dịch cúm virus Corona hoành hành tại các quốc gia trên toàn thế giới, các bang của nước Mỹ cũng ban bố lệnh ở trong nhà.

Nhà tôi ở Nam Sơn Nhã Xá, thuộc quận Redmond bang Washington. Trong nhà chỉ có hai người. Một người là tôi (Lư Sư Tôn). Một người là Thượng sư Liên Hương. Lệnh ở trong nhà cũng có nghĩa là lệnh cấm túc. Công việc chủ yếu của Thượng sư Liên Hương là nấu cơm. Công việc chủ yếu của tôi là rửa bát. Ha ha ha! Không ngờ Lư Sư Tôn tôi đã trở thành lao công rửa bát rồi. Ngoài việc tu pháp, viết văn, thời gian còn lại thì tôi chỉ có ăn cơm và đi ngủ.

Bang Washington từ tháng 3 đã ban hành lệnh ở trong nhà, nghe nói lệnh này kéo dài đến tháng 6 mới dừng. (Ngày 31 tháng 5.) Ngoài ra, thống đốc bang nói: "Còn phải xem tình hình dịch bệnh như thế nào mới quyết định động thái tiếp theo!" Quãng thời gian này, tôi cảm nhận thấy mình chính là một: "Hiệp sĩ độc hành."

Tôi viết một bài thơ về Hiệp sĩ độc hành: "Ngày ngày tháng tháng Ngày qua ngày Mê đọc kinh thư Quyển lại quyển Tương lai sau này chẳng nghĩ suy Thiền định Bất kể nông sâu.

Tôi nhớ các đệ tử Tình cảm vô hạn Chỉ ở trong tim Chẳng phải bày ra trước mắt Một hồi ức lại một hồi ức Giá như trong mơ Lại được gặp nhau."

Chú thích: Bài thơ này là thơ tự do, cũng xem như là một bài thơ hài hước, tôi viết có phần thô sơ. Nhưng nó phản ánh sự bất lực không còn lựa chọn nào khác trước lệnh ở trong nhà và lệnh cấm túc. Lúc này, các quốc gia trên thế giới đa phần cũng đều đóng cửa biên giới rồi. Seattle Lôi Tạng Tự và Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở bang Washington đều khóa cửa kĩ càng rồi. Người bình thường không thể ra vào được.

Bởi vì một khi đã đóng cửa biên giới thì các đệ tử ở các nước cũng không thể nào đến Seattle được. Đã hình thành nên một thế giới không qua không lại. Tôi không phải là hiệp sĩ độc hành thì là cái gì?

Tôi yêu thích bài thơ của hòa thượng Bản Thành: "Trường Giang nam bắc một mình ta, Chẳng có rượu, thơ chẳng nhạc, cờ Nếu hỏi cảnh sắc có gì đẹp, Mây tụ mây tan một bậc thầy." Ý của bài thơ này nói về bản thân cũng giống như mây, một mình vân du khắp nơi.

Còn nữa: Thơ của hòa thượng Tổ Bách: "Bảy năm vân du theo cánh bèo Ngày đội nắng gắt đêm đội sao Nghìn núi vạn sông đều đi khắp Chỉ có công lao đạo chưa thành."

Tôi nói: Mọi người đều là hiệp sĩ độc hành. Điều khác biệt là ở chỗ, có người thì độc hành trong nghìn núi vạn sông, có người thì độc hành ở trong nhà. Thử nghĩ xem, bạn có độc hành hay không?

20. Ba bài thơ của hòa thượng Phổ Minh

Triều đại nhà Nguyên, hòa thượng Phổ Minh có ba bài thơ. Bài 1: "Nói như gió lật sóng Đá cũng phải gật đầu Huyền công rồi diệu chỉ Diễn thuyết gì cũng hay."

Bài thơ này có tên là "Thuyết pháp". Ý tứ hàm súc là khi thuyết pháp, giống như gió thổi sóng nổi, nói đến chỗ tinh hoa vi diệu thì đến hòn đá cũng phải gật đầu. Còn nói: giảng huyền công, nói diệu chỉ, mỗi thứ đều có cái hay riêng của nó! [Huyền công là công phu bí mật, huyền bí; diệu chỉ là bằng chứng, chứng cứ kì lạ.]

Tôi viết một bài thơ đối ứng như sau: "Lư Sư Tôn ngồi trên pháp tọa Nhìn ra xa Thấy người ta nhỏ xíu

Đến khi thuyết pháp Từ tốn khoan thai Ấy thế mà quét sạch bụi trần.

Tôi cũng chẳng trang nghiêm đạo mạo Mà hay hài hước hóm hỉnh Để mọi người cười ha ha ha.

Chẳng có huyền công Chẳng có diệu chỉ Chỉ là trong cuộc sống thường ngày Thể hiện ra một chút khéo léo."

Bài 2: ”Sao sánh bằng Nam Sơn Tuổi nay còn trẻ lắm Râu tóc vẫn chưa bạc Chí xử việc còn dài."

Bài thơ này là do hòa thượng Phổ Minh viết, là thơ chúc thọ dành cho tăng nhân Pháp Thạch. Tôi đọc xong, có cảm hứng, cũng xem như là một sự đối ứng vậy!

Bài thơ tôi viết như sau: "Năm nay bao nhiêu tuổi Tốt nhất là Quên luôn.

Sợ nhất người chúc thọ Thắp lên mấy cây nến Miệng thì nói lầm rầm.

Thế rồi lại hát lên Dù là chúc vui vẻ Nhưng tối đó Ngủ được sao

May mà có học Phật Phải vãng sinh tịnh độ Việc này thì Tôi làm được."

Bài 3: "Hình hài này ta chẳng có được Tồn tại diệt vong vốn thường tình Giải thoát quay về bản tính thực Ưu tiên một mình ta vãng sinh."

Tôi viết một bài thơ đối ứng như sau: "Vì vô sinh vô tử Sao có tồn và diệt Hư không chẳng biến hóa Phật Quốc cũng quên luôn."

Ha ha! Lư Sư Tôn tôi đây bắt chước theo Lục Tổ Lư hành giả mà viết bài thơ này. Ai là người tài cao? (Đương nhiên, hòa thượng Phổ Minh tài cao.)

21. Thiền tăng hòa thượng Hữu Đường

Tôi (Lư Sư Tôn) có một phát hiện: Con người ngày nay xây chùa, thích đặt tên cho ngôi chùa mình xây là "XX Thiền Tự" để biểu thị tăng nhân trong chùa đều là thiền tăng. Tôi thấy thế! Cảm thấy rất buồn cười! Không hiểu ra làm sao cả. Ha ha ha!

Bởi vì bọn họ đều không biết cái gì là thiền. Bây giờ tôi xin hỏi mọi người, cái gì là thiền? Tôi thấy cũng có rất nhiều người trố mắt, duỗi chân, cứng họng, một câu cũng không dám nói. Tôi "kim kê độc lập". Bạn có biết ý nghĩa sâu xa là gì không? [kim kê độc lập là gà vàng đứng co một chân]

Thậm chí có người đặt tên cho chùa của mình là Bát Nhã Thiền Tự, cái này còn ghê gớm hơn! Bát nhã là trí huệ vĩ đại. (Phật huệ) Thiền tự là biết được chân đế của trí huệ. Thế nhưng trụ trì ở đây lại là một người đàn bà tầm thường. Thật sự là quá châm biếm rồi!

Nói dông dài như vậy đủ rồi, trở lại vấn đề chính. Triều đại nhà Nguyên có một tăng nhân tên là hòa thượng Hữu Đường, ông học pháp từ đại hòa thượng Tịnh Từ, là một thiền tăng có tiếng. Ông có hai bài thơ viết về chuyện vân du mà tôi vô cùng tán thưởng.

Bài 1: "Thu phong bồng đảo tiên hương viễn Dạ tuyết lam quan khách lộ trường Cổ Phật hữu ngôn như giảo nguyệt Chiếu nhân phiền não tác thanh lương."

Bài 2: "Ta tự an tâm với chính ta Bao mơ mộng khác chẳng phiền hà Nuôi cho ngựa gỗ đuổi theo gió Thả trâu đất uống cạn biển sâu."

Tôi nói: Bài thơ đầu không phải là thơ thiền, nhưng lại có sự đối xứng một cách tuyệt đẹp. Thu phong đối dạ tuyết. [gió thu đối tuyết đêm] Bồng đảo đối lam quan. [núi Bồng Lai đối cổng Lam Điền] Tiên hương viễn đối khách lộ trường. [chốn tiên xa đối khách đường dài] Giảo nguyệt đối thanh lương [trăng sáng đối mát rượi] Đây là một bài thơ hay, khiến người ta ngâm vịnh và có nhiều dư vị! Có thể tưởng tượng ra quang cảnh khi vân du đến những chốn xa xôi, vừa đẹp vừa thê lương.

Tôi cho rằng bài thơ thứ hai chính là một bài thơ thiền. Ta tự an tâm với chính ta Vì sao tự ta an tâm lại chính là thiền? (Có thể đối chiếu với công án Nhị Tổ Thiền Tông Huệ Khả cầu Tổ Sư Đạt Ma an tâm giúp.) Bao mơ mộng khác chẳng phiền hà (Câu thơ này quá hay, tôi thích nhất là câu nói "không can hệ", rất hợp với câu "chẳng phiền hà".) Nuôi cho ngựa gỗ đuổi theo gió. (Ngựa gỗ làm sao có thể đuổi theo gió được? Ở đây có thiền cơ, mọi người có hiểu không? Ai không hiểu thì đến hỏi tôi.) Thả trâu đất uống cạn biển sâu. (Trâu đất làm sao uống nước biển? Ở đây đương nhiên có thiền cơ, mọi người có hiểu không? Ai không hiểu thì cũng có thể đến hỏi tôi, tôi sẽ nói cho bạn rõ ràng.)

Tôi cũng viết một bài thơ thiền: "Không rượu cũng say. Chẳng lạnh trùm chăn. Trèo núi lội suối. Nằm ngủ trong mây." Xin hỏi các thiền sư, thiền hòa tử, thiền khách, lão Lư tôi rốt cục đang nói cái gì?

22. Ai đến hỏi về thiền?

Một hôm, có một thiền sư đến thăm tôi. Tôi hỏi: "Ông từ nơi nào đến?" Thiền sư đáp: "Từ nơi đến mà đến!" Tôi hỏi: "Ông đi đến đâu?" Thiền sư đáp: "Từ nơi đi mà đi!" Tôi hỏi: "Ông đến thăm tôi, muốn hỏi việc gì?" Thiền sư đáp: "Không có việc gì!" Tôi nói: "Không có việc gì thì uống trà đi!"

Lúc này, thiền sư từ trong túi tăng lấy ra một tờ giấy, trên đó có viết một bài thơ. Tác giả bài thơ này là hòa thượng Tiết Tung. "Hỏi đạo an định ở nơi nào, Ở sâu nơi con suối xa xôi Tâm vượn phát tác trong thiền định Chim nhỏ lặng lẽ đậu cạnh bên. Sớm trưa mây trời đã khác biệt Đỉnh núi xa gần đều như nhau. Chẳng biết ai là người hỏi pháp, Tuyết đêm làm nên cả Giang Tây."

Tôi đọc xong không nói gì, tôi cũng đáp lại bằng một bài thơ của hòa thượng Tính Trừng: "Ngày gõ trống đánh chuông Lúc cưỡi gió đạp tuyết Thường truyền đạo giải hoặc Mặc nhiên thấy uy nghi."

Lúc này, bên tám lạng đằng nửa cân, thế là hòa rồi! Vị thiền sư này không nhịn được bèn hỏi: "Nghe người ta nói, ngài có chỗ khác thường, không biết là cái gì khác thường?" Tôi nói: "Tôi thật sự có chỗ khác thường!" Thiền sư hỏi: "Là gì?" Tôi đáp: "Đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ!" Thiền sư nói: "Cái này thì ai chả biết?" Tôi nói: "Có một thiền sư không biết!" Thiền sư hỏi: "Ai?" Tôi nói: Thiền sư Phổ Viên triều đại nhà Nguyên, ông có một bài thơ mất ngủ, nói đến những đêm mất ngủ: "Mây trắng bay từng cụm Bạn cùng hạc bấy lâu. Năm tháng trôi êm đềm, Chuyện xưa tận trời trăng. Giữa sắc đông nhiễu tháp, Tiếng ri rích khắp rừng. Đêm khuya viết mộng cảnh, Ta với nến ung dung."

Tôi lại nói: "Là vị hòa thượng Phổ Viên này không biết!" Thiền sư hỏi: "Câu nào là nói về mất ngủ?" Tôi đáp: "Giữa đêm nói mộng cảnh." Thiền sư "a" lên một tiếng, không nói gì nữa. Lúc ra về, thiền sư nói với tôi: "Ngài đúng là có chỗ khác thường!" Tôi nói: "Chuyện bình thường!" (Chương sách này có thể có người đọc không hiểu, ai không hiểu xin đến hỏi tôi.)

23. Dưới lệnh "ở trong nhà"

Tháng 4, tháng 5 năm 2020, bang Washington nước Mỹ ban bố lệnh "ở trong nhà". Trước sự hoành hành của dịch cúm Corona, tôi chỉ có thể ngồi dưới ngọn đèn đơn để viết những chương sách của tôi.

Có người hỏi tôi: "Ngoài viết văn ra thì ngài còn làm gì nữa?" Tôi đáp: "Những việc tôi muốn làm nhưng bình thường không có thời gian để làm thì vào thời gian này, tôi lần lượt hoàn thành." Người hỏi: "Việc gì là việc bình thường muốn làm?" Tôi đáp: "Những sách tôi muốn đọc thì tôi đọc hết." Tôi sắp xếp phân loại lại từ đầu tủ sách đang lộn xộn của tôi. Rất nhiều sách Mật giáo được tôi lần lượt lấy ra lau sạch sẽ và cất giữ. Cái chăn cần phải giặt. Cái giường cần phải lau. Cái vỏ gối cần phải giặt. Cái ghế sofa cần phải làm sạch. Cửa kính cần phải lau. Sàn nhà cần phải lau. ... (Còn có cả những chiếc long bào cần phải đính lại cúc.) Thì ra có nhiều việc như vậy đều cần tự mình làm cả.

Nam Sơn Nhã Xá không có người giúp việc. Chỉ có Sư Mẫu Liên Hương Thượng Sư. Hai người chúng tôi tuổi đều đã ngoài 70 rồi, chia nhau công việc ra làm. Ví dụ: Bà ấy nấu cơm. Tôi rửa bát.

Tôi nhớ đến bài thơ của hòa thượng Hy Trú: "Tên thơ ở khắp bốn phương, Mình ta ở nhà nhàn nhã, Thành cũ mênh mang sóng lạnh, Thành mới giấc mộng đêm dài. Tiếng chim lẩn quất rừng xa, Bóng hoa thấp thoáng lay động Dường như ngóng chờ khách tới, Giường đá chăm chỉ ta lau."

Đọc bài thơ này, tôi cảm thấy rất buồn cười, bạn không cảm thấy thế sao? Tôi là khách bốn phương, nay sống thảnh thơi tại Nam Sơn Nhã Xá. Thật đúng là: Sóng lạnh mênh mang. Mộng đêm dằng dặc. Tôi (Lư Sư Tôn) ngày ngày lau chùi cái giường gỗ của tôi.

Còn nữa: "Nhớ đến con suối xa Sự đời muốn bỏ hết Cuộn áo thành tay nải, Vượt biển núi tìm chùa. Buồm hoang mang chim nhỏ Hoàng hôn giấu tiếng kinh. Cuộc đời còn bất định, Tóc ta đã bạc rồi."

Bài thơ này cũng làm xúc động trái tim tôi, bài thơ rất đẹp, có thể ngâm vịnh. Đặc biệt là câu: "Cuộc đời còn bất định, tóc ta đã bạc rồi." Dịch bệnh này khi nào sẽ qua đi đây! Chẳng ai biết được. Xem ra khi dịch bệnh qua đi thì ngay cả tóc mai của tôi cũng đều rơi rụng rồi. Việc nhân gian đều đã thay hình đổi dạng, chỉ còn biết tìm kiếm ngôi chùa ở nơi chân trời góc biển xa xôi.

Tôi viết cuốn "Lời bộc bạch dưới ngọn đèn đơn": Ánh đèn đơn dịu dàng Ý niệm như nước chảy, Khi nào mới kết thúc? Chỉ khắc khoải thế nhân. Ôi! Dịch bệnh sao chẳng nhanh chóng qua đi vậy nhỉ!

24. Thấy núi là núi

Hòa thượng Chính Tông có hai bài thơ "Ngắm núi", thơ như sau: "Thà rằng ở ẩn trong núi sâu Sau mưa ếch cá kêu ồn ào, Tâm như đầm cũ dù náo nhiệt, Âm thanh sóng nước nào có đâu."

Và: "Thưa thớt trùng điệp núi gần xa, Ôm đàn bầu bạn với thông già, Khó rời tiếng suối vang đẹp đẽ, Buông đàn bỏ áo ngắm non cao."

Hai bài thơ này khiến tôi nghĩ đến Biệt thự Cầu Vồng, là Cầu Vồng Lôi Tạng Tự hiện tại. Phía trước là Thiên Mã Sơn. Sau lưng là Sa Mạo Sơn. Bên phải là Bình Phong Sơn. Bên trái là Quý Nhân Sơn. Còn có Kì Sơn. Còn có Cổ Sơn. Còn có Ấn Sơn. Tôi gọi địa lý nơi đây là "thất tinh lạc địa". Tôi đề câu đối cho Biệt thự Cầu Vồng là: "Trong núi chẳng ngày tháng, Tu hành suốt ngày đêm."

Thiền tông có công án rằng: "Thấy núi là núi, thấy núi chẳng phải núi, thấy núi vẫn là núi." Có người hỏi tôi: "Là ý gì?" Tôi đáp: "Đó là tâm cảnh!" Người hỏi: "Xin Sư Tôn giải thích?" Tôi nói: Thấy núi là núi — con người bình thường thấy núi đúng là núi. Thấy núi chẳng phải núi — sau khi vào núi tu hành rồi thì cũng không cảm thấy sự tồn tại của núi nữa, tức là thân ở trong núi này, đâu còn biết bên ngoài. Có thể nói rằng người và núi hợp nhất. Thấy núi vẫn là núi — khi người trong núi tu hành đến cảnh giới siêu nhiên rồi, trở về với ban sơ, lúc này thấy núi lại là núi. (Bản thân tôi cho rằng cách giải thích này cũng tạm chấp nhận được.)

Tôi lấy tiền làm ví dụ: Thấy tiền là tiền — người bình thường đều như vậy. Thấy tiền chẳng phải tiền — người tu hành nhìn thấy tiền, cho rằng đó là chất độc, rắn độc. Tiền mê hoặc con người, lòng tham nổi lên, tiền là thứ cực kì làm hại con người ta, chớ xem tiền là quan trọng. Thấy tiền lại là tiền — người tu hành, đến được cảnh giới sâu hơn rồi, dùng tiền để xây chùa, tạc tượng Phật. Cứu tế cứu nạn bố thí. Từ bi làm việc cứu đời. Có nghĩa là mặc dù có tiền, nhưng sử dụng tiền mà không bị tiền điều khiển tâm ta.

Hòa thượng Chính Tông nói rằng: "Chẳng âm thanh chẳng sóng nước" ý giống như "thấy núi chẳng phải núi, thấy nước chẳng phải nước", là tầng cảnh giới thứ hai.

Còn nữa: "Khó rời tiếng suối vang đẹp đẽ, Buông đàn bỏ áo ngắm non cao." Hai câu thơ này lại là "thấy núi vẫn là núi" rồi đó! Thiền sư dùng "tri" và "bất tri" để làm công án: Trí tức bất tri! Bất tri là tri! Bất tri bất tri! Trí và bất tri! Ha ha ha! Làm cho mọi người loạn hết cả đầu rồi.

Tôi lấy việc Phật Thích Ca Mâu Ni cầm hoa để viết ra ba cảnh giới: Cầm hoa. Hoa chẳng phải hoa. Hoa quy về hoa, tay quy về tay. (Thử hỏi, cái nào là có?)

25. Cuộc đời thư thái

Tôi nhớ Trần Truyền Phương có kể một câu chuyện về cuộc đời thư thái: Trong một hội bạn học, có mấy người bạn học giàu có và một người bạn học sống ở vùng núi cùng ngồi chung một bàn ăn. Người bạn học sống ở vùng núi rất ngưỡng mộ mấy người bạn học giàu có, mỗi người họ đều đã có được những thành tựu lớn. Một người thì là ngôi sao trong giới chính trị. Một người là đại gia trong thương trường. Một người là ông chủ một xí nghiệp lớn. Một người là hiệu trưởng trường đại học. Một người là tổng giám đốc của mấy nhà hàng lớn.

Lúc ăn cơm, mọi người nói đến chuyện sau này về hưu thì sẽ sống những năm tháng tuổi già an nhàn như thế nào. Một người nói: "Về quê, lên núi xây một ngôi nhà gỗ!" Một người nói: "Trồng các loại cây ăn quả, khi rảnh rỗi thì câu cá." Một người nói: "Hít thở không khí trong lành ở nông thôn, tập thái cực quyền." Một người nói: "Ngắm núi, ngắm sông, ngắm nắng chiều, học cách hít thở ngồi thiền dưỡng sinh." Một người nói: "Trồng các loại hoa, đọc các loại sách, đi leo núi." Ngoài ra còn có: ngắm mặt trời mọc, ráng chiều, đếm sao, vẽ tranh, làm thơ, thưởng trà, đánh cờ...

Người bạn học sống ở vùng núi này nghe xong thì đầy ngạc nhiên, bạn học đó nói: "Đó chẳng phải là cuộc sống hiện tại mà tôi đang sống đó sao?"

Câu chuyện này muốn nói lên rằng: Không cần phải ước ao được như những đại gia ở thành phố, họ đều bận rộn bù đầu, vất vả cực nhọc, ngày ngày lao vào danh lợi, rốt cục là để làm gì? Họ sau khi nghỉ hưu rồi chẳng phải là chỉ muốn được sống những ngày thanh nhàn tự tại hay sao!

Tôi nói: Làm hòa thượng là tốt nhất! Bài thơ của hòa thượng Thanh Củng: "Hoa núi mấy cây đỏ rực rỡ, Một hồ nước xanh sóng lăn tăn, Con mắt siêu phàm nếu có được, Chẳng đợi vô tình lộ thiền cơ."

Và: "Về nhà rửa chân lên giường ngủ, Say sưa nào biết núi trăng rời Rừng xa chim vắng đừng đánh thức Mặt trời đỏ ối treo ngọn tùng."

Tôi đọc xong hai bài thơ này cảm thấy đặc biệt sảng khoái. Làm hòa thượng thanh nhàn như thế này thì còn mong cầu gì nữa đây?

Ngoài điều này ra, chúng ta còn có gõ chuông. Có một bài kệ gõ chuông: "Nguyện tiếng chuông này vượt pháp giới, Mọi chốn âm u đều thấy nghe, Thanh tịnh bụi trần chứng viên thông, Hết thảy chúng sinh thành chính giác.

Gõ chuông ba lần, bài kệ ngâm nga, Trên thấu thiên đường, dưới xuyên địa phủ. Nhờ ánh sáng Phật làm rạng rỡ, pháp luân thường chuyển. Cung chúc dân quốc mãi vững bền, quốc đạo thịnh hưng. Hết thảy chúng sinh trong tam giới, tránh được luân hồi. Hết thảy mọi lo lắng nguyện ước, đều rời biển khổ." ...

Còn có khóa lễ buổi sáng, khóa lễ buổi tối. Tu Mật giáo có tứ tọa pháp, lục tọa pháp.

Còn những ngày tôi trải qua ở Nam Sơn Nhã Xá Seattle chính là: "Quãng thời gian này giống ẩn cư, Chẳng biết trần thế tươi hay héo, Đêm đến đốt củi xua cái lạnh, Đói thì ăn cơm mệt thì ngủ. Ngồi ngắm mây bay là cái thú, Công phu tĩnh tọa thật chuyên tâm. Thong thả ung dung ngồi viết sách, Thâm nhập thiền định thấu thiên cơ."

26. A Dục Vương một trai một gái xuất gia

Trong kinh điển ghi chép: Phật Thích Ca Mâu Ni đang đi cùng với A Nan. Có một tiểu đồng tử dùng đất để nặn thành một món đồ, giống như trò chơi nặn đất sét, để cúng dường lên Phật Đà. Phật Đà nói: Phật Đà thọ kí cho đồng tử này là: "Sau khi Phật niết bàn một trăm năm, cậu bé này họ Khổng Tước, tên là A Dục, xuất thế trở thành một vị vua chuyển bánh xe Phật pháp, tin tưởng chính pháp, xây dựng hơn tám vạn bốn nghìn tháp thờ cúng xá lợi." Phật Đà nói: "Sẽ có một con trai một con gái xuất gia."

Về sau, A Dục Vương có một con trai, tên là Ma Sẩn Đà. Có một con gái tên là Tăng Già Mật Đa. Em trai vua là một tì kheo, đã xin vua cho con trai con gái xuất gia. A Dục Vương hỏi con trai con gái: "Có muốn xuất gia không?" Con trai con gái đáp: "Chúng con thích xuất gia!" Bởi vậy, A Dục Vương có một con trai một con gái xuất gia. Người con trai con gái này đều tổng trì hết thảy Phật pháp.

🌟

Trung Quốc xưa nay cũng có hoàng đế xuất gia. Ví dụ như Lương Vũ Đế xuất gia tại Đồng Thái Tự. Ví dụ như hoàng đế Thuận Trị xuất gia.

Tôi đọc về một vị hoàng đế xuất gia: Từ bỏ địa vị hoàng đế. Sống sâu trong rừng núi. Nằm ngủ trên manh chiếu. Lấy trời làm chăn, đất làm giường. Trời mưa thì tắm. Gió mát làm quạt. Như sống ở chốn thiên đường với nhật nguyệt tinh tú. Tự do tự tại quên hết mọi bộn bề.

Hoàng đế này hét lớn: "Thật là vui quá!" "Thật là thoải mái!" Theo ngôn ngữ hiện đại thì là: "Thật là phê!"

Thơ của hòa thượng Thuận Trị: "Chơi trong rừng đã lâu, Hiểu cái thú của rừng Những hàng cây tỏa bóng Chẳng cản gió mơn man. Trên phiến đá nằm ngủ Lá rụng nào biết đâu. Bỗng chim rừng bay đến, Chốn tĩnh mịch vỡ toang."

Còn nữa: Thơ của hòa thượng Thủ Thuyên: "Chiều tà ve sầu kêu Mình ta trở về rừng, Cánh cửa thông chẳng khép, Tùy ý trăng theo vào. Trong sắc cỏ nhạt mờ, Thoang thoảng mùi hoa thơm Nghe đâu tiếng chó sủa, Chìm vào giấc mộng xanh."

(Hai bài thơ này có giọng điệu nhẹ nhàng chậm rãi với sự tự do thong dong của người xuất gia.) Từ hai bài thơ có thể ngầm thấy được: "Thật là vui quá!" "Thật là thoải mái!" Tôi đọc xong hai bài thơ này, tôi đã hiểu được cái ô trọc của tục thế và cái thanh tịnh của xuất thế. Hai thế giới này khác xa nhau!

Tôi (Lư Sư Tôn) sớm đã trải qua: Hỉ, thắng hỉ, siêu hỉ, cụ sinh hỉ. Lạc, thắng lạc, siêu lạc, cụ sinh lạc. (Xuất gia thật khoan khoái quá!)

27. Ẩn dụ về con ruồi

Vào triều Tống, thiền sư Bạch Vân, pháp hiệu là Thủ Đoan, có bài thơ "Con ruồi" rất nổi tiếng như sau: "Ruồi mong khoan giấy tìm ánh sáng, Khó nhọc loanh quanh chẳng lọt qua. Bất chợt va phải đường vào cũ, Mới biết trước nay mắt đánh lừa."

Tôi (Lư Sư Tôn) thích bài thơ này. Tôi giải thích như sau: Con ruồi thích ánh sáng, nên vẫn cứ đâm đầu vào kính cửa sổ, thỉnh thoảng còn bị lọt vào giữa hai lớp cửa kính. Ở bên trong, nó cứ tìm cách tiến về phía trước vô số lần, thật ra là nó đã bị nhốt lại rồi (đây là tai nạn thường xảy ra).

Còn nữa: Con ruồi trong kinh điển. Đã đến gần nhất với kinh điển rồi, nhưng con ruồi không có cách nào nhìn rõ kinh điển được, không có cách nào hiểu thấu được những nghĩa lý trong kinh, cũng không biết phải tu hành thế nào. Con ruồi thích ánh sáng, nên cứ tìm cách đục xuyên qua giấy loạn cả lên! Con ruồi khoan giấy, bởi vì nó không hiểu.

Cuối cùng: Bỗng nhiên nó gặp phải con đường khi nó bay vào, vô tình chỉ cho nó thấy lối ra, nó mới hiểu không phải là tìm kiếm ở bên ngoài, mà là tìm ở bên trong. Lúc này, cuối cùng thì nó đã biết, những gì nó làm từ trước đến nay chỉ là những biểu hiện bên ngoài, đã bị lừa bởi chính mắt mình. Không phải là nhìn biểu hiện bên ngoài, mà là cần phải tìm kiếm Phật tính ở bên trong chính mình.

Phái Sakya của Mật giáo có sự cách ly khỏi bốn loại bám chấp: "Nếu bám chấp vào sự sinh ra này thì không phải là người tu hành. Nếu bám chấp vào thế gian, thì không có tâm xuất ly. Nếu bám chấp vào mục đích của bản thân thì không có tâm bồ đề. Nếu bám chất vào tâm sinh khởi thì sẽ đánh mất nền tảng chính kiến." Bốn loại bám chấp này đều chỉ là biểu hiện bên ngoài, điều quan trọng nhất của Mật giáo là xuất ly tâm, bồ đề tâm, chính kiến, phải tìm kiếm Phật huệ, trí huệ Như Lai của nội tại. Sau đó chuyển nhận thức thành trí huệ.

Bài thơ "Con ruồi" của thiền sư Bạch Vân là một dạng ẩn dụ. Không thể tu luyện một cách đui mù. Cần phải dựa vào sự quán đảnh, truyền pháp, khẩu quyết, sự chuyên nhất, li hí, du già, vô thượng mật, tứ quán đảnh của một vị Thượng sư có đầy đủ đức hạnh. Thì mới có thể: Khai ngộ. (hiểu thấu chân đế) Quán tu. (thân khẩu ý thanh tịnh) Bổn tôn và ta hợp nhất. (tương ứng du già) Hàng phục tự tâm. (loại bỏ ngã chấp, pháp chấp, tất cả sự bám chấp) Chứng tỏ Phật tính. (minh tâm kiến tính)

Còn nữa: Thời Ngũ Đại, hòa thượng Bản Tịch có ba bài thơ như sau: Bài 1: "Nếu tâm chỉ đặt vào danh lợi, E rằng khó thoát nghiệp thế gian. Như cát sông Hằng vô lượng số Vô biên muôn kiếp vẫn long đong." (Tâm ham danh lợi của con người thế tục là nguồn gốc luân hồi của phàm phu.)

Bài 2: "Điều then chốt trong tim tắc nghẽn Mong viên dung tắc nghẽn không còn Dù sóng lớn nhưng biết bỉ ngạn Một cành lau cũng vượt được qua." (Con người thế tục muốn từ bỏ tâm ham danh lợi, rất khó!)

Bài 3: "Mây ráng vốn là một, Mưa sương vốn như nhau, Vì không ngừng hun đốt, Thân gia loạn đến giờ." (Người thế tục nếu không biết tu tâm thì vĩnh viễn tâm linh bị che mờ trong mê muội.)

Tôi nói: Chúng ta cần hiểu được đạo lý sinh tử vô thường, hiểu được đạo lý về nhân quả luân hồi thì mới không giống như con ruồi mê muội đâm đầu loạn cào cào. Chúng ta cần biết rằng, trong cuộc đời này, thời gian rất ít, sinh mệnh là tạm thời ngắn ngủi, do vậy cần phải nhanh chóng xuất li. Chúng ta cần hướng vào bên trong, tìm kiếm bồ đề tâm. Chúng ta cần tiếp thu những giáo huấn của Căn bản Thượng sư, mới có thể đi trên con đường đạo đúng đắn.

28. Tôi là mục đồng

Trong phòng vẽ tranh, tôi có không ít những bức tranh vẽ mục đồng. [mục đồng là chú bé chăn gia súc] Tôi dùng mực nước. Vẽ trời. Vẽ đất. Vẽ nước. Giữa trời đất, trên những đỉnh núi gồ lên, tôi vẽ mấy con trâu, và trên lưng con trâu cuối cùng ngồi vắt vẻo một mục đồng đang hối hả lùa trâu về nhà. Tôi đề tên tranh là: "Về chuồng".

Còn nữa: Tôi có một bức tranh vẽ núi nhiều màu sắc, dưới chân núi tôi vẽ một đàn trâu, rất nhiều rất nhiều trâu, đang đi xuống chân núi. Ai là mục đồng? Là Lư Sư Tôn. Tôi đề tên cho tranh là: "Đàn trâu của ta muốn về nhà".

Vì sao tôi muốn vẽ tranh đàn trâu và mục đồng, bởi vì tôi muốn dùng mục đồng để so sánh với bản thân là một vị Kim cương Thượng sư giữa trời đất, đội trời đạp đất, giáo hóa chúng sinh.

Chúng ta đều biết rằng, giáo hóa chúng sinh có mấy cách thức: Phân thành ba bậc: Cách thức Quốc vương - bản thân thành tựu trước, rồi mới giáo hóa cho người khác. Cách thức con thuyền - bản thân và người khác cùng lên thuyền, cùng đi đến bờ bên kia. Cách thức chăn cừu - chúng sinh thành tựu trước, bản thân mình sau đó mới thành tựu, gọi là cách thức chăn cừu.

Chúa Jesus nói: "Ta là kẻ chăn cừu!" Không phải là độc nhất vô song. Khi còn trẻ, nhà tiên tri Mohammed cũng là mục đồng. Tôi (Lư Sư Tôn) cũng là mục đồng. Tôi thích chúng sinh thành tựu rồi cuối cùng tôi mới thành tựu, giống như lời thề nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát vậy.

Hòa thượng Ẩn Loan của triều Đường có bài thơ về mục đồng: "Mục đồng gặp người chẳng hay biết, Nón lá giày cỏ cứ ung dung, Ban mai mặt trời còn sau núi, Sương sớm thấm ướt cả áo tơi. Tháng hai tháng ba, bình nguyên cỏ xanh rì Dăm ba thằng nhỏ, thả trâu gầy dưới cây. Tiếng sáo vừa vang, đám trẻ cùng ca múa Bóng chiều chếch tây, lại cưỡi trâu trở về."

Tôi nói: Bài thơ này rất tả thực. Mô tả những đứa trẻ chăn trâu như một bức tranh. Rất khoan khoái.

Tôi cũng viết một bài thơ về mục đồng: "Sáng sớm mỗi ngày ngẩng nhìn trời, Lo nhất nhiều mây trời đổ mưa Như mùa xuân, Như nhành liễu, Thổi lên điệu sáo, Sương trên cỏ Tìm núi Tìm sông Tìm nguồn nước Lúc ấy gặp nhau từ buổi sớm Còn chưa thề nguyện Ngày tàn tự bao giờ."

Tôi nói: Tôi thích là mục đồng, bởi vì mục đồng chẳng hề tạo tác, cứ tự nhiên vui vẻ tràn trề. Hành giả không nên tạo tác là rất quan trọng. Giống như nước khi không còn khuấy động thì tự nhiên sẽ lắng sạch trong veo. Tâm không bám trụ vào bất kì sự tạo tác nào. Chính là "Đại Thủ Ấn".

29. Vẫn là mục đồng

Viết xong chương "Tôi là mục đồng", ý vẫn còn chưa nói hết, tôi lại viết thêm một chương với tiêu đề "Vẫn là mục đồng".

Hòa thượng Thê Thiềm thời Đường cũng có bài thơ mục đồng: "Trâu được tự do cưỡi Gió xuân thổi mơn man, Núi non cỏ xanh rì, Khoác áo tơi thổi sáo. Sớm mai lên đường hát Trăng lên vỗ tay về Ai được dường như thế, Chẳng phải cũng chẳng sai."

Tôi nói: "Bài thơ này rất hay, học thuộc lòng, rồi ngâm vịnh, cũng rất có pháp vị!" Mọi người nói xem, tôi có phải là mục đồng hay không? Buổi đêm khi đi ngủ, tôi có thể bay trên trời (thần hành), nghìn dặm vạn dặm, và trong nháy mắt tôi có thể trở về. Tôi truyền pháp trong mơ. Chúng sinh được lợi ích. Việc xuất ra khỏi thân này, chẳng phải cũng chẳng sai.

Còn nữa: Tôi còn có một pháp, không chỉ là bay trên trời, mà cũng có thể đi xuyên vào đất (độn thổ). Tôi đi vào trong đất, ẩn hiện trong đất. Đi vào từ đông bán cầu, rồi đi ra từ tây bán cầu. Đi vào từ nam bán cầu, rồi đi ra từ bắc bán cầu. Nguyên thần của tôi thật sự là: Biến hóa tài tình. Tôi đến các nước trên thế giới, đi cứu giúp chúng sinh (cứu độ chúng sinh). Tôi và chúng sinh, Tôi là mục đồng. Tôi đi vào trong đất, tôi đi ra khỏi đất, chẳng phải cũng chẳng sai. Tôi chỉ muốn dính chặt vào trong đất, rồi từ từ hòa tan vào trong đất, vừa hiện thân thì đã ở một đất nước khác rồi.

Tôi viết rằng: "Tôi là bán thần nhân, Cuối đời là mục đồng, Hơn bốn chục năm nay Cứ thong dong phi độn. Ở đây làm bác sĩ, Ở kia giảng pháp hay. Chẳng phải cũng chẳng sai, Vẫn cứ toàn thịnh vượng." [phi độn - bay trên trời, độn thổ]

Tôi nói: Trên khắp thế giới, mỗi một quốc gia, mỗi một con người, chỉ cần nhớ đến Lư Sư Tôn thì Lư Sư Tôn sẽ lập tức xuất hiện trong mơ của người đó. Có thể gặp trong mơ. Có thể gặp trong thiền định. Thậm chí có thể gặp vào ban ngày. Vô cùng thần kì, tôi là mục đồng, điều khiển đệ tử Chân Phật Tông, chăn dắt họ đến Phật quốc tịnh thổ. Tôi không phải chăn trâu. Tôi không phải chăn cừu. Có người nói, linh hồn của họ có thể xuất ra khỏi lỗ đỉnh đầu, đi du lịch khắp nơi. Tôi nói, linh hồn của tôi có thể nhập vào đất, vào đông ra tây, vào nam ra bắc, vào tây ra đông, vào bắc ra nam. Hiếm lạ thay! Hiếm lạ!

Tôi cứu người cứu thế, không vì danh, cũng không vì lợi, tôi không mong cầu gì cả. Các đệ tử! Vào lúc nguy cấp, hoặc lúc lâm chung, xin hãy niệm: Lư Sư Tôn, xin gia trì cho con! Để con có thể được cứu giúp lúc nguy cấp! Để vào lúc con lâm chung, Thượng sư, Bổn tôn, Không hành tiếp dẫn con đến Phật quốc tịnh thổ.

Tôi là mục đồng, Tôi chắc chắn có thể bảo vệ bạn, cảm ứng với những điều bạn mong cầu.

30. Tỉ mỉ nghiên cứu về sự "không can thiệp"

Tôi (Lư Sư Tôn) nói: "Học Phật chính là tỉ mỉ nghiên cứu."

Ví dụ một bài kệ: "Làm sao được trường thọ Thân kim cương bất hoại Nhờ vào nhân duyên gì, Được sức mạnh kiên cố. Làm sao nhờ kinh này Cuối cùng đến bỉ ngạn. Mong Phật khai mật pháp, Quảng thuyết vì chúng sinh."

Bài kệ này là lời mở đầu của kinh Kim Cang, trong đó "khai mật pháp" chính là tỉ mỉ nghiên cứu. (Để lộ những bí mật của chân lý), cả bộ kinh Kim Cang chính là tỉ mỉ nghiên cứu. Bài kệ nổi tiếng trong kinh này là: "Nếu vì sắc thấy ta Vì âm thanh cầu ta Người đó hành tà đạo, Không thể thấy Như Lai."

Và: "Hết thảy pháp hữu vi Như mộng huyễn bào ảnh Như sương cũng như điện Nên quán chiếu như vậy."

Và: "Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng."

Tôi (Lư Sư Tôn) đương nhiên có thể hiểu được chân lý thậm thâm vi diệu mà Phật Đà nói đến. Ở đây, muốn phân tích, tuyên thuyết rộng rãi, đương nhiên là không có vấn đề gì. Tuy nhiên, tôi tổng kết bằng ba chữ, ba chữ này chính là điều mà tôi thường tuyên thuyết: "Không can hệ!"

Bài thơ của hòa thượng Quán Lâm: "Trăm nghìn vạn tỉ lời Cũng vẫn chẳng can thiệp Thế nên người già ấy Mật truyền cho Ca Diếp. Thầy ta có pháp này, Bất luận có bị cướp Cũng mất chẳng thể giữ, Chẳng dấu vết lần theo."

Xin chú ý: Ba chữ "Không can hệ". (Phật Đà truyền cho Ca Diếp.) Còn đối với "tỉ mỉ nghiên cứu", chỉ cần đến được cảnh giới rất sâu rất vi tế thì có thể kiến chứng "không can hệ".

Hòa thượng Tế Kỉ có bài thơ: "Cát sông dựng nhà cỏ, Màn giấy che giường trống Lặng yên là thư giãn, Hơi thở thoát tục trần. Trong vườn ngồi tĩnh lặng, Mai hạnh khẽ tỏa hương. Ai ở Nguyên Tây Tự? Tiếng chuông tiễn tịch dương."

Đây chính là "không can hệ". (Ẩn ý trong bài thơ đều là tùy mặc tự nhiên.)

"Tạo hóa ổn định chăng? Sông núi còn chuyển dời Tinh hoa chôn vào đất Châu ngọc vào nhà sang. Ngỡ kiêu ngạo xa xỉ Ai ngờ gốc họa tai Nhà tan rồi nước mất Còn nói được điều gì?"

Tôi nói: "Tạo hóa ổn định chăng?" chẳng phải đều là không can hệ sao? Nước mất, nhà tan, người chết, vậy thì còn cái gì nữa? Không có gì thực sự có được thì còn có cái gì mà can hệ?

"Quá khứ thì đã qua Hiện tại thành quá khứ Tương lai còn chưa đến Thử hỏi can hệ gì?"

Tôi đọc kinh Kim Cang, từ phần thứ nhất là "Nhân duyên pháp hội", đến phần thứ tư là "Diệu hạnh vô trụ", đến phần thứ bảy là "Vô đắc vô thuyết", đến "Nhất tướng vô tướng", đến "Phúc vô vi là hơn hết", đến "Lìa tướng tịch diệt", đến "Vô ngã tột cùng", đến"Lìa sắc lìa tướng", đến "Không pháp nào có thể đắc", đến "Hóa vô sở hóa", đến "Ứng hóa không phải thật". Tôi hiểu ra: "Không can hệ!" (chân đế)

31. Chết ơi! Chết ơi! Chết ơi!

Quốc sư Ngộ Đạt có một bài "Vịnh hoa thi". Tôi rất thích. Hơn nữa, tôi còn học thuộc lòng để làm thành lời răn cho bản thân.

Thơ rằng: "Hoa nở cây rực đỏ Hoa rụng vạn cành trơ Duy nhất còn một đóa Tùy gió mai định đoạt."

Điều tôi muốn nói với mọi người là: "Bài thơ này chỉ ra cho tôi thấy tất cả đều sẽ chết thôi!" Rất hay! Chết rất hay! Chết rất cừ! Chết rất bá đạo!

Tôi thường nhớ lại, trên con đường tôi đã đi qua, những vị sư phụ nhân gian đã dạy dỗ tôi đều đã "hoa rụng vạn cành trơ" rồi. Hiển giáo: Liễu Minh Hòa Thượng — truyền thừa Hồng giáo. Sakya Chứng Không Thượng Sư — truyền thừa Hoa giáo. Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 — truyền thừa Bạch giáo. Thubten Dhargye - truyền thừa Hoàng giáo. Phổ Phương Thượng Sư. Và những vị khác. Họ đều giống như hoa, nhưng hoa đều rụng cả rồi, bây giờ chỉ còn lại một đóa hoa là tôi, ngày mai ra sao tùy gió định đoạt. Tôi nhất định sẽ chết một cách rất bá đạo.

Nhưng mà, lâu nay tôi cũng bá đạo rồi, nên thôi không chết bá đạo nữa. Tất cả quy về "không", quy về "tịch", quy về con số 0.

Bài thơ khóc Linh Nhất Thượng Nhân của hòa thượng Quán Lâm: "Nhất Công đâu còn nữa? Đã xa tận trời cao. Từng rủ nhau lên núi, Nay chẳng thể cùng đi. Nhà cũ thông thêm già, Gò đất cỏ mọc xanh. Kinh luận truyền tăng lữ, Văn chương dành thi nhân. Rừng thiền cành trơ gãy, Pháp đường cột xà nghiêng. Ai giỏi tu tăng sử? Hẳn biết truyện đã thành."

Bài thơ này cũng chính là bài thơ để hòa thượng Quán Lâm tiễn Linh Nhất Thượng Nhân lên đường được tốt đẹp. Tôi có một cảm giác rằng: Truyền tăng lữ. (sư sãi) Để thi nhân. (văn nhân) Tu tăng sử. (tăng truyện) Đây đều là dây cà ra dây muống thôi!

Tôi cho rằng: Vô thường đến nhanh là sự cảnh tỉnh lớn nhất. Các vị sư phụ đều đã đi rồi, tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, ngay lúc này, ngay tại đây, còn tham cái gì? Sân cái gì? Si cái gì? Cuộc đời này của tôi chỉ vì: "Lĩnh ngộ cứu cánh, trí huệ bản sơ, mà tinh tấn. Tịnh hóa thân tâm, tích tập công đức, chỉ có con đường này."

1. Pháp tính hiện tiền minh ngộ. 2. Ngộ cảnh tăng trưởng mỗi ngày. 3. Tự tâm tiến vào trí huệ sáng suốt hài hòa. 4. Pháp tính vô tận.

Ngoài những điều này ra thì cuộc sống mỗi ngày của tôi cũng giống như người bình thường, tôi hiểu rất rõ ràng rằng: Bây giờ tôi chính xác là đang "đợi chết". Sắp rồi! Sắp rồi! Chết ơi! Chết ơi! Chết ơi! Sướng là! Sướng là! Sướng là! Chết! (Đời này tất cả đều kết thúc.)

32. Đời người như cục phân

Có người nói: "Đời người giống y như một cục phân!" "Sao lại nói thế?" Người đó đáp:

1. Có lúc mềm lúc cứng. 2. Có lúc thuận có lúc không thuận. 3. Có lúc đau có lúc không đau. 4. Có lúc thật có lúc không. 5. Có máu có nước mắt. 6. Có khi có tiếng có khi không. 7. Có lúc hoàng kim có lúc đen tối. 8. Có lúc chín có lúc sống.

Có viết tiếp nữa cũng chẳng viết hết. Có thể nói rằng, đời người muôn hình muôn vẻ thì cũng vẫn chỉ nằm trong một cục phân. Ôi chà! Có lý! Mọi người cười lớn ha ha ha.

Hòa thượng Đạm Giao triều Đường có bài thơ: "Vinh nhục ôi vinh nhục Cứ tiếp nối luân phiên Một đời người trăm tuổi Có ai biết hài lòng. Tóc huyền bỗng như tơ, Từng đám nay bạc trắng. Xưa nay tranh danh lợi Ai hưởng lộc vàng kim?"

Tôi giải thích bài thơ này như sau:

1. Đời người có vinh có nhục, có lúc vinh, có lúc nhục. Cũng giống như đống phân, có khi thuận, có khi không thuận. Thuận thì là vinh, không thuận thì là nhục. 2. Trồi lên lại sụp, trồi lên lại sụp. Trồi sụp là vô thường, lúc mềm, lúc cứng, lúc to, lúc nhỏ. 3. Con người thông thường, đến chết cũng không biết hài lòng. Ôi! Đời người có máu và nước mắt, có người nào có thể được an nhiên? Người biết hài lòng biết đủ, căn bản là không có. 4. Mái tóc từ khi dày đã thành mỏng như tơ. Có lúc khỏe, có lúc yếu. 5. Tóc từ đen thành bạc, cũng giống như cục phân đổi màu sắc. 6. Ai hưởng lộc vàng kim?

Câu nào là buồn cười nhất? Vàng kim là cục phân! Vàng kim như đống bụi! Vàng kim như rác rưởi!

Giờ đây, hòa thượng Đạm Giao hỏi: Vàng kim là ai hưởng đây? Tôi nói, tự cổ chí kim, vàng kim chưa bao giờ vĩnh viễn thuộc về người nào cả. Dịch sư Trác Di cúng dường pháp đài cho chùa Siêu Giới, dùng vàng để cúng dường, nay số vàng này lưu lạc nơi nào?

Marpa dùng vàng để cúng dường cho Naropa, số vàng này đã đi đâu rồi? Yeshe Tsogyal dùng vàng để cúng dường cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, số vàng này đã lưu lạc phương nào? Tất cả đều như khói mây bay qua mắt thôi! Không chỉ vàng mới vậy, mà vợ con, tiền bạc, phúc lộc, tuổi thọ, cũng đều như vậy cả. Kì thực ngay cả bản thân cũng thế.

Hòa thượng Đạm Giao còn có một bài thơ nữa: "Dáng hình bản thân mình, Tự ngắm thấy thương tâm, Đã là mộng trong mộng, Lại gặp thân ngoài thân. Rong rêu ngưng huyễn chất, Màu mực nhuộm không trần. Nực cười ta và anh, Đều là người dang dở."

Bài thơ này nói rằng, có người soi gương, càng soi càng đau lòng, có cái đẹp có cái không đẹp. Thật ra là mơ trong mơ, thân ngoài thân, như rong rêu, như màu mực, rất buồn cười!

Thế giới Ta Bà chính là thế giới mộng huyễn. Ai hiểu được đây?

33. Tăng nhân hoàn tục

Có một vị xuất gia đến tìm tôi, nói: "Lư Sư Tôn, tôi muốn hoàn tục!" Tôi đáp: "Anh không cần hoàn tục." Người xuất gia kinh ngạc hỏi: "Vì sao không cần hoàn tục?" Tôi đáp: "Anh đã là tục rồi, còn cần hoàn tục gì nữa?" Tăng nhân á khẩu.

Còn nữa: Có một thanh niên muốn cạo đầu xuất gia. (Vừa tốt nghiệp đại học.) Tôi nói: "Anh không cần xuất gia!" Người thanh niên nói: "Tôi cần xuất gia gấp!" Tôi nói: "Không phải vội!" Người thanh niên nói: "Tôi muốn được cạo đầu!" Tôi thấy tục duyên của anh ta vẫn chưa hết, nhưng vẫn miễn cưỡng giúp anh cạo đầu. Sau đó. Anh ta đã mặc áo Lama rồi đi kết hôn rồi. Ha!

Còn nữa: Tinh Vân đại sư nói: "Người xuất gia hoàn tục cũng giống như kẻ làm thầy giáo thôi không dạy học nữa." Tôi nói: "Không giống!" Tôi đưa ra lý do như sau:

1. Giáo viên có chế độ nghỉ hưu, người xuất gia không có chế độ nghỉ hưu. 2. Xuất gia không phải là nghề nghiệp, mà là một sự thề nguyện. (lời thề vĩnh viễn) 3. Xuất gia là xuất ly tâm, không có đường quay đầu. 4. Và những lý do khác nữa.

Mặc dù tôi nhấn mạnh như vậy, nhưng con người có tham vọng riêng. Tôi tán đồng, nếu anh muốn hoàn tục thì cứ hoàn tục đi! Tôi không miễn cưỡng.

🌟

Hòa thượng Vô Bản thời Đường là một hòa thượng hoàn tục, yêu thích con đường làm quan, nhưng thơ của ông ấy lại rất hay, tôi thích những bài thơ của ông.

"Dưới thông hỏi chú bé, Thầy đi hái thuốc rồi, Ở trong núi đấy thôi, Bởi mây dày khó thấy."

(Bài thơ này rất nổi tiếng, ai ai cũng có thể ngâm vịnh, trong thơ cũng có chút linh khí.)

Còn nữa: "Nhà sư đến chào tôi, ngồi tạm bên bờ suối, Đường xa cầm bát rỗng, dẫm lên cánh hoa rơi. Không thầy thiền tự ngộ, có mấy lời ngợi khen, Chẳng duyên cớ mà đi, đơn độc và bất định."

(Có linh khí.)

Và: "Ngồi nghỉ bên xóm vắng, lối cỏ vào vườn hoang, Bờ ao chim tá túc, tăng lùa trăng vào nhà. Ranh giới bên kia cầu, mây núi đều đổi khác, Ta đi còn trở lại, hẹn riêng chẳng phụ lời."

(Câu "tăng lùa trăng vào nhà" vang vọng trong tâm trí người ta.)

Tôi tìm hiểu xem vì sao hòa thượng Vô Bản muốn hoàn tục, chủ yếu là vì có liên quan đến Hàn Dũ. Hàn Dũ tiếc cho tài hoa của ông nên đã khuyên ông đi theo con đường làm quan. Hàn Dũ còn dạy ông văn chương, đương nhiên sẽ khiến cho tâm trí và cảm xúc của ông thêm hưng phấn. Tóm lại, rất nhiều sự việc phát sinh chẳng phải là vô duyên vô cớ, đây đều là nhân duyên quả báo thôi.

34. Vô sự vô tâm vô niệm vô ngã

Đệ tử hỏi: Vô sự — ngoại cảnh. Vô tâm — nội cảnh. Vô niệm — giác cảnh. Vô ngã — không cảnh. Phân biệt như vậy có đúng không? Tôi trả lời: Đúng. Tuy nhiên, vẫn cần thiết phải giải thích. Cá nhân tôi thấy rằng vô sự, vô tâm, vô niệm, vô ngã, bề mặt biểu hiện bên ngoài là bốn thứ, nhưng chúng lại liên kết chặt chẽ với nhau, gần như không hẳn là có sự phân biệt.

Tôi nói: "Vô sự": Nơi nào có con người thì nơi đó sẽ "hữu sự", nơi nào có con người thì sẽ có thị phi, không thể nào vô sự được. Chỉ là hành giả hãy xem tất cả mọi sự việc là huyễn, những sự việc này đều là huyễn ảo, không ảnh hưởng đến sự sáng tỏ bên trong của hành giả. Như vậy thì sẽ "vô sự".

Nói tiếp đến "vô tâm": Vì ưng theo vô sở trụ mà sinh ra tâm này, câu nói này, Lục Tổ Thiền tông vừa nghe đã hiểu ra. Tâm quá khứ không thể đắc. Tâm hiện tại không thể đắc. Tâm vị lai không thể đắc. Cũng chính là "tâm vô sở đắc", "tâm vô sở trụ", từ đó mà đạt đến trạng thái "không còn điều gì vướng bận trong tâm". Đây chính là "vô tâm".

Lại nói về "vô niệm": Chân Phật Kinh nói: "Lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo." Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết rằng: thực tế là, bảo mọi người "vô niệm" là điều rất khó. Vọng niệm như thác nước. Làm sao để vô niệm? Ở đây có một quá trình tu luyện ý niệm theo thứ tự: Như thác nước. Như dòng sông. Như nước ngầm. Như mặt gương. (nước tĩnh) Câu nói quan trọng nhất là: "Không can hệ!"

Tôi (Lư Sư Tôn) thường nhắc đến: "Tạp niệm như thác nước!" "Phật tính bền và lâu!" Hai thứ này không có liên quan đến nhau. Có thể nào như vậy không? Hãy xem xét cẩn thận, đến khi lĩnh hội và hiểu được thì chính là "vô niệm".

Thứ tư là nói về "vô ngã": Kinh Kim Cang nói: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng. Ở đây đã chỉ ra đời người là mộng huyễn, nhân gian là thế giới huyễn, những sự việc trên đời là những chuyện huyễn ảo, thực vô sở hữu, thực vô sở đắc, thực vô sở trụ, ngã cũng là vô ngã. Khi thực hành được điều này thì đã chứng được vô ngã. Tức Phật tính tự hiển hiện.

Một bài thơ của Trương Bá Đoan: "Sống mong tu hành bố thí, Quả báo chẳng xa trời người. Như tên bắn tới mây trôi, Rơi xuống cũng vì lực cạn. Tranh giành thực tướng vô vi, Vẫn cần cải tà quy chính. Trở về bản tính ngây thơ Mà chứng vô sinh pháp nhẫn."

Điểm quan trọng trong bài thơ này là: Vô vi. Bản tính ngây thơ. Vô sinh pháp nhẫn. Vô sự, vô tâm, vô niệm, vô ngã. Chúng ta cùng nói về "vô sinh", được chứ?

35. Già và bệnh

Có hai hình ảnh cứ vương vất trong tâm trí tôi khiến tôi rất đau lòng: Thứ nhất: Ở trong một bệnh viện. Tôi trông thấy một cụ già tóc bạc trắng, bước đi loạng choạng, tay phải vịn vào giá thép treo ống truyền nước biển. Dọc hành lang, với ống truyền nước biển nhỏ giọt, cụ đi lại đầy khó nhọc, rẽ vào một nhà vệ sinh. Cụ đi vệ sinh.

Tôi nghĩ đến cảnh tượng cụ già bị bệnh phải cắm ống truyền nước, đi vào nhà vệ sinh này mà trong lòng cảm thấy rất xót thương! Người thân của cụ đâu? Vì sao cụ lại một mình đi toilet như vậy?

Thứ hai: Tôi trông thấy một chiếc xe SUV dừng ở bên đường. Cửa xe mở ra. Trước tiên một chiếc xe lăn được đẩy xuống. Sau đó, một cụ già xuống xe. Cụ già đó khả năng đã bị liệt nửa người. Nét mặt biểu lộ sự đau đớn. Động tác run rẩy.

Mấy người con cháu đỡ cụ bước từng bước xuống xe. Cuối cùng, cụ đã ngồi trên chiếc xe lăn. Quá trình này cũng tốn khá nhiều thời gian. Tôi trông thấy vậy, trong lòng rất thương xót!

Tôi có cảm tưởng là: Có một ngày, tôi cũng sẽ như vậy! Tôi sẽ phải vịn vào giá treo bình truyền nước để đi vệ sinh. Khi tôi gặp khó khăn lúc lên xuống xe lăn, tôi phải làm sao?

Lúc này, tôi hiểu được: cái khổ vì già, cái khổ vì bệnh.

Giờ đây tôi đã 76 tuổi rồi. Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư có bệnh. Phật Thanh, Phật Kì, mỗi người đều có gia đình riêng, cũng rất bận. (các con tôi) Lư Hoằng, Lư Quân vẫn còn nhỏ. (các cháu tôi)

Còn ai có thể giúp đỡ chúng tôi? Chẳng mấy chốc, tuổi già và bệnh tật sẽ giáng lên thân thể chúng tôi, chúng tôi có thể làm gì đây? Tôi và Sư Mẫu hy vọng ở nhân gian có thể tiêu dao mà đi, nhưng đến lúc đó có thể tiêu dao được không thì vẫn còn chưa biết được.

Tôi đã đọc: Hai bài thơ của Hoài Hải (thiền sư Đại Trí) triều Đường.

Bài 1: "Chốn non nước thả rông trâu đực Chẳng bị ai buộc thừng vào mũi Hàng dương xanh gió xuân đưa hương Kê cao gối tự do nằm ngủ."

Tôi nói: Bài thơ này tràn ngập ánh dương, rất vui! Nhưng, Trâu già rồi! Khi bị đẩy đến lò mổ, thì phải làm sao đây?

Bài 2: "Mong trồng ruộng phúc mặc áo tăng, Có được càn khôn đời nhàn nhã, Còn duyên thì ở hết duyên đi, Để mặc gió kia đưa mây trắng."

Một vị tăng hạnh phúc mãn nguyện rất tiêu dao, có sự nhàn nhãn, tùy ý, tự tại. Nhưng còn tuổi già? Còn bệnh tật?

Lúc này đây, tôi hướng tới Phật Bồ Tát cầu nguyện, xin đừng để chúng tôi chịu cái khổ của tuổi già và bệnh tật. Đến lúc phải đi thì cứ thế mà đi thôi. (tự chủ sinh tử)

36. Thơ của ba vị Thánh nhân

Ba vị Thánh nhân tôi nói đến này chính là Hàn Sơn, Thập Đắc, Phong Can.

Tôi ở một ngôi chùa Thiền tông ở Nhật Bản, nhìn thấy tượng điêu khắc của Hàn Sơn và Thập Đắc, là tượng điêu khắc gỗ. Chẳng phải tướng từ bi. Chẳng phải tướng phẫn nộ. Chẳng phải tướng song hợp. Mà là bộ dạng hoạt kê, nhìn thì cảm thấy cũng khá tương hợp và thú vị. Tôi chọn một bài thơ của mỗi vị để so sánh với nhau.

Thơ của Hàn Sơn: "Nhà tôi vốn ở tại Thiên Thai, Đường tuyết mịt mù chẳng ai đến, Núi cao nghìn thước sâu dễ lạc, Muôn tầng suối khe đá trập trùng. Khăn hoa guốc mộc men dòng nước, Áo vải gậy lê lách núi về. Tự thấy sự đời đầy huyễn hóa, Tiêu dao vui vẻ tuyệt làm sao!"

Thơ của Thập Đắc: "Chốn non cao lạnh lẽo Thập Đắc tìm đến ở Phàm ngu sao thấy được Phong Can cũng chẳng quen. Có gặp cũng chẳng thấy, Muốn tìm tìm nơi nao. Xin hỏi vì cớ gì? Chẳng ra tay hành đạo."

Thơ của Phong Can: "Ta tự đến Thiên Thai, Mấy vạn lần đi lại Một mình như mây nước, Ung dung tùy đến đi. Tiêu dao chẳng ồn ào, Bình thản cùng Phật đạo. Đường đời rẽ đường tâm, Chúng sinh nhiều phiền não. Ngập chìm trong sóng biển, Tam giới mãi nổi trôi. Tiếc thay một linh hồn Chưa khởi đầu đã chết. Ánh chớp vừa lóe lên, Sinh tử như bụi trần. Hàn Sơn thường đến thăm Thập Đắc năng qua lại. Trăng sáng soi tâm sự, Trời rộng lớn thênh thang. Pháp giới thực vô biên, Một pháp nên phổ biến."

🌟

Đối với ba bài thơ này, cảm nhận của tôi là: Thơ của Hàn Sơn luôn luôn nhìn thấu sự đời, tiêu dao vui vẻ, mang dáng vẻ linh tinh lang tang. Điên điên khùng khùng, nói xàm nói xiên, nhưng cũng có chân đế của nó. Tôi thích thơ của Hàn Sơn, vừa rất tả thực, lại vừa rất phóng khoáng. Cả quyển thơ Hàn Sơn tôi đều đã đọc rồi. Tôi tặng ông hai chữ: "Phát lộ".

Còn nữa: Thơ của Thập Đắc cũng giống như con người ông, biểu hiện bên ngoài mộc mạc tầm thường, nhưng ẩn giấu bên trong lại là trân bảo chính phẩm, không tùy tiện để lộ ra bộ mặt thật để thị chúng.

Thế nhân nói rằng: Hàn Sơn là Văn Thù hóa hiện. Thập Đắc là Phổ Hiền hóa hiện. Là cũng có cái lý của nó.

Hình tượng của Thập Đắc giống như phàm ngu, nhưng lại là bậc đại trí với vẻ ngoài đần độn. Tôi tặng ông hai chữ: "Thâm tạng".

Còn như: Thơ của Phong Can, ông là một bậc đại trí huệ, có con mắt tinh đời, ông biết lai lịch của Hàn Sơn và Thập Đắc thì chẳng phải là càng cao siêu hơn sao? Đời người giống như một giấc mộng huyễn. Đi hay ở đều là khách. Ông chẳng yêu ghét. Cũng chẳng buồn giận. Cư xử thường ngày độ lượng rộng rãi, đều luôn siêu nhiên. Huệ nhãn của ông nhìn thấu Hàn Sơn, Thập Đắc. Tôi tặng ông hai chữ: "Độc diệu".

Núi Thiên Thai có ba vị Thánh nhân này đều là những nhân sĩ xuất chúng sinh ra từ núi thiêng.

37. Kí sự của chùa Cầu Vồng

Tôi đã đọc thơ của hòa thượng Đạo Tận thời Nam Bắc Triều, lòng có đôi chút gần gũi! Bài thơ "Trung Hưng thi" của hòa thượng Đạo Tận: "Về núi Di Lặc cười, Rời núi Vi Đà vui, La Hán không biểu hiện, Chắp tay kính từ bi."

Tôi nói: Mỗi lần tôi nhớ đến Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, tôi đều nhớ đến bức tượng Di Lặc Bồ Tát ở lưng chừng núi.

Tôi nhớ lúc khai quang, thiên môn của tôi mở ra, phóng đi một vệt ánh sáng, chiếu lên mặt của bức tượng Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc khẽ cười mỉm. Bầy chim ở trong núi bỗng nhiên đều bay đến đậu trên những cái cây xung quanh, đồng thanh kêu ri ri chíp chíp. Ôi trời! Thù thắng quá rồi!

Bài thơ này của hòa thượng Đạo Tận khiến tôi nhớ đến lúc khai quang tượng Di Lặc Bồ Tát.

Còn nữa: "Núi tây mưa vừa tạnh, Chùa vắng giữa mây mù, Song mây vịn cây múa, Đều thua gió bồng bềnh."

Tôi nói: Bài thơ này khiến tôi nghĩ đến gió núi ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Những cơn gió rất mạnh, mỗi khi vào mùa đông, từng cơn từng cơn thổi đến. Người bất động nhưng gió thổi khiến con người lay động. Gió thổi tung cát sỏi. Cây cối trên núi lay động ngả nghiêng giống như thiên long giương móng vuốt. Về sau, những cơn gió bồng bềnh này lại càng khiến người ta sửng sốt.

Sau đó, tôi đã dựng cờ "Thất tinh trấn phong" ở sau núi ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Khi cờ "Thất tinh trấn phong" vừa dựng xong thì: Gió núi cũng ít đi! Gió núi cũng yếu đi! Hiện tượng cuồng phong gầm thét không còn nữa! Đúng là Rồng và Trời đã che chở cho Cầu Vồng Lôi Tạng Tự.

Còn nữa: "Tăng nhân ngừng ca hát, Tản đi các phòng thiền, Đêm thực hành thời khóa Tu trì theo cách riêng."

Tôi nói: Mỗi chủ nhật, ở Hộ Ma Bảo Điện tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự, tôi đều thực hành một đàn pháp Hộ Ma (hỏa cúng). Sau khi đốt hết đồ hỏa cúng, có thời gian khoảng một tiếng đồng hồ là thời gian mỗi người biểu diễn tài nghệ. Tăng nhân hát những bài hát ca ngợi Tam Bảo. Tăng nhân biểu diễn võ thuật. Hoặc yoga. Hoặc thiếu lâm côn pháp. Hoặc đánh trống. Hoặc biểu diễn tài nghệ.

Cá nhân tôi có một cảm tưởng, hành giả Mật giáo chúng ta, về cơ bản có "lục tọa pháp", "tứ tọa pháp", "nhị tọa pháp". Người tại gia ít nhất mỗi ngày làm một lần tọa pháp. Mật giáo coi trọng: Quán tưởng. Trì chú. Nhập tam ma địa. (Tinh thần tập trung để đạt đến định.)

Thơ của hòa thượng Đạo Tận cực kì hay, ở cái gọi là "đêm thực hành thời khóa, tu trì theo cách riêng". Tăng nhân theo sự chỉ dạy của Căn bản Thượng sư, Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp để quán tu, hoặc tu khí, mạch, minh điểm, hoặc tu lạc, minh, không, hoặc tu vô sự, vô tâm, vô niệm, vô ngã. Cuối cùng, ấn chứng Phật tính!

38. Người già mất trí

Tôi từng nghe người ta nói: Tổng thống Ronald Reagan về già mắc bệnh mất trí nhớ. Ngay cả vợ của mình là bà Nancy cũng không nhận ra. Tuy vậy, tổng thống Reagan lại nhận ra vợ của người khác. Ha!

Còn nữa: A nói với B: "Tôi mắc chứng mất trí nhớ rồi!" B nói: "Vậy chẳng phải là rất tốt sao?" A hỏi: "Vì sao lại tốt?" B nói: "Mỗi sáng ngủ dậy thấy người nằm bên cạnh luôn là một người phụ nữ khác nhau." Ha!

Còn nữa: A nói với B: "Tôi mắc chứng mất trí nhớ rồi!" B nói: "Tuyệt vời quá!" A hỏi: "Vì sao lại tuyệt?" B nói: "Tiền mà ông cho người khác vay cũng không cần phải nhớ nữa!" Ha!

Tôi (Lư Sư Tôn) nếu có mắc bệnh mất trí nhớ, trở thành một người già mất trí, tôi tự ngẫm thấy cũng không tồi đâu! Vì sao lại không tồi? Vô sở trụ. Vô sở đắc. Vô sở vị. Vô sự. Vô tâm. Vô niệm. Vô ngã. Dường như trong một sát-na đã chứng đắc được tất cả mọi thứ, ha ha ha!

Tôi sẽ từ vạn thứ quy về một thứ, từ một thứ quy về số 0, tất cả của tất cả đều nằm trong sự tịch diệt. Không cần phải thuyết pháp, không cần tu pháp, không cần vẽ tranh, không cần viết sách, không cần làm gì cả, tất cả đều vô vi. Ăn cơm. Đi ngủ. Chờ chết. Không còn nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, không còn sắc thanh hương vị xúc pháp, vô tri vô giác, không còn tham sân si nghi mạn, không còn sắc thọ tưởng hành thức, không còn tài sắc danh thực thụy. Không yêu không ghét, không giữ không bỏ. (Khả năng là chỉ còn mỗi việc ngủ.) Như vậy có tốt không? Hay là không tốt? Để cho mọi người phát biểu ý kiến vậy!

Tôi nhớ có một bài thơ: "Sống nơi chẳng có người, Bàn thờ đã chờ sẵn, Ta chín chục già khô Chỉ còn quả tim sống. Tóc trắng buông chẳng cạo, Mắt xanh cười thâm sâu, Trỏ trăng tít trên trời, Vì ta cởi khuy áo."

Tôi nói: Vị tăng nhân 90 tuổi này vẫn còn có thể đưa tay chỉ trăng, còn có thể tạm cởi khuy áo, đã là không tồi rồi. Còn tôi thì sao? Không thể sinh tâm, không thể chỉ trăng, không thể cởi khuy áo, vậy tôi thì thế nào? Chỉ có bộn bề mênh mênh mang mang!

39. Sống khổ chết vui

Nguồn gốc của kinh Pháp Cú là như thế này. Trong tăng đoàn của Đức Phật, vì có sáu nhóm tì kheo trong lúc cùng chung sống thường chệch ra khỏi chính đạo, thế nên Phật Đà thường lấy mẩu giấy nhỏ, viết lên mấy chữ, để nhắc nhở những tì kheo và tì kheo ni đã chệch ra khỏi chính đạo. Pháp ngữ nhắc nhở của Phật Đà đã tạo thành kinh Pháp Cú.

Kinh Pháp Cú có một câu: "Sống khổ chết vui". Câu nói này không giống với cách nghĩ của con người thế tục, bởi vì con người trên thế gian này đại bộ phận đều "thích sống ghét chết". Cầu sống thì nhiều, cầu chết thì ít. Cho rằng: "Sống vui chết khổ". Cho rằng khi còn sống là vui vẻ, còn khi chết là đau khổ.

Thật ra thì điều này không đúng. Người học Phật chúng ta quan niệm rằng "sống khổ chết vui", không phải là "sống vui chết khổ". Vì sao như vậy? Bởi vì chúng ta biết rằng: Chư hành vô thường. Chư pháp vô ngã. Niết bàn tịch tĩnh. Sau khi chúng ta chết rồi sẽ đến thế giới Cực Lạc, có thể đến Ma Ha Song Liên Trì, có thể đến Phật quốc tịnh thổ. Do vậy mà: "Chết là vui!"

Còn vì sao sống lại khổ? Bởi vì con người thế tục luôn mong cầu sống lâu, cầu thân thể khỏe mạnh, cầu giàu có, cầu gia đình viên mãn, cầu con cái giỏi giang, cầu hôn nhân tốt đẹp, cầu sự nghiệp có tiền, cầu danh lợi thành công…

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng: "Đó là những thứ không thể nào có, bởi vậy, cầu không được thì sẽ đau khổ, bởi vậy sống là khổ."

Trong kinh Niết Bàn có một bài kệ: "Mọi thứ trên cõi đời, người sống đều sẽ chết, thọ mệnh dù thênh thang, đến cuối cùng cũng cạn, người thịnh tất sẽ suy, gặp gỡ rồi ly biệt, tuổi trẻ chẳng được lâu, bệnh tật đang ập tới, biển khổ là vô bờ, lưu chuyển chẳng dừng lại, tam giới đều vô thường, chẳng thể có được vui." Đây là minh chứng cho việc "sống khổ".

Lư Sư Tôn tôi đã được rất nhiều vị cao tăng tặng cho các bài kệ, đều minh chứng cho việc "sống khổ chết vui".

Thơ của hòa thượng Tông Diễn triều Nguyên: "Mưa rơi trời nhỏ lệ, Sấm rền tiếng khóc than, Các đệ tử Tây phương Vây quanh xe ngựa đến."

(Phật đến tiếp dẫn đệ tử đi về thế giới Cực Lạc.)

Thơ của hòa thượng Liễu Cải triều Minh: "Tuổi đã tám mươi bảy, Thời nay xem như hiếm, Buông tay trước Uy Âm, Trời xanh tiếng chim vàng."

(Uy Âm Phật đến tiếp dẫn, quá siêu!)

Thơ của hòa thượng Nguyên Trường triều Nguyên: "Thường ngày hay nói, Hôm nay chịu rồi Một câu vang trời Nhãn tàng chính pháp."

(Nhãn tàng chính pháp, chứng đắc Phật tính rồi!)

Tôi nói: "Không can hệ, Tự do nhất, Tự tại nhất, Vui vui vui." (Vạn vạn tuế, ai là người biết ta?)

40. Duy "Ngã" độc tôn

Phật Đà từng nói: "Duy ngã độc tôn!" Đó là khi Phật Đà vừa mới xuất thế tại vườn Lâm Tỳ Ni, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Nói một câu: "Duy ngã độc tôn!"

Rất nhiều người đã phê bình rằng câu nói "duy ngã độc tôn" này chẳng phải là quá kiêu căng ngạo mạn sao.

Cũng có người nói: "Chẳng phải Phật Đà giảng về pháp "vô ngã" sao? Vậy thì sao lại nói là “duy ngã độc tôn”? Như vậy là có mâu thuẫn với nhau."

Có người hỏi tôi: "Duy ngã độc tôn, thật kì lạ! Lư Sư Tôn, ngài giải thích thế nào đây?" Tôi đáp: Cái "Ngã" ở đây là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Không phải là chỉ một cá nhân Phật Đà. Cái "Ngã" được nói đến ở đây là chỉ: Ý thức vũ trụ. Phật tính. Không tính. Tâm tính. Vô lượng chư Phật. ...

Bởi vậy, những vị đại đức Thiền tông, khi biểu hiện cái "Ngã" thì: Có người chỉ duỗi một ngón tay. Có người chỉ đưa ra nắm đấm. Phật Đà thì nhón một cành hoa. Có người thì uống một hớp nước. Có người chỉ đứng thẳng như cây gậy. Như tôi thì là "kim kê độc lập". Đại sĩ Duy Ma Cật thì chỉ im lặng.

Đây đúng là: Hoa phi hoa. Sương phi sương. Ngã phi ngã. Thị phi thị.

Hòa thượng Viên Ngộ triều Minh có để lại ba bài kệ: "Du tăng lăn mình trong bốn biển, Ngang nhiên hướng về núi Tu Di, Trời cao vời vợi nheo mắt ngắm, Trông xuống mười phương dõi sự đời."

Và: "Bao người ngạo nghễ độc mình ta, Độc tôn quản chi những lùm xùm Bao nhiêu cái đầu đều chẳng khác Đại địa càn khôn nuốt trọn luôn."

Và: "Thập phương thế giới ta nằm ngủ, Đông tây nam bắc có lo gì, Duy ngã độc tôn luôn thể hiện, Người đến hỏi ta chỉ giơ quyền."

(Ba bài kệ này đều đã giải thích rõ ràng bốn chữ "duy ngã độc tôn" rồi.)

"Duy ngã độc tôn. Nhìn xuống thập phương. Duy ngã độc tôn. Càn khôn nuốt trọn. Duy ngã độc tôn. Chỉ giơ nắm đấm. Duy ngã độc tôn. Hiện thân toàn bộ."

Có người hỏi tôi: "Ngài nói là nghĩa rộng, chứ không phải là nghĩa hẹp. Nếu như là nghĩa hẹp thì ngài (Lư Sư Tôn) nói thế nào đây?" Tôi đáp: "Trâu đất vào biển." Người hỏi: "Nghĩa là gì?" Tôi đáp: "Ba cân vừng." Người hỏi: "Không hiểu?" Tôi đáp: "Trước đình một cây bách." (Xin mời các thánh đệ tử trả lời!)

41. Lời bình về di kệ

Khi gần kề lúc lâm chung, các hòa thượng sắp viên tịch thường để lại một vài lời kệ cuối cùng, trong đó có rất nhiều pháp vị. Tôi đặc biệt chọn ra một vài vị, kèm thêm vài lời bình nhỏ của tôi để mọi người đọc thử xem.

(1)

Hòa thượng Như Tịnh, triều Tống. "Sáu mươi sáu năm, tội trạng đầy rẫy, Nhón chân nhảy xuống, sập hố hoàng tuyền. Ấy! Trước nay sinh tử chẳng liên quan."

Tôi bình luận: Kinh viết: chỉ cần khởi lên một ý niệm thì không có gì là không tạo nghiệp, bởi vậy nghiệp chướng vô cùng nặng. Tuy nhiên, chỉ cần nhận thức được: mây là mây, mặt trời là mặt trời, vốn dĩ không có liên quan gì. Mật giáo thì cần nhận thức được về "ánh sáng". Cũng tức là "dung nhập".

(2)

Hòa thượng Hoành Trí, triều Tống. "Mộng huyễn không hoa, sáu mươi bảy năm, Chim trắng mịt mờ, thu thủy miên man."

Tôi bình luận: đời người vốn là một giấc mộng, đời người vốn là một sự huyễn ảo, 67 năm là một giấc mộng lớn mà thôi! Mặt trời xuống núi tây. Sông nước cũng nối liền với trời. Ha! Trước nay sinh tử cũng là vô sự, vô tâm, vô niệm, vô ngã.

(3)

Hòa thượng Hạnh Đoan, triều Tống. "Vốn chẳng sinh diệt, đâu có đến đi, Sông băng bốc cháy, vạn tuế nở hoa."

Tôi bình luận: Thật sự có thể hiểu thông suốt: không sinh, không tử, không đến, không đi. Thế nào là như lai? Là hình như có đến. Thế nào là như khứ? Là hình như có đi. Chính vì như vậy mới có sông băng phát lửa, cây vạn tuế nở hoa. Sinh cũng là không. Tử cũng là không. Sinh tử đều không. Còn lại trống rỗng.

(4)

Hòa thượng Thanh Củng, triều Tống. "Núi xanh chẳng cần một xác chết, Chết rồi khỏi cần đào hố chôn. Ta cũng không đòi tam muội hỏa, Một đống củi khô là đủ rồi."

Tôi bình luận: bài thơ này, bề ngoài thì cũng chẳng có gì! Cũng giống như là chuyển giao một cái bánh nướng vậy. Nhưng, pháp vị trong bài thơ này chính là: Cứ kệ ta đi. Mặc kệ đi!

(5)

Hòa thượng Tòng Duyệt, triều Tống. "Bốn mươi lẻ tám, thánh phàm giết sạch, Chẳng phải anh hùng, rồng trượt đường trơn."

Tôi bình luận: Câu "thánh phàm giết sạch" phải là người đã ngộ thấu mới có thể nói được như vậy. Trên không còn Phật quả nào để thành tựu. Dưới không còn chúng sinh nào để mà độ. Đây chính là thánh phàm đều giết sạch! Tôi chỉ có lời khen rằng: "Độc diệu"!

(6)

Hòa thượng Sở Thạch, triều Tống. "Chân tính viên minh, vốn chẳng sinh diệt, Ngựa gỗ kêu đêm, bình minh đằng tây."

Tôi bình luận: vốn dĩ không có sự vật nào, thì làm gì có bụi bặm. Chỉ còn biết nói: Ngựa gỗ kêu. Mặt trời mọc ở núi tây. Còn có mai rùa mọc lông, thỏ mọc sừng. Ngay cả viết ra bài kệ này cũng là một việc thừa thãi! Thầy tôi nói: thanh tịnh! Tôi nói: không can hệ! Xem ra cũng là vẽ rắn thêm chân, trên đầu chính là đầu, chẳng có cái gì cả!

42. Bài tụng Tứ niệm xứ mà tôi thích nhất

Chúng ta biết rằng Tứ niệm xứ là "quán thân bất tịnh", "quán thọ là khổ", "quán tâm vô thường", "quán pháp vô ngã". Bài tụng Tứ niệm xứ do cư sĩ Chu Mộng Nhan sống ở triều Thanh sáng tác ra. Thơ của ông tươi mới, hơn nữa còn dễ hiểu, đọc lên thuận miệng, khiến tâm tôi xúc động.

Tôi đặc biệt trích dẫn như sau:

Quán thân bất tịnh. "Vừa sinh ý điên đảo, Liền có huyễn duyên thân. Máu mủ thường lẫn lộn, Luôn đầy mùi tanh hôi. Giấy dính vào da thịt, Gai quấn chặt xương cốt, Lông phủ như cỏ mọc, Dòi bọ sống từng bầy. Nội tạng đều hôi thối, Quần áo cũng tầm thường. Tứ đại vốn chẳng thật, Ai có thực căn cơ. Ngôn ngữ tự vang lên, Cùng vận chuyển theo khí. Cường hào vì nam nữ, Hư danh lập chủ khách. Ba thước đất trăm năm Một đống cát vĩnh hằng. Nghĩ lại sang hay hèn, Hiền ngu đều hối hận. Chờ sinh rồi lại chết, Ai biết người trước đây."

(Phật nói: thân người là ổ dòi bọ.)

Quán thọ là khổ. "Khổ đau từ đâu đến, Vì thọ giả sinh tình. Vừa bắt đầu yêu ghét, Giữ bỏ đã rối ren. Vừa thịnh đã lại suy, Không vinh sao có nhục. Vì thân mà có oán, Buồn sinh ra từ vui. Nhà Vương, Tạ đâu còn, Nước Lưu, Tào đã tan. Buồn vui mấy giấc mộng, Thắng thua một ván cờ. Sự đời chẳng như ý, Nghèo với bệnh cặp kè. Thần tài gọi chẳng đến, Quỷ nghèo đuổi chẳng đi. Gần gũi có ích gì, Chuyện bất bình khó nói. Chẳng cầu chi sang hèn, Biết đủ thiếu vẫn thừa. Nếu ngộ được chân lý, Buồn vui dứt mầm sinh."

(Phật nói: nhà cháy.)

Quán tâm vô thường. ”Vọng tâm thường biến đổi, Thể tướng không cố định. Như ánh nến bập bùng, Như sóng nước lăn tăn, Mỗi gia đình mỗi khác, Hơn sáu người anh em, Người nào cũng hỗn loạn, Luôn ồn ào bất hòa. Thoắt cái đã đổi ý, Chuyển biến bất thình lình. Mới thơm tho đã thối, Mới ngọt ngào đã nhạt. Nóng lạnh dễ đổi dời, Yêu ghét thường bất công. Cảnh diệt thì tâm an, Tình quên thì trí vững. Chôn vùi năm thứ dục, Đóng chặt hết lục căn. Giặc lại về làm vua, Chim thoát khỏi lồng lưới. Khi giác ngộ thường trụ, Vọng tưởng cũng tiêu tan."

(Phật nói: tâm vô sở đắc.)

Quán pháp vô ngã. ”Mọi pháp do duyên khởi Ban đầu là vô ngã, Nhân duyên có sinh diệt, Ý niệm liền đổi thay. Mong được lại thành mất, Cầu nhàn lại thành bận. Lo đông lạnh không dứt, Lo hè nóng kéo dài. Nghèo lại nhớ lúc vui, Già cứ hoài tuổi trẻ, Dù ghét vẫn phải theo, ... Tự tại thêm tự chủ, Rồi sẽ lại qua đi. Rời gốc niệm không khởi, Vô thức cảnh cũng quên. Trong ngoài đều chẳng có, Ở giữa có tiềm tàng. ...

(Phật nói: vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng.)

Tôi nói: Bài tụng Tứ niệm xứ này là: Quán bất tịnh. Quán nhà cháy. (xuất ly) Quán vô thường. Quán vô ngã. Đây cũng chính là chân đế của đời người, người thế tục bám chấp vào "tài sắc danh thực thụy" huyễn ảo mà chẳng biết đến chân đế, do vậy mới luân hồi mãi trong sinh tử. Người có đạo nhắc nhở thế nhân chân đế của Tứ niệm xứ, do vậy có thể tự mình chứng ngộ như một vị vua đại giác.

43. Tìm hiểu sâu về công án

"Truyền Đăng Lục" có viết: Tăng nhân hỏi thiền sư Triệu Châu: "Con chó có Phật tính không?" Thiền sư Triệu Châu đáp: "Không." Và: Tăng nhân hỏi thiền sư Duy Khoan, đệ tử của thiền sư Mã Tổ: "Con chó có Phật tính hay không?" Duy Khoan đáp: "Có." Tăng nhân hỏi: "Hòa thượng có không?" Duy Khoan đáp: "Ta không có." Tăng nhân lại hỏi: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì sao hòa thượng lại không có?" Duy Khoan đáp: "Ta không phải là tất cả chúng sinh." Tăng nhân lại hỏi: "Không phải là tất cả chúng sinh thì là cái gì?" Duy Khoan đáp: "Cũng chẳng phải là cái gì." Tăng nhân nói: "Chỉ có ngẫm nghĩ mà đắc được giác ngộ sao?" Duy Khoan đáp: "Suy nghĩ nhưng không bì kịp, nhận biết nhưng không thể đắc, nên là bất khả tư nghì."

🌟

Triều Minh. Hòa thượng Vô Uấn viết một bài kệ: "Chó chẳng có Phật tính, Sắc xuân ngập hoàng cung. Triệu Châu ở Đông Viện, Hồ lô treo trên tường."

🌟

Có người vì công án này mà đến hỏi Lư Sư Tôn: "Con chó có Phật tính hay không?" Lư Sư Tôn đáp: "Có." Người hỏi: "Vì sao lại có?" Lư Sư Tôn đáp: "Phật Đà nói chúng sinh đều có Phật tính." Tôi nói với người này rằng, ngày mai anh hãy đến hỏi tiếp.

Ngày hôm sau, người này lại hỏi: "Con chó có Phật tính hay không?" Lư Sư Tôn đáp: "Không." Người này sửng sốt: "Hôm qua nói có, hôm nay nói không, như thế là trong bình hồ lô bán thuốc gì?" Lư Sư Tôn đáp: "Con chó vốn có Phật tính, nhưng cả đời con chó đều không biết rằng nó có Phật tính, do vậy có cũng như không, hiểu chưa?" Người này nói: "Đã hiểu!"

Người này xoa xoa đầu nói: "Vậy thì thiền sư Duy Khoan nói ông ấy không có Phật tính, lại nói ông ấy không phải là tất cả chúng sinh, cũng không phải là một cái gì cả, vậy việc này là thế nào?" Lư Sư Tôn đáp: "Đây chính là thiền!" Người này nói: "Không hiểu!" Tôi nói: "Anh đi hỏi thiền sư Duy Khoan đi!" Người này nói: "Thiền sư Duy Khoan đã thành người thiên cổ từ lâu rồi!" Tôi hỏi: "Thiền sư Duy Khoan bây giờ là gì?" Người này đáp: "Bây giờ ông ấy chẳng là cái gì cả." Tôi nói: "Nói đúng rồi đó!"

44. Một bài thơ thanh mát

Hòa thượng Chính Ấn triều Nguyên có một bài thơ "Tùng Nguyệt am tán", tôi đọc xong, trong lòng cảm thấy rất thanh mát.

Hòa thượng Chính Ấn thuộc pháp hệ của phái Lâm Tế tông Hổ Khưu, nếu như luận ra thì tôi (Lư Sư Tôn) cũng thuộc pháp hệ của phái Lâm Tế tông Hổ Khưu, chúng tôi có tình bằng hữu cùng tông cùng phái.

Ngoài ra: Hòa thượng Chính Ấn là người Liên Giang, Phúc Kiến, ông nội tôi (Lư Sư Tôn) là người Phần Dương, Phúc Kiến, về sau di cư đến Liên Giang, Phúc Kiến, cũng có tình đồng hương.

Bài thơ "Tùng Nguyệt am tán" này tôi rất thích. [bài thơ ca ngợi về mái lều có tên Tùng Nguyệt.]

Thơ rằng: "Am nhỏ của ta gọi Tùng Nguyệt, Là trăng sáng tỏ thông trường tồn. Đông tây nam bắc chẳng ràng buộc, Có trăng có tùng là nghỉ ngơi. Ôm tùng hỏi tùng tùng không nói, Ngẩng đầu hỏi trăng trăng điềm nhiên. Nhóm củi đun nước mời trăng sáng, Lòng ta với trăng cùng cô viên. Trăng thường dạo quanh núi Tu Di, Bàn tay Tu-la không giả dối, Khi khuyết... Khi tròn... Vĩnh Gia chứng đạo từng miêu tả, Trăng tỏ trên sông gió lay tùng. Hàn Sơn lặng nghe tiếng càng hay, Mã Sư thưởng ngoạn thêm huy hoàng. Có ai biết được sống trong am, Chẳng đi chẳng đến chẳng bám trụ, Đến đi như thể trăng trên trời, Dừng lại như thể gió qua cây. Am này chẳng tồi cũng chẳng tốt, Chỉ độc thân già sống qua ngày. Hoa tùng ngắt xuống là ăn được, Gió thổi ngọn tùng hoa quế bay. Hiển nhiên đất nước có mát lành, Tùng tự xanh tươi trăng thường tỏ. Thơ này truyền lại lòng thanh bạch, Quy tắc mẫu mực con cháu noi."

Bài thơ này nhắc đến: Thiền sư Vĩnh Gia. Hàn Sơn Tử. Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất. Thiền sư Vĩnh Gia có bài "Chính đạo ca" truyền lại cho hậu thế. Hàn Sơn Tử có "Thi tập". Mã Tổ Đạo Nhất có "Công án chơi trăng". Đọc bài thơ này có một cảm giác vô cùng thân thiết!

Tôi còn nhớ Âu Dương Tu có một bài thơ "Vọng Giang Nam". "Liễu Giang Nam, Hoa lá bao mềm mỏng. Cánh hoa rơi vương trên chén rượu, Nhành liễu rủ phủ trên đầu người. Mỗi cây đều thướt tha. Trăng Giang Nam, Như gương, như khuyên tròn Như mặt gương sáng không chút bụi, Như khuyên tròn chẳng treo rèm hoa. Mãi soi sầu ly biệt."

(Vị Âu Dương Tu này nói mặt trăng như tấm gương tròn, trăng như móc treo rèm, còn nhắc đến cả chữ "sầu".) Đây là những tình cảm của thi nhân.

Ông còn có một bài thơ. "Trăng non uốn mình soi loan kính. Tóc mây trâm phượng chẳng buồn cài. Rèm châu lặng. Trở về lầu. Cảm thương hoa rơi gió chẳng ngừng. Khói xanh mờ lối liễu. Giếng nào vọng tiếng gàu kéo nước, Đêm qua canh khuya tỉnh rượu. Xuân sầu hơn cả bệnh sầu."

Có người từng hỏi tôi: "Cái gì là tục đế? Cái gì là Thánh đế?" Tôi trả lời ở đây rằng: "Bài thơ "Tùng Nguyệt am tán" của hòa thượng Chứng Ấn là Thánh đế, bài thơ "Vọng Giang Nam" của Âu Dương Tu chính là tục đế." Có người hỏi: "Hai đế Thánh - tục này hòa hợp với nhau ra sao?" Tôi đáp: "Song vận." Hành giả chúng ta dựa vào thế tục đế để độ người khác tiến nhập vào Thánh nghĩa đế, đây chính là "trung quán".

45. Bài thơ tuôn chảy từ ý thức

Tôi từng muốn làm một thi nhân. Trong những năm tháng thanh niên, tôi đã viết rất nhiều thơ, gửi bản thảo đến rất nhiều tờ báo và tạp chí. Tập thơ đầu tiên của tôi là: "Tuyển tập khói mỏng."

Mấy ngày nay, tháng 5 năm 2020, tôi trăn trở với một tin tức được gửi đến. Chủ biên Hạ Lục Đế của tạp chí Dã Phong mà tôi thường gửi bản thảo đến thời tôi còn trẻ, có nhắn cho tôi một tin rằng: "Sẽ trao cho tôi một giải thưởng Danh Dự." Tôi nghe xong, thinh lặng! Tạp chí Dã Phong, tạp chí của hơn 50 năm trước. Lục Đế là chủ biên. Tôi cảm thấy có một cảm giác xúc động ấm áp. Trời ơi! Hơn 50 năm trước, đã hơn 50 năm trôi qua rồi. Vinh dự. Kiệt xuất. Thù thắng. Đối với một lão tướng trên văn đàn là tôi đây, mọi thứ dường như vô cùng xa xôi rồi, nhưng cũng lại giống như ở ngay trước mắt. Hiện tại, thế giới đang có dịch bệnh. Tôi ở Mỹ. Đợi đến khi dịch bệnh qua rồi sẽ bàn vậy! Đối với tạp chí Dã Phong, đối với chủ biên Lục Đế, tôi có một thứ tình cảm như hư vô lúc có lúc không.

🌟

Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Ngài viết thơ gì vậy?" Tôi đáp: "Thơ theo dòng chảy ý thức." Người hỏi: "Cái gì là dòng chảy ý thức?" Tôi đáp: "Tâm linh." Người hỏi: "Có thể giải thích rõ hơn không?" Tôi nói: "Được thôi! Tôi sẽ nói ngắn gọn!"

Dòng chảy ý thức chính là những cảm xúc tâm lý. Tình cảm và tư tưởng bỗng nhiên lóe lên, thế rồi thi nhân sẽ biến những ý tưởng đột nhiên lóe lên này thành văn tự. Tôi nói: Nhân loại chúng ta có ý thức. Người máy và máy tính thì không có ý thức. Người máy có các chức năng, nhưng lại thiếu mất ý thức. Nhà triết học người Pháp Descartes nói: Chỉ có nhân loại mới có cảm giác và khát vọng, ví dụ như đau khổ, hạnh phúc, căm phẫn, yêu thương. Tôi không dám nói các động vật khác thì không có, nhưng ý thức chủ thể trong bộ não con người, khi đem so sánh với động vật thì ưu việt hơn, chí ít là trên phương diện trí tuệ và năng lực thì có thể nói như vậy. Tái hiện. Tiêu biến. Đều là dòng chảy ý thức!

Hòa thượng Trí Uy triều Tùy có bài thơ: "Đừng biến những nhớ nhung, Thành dòng sông sinh tử, Biển luân hồi lục thú, Chẳng nhìn ra sóng dài."

Và: "Bản tính ta hư vô, Vì ngông sinh nhân ngã, Làm sao dứt vọng tình? Trở về chốn hư không."

(Hai bài thơ này bàn về niệm và vô niệm, cũng là thơ về dòng chảy ý thức.) Niệm là dòng chảy ý thức. Chỉnh đốn ý niệm rồi, ý thức thành một thể, rồi ý thức thành hư không.

46. Tôi vẫn niệm A Di Đà Phật

Sư tỉ Hân Nghi gửi cho tôi một "truyện cười không phải truyện cười". Nội dung như thế này: Có một thầy giáo đã về hưu nhiều năm bị cháu gái phê bình là quá lạc hậu, mắc chứng bệnh mà theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay là hội chứng diễn đạt khó khăn. Thế là cháu gái liền đưa ra câu hỏi để người ông đã về hưu này trả lời.

Cháu gái hỏi: "Tổ chức buổi họp ngày nay gọi là gì?" Người ông nghĩ một lúc rồi đáp: "Họp thì gọi là họp chứ gì." Cháu gái nói: "Sai! Phải gọi là diễn đàn." Cháu gái hỏi: "Gầy còm ngày nay gọi là gì?" Người ông nói: "Gầy còm thì là thân thể suy yếu chứ gì." Cháu gái nói: "Sai! Phải gọi là mình dây." Cháu gái hỏi: "Người đẹp già rồi thì bây giờ gọi là gì?" Người ông đáp: "Ngọc châu có tuổi." Cháu gái nói: "Sai! Là gái đẹp thâm niên." Cháu gái hỏi: "Phụ nữ có chồng ngoại tình bây giờ gọi là gì?" Người ông đáp: "Chẳng phải là hồng hạnh xuất tường sao?" Cháu gái nói: "Sai! Gọi là phụ tình." Cháu gái hỏi: "Ý kiến thống nhất gọi là gì?" Người ông đáp: "Ý kiến thống nhất thì vẫn là ý kiến thống nhất." Cháu gái nói: "Sai! Gọi là cùng chung nhận thức." Cháu gái hỏi: "Anh và tôi cùng có lợi thì nói thế nào?" Người ông đáp: "Lợi ích đôi bên." Cháu gái nói: "Sai! Gọi là win-win." ...

Ngôn từ của con người hiện đại ngày càng hiện đại, người thế hệ trước như chúng ta có nhiều điểm thật sự không hiểu được. Ví dụ: Muah: hôn. Ya-pi: làm bộ dễ thương. Tinh-tinh: có tiền rồi. 520: em yêu anh. 9420: chỉ có yêu anh. () Ha ha ha! [(*) sử dụng hiện tượng đồng âm khác nghĩa trong tiếng Trung.]

🌟

Thế nhưng, bất kể là ngôn ngữ thay đổi thế nào, từ xưa tôi niệm A Di Đà Phật, đến nay vẫn niệm A Di Đà Phật, hoàn toàn không có gì thay đổi. Mặc dù ngày nay tôi tu Kim cương thừa (Mật tông), nhưng pháp mà tôi tu là A Di Đà Phật Bổn tôn pháp. Niệm Phật vĩnh viễn không thay đổi.

Hòa thượng Hoài Thâm triều Tống có hai bài thơ: "Muôn người một lòng niệm Di Đà, Cùng nhau hợp lực nguyện lực tăng, Một đóa sen nở tự kiến Phật, Mới hiểu tịnh độ vượt Ta Bà."

🌟

"Sơn lân thủy điểu cùng tán dương, Bảo võng kim đài khắp đạo tràng. Chuông lớn ngân vang cùng trống gõ, Di Đà khắp chốn hiện hào quang."

Tôi niệm: "Vãng sinh tịnh thổ. Vượt sinh thoát khổ. Nam Mô A Di Đà Phật."

47. Kiểm nghiệm hạt xá lợi

Trước tiên, tôi công bố một bức thư:

Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh tôn Liên Sinh Hoạt Phật. Con xin chào Sư Tôn, Sư Mẫu! Bố của con là Liên Hoa Thúc Tiêu, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1924, vào lúc 2 giờ chiều ngày mồng 1 tháng 5, trong giấc ngủ đã an lành bình thản ra đi, hưởng thọ 97 tuổi.

Vào buổi sáng ngày 30 tháng 4, ông được chuyển từ viện dưỡng lão vào bệnh viện, và liên tục ở trong trạng thái hôn mê. Sau đó, bệnh viện chẩn đoán rằng các chức năng của cơ thể đã suy kiệt, trong vòng hai ngày sẽ qua đời, hãy thông báo cho người nhà đến gặp mặt lần cuối. Vì tình hình dịch bệnh nên chúng con chỉ có thể gặp mặt thông qua gọi video.

Buổi sáng ngày mồng 1 tháng 5, con vội vàng chạy vào bệnh viện thăm bố, thấy ông vẫn đang say ngủ, sắc mặt vẫn hồng hào. Thế là con ghé vào bên tai bố, không ngừng dặn dò ông rằng ông phải nhớ hãy theo ánh sáng trắng của Sư Tôn, Kim Mẫu và Phật Bồ Tát mà đi, không được đi cùng với những bạn bè thân thích đã qua đời. Một mặt con niệm tâm chú của Sư Tôn, một mặt con dùng điện thoại mở video Sư Tôn dùng tay gia trì, không ngừng gia trì cho ông, mãi cho đến 1 giờ rưỡi chiều con mới rời đi. Nhưng khi còn vừa bước vào cửa nhà mình thì đã nhận được thông báo của bệnh viện là ông đã bình thản ra đi lúc 2 giờ rồi.

Điều đầu tiên con làm là vào đàn thành trong nhà thắp hương báo cáo với Sư Tôn, cầu thỉnh Sư Tôn, Phật Bồ Tát từ bi tiếp dẫn bố con vãng sinh, và báo tin đến cho pháp sư ở Bạch Vân Lôi Tạng Tự nhờ chuyển fax đến Chân Phật Mật Uyển.

Sau đó, chúng con lập tức đến bệnh viện, rồi dặn dò bệnh viện trong vòng 8 giờ vàng không được dịch chuyển di hài của ông. Vì tình hình dịch bệnh nên mọi người không thể cùng lúc vào tiễn ông, chỉ có thể mỗi lần một người vào. Con là người vào cuối cùng, con vẫn luôn không ngừng trì niệm tâm chú Sư Tôn, Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, chú Vãng sinh, hồi hướng cho bố con, liên tục trì tụng suốt ba giờ. Trong lúc trì chú, con không ngừng cảm nhận thấy lực gia trì của Sư Tôn và Phật Bồ Tát, toàn thân con tràn đầy cảm giác ấm áp. Hơn nữa con còn nhận thấy sắc mặt của bố con bắt đầu trở nên hồng hào, giống như đang ngủ lúc bình thường vậy. Khi y tá vào để lau rửa làm sạch thân thể của bố con lần cuối cùng, phát hiện ra thân của ông vẫn còn mềm. Cuối cùng, con nhìn theo những nhân viên của nhà tang lễ đến đưa ông đi.

Bố con suốt một đời gặp nhiều khó khăn vất vả, khi còn trẻ bị lôi vào quân đội làm lính, trải qua chiến trường thập tử nhất sinh, khổ sở cùng cực. Cả đời ông là người ngay thẳng lương thiện, tràn ngập yêu thương quan tâm đến mọi người, có trách nhiệm và tận tụy.

Kể từ sau khi quy y Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật, hơn 20 năm nay ông luôn kiên trì bền bỉ tu trì. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn dành ra hai giờ mỗi ngày nghiêm túc thực hành công khóa, 6 rưỡi tối lên giường đi ngủ, 2 giờ sáng dậy trì niệm một biến Chân Phật Kinh, ba biến Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, và Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, Kim Mẫu tâm chú. Ngày nào cũng như vậy, rất kiên trì. Ông thường nói rằng ngày nào mà chưa làm công khóa thì ngày đó cảm thấy không thoải mái.

Ngày mồng 7 tháng 5, bố con được đưa đi mai táng. Mặc dù tình hình dịch bệnh nhưng vẫn cảm ơn Thượng sư Liên Minh và các pháp sư, trợ giảng, đồng môn ở Bạch Vân Lôi Tạng Tự đã nhiệt tình giúp đỡ tụng kinh hồi hướng, mọi nghi thức đều cát tường viên mãn.

Sau khi bố con được hỏa táng xong, Thượng sư Liên Minh đã đi kiểm tra, phát hiện ra trong tro của bố con có rất nhiều hạt xá lợi. Khi Thượng sư đưa hạt xá lợi đầu tiên cho con xem, trong lòng con cảm thấy dâng trào một sự xúc động, kinh ngạc xen lẫn vui mừng, đồng thời con cũng cảm thấy một sự an ủi lớn. Bố con chỉ là một đệ tử Chân Phật Tông rất bình thường, thường ngày chỉ có tụng kinh trì chú, vậy mà cũng có được hạt xá lợi, thật không thể tưởng tượng được! Điều này đã chứng minh sự chân thực và thù thắng của Chân Phật Mật Pháp, đã chứng tỏ rằng chỉ cần có thể kiên trì tin tưởng vào Căn bản Thượng sư và Phật Bồ Tát, có thể nhất tâm bất loạn, là đã có thể có được thành tựu như vậy rồi. Bố con có thể có hạt xá lợi lại càng làm cho lòng chúng con thêm kiên định với việc tu trì Chân Phật Mật Pháp.

Cảm ơn đại lực gia trì và tiếp dẫn từ bi của Sư Tôn cùng chư Phật Bồ Tát. Cảm tạ Sư Tôn, cảm tạ Sư Mẫu.

Đệ tử Liên Hoa Ngọc Thuyền, Calgary, Canada, khấu an! Ngày 20 tháng 5 năm 2020.

Lời bình:

Chứng nghiệm hạt xá lợi của các hành giả Chân Phật Tông rất nhiều, ở đây tôi chỉ đưa ra một bức thư để chứng minh mà thôi. Ví dụ: Canada, Montréal, Thượng sư Liên Hoa Ích Dân có xá lợi toàn thân, từng hạt từng hạt tròn xoe, rất sáng đẹp, gom lại được cả một túi, điều này chứng minh cho sự thành tựu của ông. Mẹ tôi Lư Ngọc Nữ, sau khi hỏa thiêu, đồng môn đã nhặt ra được rất nhiều hạt xá lợi và hoa xá lợi, hiện nay đang được thờ tại Seattle Lôi Tạng Tự. Trần Hiểu Phong, người phiên dịch tiếng Anh của tôi, có bố, mẹ chỉ đọc Cao Vương Kinh và trì Thượng sư tâm chú, nhưng cũng đều có xá lợi, đều là xá lợi kim cương, to bằng đầu ngón tay cái, vừa trắng vừa sáng. Một tử tù ở nhà tù Changi, Singapore, khi sắp chết đã sám hối, quy y, trì Thượng sư tâm chú và Cao Vương Kinh, sau khi chịu hình phạt, cũng đã thu được rất nhiều hạt xá lợi. Điều này chứng minh "chỉ cần buông dao, lập địa thành Phật". Chân Phật Tông quả là thù thắng! ...

48. Chia sẻ của Liên Hoa Thiệu Mẫn

Bố tôi từng có lần bị nhồi máu não nguy kịch, lập tức nhìn thấy Sư Tôn phóng đại quang minh gia trì.

Chia sẻ của Liên Hoa Thiệu Mẫn. (Bản văn này trích từ Chân Phật Báo, số 1316, trang 10.)

Bố tôi (năm nay 86 tuổi), tên là Quách Hưng Chu, bình thường sức khỏe của ông khá tốt. Một ngày tháng 3 năm 2018, sau bữa trưa, ông cảm thấy hơi mệt liền đi ngủ. Ai ngờ một tiếng đồng hồ sau, người giúp việc gọi bố tôi dậy uống nước, không ngờ sắc mặt bố tôi đã sạm đen, không cử động được, miệng cũng không mở ra được. Người giúp việc sợ hãi liền gọi xe cứu thương đến đưa bố tôi vào viện cấp cứu.

Khi đó, không ngờ ông đã rơi vào trạng thái hôn mê, bệnh viện chẩn đoán là bị nhồi máu não, huyết quản bị tắc ở vùng não. Sau ba ngày dùng các loại thuốc đều không có cách nào chữa được cơn nhồi máu não của ông, bác sĩ liền thông báo tình trạng nguy kịch. Sau đó, người giúp việc mới gọi điện kêu tôi đến, kể rõ tình hình của bố tôi, tôi nghe xong vô cùng sốt ruột và không biết phải làm thế nào cả.

Thế là, tôi đã thỉnh cầu Thượng sư Liên Âu gửi thông tin và ảnh của bố tôi đến Sư Tôn cầu xin gia trì. Vốn dĩ con người bố tôi chẳng tin vào điều gì cả, cũng không tin Phật, con người vốn rất ngang ngạnh, chẳng bao giờ nghe lời khuyên của người khác. Thế nhưng vào lúc ông lâm bệnh thì tôi cũng chỉ còn cách cầu Sư Tôn cứu ông ấy thôi.

Không ngờ ông đã nhanh chóng được Sư Tôn gia trì rồi! Vốn dĩ bố tôi không thể rời khỏi phòng chăm sóc tích cực, đột nhiên bố tôi tỉnh dậy, hơn nữa, câu đầu tiên mà ông nói là: "Tôi nhìn thấy vị đại sư của Thiệu Mẫn phóng ánh sáng rất mạnh!". Ngay cả người giúp việc chăm sóc cho ông cũng nhìn thấy trên giường bệnh của bố tôi tỏa ra rất nhiều tia sáng màu vàng kim mạnh mẽ. Lúc này, người giúp việc khẩn trương gọi điện thoại thông báo cho tôi tin tức quan trọng này.

Hai ngày sau, bố tôi đã có thể xuất viện, bác sĩ cũng không biết vì sao bố tôi đột ngột khỏe lại. Mặc dù nửa người bên trái của ông vẫn chưa thể cử động được nhưng đã có thể xuất viện rồi. Tôi nhanh chóng nhắn tin đến Thượng sư Liên Âu, nhờ chuyển lời tới Sư Tôn thông báo rằng bố tôi đã khỏe rồi, đã qua khỏi cơn nguy kịch rồi. Sau đó, Sư Tôn từ bi còn ban tặng cho một tấm phù "Kim Mẫu kim đơn" để bố tôi uống. Tôi nhận được tấm phù, lập tức bay đi Đại Lục, đích thân cho bố tôi uống phù. Thế còn bố tôi, lúc vừa trông thấy tôi thì cứ nước mắt tuôn trào, tự mình nói với tôi rằng: "Bố nhìn thấy đại sư của con đó!" Tôi nói với bố: "Con hy vọng bố sẽ niệm Thượng sư tâm chú để báo đáp ơn Phật."

Hai tuần nay, tôi đọc Chân Phật Kinh, Cao Vương Kinh, Địa Tạng Kinh cho bố tôi. Ai ngờ kì tích đã thật sự xảy ra rồi. Bố tôi đã có thể tự ngồi dậy và đi lại trong phòng được mấy bước, còn có thể tự mình ăn cơm nữa. Trước khi tôi rời đi, ông ấy còn có thể tự lên xuống ba tầng lầu, thật là kì tích...

Tôi biết rằng đây đều là nhờ sự gia trì từ xa của Sư Tôn và Kim Mẫu. Pháp lực của Sư Tôn vô biên, siêu vượt thời gian không gian, tồn tại khắp nơi, không đâu là không có. Kì tích bố tôi mắc bệnh nguy kịch nhưng đã hồi phục lần này khiến tôi vô cùng sửng sốt và xúc động. Thì ra sức mạnh gia trì vô hình thật sự là không thể tưởng tượng được, vượt rất xa phạm vi khoa học hiện đại có thể giải thích được.

Sau việc này, mùa thu năm ngoái tôi đã đi Seattle để cảm tạ Sư Tôn và cảm ơn sự gia trì của Ngài đối với bố tôi. Lần mắc bệnh nguy cấp này đều là nhờ sự gia trì của Sư Tôn mới có thể chuyển nguy thành an.

Sức mạnh gia trì của Sư Tôn đúng là bất khả tư nghì! Tôi có thể quy y Sư Tôn đúng thật là may mắn của tôi. Vào lúc tôi gặp khó khăn, bệnh tật, Sư Tôn chính là tiên đơn cứu mạng của chúng tôi, trăm lần đều linh nghiệm cả trăm. Tôi chân thành cảm ơn Sư Tôn, cũng hy vọng đồng môn chúng ta có thể tăng thêm lòng tin kiên định, kính sư, trọng pháp, thực tu, có thể bảo đảm giúp chúng ta vượt qua được những lúc nguy cấp. Thỉnh Phật trụ thế đối với chúng ta thật quan trọng làm sao.

49. Luật lệnh của Thần Gió

Bài viết của Liên Vy (Tôn Ái Trân).

Trung tuần tháng trước, tôi nhận được cuốn sách mới nhất của Lư Sư Tôn "Bút kí Nam Sơn Nhã Xá". Tôi rất phấn khởi, lập tức mở sách ra đọc. Đọc đến trang thứ 22 "Luật lệnh của Thần Gió", tôi lại nhớ đến trận cháy rừng lớn tại California ngày 21 tháng 10 năm ngoái. Em trai tôi là Liên Yếu, nhà ở tại Pacific Palisades, xém chút nữa đã bị ngọn lửa hoang dại thiêu trụi ngôi nhà. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy rùng mình.

Tôi nhớ rất rõ ràng, ngày hôm đó sư tỉ Trần Truyền Phương và tôi đang ở trong phòng tiệc buffet Bốn Mùa để chúc mừng sinh nhật hai sư tỉ là bà Ngụy Tư Nhan và Tưởng Quan Dung. Chúng tôi bốn bà bác ở California vẫn thường cùng nhau hành hương đến Seattle lễ Phật, hoặc đi đến các nơi trên thế giới để tham gia các đại pháp hội mà Lư Sư Tôn làm chủ đàn, luôn luôn là bốn người cùng đi. Nhưng mỗi khi trở về nam California thì chúng tôi mỗi người lại bận rộn với những việc lặt vặt của gia đình, trừ phi trong bốn người có người có sinh nhật thì mọi người mới lại dành chút thì giờ để tụ tập vui vẻ một chút. Hơn nữa, mỗi lần sau khi đi ăn trưa xong, chúng tôi luôn kể với nhau nghe rất nhiều sự việc, và vẫn không nỡ chia tay, thế là chúng tôi lại cùng nhau ăn tiếp bữa tối sớm rồi mới người nào về nhà người nấy. Bởi lần này, sinh nhật của sư tỉ Ngụy và sư tỉ Tưởng chỉ cách nhau có ba ngày, do vậy năm nào hai bà cũng sẽ cùng chúc mừng sinh nhật vào một ngày.

Pacific Palisades là khu vực ven biển nằm về phía tây của trung tâm thành phố Los Angeles, phong cảnh xinh đẹp. Từ căn bếp của nhà em trai tôi nhìn ra là biển Thái Bình Dương. Phòng khách trong nhà rất rộng, em tôi không đặt bàn ghế sofa mà dùng để làm thành Phật đường.

10 giờ 40 phút buổi sáng ngày 21 tháng 10 đó, ngọn lửa lớn ban đầu thiêu rụi diện tích là một mẫu Anh. [1 mẫu Anh khoảng 4,046 m2] Trong vòng chưa đầy một tiếng, đám cháy đã lan ra đến 30 mẫu Anh. Sau khi đám cháy bùng lên, thế lửa cùng với địa hình đã tiến lên thiêu cháy những ngôi nhà trên núi. Những cư dân ở khu vực đó đều đã được yêu cầu phải đi sơ tán.

Lúc đó, em trai tôi lại không ở Mỹ, cháu gái tôi đã tận mắt nhìn thấy ngọn lửa hoang dại đã thiêu cháy đến chỉ còn cách nhà mình hai tòa nhà, liền vội vã đem theo các giấy tờ tùy thân quan trọng rồi hốt hoảng lái xe rời đi, lái thẳng đến phía nhà của tôi. Chỉ vì tôi bỏ quên điện thoại ở giữa lớp vải của ví da nên cháu tôi không thể liên lạc với tôi được. Sau đó con trai tôi nói với cháu tôi rằng tôi đã đi gặp mặt mấy người bạn thân rồi, chắc khoảng sau bữa tối mới về nhà. Thế là cháu gái tôi chỉ còn cách đến nhà bạn lánh nạn.

Cho đến khi tôi đọc được tin nhắn của cháu gái tôi cùng với tấm ảnh chụp ngọn lửa đã thiêu cháy đến rất gần nhà của em trai tôi thì lúc đó đã là 3 giờ chiều rồi. Lúc này, tâm trạng của tôi rối bời. Tôi cảm ơn sư tỉ Ngụy Tư Nhan đã nhắc tôi, để tôi có thể nhanh chóng về nhà, khẩn trương chuyển fax đến Lư Sư Tôn để báo cáo về sự việc cháy rừng, rập đầu thỉnh cầu Sư Tôn giúp đỡ mau chóng hết sức có thể. Sau khi gửi fax đi, trong lòng tôi đã yên tâm hơn rất nhiều, bởi vì Lư Sư Tôn xưa nay vẫn luôn từ bi chúng sinh, chỉ cần có khả năng thì Ngài nhất định sẽ giúp viên mãn mọi ý nguyện của chúng sinh.

Quả thực như vậy, 9 giờ tối cùng ngày, thế lửa đã được kiểm soát. Mặc dù ngọn lửa lớn vẫn chưa hoàn toàn được dập tắt, nhưng những cư dân buộc phải rời đi nay đã chuẩn bị trở về nhà. Cục phòng cháy chữa cháy Los Angeles khi đó báo cáo rằng, may mà gió đã chuyển hướng, do vậy công tác của nhân viên cứu hỏa mới có thể tiến hành thuận lợi được. Sau khi cháu gái tôi trở về nhà thì thấy trong nhà bình an vô sự. Chúng tôi đều vui mừng nghĩ rằng tất cả mọi việc này đều là nhờ có sự gia trì của Lư Sư Tôn, nếu không thì hậu quả nhất định sẽ không thể tưởng tượng được.

Đọc xong chương "Luật lệnh của Thần Gió", tôi mới hiểu rõ ràng rằng, ngày hôm đó sau khi Lư Sư Tôn biết được lời thỉnh cầu của tôi, Ngài đã chuyên tâm hết lòng niệm chân ngôn, triệu thỉnh Thần Gió hạ giáng, gió trời đã lĩnh luật lệnh pháp chỉ của Lư Sư Tôn mà mau chóng đi đến cứu viện cho vùng bị ngọn lửa lớn tàn sát, nhà của cậu em tôi mới được chuyển nguy thành nan và bảo tồn được.

Tôi vô cùng cảm động nghĩ: tôi quy y Sư Tôn đã hơn 35 năm rồi. Đi trên con đường này, trong cuộc đời tôi cũng đã gặp phải không ít những bấp bênh, khốn khó, và sự vô thường của cảnh người thân lần lượt qua đời. Nhưng nhờ được Lư Sư Tôn gia trì, cuối cùng tôi đã có thể bình thản, yên định, và ung dung mà bước đi. Tôi cảm ơn mình đã có nhân duyên phúc đức được làm đệ tử của Lư Sư Tôn, và trước sau tôi luôn trân quý pháp duyên của Chân Phật. Trên con đường cung kính tu trì, tôi vui mừng vì mình đã tìm được giá trị chính yếu của cuộc đời, hơn nữa ngày ngày đều cảm thấy pháp hỷ tràn đầy.

Mỗi ngày sau khi tu pháp, tôi đều ở trước pháp tướng của Lư Sư Tôn chí thành tha thiết khấu đầu cảm tạ Ngài rằng: "Cảm ơn Sư Tôn, ơn thầy bao la, khiến con muôn đời cảm niệm, muôn kiếp khó quên!"

(Hết)

Mục lục