Lão tăng thất tuần thuật tâm hoài
🪷 Chân ngôn kiến đạo
Văn tập số: 284 Xuất bản: 8/7/2021 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Tôi. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Bảy mươi bảy tuổi. Sống tại Nam Sơn Nhã Xá, bang Washington, Hoa Kỳ. Trong lòng vẫn luôn có một ước vọng muốn viết một cuốn sách gói trọn những tâm đắc tu tập Phật pháp cả đời này của tôi. Nhưng ước vọng này lớn quá, dường như đây là một việc bất khả thi! Tuy nhiên, Tôi bất chấp tất cả, động bút viết. Tên sách là: "Lão tăng thất tuần thuật tâm hoài". Thật ra tên sách đúng ra nên là "Lão tăng thất tuần thuật tâm đắc".
🌟
Đương nhiên tôi biết: Cái gọi là "đắc" tức là "vô sở đắc". Mà "vô sở đắc" thì cũng tức là "đắc". Bởi vì trải qua "nghe", "nghĩ", "tu". Dựa vào thân người quý giá của tôi. Đủ mọi giáo pháp của các vị thầy. Từ tín tâm đến bồ đề tâm. Từ đạo đến quả. Đối với tất cả mọi sự vật đều tuyệt đối tĩnh lặng quan sát một cách thuần tịnh. Cuối cùng, tôi đã ngộ ra: "Vô sở đắc." Vô sở đắc này. Vô sở đắc này là vô cùng, vô cùng, vô cùng quan trọng. Ở đây tôi viết ba từ “vô cùng”, chính là một sự tâm đắc chính xác tuyệt đối.
🌟
Trước kia. Câu đầu tiên khi khai thị thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni là: "Các đệ tử! Hãy nghe cho kĩ, đời người là khổ." "Khổ" này chính là chân đế. Tiếp theo: "Không" là chân đế. "Vô thường" là chân đế. "Vô ngã" là chân đế. "Vô sở đắc" là chân đế. Tôi lấy sự trải nghiệm của chính bản thân mình để chứng thực rằng những điều mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói là chân lý.
🌟
Có thể những người học Phật đều cho rằng khổ, không, vô thường, vô ngã, vô sở đắc chúng tôi đã nghe mãi đến thuộc lòng cả rồi. Nhưng, tôi nói để mọi người biết: Người người đều biết. Người người đều không làm được. Những điều này chúng ta cần phải đưa vào thực tiễn. Những đạo lý mà Phật Đà đã nói, chúng ta đều hiểu rõ. Vấn đề là cần phải thực tiễn những điều đó. Sau khi thực hành chúng rồi thì mới là đại thủ ấn, đại viên mãn, vô sở đắc. Tôi mong cuốn sách này, với giáo pháp tâm đắc vô thượng, có thể chiếu sáng tâm linh của vô lượng chúng sinh.
🌟
Tôi nguyện rằng: Nguyện tất cả chúng sinh có thể tránh được mọi mê hoặc. Nguyện tất cả chúng sinh có thể đi trên chính đạo. Nguyện tất cả chúng sinh vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Nguyện tất cả chúng sinh kiến đạo khai ngộ. Chúng sinh đều là Phật. Bị ô nhiễm che phủ. Nếu ô nhiễm tịnh hóa. Phật quả sẽ hiện tiền.
(Tháng 7 năm 2021)
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct., Redmond, WA 98052 U.S.A
01. Bất phân giáo phái
Phật giáo Tây Tạng hiện nay phân chia thành bốn giáo phái lớn: Nyingmapa (Hồng giáo). Gelugpa (Hoàng giáo). Kagyupa (Bạch giáo). Sakya (Hoa giáo). Còn có vô số các phái rẽ nhánh nhỏ khác, rất rất nhiều, có đếm cũng không thể đếm rõ được. Tuy nhiên, cũng có đại sư chủ trương: "Bất phân giáo phái". Đầu thế kỉ 19 có: Jamyang Khyentse Wangpo (1820 - 1892). Kongtrul Lodro Taye (1813 - 1899). Chokgyur Dechen Lingpa (1829 - 1870). Ba vị đại sư này đều chủ trương không phân biệt giáo phái. Phong trào này được gọi là cuộc vận động Ris Med. Chủ trương rằng, bởi giữa các tông phái Phật giáo Tây Tạng thường xuyên không chung sống hòa hợp với nhau, thường xuyên công kích, tranh luận, bức hại nhau, do vậy, cần nỗ lực hết sức để bảo tồn giáo pháp truyền thừa của mỗi phái, đừng có thiên kiến bè phái.
🌟
Phật giáo Đài Loan cũng như vậy: Phật Quang Sơn. Từ Tế. Pháp Cổ Sơn. Trung Đài Sơn. Đây là bốn giáo phái lớn của Đài Loan. Nói cụ thể hơn là, ở Phật Quang Sơn, bạn không thể khen Từ Tế là hay. Ở Từ Tế, bạn không thể khen Phật Quang Sơn là tốt. Tôi thấy hiện tượng như thế thì cười lớn ha ha! Cá nhân tôi chủ trương: "Bất phân giáo phái."
🌟
Khi học tập Mật giáo, tôi đã quy y sư phụ của bốn phái: Liễu Minh Hòa Thượng (Hồng giáo). Sakya Chứng Không Thượng Sư (Hoa giáo). Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 (Bạch giáo). Thubten Dhargye Thượng sư (Hoàng giáo). Điều này chứng tỏ: Tôi vốn không phân biệt giáo phái. Khi tôi thuyết pháp, tôi cũng thường nhắc đến: Khổng Tử. Lão Tử. Chúa Jesus. Thượng Đế. Phật Đà. Vì sao tôi lại thuyết pháp như vậy? Bởi vì tôi đã kiến đạo, kiến đạo rồi thì bình đẳng.
🌟
Hơn 100 năm sau khi Phật tịch diệt, tăng đoàn Phật giáo chia rẽ ra thành Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, lịch sử gọi đây là sự chia rẽ căn bản. Sau đó lại phân ra thành Thượng tọa thập bộ, Đại chúng bát bộ, lịch sử gọi đây là sự chia rẽ nhánh cuối. Thượng tọa thập bộ gồm: Thuyết hết thảy Hữu bộ, Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền trụ bộ, Chính lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa tha bộ, Pháp tạng bộ, Ẩm quang bộ, Kinh lượng bộ. Đại chúng bát bộ gồm: Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trú bộ, Bắc sơn trú bộ.
🌟
Tôi nói với mọi người thế này: Cái gọi là Chân Phật Tông không phải là Chân Phật Tông, căn bản là chẳng có Chân Phật Tông. Trong mắt tôi, cũng chẳng có Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Những thứ này chỉ là danh từ mà thôi. Là biểu tượng tạm thời. (Kì thực là chẳng có.)
02. Tôi đã chết từ lâu
Lúc tôi học trường tiểu học Đại Đồng. Tôi có một người bạn học rất tốt. Cậu ấy tên Hoàng Kim Hùng. Cả nhà chúng tôi đặt biệt danh cho cậu ấy là Mặt Tròn. Cậu ấy vì mắc bệnh mà chết. Khi trở về Đài Loan, lần đầu tiên tôi nghe được tin tức cậu bạn đã chết là khi tôi thuyết pháp tại hội trường của trường trung học Cao Hùng. Tôi không biết nói gì. Chỉ mặc niệm rất lâu.
Khi tôi học Trường trung học Công Nghiệp Cao Hùng, tôi cũng có một người bạn tốt vô cùng. Cậu ấy tên là Trang Chính Hòa. Cậu ấy là một chuyên gia leo núi, cuối cùng cũng chết ở trên núi, chết trong lúc leo núi. Cậu ấy và tôi là chủ biên của tờ Thanh Niên Trung học Công Nghiệp Cao Hùng. Tôi nhớ cậu ấy.
Khi tôi học trường Trắc Lượng (cử nhân khóa 32), tôi lại có một người bạn học rất tốt. Tên của cậu ấy là Hồng Tích Cường. Vào ngày nghỉ, cậu ấy chạy xe máy đi đi về về giữa Vân Lâm và Chương Hóa ở vùng Viên Lâm. Gặp tai nạn xe máy. Khi ấy, tôi hãy còn ở trường học. Nhận được tin, tôi đã khóc nức nở!
🌟
Tôi của trước đây chỉ biết khi con người không thể thở, nằm thẳng cẳng, mắt trợn lên, thân thể không còn cử động, như thế chính là chết. Tôi của bây giờ đã hiểu rõ hơn chết là thế nào. Tôi nói với mọi người: "Tôi đã chết từ lâu rồi!" Tôi là một "người chết sống" kéo theo cái xác chết. Nói như vậy là sao? Bởi vì tôi hiểu: Tôi không phải tôi. Pháp không phải pháp. Việc không phải việc. Tôi là thân huyễn, pháp là pháp huyễn, việc là việc huyễn, chúng ta ở nhân gian đều là người huyễn làm việc huyễn. Sau khi tôi kiến đạo thì bắt đầu biết: Huyễn hóa nhân gian.
🌟
Khi tôi đã đến được cảnh giới này thì mới hiểu lúc Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đạo dưới gốc cây bồ đề, Phật Đà liền muốn: "Niết bàn tịch tĩnh." Bởi vì: Vô sở hữu. Không vô biên. Thức vô biên. Phi phi tưởng. Đây là tên gọi của Tứ không thiên. Phật Đà vừa chứng đạo liền muốn rời khỏi nhân gian, đây cũng chính là biết huyễn mà rời bỏ huyễn.
🌟
Tôi nói với mọi người: "Lư Thắng Ngạn đã chết từ lâu rồi!" Đối với thế gian này, tôi vô sở cầu. Tôi cũng vô sở đắc. Dù sắc thân vẫn còn ở thế gian, nhưng tâm đã không còn ở thế gian nữa. Đã vô sở trụ rồi. [không còn bám trụ vào điều gì] Tất cả mọi thứ đều vô sở vị. [không còn là vấn đề gì nữa] Không có bất kì cái gì cả chính là sự khắc họa về tôi hiện tại.
03. Sự tu hành của tôi là 0 điểm
30 tuổi, tôi kết hôn. Vợ tôi tên là Lư Lệ Hương. Sau đó, vào năm 43 tuổi, tôi xuất gia, được đại hòa thượng Quả Hiền cạo đầu, vợ tôi đã trở thành thị giả. Có một câu ngạn ngữ: "Vợ chồng vốn là chim một rừng, đại hạn ập đến thì tách nhau ra bay." Đúng thế. Lư Thắng Ngạn bay đường của ông ấy. Lư Lệ Hương bay đường của bà ấy. Trên phương diện này: Là 0 điểm.
🌟
Tôi có con trai, tên là Lư Phật Kì. Tôi có con gái, tên là Lư Phật Thanh. Vì tôi tin Phật nên đặt tên đệm có chữ Phật. Phật Kì sinh ra hai đứa cháu trai cháu gái, cháu trai lấy tên là Lư Hoằng, cháu gái lấy tên là Lư Quân. Phật Kì lấy vợ là Sunny. Phật Thanh lấy chồng là Andy. Một hôm, tôi lấy ra sáu chuỗi hạt, phân chia cho sáu người họ mỗi người một chuỗi. Tôi nói: "Niệm Phật, mỗi ngày!" Tôi nhìn thấy ánh mắt của sáu người họ đều lộ vẻ mơ mơ màng màng. Không tỏ rõ ý kiến. Tôi biết: Trên phương diện này, tôi cũng được 0 điểm.
Các cháu của tôi đều nói tiếng Anh, chúng nghe tôi nói tiếng Trung thì không hiểu lắm. Tôi biết: "Con cháu tự có phúc của con cháu, không vì con cháu mà làm trâu ngựa."
🌟
Trước đây tôi là một quân nhân chuyên nghiệp và nghèo. (Giải ngũ hàm Thiếu tá.) Sau khi học Phật thì thu nhận đệ tử. Đệ tử càng ngày càng đông, cúng dường cũng nhiều. (Năm triệu đệ tử.) Tuy vậy, tôi sống giản dị. Tôi nói: Ở Mĩ tôi chỉ mua xăng, lái xe ô tô thì cần xăng. Ở Đài Loan tôi chỉ mua nước, tôi uống nước suối. Tôi gần như không tiêu tiền. Tất cả đều có đệ tử cúng dường. Đối với tiền của. Đối với vàng bạc châu báu. Tôi tin rằng: "Chúng cho bạn mượn mấy mươi năm." Thân thể của ta vẫn chẳng phải là thứ ta có được. Huống hồ những vật ở ngoài thân, ha ha ha. 0 điểm.
🌟
Tôi là Liên Hoa Đồng Tử chuyển thế. Tôi là người sáng lập Chân Phật Tông. Tôi là Căn bản truyền thừa Thượng sư. ...
Tôi tu hành đến cuối cùng thì bắt đầu biết rằng, những thứ này cũng vô giá trị. Liên Hoa Đồng Tử, Liên Sinh Hoạt Phật, Chân Phật Tông, Đại Trì Minh Thượng Sư, năm triệu đệ tử... Chẳng quan tâm! 0 điểm.
🌟
Tôi nói: Chỉ có hành giả chứng ngộ mới biết tất cả những thứ hữu tướng đều là hư vọng. Rời xa tất cả khái niệm. Hoàn toàn không còn sự bám chấp nào! Tôi biết tôi là điểm 0.
04. Một giọt nước rơi vào biển lớn
Có người hỏi tôi: "Thành tựu cuối cùng là như thế nào?" Tôi đáp: "Giống như một giọt nước rơi vào biển lớn, giống như một tia sáng hòa tan vào biển ánh sáng." Biển ở đây không phải là biển bình thường. Mà là: "Biển biến tri." Nói một cách đơn giản chính là trí huệ, chính là Phật huệ, chính là Bát nhã, chính là tính Không. Có người nói là giải thoát, lại có người nói là niết bàn.
Tôi thì có một cảm nhận: Sung sướng. Quang minh. Tính Không. Một sự tổng hợp của ba thứ này.
Tuy nhiên, Bạn nói phải thì là phải. Bạn nói không phải thì cũng là không phải. Đó thật sự là cảnh giới bất khả thuyết. (Mọi người có thể nghiên cứu kĩ càng những danh hiệu của Như Lai.)
🌟
Có người hỏi tôi: "Thế Đại Không Tính là cái gì?" Tôi đáp: "Là sự trống rỗng cuối cùng."
Tôi lấy một ví dụ: Khi pháp thân của tôi tiến nhập vào Đại Không Tính, tôi biến thành "đại ngã". Có vô số vô số tôi. Như thế là hóa thân bên ngoài thân rồi, tôi có thể xuất hiện ở bất kì pháp giới nào (hoặc bất kì đất nước nào). Trong một đêm, tôi có thể xuất hiện trong mơ của trăm, nghìn, vạn đệ tử, làm được những việc bất khả tư nghì. Đó là thắng nghĩa đế. Có khi rõ rệt. Có khi mơ hồ. Những công đức không thể biết đến là vô tận không dừng. Tất cả công đức cũng chẳng khác nào không có công đức. Chúng ta biết rằng, tính Không cuối cùng là rời khỏi "bát biên kiến". Đó là: Vượt qua huyễn tướng. Kiến lập tứ thân và trí huệ.
🌟
Tôi có một ví dụ nhỏ: Có một đệ tử mắc chứng bệnh nói lắp. Anh ta mơ thấy Lư Sư Tôn xuất hiện, giống như Kim Cang Thần với con mắt trừng trừng phẫn nộ. Sau đó dùng bàn tay linh ảnh to lớn đánh cho đệ tử mấy cái bạt tai. Đệ tử đau tới mức la hét kêu gào. Sau khi tỉnh lại. Chứng bệnh nói lắp đã biến mất. Ví dụ này chẳng phải rất thần kì hay sao? Tôi nói: "Nghiệp chướng hết rồi, tất cả sẽ trở nên bình thường!"
🌟
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Tu hành chính là biến huyễn thân thế tục (thân phàm phu) thành ánh sáng (thân thắng nghĩa). Sự tu hành thân phàm phu là thứ tự sinh khởi. Sự tu hành thân thắng nghĩa là thứ tự viên mãn. Thân phàm phu là thân thô. Thân thắng nghĩa là thân vi tế. Quả vị cao nhất của tu hành Mật giáo chính là quả vị Kim Cương Tổng Trì.
05. Tôi tu thành công "đạm định"
Tôi thừa nhận tôi từng nói: "Tôi thích mĩ nữ!" (Sắc không mê người mà người tự mê.) Tôi nghiêm túc tu hành pháp vô lậu, sử dụng "Tát già lục thức biến": Lưỡi chạm lên hàm trên. Hai mắt nhìn lên trời. Ép xuống cổ họng. Bụng hóp về phía lưng. Thượng hành khí dồn hết ra ngoài. Nhíu hậu môn. Đưa bạch bồ đề của bản thân lên, sau đó, cũng không biết bằng cách nào mà bỗng nhiên thật sự là vô lậu. Chỉ cần bạn thành tựu vô lậu thì bạn chính là một nam tử hán đại trượng phu chân chính, là một chiến hạm vũ trụ vô địch thiên hạ.
🌟
Tu hành pháp vô lậu không chỉ có Tát già lục thức biến. Có rất nhiều phương pháp, tôi kể ra như sau: Chuyển dời ý thức. Niệm chú ngữ "Pei". Bịt ngón tay giữa vào lỗ mũi? Hai tay giữ vững thủ ấn. Tứ chi thu lại. Niệm hai tiếng dài âm "Hum", niệm mười tiếng ngắn âm "Hum". Kim cương quyền. (Nâng minh điểm bay đến núi Tu Di.) Kích thích làm đau một bộ phận nào đó trên thân thể chính mình. ... Trong chớp nhoáng, rất nhanh, đưa bạch bồ đề lên. Thật sự. Tôi đã tu thành công rồi.
🌟
Sau khi tôi tu thành tựu pháp vô lậu, tôi phát hiện ra bản thân mình có thể vững chãi không dao động trong hoàn cảnh "ý loạn tình mê". Đây là điều mà người bình thường không làm được, phàm phu không làm được, và cũng là điều mà tăng nhân bình thường không làm được. Nhưng tôi đã làm được rồi! Trong quá trình tu pháp, tôi có thể: Niệm một bộ kinh. Quán tưởng. Trì chú. Nhập tam ma địa. Thiền định. Khí và khí tan vào nhau, mạch và mạch cùng tiếp xúc, minh điểm và minh điểm cùng kết hợp. Chuyết hỏa vận chuyển chuyết hỏa. Chấn động ngũ luân, khai mở ngũ luân. Trời ơi! Quang minh nhàn nhã xuất hiện. Tôi đã trở thành một đại Lama cao cấp vượt lên trên "sắc", việc này là lấy ngọc từ trong miệng rắn độc, trong vạn người cũng khó tìm được một người có thể làm được. Ở đây, tôi nói với mọi người một bí mật, Không Hành Mẫu Úc Minh Thiên, minh phi trí huệ tiến nhập vào trong thân thể của minh phi thực thể, và như thế cùng tôi tu pháp. Tỏa hào quang vạn trượng!
🌟
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Những tình tiết trong việc này cũng giống như một người câm nếm thử món ăn nhưng không có cách nào thuật lại được mùi vị mà họ đã nếm được ra sao. Không khác gì. Mùi vị mà tôi có được trong thiền định song vận là vượt ra ngoài ngôn ngữ, vượt qua cả những sự suy xét khái niệm. Không có ai làm được. Tôi thật sự đã làm được!
06. Tu hành nhẫn nhục không dễ
Cuộc đời này của tôi đã chịu hết mọi sự phỉ báng, trải qua vô số phong ba bão táp. Bản thân tôi cảm thấy chính mình đã tu nhẫn nhục rất tốt. Ví dụ: Bút danh "Con Khỉ" ở Malaysia phỉ báng. Trịnh Nghiêu Trung ở Singapore phỉ báng. Thang và Nhiêu ở Đài Loan phỉ báng. ...
Có thể xem là bắt nạt. "Bắt nạt trên mạng." (Nếu như không tu nhẫn nhục đủ tốt thì tôi có tự sát cả trăm lần cũng không đủ.)
Phương pháp mà tôi sử dụng là tâm niệm: Ta và người khác bình đẳng. Hoán đổi ta và người khác. Và quan trọng nhất là: Nhân gian này chỉ là một giấc mộng huyễn, hà tất phải bám chấp vào những tình tiết trong mộng huyễn này. Thế nên: Họ chửi thì mặc họ chửi. Tôi sống cuộc sống của tôi. Cứ thế đã sống qua rất nhiều năm rồi. Bởi thế nên tôi mới cảm thấy tôi tu hành nhẫn nhục thật sự cũng không tệ, đáng khen ngợi. Tôi chẳng đọc. Tôi chẳng nghe. Tôi chẳng nói.
🌟
Tuy vậy, tháng 2 năm 2021. Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương nói tôi, cằn nhằn tôi. Theo những kinh nghiệm quá khứ của tôi thì là: Giả điếc. Không nói gì. Lập tức tránh xa. Dùng ba chiêu này để ứng đối thì tự nhiên sẽ chung sống hòa hợp.
Thế nhưng hôm đó, tôi cũng không hiểu vì sao mà đột nhiên tôi lại nói bà ấy mấy câu, kết quả có thể thấy rõ là bà nói một câu, ông nói một câu, tôi không thể nhịn được nữa, thế là trong chốc lát, tôi đã phá vỡ tất cả rồi! (Đốt cháy cả rừng công đức.) Bà ấy không để tôi làm kiết giới giúp bà ấy nữa. Tôi cũng không giúp bà ấy làm kiết giới nữa.
Sau sự việc ấy, bà ấy bảo tôi, ba buổi tối không làm kiết giới, bà ấy đều nhìn thấy ma. Ma màu trắng. Ma màu đen. Đến buổi tối ngày thứ tư thì tôi mới giúp bà ấy làm kiết giới, ma cũng biến mất, khi ấy thì cũng không còn tức giận nữa. Tôi cảm thấy tôi 77 tuổi rồi, Sư Mẫu cũng đã 73 tuổi rồi, thân thể bà ấy có khuyết tật, tôi nên nhường bà ấy nhiều hơn. Ấy thế mà cũng có một ngày không nhịn được, hầy! Nhẫn nhục thật sự là không dễ mà! (Thật ra, bà ấy vì Chân Phật Tông, cũng rất nhẫn nhục chịu khó mà làm rất nhiều việc rồi.)
🌟
Tôi nghĩ đến: Thề nguyện của tôi là "không bỏ rơi một chúng sinh nào". Trên phương diện tu trì Mật giáo: Tất cả mọi chúng sinh, bất luận là đã chứng ngộ hay chưa, thì đều có Phật tính. Nam là Dũng Phụ. Nữ là Không Hành Mẫu. Nơi tôi sống là Úc Minh tịnh thổ, hoặc là các cõi tịnh thổ khác. Là thanh tịnh. Tôi cần xem chúng sinh đều là Phật. Như thế thì sẽ thành tựu nhẫn nhục rồi!
07. Tâm xuất li
Đôi khi tôi ngẫm nghĩ, tôi từng nghĩ về cuộc đời của con người hiện đại: Sinh ra. Đi học. Đi làm. Kết hôn. Con cái. Già. Chết. Hầu hết con người trên thế gian đều đang sống theo một khuôn mẫu này. Cơ bản là giống nhau.
Tôi thường nói: 1 tuổi --- khởi đầu một chương. 10 tuổi --- học tập khẩn trương. 20 tuổi --- tuổi trẻ đau thương. 30 tuổi --- sự nghiệp tìm đường. 40 tuổi --- bắt đầu phát tướng. 50 tuổi --- tuy già vẫn gượng. 60 tuổi --- huyết áp bất thường. 70 tuổi --- trí nhớ ẩm ương. 80 tuổi --- run rẩy chuyện thường. 90 tuổi --- mất dần phương hướng. 100 tuổi --- ảnh treo trên tường. Đây chính là đời người, đời người nhìn chung là như vậy.
Bạn nói xem, ở đây ý nói gì? Điều này có ý nghĩa gì? Từ sinh ra cho đến chết đi, vô vị hết sức. Bạn muốn thoát ra khỏi cái khuôn khổ này, rất khó, trên có cha mẹ, dưới có vợ con còn đang trông vào bạn đó! Tôi đã nghĩ rất lâu, rất lâu về đời người này, kết quả là đúng như những gì Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói. Khổ --- là chân thực. Không --- là chân thực. Vô thường --- là chân thực. Vô ngã --- là chân thực. (vô tự tính) Vô sở đắc --- là chân thực. (Khi đến chẳng có gì, khi đi chẳng có gì.)
Bài thơ của Vương An Thạch đã ảnh hưởng đến cả cuộc đời tôi: ”Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa.” Tôi muốn rời khỏi nhân thế gian này, xuất li khỏi lục đạo luân hồi. Trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tâm xuất li của tôi rất lớn. Đương nhiên tôi biết, đời này, có được thân người rất khó, cũng biết rằng sinh mệnh rất vô thường, nếu đời đời kiếp kiếp luân hồi thì vĩnh viễn không có ngày thoát ra. Tôi đã hiểu nhân quả. Tôi muốn có được lợi ích của sự giải thoát.
Pháp thân tan biến vào hư không, Trí huệ pháp tính cần chứng ngộ, Quang minh biện chiếu khắp vũ trụ, Phật quốc tịnh thổ tự chứng minh, Không bỏ chúng sinh bồ đề nguyện, Tôi nhờ hóa thân độ hữu tình.
🌟
Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Tôi muốn rời khỏi thế gian này, biết huyễn rời bỏ huyễn, theo đuổi bản tính chân thực. Sau đó, tôi muốn dùng hào quang đại từ bi để giúp đỡ tất cả chúng sinh hữu tình thoát khổ được vui. Tôi phát nguyện không từ bỏ một chúng sinh nào. Tôi phát hiện ra cam lộ là đến từ thiền định, xa rời những trò vui, vô vi, quang minh. Tôi sẽ thuyết pháp cho mọi người. Bởi vì: Ai ai cũng có Phật tính.
08. Tự do và giới luật
Cả đời tôi coi trọng sự tự do, tôi hình dung bản thân tôi căn bản giống như con ngựa hoang, hướng về biển rộng trời cao. Đáng tiếc là: Khi còn nhỏ, bố tôi chính là bá vương, bố tôi chính là pháp luật, không tuân theo luật lệnh của bố tôi thì sẽ gặp cuồng phong bão táp. Tội nghiệp! Tôi đã bị chèn ép 19 năm.
Còn nữa, nhà có gia pháp, trường có nội quy. Thời tiểu học, tôi thích bỏ nhà đi và trốn học. Thầy giáo chính là pháp luật. Tôi từng bị thầy Tăng Mai Tinh bắt phải đi ba bước lạy một lần ở hành lang của lớp học các bạn nữ, khiến tôi rất mất mặt.
Khi học trường quân đội, quân pháp càng nghiêm hơn. Tôi lén uống rượu. Lúc thi cử thì gian lận.
Sau này tôi kết hôn, những lời Thượng sư Liên Hương nói chính là pháp luật.
Khi học Phật pháp rồi, Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Lấy giới làm thầy." Trời ơi! Sự tự do của tôi, sự tự do của tôi ở đâu rồi? Tôi cho rằng tôi là một đấu sĩ tự do, thế mà nay, tự do chỉ là trong mơ mới có thể thực hiện được. Tự do? Là chỉ sự tự do trong khuôn khổ của giới luật!
🌟
Phật giáo có bao nhiêu giới luật? Kinh Phật được phân thành kinh, luật, luận, một phần ba là giới luật. Trời ơi! Tôi thảm rồi! Có người nói: "Giới luật của Mật giáo nhẹ hơn giới luật của Hiển giáo một chút chăng?" Tôi nói: "Căn bản là nói xằng bậy, giới luật của Mật giáo nhiều như sao trên trời, không những phải giữ giới luật Hiển giáo mà giới luật Mật tông lại càng phải giữ, nhiều hơn chứ không ít đâu." Tôi lấy ví dụ:
- 14 giới đọa căn bản của Mật giáo.
- Các giới đọa căn bản của Mật tông nói chung.
- 50 điều về cách hành xử đối với sư phụ.
- Giới luật về song vận.
- Bốn tầng giới luật.
- Tám tầng giới đọa căn bản thứ cấp.
- 19 giới điều của Ngũ Phương Phật.
- Giới thề nguyện Mật tông.
- 25 điều về giới luật hành vi.
Mỗi một tựa đề những giới luật này đều có thể viết thành một cuốn sách được. Ngoài ra còn có: ngũ giới, bát giới, sa di giới, Bồ Tát giới, xuất gia giới, biệt giải thoát giới, giới thề... Đại thành tựu giả Atisa tôn giả nói: "Giới luật mà ta phạm phải nhiều như số giọt mưa rơi xuống vậy!" Nhiều như giọt mưa! Ôi mẹ ơi! Tôi sắp bị giới luật đè chết rồi!
🌟
Phạm giới rồi thì nhất định cần phải hoàn tịnh. (Thề không tái phạm.) Tôi nói cho mọi người ba pháp: Thứ nhất, đến chỗ của Căn bản Thượng sư thỉnh cầu quán đảnh pháp hoàn tịnh. Thứ hai, bế quan, sám hối, hoàn thành hỏa cúng. (Để tự mình nhận quán đảnh hoàn tịnh.) Thứ ba, niệm tụng mười nghìn biến bách tự minh chú Kim Cang Tâm, đó cũng là pháp hoàn tịnh. Sau khi hoàn tịnh, có tướng thanh tịnh xuất hiện mới là hoàn tịnh chân thực. Điểm này rất quan trọng.
09. Giới luật nghiêm khắc hơn
Tôi nghe sư phụ nói: "Hành giả hiện đại có thể xem là khá thoải mái. Giới luật thời cổ đại nghiêm hơn nhiều." Sư phụ nói: Trên phương diện ăn: Hóa duyên, khất thực. Thí chủ cúng dường cái gì thì ăn cái đó. (Giới không nấu nướng.) Quán tưởng thức ăn là phân, là đất cát, là gạch ngói, sau đó mới ăn. (Ngăn sự thèm muốn khẩu vị.) Uống nước phải niệm chú. Uống một ngụm nước sạch Tám vạn bốn nghìn trùng Nếu như không trì chú Khác gì giết chúng sinh.
Trên phương diện mặc: Áo vá chằng vá đụp — những miếng vải vụn đem khâu lại mà mặc. (Giống Tế Công Hoạt Phật) Áo rách nát nhặt từ rác — vải thô. Áo quấn người chết — vải để bọc người chết ở Ấn Độ đem làm thành quần áo.
Trên phương diện sống: Trong hang động. Ở dưới cây. Giữa nghĩa địa. (Ở giữa những ngôi mộ.)
Về phương diện đi lại: Đi bộ. Đi dép cỏ. (Một chén cơm muôn nhà, cô tăng đi vạn dặm.)
🌟
Trên phương diện tiền bạc: Tay không đụng vào tiền. Không tích trữ tiền bạc. Dù một sợi tơ, một cây kim, một sợi chỉ cũng không ăn trộm.
Trên phương diện sắc: Nam nữ cần giữ khoảng cách, cần đứng cách xa nhau. (Cự li an toàn) Mắt không được nhìn nhau. Chỉ nhìn xuống đất. Nói chuyện không quá vài câu.
Trên phương diện danh vị: Lên núi. (Rời xa đám đông) Bế quan. Không nhìn. Không nghe. Không nói. Tránh xa tất cả thị phi. Rời xa cái danh.
Trên phương diện ngủ: Không được ngả người. Không được nằm xuống để ngủ, không có giường, chỉ có thể ngủ ngồi.
Ngoài ra: Không ăn khi quá trưa. (Một ngày chỉ ăn một bữa)
🌟
Vào thời cổ đại hay cận đại cũng có rất nhiều ví dụ về khổ hạnh. Ví dụ: Treo ngược trên cành cây để tu hành. Ngồi thiền trong nước. Ngồi thiền trong lửa. Ngồi thiền trong thực vật có gai. Tự làm đau mình, học cách đi đứng kiểu động vật.
🌟
Đối với các loại khổ hạnh, cá nhân tôi cảm thấy đó là để dạy dỗ bản thân, có thể hỗ trợ kiểm tra hành vi của bản thân. Những điều này có thể giúp tìm ra sai lầm của bản thân, có lợi ích đối với việc chỉnh đốn bản thân. Trong tất cả các giới, tôi coi trọng "ý", cũng chính là "tâm". Tâm của chúng ta an vị trên con đường đúng đắn. Mọi việc ác không làm. Hãy làm mọi việc thiện. Chỉ cần tâm không buông thả, không đọa vào lục đạo luân hồi, thì tất cả mọi cực nhọc đều xứng đáng.
10. Bốn nghiệp trắng và bốn nghiệp đen
Tôi biết trong tu khí - mạch - minh điểm của Mật giáo có pháp song thân (song vận). Đây là pháp của người "kham năng" [người có năng lực tu hành rất cao]. Người bình thường không tu được. Người kham năng tối thiểu cần có hai điều kiện:
- Vô lậu.
- Tính Không.
Cái trước là không còn rò rỉ bạch bồ đề, bởi vì khi còn rò rỉ bạch bồ đề thì căn bản là đọa. Cái sau là kiến đạo, hiểu chân đế của Không. Giới luật của pháp song thân rất hà khắc. (Cuốn "Minh cấm hành biểu" của Thượng sư Trần Kiến Dân đã liệt kê ra những điều có thể làm và không thể làm, vô cùng tỉ mỉ, hành giả nên tham khảo, xem xong là hiểu ngay.)
Ngoài ra, đọc cuốn "Đề cương giới luật học" của pháp sư Thánh Nghiêm cũng có thể hiểu rõ rất nhiều giới luật. Có thể so sánh với "Bồ đề giới luận" của Tsongkhapa và "Bồ Tát giới" trong kinh Phạm Võng. Cuốn "Mật giáo trí huệ kiếm" của Lư Sư Tôn cũng là viết về giới luật, có thể tham khảo.
🌟
Cá nhân tôi cảm thấy bốn nghiệp trắng rất quan trọng:
- Tránh nói dối. Ở phương diện này rất dễ phạm lỗi, muốn con người hiện đại không nói dối dường như là điều không thể. Vì thế, nói dối bị xếp hạng số một. Tâm chính trực là rất quan trọng.
- Phát đại tâm bồ đề. Đối với người tu hành mà nói, độ người ta đi trên con đường tu hành là việc đại thiện, nhưng cũng cần dạy người ta phát đại tâm bồ đề. Dạy người ta đi con đường Đại thừa, không dạy người ta đi con đường Tiểu thừa. Lợi mình nhưng cũng cần lợi người khác, không chỉ như thế, lợi người khác lại càng quan trọng hơn. Chỉ cần có thể "lợi tha" đã là đại tâm bồ đề rồi. Trong kinh Bản Sinh, Phật Thích Ca Mâu Ni có rất nhiều rất nhiều những câu chuyện về lợi tha, vô cùng cảm động lòng người. Nói nghiêm túc thì lợi tha là tinh thần của Phật giáo.
- Xem tất cả chúng sinh hữu tình là thầy giáo. Tôi cảm thấy chúng ta đến nhân gian này là để trả nghiệp, bất kể người ta đối với ta tốt hay đối với ta xấu, họ đều là đến để dạy bảo ta. Nghĩ được như thế thì tâm bình khí hòa, chúng sinh hữu tình đều là thầy giáo của ta. Và như vậy tất sẽ không phạm giới!
- Đối đãi với chúng sinh bằng tâm khiêm tốn nhất. Điểm này gần như tương tự với điểm thứ ba, đó chính là một dạng tâm chính trực đối đãi chúng sinh. Một dạng từ bi. Một dạng chân thành. Một dạng nhân nghĩa.
🌟
Thế nào là bốn nghiệp đen?
- Nói dối, lừa gạt thầy mình.
- Đánh mất lòng tin của người khác.
- Nhục mạ, phẫn nộ, phá hủy những thứ tượng trưng cho Tam Bảo Phật - pháp - tăng.
- Lừa gạt tất cả chúng sinh hữu tình.
Chà! Bốn nghiệp đen vừa hay là tương phản của bốn nghiệp trắng. Nếu chúng ta muốn tu hành thành tựu, quả vị tăng cao, giải thoát luân hồi thì nhất định phải làm bốn nghiệp trắng. Tuyệt đối không được làm bốn nghiệp đen. Làm sao để phân biệt hành vi thiện ác? Chẳng phải là ở sự lớn nhỏ hoặc biểu hiện bên ngoài của chúng, mà là ở sự phát tâm thiện hay ác. Tất cả do tâm tạo!
11. Đại thiện và đại tu hành
Đệ tử của tôi từng hỏi: "Lư Sư Tôn, con từng phát hiện ra hai chữ rất tuyệt vời, vô cùng tuyệt vời, hai chữ này là nhân duyên." Tôi đáp: "Không sai. Tất cả vì duyên sinh, tất cả vì duyên diệt." Đệ tử hỏi: "Thế đệ tử như chúng con còn tinh tấn cái gì đây?" Tôi đáp: "Siêu việt."
Đệ tử hỏi: "Pháp sinh bởi nhân duyên, ta nói tức là không. Vậy làm sao có thể siêu việt?" Tôi giải thích như sau: Tôi ở trong thiền định từng tiến nhập vào thế giới không có sự nhận biết, có nghĩa là cảm nhận không được bất kì thứ gì. Giống như trong giấc ngủ sâu không mơ mộng vậy. Tất cả đều là màu trắng trống không. Tôi biết: Đây là Vô Tưởng Thiên, Vô Tưởng thiên nhân ở trung tâm của cõi này đã tạo ra một trạng thái hoàn toàn trống không. Tôi cảm thấy: Đây không phải là chính đẳng chính giác. Mà là cái Không cưỡng ép. Tôi liền muốn ra khỏi cảnh giới này!
🌟
Tôi nói: Nếu như tin sâu sắc vào nhân duyên, cho rằng tất cả đều là do nhân duyên tạo thành, thì cũng giống như thuyết số mệnh. Sống chết có số. Giàu nghèo tại trời. Tất cả tại số mệnh. Chẳng phải tại người. Thế thì sẽ trở thành một vũng nước đọng, không thể gợn lên một chút sóng nước nào, trở thành một người sống theo số mệnh đã định rồi. Phật pháp chân chính cho rằng điều này cũng không đúng.
Phật Đà nói: Cho dù là côn trùng cũng có Phật tính, cũng có một ngày sẽ đắc chính đẳng chính giác. Câu nói này đã phá bỏ quan niệm về số mệnh. Nhân duyên là thứ có thể vượt qua được.
Có một cuốn sách là "Liễu Phàm tứ huấn", tác giả là Viên Liễu Phàm. Ông ấy ban đầu là một người theo thuyết số mệnh, cho rằng định số là không thể thay đổi và vượt lên được. Tất cả đều là nhân duyên. Tâm như nước đứng yên. Về sau, Viên Liễu Phàm được thiền sư chỉ bảo, nỗ lực thay đổi vận mệnh, và học theo thuyết lập mệnh, cuối cùng đã thay đổi được mệnh vận của mình. Vì thế, mệnh vận có thể thay đổi được. Chứ không phải là không thể thay đổi. Đại thiện có thể cải biến vận mệnh. Đại tu hành có thể cải biến vận mệnh. "Trong mệnh mà có thì cuối cùng ắt sẽ có, trong mệnh mà không có thì đừng cưỡng cầu." Câu nói này khuyên người ta đừng có tham niệm. Cách nghĩ của tôi là: "Tôi chỉ cần nỗ lực làm, tôi tinh tấn mà làm, tôi tận lực mà làm, còn có thành hay không thì không cần nghĩ ngợi!" Tôi thì: Tin vào vận mệnh. Nỗ lực cải vận. Hai thứ song vận. Tinh tấn và không lười biếng! Cái tôi học là "trung quán chính kiến".
12. Sưng đau ngón tay
Một hôm. Tôi chợt phát hiện ra ngón tay phải của tôi có một vết nhỏ màu đỏ bị sưng đau. Đau tới mức ghê gớm, không có cách nào mô tả được. Là chuyện gì đây? Liệu có phải là có một cái lỗ rồi vi khuẩn xâm nhập vào không? Là bệnh thần kinh ngoại biên? Là hội chứng thấp khớp? Là bệnh gút? Là...?
🌟
Đầu ngón tay này sưng đau xem ra chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng đột ngột ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của tôi. Việc viết văn của tôi gặp vấn đề rồi, tay tôi không cầm được bút. Tôi đánh răng cũng gặp vấn đề, tôi không thể cầm chỉ nha khoa. Tôi đi vệ sinh cũng gặp vấn đề, tôi không thể cầm được giấy vệ sinh. Rửa bát. Mặc quần áo. Ăn cơm. Ngoài ra, buổi tối đi ngủ, sau khi ngủ say rồi thì cảm giác đau cũng biến mất, thế cũng còn tốt, nhưng hễ tỉnh dậy thì lại đau vô cùng, ngay cả lên giường kéo chăn đắp cũng không dễ dàng. Tôi làm sao vẽ tranh? Tôi làm sao viết sách? Tôi làm sao tu pháp? Làm sao kết thủ ấn? Bởi vì ngón tay này, một phần nhỏ của nó sưng đau đã khiến cho cuộc sống của tôi hoàn toàn biến động. Thật sự là đau ghê gớm! Uống thuốc giảm đau thì hiệu lực của thuốc có chạy đến đầu ngón tay không? Dùng thuốc mỡ chống viêm thì cũng chỉ đỡ một chút xíu, ôi! Nhưng mà nó thật sự đau tới mức muốn lấy mạng người ta mà!
Tôi vì một vết rất nhỏ trên đầu ngón tay sưng đau mà liên tưởng đến vấn đề giới luật của Phật giáo. Đừng cho rằng chỉ là một việc xấu bé xíu nên cứ làm. Chúng ta thường cho rằng đây chỉ là việc vô cùng nhỏ, lỗi lầm vô cùng nhỏ mà không chú ý đến nó. Ví dụ: Giết một con kiến. Ăn trộm một cây kim. Chạm vào tay một cô gái. Vung ra một lời nói khoác nho nhỏ. Uống một li rượu ngon. Chính vì cách nghĩ như vậy mà không còn nghiêm khắc giữ lời thề giới nữa, ảnh hưởng đến việc tu hành lớn. Cần biết rằng: "Rút dây động rừng." "Một khớp ngón tay nhỏ của tôi sưng đau đã khiến cho cuộc sống của tôi biến động, toàn thân đều không dễ chịu được."
🌟
Phật nói: Một hạt giống nhỏ xíu rơi vào trong đất. Đó chỉ là một nhân nghiệp bé nhỏ. Thế nhưng, Hạt giống nhỏ bé nảy mầm! Nó lớn lên thành một cái cây nhỏ. Cây nhỏ lớn lên thành cây lớn. Cuối cùng trở thành một cây đại thụ cao ngút trời. Cuối cùng không ngờ lại trở thành thần cây. Nhân duyên quả báo là bất khả tư nghì đúng như vậy đó!
Vì thế: Tôi xúc động sâu sắc! Đừng cho rằng chỉ là một việc xấu nhỏ nên cứ làm. Người tu hành phải giữ lời thề giới là điều vô cùng quan trọng!
13. Tùy bệnh bốc thuốc
Đầu ngón tay tôi bị sưng đau đã bị hai đệ tử là bác sĩ để ý thấy! Một người là bác sĩ Eliana ở Canada. Một người là bác sĩ Hồng Hạnh Khoan ở Seattle. Đây là chứng bệnh viêm móng tay. Bác sĩ Hồng nói: "Kẽ móng tay có khe hở, hoặc có lỗ hổng, vi khuẩn dễ dàng tấn công vào. Vì vi khuẩn sinh sôi nảy nở ở bên trong nên mưng mủ, dẫn đến sưng viêm, vì thế mà sinh ra sưng đau."
🌟
Thế là con trai của sư tỉ Từ Nhã Kì là bác sĩ Hồng Hạnh Khoan đã đến Chân Phật Mật Uyển đích thân giúp Sư Tôn khám và chữa bệnh. Thượng sư Liên Truyền thì đem hết những dụng cụ khám chữa bệnh ở nhà riêng đến. Băng gạc. Kim. Cồn. Thuốc mỡ gây tê. Thuốc mỡ kháng sinh. v.v...
Hồng Hạnh Khoan tự tay làm. Phương pháp của bác sĩ Hồng như sau: Tay của tôi ngâm trong một chậu đầy nước ấm. Bác sĩ Hồng dùng kim để nậy kẽ móng tay lên. (Hoặc châm một lỗ ở chỗ bị mưng mủ.) Bác sĩ Hồng dùng ngón tay mình ấn nhẹ, ấn đi ấn lại, chủ yếu là để đẩy máu mủ ra ngoài. Bác sĩ Hồng nói: "Cần phải đẩy hết mủ trắng bên trong ra ngoài, tương đương với việc đẩy vi khuẩn ra ngoài." Cần phải đẩy ra hết. Đẩy hết mủ ra rồi, sạch sẽ rồi, thì lại phải bôi thuốc kháng sinh. Bác sĩ Hồng nói: "Người bệnh thông thường chỉ cần bóp hết mủ trắng ra thì sẽ khỏi rất nhanh. Nếu như vẫn chưa khỏi thì cần uống thuốc kháng sinh, khoảng năm ngày sẽ khỏi." Tôi cảm ơn bác sĩ Hồng. Bởi vì ngày hôm sau tay tôi đã khỏi rồi.
🌟
Sư tỉ Từ dạy con có phương pháp: Người con trai thứ nhất Hồng Hạnh Đức là luật sư. Người con trai thứ hai Hồng Hạnh Khoan là bác sĩ. Người con gái thứ ba Hồng Quế Thanh là bác sĩ nha khoa.
🌟
Từ sự việc này, tôi liên tưởng đến tám vạn bốn nghìn pháp môn của Phật Đà, hóa ra là để đối trị với tám vạn bốn nghìn loại bệnh. Chúng sinh có bệnh, nhất định cần phải tùy bệnh bốc thuốc. Đương nhiên, không chỉ là thân thể có bệnh, phàm phu bình thường chúng ta đều có đủ loại bệnh do những thói xấu. Những thứ này phải cần đến tám vạn bốn nghìn Phật pháp để đối trị. Ví dụ: Chúng ta có bệnh tham thì phải dùng giới luật để đối trị. Chúng ta có bệnh sân thì phải dùng thiền định để đối trị. Chúng ta có bệnh si thì cần dùng trí huệ để đối trị. Lại ví dụ: Người keo kiệt thì phải dùng bố thí để đối trị. Người lười nhác thì cần dùng tinh tấn để đối trị.
Trước khi Milarepa tiếp cận được giáo pháp của Marpa đã phải trải qua đủ bài kiểm tra. Là để đối trị với nghiệp chướng của chính ngài. Là để tịnh hóa ác hành của chính ngài. Cuối cùng mới là tích lũy công đức. Bởi vậy, trong Phật pháp, đúng bệnh bốc thuốc là vô cùng quan trọng!
14. Càn khôn đại chuyển dịch
Tôi thừa nhận rằng về mặt thiền định, tôi đã hạ công phu rất lớn. Tôi chiếu theo phương pháp của sư phụ mà quán tu theo thứ tự.
- Quán cung điện.
- Quán Bổn tôn. (Mandala Phật cùng Bổn tôn hợp nhất.)
- Quán quyến thuộc.
- Quán tịnh thổ.
Trong quá trình này có năm kiểu sai sót và tám cách đối trị, tôi đều lần lượt ứng đối. Sai sót là:
- Lười.
- Quên mất bản thân là Bổn tôn.
- Hôn trầm (lỏng), trạo cử (căng).
- Đối trị. (Chỉ việc đối trị quá đà.)
- Không đối trị.
Còn các cách đối trị là: tín tâm, hi vọng, tinh tấn, làm mềm mại, chuyên nhất, cảnh giác, đối trị, không đối trị.
Nói thẳng thắn: Trong khi quán tu, có khi phải tốn rất nhiều thời gian và tinh thần, có thể nói là hết lần này đến lần khác, lặp đi lặp lại...
Cho đến tận lúc đạt đến: Ổn định. Chuyên nhất. Li hí. Nhất vị. Bản nhiên.
Có thể nói như thế này, từ thiền định thô nhất chạm đến thiền định vi tế nhất. Nếu như có hành giả nào không trải qua giai đoạn này thì đó là thành tựu không thể nào có được.
Trên ba cấp độ chứng ngộ thì:
- Sinh khởi bồ đề tâm thì thực hành phần Tiền hành.
- Trong tu thiền thì an trụ trong Tam ma địa. (Trạng thái bản nhiên)
- Hồi hướng và cầu thỉnh.
Khi quán tu, bản thân tôi cũng có khẩu quyết của riêng mình: Tôi không có tự ngã. Không còn các khái niệm. Nhị nguyên biến mất! Không còn mong cầu, không kinh không sợ. Thượng sư. Bổn tôn. Hành giả. Đều hóa thành bản nhiên.
🌟
Cuối cùng, điều tôi muốn nói với mọi người là: Càn khôn đại chuyển dịch, không ngờ thiền định trong trăm nghìn triệu tịnh thổ: Một lúc lại biến mất. Một lúc lại xuất hiện. Một lúc, một lúc, trăm nghìn triệu tịnh thổ lần lượt xuất hiện, lần lượt biến mất. Thấy được khuôn mặt Phật. Nghe chư Phật thuyết pháp. Tỏa trăm nghìn triệu ánh hào quang. Điều đó thật sự là không có cách nào dùng văn tự để mô tả được, cũng không có cách nào hình dung ra được. Vì thế, tôi chỉ có thể lấy một câu từ võ công vô thượng trong tiểu thuyết võ hiệp: "Càn khôn đại chuyển dịch."
🌟
Tương lai tôi phải rời xa thế giới Ta Bà. Một càn khôn đại chuyển dịch là được. Như thế thì chẳng tốn công phu. Trong sát-na, trong chớp mắt là đã xong rồi! Bởi vậy, nhập Tam ma địa trong phần Chính hành là thành tựu chân chính, cũng là pháp nhĩ bản nhiên!
15. Bàn tay linh thiêng khổng lồ
Ở miền nam Malaysia có đệ tử Liên Hoa Kim Hoa (tên giả) ở một phân đường Chân Phật Tông. Anh ta bị trúng phong (đứt mạch máu não), được đưa đến phòng điều trị tích cực trong bệnh viện. Anh ta hôn mê. Trong lúc hôn mê đã trải qua một việc rất kì dị.
🌟
Liên Hoa Kim Hoa bị bốn, năm lính canh ngục bắt giữ, tay anh ta bị trói lại. Anh bị dẫn đến địa ngục dầu sôi. Anh mô tả cái vạc dầu: To như cái bể bơi. Dầu trong đó đầy khoảng tám phần, đều nóng sôi ùng ục và nổi cả bong bóng. Bên trong vạc dầu có rất nhiều người đang bị rán thành quẩy, đảo lên đảo xuống. Bên dưới vạc dầu ngọn lửa cháy bừng bừng, ánh lửa tỏa khắp bốn phía.
🌟
Chỉ trông thấy một quan coi ngục tay cầm sổ ghi chép điểm danh người phải xuống vạc dầu. Quan coi ngục hét lên: "Vương Kim Hoa." Thế là những lính canh ngục đưa anh ta đến liền dùng hết sức để đẩy anh vào trong vạc dầu. Đúng vào lúc này, Liên Hoa Kim Hoa nhớ đến tâm chú Liên Hoa Đồng Tử: "Om guru liansheng siddhi hum." Anh ta niệm một câu, kết quả là, người treo lơ lửng ở không trung. Không bay lên. Không rơi xuống. Lúc này, cả quan coi ngục và lính ngục trông thấy đều rất kinh sợ, sao lại có hiện tượng như vậy chứ. Quan coi ngục hỏi: "Anh vừa đọc cái gì đấy?" Liên Hoa Kim Hoa nói: "Tâm chú Liên Hoa Đồng Tử!" Liên Hoa Kim Hoa lại niệm: "Om guru liansheng siddhi hum." Chỉ thấy từ trong hư không có một bàn tay khổng lồ với xuống, tóm chặt lấy Liên Hoa Kim Hoa. Bàn tay linh thiêng khổng lồ đỡ Liên Hoa Kim Hoa trở về bệnh viện anh ta đang nằm, trả lại linh hồn của Liên Hoa Kim Hoa về với thể xác của Liên Hoa Kim Hoa.
🌟
Nói ra thì cũng kì quái! Bệnh trúng phong của Liên Hoa Kim Hoa ấy, máu tụ trong não đã biến mất. Anh ta tỉnh khỏi hôn mê, rồi dần dần trở lại như người bình thường, cuối cùng là được xuất viện. Khi xuất viện, anh đặc biệt căn dặn: "Phải đến phân đường trước, lễ bái Liên Hoa Đồng Tử!"
Chuyện này là: Khi chẳng ai cứu khỏi vạc dầu Trong lòng đau đớn mãi không nguôi Khi ấy duy nhất nơi nương dựa Tam thế chư Phật, Thượng sư tôi.
🌟
Bởi vì thành tựu cuối cùng của Thượng sư của bạn là có thể hóa thân tại trăm nghìn vạn tỉ Phật quốc, đương nhiên mười phương pháp giới ngài đều có thể đến được. Hễ bạn nhớ đến Là được cứu độ!
16. Luyện tập tu thiền
Tôi nhớ lần giảng về "Cửu thứ đệ định" tại Singapore, tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng bản thân tôi dựa vào "Cửu thứ đệ định" để mà tu thiền quán. Quá trình này như sau: Sơ trụ, tục trụ, hồi trụ, cận trụ, phục trụ, tịch trụ, tối tịch trụ, chuyên trụ, đẳng trụ. Những bước trên là sự luyện tập "tâm". Quan trọng nhất là quen tay hay việc. "Cửu thứ đệ định" này đòi hỏi thời gian. (Chú thích: Muốn nghe giải thích tường tận về "Cửu thứ đệ định", xin mời tham khảo bài thuyết pháp khi đó.)
Thiền quán này phù hợp với Hiển giáo, cũng phù hợp với Mật giáo. Trọng điểm của "Cửu thứ đệ định" nằm ở sự chuyên nhất của tâm. Tâm chạy lung tung thì cần tóm nó lại. Tập trung vào việc quán tưởng. Sự tỉnh thức và chuyên chú ổn định, dần dần kéo dài thời gian. Quá căng không tốt. Quá lỏng cũng không tốt. Tóm lại, trạo cử thì phải thả lỏng một chút. Hôn trầm thì cần căng hơn một chút. Mục tiêu cuối cùng là cần "đẳng trụ" hoàn toàn vào pháp nhĩ bản nhiên.
Lư Sư Tôn nói: "Hành giả quán tưởng Bổn tôn của bản thân cho đến khi cực kì thuần thục thì cũng giống như đã loại bỏ được thân phàm phu." "Hành giả niệm tụng tâm chú Bổn tôn, đến cuối cùng có thể đạt được sự thanh tịnh của khẩu." "Hành giả mượn ý niệm đạt đến cảnh giới Không-Bi song vận thì sẽ đạt được sự thanh tịnh của ý." Tôi nói với mọi người: Nhờ sự thanh tịnh của thân, khẩu, ý mà: Tương ứng Bổn tôn. Tương ứng Thượng sư. Nhờ sự tương ứng Bổn tôn, Thượng sư này mà tiếp theo tu khí, mạch, minh điểm sẽ rất dễ thành tựu.
Tôi còn nhớ: Khi Phật Ca Diếp trụ thế. Xá Lợi Phất là đệ tử của Phật Ca Diếp. Xá Lợi Phất rất nghiêm túc tu thiền quán, nhưng vẫn không đạt đến cứu cánh. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế. Xá Lợi Phất lại cùng Phật Đà tu hành. Bởi vì có ấn kí tu thiền từ kiếp trước nên Xá Lợi Phất đã chứng đắc quả vị A La Hán. Những việc này đều là: Tích lũy phúc phần. Tích lũy đức tính. Tích lũy trí huệ. Tích lũy thiền định. Mới có thể thành công. "Cửu thứ đệ định" được nhắc đến trong chương sách này có thể được tìm thấy trong luận tác của Bồ Tát Vô Trước: Thanh Văn Địa Phẩm, Bồ Tát Địa Phẩm. Trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận cũng có.
Muốn thành tựu, thoát khỏi luân hồi thì nhất định cần phải tu những thứ này, tu hành không phải là thành công chỉ sau một đêm. Mọi người đều phải từng ngày từng ngày tăng trưởng thì mới có thể đạt được thành tựu.
(Ghi chú của người biên tập: Toàn văn pháp ngữ khai thị của Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật về Thời Luân Kim Cang thiền định cửu thứ đệ vào ngày 13 tháng 12 năm 2008 được đính kèm ở cuối sách này.)
17. Giãi bày tâm tư
Tôi (Lư Sư Tôn) thường nghĩ đến cuộc đời của con người: Trẻ sơ sinh. (ra đời) Nhi đồng. Thiếu niên. Thanh niên. Trung niên. Lão niên. (chết) Ha ha ha! Xong đời rồi! Đời người gạch một nét bút thế là xong. Cho dù bạn là Đế Vương, tướng quân hay phàm phu tục tử thì cũng đều quy về con số không. Không không không. Sống vô vị. Chết đáng tiếc. Ôi! Ôi! Ôi! Cho nên, tôi nghĩ đến "xuất li", thoát khỏi nhân sinh, thoát khỏi luân hồi. Nhân sinh! Đồ chết tiệt!
🌟
Tôi nghe Phật pháp, biết rằng tất cả do tâm tạo. Tâm là thứ quan trọng nhất, thành Phật tác Tổ, phàm phu, tam ác đạo, đều là do tâm. Vì thế, tâm bồ đề là quan trọng nhất. Cả cuộc đời của Atisha tôn giả tổng cộng có 155 vị thầy, đối với tất cả các vị thầy ngài ấy đều vô cùng tôn kính, thế nhưng cung kính nhất là đối với Kim Châu Đại Sư. Vì sao vậy? Bởi vì Kim Châu Đại Sư truyền thụ khẩu truyền pháp quyết cho Atisha tôn giả, pháp mà ngài ấy truyền chính là: "Bồ đề tâm." Vì thế Atisha tôn giả mỗi khi nghe nhắc đến tên của Kim Châu Đại Sư là ngài ấy lại chắp tay lại, chạm lên đầu và chảy nước mắt. Từ đó có thể thấy tầm quan trọng của bồ đề tâm. Không có bồ đề tâm mà tu mọi pháp, trên thực tế chẳng có chút ý nghĩa nào.
🌟
Bản thân tôi cho rằng, thứ tự tu hành nên là: Xuất li tâm. Bồ đề tâm. Trung quán chính kiến. Thứ tự sinh khởi. Thứ tự viên mãn. Trong việc này, bạn buộc phải có sự yêu thích tu hành, cũng có nghĩa là sự ham mê tu hành. Muốn rời khỏi nhân gian, cũng như độ người khác rời khỏi nhân gian, đòi hỏi phải có sự nhiệt tâm, bởi vì thiếu đi sự nhiệt tâm thì sẽ không thể bền lâu. Sẽ lười biếng, nửa đường bỏ dở.
🌟
Cái tâm xuất phát ai ai cũng có. Cái tâm lâu bền thì chưa chắc! Tôi (Lư Sư Tôn) vì có cái tâm lâu bền, có tâm bồ đề, nên mới có thể làm được:
- Viết sách không ngừng nghỉ.
- Vẽ tranh không ngừng nghỉ.
- Tu pháp không ngừng nghỉ.
- Thuyết pháp không ngừng nghỉ.
(Tôi dựa vào xuất li tâm, bồ đề tâm, trung quán chính kiến để làm cơ sở tu hành của mình.) Hãy nhìn thấu đời người đi! Biết tất cả là "vô sở đắc". Thì sẽ chẳng "chấp ngã" và "chấp pháp" nữa.
18. Đại Vũ trị thủy
Ngày xưa, Trung Quốc có đại hồng thủy. Phụ thân của Đại Vũ trước kia trị thủy là dùng pháp ngăn chặn. Sau này, Đại Vũ trị thủy là dùng pháp khơi thông.
Pháp ngăn chặn của phụ thân Đại Vũ thất bại. Còn pháp khơi thông của Đại Vũ lại thành công. Vì thế, vua Thuấn nhường ngôi cho Đại Vũ, Đại Vũ đã trở thành hoàng đế. Vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn. Vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ. Để lại tiếng thơm muôn đời.
🌟
Cá nhân tôi cho rằng: Phật giáo hiện đại cũng có hai loại pháp ngăn chặn và pháp khơi thông. Pháp ngăn chặn: Người học Phật, đối với giết, cướp, dâm, vọng, tửu, hết thảy đều cấm tuyệt đối. Đối với tham, sân, si, nghi, mạn, hết thảy đều cấm tuyệt đối. Đối với tài, sắc, danh, ăn, ngủ, hết thảy đều cấm tuyệt đối. Đó là giới luật. Không được phạm vào!
Pháp khơi thông: Tài --- tu pháp Tài Thần. Sắc --- tu pháp Song thân. Danh --- tu pháp Kurukulle Phật Mẫu. Ăn --- tu pháp Hội cúng. Ngủ --- tu pháp Miên quang. (Đó là tu hành thuận theo dục vọng.)
Ngoài ra: Giết --- pháp Siêu độ. Cướp --- pháp Tịnh hóa. Dâm --- pháp Song thân. Vọng --- pháp Trì minh. Tửu --- pháp Cam lộ.
Và: Tham --- pháp Thành Phật. Sân --- pháp Kim Cang. Si --- pháp Bồ Tát. (Đây là pháp tịnh hóa và chuyển hóa.)
Và: Ăn --- pháp Cúng dường. Mặc --- pháp Kiết giới. Ở --- pháp Thân đàn thành (pháp Cung điện). Đi --- pháp Thần túc.
Và:...
Trong Mật giáo còn có "xuất sinh tịnh hóa", "tử vong tịnh hóa", "trung ấm tịnh hóa".
🌟
Tôi viết ra như vậy, mọi người hẳn là có thể ngầm hiểu rằng Phật pháp hoàn toàn không phải là một mực cấm tiệt (pháp ngăn chặn). Phật pháp cũng có thể dùng cách thức thuận theo, phương tiện, tịnh hóa (pháp khơi thông).
Ví dụ: Một chữ "sắc" ấy rất cực kì, trên đời có mấy người có thể nhảy qua khỏi cửa "sắc"?
Có người nói: Sắc như cỏ, lấy tảng đá đè nó xuống, cỏ chẳng mọc được nữa. Nhưng chỉ cần dịch chuyển tảng đá đi, một làn gió xuân thổi qua là cỏ lại sinh sôi, không thể trừ tận gốc được. Phải làm sao? Pháp Song thân của Mật giáo chính là pháp khơi thông, cũng tức là pháp Tịnh hóa. Chỉ đáng tiếc là, người có thể tu pháp này trong vạn người chẳng thể tìm được một người, phải là người "kham năng" mới làm được. Nếu như không như pháp thì rơi xuống vực sâu vạn trượng, thật đáng thương! Đi đời nhà ma thôi!
19. Cảm nhận khi đồng tu
Ngày 6 tháng 3 năm 2021 (thứ bảy). 8 giờ tối cử hành buổi đồng tu Liên Hoa Đồng Tử. Địa điểm tại Đại Hùng Bảo Điện ở Seattle Lôi Tạng Tự. Tôi lên pháp tọa. Trong lúc tiến hành nghi quỹ, tôi phát hiện ra tôi rất buồn ngủ, rất muốn ngủ, hai mắt không mở ra được. Xảy ra một chuyện rất kì quái. Mỗi lần đồng tu ở Seattle Lôi Tạng Tự, tôi vừa lên pháp tọa thì cứ ngáp liên tục. Buồn ngủ. Ngủ lơ mơ. Ngủ gật luôn. Gà gật. Đây cũng là chuyện thường xảy ra.
Và buổi tối hôm đó cũng không phải là ngoại lệ, lúc tôi vừa mới gà gật thì tôi nhìn thấy: Từ đàn thành chìa ra một đôi tay trắng ngần nắm một sợi dây an toàn, chính là sợi dây an toàn của ghế ngồi ô tô, giúp tôi cài dây an toàn. Tôi nhìn thấy rất rõ ràng. Thì ra là Phật Bồ Tát từ bi, sợ tôi ngủ gật lại ngã ra khỏi pháp tọa. Ha! Cảm tạ Phật Bồ Tát!
🌟
Lại có một lần đồng tu. Tôi ngồi trên pháp tọa, mắt lơ mơ. Tôi lại nhìn thấy bên dưới pháp tọa có một cô gái đang ngồi xổm, tuổi chừng 16, mặc áo màu xanh lục, vẻ ngoài thanh tú với mái tóc rất đẹp. Tôi hỏi: "Cô làm gì ở đây?" Cô ấy đáp: "Chị con là tình nguyện viên ở Seattle Lôi Tạng Tự, chị ấy muốn con đến đây, đợi đến khi Sư Tôn hồi hướng, Phật Bồ Tát đến tiếp dẫn thì đi theo Phật Bồ Tát vãng sinh tịnh thổ." Tôi hỏi: "Thì ra cô là thân trung ấm?" Cô ấy đáp: "Đúng vậy." (Trong lúc hồi hướng, tôi vẫn luôn nói rằng, cầu thỉnh Bổn tôn phóng quang tiếp dẫn u linh chúng vãng sinh đến tịnh thổ của Bổn tôn.)
Sau buổi đồng tu, tôi hỏi nữ tình nguyện viên: "Có phải cô có một em gái đã mất không?" Nữ tình nguyện viên nói: "Dạ đúng. Năm 16 tuổi nó mắc bệnh rồi nhanh chóng qua đời. Con có gọi nó đến để đồng tu." Tôi nói: "Cô ấy đã vãng sinh tịnh thổ rồi!" Nữ tình nguyện viên mừng chảy nước mắt.
🌟
Câu chuyện đầu: Bồ Tát dịu dàng ở nhân gian Giúp tôi cài chặt dây an toàn Để tôi ngủ gật không quá mức Tránh bị ngã ra khỏi chỗ ngồi.
Câu chuyện sau: Đến nay tôi tu Thiên thức pháp Nhất tâm đảnh lễ chư Bổn tôn Bổn tôn phóng quang mau tiếp dẫn Chỉ trong sát-na đến Phật địa.
20. Cân lạng của Viên Thiên Cương
Trên lịch của nông dân thường in cân lạng của Viên Thiên Cương. Viên Thiên Cương là một người có Đạo.
Cân lạng là lấy giờ, ngày, tháng, năm sinh đại diện cho bao nhiêu lạng, cộng lại với nhau thì ra bấy nhiêu lạng. Và một người ứng với bao nhiêu lạng thì đó sẽ là vận mệnh cả đời của người đó.
Tôi sinh vào giờ Ngọ, ngày 18 tháng 5 năm 34 Dân Quốc [năm 1945], theo cân lạng của Viên Thiên Cương thì tôi được bốn lạng tám. Nhìn chung mà nói thì cân lạng: Càng nặng càng tôn quý. Càng nhẹ càng nghèo hèn. Bốn lạng tám được xem là nặng.
Luận rằng: Chẳng nhờ cậy người thân, tay trắng dựng cơ đồ. Phúc lộc hậu trọng, cuối đời phát tài. Tuổi thọ sau cùng là: 77 tuổi.
Chính vì con số 77 tuổi này đã khiến tâm tôi xúc động, bởi vì năm nay lão tăng này vừa đúng 77 tuổi. Theo cách nói của Viên Thiên Cương thì tôi (Lư Thắng Ngạn) sẽ sống thọ và chết tại nhà. Nhưng tôi cho rằng: vận mệnh của con người có thể thay đổi, bởi vì tôi không phải là người theo quan niệm về số kiếp. Vận mệnh có thể thay đổi! Đại thiện! Đại tu hành! Có thể cải biến vận mệnh. (Xin đọc thêm cuốn sách "Liễu Phàm tứ huấn", phần "Học lập mệnh" trong đó chính là phương pháp cải biến vận mệnh.)
Theo tôi được biết: Diêu Trì Kim Mẫu từng trực tiếp chỉ thị cho tôi rằng thọ mệnh của tôi đã được kéo dài ra một chút! Còn bản thân tôi thì: Đời người từ xưa tới nay có ai mà không chết? Có sinh tất có tử. Tôi chẳng hề sợ cái chết. Cái chết của tôi chẳng qua chỉ là một sự chuyển đổi biến hóa, dịch chuyển đến tịnh thổ. Hoặc trực tiếp hóa thành ánh sáng, tức thân thành Phật. Hoặc thành tựu Bồ Tát. Hoặc tịnh hóa trung ấm, tái chuyển thế thiên thức, lại thừa nguyện mà đến để độ hóa chúng sinh.
🌟
Còn các đệ tử của tôi vừa nghe nói đến 77 tuổi là lập tức cầu phúc cho tôi. Thỉnh Phật trụ thế. Tái chuyển pháp luân.
Có một đệ tử là Liên Hoa Số Y viết một bài kệ, kệ rằng: Đời người tinh hoa lúc bảy mươi Thân thể khỏe mạnh như mười bảy Bao nhiêu thanh niên chẳng thể sánh Vô lậu tôn giả bậc đệ nhất Từng giờ từng phút tùy nhậm vận Trường thọ tự tại chẳng do mệnh.
Và: Pháp báo ứng thân đại Phật ân Ngày tháng năm qua đại hoằng pháp Tinh tấn thực tu con hổ thẹn Cầu thỉnh đừng buông lời thề nguyện Cứu độ chúng con chúng mê lầm Vì vậy khẩn cầu thầy ưng thuận.
Tôi (Lư Thắng Ngạn) nói với mọi người rằng, hành Bồ đề tâm, tu trì lục độ là quyết tâm của tôi. Tôi không chỉ tự độ mình, cũng cần độ chúng sinh, là tâm nguyện của tôi.
21. Người cực ác
Người hỏi: "Lư Sư Tôn! Ngài nói không bỏ rơi một chúng sinh nào, là thật chứ?" Tôi đáp: "Là thật." Người hỏi: "Người cực ác thì sao?" Tôi đáp: "Vẫn độ." Người hỏi: "Có ví dụ nào không?" Tôi đáp: "Có tử tù ở Singapore, trước khi bị tử hình đã phát lộ sám hối, ăn năn lỗi lầm trước đây mà thay đổi, chỉ trì tâm chú Liên Hoa Đồng Tử và Cao Vương Kinh mà sau khi bị tử hình, hỏa táng ra hạt xá lợi, điều này là thật." Người hỏi: "..."
🌟
Người hỏi: "Phật Đà cũng độ người cực ác chứ?" Tôi đáp: "Đương nhiên." Người hỏi: "Là ai?" Tôi đáp: "Ương Quật Ma La. Ông ta đã tiếp nhận giáo pháp sai lầm của ngoại đạo yêu cầu ông ta giết một nghìn người, rồi gom lại một nghìn ngón tay thì có thể chứng đắc giải thoát." Người nói: "Quả nhiên là cực ác, Phật Đà độ ông ta như thế nào?" Tôi đáp: "Sau khi ông ta giết được 999 người, chuẩn bị giết mẹ đẻ của ông ta thì Phật Đà đến, bèn độ hóa cho ông ta." Người hỏi: "Phật Đà độ hóa người cực ác như thế nào?" Tôi đáp: "Phật Đà dùng sức mạnh thần thông để cảm hóa, rồi nói pháp cho ông ta, ông ta liền quy y Phật Đà." Người hỏi: "Phật Đà độ hóa người cực ác, còn có người nào khác không?" Tôi đáp: "Nan Đà — ông ta đại diện cho người cực kì tham ái. Ương Quật — ông ta đại diện cho người vô minh nhất. Giết gần nghìn người, có thể thấy là cực kì tàn ác. A Xà Thế — ông ta đại diện cho người cực kì sân hận. Giết người thân nhất, giết người vô số. Thương Kiệt La — vừa tham ái vừa sân hận. Vân vân..."
Người hỏi: "Sau này họ thế nào?" Tôi đáp: "Nan Đà và Ương Quật Ma La đều thành tựu A La Hán. A Xà Thế thành Bồ Tát. Thương Kiệt La sinh về cõi trời, sau này tu hành chứng đạo."
🌟
Người hỏi: "Ác quả của ác hành là cái gì?" Tôi đáp: "Đoản thọ, nhiều bệnh, bần cùng, chướng ngại. Lưu chuyển trong tam ác đạo, không có ngày thoát ra." Người hỏi: "Phạm vào ác hành rồi phải làm sao?" Tôi đáp: "Sám hối, cải ác hướng thiện, thề không tái phạm." Tôi nói: "Có một việc thiện cực kì tốt, đó là in kinh điển, sách thiện cho người khác đọc, có thể tích tập phúc đức."
22. Lời nhắn viết cho Hoa
Có một người là Liên Hoa Tiểu Hoa viết cho tôi một lá thư dài, trong thư có kẹp một lọn tóc. Cô ấy là một người thông linh. (Có kí ức về kiếp trước đời này.) Tôi muốn trả lời thư cho cô ấy. Dưới đây là những tiếng lòng của tôi viết cho Liên Hoa Tiểu Hoa.
🌟
Cô ấy nói: Có một lần, chúng ta cùng chụp ảnh. Sư Tôn ở trong ảnh không ngờ lại có thể nói chuyện, nói rằng: "Cô là vợ ta, cô là con ta." Tôi nói: "Đã là quyến thuộc, vậy thì càng phải trân trọng hơn nhân duyên đời này, trong đời này hãy tu hành đạt thành tựu."
🌟
Cô ấy nói: Cô ấy chưa từng nhớ nhung ai, nhưng chỉ nhớ về Phật. Vẫn biết mình là người vô tâm. Vẫn luôn kiếm tìm "ai là người kiếp trước của kiếp trước". Rất nhiều hiện tượng thông linh, bởi chẳng giống với người bình thường, nên đã từng vào bệnh viện tâm thần. Sau đó, được xác định là không phải mắc bệnh tâm thần. Tham gia pháp hội của Sư Tôn, có mấy lần đã được đưa đi. Tôi nói: "Trước kia tôi cũng bị đồng nghiệp, cấp trên cho là mắc bệnh tâm thần. Nhưng bây giờ bản thân đã biết là không phải vậy, cô chỉ cần tự lòng mình hiểu rõ là được. Tôi cũng biết cô không mắc bệnh tâm thần."
🌟
Cô ấy nói: Trong biển người mênh mông, cô ấy đã lạc đường rồi. Cô ấy đang tìm kiếm người mẹ của mình (Diêu Trì Kim Mẫu), đang tìm Lư Sư Tôn. Bây giờ tâm đang ở hồ Ngọc, buộc chặt với tâm Sư Tôn. Tôi nói: "Cô có thể tu pháp Bổn tôn, Bổn tôn chính là Diêu Trì Kim Mẫu, Lư Sư Tôn chính là Căn bản Thượng sư. Có thể hợp nhất bản thân cô với Căn bản Thượng sư, rồi dung nhập vào trong tâm của Diêu Trì Kim Mẫu. Cô tu pháp như vậy không có gì sai. Bổn tôn của tôi cũng là Diêu Trì Kim Mẫu. Vì thế, ba Diêu Trì Kim Mẫu hợp nhất, thế là có thể trở về nguồn gốc."
🌟
Cô ấy nói: Việc thế tục cứ phiền hà khiến cô ấy không thể tiến lên phía trước. Phải làm sao? Tôi nói: "Bởi chúng ta ở nhân gian, nên cũng phải làm việc thế tục. Và cũng phải làm những việc Thánh tách khỏi thế tục. Cô phải học cách song vận. Hữu - Không song vận. Tục - Thánh song vận. Lạc - Không song vận. Ở đây không có xung đột. Mà là có thể điều hợp vô cùng tốt, tâm tại thế tục, tâm tại hư không. Đây là điều có thể làm được!"
🌟
Cô ấy nói: "Thỉnh cầu Lư Sư Tôn, vào những lúc đệ tử không biết quyết định ra sao, nhất thiết phải chỉ thị cho đệ tử trong mơ." Tôi đáp: "Đương nhiên rồi. Tôi nhận ra cô! Tôi, cô, Diêu Trì Kim Mẫu, đều là người một nhà. Ở cõi trời bên ngoài cõi trời. Tương lai sẽ là những ngày tháng vĩnh viễn vui vẻ."
23. Rụng một chiếc răng
Tháng 3 vào năm tôi 77 tuổi. Khi tôi đang dùng chỉ nha khoa để làm sạch kẽ răng thì chiếc răng số ba hàm trên bên trái bị rụng ra. "Ồ!" Tôi có chút ngạc nhiên! Sau đó, tôi rất bình thản. Bởi vì tôi từng nói: "Đời người bảy chục tuổi mới bắt đầu, cũng có nghĩa là bắt đầu rụng răng!" Ha ha ha!
🌟
Trong đời tôi. Tôi là người rất chú trọng hàm răng. Trước khi di cư sang Mĩ, năm ấy tôi 35 tuổi, ở Đài Trung Đài Loan, tôi đã tìm đến phòng khám nha khoa Cát Xương để chỉnh lại hàm răng. (Nghĩa là cái nào phải trám thì trám, phải bọc thì bọc, phải sửa thì sửa, phải chỉnh thì chỉnh, phải nhổ thì nhổ, phải thay thì thay.) Sau đó, tôi đến nước Mĩ. (Năm ấy tôi 38 tuổi.) Tôi đến phòng khám nha khoa CV ở Seattle để chỉnh và làm bóng răng. Sau đó, khi tôi trở về Đài Loan Lôi Tạng Tự để hoằng pháp, ở Đài Trung Đài Loan tôi lại làm trắng răng tại nha khoa Bối Nhĩ.
🌟
Bản thân tôi chăm sóc hàm răng rất cẩn thận, theo bốn trình tự:
- Súc miệng bằng nước.
- Chải kẽ răng.
- Dùng chỉ nha khoa.
- Đánh răng bằng bàn chải điện.
Sau mỗi bữa ăn là tôi lập tức đi đánh răng, đó là thói quen của tôi. Làm xong bốn trình tự này mất 20 đến 30 phút. Vì thế, tôi chưa từng bị sâu răng, không mắc bệnh viêm lợi, hàm răng luôn trắng khỏe thơm tho.
🌟
Rụng một chiếc răng. Tôi nhận ra, tôi đã cố gắng hết sức để giữ gìn hàm răng của mình rồi, thế mà nay, rụng mất một chiếc răng. Tôi nói: Tôi già rồi! Răng cũng lão hóa rồi! Năm tháng chẳng bỏ qua người nào, vô thường, tôi chỉ có thể cảm thán như vậy mà thôi!
🌟
Tôi tìm đến nha sĩ Hồng Quế Thanh, cô ấy là đệ tử Chân Phật Tông. Cô ấy đưa tôi đến phòng khám của cô ấy ở London. Cô ấy nói: "Răng không bị sâu, cũng không bị hỏng, chỉ là rụng ra, gắn nó lại thế là xong!" Thế là, chiếc răng được gắn lại! Rồi cô ấy lại giúp tôi chỉnh và làm trắng bóng lại hàm răng. Tôi thật sự rất biết ơn cô ấy.
🌟
Trong chương sách này, điều tôi muốn nói là: Một chiếc răng rụng ra, lại gắn trở lại, đây là chuyện thế tục. Việc tu hành khí, mạch, minh điểm, chuyết hỏa, bồ đề dịch của tôi... là việc vượt ra ngoài nghĩa đế. Hai việc này xem ra chẳng có mối tương quan nào. Tuy nhiên, bạn có biết không? Thế tục và thắng nghĩa chẳng phải hai thứ. Thế tục và thắng nghĩa có thể song vận. Tôi hết sức giữ gìn hàm răng toàn vẹn cũng là một nghĩa đế thù thắng. Bạn có hiểu không?
24. Tâm khai ý giải
Đối với kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (kinh Tâm), rất nhiều người thế gian có thể đọc thuộc lòng, rất tôn sùng Tâm Kinh. Nhưng không có nhiều người có thể hiểu được chân đế của nó. Vì thế, lão tăng giải thích rõ như dưới đây.
🌟
Tôi nói: Tâm Kinh này là tinh hoa của trí huệ Phật giáo. Là tâm khai ý giải của Quan Thế Âm Bồ Tát khi Bồ Tát ở trong thậm thâm tam ma địa. "Ngũ uẩn giai không" là gì? Đáp: không còn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không còn ngũ uẩn thì khổ cũng không tồn tại. Thế nào là sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc? Đáp: thế giới nhất nguyên, không còn nhị nguyên. Tuyệt đối. Song vận. Bản nhiên. Ngũ uẩn cũng là như thế.
🌟
Chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Ha! Vốn dĩ chính là như vậy! Đó là "trí huệ chân thực". Những thứ khác đều là mộng huyễn.
🌟
Tiếp theo: Vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp. Vô nhãn pháp. Vô ý thức giới. Vô vô minh, vô vô minh tận. Vô lão tử, vô lão tử tận. Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc. Vô sở đắc.
Tôi bảo mọi người, tôi lấy một ví dụ, ví dụ ở trên mặt trăng, trên mặt trăng đến một con người cũng không có. Thử hỏi: những cái "không có" này đúng thật là thế. Tôi lại nói rằng quay trở về, trên trái đất có con người, nhưng những con người này cũng chỉ tồn tại tạm thời, cuối cùng cũng là "không có". Trong con mắt tôi, trên trái đất căn bản là cũng không có người. "Thành, trụ, hoại, không." Cái gì cũng chẳng có!
🌟
Vì thế chứng minh rằng: Vô quái ngại. Vô hữu khủng bố. Vô điên đảo mộng tưởng. Cứu cánh niết bàn.
Là một hành giả khi đi đến được cảnh giới này thì đã biết nhân của vô sinh, quả của vô tử, đây chính là trí huệ chân thực tối cao vô thượng. Đó chính là niết bàn. Vì thế: "Phật - Ma như nhau." "Sinh - Tử như nhau." "Luân hồi - Niết bàn như nhau." "Lạc - Không như nhau." "Được - Mất như nhau." Chỉ có "nhất như", không có "nhị như". Thế tục - Thắng nghĩa cũng là như nhau.
25. Chuyện cười mà tôi thích kể
Có một câu chuyện cười mà tôi rất thích kể. Chuyện cười như sau: Một người đi vào quán mì bò, ông ta gọi một bát mì thịt bò. Mì thịt bò được bưng ra. Người này cầm đũa đảo đảo. Chỉ thấy mì. Không thấy thịt bò. Ông ta nói: "Ông chủ! Ông chủ! Trong mì thịt bò sao lại chẳng có thịt bò thế?" Ông chủ trả lời thẳng thừng dứt khoát: "Ông ăn bánh mặt trời, bên trong có mặt trời không? Ông ăn bánh mặt trăng, bên trong có mặt trăng không? Ông ăn bánh bà vợ, bên trong có bà vợ không?" [Bánh mặt trời, bánh bà vợ là loại bánh truyền thống của Đài Loan. Bánh mặt trăng là bánh trung thu.] "..." - Người khách này nhất thời á khẩu. Ha ha ha!
🌟
Kể xong câu chuyện cười này rồi, quay trở lại việc chính. Trên trái đất có sinh vật. Nhưng trên mặt trăng có không? Sao Thủy, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Kim, Sao Thổ có sinh vật không? Sao Thiên Vương có sinh vật không? Sao Diêm Vương có sinh vật không? Sao Hải Vương có sinh vật không? Cửu diệu có sinh vật không? [Cửu diệu là gồm mặt trời, mặt trăng và bảy hành tinh.] Hai mười tám vì tinh tú có sinh vật không? (Khoa học công nghệ hàng không vũ trụ hiện đại đang nghiên cứu vấn đề về phương diện này.)
🌟
Còn tôi, Lư Sư Tôn dùng một câu chuyện cười và các vì sao để giải thích rõ về "kiến đạo". Phật giáo có ba cuốn kinh điển mà trong đó có "kiến đạo". Kinh Đại Bát Nhã. Kinh Kim Cang. Kinh Tâm. Bản thân tôi cho rằng: "Tinh hoa của kinh Đại Bát Nhã chính là kinh Kim Cang, tinh hoa của kinh Kim Cang chính là kinh Tâm." Kinh Tâm chính là kiến đạo.
🌟
Con người sống chỉ là tạm thời. "Thành, trụ, hoại, không." "Sinh ra, chết đi, trung ấm." Không. Trái đất đang quay tròn, chỉ là tạm thời. "Thành, trụ, hoại, không." Không. Cuối cùng là: Không, không, không, không. Cái gọi là Tứ không thiên, Thức vô biên, Không vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Là tiến gần đến đạo.
🌟
Cảnh giới của tôi bây giờ là: Lạc. (khoái lạc) Minh. (quang minh) Không. (tính Không) Nhậm vận. (lậu tận thông) Tự tại. Bồ đề tâm là một nguyên tố tối quan trọng trong giáo hóa của Phật Đà. Bồ đề tâm này độ hóa tâm của chúng sinh hữu tình, khiến hành giả có thể trụ thế trường cửu dài lâu. Đây chính là "Luân hồi - Niết bàn nhất như."
26. Quan điểm đối với "Ma"
Căn cứ theo kinh điển, "Ma" có bốn loại:
- Ma ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì có ngũ uẩn nên mới có cái khổ của luân hồi, đây là nhân khổ, sẽ khiến con người chịu khổ cho đến chết.
- Ma phiền não. Con người lấy bản ngã làm trung tâm, có bản ngã thì sẽ sinh ra phiền não, gây nên các hành vi xấu, hành vi xấu trở thành nghiệp, vì nghiệp mà trở thành nhân của sinh lão bệnh tử. Đau khổ muôn phần.
- Ma tử. Có sinh tất có tử. Chúng ta biết rằng, từng giờ từng khắc, từng phút từng giây đều có con ma vô thường ở đó. Nghĩa là con ma tử luôn ở bên cạnh chúng ta, bản chất của nó cũng tức là khổ.
- Ma thiên tử. Ma quấy nhiễu việc tu hành của hành giả. Khiến họ đi trên con đường sai lầm. Tạo ra chướng ngại. Ma này là chỉ thói lười biếng, tán loạn, mê hoặc, sẽ khiến tu hành không có thành tựu. Lạc trong sự đau khổ cao muôn trượng.
🌟
Trong Mật thừa, bốn Ma của chúng ta là:
- Ma hữu hình. Có thể làm hại thân tâm của chúng ta. Làm hại sự vật. Làm hại chúng sinh. Khiến con người khổ và chết. Loại ma này chính là ma hữu hình.
- Ma vô hình. Tham, sân, si, nghi, mạn. Khiến sinh khởi tám vạn bốn nghìn loại phiền não của cái khổ luân hồi. Loại phiền não này do tâm sinh ra, vì thế được gọi là "tâm ma". Tâm ma khó trị. Trọng điểm nằm ở việc luyện tâm.
- Ma kiêu ngạo. Ma này do "tự - tha bất bình đẳng" mà sinh ra. Cho rằng bản thân mình là to nhất. Bản thân mình là cao nhất. Bản thân mình là vô thượng thượng. Hơn nữa lại không ngớt mê đắm vào chính mình. Tất cả mọi kiêu căng ngạo mạn từ đây mà sinh ra, đem đến cho bản thân những đau khổ, cũng đem đến đau khổ cho người khác.
- Ma huyễn giác. Đời người vốn huyễn. Nhập vào huyễn mà không biết là huyễn là điều đáng thương nhất. Sống trong huyễn giác, không có một thứ nào là chân thực, lại không có cách nào tự kéo mình đi ra khỏi cảnh huyễn. Người vào bệnh viện tâm thần nhiều nhất là bị loại ma này. Tự thấy mình là Phật. Tự thấy mình là Thượng đế. Tự thấy mình là Thánh Allah. ...
Tự mình đau khổ, người khác cũng đau khổ.
🌟
Những loại ma này đều do bản ngã sinh ra. Chỉ cần một pháp "Vô ngã" là có thể đối trị được nó rồi! Chỉ cần vô ngã. Tất cả đều không tồn tại. Bởi vì ma đều là do cái ngã sinh ra.
27. Tôi và Thượng sư của tôi
Cuộc đời tôi không có hai món đồ. Thứ nhất là máy ảnh. Thứ hai là điện thoại di động. Tôi và sư phụ Hiển giáo của tôi, lão pháp sư Lạc Quả đã chụp một tấm ảnh, đó là do ông Lâm chụp giúp tôi. Tôi và sư phụ Mật giáo, Thượng sư Thubten Dhargye đã chụp rất nhiều ảnh, là do Thubten Jigong chụp giúp tôi. Bởi vì tôi không có máy ảnh nên hầu như tôi không có ảnh chụp chung với các Thượng sư của tôi.
Có người hoài nghi rằng rốt cục tôi có quy y các Thượng sư của tôi không? Ví dụ: Ấn Thuận đạo sư. (Sư Mẫu Liên Hương Thượng Sư có ảnh chụp chung.) Đạo An pháp sư. (Quy y tại chùa Huyền Trang ở Hồ Nhật Nguyệt.) Liễu Minh Hòa Thượng. (Núi Tập Tập) Sakya Chứng Không Thượng sư. (Chùa Sakya ở Seattle) Đại Bảo Pháp Vương thứ 16. (Ở Upstate New York) V.v… Bởi vì không có ảnh chụp để làm bằng chứng. Cho nên...
🌟
Thế nhưng tôi mặc kệ những chuyện này. Có quy y hay không? Ai thừa nhận ai? Mặc xác ai hỏi! Tôi vẫn hướng về Thượng sư của mình, xem các vị là pháp thân Phật trụ trên đỉnh đầu của tôi, thỉnh cầu sự gia trì của các vị!
🌟
Căn cứ theo quy tắc của Mật giáo: Đệ tử xem thầy là Thánh giả. Đệ tử xem thầy là Bích Chi Phật. Đệ tử xem thầy là phàm phu có đầy đủ công đức đặc thù. Đệ tử xem thầy là chúng sinh đắc quả vị thù thắng. Đệ tử xem thầy là Bồ Tát tư lương đạo. Hoặc là: Bậc trí giả có học vấn. A La Hán. Bồ Tát có chứng lượng cao. ...
Tất cả những điều trên đều không đúng, không thích đáng.
🌟
Mật Tục dạy chúng ta rằng: Cần phải xem thầy của mình là pháp thân Phật. Luôn luôn niệm văn cầu thỉnh của thầy, thỉnh cầu gia trì, thì có thể sinh khởi trí huệ nội chứng. Mật Tục nói: "Nếu một người có thể xem thượng sư của mình là pháp thân Phật với cái tâm cung kính, thì cho dù không tu trì thứ tự sinh khởi và thứ tự viên mãn, cũng vẫn có thể sinh khởi trí huệ chứng ngộ." Oa! Trời ạ! Cái này thật lợi hại.
🌟
Tôi có chụp ảnh chung với Thượng sư của tôi không, điều này căn bản không quan trọng. Đối với tôi quan trọng nhất là: "Thượng sư của tôi đều là pháp thân Phật." Tôi thường niệm bảy câu văn cầu thỉnh Liên Sư: ”Tịnh thổ Orgyen góc phía bắc Giáng sinh trên nhụy một đóa sen Thù thắng vi diệu thành tựu giả Xưng dương thánh hiệu Liên Hoa Sinh Không Hành nhiễu quanh đông như biển Con nguyện phát tâm đi theo ngài Thỉnh ngài thị hiện ban gia trì." A! Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã hiển hiện trước mặt tôi rồi.
28. Người không có điện thoại di động
Một lần, có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn! Vì sao thầy không có điện thoại di động?" Tôi đáp: "Điện thoại di động có lợi ích gì?" - Tôi hỏi ngược lại. Anh ta nói: "Điện thoại di động có thể xem được rất nhiều thứ!" Tôi nói: "Tôi không thích xem rất nhiều thứ, tôi chỉ thích xem được tâm của mình thôi, vì thế tôi không cần có điện thoại di động."
🌟
Một lần, có một nữ đệ tử nói với tôi: "Lư Sư Tôn! Con muốn "tám" chuyện dông dài với thầy!" Tôi nói: "Thế gian này có cái gì hay để mà "tám" chứ?" Cô ấy nói: "Có chứ! Triết học, nghệ thuật, âm nhạc, tôn giáo... Những chủ đề này đều có thể buôn chuyện mà!" Tôi nói: "Tôi chẳng bao giờ buôn chuyện." Cô ấy nói: "Thế thầy sống thế nào?" Tôi nói: "Tôi sống chỉ vì cái chết của tôi thôi!" Cô ấy nói: "Cái này..."
🌟
Sư Mẫu (Thượng sư Liên Hương) có điện thoại di động. Lư Phật Thanh (con gái tôi) có điện thoại di động. Lư Phật Kì (con trai tôi) có điện thoại di động. Lư Hoằng (cháu trai tôi) có điện thoại di động. Lư Quân (cháu gái tôi) có điện thoại di động. ... Chỉ có tôi là không có, nhưng tôi có một thứ mà người khác không có. Đó chính là: "Chân lí!" (Thực tướng bát nhã)
🌟
Tôi tin rằng: Với chiếc điện thoại, cái gì cũng có, bạn muốn tìm cái gì cũng có, điện thoại di động chính là món đồ tất yếu của con người. Rất nhiều tin tức. Rất nhiều tư liệu. Thời gian rất dài. Không gian vô giới hạn. Các trò chơi câu đố đều có thể tìm được đáp án. Một người từ khi mở mắt ra đến khi nhắm mắt lại đi ngủ đều chẳng rời cái điện thoại. Nhưng lại chẳng có kiến đạo. Bởi vì kiến đạo không phải là tin tức. Kiến đạo không phải là thông tin. Kiến đạo không phải là ngôn ngữ văn tự. Kiến đạo là gì? Tôi chỉ có thể nói: "Kiến đạo là trải nghiệm nội tại."
🌟
Mỗi người muốn tồn tại trong cuộc đời này đều cần có điện thoại di động. Nghe nói, đi ngân hàng, đi mua sắm, đi máy bay, dùng thẻ tín dụng, hàng trăm nghìn việc đi lại đều phải cần có cái điện thoại trên tay. Cặp mắt của mỗi người đều có cùng một góc độ, đó là nhìn vào cái màn hình dài rộng đó. Chỉ độc mình tôi là khác. Tôi nhắm chặt mắt lại.
29. Tâm như nước lặng
Tôi từng nói rất nhiều lần rồi! Đối với tương lai của mình, tôi hoàn toàn không ôm ấp kì vọng gì cả, một chút cũng không có. Kì vọng là gì? (Những mong mỏi đối với tương lai.) Cũng có nghĩa là: Tôi chẳng còn ham muốn gì! Kế hoạch viết bao nhiêu cuốn sách, chẳng có! Kế hoạch vẽ bao nhiêu bức tranh, chẳng có! Triển vọng tương lai của Chân Phật Tông, chẳng có! Kì vọng trở thành triệu phú, chẳng có! Sắc, chẳng có! Muốn trở thành danh nhân thế giới, chẳng có! Muốn ăn cao lương mĩ vị, chẳng có! Nói cách khác là, chẳng có gì, chẳng có gì, chẳng có gì, chẳng có gì, chẳng có gì.
Tôi hướng về hư không. Tất cả đều không. Tôi luôn ngủ rất ngon, trong đầu là một miền trống rỗng. Thậm chí khi dịch cúm virus Corona nghiêm trọng, tôi nghĩ, mắc bệnh cũng tốt, không mắc bệnh cũng tốt (chẳng hề sợ hãi). Có người nói: "Lư Sư Tôn tâm như nước lặng." Tôi nói: "Ao tù nước đọng!" Nếu có người ném vào trong ao tù nước đọng này một viên sỏi thì ngay cả một tiếng "tõm" cũng không có. Ngay cả những gợn nước cũng không có. Tôi tu hành như vậy, cái này giống như là Vô tưởng thiên. Hỏi tôi có hay không? Tôi đáp: "Cái gì cũng hay!"
🌟
Trong tu hành nội pháp, tôi đã dùng không ít công phu:
- Tâm khí hợp nhất.
- Nhập thiền định. (tọa vong)
- Khí nhập trung mạch.
- Chuyết hỏa đi lên, minh điểm hạ xuống, tụ tập tại tâm luân.
- Không - Lạc, trí huệ nhất quán. (Lạc - Không song vận)
Đương nhiên, tôi thường nói: Nhập — khí đi vào trung mạch. Trụ — giữ khí. Dung — khí tan trong trung mạch.
🌟
Chính nhờ tu hành như vậy. Mà tôi đã đi đến cảnh giới không còn dục vọng, tôi không còn nghĩ tới công đức mà vẫn tự nhiên sản sinh ra "thượng thiện". Thượng thiện nhược thủy. (Không còn lòng tham chính là thượng thiện.) Không còn kì vọng. Không còn kết quả. Không còn mong cầu. Cứ như thế, cánh cửa luôn mở ra! Bạn có thể nhìn thấy "con đường", không cần phải dùng chìa khóa nào cả. Nếu có quá nhiều mong cầu, nếu có quá nhiều kì vọng, nếu có quá nhiều ham muốn, thì cửa sẽ đóng lại.
Tôi cảm thấy tôi rất ngu đần, chính bởi vì tôi ngu đần, nên tôi mới có thể kiến đạo. Bạn có muốn kiến đạo không? Kì thực chỉ cần "tâm như nước lặng", hoặc là vô tưởng, thì rất dễ thấy được nó!
30. Ý nghĩa của quán đảnh
Có người hỏi tôi: "Lư Sư Tôn, có pháp sư Hiển giáo nọ bây giờ cũng tổ chức pháp hội quán đảnh à?" Tôi cười cười trả lời: "Ừ!" Người đó hỏi: "Hiển giáo cũng có quán đảnh sao?" Tôi đáp: "Nói một cách công bằng, nếu biết ý nghĩa thực sự của quán đảnh thì không có gì đáng trách. Nếu không biết ý nghĩa thực sự của quán đảnh thì chỉ là làm theo một cách máy móc, là bắt chước người khác thôi." Người đó hỏi: "Có thật có giả sao?" Tôi đáp: "Đương nhiên."
🌟
Nguồn gốc của quán đảnh: Tôi nghe sư phụ nói: "Là vì khi quốc vương Ấn Độ lên ngôi, cần lấy nước từ bốn biển lớn để dội lên đầu của quốc vương. Đây là một nghi thức đăng cơ. Sau đó nghi thức này diễn biến thành quán đảnh của Mật giáo." Chân Phật Tông có rất nhiều quán đảnh, cơ bản có bốn loại:
- Quán đảnh bình.
- Quán đảnh Nội pháp. (Mật quán)
- Quán đảnh Vô thượng mật. (Huệ quán)
- Quán đảnh Đại viên mãn. (Mật mật quán) (Ngoài ra còn có rất nhiều tên gọi khác không kể lần lượt ra ở đây.)
🌟
Tôi chủ yếu muốn mọi người biết ý nghĩa của quán đảnh, đây mới là điều quan trọng:
- Trao quyền. Đã nhận quán đảnh thì có thể nương dựa vào con đường Kim cương thừa. Hành giả được một Thượng sư chân chính hướng dẫn đến trước đàn thành Bổn tôn để truyền pháp quán đảnh. Có được quán đảnh hoàn chỉnh thì sẽ có điều kiện thuận lợi nhất. Chuyên nhất. Quang minh. Lạc thụ. Vô niệm. Có thể thể nghiệm được thân khẩu ý, tức là tam kim cương. Đây là quán đảnh tốt đẹp nhất.
- Tịnh hóa. Quán đảnh có tác dụng tịnh hóa, lại có tác dụng tu bổ, cũng tương đương với ý nghĩa sám hối. Quán đảnh là đã chết vào hôm qua. Quán đảnh là sinh ra vào hôm nay. Quán đảnh trong Kim cương thừa là quán đảnh theo thứ tự. Ví dụ: Quán đảnh tư lương đạo. Quán đảnh gia hành đạo. Quán đảnh kiến đạo. Quán đảnh Bổn tôn. Quán đảnh thứ tự sinh khởi, thứ tự viên mãn.
- Phá hủy. Quán đảnh có ý nghĩa phá hủy. Phá hủy những tập tính của phàm phu. Phá hủy phiền não. Phá hủy chấp ngã, chấp pháp. Đạt đến vô ngã. Đạt đến đại quang minh. Đạt đến đại viên mãn.
🌟
Mục thứ nhất là quán đảnh nhân (quán đảnh gốc). Mục thứ hai là quán đảnh đạo. Mục thứ ba là quán đảnh quả.
31. Tiêu tan
Tôi còn nhớ tôi từng đọc tiểu sử của lão hòa thượng Hư Vân, trong đó có nhắc đến một chuyện đã lôi kéo sự chú ý của tôi. Một hôm, lão hòa thượng Hư Vân biết tăng nhân trông nom vườn rau đã qua đời. Hư Vân đi thăm người đó. Tăng nhân này đã tọa hóa, ngồi bên dưới một cái cây già, ngồi thẳng thắn ngay ngắn. Đệ tử của Hư Vân đưa tay định chạm vào người tăng nhân. Hư Vân nói: "Đừng chạm!" Lão hòa thượng Hư Vân cung kính chắp tay lại, cúi lạy trước tăng nhân. Trong một sát-na, toàn thân tăng nhân giống như tiêu tan đi, hóa thành một đụn cát. Lão hòa thượng Hư Vân niệm một câu: "A Di Đà Phật! Thành rồi!"
🌟
Sau này, tôi tu Mật giáo, khi ấy mới biết rằng thì ra hành động ấy là dẫn động nội hỏa (chuyết hỏa), đốt cháy tiêu tan hoàn toàn thân phàm phu của chính mình. Thân thể của chúng ta vốn là một cái họa lớn. Lão Tử cũng nói: "Cái họa của ta cũng chính là cái thân của ta." Nhục thân là: "Nguồn gốc của đau khổ!" Vì thế, Mật giáo có: Tức sinh thành Phật. Tức thân thành Phật. Hóa thân cầu vồng. Một dải lụa trắng cứ thế bay đi. (Thân hóa cầu vồng, hóa thành cầu vồng đã trở thành biểu tượng của đại thành tựu.)
🌟
Vô Cấu Hữu. Sư Lợi Tinh Ha. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. ... (Đều là thân hóa cầu vồng.)
🌟
Thì ra: Pháp vô lậu vô cùng quan trọng. Bạch bồ đề đi xuống từ luân xa trán, đến luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn, luân xa sinh thực (mật luân). Bạch bồ đề ở tại đỉnh bảo châu, khi giữ ở đó thì sẽ trải nghiệm được "câu sinh hỉ". "Câu sinh hỉ" chính là đại lạc vĩnh hằng bất biến. Sư phụ tôi nói: "Đại lạc này có thể làm tiêu tan hơn hai vạn thành phần vật chất."
Tôi lại chú ý đến: Tan biến một luân xa, đến một luân xa khác, đến khi năm luân xa hoàn toàn tiêu tan thì sẽ đạt đến Bồ Tát ở địa thứ mười. Cứ một luân xa tiêu tan thì tiến thêm được hai địa. Sự tiêu tan này là vận dụng: Chuyết hỏa (hồng bồ đề). Minh điểm (bạch bồ đề). Đất, nước, lửa, gió, đại lạc, không. Để mà hoàn thành. Và, Phật tính của chúng ta vốn là sự tổng hợp của tâm và khí.
🌟
Đây chính là tu hành thứ tự viên mãn. Muốn tiêu tan một luân xa, cần dựa vào nước (bạch bồ đề), lửa (hồng bồ đề), gió (khí). Năm khí chính, năm khí phụ phải đi vào trong luân xa. Pháp vô lậu rất quan trọng. Đại lạc vĩnh hằng bất biến rất quan trọng. Tiêu tan là tối quan trọng.
32. Lời của Bồ Tát Tịch Thiên
Tác giả của "Nhập Bồ Tát Hạnh Luận" là Bồ Tát Tịch Thiên. Ngài nói: "Khi Phật Đà thuyết pháp thường nói rằng, Phật là người nói lời thật, người không nói sai khác, người không nói khoác." (Hoàn toàn chân thật.)
Ngài nói: "Phật Đà nói, ngay cả một con sâu nhỏ cũng có Phật tính, đều có thể thành Phật. Huống hồ là con người, con người có linh tính, có thể phân biệt thiện ác, biết việc gì có thể làm, việc gì không thể làm. Con người lại càng dễ thành Phật." (So với đạo súc sinh thì con người dễ thành Phật hơn.)
Ngài nói: "Chính vì như thế, trong quá trình cả cuộc đời mình, ngoài làm lợi ích cho chính mình bằng nỗ lực làm việc ra, con người cũng nên dành ra một chút thời gian để học Phật pháp cho tốt." (Đời này không tu thì lúc nào tu?)
Ngài nói: "Phật pháp mặc dù không dễ dàng, ví dụ như thứ tự viên mãn không hề dễ tu. Nhưng thứ tự sinh khởi ở mức độ tối thiểu thì vẫn cần tu. Chúng ta nên tu thành tựu thứ tự sinh khởi trước. Thứ tự viên mãn mặc dù khó, một kiếp chưa thành thì kiếp sau sẽ dễ dàng hơn, một lần bỡ ngỡ, hai lần quen thuộc, cuối cùng có thể thành Phật." (Thứ tự sinh khởi tương ứng trước, thứ tự viên mãn sẽ có được sự gia trì của Thượng sư, Bổn tôn.)
Những lời Bồ Tát Tịch Thiên nói, câu nào câu nấy đều là chân lí.
🌟
Tôi cảm thấy: Một đời thành tựu Phật quả đúng là không dễ. Tôi thấy thế gian này: Con người từ nhỏ đi học. Dựa vào tri thức để mưu cầu công việc. Dựa vào công việc để kiếm tiền, mong được no ấm, rồi phải nuôi gia đình, quả thật không dễ dàng. Con người rất nhanh già. Sau đó là tuổi già và bệnh tật cùng lúc. Cuối cùng là chết. (Một đời người trôi qua rất nhanh. Làm việc vất vả, ai cũng đều thấy rằng muốn dành ra được thời gian để tu hành mới khó làm sao!)
🌟
Chỉ có một số ít người nghe được Phật pháp, số người thiểu số này muốn học Phật liên tục bền lâu cũng không dễ. Bị phiền não quật đổ! Bị công việc quật đổ! Bị ngã chấp quật đổ! Bị pháp chấp quật đổ! Bị hoàn cảnh quật đổ! (Muốn trí huệ minh quang tự tại viên mãn thật chẳng dễ dàng.) Rất nhiều chướng ngại, tập khí, tầng tầng lớp lớp chắn trước mặt, đại bộ phận đều tử trận. Bị sắc lôi kéo đi. Bị tiền lôi kéo đi. Bị danh vị lôi kéo đi. Những người còn lại thì đã thành "tiền tam tam, hậu tam tam" rồi.
🌟
Khi học tập Phật pháp, nếu không có đại thiện tri thức chỉ dẫn, không có người có kinh nghiệm chỉ dẫn, chỉ dựa vào bản thân chiến đấu một mình, điều này nói dễ hơn làm. Trừ phi là kì tích! Rất nhiều người mặc dù nỗ lực tinh tấn nhưng cũng sẽ đi sai đường, lạc vào trong mê võng thiên kì bách quái. Do đó: Không nỗ lực nữa. Không tìm tòi nữa. Lại không ít người chết yểu! Ôi! Đọc "Nhập Bồ Tát Hạnh Luận" của Bồ Tát Tịch Thiên thật cảm thán làm sao!
33. Người hỏi tôi đáp: Thành Phật có mấy kiểu?
Người hỏi: "Thành Phật có mấy kiểu?" Tôi đáp: "Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome." Người hỏi: "Có dễ có khó sao?" Tôi đáp: "Đúng vậy. Giống như người leo núi, có con đường núi dễ đi, có con đường thì khó khăn trùng trùng!" Người hỏi: "Xin Lư Sư Tôn khai thị các kiểu thành Phật?" Tôi đáp: Theo như tôi biết: Pháp môn niệm Phật là dễ nhất, trọng điểm nằm ở nhất tâm bất loạn, chỉ cần tập trung trì danh hiệu Phật (niệm lực). Lúc lâm chung, Tây phương Tam Thánh sẽ hiện tiền, A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ hiện thân tiếp dẫn. Hành giả sẽ đến được Tây phương Cực Lạc tịnh thổ. Vĩnh viễn không thoái chuyển.
Ngoài ra, trung ấm của chúng ta vào lúc lâm chung, do thoát khỏi cái thân thô này, lúc thoát ra nếu gặp được Bổn tôn gia trì thanh tịnh thì điều này cũng vô cùng tốt. Chỉ cần tương ứng với Bổn tôn rồi thì: Sinh ra. Chết đi. Trung ấm. Đều sẽ được Thượng sư, Bổn tôn gia trì thanh tịnh, đều có thể đạt được thành tựu. (Trung ấm thành Phật.)
Ngoài ra, tu hành Mật giáo có hai ví dụ trực tiếp thành Phật: Thứ nhất, bạn tu pháp huyễn thân. Huyễn thân chính là sự tương hợp tâm và khí, lại cộng thêm ánh sáng mà tu xuất ra được huyễn thân. Huyễn thân có thể bay đến các cõi tịnh thổ của Phật, gặp được Bổn tôn, nghe Bổn tôn thuyết pháp. Vào lúc lâm chung, vứt bỏ cái thân thô của con người nhân gian, huyễn thân ánh sáng có thể trực tiếp thành Phật!
Thứ hai, pháp thành Phật tối cao của Mật giáo là: dùng phương pháp chuyết hỏa, bạch bồ đề, hồng bồ đề và khí. Khí đi vào trung mạch, có được đại lạc vĩnh hằng bất biến (câu sinh hỉ). Tan biến thân thô. Khi các thành phần vật chất của thân thô từ từ tiêu tan, và tâm, khí cộng thêm ánh sáng, thì vào lúc lâm chung, thân thô (thân phàm phu) sẽ biến thành cát bụi, hoặc hóa thành xá lợi, hoặc chỉ còn để lại lông tóc móng tay, hóa thành một dải cầu vồng, bay vào hư không. Thành Phật rồi! (Kiểu tu hành này phải mở năm luân xa, khiến năm luân xa hóa thành ánh sáng, đốt cháy thân thô, mệnh khí hóa thành cầu vồng.) Đây là đại thành tựu cầu vồng! Sau khi thành Phật thì lại phân thân vô số, đến thế giới Ta Bà để làm lợi ích cho chúng sinh hữu tình.
Cá nhân tôi cảm thấy: Mặc dù pháp có một chút khác biệt, nhưng về cơ bản là giống nhau. Chúc mọi người, người người thành Phật.
34. Kiến đạo và giải thoát
Hỏi: Thế nào là kiến đạo? Đáp: Kiến đạo nghĩa là nhìn thấy được thực tướng sau cùng. Hỏi: Thực tướng sau cùng là cái gì? Đáp: Pháp nhĩ bản nhiên. Hoặc như nó là. Hỏi: Vẫn không hiểu, không rõ, có thể nói rõ ràng hơn một chút không? Đáp: Đó là bản tính bất biến. Hỏi: Bản tính bất biến cũng vẫn không rõ ràng lắm. Đáp: Tâm và khí. Hỏi: Khí thì đương nhiên biết rồi, còn tâm thì không rõ. Đáp: Tâm chính là thức. Hỏi: Tu như thế nào? Đáp: Tôi căn cứ theo pháp "lập đoạn" và "đốn siêu" của A Để Du Già (Ati yoga) để tu trì. Hỏi: Lập đoạn thế nào? Đốn siêu thế nào? Đáp: Lập tức bỏ thân này, dịch chuyển thức đến tịnh thổ. Đốn siêu là tiến nhập vào quang minh. Hỏi: Pháp tu trì là như thế nào? Đáp: Đó là tâm khí tịnh hóa tiến nhập vào pháp nhĩ bản nhiên. Có nghĩa là Tử quang, Mẫu quang, hai thứ ánh sáng gặp nhau. Tiến nhập vào sự thanh tịnh bản sơ, đó cũng là giải thoát. Hỏi: Bản thân của việc tu trì này là cái gì? Đáp: Để sự cảm nhận và sự hiển hiện của việc tu trì tăng trưởng. Hỏi: Cần tăng trưởng, như thế nào mới có thể tăng trưởng? Đáp: Tịnh hóa. Hỏi: Tịnh hóa đến mức độ nào? Đáp: Tịnh hóa đến khi ánh sáng xuất hiện, khi ánh sáng sinh ra, nhận thức được nó, hợp nhất với nó, và trong sự nhậm vận có thể giải thoát. Hỏi: Giải thoát có phân đẳng cấp không? Đáp: Giải thoát cao cấp là hóa cầu vồng. Giải thoát trung cấp là tịnh hóa trung ấm. Giải thoát hạ cấp là đến tịnh thổ rồi tịnh hóa. Hỏi: Pháp tu trì chính là thứ tự sinh khởi và thứ tự viên mãn phải không? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Sau khi kiến đạo, Lư Sư Tôn thấy nhân gian là gì? Đáp: Là thế giới huyễn hóa không chân thực, đầy rẫy vô minh. Do đó cần có đại thiện tri thức cứu độ.
35. Điều kiện quan trọng của tu hành
Có người hỏi tôi: Lư Sư Tôn! Điều kiện quan trọng của tu hành là cái gì? Tôi nói: Cần tiếp nhận quán đảnh. Tuân thủ nghiêm ngặt giới luật samaya. Đối với kiến địa phải có lí giải chính xác. (Đây là những điều căn bản nhất.)
🌟
Tu tư lương đạo. Tu gia hành đạo. Nắm chắc khẩu quyết trọng yếu của thứ tự sinh khởi. Tu pháp Thượng sư tương ứng. Tu pháp Bổn tôn. Dưới sự gia trì của Thượng sư, dưới sự gia trì của Bổn tôn mà cảm nhận được sự hợp nhất.
🌟
Khi đã viên mãn được thứ tự sinh khởi rồi thì mới tiếp tục tu trì thứ tự viên mãn. Tu khí: cửu tiết Phật phong, kim cang tụng, bảo bình khí. Tu mạch: khí đi vào trung mạch, khí đi vào ngũ luân. Tu minh điểm: chuyết hỏa đi lên, minh điểm hạ xuống, chuyết hỏa, minh điểm, năm khí chính, năm khí phụ đi vào trung mạch trước, rồi đi vào ngũ luân, mở ra năm luân xa và luân xa đỉnh đầu. Ánh sáng xuất hiện. Nhờ ánh sáng để tịnh hóa mệnh khí của bản thân. Mệnh khí, Phật tính, trung ấm, tâm khí, thức, linh hồn... Đây đều là những danh từ đồng nhất. Điểm quan trọng là dùng ánh sáng để tịnh hóa mệnh khí.
🌟
Đốt cháy thành phần vật chất, hóa thành cầu vồng đắc giải thoát. Trung ấm dưới sự tịnh hóa của ánh sáng đắc giải thoát. Trung ấm dịch chuyển thần thức đến tịnh thổ đắc giải thoát. (Vào lúc lâm chung, phải đóng kín các cửa đầu thai vào ác đạo. Mở ra lỗ đỉnh đầu, lựa chọn cõi Thiên và Tứ thánh đạo.) Đầu thai về tịnh thổ, hoặc thừa nguyện mà lại đến, đầu thai vào hoàn cảnh hoằng pháp lợi ích chúng sinh, trở thành Rinpoche hoặc Hoạt Phật chuyển thế.
🌟
Sự tu hành này xem ra có vẻ rất đơn giản, trên thực tế cần có tín tâm. Cũng cần phải có tâm bền lâu. Phải ổn định và tăng trưởng. Ví dụ: Nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức phải dung nhập vào ý thức. Ý thức phải dung nhập vào Mạt na thức. Mạt na thức phải dung nhập vào A lại da thức. A lại da thức dung nhập vào ánh sáng.
🌟
Tín tâm kiên định không thay đổi. Ổn định. Tăng trưởng. Đây đều là những điều cần thiết.
🌟
Thế tâm khí là gì? Cái mà di động là khí. Cái mà nhận biết là tâm. Thật ra, hai cái này không phải hai, không khác biệt. Tôi viết ra như vậy là đã cố gắng hết khả năng của mình rồi. Đây là tôi nói theo kinh nghiệm của tôi.
36. Sự giác ngộ của Thượng sư Liên Lai
Thượng sư Liên Lai gửi thư đến, trong thư nói:
Sư Tôn, đệ tử có một chút giác ngộ khi đọc cuốn văn tập "Thiên hạ đệ nhất linh" của Thầy, chương thứ hai mươi hai "Lời dạy của Diêu Trì Kim Mẫu" dạy chúng sinh mật ý chân chính về sự "quên hết". Hi vọng điều này có thể khiến Sư Tôn vui vẻ yên lòng.
Chú thích: Tôi (Lư Sư Tôn) đương nhiên rất vui vẻ yên lòng. Bởi vì giác ngộ có nghĩa là có sự tăng trưởng.
🌟
Đệ tử biết, rất nhiều khi, nói vòng vo cũng là một kiểu nói thẳng, hỏi ngược lại cũng là một kiểu trả lời thẳng. Nhưng có thể vận dụng cách nói thẳng hay vòng, nói chính hay nói ngược này mà vẫn chỉ nói về một thứ thì chỉ có thể nhận thấy điều đó ở Sư Tôn. Nếu người bình thường không có đức tin thuần túy vào thành tựu viên mãn của Căn bản Thượng sư thì rất dễ bỏ sót những diễn dịch và tâm ý của Sư Tôn.
Chú thích: Phật Đà thường nói, Phật là người không nói lời sai khác, Phật là người không nói khoác, Phật là người nói lời ngay thẳng. Tôi (Lư Sư Tôn) cũng nói như vậy, nói thẳng, nói ngược, nói chính, nói vòng, đều là nói về một thứ. Điều này cũng giống như Đức Phật vậy.
🌟
Chúng sinh học Phật bình thường, dựa vào đoạn mở đầu của chương sách sẽ rất dễ bị cái gọi là sự đóng vai các nhân vật mà lẫn lộn mất tiêu điểm của mình. Bên hỏi là "không hiểu", còn bên đáp là "hiểu". Hơn nữa lại còn là Căn bản Thượng sư đối thoại với "thiên hạ đệ nhất linh". Mọi người nếu không thật sự hiểu sâu rằng Căn bản Thượng sư và Bổn tôn "thiên hạ đệ nhất linh" vốn là một thể thì sao lại có sự khác biệt giữa "hiểu" và "không hiểu" chứ?
Phật Đà cũng là cùng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trí huệ đệ nhất, thầy của Thất Phật đối thoại với nhau mà gợi ra bao nhiêu Phật pháp tuyệt vời đó sao! Sư Tôn chẳng phải cũng đang diễn hóa trò chơi như vậy sao, tự mình hỏi tự mình trả lời. Nếu như ngay cả sự khác biệt này cũng không thể nhận thấy thì còn nói gì đến sự khác biệt vi tế giữa "quên hết" và "quên mất". Các đệ tử làm sao có thể thâm nhập đây?
Chú thích: Trong sách mà tôi đã viết, có rất nhiều cuộc đối thoại giữa bản thân và bản thân, đây là một phương thức thể hiện. Phật Đà từng không hỏi mà tự nói, cũng là phương thức này. Có điều, chỉ cần chúng sinh hiểu được thì bất kì phương thức nào cũng được, chẳng phải thế sao?
🌟
Khi Sư Tôn bắt đầu nói đến một hỏi một đáp, cái mà đệ tử thấy được là trí huệ của Thầy, cũng thấy được dưới sự tương tác của Kim Mẫu và Thầy, Thầy đã thể hiện thái độ ham học hỏi, đây chính là sự giáo dục bằng hành động gương mẫu mà Sư Tôn dành cho chúng con, rằng đừng có đặt quan điểm cá nhân lên cao quá. Cho dù đã hiểu cũng cần học cách tùy duyên mà bày tỏ, học cách ẩn giấu.
Chú thích: Cái gọi là học vấn chính là đến từ việc học sinh hỏi thầy giáo. Tôi là học sinh, Kim Mẫu là thầy giáo. Cho nên việc tôi ham học cũng có sự giáo dục bằng hành động gương mẫu của sư phụ và đồ đệ. Và những gì tôi thể hiện trong sách đương nhiên không thể biểu hiện rằng học sinh cái gì cũng biết.
Từ câu hỏi thứ nhất, Sư Tôn cũng đã lo lắng cho chúng sinh, bởi vì văn tự hạn chế nên hỏi: "Lẽ nào mất trí chính là thành tựu?", thật ra Sư Tôn thật sự đã suy ngẫm rất kĩ lưỡng, câu hỏi ngược lại này thật ra chính là nói với chúng sinh rằng quên hết và mất trí không có liên quan gì với trí nhớ. Câu trả lời của Kim Mẫu tự nhiên đã là một sự chứng minh tốt nhất rồi, cũng là Sư Tôn lưu lại một câu tự mình trả lời.
Chú thích: "Quên hết" là một học vấn rất lớn, rất sâu rất rộng, hàm nghĩa của nó vô cùng siêu việt. Không phải là sự mất trí nhớ của người thế tục, mất kí ức. Phật giáo có một danh từ là "Tam luân thể không", phải suy nghĩ từ "Tam luân thể không" mới có thể biết được ý nghĩa chân thực của "Quên hết".
🌟
Trong cuốn "Đạo ca Milarepa" có đề cập đến "Quên hết", đệ tử đã đọc thấy một nhân minh rất thú vị.
"Người chứng đắc vô tri vô giác, Sẽ trải nghiệm cảm giác quên đi, Quên ngay cả ý niệm tăng giảm.”
Chú thích: Bất động. Vô sinh. Không tăng. Không giảm.
“Người chứng đắc bản tính tam thân, Sẽ quên cả thứ tự Bổn tôn, Quên ngay cả các pháp suy tưởng.”
Chú thích: Đã đến bỉ ngạn, thành tựu pháp thân, báo thân, hóa thân, thì cái bè đã trở thành vô dụng, pháp cũng vô dụng, đương nhiên là vô học, ý tưởng và Bổn tôn có thể quên hết.
“Người chứng đắc Phật quả nguyên bản, Sẽ quên cả quả vị tinh tấn Quên ngay cả các pháp thế tục.”
Chú thích: Đã là Phật. Tất cả là pháp nhĩ bản nhiên. Tự tại nhậm vận, học vô học, làm vô vi. Quên hết là tự nhiên.
“Người tu trì tai nghe Mật pháp, Sẽ quên cả khái niệm ngôn từ, Quên ngay cả mọi sự kiêu ngạo.”
Chú thích: Không có ngôn ngữ, văn tự nào có thể biểu thị. Không có khái niệm, đương nhiên cũng không có ý niệm của ngạo mạn.
“Người chứng đắc tính không vạn vật, Sẽ quên cả sách vở kinh tập Quên ngay cả mọi sự thừa thãi."
Chú thích: Tổ Sư Đạt Ma nói: bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Tổ Sư Đạt Ma nói: mọi học thuyết đều không có. Chính là như thế.
🌟
Đổi một phương trình sẽ là: "bởi vì...", "thực tướng hiển hiện", "cho nên... có thể quên rồi." "Quên hết" không phải là một loại hành vi, "quên rồi" là một loại hành vi. "Quên hết" là sự hiển thị bên trong, "quên rồi" là sự hiển thị bên ngoài. "Quên hết" là thắng nghĩa đế, "quên rồi" là quên cái thế tục đế, bởi vì từ thế tục đế chứng minh được thắng nghĩa đế, sự tồn tại của thế tục đế là không cần thiết. "Quên hết" là song vận, "quên rồi" là mây tan khói tản, tự nhiên rơi rụng.
Chú thích: Đây là cách nghĩ và lời giải thích của Thượng sư Liên Lai. Với tôi mà nói, để cho người sơ cơ đọc cũng được. Còn tôi, ngay cả phương trình cũng quên hết rồi.
🌟
Đã biết rồi, nghĩa là nên như thế (pháp nhĩ bản nhiên), ghi nhớ cũng là nên như thế, không nhớ cũng nên như thế, chuyện bình thường, chuyện thường, ai có thể nhớ được (vô tâm), đây chính là hiện tượng của "quên hết". Cảm giác có đến thì biết, cảm giác có đi thì cũng chẳng nghĩ, trong hình dạng hòa thành một khối, pháp vị nồng đượm.
Chú thích: Tôi (Lư Sư Tôn) luôn cảm thấy đời người vô cùng hư huyễn. Những gì đã qua thì không thể thấy lại, những gì hiện tại cũng không thể nắm chắc. Những gì của tương lai thì hư vô như có như không. Ghi nhớ làm cái gì? Hơn nữa, như đến như đi, dường như có đến, dường như có đi, cũng là hư huyễn. Đây chính là pháp vị của kinh Kim Cang.
🌟
Làm sao để từ tam giới chứng vô tam giới, làm sao để từ tam thân chứng vô tam thân, xem ra không bình thường, nhưng trong chốc lát thực tướng hiển hiện, có lẽ chúng sinh có thể lí giải được, Phật Đà, các lão tổ sư có nói, chúng sinh là loài điên đảo, việc mà chúng sinh cho là bình thường thì vốn dĩ không bình thường, ngược lại, việc bình thường trong con mắt chúng sinh lại là không bình thường. Biết cái gì gọi là bình thường thì có thể quên luôn việc không bình thường. Đó chính là "quên ngay cả" đằng sau mỗi đoạn thơ của lão tổ sư Milarepa.
Chú thích: Thượng sư Liên Lai viết ra đoạn này, tôi có thể hiểu ngầm được. Ông ấy nhắc đến bình thường và không bình thường. Vốn dĩ nhận thức của mỗi cá nhân là khác nhau, nhận thức của thế tục và Thánh đạo là khác nhau. Không có một cá nhân nào có thể dựa vào lập trường không thiên vị để mà phân định bình thường và không bình thường. Ý kiến cá nhân của tôi là bình thường hay không bình thường thì đều đáng quên.
🌟
Tổng kết lại tâm đắc của Thượng sư Liên Lai là: Nếu là việc vô thường, hà tất phải nghĩ chuyện quên hết. Nếu là việc bình thường thì trong đó có quên hết.
Chú thích: Lư Sư Tôn tôi thì nói: ”Dưới thông hỏi chú bé, Thầy đi hái thuốc rồi, Ở trong núi đấy thôi, Bởi mây dày khó thấy.”
37. Phác họa Phật lực
Chúng ta biết rằng Như Lai có thập lực, thập lực này là:
- Biết nơi giác ngộ.
- Biết nghiệp báo ba đời.
- Biết mọi phép tu thiền định giải thoát.
- Biết tám phép thiền định giải thoát.
- Biết mọi kiến giải.
- Biết rõ các cõi giới.
- Biết tất cả các đạo.
- Biết thiên nhãn vô ngại.
- Biết túc mệnh vô lậu.
- Biết đoạn trừ tập khí vĩnh viễn.
(Đây là Thập lực được nói đến trong "Trí Độ Luận" và "Câu Xá Luận", còn có cả "Thập Lực Kinh".)
🌟
Lư Sư Tôn tôi dùng ngôn ngữ nói để mà chú giải cho Thập lực, để mọi người dễ hiểu thêm một chút:
- Hiểu được điều cực kì khó biết, biết thông suốt mọi thứ. (Trí lực tự tại)
- Hiểu cách tự đánh giá thanh tịnh. (Thâm nghĩa tự tại)
- Hiểu đạo giải thoát. (Giải thoát tự tại)
- Hiểu đạo bồ đề. (Bồ đề tự tại)
- Hiểu tám vạn pháp. (Pháp lực tự tại)
- Hiểu thập địa của Phật. (Thập địa tự tại)
- Hiểu thanh tịnh vô cấu tất cả thông đạt. (Thanh tịnh tự tại)
- Hiểu phổ giác khắp nơi. (Vô ngại tự tại)
- Hiểu các pháp sâu rộng thù thắng tất cả các mối nhân duyên tiền định. (Vô lậu tự tại)
- Hiểu có thể loại bỏ tất cả tập tính. (Phương tiện tự tại)
(Tôi tự thấy giảng giải về thập lực của Như Lai như thế này vẫn còn rất mơ hồ, không đủ rõ ràng. Khi tất cả đến được đích đến thì cũng bắt đầu có thể biết được.)
🌟
Có người hỏi: "Phật có thập lực, thế Bồ Tát có không?" Tôi đáp: "Thập lực của Phật là dựa theo quả đức của Phật mà phân ra. Còn như Bồ Tát có hay không, có vị có, có vị không, nhưng không dựa vào điều này để mà phân tốt xấu." Người hỏi: "Quả đức là phân như thế nào?" Tôi đáp: "Nói chung, đức mà chư Phật đã viên mãn được thì không có Bồ Tát nhị thừa nào có thể làm được." (Điều này có trong "Tham Yếu Kí".)
🌟
Hỏi: "Thần biến của Phật ra sao?" Đáp: "Vô ngại." Hỏi: "Vô ngại đến phạm vi nào?" Đáp: "Tự tại nhậm vận." Hỏi: "Thế nhậm vận là gì?" Đáp: "Nhỏ mà không ở trong, to mà không ở ngoài." Hỏi: "Có phải là tám loại thần biến không?" Đáp: "Không phải tám loại thần biến, mà là thần biến vô cùng." Hỏi: "Biến nhỏ biến to, biến dài biến ngắn, có thể lúc xa lúc gần, có thể lúc nặng lúc nhẹ, có thể từ một thân biến thành nhiều thân, có thể biến đá thành vàng, có thể có hoặc không, tùy tâm muốn gì được nấy." Đáp: "Chỉ là chuyện nhỏ." Hỏi: "Còn có thể làm gì nữa?" Đáp: "Không gì là không thể."
38. Thần biến của Báo thân Phật
Có người hỏi tôi: "Thế nào là Báo thân Phật?" Tôi đáp: "Pháp thân Phật vô hình vô tướng, vì để tiện lợi độ chúng sinh nên Phật mới hiển hiện Báo thân Phật." Hỏi: "Báo thân Phật có hình tướng gì?" Đáp: "32 tướng, 80 vẻ đẹp." Hỏi: "Báo thân Phật thì ai có thể thấy được?" Đáp: "Người phàm không thể thấy được, duy có người tu Bồ Tát thập địa mới có thể thấy được." Hỏi: "Lư Sư Tôn có thấy không?" Đáp: "Thấy." Hỏi: "Dùng cách nào để thấy được Báo thân Phật?" Đáp: "Tư tưởng thuần tịnh trong sáng." (Chuyên nhất du già) Hỏi: "Sư Tôn có biết thần biến của Báo thân Phật không?" Đáp: "Biết." Hỏi: "Thần biến gì?" Đáp: "Báo thân Phật, trong cái có mà như không, trong cái không mà sinh ra có, có thân bên ngoài thân." Hỏi: "Đây chính là một thân hóa nhiều thân, nhiều thân hóa một thân sao?" Đáp: "Chính xác." Hỏi: "Báo thân Phật ăn, mặc, ở, đi lại ra sao?" Đáp: "Đây là suy nghĩ của phàm phu, nhưng ngại gì mà không trả lời." "Ăn khí." (hoặc ánh sáng) "Mặc thiên y." (sạch sẽ) "Sống trong cung điện." (thất bảo) "Tùy niệm." (trong sát-na)
Chú thích: Phương diện ăn uống, muốn cái gì thì biến hóa ra cái đó. Thiên y mặc trên người vĩnh viễn không nhiễm bẩn, rực rỡ sáng chói, màu sắc biến hóa. Nơi ở là cung điện thất bảo, còn đi lại thì chỉ trong một suy nghĩ là đến, tất cả pháp giới đều có thể đến.
Hỏi: "Báo thân Phật sống ở nơi nào?" Đáp: "Tịnh thổ."
Chú thích: Báo thân Phật của A Di Đà Phật thì ở tại cõi tịnh thổ Tây phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật. Vô lượng chư Phật đều có tịnh thổ của riêng mình.
Hỏi: "Có người nói, Phật không ở trong thân, cũng không ở ngoài thân, núi sông đại địa, nơi mặt trăng mặt trời chiếu đến, không đâu không là Phật. Tất cả pháp giới, trời đất, ánh sáng phủ khắp đại ngàn, nói như vậy có đúng không?" Đáp: "Pháp thân Phật bất khả tư nghì, đúng là như vậy." Hỏi: "Vì độ chúng sinh mà hiển hiện, cũng tức là một hóa thành hai, hai hóa thành ba, ba hóa thành vạn vật. Một là pháp thân, hai là báo thân, ba là hóa thân, đó là cơ chế của tạo hóa."
39. Tiếng lòng của lão tăng (1)
Trong cuộc đời tôi, tôi tôn kính nhất là Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu,... Vì sao vậy? Bởi vì vào năm tôi 26 tuổi, tại Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung, tôi đã gặp được Ngài. Ngài đã khai sáng cho tôi. Ngài đã ở bên tôi, đi suốt cả cuộc đời này. Ngài nói tôi là Liên Hoa Đồng Tử. Ngài nói tôi có cốt Phật. Ngài nói tôi phải độ chúng sinh.
🌟
Trong con mắt của thế nhân, Diêu Trì Kim Mẫu từng hạ giáng tại hoa sen, rồi sau đó con người phân thành:
- Vương Mẫu Nương Nương của Thánh An Cung.
- Diêu Trì Kim Mẫu của Từ Huệ Đường.
Ngài là vị thần linh tối cao của tín ngưỡng dân gian Đài Loan.
Tôi (Lư Thắng Ngạn) vốn là sinh viên tốt nghiệp khóa 32 trường Trắc Lượng (bộ Đại Học), học vị cử nhân. (Sau này trường Trắc Lượng, học viện Công trình Hải quân, học viện Công nghiệp Quốc phòng, ba trường hợp nhất, đổi tên thành Học viện Khoa học Công nghệ Trung Chính. Tôi trở thành sinh viên tốt nghiệp khóa 28.) Tôi tốt nghiệp khoa đo đạc mặt đất. Tôi làm việc trong quân đội 10 năm, phục vụ các đơn vị: Liên đội đo đạc số 5802 (3 năm). Xưởng vẽ bản đồ (7 năm). Tôi giải ngũ với quân hàm Thiếu tá, là sĩ quan đo đạc công trình. Vốn dĩ tôi là một kĩ sư, nhưng tôi lại đi trên con đường tôn giáo. Đời người có sự thay đổi lớn như vậy, thật sự khiến người ta tặc lưỡi kinh ngạc. Ngay cả chính tôi cũng không thể ngờ.
🌟
Chính là Diêu Trì Kim Mẫu đã thay đổi tôi. Thay đổi tôi học Đạo. Thay đổi tôi học Phật. Ngài bảo tôi đi thọ Bồ Tát giới. Ngài bảo tôi xuất gia. Ngài bảo tôi sáng lập Chân Phật Tông. Ngài bảo tôi di cư đến nước Mĩ. Ngài bảo tôi xây dựng Lôi Tạng Tự. Mặc dù tôi học Phật rồi, quy y Kim cương Thượng sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nhưng tôi vẫn tôn kính Diêu Trì Kim Mẫu nhất. Bất kể Ngài là Đại Thần. Bất kể Ngài là Kim Tiên. Bất kể Ngài là Ngũ Lão. (Đông Hoa Đế Quân, Diêu Trì Kim Mẫu, Hỏa Đức, Thủy Đức, Hoàng Lão.) Bất kể Ngài là Đạo gia. Bất kể Ngài là tín ngưỡng dân gian. Ngài theo tôi. Tôi theo Ngài. Liên tục cho đến già…. (Chùa, đường, hội Chân Phật Tông của tôi đều có tượng kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu.)
🌟
Tôi biết rõ rằng người học Phật, đặc biệt là người xuất gia, chỉ có thể tín ngưỡng Phật, Bồ Tát. Mật giáo thì có thêm Kim Cang, Hộ Pháp. Nhưng tôi không thể bỏ qua Diêu Trì Kim Mẫu. Bởi vì Ngài là nguồn gốc của tôi. Ngài là người mẹ cõi trời của tôi. Chính Ngài đã chỉ dẫn tôi học Phật, Ngài âm thầm giúp đỡ tôi rất nhiều, nhiều đến mức không thể tưởng tượng được. Vì thế, Ngài là nguồn gốc, là Bổn tôn căn bản của tôi.
40. Tiếng lòng của lão tăng (2)
Tôi cực kì tin vào cõi vô hình. (linh giới) Vào buổi tối cùng ngày tôi được Diêu Trì Kim Mẫu khai sáng, tôi đã du lịch khắp trên trời dưới đất. Diêu Trì Kim Mẫu nói bên tai tôi rằng: "Anh là Liên Hoa Đồng Tử!" Hoàn toàn là sự thật. Vô cùng rõ ràng. Không phải là huyễn thính, không phải là huyễn giác. Bởi vì trong cuộc đời tôi, chưa bao giờ có người nào từng nói với tôi về cái tên Thánh này. Đó không phải là ý thức ở tầng sâu hơn.
Trước năm tôi 26 tuổi, giới Phật giáo không hề có Liên Hoa Đồng Tử, giới Đạo giáo cũng không có Liên Hoa Đồng Tử. Trong khi tôi du lịch [ở đây là du lịch thần hành, nguyên thần của Sư Tôn được Diêu Trì Kim Mẫu đưa đi khắp các cõi giới], tôi tận mắt trông thấy Liên Hoa Đồng Tử. Ánh sáng trắng chói lọi. Ánh sáng tỏa khắp xung quanh. Đó chính là Liên Hoa Đồng Tử!
🌟
Vì sao tôi tin có tồn tại "Vô hình"? Bởi vì tôi đã được chỉ định cần học pháp. Khi ấy, tôi đang sống tại kí túc xá sĩ quan của liên đội trắc lượng số 5802, tôi ở một mình một phòng. Sau 12 giờ đêm. "Vô hình" đến. "Vô hình" dạy pháp cho tôi. Ngón tay của tôi có thể tự động kết thành thủ ấn đẹp đẽ. Ngoài ra, chân của tôi có thể tự động nhấc lên đặt xuống. Đi thất tinh bộ. Đi khôi cương bộ. Đi tham tinh bộ. Khởi bái đẩu bộ. Đi vũ bộ. Có một lần tôi nhấc chân hơi lâu một chút, chân bị tê, muốn hạ chân xuống để nghỉ một lát nhưng không thể hạ xuống được! Bởi vì "Vô hình" đã giữ chắc chân của tôi rồi. Trong sát-na, tôi tỉnh ngộ: "Quả nhiên đúng là có vô hình!" Tôi thật sự không lừa bạn đâu! Thế giới hiện thực này không chỉ là những gì mắt nhìn thấy được, mà còn có cả Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên, thậm chí ma quỷ linh hồn... Rất là nhiều!
Lão tăng tôi đây đã đích thân trải nghiệm qua. Một chút cũng không giả dối. Trong thế giới hiện thực này, có rất nhiều chuyện linh dị, cũng không ít con người thế nhân tin vào chúng, nhưng người không tin thực tế cũng rất nhiều. Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: "Có!" Bởi vì: "Tôi thật sự đã gặp rồi!" Tôi không nằm mơ! Tôi không huyễn giác! Tôi không huyễn thính, huyễn thị! Tôi không mắc bệnh thần kinh!
Năm xưa, liên đội trưởng liên đội trắc lượng số 5802 Trang Minh Thạch đã mời bố mẹ tôi đến, hỏi rằng: "Con trai của bác có phải thần kinh có vấn đề không?" Bố mẹ tôi nói: "Cực kì bình thường!" Tôi bảo mọi người, lão tăng Lư Thắng Ngạn tôi đến nay đã già rồi, vẫn rất bình thường đó.
41. Tiếng lòng của lão tăng (3)
Tôi tin vào nhân duyên quả báo. Tôi tin vào lục đạo luân hồi. Tôi tin rằng: Sống chết có số. Phú quý tại trời. Tôi tin vào "thiên mệnh". Diêu Trì Kim Mẫu cần tìm tôi chính vì tôi và Ngài có nhân duyên lớn. Tôi là con rể của Diêu Trì Kim Mẫu, tôi đã lấy con gái của Ngài là Vân Hoa phu nhân. Đó là nhân quả. Đó là luân hồi. Lão tăng tôi trước tiên là theo đạo Cơ Đốc, sau đó là theo Đạo giáo, cuối cùng là Phật giáo. Do nhân duyên quả báo giải quyết hết.
🌟
Phật Thích Ca Mâu Ni có kinh Bản Sinh. Trải qua bao đời tu hành, Phật Đà thành Phật cũng là nhân duyên quả báo đó! Vào thời ngài là vua Đại Uy Đức, Bảo Ý Đồng Tử, Bảo Thượng Đồng Tử đã tiếp dẫn ngài đi gặp Phật Kim Quang. Vào thời ngài là Thiện Huệ Đồng Tử, một cô gái là kiếp trước của Da Du Đà La đã trao cho ngài bảy bông hoa sen để cúng dường Phật Nhiên Đăng, mới được Phật Nhiên Đăng thọ kí là: "Sau này ngươi sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni!" Đây đều là nhân duyên quả báo.
🌟
Về lục đạo luân hồi. Tôi du lịch trên trời dưới đất, sớm đã đi khắp nơi, tôi chứng nhận rằng đích xác có lục đạo luân hồi. Kinh Bản Sinh của Phật Đà có ghi chép: Tiền kiếp của Phật có rất nhiều kiếp ở trong đạo súc sinh làm Vua Voi, Vua Hươu, Vua Khỉ, v.v… Còn nữa, trong Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh có ghi chép các loại đạo địa ngục. Chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ ghi lại rằng mẹ của Mục Kiền Liên ở trong đạo ngạ quỷ.
Mười pháp giới của Phật giáo là: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. (Tứ Thánh giới) Trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. (Lục đạo) Tôi không chỉ biết có mười pháp giới trong kinh Phật mà tôi cũng đã đích thân trải nghiệm mười pháp giới, đặc biệt là trong âm giới (giới ma). Năm tên đại ác quỷ của Quỷ Bà là Watanabe Chirou, Nakamura Kazumu, Kobayashi, Lâm Lương Tri, Hoàng Kim Tuyền, tôi đều đã gặp. Có một vài con ma tốt sống ở nhà tôi, họ sống ở trong tủ lạnh, cho rằng nhiệt độ trong đó là thích hợp. Họ sống trong cây trúc cảnh, bởi vì trúc có nhiều đốt, lại rỗng ruột, nên giống như sống trong nhà lầu. Lục đạo luân hồi là hoàn toàn có thật.
🌟
Ở đây, lão tăng tôi muốn nói với mọi người: Mọi việc ác đừng làm. Hãy làm mọi việc thiện. Tự thanh tịnh ý niệm. Đó là điều Phật dạy. Đây là tâm yếu khẩu quyết quan trọng. Hãy nhớ! Hãy nhớ!
42. Tiếng lòng của lão tăng (4)
Tôi thường nghĩ đến giá trị của đời người. Ý nghĩa của đời người là gì? Là kiếm tiền sao? Là sinh con đẻ cái, nuôi dạy con cái sao? Là tiếng tăm? Là địa vị? Là sắc đẹp? Sau đó lại nghĩ, những điều này chỉ là thứ yếu. Tiền có nhiều cũng chẳng đổi được sức khỏe. Sinh con, nuôi dạy con, con cái đều là những ẩn số chưa biết. Tiếng tăm, quá hư huyễn. Địa vị, chẳng giữ được. Sắc đẹp, thời gian cũng sẽ già. Những điều này đều chẳng phải là vĩnh hằng. Điều tôi cần là giá trị vĩnh hằng, ý nghĩa chân chính của cuộc đời.
🌟
Sau này, tôi đi trên con đường tu hành. Lão tăng khẳng định dứt khoát: "Ý nghĩa của đời người là giải thoát!" Hai chữ "giải thoát", hai chữ này có ý nghĩa vô thượng. Thoát khổ được vui. Từ bến bờ này đến bến bờ kia. Thoát li khỏi lục đạo luân hồi. Vĩnh viễn không thoái chuyển. Tự tại. Nhậm vận. Vĩnh hằng.
🌟
Thì ra, con người trên đời đều sống trong sự vô minh, không nhìn thấu nhân thế gian. Sinh mạng con người có hạn. Dốc sức cả một đời cũng chạy không thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Cho dù cả đời rất hạnh phúc. Vợ, con, tài, lộc, thọ, chẳng thiếu thứ gì. Nhưng, cuối cùng vẫn là chẳng giữ được gì! Nhà cửa vẫn còn đó, người đâu? Xe sang vẫn còn đó, người đâu? Thất trân bát bảo vẫn còn đó, người đâu? Nghĩ mà xem, nguyên thủ quốc gia trên toàn thế giới có bao nhiêu người, bạn biết được mấy người? Nghĩ mà xem, địa vị cao nhất, có giữ được không? Người giàu có nhất thế giới, có thể giàu nhất được bao lâu? Có thể đời đời kiếp kiếp không? Quá hư huyễn! Quá hư giả! Đều là bong bóng! Huống hồ thế giới này có quá nhiều điều vô thường. Trong một sát-na, bong bóng đã vỡ hết rồi! Thành, trụ, hoại, không. Sinh, vượng, tử, tuyệt.
🌟
Lão tăng đã không sống uổng cuộc đời này. Tôi biết giá trị cuộc đời và ý nghĩa cuộc đời. Tu hành. Giải thoát. Thành Phật. Điều quan trọng nhất là, bạn không còn luân hồi trong biển lớn sinh tử nữa, bạn không sinh không diệt. Việc có ý nghĩa nhất của cuộc đời đương nhiên là đại thành tựu giải thoát. Sau đó, bạn phát nguyện lại đến để độ hóa chúng sinh hữu tình gàn dở và yếu kém.
43. Tiếng lòng của lão tăng (5)
Vì tôi thông linh nên tôi đã tiến nhập được vào trong mạng lưới khổng lồ của linh giới. Tôi nhận thức được: Thiên kì bách quái. Bất khả tư nghì. Ví dụ: Thấy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng sứ trắng mà nhà hàng xóm thờ cúng vô cùng linh cảm, trong lòng tôi cũng rất khao khát có được, nên cũng đi tìm một bức tượng sứ trắng Quan Thế Âm Bồ Tát giống như thế thỉnh về nhà, khai quang và thờ cúng. Nhưng tôi phát hiện ra: hai vị không giống nhau. Tôi nhận thấy, cùng là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng mà các vị lại khác nhau.
🌟
Ở Đài Trung: Phật Thích Ca Mâu Ni ở chùa Từ Thiện. Phật Thích Ca Mâu Ni ở chùa Từ Minh. Phật Thích Ca Mâu Ni ở chùa Từ Âm. Lão tăng phát hiện ra, mặc dù cùng mang danh hiệu giống nhau, nhưng hành động và tác phong của mỗi vị mỗi khác. Cho dù trên thế giới có sáu mươi ngôi chùa Lôi Tạng Tự của Chân Phật Tông, trong mỗi ngôi chùa đều có Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật Đà trong mỗi ngôi chùa đều không giống nhau. Không giống ở chỗ nào? Hành động không giống. Tác phong không giống. Tướng mạo không giống. Thanh âm không giống. Linh lực không giống. ...
Đương nhiên cũng có sự tương đồng, bởi vì các vị đều là Phật Thích Ca Mâu Ni.
🌟
Cuối cùng tôi đã hiểu ra từ phẩm "Phân thân tập hội" trong Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh. Cuối cùng tôi đã hiểu: Pháp thân Phật. Báo thân Phật. Hóa thân Phật. Tôi đã hiểu: Tì Lô Giá Na Phật, Lô Xá Na Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật. Càng hiểu rằng: Tì Lô Giá Na Phật --- Phật Nhãn Phật Mẫu --- A Di Đà Phật --- Liên Hoa Đồng Tử --- Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.
🌟
Có một gia đình mời một pháp sư theo Quỷ Bà đến nhà họ để khai quang đàn thành. Kết quả là: Bao chuyện ồn ào không thuận. Đêm ngủ không ngon. Tôi mới đến xem. Quả nhiên trông thấy năm vị Phật Bồ Tát đẹp đẽ lại chính là năm con quỷ đang ngồi ở đó. Tôi khai quang lại từ đầu. Tất cả mọi thứ đã được giải trừ hoàn toàn rồi!
🌟
Linh giới thật sự bất khả tư nghì, giống như một câu nói của chúng ta là: "Lòng người khác nhau cũng như diện mạo khác nhau." Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng: Tâm của bạn thế nào? Phật Bồ Tát mà bạn chiêu cảm đến chính là tâm của bạn. Người khai quang cũng khác nhau! Linh giới là vô cùng khó tưởng tượng một cách bất khả tư nghì.
44. Tiếng lòng của lão tăng (6)
Rất nhiều người hiếu kì không hiểu Lư Sư Tôn nhìn thấy Phật Bồ Tát là nhìn thấy như thế nào? Tôi đáp: "Tự nhiên nhìn thấy thôi!" Ví dụ: Khi tôi giảng Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, vào ngày đầu tiên, tổ sư Tsongkhapa đã xuất hiện trong vầng ánh sáng hình tròn, gia trì cho việc giảng kinh của tôi. Còn nữa: Khi tôi giảng Đạo Quả, Virupa hiện thân gia trì cho tôi.
🌟
Kí ức sâu sắc nhất là: Ở Trung Quốc, khi tôi bay máy bay từ Bắc Kinh đến Thái Nguyên, tôi đã nhìn thấy kim thân cao trượng sáu của A Di Đà Phật, vô cùng lộng lẫy trang nghiêm. Con người tôi đứng trước A Di Đà Phật cao lớn, tôi chỉ cao tới ngón chân của Ngài, Ngài cao đến như vậy đó. Chà! Thế thì A Di Đà Phật không chỉ cao trượng sáu đâu.
Còn nữa: Khi tôi đi du lịch Hàn Quốc, tôi đã đến Gyeongju để bái lạy Phật Dược Sư cao lớn. Trên đường trở về, tôi đã nhìn thấy Phật Dược Sư, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Thập Nhị Dược Xoa Thần Tướng. Trước mắt tôi xuất hiện những vòng ánh sáng, tôi nhìn thấy hết vòng ánh sáng này đến vòng ánh sáng khác. Phật, chư Bồ Tát, mười hai Thần Tướng đều ở trong các vòng ánh sáng. Khi ấy thân tôi có bệnh, tôi lập tức biết rằng bệnh của tôi nhất định sẽ khỏi.
Còn nữa: Tại một mật viện nhỏ ở Đài Trung, tôi đã nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát. Chà, cách trang điểm của Ngài thật khiến người ta nức lòng. Đầu đội mũ hoa. Tóc dài bay bay. Thiên y váy xếp. Sáng chói rực rỡ. Lúc đầu Ngài quay lưng vào tôi, rồi từ từ quay người lại, để tôi nhìn thấy khuôn mặt của Ngài. Trời ơi! Tuyệt sắc! Toàn thân trang điểm bằng thất trân bát bảo. Trong đời này, tôi chưa từng nhìn thấy một vị Quan Thế Âm Bồ Tát trang nghiêm diễm lệ như thế. Làm sao có thể so sánh? Ngôi sao ca nhạc Hồng Kông Mai Diễm Phương hát bài "Người yêu mến thương", trang điểm toàn thân cũng chỉ bằng một phần vẻ đẹp của Ngài. Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi rằng, Ngài đã giúp tôi giải quyết một việc khó khăn của tôi rồi.
🌟
Tôi nhìn thấy Phật Bồ Tát rất nhiều lần! Phần lớn là khi tôi tập trung tinh thần. Không phải huyễn thị. Hơn phân nửa số lần là các Ngài cho tôi những gợi ý. Vậy đó là ảo giác sao? Không phải! Giống như nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát, vẻ đẹp ấy, nét tươi cười ấy, sự tế nhị ấy, trên đời khó có thể gặp được mấy lần! Một đêm trước khi tôi viết chương sách này, tôi còn nhìn thấy Kim Cang Hợi Mẫu nữa! Vô cùng chân thực.
45. Tiếng lòng của lão tăng (7)
Có người hỏi tôi về chuyện giữ giới. Tôi chỉ trả lời người đó rằng: Đối với luật tông, giới luật học, giới điều, các loại giới luật, tôi thật sự không nghiên cứu sâu. Nhưng tôi tuân thủ ba nguyên tắc: 1. Không làm điều ác. 2. Nỗ lực làm điều thiện. 3. Chỉ mong lợi ích cho người khác. Lão tăng tôi đây đương nhiên phải giữ ngũ giới, thập thiện, Bồ Tát giới, tì kheo giới,… Thế nhưng không làm việc ác, làm việc thiện, lợi ích chúng sinh là ba nguyên tắc lớn trong cuộc đời này của tôi.
🌟
Sức chịu đựng của tôi càng ngày càng mạnh. Bị vu oan, không hề gì! Bị trách oan, chỉ cười xòa! Càng khó khăn, càng nỗ lực! Đối với cuộc đời mình, những gì tôi làm sai, tôi chỉ trách bản thân, không trách người khác. Tôi cần tôn kính người khác giống như Phật Bồ Tát, bởi vì có họ thì tôi tu hành mới có thể thành tựu, thế nhân đều là thầy của tôi. Đó là tâm đắc quan trọng nhất của lão tăng tôi đây. Người công kích tôi là thầy tôi. Người cướp đoạt tôi là thầy tôi. Người đánh bại tôi là thầy tôi. Người nhục mạ tôi là thầy tôi. Người phỉ báng tôi là thầy tôi. ... Đều là thầy tôi. (Tất cả đều là sự an bài hoàn mĩ.)
Tôi không được nổi giận, tôi ghi nhớ hai bài kệ: ”Tích lũy trong nghìn kiếp Làm đủ mọi điều thiện Bao công đức có được Một cơn giận tiêu tan.”
Và: ”Tội ác chớ tức giận Việc khó chi bằng nhịn Nên hàng phục bản thân Nỗ lực tu nhẫn nhục.” (Bây giờ tôi đã coi tất cả con người trên đời đều là thầy của mình rồi.) Đạo lí này rất đơn giản: Chính vì có nhiều người nhục mạ bạn như vậy, bạn mới có thể tu hành đạt thành tựu đó.
🌟
Lão tăng chẳng còn sợ hãi điên đảo gì nữa. Bị ốm cũng tốt, để tôi tĩnh lại. Yểu thọ cũng tốt, khi ấy tất cả thật sự đã dừng lại rồi. (tịch tĩnh) Cô quạnh cũng tốt, không có đòi hỏi gì. Phỉ báng cũng tốt, được dịp nhẫn nhục. Hiểu nhầm cũng tốt, được dịp gánh nghiệp của chúng sinh. Niết bàn cũng tốt, không còn nhân sinh, không còn quả tử. Luân hồi cũng tốt, đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh...
Bây giờ tôi hiểu: Không sợ hãi. Không điên đảo. Không vọng tưởng.
46. Tiếng lòng của lão tăng (8)
Cuộc đời này của tôi, tôi muốn nói nhất là hai chữ: "Cảm ơn!" Bậc cha chú thân thích của tôi, bố tôi Lư Nhĩ Thuận, mẹ tôi Lư Ngọc Nữ. Họ đối với tôi có ơn dưỡng dục. Nhà tôi có sáu người con, tôi là con trưởng. Thứ tự là: Lư Thắng Ngạn, Lư Thắng Mĩ, Lư Ngọc Ý, Lư Quắc Anh, Lư Nghê Anh, Lư Chiêu Dung. Đó là tình cảm anh chị em (giúp đỡ lẫn nhau), tôi cũng cảm ơn. Tôi cũng cảm ơn chị họ của tôi Lư Ái Tử. (Hồi nhỏ chị chăm sóc tôi rất nhiều.) Tôi cảm ơn dì Hoàng Tuyết Hoa của tôi. (Hồi nhỏ dì chăm sóc tôi rất nhiều.) ...
🌟
Tôi cảm ơn những người thầy của tôi: Tiểu học --- Trường tiểu học Đại Đồng ở Cao Hùng. (Hiệu trưởng Lí Tồn Kính.) Cấp hai --- Trường Cao Thị Nhị Trung. (Hiệu trưởng Lâm Thủ Bàn.) Cấp ba --- Trường cấp ba Công Nghiệp Cao Hùng. (Hiệu trưởng Đường Trí.) Đại học --- Trường Trắc Lượng. (Hiệu trưởng Doãn Chung Kì.) Các giáo viên chủ nhiệm lớp của tôi rất nhiều, tôi không liệt kê tên từng người, họ đối với đứa học sinh kém cỏi ương ngạnh là tôi đây rất ân cần dìu dắt. Tôi cảm ơn lại cảm ơn. Còn có rất nhiều bạn cùng lớp, bạn lớp trên, bạn lớp dưới, trong lòng tôi thường xuyên nhớ đến họ... Hoàng Kim Hùng. Trang Chính Hòa. Tuyết Hồng. (Mọi người đang ở đâu? Những người tri kỉ của tôi.) Bạn thân một nửa đã rơi rụng rồi! Đúng thế! Bạn thân một nửa đã rơi rụng rồi!
🌟
Những người thầy Phật pháp của tôi, trong lòng tôi chất chứa lòng cảm kích! Ba vị thầy Hiển giáo: Đạo sư Ấn Thuận. (Thầy Tam Luận Tông) Pháp sư Đạo An. (Trung Phật hội) Pháp sư Lạc Quả. (Lục kim cang) Ba vị thầy thọ Bồ Tát giới: Pháp sư Huệ Tam. Pháp sư Hiền Đốn. Pháp sư Giác Quang. Bốn vị thầy Mật giáo: Liễu Minh Hòa Thượng. Sakya Chứng Không Thượng sư. Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16. Thubten Dhargye Thượng sư. Và: trưởng lão Ngộ Minh, pháp sư Chấn Quang, pháp sư Thánh Ấn, thiền sư Như Học, pháp sư Thiện Tứ, thượng sư Phổ Phương, cư sĩ Lí Bỉnh Nam... Thượng sư Liên Hương. Họ đã giúp tôi rất nhiều.
🌟
Tôi còn muốn cảm ơn năm triệu đệ tử của tôi, họ cúng dường tôi, giúp tôi không còn nỗi lo những ngày sau này. Cuộc sống không thiếu thốn. Tôi đương nhiên cần báo đáp: Ơn Phật. Ơn pháp. Ơn tăng. Ơn thầy. Ơn trời đất. Ơn chúng sinh. Những điều này làm sao báo đáp? Có thể báo đáp được hết không? Chỉ có thành tựu Phật quả, đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh!
47. Tôi không đến cuộc đời này uổng phí - Trần Truyền Phương
Năm 1989, tôi quy y. Tôi là một đệ tử sinh ra tại Tứ Xuyên, Trung Quốc, nhưng lớn lên tại một làng quê do quân đội quản lí ở miền nam Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp ngành y tá, tôi làm việc trong phòng phẫu thuật tại bệnh viện Hoành Ân ở Đài Bắc khoảng hai năm.
Tháng 5 năm 1972 tôi đến miền đông nước Mĩ, sống tại bang Maryland. Bởi có thân phận y tá nên tôi rất nhanh chóng có được thẻ xanh.
Năm 1976 tôi chuyển đến miền nam California, làm việc tại bệnh viện Pioneer hạt Los Angeles. Tôi nỗ lực làm việc chăm chỉ, biểu hiện xuất sắc khiến tôi nhanh chóng được thăng chức y tá trưởng của phòng phẫu thuật. Tôi có một đứa con gái, chồng tôi là chuyên gia kế toán, thu nhập của hai vợ chồng tôi rất tốt cho một gia đình ba người sinh sống tại Mĩ. Tính cách của tôi thoải mái, thích đem niềm vui đến cho người khác, cũng vì thế, tôi có những nhân duyên rất tốt. Trong bệnh viện này, tôi rất được đồng nghiệp yêu mến, bệnh nhân cũng thích tôi, bởi sự chăm sóc chu đáo của tôi khiến họ cảm thấy ấm áp. Các bác sĩ lại càng coi trọng tôi, họ khen ngợi tôi phối hợp hoàn hảo với họ về chuyên môn, khiến họ trong quá trình tiến hành phẫu thuật mọi việc đều luôn như ý. Công việc như ý, gia đình vui vẻ, tôi luôn cho rằng mình là một người có phúc, từ trước tới nay chưa từng nghĩ mình cần theo bất kì tín ngưỡng tôn giáo nào.
Tôi tuyệt đối không thể ngờ, tháng 7 năm 1988, người chị của tôi sống tại Maryland bất ngờ bị người ta mưu sát. Đối diện với tin dữ về tai họa đột ngột này, thế giới của tôi bỗng chốc hoàn toàn đổi sắc, sự đau buồn gần như nhấn chìm tôi. Nhưng dù vô vàn đau đớn, tôi vẫn phải kiềm chế nỗi thống khổ trong lòng, một mình bay đến Maryland để thu xếp hậu sự. Ngoài an ủi người mẹ già đang sợ hãi, tôi còn phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc hai cháu ngoại trong gia đình đơn thân. Sau khi trở về California, tôi đã đăng kí trường học cho các cháu, sau khi thu xếp mọi thứ ổn thỏa, tôi lại bay về miền đông nhiều lần để chuẩn bị cho các thủ tục ra tòa sau vụ án mạng.
Năm 1989, được người bạn thân là sư tỉ Mã Phụng Lan giới thiệu, tôi đã đến chào Liên Sinh Hoạt Phật từ Seattle đến Los Angeles hoằng pháp, rồi quy y ngay sau đó. Khi tôi mới gặp Sư Tôn, sự ân cần của Sư Tôn khiến tôi cảm động đến mức nước mắt đầm đìa, Sư Tôn vô cùng từ bi. Sau khi chăm chú nghe điều thỉnh cầu của tôi, Sư Tôn đã gia trì cho tôi rất nhiều. Khi ấy tôi cầu xin vụ kiện thắng lợi, thuận lợi bán được ngôi nhà không may mắn, tôi còn rập đầu thỉnh Sư Tôn siêu độ cho chị tôi. Kết quả là nghi phạm vẫn bị kết án giết người cấp độ một dù không tìm thấy hung khí giết người và xác chết. Hung trạch sau khi dán phù chú mà Sư Tôn ban cho, chỉ trong vòng một tuần thì thủ tục mua bán đã xong xuôi như một kì tích. Còn chị tôi cũng nhờ Phật quang che chở mà được siêu thăng đến cảnh giới tốt đẹp.
Cuộc đời tất cả thật sự như mộng như huyễn, giống như người chị xinh đẹp của tôi. Chị ấy có hai đứa con gái thông minh, cũng có nhà cao cửa rộng, xe sang, tiền bạc châu báu, nhưng khi vô thường xảy đến, khi còn ở những năm tháng đẹp đẽ nhất của tuổi 42, chị tôi đột ngột biến mất khỏi nhân gian, những thứ vốn có chẳng thể đem theo được cái gì.
Công việc bận rộn, trong nhà lại tăng thêm nhân khẩu, nếu như dừng bước và quay đầu nhìn lại con đường mà tôi đã đi qua, sự vất vả cực nhọc ấy một lời khó mà nói cho hết. Sau khi quy y Sư Tôn, tôi ngày ngày đọc kinh niệm chú, ngoài việc chuyên tâm tu pháp, tôi cũng cố gắng hết sức dành thời gian đọc những cuốn sách của Sư Tôn. Trong sách của Sư Tôn có những ẩn chứa về sinh mệnh, những điều ấy làm phong phú thêm cuộc sống của tôi, cũng khiến tôi có nhiều hiểu biết và nắm bắt trí huệ. Sư Tôn từng nói, mỗi ngày tu pháp, khi nhập thiền định sẽ có dòng chảy pháp từ vũ trụ gia trì cho bạn, sẽ có lực gia trì của Phật Bồ Tát, Căn bản Thượng sư và các tổ sư bao đời gia trì cho bạn. Chỉ cần mỗi ngày thực tu Chân Phật Mật Pháp thì pháp lưu quán đảnh và lực gia trì của Căn bản Thượng sư sẽ vĩnh viễn không hết. Tôi rất biết ơn, lúc nào tôi cũng cảm nhận thấy lực gia trì của Sư Tôn! Những năm nay, tôi từng mắc bệnh mắt đỏ và bệnh đau buốt đầu gối, cũng nhờ có sự gia trì của Sư Tôn mà đã chữa khỏi rồi.
Tám năm trước, mẹ tôi tuổi tác khi ấy đã 96 tuổi, đã được Sư Tôn tiếp dẫn mà vãng sinh tịnh thổ. Hai đứa con gái của chị tôi bây giờ đều đã được giáo dục trở thành kiến trúc sư và luật sư đầy triển vọng, mỗi đứa cũng đều có gia đình mĩ mãn. Sau khi quy y Sư Tôn, tôi thật sự cảm thấy tất cả đều suôn sẻ, mọi sự đều viên mãn.
26 năm qua, hễ có cơ hội là tôi lại bay đến chùa tổ Seattle để nhận sự gia trì của Căn bản Thượng sư. Mỗi lần nhìn thấy hàng dài tín chúng hỏi chuyện, và Sư Tôn từ bi viên mãn ước nguyện của chúng sinh, trong lòng tôi không ngớt cảm động, thế là tôi thường cúng dường Sư Tôn truyện tiếu lâm để làm giảm nhẹ những vất vả của chúng sinh. Mỗi lần thấy Sư Tôn thoải mái cười vang chính là thời khắc tôi vui nhất. Tôi cho rằng Sư Tôn nghe xong truyện cười, nghe xong, cười xong là thôi, không ngờ không bao lâu sau, Sư Tôn đã vận dụng truyện cười vào việc khai thị. Những mẩu truyện cười đó qua sự giải thích của Sư Tôn, không ngờ đã trở thành những thiền cơ đâu đâu cũng tràn đầy pháp vị. Điều này trong quan điểm của tôi thật sự là quá mức tưởng tượng.
Kể từ năm 1995, tôi đã có nhiều lần được duyên may có thể cùng Sư Tôn, Sư Mẫu đi du lịch nước ngoài. Trong mỗi chuyến du lịch, những gặt hái khiến chúng tôi cảm thấy vui vẻ nhất là Sư Tôn mọi lúc mọi nơi đều khai thị. Và trên đường đi, Sư Tôn cũng tự nhiên thể hiện sự giáo dục bằng hành động gương mẫu của mình để mọi người được hưởng thụ bất tận những bài học. Ví dụ: bất kể là lịch trình du lịch ngày hôm đó kín đến đâu, Sư Tôn vẫn nhất định dậy sớm để làm xong công khóa tu trì mà mỗi ngày Sư Tôn nhất định phải làm. Khi đến giờ hẹn tập hợp của hướng dẫn viên du lịch, Sư Tôn tuyệt đối không đến muộn, hơn nữa luôn luôn là người đến sớm nhất. Mỗi khi lên xe du lịch, luôn có đệ tử mời Sư Tôn ngả ghế ngồi về phía sau để thân thể được thoải mái hơn một chút, nhưng vì lo ngại người ngồi sau không được dễ chịu, nên bất kể là chuyến đi bao xa, Sư Tôn vẫn luôn giữ ghế ngồi thẳng.
Tháng 5 năm 2006, tôi cùng Sư Tôn, Sư Mẫu đi du lịch châu Âu. Vào hôm chúng tôi đi đến đấu trường La Mã ở Italy, lúc đầu bên ngoài trời rõ ràng đang nắng ráo xanh trong, ai ngờ vừa xuống xe thì có một đợt gió lạnh cuốn bay cát mù mịt thổi táp vào mặt. Lúc này chỉ thấy Sư Tôn lầm rầm niệm mấy từ, sau đó chúng tôi mới biết rằng lúc nãy có một đám vong hồn đến để cầu xin siêu độ. Nghĩ đến những âm hồn đã chờ đợi suốt cả nghìn năm mới chờ được một Thánh giả khai ngộ đến, Thánh giả dùng đại pháp lực thì họ mới được siêu độ lên cõi trời. Tôi cảm thấy phúc phận của họ thật lớn.
Tôi từng nghe Sư Tôn hát bài "Ánh dương và mưa nhỏ" không chỉ một lần, lời ca và tiếng hát đẹp đẽ lúc nào cũng khiến lòng tôi xúc động sâu sắc, khiến tôi cảm động rớt nước mắt. Bởi vì bài hát này luôn khiến tôi liên tưởng đến sự từ bi chúng sinh và sự cống hiến dốc hết ruột gan của Sư Tôn. Tình yêu dành cho chúng sinh của Sư Tôn cũng giống như ánh mặt trời, có thể tỏa ra vô lượng ánh sáng, hiển hóa thần thông, hóa giải tai ách kiếp nạn của nhân gian. Tình yêu dành cho chúng sinh của Sư Tôn cũng giống như mưa nhỏ, bởi vì Sư Tôn viết sách truyền pháp chưa từng ngơi nghỉ, giống như trong nhân gian hỗn độn mờ mịt này, mưa pháp cam lộ trân quý không ngừng rơi rắc khắp nơi.
Từ khi tôi quy y đến nay đã 26 năm rồi, thời gian trôi qua vùn vụt, trong lòng tôi vẫn luôn cảm ơn vì tôi đã có duyên làm đệ tử của Sư Tôn. Vô hình trung tôi đã học được quá nhiều, quá nhiều. Sư Tôn nói, mỗi người đều có Phật tính, hành giả chúng ta cần phải thu về cái tâm mong cầu hướng ra bên ngoài, tương ứng với tâm của Như Lai, chỉ cần tu đến khi tâm quang hiển lộ ra ngoài thì có thể đánh thức Chân Phật vốn có của chính mình. Người Chân Phật là nói đến vị Phật chân chính của bản thân mỗi người, đây chính là ý nghĩa gốc của Chân Phật Tông.
Sư Tôn dạy chúng sinh thanh tịnh nội tại, chuyển hóa dục vọng, giảm bớt ngu si, loại bỏ chấp ngã. Sư Tôn cũng dạy chúng sinh làm sao để nhờ tu hành mà giải trừ nghiệp lực, cắt đứt phiền não. Sư Tôn hi vọng tất cả chúng sinh đều có thể đắc giải thoát chân chính, đó chính là tâm nguyện từ bi vô thượng của Sư Tôn! Tôi rất thích kể về tấm lòng từ bi và những câu chuyện thần thông của Sư Tôn với bạn bè thân thiết của mình, mỗi lần tôi ca ngợi Thầy, tôi luôn không thể quên nói một câu nói xuất phát từ đáy lòng mình rằng: "Một người thầy như vậy có thể tìm được ở đâu?"
Giờ đây, Sư Tôn đã được hơn năm triệu đệ tử toàn cầu tôn sùng và đi theo. Thân người khó có được nay đã có, minh sư khó gặp nay đã gặp, trong sự biết ơn vô tận, tôi sâu sắc cảm thấy trong đời này, tôi có thể có duyên được nương dựa vào một sư phụ có chứng lượng như Liên Sinh Hoạt Phật, thế là tôi đã đến cuộc đời này không hề uổng phí rồi.
48. Thư của Liên Ha
Sư Tôn, Sư Mẫu muôn vàn kính yêu!
Phật an! Ngu đệ tử Liên Ha nhất tâm đảnh lễ và xin lấy thân khẩu ý thanh tịnh cúng dường Sư Phật Sư Mẫu! Kính chúc Sư Mẫu sinh nhật vui vẻ, khỏe mạnh trường thọ, mãi mãi xinh đẹp, cát tường an khang!
Chủ nhật tuần trước là ngày mà các đệ tử Chân Phật Tông trên toàn thế giới mừng vui rớt nước mắt, cũng là ngày mà tất cả trời người của thập phương pháp giới đều chào mừng, bởi vì Sư Phật từ bi đã đồng ý ở lại! Khi âm thanh xúc động lòng người của người dẫn chương trình vang lên, khi nghi thức thỉnh Phật trụ thế bắt đầu, vô số đệ tử Chân Phật Tông đã rơi nước mắt khi ngồi trước màn hình ti vi. Chúng con đã cùng nghẹn ngào hát vang: "Xin hãy ở lại, hãy ở lại Con tin rằng có nhân duyên, thay đổi số mệnh này Xin hãy ở lại, hãy ở lại Trăm đắng nghìn cay tương phùng, gặp rồi sao mà vội vã Xin hãy ở lại, hãy ở lại Kéo dài truyền kì, tạo nên kì tích."
Và khi Sư Phật tiếp nhận lời thỉnh cầu của các đệ tử, ưng thuận tiếp tục ở lại để thuyết pháp độ chúng sinh, chúng con đều không kìm nén nổi sự mừng rỡ đến rớt nước mắt. Tin rằng Sư Phật chắc chắn có thể nghe được những tiếng reo hò của các đệ tử Chân Phật được truyền đi từ khắp các ngóc ngách trên toàn thế giới.
Một tuần trước, trong lúc khai thị Sư Phật có nhắc đến thọ mệnh, trong lòng đệ tử nặng trĩu nỗi đau buồn, bởi vì Sư Phật... Thầy là núi Tu Di của thế giới Ta Bà. Thầy là nơi nương náu của tất cả chúng sinh chúng con. Hình bóng của thầy là sự quyến luyến trong chốn hồng trần của chúng con. Nụ cười rạng rỡ của thầy là niềm an ủi trong cuộc đời mệt mỏi của chúng con. Các bài thuyết pháp hàng tuần của thầy tưới đẫm nội tâm khô cạn của chúng con. Dòng chảy pháp gia trì của thầy là cội nguồn của sự tiến bộ của tất cả hành giả Chân Phật. Thầy trụ thế quan trọng giống như ánh mặt trời đối với nhân loại. Và mỗi lần gặp mặt thầy chính là niềm mong mỏi đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chúng con.
Vì thế, Sư Phật kính yêu nhất, cảm ơn thầy đã vì chúng sinh mà ở lại, các đệ tử nhất định sẽ càng nỗ lực hơn, không chỉ nỗ lực tinh tấn tu trì mà càng phải nỗ lực làm sự nghiệp bồ đề của Chân Phật Tông. Trước mắt, Đại Học Chân Phật Online đã phát triển mạnh mẽ. Sau khi ra mắt chương trình môn học đầu tiên, mọi người đã hưởng ứng nồng nhiệt, mỗi phòng học đều có hơn năm trăm người cùng học tại phòng học đám mây, hơn hai nghìn người đã nhấn vào để học sau giờ học, hơn nữa mọi người còn vô cùng vui vẻ giao lưu tương tác, bầu không khí rất sôi nổi. Đồng thời, chúng con được các pháp sư, giảng sư, trợ giảng tổ chức thành các nhóm hướng dẫn để làm công tác phụ đạo cho các học viên. Mỗi khi các học viên có thắc mắc, các phụ đạo viên lại kiểm tra từ khai thị và sách của Sư Phật, hoàn toàn căn cứ theo lời dạy của Sư Phật để giải đáp cho mọi người. Đồng thời, mười vị thượng sư đã thành lập một nhóm hướng dẫn để xem xét bài tập của học viên và bình luận các bài làm xuất sắc.
Cứ thế đến nay, lớp học đám mây của Đại học Chân Phật Online đã trở thành nơi để mọi người cùng trưởng thành, bất luận là thượng sư, pháp sư, giảng sư, trợ giảng hay là đồng môn Chân Phật đều không ngừng trưởng thành tại đây. Mọi người đều nói thật sự nhìn thấy sự tiến bộ của bản thân! Có đồng môn nói, thông qua lớp học đám mây, họ cảm thấy càng gần Sư Phật hơn. Đệ tử thấy vậy thì vô cùng hoan hỉ, bởi vì tất cả những gì chúng ta làm chính là vì mọi người mà xây nên cầu nối giữa chúng sinh và Căn bản Thượng sư.
Rất nhiều đồng môn mỗi tiết học đều chăm chỉ cầm bút ghi chép lại. Vào thời đại máy tính và ipad thịnh hành này, không ngờ mọi người vẫn còn nghiêm túc dùng bút và giấy để viết lại những ghi chép của mỗi buổi học, điều này thật khiến người ta cảm động. Còn có rất nhiều đồng môn tương đối lớn tuổi nói, trong đời này chúng tôi đều chưa từng học đại học, thật sự là một điều rất nuối tiếc, bây giờ thì tốt rồi, Chân Phật Tông chúng ta đã có trường đại học của riêng mình, chúng tôi nhất định sẽ đi học trường đại học này để hoàn thành nguyện vọng cả đời. Trong trường Đại học Online này, học viên trẻ tuổi nhất mới chỉ có mười mấy tuổi (các cháu đặc biệt thỉnh cầu cho phép được học Đại học Chân Phật), người cao tuổi thì có người tám mươi mấy tuổi, mọi người cổ vũ lẫn nhau, khích lệ lẫn nhau, cùng dắt tay nhau tiến bộ trưởng thành, thật sự khiến người ta cảm thán! Họ đều là các thánh đệ tử của Chân Phật, cũng là bạn cùng học Đại học Chân Phật! Đệ tử rất hân hạnh trở thành bạn học của họ, cùng học tập và tiến bộ. Đệ tử thường nói với mọi người rằng chúng ta đều là bạn học, người thầy duy nhất của Đại học Chân Phật chúng ta chính là Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật.
Sư Phật kính yêu nhất, đệ tử mặc dù vì việc lên lớp mà vô cùng bận rộn vất vả, nhưng đệ tử vẫn có thể kiên trì mỗi ngày viết một bài nhật kí tâm đắc, hiện tại đang viết những tâm đắc của đệ tử khi đọc cuốn sách mới nhất "Thiên hạ đệ nhất linh" của Sư Phật và chia sẻ cùng mọi người. Như vậy bản thân đệ tử không chỉ dụng tâm đọc kĩ lưỡng, thâm nhập để lĩnh ngộ, mà đồng thời cũng lôi kéo được đồng môn cùng đọc sách quý của Sư Phật, cùng thảo luận, cùng thâm nhập.
Đương nhiên đệ tử vẫn tinh tấn nhất là thực tu mỗi ngày như thường lệ, từ việc sáng sớm nhổ và nạp dịch họng, kim cang tụng, bảo bình khí, đến pháp khói cúng, mỗi ngày ba, bốn lần tọa pháp, rồi cả miên quang pháp, ngày ngày đều tu không gián đoạn. Hiện tại đệ tử đang dẫn dắt đồng môn chuyên tu Căn bản Thượng sư tương ứng pháp, hoàn thành tám triệu biến tâm chú của Sư Tôn. Về phương diện Nội pháp, bảo bình khí cảm giác khí đi vào trung mạch càng ngày càng mạnh, pháp chuyết hỏa dựa vào quán tưởng và hợp nhất với Không Hành Mẫu, khí hỏa tuần hoàn và tăng cường. Sau đó minh điểm hạ xuống và tiến nhập vào chuyết hỏa định tinh tế. Về phương diện thiền định, đệ tử y theo lời dạy của Sư Phật tu Kriya yoga, cuối cùng dựa vào chỉ-quán song vận mà nhập định, vẫn thường xuyên cảm nhận được đại nhật quang minh ở hư không trên đỉnh đầu chiếu khắp thập phương chúng sinh.
Sư Phật kính yêu, đệ tử một lần nữa cảm ơn Sư Phật đã không bỏ rơi chúng sinh, bằng lòng ở lại hoằng pháp độ chúng sinh, núi Tu Di của thế giới Ta Bà lại một lần nữa đứng sừng sững vững vàng rồi, mặt trời lại một lần nữa an trụ chiếu khắp muôn nơi rồi, thật sự là may mắn của chúng sinh. Đệ tử chân thành cầu chúc Phật thể an khang, trường thọ tự tại, trường cửu trụ thế, hằng chuyển pháp luân! Cũng cầu thỉnh Sư Phật gia trì cho đệ tử tu hành tiến bộ thành tựu, nhất vị du già thành tựu, khí mạch điểm thành tựu, chỉ-quán song vận thành tựu, và Kriya yoga thiền định thành tựu, thân thể khỏe mạnh, sớm đến ngày đắc chứng lượng, sự nghiệp bồ đề viên mãn thành tựu!
Kính thư, Ngu đệ tử Liên Ha kính lễ. Sao Paulo, Brazil, ngày 10 tháng 3 năm 2021.
49. Cảm ứng về Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang
A Di Đà Phật! Sư Tôn Sư Mẫu kính yêu nhất, Phật an!
Đệ tử là Liên Hoa Lị Trấn và Liên Hoa Tử Minh (con trai) đến từ Malaysia. Đệ tử nhất tâm đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật, đệ tử xin lấy thân khẩu ý thanh tịnh cúng dường Sư Tôn Sư Mẫu.
- Đầu tiên, đệ tử Liên Hoa Lị Trấn muôn phần cảm ơn sức mạnh đại gia trì của Sư Tôn vào ngày 14 tháng 3 năm 2021, trong pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, Sư Tôn đã từ bi đại gia trì cho đại chúng trong năm phút. Khi ấy đệ tử và con trai (Liên Hoa Tử Minh) cũng ở trong phòng đám mây ZOOM tham gia pháp hội. Dưới sức mạnh đại gia trì của Sư Tôn, đệ tử (Liên Hoa Lị Trấn) dùng tay đặt vào chỗ ở trên đầu nơi đã bị bệnh đau nửa đầu mấy năm nay, và cả chỗ xương chậu vùng hông thường xuyên bị đau nhức, thậm chí nơi mắt và bả vai bị đau nhức, đệ tử đều quán tưởng khí đen từ các lỗ chân lông thoát ra bên ngoài cơ thể, khi ấy đệ tử (Liên Hoa Lị Trấn) cảm giác thấy có một dòng chảy năng lượng ấm áp đi vào trong cơ thể. Dưới sức mạnh đại gia trì của Sư Tôn trong pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang hôm đó, bệnh tật mấy năm nay của đệ tử đã hoàn toàn biến mất.
- Ngoài ra, đệ tử cũng chia sẻ cùng Sư Tôn, vào ngày 20 tháng 3 năm 2021, đệ tử và con trai hôm ấy đã đến Tổng hội Bát Nhã Lôi Tạng Tự Malaysia để cúng bái tổ tiên và người thân, sau đó trên đường cao tốc trở về nhà, lúc ấy rất nhiều xe đang nối dài trên đường, khoảng cách giữa các xe tương đối gần, không khác gì tắc đường. Đột ngột phía sau có chiếc xe tăng tốc độ muốn vượt qua xe của đệ tử. Chỉ trong tích tắc khi chiếc xe vượt qua xe của đệ tử đã hơi quẹt vào xe của đệ tử và trong nháy mắt đã xảy ra tai nạn rồi. Binh! Binh! Binh! Trước mắt chúng con là hai chiếc xe đâm vào nhau, một chiếc xe trong đó đã xoay 180 độ, cuối cùng chiếc xe hỏng đã dừng ở giữa đường. Khi ấy hai chúng con nhìn thấy cảnh tượng này đã vô cùng sợ hãi, trong lúc nguy cấp con lập tức niệm: A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! Ba tiếng, con trai lập tức đạp phanh xe, xe của đệ tử vẫn còn kịp dừng lại không đâm về phía trước, các xe phía sau cũng không đâm vào xe chúng con. Sau đó, hai đệ tử chúng con xuống xe kiểm tra xe thấy vẫn tốt, không đâm vào đâu. Lúc ấy, hai đệ tử chúng con vô cùng cảm ơn sức mạnh gia trì của Sư Tôn và chư Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp, Kim Cang Thần chúng đã giúp hai đệ tử chúng con giữ được tính mạng, nếu không hậu quả thật không thể tưởng tượng được. Sau sự việc đó, đệ tử nói với con trai rằng Phật pháp là bất khả tư nghì, Phật có mặt ở khắp nơi, chúng ta có thể quy y Sư Tôn là phúc báo lớn nhất của các đệ tử. Nhân đây, hai đệ tử chúng con xin thề trước Sư Tôn, thề theo lời nguyện mà Căn bản Truyền thừa Thượng sư đã thề, nguyện đi theo con đường mà Căn bản Truyền thừa Thượng sư đã đi, yêu thương những chúng sinh mà Căn bản Truyền thừa Thượng sư yêu thương.
Thỉnh cầu Thượng sư gia trì, Bổn tôn che chở, Hộ pháp ủng hộ, gia trì cho các đệ tử tu pháp sớm được tương ứng với Căn bản Truyền thừa Thượng sư, tu hành thành tựu, có thể độ mình độ người. Thỉnh cầu Thượng sư gia trì cho đệ tử, để đệ tử lúc nguy cấp được cứu trợ, để đệ tử lúc lâm chung có Thượng sư, Bổn tôn, Không hành tiếp dẫn đến Phật quốc tịnh thổ.
Nhân đây, đệ tử cầu mong Sư Tôn Sư Mẫu Phật thể an khang, trường thọ tự tại, trường trụ thế gian, vĩnh chuyển pháp luân, quảng độ chúng sinh. Om guru liansheng siddhi hum.
Đệ tử Liên Hoa Lị Trấn và Liên Hoa Tử Minh (chắp tay đảnh lễ). Ngày 23 tháng 3 năm 2021.
🌟
Đảnh lễ Sư Tôn. Cầu chúc Sư Tôn Phật an. Báo cáo Sư Tôn, đệ tử bị mắc chứng bệnh phụ khoa u nang nhiễm khuẩn suốt mười mấy năm nay không chữa khỏi, khám tây y đông y đều vô hiệu. Vào ngày pháp hội, khi Sư Tôn bắt đầu gia trì cho các đệ tử có mặt tại hội trường và các đệ tử xem qua mạng, đệ tử cảm thấy mạch trái của mình và phần bụng bên trái có cảm giác hơi tê, sau đó có cảm giác chỗ bị tắc ở bụng bên trái có hơi thông một chút. Sau đó đệ tử đi kiểm tra, phát hiện thấy u nang đã thu nhỏ lại một chút rồi. Hi vọng u nang có thể hoàn toàn biến mất. Cảm ơn Sư Tôn từ bi chữa bệnh cho chúng sinh.
Đệ tử Liên Hoa Mĩ Trân ở Brunei cúi lạy.
🌟
Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật!
Ngày 14 tháng 3, đệ tử Liên Hoa Ngọc Quốc đã đăng kí vào ZOOM, bởi vì lần đầu tiên không biết thao tác thế nào nên khi đăng nhập vào được thì đã muộn rồi, chỉ đăng nhập một lúc thì đã offline rồi. Sau đó nghe được chú ngữ Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, gần đây đệ tử luôn phải uống thuốc chữa bệnh đau dạ dày, đã uống thuốc nhiều nhưng không có hiệu quả gì, sau khi nghe chú âm chữa bệnh thì bệnh đau dạ dày ngày hôm sau đã khỏi rồi.
Ngày 14 tháng 3, mặc dù chưa đăng nhập thuận lợi, buổi đêm có giấc mơ khích lệ, nhưng ngày 21 tháng 3 có pháp hội Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử kỉ niệm 35 năm Sư Tôn xuất gia, đệ tử đã đăng nhập vào ZOOM thuận lợi và ở trên mạng toàn bộ quá trình diễn ra pháp hội. Cảm ơn Căn bản Truyền thừa Thượng sư đã chữa bệnh, gia trì và cổ vũ! Đệ tử Liên Hoa Ngọc Quốc ở Thụy Điển đảnh lễ! Ngày 25 tháng 3 năm 2021.
🌟
Trung tuần tháng 2 năm 2021, vào đêm Giao Thừa âm lịch, vì mắt trái của đệ tử nhìn không rõ nên có kích thích phản xạ tiết ra nước mắt, vì thế thường xuyên bị chảy nước mắt. Tình trạng bị chảy nước mắt đã kéo dài hơn một tháng rồi, sau đó mắt phải cũng dần dần có tình trạng tương tự như mắt trái, thời gian qua cũng bị bạn bè và đồng môn hỏi là có phải vừa mới khóc không.
Trong pháp hội Hộ Ma lần trước, Sư Tôn đã khai thị đề cập rằng: bất kể là đồng môn có mặt tại hội trường, hoặc đang ở trên ZOOM, hoặc người đang theo dõi qua mạng đều có thể nhận được sự gia trì của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang và kì tích cũng sẽ hiển hiện. Thế nên, đệ tử rất mong đợi ngày pháp hội phát trực tiếp trên mạng. Khi chú âm của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang vang lên, mắt nhìn thấy Sư Tôn ngồi trên pháp tọa cầm phất trần ban gia trì, đệ tử đặt tay phải vào hai mắt, tay trái đặt trước ngực, không quán tưởng đặc biệt gì, chỉ là tĩnh tâm lại niệm thầm theo chú âm uy mãnh của tâm chú Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang.
Kì tích là dù không đi khám bệnh ở khoa mắt, đệ tử phát hiện ra rằng một tuần sau khi diễn ra pháp hội, hai mắt dần dần bình thường lại, tình trạng chảy nước mắt cứ thế là hết hẳn! Thần kì, thật là thần kì! Sự gia trì của Sư Tôn ở khắp nơi, đại uy thần lực của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang ở khắp nơi. Mặc dù chỉ là cảm ứng nhỏ bé, nhưng đệ tử rất cảm ơn Căn bản Thượng sư và chủ tôn Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang đã gia trì. Nhân đây cũng không quên cầu thỉnh Sư Tôn trường trụ thế gian, thỉnh Phật trụ thế, hằng chuyển pháp luân.
Đệ tử Liên Hoa Hàn Hồng ở Brunei đảnh lễ.
🌟
A Di Đà Phật. Đảnh lễ Sư Tôn Sư Mẫu tôn kính nhất! Đệ tử là Liên Hoa Khải Quân (nữ), người Đài Loan, đã sống tại Brazil hơn 30 năm, quy y Sư Tôn từ năm 1996 đến nay đã 25 năm rồi. Bình thường đệ tử luôn nghe theo lời dạy bảo của Sư Tôn, tôn sư trọng pháp thực tu. Mấy năm nay, vì làm việc cực nhọc, lại cộng thêm sử dụng máy vi tính nhiều, khiến cho vai và cánh tay thường xuyên bị đau rất khó chịu, những lúc nghiêm trọng thì thậm chí uống thuốc giảm đau cũng không có hiệu quả. Thế nhưng Sư Phật từ bi, chư Bồ Tát từ bi, Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang từ bi, vào ngày 14 tháng 3 năm 2021, đệ tử lên mạng vào ZOOM tham gia pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang do đích thân Sư Tôn từ bi làm chủ đàn, toàn bộ pháp hội thù thắng viên mãn, qua màn hình máy tính mà cũng có thể cảm nhận được dòng chảy pháp cực lớn và lực gia trì tuôn chảy không ngừng. Đặc biệt là sau khi pháp hội kết thúc, chú âm của tâm chú Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang được phát lên, Sư Tôn gia trì tới tận năm phút, đã khiến cho cổ tay phải bị đau nhiều tháng nay, và hai chân bị đau rất khó chịu, lập tức đều thấy hiệu quả giảm đau, triệu chứng dần dần giảm nhẹ, ngày hôm sau đã tốt hơn một nửa, rồi thêm hai ngày nữa, dù không uống thuốc gì nhưng bệnh đau đã khỏi được chín mươi phần trăm rồi, chỉ còn mười phần trăm thì nằm trong phạm vi đệ tử có thể chịu đựng được... Vô cùng thần kì, thật không thể tưởng tượng được! Đệ tử chuẩn bị ba ngày sau sẽ bay về Đài Loan, vốn dĩ vì đau ốm nên vẫn cứ lo lắng mãi, bây giờ hoàn toàn không còn lo lắng gì nữa!
Đây hoàn toàn không phải là lần đầu tiên Sư Tôn cứu giúp đệ tử lúc nguy nan. Nhớ lại ngày 13 tháng 9 năm 2020, Sư Tôn cũng làm chủ đàn pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, cũng như thế, sau khi pháp hội kết thúc là năm phút Sư Tôn gia trì, vai trái của đệ tử đau buốt lập tức bớt đau, mấy ngày sau thì về cơ bản là hồi phục, cho đến hôm nay cũng không phát tác.
Sư Tôn đã hai lần giải trừ đau khổ vì bệnh tật của đệ tử, đệ tử cảm ơn Sư Tôn sâu sắc. Đệ tử một lần nữa đảnh lễ Căn bản Thượng sư, cảm ơn đại lực gia trì của Sư Tôn, cảm ơn đại lực gia trì của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, cảm ơn đại lực gia trì của chư Phật Bồ Tát! Chính pháp lực gia trì mạnh mẽ vô song của Sư Tôn đã giải trừ được cả những đau bệnh mà ngay cả bác sĩ và thuốc giảm đau cũng phải bó tay, khiến đệ tử có thể tự do tận hưởng không khí trong lành, cuộc sống xinh đẹp, có thể tự tại tu pháp thiền định, cách xa bệnh tật, không còn lo lắng bị những cơn đau buốt làm khổ sở nữa!
Đệ tử và gia đình cảm ơn Sư Tôn sâu sắc! Và thành tâm chúc nguyện Sư Tôn trường trụ thế gian, vĩnh chuyển pháp luân, Phật thể an khang, trường thọ tự tại! Thầy chính là đại hộ chủ của tất cả đệ tử Chân Phật chúng con. Om guru liansheng siddhi hum.
Đệ tử Liên Hoa Khải Quân đảnh lễ.
🌟
Chào Sư Tôn! Đệ tử là Liên Hoa Mĩ Lan (Canada). Vào ngày 14 tháng 3 trên ZOOM đã tham dự lễ Hộ Ma chữa bệnh Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang do Sư Phật chủ trì, đã có được lực gia trì rất lớn. Trước đó mắt đệ tử có triệu chứng sợ ánh sáng và nổi bóng nước, nay tất cả đều khỏi rồi! Hôm đó đệ tử cảm thấy hai mắt nặng trĩu, cứ luôn phải nhắm mắt lắng nghe Sư Tôn khai thị. Như Sư Tôn đã nói, năng lượng ngày hôm đó rất mạnh, ngay cả chậu cây bonsai bên cạnh ti vi cũng dịch chuyển 180 độ, thật kì lạ thay! Đệ tử Liên Hoa Mĩ Lan đảnh lễ. Ngày 17 tháng 3 năm 2021.
🌟
Đảnh lễ Sư Tôn tôn quý nhất! A Di Đà Phật! Chủ nhật tuần trước, Cầu Vồng Lôi Tạng Tự phát chú âm Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang trong năm phút để chữa bệnh, cảm ơn Sư Tôn gia trì, ngay lập tức lưng đau của đệ tử đã thoải mái hơn rất nhiều. Hai bên hông của đệ tử đã nhiều năm bị vẹo, cảm ơn Sư Tôn nhiều lần gia trì, hai năm nay có ba, bốn lần trong lúc tu pháp, hoặc lúc tập vận động thì nghe tiếng "khậc", xương hông bị vẹo sau mỗi lần đó đã được điều chỉnh thẳng lại. Lần này nhờ chú âm chữa bệnh, khi ấy đệ tử lập tức cảm nhận phần hông lỏng ra, thêm nữa hai bên đã thẳng lại. Lần trước đệ tử đi khám bác sĩ trị liệu, ông ấy nói không có cách chữa. Phật là Đại Y Vương, bà lão bảy mươi ba tuổi này vẫn còn có thể điều chỉnh được gân cốt, cảm ơn Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang đã gia trì chữa bệnh. Xin báo cáo với Sư Tôn như vậy, đệ tử cảm ơn khấu đầu cảm tạ. Liên Đẳng chắp tay đảnh lễ.
🌟
Câu chuyện cảm ứng và cảm nhận sau năm lần tham gia pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang.
Sư Tôn, Sư Mẫu kính yêu nhất. A Di Đà Phật! Phật an! Đệ tử Liên Hoa Tuyết Mai nhất tâm đảnh lễ, và hướng về Sư Tôn Sư Mẫu toàn tâm toàn ý sám hối bản thân: bởi vì bản thân đệ tử vẫn chưa phải là người dũng cảm không sợ hãi, nên xin sám hối sâu sắc. Nay đệ tử thu hết dũng khí, dũng cảm chia sẻ những sự việc cảm ứng và cảm nhận của bản thân nhiều năm nay, dùng hành động để thực tiễn lời thề của bản thân, thật sự những gì viết ra không hề giả dối.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 quy y Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật trong buổi đại pháp hội mùa xuân tại Đài Loan, dưới đây là những cảm ứng và cảm nhận của bản thân tôi sau năm lần tham gia pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang.
- Ngày 8 tháng 3 năm 2015, tại buổi pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang lần đầu tiên, tai tôi nghe thấy tiếng lắc chuông (nhưng khi đó Sư Tôn vẫn chưa lắc chuông), và tôi cũng có thể nhìn thấy từ trong miệng mình tuôn ra ánh sáng vàng kim, lấp la lấp lánh, lúc trì chú vô tình nhắm mắt lại, tôi có thể nhìn thấy trong ánh sáng có một luồng khí đến rất nhanh. Tôi theo chú âm rất tập trung lắc rung toàn thân. Sau pháp hội đó, bệnh khớp vai đông lạnh nhiều năm của tôi đã khỏi. Tôi nhanh chóng đến hải quan ở bến cảng Thâm Quyến, trong lòng lo lắng khi đi qua hải quan sẽ bị tịch thu sách do Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật viết (19 cuốn). Đúng lúc tôi đang lo lắng, vô tình nhắm mắt lại, một vị Bồ Tát hiện ra phía bên phải tôi, dường như nói với tôi rằng: hãy yên tâm, sẽ không bị tịch thu đâu. Kết quả là tôi đi qua hải quan rất thuận lợi, không có người nào kiểm tra hành lí của tôi, tất cả đều thuận lợi, bình an. Ngoài ra còn chuyện đáng kinh ngạc hơn là: tôi đã thắng vụ kiện tụng kéo dài 11 năm. (Tôi có kèm theo bức thư tôi cầu cứu Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật tôi gửi vào năm 2014 để làm bằng chứng cho sự âm thầm thi triển thần thông của Sư Tôn. Còn có rất nhiều chuyện cảm ứng nữa tôi không viết ra, sau này có thể viết thêm.)
- Ngày 28 tháng 2 năm 2016, trong pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang lần thứ hai, khi tôi trì chú vô tình nhắm mắt lại, tôi nhìn thấy rất nhiều đốm tròn ánh sáng trắng tạo thành một chiếc chày kim cang hình chữ thập hiện ra ở vùng hư không phía trên ngay trước mắt tôi, tỏa sáng lấp lánh, khiến tôi tràn đầy pháp hỉ.
- Ngày 12 tháng 2 năm 2017, trong pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang lần thứ ba, chứng bệnh thiếu máu nhiều năm của tôi đã được chữa khỏi, khiến cho vấn đề kinh nguyệt của tôi cũng được giải quyết ổn thỏa luôn, rất triệt để, cũng không có những hiện tượng rối loạn sau mãn kinh nữa (ví dụ hiện tượng đổ mồ hôi, bực bội, mất ngủ,…)
- Ngày 17 tháng 11 năm 2019, tôi đến Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở Seattle tham gia pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang lần thứ tư. Ngày 19 tháng 11 tôi ở trên chuyến bay nội địa Hoa Kì, máy bay đã rời khỏi mặt đất và đạt đến độ cao ở trên không, tôi trì tụng tâm chú Sư Tôn và nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay, cũng vô tình nhắm mắt lại, cảnh sắc núi sông đại địa hiện lên rõ ràng trước mắt tôi, mức độ sắc nét của ánh sáng so với ngày trước thì mãnh liệt hơn rất nhiều.
- Ngày 14 tháng 3 năm 2021, tôi tham gia pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang lần thứ năm trên mạng đám mây ZOOM cũng được ánh sáng rất mạnh gia trì. Biểu hiện là vào ngày hôm sau (15 tháng 3), tôi tham gia vào lớp học đám mây của trường Đại học Online, lúc đồng tu trì chú vô tình nhắm mắt lại, tôi nhìn thấy thân trên của Thượng sư Liên Ha hiện ra trong ánh sáng vàng kim (như một bản vẽ phẳng có đầu có vai), hoa văn của thương hiệu Đại học Online ở phía sau hiện lên rất rõ ràng: trong ánh sáng màu vàng kim, hai bên của bức vẽ có ánh sáng xanh lam, ánh sáng xanh và ánh sáng đỏ hiển hiện và nâng quả cầu ánh sáng lam, nhưng phần tên gọi Giáo Dục Chân Phật được viết ra thì không hiện lên được rõ ràng. (Trước kia ánh sáng của hình vẽ thương hiệu hiện ra không rõ ràng như vào ngày 15 tháng 3, ánh sáng lam, ánh sáng xanh và ánh sáng đỏ hiện ra cùng lúc, trước kia thông thường chỉ có một loại ánh sáng hiện ra, phần lớn là ánh sáng lam.)
Ngoài ra, chú âm của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang có thể khiến tôi không kìm được việc rung lắc toàn thân theo nhịp điệu của chú âm, dường như là lực gia trì của Phật Bồ Tát trong hư không khiến toàn thân tâm tôi tự nhiên xuất thần vào trong đó. Nhân tiện xin hỏi Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật, hiện tượng này liệu có giúp cho sự lưu động khí mạch minh điểm trong thân thể tôi không, đối với sự hiển hiện ánh sáng bên trong thân thể tôi liệu có sự trợ giúp lớn không?
Tóm lại, từ năm 2015 đến nay, mỗi lần tôi tham gia đại pháp hội của Sư Tôn đều là như thế, ánh sáng của tôi đều có sự tăng trưởng, bảy năm nay tổng cộng tôi đã tham gia ba mươi buổi đại pháp hội do Sư Tôn chủ trì, Bạch Liên Hoa Vương ở Hồng Kông, Đại Lực Kim Cang lần đầu ở Đài Loan, Địa Tạng Vương ở Đài Loan, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu, Mã Cát Lạp Tôn xả thân pháp, Lục Độ Mẫu ở Cao Hùng, Atisha tôn giả ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ở Mĩ, pháp hội Cao Vương Quan Thế Âm và Phật Mẫu Yeshe Tsogyal. (Đặc biệt là từ đầu tới cuối pháp hội có cảm ứng liên tiếp, tựa như kiếp trước tái hiện, cảm ứng quá vi diệu, càng khiến tôi pháp hỉ tràn đầy. Sau này tôi sẽ viết ra những cảm ứng này để chứng minh có sức mạnh gia trì thần kì của Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật.)
Những lời trần thuật ở trên của tôi tuyệt đối không giả dối. Vào tháng 12 năm 2019, khi tôi hỏi việc Sư Tôn, tôi cũng đã báo cáo với Sư Tôn về việc sau pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang ngày 17 tháng 11 năm 2019, quang minh của tôi đã được tăng cường. Và vào ngày 22 tháng 12 năm 2019 trong pháp hội Atisha tôn giả, tôi cũng có thể nhìn thấy Atisha tôn giả hiện lên trong ngọn lửa Hộ Ma, cũng nhìn thấy Atisha tôn giả hiển hiện ánh sáng lam và ánh sáng trắng. Cảm ơn Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật trong hư không vẫn luôn âm thầm liên tục không ngừng gia trì cho tôi và không ngừng thúc giục, còn dùng phương thức ban khai thị trong mơ để ngăn chặn tôi phát triển theo hướng sai lầm, khiến tôi có thể không ngừng tiến hành nghe hiểu suy ngẫm về Phật pháp ở mức độ sâu để tu và suy ngẫm về bản thân.
Chúc Sư Tôn Phật thể an khang! Tự tại nhậm vận! Sư Mẫu thân thể an khang! Cát tường như ý! Ngu đệ tử Liên Hoa Tuyết Mai (Lương Tuyết Mai) chắp tay quỳ xuống đảnh lễ. Hội đồng tu Thiền Diệu ở Canada. Ngày 26 tháng 3 năm 2021.
🌟
Sư Tôn kính yêu! Con chào thầy! Đảnh lễ Sư Tôn, Phật an, cát tường! Đệ tử Liên Hoa Tứ Muội vào ngày chủ nhật 14 tháng 3 năm 2021, tại Biệt thự Cầu Vồng, Sư Tôn đã cử hành pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang. Đệ tử rất vui mừng thông báo với người nhà, hết lần này tới lần khác liên lạc với người nhà, rằng bất luận thế nào nhất định phải lên mạng để xem pháp hội trực tiếp, pháp hội lần này rất thù thắng, Sư Tôn từ bi đệ tử sẽ dùng chú lực trong năm phút, để cho các đệ tử đặt tay lên thân thể, chỗ nào có bệnh thì sẽ chữa bệnh đó. Cuối cùng đệ tử đã có thể khiến người nhà tin tưởng, ai nấy đều lên mạng tham gia pháp hội trực tuyến. Pháp hội thù thắng, đêm đó, em gái thứ tám nhỏ nhất trong nhà đệ tử đã nằm mơ thấy Sư Tôn, rất rõ ràng. Tuần trước, đứa con gái nhỏ nhất trong nhà em Tám năm nay 21 tuổi, tên là Cung Vinh Phân bỗng nhiên vào một buổi tối cảm thấy khó chịu, vừa nôn mửa vừa đau bụng, vội vàng đưa đến bệnh viện, kết quả kiểm tra là cháu gái đệ tử bị tắc nghẽn tim, phải chuyển đến bệnh viện lớn để làm phẫu thuật, phải đặt ống cao su vào tim để thay thế. Bác sĩ còn nói 30 năm sau sẽ lại phải phẫu thuật để thay ống cao su. Em Tám vô cùng lo lắng bồn chồn. Cô ấy đã tham gia pháp hội trực tuyến và rất chuyên tâm cầu nguyện Sư Tôn gia trì cho con gái, đêm đó liền nằm mơ thấy Sư Tôn. Em Tám cầu nguyện Sư Tôn che chở cho con gái mình đêm đó có thể hít thở và ngủ ngon, bởi vì mấy ngày nay buổi tối đi ngủ đến nửa đêm thì rất khó thở không thể ngủ ngon được. Sáng sớm hôm sau, em Tám hỏi con gái đêm qua ngủ thế nào, cháu gái trả lời: đêm qua rất kì lạ, hít thở bình thường và có thể ngủ yên. Em Tám lập tức tin rằng đó là lực gia trì của Sư Tôn. Buổi chiều hôm đó, em Tám phải đưa con gái đến bệnh viện lớn để kiểm tra lần nữa, thật không thể tưởng tượng được, bác sĩ nói 85% là cháu gái không cần phải làm đại phẫu thuật nữa, chỉ cần làm phẫu thuật nhỏ để tạo ra ba lỗ thủng nhỏ để đặt thiết bị trị liệu vào trong tim là được rồi. Em Tám nghe xong, cả nhà vô cùng vui mừng. Khi đệ tử gọi điện cho em Tám biết được mọi chuyện thì vạn phần vui mừng. Em Tám còn muốn đệ tử giúp cả nhà cô ấy quy y Sư Tôn và Phật Bồ Tát, và thỉnh cầu Sư Tôn đại từ đại bi gia trì cho cháu gái. Nếu làm thủ thuật nhỏ để chữa bệnh tim ở bệnh viện UPENN, phẫu thuật thành công, mọi thứ cát tường như ý viên mãn, con gái của em Tám mau chóng bình phục khỏe mạnh, đệ tử và cả nhà em Tám cảm ơn Sư Tôn, cảm tạ Sư Tôn. Xin được gửi kèm theo tấm chi phiếu một trăm đô Mĩ cúng dường Sư Tôn và quy y, mong Sư Tôn vui lòng nhận cho! Liên Hoa Tứ Muội, Bát Muội ở Quán Chiếu Lôi Tạng Tự chắp tay. Ngày 15 tháng 3 năm 2021.
🌟
Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật vô thượng tôn quý nhất. Con chào Sư Tôn, Sư Mẫu! Đệ tử là Liên Hoa Lạc Hiền là đệ tử ở Trung Quốc Đại Lục của thầy, hiện đang sống tại Quảng Châu. Bản thân đệ tử đã thật sự kiến chứng pháp lực gia trì của Căn bản Truyền thừa Thượng Sư Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật là bất khả tư nghì, có tác dụng sâu rộng. Đại uy thần lực của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang đã giúp chúng sinh chữa trị bệnh tật, giải trừ bệnh khổ.
Buổi sáng ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo giờ ở Trung Quốc Đại Lục, đệ tử và đệ tử Chân Phật trên toàn thế giới vào ZOOM cùng xem và tham gia pháp hội Hộ Ma Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang do Sư Tôn làm chủ đàn. Khi Sư Tôn tuyên bố dùng tâm chú của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang để một lần nữa gia trì cho đại chúng tham dự pháp hội (bao gồm cả đồng môn xem qua mạng), để cầu phúc chữa bệnh cho mọi người, đệ tử cũng im lặng hướng về Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang cầu nguyện để cho khối u trong ngực của đệ tử tiêu biến, đây là điều thỉnh cầu thứ nhất. Thứ nhì là hi vọng lục phủ ngũ tạng của đệ tử cũng được gia trì. Sau đó, đệ tử liền đặt hai tay lên ngực, vừa nghĩ đến Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, vừa niệm chú. Rất nhanh chóng, đệ tử đã có cảm ứng. Hai tay đệ tử đặt lên ngực bắt đầu tự động rung lên, tiếp đó từ sự rung động này mà chuyển tiếp đến hai cánh tay cũng vận động vừa mở vừa khép, rất có quy luật. Đệ tử biết đó là do Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang đã đến gia trì cho mình rồi, đệ tử rất vui. Không lâu sau, vùng ngực có cảm giác đã gia trì xong rồi, hai tay đệ tử tự động từ từ di chuyển xuống vùng bụng, từ vùng bụng lại di chuyển xuống vùng hông, quá trình này liên tiếp liền mạch. Xong rồi, gia trì xong, hai tay đệ tử tự động kết thành thủ ấn của Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang. Lúc này, chú âm vẫn chưa dừng lại, đột nhiên đệ tử nhớ đến một người, thế là đệ tử lại hướng về Sư Tôn cầu nguyện, hi vọng có thể gia trì cho cô ấy. Vừa nghĩ như vậy, hai tay của đệ tử lại bắt đầu tự động giơ lên không trung, cảm giác đó là một thủ ấn nào đó, nhưng đệ tử không hiểu, dù sao thế nào cũng được, đệ tử liền quán tưởng mỗi lần hai tay rung động đều là đang gia trì cho cô ấy, rất nhanh chóng việc gia trì đã xong, hai tay đệ tử lại tự động kết thành thủ ấn Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, theo sau đó chú âm cũng dừng lại rồi, kết thúc rồi. Thật quá thần kì, tất cả đều đúng lúc. Lúc này quay trở lại bản thân, đệ tử lập tức cảm nhận thấy phần hông khi nãy được gia trì có một cảm giác mát mẻ, rất thoải mái. Sư phụ của đệ tử quá thần kì, mặc dù lần này đệ tử không hề thỉnh cầu Sư Tôn gia trì cho hông của đệ tử, thật ra phần hông bên phải của đệ tử cũng không khỏe, khi ngồi thiền còn chưa tu xong một đàn pháp thì đã rất đau buốt rồi. Bây giờ thấy ngay cả vấn đề này mà Sư Tôn cũng biết, lần này cũng đã gia trì cho đệ tử luôn, Phật đúng là bậc Chính Biến Tri.
Nói cách khác là, chú âm Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang chữa bệnh lần này, Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang không chỉ khiến đệ tử cầu gì được nấy, bắt đầu từ gia trì phần ngực đến lục phủ ngũ tạng, còn chữa thêm cho đệ tử cả phần hông nữa, thật sự là quá ngạc nhiên, quá từ bi rồi. Sau khoảng thời gian này, đệ tử đặc biệt quan sát những bộ phận mà mình đã được gia trì qua. Chỗ đầu tiên mà đệ tử hi vọng được gia trì là khối u ở ngực bên phải, thật sự đã tiêu biến rồi, khối u này trước đây đệ tử có thể tự sờ thấy đã mấy năm nay rồi, sau khi được Sư Tôn và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang gia trì lần này, thật sự khối u đã tiêu biến rồi. Trời ơi, thật là vui mừng quá. Không chỉ như vậy, còn phần hông của đệ tử sau lần gia trì này, lúc ngồi thiền tu xong một đàn pháp cũng không đau nữa, trước kia chưa tu xong một đàn pháp đã đau rồi. Sự thật chứng minh sự gia trì mà Sư Tôn ban cho đệ tử chúng con thật bất khả tư nghì, thật sự không giả dối, không hề có khoảng cách không gian thời gian. Và Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang thật quá thù thắng.
Sau cùng, đệ tử Liên Hoa Lạc Hiền cảm ơn Căn bản Thượng sư đã không bỏ rơi một chúng sinh nào, đã ban cho đệ tử huệ mệnh, khiến đệ tử từ lúc chẳng biết tí gì về sinh mệnh và vũ trụ chân như thì bây giờ dần dần từng bước có những hiểu biết sơ bộ rồi, tự cảm thấy cuộc đời mình kể từ sau khi quy y sư Tôn mới thật sự bắt đầu và mới có được phương hướng. Sư Tôn từng nói tâm của Sư Tôn thông với tâm của năm triệu đệ tử, đệ tử Liên Hoa Lạc Hiền cũng hi vọng sẽ có một ngày tâm tâm tương ấn cùng với Căn bản Thượng sư. Chúc Sư Tôn Phật thể an khang, trường thọ tự tại, thường trụ thế gian, quảng độ chúng sinh, thỉnh Phật trụ thế! Sư Mẫu thân thể khỏe mạnh, trường thọ tự tại, cát tường hạnh phúc!
Đệ tử Liên Hoa Lạc Hiền đảnh lễ. Ngày 22 tháng 4 năm 2021.
🌟
Sư Phật kính yêu nhất của chúng con. Đệ tử Liên Hoa Ngọc Linh đến từ Malaysia nhân đây xin được cảm ơn đại gia trì của Sư Phật. Đầu năm 2020 dịch bệnh virus Corona đã lan ra khắp toàn cầu, Malaysia cũng không may mắn thoát khỏi, ngày 18 tháng 3 đã bắt đầu phong tỏa toàn quốc. Ngành nghề công việc của đệ tử (bảo hiểm) chịu tác động, rất nhiều cuộc nói chuyện vốn dĩ phải gặp mặt thì nay phải chuyển thành trực tuyến, họp online, giao dịch online, ngay cả pháp hội do Sư Tôn tôn quý chủ trì cũng phải làm online. Đệ tử cũng vì vậy mà vô cùng biết ơn vào mỗi ngày thứ bảy và chủ nhật, dù ở tại nhà vẫn có thể vượt không gian thời gian cùng Phật đồng tu, lắng nghe khai thị pháp ngữ của Sư Phật. Càng may mắn hơn là có thể mỗi buổi sáng ngày thứ hai, trên "đám mây", có thể cùng chào hỏi Sư Phật và nhận gia trì. Đệ tử cảm ơn có cơ duyên này, cảm thấy hạnh phúc mĩ mãn.
Đều là vì cả năm làm việc ở nhà, đệ tử và những thiết bị điện tử cả ngày lẫn đêm dính với nhau, khiến cho các đầu ngón tay làm việc quá độ, trở thành cong như cung tên, ngón cái tay trái không cử động tự nhiên được, vô cùng đau khổ, đặc biệt là vào ban đêm khi đi ngủ, ngón tay thường bị đau buốt vô cớ, bởi vì ngón tay cái bị cong lại, tạm thời không có cách nào tự duỗi ra được, vì thế phải ngồi dậy từ từ xoa bóp để nắn lại ngón tay, như vậy mới có thể đi ngủ lại. Tình trạng này đã kéo dài khoảng hai, ba tháng rồi. Đã đi khám bác sĩ, bác sĩ đều nói phải làm phẫu thuật nhỏ mới có thể hồi phục lại như bình thường, trong lòng đệ tử nghĩ bây giờ là thời kì đặc biệt, bệnh dịch ở khắp nơi, có cần phải đi bệnh viện không? Nhỡ đâu...
Rồi vào ngày 14 tháng 3, Sư Phật đã làm chủ đàn pháp hội Đại Huyễn Hóa Võng, Sư Phật từ bi chỉ thị cho các đệ tử trên "đám mây" và đệ tử trực tuyến đều có thể nhận được gia trì, đệ tử như thường lệ báo danh tham gia hàng tuần. Trong năm phút Sư Phật gia trì, đệ tử ngoài việc dặn dò người nhà đặt tay vào những chỗ khó chịu trên người để thỉnh cầu ra, đệ tử cũng chỉ nắm lấy ngón tay cái quán tưởng thỉnh cầu cho ngón tay (ngón tay bị cong) khỏe lại, sau đó cảm giác hình như đã tốt hơn rất nhiều, nhưng cũng không nhất thời quá háo hức, mà sau quan sát mấy ngày, thật sự đã hồi phục hoàn toàn rồi, cũng không còn bị tỉnh dậy lúc nửa đêm vì đau nữa, cũng không còn phải dè chừng lo sợ lúc nào đó ngón tay cái sẽ lại bị cong và cần được xoa bóp từ từ nữa. Đệ tử vui sướng như điên thông báo với đồng môn trong nhóm trì chú trên Whatsapp của Phật đường, pháp lực của Sư Phật không ai sánh bằng, chỉ cần bạn tin tưởng vào Căn bản Thượng sư một trăm phần trăm thì cho dù là gia trì cho đệ tử vượt qua thời gian và không gian thì cũng có thể viên mãn thỉnh cầu của đệ tử. Sự từ bi của Sư Phật là hạnh phúc của các đệ tử. Kể từ ngày pháp hội đến nay đã một tháng rồi, đệ tử đã không còn bị tái phát bệnh nữa.
Với tấm lòng biết ơn, xin Phật trụ thế thật lâu thật lâu. Yêu Sư Tôn. Chân thành cầu nguyện Diêu Trì Kim Mẫu tôn quý và chư Phật Bồ Tát gia trì cho Sư Phật Phật thể an khang, vui vẻ tự tại, pháp luân trường chuyển, trường trụ thế gian lâu thật lâu. Đệ tử Liên Hoa Ngọc Linh quỳ lạy đảnh lễ.
(Ghi chú: có rất nhiều thư gửi đến, cảm ứng liên miên, ở đây chỉ đăng một số bức thư trong số đó.)
50. Phụ lục: Thời Luân Kim Cang thiền định cửu thứ đệ
(Toàn văn khai thị pháp ngữ của Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật)
Ngày 13 tháng 12 năm 2008, tại trung tâm triển lãm Singapore.
Trước tiên, chúng ta đảnh lễ Liễu Minh Hòa Thượng, Sakya Chứng Không Thượng sư, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Thubten Dhargye Thượng sư. Kính lễ Tam Bảo của đàn thành.
Đầu tiên, tôi cũng muốn kính chào tì kheo Chiếu Sơn, cảm ơn ông ấy đã đến tham gia pháp hội Thời Luân Kim Cang của chúng ta. Cũng cảm ơn Cống Xảo Rinpoche đã tham gia pháp hội Thời Luân Kim Cang của chúng ta. Còn có rất nhiều khách quý, chúng ta vô cùng cảm ơn. Quan trọng nhất là, chúng ta cần kính chào đơn vị chuẩn bị cho pháp hội Thời Luân Kim Cang lần này, cả Thượng sư Liên Giản ở Viên Chứng Đường, và tất cả các đồng môn tình nguyện viên. Chúng ta kính chào các vị khách quý đã dành thời gian đến tham gia pháp hội của chúng ta lần này.
Sư Mẫu, các vị Thượng sư, giáo sư, các vị pháp sư, giảng sư, trợ giảng, các đồng môn, và cả các đồng môn trên mạng, chúc mọi người cát tường.
Hôm nay tôi sẽ giảng Thời Luân Kim Cang thiền định cửu thứ đệ. Ý nghĩa của "cửu thứ đệ" chính là chín bước. Nhưng mọi người cần biết "pháp vô định pháp", không phải là khi hành giả chúng ta muốn thiền định thì nhất định sẽ trải qua chín bước này. Người công phu sâu thì một bước là có thể nhập định rồi. Người công phu nông thì một bước, rồi lại một bước, từ từ mà làm. Vì thế, Phật Đà mới nói "pháp vô định pháp". Thế nào là "pháp vô định pháp"? Nghĩa là giảng cho bạn nghe một pháp, nhưng không phải là bạn phải tuyệt đối dựa theo pháp đó, mà ở đây chỉ là các đại đức Thánh hiền từ xưa tới nay, dựa theo bản thân pháp này mà phân thành từng bước, từng bước, thế là trở thành chín trình tự.
Như tôi mà nói, muốn thiền định, tôi chỉ cần buộc chặt tâm mình lại, chú ý vào hai chìa khóa thành công: không được hôn trầm, không được trạo cử. Khi bạn đang ngủ sâu, khi ở trong thiền định rất sâu, bạn vẫn còn giữ được cái tâm trong suốt, thì chỉ cần trong một sát-na là bạn đã có thể nhập vào thiền định rồi. Đương nhiên, người bình thường khi mới bắt đầu học Thời Luân Kim Cang thiền định cửu thứ đệ thì không có cách nào chỉ trong một sát-na đã nhập vào thiền định như thế được. Vì thế, cần làm từng bước, từng bước một.
Thế nào là "pháp vô định pháp"? "Pháp vô định pháp" nghĩa là không có cái gì là tuyệt đối đúng, không có cái gì là tuyệt đối sai. Tôi lấy một ví dụ, ở Hồng Kông có một ngôi sao điện ảnh tên là Tăng Chí Vĩ, dáng vóc cũng gần giống như tôi, nhưng tôi chưa béo tới mức như ông ấy. Ông ta nói: "Những thợ săn ảnh ở Hồng Kông rất lợi hại!" Thợ săn ảnh ở Hồng Kông và Đài Loan đều rất lợi hại. Có người chụp một bức ảnh Tăng Chí Vĩ đi với một mĩ nữ, mắt của Tăng Chí Vĩ nhìn vào khuôn mặt của mĩ nữ, phóng viên tuần san liền viết: "Kẻ đồi bại." Tăng Chí Vĩ nói: "Thế thì không nhìn mặt nữa, mắt tôi sẽ nhìn xuống dưới." Tuần san liền viết: "Nhìn vào bộ phận nhạy cảm." Nhìn xuống dưới là nhìn vào bộ phận nhạy cảm. Tăng Chí Vĩ liền quay đầu lại, không nhìn nữa, căn bản là không nhìn, tuần san lại viết: "Có âm mưu đen tối." Tôi nghĩ là viết thế nào thì cũng đúng, viết thế nào thì cũng là sai. Không có gì là đúng sai tuyệt đối.
Hôm nay các bạn học Phật pháp, "pháp vô định pháp", dựa theo phương pháp tu mà các bạn quen thuộc nhất, có thể nhập vào thiền định nhanh nhất thì chính là phương pháp tốt nhất. Nhưng tu thiền định, điều rất quan trọng là bạn không được sản sinh ra ảo giác, cũng không được có huyễn giác. Thế nào gọi là sinh ra ảo giác và huyễn giác? Chủ yếu là do bản thân trong tâm bạn có suy nghĩ bất hảo. Vì thế, chúng ta tu thiền định cần phải rất có lí trí, cần có lí trí, bạn phải duy trì được sự trong sáng của bạn, biết được cái gì là huyễn giác, cái gì là ảo giác, cái gì là huyễn thính, thì mới không nhập vào ma giới.
Người tu thiền định, thường thường có lúc cũng có "ma thiền", điều này rất nguy hiểm. Trước kia tôi từng kể một chuyện cười về bệnh tâm thần. Có một viện trưởng bệnh viện tâm thần đi thăm phòng một bệnh nhân tâm thần, ông ấy nhìn thấy một nữ bệnh nhân tâm thần đang nằm ngửa ra hát. Chà! Giọng hát của cô ấy rất hay, giống như một ngôi sao ca nhạc vậy, hát bài này đến bài khác, không thiếu một chữ nào, nhịp lại rất chính xác, hát cực kì hay. Viện trưởng liền cho rằng nữ bệnh nhân tâm thần này chắc là sắp bình thường rồi, khả năng là đã bình thường rồi. Đột nhiên, bệnh nhân tâm thần liền nhỏm dậy, rồi nằm sấp ra đất, cô ấy vẫn hát, cũng vẫn hát rất hay. Viện trưởng liền hỏi: "Vừa nãy cô nằm ngửa ra hát, bây giờ lại nằm sấp hát, nằm bò ra đất hát, thế là vì sao?" Bệnh nhân tâm thần nói: "Vừa rồi tôi hát là mặt A, bây giờ tôi hát đến mặt B." Vẫn còn tâm thần lắm, hơn nữa bệnh lại còn rất nặng nữa. Tôi bảo mọi người, tuyệt đối đừng để mắc bệnh tâm thần phân liệt, nhân cách phân li, bạn tu thiền định cần có lí trí, cần giữ được sự trong sáng, nhưng bạn lại cần phải ở vào giữa sự tỉnh táo và ngủ. Đây là một bí quyết thành công.
Tôi bảo mọi người, Thời Luân Kim Cang tu thiền định, cái gọi là thiền định chính là phải hợp nhất với Thời Luân Kim Cang, có nghĩa là "hợp thể". Pháp tương ứng mà Mật giáo nói đến đều là hợp thể. Một khẩu quyết quan trọng nhất của Mật giáo chính là hợp thể. Hợp thể là gì? Là ý thức Thời Luân Kim Cang trong vũ trụ từ từ hạ giáng, tiến nhập vào trung mạch của bạn, ngồi trên cánh hoa sen trong tim bạn. Sau đó, ngài có hai mươi tư cánh tay, bốn khuôn mặt, có bàn chân màu đỏ, bàn chân màu trắng, đạp lên Đại Tự Tại Thiên và Đại Tự Tại Thiên Hậu. Thời Luân Kim Cang giáng xuống, từ trung mạch đến cánh hoa sen trong tim bạn, sau đó, ngài từ từ phóng to lên, biến thành chính bạn. Pháp Thời Luân Kim Cang không phải là đối thân, không phải là xuất hiện ở trước mặt bạn, mà là chính bạn biến thành "tự thân kim cang", nghĩa là chính mình biến thành Thời Luân Kim Cang. Phương pháp tự mình biến thành Thời Luân Kim Cang này chính là Thời Luân Kim Cang thiền định cửu thứ đệ.
Vậy bạn làm thế nào để có thể biến thành Thời Luân Kim Cang đây? Chính là cần phải trì chú Thời Luân Kim Cang, kết thủ ấn Thời Luân Kim Cang, quán tưởng Thời Luân Kim Cang. Bởi vì bạn kết thủ ấn Thời Luân Kim Cang chính là đại diện cho thân thể của Thời Luân Kim Cang, quán tưởng Thời Luân Kim Cang chính là đại diện cho ý niệm của Thời Luân Kim Cang, trì chú của Thời Luân Kim Cang chính là đại diện cho việc nắm giữ tâm của Thời Luân Kim Cang. Nghĩa là, khi thân, khẩu, ý của bạn hoàn toàn giống với Thời Luân Kim Cang thì ngài ấy nhanh chóng có thể dung nhập vào trong thân thể bạn, chính bạn biến hóa thành Thời Luân Kim Cang.
Cái gọi là thần thông của Mật giáo đều là "hợp thể". Tu hành Mật giáo chính là hợp thể. Tôi hợp thể với A Di Đà Phật, bản thân tôi biến thân thành A Di Đà Phật. Tôi hợp thể với Địa Tạng Vương Bồ Tát, tôi biến hóa thành Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi và Tiên Vương Diêu Trì Kim Mẫu hợp thể, tôi liền biến hóa thành Diêu Trì Kim Mẫu. Chính nhờ sự biến thân của chính bạn mà bạn có được pháp lực cực lớn của Bổn tôn trên người bạn. Đây chính là pháp thần thông của bản thân Mật giáo, cái mà ta gọi là biến thân.
Biến thân có thể biến được mấy lần? Có thể biến rất nhiều lần. Bạn có thể giống như cây quy y của Mật giáo, các vị tổ sư nhiều đời ở chính giữa bạn, toàn bộ đều tiến nhập vào trong tâm của bạn, bạn liền biến thành sự tổng hợp của các vị tổ sư nhiều đời. Tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang Thần, Hộ Pháp Thần, Chư Thiên trong vũ trụ đều tiến nhập vào trong tâm bạn, bạn sẽ có được một dạng pháp lực của Chư Phật Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, Chư Thiên. Ở đây không chỉ là nói đến pháp lực thôi đâu, còn nói đến minh tâm kiến tính, viên mãn chứng ngộ. Do bạn tu hành pháp Mật giáo, Mật giáo là hợp thể và biến thân, thân thể hợp nhất, biến thành Bổn tôn. Nhờ Bổn tôn mà đạt được trí huệ của Như Lai, đạt được chứng ngộ viên mãn.
Biến thân có rất nhiều loại, Đại Uy Đức Kim Cang là do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tiến nhập vào trong thân của Diễm Ma Pháp Vương, biến thân thành Đại Uy Đức Kim Cang. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là do A Di Đà Phật từ bi Quan Thế Âm Bồ Tát, tiến nhập vào trong thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, biến hóa thành Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Bản thân Thời Luân Kim Cang là Thích Ca Mâu Ni Phật tiến nhập vào tam muội địa thời luân, biến hóa thành Thời Luân Kim Cang. Đều là những sự biến hóa.
Bạn làm thế nào để tiến nhập vào tam muội địa? Chính là thiền định. Rất nhiều người nói với tôi rằng họ không có cách nào thiền định được, không có cách nào nhập tam muội địa được, bởi vì hễ họ ngồi thiền là rất nhiều tạp niệm liền xuất hiện. Trong thiền định Sơ trụ, tâm là trạng thái không ổn định. Vì thế, rất nhiều người nói với tôi rằng họ không có cách nào nhập định được, bởi vì có rất nhiều tạp niệm. Tôi bảo mọi người nhé, điều này là bình thường thôi. Không có tạp niệm mới là bất thường, là không bình thường đó. Tất cả mọi người bình thường đều có tạp niệm, chỉ có thật sự tiến nhập vào trong thiền định rất sâu, có thể giữ chặt được tâm thì mới không còn tạp niệm nữa. Thế nhưng điều này là rất thù thắng, rất hiếm người đạt được.
Trước tiên chúng ta nói đến bước thứ nhất của thiền định Thời Luân Kim Cang - Sơ trụ. Tâm của bạn chỉ hơi ổn định một chút, thông thường tâm sẽ chạy lung tung, không thấy đâu nữa, rõ ràng là bạn đang niệm kinh, đột nhiên có suy nghĩ khác xen vào, đó là hiện tượng của Sơ trụ. Vừa ngồi xuống là tâm đã không ổn định rồi. Thế còn, bạn quán tưởng con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, khuôn mặt chính diện màu xanh lam của Thời Luân Kim Cang có ba con mắt, bạn quan sát một con mắt ở chính giữa, chỉ nhìn vào con mắt ở chính giữa thôi, định tâm lại. Bạn giống như thế này, tôi đang nhìn vào ngọn đèn ở trước mặt, đúng như thế này nhìn cố định vào ngọn đèn trước mặt, không có suy nghĩ nào khác. Các bạn làm quán tưởng thì hãy nhìn vào con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, đừng để suy nghĩ khác xen vào.
Thế rồi đột nhiên, nếu như tâm của bạn chạy đi, ví dụ như bạn chơi cổ phiếu, trong đầu đều nghĩ tới cổ phiếu, nhìn vào con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang thì lại nhìn thành cổ phiếu, thì đó là suy nghĩ khác đã xen vào rồi. Đây chính là Sơ trụ, suy nghĩ của bạn không có cách nào rất tập trung được. Bạn đang quán tưởng con mắt thứ ba, cũng không được biến con mắt thứ ba thành cổ phiếu. Có một người hỏi người chơi cổ phiếu: "Tình hình anh chơi cổ phiếu thế nào rồi?" "Không tốt! Bây giờ cổ phiếu đều rớt giá." "Thế buổi tối đi ngủ có ngon không?" "Tôi ngủ giống trẻ sơ sinh vậy, ngủ giống như baby vậy đó." "Chà! Anh có thể ngủ giống như baby, thế thì quá tốt rồi." Anh ta nói: "Giống baby đó! Nghĩa là tỉnh dậy rồi khóc đó." Người xuất gia chúng ta không chơi cổ phiếu, thế nên chúng ta ngủ rất ngon.
Cũng có một câu chuyện cười tương tự. Có một người có trí nhớ rất tốt, trí nhớ của anh ta là ichiban [Tiếng Nhật: nghĩa là số một], bộ não rất tốt. Anh ta nói: "Cái gì đi vào trong não tôi thì tôi đều ghi nhớ hết. Sư Tôn nói pháp gì, giảng cái gì, tôi đều nhớ rõ hết, toàn bộ đều đi vào trong bộ não của tôi rồi, trí nhớ của tôi rất tốt." Người bên cạnh liền nói: "Trí nhớ của anh tốt như vậy, thế thì tiền anh vay tôi sao vẫn chưa trả tôi?" Anh ta nói: "Tiền của anh không đi vào trong não tôi mà đi vào trong túi áo tôi."
Hôm nay chúng ta học thiền định chính là Sơ trụ, tâm đột nhiên sẽ biến mất. Vào thời đại này, tâm của mỗi người đều bồng bềnh bất định, chúng ta thường xuyên phải tóm tâm trở lại, tóm cái tâm trở về cố định ở đó, mới có thể thiền định được. Bạn có thể quán tưởng được rất kĩ, toàn bộ Thời Luân Kim Cang đều quán tưởng được ra, như thế đương nhiên là tốt nhất, còn không thể quán tưởng được ra thì bạn phải học cách quán tưởng con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang. Bạn hãy quán tưởng con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, hãy nhìn vào con mắt thứ ba của ngài, những thứ khác bạn không cần phải nghĩ đến. Tâm của mỗi người đều trôi nổi, thế nhưng, khi mà tâm của bạn trôi đi mất, bạn chú ý thấy điều đó, bạn lại tìm tâm trở về, tâm chạy đi mất lại tìm nó về, khi làm như vậy nhiều lần thì gọi là Sơ trụ.
Bước thứ hai chính là Tục trụ. Bạn đã nhiều lần chú ý đến tâm niệm của mình rồi, có thể kéo được cái tâm phân tán trở về, liên tục nhìn vào con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, khi có thể đạt đến thời gian bảy phút thì đây gọi là Tục trụ. Bước thứ nhất là Sơ trụ, bước thứ hai là Tục trụ, nghĩa là liên tục có thể dừng tâm lại, quán tưởng con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, đạt được bảy phút như thế, thì gọi là Tục trụ. Đây chính là sự luyện tập.
Tôi thường nghĩ, chúng ta làm một con người hiện đại, rất khó để quán tưởng, cũng rất khó chú ý vào một chuyện, thông thường tâm đều bất định. Có người chơi cổ phiếu, có người muốn kiếm tiền. Tôi cũng nói rất thẳng thắn, có tiền không thể mua được sức khỏe, có tiền cũng không chắc đã mua được tuổi thọ, có tiền cũng không thể mua được tu hành, có tiền cũng không chắc đã được vãng sinh tịnh thổ. Trong Kinh Thánh nói, người giàu mà muốn lên thiên đường, cũng giống như lạc đà xâu kim vậy, vô cùng khó, bởi vì cái mà họ nghĩ đến đều là tiền.
Có một phú ông, hàng ngày ông ta chỉ nghĩ đến tiền, di chúc mà ông ta viết, ngay cả sau khi chết mà cũng chỉ muốn tiền. Di chúc của ông ta viết như thế này: "Sau khi tôi chết, phải đem tất cả tiền đặt trong quan tài của tôi." Ông ấy là một phú ông đó, muốn bỏ tất cả tiền vào trong quan tài để chôn cùng ông ấy, thế thì quan tài nhất định là cần làm rất to. Vợ của ông ta cũng tuân theo di chúc này, bà ấy đã chuyển tất cả tiền thành tiền của bà ấy, gửi trong ngân hàng với sổ tiết kiệm đứng tên bà ấy, sau đó, bà ấy kí một tấm chi phiếu, đặt lên người phú ông, nói rằng: "Tôi đã đưa tiền cho ông rồi nhé! Nếu ông có thể tỉnh lại, thì số tiền này chính là của ông đó." Tôi kể câu chuyện cười này là ý nói rằng, chết rồi thì cái gì cũng chẳng có. Tiếng Indonesia nói là selamat. [có thể hiểu nôm na là: chết rồi, tạm biệt nhé, chào nhé]
Trước kia, Seattle Lôi Tạng Tự có một con chó tên là Bagi, mỗi buổi sáng chúng tôi nhìn thấy nó là lại nói "selamat Bagi" (tiếng Indonesia có nghĩa là xin chào Bagi), "chết rồi hả Bagi" [khi nói selamat thì nghe gần giống như si le ma trong tiếng Trung, nghĩa là chết rồi à], buổi tối cũng thế, selamat malam (tiếng Indonesia là chúc ngủ ngon). Con người mà "chết rồi hả" thì cái gì cũng chẳng còn. Bạn có tiền, bạn phải đi làm từ thiện, đi xây chùa, xây đạo tràng, đi làm sự nghiệp công ích, đi giúp đỡ người khác, đó mới là ý nghĩa của đời người đó! Vì thế, khi chúng ta thiền ở bước Tục trụ, đừng nghĩ đến tiền, cũng đừng nghĩ đến mĩ nữ, không chỉ là người bình thường mà người tu hành cũng phải thế.
Có một thầy giáo lịch sử hỏi học sinh: "Triều Hán và Triều Đường có gì khác nhau?" "Triều Hán có một mĩ nữ tên là Triệu Phi Yến, triều Đường có một mĩ nữ tên là Dương Quý Phi." Học sinh nói, vẻ đẹp của Triệu Phi Yến nằm ở lúc nàng lên ngựa - "mã thượng bất tri", thân thể của nàng rất nhẹ, ngồi trên lưng ngựa mà ngựa cũng không biết rằng nàng đã lên ngựa rồi. Mĩ nữ Dương Quý Phi triều Đường khi lên ngựa, "mã thượng bất chi", bất chi nghĩa là ngựa không có cách nào chống đỡ nổi. Tôi bảo mọi người, mỗi một hành giả khi quán tưởng, chú ý vào con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, không được nghĩ đến Triệu Phi Yến, bởi vì Triệu Phi Yến là "bất tri", "mã thượng bất tri"; không được quán tưởng Dương Quý Phi, Dương Quý Phi là "mã thượng bất chi", con ngựa này ngã sụp xuống, "mã thượng bất chi".
Chúng ta nói đến bước thứ ba, chính là Hồi trụ. Có thể chú ý vào tâm của bạn, thời gian tập trung kéo dài được mười bốn phút, mức độ thiền định ổn định của bạn đã tăng trưởng rồi, nhưng sau mười bốn phút thì tâm vẫn bất ngờ chạy đi mất, rất nhanh chóng có thể kéo tâm về lại, thì đây gọi là Hồi trụ, đây là bước thứ ba.
Bước thứ tư là Cận trụ. Mục tiêu mà bạn tập trung vào đã không còn tản mát nữa, khả năng giác chiếu đã hoàn toàn lộ ra rồi. Bạn chuyên tâm vào con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, con mắt ấy vĩnh viễn ở tại đó, bạn có thể chuyên chú mà không tản mát, những suy nghĩ khác không kéo đến, tâm của bạn cũng không chạy đi mất, lúc này, năng lực quán chiếu của bạn đã bắt đầu tăng cường, bạn quán chiếu con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang, năng lực đã vô cùng mạnh rồi, đây gọi là Cận trụ.
Bước thứ năm chính là Phục trụ. Bạn đã có sự ổn định cao độ, nhưng bạn phải rất cẩn thận, bởi vì bạn sẽ rơi vào hôn trầm, gần giống như ngủ vậy, cần phải có sự nhạy bén tự kiểm điểm mình. Tôi bảo mọi người nhé, sự luyện tập thiền định này, bảy phút, mười bốn phút, cái này cũng chẳng được coi là gì hết, bởi vì tâm bạn vẫn sẽ tản mát. Khi tâm bạn không còn một chút tản mát nào, giống như con ruồi vậy, đang bay bay bay bay bay, oa! Bị một tờ giấy dính ruồi dính chặt lại, nó chẳng thể bay đi đâu được nữa, đây gọi là Phục trụ. Tâm của bạn bị dừng lại ngay tại đó không thể di động được, gọi là Phục trụ. Còn có một so sánh nữa, chính là tâm giống như con ngựa chạy, chạy rất nhanh, nhưng nó bị một sợi dây thừng buộc chặt vào một cái cọc gỗ, không đi được nữa, đây gọi là Phục trụ.
Phục trụ có một hiện tượng là bạn nhập tam muội địa, tinh thần của bạn rất tập trung, không có suy nghĩ khác xen vào, tâm bạn cũng không chạy lung tung, nhưng bạn lại ngủ mất, bạn nhập vào "tứ muội địa" rồi, nghĩa là đi vào giấc ngủ rồi. Rất nhiều người cho rằng đây là cảnh giới rất cao. Sư Tôn trước kia cũng bị như thế, ngồi trên ghế sofa, nhắm mắt lại chẳng nghĩ ngợi gì cả, mặt trời còn đang chói chang, còn đang ở giữa ban ngày, sau đó mở mắt ra thì đã thành tối muộn rồi. Oa! Tôi ngồi mấy tiếng đồng hồ, tôi cho rằng thật là siêu, hóa ra là tôi đã ngủ năm tiếng đồng hồ, tiến vào trạng thái ngủ sâu, hoàn toàn không mơ gì cả, một giấc mơ cũng không có, một lúc sau mở mắt ra, úi, tôi còn chưa ăn bữa tối nữa! Sao mà trời đã tối rồi. Ngồi thiền có thể xuất hiện hiện tượng này, đây gọi là Phục trụ. Khi bạn ở giai đoạn Phục trụ rồi, mặc dù có độ ổn định cao, nhưng không được rơi vào hôn trầm, ngủ mất, phải có sự nhạy bén tự kiểm điểm bản thân.
Tôi biết trong số các Thượng sư Chân Phật Tông, Thượng sư Thường Trí bị rơi vào "tứ ma địa" - ngủ rất say. Khi tôi nhìn thấy ông ấy ngủ sâu, rất tốt! Ông ấy không nói mơ, ông ấy ngủ say tít. Tôi nhìn thấy ông ta đang ở trạng thái Phục trụ, không nói mơ. Có một câu chuyện cười về nói mơ. Có một người khi thiền định luôn nói mơ, vợ ông ta mới bảo: "Tôi đưa ông đi khám bác sĩ, bởi vì mỗi lần ông chỉ cần ngồi thiền là ông liền ngủ, đã thế còn nói mơ nữa." Ông chồng nói với bà vợ rằng: "Bà đừng bảo tôi đi gặp bác sĩ, bởi vì đó là lúc duy nhất tôi có quyền phát ngôn trong cái gia đình này." Nói mơ là quyền phát ngôn duy nhất của ông ta, có thể thấy bà vợ này rất lợi hại.
Vừa nãy tôi chủ trì làm chứng hôn lễ cho mọi người, tối nay sẽ có đêm tân hôn, đưa vào động phòng. Có một câu chuyện cười về đêm tân hôn thế này, vợ nói với chồng: "Bây giờ anh là chồng em rồi, thế anh nhớ em nhất là lúc nào?" Chồng nói: "Anh nhớ nhất chính là lúc chưa quen biết em." Đôi khi kết hôn là việc rất thảm. Vì thế, đến được bước thứ năm là Phục trụ rồi, cần nhớ rõ, cần tự kiểm điểm bản thân, cần trong sáng, mặc dù bạn đã Phục trụ rồi, tâm có thể ổn định rồi, nhưng chú ý đừng để rơi vào hôn trầm.
Khi đến bước thứ sáu là Tịch trụ thì sẽ sản sinh ra sức mạnh. Thời Luân Kim Cang tiến nhập vào bên trong bạn, bạn cũng tiến nhập vào bên trong Thời Luân Kim Cang, hai người không phân tách, không khác biệt. Bạn đã biến thành Thời Luân Kim Cang, hai người hợp nhất. Khi Thời Luân Kim Cang và bạn hợp nhất, bạn liền sản sinh ra pháp lực. Ví dụ, khi suy nghĩ của bạn nghĩ tới việc làm cho nhiệt độ của toàn trái đất không nóng như vậy, thế thì băng tuyết sẽ không tan ra nữa, cái này sẽ sản sinh ra power [sức mạnh]. Giống như khi tôi ở Đài Loan ba năm rưỡi, tôi liền nghĩ, làm cho tất cả các cơn bão đổ bộ vào Đài Loan đều chuyển hướng, thế là các cơn bão đều chuyển hướng.
Khi đã biến thành Thời Luân Kim Cang, nếu ta muốn kẻ địch không thể làm hại ta thì họ sẽ không có cách nào làm hại ta được. Khi bạn biến thành Thời Luân Kim Cang, tay của bạn đặt lên thân của người khác, vỗ lên vai họ, bệnh tật của họ sẽ thay đổi. Khi đến được Tịch trụ rồi sẽ sản sinh ra năng lượng của tâm. Nhưng cần chú ý không được quá phấn khích. Có rất nhiều người khi có pháp lực, họ liền vô cùng hưng phấn. Khi sản sinh ra pháp lực cần thận trọng tự kiểm điểm bản thân để không sinh ra sự hưng phấn. Bạn có thể duy trì sự ổn định của tâm thì sẽ tương đối có lí trí.
Khi đến được bước thiền định thứ bảy là Tối tịch trụ, năng lượng của tâm càng ngày càng mạnh, mức độ ổn định cũng càng ngày càng cao, không có hôn trầm cũng không có kích động, tâm rất mảnh rất vi tế, giống như cây kim vậy. Khi ở vào trạng thái Tối tịch trụ rồi, thời gian thiền định có thể đạt đến hai tiếng đồng hồ. Giấc ngủ sâu cũng rất giống với thiền định, nhưng ngủ sâu không phải là thiền định. Giống như hợp thể và biến thân, hợp thể chính là thiền định, bởi vì tâm của bạn đã cố định rồi, rất mảnh. Như vậy, khi Thời Luân Kim Cang cũng biến thành rất mảnh, khi Thời Luân Kim Cang đã mảnh nhất thì hợp nhất với bạn, giống như một cây kim vậy, khi mà ngài biến thành to lớn thì tràn đầy cả vũ trụ, lúc này bạn sẽ phát ra mệnh lệnh, bạn ban ra sắc lệnh, bạn mong muốn đạt được sự nghiệp gì thì theo lời nguyện của ngài đều có thể hoàn thành được.
Có người hỏi tôi: "Sư Tôn! Vì sao ngài có thể đến địa ngục được?" Là bởi vì tôi đạt đến bước thiền định thứ bảy. "Vì sao có thể đến được các cõi trời? Làm sao có thể viết được cuốn sách "Nấc thang lên cõi Trời", và cả "Địa ngục biến hiện kí" chứ? Bởi vì tôi đạt đến bước thiền định thứ bảy - Tối tịch trụ. Khi ở trong Tối tịch trụ này, tâm bạn biến hóa thành Bổn tôn, và Bổn tôn có thể thần hành, có thể xuất thần, có thể thuần túy tồn tại trong cả hư không, du hành trong tất cả pháp giới. Có thể đến cõi địa ngục và các cõi trời, hoàn toàn ở trong bước thiền định thứ bảy, bởi vì tâm đã sinh ra năng lượng rất lớn, hơn nữa, năng lượng này giống với Thời Luân Kim Cang.
Thời Luân Kim Cang có 24 cánh tay, đại diện cho 24 giờ, Thời Luân Kim Cang có bàn chân màu đỏ và bàn chân màu trắng, đại diện cho bồ đề đỏ và bồ đề trắng, thân màu xanh lam đại diện cho khí, thân màu đỏ đại diện cho mạch, thân màu trắng đại diện cho bồ đề trắng. 24 cánh tay của ngài đều có pháp lực, 4 khuôn mặt đều có thể sản sinh ra sức mạnh. Bởi vì sau khi sinh ra năng lượng của tâm, ngài có thể thần hành đến thập pháp giới, đây gọi là Tối tịch trụ.
Bước thứ nhất là Sơ trụ, bước thứ hai là Tục trụ, bước thứ ba là Hồi trụ, bước thứ tư là Cận trụ, bước thứ năm là Phục trụ, bước thứ sáu là Tịch trụ, bước thứ bảy là Tối tịch trụ, bước thứ tám chính là Chuyên trụ. Tôi có thể đạt đến bước Chuyên trụ. Vừa nãy khi chúng ta làm pháp hội có nói đến nhập tam muội địa, vừa mới nói xong là nhập tam muội địa, "cheng" một tiếng thế là nhập định. Có người nào nhập tam muội địa như vậy không? Bên kia có người bảo "Sư Tôn". Chuẩn rồi! Vừa nãy khi Sư Tôn đang nhập tam muội địa, Thời Luân Kim Cang rất nhanh chóng đã dung nhập rồi, bản thân tôi biến thành Thời Luân Kim Cang. Đây chính là Chuyên trụ.
Điều này nói rằng, năng lực của hành giả đạt đến mức chỉ cần nỗ lực rất nhỏ đã có thể nhanh chóng từ Sơ trụ đạt đến Tối tịch trụ rồi, hơn nữa lại có thể ngồi lâu hơn mà không bị hôn trầm, cũng không bị phấn khích, trạo cử. Bởi vì bạn có tâm trong sáng thì sẽ không hôn trầm, bạn không có phấn khích thì sẽ có thể quán chiếu tâm mình một cách vô cùng trong suốt mát rượi. Đây chính là Chuyên trụ. Một người muốn Chuyên trụ là điều không dễ dàng. Chúng ta luyện tập thiền định đến bước thứ tám chính là hiện tượng Chuyên trụ.
Nhìn chung mà nói, muốn làm được Chuyên trụ thì không hề dễ dàng. Người bình thường trúng xổ số độc đắc thì trong lòng rất phấn khích, cũng không thể ngủ được, hay như những sự việc rất quan trọng, họ cũng sẽ không ngủ được, khi có điều khiến họ rất lo lắng, khi có áp lực rất lớn, họ cũng không ngủ được. Vì sao Sư Tôn có thể ngủ rất ngon? Hơn nữa khi ngủ còn có thể ngủ rất ổn định, khi ăn cơm cũng ăn rất tập trung, làm việc gì cũng đều rất ổn định tập trung, hơn nữa bản thân Sư Tôn cũng không có phiền não hay áp lực gì. Vì sao vậy? Đó là vì khi bạn đã nhận thức được tâm mình rồi, hiểu được Phật tính rồi, bạn nhận thức được tâm mình thì là gì, thì đó là minh tâm. Bạn nhận thức được Phật tính thì là gì, đó chính là kiến tính, nghĩa là bạn đã hiểu được chân lí của vũ trụ.
Vì thế, Sư Tôn nói Sư Tôn không có danh dự. Mỗi người đều có thân thể, đều có tư tưởng, đều có danh dự, thậm chí danh dự còn quan trọng như sinh mạng thứ hai của con người. Vì sao Sư Tôn không có danh dự? Bởi vì thân thể của Sư Tôn không tồn tại, danh dự và thân thể của Sư Tôn đều không tồn tại. Bạn có thể làm như vậy, bạn có thể tu từ Sơ thiền đến Tứ thiền thì đó là gì? Là vô sự, vô tâm. Khẩu quyết quan trọng nhất của Mật giáo là chẳng có việc gì cả, việc rất lớn trong thiên hạ đối với tôi mà nói cũng chẳng có chuyện gì cả. Việc gì quan trọng nhất trong thiên hạ đều sẽ chẳng đi vào trong tâm tôi, tôi có thể thiền định đạt đến mức độ Chuyên trụ.
Tiếp theo tôi sẽ nói đến bước thứ chín, chính là Đẳng trụ, không phải tiêu tốn một chút sức mạnh nào, thiền quán không tốn chút sức lực nào, tự do tự tại nhậm vận. Mọi người xem Sư Tôn, bạn tu hành phải có thể tự do tự tại nhậm vận, không căng thẳng chuyện gì cả, chuyện gì cũng không có gì đáng kể, cái gì cũng vô sở trụ.
Lần này tôi đến Singapore, chúng ta chúc phúc cho mảnh đất Singapore này được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Nói đến việc ở, Thượng sư Liên Giản ở Singapore và đơn vị chuẩn bị đã thu xếp cho tôi ở phòng Tổng thống, là phòng mà Tổng thống Mĩ Bill Clinton đã từng ở, phòng rất nhiều Tổng thống đã từng ở. Tôi ở tại phòng Tổng thống, tôi muốn đi tắm cũng phải đi qua nhiều lối, không tìm thấy phòng tắm ở đâu cả, tôi buồn đi tiểu, muốn đi vào phòng vệ sinh, cũng không tìm được phòng vệ sinh của mình, nhiều phòng vệ sinh quá, phòng quá rộng. Mọi người thết đãi tôi chỗ ở thật sự quá tốt.
Nhưng mọi người có biết nơi ở của tôi ở Đài Loan là ở đâu không? Tôi nghe nói phòng giam ở Đài Bắc có diện tích là hai bình rưỡi nhỉ! [1 bình = 3.3m2] Nơi tôi ở nhỏ cỡ một tấm chiếu tatami vậy, rộng cỡ khoảng nửa bình. Nơi tôi ở không có nhà vệ sinh, không có phòng khách, bước ra một cái là Phật đường. Ở Đài Loan, tôi ở như vậy, bạn không tin thì hãy hỏi Thượng sư Liên Cực, hỏi Sư Mẫu, Sư Mẫu cũng biết đó. Sư Mẫu nói: "Ông có thể ngủ ở chỗ rộng một chút mà! Giường rộng như vậy mà." Nhưng tôi sợ tôi nói mơ sẽ ảnh hưởng đến bà ấy, tốt nhất là tôi ngủ ở phòng nhỏ. Phòng tổng thống hiện nay rộng tới một trăm bình đó.
Nói đến Đẳng trụ, tôi bảo mọi người, một trăm bình không đủ rộng, một bình không đủ nhỏ, tôi ở đâu thì đều là như thế, bởi vì tâm của tôi rộng lớn vô biên mà! Người thế nào cũng có thể dung nạp. Với tôi người nào cũng được, tôi có thể tiếp nhận sự phê phán của thế nhân, nhưng tâm tôi vĩnh viễn giống như hư không, đây chính là Đẳng trụ. Không tiêu tốn một chút sức lực nào. Tôi không có phiền não! Vì sao có thể cắt đứt phiền não? Bởi vì bạn Đẳng trụ rồi, bạn chẳng có việc gì nữa, không có việc gì nữa thì không có phiền não nữa. Vì sao có thể không có chuyện gì? Bởi vì bạn khai ngộ rồi, cho nên không có chuyện gì nữa.
Tôi từng kể, ngày đầu tiên tôi đến Đài Loan, sư tỉ Từ Nhã Kì trông thấy tôi liền nói với tôi rằng cô ấy sợ có người sẽ làm hại tôi. Tôi bảo cô ấy: "Không ai có thể làm hại Sư Tôn." Khi tôi đến Malaysia, trong lòng tôi vô cùng vui vẻ khi đến Malaysia, trong lòng vô cùng vui vẻ trở về Mĩ, một chút lo lắng cũng không có. Bởi vì chúng sinh bình đẳng, chúng sinh đều ở trong một giấc mơ - bình đẳng. Tôi chẳng có việc gì, bạn kể chuyện của bạn, watashi wakanai, I don’t care. [Tôi không quan tâm.] Bạn nói thì đó là quyền của bạn. Tôi dựa vào "bình đẳng tâm trụ", tính bình đẳng của tôi sinh ra, tôi chúc chúng sinh cũng được bình đẳng như thế, cũng thành Phật, cũng vãng sinh Phật quốc tịnh thổ. Tôi không có sự phân biệt môn phái, cái gì cũng không có, tôi hi vọng mọi người có thể giác ngộ, chứng ngộ viên mãn.
Đợi đến khi bạn tu đến Đẳng giác thì thiền định ở cấp độ thứ chín sẽ sản sinh ra, thiền định này gọi là Đẳng trụ. Lúc này, bạn có thể từ Sơ thiền đến Tứ thiền, từ Tứ thiền lại trở về Sơ thiền, lộn lại như vậy, đó là thiền định. Từ đây, bạn sẽ có thể giác ngộ được minh tâm kiến tính. Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni nói "Phật không có ba lần chuyển pháp luân", "Phật không có thuyết pháp". Vì sao nói: "Nếu có người nói Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp thì đó là phỉ báng Phật." Chân đế của Phật pháp, đệ nhất nghĩa đế chính là ở đây. Trụ trong bình đẳng thì sẽ chứng minh được bình đẳng tính trí, sau đó tiến nhập vào pháp giới, bản tướng của pháp giới (bản tính của pháp giới) sẽ hiển hiện ra.
Bạn dựa vào sự quan sát của mình mà đạt được Diệu quan sát trí, khi bạn có được pháp lực rồi thì sẽ là Thành sở tác trí. Khi bạn đã chứng minh được tất cả mọi thứ thì sẽ là Đại viên kính trí. Diệu quan sát, Thành sở tác, Bình đẳng tính, Đại viên kính, Pháp giới thể tính, năm loại trí huệ này sẽ sản sinh ra từ trong thiền định. Bạn đã chứng minh được năm tính này thì bạn sẽ thấy được Phật tính, lúc này ai có thể làm hại bạn? Tôi bảo bạn nhé, thân tâm đều vô sự, vô tâm, không có chuyện gì đặt trong tâm bạn. Chúng ta dùng hình tượng của tâm mà cho rằng cái này chính là tâm, thật ra tâm là không thể tìm được. Chúng ta dùng con mắt thứ ba của Thời Luân Kim Cang để quán tưởng, cuối cùng chứng minh được vô sở trụ, vô sở vị, vô sở đắc cũng chính là từ đây mà sản sinh ra.
Tôi đã nói với mọi người bước thứ nhất là Sơ trụ, chỉ có sự ổn định một chút chút, thường tâm sẽ chạy lung tung. Tục trụ, luyện tập nhiều lần, tóm giữ tâm lại, tập trung trong bảy phút. Hồi trụ là có thể chú ý vào tâm của bạn trong mười bốn phút, mức độ ổn định tăng trưởng. Cận trụ là mục tiêu chuyên chú đã không còn tản mát nữa rồi. Phục trụ chính là mức độ ổn định cao, Tịch trụ sẽ sản sinh ra năng lượng của tâm, Tối tịch trụ là có thể thần hành, Chuyên trụ là khi bạn từ Sơ trụ thiền một mạch đến cấp độ thứ bảy là Tối tịch trụ chỉ trong một sát-na, búng tay một cái là xong rồi. Đẳng trụ là bạn đã hiểu rõ tâm rồi, đã kiến chứng Phật tính rồi, năm loại trí huệ của Phật đề có thể sản sinh ra. Lúc này bạn đã có thể có được thành tựu rồi, bạn có thể hợp thể, cũng có thể biến thân.
Giống như Sư Tôn hợp thể với Liên Hoa Đồng Tử thì sẽ biến thành Liên Hoa Đồng Tử. Liên Hoa Đồng Tử hợp thể với A Di Đà Phật thì sẽ biến thành A Di Đà Phật. A Di Đà Phật hợp thể với Phật Nhãn Phật Mẫu thì sẽ biến thành Phật Nhãn Phật Mẫu. Phật Nhãn Phật Mẫu hợp thể với Đại Nhật Như Lai thì sẽ biến thành Đại Nhật Như Lai. Đại Nhật Như Lai hợp thể với vị Phật ở địa thứ 16 là A Đạt Nhĩ Mã Phật thì sẽ biến thành A Đạt Nhĩ Mã Phật. Đó chính là hợp thể. Mật giáo chính là hợp thể.
Cái gọi là "tương ứng pháp", bạn tương ứng với Sư Tôn rồi thì sẽ hợp thể với bản thân Sư Tôn. Sư Tôn dung nhập vào trong thân bạn thì là tương ứng. Tiếp đó, bạn sẽ tương ứng với Bổn tôn, Bổn tôn của bạn là A Di Đà Phật thì A Di Đà Phật sẽ đi vào thân thể bạn và hợp nhất hoàn toàn cùng bạn, bạn sẽ biến thành A Di Đà Phật, tức thân thành Phật, Bổn tôn có thể tức thân thành Phật. Sau đó, chúng ta tu xuất ra huyễn thân, là thân thể hư huyễn, đi thần hành, đến toàn bộ vũ trụ, tất cả hai mươi tám cõi trời đều có thể đến, đến được Tứ thánh giới, chính là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, bạn đều có thể chứng đắc, chính là nhờ tu thiền định như vậy. Tôi bảo mọi người nhé, trong một sát-na bạn liền có thể chứng đắc, bạn chỉ cần thành thạo "thiền định cửu thứ đệ pháp" thì trong sát-na là bạn có thể thành tựu rồi.
"Pháp vô định pháp", như tôi nói với mọi người, trong sát-na là có thể thành tựu. Bạn hãy y theo thứ tự này mà tu cũng có thể thành tựu rồi. Pháp vô định pháp, thậm chí là cuối cùng cũng biến thành vô pháp, không còn pháp nữa, búng tay một cái là bạn nhập định rồi. Búng tay một cái là bao lâu, chỉ cần một sát-na thôi là bạn có thể thành tựu rồi, tu đến cuối cùng thì thành tựu này của bạn là pháp vô định pháp. Nhưng pháp này thì nói ra thì giống như là một thứ tự, nhưng trên thực tế, bạn chỉ cần tập quen rồi, bạn lập tức tiến nhập vào trong ba la mật thậm thâm ở mức độ rất sâu, trong thiền định rất sâu, chính là bát nhã ba la mật. "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời", khi tiến nhập vào ba la mật đa thậm thâm, thứ mà thiền định thấy được, nhận biết được, chính là cảnh giới minh tâm kiến tính.
Ở đây, những câu chuyện cười mà tôi vừa mới kể phần lớn đều là do bà Trần Truyền Phương kể, phần nhỏ là chuyện của tôi, và một phần nhỏ nữa là do người khác kể cho tôi nghe. Trần Truyền Phương còn có một chuyện cười nữa, có một ông vua chỉ có một con mắt, con mắt kia bị mù, vua mời một họa sĩ đến để vẽ nhà vua. Họa sĩ kia vẽ rất thật, chỉ vẽ vua có một con mắt. Nhà vua nhìn tranh thì rất tức giận: "Ngươi vẽ ta xấu xí như vậy, chỉ có một con mắt." Thế là lôi ông ta ra ngoài giết. Vua lại gọi họa sĩ thứ hai đến. Họa sĩ thứ hai rất sợ hãi, ông ấy nhìn vua để vẽ, vẽ hai con mắt, ông ấy sợ vẽ một con mắt thì sẽ bị giết, nên ông ấy vẽ hai con mắt, vẽ tướng mạo rất đẹp đẽ, rất trang nghiêm, hai con mắt sáng rất có thần. Nhà vua nói: "Chẳng giống ta một chút nào, ta chỉ có một con mắt, ông vẽ ta có hai con mắt, lôi ra ngoài giết." Người họa sĩ thứ hai cũng bị giết. Nhà vua lại tìm một họa sĩ khác đến, họa sĩ này tương đối có trí tuệ, ông ta vẽ xong, nhà vua vô cùng hài lòng, thưởng cho ông ta rất nhiều tiền, còn gọi ông ta là họa sĩ số một của đất nước. Bởi vì họa sĩ này đã vẽ mặt nghiêng của nhà vua, mặt nghiêng thì chỉ có một con mắt thôi.
Tôi kể câu chuyện cười này là có ý như thế này, chúng ta không nhất định phải tuân theo "thiền định cửu thứ đệ pháp" để mà tu, nếu bạn là người mới học thì cần theo thiền định cửu thứ đệ pháp mà tu, đặc biệt là người mới bắt đầu ở mức Sơ trụ. Nếu bạn luyện tập rất lâu rồi, sau một lúc bạn đã có thể đến được cấp độ thứ năm là Phục trụ, trong sát-na bạn đã có thể chú ý vào mục tiêu không tản mát, bắt đầu từ cấp độ thứ năm bạn có thể Chuyên trụ được. Càng cao siêu hơn nữa là sau một lúc bạn đã đến được Đẳng trụ, bạn có thể kết thúc sinh tử, đoạn tận phiền não rồi.
Vì sao có thể đoạn tận phiền não? Vì sao có thể kết thúc sinh tử? Vì sao có thể vô sự? Vì sao có thể vô tâm? Đây chính là sự chứng ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni dưới gốc cây bồ đề. Đây chính là điều mà tôi thường nói với mọi người, bạn muốn hiểu được ở dưới gốc cây bồ đề, Phật Thích Ca Mâu Ni đã minh tưởng như thế nào, đệ nhất nghĩa đế của Phật nằm ở đâu, vì sao có thể cắt đứt hết phiền não, vì sao có thể kết thúc sinh tử, cái này chính là yếu nghĩa quan trọng nhất của Phật pháp. Nếu bạn có thể ngộ ra được, hơn nữa còn có thể thực tiễn, thì chính là Đẳng trụ. Om mani padme hum.
(Hết)