📗

289. Như mộng như huyễn

image

Như mộng như huyễn

🪷 Tôi là một dải cầu vồng

Văn tập số: 289 Xuất bản: 12/05/2022 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời mở đầu

Có một hôm. Tôi lái chiếc xe thể thao Maserati trở về garage ở Chân Phật Mật Uyển. Sau đó tôi đi tới phòng vẽ của mình, chuẩn bị vẽ một bức tranh.

Bỗng nhiên. Tôi cảm ứng thấy phòng vẽ tranh của tôi có một vị vô hình đang đợi tôi. Tôi hỏi: ”Là ai?” Vị đó đáp: ”Thượng sư Lý Hạnh Chi.” Tôi hỏi: ”Có chuyện gì không?” (Đây là Thượng sư quy y tôi từ thời kỳ đầu.) Bà ấy đáp: ”Xin Lư Sư Tôn nói với gia đình tôi, mặc dù nhục thể của tôi đã chết, nhưng bây giờ tôi rất vui vẻ và yên ấm.” Tôi nói: ”Điều này tôi biết, khi còn sống bà mắc nhiều bệnh, những năm tuổi già xương khớp toàn thân đau nhức, khổ sở không kể xiết. Sau khi chết, nhục thân không còn, phiền não vì bệnh cũng đã dứt, đương nhiên là vui vẻ!”

Bà ấy nói: ”Không chỉ như vậy, tôi bây giờ là thiên sứ ánh sáng, tất cả tập tính nhân gian đã trừ hết, vì tôi theo thầy học Phật, thiên tính thuần tịnh, cảnh giới Phật quốc hiện tiền, rời xa hồng trần, thiện huệ viên mãn.” Tôi hỏi: ”Thiện huệ viên mãn của bà thế nào, bà kể cho mọi người đi!” Bà ấy nói: ”Một, mọi thứ tùy ý. Hai, thiên y sạch sẽ. Ba, đi lại tự do. Bốn, một niệm là đến. Năm, thần thông nhậm vận.”

Tôi hỏi: ”Còn có gì khác không?” Bà ấy đáp: ”Kể ra cũng chẳng hết…” Tôi nói: ”Cảnh giới của bà tôi đều biết, trọng điểm bà muốn tôi nói với thế nhân là cái gì?” Bà ấy nói: ”Chết rồi tốt bao nhiêu, nhân gian không tốt.” Tôi cười. ”Thế bà muốn mọi người chúng tôi đều chết sao?” Bà ấy nói: ”Cũng không phải! Muốn mọi người việc ác đừng làm, làm mọi việc thiện, phải thanh tịnh thân khẩu ý của chính mình.”

Tôi nói: ”Chẳng phải tôi vẫn đang dạy những điều này sao?” Bà ấy nói: ”Đúng vậy! Nhưng con người thế gian chấp mê không ngộ, đạo lý dù biết nhưng không làm được! Thế nhân đều đang chạy theo dục vọng.” Tôi hỏi: ”Bà còn muốn nói gì với thế nhân nữa?” Bà ấy nói: ”Đời người như mộng như huyễn, rốt cục thì chẳng có cái gì cả.” Tôi nói: ”Được! Tôi sẽ đi nói với mọi người!” Đây chính là nhân duyên viết nên cuốn sách này. Chúc bạn: Mở sách ra có được lợi ích!

(Tháng 3 năm 2022)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn: Sheng-Yen Lu 17102 NE 40th Ct., REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Thượng sư Lý Hạnh Chi đã tỉnh ngộ rồi

Sau khi tôi kể với mọi người là Thượng sư Lý Hạnh Chi chạy tới phòng vẽ tranh của tôi và nói với tôi những điều này, có người hỏi tôi: ”Thượng sư Lý là vì nhân duyên gì mà nói những điều này?” Tôi đáp: ”Bà ấy đã tỉnh ngộ rồi!” Tôi nói: ”Sau khi Thượng sư Lý chết, bà ấy đã tỉnh ngộ. Sau khi tỉnh, bà ấy bỗng nhiên ngộ ra, thì ra ngày xưa là một giấc mơ lớn.” Người hỏi: ”Chết rồi mới đại ngộ à?” Tôi đáp: ”Có người chết rồi mới đại ngộ, nhưng có người khi chưa chết đã đại triệt đại ngộ rồi.” Người hỏi: ”Ai?” Tôi đáp: ”Phật Thích Ca Mâu Ni.” Tôi nói: ”Phật Thích Ca Mâu Ni dưới gốc cây bồ đề đã tỉnh ngộ, từ đó, ngài hoằng pháp độ chúng sinh, ba lần chuyển pháp luân, thế nhân tuân theo giáo pháp của Phật Đà có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, minh tâm kiến tính.” Người hỏi: ”Phật Thích Ca Mâu Ni tỉnh rồi thì ngài dạy chúng ta phương pháp để thức tỉnh sao?” Tôi đáp: ”Đúng.” Người hỏi: ”Vậy thì nhân gian Ta Bà là mê mộng à?” Tôi đáp: ”Đúng vậy. Chính là người ngộ là Phật, người mê là chúng sinh. Chúng sinh Ta Bà đều đang trong cơn mê mộng.” Người hỏi: ”Lư Sư Tôn ngài là mê hay là ngộ?” Tôi đáp: ”Tôi à? Tôi không mê không ngộ.” Người đó sửng sốt, hỏi: ”Thế nào là không mê không ngộ?” Tôi đáp: ”Tôi không phải là cái gì cả, cái gì cũng đều không phải, thì là không mê không ngộ.” Người hỏi: ”Không hiểu?” Tôi nói: ”Tôi thật lòng thật sự nói với anh, tôi là người hiểu đạo lý mê ngộ. Nhưng cá nhân tôi, từ sau khi hiểu ra, tôi tự nhiên đối đáp cuộc đời, đây là không mê. Con người không mê này đã xem chính mình là hư vô rồi, cho nên mới không có vấn đề ngộ hay không ngộ, vì thế là không ngộ.” Người đó nói: ”Không thật sự hiểu lắm!” Tôi nói: ”Tôi là nhất nguyên, không phải nhị nguyên. Mê và ngộ là nhị nguyên, vì thế tôi không mê không ngộ.” Người hỏi: ”Lư Sư Tôn là Phật à?” Đáp: ”Không phải.” Người hỏi: ”Lư Sư Tôn là ma à?” Đáp: ”Không phải!” Hỏi: “Lư Sư Tôn là gì?” Đáp: “Không là cái gì cả.” (Xin mọi người suy nghĩ kĩ câu nói này.)

02. Chứng đạo ca của đại sư Vĩnh Gia

Đại sư Vĩnh Gia có cuốn “Vĩnh Gia tập”. Tập sách này là do Ngụy Tĩnh - thứ sử Khánh Châu, biên tập mười bài văn của đại sư Vĩnh Gia lại mà thành. Bản thân đại sư Vĩnh Gia là người Ôn Châu, họ Đới, sau khi xuất gia, ngài đã thâm nhập kinh tạng, sau đó đã gặp được Lục Tổ Huệ Năng Tào Khê. Sau khi nói chuyện thì ngài đại ngộ. Ngài chỉ lưu lại một đêm rồi đi, người đương thời gọi ngài là “Nhất Túc Giác” [giác ngộ sau một đêm].

Ngài nhập tịch vào năm đầu tiên của năm Tiên Thiên đời vua Duệ Tông triều Đường, được ban tên thụy là Vô Tướng đại sư. Tác phẩm gồm: ”Chứng đạo ca” ”Vĩnh Gia tập”

Chứng đạo ca của đại sư Vĩnh Gia có một câu là: ”Trong mộng rõ ràng có lục thú, Tỉnh rồi trống trải không đại thiên.” Cái gì là mộng? Đời người chính là giấc mộng lớn trăm năm. Cái gì là lục thú? Trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cái gì là tỉnh? Đại ngộ. Cái gì là đại thiên? Một nhật nguyệt là một tiểu thiên thế giới. Ba nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Ba nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Ba nghìn đại thiên thế giới chính là tam thiên đại thiên thế giới mà chúng ta thường xuyên nói đến. (Trong kinh Phật nói, tam thiên đại thiên thế giới là biểu đạt ý nghĩa là vũ trụ lớn vô hạn.)

Ý nghĩa của câu nói này là: Trong mơ rõ ràng có. Tỉnh rồi tất cả không. Thượng sư Lý Hạnh Chi của chúng ta thì: Lúc sống mọi thứ có. Chết rồi tất cả không. (Lý Hạnh Chi tỉnh dậy, phát hiện ra tất cả đều không còn nữa.) Ha! Đây cũng không phải là phát hiện sớm nhất của đại sư Vĩnh Gia, cũng không phải là phát hiện của Thượng sư Lý Hạnh Chi. Là Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện ra: Tâm quá khứ bất khả đắc. Tâm hiện tại bất khả đắc. Tâm vị lai bất khả đắc.

Tôi thường nói: ”Quá khứ đã qua rồi, hiện tại cũng sẽ trở thành quá khứ, tương lai vẫn còn chưa đến!” Tôi nói: ”Tất cả vô sở đắc!” ”Tất cả vô sở đắc” này tôi phải nói một trăm lần, nói một nghìn lần, nói một vạn lần, nói vạn vạn lần… Nói đến khi miệng khô lưỡi cháy. Nói đến khi trời đất mịt mù. Nói đến khi mặt trăng mặt trời không còn ánh sáng nữa. Có nhớ trong những cuốn sách trước kia của tôi, tôi thường viết bài “Mộng thơ” của Vương An Thạch không?

Biết đời như mộng vô sở cầu Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không Vẫn biết trong mơ tùy mộng cảnh Công đức thành tựu tựa hà sa.”

Trong kinh Kim Cang, Phật Đà nói: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng. Hôm nay tại đây tôi nói: ”Không không không, có hiểu không?”

03. Luân hồi

Sau khi tôi tiếp xúc với Phật pháp. (Khi ấy tôi vẫn chưa khai ngộ.) Tôi và bố tôi có một cuộc tranh luận. Bố tôi nói: ”Con người chết đi là hết.” (Ý ông ấy nói không còn tái sinh luân hồi nữa.) Tôi nói: ”Có luân hồi.” Bố tôi nói: ”Cái gì luân hồi?” Tôi nói: ”Tùy theo nghiệp lực mà luân hồi trong lục đạo trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.” Bố tôi nói: ”Anh lấy ra cho tôi xem, tôi mới tin.” (Bố tôi chỉ dựa vào những gì mắt nhìn thấy.) Tôi nói: ”Có thiên đường, có địa ngục.” Bố tôi nói: ”Tôi không tin.” Tôi nói: ”Kinh Phật đã ghi chép, thiên đường có Dục giới thiên, Sắc giới thiên, Vô sắc giới thiên, còn hạ giới có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.” Bố tôi nói: ”Kinh Phật là có người viết ra, tôi không tin.” Sau đó, chúng tôi không còn hứng thú nói chuyện với nhau nữa.

Hôm nay, tôi có một sự lĩnh ngộ mới: (trong thế giới hiện thực) Thế giới vũ trụ này toàn là luân hồi: Trái đất — sự luân hồi của thành - trụ - hoại - không. Thời tiết — sự luân hồi của xuân - hạ - thu - đông. Tinh cầu — sự luân hồi của tự quay và quay xung quanh. Một ngày — sự luân hồi của ban ngày - ban đêm. Cơ thể người — sự luân hồi của máu dịch. (Cũng có thành, trụ, hoại, không.) Thực vật — sự luân hồi của chuỗi thức ăn. Lịch sử — sự luân hồi của chiến tranh và hòa bình. (Hòa hợp lâu sẽ phân tách, phân tách lâu sẽ hòa hợp.) ……………….

Những ví dụ về luân hồi này kể ra thì vô số, dường như tất cả mọi thứ của tất cả đều không thoát khỏi luân hồi. Tôi nói: ”Sinh ra là khởi đầu của cái chết, chết đi là khởi đầu của sự ra đời.” Cho nên: Sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, sinh tử tử sinh đều là luân hồi.

Trong giới y học: Hít thở là một dạng luân hồi. (gió) Huyết dịch là một dạng luân hồi. (nước) Tế bào là một dạng luân hồi. (đất) Nhiệt độ cơ thể là một dạng luân hồi. (lửa)

Luận mười hai nhân duyên của Phật Thích Ca Mâu Ni kì thực cũng là một dạng luân hồi. Thế giới này chính là luân hồi tới rồi lại luân hồi lui, một động lực trong đó chính là nghiệp. Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ ra luân hồi, ý nghĩa chủ yếu là muốn chúng ta giải thoát khỏi luân hồi. (Giải thoát mộng huyễn.)

Có hai bài thơ làm đại diện:

Đừng suy nghĩ vấn vương Thành dòng sông sinh tử Biển luân hồi lục thú Nhìn chẳng thấy sóng dài.

Và:

Ta bản tính hư vô Vì ngông sinh nhân ngã Làm sao dừng vọng tình Trở về nơi tính Không.

Cá nhân tôi cho rằng, luân hồi lục đạo chẳng có kì kết thúc, thật sự chẳng hề có tình nghĩa nào mà nói, chỉ có sự khác biệt giữa tốt và xấu. Điều quan trọng nhất là: ”Chạy thoát khỏi luân hồi!” (Rời xa mộng huyễn.)

04. Câu chuyện cuộc đời

Tôi lấy hai ví dụ.

Ví dụ thứ nhất: Khi bố tôi già yếu, ông sống ở Thái Bình, Đài Trung, chúng tôi nhờ Tiểu Chương chăm sóc cho người bố già yếu 24/24 giờ. (Khi ấy chúng tôi đã di cư qua Mỹ lâu rồi.)

Bố tôi có một thói quen là đạp xe đạp để vận động. Cứ thế đạp mãi, đạp mãi cho đến khi trời tối. Đạp cho đến lúc đêm khuya. Đạp cho đến khi không còn biết chuyện gì và không còn có ý thức gì nữa (trong đầu trống rỗng). Người ta phát hiện ra ông. Người ta hỏi: ”Nhà ông ở đâu?” Ông ấy đáp: ”Tôi không biết.” Người ta đưa bố tôi đến đồn cảnh sát, cảnh sát hỏi ông ấy: ”Ông nghĩ kĩ thử xem, người nhà ông, nhà của ông.” Bố tôi đã quên hết mọi thứ. (Mất trí nhớ.)

Cảnh sát hỏi: ”Ông có con cái không?” Bố tôi đột nhiên nhớ ra, đáp: ”Có một đứa con trai.” Cảnh sát hỏi: ”Con trai ông tên là gì, anh ấy làm gì?” Bố tôi đáp: ”Tên thì quên rồi, nhưng, nó viết rất nhiều sách.” Cảnh sát dựa vào câu nói “viết rất nhiều sách” này mà tìm ra Lư Thắng Ngạn, gọi điện thoại đến Đài Loan Lôi Tạng Tự, yêu cầu người của Lôi Tạng Tự đến đón ông ấy về.

Điều tôi muốn nói với mọi người là: Đây là một câu chuyện cuộc đời. Nhưng đã không còn là câu chuyện của bố tôi nữa. Bởi vì bố tôi đã quên hết toàn bộ câu chuyện cuộc đời của chính mình rồi. Ông ấy đã hoàn toàn “trống rỗng” rồi.

Ví dụ thứ hai: Ở Seattle chúng tôi có một nữ đệ tử. Cô ấy trở về nhà chăm sóc cho người mẹ đã già yếu của mình, người mẹ sống trong viện dưỡng lão. Cô ấy đẩy xe lăn cho bà đi dạo trong khu vườn của viện dưỡng lão để hít thở không khí trong lành. Bươm bướm bay lượn. Trăm hoa đua nở. Cụ bà đưa mắt nhìn ra xa, không biết là đang nhìn cái gì. Con gái mới hỏi người mẹ: ”Con là ai?” Người mẹ đáp: ”Cô là…?” Con gái nói: ”Con là con gái mẹ đây mà!” Người mẹ hỏi: ”Con gái là cái gì? Cái gì là con gái? Cô là ai?” Con gái đáp: ”Con là…, mẹ không nhớ rồi!” Người mẹ tự hỏi: ”Cô là ai? Tôi là ai?” (Người mẹ già từ lâu đã mất trí nhớ.) …………………..

Tôi đơn giản lấy hai ví dụ câu chuyện cuộc đời này. Những câu chuyện kiểu này nhiều vô số kể. Tôi hỏi: ”Đọc xong hai câu chuyện này, bạn có cảm tưởng gì?” Đời người là cái gì? Cái gì là đời người? Khi người ta mất trí nhớ, ai là ai? Khi ký ức còn tồn tại, có rất nhiều câu chuyện cuộc đời, kể mãi không hết. Khi ký ức không còn, thử hỏi: “Cuộc đời ở đâu?”

05. Đi sâu vào nghiên cứu cuộc đời

Nói một cách rất đơn giản: ”Cuộc đời, chính là một quá trình từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi.” Cũng có nghĩa là: Một ngày có cuộc đời của một ngày. Một tháng có cuộc đời của một tháng. Một năm có cuộc đời của một năm. Tôi nói với mọi người: ”Mỗi người chúng ta cắm từng đoạn ngày tháng năm của cuộc đời vào trong kho ký ức (bộ não), cứ như thế xâu chuỗi lại, chính là một cuộc đời.” Chúng ta vì sao mà có cuộc đời? Đáp án là: Mắt — thị giác. Tai — thính giác. Mũi — khứu giác. Lưỡi — vị giác. Thân — xúc giác. Ý — tư giác. Bởi vì chúng ta có cảm giác nên mới có cảm giác tồn tại của cuộc đời chúng ta. Ở đây chính là triết học tồn tại. ”Tôi nghĩ nên tôi tồn tại.” ”Tôi thấy nên tôi tồn tại.” …………….

Chúng ta cảm thấy đẹp, vì thế chúng ta vui vẻ. Chúng ta cảm thấy không hoàn mỹ, vì thế chúng ta đau buồn. Ngọt bùi đắng cay đều là những cảm giác. Trong kinh Phật có nhắc đến “sinh khổ”, chúng ta ở trong thai mẹ có đủ thứ khổ. Bởi vì không có cảm giác, cho nên chẳng biết gì cả. Vì thế, tôi đưa ra một kết luận: Có cảm giác mới có cuộc đời. Không có cảm giác thì không có cuộc đời. Cuộc đời dựa hoàn toàn vào cảm giác. Nếu kho ký ức trống không, cũng tức là mất trí nhớ, thì cuộc đời này đã trở thành không rồi.

Tôi lấy ví dụ để nói rõ: Con người hiện đại có cái gọi là “bắt nạt trên mạng”, rất nhiều người không chịu nổi sự bắt nạt ấy mà tự sát. Ngày xưa: Malaysia (Con Khỉ) phê phán tôi trên mạng. Singapore (Nghiêu Trung) phê phán tôi trên mạng. Đài Loan (Thang) phê phán tôi trên mạng. Đài Loan (Nhiêu) phê phán tôi trên mạng. Còn tôi, ấy thế mà lại không có cảm giác gì. Vì sao? Bởi vì Lư Thắng Ngạn không có điện thoại di động, không có máy vi tính, không có máy tính bảng. Họ phê phán tôi trên mạng, tôi chẳng hề đọc được một tí nào. Tôi tự cười mình: ”Tôi là người nguyên thủy trong cuộc sống hiện đại!” ”Tôi là thằng ngốc trong cuộc sống hiện đại!” ”Tôi là kẻ sống cô độc xa lánh đời!”

Vì thế: Tôi chỉ biết viết sách, vẽ tranh, tu pháp, thuyết pháp. Những cái khác, tôi đều mù tịt. Cuộc đời của tôi tự tại như như. Cuộc đời của tôi kì thực quá đơn giản, cuộc sống của tôi chỉ có hai không gian: nhà mình và Lôi Tạng Tự. (Những năm gần đây.) Xin lỗi! Cuộc sống của ông già tôi đây chính là như thế! Lão Tử nói: ”Vi đạo nhật tổn.” [Theo đạo ngày một giảm bớt.] Những thứ không cần thiết, tôi đều vứt bỏ đi hết, vứt bỏ toàn bộ đều sắp trống không rồi. ”Thanh tịnh!” ”Vô vi!” ”Không tịch!”

06. Chứng ngộ A La Hán

Ngày xưa, thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn trụ thế. Rất nhiều người chứng ngộ A La Hán, A La Hán này là quả vị chứng ngộ của Tiểu thừa. A La Hán có ba ý nghĩa: 1. Sát tặc — ý nghĩa là kẻ giết lục tặc, giết phiền não. 2. Ứng cúng — nên nhận cúng dường của trời người. 3. Bất sinh — vĩnh viễn nhập niết bàn, không còn chịu quả báo sinh tử nữa.

Phật Đà trụ thế, có mười sáu A La Hán. Có năm trăm A La Hán, năm trăm có ý nghĩa là rất nhiều rất nhiều. [Tôn sư viết như vậy, mười sáu A La Hán, sau đó là năm trăm A La Hán] Tôi nói với mọi người cái gọi là giết lục tặc có ý nghĩa gì. 1. Mắt — không nhìn lung tung. 2. Tai — không nghe lung tung. 3. Mũi — không ngửi lung tung. 4. Lưỡi — không liếm lung tung. 5. Thân — không chạm lung tung. 6. Ý — không nghĩ lung tung.

A La Hán có rất nhiều giới luật, hai mắt nhìn xuống đất, không được ngửa nhìn trời, không được xức nước hoa hay hương liệu, ăn uống phải đơn giản (ăn thô), không được mặc quần áo vải mềm, không được ngủ trên giường cao. Ý niệm chỉ đơn nhất hoặc vô niệm. Vì sao cần phải như vậy? Bởi vì lục tặc sẽ dẫn đến phiền não. Phải giữ giới luật cho từng việc ăn, mặc, ở, đi lại, nhu cầu.

Trên phương diện ăn, ăn thô tức là thức ăn đơn giản, không tham vị ngon, quần áo thì phải là loại vải thô cứng trét phân. Sống thì ở dưới cây, hang động, giữa phần mộ. Những quy tắc đi lại rất nhiều, ví dụ: Đi chân đất. Đi giày cỏ. Đi như gió, ngồi như chuông, đứng như tùng, nằm như cung. Hai mắt nhìn đất, không được nhìn phụ nữ. Nói chuyện với phụ nữ phải giữ khoảng cách bốn mét, chỉ có thể nói vài câu, những việc này đều có quy định rõ ràng. Chỉ nói vào trọng tâm, không được nói nhiều lời. Những việc này đều là giới luật. Nói một câu đơn giản là: ”Cuộc sống trong sáng và đơn nhất (đơn giản).”

Ở đây tôi có một bài “Lục tướng tụng” của thiền sư Thiện Chiêu đời Tống.

(1) Nhìn như A Na Luật, phân minh không một vật Đại địa và sơn hà, diễn xuất ba la mật.

(2) Nghe như Bạt Nan Đà, âm thanh không bỏ sót Gần xa đều rõ ràng, lại không nghĩ lớn lao.

(3) Thơm như Khắc Già Nữ, tâm từ bi rộng khắp Tịnh uế biết tường tận, chính là mẹ chúng ta.

(4) Vị thì như Kiêu Phạm, ngọt đắng đều bình thường Vào miệng biết chua cay, giống như trăng hôm ấy.

(5) Xúc như Thuấn Nhược Đa, thiện ác đều hay biết Giết mổ không giận mừng, tôn trọng như Di Đà.

(6) Ý như Đại Ca Diếp, một pháp bì lư câu Phòng tối vẫn thấy rõ, nhận lấy nghìn cành hoa.

Tại đây, tôi nói với mọi người: Đây là những phẩm hạnh và đạo nghĩa của sáu vị hành giả. Nếu có thể thực hành theo thì chính là A La Hán. Duy có như vậy mới là rốt ráo! Hãy ghi nhớ lời của tôi: ”Từ nhiều biến thành một.” ”Từ một biến thành không.”

07. Tôi ngồi trong trống rỗng

Ở Seattle Lôi Tạng Tự nước Mỹ. 8 giờ tối thứ bảy đồng tu. Tôi lên pháp tọa. Người điều khiển chương trình hô lên: Đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, mặc bia giáp hộ thân… Hai mắt tôi nhắm lại. Không nghĩ ngợi gì cả, chỉ trong sát-na, không còn cảm giác gì cả, hai mắt vẫn nhắm. Tai không nghe thấy bất kì âm thanh nào nữa. Đầu tiên tôi đếm hơi thở, sau đó ngay cả đếm hơi thở cũng không còn nữa. Lưỡi chạm vào hàm trên, lưỡi cũng không còn cảm giác. Không chú ý tới thân thể chính mình. Không nghĩ gì cả.

Chính vào lúc đó: Bản thân biến mất! Thế giới biến mất! Thời gian không biết! Không gian không biết! Nói cách khác là, bốn bức tường của Lôi Tạng Tự đều tiêu biến, các đệ tử ngồi dưới không còn một ai. Trống rỗng. Trời ơi! Ngay cả đối tượng để bản thân chú ý đến cũng mất rồi. Không có quán tưởng. Không có kết ấn. Không có trì chú. Không có nhập tam ma địa (thiền định).

Bình thường chúng ta có rất nhiều suy nghĩ, bây giờ không phải là chỉ nghĩ đến một đối tượng, mà là ngay cả đối tượng cũng không còn, tôi tiến nhập vào trong trạng thái trống không. Thời khắc này. Tôi chỉ có thể nói thế này: ”Tôi ngồi trong trống rỗng!” Đây là một cảnh giới sao? Không, ngay cả cảnh giới cũng không có. Có nhìn thấy ánh sáng không? Không, một điểm sáng cũng không có, cũng không phải là tối đen như mực. Nhìn thấy Bổn tôn không? Không, ngay cả Bổn tôn cũng không xuất hiện. Là cảm giác khinh an? Là cảm giác hỷ lạc? Là cảm giác tự nhiên thoải mái? Là cảm giác ấm áp dễ chịu? Là cảm giác tự nhiên? Không phải, đều không phải. Nói để mọi người biết, cái gì cũng không phải.

Ngay đến bản thân cũng biến mất, ngay cả người khác cũng biến mất, ngay cả thời gian đang trôi qua cũng không còn cảm giác thấy, ngay cả không gian cũng hoàn toàn tan biến. Thiền tông có một câu nói: ”Năng sở cùng mất. [Năng sở: từ gọi chung Năng và Sở. Chủ thể của một động tác gọi là năng, khách thể (đối tượng) của động tác ấy gọi là sở.] Thân tâm rơi rụng. Hư không vỡ tan. Mặt đất san bằng.”

Tôi nghĩ đại khái chính là như vậy! Tôi chỉ là một danh từ. Trống rỗng cũng chỉ là một câu chữ. Chính là như thế, chính là ngồi như thế, hoàn toàn bất động, tôi nói với mọi người, ngay cả ngồi cũng không còn cảm giác, ngay cả một cử động cũng không có, cũng không có cảm giác. Giống như đờ người ra à? Không phải! Giống như ngủ gật? Không phải! Giống như xác chết? Không phải! Cho đến khi người điều khiển chương trình hô lên: “Mời Lư Sư Tôn làm hồi hướng chung.” Câu nói này đi vào trong tai, tôi mới ngẩn ngơ nhớ ra: “Đang đồng tu!”

08. Tồn tại một cách không tồn tại

Có một hôm, tôi gặp Hiền Thủ Bồ Tát. Tôi nói với ngài: ”Tôi thường xuyên chẳng có cảm giác gì cả.” Hiền Thủ Bồ Tát không nói gì. Tôi ép ngài ấy nói cho tôi biết việc này rốt cục là thế nào. Hiền Thủ Bồ Tát nói: ”Được rồi! Ngài hỏi tôi đáp.” Tôi hỏi: ”Chuyện gì đang xảy ra với tôi?” Bồ Tát đáp: ”Tồn tại một cách không tồn tại.” Tôi hỏi: ”Đã không tồn tại rồi thì còn có tồn tại gì nữa?” Bồ Tát đáp: ”Bản nhiên.” (pháp nhĩ bản nhiên) Tôi hỏi: ”Còn có cách giải thích khác không?” Bồ Tát đáp: ”Chúng ta không cần giải thích. Nói trực tiếp chính là tự tính, pháp tính, Phật tính, không tính………”

Tôi hỏi: ”Có đặc trưng gì?” Bồ Tát đáp: ”Là tồn tại liên tục (sống mãi), là nhẹ nhõm ung dung và vui vẻ, là chân ngã, là tịch tĩnh nhưng mà không phân biệt.” Tôi hỏi: ”Có phải là thường lạc ngã tịnh không?” Bồ Tát đáp: ”Đúng vậy.” Tôi hỏi: ”Là ngoan không sao?” [Ngoan không: vô tri vô giác, cảnh giới hư vô tự nhiên không nghĩ suy.] Bồ Tát đáp: ”Trong đó có vật.” Tôi hỏi: ”Cái vật ở trong đó, làm sao để hiện ra?” Bồ Tát đáp: ”Hoa trong gương, trăng trong nước.” Tôi hỏi: ”Tôi là một dải cầu vồng nhỉ?” Bồ Tát đáp: ”Đúng.” Tôi hỏi: ”Chúng sinh trong thiên hạ này, người người đều là một dải cầu vồng nhỉ?” Bồ Tát đáp: ”Chúng sinh đều có Phật tính, chỉ vì nhận thức sai rằng người người đều có thực, vì thế mới ở trong luân hồi, chẳng có kỳ thoát ra.” Tôi hỏi: ”Làm sao thoát khỏi luân hồi?” Bồ Tát đáp: ”Một mình tỏa sáng.” Tôi hỏi: ”Một mình tỏa sáng chẳng phải là ích kỷ sao?” Bồ Tát đáp: ”Ánh sáng và ánh sáng hòa tan vào nhau.” Tôi hỏi: ”Như tôi thì phải làm sao?” Bồ Tát đáp: ”Bảo trì chân ngã nhậm vận.” Tôi hỏi: ”Chân ngã là Phật Đà, Thánh giả, Đại giác Kim Tiên phải không?” Bồ Tát đáp: ”Người người đều như thế.”

Hiền Thủ Bồ Tát nói: ”Nếu bạn quá kiêu ngạo thì lại trở về thế giới phàm phu.”

09. Tôi là một dải cầu vồng

Bây giờ tôi đã hiểu rõ ràng rồi, minh bạch rõ rành rành rồi, tôi là một dải cầu vồng. Tôi cũng đã ngộ ra, thế giới này như mộng như huyễn. Thì ra: Thiên giới huyễn. Nhân giới huyễn. A tu la giới huyễn. Địa ngục giới huyễn. Ngạ quỷ giới huyễn. Súc sinh giới huyễn. Sáu giới này đều là huyễn biến mà ra. Và người huyễn diễn những trò huyễn, căn bản toàn là huyễn, lục đạo luân hồi toàn là trò chơi vở kịch huyễn.

Ngộ cảnh của tôi là: Không — chân không. (trong đó có Phật tính) [cái Không chân thực] Có — huyễn có. [cái có huyễn ảo] Cho nên Tâm Kinh có nói: Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Kinh Kim Cang có nói: Thực tướng là phi tướng, phi tướng tức thực tướng. Chẳng trách mà: Phật Đà dưới gốc cây bồ đề, vừa khai ngộ đã muốn nhập niết bàn. Còn nữa, Phật Đà thuyết pháp 49 năm. Khi ngài muốn niết bàn, Văn Thù Bồ Tát hạ giáng, thỉnh Phật Đà: “Tiếp tục chuyển pháp luân!” Phật Đà nói: ”Ta có chuyển pháp luân sao?” Còn nữa, Phật Đà nói: ”Căn bản ta chẳng hề thuyết pháp.” Bởi vì: Huyễn nhân thuyết pháp. Huyễn nhân nghe pháp. Và Phật pháp cũng là huyễn. Chú thích: trong Kinh Kim Cang nói: “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng.”

Đương nhiên tôi hiểu điều pháp sư Quảng Khâm nói lúc ngài niết bàn: ”Không đến, không đi, không hề gì!” (Đều là huyễn.) Tôi cũng hiểu, Lão Tử cưỡi trâu xanh rời khỏi Hàm Cốc Quan. Cũng là: hai chữ ”vô sự”. Lão Tử đã bặt tăm tông tích rồi. (huyễn sinh) Tương lai, có một ngày, tôi (Lư Sư Tôn) cũng sẽ bặt tăm tông tích. Vở kịch của tôi đã kết thúc rồi. Tôi nghỉ ngơi rồi! Chào tạm biệt mọi người! Tôi thị tịch chỉ có ba chữ ngắn ngủn: “Không liên quan!”

Rất nhiều đệ tử nói với tôi: ”Không thể! Không thể! Lư Sư Tôn sẽ không thể nào!” Tôi nói: ”Có thể chính là không thể, không thể chính là có thể.” (Vốn không sinh tử.) Lúc này, mắt tai mũi lưỡi thân ý hoàn toàn không còn nữa! Phật tính (tự tính) chính là ở đó. Không tăng không giảm! Tôi về nhà đây!

Nếu có người hỏi tôi: ”Vở kịch này, ngài đã diễn cái gì?” Tôi đáp: ”Tùy duyên, tùy thuận, tùy phận.” Xin chú ý hai chữ “tùy phận”, tùy phận này chính là tôi giữ vững bổn phận của mình. Mặc dù tôi có thể muốn gì tùy ý, nhưng tôi cũng không quá đà! (giới luật)

10. Thế nào là “ngoan không”?

Có người hỏi Lư Sư Tôn: ”Ngài nói tất cả đều không! Không đến cực điểm thì là cái gì?” Tôi đáp: ”Là có.” Người đó há miệng không ngậm lại được vì kinh ngạc. Tôi khẽ cười với anh ta. Ha!

Còn nữa, có người tự nhận là đã khai ngộ, anh ta nói: ”Tôi không cần tu pháp nữa, bởi vì pháp là giả.” (Tất cả đều là giả.) Tôi nói: ”Cần tu pháp, Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp, là tam căn bản.” Anh ta hỏi: ”Có Thượng sư sao? Có Bổn tôn sao? Có Hộ pháp sao? Những cái này đều là huyễn, vì sao phải tu huyễn?” Tôi đáp: ”Tu huyễn thành chân!” (Từ cái giả ngã tu xuất chân ngã.)

Còn nữa, có người nói: ”Trên chẳng có Phật để mà tu thành, dưới chẳng có chúng sinh để mà độ. Vậy chúng ta thành Phật gì? Độ chúng sinh gì?” Tôi nói: ”Tự tính tức Phật tính, Phật tính là tự tính. Tự mình giác ngộ, cũng cần người khác giác ngộ. Giác hành phải viên mãn.” Người đó nói: ”Không hiểu!” Tôi nói: ”Anh không hiểu thì tôi mới phải dạy anh!”

Còn nữa, có người nói: ”Lư Sư Tôn nói, tất cả đều là mộng huyễn, nhà cửa là mộng huyễn, xe cộ là mộng huyễn, thất trân bát bảo đều là mộng huyễn, vợ con tài lộc đều là mộng huyễn, vậy chúng ta sống để làm gì?” Tôi nói: ”Lời này là thực tướng, thực tướng chính là phi tướng, tất cả mọi tướng đều là phi tướng. Nhưng, chúng ta ngộ được thực tướng tức là phi tướng, phi tướng là thực tướng thì vẫn phải sống tiếp, sống tiếp để làm gì? Để thực hành cuộc sống phi tướng, rời xa luân hồi.” Tôi nói: ”Trọng điểm là ở sự trong sáng, không tạo ra nhân của luân hồi nữa, không còn có nghiệp, nghiệp báo là nhân của luân hồi.”

Còn nữa, có người nói: ”Tất cả đều là mộng huyễn. Tất cả rỗng tuếch trống không. Nỗ lực tinh tấn chẳng có chút ý nghĩa nào, tâm như cây khô tro tàn, thân là cái thể xác hư huyễn.” Không ăn. Không uống. Không nghĩ. Không ngủ. Không chết. Không sống. Tôi nói: ”Như vậy cũng không đúng, đây chính là ngoan không.” Hỏi: ”Thế nào mới không phải là ngoan không?” Đáp: ”Trân trọng cái ta giả này, tu cái ta giả thành cái ta thật, không còn luân hồi trong lục đạo nữa. Sau đó, thường, lạc, ngã, tịnh. Tự tính thần thông nhậm vận, đây mới không phải là ngoan không.” Hỏi: ”Giả ngã tu xuất chân ngã ư? Tu thế nào?” Tôi đáp: ”Dùng Chân Phật Mật Pháp để tu.” Tôi nói: ”Mộng huyễn không phải tiêu cực, mà là tích cực rời xa lục đạo luân hồi.”

11. Tôi nói với bạn một bí mật

Đây là một bí mật cực lớn, tôi lén nói cho bạn biết. Khi bạn hiểu tất cả đều không, thì đó là “kiến đạo”. Thế là đã bắt đầu “ngộ xong mới khởi tu”, tiến vào giai đoạn “tu đạo”. Lúc này mới xem là hành giả chân chính.

Cho đến khi “trống không tất cả”: Thân không. Tâm không. Pháp không. Tính không. Lúc này, giống như điện cực, một tiếng nổ “ầm” như sấm, tiếng vọng vang rền khởi lên. Trời đất đại chấn động. Vũ trụ tràn đầy pháp lưu. (Giống như một cái bình rỗng, đột nhiên đổ đầy cam lộ.)

Trên thực tế, ngay cả bình rỗng cũng không có. Đây là sự dung hợp giả ngã và chân ngã. Thiên địa hợp nhất. Phật ta hợp nhất. Bổn tôn và ta hợp nhất. Ta tức là Bổn tôn. Bổn tôn tức là ta. Chúng ta thường giải thích là: ”Một giọt nước rơi vào trong biển lớn!” Người tu Mật giáo thì nói: Khí thông với khí. Mạch tiếp xúc với mạch. Điểm hòa tan với điểm. (minh điểm) Cũng tức là “nhập ngã ngã nhập”, dòng chảy pháp của vũ trụ tiến vào ta, ta tiến vào dòng chảy pháp của vũ trụ.

Lúc này: Sướng như tiên sướng muốn chết. (Miêu tả một trạng thái hỷ lạc.) Chết rồi! Chết rồi! Có người nói: Không Hành Mẫu xuất hiện đầy ắp hư không, vỗ tay chúc mừng bạn. Họ hô vang: Thành tựu rồi! Thành tựu rồi! Kinh Kim Cang nói: Như Lai đều thấy người ấy, Như Lai đều biết người ấy. Phật và Phật biết nhau. (Trên thế giới chỉ có số ít người đạt đến được cảnh giới này.) Nhưng, đích thực là có. Bởi vì tôi (Lư Sư Tôn) đã đạt đến cảnh giới này rồi. (Trên nguyên tắc, dùng hai chữ cảnh giới cũng không đúng, nhưng để mọi người hiểu được nên mới phải dùng hai chữ cảnh giới này.)

Bởi vì không có văn tự, ngôn từ nào có thể dùng được. Tôi mọi lúc đều ở trong cảnh giới này, Phật không rời xa tôi, tôi cũng không rời xa Phật. Tôi chỉ là “bảo nhậm”. Bảo nhậm chính là duy trì nhậm vận. Có thần thông hay không? Đất — Tôi vững chắc như núi. Nước — Tôi biến hóa như nước. Lửa — Tôi pháp lực vô cùng. Gió — Tôi hóa thân vô số.

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh nói: Không sinh không diệt, không bẩn không sạch, không tăng không giảm. Là đại thần chú. Là đại minh chú. Là vô thượng chú. Là vô đẳng đẳng chú. Đến được cảnh giới này rồi, Phật giáo có một danh từ, gọi là: A nậu đa la tam miểu tam bồ đề.

12. Nhân sinh quan của tôi (kiến giải về chân không)

Tôi nói: ”Sau khi tôi chết, chỉ để lại ba chữ: Không liên quan.” Đệ tử nói: ”Không hiểu!” Rất nhiều đệ tử nói: ”Nghe không ra!” (Đài ngữ) Để các đệ tử hiểu được lời tôi, chỉ có thể dùng so sánh để giải thích ngộ cảnh của tôi.

Ví dụ của tôi như sau: Tôi đi xem một bộ phim điện ảnh. Nam chính - nhân vật chính. Nữ chính - nhân vật chính. Vai phụ - khách thể. Vai phụ - tình tiết bối cảnh. (Chủ khách phân rõ ràng.)

Thế tôi là gì đây? Tôi là người xem. Chẳng có liên quan gì đến bộ phim. Nội dung của bộ phim đương nhiên là có hỷ nộ ái ố, có hài kịch, có bi kịch, có phim chiến tranh, phim tình cảm, phim kinh dị, phim khoa học viễn tưởng…… Có một số người khóc theo, cười theo, căng thẳng theo, sợ hãi theo, đi theo những tình tiết trong phim. Đó là người xem phim, họ hòa mình vào trong bộ phim, tự nhiên sản sinh ra những chấn động tình cảm. Đến khi bộ phim kết thúc. Đèn điện bật sáng. Bạn thốt nhiên nhận ra, thì ra ta là ta, phim là phim. ”Không liên quan!”

Tôi nói với mọi người: Phim là giả. Nam nữ chính cũng là giả. Bối cảnh cũng là giả. Tình tiết là giả. Hỷ nộ ái ố là giả. Sống là giả. Chết là giả. (Khi bạn hòa mình vào trong bộ phim, bạn cho rằng chính mình là nam chính, hoặc bạn là nữ chính.) Đến khi phim kết thúc rồi, bạn mới tỉnh ngộ ra. Thì ra chỉ là một bộ phim. Bạn chỉ là người xem. Hai thứ hoàn toàn không liên quan!

So sánh của tôi rất rõ ràng dễ hiểu rồi! Phật tính là người xem. Vai chính là cái ta giả. Vai phụ là người khác. Tình tiết là cuộc đời. Cuộc đời có sinh, có tử, có chủ, có khách. Có những tình tiết mang hình dáng màu sắc khác nhau. Có hỷ nộ ái ố. Bộ phim chính là cuộc đời. Nhân sinh quan của tôi chính là như vậy. Cuộc đời là cuộc đời, ta chỉ là người xem. Cũng giống như vậy, hai thứ không liên quan!

Đến đây, mọi người đã hiểu ra: Tổ sư Đạt Ma nói: “Không có công đức.” Nhị Tổ Huệ Khả nói: “Không thể tìm được tâm.” Lục Tổ nói: “Vốn dĩ không một vật.” Và nói: “Không nghĩ thiện! Không nghĩ ác!” Kinh Kim Cang nói: “Như mộng huyễn bào ảnh.” Tôi nói: “Không liên quan!”

13. Rốt cuộc ta là ai?

Công án Thiền tông có một chủ đề để tham luận: ”Ta là ai?” Tiếp theo là hỏi: ”Ta từ đâu đến?” ”Ta đi về đâu?” ”Ta ở nhân gian làm cái gì?” Được rồi! Mọi người tham luận câu nói này, tham luận đến cuối cùng thì kết quả là không có đáp án. Không có đáp án chính là đáp án. Có trí giả trả lời: Ta chính là ta. Ta đến từ nơi sinh ra. Ta đi về nơi chết. Ta ở nhân gian làm người. Đáp án này cũng là một câu trả lời như không trả lời.

Tư liệu về cuộc đời của “tôi”: Tôi sinh vào giờ Ngọ, ngày 27 tháng 6 năm 1945. (Âm lịch là ngày 18 tháng 5.) Địa điểm là trại gà bên bờ suối Ngưu Trù, huyện Hậu Hồ, tỉnh Gia Nghĩa, Đài Loan. (Chú thích: 1945 là năm cuối cùng của chiến tranh thế giới thứ hai, máy bay quân sự Mỹ đã thả bom tại sân bay Thượng Thủy ở Gia Nghĩa.) Bố mẹ tôi phải chạy tị nạn đến trại gà. Bố tôi là Lư Nhĩ Thuận. Mẹ tôi là Lư Hoàng Ngọc Nữ. Tôi là con trai trưởng, đặt tên là Lư Thắng Ngạn. Tiểu học: Tiểu học Đại Đồng thành phố Cao Hùng. Sơ trung: Trường Cấp hai số hai Cao Thị. Cao trung: Trường Trung Học Công Nghiệp Cao Hùng. Đại học: Trường Trắc Lượng. (Trường Quân Sự thuộc bộ Đại Học.) Sau khi tốt nghiệp, tôi phục vụ tại hai đơn vị: 1. Liên đội trắc lượng số 5802. 2. Xưởng đồ họa. Ngày 16 tháng 6 năm 1982, di cư đến Seattle nước Mỹ.

Tôi viết đoạn lý lịch ngắn này là vào ngày 20 tháng 1 năm 2022. Tôi nói: Đây là những dữ liệu quan trọng về cuộc đời của tôi. Vậy tôi tự hỏi: ”Tôi là ai?” Tôi không trả lời được. Điều duy nhất tôi có thể trả lời là: Vào năm 26 tuổi, tôi đã đến Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung, Diêu Trì Kim Mẫu đã giáng linh. Diêu Trì Kim Mẫu đã nói bên tai tôi: ”Con là Liên Hoa Đồng Tử.” Khi ấy, tôi còn chẳng biết Liên Hoa Đồng Tử là ai.

Sau đó tôi biết đời Đường có bài ca dao: Liên Hoa Đồng Tử gặp Kim Tiên. Khắp cả hư không hoa rơi xuống. Vượt mây nghe tiếng trời vi diệu. Lời nào tả xiết lạc cõi thiên.

Sát-na ấy tôi đã hiểu, Liên Hoa Đồng Tử chính là hóa thân của A Di Đà Phật, bản địa chính là A Di Đà Phật. Liên Hoa Đồng Tử có danh xưng sớm nhất là Hạng Quang Đồng Tử hoặc Hóa Sinh Đồng Tử. Ý nghĩa là: “Đứa bé hóa sinh từ hoa sen.” Và: Bảo Thượng Đồng Tử. Bảo Ý Đồng Tử. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. v.v… Đều là hóa sinh của Liên Hoa Đồng Tử. Bây giờ, tôi là ai? Chí ít tôi cũng có một chút manh mối. Vậy tôi xin hỏi: ”Rốt cuộc bạn là ai?”

14. Tự giác và giác tha

Chúng ta biết khuôn mẫu của cuộc đời là: Đi học. (học hỏi) Đi làm. (sự nghiệp) Kết hôn. (gia đình) Sinh và nuôi dưỡng con cái. (Ngoài những việc này ra, chẳng còn gì nữa.) Ý nghĩa của cuộc đời nằm ở đâu? Mỗi người đều giống như nhau. Đều là như vậy, đời này đến đời khác cứ thế tiếp tục kế thừa. Sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống.

Cuối cùng tôi đã giác ngộ rồi. Giác ngộ chính là tự giác. Còn hướng dẫn người khác cũng giác ngộ chính là giác tha. Vì thế ý nghĩa của cuộc đời là: Tự giác và giác tha.

Nói rõ hơn một chút chính là: ”Bản thân mình tỉnh đã, rồi cũng dạy cho người khác tỉnh ra!” Nói một cách đẹp đẽ là: ”Độ chúng sinh!”

”Tự giác là cái gì?” Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta: Tất cả pháp hữu vi Như mộng huyễn bào ảnh Như sương cũng như điện Nên quán thấy như vậy.

Ngày xưa, khi Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, ngài thường xuyên thức tỉnh đệ tử: ”Đời người là khổ.” ”Đời người là không.” ”Đời người vô thường.” ”Đời người vô ngã.” Đây chính là điều tôi thường xuyên nói: “Khổ, không, vô thường, vô ngã.” Khổ là cái gì? Khổ là thân tâm bức bách phiền muộn. Bộ phận của thân thể có bốn vạn tám nghìn loại bệnh, một khi bệnh đến thân thì khổ không lời nào tả xiết, đó là khổ của cái thân. Ngoài ra còn có khổ tâm, lo buồn đố kỵ ghen tuông… là khổ tâm. (Hai cái khổ này gọi là cái khổ bên trong.)

Còn có cái khổ bên ngoài: 1. Tai vạ bị trộm cướp. 2. Tai họa gió mưa sấm chớp, đất nước lửa gió. 3. Thời tiết nóng quá lạnh quá. 4. Chiến tranh. 5. Không có nước uống, không có thức ăn, vừa đói vừa khát. (nạn đói)

Còn có: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ. Còn có cả: Yêu mà phải xa cách khổ. Ghét mà phải gặp mặt khổ. Cầu mà không được khổ. Ngũ uẩn cháy hừng hực khổ.

Từ trong những cái khổ này, chúng ta hãy từ từ lĩnh hội “cuộc đời là khổ” của Phật Đà đi. Phát khởi lên cái tâm rời xa khổ, muốn thoát ly khỏi khổ cuộc đời này, duy có cách tỉnh lại, nhảy ra khỏi luân hồi.

Tôi nói: Cuộc đời đương nhiên cũng có một vài lạc thú, nhưng khổ nhiều hơn vui, vui chỉ là nhất thời. Kì thực lục đạo luân hồi cũng là khổ, đây chính là cái khổ lưu truyền. Tôi dạy chúng sinh nhận thức cái khổ. Bởi vì khổ thì mới có thể nghĩ đến chuyện thoát ly khổ. Mới có thể tiêu trừ nghiệp của chính mình. Đừng cho rằng vui là vĩnh hằng, có một ngày vô thường đến thì cái vui ngắn ngủi của nhân gian cũng chính là: ”Giấc mộng vỡ tan!”

15. Bản chất của cuộc đời là Không

Tôi nói: ”Pháp vì nhân duyên mà sinh ra, tôi nói kết cục là không.” Thân thể con người ta là tứ đại giả hợp, khi phân chia ra thì không có gì cả, vì thế là không. Một người không. Vạn người không. Đây là: “Không sinh.”

Còn nữa, tất cả sự vật cũng đều là tướng giả hợp, to lớn như trái đất, nhỏ bé như ngôi nhà, cái xe, đều là không. Đây là: “Không pháp.” Ngã không, pháp không, ngã pháp đều không là ba cửa giải thoát. Phật nói: Pháp mười hai nhân duyên. Pháp bốn đế. (Bốn đế, mười hai nhân duyên, đều là pháp không.)

Và: Mười tám thứ không là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thủy không, tán không, tính không, tự tính không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.

Tôi có một đệ tử đi nghe giảng kinh về mười tám không. Tôi hỏi: ”Nghe xong rồi thì sao?” Anh ta đáp: ”Đã hiểu rồi.” Tôi hỏi: ”Hiểu xong rồi thì thế nào?” Anh ta đáp: ”Phiền não không, ngã chấp không, pháp chấp không, không tất cả mọi chỗ.” Tôi hỏi: ”Từ đây trở đi thì sao?” Anh ta đáp: ”Như mộng như huyễn.” Tôi nói: ”Đây chính là ba tam muội, ba cửa giải thoát.” Tôi nói: Phật Thích Ca Mâu Ni chính là Vua Không. Phật là vua của vạn pháp, vạn pháp cũng là không, vì thế mà là Vua Không.

Còn có một thuyết khác là: Đời quá khứ có vị Phật gọi là Không Vương Phật. Kinh Pháp Hoa ghi chép rằng: ”Phật Thích Ca Mâu Ni và A Nan tôn giả ở chỗ của Không Vương Phật phát tâm A nậu đa la tam miểu tam bồ đề. A Nan vui mừng với việc hiểu biết nhiều, tôi thường khuyên tinh tấn.”

Còn nữa: A Di Đà Phật vì địa vị và thời thế mà cùng với ba vị tì kheo bái Không Vương Phật làm thầy. Không Vương Phật có tướng bạch hào sáng rực. Vì quán tướng bạch hào sáng của Không Vương Phật mà thành Phật. Vãng Sinh Yếu Tập viết: ”Cúi rạp người xuống đất, toàn thân đổ mồ hôi, quy mệnh Di Đà Phật, nhớ đến tướng sáng bạch hào ở giữa hai lông mày mà xúc động chảy nước mắt, nên nghĩ nhớ như vậy, Không Vương Phật trong quá khứ có tướng bạch hào giữa lông mày, Di Đà kính lễ, diệt tội mà thành Phật, nay con lễ Di Đà Phật, cũng thường lặp lại như vậy.”

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Ta là sinh không. Ta là tử không. Chữ “ta” này cũng là giả không. Nhưng, ta không thể chấp vào kiến không. Bởi vì: Không tức là có, có tức là không. (Trong đó có vật.) Có câu nói là: ”Cần biết tâm Không cũng đáng sợ, nếu rơi vào kiến Không, vĩnh viễn chìm đắm trong cái Không kéo dài, không thể vào được niết bàn trời người.” Vậy thì phải làm sao? Tôi nói: ”Không và Có dung hòa vào nhau.” (Trung quán)

16. Chân đế của vô thường

Ý nghĩa gốc của vô thường là: Mọi pháp thế gian, sinh diệt cứ thế trôi mãi, một sát-na cũng chẳng dừng lại. Nói chung, vô thường có hai loại: 1. Sát-na vô thường — hết sát-na này đến sát-na khác có sự biến hóa có sinh có diệt. 2. Tương tục vô thường — trong sự liên tiếp, có sự biến hóa có sinh có diệt.

Trên kinh điển: Niết Bàn Kinh: ”Là thân vô thường, niệm niệm không dừng, giống như ánh chớp hay dòng nước chảy mạnh, biến huyễn dữ dội.” Trí Độ Luận: ”Tất cả pháp hữu vi vô thường, vì thế sinh diệt liên tục, vì thế thuộc về nhân duyên.” Lục Tổ Đàn Kinh: ”Việc sinh tử là lớn, vô thường đến rất nhanh.” Vô Thường Kinh: ”Chưa từng có một việc gì mà không bị vô thường nuốt chửng.”

Thơ: ”Mai kia nếu có vô thường đến, rừng gươm núi đao chẳng tha ai.”

Bài kệ vô thường:

Bài của Tăng Triệu: Tứ đại ta không có, ngũ uẩn vốn dĩ không. Quay đầu gặp dao sắc, giống như chém gió xuân. (Tăng Triệu bị xử tử hình.)

Bài của Hoành Trí: Mơ mộng hoa không, sáu mươi bảy năm Chim trắng vắng bóng, thu thủy xa xăm.

Bài của Hành Đoan: Vốn không sinh diệt, đâu có đến đi. Sông băng bốc cháy, cây sắt nở hoa.

Bài của Nhất Ninh: Hoành hành một đời, Phật Tổ nuốt khí. Mũi tên rời pháp, hư không ra đời.

Bài của Liên Sinh: Không liên quan.

Tôi trước sau luôn có một cách nghĩ: Trái đất mà chúng ta sống là vô thường. Vì sao? Vì trong triệu triệu năm, đã có bao nhiêu lần thành, trụ, hoại, không. Biển xanh biến thành ruộng dâu, ruộng dâu biến thành biển xanh. Mỗi người chúng ta là vô thường. Vì sao? Bởi vì mỗi một ngày, bao nhiêu tế bào chết đi thì lại sinh ra bấy nhiêu tế bào, mỗi một ngày, thậm chí mỗi một giờ, mỗi một phút, mỗi một giây, ta đều đang biến hóa và trôi qua. Tư tưởng của con người ta là vô thường. Vì sao? Con người ta mỗi ngày có bao nhiêu suy nghĩ, đếm cũng không đếm xuể. Con cá bơi tới bơi lui. Cái đầu cũng nghĩ tới nghĩ lui.

Tôi nói với mọi người: Trên trời có thể có máy bay rơi. Tàu thủy có thể chìm xuống đáy biển. Tàu hỏa có thể trật đường ray. Xe ô tô có thể gặp tai nạn. Người đi bộ có thể rơi xuống hố. Cho dù bạn chỉ ngồi trong nhà thì cũng có thể có vô thường. Nhà sập xuống, đè chết người rồi. (Đóng cửa ngồi trong nhà thì cũng có họa từ trên trời rơi xuống.) Những chuyện vô thường, ngày ngày, mỗi phút mỗi giây, đều đang xảy ra. Muốn lấy ví dụ thì cũng có quá nhiều, lấy cũng không xuể.

Phật Đà nói: Chư hành vô thường. Chư pháp vô ngã. Niết bàn tịch tĩnh. Tôi nói: ”Đã quán vô thường rồi thì mau mau tu xuất ly đi.” (Xuất li luân hồi.)

17. Cuộc đời vô thường này của tôi

Tôi muốn nói với mọi người, cuộc đời của tôi chính là vô thường. Thứ nhất, sự ra đời vô thường. Bố mẹ tôi kết hôn mới bảy tháng thì đã sinh ra tôi. Bố tôi nói: ”Đứa bé này không phải là con tôi.” Mẹ tôi nói: ”Nó là đứa bé sinh non.” Thế là ban đầu tôi được đưa cho bà ngoại nuôi, sau khi bà ngoại tôi qua đời thì chuyển qua cho dì tôi nuôi, khi dì tôi kết hôn thì tôi mới trở về nhà bố mẹ. Rốt cuộc tôi là con ai sinh ra? Tôi tự trào phúng: “Thánh linh hoài thai!” (Jesus cũng là Thánh linh hoài thai.) Đây chính là sự ra đời vô thường.

Thứ hai, đi học vô thường. Tôi học trường cấp hai số hai Cao Thị, bị lưu ban hai lần. Tôi học trường cấp ba Công Nghiệp Cao Hùng, xếp hạng nhất lớp. Cấp hai lưu ban hai lần, cấp ba lại đứng đầu lớp, đây chính là sự khác nhau như trời với đất. Đây chẳng phải vô thường thì là cái gì?

Thứ ba, sự nghiệp vô thường. Tôi tốt nghiệp đại học tại trường Trắc Lượng. (Sau này cùng với Học viện Kỹ sư Hải Quân và Trường Công Binh hợp lại thành Học viện Khoa học Công nghệ Trung Chính.) Tôi là kỹ sư hạng thiếu tá. Sau này, tôi xuất gia làm hòa thượng, thành lập Chân Phật Tông. Sự thay đổi này là quá lớn, đây chính là sự nghiệp vô thường.

Thứ tư, gia đình vô thường. Tôi 30 tuổi kết hôn, vợ là Lư Lệ Hương. Có con gái là Lư Phật Thanh. Có con trai là Lư Phật Kỳ. Tôi 43 tuổi được pháp sư Quả Hiền cạo đầu xuất gia. Từ đang có gia đình thành xuất gia, thay đổi quá lớn. Đây là gia đình vô thường.

Thứ năm, đất nước vô thường. Tôi sinh ra tại Đài Loan, là người Đài Loan chính gốc. Tôi sống ở Đài Loan 38 năm. Sau đó di cư đến nước Mỹ. Trở thành người Mỹ gốc Hoa. Tôi ở Mĩ đã 40 năm rồi. Đây là sự vô thường của sống. Đất nước vô thường.

Thứ sáu, tín ngưỡng vô thường. 1. Cơ đốc giáo. 2. Đạo giáo. 3. Phật giáo. Đây là tín ngưỡng vô thường. (Mặc dù vậy, nhưng tôi dung hợp ba tôn giáo, Cơ Đốc giáo cũng có Phật pháp, Đạo giáo cũng có Phật pháp, trăm sông đổ về một biển.)

Thứ bảy, tử kiếp vô thường. A. Thời cấp ba, nghỉ hè tôi đi làm công ở nhà máy nhiệt điện miền nam. Khi tôi thao tác máy tiện, khoan lỗ trên tấm tôn, một lần không cẩn thận, tấm tôn xoay tròn, cứa rách áo ngoài, áo trong, chỉ thiếu một chút xíu là rạch vào bụng tôi, ruột và nội tạng sẽ xổ ra ngoài, giống như mổ bụng. (tử kiếp) B. Thời cấp ba, nghỉ hè tôi đi làm công ở nhà máy nhiệt điện miền nam. Đi mời người ta mua dầu, dầu rất nặng. Tàu hỏa chở than chắn đường, tôi tham đường tắt nên đã chui qua gầm của tàu hỏa dài ngoằng. Nhưng tàu hỏa đã chạy mà không có báo động trước. Tôi vội vàng rụt chân lại, suýt chút nữa tôi bị tàu hỏa cán chết. (tử kiếp) C. Tôi và đệ tử quy y đi chơi ở Khẩn Đinh, biển nổi sóng lớn, tôi thì đang ở dưới nước, bơi ra giữa biển không bơi vào được. Cuối cùng, tôi phải dựa vào sợi dây cáp kéo tôi vào bờ. (tử kiếp) Đây là ba lần tôi gặp số chết mà không chết, đúng là vô thường.

18. Ý nghĩa gốc của vô ngã

Kinh Kim Cang viết: ”Người thông đạt pháp vô ngã, Như Lai nói là Bồ Tát thật sự.” Kinh Thập Địa viết: ”Vô ngã trí có hai loại, ngã không, pháp không.” Đại Thừa Nghĩa Chương viết: ”Pháp không có thực tính, vì thế nói là vô ngã.” Và: ”Vì là thể phi ngã, nên gọi là vô ngã.” Câu Xá Quang Ký viết: ”Rời xa ngã kiến, nên là vô ngã.” Và: “Vì là phi tự tại, nên là phi ngã.” Chỉ Quán viết: ”Vì không có trí huệ nên mới cho là có cái ngã. Dùng trí huệ để quan sát thì thật sự không có cái ngã. Cái ngã ở chỗ nào? Đầu chân tay, quán kĩ càng lần lượt cũng không thấy cái ngã. Chỗ nào có người và chúng sinh thì cơ chế nghiệp lực của chúng sinh sẽ giả làm thành sự tập hợp trống rỗng, từ các duyên mà sinh ra, không có chủ tể, giống như ở trọ trong cái quán trống.”

Tôi nói: ”Mỗi người chúng ta đều cho rằng cái thân thể này chính là ta. Vì thế tạo nên đủ loại ác nghiệp. Phật vì đã phá trừ được cái ngã mới nói đạo lý của sự vô ngã.” Lục Tổ Huệ Năng nói: ”Đến bao giờ gốc tự tính tự thanh tịnh!” ”Đến bao giờ gốc tự tính không sinh diệt!” ”Đến bao giờ gốc tự tính tự có sẵn!” ”Đến bao giờ gốc tự tính không dao động!” ”Đến bao giờ tự tính có thể sinh vạn pháp!”

Có người hỏi tôi: ”Thế nào là thanh tịnh?” Tôi đáp: ”Vô ngã chính là thanh tịnh.” Người hỏi: ”Thế nào là vô ngã?” Tôi đáp: ”Thanh tịnh.” Người hỏi: ”Sao ngài có thể trả lời như vậy?” Tôi hỏi ngược lại: ”Sao anh có thể hỏi như vậy?”

Còn nữa, có người hỏi tôi: ”Vì sao không sinh diệt, rõ ràng tôi nhìn thấy có người sinh diệt?” Tôi hỏi ngược lại: ”Trước khi sinh ra anh ở đâu?” Đáp: ”Không ở đâu.” (không biết) Tôi lại hỏi: ”Sau khi chết anh đi đâu?” Đáp: ”Không đi đâu.” (không biết) Tôi nói với anh ta: ”Đây chính là không sinh diệt.” Anh ta hỏi: ”Vậy giai đoạn ở giữa thì sao?” Tôi đáp: ”Như mộng như huyễn.” Người đó nói: ”Tôi đã hiểu rồi!” (Như mộng như huyễn, đây là tên sách của tôi.)

19. Hỏi đáp về vô ngã

Có nhiều đệ tử đặt ra cho lão tăng tôi đây những câu hỏi, tôi đặc biệt thu thập lại những câu hỏi có liên quan đến vô ngã. Hỏi: ”Thật sự đạt đến vô ngã rồi thì là cảnh giới nào?” Đáp: ”Tất cả có sẵn đầy đủ.” Hỏi: ”Thế nào là tất cả có sẵn đầy đủ?” Đáp: ”Thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương.” [Dọc cùng tận ba đời, ngang trọn khắp mười phương, ý nghĩa là khắp mọi không gian.] Hỏi: ”Ở đây là thứ gì?” Đáp: ”Không phải đông tây, không phải nam bắc.” (pháp nhĩ bản nhiên) [Ở đây có sự chơi chữ, trong tiếng Trung, đông tây vừa có nghĩa là phương đông phương tây, vừa có nghĩa là đồ, thứ.]

Và, hỏi: ”Vô ngã có tác dụng gì?” Đáp: ”Không dao động.” Hỏi: ”Không biết dao động là cái thứ gì?” Đáp: ”Dao động là tham sân si nghi mạn, tài sắc danh thực thụy.” Hỏi: ”Bỏ những thứ này đi thì là cái gì?” Đáp: ”Không dao động.”

Và, hỏi: ”Lư Sư Tôn! Ngài cho rằng có ngã là hình tượng gì?” Đáp: ”Ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.” Hỏi: ”Có ngã, có bốn tướng, có vạn pháp, là thế giới gì?” Đáp: ”Thế giới không có dây thừng mà vẫn tự trói mình.” Hỏi: ”Con người ở trong giang hồ, thân bất do kỷ mà! So sánh thế nào?” Đáp: ”Xót xa bông liễu lay theo gió, lúc lay bên này lúc bên kia.”

Và, hỏi: ”Lư Sư Tôn giảng kinh Kim Cang, trọng điểm nằm ở đâu?” Đáp: ”Không có người giảng, không có người nghe, pháp không pháp.” Hỏi: ”Nếu mà tất cả đều không rồi thì hà tất phải thuyết giảng?” Đáp: ”Ăn no xong, không có việc gì để làm!” Hỏi: ”Thì ra vẫn là có thuyết pháp, có nghe pháp, có pháp?” Đáp: ”Phật Đà nói, biết như thế, thấy như thế, tín giải [tin và hiểu rõ] như thế, đến cuối cùng thì không sinh pháp tướng.”

Và, hỏi: ”Vô ngã là trời không thể che, đất không thể chở, tất cả cõi giới không gian, con người ta đi đâu mà tìm kiếm?” Đáp: ”Không cần tìm kiếm, tỉnh ra là được.” Hỏi: ”Ban đêm mơ, ban ngày tỉnh, là như vậy à?” Đáp: ”Cuộc đời là mộng, giải thoát là tỉnh, là như thế.”

20. Cách nhìn của tôi về “tiệm ngộ” và “đốn ngộ”

Chúng ta đều biết, Thiền tông có pháp môn tiệm ngộ và pháp môn đốn ngộ. Bài kệ của đại sư Thần Tú: Thân là cây bồ đề Tâm là tấm gương sáng Thường xuyên chăm lau phủi Chớ để bụi bám lên.

Bài kệ của đại sư Huệ Năng: Bồ đề chẳng phải cây Gương sáng cũng đâu có Vốn dĩ chẳng có gì Lấy đâu mà bám bụi.

Hai bài kệ này, bài đầu tiên là do đại sư Thần Tú - đệ tử thượng thủ của đại sư Hoằng Nhẫn làm. Bài sau là do đại sư Lục Tổ Huệ Năng làm. Hoằng Nhẫn đem y bát bí mật giao cho đại sư Huệ Năng (Nam tông). Vì Hoằng Nhẫn cho rằng Huệ Năng “tâm địa thấu triệt”. Nhưng Thần Tú được Võ Hậu (Võ Tắc Thiên) phong làm Đế sư, Đường Trung Tông càng thêm lễ trọng, có danh xưng là Lưỡng Kinh Pháp Chủ. (Bắc tông)

Chủ trương tu hành của Thần Tú là: “Phất trần khán tịnh, phương tiện thông kinh.” [Phủi bụi thấy sạch, thuận lợi thông hiểu kinh sách.]

Có đệ tử hỏi Lư Sư Tôn, đại sư Huệ Năng, đại sư Thần Tú, người nào quan trọng hơn? Tôi cũng thử viết một bài kệ: Bồ đề là bồ đề. Gương sáng là gương sáng. Bụi bặm là bụi bặm. Ba thứ chẳng liên quan. (Ý của tôi là không liên quan.)

Tôi thường lấy ví dụ: Trên mặt trăng, không có người. Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Cũng không có bồ đề, không có gương sáng, không có bụi bặm, cái gì cũng không có, thậm chí thiện ác, chay mặn, đúng sai, đen trắng… Cũng vẫn là ba chữ: ”Không liên quan!” (Ngay cả ba chữ này cũng không có nốt.) Đây là hai chữ vô ngã, hiển nhiên.

Những phiền não, bám chấp, phân biệt, tập khí trong cuộc đời này của tôi, toàn bộ đã bị vô ngã hòa tan hết rồi. Đã là vô ngã thì còn có phiền não gì? Đã là vô ngã thì còn có bám chấp gì? Đã là vô ngã thì còn có phân biệt gì? Đã là vô ngã thì còn có tập khí gì? Cho nên tôi nói: ”Vô ngại!” [không còn trở ngại, vướng bận]

Đối với người thiên lệch về không, tôi nói có. Đối với người thiên lệch về có, tôi nói không. Đối với người siêu nhiên, tôi nói không liên quan. Rất nhiều đệ tử nói với tôi: ”Đạo lý thì chúng con đều hiểu, chỉ là làm không được, phải làm sao?” Tôi nói: ”Tiệm tu.” [tu từ từ, tu dần dần] Cũng có đệ tử nói với tôi: ”Đột nhiên trở nên tỉnh ngộ, siêu nhiên rồi!” Tôi nói: ”Đốn ngộ.” [giác ngộ lập tức] Sau cùng tôi nói: ”Tất cả mọi thứ đều là sự an bài hoàn mỹ nhất.”

21. Dạy về tiệm tu

Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn! Tiệm tu của thầy tu như thế nào?” Tôi đáp: ”Đầu tiên tu Tư lương đạo, tiếp đó tu Gia hành đạo, tiếp theo là Kiến đạo, sau khi kiến đạo rồi mới Tu đạo, cuối cùng là Cứu cánh đạo.” Hỏi: ”Thứ tự của Mật giáo thì sao?” Tôi đáp: ”Gia hành, Bổn tôn, Nội pháp, Đại viên mãn.” Chú thích: Phương diện gia hành, có pháp Đại lễ bái, pháp Đại cúng dường, pháp Tứ quy y, pháp Tứ vô lượng tâm… Phương diện Bổn tôn, có quán tưởng, thủ ấn, trì chú, nhập tam ma địa. Phương diện Nội pháp, có tu khí, tu mạch, tu minh điểm. (Vô lậu, chuyết hỏa, minh điểm, mở ba mạch bảy luân xa.) Phương diện Đại viên mãn là đại lạc, quang minh, không. (Tử quang, mẫu quang hòa vào nhau. Tự tính và vũ trụ không khác biệt.)

Hỏi: ”Lư Sư Tôn cho rằng tiệm tu nên như thế nào?” Đáp: ”Đầu tiên tu Chuyên nhất du già, sau đó tu Ly hý du già, tiếp theo tu Nhất vị du già, cuối cùng mới là Vô tu du già.” Hỏi: ”Đây cũng là thực tu của Mật giáo sao?” Đáp: ”Thật ra Mật giáo có tu hành bên ngoài, cũng có tu hành bên trong, có ngoại pháp và nội pháp, cứ y theo thứ tự mà tu, từ từ tiến lên từng bậc từng bậc, cuối cùng đạt được mục đích. Mật giáo đều là thực tu chứ không phải là lý luận suông.”

Hỏi: ”Lư Sư Tôn nói Đạo Quả là tiệm tu.” Tôi đáp: ”Đúng!” Tôi nói: ”Đạo Quả trong phương pháp mở ba mạch bảy luân xa đã giảng giải rất rõ.” Chú thích: chúng ta từ sự hòa trộn của chuyết hỏa và minh điểm mà lần lượt mở ra mật luân, tề luân, tâm luân, hầu luân, mi tâm luân, đỉnh luân, kế luân. Mỗi lần mở ra một luân xa thì tiến lên hai phần (tức là Bồ Tát nhị địa). Cũng tức là thanh tịnh được hai phần. Đến khi luân xa thứ năm mở ra hết thì chính là Bồ Tát thập địa (Pháp vân địa). Hiển tông cho rằng trên địa thứ mười là Phật. Mật giáo cho rằng địa thứ mười ba mới là Phật. (Điều này cần phải thảo luận.)

Người hỏi: ”Pháp Song thân của Mật giáo có ý nghĩa gì?” Tôi đáp: ”Chuyển hóa song thân thành tu hành mà thôi!” Hỏi: ”Song thân như thế nào?” Đáp: ”Quán tưởng, thủ ấn, trì chú đều có. Hành giả nam có kham năng [người có năng lực tu hành rất cao], có vô lậu, và trí huệ tứ hỷ tứ không.” Hỏi: ”Tác dụng ra sao?” Đáp: ”Khí, mạch đều thông, ba mạch bảy luân xa mở ra, sản sinh ánh sáng.” Chú thích: pháp này là pháp cực kì bí mật, chỉ vị thầy có đủ chứng lượng mới có đủ tư cách, nếu làm bậy sẽ đọa địa ngục kim cang. Trong vạn người cũng chẳng có được một người.

22. Dạy về đốn ngộ

Chúng ta đã lĩnh ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã. Đã sinh ra cảm giác như mộng như huyễn đối với thế giới con người, nếu bạn có thể từ trong cái như mộng như huyễn đó tỉnh ra thì đây gọi là đốn ngộ. Đốn là ngay lập tức. Ngộ là tỉnh ra.

🌟

Bạn đã hiểu rồi, bạn đã rõ ràng rồi. Có mấy câu nói rất quan trọng. Vô sở trụ. [Không trụ vào đâu. Khắp không gian thời gian, không hạn chế ở một chỗ nhất định.] Vô sở đắc. [Không có đối tượng chứng đắc.] Vô hà hữu. [Không có gì.] Vô sở vị. [Không có gì đáng nói, không quan tâm tới.] Vô khủng bố. [Không sợ hãi.] Vô điên đảo. [Không hoang đường mơ hồ.]

Đặc biệt là vô sở trụ và vô sở đắc. Mặc dù chúng ta ở trong nhân giới, nhưng nhân giới là một thành phố biến hóa, thành phố biến hóa tức là được biến hóa ra. Hoàn toàn không có tính chân thực. Thành phố biến hóa này trong tỉ tỉ năm đã trải qua thành, trụ, hoại, không, cuối cùng là chẳng còn nữa.

Và mỗi con người, trong nhân giới, sống được trăm năm, cuối cùng là quy về không. Thành phố biến hóa trống không trống rỗng. Con người cũng trống không trống rỗng. Đây chính là vô sở trụ. Nhân giới là không, con người là không, tâm niệm đương nhiên là không. Cái này tức là hiển hóa trong mơ.

Kinh Kim Cang nói: ”Như sương như điện.” Đặc biệt là suy nghĩ của con người chúng ta: “Biến hóa vô thường.” Đương nhiên là vô sở trụ.

🌟

Chúng ta lại nói về vô sở đắc. Tôi nói: ”Chúng ta sống đến nhân gian này, chẳng hề có dự định sống trở về.” Tiền không mang đi được. Sắc không mang đi được. Danh không mang đi được. v.v… Một chút xíu bạn cũng không mang đi được. Ha! Ha! Ha! Hi! Hi! Hi! Tất cả bình đẳng bình đẳng. (Ngay cả bình đẳng cũng không có.) Vô sở đắc là tất nhiên thôi.

Trong kinh Kim Cang, bốn câu kệ trọng yếu là: Vô ngã tướng — thân không. Vô nhân tướng — tâm không. Vô chúng sinh tướng — pháp không. Vô thọ giả tướng — tính không. (Đây là chân đế.)

🌟

Khi bạn đã lĩnh hội được những chân lý này, bạn sẽ tỉnh ra, tỉnh ra thì bạn sẽ khai ngộ. Vốn dĩ thanh tịnh. Không sinh không diệt. Không được không mất. Như như bất động. Tâm sinh vạn pháp. Như vậy có hiểu không? Nếu hiểu rồi, bạn nói cho người khác, để người khác cũng hiểu (bồ đề tâm), sau đó thực tiễn những điều đó ở chính mình, chính là tu hành. Đây chính là thường, lạc, ngã, tịnh.

23. Đạo ca của Thượng sư Rwa Lotsawa Dorje Drag

Tôi đọc cuốn “Ánh sáng đại uy đức”. Trong đó có bài đạo ca của Thượng sư Rwa Lotsawa Dorje Drag, tôi phát hiện ra trong đó chính là thứ tự tu hành. Văn tự của ngài rất phổ thông, ngắn gọn rõ ràng. Trích ra như sau:

Đệ tử hữu duyên đang ngồi đó Nếu như một lòng muốn học pháp Người có hành vi hợp với pháp Phải ghi nhớ lời ta nói đây. Tu pháp căn bản có hai điều Một là trừ bỏ nhân bất lợi Hai là phát huy nhân có lợi Nói ra cụ thể như thế này. Yêu ghét ganh đua cầu danh lợi Nhân tố bất lợi nên bài trừ. Từ bi ngoan đạo chán ngán đời Nhân tố có lợi nên phát huy. Pháp nghĩa nếu không hợp với tâm Miệng có nói hay cũng vô ích. Ngồi thiền mặc dù công phu sâu Vẫn không thoát khỏi cái bề ngoài. Nếu khắc phục được tham sân si Tuy rằng chưa học không hiểu biết Cũng là đa tài thiện tri thức Cũng là tu thiền công phu cao. Mở đầu quán tưởng chết vô thường Viết lời cầu nguyện tụng bách tự Đây là tu phúc tu huệ pháp Còn gọi đệ nhất tư lương đạo. Dựa theo Tỳ Lô thất chi tọa Ngẫm nghĩ nguyên do nhập xuất thế. Đó là tiến nhập thẳng thiền môn Còn gọi ngộ tiền Gia hành đạo. Tự nhiên thả lỏng quán tự tâm, Sinh diệt động tĩnh tìm cẩn thận Phát hiện pháp tính chân diện mục Gọi là kiến tính nhập Kiến đạo. Sinh thành đạo cùng Viên mãn đạo Kết hợp chặt chẽ bồ đề tâm Kích phát lạc-không đại trí huệ, Cái này gọi là tập Tu đạo. Tu luyện đến cùng kết quả lớn Nhập thế xuất thế chỗ giao chung Quả vị vô sinh được chu toàn Đến đây không phá cũng không ngộ. Nên gọi Phật địa Vô tu đạo Dựa theo như vậy mà tu tâm. Hiểu bệnh nhập thế và xuất thế Thấy rõ tự tâm hiểu tính không. Tâm cảnh sáng ngời vui chan hòa Thấy vạn vật đều là Thần Phật Ảo tưởng đã tan như mây bay Tự thân thành tựu đều viên mãn Sự nghiệp lợi chúng đã viên thành.

Trong bài đạo ca này có nhắc đến: Tư lương đạo. Gia hành đạo. Kiến đạo. Tu đạo. Cứu cánh đạo. (Đây chính là thứ tự tu hành.)

Cá nhân tôi phân chia thứ tự này như sau: Tư lương đạo — công đức bố thí, hành thiện. Gia hành đạo — Đại lễ bái, Đại cúng dường, Tứ quy y, Tứ vô lượng tâm, Bách tự minh. Kiến đạo — hiểu rõ ràng tính Không. Tu đạo — thực tiễn vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả. Cứu cánh đạo — vô tu đại viên mãn.

Tôi nói: Pháp Đại Thủ Ấn của Mật giáo có bốn thứ tự: Chuyên nhất — gồm Tư lương đạo, Gia hành đạo. Ly hý — gồm Kiến đạo. Nhất vị — Tu đạo. Vô tu — Cứu cánh đạo.

Thượng sư Rwa Lotsawa Dorje Drag phân chia như thế này: Tư lương đạo — tụng bách tự minh chú, tu phúc tu huệ. Gia hành đạo — chính thiền định, chính tư duy. Kiến đạo — pháp tính chân diện mục. Tu đạo — kết hợp Thứ tự sinh khởi, Thứ tự viên mãn, kết hợp lạc-không, bồ đề tâm. Cứu cánh đạo — không phá không ngộ không tu.

Những cách viết này nhìn thì có hơi khác nhau, nhưng thật ra cũng là giống nhau! Chúc những hành giả trong thiên hạ đều có thể từ đây mà đạt được lợi ích, người thọ trì có được thành tựu lớn. Nếu có thể thực hành thì chắc chắn sẽ đại thành tựu!

24. Quan sát và lập đoạn

Muốn thực tu đốn ngộ, tôi dạy một pháp, phương pháp này chính là: Lập tức đoạn trừ. Chúng ta tu hành không phải là lý luận, không phải là nói miệng. Mà là thực tu. Thực tu cái gì? Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng. Tu như thế nào? Tôi nói: “Đầu tiên phải học quan sát.”

Quan sát là quan trọng số một, không quan sát thì không thể thành lập được cái gì cả, vì thế quan sát là số một. Quan sát bản thân, chứ không phải quan sát người khác, quan sát tâm niệm của chính mình. Quan sát tức là phản tỉnh. (Một ngày ba lần tự kiểm điểm bản thân.) Không chỉ là ba lần tự kiểm điểm, mà là từng phút từng giây đều kiểm điểm những lỗi lầm của bản thân.

Tâm niệm của chúng ta như thác nước. Tâm niệm của chúng ta như dòng chảy xiết. Tâm niệm của chúng ta như sóng biển. Tâm niệm của chúng ta như dòng chảy ngầm. Chúng ta huấn luyện tâm niệm của chính mình phải đạt đến sự bình tịnh, nhẹ nhàng, không dao động, tĩnh lặng, bất động. Giống như nước sâu lặng như mặt gương. Cái này dựa vào cái gì? Đáp án là quan sát. Chúng ta ở trong sự quan sát sẽ phát hiện ra tâm niệm có chính có phụ, có thiện có ác, có đúng có sai, có đen có trắng, có như pháp có không như pháp. (Rối rắm phức tạp.)

Chúng ta phải lập tức đoạn trừ mặt xấu, lập tức đoạn trừ cái ác, lập tức đoạn trừ cái đen, lập tức đoạn trừ cái sai, lập tức đoạn trừ cái không như pháp. Ví dụ: Bạn không thích người này, bạn nguyền rủa họ chết đi. Bạn nghĩ đến chuyện muốn trộm tiền của người ta, nghĩ đến chuyện cướp tiền. Bạn thích một cô gái, bạn tưởng tượng cô ấy là bạn tình của bạn. Bạn lừa người khác. Bạn chửi thầm người khác trong lòng. Bạn quá nhiều tính toán ngông cuồng. Những gì bạn muốn đều phạm vào giới luật. ……………. Những việc này đều phải lập đoạn.

Làm một hành giả, khi nghĩ đến những suy nghĩ không như pháp, lập tức phải thấy được chúng, để lập tức đoạn trừ chúng. ”Pây!” ”Pây!” ”Pây!” Chú ngữ ”Pây!” của Mật giáo này có ý nghĩa đoạn trừ ở trong đó. Lập đoạn chính là chỉ. [dừng] Dừng hết mọi ý nghĩ không đứng đắn. Đoạn trừ mặt xấu, suy nghĩ ác, suy nghĩ sai, suy nghĩ đen tối, suy nghĩ không như pháp.

Khi bạn học được lập đoạn rồi thì đây chính là tu hành, đây cũng là thực tiễn. Rất nhiều người hỏi tôi tu như thế nào? Là tu cho đúng những hành vi của mình phải không? Tôi nói tu cho đúng những hành vi của mình là chính xác rồi. Nhưng hành vi đến từ tâm niệm của bản thân, tu tâm niệm đúng rồi thì hành vi tự nhiên sẽ đúng. Lập đoạn là số một.

25. Chuyển thức thành trí

Chúng ta thường nghe đến danh từ của Phật giáo: “Chuyển thức thành trí.” Như Lai có năm loại trí huệ (ngũ trí):

(1) Pháp giới thể tính trí

Là chuyển amala thức mà thành. Pháp giới thể tính tức là lục đại. Đại Nhật Như Lai là tam muội của lục đại pháp giới. Cũng tức là đức hạnh phương tiện và cứu cánh.

(2) Đại viên kính trí

Là alaya thức chuyển thành trí huệ đại viên kính. Vạn tướng của pháp giới. Giống như một tấm gương tròn lớn. A Súc Như Lai làm chủ đức hạnh phát bồ đề tâm.

(3) Bình đẳng tính trí

Chuyển manas thức mà có được. Là trí huệ biết rằng mọi pháp có tác dụng bình đẳng. Bảo Sinh Như Lai làm chủ công đức tu hành.

(4) Diệu quan sát trí

Là chuyển ý thức mà có được. Các pháp phân biệt được cái tốt cái hay, từ đó quan sát cơ duyên của chúng sinh. Trí huệ thuyết pháp lập đoạn. Là A Di Đà Như Lai làm chủ công đức bồ đề tâm.

(5) Thành sở tác trí

Chuyển năm thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mà có được trí huệ này. Trí huệ thành tựu các nghiệp tốt tự lợi lợi tha. Là Bất Không Thành Tựu Như Lai làm chủ công đức nhập niết bàn.

(Ngũ trí nói đến ở trên, mọi vị Phật đều có đầy đủ.)

Cá nhân tôi cảm thấy, phương pháp tu hành lấy diệu quan sát làm điểm khởi đầu. Quan sát là quan sát tâm niệm chính mình. Tâm niệm là mặt tiêu cực thì phải lập đoạn. Tâm niệm là mặt tích cực thì phải tăng trưởng. Đây chính là tu hành.

Tôi cho rằng tội ác lớn nhất là sát sinh. (Được liệt kê đầu tiên trong ngũ giới.) Ví dụ: Khi mối thù hận của bạn, thù hận là một tâm niệm tiêu cực, bạn không lập tức đoạn trừ mà cứ tiếp tục tăng trưởng cái cảm xúc tiêu cực này, đến một ngày, bạn không kiềm chế được nữa, thì cảm xúc sẽ bộc phát, bạn có thể sẽ ra tay, thế là phạm tội giết người. Còn đối với tự sát cũng như vậy. Nó là kết quả của sự tích lũy tình cảm tiêu cực. Bạn tự thấy mình bị sỉ nhục. Bạn tự thấy mình bị bắt nạt. Bạn tự thấy mình cái gì cũng sai. Bạn tự thấy mình đã tới bước đường cùng. Một cá nhân tự nhốt bản thân, đi ra xung quanh đâu đâu cũng vấp phải tường, buồn bực lo lắng mà không có cách nào tự kéo mình ra được. Thế là có thể sẽ đi trên con đường tự sát.

Cho nên một hành giả nhất định phải học được diệu quan sát, biết được đó là những tâm niệm tình cảm tiêu cực, phải lập tức lập đoạn ngay. Lập tức phải chuyển đổi. Chuyển thành tích cực. Phương pháp thay đổi vận mệnh thật sự cần diệu quan sát, cần chuyển đổi, biến tiêu cực thành tích cực.

Tôi thường nói: ”Tất cả đều là sự an bài hoàn mỹ!” Ta bị sỉ nhục thì học nhẫn nhục. Ta bị bắt nạt thì chuyển thành tinh tấn. Ta bị chỉ trích cái gì cũng sai thì ta sẽ đột phá. Ta đi đến bước đường cùng, núi không chuyển thì đường phải chuyển.

Bạn phải tích lũy năng lượng tích cực. Nếu có năng lượng tiêu cực phải lập đoạn. Bạn chắc chắn có thể cải biến vận mệnh! ”Chuyển thức thành trí.” Rất quan trọng đó!

26. Lập đoạn của Mật giáo

Mật giáo có pháp môn lập đoạn không? Tôi nói có. Nghe nói, tổ sư Đạt Ma - vị tổ đời thứ 28 của Thiền tông ở Tây Trúc, đã đến Trung Thổ hoằng pháp, trở thành vị tổ đầu tiên ở Trung Thổ. Tổ sư Đạt Ma truyền pháp môn đốn ngộ. Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Đốn ngộ thành Phật. Tổ sư Đạt Ma khi hết duyên với Trung Thổ thì đã trở về Tây Trúc, rồi lại đi Tây Tạng. Ở Tây Tạng, tên gọi của ngài là Dampa Sangye. Ngài đã gặp Milarepa. Ngài truyền thụ pháp thí thân cho nữ đệ tử của mình là Machig Labdrön. Rồi Machig Labdrön đã sáng lập ra phái Giác Vũ.

Pháp thí thân đại ý như sau: Hành giả nằm xuống. Quán tưởng thân thể mình biến thành to lớn như núi Tu Di. Và hóa thân của Machig Labdrön là Hắc Phẫn Nộ Mẫu, một tay cầm rìu, một tay cầm kapala (sọ người), nách kẹp trượng ba xiên, bay đến trước mặt hành giả. Đầu tiên là ngài chặt đầu hành giả. Tiếp theo chặt hai tay hai chân. Lấy ba xương sườn trên người hành giả dựng thành giá để treo cái sọ người rất to lên, rồi bỏ đầu của hành giả vào trong đó. Rồi bỏ hai chân hai tay vào trong đó. Rồi bỏ thân người vào trong đó. Thế rồi, ở bên dưới ba cái xương sườn, nhóm lên ngọn lửa cháy hừng hực, ngọn lửa này nấu chín chính mình thành nát nhừ như cháo. Cuối cùng, cúng dường chính mình cho tứ Thánh, cúng dường chính mình cho lục đạo chúng sinh. Bên trong cái sọ người, thân thể chính mình đã hóa thành cam lộ. Trên dâng cúng, dưới bố thí. (Đây chính là đại ý của pháp thí thân.)

Ý nghĩa quan trọng của pháp thí thân như sau: 1. Lập đoạn đoạn trừ phiền não, bám chấp, tập tính của chính mình, hóa chính mình thành cam lộ. 2. Cúng dường. (Cúng dường mười pháp giới.) 3. Hy sinh bản thân, ngay cả thân thể của bản thân cũng bố thí hết. 4. Luyện tập vô ngã. 5. Hợp nhất với trời đất vũ trụ.

Cá nhân tôi cảm thấy tu pháp thí thân chính là pháp đoạn của Mật giáo. Tâm sân hận được tịnh hóa. Tâm vô minh được tịnh hóa. Tâm keo kiệt được tịnh hóa. Tâm ích kỷ được tịnh hóa. Tâm tham dục được tịnh hóa. Tâm đố kỵ được tịnh hóa.

Bởi vì có thể đạt được sự cảm nhận chí cao vô thượng về ngã không, pháp không, nên sản sinh ra tinh thần không hề sợ hãi. Lấy thân mình cúng dường cho tứ Thánh lục phàm thập pháp giới chính là kết duyên với chúng sinh, mình và người đều được hưởng lợi, bất kể làm gì đều có được niềm vui. Pháp tính trí huệ khai triển. Vô minh hư huyễn tiêu tan. Uy lực vô cùng chí đại. Không tính thành tựu viên mãn.

27. Vô ngã của Jesus Christ

Lúc nhỏ tôi tín ngưỡng Cơ Đốc giáo. Tôi sống ở Cao Hùng, trưởng thành tại giáo hội Trưởng Lão Tân Hưng ở Cao Hùng. Chủ nhật hàng tuần, tôi tham gia lớp học ngày chủ nhật. Sau đó, tôi tốt nghiệp trường hàm thụ Kinh Thánh Vạn Quốc. Rồi tôi lại tốt nghiệp trường hàm thụ Kinh Thánh Thời Triệu.

Tôi là một tín đồ Cơ Đốc đã được rửa tội, tham gia vào đội hát Thánh ca của giáo hội, làm thầy giáo lớp học ngày Chủ Nhật, làm thầy giáo lớp tra Kinh Thánh. (Mục sư Tô Thiên Minh đã rửa tội cho tôi.) Quãng thời gian này là lúc tôi đang học trung học. Trưởng lão Ngô Tân Đức là người phụ trách giáo hội, tôi trưởng thành dưới sự dẫn dắt của ngài. (Ngài ấy là một trưởng lão rất tận tụy.)

Khi tôi học đại học, trường học ở Đài Trung, tôi mới rời khỏi giáo hội Cơ Đốc Trưởng Lão Tân Hưng. Vì thế, cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn nhận định Jesus Christ là Guru (thầy) của tôi. Tôi nói: Jesus là hành giả vô ngã. Tôi lấy vài ví dụ để giải thích rõ: Jesus nói: ”Việc thiện mà tay trái làm, đừng để cho tay phải biết.” Đây chính là “tam luân thể không” của Phật giáo. Không có người làm. Không có người nhận. Không có vật được cho nhận. Jesus muốn nói rằng, con người chúng ta làm việc thiện, không muốn người khác biết, ngay cả chính mình cũng quên luôn. Đó mới là cái thiện chân chính.

Jesus nói: ”Người ta lấy áo ngoài của bạn, bạn cho họ luôn áo trong.” Đây là bình đẳng. Đây là lợi tha. Đây là chỉ nghĩ cho người khác, không nghĩ cho bản thân. Đây chính là tinh thần của Bồ Tát. Jesus từng rửa chân cho đệ tử của mình. Tức là đệ tử ngồi đó, Jesus quỳ xuống, cứ thế rửa chân cho đệ tử của mình. Đây là một sự việc khiến người ta rất cảm động. Ngài là Thần. Môn đồ là phàm phu. Thần rửa chân cho phàm phu. Đây là: coi mình cũng là bình thường. Tinh thần vô ngã!

Hành động vĩ đại nhất của Jesus là bị đóng đinh trên thập tự giá, thay thế nhân rửa sạch nguồn gốc tội lỗi. Lời cầu nguyện sau cùng của Jesus là: ”Thượng đế ơi! Xin hãy miễn tội cho họ, bởi vì những gì họ làm, họ không hề biết.” Câu nói này khiến tôi cảm động nhất! Ngài ấy bị đóng đinh trên thập tự giá. Ngài tha thứ cho người đóng đinh ngài. Tinh thần khoan dung độ lượng này chính là vô ngã. (Tất cả không vì cái tôi.) Sự phát huy lớn nhất của tinh thần vô ngã.

Jesus thường nói: ”Hãy yêu kẻ thù của bạn!” Trong Phật giáo mà nói, đây là bình đẳng tính trí, cũng là đại viên kính trí. Yêu người khác hơn yêu chính mình lại càng quan trọng hơn. Đây chính là điều vĩ đại nhất của Jesus. Jesus còn có rất nhiều rất nhiều điều vĩ đại nữa, có kể ra cũng không hết, vì thế, Jesus là Guru của tôi.

28. Vô ngã của Thánh Teresa

Phật Đà từng nói: ”Chúng thiện phụng hành.” [Hãy làm mọi điều thiện.] Tín đồ Phật giáo phải làm được: Từ — cho người khác niềm vui. Bi — giải quyết đau khổ của người khác. Hỷ — làm một cách vui vẻ. (Ca ngợi làm việc thiện.) Xả — yêu hay ghét đều bình đẳng bố thí.

Điều này trong kinh điển nói như thế này: Từ vô lượng — tâm có thể cho đi niềm vui. Bi vô lượng — tâm có thể loại bỏ cái khổ. Hỷ vô lượng — thấy người khác thoát khổ được vui thì sinh tâm vui mừng cho họ. Xả vô lượng — ba điều kể trên, làm mà không giữ ở trong lòng, và oan thân bình đẳng.

Nói đến hai chữ bình đẳng, Ngũ Đăng Hội Nguyên viết: Trời bình đẳng, vì vậy thường che phủ. Đất bình đẳng, vì vậy thường nâng đỡ. Nhật nguyệt bình đẳng, vì vậy bốn mùa thường chiếu sáng. Niết bàn bình đẳng, vì vậy Thánh-phàm không khác. Nhân tâm bình đẳng, vì vậy không tranh cao thấp.

Trong chương văn này, tôi đặc biệt nhấn mạnh “yêu hay ghét đều bình đẳng bố thí tức oan thân bình đẳng xả.” Tôi nói: ”Vô ngã bình đẳng, vì vậy người người là Phật.” Tôi lấy một ví dụ: Vị nữ tu Thiên Chúa giáo người Ấn Độ được phong Thánh, vì vậy gọi là Thánh Teresa. Một đời làm việc nghĩa của ngài khiến tôi khởi tâm cung kính. Ngài nói: ”Tôi xem mỗi con người đều là Thượng đế, từ đó tôi đi phục vụ họ.” Câu nói này khiến tôi hết sức tôn sùng. Thánh Teresa xem mỗi con người đều là Thượng đế, đây là tinh thần gì? Tôi cho rằng đây chính là oan thân bình đẳng xả. Là vô ngã. Vô ngã mới có thể làm được oan thân bình đẳng. Đây là việc mà người có ngã kiến không thể nào làm được.

Người bình thường là: Kẻ thù. Người yêu. Phân biệt rất rõ ràng rành rọt. Nhưng Thánh Teresa mà chúng ta thấy cả một đời làm việc nghĩa, coi mỗi con người là Thượng đế để phục vụ, điều này trong Phật giáo mà nói thì đã là Bồ Tát địa thứ tám rồi. Bồ Tát địa thứ tám là: Chứng chân như bình đẳng tịch diệt. Có thể trong chốc lát ở khắp thập phương thế giới, thị hiện đủ loại giáo hóa, làm đủ loại Phật sự. Đó là pháp thân bình đẳng. Đây cũng là sự thị hiện của vô ngã cứu cánh.

Thánh Teresa hoàn toàn không có quan niệm giai cấp, xem mỗi con người là Thượng đế, đây chính là tâm xả vô lượng, xả có ý nghĩa vô ngã ở trong đó. Thánh Teresa nói: ”Thiên đường là nơi chúng sinh hướng về, nhưng tôi sẽ không ở đó. Tôi sẽ vĩnh viễn ở nơi đen tối, tôi là đầy tớ của chúng sinh, tôi vĩnh viễn phục vụ chúng sinh.” Câu nói này khiến tôi nghĩ đến Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: ”Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật.” Thánh Teresa nói: ”Không đến thiên đường, mãi ở nơi tối tăm.” Đây là không nghĩ về bản thân, chỉ nghĩ về chúng sinh. Đây là tinh thần vô ngã. Đây là điều có giá trị nhất, đáng khâm phục nhất.

29. Hỏi đáp về vô ngã cứu cánh

Hỏi: ”Tâm trụ như thế nào?” Đáp: ”Vô trụ.” Hỏi: ”Làm sao hàng phục tâm ấy?” Đáp: ”Vô tâm.” Hỏi: ”Suy nghĩ độ chúng sinh có đúng không?” Đáp: ”Thực không có chúng sinh nào có thể độ.” Hỏi: ”Vì sao không có chúng sinh nào có thể độ?” Đáp: ”Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng.” Hỏi: ”Có Phật pháp không?” Đáp: ”Thực không có pháp.” Hỏi: ”Thật khiến người ta kinh ngạc, vì sao không có Phật pháp?” Đáp: ”Bởi vì không có Phật pháp cho nên không có pháp đắc được, không đắc mới là Phật pháp.” Hỏi: ”Không hiểu?” Đáp: ”Mọi pháp tức không phải mọi pháp, gọi là mọi pháp.” Hỏi: ”Có danh hiệu Bồ Tát không?” Đáp: ”Không có.” Hỏi: ”Vì sao không có?” Đáp: ”Bồ Tát chính là vì không phải Bồ Tát mới là Bồ Tát.” Hỏi: ”Ta làm cõi Phật trang nghiêm, có thể không?” Đáp: ”Người làm cõi Phật trang nghiêm tức không trang nghiêm thì gọi là trang nghiêm.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn là người thông đạt pháp vô ngã phải không?” Đáp: ”Căn bản không có Lư Sư Tôn.” Hỏi: ”Sao lại nói như vậy?” Đáp: ”Bởi vì không có Lư Sư Tôn mới là người thông đạt pháp vô ngã.” Hỏi: ”Vô ngã mới là thành tựu tột cùng, vì sao?” Đáp: ”Hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn vô nhiễm, hoàn toàn vô cấu, hoàn toàn nhậm vận, hoàn toàn viên mãn.” Hỏi: ”Vì sao thanh tịnh? Vì sao viên mãn?” Đáp: ”Quá khứ đã qua rồi, hiện tại cũng sẽ thành quá khứ, tương lai còn chưa đến.” Hỏi: ”Đây là cái gì?” Đáp: ”Không.” Tôi (Lư Sư Tôn) nói với mọi người, không có Lư Sư Tôn, cũng không có đại chúng. Đây là yếu nghĩa của thành tựu cứu cánh.

30. Một dải cầu vồng nơi chân trời

“Như mộng như huyễn” là ngộ cảnh của tôi. ”Tôi là một dải cầu vồng” cũng là ngộ cảnh của tôi. Năm ấy, Thượng sư Liên Bảo lái xe lao băng băng trên đường cao tốc số 90, chúng tôi ngồi trong xe. Bỗng nhiên, mọi người chúng tôi nhìn thấy một dải cầu vồng rất lớn vắt ngang chân trời, dải cầu vồng này thật sự rất lớn, màu sắc rực rỡ bất khả tư nghì! Đứng sừng sững. Sáng rực rỡ. Rất đẹp đẽ. Từ một điểm trên mặt đất vươn vào hư không. Tôi nói: ”Đuổi theo! Đuổi đến nơi cầu vồng đi lên.” Thế là, chúng tôi đuổi đến nơi cầu vồng đi lên, đó là lối ra số 34 trên đường cao tốc 90, nơi đó gọi là Na Tư Cấp, xung quanh bốn phía đều là núi.

Đến được địa điểm này, đó là một mảnh đất trống. Có một chuồng ngựa nhỏ. Có mấy con ngựa đang thong dong gặm cỏ. Tôi nói: ”Mua mảnh đất này đi!”

Mảnh đất đó rộng 40 mẫu Anh [1 mẫu Anh bằng 4046 mét vuông], 32 mẫu là núi, trên núi toàn là cây thông rất to lớn. Cuối cùng tôi đã mua mảnh đất này. Đó chính là Biệt thự Cầu Vồng sau này, cũng là Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ngày nay. Hiện tại bao gồm: Đại điện chính, điện Hộ pháp. Năm gian phòng nhỏ dành cho việc bế quan. Hai hồ sen. Điện Hộ Ma. Song Liên Cảnh Giới (linh cốt tháp). Năm tháp xá lợi. (Hộ Ma bảo điện là nơi sử dụng nhiều nhất.) Đây chính là nguồn gốc của Biệt thự Cầu Vồng (Cầu Vồng Lôi Tạng Tự).

Vì sao tôi lĩnh ngộ được rằng tôi là một dải cầu vồng? Bởi vì tôi biết như thực như hư, thực chính là hư, hư chính là thực. Cầu vồng đương nhiên có thật, nhưng, cầu vồng đương nhiên cũng là hư vô. Nó vì duyên mà sinh, vì duyên mà diệt. Nó rất đẹp, nhưng cũng có lúc rất mờ nhạt. Có khi là cầu vồng đơn. Có khi là cầu vồng đôi. Nói nó như mộng cũng như huyễn, nói nó là bong bóng ảo ảnh, cũng nói nó là ánh điện lửa đá, cũng nói nó như sương như điện.

Bây giờ tôi càng hiểu rõ hơn: Tôi là một dải cầu vồng. Không có Lư Thắng Ngạn! Không có Chân Phật Tông! Không có đệ tử Chân Phật Tông! Không có việc viết sách, không có việc thuyết pháp, không có… Chỉ là nhất thời xuất hiện. Rồi nhất thời tiêu biến. Nguồn gốc thật sự của tôi chính là không. Tôi thật sự vui mừng, tôi thật sự vô cấu, tôi thật sự phát quang, tôi thật sự hiển hiện, tôi thật sự bất động, tôi thật sự đa sắc thái phong phú… Nhưng, tôi biết tôi là không!

31. 16 phép quán tưởng

Phần Chính hành trong tu hành Mật giáo là: Quán tưởng. (kết ấn) Trì chú. Nhập tam ma địa. Trong đó, quán tưởng tượng trưng cho ý thanh tịnh. Kết ấn tượng trưng cho thân thanh tịnh. Trì chú tượng trưng cho khẩu thanh tịnh. Nhập tam ma địa chính là không. Mật giáo dựa vào quán tưởng, kết ấn, trì chú, nhập tam ma địa để thanh tịnh thân, khẩu, ý, sau đó chứng đắc tính Không.

Tôi chỉ ra: Quán tưởng chính là nhập môn quan trọng, bởi vì quán tưởng biến những suy nghĩ của con người chúng ta thành: 1. Chuyên nhất. 2. Đơn thuần. 3. Trong sạch. 4. Tỉ mỉ. Cho nên, quán tưởng là phương pháp tốt nhất để thu tất cả suy nghĩ về thành một suy nghĩ (nhất niệm). Tôi nói: Suy nghĩ (tạp niệm) của con người thế tục chúng ra bay lả tả, có thể thu những tạp niệm về thành một chính là nhờ quán tưởng.

Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho phu nhân Vaidehi tổng cộng 16 phép quán. Bởi vì phu nhân Vaidehi có ý nguyện sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới, cho nên Phật Đà vì bà mà giảng 16 phép quán, điều này nói đến trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, vô cùng quan trọng. 16 phép quán như sau: 1. Quán tưởng mặt trời. 2. Quán tưởng nước. 3. Quán tưởng đất. 4. Quán tưởng cây quý. 5. Quán tưởng hồ nước bát công đức. 6. Quán tưởng chung. 7. Quán tưởng tòa sen. 8. Quán tưởng hình tượng. 9. Quán tưởng thân tướng thật của Phật. 10. Quán tưởng Quan Thế Âm. 11. Quán tưởng Đại Thế Chí. 12. Quán tưởng rộng khắp. 13. Quán tưởng xen lẫn. 14. Quán tưởng thượng phẩm thượng sinh. 15. Quán tưởng trung phẩm trung sinh. 16. Quán tưởng hạ phẩm hạ sinh.

Tôi cảm thấy là Phật Thích Ca Mâu Ni nói 16 phép quán tưởng Cực Lạc tịnh thổ để yêu cầu phu nhân Vaidehi tu, đương nhiên Phật Đà đã miêu tả rất rõ nét và đầy đủ về Tây phương tịnh thổ rồi. Nhưng tôi vẫn cảm thấy hơi phức tạp. Nếu là tôi, nhiều nhất thì tôi cũng chỉ quán tưởng Tây phương Tam Thánh, cũng tức là quán tưởng A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Hoặc chỉ quán tưởng A Di Đà Phật cũng được. Tôi biến rườm rà thành đơn giản. Biến nhiều thành một. Chỉ cần A Di Đà Phật hiện tiền. Hoặc tự mình hóa thành Bổn tôn. Thì có gì phải lo không thể đến được Tây phương Cực Lạc tịnh thổ chứ? Đó là cách nghĩ của tôi.

Bởi vì 16 phép quán, muốn quán tưởng lần lượt từng cái cho thật rõ ràng, cũng không phải là một việc dễ dàng. Bản địa của tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn chính là A Di Đà Phật, tôi chính là đồng tử hóa sinh của A Di Đà Phật. Chỉ cần một suy nghĩ là tôi đã đến Tây phương Cực Lạc thế giới tịnh thổ rồi!

32. Tâm pháp tu trì khai ngộ (1)

Muốn đạt đến giải thoát lục đạo luân hồi, tôi thuật lại những tâm pháp như sau.

Phải ghi nhớ giới luật: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm. Không vọng ngữ. Không uống rượu.

Dùng diệu pháp quan sát, chú ý tâm niệm của chính mình, chú ý hành vi của chính mình. Bởi vì nếu đã phạm vào ngũ giới thì có nhân ắt có quả, không cách nào giải thoát luân hồi, nhân duyên quả báo, vĩnh viễn ở trong luân hồi. Quan sát là tâm pháp rất quan trọng. Loại bỏ mặt tiêu cực. Tăng trưởng mặt tích cực. Đây chính là tu trì.

Chúng ta vận dụng sức mạnh của quan sát để tu cho đúng tâm niệm và hành vi của bản thân. Đến khi vô cùng ổn định vững chắc rồi thì sẽ tiến nhập vào định. Định chính là bất động. Định chính là kiên cố. Chính định của Phật giáo vô cùng quan trọng. Từ xưa đến nay, hành giả đại tu hành từ chính định tiến nhập giác ngộ, hoàn toàn dựa vào chính định. Nói thẳng ra: Thiền định mà cổ nhân nói đến đã bị con người hiện tại giảng giải thành trầm tư hoặc suy tưởng. Trầm tư chính là quan sát. Suy tưởng cũng là quan sát. Quan sát là quan sát tâm niệm và hành vi của chính mình, nhờ diệu pháp này mà đạt đến sự chuyên nhất. Từ chuyên nhất đạt đến vô niệm. Vô niệm chính là chính giác rồi. Nếu tu đến vô niệm thì có thể giải thoát luân hồi.

Phật Đà nói: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng. (Vô niệm là chí yếu.)

Trong Chân Phật Kinh nói: “Lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo.” Đạo lý này rất rõ ràng! Có diệu quan sát rồi, tự nhiên mọi việc ác sẽ không làm, sẽ làm mọi việc thiện. Những tâm pháp tu trì này chính là bát nhã, bát nhã cũng chính là trí huệ của Như Lai. Cho nên: Giới. Định. Huệ. Phật Đà cho rằng đây là tam vô lậu học. Tam vô lậu học này là từ diệu quan sát mà ra. Giới, định, huệ, không phải là những đơn nguyên độc lập. Cái gọi là từ giới sinh định, từ định sinh huệ, cũng có thể từ huệ sinh giới, từ huệ sinh định. Phương pháp muốn tiêu trừ nghiệp chướng chính là vận dụng giới, định, huệ. Nhưng, càng đòi hỏi diệu quan sát trí.

Cá nhân tôi cho rằng, tam vô lậu học rất quan trọng, và tam vô lậu học nhờ diệu quan sát trí mà đạt được. Trầm tư. Suy tưởng. Tức là diệu quan sát.

33. Tâm pháp tu trì khai ngộ (2)

Chúng ta ngoài quan sát tâm niệm và hành vi ra, đồng thời cũng quan sát:

(1) Quán thân bất tịnh

Thân thể là tứ đại giả hợp, là vì duyên mà sinh ra. Là một vật tổ hợp tạm thời của đất, nước, lửa, gió. Đất là xương thịt. Nước là máu dịch. Lửa là nhiệt độ. Gió là không khí. [hơi thở] Những cái này đều không sạch sẽ, ví dụ: đầu có gầu, mắt có gỉ mắt, mũi có gỉ mũi, tai có ráy tai, miệng có nước bọt, da có mùi cơ thể, trong người có phân và nước tiểu, v.v… Máu dịch có mùi tanh hôi. Lửa có khô nóng. Khí không sạch. (Đặc biệt là khi mất đi sức khỏe thì toàn thân đều có mùi hôi.)

(2) Quán thọ là khổ

Khổ sinh lão bệnh tử, yêu phải xa cách, ghét phải gặp mặt, cầu mà không được. Ngoài ra còn có: Khổ của dục vọng. Khổ của ngũ uẩn. Vui sướng luôn rất ngắn ngủi, đau khổ thì lại đặc biệt kéo dài. Khổ của phiền não là vô tận không dừng. Tôi cảm thấy khổ vì mắc bệnh là khổ nhất, nhất là sự đau khổ trước lúc chết, cái sự hành hạ ấy không phải là điều mà con người có thể chịu đựng được.

(3) Quán tâm vô thường

Lòng người sẽ thay đổi. (biến tâm) Thân người sẽ thay đổi. (sinh bệnh) Đi, đứng, ngồi, nằm, ăn, mặc, tất cả mọi thứ đều có hiện tượng vô thường. Những tai họa bất ngờ thường xuyên xảy ra. (tai nạn máy bay, tai nạn trên biển, tai nạn xe cộ, họa của đất nước lửa gió) Sinh mạng ở giữa từng hơi thở. Trong phút chốc đã thay đổi, không thể dự đoán. Những cạm bẫy chết người ở ngay bên cạnh bạn. Quốc gia là vô thường. (Nước mất.) Gia đình là vô thường. (Nhà tan.) Thân người là vô thường. (Người chết.) Lòng người là vô thường. (Suy nghĩ sinh ra, suy nghĩ chết đi.)

(4) Quán pháp vô ngã:

Từ trong sự quan sát, chúng ta thấy được khổ, không, vô thường, vô ngã. Chúng ta thường xuyên hỏi: Ta là ai? Ai là ta? Ta từ đâu đến? (trước khi sinh ra) Ta đi về đâu? (sau khi chết đi) Từ trong sự quan sát mà biết được thân thể là một hợp tướng, do đất nước lửa gió tổ hợp mà thành. Khi phân tán ra thì không còn gì nữa.

Bánh xe khổng lồ của thời gian lăn qua thì bất kì thứ gì cũng đều biến mất. Thân người. Nhà cửa. Xe cộ. Hoàn cảnh. Tài bảo. Thân sắc. Danh vọng. Đều là một hợp tướng, không có tự tính. Vậy thì cái tôi chân chính nằm ở đâu?

Thế rồi, chúng ta tìm thấy cái tôi chân chính, đến cuối cùng, chúng ta mới biết, nhân gian này chỉ là một giấc mộng, những hiện tượng ở nhân gian này chỉ là một màn biến hóa. Như mộng như huyễn. Một dải cầu vồng. Một trò chơi. A! Cuối cùng bạn đã tỉnh rồi!

34. Tâm pháp tu trì khai ngộ (3)

Có người cho rằng: Đã biết đời người như mộng như huyễn. Đã biết sinh mạng là một dải cầu vồng. Theo đuổi tiền bạc sớm muộn cũng không có gì, sắc đẹp sẽ biến thành già cỗi, danh tiếng địa vị sẽ không kéo dài. Vì thế cuộc đời chắc chắn tiêu cực.

Thật ra cũng không nhất định sẽ như vậy. Xã hội vật chất, chúng ta đã nghĩ thông và xem nó không quan trọng, chúng ta chỉ tùy duyên đến, tùy duyên đi. Cái gì phải đến sẽ đến. Cái gì phải đi sẽ đi. Không miễn cưỡng. Không bám chấp. Nhưng, chúng ta càng tích cực giải thoát luân hồi. (Thoát khổ được vui.) Cũng càng tinh tấn tu trì, phải đạt đến: Cái ác đã sinh, khiến nó đoạn diệt. Cái ác chưa sinh, khiến nó không sinh. Cái thiện chưa sinh, khiến nó sinh khởi. Cái thiện đã sinh, khiến nó tăng trưởng.

Đây chính là điều mà Phật Đà đã nói, mọi việc ác không làm, hãy làm mọi việc thiện. Trên phương diện hành thiện bố thí là rất tích cực, rất tinh tấn, không làm đại khái qua loa một chút nào, không trốn tránh khó nhọc một chút nào. Ví dụ: Tôi (Lư Sư Tôn) trên phương diện viết sách, tôi là một người cực kì có nghị lực. Mỗi ngày đều viết sách, không có ngày nào ngơi nghỉ. (Đã viết 289 cuốn sách.) Vẫn còn tiếp tục viết. Mỗi ngày tôi tu trì Chân Phật Mật Pháp, chưa từng dừng lại một ngày nào.

Từ năm 2020 đến năm 2022, quãng thời gian dịch bệnh này, toàn thế giới bị virus Corona hoành hành. Những trung ấm vì dịch bệnh mà chết được tôi dùng pháp siêu độ trung ấm nghìn chiếc thuyền pháp, hằng đêm tôi cử hành siêu độ, chưa từng gián đoạn một ngày. Việc thuyết pháp của tôi cũng vậy. Thứ bảy thuyết pháp tại Seattle Lôi Tạng Tự. Chủ nhật thuyết pháp tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Chưa bao giờ dừng lại. Tôi là một người làm việc tinh tấn, chưa bao giờ tiêu cực. Mà là rất tích cực. Dục vọng dĩ nhiên đã ít rồi, không còn theo đuổi tài, sắc, danh nữa. Nhưng tu hành giải thoát lục đạo luân hồi càng tinh tấn, tâm thoát khổ được vui càng mạnh mẽ. Tôi muốn làm được: Cần cù. Nhất tâm. Không tán loạn.

Dùng phương pháp thiền định, tu khí, tu mạch, tu minh điểm. Không chỉ đạt đến đại lạc, mà còn đạt đến quang minh. Trên phương diện này, tôi phải cảm ơn sự giáo huấn của vị thầy đủ đức của chính mình, khiến tôi khai ngộ, cũng khiến tôi thực tu Phật pháp chính xác. Đã phá bỏ tất cả chướng ngại. Đã phá bỏ tất cả lười biếng. Đã phá bỏ tất cả hôn trầm. Đã phá bỏ tất cả tán loạn. Đã phá bỏ tất cả ngu muội. Tôi có thể từ mê nhập ngộ, không phải nhờ lực của tôi, mà là nhờ sự dạy bảo của các Thượng sư nhân gian của tôi. Không chỉ như vậy, bản địa A Di Đà Phật (Phật Vương) của tôi. Diêu Trì Kim Mẫu (Tiên Vương) của tôi. Địa Tạng Vương Bồ Tát (Địa Vương) của tôi. Các ngài khiến tín tâm của tôi tràn đầy, hiểu biết pháp lý, nhận rõ chân pháp, tinh tấn không lười biếng. Tôi chỉ có thể nói một câu: “Cảm ơn”. Cảm ơn gia trì!

35. Tâm pháp tu trì khai ngộ (4)

Chúng ta chỉ cần diệu quan sát là biết phiền não căn bản là vô tận. Từ nhỏ, phiền não chuyện đi học. (Chết vì học, học đến chết.) Học xong lại phiền não chuyện đi làm. (thăng chức, tăng lương) Làm việc một thời gian lại phiền não chuyện gia đình. (kết hôn, tình cảm, con cái) Có gia đình rồi lại phiền não chuyện xe cộ, nhà cửa. (tiền, tiền, tiền) Tuổi tác cao một chút lại phiền não chuyện sức khỏe. (tám vạn bốn nghìn loại bệnh) Có một chút tiền thì phiền não chuyện đóng thuế, phiền não bị trộm cắp. (suy tính thiệt hơn) Già rồi, phiền não càng nhiều. (…….)

Còn có rất nhiều điều phiền não lớn, phiền não vừa, phiền não nhỏ, có thể viết thành một bộ kinh Phiền Não. Nhưng, chỉ cần bạn khai ngộ rồi, bạn sẽ biết, những phiền não này toàn bộ đều là tự mình tìm đến. Từ khi sinh ra đến khi chết. Cuối cùng là: “Vô sở đắc.” Lúc sống, tất cả không có. Chết rồi, tất cả là số không. Cho nên, nếu có một ngày bạn khai ngộ rồi, bạn sẽ hiểu, tất cả phiền não đều là trống không trống rỗng. Lúc này có thể cắt đứt phiền não! Khinh an. Thả lỏng. Vui vẻ. Hoan hỷ. Tự tại. (Điều này có thể chứng minh bạn đã nhìn thấu, đã buông bỏ.)

Bạn sẽ không bám chấp vào tướng mạo bên ngoài của mình. Bạn sẽ không bám chấp vào học thức của mình. Bạn sẽ không bám chấp vào tình ái. Bạn sẽ không bám chấp vào cách nhìn của người khác đối với bạn. Bạn sẽ không bám chấp vào con cái tốt hay xấu. Dần dần, bạn chính là “tôn giả vứt bỏ bám chấp”. Phiền não vứt bỏ. Bám chấp vứt bỏ. Bạn đã đến gần “đạo”.

Nếu bạn đã không còn phiền não nữa, cũng không còn bám chấp nữa, thì chính là: Vô sở trụ. Vô sở vị. Vô sở đắc. Những điều này sẽ khiến bạn đi trên chính đạo, lời nói và việc làm của bạn thống nhất như một, hoàn toàn là chứng ngộ. Diệu quan sát của bạn đều là chính tư duy. Sự nghiệp của bạn đều là chính nghiệp. Tất cả mọi thứ của bạn đều hợp với Phật giáo, chính là chính mệnh. Nỗ lực tu trì bảo nhậm chính là chính tinh tấn. Suy nghĩ của bạn dưới sự quan sát vi diệu, đều là chính niệm. Bạn hãy dùng những điều này để tu thiền định… Từ chuyên nhất đến không huệ. Tức là: Tán loạn quy về một. Một quy về không. Không quy về bồ đề. Đây chính là chính định vĩ đại nhất. Đây cũng là bát nhã. Phật Thích Ca Mâu Ni tại pháp hội Bát Nhã đã giảng kinh Đại Bát Nhã, trong đó chính là Kim Cang Kinh, chính là Tâm Kinh. Sau đó thì, hãy đi thức tỉnh hữu tình đi! (tự giác giác tha)

36. Tâm pháp tu trì khai ngộ (5)

Hỏi: ”Thế nào là vô vi nhi vô sở bất vi?” [Thuận theo tự nhiên mà làm, làm không vì gì cả (vô vi) nhưng không có gì là không làm được.] Đáp: ”Vì đã biết là vô sở đắc nên có thể không vì cái gì cả, đây chính là vô vi. Có thể thực hành thí tài, thí pháp, thí vô úy, thì chính là không gì không làm được.” Chú thích: Thí tài — dùng tiền để cứu khổ cứu nạn. Thí pháp — dùng Phật pháp để dẫn dắt chúng sinh. Thí vô úy — dùng tính mạng và thời gian để giúp đỡ chúng sinh.

Hỏi: ”Trì giới là vì cái gì?” Đáp: ”Trì giới là để không phạm nhân duyên quả báo, là bước đầu tiên để giải thoát lục đạo luân hồi.” Chú thích: Luật nghi giới — chú trọng đi đứng ngồi nằm. Giữ vững bổn phận, không vi phạm. Nhiếp thiện pháp giới — dùng thiện pháp để lợi ích chúng sinh. Nhiêu ích hữu tình giới — quảng tu thiện pháp, lợi ích lục đạo chúng sinh.

Hỏi: ”Nhẫn nhục tu thế nào?” Đáp: ”Một hành giả khai ngộ biết vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, tự nhiên có thể nhẫn nhục.” Chú thích: Sinh nhẫn — chịu đựng những lời oán trách phỉ báng, ngậm bồ hòn làm ngọt, sau đó dùng tâm hiền từ thay đổi họ. Pháp nhẫn — chịu đựng mọi đau khổ, đói, lạnh, nóng, bị đánh, bị giết. Vô sinh pháp nhẫn — người giác ngộ đã hiểu tất cả đều không có, vì vô ngã nên có thể chịu đựng.

Hỏi: ”Tinh tấn vì sao quan trọng?” Đáp: ”Lục độ của Bồ Tát là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đều phải dùng đến tinh tấn, tinh tấn thích hợp dùng cho mỗi một độ, vì vậy vô cùng quan trọng.” Chú thích: Đoạn tinh tấn — tinh tấn loại bỏ cái ác. Tu tinh tấn — tinh tấn tu thiện. Pháp tinh tấn — tinh tấn để giải thoát lục đạo luân hồi.

Hỏi: ”Thế nào là thiền định?” Đáp: ”Chuyên nhất, ly hý, nhất vị, vô tu. Chính là điều tôi thường nói, tạp niệm quy về nhất niệm, nhất niệm quy về vô niệm, vô niệm quy về bồ đề.” Chú thích: Thân định — thân thanh tịnh. Khẩu định — khẩu thanh tịnh. Ý định — ý thanh tịnh. Thân khẩu ý thanh tịnh là tam mật của Mật giáo, là phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng.

Hỏi: ”Thế nào là trí huệ?” Đáp: ”Là trí huệ của Như Lai (Phật huệ), chứ không phải trí huệ của thế tục, còn gọi là bát nhã. Ví dụ là người đã hiểu rõ khổ, không, vô thường, vô ngã và có thể thực tiễn.” Chú thích: Sinh không — một hợp tướng, vì vậy sinh không. (Tất cả không có tự tính.) Pháp không — tất cả nhân duyên sinh, tất cả nhân duyên diệt, vì thế pháp không. Nhất thiết trí trí — trí huệ nhập thế, trí huệ xuất thế, tất cả đều hiểu rõ sáng tỏ và có thể vận dụng.

Cá nhân tôi đối với nhập thế đã giác ngộ. Đối với xuất thế cũng giác ngộ. Có ngộ tức không ngộ. Vì sao? Vì là “vô ngã”.

37. Tâm pháp tu trì khai ngộ (6)

Phật Đà nói: ”Phải đạt thành tựu cứu cánh, tức là vô ngã.” Phật Đà còn nói: ”Cái gọi là pháp chính là vô pháp, bởi vì vô pháp cho nên là pháp.” Trong kinh Kim Cang nói: ”Phật Thích Ca Mâu Ni cúng dường hoa sen cho Phật Nhiên Đăng, Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Phật Đà rằng tương lai thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Phật Đà hỏi Tu Bồ Đề: ”Có đắc pháp không?” Tu Bồ Đề đáp: ”Không, không đắc pháp.”

Trong đoạn này, tôi (Lư Sư Tôn) giải thích như sau: So sánh: Nếu bồ đề tâm là sông Hằng. Chúng ta không thể lấy một hạt cát của sông Hằng mà nói: “Đây là sông Hằng.” Cát sông Hằng không phải là sông Hằng. Logic tương tự, chúng ta không thể lấy một giọt nước sông Hằng và nói: “Đây là sông Hằng.” Logic tương tự, chúng ta bơi trong nước sông Hằng, sau đó nói: “Tôi đã có được sông Hằng rồi.” Vì: ”Sông Hằng không thể nào so sánh.” ”Bồ đề tâm bất khả thuyết!” ”Tính Không vô tướng!” Cho nên, tôi nói: ”Người khai ngộ, vì bất khả thuyết, cho nên bất khả thuyết mới gọi là khai ngộ.”

Pháp chỉ là công cụ, không phải là bản thể. Chỉ là linh kiện của chiếc xe, không thể gọi là một chiếc xe. Phật Nhiên Đăng thọ ký Phật Thích Ca Mâu Ni là: ”Lấy Không chuyển Không.” Tôi lấy chính mình làm ví dụ: Lư Thắng Ngạn là ai? Ta là ai? ”Tên họ chỉ là một cái đại diện, không hề là tôi chân chính.” (Theo như tôi biết, Đài Loan tổng cộng có mười sáu người đều có tên là Lư Thắng Ngạn.)

Tôi ở trên tấm ảnh, đó chỉ là tấm ảnh. Lư Thắng Ngạn lúc nhỏ, Lư Thắng Ngạn lúc trẻ tuổi, Lư Thắng Ngạn lúc trung niên, Lư Thắng Ngạn lúc về già. Đó chỉ là nhất thời. Đầu, tứ chi, thân, đều không phải. Hợp lại với nhau cũng không phải. Thân không phải, khẩu không phải, ý không phải. Bởi vì chúng đều ở trong sự biến hóa vô thường, có đôi khi thậm chí không thể kiểm soát thân khẩu ý của chính mình. Tìm kiếm bên ngoài thân, không có. Tìm kiếm bên trong thân, không có. Tìm kiếm ở giữa, không có.

Cho nên ba chữ “ta là ai” này đã trở thành công án của Thiền tông. ”Ta là ai?” Nghiên cứu thảo luận đến cuối cùng, tôi đã phát hiện ra. Thân chẳng phải cây bồ đề. Tâm chẳng phải tấm gương sáng. Vốn dĩ không có một vật. Có chỗ nào mà bám bụi. Cái ngã là bất khả thuyết. Cái ngã căn bản là không. Cái ngã là không có gì cả. Ta như mộng như huyễn. Ta như một dải cầu vồng. Vô ngã mới là chân lý, vô thường mới là chân lý, Không mới là chân lý. Cái ngã và thế giới vật chất chỉ là nhất thời. Nhận định rõ ràng những điều này rồi thì chính là khai ngộ.

38. Tâm pháp tu trì khai ngộ (7)

Cảm nhận khai ngộ của tôi là như sau. Hỏi: ”Thế nào là đệ nhất nghĩa?” Tôi đáp: ”Có con cá chui vào trong lưới.” Hỏi: ”Hiểu như thế nào?” Tôi đáp: ”Rõ ràng trong bao la vạn tượng.” Hỏi: ”Nếu không chui vào lưới thì sao?” Tôi đáp: ”Núi cao chẳng ngại mây trắng bay.”

🌟

Hỏi: ”Trước khi khai ngộ thì thế nào?” Tôi đáp: ”Mặc áo ăn cơm.” Hỏi: ”Sau khi khai ngộ thì sao?” Tôi đáp: ”Mặc áo ăn cơm.” Hỏi: ”Vì sao vẫn như nhau?” Tôi đáp: ”Tiền tam tam, hậu tam tam, vẫn ở điểm ban đầu.”

🌟

Hỏi: ”Thế nào là tâm pháp tu trì của khai ngộ?” Tôi đáp: ”Nhật nguyệt phân minh?” Hỏi: ”Nếu không có nhật nguyệt thì sao?” Tôi đáp: ”Vậy thì gió mát đầy đường.” Hỏi: ”Hai câu này không thật sự hiểu lắm.” Tôi đáp: ”Đi thỉnh giáo Chân Phật.” Hỏi: ”Chân Phật ở đâu?” Tôi đáp: ”Lôi Tạng Tự.”

🌟

Hỏi ”Làm sao dùng một câu để giải thích khai ngộ?” Tôi đáp: ”Vọng tâm vô trụ tức bồ đề.” Hỏi: ”Có pháp để tu không?” Tôi đáp: ”Không có pháp để tu, pháp tức là phi pháp, phi pháp tức là pháp, tất cả đều là Phật pháp, tất cả cũng đều không phải là Phật pháp.” Hỏi: ”Vì sao lại như vậy?” Đáp: ”Như thực như hư.” Hỏi: ”Hành giả làm thế nào để thiết thực?” Đáp: ”Hành giả thiết thực tức không thiết thực, bởi vì không thiết thực mới là thiết thực.” A! Hiểu rồi! Lư Sư Tôn tôi đây không cần thấy Phật. Bởi vì Phật và Phật biết nhau.

39. Tâm pháp tu trì khai ngộ (8)

Đêm ngày 22 tháng 2 năm 2022, tôi tu siêu độ Nghìn chiếc thuyền pháp. Tu được một nửa thì tôi ngủ thiếp đi. Phật Thích Ca Mâu Ni hiện lên trước mắt tôi, tỏa ánh sáng rực rỡ, ánh hào quang màu trắng sáng chói lọi chiếu đến khiến tôi tỉnh giấc. Tôi tiếp tục tu xong pháp Nghìn chiếc thuyền pháp.

Tôi kể chuyện này với đồng môn, hỏi đáp như sau: Hỏi: ”Phật Thích Ca Mâu Ni từ đâu đến?” Đáp: ”Không đến không đi.” Hỏi: ”Phật Thích Ca Mâu Ni vì sao lại đánh thức Lư Sư Tôn?” Đáp: ”Để làm tấm gương cho con người trong thiên hạ.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn ngủ thiếp đi, Phật Thích Ca Mâu Ni gọi dậy, là ý nghĩa gì?” Đáp: ”Ngồi phải ngồi cho thẳng.” Hỏi: ”Thật may có Phật Thích Ca Mâu Ni đánh thức, nếu không đánh thức thì thế nào?” Đáp: ”Tự giác.” [Tự tỉnh lại.] Hỏi: ”Sau khi tỉnh thì sao?” Đáp: ”Giác tha.” Hỏi: ”Tự giác là gì?” Đáp: ”Núi sông đại địa đều là chân như.” Hỏi: ”Giác tha là gì?” Đáp: ”Cùng đi ngủ.”

🌟

Hỏi: ”Thỉnh giáo Lư Sư Tôn, tu Mật pháp như thế nào?” Tôi đáp: ”Phi tâm phi Phật.” Hỏi: ”Có người nói, tức tâm tức Phật, vì sao là phi tâm phi Phật?” Tôi đáp: ”Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Hỏi: ”Mật pháp và Thiền tông có khác nhau không?” Tôi đáp: ”Mây có thế vượt khỏi núi, không có suối nào không có tiếng suối.” Hỏi: ”Không hiểu?” Tôi đáp: ”Nhất thể chân như.”

🌟

Hỏi: ”Phật pháp phân tông phân phái, Lư Sư Tôn có cách nhìn thế nào?” Tôi đáp: ”Hư không không biến đổi.” Hỏi: ”Họ đều nói bản thân là tốt?” Tôi đáp: ”Ai hát điệu người ấy.” Hỏi: ”Vậy cái nào mới đúng?” Tôi đáp: ”Tự anh đi hướng đông tôi đi hướng tây.”

40. Tâm pháp tu trì khai ngộ (9)

Tôi (Lư Sư Tôn) tại đây cần nói rõ lại lần nữa bốn chữ rất quan trọng trong kinh Kim Cang: “Thọ trì đọc tụng.” Đọc — đọc kinh Kim Cang. Tụng — tụng kinh Kim Cang. Tôi biết rất nhiều tín đồ Phật giáo đều có thể đọc tụng kinh Kim Cang, thậm chí còn chép kinh Kim Cang. Điều này rất tốt, lành thay! Lành thay! Nhưng tôi lại càng coi trọng hai chữ “thọ trì”. Thọ — tiếp nhận nó. Trì — thực hiện nó.

Tiếp nhận cái gì đây? Tiếp nhận vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Thực hiện cái gì đây? Thực hiện vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Cái gọi là thọ chính là tin tưởng, là có sức mạnh niềm tin. Cái gọi là trì, chính là thực hiện. Điều quan trọng là trì.

Tôi tu Mật giáo: Thân thanh tịnh. Khẩu thanh tịnh. Ý thanh tịnh. Thân khẩu là hành vi. Ý là suy nghĩ. Tu trì chính là sự thanh tịnh của hành vi, sự thanh tịnh của ý niệm.

Hành vi là cái bên ngoài. Ý niệm là cái bên trong. Tôi phải nói lại nhiều lần, dùng ý niệm của chính bản thân hành giả để quan sát ý niệm của chính mình. Quán tưởng của Mật giáo là hết sức quan trọng! Quan sát suy nghĩ của mình, thật đó! Thật sự rất quan trọng!

Còn như hành vi, sự thanh tịnh của thân khẩu là do ý niệm sản sinh ra, cho nên ý thanh tịnh là số một. Yếu nghĩa của kinh Kim Cang là: ”Không.” Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Nghĩa gốc của nó chính là “Không”.

Tại đây tôi nói với mọi người: Thanh tịnh là gì? Thanh tịnh chính là “Không”. Cho nên, Mật giáo tu thân thanh tịnh, tu khẩu thanh tịnh, tu ý thanh tịnh, đến được điểm cao nhất chính là “Không”. Thực hiện cái “Không” này thì tức là chứng ngộ. Thực hiện cái “Không” này thì tức là giải thoát.

Muốn giải thoát lục đạo luân hồi, duy có “Không” mới có thể giải thoát, nếu như không có “Không” thì không có cách nào giải thoát. Và “Không” chính là thân khẩu ý thanh tịnh của Mật giáo. Từ sự tu trì “Không” mà có thể chứng minh. Vô trụ. Vô sở. Vô đắc. Vô tướng. Vô thất. Vô vị. v.v… Một vị Kim cương Thượng sư đã chứng ngộ “Không” sẽ dùng pháp như thực như hư này để hoằng hóa người khác. Đây chính là bố thí. Bồ đề tâm là “chân không diệu hữu”.

41. Tâm pháp tu trì khai ngộ (10)

Hỏi: ”Lư Sư Tôn tu cái Không, tu như thế nào?” Tôi đáp: ”Buổi sáng cạo sạch đầu, buổi tối gội đầu.” Hỏi: ”Đây là việc thế tục mà?” Tôi đáp: ”Thanh tịnh.” Hỏi: ”Còn có việc gì khác không?” Tôi đáp: ”Tôi tạm hỏi anh, chư Phật xuất thế là vì việc gì?” Người hỏi á khẩu.

🌟

Hỏi: ”Lư Sư Tôn thiền định là vì sao?” Tôi đáp: ”Tôi bất động, còn mọi người động.” Hỏi: ”Bất động để làm gì?” Tôi đáp: ”Buổi sáng đi chơi tứ Thánh giới, buổi chiều đi xuống tam đồ.” Hỏi: ”Chúng tôi động, động cái gì?” Tôi đáp: ”Đi theo bước chân của tôi.” Hỏi: ”Làm sao mà theo?” Tôi đáp: ”Thấu pháp thân.” Hỏi: ”Người học không làm được?” Tôi đáp: ”Thiền định đi!”

🌟

Hỏi: ”Lư Sư Tôn thuyết pháp 50 năm, chọn lấy một chữ, Lư Sư Tôn lấy chữ gì?” Tôi đáp: ”Thẳng.” Hỏi: ”Không hiểu thẳng là nghĩa gì?” Tôi đáp: ”Thẳng mà đi!” Hỏi: ”Vẫn không hiểu là làm sao?” Tôi đáp: ”Đến Lôi Tạng Tự, hỏi người tri âm.” Hỏi: ”Ai là người tri âm?” Tôi đáp: ”Cong không giấu thẳng.”

🌟

Hỏi: ”Khi Lư Sư Tôn thiên hóa rồi thì chúng tôi học người nào?” Tôi đáp: ”Học Lư Sư Tôn.” Hỏi: ”Còn có người hỏi đáp không?” Tôi đáp: ”Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn đang dạy chúng ta đó thôi!” (Ngài gọi tôi thức dậy.) Chú thích: Điều này có thể chứng minh tam tế nhất như, hoành biến thập phương. Trong thời gian và không gian, tùy ý ta tung hoành.

42. Tâm pháp tu trì khai ngộ (11)

Hỏi: ”Người nào có thể hóa thân bên ngoài thân?” Đáp: ”Lư Sư Tôn có thể hóa thân bên ngoài thân.” Hỏi: ”Tu thế nào?” Đáp: ”Huyễn thân.” Hỏi: ”Làm sao tu thành tựu pháp Huyễn thân?” Đáp: ”Bổn tôn, hành giả, hành giả trong gương, ba người hợp làm một.” Hỏi: ”Xin giải thích.” Đáp: ”Tâm ta tựa trăng thu, hồ xanh trong leo lẻo, không gì so sánh bằng, bảo tôi nói làm sao. Còn nữa, một sinh hai, hai sinh ba, không ngăn trở nổi nữa, lan rộng ra bao la.” Hỏi: ”Hóa thân bên ngoài thân của Thích Ca Như Lai như thế nào?” Đáp: ”Núi xanh nước cũng xanh, hoa đào hồng, hoa mận trắng. Sao không nghe thấy, một hoa một Phật thổ, một lá một Thích Ca.” Hỏi: ”Ai nhìn thấy huyễn thân của Lư Sư Tôn?” Đáp: ”Chiếu tới hết tứ sinh, một điểm tùy người thấy.” Hỏi: ”Tôi hỏi ai nhìn thấy?” Đáp: ”Có khối người.”

🌟

Hỏi: ”Lư Sư Tôn thành Phật như thế nào?” Đáp: ”Đi đứng ngồi nằm.” Hỏi: ”Điều tôi hỏi là đi thế nào?” Đáp: ”Chân ở dưới bụng.” Hỏi: ”Không phải nói cái bụng này, không phải là cái chân này.” Đáp: ”Sinh tử niết bàn, cũng như nằm mơ. Vẫn không phải là huyễn trong huyễn, thân trong thân.” Hỏi: ”Thành Phật lợi ích chúng sinh không?” Đáp: ”Chân Phật gia phong, nam bắc tây đông, tùy mà vận dụng, lấy không độ không.”

🌟

Hỏi: ”Thế nào là tâm pháp khai ngộ?” Đáp: ”Đã chứng vô sinh, tắc hợp bản diệu, kiến văn giác tri, lại hợp bản diệu.” Hỏi: ”Bản diệu là cái gì?” Đáp: ”Pháp nhĩ bản nhiên, chân không diệu hữu.” Hỏi: ”Tìm ở nơi nào?” Đáp: ”Sơn hà đại địa tràn đầy minh châu.” Hỏi: ”Vì sao tôi không biết?” Đáp: ”Tất cả đều là minh châu thì bảo ai biết được chứ?”

43. Tâm pháp tu trì khai ngộ (12)

Hỏi: ”Kinh Kim Cang có nói đến “nhất thể đồng quán”, thế nào là nhất thể đồng quán?” Đáp: ”Chính là vạn pháp quy về một.” Hỏi: ”Phật có ngũ nhãn, sông Hằng có nhiều cát, là ví von cái gì?” Đáp: ”Ngũ nhãn là một con mắt, nhiều cát là một hạt cát.” Hỏi: ”Phật biết tâm của mọi chúng sinh, là vì sao?” Đáp: ”Tâm của mọi chúng sinh là không phải tâm, không phải tâm mới gọi là tâm, vì thế mà biết.” Hỏi: ”Để biết tâm chúng sinh, có bí quyết gì?” Đáp: ”Đơn giản. Tâm quá khứ không thể đắc, tâm hiện tại không thể đắc, tâm vị lai không thể đắc. Ba chữ không thể đắc, tức là nhiều loại tâm chúng sinh.” Hỏi: ”Dường như hiểu, mà dường như không hiểu?” Đáp: ”Bất kể chúng sinh là tâm gì, cuối cùng đều quy về một, cũng chính là tâm không thể đắc.” Hỏi: ”Vì sao mà không thể đắc?” Đáp: ”Xưa nay trong ngoài, thử hỏi, có người nào đắc? Đắc được cái gì?” Hỏi: ”Nghĩ thử thì, quả thật vô sở đắc, vì sao lại như vậy?” Đáp: ”Phật nói: tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như điện, nên quán thấy như vậy.”

🌟

Hỏi: ”Về mặt này, cổ nhân nói thế nào?” Đáp: ”Trăm sông khác dòng, lấy biển làm điểm cuối. Đây chính là nhất thể đồng quán.” Hỏi: ”Còn gì không?” Đáp: ”Bao la vạn tượng, lấy Không làm điểm cuối. Đây chính là nhất thể đồng quán.” Hỏi: ”Còn gì không?” Đáp: ”Tứ Thánh lục phàm, lấy Phật làm điểm cuối. Đây chính là nhất thể đồng quán.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn lấy gì làm điểm cuối?” Đáp: ”Lấy mỹ nữ làm điểm cuối.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn nói đùa rồi?” Đáp: ”Mỹ nữ sẽ già, mỹ nữ sẽ xấu, xấu rồi thì cũng sẽ chết. Cũng là nhất thể đồng quán.” Hỏi: ”Vì sao có người lại nhìn không ra?” Đáp: ”Kẻ tham điều huyễn hoặc, xúc cảnh ngộ duyên, không thể lập tức thoát khỏi, là vì nghiệp thức sâu nặng, bị tình cảm làm cho mê muội.” Hỏi: ”Làm thế nào để thoát hoàn toàn?” Đáp: ”Vào nước không động sóng, vào rừng không đạp cỏ.” Hỏi: ”Theo ai là tốt nhất?” (Chọn ai làm thầy?) Đáp: ”Bỏ tôi thì làm gì có ai?”

44. Tâm pháp tu trì khai ngộ (13)

Hỏi: ”Thỉnh Lư Sư Tôn giải thích rõ về dung nhập tính Không là trạng thái gì?” Đáp: ”Như một giọt nước hòa vào biển lớn.” (Trâu đất xuống biển.) Hỏi: ”Kiến văn giác tri thì sao?” [Những điều thấy nghe hay biết.] Đáp: ”Vô cùng vô tận.” (Vẫn quy về một.) Hỏi: ”Tôi muốn hỏi về cảm giác?” Đáp: ”Vua đại lạc.” Hỏi: ”Đại lạc là đại lạc thế nào?” Đáp: ”Như say như mê, trăm nghìn tam muội một khẩu vị, vô lượng diệu môn hiện ngũ sắc.” Hỏi: ”Vì sao gọi là đại?” Đáp: ”Cả đất nước đều thuộc về ta.” (Lớn mà không phải ở bên ngoài.) Hỏi: ”Vì sao gọi là lạc?” Đáp: ”Ý muốn tùy tâm, thần tiên bay bay.” Hỏi: ”Còn gì nữa không?” Đáp: ”Ánh sáng lấp lánh khắp ba nghìn đại thiên thế giới. Đây gọi là: phá bóng tối vô minh, cắt đứt dòng sinh tử, vượt qua ba vùng có, nổi trên biển vô vi.” Hỏi: ”Vào sâu thêm một lớp thì thế nào?” Đáp: ”Không tịch.” Hỏi: ”Niết bàn tịch tĩnh mà Phật nói là như thế nào?” Đáp: ”Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật. Không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa.” Hỏi: ”Có nói được không?” Đáp: ”Không thể nói.” Hỏi: ”Có thể miêu tả không?” Đáp: ”Xa rời mọi sắc thanh ngôn ngữ.” (Nhân của vô sinh, nhân của vô tử.) Hỏi: ”Thỉnh Lư Sư Tôn thử nói một câu?” Đáp: ”Trời cao đất rộng, trăng thanh gió mát.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn nói thế nào về tu trì thành tựu?” Đáp: ”Vua của đại lạc, vua của ánh sáng, vua của tính Không.” Hỏi: ”Lại nói về hạt xá lợi, có công dụng gì?” Đáp: ”Tứ đại tách rời ra, cuối cùng là không còn hình thể. Còn như hạt xá lợi cũng là huyễn hóa.” Hỏi: ”Lư Sư Tôn còn độ chúng sinh không?” Đáp: ”Một viên minh châu ở chỗ tôi đây, đẩy thì nó sẽ động, tỏa ánh sáng làm lay động mặt đất. Độ chúng sinh tức không độ chúng sinh, tức là độ chúng sinh.”

45. Tâm pháp tu trì khai ngộ (14)

Trong bản văn này, tôi viết ra những cảm tưởng về khai ngộ. Tên của cuốn sách này lấy cảm hứng từ bài kệ sau cùng của kinh Kim Cang: Tất cả pháp hữu vi Như mộng huyễn bào ảnh Như sương cũng như điện Nên quán thấy như vậy. Thế là tên sách là “Như mộng như huyễn”.

Và: Nếu do sắc thấy ta Do âm thanh cầu ta Người ấy hành tà đạo Không thể thấy Như Lai. Điều này chỉ pháp thân vô tướng.

Từ hai bài kệ này, chúng ta có thể lĩnh ngộ được: Tất cả thế giới hiện tượng chỉ là nhất thời. (như mộng như huyễn) Mọi tướng đều là phi tướng. Ở đây có thể chứng ngộ: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. (không gian) Vô thọ giả tướng. (thời gian) Vì sao? Bởi vì: Tâm quá khứ bất khả đắc. Tâm hiện tại bất khả đắc. Tâm vị lai bất khả đắc. Chứng ngộ: quá khứ đã qua rồi, trong sát-na hiện tại cũng sẽ thành quá khứ, tương lai còn chưa đến. Cho nên, tất cả đều vô sở đắc.

Thử hỏi: thế gian này, ai có được cái gì? Người có quyền thế nhất cũng quy về hư vô, người giàu có nhất cũng quy về hư vô, người xinh đẹp nhất cũng quy về hư vô. Mọi thứ có đều quy về hư vô. Vì vậy chứng đắc: Không được. Không mất. Bởi vì không được không mất cho nên không bám trụ. (Vô vi nhi vô bất vi.) [Không làm gì mà không gì là không làm.]

Cái gọi là bồ đề tâm, vì tâm vô trụ, cho nên có vô lượng vô tận công đức. (Công đức tức không phải công đức, không phải công đức mới là công đức.) (Thực tướng tức phi tướng, phi tướng là thực tướng.) (Trang nghiêm tức tịch tĩnh, tịch tĩnh là Không.) Muốn đắc giải thoát luân hồi, cần biết: Vô nghiệp đệ nhất. Thiện nghiệp thượng thiên. Ác nghiệp tam đồ. (Vô thiện, vô ác, tức có thể giải thoát.) Không vì thiện mà hành thiện là phát tâm. Đến được sự “bất động” thì mới biết vô sinh pháp nhẫn.

Cá nhân tôi cho rằng: Duy thức — kĩ lưỡng nhất. Trung quán — không hữu song vận. Đây là tâm pháp hoằng pháp tu trì, cũng là pháp tu hành chứng Không. Vạn pháp thực quy về một pháp, và một pháp này tức là đạo giải thoát, cũng tức là đạo bồ đề. Một pháp cũng quy về Không. Bồ đề tâm là không - hữu song vận. Thuyết pháp chưa từng nói một chữ nào. Độ sinh chưa từng độ một người nào. Đó là pháp nhĩ bản nhiên. Tỉnh trước, tỉnh sau, cùng là tỉnh. Chứng ngộ của tôi là “không liên quan”.

46. Thư của Liên Hoa Thục Doanh

Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Thánh Tôn vô thượng! A Di Đà Phật! Chúc Sư Tôn và gia đình năm mới vui vẻ! Cát tường như ý! Năm Hổ tâm tưởng sự thành, hoằng pháp viên mãn.

Đệ tử sám hối vì bấy lâu nay vẫn chưa gửi ảnh phụ thân hồi hồn cho Sư Tôn xem. Đó là ngày mà Liên Hoa Tạ Chương Hưng hồi hồn, một con bướm đêm hóa hiện ra từ trong không khí (tận mắt đệ tử nhìn thấy), bay vòng quanh trên đầu một người nhà mấy vòng, sau đó đậu lại trên sách của Sư Tôn và không động đậy nữa, dường như đang ra ám thị cho con cháu chúng con.

Phụ thân Liên Hoa Tạ Chương Hưng cả một đời không tu pháp, bị đột quỵ mấy lần thì thân thể cũng không thể cử động, cũng không thể nói năng, thật may ông cụ tỏ ý quy y Sư Tôn, chúng con dạy ông cụ niệm thầm “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật”. Chính nhờ việc niệm thầm của ông cụ mà Sư Phật A Di Đà Phật từ bi đã gia trì cho phụ thân. Cũng có dịp may vào ngày 25/7/2010, Sư Tôn đến Hồng Kông Lôi Tạng Tự, trong số mấy nghìn người, không ngờ Sư Tôn lại nhìn thấy phụ thân ngồi trên xe lăn, và đã đích thân tiến lên trước vỗ lên vai của phụ thân. Ngày 15/3/2011 thì phụ thân hấp hối, chúng con không hề biết gì về việc chăm sóc lúc lâm chung, chỉ có một tấm ảnh của Sư Tôn, một chiếc máy niệm chú Liên Hoa Đồng Tử, gửi fax đến Chân Phật Mật Uyển báo cáo với Sư Tôn, cứ thế người nhà luân phiên nhau ở bên cạnh phụ thân niệm chú.

Thời gian đã đến, phụ thân sắp đi, chúng con cũng khóc, đứa con nhỏ của con càng khóc to hơn vì nhìn thấy pháp thân của Sư Tôn đến tiếp dẫn phụ thân đến Phật quốc, trẻ con không nói dối, thậm chí cháu bé còn nhìn thấy Sư Tôn gia trì cho phụ thân xong thì phụ thân hóa thành hình tượng giống như Địa Tạng Vương Bồ Tát, đi ra từ cửa sổ, cùng Sư Tôn rời đi, vô cùng thù thắng!

Điều mà con muốn chia sẻ là, phụ thân cả đời không tu pháp, chỉ niệm thầm câu “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật”, vậy mà Sư Tôn từ bi đã nghìn nơi cầu nguyện nghìn nơi hiện. Chúng con cũng không thành thạo việc chăm sóc lúc lâm chung, thế mà phụ thân đã được tiếp dẫn, con hy vọng chia sẻ cho các đồng môn biết, chỉ cần có lòng tin thì Sư Tôn chắc chắn tiếp dẫn.

Sư Tôn thừa nguyện lại đến, ban cho chúng con đại pháp vô thượng, đệ tử ngu muội chưa từng học tập chăm chỉ, đệ tử thật kém cỏi, đã để cho thầy phải đặc biệt đến với thế giới vọng tưởng đại huyễn của con để đánh thức đệ tử, thật là quá hạnh phúc, vậy mà cũng không biết cách trân trọng vận may này.

Đệ tử cảm ơn Sư Phật đã tiếp dẫn phụ thân, mặc dù con chưa thể tu được chứng lượng gì, nhưng đệ tử chắc chắn sẽ nỗ lực học tập giống như phụ thân, cũng hy vọng đem sự tích về bằng chứng không thể chối cãi này chia sẻ với Sư Tôn và các đồng môn Chân Phật.

Sư Tôn của chúng ta không thể coi thường, sâu rộng không thể đo lường, chỉ cần tin tưởng, chỉ cần thỉnh cầu, ngài nhất định sẽ đến tiếp dẫn, ngài chính là chân thân của A Di Đà Phật, không hề khác biệt.

Om guru liansheng siddhi hum. Liên Hoa Thục Doanh đảnh lễ.

47. Thư của Liên Ha

Sư Phật Sư Mẫu kính yêu nhất, Phật an! Ngu đệ tử Liên Ha nhất tâm đảnh lễ và lấy thân khẩu ý cúng dường Sư Phật Sư Mẫu.

Đầu tiên đệ tử kính chúc Sư Phật Sư Mẫu Tết Xuân vui vẻ! Chúc nguyện Sư Phật Sư Mẫu Phật thể an khang, trường thọ tự tại, hổ hổ sinh uy, ngày ngày vui vẻ, ngày ngày thoải mái, năm Hổ mọi thứ đều cát tường như ý!

Khi Sư Phật đọc được lá thư này thì chắc là đệ tử đã ở Seattle rồi. Có thể trực tiếp gặp Sư Phật, đảnh lễ Sư Phật, nhận cái sờ đầu của Sư Phật mà đệ tử mong chờ bấy lâu là việc mà đệ tử mong ngóng biết bao! Suốt hai năm nay, vì tình hình dịch bệnh mà không có cách nào hành hương, không có cách nào ở bên cạnh Sư Phật để lắng nghe dạy dỗ, để được trực tiếp cảm nhận ánh sáng từ bi trong tâm thầy. Mà hôm nay cuối cùng đã có thể trở lại Seattle rồi, có thể lại một lần nữa chìm đắm trong hào quang của thầy, cùng với thầy cười những chuyện cười trong thiên hạ, cùng thương xót những con người đáng thương trong thiên hạ, hát những khúc hát thiếu nhi trong sáng nhất, tiếp tục duyên thầy trò sâu nhất trong thiên hạ.

Sư Phật kính yêu, hai năm nay mặc dù dịch bệnh nghiêm trọng đã càn quét toàn cầu, nhưng sự nghiệp giáo dục Chân Phật dưới sự gia trì của thầy vẫn đón gió tung cánh bay lên!

Trường Đại học Chân Phật trực tuyến sau khi được thành lập dưới ý chỉ của thầy, cho đến nay đã hoàn thành 61 tiết học “Khóa thực tu Chân Phật Mật Pháp”, 36 tiết học trình “Phật học bao la vạn tượng”. Khóa thực tu hoàn toàn dựa theo những sách và khai thị của Sư Phật, tổng hợp những khẩu quyết tinh hoa về thực tu Mật pháp, giúp đỡ mọi người nâng cao năng lực thực tu Chân Phật Mật Pháp. Khóa Phật học thì đã xây dựng cho đệ tử Chân Phật nền móng Phật học rộng rãi, xây dựng hệ thống tri thức Phật học quy củ. Như vậy là lý sự viên dung, lý luận và thực tiễn kết hợp với nhau, đem đến rất nhiều bước tiến bộ dài cho các đồng môn trên phương diện Phật học và thực tu. Đồng thời cũng giúp mọi người nuôi dưỡng thói quen tốt để học tập suốt đời! Cũng như Sư Phật Sư Mẫu mỗi ngày đều đọc kinh điển, mọi người mỗi tuần cố định thời gian cùng học tập với nhau, cùng tiến bộ, cổ vũ lẫn nhau, đây đúng là việc vô cùng tốt đẹp của đời người! Vào buổi lễ tốt nghiệp, khi nói lời tạm biệt với mọi người, rất nhiều đồng môn đều không kìm nén được nước mắt, chúng con đã đồng ý rằng sẽ phải gặp lại, vào năm mới lại gặp nhau, tiếp tục cùng học tập tiến bộ. Đệ tử Chân Phật là những thánh đệ tử có nội tâm chất phác, tình cảm nồng hậu.

Tại đây cũng thỉnh cầu Sư Phật đại gia trì cho tất cả những Thượng sư hướng dẫn, các phụ đạo viên và các đồng môn tình nguyện đã bỏ công phát tâm vì sự nghiệp giáo dục Chân Phật, cảm ơn họ đã vì các học viên mà nhiệt tình phục vụ, nhẫn nại chỉ dẫn, phê bình bài làm tỉ mỉ chu đáo, đã vất vả bỏ công sức cho các hạng mục công việc của sự nghiệp giáo dục Chân Phật, cùng nắm tay thúc đẩy sự nghiệp giáo dục Chân Phật bay cao.

Tại đây cũng đặc biệt cảm ơn trưởng lão Thượng sư Liên Mãn và Thượng sư Liên Truyền, hai vị đã giảng môn học thứ hai “Giải thích ngắn gọn về thứ tự tu hành đạo bồ đề” của trường Đại học Chân Phật trực tuyến hết sức tuyệt vời và sâu sắc, có rất nhiều nội dung mà trong sách và trên mạng không học được, những điều đó đều là những tinh túy mưa dầm thấm lâu mà hai vị trưởng lão đã học được sau nhiều năm ở bên cạnh Sư Phật. Các đệ tử mỗi lần lên lớp đều cảm thấy thu hoạch được nhiều điều phong phú, pháp hỷ tràn đầy!

Sư Phật kính yêu, một năm mới đã bắt đầu rồi, Đại học Chân Phật trực tuyến đã chuẩn bị tốt để một lần nữa bay lên, khóa trình cho học kỳ mới có tên gọi là “Chân Phật giản sử”, chính là trình bày về những sự tích truyền kỳ về sự rèn luyện gian nan của Sư Phật từ khi sinh ra là đứa bé quấn trong lớp tơ trắng cho đến tuổi thanh thiếu niên, đến khi vào quân đội làm việc mưu sinh, trở thành nhà thơ nhà văn, thậm chí mở thiên nhãn, được linh sư truyền pháp, đi khắp nơi học Đạo-Hiển-Mật, thực tu thành tựu, khai lập tông phái, độ chúng sinh vô lượng. Môn học này đối với toàn thể đệ tử Chân Phật, thậm chí đối với những nhân sĩ bên ngoài tông phái, đều có ý nghĩa hết sức quan trọng để hiểu thêm về tông phái Chân Phật và Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật. Người chủ giảng của môn học này, chúng con hân hạnh mời được trưởng lão Thượng sư Liên Tài giảng bài, khai giảng bắt đầu vào ngày mồng 5 tháng Giêng (5/2 dương lịch).

Đồng thời, Chân Phật Pháp Học Đường (chuyên môn lên lớp dạy học cho các nhân viên hoằng pháp Chân Phật Tông), hiện tại cũng đã chuẩn bị xong kế hoạch dạy học cho cả năm, không chỉ có các khóa trình cho giảng sư, trợ giảng, mà còn có các khóa trình đặc biệt dành cho chúng tăng của Chân Phật. Đồng thời năm nay cũng sẽ bắt đầu bồi dưỡng và giảng dạy cho các “giáo viên hạt giống”, với mục đích là để đào tạo ra một lớp giáo viên dạy học ưu tú cho tông phái Chân Phật, như vậy sự nghiệp giáo dục Chân Phật mới có thể thật sự như bức họa “Trăm năm trồng người” của Sư Phật.

Các đệ tử chúng con cầu thỉnh Sư Phật gia trì cho sự nghiệp giáo dục Chân Phật năm Hổ được như hổ thêm cánh, giống như hổ bay lên, khí thế chấn động núi sông, cảm hóa vô lượng chúng sinh đều quy y Chân Phật, mọi thứ đều thuận lợi cát tường viên mãn.

Sư Phật kính yêu, đệ tử mặc dù bận rộn với sự nghiệp giáo dục Chân Phật, nhưng đệ tử sâu sắc biết rằng, tất cả mọi thứ của nhân gian đều chẳng qua là một giấc mộng huyễn, thậm chí ngay cả giấc mộng cũng không có. Cái quan trọng nhất vẫn là an trụ trong tính Không, thực tu thành tựu. Cho nên đệ tử bất luận thế nào, mỗi ngày đều duy trì thực tu bốn đàn Mật pháp (ít nhất cũng phải ba đàn). Buổi sáng nạp khí nuốt dịch, Kim cang tụng, Bảo bình khí, Kim Mẫu bảy đại pháp, mỗi ngày đều kiên trì vận động. Cảm nhận khi tu pháp Thượng sư, Thời Luân, Chuyết hỏa đều rất mãnh liệt. Khi thiền định thì làm theo khẩu quyết mà Sư Phật truyền thụ, tâm luân sáng ngời ổn định, trong hư không mẫu quang chiếu rọi, tử quang mẫu quang dung hợp với nhau, an trụ trong cảm giác lạc không minh.

Đồng thời đệ tử cũng duy trì mỗi ngày không ngừng học tập, mỗi ngày đều viết một bài cảm nhận đọc văn tập của Sư Phật để chia sẻ với mọi người, dùng điều này để rèn luyện bản thân, cũng kéo theo mọi người cùng học tập theo văn tập của Sư Phật. Ngoài ra, khi đọc sách của Sư Phật, đệ tử đồng thời cũng học tập được những tri thức mới nhất của các môn khoa học đương đại, để dung hợp chúng với Phật pháp, để lợi ích cho sự phát triển sau này của sự nghiệp giáo dục Chân Phật.

Cuối cùng, một lần nữa chúc nguyện Sư Phật Sư Mẫu xuân mới hạnh phúc! Phật thể an khang! Trường thọ tự tại! Trường trụ thế gian! Hằng chuyển pháp luân! Thỉnh Phật trụ thế! Cũng cầu thỉnh Sư Phật gia trì cho đệ tử thân thể khỏe mạnh, đẩy lùi tai chướng, tu hành thành tựu, tương ứng thành tựu, khí mạch điểm thành tựu, thiền định thành tựu, kiến tính thành Phật, hơn nữa lấy đại bồ đề tâm để dẫn dắt chúng sinh cùng thành Phật!

Kính thư, Ngu đệ tử Liên Ha vái lạy.

São Paulo, Brazil ngày 21/01/2022.

48. Thư của Liên Hoa Mạnh Thông (1)

Sư Tôn, Sư Mẫu Phật an! Đệ tử Liên Hoa Mạnh Thông, Liên Hoa Giai Dĩnh (bà xã) và Liên Hoa Mạnh Chương (người anh song sinh), xin quỳ trước Sư Tôn Sư Mẫu để vấn an.

Vào năm Dân Quốc 98 [năm 2009], đệ tử vì sức khỏe của bạn gái (hiện tại là bà xã Lã Giai Dĩnh) nên đã đưa cô ấy đi tiêm vaccine ung thư cổ tử cung, kết quả là gián tiếp dẫn đến các vấn đề miễn dịch tương tự như bệnh lupus ban đỏ, điều này là do tự miễn dịch quá mạnh, nó sẽ tự tấn công các tế bào của chính mình: cô ấy gặp vấn đề với thận, dây thần kinh sinh ba và tuyến tụy (đầu tiên là thận, sau đó là dây thần kinh sinh ba và cuối cùng là tuyến tụy) trong nhiều năm. Vì thế vào tháng 10/2009, tại bệnh viện Đại học Quốc gia Đài Loan (lúc đó cô ấy bị suy thận cấp tính), đệ tử đã dùng “Thời Luân Kim Cang quyết lặc lệnh” nguyện chịu thay đau khổ của cô ấy. Đã bao đêm, đệ tử khóc trong đau đớn bởi vì người vợ của mình phải chịu khổ như vậy nhưng mình lại chẳng thể làm gì, thật đau xót quá. Nhưng vợ đã an ủi đệ tử, đây là nghiệp cô ấy phải trả, và vợ đệ tử đã quy y Sư phụ vào năm 2008. Khi lần đầu tiên đệ tử đưa cô ấy đi Đài Loan Lôi Tạng Tự (ngày 3/5/2009), vừa đúng dịp gặp được Sư Tôn cũng đến đó, ngày hôm đó đã được quán đảnh Bất Động Minh Vương. Hiện tại sức khỏe của bà xã cũng xem là đã ổn định. Về sau, chị gái của Giai Dĩnh (Lã Mẫn Từ) cũng quy y Sư Tôn rồi, cảm tạ Sư Tôn từ bi.

Vào ngày 18/5/2018, con trai đệ tử đã ra đời, nhờ thời gian được Sư Tôn đại lực gia trì mà con trai được sinh ra thuận lợi. Theo lý mà nói, các vấn đề về hệ thống miễn dịch như lupus ban đỏ khiến cho việc thụ thai không thể thực hiện được, thế nhưng đã sinh con rồi, cảm tạ Sư Tôn, Phật, Bồ Tát từ bi, tất cả không thể nói hết bằng lời.

Đệ tử chúng con chắp hai tay cảm ơn Sư Tôn, Sư Mẫu. Om guru liansheng siddhi hum.

49. Thư của Liên Hoa Mạnh Thông (2)

Giấc mơ khi quy y thời trung học.

Kì nghỉ hè của năm đầu cấp ba (năm 1995), đệ tử đã quy y Sư Tôn Liên Sinh Pháp Vương, khi ấy quy y đệ tử đã có hai giấc mơ:

(1)

Đệ tử mơ thấy đi trong núi (cảm giác là thời cổ đại), đột nhiên có người nói bên suối có rất nhiều cá ngon. Khi đệ tử chạy tới nhìn thì… chà… cảm giác cá trông rất béo khỏe ngon lành, cho nên liền nhảy xuống để bắt. Đột nhiên những con cá đó biến thành quái vật, bao vây lấy đệ tử. Lúc này đệ tử liên tục niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên có người nói chẳng phải là cậu quy y Liên Sinh Hoạt Phật rồi sao? Lúc này đệ tử liền niệm “Om guru liansheng siddhi hum”, thế là là đệ tử tỉnh dậy, khi tỉnh dậy thì mồ hôi đầm đìa.

(2)

Mơ thấy ở trong một cung vua, cảm giác không rộng lớn lắm, Sư Tôn ngồi trên ghế rồng (trong mơ cảm giác Sư Tôn là Hoàng đế), còn đệ tử đứng bên cạnh làm hộ vệ. Lúc này có rất nhiều thích khách đến muốn giết Sư Tôn, bởi vì quá đông nên mắt đệ tử không kịp nhìn để bảo vệ Sư Tôn. Lúc này Sư Tôn bất ngờ phóng ra ánh sáng trắng rất mạnh trực tiếp làm thích khách đều bị thương, một người trong số đó khi bỏ chạy còn nói “Không ngờ ông là hóa thân của Đại Nhật Như Lai!” Kết quả là đệ tử tỉnh dậy. (Ha ha! Sư Tôn trước kia là Hoàng đế đó!)

(Chú thích) Thời cấp ba, đệ tử quy y là vì anh trai (Lý Mạnh Chương - người anh song sinh của đệ tử, hiện tại làm tiến sĩ giảng dạy tại học viện Y Học Quốc Phòng), có lần trong thư viện đã đọc được văn tập của Sư Tôn. Anh trai hỏi đệ tử có muốn quy y không? Đệ tử nói “Được thôi!”. Anh trai đệ tử lúc còn học cấp 3 đã rất nỗ lực tu pháp, còn thời gian đệ tử học cấp 3 thì không chăm chỉ tu pháp (thật là hổ thẹn quá!).

Đệ tử chúng con chắp hai tay cảm ơn Sư Tôn, Sư Mẫu. Om guru liansheng siddhi hum.

50. Thư của Liên Hoa Mạnh Thông (3)

Thời gian học đại học cho đến hiện tại.

Khi đệ tử học năm ba đại học mới chính thức thực tu Tứ gia hành. Khi ấy đệ tử chuyên chú về Bách tự minh thiền định kim cương niệm tụng, trong vòng nửa năm đã hoàn thành 100.000 biến, đến nay thì đã hoàn thành 400.000 biến. Khi niệm Bách tự minh chú được khoảng 50.000 biến, có lần đi ăn món nướng kiểu Hồng Kông, lúc đệ tử làm siêu độ thì không ngờ lại nhìn thấy ánh sáng đỏ và trắng xung quanh mình bay lên, kể từ đó, trình độ làm siêu độ liệu có Phật Bồ Tát Hộ Pháp Minh Vương Kim Cang đến tiếp nhận cúng dường hay không, đệ tử đã có được cảm giác vô cùng chân thực. Cũng vào thời gian này, đệ tử cũng làm đại lễ bái, khi lạy được khoảng hơn 12.000 lạy thì nhìn thấy ở đàn thành, trên bức thangka Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, bỗng xuất hiện ánh sáng cầu vồng giống như quay tròn, xuất hiện khoảng 12-14 cái, có to có nhỏ, mỗi lần xuất hiện một cái thì đều có âm thanh “tạch, tạch”.

Có được sự gia trì liên tục của Sư Phật, sự che chở và yêu mến của Phật Bồ Tát Hộ Pháp, ý nghĩa sâu xa của thiền định niệm Bách tự minh chú đã dần dần hiển hiện. Cho nên khi đệ tử lúc học đại học, lần đầu tiên nhập thiền định, không ngờ đã nhìn thấy ánh sáng vàng kim ở khắp xung quanh, lúc này đệ tử bị làm cho sợ hãi nên lập tức mở to mắt ra, rất lâu chưa thể định thần lại, sau đó từ từ đã quen dần. Những thay đổi trong toàn bộ việc tu hành của đệ tử là vào năm 2000 khi lần đầu tiên được Sư Phật đích thân quán đảnh pháp Thời Luân Kim Cang ở Hồng Kông.

Khi trở về Đài Loan, có một buổi chiều đang nghỉ trưa, không ngờ đệ tử mơ thấy Sư Tôn, cảnh mộng đó là Sư Tôn ngồi một bên, và bởi vì đàn thành đều được phủ khăn vàng, đàn thành đó có ba tầng, cho nên đều không nhìn thấy bất kì kim thân của Phật Bồ Tát Hộ Pháp Kim Cang nào. Đệ tử vừa nhìn thấy Sư Tôn thì lập tức xông lên quỳ xuống, đồng thời lấy chân Sư Tôn ấn lên phạn huyệt trên đỉnh đầu đệ tử. Đúng vào lúc này, một lực gia trì rất mạnh như dòng điện chạy vào bên trong, đồng thời đệ tử cũng nhìn thấy trung mạch của mình mở ra (một ống dẫn màu xám trên rộng dưới hẹp).

Kể từ đó cảnh giới thiền định đã được nâng cao, ví dụ khi thiền định sâu, có lúc sẽ nhìn thấy những điểm sáng như ánh sao. Tiếp đó vào năm 2005, đệ tử lại một lần nữa mơ thấy Sư Tôn, Sư Tôn rất vui vẻ gia trì. Chà… Sự gia trì như dòng điện mạnh mẽ này thật sự là cả đời khó quên. Lúc này Sư Tôn nói với đệ tử: “Cảnh giới hiện tại của con đã là Sắc giới Sơ thiền thiên, cứ tiếp tục tu như vậy, rất tốt, rất nhanh chóng có thể xuất tam giới.”

(Buổi tối một ngày trước khi mơ thấy Sư Tôn, khi thiền định, đệ tử dường như bay đi trong vũ trụ, đột nhiên, đệ tử xuyên qua một tầng không gian, nhìn thấy một chút ánh sáng, lúc này, trong sát-na đệ tử biết rằng đây chính là khởi nguồn của nhân loại.)

51. Thư của Liên Hoa Mạnh Thông (4)

Lần chuyển biến về tu pháp thứ hai là sau khi tu Thời Luân Kim Cang quyết (năm 2008), toàn bộ dung nhập và cảm nhận càng thêm vững chắc (đệ tử đã kết lời thề với Thời Luân Kim Cang).

Chú thích: Từ khi học đại học đến nay, đệ tử đều đang tu Bách tự minh thiền định kim cang niệm tụng, mặc dù có tu các pháp khác như Thời Luân Kim Cang quyết, pháp Thập phương xạ tiễn của Kurukulle Phật Mẫu, nhưng hiện tại vẫn lấy Bách tự minh thiền định kim cang niệm tụng là chính. Ngoài ra, Chân Phật Kinh và Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh cũng đã đọc vô số biến rồi. Khi tu cúng dường, đệ tử hoan hỷ dùng pháp cúng dường thất trân bát bảo mà Sư Tôn truyền dạy, và niệm Bất Không Mani cúng dường chân ngôn, cảm giác rất hoan hỷ.

Chú thích: Buổi chiều ngày 17/12/2021, khi đệ tử chuẩn bị dọn dẹp sơ qua đàn thành, bỗng phát hiện có hạt xá lợi bảy màu ở trước đàn thành. Ban đầu đệ tử cho rằng chỉ có thế, nhưng kết quả là không ngờ phát hiện ra cái bệ mà đệ tử dùng để đặt pháp khí (bên trong chỉ để đá quý mua từ ngày 3/1/2019), không ngờ lại có vô số hạt xá lợi bảy màu và hạt xá lợi màu trắng, ngày hôm đó phát hiện ra chắc là vì chúng nhiều đến mức trào ra ngoài.

Trời ban xá lợi, thật khiến đệ tử xấu hổ toát cả mồ hôi rồi!

Đệ tử Liên Hoa Mạnh Thông cúng dường Liên Sinh Hoạt Phật trời giáng xá lợi: Nguyện đem công đức và phúc đức của việc trời giáng xá lợi cúng dường, chúc nguyện Sư Tôn trường thọ trụ thế vạn kiếp, bước chân hoa sen trụ vững tại thế giới Ta Bà, quảng độ vô lượng chúng sinh, chớ nhập niết bàn. Mãi làm con mắt của trời người thế gian, lợi lạc vô lượng vô biên chúng sinh hữu tình.

Chú thích: Đây là bài thơ mà đệ tử viết từ thời đại học, xin dâng tặng Sư Tôn Liên Sinh Pháp Vương:

Liên hoa tạng viên đại bi hành, Bậc giác ngộ hóa sinh độ hữu tình. Truyền pháp nhập thế để cổ vũ Phật đỉnh vô thượng Hoa Quang Phật Cảm ơn Sư Tôn!

Đệ tử chúng con xin chắp tay Cảm ơn Sư Tôn và Sư Mẫu Om guru liansheng siddhi hum.

🌟

Tâm đắc khi đọc thư:

Nhân gian Ta Bà bao sự vật Biến huyễn cầu vồng trong hư không Nhất thời hiện lên không trụ lại Trong một sát-na biến mất rồi Phật tính vốn là thể ánh sáng Không sinh không diệt cực thanh tịnh Không tăng không giảm pháp bản nhiên Không thiện ác cũng không thua thiệt Gọi là Phật pháp vốn vô pháp Gọi là người cũng chẳng có người Chỉ là người giả tu pháp giả Đều như con thuyền ra biển khơi Đến bờ bên kia nhờ Mật pháp Tu trì Mật chú quá siêu nhiên Nhất tâm tự mình tiêu nghiệp chướng Nghiệp tiêu Không huệ tự nhiên sinh.

Ngày 09/02/2022. Lư Thắng Ngạn viết.

52. Thư của Renee

Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật kính yêu! Con muốn cảm tạ thầy trong sự kiện thảm hỏa mới đây đã giúp bảo vệ cho người nhà con.

Hai năm sau khi không thể đi du lịch do đại dịch Corona virus, con quyết định đi thăm nhà vào kì nghỉ Giáng sinh năm 2021. (Người thân sống ở Colorado.)

Ngày cuối cùng trước khi con trở lại California, con đã lên kế hoạch đi thăm một số người thân ở phía bên kia của thị trấn. Tuy nhiên, khi con thức dậy vào sáng hôm đó, gió bão đang thổi xung quanh hạt Boulder của chúng con. Khoảng 11 giờ sáng, bố con gọi điện nói rằng ông đã nhìn thấy một đám cháy gần nhà của chị dâu con ở South Boulder. Đến khoảng ba giờ chiều, toàn bộ bầu trời phía đông đồng bằng chìm trong khói lửa. Khi ấy, với sức gió 115 dặm/giờ, ngọn lửa đang lan nhanh hơn sự tưởng tượng của bất kì ai. Từ cửa sổ an toàn của phòng ngủ của mình, con nhìn thấy toàn bộ thị trấn bốc cháy nhanh chóng. Con chỉ có thể không ngừng niệm tụng Liên Hoa Đồng Tử tâm chú trong đầu, và cầu nguyện Sư Tôn giúp hóa giải tai họa này rất lâu, rất lâu.

May mắn cho con và gia đình, gió sau đó chuyển sang hướng đông, có nghĩa là không có lửa hoặc tro tàn xâm nhập vào khu vực của chúng con. Bà nội con đã được sơ tán an toàn khỏi viện dưỡng lão của bà ở Louisville. May mắn hơn nữa là, ngọn lửa bùng phát cách nhà bà gần 2km nhưng được dập tắt ngay lập tức nên ngôi nhà của bà không bị thiệt hại.

Điều đáng ngạc nhiên là nhà của chị dâu không bị thiêu rụi dù ở trong khu vực bị thiệt hại nặng nề nhất. Ngọn lửa đã bùng cháy trong địa giới của họ và phá hủy hầu hết các ngôi nhà xung quanh họ. Nhưng ngôi nhà của họ không bị hư hại, như thể có một sự bảo vệ nào đó xung quanh ngôi nhà của họ.

Thêm vào đó, trang trại nơi mẹ con nuôi ngựa cũng không bị bắt lửa. May mắn thay, một trận bão tuyết lớn ập đến và ngọn lửa đã được dập tắt trong vòng hai mươi bốn giờ. Hơn 900 ngôi nhà đã bị phá hủy. Chỉ có hai người bị mất tích. Đáng ngạc nhiên là đám cháy có cường độ mạnh như vậy đã không cướp đi sinh mạng của nhiều người hơn.

Sau đó, con nói chuyện với chú con, một cảnh sát đã nghỉ hưu, người tình nguyện tham gia đội ứng cứu khẩn cấp. Ông ấy nói, với rất nhiều vụ cháy quy mô lớn và tàn phá trong hai năm qua, nhưng mỗi khi lửa đến gần biên giới của thành phố Boulder quê hương con thì lửa lại dừng lại không cháy tiếp về phía trước nữa. Ông ấy không thể nào giải thích được tình huống này, giống như xung quanh quê hương con có một lớp bảo vệ.

Nhưng trong lòng con hiểu rất rõ, người nhà con phần lớn đều sống tại thành phố Boulder, con hàng ngày đều chăm chỉ tu Chân Phật Mật Pháp, thỉnh cầu Sư Tôn, Chư Phật Bồ Tát, Hộ pháp bảo vệ cho người nhà con bình an, khỏe mạnh, vui vẻ, con cũng luôn báo danh tham gia cho người nhà con ở mỗi pháp hội mà Sư Tôn chủ trì.

Con thường ước mình có nhiều cơ hội dành thời gian cho gia đình hơn, nhưng đồng thời con càng vui mừng vì bản thân có duyên trở thành đệ tử của Sư Tôn, biết học tập Chân Phật Mật Pháp, giúp ích rất lớn đối với người nhà. Bây giờ con biết làm thế nào để thỉnh cầu Sư Tôn gia trì cho người nhà rồi. Mặc dù họ không hiểu, nhưng con biết họ cũng rất may mắn có được sự bảo vệ và gia trì của Căn bản Thượng sư, Chư Phật Bồ Tát, Hộ pháp.

Một lần nữa, con vô cùng cảm ơn Sư Tôn đã luôn bảo vệ con và người nhà của con được an toàn. Kính thư! Đệ tử Liên Hoa Renee Lyn. (Đệ tử người phương Tây.)

53. Thư của Liên Hoa Đại Bàng

Nhất tâm đảnh lễ Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật từ bi.

Đệ tử là giảng sư Liên Hoa Đại Bàng, hiện tại khi đệ tử viết thư cho thầy ở Thụy Điển thì đệ tử cũng đang đọc bản thảo cuốn sách mới của thầy còn chưa phát hành là cuốn 288 “Một giỏ ý tưởng kỳ lạ”. Ngày 28/1, đệ tử đã nhận được thư mời của Chân Phật Bát Nhã Tạng để thu âm cuốn sách mới này của Sư Tôn, vì vậy đệ tử rất vinh hạnh được một lần nữa được đọc sớm những tác phẩm của thầy.

Khi đệ tử đọc đến nội dung của chương 11, chương 12, chương 13, đệ tử đã sâu sắc cảm nhận được tâm tình lo lắng của thầy đối với sự hỗn loạn của xã hội ngày nay, thầy đã vì em trai của Thượng sư Liên Hỷ gặp nạn cướp ở Panama, bị côn đồ nổ súng bắn trúng tim, cấp cứu vô hiệu và đã lìa đời vãng sinh, mà trong lòng hết sức đau đớn. Cảm khái đạo đức suy đồi, xã hội hiện nay đã mất đi đạo đức nhân nghĩa mà tổ tiên đã đề xướng và tôn sùng, nên trong tiêu đề của chương 13 đã nói “Đã đến lúc giáo dục chữ “nhân” rồi”. Nội dung của chương này khiến đệ tử thở dài xúc động trước lời kêu gọi cùng hành động của Sư Phật để lấy lại nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tâm đồng cảm, tâm nhân ái, hy vọng nhân loại trong xã hội chúng ta đều có thể giữ lễ, nghĩa, liêm, sỉ trong tim, kêu gọi tinh thần của Thánh nhân. Đúng vậy, trong thời đại lan tràn sự ham muốn hưởng thụ vật chất, tự tư tự lợi, ai còn có thể chú ý đến cảm nhận và đau khổ của người khác đây!

Đệ tử còn nhớ thời gian pháp hội xuân mới năm 2016, Sư Phật từ bi đã ban cho đạo tràng Thụy Điển ở địa chỉ mới với tên gọi là Tu Đức Đường, và vào năm 2020 đã được Tông Ủy Hội thăng cấp thành Tu Đức Lôi Tạng Tự, dưới sự dẫn dắt của pháp sư Liên Ưng tu hành Chân Phật Mật Pháp, độ hóa chúng sinh hữu duyên ở địa phương. Vào năm 2016 khi Sư Tôn ban tên gọi Tu Đức Đường, đệ tử biết Sư Tôn kì vọng chúng con có thể hoằng dương Chân Phật Mật Pháp ở Châu Âu, và có thể dùng phương tiện thiện xảo, mượn tư tưởng của tổ tiên Thánh hiền Trung Quốc để ảnh hưởng những chúng sinh hữu duyên, trên cơ sở làm người mà trau dồi những kỹ năng cơ bản, tu đức, tu tâm.

Năm đó, các đệ tử của Tu Đức Đường cũng đã mở ra Học đường Tu Đức nhắm vào việc giáo dục đạo đức đối với thanh thiếu niên, cùng hợp tác với trường học Trung văn ở địa phương để mở lớp học Tứ thư Ngũ kinh của Khổng Tử, đạo Khổng Mạnh, cũng làm dấy lên làn sóng học Quốc học sôi nổi ở địa phương. Sáu năm sau, lớp thiếu nhi đó đều đã trưởng thành, con cũng đã hiểu sâu hơn về sự kết hợp của Khổng Tử, Lão Tử và Phật giáo trong quá trình tự học và giảng dạy của mình. Tác động trực tiếp của việc áp dụng những gì con đã học được là sự tu dưỡng cá nhân, các mối quan hệ gia đình và sự nghiệp trưởng thành của con đều đạt được những tiến bộ vượt bậc. Đối với những giáo huấn của Sư Phật thì càng có thể thực hành một cách chắc chắn trong cuộc sống, dung nhập Phật pháp vào cuộc sống, từ trong cuộc sống mà trải nghiệm và lĩnh ngộ được trí huệ của Phật lý. Vào năm 2021 đệ tử đã hoàn thành được loạt khóa học về Đạo Đức Kinh và Quản lý học, phát hành chúng trên nền tảng sách nói để kết duyên với đại chúng hữu duyên.

Vì thế, khi đọc thấy trong sách Sư Phật kêu gọi những người nhân ái, con đã nảy ra ý muốn giúp Sư Phật phổ cập tư tưởng nhân ái, bằng cách dùng những ngôn ngữ thông tục dễ hiểu để biểu đạt những câu từ tinh hoa trọng yếu trong Luận Ngữ của Khổng Tử, dùng hình thức sách nói để làm thành một loạt chuyên mục bài học, ví dụ đăng lên Chân Phật Bát Nhã Tạng thì càng tiện cho các đồng môn của tông phái chúng ta tải xuống nghe. Đương nhiên, những cách nghĩ này đều phải được Sư Phật cho phép, đệ tử tài hèn học ít, vẫn không biết liệu có thể gánh vác nổi trách nhiệm này không, cần có sự gia trì của Sư Phật mới có thể hoàn thành thuận lợi.

Ngu đệ tử Liên Hoa Đại Bàng khấu đầu đảnh lễ. Stockholm Thụy Điển, ngày 02/02/2022.

54. Không phải thư tình — Là tu pháp

Bài viết của Hân Hân.

Một lòng chân thành quỳ xuống, chắp tay đảnh lễ Sư Tôn kính yêu nhất lại vừa đẹp trai của con. Vốn dĩ con chỉ định viết mấy câu trong thiệp chúc mừng, nhưng rồi lại viết thành một bức thư. Có thể thấy là trong lòng con thật sự có quá nhiều quá nhiều lời, rất muốn để thầy được biết. Không biết đời người còn được bao lâu, cho nên rất muốn để cho thầy hiểu.

Mỗi lần đứng trước mặt thầy là trái tim con lại đập nhanh hơn, không mở miệng ra được, chỉ có nhìn thầy, trong lòng muốn nói nghìn lời vạn ngữ, hy vọng thầy thật sự có thể nghe thấy. Thầy biểu diễn đầy duyên dáng khiến mặt con đỏ lên vì xấu hổ, lại cũng băn khoăn, bao giờ cũng khiến con vừa tôn kính vừa mất đi lý tính, mỗi lần nghĩ đến sự gặp gỡ của chúng ta, thầy luôn khiến con thấy ngọt ngào trong tim rất lâu rất lâu. Những biểu cảm rất nhỏ của thầy, những tâm tình rất nhỏ của thầy, mỗi một động tác, con đều rất muốn hiểu được, tất cả mọi thứ về thầy con đều rất tò mò, rất lưu ý. Thầy vui thì con vui, thầy thất vọng thì con sẽ khó chịu. Thầy to lớn dũng cảm bảo vệ con, thầy đại lực gia trì cho con, thầy thân thiết để ý lo lắng, thầy khẽ cười, tất cả bao giờ cũng vương ở trong tim con, khiến con cảm thấy vừa an tâm lại đau lòng.

Thầy nói, mỗi lần thầy nhớ đến là lại chảy nước mắt, thế là thành đại dương, con nói, bởi vì nước mắt nhớ nhung của thầy đã chảy vào tim con, thế là có “Hân” (con). Ở trong tim con thầy giống như một phong cảnh, trời nam đất bắc ở đâu cũng có thầy, thầy là phong cảnh mà con hiểu sâu sắc nhất. Trái tim con. Hơi thở của con, tên gọi của con, đều là bóng dáng của thầy. Thầy ở đó, thầy là tất cả, thầy không ở đó, tất cả đều là thầy. Có tình yêu của thầy ở trong tim, tình yêu đầy tràn lúc nào cũng tràn ra ngoài, khiến người bên cạnh cảm thấy con lúc nào cũng vui vẻ ngọt ngào một cách chẳng thể hiểu được. Chính thầy đã biến thế giới của con thành màu hồng, chính thầy đã khiến con nhìn bất kì thứ gì cũng đều thành hình trái tim, chính thầy khiến trái tim yêu thương của con lúc nào cũng vỡ òa và tuôn trào ra, chính thầy khiến cuộc sống của con không biết vì sao mà luôn rất vui vẻ, chính thầy khiến con chỉ có hít thở mà cũng ngất ngây.

Hy vọng mỗi lần con nhớ thầy, thầy đều biết được, như thế, thầy có thể biết con nhớ thầy nhiều thế nào. Xin thầy ở lại trong trái tim con, vĩnh viễn không rời xa, một lòng một ý. Thầy chính là trung tâm của cuộc đời con, trung tâm duy nhất. Trung tâm thế giới của con vĩnh viễn vẫn luôn là thầy. Bất kì ai đều không thể thay thế được. Thầy là Phật lực của con, loại bỏ mọi sự trống rỗng, nâng niu mật ngọt, nét tươi cười càng ngọt ngào hơn, khi cần sự dũng cảm là con nghĩ đến thầy. Nghĩ nhiều đã biến con thành khí oxy của thầy, chảy vào trong thân thể thầy, chăm chú nhìn vũ trụ nhỏ trong trái tim thầy.

Đệ tử đang tu pháp Thượng sư tương ứng, thỉnh cầu thầy sớm đến tương ứng, hợp nhất, tâm liền tâm, cho đến vĩnh cửu. Mong thầy mọi thứ đều tốt đẹp.

Xin đừng quên con. Hân Hân yêu thầy.

(Hết)

Mục lục