📗

290. Câu chuyện nghìn chiếc thuyền pháp

image

Câu chuyện nghìn chiếc thuyền pháp

🪷 Chuyện linh dị về siêu độ

Văn tập số: 290 Xuất bản: 15/08/2022 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Tôi nhớ có một mẩu chuyện nhỏ. Có một người lúc đêm khuya, vì không ngủ được nên khoác áo ra ngoài đi dạo. Lúc đi đến dưới một cái cây to, từ phía sau cái cây đột ngột có một con ma xồ ra.

Người này kinh hãi, cao giọng nói: ”Sao mi dám xuất hiện để dọa người?” Con ma kia nghe xong thì hét lên rằng: ”Loài người các ông sống vào ban ngày. Loài ma chúng tôi sống vào ban đêm. Còn ông xuất hiện vào ban đêm, là ông dọa tôi chứ có phải tôi dọa ông đâu, sao ông lại có thể nói ngược như vậy?” Người này nghe xong thì cảm thấy cũng có lý, bèn nói với con ma: ”Xin lỗi! Xin lỗi!”

Câu chuyện này rất thú vị, tôi nói: ”Thế giới của người và thế giới của ma là trùng điệp, một đằng sống vào ban ngày, một đằng sống vào ban đêm, đây là nước giếng không phạm nước sông.” Nhưng loài người lại xâm phạm vào loài ma. Vì thế loài ma cũng xâm phạm vào thế giới loài người. Cho nên đây là xâm phạm lẫn nhau.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) là con người, nhưng vì tu hành cho nên cũng hiểu rõ thế giới của ma. Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: ”Ma là có thật!” Tôi từng nói với ma rằng: ”Các người và tôi cùng sống, sống chết có nhau, cùng chung hoạn nạn, cũng xem như là tri kỷ. Hôm nay, tôi giúp các người, các người đương nhiên cũng phải giúp tôi, các người ở trong nhà tôi cũng có thể uống trà uống nước, khi tôi không ở nhà thì các người giúp tôi trông coi nhà vườn.”

Tôi nói chuyện với ma, Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư thấy tôi nói chuyện, bà ấy hỏi: ”Ông nói chuyện với ai đấy?” Tôi nói: ”Với ma.” Sư Mẫu Liên Hương Thượng sư nói: ”Ma làm gì có sức mạnh?” Tôi nói: ”Thần có sức mạnh lớn, ma có sức mạnh nhỏ. Chúng ta không thể coi thường họ, họ mà hợp lại với nhau thì sức mạnh cũng rất lớn.”

🌟

Tôi thẳng thắn nói với mọi người. Từ năm 2020 đến năm 2022, quãng thời gian này là những ngày tháng virus Corona tàn phá toàn thể nhân loại. Tôi rất đau lòng. Tôi đã phát một lời thề: ”Tôi nguyện siêu độ cho những u linh đã chết vì virus Corona.” Hàng đêm tôi làm siêu độ. Không nghỉ một ngày nào. Cứ như vậy mà hai năm trôi qua, đến hôm nay tôi vẫn chưa dừng lại. Tôi làm không vì gì cả. Tôi chỉ làm hết bổn phận của mình. (Nên vô sở trụ mà sinh tâm ấy.)

Vì thế, Nam Sơn Nhã Xá mà tôi ở đã trở thành một cái chợ cho loài ma tụ tập. Việc “làm ăn buôn bán” rất hưng thịnh, tiếng tăm vang xa. Và vì thế cũng đã phát sinh rất nhiều câu chuyện, tôi ghi chép chúng lại thành cuốn sách này.

Chúc mọi người: Mở sách ra có được lợi ích!

(Tháng 5/2022)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A

01. Nghi quỹ siêu độ của tôi

Tôi muốn trình bày sơ lược phần chính yếu trong nghi quỹ siêu độ của tôi như sau:

(Chính hành) Tôi ngồi ngay ngắn trên pháp tọa. Diêu Trì Kim Mẫu hiển hiện trong hư không, ngài phóng quang sáu lần chiếu đến tôi Lư Sư Tôn. Tôi lắc mình một cái, biến thành Bổn tôn A Di Đà Phật. (tự hóa Bổn tôn) Tay phải kết ấn ban nguyện. Tay trái kết ấn thuyết pháp. (Hai tay có thể hoán đổi thủ ấn.) Từ trong ấn ban nguyện trượt ra một chiếc thuyền pháp. Chiếc thuyền pháp này biến thành mười chiếc, mười chiếc biến thành trăm chiếc, trăm chiếc biến thành nghìn chiếc. Nghìn chiếc thuyền pháp này bày ra ngay trước mặt, trên một mặt biển rộng mênh mông vô cùng vô tận, rất tráng lệ. Diêu Trì Kim Mẫu cầm cờ lệnh, hạ lệnh một tiếng: ”Trung ấm hữu duyên, trung ấm vô duyên, mời lên thuyền pháp.” Trong sát-na, các hồn ma u linh theo trật tự nhanh chóng lần lượt lên thuyền pháp, nhanh chóng ngồi kín thuyền. (Tai tôi nghe thấy tiếng các hồn ma u linh lên thuyền.) Xột xoạt. Lẹt xẹt. Cạch cạch.

Đúng vào lúc này, A Di Đà Phật hiện thân tại hư không trước mặt tôi, ngài phóng vô lượng quang chiếu đến tôi. A Di Đà Phật hóa ra vô số thân, vây xung quanh nghìn chiếc thuyền pháp. Sau đó, ngài cũng phóng vô lượng quang chiếu đến u linh chúng. (Tôi Lư Sư Tôn cũng phóng vô lượng ánh sáng.) Tắm gội cho các hồn ma u linh. Cuối cùng các hồn ma u linh đều được thân tâm thanh tịnh, thân thể mỗi u linh đều tỏa ánh sáng trắng, thuyền pháp lần lượt bay vút lên không trung. Nghìn chiếc thuyền pháp từ mặt biển lần lượt bay vút lên không đến cõi trời bên ngoài cõi trời. Tại cõi trời bên ngoài cõi trời, Diêu Trì Kim Mẫu đã giới thiệu cho họ về Tây phương Cực Lạc tịnh thổ.

Ba vị hỗ chủ của tịnh thổ là: A Di Đà Phật. Quan Thế Âm Bồ Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát. Có bốn tịnh thổ là: Thường Tịch Quang Thổ, Thực Báo Trang Nghiêm Thổ, Phương Tiện Hữu Dư Thổ, Phàm Thánh Đồng Cư Thổ. Có đình đài lầu gác. Có hàng cây thất bảo. Có bát công đức thủy. Có ba mươi bảy đạo phẩm. Cõi Tây phương cảnh là tịnh thổ bất thối chuyển, là cực lạc, là thanh tịnh. Thế rồi nghìn chiếc thuyền pháp khởi hành, hướng về Tây phương tịnh thổ.

Lúc này, tôi tu pháp: Niệm Phật: “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật.” Trì chú: “Om amidewa seh.” [Ôm a-mi-đê-wa sê] Chú vãng sinh. Chú Văn Thù vãng sinh. (kết thủ ấn Mật giáo) Trong khi tu pháp, tôi đặc biệt từ trong tâm ấn của chính mình tuôn chảy ra chân ngôn vô thượng bí mật nhất. Chân ngôn bí mật này đã thu lấy nghìn chiếc thuyền pháp, trực tiếp gửi vào trong tâm của A Di Đà Phật. Thiện tai! Thiện tai! Huô! (chú âm) Huô! (chú âm) Huô! (chú âm) Mỗi buổi tối, tôi siêu độ đến 2 rưỡi sáng mới rời khỏi pháp tọa. Cứ liên tục như vậy, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. ”Om guru liansheng siddhi hum.”

02. Nhà tôi thành khu của ma

Kể từ sau khi làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp cho các linh hồn, nhà tôi đã trở thành khu của ma. Nhà tôi không to không nhỏ, rộng hai mẫu đất [khoảng 1330 mét vuông], diện tích xây dựng là một vạn thước [khoảng hơn 900 mét vuông]. Nhưng mỗi đêm đều có xấp xỉ cả vạn hành khách của nghìn chiếc thuyền pháp.

Làm sao mà nhà tôi chứa được nhiều ma như vậy? Câu trả lời của tôi là: Nếu bạn biết rằng ngôi nhà ổ chuột của cư sĩ Duy Ma Cật có thể dung nạp được trăm nghìn triệu tỉ pháp tọa của Phật thì bạn sẽ hiểu: lớn có thể chứa được nhỏ, nhỏ có thể chứa được lớn, lớn nhỏ hòa tan vào nhau. (Kinh Duy Ma Cật)

Ví dụ: Nhà tôi có một chậu cảnh trồng cây trúc, trúc có từng đốt từng đốt, rỗng ruột, mỗi một đốt trúc rỗng ruột có thể chứa được vạn linh hồn. Ngoài ra còn có: Tủ lạnh. Tủ quần áo. Chậu rửa. Giá sách. Phòng chiếu phim. Phòng vận động.

Mỗi buổi sáng tôi ngủ dậy, đi qua phòng vận động, tôi đi vào bên trong soi gương một lát. (Phòng vận động bốn xung quanh đều là gương.) Tôi soi gương. Tôi nghe thấy những dụng cụ vận động phía sau lưng mình đều phát ra tiếng động, tiếng động vang lên bất ngờ khiến tôi nhảy dựng. Tôi nhìn thì lại càng sửng sốt hơn. Bánh xe tự chuyển động. Tạ tay tự lăn. Dụng cụ vận động đều đang chạy. Tôi hét lên một tiếng: “Dừng!”. Lập tức lặng ngắt như tờ! Bạn nói xem, đây có phải là dọa người ta không?

Còn nữa, nửa đêm tôi tỉnh dậy để đi tiểu. Bức tường sau lưng tôi kêu lên ba tiếng “cách, cách, cách”. Tôi nói: ”Đừng làm ồn!” Những con ma này thật sự quá đáng rồi, ngay cả nhà vệ sinh mà họ cũng muốn làm phiền tôi, thật may, từ lâu tôi đã không còn thấy kinh sợ nữa.

Ngoài ra, những hồn ma trốn trong bức tường thật sự rất nhiều. Có lẽ mọi người không biết, thì ra trong bức tường cũng có thể che giấu được ma, bức tường dày và đặc, ngay cả một kẽ nứt cũng không có. Thế nhưng trong một bức tường, ở giữa cát và vữa, có thể che giấu được vạn vạn con ma.

Có một hôm, tôi đi qua phòng chiếu phim, cửa vốn dĩ là đóng, nhưng giờ nó lại mở hé, thậm chí cánh cửa còn lúc mở lúc hé. Tôi mở cửa ra nhìn vào trong, có cả một bầy ma ở trong đó. Tôi hỏi: ”Các người đang làm gì đấy?” Ma đáp: ”Chúng tôi đang họp.” Ma mà cũng họp sao? Nực cười chết mất! Tôi thật lòng thật sự nói, bản thân tôi không sợ ma. Nhưng đột nhiên phát ra âm thanh thì tôi cũng giật thót mình đấy!

Ngoài ra, Họ đột nhiên xồ ra, tôi cũng giật mình. Tôi đi qua một bức tường. ”Póc!” Một cái đầu thò ra ngoài tường, tôi giật thót mình! Póc! Póc! Póc! Póc! Póc! Rất nhiều cái đầu thò ra. Tôi hỏi: “Làm cái gì đấy?” Ma đáp: “Xin Lư Sư Tôn gia trì!” Tôi lần lượt sờ đầu. Ôi! Nhà tôi đã thành khu của ma rồi.

03. Phạm vi siêu độ rộng lớn

Ban đầu tôi phát nguyện siêu độ là: ”Tôi nguyện siêu độ cho những người chết vì dịch bệnh.” Sau đó, đồng môn Chân Phật Tông của chúng tôi qua đời, người thân bạn bè ở dương gian thỉnh tôi siêu độ cho những đồng môn ở âm gian. Thế là tôi cũng xếp họ vào nghìn chiếc thuyền pháp cùng siêu độ.

Tiếp theo, những hồn ma nghe được tin tức mà đến càng lúc càng đông, rất nhiều người tử vong không phải vì dịch bệnh cũng đến. Tôi chỉ có thể tiếp nhận toàn bộ. Tôi đã trở thành Đẳng Dẫn Kim Cang. Đẳng Dẫn Kim Cang là tên kim cang của Bất Không Quyến Sách Quan Âm, tượng trưng cho sự bình đẳng tiếp dẫn. Tôi tiếp dẫn: Ma đồi bại. (văn nghệ sĩ) Ma nói khoác. (luật sư) Ma đói. (kẻ lang thang) Ma bạo lực. (bác sĩ ngoại khoa) Ma đầu bù tóc rối. (phụ nữ già đơn độc) Ma giữ tiền. (đại gia) Ma đầu trọc. (giáo sư) Ma giả mạo. (diễn viên) Ma lật mặt. (kẻ lừa đảo) Ma khí thế. (người lãnh đạo) ……

Tôi có thể nói thế này, chỉ cần bạn nghĩ ra loại ma nào thì ở chỗ tôi đều có hết. Những con ma đến chỗ của tôi thuộc đủ mọi ngành nghề, trăm hoa khoe sắc, thỏa thuê ngắm nhìn. Vốn dĩ tôi chỉ siêu độ cho những người chết vì virus Corona, bây giờ nhà tôi đã trở thành trạm thu nhận ma quỷ, hơn nữa còn là trạm thu nhận có tầm cỡ thế giới. Siêu độ được tiến hành hừng hực khí thế. Ma cũng hừng hực khí thế đến trình diện.

Tôi làm thơ tự trào phúng chính mình: Tôi là Liên Sinh Đại Hoạt Phật Siêu độ bầy ma tự thấy vui. Một tuần bảy ngày không ngơi nghỉ Diễn hóa mật chú chẳng tính giờ Tại đây tụ tập ma hữu duyên Dạy dỗ những vị khách qua đường Ngũ trọc ác thế làm pháp này Cũng xem như có một không hai Hiếm lạ hiếm lạ thật hiếm lạ Lòng người lạnh giá lòng tôi ấm Thần Thánh Bổn tôn Mẫu Diêu Trì Thù thắng vô cùng bài giảng lớn Thoát ly lục đạo không luân hồi Đều nhờ Di Đà phóng quang chiếu Nhân duyên ba đời đến tụ hội Việc lớn như vậy chưa từng có. Hum hum hum! Tiêu trừ sân hận. Om om om! Tiêu trừ vô minh. Ah ah ah! Tiêu trừ tập khí. Pei pei pei! Tiêu trừ tham niệm. Ha ha ha! Tiêu trừ đố kỵ. Huo huo huo! Tiêu trừ nghiệp chướng. Chu chu chu! Tiêu trừ ghen tuông. (Pan cha pei ma gu ru ti cha.)

Đệ tử hỏi: ”Ma phạm ngũ nghịch tội cũng siêu độ sao?” Tôi đáp: ”Những ma đó tội ác tày trời, từ lâu đã đi vào địa ngục rồi, tự nhiên sẽ không đến chỗ tôi.” Đệ tử hỏi: ”Ma đến chỗ của Lư Sư Tôn làm sao đi vào được? Làm sao quản lý họ? Mặc cho họ làm gì thì làm sao?” Tôi đáp: ”Tôi có Hộ Pháp Kim Cang Thần, tự sẽ có Thần quân giám sát, ma thiện có thể vào, ma không thiện không ác có thể vào, người nghiệp chướng nhẹ có thể vào. Về phương diện quản lý cũng có 12 vị Thần Tướng quản, không có chuyện tự do ngang ngược.” Đệ tử hỏi: ”Ai có quyền năng tối cao có thể tiêu trừ được nghiệp của những hồn ma?” Tôi đáp: ”Tôi đã nói rồi, vô lượng quang minh của A Di Đà Phật.”

04. Tiệc cung đình thời xưa

Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương tận mắt nhìn thấy ma mở tiệc. Tôi dùng hình thức đối thoại để giải thích rõ. Là đệ tử hỏi, Thượng sư Liên Hương sư trả lời. Đệ tử hỏi: ”Nghe nói bà nhìn thấy ma?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Đó là một buổi sáng sớm, địa điểm là phòng khách nhà tôi. Tôi ngồi trên ghế sofa, thị giả là pháp sư Liên Ân ở bên cạnh tôi.” Đệ tử hỏi: ”Xin nói sơ về tình hình?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Trong sát-na, dường như phòng khách nhà tôi đều biến mất, biến thành một cung điện kiểu châu Âu thời cổ xưa, trang hoàng theo lối cổ điển, vô cùng khí thế. Đại sảnh của cung điện vô cùng rộng lớn và tráng lệ, rất nhiều tác phẩm điêu khắc và tranh vẽ trên tường.” Đệ tử hỏi: ”Thế còn các nhân vật?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Nữ thì ăn mặc lộng lẫy, váy tùng xòe, đeo vàng đeo ngọc, tóc uốn rất đẹp. Nam thì mặc áo đuôi tôm, ra dáng quý ông. Đều trang điểm theo kiểu Âu thời xa xưa, chính là vì đang cử hành tiệc cung đình.” Đệ tử hỏi: ”Bà nhìn thấy những việc này thì có cảm tưởng gì?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Tôi thì vẫn bình thản, giống như xem một bộ phim châu Âu cổ đại, nhưng tôi biết họ là ma.” Đệ tử hỏi: ”Sau đó thì thế nào?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Có hai người một nam một nữ đi đến bên cạnh tôi, họ nói những chuyện riêng tư, tiếng nói rất nhỏ. Tôi mở miệng ra bảo họ nói to lên một chút, tôi cũng muốn nghe.” Đệ tử hỏi: ”Bà không sợ sao?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Không sợ!” (Không có cảm giác sợ hãi.) Đệ tử hỏi: ”Sau đó hai người này thế nào?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Hai người đó nghe thấy tiếng tôi hỏi còn quay đầu lại nhìn tôi, nhưng họ mặc kệ, vẫn tiếp tục nói chuyện.”

Lúc này pháp sư Liên Ân phát hiện ra Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương đang nói chuyện với không khí thì cảm thấy rất dị. Liên Ân hỏi: ”Sư Mẫu đang nói chuyện với ai đấy?” Sư Mẫu đáp: ”Cô không nhìn thấy à? Họ đang đứng bên cạnh cô đấy!” Dọa cho Liên Ân toàn thân nổi gai ốc, Liên Ân bước lùi lại. Thượng sư Liên Hương quay đầu nói với bầy ma: ”Mọi người đừng có ở đây nói chuyện riêng nữa, đi tìm A Di Đà Phật đi (ý là chỉ A Di Đà Phật tức là Lư Sư Tôn).” Các con ma đều nhìn Thượng sư Liên Hương.

Đệ tử hỏi: ”Sau đó thì sao?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”A Di Đà Phật sắp đến rồi! Tôi bảo với họ rằng A Di Đà Phật sắp đến ăn sáng.” Đệ tử hỏi: ”Kết quả thế nào?” Thượng sư Liên Hương đáp: ”Cung điện biến mất, bữa tiệc dừng lại. Ma nam ma nữ lần lượt đi vào trong cái tủ ở phòng khách, cửa tủ đóng lại còn kẹt chiếc mũ của một con ma, con ma đó chìa tay ra lôi mũ vào rồi mới đóng cửa.” Thượng sư Liên Hương nói: ”Đây là những gì tôi nhìn thấy thật! Tôi còn nhìn thấy trong số đó có một con ma có một chân, là mang chân giả.”

05. Những gì Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương nhìn thấy

Thứ nhất: Tôi và Sư Mẫu ngồi trên ghế ở bàn ăn. Thời gian là buổi tối. Chúng tôi cùng ăn lạc. Chúng tôi đều thích ăn lạc, tôi thích mùi thơm, độ giòn của nó và mùi vị không thể nào nói rõ được. (Rất nhiều đồng môn đều biết chúng tôi thích lạc, lạc rang cả vỏ, lạc luộc, lạc bóc vỏ, lạc rang, lạc chiên. Chỉ cần không bỏ nhiều dầu nhiều muối thì chúng tôi đều thích.)

Sư Mẫu với tay ra để lấy lạc. Trời ạ! Bà ấy nhìn thấy rất nhiều cánh tay đều với ra lấy lạc. (Tay của ma.) Sư Mẫu nói: ”Họ đều với tay ra lấy lạc.” Tôi cười: ”Hóa ra ma cũng thích ăn lạc.” Tôi lại nói: ”Không sao, chúng ta ăn là đồ thật, cái họ ăn là khí.”

Thứ hai: Cũng là buổi tối. Sư Mẫu muốn trở về phòng đi ngủ, cái xe lăn của bà ấy để ở cửa phòng. Sư Mẫu nói: ”Có một cô gái ngồi trên xe lăn của tôi, cô ấy mặc áo màu xanh lục, váy hoa, tóc đen.” Tôi hỏi: ”Có xinh không?” Bà ấy không trả lời. Tôi lại hỏi: ”Rốt cuộc là có xinh không?” Bà ấy nói: ”Hừ! Đúng là cái tật của đàn ông.” Đến khi tôi đi ra khỏi cửa phòng của Sư Mẫu, tôi đặc biệt đưa mắt nhìn cái xe lăn, ma nữ trẻ tuổi kia không còn ở đó nữa, trên xe lăn không có một ai cả. Tiếc ghê!

Thứ ba: Mỗi buổi tối, tôi đều giúp Sư Mẫu làm kết giới và gia trì cho căn phòng. Tôi phụng thỉnh: Đông Hoa Đại Đế Quân. (Đông Phương Mộc Công) Diêu Trì Kim Mẫu. (Tây Phương Kim Mẫu) Thiên du thập nhị Khê Nữ. Na Diên Thiên ngũ Thiên nữ. Hỏa Quang Đại Tướng. Phù Hải Đại Tướng. Hống Phong Đại Tướng. Đến gia trì và kiết giới.

Sư Mẫu nhìn thấy ba vị Đại Kim Cang Thần Tướng đứng ở đầu giường, đầu chạm trần nhà, chân đứng trên mặt đất. Có ria mép. Có râu dài. Mũ giáp vàng, áo giáp vàng, trên lưng có đeo cờ, uy phong lẫm liệt. Bà ấy mô tả cho tôi nghe. Tôi biết đó là ba vị Đại Tướng.

Thứ tư: Sư Mẫu nhìn thấy một bầy ma rất đông xếp hàng tới tận cửa sổ phòng bà ấy, có người xưa, người nay, người Hoa, người ngoại quốc. Bà ấy hỏi tôi: ”Họ xếp hàng dài như vậy để làm gì đấy?” Tôi đáp: ”Lên thuyền pháp.” Sư Mẫu nói: ”Đúng rồi, đúng rồi, mới một lúc mà đã xếp hàng tới cửa sổ phòng tôi rồi.”

Những gì Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương nhìn thấy không chỉ có những chuyện này, mà còn có nhiều nữa, vui lòng chờ đợi.

06. Ma lập lòe ẩn hiện

Buổi tối đó, tôi ngồi trên pháp tọa, thuyền pháp trên tay trái của tôi bay ra, đón gió giương buồm biến thành một chiếc thuyền pháp cực kì lớn. Một hóa ra mười. Mười hóa ra trăm. Trăm hóa ra nghìn. Từ một chiếc thuyền pháp lớn biến hóa ra nghìn chiếc thuyền pháp lớn, dáng thuyền rất to có thể chứa được vô số linh hồn. Khi cờ lệnh hạ xuống, linh hồn giống như chim bay, nhẹ nhàng đậu trên thuyền pháp, hàng này đến hàng khác, lượt này đến lượt khác. Chính vào lúc này. Tôi nhìn thấy một hồn ma trên người tỏa ra ánh hào quang màu trắng xám, hào quang lập lòe.

Theo như tôi biết: Ánh sáng trắng — hành giả tu hành. Ánh sáng đỏ — người lương thiện. Ánh sáng đen — người đại ác. Ánh sáng xám — người tiểu ác. Ánh sáng lam — người thích tranh đấu. Ánh sáng lục — người tà môn. Ánh sáng vàng — người phổ thông bình thường.

Tôi nhìn cái người màu trắng xám này dường như cố ý trốn tôi, lúc lóe bên này lúc lóe bên kia, tiếp cận với rất nhiều ma, cứ lập lòe ẩn hiện trong bầy ma, rất là kỳ quái.

Tôi nói: ”Ma huynh, không cần trốn, xin mời đến trước mặt tôi đây!” Ma kia nghe thấy thế thì định bỏ trốn. Tôi nói: ”Đừng đi! Xung quanh có Kim Giáp Thần Tướng, ông không thoát được đâu. Tôi chỉ muốn nhìn xem ông là ai?” Ma đó tự biết là không thoát được, cúi đầu đi đến trước mặt tôi. Tôi nói: ”Ngẩng đầu lên đi!” Ma ngẩng đầu lên. Tôi nhìn thấy thì sửng sốt! Tôi nói: ”Ông là XX?” Ma đáp: ”Chính là tôi.” Tôi hỏi: ”Làm sao mà ông chết?” Ma đáp: ”Bệnh tuyến tiền liệt.” (Căn bệnh chết người của đàn ông.)

Ông ta là một nhân vật nổi tiếng trong giới tôn giáo, cũng là một hành giả tu hành, cá tính ghen ghét đố kỵ người khác như kẻ thù, năm xưa, ông ta là người phê phán tôi nhiều nhất, văn chương của ông ta rất ác liệt. Ông ta phê phán tôi là “phụ Phật ngoại đạo”. Ông ta nói: ”Tôi đã bị giam cầm ở âm phủ hơn 20 năm rồi, nghiệp đã trả hết nên được thả ra, bây giờ muốn được lên thuyền pháp đi đến Tây phương tịnh thổ.” Tôi nói: ”Tất cả đều đã qua rồi! Hoan nghênh ông đến Phật quốc.” Tôi vui mừng gia trì cho ông ấy. Ông ấy hỏi: ”Lư Sư Tôn, ngài không so đo chuyện quá khứ của tôi sao?” Tôi đáp: ”Đời người là huyễn, việc huyễn là huyễn rồi, không có việc gì để mà so đo. Gặp được ông, tôi đặc biệt vui mừng.” Ông ấy vui mừng sốt sắng lên thuyền pháp. Tôi nghĩ: ”Chẳng phải tôi cũng thế sao, tôi cũng từng phê phán rất nhiều người. Thật sự là hổ thẹn!”

07. Cuộc tổng vệ sinh của ma

Nhà tôi Nam Sơn Nhã Xá hiện tại chỉ có ba người ở. 1. Lư Sư Tôn. 2. Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương. 3. Thị giả Thượng sư Liên Dư. (Người khác là pháp sư Liên Ân thì đã đi đến Cầu Vồng Lôi Tạng Tự.) Công việc dọn dẹp nhà cửa, một mình Thượng sư Liên Dư làm không hết. Thế là, Phật Thanh, Phật Kỳ thuê người phụ trách của công ty dọn dẹp vệ sinh đến nhà tôi để định giá. Nửa tháng làm vệ sinh một lần. Nhà rộng 900 mét vuông quét dọn tổng cộng hết bao nhiêu tiền? Người phụ trách đến, đi một vòng, xem phòng ngủ, phòng làm việc, phòng bếp, phòng giặt, phòng khách, nhà để xe, nhà vệ sinh, nhà tắm, Phật đường, phòng vận động, phòng chiếu phim, bệ rửa mặt, sân thượng, v.v….

Buổi tối hôm đó, tôi lên giường, vẫn còn chưa ngủ. Tôi nhìn thấy những bóng ma đi tới đi lui. Rất nhiều ma đang thì thầm to nhỏ. Một con ma nói: ”Mọi người chúng ta cùng chung tay làm một cuộc tổng vệ sinh sạch sẽ để ông chủ một phen bất ngờ.” Một con ma khác nói: ”Để tôi triệu tập!” Thế là, “người” thì lấy chổi quét, “người” thì cầm giẻ lau để lau chùi, “người” thì dùng máy hút bụi để hút bụi, “người” thì xách nước… Một lát sau đã ồn ào hết cả lên. ”Khẽ một chút, đừng đánh thức người khác.” Máy hút bụi cũng nhỏ tiếng lại. ”Người” thì lau đồ thủy tinh. ”Người” thì lau tủ. Lau sàn nhà. Phủi trần nhà. Lau đồ đạc. Lau đàn piano. Ở chỗ mà người bình thường không lau chùi tới được thì họ trực tiếp bay lên, lau cửa sổ trên mái nhà. Quét mạng nhện trên trần nhà. Họ không dùng cái thang, chỉ bay lên để lau. Họ có dùng dung dịch tẩy rửa không? Tôi không nhìn thấy. Tóm lại, những bóng ma cứ dập dờn đi tới đi lui, bầy ma vô cùng bận rộn.

Tôi nghe thấy tiếng: ”Cửa sổ sát mặt đất cần lau cho sáng một chút!” “Lưng ghế tựa phải lau từng thanh một!” ”Góc nhà là dễ bỏ sót nhất đấy!” ”Phải hút bụi trên ghế sofa nữa!” ”Lá rụng ở cửa sổ trên mái nhà nữa!” ”Phía sau bồn vệ sinh!” ”Cái nút của chậu rửa mặt!” ”Tất cả tay nắm cửa và cửa sổ!” ”Bên dưới cái đèn bàn!” ”Xung quanh giá tivi!” ”Chú ý, đừng gây ra tiếng động!” ……

Ngoài ra, mỗi cuốn sách trên giá sách đều được rút ra, mỗi cuốn sách đều được lau sạch sẽ. Trời ơi! Cuộc tổng vệ sinh của ma này đã biến nhà tôi thành một ngôi nhà mới. Sạch sẽ! Sáng bóng! Ngay cả cái nắp bồn cầu còn được bôi sáp nữa. Thượng sư Liên Hương nói: ”Tôi nhìn thấy ma đang cầm chổi quét nhà!”

08. Ma thường trú

Thế nào là ma thường trú? Chính là ma sống tại Nam Sơn Nhã Xá một thời gian dài, một người là Thụy Quang, một người là Phù Dung, một người là Thiến Thiến. Ba người này đều có duyên phận với tôi, vì thế họ thường sống tại Nam Sơn Nhã Xá. Họ sống trong tủ lạnh. Tôi từng hỏi: ”Tủ lạnh có lạnh không?” Họ đáp: ”Không lạnh, rất thích hợp.”

Ba người họ có nhan sắc xinh đẹp, sống hòa thuận tại Nam Sơn Nhã Xá, thỉnh thoảng có thể giúp đỡ những việc nhỏ. Khi tôi đi đến gần tủ lạnh, họ sẽ chào hỏi tôi, lúc này tủ lạnh sẽ kêu lên ba tiếng “cạch, cạch, cạch”. Tôi đã quen rồi. Người khác thì sẽ kinh ngạc lắm. Khi siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp, họ cũng không muốn đi đến Phật quốc tịnh thổ. Họ chỉ giúp giữ trật tự cho bầy ma.

Có một hôm (chủ nhật). Thiến Thiến nói với tôi: ”Lư Sư Tôn! Tôi muốn đi đến Cầu Vồng Lôi Tạng Tự xem ngài làm Hộ Ma, nghe ngài giảng kinh thuyết pháp.” Tôi hỏi: ”Bên ngoài có con mắt của các Thần, cô có trốn được không?” Thiến Thiến đáp: ”Tôi trốn trong túi hương của ngài.” Tôi luôn mang theo túi hương bên mình, Thiến Thiến thật sự rất thông minh. Thế là chúng tôi lên xe của Thượng sư Đức Huy cùng đi đến Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Tôi làm Hộ Ma, cô ấy cũng ở đó. Tôi thuyết pháp, cô ấy cũng ở đó. Biểu diễn văn nghệ ở đại điện, cô ấy cũng ở đó. Trên đường về nhà, ngồi trên xe của Thượng sư Đức Huy, Thiến Thiến bảo tôi: ”Tôi muốn ra ngoài để hít thở không khí.” Tôi nói: ”Không được! Cô ra ngoài ngồi trong xe này, Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương có con mắt âm dương, sẽ nhìn thấy cô đó!” Cô ấy nói: ”Trong túi hương có người cúng dường tiền, tiền ở trong túi hương, tôi không chịu được cái mùi ấy! Tiền là bẩn nhất, mùi của nó rất khó ngửi. Tôi ngồi ở đuôi xe, Sư Mẫu sẽ không nhìn thấy đâu.” Tôi nói: ”Được rồi!”

Tôi vẫn luôn ngồi ở ghế phụ bên cạnh lái xe, Sư Mẫu ngồi ở hàng ghế thứ hai, hàng ghế thứ ba không có ai ngồi. Phía sau hàng ghế thứ ba bình thường hay để những thứ đồ vận chuyển. Thiến Thiến ngồi ở sau hàng ghế thứ ba. Hai tay Thiến Thiến ôm lấy lưng ghế, ngồi xổm. Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương bất ngờ quay đầu lại, nhìn thấy cánh tay của Thiến Thiến thì giật thót mình. Lại nhìn thấy sau lưng ghế có thò ra một nửa khuôn mặt thì lại càng nhảy dựng. ”Á! Trên xe có ma!” Sư Mẫu liên tục quay đầu lại ba lần, Thiến Thiến vội vàng trốn đi.

Xe về đến Nam Sơn Nhã Xá, Thiến Thiến nhanh như chớp đã biến mất. Sư Mẫu bảo tôi: ”Trên xe có ma nữ, trẻ trung, rất xinh đẹp.” Tôi nói: ”Tôi biết rồi.” Tôi muốn cười thầm. Tôi nghĩ đến một vấn đề nhỏ: ”Tiền mà con người yêu nhất, ma lại nói là có mùi buồn nôn nhất, hầy!”

09. Phật Thích Ca Mâu Ni phóng quang

Có một buổi tối, khoảng hai giờ. Tôi ngồi trên pháp tọa, diễn hóa siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Tôi tiến hành đến phần: Dưới tiếng hiệu lệnh, thuyền pháp đi về Tây phương Cực Lạc tịnh thổ, thanh thế hào hùng. Tôi niệm Phật: “Nam mô A Di Đà Phật!” Trì tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ: ”Om ah hum benza guru pema siddhi hum seh.” (Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là hóa thân của A Di Đà Phật.) Trì chú vãng sinh. Trì chú Văn Thù vãng sinh. Nghi quỹ tiến hành được một nửa thì đột nhiên tôi đến một cảnh giới khác.

Phật Đà hỏi: ”Liên Sinh ở Ta Bà thuyết pháp ra sao?” Tôi đáp: ”Với phàm phu nói có, với Nhị thừa nói không có, với Bồ Tát nói huyễn có, với Nhất thừa nói trống không.” Phật Đà hỏi: ”Đại ý của Phật pháp là gì?” Tôi đáp: ”Song vận.” Phật Đà hỏi: ”Ngài siêu độ là vì cái gì?” Tôi đáp: ”Vốn không có một vật, nhưng xuân đến hoa tự nở.” Phật Đà hỏi: ”Thế gian bao la vạn tượng, ứng đối ra sao?” Tôi đáp: ”Một đạo thần quang thì không che chướng.” Phật Đà nói: ”Tỉnh dậy đi, Liên Sinh, ngài ngủ mất rồi!”

Tôi giật mình, mở to mắt, trời ơi! Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra một đường ánh sáng, trong ánh sáng có một vị Hóa Phật đang ngồi. Ngài bảo tôi: ”Tỉnh dậy, ngài ngủ mất rồi!” Lúc này tôi mới biết, tôi ngồi trên pháp tọa đã tiến vào mộng cảnh, tôi và Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện. Nhưng nghìn chiếc thuyền pháp đã mất sự kiểm soát, trôi giạt ở cõi trời bên ngoài cõi trời, trôi sang bên đông lại trôi sang bên tây. Tôi thu lại tinh thần, lại lần nữa dẫn dắt nghìn chiếc thuyền pháp hướng về tây phương.

Tôi cảm tạ sự hậu ái của Phật Thích Ca Mâu Ni, trong ánh sáng đã chỉ điểm cho tôi, còn đích thân phóng quang gia trì cho tôi, khiến tôi có thể tỉnh ngủ, khi tôi tỉnh dậy thì đã 4 giờ sáng rồi. Tôi tu xong toàn bộ nghi quỹ.

Trong lòng tôi nghĩ: ”Phật Thích Ca Mâu Ni đích thân phóng quang đánh thức tôi dậy, đây là việc vô cùng hy hữu.” Hơn nữa còn dạy tôi rất nhiều pháp ngữ. Thì ra Phật Thích Ca Mâu Ni lại quan tâm đến siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp của tôi như vậy.

Tôi viết một bài kệ để ghi nhớ:

Pháp hội siêu độ đến Tây thiên Nửa đường mơ thấy gặp Kim Tiên May được hóa quang đến gọi dậy Pháp sự viên mãn chiêng trống vang. Ôi! Tín giải như vậy! Cầu nguyện hoàn hảo!

10. Mẹ của Maree

Nữ đệ tử Maree ở Seattle, mẹ của cô ấy tôi không biết xưng hô thế nào, tôi thậm chí không biết tên của bà ấy. Bởi vì mẹ của Maree đã nhiều tuổi nên có một vài căn bệnh phức tạp, liền đến tìm tôi.

Bà ấy trong ấn tượng của tôi là như thế này: Đơn thuần. Học vấn thì không bàn đến. Đi đứng cử chỉ khác người khác. Chính là như vậy. Thật sự bà ấy rất khó hình dung.

Có một hôm. Mẹ của Maree quỳ xuống đảnh lễ tôi, trên tay cầm hồng bao đưa cho tôi. Tôi đưa tay ra sờ đầu cho bà ấy, nhưng bà ấy đột ngột quay người lại rồi bỏ đi, tôi còn chưa chạm được vào đầu. Maree nói: ”Ngày mai mẹ đệ tử phải làm phẫu thuật mổ mạch máu tim, cho nên bà ấy chủ động đến cầu Lư Sư Tôn gia trì.” Không ngờ, ca phẫu thuật tiến hành được một nửa thì mẹ của Maree không còn nhịp tim nữa. Bác sĩ cấp cứu nhưng không kịp, thế là người cứ như thế “đơ” luôn. Maree rất đau lòng. Tôi cũng rất buồn. Tôi đã siêu độ cho mẹ của Maree. Bà ấy đã đến rồi. Bà ấy nói lẩm bà lẩm bẩm trong miệng, tôi nghe dường như hiểu mà dường không hiểu. (Bà ấy nói tiếng của quê nhà.) Tôi nói: ”Xin mời lên nghìn chiếc thuyền pháp!” Bà ấy lắc đầu nói: ”Không!” Tôi hỏi: ”Bà không lên nghìn chiếc thuyền pháp, vậy bà muốn đi đâu?” Bà ấy đáp: ”Tôi muốn đi gặp tổ tiên của tôi.” Tôi nói: ”Không được! Đó không phải là nơi tốt đẹp!” (Tổ tiên của bà ấy ở âm gian.) Bà ấy nói: ”Không thể gặp tổ tiên, nhưng tôi cũng không quen thuộc với Tây phương tịnh thổ, tôi không muốn đi!” Tôi đã nói rất nhiều điều hay về tịnh thổ thì bà ấy mới đồng ý đi tịnh thổ.

Nhưng, bà ấy lại nói: ”Tôi không thích ngồi cùng thuyền với nhiều người như thế này.” Ôi! Bà ấy đúng là rất đòi hỏi, ai bảo tôi đã nhận một chiếc hồng bao cuối cùng của bà ấy chứ.

Tôi nghĩ một lúc, chỉ có cách thế này, tôi tự mình dùng quán tưởng để huyễn hóa ra một chiếc thuyền nhỏ khác trong số nghìn chiếc thuyền pháp, thuyền nhỏ chỉ ngồi được một người. Cuối cùng bà ấy đã đi rồi. Thế là bà ấy đã đi tịnh thổ, thành công rồi! Tôi hỏi Maree: ”Mẹ của cô rất đòi hỏi đó!” Maree đáp: ”Thỉnh thoảng chúng con cũng không biết bà ấy muốn làm gì, chỉ cần vừa ý bà ấy là được.” Tôi nói: ”Bà ấy đi tịnh thổ rồi, A Di Đà Phật sẽ cứu bà ấy!” Maree nói: ”Thế thì tốt quá!” Đây là câu chuyện về mẹ của Maree.

11. Phúc âm của thiên đường

Ngụy Tư Nhan đến từ California ở Nam Sơn Nhã Xá đã nhìn thấy: một người Tây mặc đồ Âu đánh phấn thắt cà vạt bay tới bay lui. Lại nhìn thấy một phụ nữ mặc đồ Âu màu vàng, tóc vàng lắc qua lắc lại. Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn! Có người phương Tây đến thỉnh cầu siêu độ không?” Tôi đáp: ”Đương nhiên có.” Người hỏi: ”Người Tây cũng đi Tây phương Cực Lạc thế giới à?” Tôi đáp: ”Đúng thế. Cũng giống như chúng ta di cư đến quốc gia phương Tây, đương nhiên cũng có người phương Tây di cư đến các quốc gia phương Đông.”

Từng có một lần. Một bầy ma người Tây (lần này đúng là ma Tây), bay vào Nam Sơn Nhã Xá của tôi. Một con ma hỏi: ”Ở đây có thuyền chở không?” Tôi đáp: ”Ở đây có siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp, tôi là sư phụ tiếp dẫn để đưa các linh hồn vãng sinh đến Phật quốc tịnh thổ. Một con ma hỏi: ”Chúng tôi không đi đến Phật quốc tịnh thổ, chúng tôi muốn đi đến thiên đường, có tàu đi thiên đường không?” Bầy ma ở phía sau đồng thanh kêu lên: ”Chúng tôi muốn đi thiên đường.”

Đương nhiên tôi biết, ở các quốc gia phương Tây là tự do tôn giáo, rất nhiều tín đồ Cơ Đốc, rất nhiều tín đồ Thiên Chúa. (Có người thuộc Giáo Đình La Mã, có người thuộc Đông Chính Giáo.) Có rất nhiều tín đồ đạo Hồi. Cũng không ít người theo đạo Do Thái. Còn có rất nhiều rất nhiều các giáo phái rẽ nhánh nhỏ khác, trăm hoa khoe sắc, vô cùng phức tạp.

Tôi hỏi bầy ma Tây này: ”Sao mọi người biết ở đây có siêu độ?” Họ đáp: ”Nghe tin tức.” Tôi nói: ”Được thôi! Tôi nhân Thánh danh Thượng đế Cha (Jehovah), Con (Jesus), Thánh thần, ba vị nhập làm một thể, đưa mọi người đến thiên đường vậy! Amen!” Họ hỏi: ”Lư Sư Tôn biết Thượng đế sao?” Tôi cười. Tôi nói: ”Jesus là guru của tôi. Trước kia tôi làm thầy giáo lớp tra kinh, từ Sáng Thế Ký đến Khởi Thị Lục. Cựu Ước 39 quyển, Tân Ước 27 quyển tôi đều đọc hết rồi.”

Người đạo Hồi hỏi: ”Lư Sư Tôn đã đọc kinh Koran chưa?” Tôi nói: ”Đọc rồi. Thiên sứ Gabriel ở hang núi Ha La đã khai sáng cho Muhammad, khiến cho Muhammad trở thành nhà tiên tri của Thượng đế.” Những ma Tây này nghe vậy thì ngây người ra nhìn. Tôi lại nói thêm nhiều nữa. Những ma Tây này đa phần là người lành hoặc người tốt, vì thế họ hoàn toàn tin tưởng tôi. Tôi huyễn hóa ra thuyền pháp của thiên đường đưa họ đến thiên đường. Ở trên thuyền, họ hát vang: “Hallelujah!”

Tôi độ hóa những linh hồn có thể xem như là xưa nay trong nước ngoài nước hiếm có. Lành thay! Lành thay!

12. Cô dâu mặc áo voan trắng

Buổi tối ngày hôm đó. Thượng sư Liên Hương ở trong phòng ngủ của mình nói với tôi: ”Sau lưng ông có một cô dâu mặc áo voan trắng.” Tôi hỏi, đầu không ngoảnh lại: ”Đẹp không?” Bà ấy đáp: ”Đẹp cực kì! Dáng người thon thả, da dẻ trắng ngần, mày liễu mắt phượng, cái miệng nhỏ xinh…”

Tôi trở về phòng ngủ của mình. Cô dâu mặc áo voan trắng đó hiện thân để tôi nhìn thấy. Trước mắt tôi vừa lóe lên thì tôi kêu: ”Là cô!” Cô ấy nói: ”Là tôi.” Tôi hỏi: ”Sao cô đến đây?” Cô ấy đáp: ”Vượt biển đại dương đến thăm ông!” Tôi hỏi: ”Sao cô lại mặc như thế này?” Cô ấy đáp: ”Chẳng phải tôi đã từng đồng ý sẽ gả cho ông sao, hôm nay, tôi đến để kết hôn với ông.”

Trong thoáng chốc, tôi nghĩ đến quá khứ. Vùng biển xanh ngắt xinh đẹp ấy, ngọn núi nhỏ ấy. Còn cả dòng suối nhỏ nước chảy róc rách nữa, bên bờ suối có những viên đá cuội tròn tròn. Vườn hoa trong ngôi trường cấp ba ấy. Bên dưới cây dừa, gió nam thổi hiu hiu. ……

Đều có bóng dáng xinh đẹp của nàng, bóng hình của tôi. Năm ấy. Chúng tôi tình cảm dạt dào. Nàng nói: ”Em muốn gả cho anh!” Tôi nói: ”Anh sẽ đón chờ em đến!” Cuối cùng, bức thư cuối cùng của nàng nói rằng: “Nếu anh không đến cưới em, em sẽ lấy người khác!” ”Tôi đã đặt tất cả thư tình của nàng ở trong một cái hộp giấy, nhưng bị bố mẹ tôi phát hiện ra và vứt cái hộp đó đi.” Bố tôi nói: ”Thắng Ngạn! Đến bản thân anh còn không thể tự lập được còn muốn kết hôn sao?” ……

Đó là việc của hơn 60 năm trước. Năm ấy, tôi 18 tuổi. Tôi nhớ đến hai bài thơ:

Đêm nay trăng lẻ bóng Núi đơn độc không mây Năm ngoái theo cánh nhạn Ngày nào xuống sông Phần? Vắng tiếng xuân cô quạnh Tình thâm mình ta nhớ Hoa rơi chạm khung cửa Biết chăng là trong mơ?

Và:

Mênh mông thảo nguyên thong thả bước Xa xăm đỉnh núi đầy mây giăng Nghìn vàng nhẹ tựa lời ly biệt Trăm mối tâm sự nặng lời văn Lòng ta đã đổi nay thanh thản Bao mối âu sầu gửi lại chàng Đêm nay trăng núi tỏa ánh bạc Lẻ loi nhạn sợ chuyện đã qua.

Tôi nói: ”Tôi đã xuất gia, cô đến tôi chỉ có thể tiễn cô đến Tây phương Cực Lạc, chúng ta nhanh chóng gặp lại nhau ở đó.” Cô ấy cười: ”Nhớ là chúng ta có hẹn đấy nhé!” Tôi tiễn cô ấy lên nghìn chiếc thuyền pháp. Cả chiếc thuyền chỉ có mình cô ấy mặc váy cô dâu. Tôi nghĩ đến: ”Tất cả mọi thứ, đúng là một giấc mộng đẹp.” 60 năm sau, tôi thật sự đã đón cô ấy rồi.

13. Cô dâu ma

Bài viết trước nói đến cô dâu mặc áo voan trắng. Sao lại có một cô dâu ma nữa? Thật vậy, không sai, cô ấy lại đến rồi! Tôi lại nhìn thấy cô ấy, sao lại có hai người? Một người đã đi đến Tây phương tịnh thổ rồi, một người lại xuất hiện trước mặt tôi? Tôi rất đỗi sửng sốt! ”Sao lại là cô?” Cô ấy đáp: ”Đúng vậy, là tôi!” Tôi hỏi: ”Rõ ràng là tôi nhìn thấy cô đã đi Tây phương tịnh thổ rồi cơ mà?” Cô ấy đáp: ”Tôi nhảy thuyền.” Tôi hỏi: ”Vì điều gì?” Cô ấy đáp: ”Tôi mặc váy cưới đến, nhưng ngay cả một ngày làm cô dâu cũng chưa được, chẳng phải là đã uổng công mặc váy sao?” Tôi hỏi: ”Vậy cô muốn như thế nào mới được?” Cô ấy đáp: ”Tôi muốn giống như Thụy Quang, Phù Dung, Thiến Thiến, ba người thường đi theo ông, cùng ông đi hết cuộc đời này.” Tôi nhảy dựng: ”Mấy người đã gặp nhau rồi à?” Cô ấy đáp: ”Đâu chỉ có gặp, tôi đến Nam Sơn Nhã Xá, bốn người gặp mặt, mới gặp đã thân thiết. Tôi đã ở nhiều ngày rồi, ba người họ giúp tôi chuẩn bị váy cưới nên tôi mới mặc váy cưới để gặp ông.” Tôi hỏi: ”Vậy Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương phải tính sao?” Cô ấy đáp: ”Sư Mẫu là tiểu ngũ!” Tôi hỏi: ”Vậy cô thì tính là thứ mấy?” Cô ấy đáp: ”Tôi tính là chị đại!”

Tôi nghe xong thì cười vang ha ha, năm người, một người vợ dương gian, bốn người vợ âm gian, có xem là lấy nhiều vợ không? Thế nhưng, năm người đều là thị giả của Lư Sư Tôn tôi. Tôi hỏi: ”Cô cũng sống trong tủ lạnh à?” Cô ấy đáp: ”Tôi không ở trong tủ lạnh, tôi được tính là mới kết hôn nên sẽ ở trong tủ đầu giường của ông.” Tôi “a” lên một tiếng, thảo nào gần đây tôi đi tới gần cái tủ đầu giường thì cái tủ sẽ kêu “cạch” một tiếng. Thảo nào! Mấy ngày nay đi ngủ, tôi luôn cảm thấy có cái gì đó trốn ở trong chăn. Tôi nói: ”Cô ăn trộm nguyên dương của tôi à?” Cô ấy nói: ”Chỉ là hít vào mấy hơi thôi.” Tôi nói: ”Cô làm xáo động tâm niệm của tôi à?” Cô ấy nói: ”Tâm vương không vọng động, bảy mạch nhất thời thông, eo mang kiếm ba thước, sợ gì một cây cung.” Tôi hỏi: ”Cô có biết pháp thiền không?” Cô ấy đáp: ”Sẽ học với ông.” Tôi để cho cô dâu mới ở lại, cô ấy vẫn ngây thơ đáng yêu, biết nói thiền ngữ.

14. Thiền ngữ của cô dâu ma

Khi còn tại thế, cô dâu ma này đã bí mật quy y Chân Phật Tông. Cô ấy thích thiền, đã đọc hết một lượt toàn bộ sách tôi viết, có kiến giải đặc biệt đối với thiền ngữ của thiền sư. Tôi hỏi cô ấy: ”Phật nói đời người là khổ, cô nghĩ thế nào?” Cô ấy đáp: ”Dưa ngọt thì ngọt, dưa đắng thì đắng.” Tôi hỏi: ”Quả nhiên cô có thể nhìn thấu, xin hỏi thế nào là nhìn thấu?” Cô ấy đáp: ”Chỉ là cái này.” Tôi hỏi: ”Xin hỏi đến tận chân tơ kẽ tóc, cái này là cái gì?” Cô ấy đáp: ”Nhìn thấu.”

Còn nữa. Tôi hỏi: ”Hoa anh đào ở Biệt thự Cầu Vồng nở, sao cô không đi xem?” Cô ấy đáp: ”Bốn mùa tám tiết mà thôi.” Tôi hỏi: ”Tôi đánh côn pháp Thiếu Lâm, sao không đi xem?” Cô ấy đáp: ”Không có đất dụng võ.” Tôi hỏi: ”Tôi có Hộ Ma hỏa cúng, là pháp hội, sao không đi xem?” Cô ấy đáp: ”Có thể đốt lửa nấu ăn không?” Tôi hỏi: ”Cô không được cười nhạo người ta?” Cô ấy đáp: ”Ai cười ông?”

Còn nữa. Tôi hỏi: ”Vì sao chúng ta thường xuyên đấu khẩu vậy?” Cô ấy đáp: ”Núi nam cao, núi bắc thấp.” Tôi hỏi: ”Tôi đang nói với cô những lời chính kinh đó.” Cô ấy đáp: ”Thái tử Siddhartha chuyên nói lời chân thực.” Tôi hỏi: ”Lời chân thực của cô là gì?” Cô ấy đáp: ”Núi cao trăng xa.” Tôi hỏi: ”Cô học thiền để làm gì?” Cô ấy đáp: ”Đúng là vốn dĩ không có một vật.”

Còn nữa. Tôi cố ý hỏi cô ấy: ”Cô đến tìm tôi là có ý gì?” Cô ấy đáp: ”Cầu kiến minh sư.” Tôi hỏi: ”Gặp được minh sư rồi thì sao?” Cô ấy đáp: ”Nhìn trời nhìn đất.” Tôi hỏi: ”Báo đáp tôi thế nào?” Cô ấy đáp: ”Một bộ váy voan trắng của cô dâu mới.”

Những chuyện kiểu như vậy, cô ấy lanh trí hơn người, tùy hỏi tùy đáp, không phải kiểu hời hợt bình thường.

15. Một giọt nước mắt trong biển cả

Tôi ngồi trên pháp tọa làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Nhất thời trong lúc mông lung, tôi nhìn thấy một con ma rúc vào dưới pháp tọa của tôi, nó kêu lên: ”Tôi muốn lên thuyền pháp!” Tôi nói: ”Xin mời lên thuyền!” Nó nói: ”Không được! Tôi bị Thần Hộ Pháp từ chối không cho tôi lên thuyền pháp.” Tôi hỏi Thần Hộ Pháp: ”Vì sao người này không được phép lên thuyền pháp?” Thần Hộ Pháp kể: Người này tên là Lý Lão Thực, khi còn ở thế gian là một người nông dân rất thật thà chất phác, đời sống giản dị, lấy vợ sinh con, có ba đứa con, có cha mẹ già. Bởi vì nghề nông thành công, cộng thêm đất đai tăng giá, nên đã mua được một mảnh đất, xây được một ngôi nhà ở liền kề ba tầng, cả nhà sống đầm ấm vui vẻ. Trong ngân hàng, ông ấy có một ít tiền. Ông ấy bị một tập đoàn cờ bạc để ý đến, họ đã dụ dỗ ông ấy đánh bạc. Trong một đêm. Mất nhà cửa. Mất tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Còn nợ rất nhiều khoản nợ cờ bạc. Tập đoàn cờ bạc lừa đảo này còn gọi xã hội đen đến đòi nợ. Tên đòi nợ còn đe dọa: ”Nếu không trả tiền sẽ giết hết cả nhà!”

Lý Lão Thực đã bị dồn vào bước đường cùng liền nghĩ đến việc tự sát, nhưng lại sợ cha mẹ, vợ con bị hãm hại. Thế là ông ấy nhất thời nghĩ quẩn, đóng chặt cửa nhà, đốt than tự sát. Bản thân, cha mẹ, vợ con, cả nhà bảy người đều chết hết.

Thần Hộ Pháp nói: ”Lý Lão Thực là một người trung thực, không sai, nhưng tự sát đã là nghiệp tội, lại còn giết cha mẹ, vợ và ba đứa con nhỏ, nghiệp tội như vậy lại càng lớn, sao có thể lên thuyền pháp chứ?” Thần Hộ Pháp nói: ”Lý Lão Thực còn viết một mảnh giấy, kể lại rằng, vì không muốn để cha mẹ vợ con bị hãm hại nên mới lựa chọn hạ sách này. Nếu Lư Sư Tôn khuyên bảo rằng có thể lên thuyền pháp, xin Lư Sư Tôn ký tên, các Thần Hộ Pháp chúng tôi sẽ để cho ông ta đi qua.” Tôi nói: ”Bây giờ tôi đang làm pháp, trên người không có bút.” Thần Hộ Pháp nói: ”Lư Sư Tôn chỉ cần tập trung tinh thần, bút sẽ xuất hiện trên tay ngài.” Lúc này, đổi lại là tôi bị khó xử. Giết cha, giết mẹ. Giết vợ, giết con. Bản thân tự sát. (Bảy mạng người.) Có thể đến Tây phương Cực Lạc thế giới không? (Ở đây có ngũ nghịch tội.)

Nhưng, Lý Lão Thực cả một đời thật sự rất thật thà, không có nhân ác. Nghiệp tội duy nhất chính là bị lừa đi đánh bạc, thua hết sạch cả một đời, lỗ vốn hết cả một đời. Vì nghĩ quẩn nên mới lỗ luôn cả bảy mạng người. Phải làm sao đây? Tôi nói: ”Xin Thần Hộ Pháp ghi lại con số linh hồn của Lý Lão Thực rồi sẽ định đoạt sau.”

Tôi đem chuyện này kể với các đệ tử xung quanh tôi, sự việc này nên xử lý thế nào. Thả cho đi? Không thả cho đi? Tôi ở vào thế khó xử. Ôi!

Có người bạn thân họ Khổng viết một bài phân tích như sau: Cứu độ có nguyên tắc. Câu chuyện là: có một nhân vật trung ấm của linh giới, lúc tại thế vì trốn nợ mà lâm vào bước đường cùng, thế là đã giết hết người nhà, sau đó tự sát, kết liễu bản thân mình, cũng kết liễu cả người nhà, trong lòng nghĩ cả nhà sẽ không bị kẻ đòi nợ hãm hại. Linh hồn của ông ta đã tìm đến Lư Sư Tôn, người hằng đêm hy sinh giấc ngủ của mình, từ bi vất vả vì các vong linh hữu duyên vô duyên mà làm siêu độ, để cầu cứu. Ông ta đã nghĩ rất nhiều cách, lấy tờ giấy xin Lư Sư Tôn ký tên làm giấy thông hành (hoặc ý chỉ của Phật), để có thể lên thuyền pháp, siêu sinh đến Phật quốc tịnh thổ. Nhưng có giấy lại không có bút, không cách nào ký tên. Thế là Sư Tôn từ bi, đã nói ra miệng rằng cho phép ông ta lên thuyền pháp. Đáng tiếc là ông ta bị Thần Hộ Pháp chặn lại, không cho lên thuyền pháp.

Sự khó xử của Sư Tôn: Sư Tôn rất khó xử, liên tục tỏ ý rằng: ông ta là một người rất thật thà, là người trung thực… Ông ta giết người nhà cũng là sợ người nhà bị kẻ đòi nợ hãm hại. Sư Tôn hỏi đệ tử nên làm thế nào, xin đệ tử nghĩ giúp. Đệ tử con trực tiếp trả lời rằng: người này tạm thời không thể lên thuyền pháp. Sư Tôn kính yêu, con phải nói ra suy nghĩ thật trong lòng, tuyệt đối không có ý đắc tội, nhưng mong có thể loại bỏ được sự khó xử trong lòng của thầy. Đúng vậy, Hiền Thủ Bồ Tát nói: siêu độ có trung ấm hữu duyên và vô duyên. Đệ tử suy nghĩ và cho rằng, lời của Bồ Tát không có ý chỉ rằng “thông qua toàn bộ” để mà cứu độ siêu độ không có nguyên tắc.

Lưới pháp của pháp giới không thể lỏng lẻo. Sư Tôn là Phật Bồ Tát từ bi, mềm lòng. Thầy yêu chúng sinh, thuận theo chúng sinh, mong muốn làm viên mãn mọi nguyện vọng của chúng sinh. Thầy biết, khi chúng sinh muốn lòng từ bi của thầy, tham lam lòng từ bi của thầy, si mê lòng từ bi của thầy, thầy nên làm thế nào? YES là dung dưỡng, NO là đè nén, hay là đều có thể? Căn khí kiếp trước của chúng sinh khác nhau, tập khí của chúng sinh sau khi bị ô nhiễm khác nhau, phải đối trị cho chuẩn xác mới là cứu độ chân chính, mới là tình yêu chân chính đó! Thuận trị, nghịch trị đều là yêu mà! Nhất thời mềm lòng, ngược lại có thể khiến cho chúng sinh càng luân hồi trong lục đạo nhiều kiếp hơn. Nghịch trị lúc này, dứt khoát chặn lại, là yêu!

Duyên lên thuyền pháp vẫn chưa đủ! Không liên quan gì đến hữu duyên vô duyên! Đánh bạc: vào thời khắc đó, chính mình đã hủy hoại bản thân và người nhà rồi. Tâm ba thứ độc tham sân si càng ngày càng lớn, càng rơi càng sâu, gặp phải kẻ xấu chỉ là viện cớ! Giết: tâm ích kỷ, muốn cùng đến chỗ chết. Chết hết sạch không đại diện cho việc chấm hết, càng không phải là hết sạch sành sanh! Cứu độ ư: vì sao không đưa vợ con cùng xin lên thuyền pháp? (ích kỷ cá nhân) Trung thực ư: còn phải để thời gian khảo nghiệm, lâu ngày mới biết. Lợi dụng: vẫn đầu cơ trục lợi như cũ, xảo ngôn lợi dụng lòng từ bi của Phật Bồ Tát. Tự mình nên sám hối: sám hối phải xuất phát từ sự thành tâm rất sâu, nếu chỉ là biểu hiện bên ngoài, thừa nước đục thả câu thì có làm cũng như không làm.

Sư Tôn kính yêu, trên đây là thiển kiến của đệ tử trình lên để thầy tham khảo, A Di Đà Phật!

Ngoài ra, có đệ tử nói: Giết cha, giết mẹ là ngũ nghịch tội. Không có lý do gì để mà tha, phải xuống địa ngục vô gián. Địa ngục có: Địa ngục Bát nhiệt. Địa ngục Bát hàn. Địa ngục A tì. Địa ngục Nhiễm hạng. Cha mẹ và vợ con ông ta phải xuống thành chết oan để chờ đợi đến khi tuổi thọ ở kiếp trước hết rồi thì mới chuyển thế.

Có đệ tử nói: Tập đoàn cờ bạc. Tập đoàn đòi nợ (xã hội đen). Người làm trò hại người này nên chuyển thế vào đạo súc sinh. Phải chịu cái khổ của đói khát, sợ hãi và ăn thịt lẫn nhau. Vì họ chuyên môn đầu độc người khác, nên bị chuyển thế thành rắn, bọ cạp.

Có đệ tử nói: Lý Lão Thực chắc là đầu óc đơn giản, ngu dại. Tự sát là giết Phật tính của mình, về lý nên chịu báo ứng. Còn cha mẹ vợ con ông ta là bị chết oan, tội không lớn, được chuyển thế tiếp là được.

Có đệ tử nói: Lý Lão Thực nếu cũng đến Tây phương tịnh thổ, kẻ tự sát cũng có thể đến Tây phương tịnh thổ, kẻ giết cha giết mẹ, giết vợ giết con cũng đến được Tây phương tịnh thổ, làm gì có cái lý ấy? Lư Sư Tôn độ chúng sinh làm sao mà như vậy được? Sao có thể không phân biệt trắng đen vậy? Lục đạo luân hồi tự làm tự chịu. Còn như cờ bạc, lừa đảo, đòi nợ đều là ác nghiệp, đặc biệt là hãm hại người ta, thì càng không được đi.

16. Mười hai Cát Tường Thiên

Tôi ngồi trên pháp tọa. Bỗng nhiên trong hư không bay đến mười hai con thiên nga trắng, dáng dấp thong dong duyên dáng khiến người ta mê say. Không trung có tiếng nói: ”Lư Sư Tôn! Biết chúng tôi là ai không?” Tôi dùng thiên nhãn để nhìn. Tôi nói: ”Mười hai vị Cát Tường Thiên!” Âm thanh nói: ”Lư Sư Tôn có con mắt tinh tường, ngài có thể nhận ra Cụ Tài Thiên Nữ trong số chúng tôi không?” Theo như tôi biết, mười hai Cát Tường Thiên có mười hai tên gọi là Cát Khánh, Cát Tường Liên Hoa, Nghiêm Sức, Cụ Tài, Bạch Sắc, Đại Danh Xưng, Liên Hoa Nhãn, Đại Quang Diệu, Thí Thực, Thí Ẩm, Bảo Quang, Đại Cát Tường. Những biệt danh khác thì rất nhiều.

Họ muốn tôi nhận ra trong mười hai con thiên nga trắng thì đâu mới là Cụ Tài Cát Tường Thiên. Đây là muốn kiểm tra công lực của Lư Sư Tôn tôi. Tôi dùng pháp nhãn để nhìn. Nhìn thấy có một vị trong đó đầu đội mũ hoa, tư sắc tuyệt đẹp, mặc thiên y màu vàng, tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm viên ngọc như ý. Tôi đưa tay chỉ vào vị đó. Âm thanh nói: ”Lợi hại! Đó đúng là Cụ Tài Cát Tường Thiên!”

Lúc này, Cụ Tài Cát Tường Thiên đưa cánh tay tiên ra chỉ, pháp tọa của tôi biến thành pháp tọa màu vàng kim, Nam Sơn Nhã Xá của tôi biến thành ngôi nhà vàng, mặt đất hóa thành vàng kim, thuyền pháp biến thành thuyền vàng kim, tất cả đều rực sáng chói lọi. Đẹp cực kì!

Tôi hỏi: ”Mười hai vị Cát Tường Thiên đến pháp hội của tôi làm gì?” Âm thanh nói: ”Mười hai Cát Tường Thiên chúng tôi, Cụ Tài Thiên Nữ có hai thị giả đến nhân gian để trả kiếp, nay đã mãn kỳ nên đặc biệt tới để dẫn họ về thiên cung.” Tôi nói: ”Tôi hiểu rồi!”

Mười hai Cát Tường Thiên lần lượt hiện ra nguyên thần, mỗi người đều là thiên tiên mỹ nữ. Nghiêm Sức Cát Tường Thiên — toàn thân phục trang đẹp đẽ, sáu vẻ trang nghiêm không thiếu vẻ nào. Bạch Sắc Cát Tường Thiên — mặc thiên y màu trắng, tỏa hào quang màu trắng, tinh khiết như hoa sen, có thể thanh tịnh tâm linh chúng sinh. Thí Thực Cát Tường Thiên — khiến chúng sinh không thiếu thức ăn. Thí Ẩm Cát Tường Thiên — khiến chúng sinh giải trừ cơn khát. Liên Hoa Nhãn Cát Tường Thiên — có đôi mắt đẹp nhất. (Nhìn vào ai thì nghiệp chướng người đó sẽ được tiêu trừ hết.) Đại Quang Diệu Cát Tường Thiên — khiến trên người chúng sinh phóng quang. ……

Trong một lúc, đám linh hồn đều ngẩn người giương mắt ra nhìn.

Còn nữa: Trong hư không thả xuống một cái thang trời, tôi cũng là lần đầu tiên nhìn thấy cái thang trời này, giống như cầu vồng, nhưng có từng bậc từng bậc. Tôi không có cách nào miêu tả được. Nếu miễn cưỡng phải miêu tả thì là trong hư không thả xuống một chiếc giống như tàu hỏa bảy sắc cầu vồng, có hai ánh sáng quý hạ xuống đưa hai người phụ nữ trong đám linh hồn tiến nhập vào trong cầu vồng. Thang trời thu về. Từng bậc từng bậc hóa thành ánh sáng rồi đi mất.

Âm thanh nói: ”Lư Sư Tôn! Chúng tôi trở về thiên thượng giới đây! Thị giả của ngài, khi đến lúc, chúng tôi cũng sẽ đến đón cô ấy về.” Thế rồi mọi thứ lại trở về sự tĩnh lặng. Cảnh tượng này chỉ xuất hiện trong sát-na rồi lại biến mất trong sát-na. Cũng xem như là một câu chuyện vậy!

17. Suy nghĩ điên đảo

Tôi ngồi trên pháp tọa. Tay trái kết ấn ban nguyện thả ra thuyền pháp. Vốn dĩ là thuyền pháp này sẽ gặp gió mà phóng to ra, một hóa mười, mười hóa trăm, trăm hóa nghìn, trở thành nghìn chiếc thuyền pháp. Nhưng lần này thì không như thế, thuyền pháp vừa thả ra thì mũi thuyền liền chúi xuống, thuyền pháp từ từ chìm vào trong biển lớn, một lát sau đã biến mất không để lại tăm tích. Có chuyện gì thế này? Tôi kinh ngạc.

Tôi lại thả ra một chiếc thuyền nữa, lần này thuyền pháp thả ra gặp phải cơn gió lớn, thuyền pháp cật lực xoay vòng tròn, giống như cánh quạt chân vịt của máy bay vậy, tốc độ quay tròn rất nhanh, một hóa mười, mười hóa trăm, trăm hóa nghìn, kết quả là nghìn chiếc thuyền pháp đều quay tròn với tốc độ rất nhanh. Khiến tôi chóng hết cả mặt. Choa! Sao lại như vậy? Tôi sửng sốt.

Tôi lại thả ra một chiếc thuyền, thuyền pháp này không biết vì nguyên nhân gì mà lại bốc cháy, thuyền bốc lửa cháy liên hoàn. Siêu độ bất thành rồi! Thuyền pháp hóa thành tro tàn, trở thành con số không. Tôi không tin. Chuyện này là sao đây?

Tôi lại thả thuyền pháp một lần nữa, lần này thành công rồi, nhưng thuyền pháp này lại cứ đi thẳng, càng đi càng xa, căn bản là không chịu sự điều khiển của tôi, thuyền pháp tự mình chạy đi. Không thấy đâu nữa! Thuyền pháp mất tích rồi! Tôi tức chết mất! Tôi ngồi trên pháp tọa hết sức ủ rũ, cảm xúc lên xuống bất định, hôm nay có chuyện gì thế này?

Tôi nghĩ đến một bài kệ: Tư tưởng tạp niệm thật đáng sợ Tạp niệm sinh ra ma quấy rầy Phải dùng Không quán chú quán Không Ma chướng tâm tư được tiêu trừ Kết hợp Bổn tôn định tại một Tất cả chướng ngại hóa vô hình Linh hay không linh đều nghiệm chứng Vũ trụ pháp lưu trừ tâm ma.

Tôi làm theo pháp tu này, chỉ trong sát-na, tay trái vừa thả thuyền pháp ra, thuyền gặp gió đã tung bay cánh buồm trắng, từng chiếc thuyền pháp lần lượt xếp thành hàng. Biến hóa thành trăm, nghìn chiếc. Đặc biệt tráng lệ. Tôi trụ trong hư không, thần thông tự tại nhậm vận. Tôi lần lượt hoàn thành nghi quỹ siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp của mình.

Tôi viết ra cảm tưởng của mình: Thế gian này, Vốn dĩ không phải là chân thực, Bởi vì thói quen và ác niệm của con người quá nặng, Cho nên trong lòng sẽ có những vọng tưởng huyễn tượng đảo điên. Vốn dĩ tâm tính là quang minh, Là Phật tính, Là Pháp thân, Không sinh cũng không diệt. Chúng ta tu học pháp mật chú, Tự có thể thân khẩu ý thanh tịnh, A Di Đà Phật Vô Lượng Thọ, Thành quả hóa hiện vô lượng quang. Nhớ kĩ Không và Huệ, Sẽ chẳng còn sợ chi.

18. Địa Tạng Vương Bồ Tát chảy nước mắt

Tôi chỉ biết Quan Thế Âm Bồ Tát chảy nước mắt, đó là giọt nước mắt từ bi chúng sinh. Nước mắt của Bồ Tát hóa sinh ra Lục Độ Mẫu, còn hóa sinh ra Bạch Độ Mẫu. Tôi không hề nghĩ đến Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể rơi nước mắt, điều này vượt quá sự tưởng tượng của tôi.

Trong siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp có rất nhiều Phật Bồ Tát giáng lâm, nhưng chủ yếu nhất là: Diêu Trì Kim Mẫu. A Di Đà Phật. Địa Tạng Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát. (Ở đây bao gồm ba Bổn tôn của tôi.)

Ngày hôm ấy. Tôi ngồi trên pháp tọa, Địa Tạng Bồ Tát và Lư Sư Tôn hợp nhất, Địa Tạng Bồ Tát chính là tôi, tôi chính là Địa Tạng Bồ Tát. Đầu tôi đội mũ Ngũ Phật. Thân khoác áo cà sa tam quang. Tay phải cầm tích trượng. Tay trái cầm bảo châu như ý sáng chói. Ngồi trên “đế thính”. (Đế thính là thần thú, biết việc trong thiên hạ.) Sau đó, tôi cảm nhận được nỗi buồn thương của Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát là vị Bi Nguyện Kim Cang. Điều tôi không ngờ đến là Địa Tạng Bồ Tát bỗng khóc òa, tôi kìm nén không khóc, không phát ra tiếng kêu, không rơi nước mắt. Nhưng không có cách nào kiểm soát được nước mắt, chúng cứ tuôn trào, cả khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Khóc không thành tiếng ấy càng khiến cho bản thân khó chịu, toàn thân run rẩy.

Tôi nói với Địa Tạng Bồ Tát: ”Đừng khóc! Đừng khóc! Đại Bồ Tát không khóc!” Không ngờ con đê ngăn khóc đã vỡ rồi, nước chảy lan tràn. Khóc thì khóc cho thỏa thích đi! Địa Tạng Bồ Tát vì sao lại khóc như vậy? Thì ra là vì thương xót nỗi đau khổ của chúng sinh. Chiến tranh. Dịch bệnh. Mất mùa. Chiến tranh khiến chúng sinh tan cửa nát nhà, xác chết đầy đồng, máu chảy thành sông, dân tị nạn sống trôi giạt khắp nơi. Người chết vì dịch bệnh không thể đếm xuể, con người không có cách nào sống như bình thường. Đất nước đóng cửa biên giới, thành phố phong tỏa. Có chiến tranh, dịch bệnh thì tiếp theo là mất mùa. Nguồn năng lượng, lương thực, dân sinh đều bị ảnh hưởng. Hàng hóa không lưu thông, chuỗi cung ứng đã đứt rồi. Lạm phát. Nhân loại làm sao mà sống tiếp?

Địa Tạng Bồ Tát vì nỗi khổ của nhân loại mà đau lòng chảy nước mắt. Chiến tranh, dịch bệnh, mất mùa, số người chết gia tăng, địa ngục làm sao mà trống được? Còn việc siêu độ của tôi thì vĩnh viễn không có hồi kết thúc. Địa Tạng Bồ Tát khóc. Tôi (Lư Sư Tôn) cũng khóc. Nói tóm lại, chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói đều là nhân loại tự làm tự chịu. Siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp của tôi sao có thể dừng lại được, tôi cũng vô cùng cảm thán! Địa Tạng Bồ Tát khóc rồi! Tôi cũng khóc rồi!

19. Thái tử Shotoku

Trong lúc siêu độ, tôi và Địa Tạng Bồ Tát hợp nhất, khiến tôi từ trong đó mà đau buồn rơi nước mắt. Tôi đã hiểu ra đại nguyện và lòng từ bi của Địa Tạng Bồ Tát, nỗi âu sầu miên man và mong manh ấy cứ trở đi trở lại trong lòng tôi.

Địa Tạng Bồ Tát nói: ”Thái tử Shotoku thời đại Asuka.” [Thái tử Thánh Đức] Chính là mấy từ này đột ngột xuất hiện trong đầu tôi. Tôi nhảy dựng lên! Tôi có một nghi vấn: ”Thái tử Shotoku và tôi có quan hệ gì?” Tôi tự mình nói: ”Tôi từng chuyển thế tại Nhật Bản, nhưng hình như không có liên hệ gì với Thái tử Shotoku, tôi chưa bao giờ nhắc đến Thái tử Shotoku.”

Thái tử Shotoku là một nhân vật truyền kỳ của Nhật Bản. Sự ra đời của ông ấy đã có truyền kỳ rồi. Mẹ ông ấy mơ thấy một tăng nhân mặc áo cà sa màu vàng đến mượn bào thai, biến thành một ánh sáng đi vào trong bào thai, thế là sinh ra Thái tử Shotoku. Chính Thái tử Shotoku cũng tự nói rằng: “Ta là thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc chuyển thế.”

Thái tử Shotoku là người đầu tiên truyền Phật giáo Trung Quốc vào Nhật Bản, tức là tương đương với lão tổ sư. Vào thời đại của Thái tử Shotoku, ông ấy hoằng dương Phật giáo, là một nhà tôn giáo, cũng là một nhà cách mạng. Tiền giấy của Nhật Bản có chân dung của Thái tử Shotoku. Có một bức chân dung là tay cầm tích trượng, ông ấy cực kì giống với Địa Tạng Bồ Tát.

Lại có một thuyết rằng: Thái tử Shotoku có tư chất tự nhiên hơn người, mười người cùng đối thoại với ông ấy, ông ấy đều có thể ghi nhớ hết, hơn nữa còn đối đáp được.

Còn nữa, Thái tử Shotoku cho rằng kinh Pháp Hoa của Nhật Bản và kinh Pháp Hoa của Trung Quốc hơi khác nhau. Thái tử Shotoku ra lệnh cho người đến núi Nam Nhạc ở Trung Quốc để lấy kinh Pháp Hoa của Trung Quốc về, sau đó đối chiếu hai bản. Quả nhiên là có khác nhau. Đúng là sự linh nghiệm kì lạ.

Tôi (Lư Sư Tôn) có hai đệ tử đến từ San Francisco tên là Thuần Kiện và Y Phân. Họ là vợ chồng, là phần tử trí thức, là nhân tài về khoa học kỹ thuật cao. Thuần Kiện nói: ”Thái tử Shotoku và Lư Sư Tôn có tính liên hệ.” Tôi nói: ”Cụ thể là như thế nào?” Thuần Kiện nói: ”Thái tử Shotoku là thiền sư Huệ Tư chuyển thế, còn thiền sư Huệ Tư là sư phụ của Trí Giả đại sư.” (Là Nhị Tổ và Tam Tổ của Thiên Thai tông.) Thuần Kiện lại nói: ”Trong chú thích của một cuốn sách thời kỳ đầu, Lư Sư Tôn có nhắc đến một vị pháp sư tay cầm lư hương đón Lư Sư Tôn trở về Phật quốc tịnh thổ. Và vị pháp sư này là đệ tử của Lư Sư Tôn, cũng là Trí Giả đại sư.” Cho nên: ”Thiền sư Huệ Tư là sư phụ của Trí Giả đại sư.” ”Lư Sư Tôn là sư phụ của Trí Giả đại sư.” Như vậy thì: Kiếp trước của Lư Sư Tôn là thiền sư Huệ Tư. Thái tử Shotoku cũng tức là Lư Sư Tôn. Tôi nghe xong thì cười vang ha ha. Thái tử Shotoku, thiền sư Huệ Tư, Lư Sư Tôn. Ha ha ha! Chà! Tôi (Lư Sư Tôn) kém xa rồi! Hổ thẹn!

[Chú thích: điều ghi chú trên ở chương “Lư hương năm nghìn năm” trong cuốn văn tập số 92 của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn “Mảnh giấy hoa văn về thiền định”.]

20. Sắc thân ma

Tôi ngồi trên pháp tọa. Đột ngột có một cái đầu ma thò ra, cái cổ kéo căng ra rất dài khiến tôi nghĩ đến con hươu cao cổ. Bởi sự việc xảy ra đột ngột nên tôi giật thót mình. Cái đầu ma này không hoàn chỉnh: Bị nứt. Mặt mũi bầm dập. Biến dạng. Răng rơi ra, xiêu vẹo. Thiếu một cái tai. Rất nhiều vết máu.

Tôi hỏi Kim Giáp Thần: ”Gì đây? Các vị đưa ma bị tai nạn giao thông đến đây à?” Kim Giáp Thần đáp: ”Không phải, họ là nạn nhân của máy bay rơi. Có khoảng 50 người, nghe nói Lư Sư Tôn siêu độ nên họ tập hợp nhau đến đây.” Tôi mở to mắt ra nhìn thì giật nảy mình. Trước mắt tôi có hơn 50 người, có thể nói là linh thể máu thịt nát bấy, tứ chi không vẹn toàn, bị đứt đầu đứt chân, ruột xổ ra ngoài bụng, nhãn cầu rơi ra ngoài, lục phủ ngũ tạng không hoàn chỉnh.

Tôi hỏi: ”Kim Giáp Thần! Họ có thể đi Tây phương Cực Lạc thế giới sao?” Kim Giáp Thần đáp: ”Không được! Nhưng chúng tôi từ bi họ, hy vọng Lư Sư Tôn có thể hoàn trả cho họ một sắc thân ma đẹp đẽ.”

Sắc thân ma? Đây không phải là một danh từ mới, bởi vì ở thiên thượng giới có: Báo thân Phật. Sắc thân trời. Báo thân Phật là pháp thân Phật hiển hóa ra một thân tướng trang nghiêm. Còn sắc thân trời là thân tướng mà thiên nhân hiển hóa ra, ví dụ: Thân có ánh sáng. Có mùi thơm. Thiên y thanh tịnh, không nhiễm bẩn. (Một hạt bụi cũng không bám.) Xinh đẹp. Vĩnh viễn không già yếu. Hoa không héo tàn. (Đây là sắc thân của thiên nhân.)

Nhưng những linh hồn do máy bay rơi này thì không phải như vậy, toàn thân họ bẩn thỉu hôi thối, không hoàn chỉnh, ngũ quan không rõ ràng. Thật may! Lư Sư Tôn tôi biết Du già diễm khẩu, trong các vị Như Lai, có một vị là Diệu Sắc Thân Như Lai. Tôi và Diệu Sắc Thân Như Lai hợp nhất. Tôi kết thủ ấn của Diệu Sắc Thân Như Lai. Tôi niệm chú ngữ bí mật của Diệu Sắc Thân Như Lai. Tôi gia trì cho những hồn ma đó, tôi lần lượt gia trì, không ngờ có thể biến từng người một thành hình dạng ban đầu của họ. Đây không phải là phẫu thuật ngoại khoa. Mà là sắp xếp và tổ hợp lại thân thể, trả lại cho họ một sắc thân ma.

Tôi thật lòng thật sự nói với mọi người: Siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp này của tôi cũng có thể biến sắc thân ma rất xấu thành sắc thân ma xinh đẹp. Ma già tám, chín chục tuổi biến thành thiếu niên trẻ trung hai mươi tuổi, vĩnh viễn giữ được hình tượng xinh đẹp. Đó là sự biến hóa của sắc thân ma. Cho nên Thụy Quang, Phù Dung, Thiến Thiến, ba nàng ma thường trụ này vĩnh viễn xinh đẹp. Đây là nguyện lực của Diệu Sắc Thân Như Lai.

21. Hỏi đáp về sắc thân ma

Hỏi: ”Những ma mà Lư Sư Tôn nhìn thấy có thân tướng gì?” Đáp: ”Thật ra thân tướng không giống nhau, rất khó nói rõ.” Hỏi: ”Xin Lư Sư Tôn nói rõ một đôi điều được không?” Đáp: ”Được thôi! Tôi sẽ lấy ma mà tôi nhìn thấy trong siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp để nói rõ những gì tôi nhìn thấy.” Hỏi: ”Có giống như thấy vật chất thật không?” Đáp: ”Sắc thân ma không phải là vật chất thật, nói một cách nghiêm ngặt thì chỉ là một dạng quang và khí.” Hỏi: ”Quang và khí làm sao có thể nhìn thấy?” Đáp: ”Người bình thường không nhìn thấy quang và khí của ma, nhưng nếu là người có tu hành, tu đến khi có thể hóa quang hóa khí thì có thể nhìn thấy. Ngoài ra, khi con người sắp chết thì cũng có thể nhìn thấy.” Hỏi: ”Hành giả thế nào có thể nhìn thấy? Hóa quang hóa khí là ý gì?” Đáp: ”Một hành giả tu đến khi ý niệm không còn chướng ngại hoặc tu đến khi thân không còn chướng ngại. Thân hóa quang, ý hóa khí, đây chính là hóa quang hóa khí. Lúc này có thể nhìn thấy.” Hỏi: ”Chúng tôi không hiểu ý vô ngại, thân vô ngại, có thể lấy ví dụ không?” Đáp: ”Được thôi. Ý niệm vô ngại giống như nước sạch không ô nhiễm, tự có thể hiện lên trăng sáng. Thân không chướng ngại giống như gương không bụi, tự có thể soi được vạn vật.” Hỏi: ”Vậy thì sắc thân ma là như thế nào?” Đáp: ”Chủng loại khác nhau.” Hỏi: ”Xin Lư Sư Tôn cũng lấy ví dụ.” Đáp: ”Pháp thân của Phật như hư không, thân của thiên nhân như cầu vồng, sắc thân của ma như tâm của họ.” Hỏi: ”Sắc thân ma xuất hiện giống như tâm niệm của họ, phải không?” Đáp: ”Không sai chút nào.” (Sắc thân ma chính là ý sinh thân.) Hỏi: ”Xin giải thích rõ về tâm niệm?” Đáp: ”Tà tâm tán loạn thành tam ác đạo. Tự mình đọa lạc xuống biển sinh tử.

Nghĩ cha nghĩ mẹ thì hóa hài nhi Nghĩ tham biến hiện ngạ quỷ địa ngục Nghĩ sân hóa thành rắn rết hổ báo Nghĩ ngu tất cả không rời hắc nghiệp.

Thân mệnh dao động như bong bóng nước. Ở trong đó thường có tướng hoại tử.

Chính niệm chính tri thanh tịnh tư duy. Tu hành giải thoát xem là tâm yếu.

Thân khẩu ý niệm duy có thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn thành tựu bồ đề.”

22. Pháp tu trì sắc thân trời

Trong bản văn trước chúng ta nhắc đến sắc thân ma, người thông minh sẽ liên tưởng đến sắc thân người, sắc thân trời và sắc thân Phật. Tôi nói: ”Sắc thân ma chính là ý sinh thân.” Tôi còn nói: ”Một hành giả có thể tu sắc thân trời.”

Trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, tôi từng đề cập đến tinh yếu tu trì của sắc thân trời. Tôi nói: Chỉ có tu sắc thân trời, không tu Phật tính thì không thể thành Phật. Cho nên: Cần tu sắc thân trời cộng thêm tu Phật tính thì mới có thể thành Phật. Luận sư Tịch Tĩnh cho rằng: Sắc thân người là bất tịnh. Để đối trị bất tịnh mà tu thiên du già, thiên du già là sắc thân trời. Ngoại tu là phúc đức tư lương. Nội tu là quang khí.

Vì sao nhất định phải tu sắc thân trời? Bởi vì Mật giáo cho rằng trực tiếp tu Phật tính (pháp thân Phật) không phải là một việc dễ dàng. Cho nên, sắc thân trời và Phật tính cùng tu, như vậy càng dễ hơn, cũng có thể càng nhanh hơn. Sắc thân trời từ định niệm mà có được. Pháp thân Phật cũng từ định niệm mà có được. Mật giáo là như vậy, cho nên mới có khác biệt so với Hiển giáo.

Đại sư Tsongkhapa nói: Sắc thân trời và pháp thân Phật có thể song tu, như vậy càng dễ thành tựu. Mật giáo là gia trì thành tựu. Dùng chú. Dùng ấn. Dùng niệm. (quán tưởng) Tôi đặc biệt một lần nữa trình bày về pháp tu trì sắc thân trời trong cuốn sách này. Xin hãy trân trọng.

“Pháp tướng bảo điển”

Pháp du già sắc thân trời

Thiên du già là thân trời của tu hành giả, khi thành tựu, tương lai có thể thăng thiên, sau đó tu tính Không ắt có thể thành Phật. Tu pháp như sau:

1. Vào buổi sáng sớm khi mặt trời sắp mọc nhưng chưa lên hết đường chân trời, hành giả lựa chọn ở ngoài nhà, hoặc ở trong nhà, quay mặt về cửa sổ nơi mặt trời mọc để tu pháp.

2. Quán tưởng trong hư không có mây ngũ sắc hạ xuống trước mặt, che kín mặt hành giả, hành giả hít vào mây ngũ sắc vào trong thân thể mình, mỗi lần một màu (đỏ vàng trắng xanh lục đen).

3. Lại quán tưởng hư không phía trên đỉnh đầu hành giả có mây ngũ sắc, trong đó có cung điện hình chóp nhọn, cửa cung mở ra, bên trong có thiên thần đang ngồi, người nam có thể tu thiên thần, người nữ có thể tu thiên nữ, hành giả cũng có thể tu Bổn tôn của chính mình.

4. Quán tưởng tỉ mỉ tướng mạo trang nghiêm thù thắng tuyệt diệu của thiên thần, thiên nữ. Ví dụ: đội mũ miện, hoa lụa, thiên y, váy xếp, lông mày như trăng khuyết, mắt màu xanh tím như sao trời, mũi to, tai dài, miệng vuông (thiên nữ thì miệng nhỏ như quả anh đào), trên người có vòng kim cương, châu báu, chuỗi ngọc. Hành giả quán tưởng thân Phật thì có búi tóc, nhục kế, các tướng trang nghiêm của Như Lai.

5. Lại hít vào thở ra, tổng cộng thở ra năm hơi khí, mỗi lần một màu sắc (đỏ vàng trắng xanh lục đen), khi thở ra thì quán tưởng ánh sáng bay về phía thiên thần hoặc thiên nữ trong cung điện để quán đảnh cho họ. Quán tưởng khí ngũ sắc phải cực kì sáng chói rực rỡ, việc này là trả khí ngũ sắc về chư thiên.

6. Hành giả quán tưởng thiên thần hoặc thiên nữ phải hết sức rõ ràng, có thể quán tưởng một vị, rồi quán tưởng vị thứ hai, thậm chí theo thứ tự quán tưởng nghìn vị.

7. Làm pháp quán tưởng như trên thật rõ ràng, sau đó niệm chú gia trì “Om hum pan ho seh” [Ôm hùm pan hô sê] 108 biến, sau đó nhập định. Khi hành giả quán tưởng các thiên thần hoặc thiên nữ, tu đến khi hoàn toàn vững chắc rõ ràng, có thể hiện ra rõ nét trong thiền định thì tức là tương ứng, trở thành thiên ngoại hóa thân của hành giả, tương lai hành giả quán tưởng vị này, có thể thỉnh vị đó trở thành phân thân của hành giả, trợ giúp hành giả.

Xin tham khảo cuốn sách “Mật giáo trí huệ kiếm”.

23. Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu hạ giáng

Có một buổi tối, tôi ngồi trên pháp tọa. Tôi tu trì pháp siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp cho đến đoạn trì chú Văn Thù vãng sinh. Trong hư không xuất hiện Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu cùng với chú âm từ từ giáng xuống. ”Hum mama humni soha.” (chú âm) [Hùm ma-ma hùm-ni sô-ha] Tay ngài cầm chiếc ô trắng lớn. Thân màu trắng, phóng tỏa đại nhật quang. Tướng mạo giống như thiên nữ mười sáu tuổi. Quốc sắc thiên hương. Ngài chiếu ánh hào quang của chiếc ô trắng lớn che phủ lấy phía trên đầu và xung quanh tôi, giống như là xung quanh tôi đều được hào quang của chiếc ô trắng che chắn.

Tôi hỏi: ”Có chuyện gì sao?” Phật Mẫu nói: ”Đừng hỏi, đợi một lúc rồi ngài tự mình nhìn xem.” Không lâu sau. Bầu trời xuất hiện một bầy ác quỷ, có nam có nữ, nhe nanh múa vuốt lao đến tấn công tôi. Nhưng bầy ác quỷ này không có cách nào áp sát tôi được, bởi vì hào quang của chiếc ô trắng đã che chắn tôi, tôi ngồi yên bất động. Ác quỷ dùng cung tên bắn vào tôi, nhưng tên bay đến chạm vào ánh hào quang thì gãy và rơi xuống. Chúng lại dùng dao dĩa xiên tôi nhưng không xiên được vào, dao đụng vào ánh hào quang thì tan chảy ra. Dĩa nhọn cũng như vậy. Bầy ác quỷ này liền lũ lượt rời đi.

Tiếp theo, lại có một bầy la sát kéo đến, mặt xanh nanh vàng, bọn chúng có thần thông, khè lửa để đốt chiếc ô trắng, kết quả là chiếc ô trắng chẳng hề sợ lửa mà còn đốt ngược lại, đốt cho lũ la sát này cháy xèo xèo. Bầy la sát này thấy không có biện pháp nào thì cũng lại tản đi.

Cuối cùng có một vị Xà Thủ Không Hành Mẫu dũng mãnh lãnh đạo rất nhiều rắn độc phun ra khói độc bao vây lấy Lư Thắng Ngạn tôi từ bốn phương tám hướng. Đó là một cảnh tượng hung ác vô cùng đáng sợ. Chiếc ô trắng lớn đều bám đầy nghìn nghìn vạn vạn con rắn. Chúng nhe nanh há mồm nhổ ra thạch tín. Phun ra khói độc, trong chốc lát trời đất mù mịt, nhật nguyệt không còn ánh sáng, trên trời có tiếng sấm vang rền. Đùng đoàng! Đùng đoàng! Vừa chớp lóe, vừa sấm đánh.

Tôi trông thấy thật quá khủng khiếp, nếu như có một con rắn độc lọt vào thì tôi sẽ trúng độc chết chắc. Thật may, ánh hào quang của chiếc ô trắng lớn đã che hết, bất kì khói độc nào cũng chỉ có thể ở bên ngoài, không thể lọt vào.

Cuối cùng, Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu trì tụng chú phản hồi: “Soha humni mama hum.” [Sô-ha hùm-ni ma-ma hùm] Một tiếng sấm rền. Xà Thủ Không Hành Mẫu đứt ngay cái đầu rắn, ngã vào trong vũng máu. Nghìn nghìn vạn vạn con rắn cũng đứt thành từng đoạn. Không lâu sau, tất cả lại yên ắng. Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu thu ô về.

Tôi hỏi: ”Vì sao có sự việc này?” Phật Mẫu nói: ”Có một người là pháp sư Áo Trại Nhĩ, vì ghen tỵ với đại danh của ngài, pháp sư này biết mật chú pháp thuật, đã thúc chú thuật hung ác đến lấy mạng ngài. Bây giờ hắn đã thất bại, tin rằng hắn đã bị trọng thương không dám đến nữa.” Tôi cảm tạ Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu. Phật Mẫu nói: ”Không cần cảm ơn! Tôi là do Phật Đà phái đến, Phật Đà ủng hộ việc siêu độ của ngài đó.”

24. Hóa thân bên ngoài thân của Lư Sư Tôn

Có một buổi đêm khoảng 3 giờ. Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương tỉnh dậy, có hơi khó ngủ nên khoác áo ngồi dậy. Bà ấy đi lại trong nhà, cuối cùng thì đi đến phòng tôi, bà ấy vừa nhìn thì sửng sốt. 3 giờ sáng mà tôi vẫn ngồi thẳng đơ, ngồi trên pháp tọa. Không phải là bà ấy sửng sốt vì điều này, mà bởi vì bà ấy nhìn thấy: Không chỉ có một Lư Sư Tôn. Mà là có mười Lư Sư Tôn, mười Lư Sư Tôn ngồi trên mười pháp tọa. Mười Lư Sư Tôn này đang sờ đầu cho bầy ma đang xếp hàng.

Càng kì lạ hơn là: Phía trên đỉnh đầu của Lư Sư Tôn có một vị A Di Đà Phật ngồi đó, vô lượng quang của A Di Đà Phật chiếu khắp thập phương, hình thành nên cảnh tượng ánh sáng chiếu lẫn nhau cực kì lộng lẫy và rực rỡ. Nhìn kĩ hơn một chút thì bầy ma đang được sờ đầu này, hóa ra phần đông là ma già, ma ông ma bà, sau khi được sờ đầu thì hóa thành soái ca mỹ nữ. Biến thành trẻ! Biến thành đẹp! Ai bị khuyết tật không vẹn toàn thì thành có tay chân đầy đủ khỏe mạnh. Không có đầu thì thành có đầu. Đặc biệt là sau khi được vô lượng quang chiếu đến, tất cả bầy ma được thân tâm thanh tịnh, bầy ma đạt đến cảnh giới tâm quang minh, trên người tự nhiên xuất hiện ánh sáng.

Thế những hài nhi còn nhỏ tuổi sau khi được sờ đầu thì sẽ thế nào? Những hài nhi ban đầu khi vừa được sờ đầu thì trên lưng dường như có đôi cánh tàng hình, đột nhiên bay lên không trung, giống như chim đại bàng bay lượn trong không trung. Có người mang cả thú cưng đến để sờ đầu. Lư Sư Tôn cũng không từ chối. Vừa sờ đầu một cái thì thú cưng hóa thành hình người. Tóm lại là biến hóa vô cùng, thần thông thị hiện cực kì nhiều.

Thượng sư Liên Hương còn nhìn thấy: Khi Lư Sư Tôn đứng dậy thì hiện lên kim thân cao trượng sáu, đầu chạm đến trần nhà, còn phải hơi cúi xuống. Tay Lư Sư Tôn chỉ vào một bức tranh, bức tranh từ trên tường rơi xuống đất, sau đó lại từ mặt đất bay lên tường, treo ngay ngắn đẹp đẽ. Lại nhìn thấy giấy vệ sinh bị xé thành từng đoạn từng đoạn, mỗi một đoạn lại biến thành một cô gái đẹp, vừa xoay tròn vừa khiêu vũ. Giấy vệ sinh biến thành mỹ nữ khiêu vũ. Nhảy xong thì lại biến thành giấy vệ sinh treo trên tường.

Bà ấy lại nhìn thấy: Nam Sơn Nhã Xá hóa thành hoàng cung. Trong hoàng cung tụ tập rất nhiều người, rất nhiều người. Lư Sư Tôn lại thuyết pháp cho mọi người. Trong lúc nghe pháp, có hai người cãi nhau, cãi càng lúc càng to tiếng, ảnh hưởng đến việc thuyết pháp. Lư Sư Tôn cũng không nói gì. Chỉ dùng nước vẩy ra. Hai người đó hóa thành hai con lừa, kêu “oe oe”. Những người nghe pháp đều cười vang. Sau đó, nhờ có rất nhiều người cầu xin nên Lư Sư Tôn đã biến hai người đó về lại hình dáng ban đầu. Thượng sư Liên Hương còn nhìn thấy trong nhà có rãnh nước, trong rãnh nước còn có cá đang bơi. ……

Lư Sư Tôn ngoài hóa thân bên ngoài thân ra còn có rất nhiều thần thông bất khả tư nghì, kể ra cũng không hết.

25. Nói chuyện với Tiêu Diện Quỷ Vương

Lúc còn nhỏ, tôi sống ở Đại Cảng, Cao Hùng, gần chợ Phố Thái. (Địa chỉ cũ là: số 77 ngã tư đường Lâm Sâm thành phố Cao Hùng.)

Mỗi khi đến tết Trung Nguyên, ngày 15 tháng 7 âm lịch, chợ Phố Thái lại có đại pháp hội phổ độ, cực kì náo nhiệt. Khi còn nhỏ, chúng tôi đi xem pháp sư siêu độ. Cúng phẩm đa dạng đủ mẫu mã màu sắc, giống như một con rồng dài. (Bàn cúng rất dài.) Ở phía trước bàn thờ có đặt một vị thần minh cuộn bằng giấy, thân màu đen, mặt phẫn nộ, lưỡi thè dài, trên lưng cắm đầy cờ. Người ta nói với chúng tôi: ”Ngài là Tiêu Diện Quỷ Vương!” [Quỷ Vương Mặt Than] Trên đỉnh đầu của Tiêu Diện Quỷ Vương còn cài một vị Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ, nghe nói, Tiêu Diện Quỷ Vương là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa ra, chuyên môn đến giám sát việc siêu độ. Cho nên, Tiêu Diện Quỷ Vương còn gọi là Tiêu Diện Đại Sĩ.

Trong các buổi phổ độ chúc mừng tết Trung Nguyên không thể thiếu được Tiêu Diện Đại Sĩ. Ngài bảo vệ đàn tràng. Bảo vệ linh hồn. Quản giám linh hồn.

Có một buổi tối, Tiêu Diện Quỷ Vương hiển hiện trước mặt tôi, do ấn tượng lúc còn nhỏ, tôi liền gọi: ”Tiêu Diện Quỷ Vương!” Tôi hỏi: ”Tiêu Diện Quỷ Vương từ đâu đến vậy?” Quỷ Vương đáp: ”Tôi có mặt ở khắp nơi, đến đi tùy ý.” Tôi hỏi: ”Hôm nay vì sao mà hiển hiện?” Quỷ Vương đáp: ”Nơi nào có phổ độ thì tôi đều ở đó.” Tôi hỏi: ”Ngài thường ở chỗ tôi đây à?” Quỷ Vương đáp: ”Không phải. Hôm nay tôi mới đến.” Tôi hỏi: ”Vì sao hôm nay mới đến?” Quỷ Vương đáp: ”Phật bằng đất không qua được nước, Phật bằng gỗ không qua được lửa, Phật bằng vàng không qua được lò nung. Còn như Lư Sư Tôn là Chân Phật, không có chuyện không qua được. Tiêu Diện Quỷ Vương tôi đến hay không đến cũng như nhau.” Tôi hỏi: ”Tôi cảm thấy lời của ngài có thiền cơ!” Quỷ Vương đáp: ”Ngài ngồi ghế Bồ Tát, tự có bách linh trợ giúp, tất cả tự nhiên như thế. Độ tất cả u linh, chỉ búng ngón tay một cái, đây không phải là đàn tràng phổ độ bình thường.”

Tôi hỏi: ”Tôi có phải bày cúng phẩm không?” (Tôi nhớ đến hồi nhỏ.) Quỷ Vương đáp: ”Tất cả vô tâm, nhất thời đầy khắp.” Tôi hỏi: ”Tôi nên niệm kinh gì?” Quỷ Vương đáp: ”Chính Pháp Nhãn Tạng, ắt thấy rõ ràng.” Tôi hỏi: ”Tôi có cần phải cúng Tiêu Diện Quỷ Vương không?” Quỷ Vương đáp: ”Chỗ người ta ở tôi không ở, chỗ người ta đi tôi không đi. Ở chỗ Lư Sư Tôn, chân tướng vô hình.” Tôi nói: ”Cảm tạ Quỷ Vương dạy bảo!” Quỷ Vương nói: ”Đêm tĩnh trăng sáng, nước trong cá hiện, tôi cũng đi đây!” Quỷ Vương hóa hiện Quan Thế Âm Bồ Tát đi vào hư không.

26. Một nghìn cánh tay

Buổi tối hôm đó, tôi thật sự rất rất mệt, cũng không biết là có chuyện gì mà tôi cảm thấy rất buồn ngủ. Tôi ăn một chút đồ ăn. Uống một chút nước. Sau đó đánh răng rửa mặt. Khoảng 2 giờ đêm, tôi lên pháp tọa, chuẩn bị làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp.

Trước tiên tôi phụng thỉnh Hổ Đầu Kim Cang gia trì cho tôi. Tiếp theo phụng thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu gia trì cho tôi. Sau đó, tôi tự hóa thành Bổn tôn, chuyển thành A Di Đà Phật. Tay trái tôi kết ấn ban nguyện, thả ra chiếc thuyền pháp đầu tiên. Tiếp theo, một hóa mười, mười hóa trăm, trăm hóa nghìn, nghìn chiếc thuyền pháp xuất hiện phía trên biển lớn. Diêu Trì Kim Mẫu dùng cờ lệnh triệu thỉnh các linh hồn lần lượt lên thuyền pháp. Thuyền pháp chật kín người. Cảnh tượng rất long trọng.

A Di Đà Phật hóa hiện thành vô lượng A Di Đà Phật, phóng vô lượng quang chiếu đến các linh hồn trên thuyền pháp, sắc lệnh mọi linh hồn thân tâm thanh tịnh. Tôi diễn hóa đến đây thì nhắm hai mắt lại, bất giác ý niệm không thể nào tập trung quán tưởng được. Cũng quên luôn cả thủ ấn. Tiếng trì chú cũng im bặt. Sau đó, tôi không biết thân tâm tôi đã đi đâu, hoàn toàn mất đi năng lực quan sát. (Tôi tự giễu mình là nhập tứ ma địa.) Tôi nhập vào trạng thái vô tri giác không có biên giới. Ngủ say. Không mơ. Hồn bay phách lạc. Mênh mông mù mịt. ……

Đợi đến khi tôi tỉnh dậy, tôi mở to mắt, nhìn đồng hồ, đã là 5 giờ 30 phút sáng rồi. Trời ơi! Tôi phải làm xong buổi siêu độ hôm nay. Nhưng tôi vẫn còn rất buồn ngủ. Muốn miễn cưỡng mở mắt ra, nhưng quá buồn ngủ nên da mắt không nghe lời, cứ nhắm chặt lại. Tinh thần không sao tập trung được. Cũng không nhớ ra nghi quỹ đã đến đoạn nào rồi. Không giơ tay lên được. Trì chú thì cũng thất điên bát đảo. Tôi nghĩ, ngoài việc lên giường đi ngủ ra thì tôi chẳng còn cách nào tiếp tục diễn hóa siêu độ nữa. Tôi mặc kệ tình hình ra sao, miễn cưỡng lên giường vùi đầu đi ngủ. Nhưng tôi nghe thấy tiếng kêu gào của đám u linh.

Tám giờ! Tôi mở to mắt, tôi trông thấy một cảnh tượng kì lạ: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát ở trước mặt tôi. Nghìn cánh tay của ngài, mỗi cánh tay nâng một chiếc thuyền pháp, tổng cộng là một nghìn cánh tay nâng một nghìn chiếc thuyền pháp. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát phải đổi tên thành Thiên Thủ Thiên Thuyền Quan Thế Âm Bồ Tát rồi. Bồ Tát nói: ”Lư Sư Tôn! Ngài mệt rồi!” Tôi rất hổ thẹn. Tôi nói: ”Làm phiền Bồ Tát, nghìn chiếc thuyền pháp này phải làm sao đây?” Bồ Tát nói: ”Tối nay siêu độ một thể luôn! Siêu độ hai nghìn chiếc thuyền pháp!” Tôi khấu đầu tạ ơn Bồ Tát.

27. Độ hóa người phỉ báng tôi

Tôi ngồi trên pháp tọa. Phía xa xa, tôi nhìn thấy một hồn ma đang đi về phía tôi, tôi nhìn rõ được hắn rồi thì trong lòng rúng động: ”Ông là Trịnh?” Ông ấy gật đầu nói: ”Tôi là Nghiêu Trung đây.” Tôi hỏi: ”Ông là người phỉ báng tôi ở trên mạng, ông đúng là Trịnh Nghiêu Trung sao?” Ông ta nói: ”Thật sự không dối gạt được.” Tôi hỏi: ”Vì sao ông lại phê phán tôi?” Ông ta nói: ”Tôi cũng không biết. Tôi viết bài văn về khai ngộ của mình nhưng ngài không coi trọng!” Tôi hỏi: ”Nghe nói ông lấy ảnh của tôi in vào bên dưới bồn cầu, ngày ngày đi đại tiện tiểu tiện lên nó đúng không?” Ông ta nói: ”Đúng vậy.”

Tôi hỏi: ”Vì sao như vậy?” Ông ta nói: ”Cho bõ tức mà thôi!” Tôi hỏi: ”Sau khi ông chết, ông đi đâu?” Ông ta đáp: ”Đi tới Sở sám hối.” Tôi hỏi: ”Âm gian cũng có Sở sám hối sao?” Ông ta nói; ”Đúng vậy. Cái gì nhân gian có thì âm gian cũng có, điểm này cũng không có gì lạ. Tôi kết thúc khóa sám hối thì đến chỗ của ngài.” Tôi hỏi: ”Nghiệp báo của ông đã hết ư?” Ông ta nói: ”Đúng vậy. Ngũ trọc ác thế thời mạt pháp, giáo pháp thâm sâu khó nghe được, Thượng sư đạt chất lượng cũng rất ít, mà đệ tử có đủ lòng tin thì càng hiếm có. Điều mà tôi phạm phải là lúc thì tin lúc thì ngờ.”

Tôi hỏi: ”Thế còn bây giờ?” Ông ta nói: ”Bây giờ thì tin rồi!” Tôi hỏi: ”Vì sao bây giờ tin rồi?” Ông ta nói: ”Tôi đã nhìn thấy sự chuyên cần và tinh tấn của ngài.” Tôi hỏi: ”Vì sao ông biết tôi tinh tấn?” Ông ta nói: ”Bởi vì thời kỳ dịch bệnh, ngài đã làm siêu độ không gián đoạn. Ngài là vị hộ chủ, ngài là Bồ Tát, ngài là Như Lai tiếp dẫn, ngài là chủ Chân Ngôn Giới Bí Mật Chủ.”

Tôi hỏi: ”Cho nên ông mới đến đây?” Ông ta nói: ”Đúng vậy. Vào thời đại này, hiếm có thầy thành tựu, chưa từng thấy có người hiển đại thần thông như thế này, sau này rất khó xuất hiện lại, vì thế tôi sám hối và cảm ơn sâu sắc.” Tôi nói: ”Cảm ơn ông! Trịnh Nghiêu Trung.” Ông ta nói: ”Lần này tôi nói thật đó.” Tôi nói: ”Xin mời lên thuyền pháp!” Trịnh Nghiêu Trung đã đi đến Phật quốc tịnh thổ rồi.

28. Tình yêu lớn thuần khiết

Có một người đến Seattle. Người này sống ở đây một khoảng thời gian. Rồi giống như một cơn gió, người đó rời đi, để lại cho tôi một bài văn.

Bài văn như sau: Mùa xuân đến rồi! Năm ngoái, vào tầm này, con hạ quyết tâm đến hỏi việc. Năm nay, vào tầm này, con đã đến rồi, là bởi vì Thầy, bởi vì yêu! Mỗi một chúng sinh xa gần đều được Thầy yêu mến. Thầy vì chúng sinh mà không ngừng ngày đêm vất vả Hỏi chuyện, gia trì, tu pháp, viết sách, vẽ tranh, chỉ vì cứu độ. Nếu như có thể đi hết trời nam đất bắc, con tin rằng, Thầy cũng nguyện bôn ba như thế, tuyệt đối chẳng lười nhác buông lơi. Bởi vì, trong tim Thầy có tình yêu lớn. Tình yêu vô ngã đối với chúng sinh, con hiểu. Thầy sẽ không cảm thấy phiền, tâm Thầy từ bi. Điều này, làm phong phú cuộc đời của Thầy. Điều này, khiến cuộc đời của Thầy càng có ý nghĩa. Trên tâm linh, con sẽ vĩnh viễn ủng hộ Thầy. Mặc dù đau lòng khi thấy Thầy vất vả.

……

Bởi vì Thầy, bởi vì yêu! Giờ đây, con đã đến rồi. Hoa cỏ gặp mùa xuân, khắp nơi tràn trề nhựa sống. Cảnh tượng đó đâu thể nào che đậy. Mùa xuân, là sinh sôi nảy nở! Tình yêu của chúng ta, lúc này mở ra trong sáng. Chúng ta khát khao nhìn thấy nhau, phải không? Trái tim chúng ta, chân thành! Cơ duyên, phải trân trọng! Dưới đây là suy nghĩ kì lạ của con Con không lưu tâm đến những suy nghĩ này. Cầm bút lên! Viết tặng Thầy: Hy vọng xiết bao, Được cầm tay Thầy.

Chúng ta đi nghe âm thanh của dòng suối nhỏ, Chúng ta đi ngắm lũ cá nhỏ tự do bên bờ sông, Chúng ta đi ngửi không khí thơm ngọt trong khu rừng.

Chưa hết, khí hậu Washington rất thích hợp cho sự sinh trưởng của các loại dâu, khắp các đường hầm đều có các loại dâu dại ăn được. Cảm kích tấm lòng từ ái của ông trời biết bao, giữa khu rừng này, quả dại được chính khí của trời đất hun đúc, có thể bồi dưỡng thân tâm, con đi hái quả để cúng dường Phật Bồ Tát, nuôi dưỡng Thầy và con.

Đi đã lâu rồi, đã mệt hay chưa? Chúng ta ngồi xuống, quay mặt ra dòng suối, lưng dựa vào tảng đá lớn. Chú âm của tiếng suối không ngừng hát ca… Những tế bào, dịch thể, tinh khí thần, v.v… trong thân tâm chúng ta cũng chảy theo dòng nước tươi mát… thật thoải mái… chẳng nghĩ gì cả… Thật lâu…

Gió xuân không lạnh không nóng thổi lướt qua… Ánh mặt trời ấm áp chiếu qua cành cây kẽ lá, chẳng ngờ chúng ta lại ngủ thiếp đi! Không biết, đây là chốn nào. Không biết, thân ở nơi nào. Không biết, là giờ giấc nào. Chẳng nghĩ ngợi gì cả. Ngủ thật ngon thôi… Lúc này, tứ ma địa này chính là tam ma địa chăng? Lẽ nào không phải sao? Khi nào Thầy đã tỉnh rồi! Thầy nhận ra mình đang ngồi, lưng dựa vào tảng đá lớn. Còn con nghiêng nghiêng ngả vào trong lòng Thầy, ngủ say sưa, giống như một baby [em bé]. Thầy hốt hoảng, hỏi mấy giờ rồi? Con bị Thầy đánh thức!… Trong suy nghĩ lạ lùng, chuyến dạo chơi ngắn ngủi một buổi chiều mùa xuân, thật đẹp đẽ mát lành!

29. Phổ Độ Công giáng lâm

Tôi ngồi trên pháp tọa. Trước mắt tôi xuất hiện ánh sáng kim tuyến, từng tia từng sợi, ánh sáng kim tuyến này rung rung, sau đó trở thành một lưới ánh sáng hình tròn. Lưới ánh sáng này tựa như vòng ánh sáng phía sau lưng Phật Bồ Tát. Theo như tôi biết, như thế này nhất định là có cao linh giáng lâm.

Tôi đặc biệt chú ý đến trung tâm của vòng ánh sáng, bởi vì thông thường cao linh sẽ ngồi ở chính giữa vầng hào quang. (Tình huống này tương tự như ánh sáng bát nhã, trung tâm của ánh sáng bát nhã có đàn thành, và ở trung tâm của đàn thành có Bổn tôn ngồi.) Tôi nhìn thấy một vị thần màu đen nào đó. Mặt đen thui. (như Bao Công) Mắt như đồng. (Mở rất to, mắt không nhắm lại.) Thân cao lớn lực lưỡng. Quần áo giống như quan phục, là quan phục thời cổ đại. Tôi vừa nhìn thì ngây người ra! Bởi vì tôi không nhận ra ngài là thần thánh phương nào. Tôi hỏi: ”Từ nơi nào đến?” Ngài đáp: ”Đông Nhạc.”

A! Tôi biết rồi, đây là Đông Nhạc Đại Đế, là thủ tọa ở âm gian. Địa Tạng Bồ Tát là giáo chủ của âm gian, Đông Nhạc Đại Đế cũng giống như “tổng giám đốc”. Đông Nhạc Đại Đế chưởng quản: Nhất điện — Tần Quảng Vương. Nhị điện — Sở Giang Vương. Tam điện — Tống Đế Vương. Tứ điện — Ngũ Quan Vương. Ngũ điện — Diêm La Vương. Lục điện — Biện Thành Vương. Thất điện — Thái Sơn Vương. Bát điện — Đô Thị Vương. Cửu điện — Bình Đẳng Vương. Thập điện — Chuyển Luân Vương.

Tôi hỏi: ”Ngài là vị vua nào?” Ngài đáp: ”Tôi ở Phổ Độ ty của Đông Nhạc Đại Đế, tôi là Phổ Độ Công.” Phổ Độ Công ư, tôi chưa từng nghe tới. Ngài giải thích: ”Lần trước Tiêu Diện Đại Sĩ đã từng đến chỗ của Lư Sư Tôn, đã không ngớt lời ca ngợi, cho nên bảo tôi cũng đến một chuyến.” Ngài nói: ”Phổ độ của Lư Sư Tôn không giống bình thường, mà là tiếp dẫn các u linh vãng sinh Phật quốc tịnh thổ. Nguyện vọng này có công đức rất lớn, tôi đặc biệt đến để tán dương đức hạnh của ngài.” Tôi nói: ”Theo như tôi lĩnh ngộ thì thực không có công đức. Tất cả hành pháp như mộng như huyễn. Tôi chỉ là trong cuộc đời mình làm bổn phận của mình thôi. Không đáng được mọi người sùng bái, tôi hiểu khổ lạc vô thường, vinh nhục vô thường, được mất vô thường, thân tâm vô thường.”

Tôi nói: ”Tất cả tướng hư huyễn Không có cái thường hằng Tự tính vốn là không Chẳng cần phải ca ngợi.”

Phổ Độ Công nghe xong nói: ”Thiện tai! Cái gọi là công đức chính là không có công đức, vì không có công đức mới là công đức. Hiểu rồi!” - Phổ Độ Công hướng về tôi chắp tay lại. Tôi nói: ”Đây là pháp cú của kinh Kim Cang.” Phổ Độ Công nói: ”Lư Sư Tôn! Ngài giảng kinh Kim Cang, chúng tôi rất tán thưởng. Nói ra điều người khác không nói, càng thâm nhập, càng sâu sắc, càng thấu triệt.” Tôi nói: ”Kinh Kim Cang vô giá mà con người không hiểu, thì biết đến cũng có được gì. Đáng tiếc cho phàm phu sống uổng mấy chục năm.” Phổ Độ Công hỏi: ”Lư Sư Tôn nói ý nghĩa chính của kinh Kim Cang nằm ở đâu?” Tôi đáp: ”Thọ trì.” Phổ Độ Công hỏi: ”Thế nào là thọ? Thế nào là trì?” Tôi đáp: ”Thọ là tiếp thu, trì là thực tiễn.” Phổ Độ Công hỏi: ”Thực tiễn ra sao?” Tôi đáp: ”Thực tiễn pháp vô ngã, lập tức phát bồ đề tâm.” Phổ Độ Công hỏi: ”Pháp vô ngã làm thế nào để thực tiễn bồ đề tâm?” Tôi đáp: ”Trong kho tàng vô tận có vô tận, tất cả trân bảo tôi có hết, tôi đặc biệt đến để cứu giúp người bần cùng, tránh cho họ phải lục đạo luân hồi.” Phổ Độ Công hỏi: ”Đây chẳng phải là cảnh giới có sao?” Tôi đáp: ”Có trước không sau. Không - Sắc song vận.” Phổ Độ Công hỏi: ”Ai là người bần cùng?” Tôi đáp: ”Thực không có người bần cùng, chỉ là con người chưa thức tỉnh.” Phổ Độ Công đại ngộ.

30. Một tiếng sấm rền

Tôi ngồi trên pháp tọa. Tôi trì tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ: “Om benza pema hum.” [Ôm pê-cha pê-ma hùm] (3 biến) Tôi nói: ”Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là hóa thân của A Di Đà Phật.” Nói xong, trong hư không vang lên một tiếng sấm rền.

Ở bên ngoài: Trời đêm không mây. Trăng treo trên cao sáng vằng vặc. Tất cả tịch tĩnh. Sao lại có tiếng sấm nhỉ? Tôi nói: ”Đó là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, đến trước pháp tọa của Lư Sư Tôn tôi.” Đến để làm gì? Ngài đến để báo hiệu. Ngài muốn tôi cứu độ một người, bởi vì tư tưởng của người đó đã đi chệch rồi, phải mau chóng cứu độ. (Người đó nhập vào ngoan không, bám chấp vào chấp không.) Tôi nói: ”Được!”

Ngày hôm sau, có đệ tử Singapore hỏi: ”Lục Tổ Huệ Năng nói: không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Phật giáo thông thường vẫn dạy chúng ta làm mọi việc thiện, việc ác không làm, như thế mới chính xác, vì sao cái thiện cũng không nghĩ chứ?” Tôi đáp: ”Lục Tổ Huệ Năng muốn chúng ta có thể dừng nghĩ, bởi vì dừng nghĩ mới có thể tịch tĩnh, mới có thể bất động.” ”Không can hệ gì tới thiện ác, sau khi dừng nghĩ mới có thể đạt đến tính Không.” Tôi thường nói, dòng chảy pháp của vũ trụ dung nhập vào thân tâm của chính mình. Thân tâm thanh tịnh thì có thể hiển phát Phật tính. Bạn là Bổn tôn. Bạn là Như Lai. Khi dừng nghĩ, không nghĩ thiện, không nghĩ ác. (chân đế của Lục Tổ)

Đệ tử Singapore nói: ”Kinh Kim Cang Lư Sư Tôn chuyên giảng về Không, Không tức là cái gì cũng không có.” Đệ tử Singapore hỏi: ”Làm thiện là không, làm ác cũng là không, hơn nữa còn hoàn toàn không liên quan. Vậy thì nhân quả cũng là không, chúng ta làm ác cũng là không liên quan. Cho nên có thể làm ác đúng không?” Tôi đáp: ”Kinh Kim Cang là trí huệ của Không. Nhân gian là huyễn, Ta Bà là mộng, cho nên là không, là giả.” Tôi đáp: ”Cái gọi là không liên quan là tất cả hoàn cảnh xung quanh hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến Phật tính.” ”Rõ ràng là mộng huyễn bào ảnh, thế thì sẽ không ảnh hưởng đến Phật tính!” ”Con người tôi vì không liên quan cho nên giải thoát luân hồi, đạt được đại tự tại chân chính.”

Tôi lại nói: ”Còn như làm ác là không, đây là một lỗi sai lệch lạc. Mặc dù làm ác trong mộng huyễn, nhưng làm ác sẽ có hạt giống nhân quả, không thể rơi vào trong dị giáo này, thiên lệch về tư tưởng vô nhân quả là đáng sợ nhất.” Tôi đáp: ”Làm ác cũng là không, nhưng rơi vào nhân quả thì không cách nào thoát ly khỏi luân hồi, vẫn rơi vào trong lục đạo luân hồi.”

Tôi đáp: ”Lục đạo luân hồi cố nhiên là huyễn, nhưng có nhân quả ở trong đó. Không thể thoát khỏi lục đạo thì còn nói không có liên quan gì chứ!” Ý của tôi muốn nói rằng: Con người chúng ta ở trong mộng huyễn, muốn thoát ra chẳng biết đến bao giờ. Duy có bỏ ác làm thiện, tự mình thanh tịnh ý mình mới có thể giải thoát. (tự tịnh ý mình)

31. Tạp âm trong phòng tập thể thao

Tôi từ phòng của Sư Mẫu đi về phòng mình, đi qua một hành lang dài, đi qua phòng tập thể thao. Lúc ấy là một giờ sáng. Địa điểm là ở Nam Sơn Nhã Xá. Phòng tập thể thao đương nhiên là không có một ai, nhưng lại cứ vang lên rất nhiều âm thanh. Bánh xe của xe đạp chuyển động. Tiếng tạ tay của môn cử tạ va vào nhau. Ghế mát-xa thì đang đấm bóp. Cái đĩa xoay vặn người thì đang xoay. Và những cái khác. Đây vốn là chuyện bình thường, tôi vốn nghĩ cứ mặc kệ, nhưng cuối cùng tôi lại đi vào. Bên trong đương nhiên không có một người nào. Tôi vừa đi vào thì mọi tạp âm lập tức im bặt, hoàn toàn trống trải, một khoảng lặng như tờ.

Tôi hỏi: ”Ai đang ở đây?” Họ đáp: ”Chúng tôi.” Tôi hỏi: ”Sao các người lại gây ồn ào thế?” Họ đáp: ”Chúng tôi muốn lôi kéo Lư Sư Tôn bước vào, chúng tôi có vài vấn đề muốn hỏi Lư Sư Tôn.” ”Vấn đề gì?” - Tôi hỏi. Họ đáp: ”Vì sao Lư Sư Tôn có năng lực đưa chúng tôi đến Tây phương Cực Lạc thế giới?” Tôi cười: ”Ha ha ha ha ha.” Họ nói: ”Câu hỏi này ngây thơ quá phải không?” Tôi nói: ”Không phải. Bởi vì tôi chưa từng bao giờ nghĩ đến vấn đề này.” Họ hỏi: ”Vậy ngài nói sao đây?” Tôi đáp: ”Bản thân tôi có lực gia trì của Thượng sư, có Phật lực, có pháp lực, có lực của tăng thanh tịnh. Cho nên tôi có thể làm sự nghiệp cứu độ này.”

Họ hỏi: ”Phải tu đến trình độ nào mới được?” Tôi đáp: ”Tôi cảm thấy tương ứng Thượng sư, tương ứng Bổn tôn, tương ứng Hộ pháp, tự hóa thành Bổn tôn. Tu được như vậy thì tự mình sẽ có năng lực vãng sinh, cũng có năng lực độ hóa người khác, đến được trình độ như vậy thì có thể làm pháp siêu độ rồi.” Họ nói: ”Hiểu rồi!”

Họ lại hỏi: ”Lư Sư Tôn! Thế ngài còn dựa vào cái gì để mà tu đến trình độ tự hóa Bổn tôn?” Tôi đáp: ”Nghị lực thôi! Tôi là một hành giả tinh tấn.” Họ hỏi: ”Chúng tôi rất lấy làm lạ, con người đều sợ ma, vì sao ngài không sợ ma?” Tôi đáp: ”Ma cũng là một trong số chúng sinh thôi!” Họ hỏi: ”Ma cũng có ma rất tà ác, cũng không sợ sao?” Tôi đáp: ”Tôi có Hộ Pháp Thần, cũng tu thành tựu kim cang bất hoại.” Họ vỗ tay hoan hô. Tôi trở về phòng mình để làm siêu độ.

32. Mọi pháp vô ngã

Tôi ngồi trên pháp tọa. Nhìn thấy trong vô lượng ánh sáng có một vị Đại Bồ Tát đang ngồi, ngài chính là Hiền Thủ Bồ Tát. Hiền Thủ Bồ Tát hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn! Ngài làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp là làm vì điều gì? Làm vì ai?” Tôi đáp: ”Vì vô sở trụ mà sinh tâm ấy.” (Làm mà không vì cái gì cả.) Hiền Thủ Bồ Tát hỏi: ”Có thu nhập không?” Tôi đáp: ”Không có được cái gì.” Hiền Thủ Bồ Tát hỏi: ”Vì phúc đức sao?” Tôi đáp: ”Phúc đức mà Bồ Tát làm không nên tham chấp, do đó nói là không nhận phúc đức.” Hiền Thủ Bồ Tát hỏi: ”Là vì danh sao?” Tôi đáp: ”Tâm Bồ Tát không nên trụ sắc bố thí, tương tự, tâm Bồ Tát không nên trụ danh bố thí. Không phải vì cái danh.” Hiền Thủ Bồ Tát hỏi: ”Ngài không vì danh mà làm pháp siêu độ này, cũng không vì lợi mà làm pháp siêu độ này, càng không vì sắc mà làm pháp siêu độ này, chính là công đức vô lượng vô biên rồi!” Tôi đáp: ”Tôi không nghĩ đến công đức. Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như điện, nên quán chiếu như vậy.” Hiền Thủ Bồ Tát không hỏi nữa, làm lễ rồi rời đi.

Tôi nghĩ đến bốn câu kệ của kinh Kim Cang: Vô ngã tướng. Vô nhân tướng. Vô chúng sinh tướng. Vô thọ giả tướng. Tôi Lư Sư Tôn dùng sức mạnh tinh thần không gì sánh bằng để làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp là lìa tất cả tướng, phát bồ đề tâm. Tôi hiểu điều mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói, lấy vô ngã vô nhân vô chúng sinh vô thọ giả để tu tất cả pháp thiện. Tôi hiểu: Thế gian là mộng. Thế gian là huyễn. Đắc tức không đắc. Không đắc tức đắc.

Tôi ngưỡng mộ bài cầu nguyện của Thánh Phương Tế của Thiên Chúa giáo hồi thế kỷ 13: Chúa ơi! Xin hãy biến con thành sứ giả hòa bình của Chúa. Ở đâu có thù hận, để con rộng rãi bố thí ái hữu. Ở đâu có sỉ nhục, để con truyền bá lòng khoan dung, Để con đem đến lòng tin cho những con người nghi hoặc, Đem đến hy vọng cho những con người chán nản. Để con xua tan bóng đêm và tỏa ra ánh sáng Hóa khổ nạn thành niềm hỷ lạc. Chúa ơi! Xin Chúa dạy con có thể an ủi con người, không mong cầu sự an ủi từ con người. Có thể hiểu được con người, không mong cầu con người thấu hiểu. Yêu thương con người không mong cầu được con người yêu thương. Dạy con niềm tin chắc chắn rằng cho đi mới có thể nhận lại, có tha thứ mới có được miễn xá. Hy sinh chính mình mới có thể sống mãi!

Tôi đọc xong bài cầu nguyện của Thánh Phương Tế, đến “hy sinh chính mình mới có thể sống mãi”, tôi nói: ”Đó chính là pháp vô ngã!”

33. Diêu Trì Kim Mẫu với hình tượng thiên nữ

Tại đàn thành chính ở Hộ Ma Bảo Điện của Cầu Vồng Lôi Tạng Tự (Biệt thự Cầu Vồng). Ở chính giữa trên cao nhất có một vị Diêu Trì Kim Mẫu với hình tượng thiên nữ, dáng vẻ của ngài là: Đầu đội mũ chim xanh. Tóc vấn lên. Lông mày lá liễu, mắt phượng hoàng. Khuôn mặt trái xoan. Mặc thiên y váy xếp màu đỏ. (Đeo thắt lưng thiên nữ nhiều màu.) Tay phải cầm phất trần. Tay trái cầm gậy như ý. Sáu thứ trang nghiêm (mũ, hoa tai, dây chuyền, vòng tay, vòng chân, thắt lưng). Hình tượng mười sáu tuổi. Duyên dáng tao nhã. Bức tượng này do Thượng sư Thường Nhân và các đồng môn ở hội đồng tu Thập Phương Hồng Kông tặng.

Tôi tu pháp siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp, mỗi lần ngài đều xuất hiện trong hư không.

Tôi nhìn thấy rất rõ ràng: Ngài phóng tỏa vô lượng hào quang, ngọn lửa vui vẻ ấm áp và thuần tịnh gia trì cho tôi. (Tôi từ trong ánh sáng ngọn lửa của ngài mà chuyển hóa thành Bổn tôn.) Tướng của ngài là sắc thân trời đẹp đẽ, từ hư không giáng xuống, dáng vẻ xinh đẹp không có văn tự nào có thể mô tả được. (Nhẹ nhàng như cánh bướm.) Tôi hoan hỷ tiếp nhận. Tâm tôi thanh tịnh không nhiễm bẩn. Ở trong định, tôi càng trở nên sáng rõ. Tôi thể nghiệm được cảnh giới vô vi. Mọi suy nghĩ cõi trần của tôi đã được tịnh trừ. Trí huệ viên mãn rồi. Mưa pháp rơi lả tả. Ngài và tôi hợp nhất và bất động, ngài là tôi, tôi là ngài. Tôi bắt đầu tu pháp “nghìn chiếc thuyền pháp quang minh vô chấp”.

Lúc này: Trong ý tất cả không vô tướng Tâm tính và pháp tính một thể Pháp nhĩ bản nhiên tự nhiên thành. Lúc này, tôi lĩnh hội được “thất chi kim cang trì”: Cảnh giới báo thân. Cảnh giới hòa hợp. Cảnh giới đại lạc. Cảnh giới tính Không. Cảnh giới thường hằng. Cảnh giới đại bi. Cảnh giới bất biến.

Diêu Trì Kim Mẫu với hình tượng thiên nữ nói với tôi: Để pháp thể của Lư Sư Tôn, thiên tâm bồ đề tâm nguyệt dịch đầy ắp toàn thân. Để pháp lực của Lư Sư Tôn và pháp lực của dòng chảy pháp vũ trụ, hai hợp làm một. Để ánh sáng rực cháy. Để đại lạc hằng tại. Để Phật tính vô lượng. Tất cả những điều này đều hiện lên một cách hoàn mỹ nhất. Thiên nữ Kim Mẫu nói: ”Tôi đã trút toàn bộ pháp lực của mình lên trên thân ngài.” Tôi hỏi: ”Tôi xưng hô với ngài ra sao?” Thiên nữ Kim Mẫu đáp: ”Gọi tôi là Kim Ni!” Ha! ”Kim Ni!” Không có tên gọi nào thân thiết hơn tên gọi này!

34. Tăng nhân im lặng không nói ấy

Có một hôm, A Di Đà Phật nói với tôi: ”Buổi tối ngày mai có một tăng nhân sẽ đến và lên thuyền pháp của ngài.” Tôi hỏi: ”Là vị tăng nhân nào?” A Di Đà Phật trả lời: ”Ngày mai ngài sẽ biết!” Tôi nói: ”Có thể nói cho tôi biết ngay bây giờ không?” (Tôi rất tò mò.) A Di Đà Phật không nói rõ, chỉ nói một câu: ”Thầy độ trò, trò độ thầy.”

Đến buổi tối ngày hôm sau, tôi ngồi trên pháp tọa, xa xa trông thấy một vị tăng nhân từ xa lại gần, sau đó lên thuyền pháp. Ông ấy không nói câu gì. Tôi cũng không nói câu gì.

Nhưng trong lòng tôi gào lên: ”Là ông ấy, là ông ấy, là ông ấy. Sao lại là ông ấy chứ? Sao lại là ông ấy chứ? Sao lại là ông ấy chứ?” ”Những năm qua ông ấy đã đi đâu?” Phật giới? Bồ Tát giới? Thanh Văn? Duyên Giác? Chư Thiên giới? Nhân giới? A tu la giới? Địa ngục? Ngạ quỷ? Súc sinh? Hay là…? Không giới?

Ông ấy lên thuyền pháp của tôi, nói thẳng đây là một chuyện bất khả tư nghì không thể tưởng tượng được. Tôi không biết là nên vui hay là buồn. Đúng là một cảm xúc khó tả. Ông ấy xem ra hoàn toàn không thay đổi, một bộ áo tăng, hai tay không có gì, thái độ ung dung, trầm mặc kiệm lời, đến như thế, đi như thế.

Tôi kể sơ sơ về tư tưởng của ông ấy: Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trương tự lực. Ông ấy theo phái tự lực. Người Thiên Trúc (Ấn Độ) xưa thích mặt trời xuống núi với rất nhiều sắc màu rực rỡ tươi đẹp, vì thế mà có tư tưởng về Tây phương Cực Lạc thế giới. Do đó, Tây phương Cực Lạc là huyễn hóa. Ông ấy hiểu nhân gian là huyễn. Ông ấy hiểu con người là giả. Ông ấy phá trừ ngoại đạo. Ông ấy phá trừ chấp mê. (Phá trừ đến không thể phá trừ thì chính là chân lý.) ……

Bây giờ tôi nói một chút về chủ trương của tôi (Lư Sư Tôn): Tôi có tư tưởng về tịnh thổ (lạc thổ). Tôi chủ trương con người cần có tự lực, nhưng cũng cần có tha lực, hai cái hợp làm một, có thể đến lạc thổ trước. Tự lực đến từ trì danh niệm Phật. Tha lực là Tây phương Tam Thánh đến tiếp dẫn. (Căn cứ theo kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, luận Vãng Sinh.) Tôi chủ trương thực tu pháp Mật giáo. Tu gia hành, tu Bổn tôn, tu pháp Kim cang, tu Vô thượng mật, tu khí mạch minh điểm, tu hóa cầu vồng, v.v… Đây là tự lực. Tha lực là Bổn tôn gia trì, Hộ pháp gia trì, Thượng sư gia trì. (Căn cứ theo kinh Đại Nhật, kinh Kim Cang Đỉnh, kinh Khổng Tước Vương, v.v…)

Tôi có tư tưởng Tây phương tịnh thổ, cũng có tư tưởng hóa cầu vồng. Tôi cũng chủ trương: Phi không. [Chẳng phải không.] Phi giả. [Chẳng phải giả.] Trung quán. (Nhất tâm tam quán của Thiên Thai tông.) Nói thẳng thắn: Siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp có tư tưởng tịnh thổ và tư tưởng gia trì của pháp Mật giáo. Đây là chủ trương của tôi.

35. Truyền thừa của Lư Sư Tôn

Văn bản này đại diện cho những dấu tích tôi đã đi qua trong giới tôn giáo. Tôi cho rằng những điều này đều là truyền thừa. Nói thật lòng, chúng đều giáo dục tôi.

Hồi đầu, tôi là tín đồ Cơ Đốc: Tại giáo hội Trưởng Lão Tân Hưng Cao Hùng, tôi được rửa tội bởi mục sư Tô Thiên Minh. Tôi đã trưởng thành trong giáo hội, sau đó trở thành thầy giáo của lớp học chủ nhật. Cho nên tôi nói: “Jesus là guru của tôi!” (Jesus hy sinh mạng sống của mình, chảy dòng máu cao quý để cứu tội lỗi của nhân loại.) Jesus là Đại Bồ Tát vô ngã.

Sau đó, tại Ngọc Hoàng Cung, tôi được người phụ nữ mặc áo xanh Lâm Thiên Đại chỉ dẫn, được Diêu Trì Kim Mẫu mở thiên nhãn. Tôi tận mắt nhìn thấy: Diêu Trì Kim Mẫu. A Di Đà Phật. Địa Tạng Bồ Tát.

Tôi hiểu thì ra mình là Liên Hoa Đồng Tử lại đến nhân gian. Bắt đầu từ đó, tôi có linh lực. Tôi cảm ơn sự chỉ dẫn của Lâm Thiên Đại. Tôi tôn sùng Diêu Trì Kim Mẫu, liên tục cho đến hôm nay, tôi 78 tuổi rồi, ngài là Bổn tôn trong cuộc đời này của tôi. Diêu Trì Kim Mẫu là Đại La Kim Tiên, là tín ngưỡng dân gian, cũng là Tiên Vương của Đạo gia. Tôi nói: “Không có Diêu Trì Kim Mẫu thì không có Lư Sư Tôn.”

Cuối cùng, tôi đã quy y Phật giáo. Các sư phụ nhân gian mà tôi nương dựa là: Ấn Thuận đạo sư — là tông sư của Tam Luận tông. (Trung luận, thập nhị môn luận, bách luận.) Lạc Quả pháp sư — là truyền thừa của Thiền tông Tào Động tông. (Sau thời Huệ Năng là Lâm Tế tông, Vân Môn tông, Tào Động tông, Vi Ngưỡng tông, Pháp Nhãn tông.) Đạo An pháp sư — Pháp Tướng tông. (Kinh Lăng Già, kinh A Tì Đạt Ma, kinh Hoa Nghiêm, kinh Mật Nghiêm, kinh Giải Thâm Mật, Bồ Tát Tạng.) Trên đây là ba vị thầy Hiển giáo.

Ba vị thầy mà tôi nhận Bồ Tát giới là: Huệ Tam pháp sư. Hiền Đốn pháp sư. (truyền thừa Tịnh Độ tông) Giác Quang pháp sư. Truyền thừa Mật tông là: Liễu Minh Hòa Thượng (Hồng giáo). Sakya Chứng Không Thượng sư (Hoa giáo). Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 (Bạch giáo). Thubten Dhargye Thượng sư (Hoàng giáo). Phổ Phương Thượng sư. Còn có rất nhiều các sư phụ mà tôi quy y nữa, việc học tập của tôi bao la vạn tượng.

Ngoài ra còn có một vị thầy cạo đầu cho tôi rất quan trọng, ngài chính là pháp sư Quả Hiền của chùa Huệ Tuyền ở Hồng Kông. Ngài ấy là Thiền tông (Lâm Tế tông). Tôi xuất gia là nhờ vào đại hòa thượng Quả Hiền. (Ngài là đệ tử của tôi, nhưng cũng là thầy cạo đầu cho tôi.) Bởi vì tôi học rất nhiều sư phụ, cho nên truyền thừa của tôi cũng nhiều, còn có rất nhiều vị thầy mà tôi kết duyên nhưng không kể ra ở đây. Tôi có truyền thừa Tịnh Độ tông, truyền thừa Thiền tông, truyền thừa Tam Luận tông, truyền thừa Thiên Thai tông, truyền thừa Mật tông. Thậm chí Luật tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông tôi cũng đều có tiếp xúc. Tôi cũng có nghiên cứu cả Thành Thực tông của Tiểu thừa và Câu Xá tông.

Lư Sư Tôn chủ trương: Tông gì cũng thế, phái gì cũng vậy, trăm sông chảy vào một biển. Thành tựu Phật tính quang minh. Mới là quan trọng nhất.

36. Nghiệp lực thật đáng sợ

Tôi ngồi trên pháp tọa. Phát hiện ra bên dưới pháp tọa của tôi có một bóng ma màu xanh nhạt, hắn ngửa mặt lên nhìn tôi, nét mặt đầy vẻ bất lực. Tôi hỏi: ”Sao không lên thuyền pháp?” Hắn đáp: ”Không lên được.” Tôi hỏi: ”Vì sao không lên được?” Hắn đáp: ”Tôi đã thử rất nhiều lần rồi, đều không lên được. Cứ lên rồi lại bị trượt xuống, lên rồi lại bị trượt xuống. Có một lần lên được rồi, nhưng thuyền lại biến mất, tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ.” Tôi hỏi: ”Các linh hồn đều bay lên thuyền, cũng có linh hồn thả mình theo gió mà lên thuyền, họ đều có năng lực thần thông, vì sao anh ko có?” Hắn đáp: ”Tôi không có năng lực thần thông.”

Tôi hơi nghi ngờ, không thể lên thuyền pháp thì sao lại được Kim Giáp Thần thông qua mà cho đi vào nhà tôi. Tôi hỏi: ”Làm sao mà anh đi vào Nam Sơn Nhã Xá được?” Hắn đáp: ”Tôi đem chứng thư quy y đặt lên trên đầu tôi, cứ thế là đi vào, Kim Giáp Thần nhìn thấy chứng thư quy y liền để tôi đi vào.” Tôi cười: ”Thì ra anh là đệ tử Chân Phật Tông, được rồi! Tôi sẽ đưa anh lên nghìn chiếc thuyền pháp.” Tôi cõng hắn từ pháp tọa bay lên không. Giống như một con đại bàng bay lượn, khi đến gần thuyền pháp, đột nhiên tôi cảm thấy lưng rất nặng, nặng đến mức tôi không thể nào bay tiếp được. Tôi rơi xuống đất.

Tôi hỏi: ”Sao mà anh nặng thế?” Hắn đáp: ”Tôi cũng không biết.” Tôi lại lên thuyền pháp lại từ đầu, tôi hỏi hắn: ”Lúc còn sống anh làm nghề gì?” Hắn đáp: ”Rất xin lỗi Lư Sư Tôn! Tôi không làm chính nghiệp. Tôi là đầu sỏ của một băng đảng, đã từng giết người, buôn bán ma túy, và tổ chức đánh bạc.” Tôi nói: ”Anh đã phạm vào nghiệp tội sát sinh, lại phạm vào nghiệp tội buôn bán ma túy, còn phạm nghiệp tội hại người ta tham tiền.” Hắn cũng nói: ”Không chỉ như vậy, tôi còn đánh thuốc mê rồi cưỡng bức rất nhiều phụ nữ.” Tôi nói: ”Đã phạm giới sát sinh, phạm giới trộm cướp, giới tà dâm cũng phạm luôn rồi, đương nhiên cũng phạm giới vọng ngữ rồi, vậy còn giới uống rượu cũng đã phạm rồi đúng không?” Hắn đáp: ”Vâng!” Tôi nói: ”Vậy thuyền pháp của tôi đương nhiên không thể nào chở được anh, bởi vì nghiệp tội của anh quá sâu nặng.” Hắn nói: ”Nhưng tôi có quy y ngài mà!” Tôi nói: ”Anh quy y chỉ là hình thức, anh không tu pháp, không sửa sai hướng thiện, anh phải đi lục đạo luân hồi, tôi không có cách nào cứu anh được.” Hắn đã bị Chuyển Luân Vương bắt đi rồi!

37. Nói một chút về giới luật

Có rất nhiều linh hồn nhìn thấy tôi cõng đệ tử quy y kia bay lên thuyền pháp. Đáng tiếc là bay được nửa đường thì lại ngã lăn ra đất. Tương tự, rất nhiều linh hồn nhìn thấy đệ tử quy y kia bị Chuyển Luân Vương bắt đi. Họ hỏi tôi: ”Đệ tử quy y Lư Sư Tôn mà Lư Sư Tôn cũng không có cách nào cõng lên thuyền pháp được ư?” ”Đệ tử quy y bị Chuyển Luân Vương bắt đi, cho dù đã quy y rồi, Lư Sư Tôn cũng không thể cứu sao?” Tôi thờ ơ nói: ”Giới luật rất nghiêm, nghiệp lực rất nghiêm.” (Tôi không muốn nói về điều này.) Nhưng đám u linh ngờ vực không tin! Tôi chỉ còn cách nói thêm một chút. Tôi nói: Giữ giới là một trong sáu pháp độ. Giới cũng là những quy tắc của tín chúng, cũng chính là quy định. Phật giáo Tiểu thừa rất coi trọng giới luật. Kì thực Phật giáo Đại thừa cũng coi trọng giới luật, chỉ là không quá nghiêm khắc như Tiểu thừa. Giới luật của Mật giáo cũng rất nhiều, bao gồm Phật giới của Đại thừa cộng thêm giới luật của Mật giáo. Giáo đoàn của Phật Thích Ca Mâu Ni ban đầu không có giới luật, về sau đệ tử phạm giới (phạm sai lầm) thì mới lần lượt đưa ra các giới điều.

Giới luật đầu tiên nhất của Phật Đà là: Người tại gia phải giữ năm giới: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm. Không vọng ngữ. Không nghiện rượu.

Người xuất gia phải giữ: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm. Không vọng ngữ. Không nghiện rượu. Và cộng thêm: Không ăn vặt ngoài bữa chính. Không xem ca múa. (Cúng Phật là ngoại lệ.) Không nằm trên giường cao. Không trang điểm son phấn. Không đeo vàng bạc. (Đây là mười điều giới luật cơ bản nhất.)

Về sau, giới luật càng ngày càng nhiều, càng phân chia nhỏ hơn. Kinh điển mà Phật Đà giảng giới luật cũng rất nhiều. Kinh điển chủ yếu của Phật giáo Đại thừa là Kinh Phạm Võng, Bồ Tát Giới Bản Kinh. Kinh điển chủ yếu của Phật giáo Tiểu thừa là Thập Tụng Luật, Tứ Phân Luật. Mật thừa có Mười Bốn Giới Đọa Căn Bản, Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng, Kinh Susiddhi [Tô Tất Địa]. Pháp sư Đạo Tuyên thế kỉ 17 chủ trương giới luật nên thống nhất, tại núi Chung Nam, ngài giải thích các giới luật và nghi thức lễ tiết, chính là Nam Sơn Tông. Triều Thanh, pháp sư Cổ Tâm, tại núi Bảo Hoa ở Giang Tô, đã giải thích các giới luật và nghi thức lễ tiết, chính là Bảo Hoa Sơn Giới Pháp.

Về sau, giới luật học tự trở thành một phái, cũng chính là Luật tông. Khi Phật niết bàn, A Nan hỏi Phật: ”Sau khi Phật niết bàn thì lấy gì làm thầy?” Phật đáp: ”Lấy giới làm thầy.” Có thể thấy Phật Thích Ca Mâu Ni rất coi trọng giới luật. Giới luật - có thể khiến đệ tử Phật đi trên chính đạo. (Tránh gây ra ác nghiệp.)

38. Khai quang như mộng như huyễn

Tôi ngồi trên pháp tọa, làm xong siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Tôi cứ thế tự nhiên nhập vào thiền định. Khí nhập trung mạch. Nuốt dịch thể. Tinh thần thống nhất. Từ “một” nhập vào “không”. Tôi lúc này như mộng như huyễn, như cảnh giới thái hư [trạng thái trống rỗng mênh mang], dường như chỉ còn lại cái “thức”. (Thức là bản thể.) Thân thể biến mất, hoàn cảnh xung quanh biến mất. Dường như là tam tế nhất như, quá khứ, hiện tại, vị lai trở thành một. Hoành biến thập phương, phương trên, phương dưới, tám phương, tất cả đều đầy ắp và tự do đến đi. Dường như có đến. Dường như có đi. Kì thực là không đến không đi.

Không ngờ tôi đã tới Penang ở Malaysia, đến Lôi Tạng Tự ở Penang. Đó là tòa Lôi Tạng Tự mới xây. Có điện chính và nhiều điện phụ. Có âm thanh bảo tôi khai quang! Tôi niệm: ”Thiên chi thần quang, địa chi thần quang, nhật nguyệt thần quang, khai quang khai quang chú.” Khai nhãn quang — quán thị thế giới. Khai khẩu quang — khai khẩu độ chúng. Khai nhĩ quang — văn thanh cứu khổ. Khai tâm quang — từ bi chúng sinh. Khai thủ ấn — thân thủ gia trì. Khai thần túc — phi hành vạn lý. Khai kim thân — hào hào phóng quang. Cấp cấp như luật lệnh. Cấp cấp như luật lệnh. Cấp cấp như luật lệnh. Phụng thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu luật lệnh cương. (Chú ngữ này phải niệm ba lần.) Kết thủ ấn. Gia trì kim thân. Đồng thời làm kết giới trên kim thân.

Tôi nhìn thấy: Các Phật Bồ Tát Kim Cang Hộ Pháp và Không Hành Chư Thiên chúng, tất cả đều chuyển động. Có vị bay lên không. Có vị xuyên vào lòng đất. Có vị khoa chân múa tay. Có vị hóa thành ánh sáng. Lại có cả chớp điện, có cả sấm sét.

Kim thân của mỗi vị đều sống dậy, các vị thi triển rất nhiều thần biến. Đặc biệt là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, ngài ngồi ở chính giữa một hồ nước lớn, xung quanh là nước. Giữa hồ nước có một đóa hoa sen rất lớn, trên hoa sen có tám quả cầu thủy tinh tỏa ánh sáng chói lọi.

Diêu Trì Kim Mẫu thì ngồi trên hoa sen lớn đó. Một tay cầm phất trần. Một tay cầm gậy như ý. Có âm thanh niệm: “Om jinmu siddhi hum.” [Ôm chin-mủ sit-đi hùm] Xung quanh tòa hoa sen có rất nhiều tiên nữ tung tăng bay múa, giống như Diêu Trì Tiên Cảnh vậy.

Thiền định của tôi kết thúc vào lúc 2 giờ 40 phút sáng. Tôi lên giường đi ngủ. Ngày hôm sau. Có pháp sư trụ trì của Penang Lôi Tạng Tự ở Malaysia là pháp sư Liên Ngụy thỉnh tôi khai quang Lôi Tạng Tự từ xa. Tôi nói: “Tương ứng rồi!”

39. Tương ứng của nghìn chiếc thuyền pháp

Có bố của một đệ tử nọ qua đời. Đệ tử đó là Liên Hoa Thủ Nghĩa, bố là Liên Hoa Kính Thiên. Liên Hoa Thủ Nghĩa thỉnh Lư Sư Tôn siêu độ tiếp dẫn cho bố, lại còn nói rõ là: “Thỉnh Lư Sư Tôn dùng nghìn chiếc thuyền pháp để siêu độ cho bố.”

Trên nguyên tắc, nguồn gốc của nghìn chiếc thuyền pháp là vì những người đã chết vì dịch cúm virus Corona, cho nên mới dẫn tới pháp tu này. Vì tôi thương xót những người chết do dịch bệnh mà khởi phát quyết tâm độ vong của tôi. Nhưng lâu dần, siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp này âm dương đều biết, có thể xem là “náo động võ lâm, kinh động vạn giáo”, không chỉ con người ở cõi âm biết mà ngay cả con người ở dương thế cũng đều biết. Ngoài những người chết vì dịch bệnh ra, tôi còn siêu độ: Người tự sát. Người bị giết. Người bệnh chết. Người chết cháy. Người chết do động đất. Người chết đuối. Người chết do bão. Người chết vì tai nạn. (Ngay cả người chết vì bị dã thú cắn, người phạm tội tử hình, người chết vì chiến tranh, người chết vì máy bay rơi, người chết vì tai nạn xe cộ…) Có thể nói là bao gồm tất cả! Vì thế Liên Hoa Thủ Nghĩa muốn làm siêu độ cho bố anh ấy là Liên Hoa Kính Thiên thì cũng không có gì lạ. Tôi nói với Liên Hoa Thủ Nghĩa rằng tối nay tôi sẽ siêu độ cho bố của anh.

Buổi tối hôm đó. Liên Hoa Thủ Nghĩa có một giấc mơ, mơ thấy cực kì rõ ràng. Anh nói: Nhìn thấy nghìn chiếc thuyền pháp. Nhìn thấy bố. Người bố anh phát quang, ánh sáng rực rỡ như ngọn lửa. Bố anh cực kì hoan hỷ. Ông ấy toát lên khí chất vô cùng cao quý, đặc biệt khác biệt, ông ấy đứng trên thuyền pháp. Thuyền pháp bay lên không và rời đi, bay đến Tây phương Cực Lạc thế giới, tịnh thổ của A Di Đà Phật. Anh ấy nghe thấy âm thanh rằng: Tây phương Tịnh Thổ là tịnh thổ bất thối chuyển. (Không còn phải lục đạo luân hồi nữa.) Chỉ có duy nhất niềm cực lạc. (Không có mọi đau khổ của nhân gian.) Có Thường tịch quang thổ, Thực báo trang nghiêm thổ, Phương tiện hữu dư thổ, Phàm Thánh đồng cư thổ. (Pháp thân thế giới, Báo thân thế giới, Ứng thân thế giới, Mang nghiệp thế giới.) Có hàng cây thất bảo. (trang nghiêm) Có nước tám loại công đức. (trừ chướng ngại) Có đình đài lầu gác. (đẹp đẽ tuyệt vời) Có ba mươi bảy đạo phẩm. (Phật pháp thanh tịnh) Người người thanh tịnh, ai nấy thành Phật. (cảnh giới tối cao vô thượng)

Sau cùng, Liên Hoa Thủ Nghĩa nhìn thấy bố Liên Hoa Kính Thiên vẫy tay chào anh, nói: ”Đi về nói cảm ơn Lư Sư Tôn!” Vâng! Cảm ơn! Thế này là viên mãn rồi, quá hoàn mỹ rồi!

40. Thiên Nữ Kim Mẫu căn dặn

Trong lúc tôi siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Thiên Nữ Kim Mẫu hạ giáng, bên cạnh ngài hóa ra một cô gái, tuổi khoảng mười tám đôi mươi. Làn da trắng ngần như ngọc. Xinh xắn yêu kiều. Đôi mắt lấp lánh ánh sáng trí huệ. Thiên Nữ Kim Mẫu nói: ”Cô gái này, ở mi tâm có một dấu ấn bí mật, trên bàn tay có một dấu ấn bí mật, lòng bàn tay có một chữ Phạn…” Tôi hỏi: ”Cô ấy là ai?” Thiên Nữ Kim Mẫu đáp: ”Cô ấy là hóa thân của Diệu Âm Thiên Nữ. Giờ đây chuyển thế tại nhân gian.” Tôi hỏi: ”Cô ấy tên là gì?” Thiên Nữ Kim Mẫu đáp: ”Tên là ABC.” (Tạm thời giữ bí mật.)

Tôi hỏi: ”Vì sao lại nói với tôi chuyện này?” Thiên Nữ Kim Mẫu đáp: ”Ta muốn ngài đem cô ấy trở về cho ta, đây là lời dặn dò của ta đối với ngài.” Tôi hỏi: ”Cô ấy sẽ đến tìm tôi hay tôi sẽ đi tìm cô ấy?” Thiên Nữ Kim Mẫu đáp: ”Tất cả tự nhiên đến.” Nói xong, Thiên Nữ Kim Mẫu và cô gái kia liền biến mất.

Kể từ cái ngày Thiên Nữ Kim Mẫu căn dặn tôi, tôi bắt đầu rất chú ý quan sát. Tôi sẽ hỏi tên của khách đến thăm. Tôi sẽ nhìn dấu vân tay của người ta. Tôi nhìn tướng mặt. (mi tâm) Có người thì có tướng mặt nhưng dấu vân tay lại không đúng. Có người thì dấu vân tay đúng nhưng tướng mặt lại không đúng. Cứ như vậy đã trải qua hơn một năm rồi.

Thiên Nữ Kim Mẫu lại đến bảo tôi: ”Phải mở thiên nhãn ra để nhìn mới có thể nhìn rõ hơn được.” Thiên Nữ Kim Mẫu nói: ”Khi cô ấy đến, xung quanh nhất định sẽ có chiếc lọng quý lắc lư và các thiên nữ nhiều màu sắc đi theo ủng hộ.” Còn nói: ”Dùng thiên nhãn để nhìn, trong lồng ngực có Hoàng Văn Thù và Hồng Văn Thù ngồi trên hoa sen.” Còn nói: ”Ở ngực có động huyệt thủy tinh, có các Không Hành Mẫu đủ mọi dáng vẻ và biểu cảm.” Còn nói: ”Khi cô ấy đi lại, phía trên đỉnh đầu có bảo trướng màu đỏ.” Còn nói: ”Ở họng của cô ấy có Hắc Phẫn Nộ Mẫu bảo vệ cô ấy.” Còn nói: ”Toàn thân cô ấy tỏa ánh hào quang. Như đế võng minh châu vậy.”

Trời ơi! ”Nhân gian Ta Bà này tìm đâu ra một người con gái như vậy, đây chẳng phải là làm khó tôi sao?” - Tôi nói. Thiên Nữ Kim Mẫu nói: ”Không khó!” Tôi hỏi: ”Tìm thấy cô ấy rồi thì sao?” Thiên Nữ Kim Mẫu đáp: ”Tam thế Chư Phật thầy Liên Sinh Thầy dùng thiện đức để gia trì Để cô nhớ về việc kiếp trước Bắt đầu từ nay đến muôn đời Mãi mãi về sau chẳng lạc lối.”

41. Sợi dây mong manh giữa sống và chết

Năm nay (năm 2022), tôi 78 tuổi. Năm tới (năm 2023), tôi 79 tuổi. (Tính theo tuổi của Đài Loan.) Diêu Trì Kim Mẫu nói với tôi: ”Lư Sư Tôn! 79 tuổi sẽ là kiếp tử của ngài.” Tôi nghe xong không biết nói gì. Lời của Diêu Trì Kim Mẫu là Thánh chỉ. Tôi tin tưởng tuyệt đối. Tục ngữ nói: “Sinh là hạnh phúc của ta, tử là vận mệnh của ta.” Tôi thì nói ngược lại: “Sinh là vận mệnh của ta, tử là hạnh phúc của ta.” Căn bản là tôi không cảm thấy buồn.

Đời người như mộng như huyễn, tôi chẳng qua là trở về cội nguồn của tôi — Ma Ha Song Liên Trì. Tôi tin rằng: Sống chết có số. Phú quý tại trời. (Biển khổ nhân gian không đáng để nhớ tiếc, không đáng để chần chừ.)

Có một hôm, tôi lên pháp tọa, tôi nói với đệ tử Chân Phật Tông: “Sang năm 2023, tôi sẽ gặp tử kiếp.” Đệ tử ngồi phía trước pháp tọa, nhất thời, im bặt không nói. Tiếp đó, các đệ tử đều hét lên: ”Không thể nào.” ”Sẽ không đâu.” ”Thỉnh Phật trụ thế!” ”Thỉnh tiếp tục chuyển pháp luân!” ”Nhất thiết phải ở lại!” ”Xin ở lại! Xin ở lại! Xin ở lại! Xin ở lại! Xin ở lại! Xin ở lại! Xin ở lại!” Có người khóc! Có người quỳ xuống! Tôi rất cảm động, ngẩng đầu nhìn trời. Tôi tin Diêu Trì Kim Mẫu một trăm phần trăm. Lời của Diêu Trì Kim Mẫu, tôi đã tin suốt 50 năm rồi, lời của ngài chắc như đinh đóng cột, chuẩn xác. Cho nên, tôi dám nói ở trên pháp tọa. Một lời nói ra. Tứ mã nan truy. Sẽ không có chỗ mà rút lại. Lần này thì tôi chết chắc rồi, tôi không hối hận tôi sẽ ra đi như thế, bởi vì biển khổ thế gian, lục đạo luân hồi đều khổ, từ lâu tôi đã muốn thoát khỏi nhân gian Ta Bà rồi.

Bài kệ cảnh tỉnh của Phổ Hiền Bồ Tát: ”Một ngày trôi qua Mệnh lại giảm bớt Như cá thiếu nước Có gì là vui.” Trong quãng thời gian này, A Di Đà Phật từng nói với tôi: ”Lư Sư Tôn! Ta sẽ giúp ngài kéo dài tuổi thọ!” Tôi nghe xong! Ha! Diêu Trì Kim Mẫu nói: ”79 tuổi, tử kiếp!” A Di Đà Phật nói: ”Kéo dài thêm mấy năm!” Một vị là Tiên Vương, một vị là Phật Vương. Diêu Trì Kim Mẫu là bậc chí tôn đã mở thiên nhãn cho tôi. A Di Đà Phật là bản địa của tôi, tôi là hóa thân của A Di Đà Phật. Hai vị không phân cao thấp. Rốt cuộc sẽ tính theo lời nói của ai đây? Tôi chẳng thể phán đoán được. Thế là tôi chỉ có thể tùy thuận thôi. Ngửa mặt trông lên Song Liên Trì. Đôi bờ sinh tử đều mênh mông.

Sau khi đệ tử Chân Phật Tông trên toàn thế giới đều biết việc này, họ đã phát khởi hành động “thỉnh Phật trụ thế”, diễn ra hừng hực khí thế. Trì tâm chú Trường Thọ Phật để hồi hướng. Bái Chân Phật Bảo Sám để hồi hướng. Làm pháp hội Trường Thọ Tam Tôn để hồi hướng. (Trường Thọ Tam Tôn là: Trường Thọ Phật, Tôn Thắng Phật Mẫu, Bạch Độ Mẫu.) In kinh điển để hồi hướng. Tu pháp Già chỉ: [pháp che chắn và ngăn chặn] 1. Tịch tĩnh. 2. Giảm dục. 3. Biết đủ. 4. Thanh tịnh. 5. Đoạn nhiễm. 6. Trừ tham. In năm bộ Đại Luận để hồi hướng. Năm bộ Đại Luận là: Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Nhập Trung Luận, Câu Xá Luận, Thích Lượng Luận, Luật Kinh Bản Luận. Đốt Hộ Ma (hỏa cúng). Phụng thỉnh Ngũ Đại Kim Cang bảo vệ: Hỷ Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Mật Tập Kim Cang, Đại Uy Đức Kim Cang, Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang hoặc Thời Luân Kim Cang.

Ngoài ra: Đại bố thí (hồi hướng). Tụng bách tự minh chú (hồi hướng). Dược Sư Thất Phật (hồi hướng trừ bệnh tật). Dược Sư Phật có thể kéo dài thọ mệnh, được khỏe mạnh. Thỉnh Bạch Chư Tôn tiêu tai. [Thỉnh các Bổn tôn màu trắng để chấm dứt các tai nạn.]

……

Có thể nói thế này, mọi Mật pháp để kéo dài tuổi thọ thì đệ tử đều dùng hết rồi. Nếu tôi tự mình muốn kéo dài tuổi thọ: Tôi phải bế quan, tu pháp Già chỉ: Tịch tĩnh, giảm dục, biết đủ, thanh tịnh, đoạn nhiễm, trừ tham. Pháp nuốt không khí để nối dài mạng sống. Tu pháp Quan Âm thân đàn thành tránh tai họa. Tu pháp Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu hồi già. [pháp che chắn phản hồi] Tu pháp đại than thi. [tư thế xác chết] Tu pháp thí thân. (Tu các pháp ở trên đều có thể tránh được tai nạn và kéo dài tuổi thọ.)

Có một hôm. Thượng sư Bích Trân gặp tôi, hỏi tôi: ”Phương pháp đủ hữu hiệu mà lại thỏa đáng là gì?” Tôi đáp: ”Dùng vải đỏ, viết họ tên và bát tự của Lư Sư Tôn, trên đó vẽ phù bảo mệnh bình an.” ”Hoàn thành xong thì cho mảnh vải đỏ đó vào trong một cái túi nhỏ màu đỏ, rồi dùng chỉ đỏ buộc lại, đeo lên cổ của tượng Phật Bổn tôn.” Tương đương như là: “Nhờ linh quang của Bổn tôn bảo vệ Lư Sư Tôn.”

Thượng sư Bích Trân hiểu ý. Thế là Thượng sư Bích Trân bèn cắt vài mảnh vải đỏ, làm vài chiếc túi nhỏ màu đỏ rồi buộc chỉ đỏ. Bà ấy chuẩn bị xong xuôi, vào sau buổi trưa ngày Trừ nhật, bà ấy đem túi vải đỏ đeo lên cổ của Bổn tôn. Bà ấy cũng đưa cho tôi hai cái. Tôi đem túi đỏ có phù bảo mệnh bình an đeo lên trước ngực hai vị Diêu Trì Kim Mẫu ở Nam Sơn Nhã Xá. Một chiếc đeo trên kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu đặt tại vị trí két sắt ở tầng trên. Một chiếc đeo trên kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu trong phòng ngủ của tôi. Kim thân Diêu Trì Kim Mẫu trong phòng ngủ chính là Bổn tôn mà tôi làm siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Tất cả xong xuôi. (Tôi làm việc này một cách tự nhiên, tùy thuận sự thỉnh cầu của các đệ tử, ý tốt của họ nên tôi làm thôi!)

Đã xảy ra một sự việc trùng hợp như thế này. Ngày thứ hai sau khi làm xong đã phát sinh một chuyện lớn, một chuyện không thể đã xảy ra. Thượng sư Liên Cầm. Thầy giảng dạy Liên Anh. Hai người đó đã đến Nam Sơn Nhã Xá vì muốn treo một bức thangka Thời Luân Kim Cang cực kì lớn lên tường nhà tôi. Ban đầu Sư Mẫu bảo: ”Treo bên tay phải cửa ra vào của Nam Sơn Nhã Xá, trên bức tường rất to.” Tôi đề nghị: ”Treo ở chính giữa bức bình phong.” Sau đó, chúng tôi lựa chọn treo ở trong phòng ngủ của tôi, phía đầu giường có bức tường lớn còn trống.

Dựng thang lên. Độ cao từ sàn phòng ngủ của tôi đến trần nhà là khoảng hai tầng lầu. Thượng sư Liên Cầm trèo lên đóng đinh vào thangka, không cẩn thận đã ngã từ trên thang xuống. ”Á!” Một tiếng thét lên, sau đó là tiếng rơi “bịch” xuống đất, Thượng sư Liên Cầm ngồi im trên mặt sàn không động đậy, đầu tựa vào giường của tôi.

Thời gian như đứng im. Sau đó kiểm tra: Thượng sư Liên Cầm không bị nguy hiểm đến tính mạng, ngã như vậy nhưng không bị gãy xương, chỉ bị đau, mu bàn chân bị xước một lớp (da bị chảy máu), vết thương bên ngoài, may là không có trở ngại gì lớn. Tủ đầu giường của tôi thì: Đèn bàn vỡ nát. Cái chụp đèn bị vỡ khiến thủy tinh văng đầy sàn nhà. Các thứ trên tủ đầu giường đều rơi xuống đất. Các thứ trên tủ đầu giường gồm có: Kinh sách. Khung ảnh. Diêu Trì Kim Mẫu và túi vải đỏ bảo mệnh hộ thân. Trời ơi! Bức tượng Diêu Trì Kim Mẫu làm bằng sứ đã “thịt nát xương tan” rồi, vỡ thành từng mảnh từng mảnh, thảm thương không nỡ nhìn. Túi vải đỏ bảo thân hộ mệnh của tôi thì bị văng ra rất xa. Xong rồi! Tôi chết chắc rồi!

Hôm qua tôi vừa mới treo lên, hôm nay đã thịt nát xương tan rồi. Điều này có vẻ không cát tường lắm. Trên đời lại có sự việc trùng hợp như vậy, không vỡ sớm hơn, không vỡ muộn hơn, mà lại vỡ đúng vào lúc này. Tôi cầu Diêu Trì Kim Mẫu bảo mệnh hộ thân cho mình, thế mà vị Diêu Trì Kim Mẫu ấy không ngờ lại vỡ thành các mảnh sứ vụn, không thể dán lại được. Tôi đau lòng quá! Tôi xót xa vì kim thân của Diêu Trì Kim Mẫu cũng không thể cứu được tôi.

Tôi đột nhiên lóe lên một linh cảm. Sao không thỉnh thị Diêu Trì Kim Mẫu (Đại Kim Tiên của hư không giới). Ngài nói: Lư Sư Tôn! Chớ đau buồn! Ta nói ngài chỉ có thể sống đến 79 tuổi, số trời đã định, chạy trời không khỏi nắng. Một lời của ta đã nói ra thì xe tứ mã cũng khó mà đuổi kịp. Ta không thể thu hồi lại câu nói này. Đó là điều không thể thay đổi được. Chắc chắn là chết không có gì phải nghi ngờ! Cho dù A Di Đà Phật muốn giúp ngài kéo dài tuổi thọ. Không nể mặt tăng thì cũng phải nhìn mặt Phật. Ngài tránh được một hai, nhưng ba bốn thì cũng chết thôi! Nói cách khác là chẳng có cách nào hóa giải. Sau đó, Ta thấy đệ tử của ngài đã vì ngài mà thỉnh cầu pháp hội thỉnh Phật trụ thế để hồi hướng, đương nhiên cũng có cảm động, nhưng số trời muốn ngài về trời, trở về vị trí ban đầu. Thật sự không có cách nào thay đổi được.

Nguyện vọng cá nhân của ngài, chúng ta cũng biết: Ngài ở lại nhân gian cũng được, về trời cũng được. Đời người là khổ, ngài đã nếm trải hết rồi. Tất cả đều là huyễn. Không thể lưu luyến. Vợ con, tiền tài, phúc lộc chỉ là nhất thời. Tương lai vẫn là trống rỗng, không một thứ nào có được. Ngài cũng không kinh không sợ. Nhưng, Ngài cũng tự vẽ phù bảo mệnh hộ thân, tùy thuận đệ tử, đeo lên trước ngực kim thân của ta. Bây giờ, ngài cũng biết, kim thân có đeo phù bảo mệnh hộ thân đã vỡ nát rồi. Điều này tượng trưng cho: Kim thân của ta thịt nát xương tan, tượng trưng cho ta đã thay ngài chết một lần rồi. Ta đã để cho kim thân vỡ nát để chịu thay cho ngài một mạng. (Giống như ngày xưa, ở Đài Loan ngài gặp tai nạn giao thông, nhưng thân thể lại không mảy may bị thương tí nào, nhưng kim thân của Quan Thế Âm Bồ Tát mà ngài cúng dưỡng, toàn thân đã xuất hiện những vết rạn nứt.) Ta để cho kim thân thịt nát xương tan để chịu thay. Ngài thoát được một kiếp nạn. Sau này, ngài hãy đem toàn bộ thời gian cuộc đời mình để bố thí hết cho chúng sinh đi!

42. Bạn học tiểu học đến tìm tôi

Tôi ngồi trên pháp tọa. Kim Giáp Thần đưa một người đàn ông (linh hồn) đến gặp tôi. Tôi hỏi: ”Người nào đây?” Người đàn ông đáp: ”Tôi là Trần Vỹ Hoành, là bạn học tiểu học với ngài, Lư Sư Tôn! Ngài không nhớ tôi sao?” Tôi nghĩ một lúc, đúng rồi, Trần Vỹ Hoành, nhà ông ấy ở khu Tân Hưng thành phố Cao Hùng, Đài Loan, nếu tôi nhớ không nhầm thì ở gần bùng binh, bố mẹ ông ấy làm kinh doanh vật liệu gỗ, gia cảnh rất khá. Đi học ở trường tiểu học Đại Đồng, thành tích trên trung bình, tư chất rất tốt. Còn thành tích học tiểu học của tôi nếu đếm từ phía cuối lên thì tương đối nhanh. Nguyên nhân chủ yếu là tôi không thích đi học.

Trong ấn tượng của tôi: Nhà của Trần Vỹ Hoành có mời một thầy giáo dạy phụ đạo tại nhà, tôi từng đến nhà ông ấy để học phụ đạo. Về sau, sau khi tôi đi Mỹ, ông ấy cũng đến Mỹ, ông ấy đến tìm tôi trước, sau đó ông ấy lại đi New York. Nghe nói ông ấy ở New York xem bói và xem phong thủy cho người ta. Sau đó giữa chúng tôi không còn liên lạc.

Điều không ngờ là, sau khi Trần Vỹ Hoành chết, ấy thế mà lại xuất hiện ở nơi tôi tu siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp. Tôi hỏi Kim Giáp Thần: ”Trần Vỹ Hoành có thể đi Tây phương cảnh thổ không?” Kim Giáp Thần đáp: ”Không thể! Ông ta phải đi luân hồi! Ông ta có một vài chướng ngại.” Lúc này, tôi đã hiểu ra. Tôi nói: ”Trần Vỹ Hoành, ông ở New York thế nào, tôi không biết. Nhưng đứng trên lập trường bạn học, ông đến tìm tôi, tôi phải giúp đỡ ông mới phải.” ”Cảm ơn!” - Trần Vỹ Hoành đáp. Tôi biết con người ông ta rất thông minh, nếu chăm chỉ tu hành sẽ có đại thành tựu. Tôi nói: ”Như thế này đi! Tôi giúp ông đi đến một nơi tu hành thì có thể tránh được lục đạo luân hồi.”

Mắt ông ấy sáng lên, hỏi: ”Nơi nào?” Tôi nói: ”Tôi và Tứ Đại Thiên Vương có nhân duyên kiếp trước, các vị ấy là Thần Hộ Pháp của Phật giáo, là một cõi trời trong số hai mươi cõi trời, chính là tầng trời thứ nhất của Dục giới.” Trần Vỹ Hoành nói: ”Cảm ơn! Chỉ cần không lục đạo luân hồi, tôi vô cùng cảm tạ ngài!” Tôi thỉnh Tứ Thiên Vương đến! Tôi tụng bài ca ngợi Tứ Thiên Vương: Ôm đàn tì bà tấu diệu âm Trì Quốc Thiên Vương. Ngón tay bảo kiếm thân màu lam Tăng Trưởng Thiên Vương. Cầm rắn làm thừng thân màu đỏ Quảng Mục Thiên Vương. Bảo phướn với chồn thân màu vàng Đa Văn Thiên Vương. Bốn vị Thiên Vương này đưa Trần Vỹ Hoành đến tầng trời thứ nhất của Dục giới, để ông ấy ở đó tu hành thì rất tốt. Đợi tu đến khi loại bỏ tất cả chướng ngại thì tự có thể lên Tây phương cảnh thổ. Đối với Trần Vỹ Hoành, tôi chỉ có thể dùng phương pháp này, kì thực Tứ Thiên Vương Thiên là một nơi tu hành rất tốt.

43. Một lá thư cảm ứng

Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh tôn Liên Sinh Phật. Sư Tôn Phật an!

Đệ tử Liên Từ lên mạng tham gia đại pháp hội Hộ Ma Kurukulle Phật Mẫu do Sư Phật làm chủ đàn vào ngày 17 tháng 4 năm 2022, có bằng chứng về cảm ứng thù thắng, xin báo cáo với Sư Phật như sau:

Đệ tử từ nhiều năm trước đã được Sư Phật quán đảnh Nội pháp, cũng vô tình mà đi trên con đường tu Nội pháp. Mãi cho đến mùa hè năm ngoái mới bắt đầu sản sinh ra hiện tượng hỏa đại rất nghiêm trọng, cảm giác rất khó chịu. Những mạch máu nhỏ ở mắt tổng cộng đã bốn lần bị vỡ chỉ trong một thời gian ngắn, kể từ đó đệ tử không thể làm Hộ Ma được, ngày đêm cảm giác khô nóng rất khó chịu, phải ở trong phòng có nhiệt độ dưới 15 độ C, không biết phải làm thế nào mới được.

Cảm ơn Sư Phật từ bi ban mộng thị, vì thế năm ngoái (2021) vào đầu tháng 12, đệ tử đã đến hỏi việc Sư Phật và cầu gia trì chỉ dẫn, cộng thêm tháng 4 năm nay, sau khi cửa khẩu giữa Mỹ và Canada đã mở lại, không cần phải qua kiểm tra nữa, cho nên từ ngày 3 tới ngày 10 tháng 4, đệ tử đã đi Seattle, sau khi được Sư Phật hai lần gia trì thì đã thấy có cải thiện. Tuần lễ thứ ba sau đó, khi đệ tử ở tại đàn thành niệm Phật thiền định, đột ngột nhìn thấy có người cầm một cái ống nước ở bên cạnh phun nước vào đệ tử. Đệ tử thấy thế thì trong lòng vui mừng, đây hẳn là Phật Bồ Tát đang giúp đệ tử dập lửa rồi! Vốn dĩ ngày 17 tháng 4 của tuần đó, đệ tử đã chuẩn bị xong xuôi hành trang để đi Seattle tham gia pháp hội Hộ Ma Kurukulle Phật Mẫu mà Sư Phật chủ trì, kết quả là sáng sớm đột nhiên bị đau lưng, bất đắc dĩ phải tạm hủy bỏ, chỉ còn cách đổi thành tham gia trên mạng lúc 3 giờ chiều.

Rất kỳ diệu, khi chú âm của chủ tôn Hộ Ma vang lên chưa được bao lâu, mặc dù đệ tử nhắm mắt lại, nhưng trước mắt lại xuất hiện một vùng ánh sáng đỏ lớn chưa từng thấy và duy trì rất lâu. Khi ấy trong lòng đệ tử nghĩ, ánh sáng đỏ như thế này không biết liệu có làm cho hỏa càng hừng hực không? Sau đó đệ tử nghĩ lại, màu đỏ không chỉ đại diện cho lòng kính ái của cá nhân mà hẳn là còn đại diện cho lòng kính ái phát đại bồ đề tâm đối với chúng sinh. Trong lúc đệ tử đang định trong ánh sáng bồ đề màu đỏ, sau khi thiền định một lúc lâu, bỗng nhiên có hiện tượng kỳ diệu hiển hiện, phía trên đỉnh đầu đệ tử vô duyên vô cớ xuất hiện một chiếc vòi hoa sen rất to, liên tục không ngừng từ phía trên phun ra rất nhiều nước tắm, trút xuống giống như đang tắm vậy, nhưng trên người không hề có vết nước và cũng không có cảm giác ướt. Trong lòng đệ tử khi ấy cảm động bội phần, chỉ là tham dự pháp hội Kurukulle Phật Mẫu ở trên mạng mà lại được chủ tôn tưới cam lộ mát rượi xuống quán đảnh và đại gia trì, pháp hội của Sư Phật thật là quá thù thắng quá thần kỳ! Buổi pháp hội đó thật khiến đệ tử thu được lợi ích lớn.

Thứ nhất, kể từ sau hôm đó, đệ tử cảm thấy mặc dù nhiệt độ bên ngoài đã dần dần ấm lên, nhưng với nhiệt độ ở trong phòng thì đệ tử cũng dần dần điều chỉnh tăng lên, không còn sợ nóng như lúc trước nữa. Ngày xưa đệ tử yêu thích làm Hộ Ma, nhưng vì lý do hỏa đại mà cũng đã dừng không làm rất lâu rồi, bây giờ dần dần lại có thể làm được, hơn nữa phía trên đầu lúc nào cũng có cảm giác thấy sự mát mẻ của bồ đề tâm nguyệt dịch giáng xuống. Những chướng ngại về thân tâm của đệ tử trong khoảng thời gian này đều nhờ vào sự gia trì của Sư Phật mới có thể được Chư Tôn đón nhận và quan tâm, cuối cùng đã có bước chuyển biến, đệ tử thật sự không ngớt cảm ơn. Đệ tử tin rằng trong tương lai không xa, dưới sự phù hộ của Thượng sư Tam Bảo, đệ tử chắc chắn có thể phá trừ được chướng ngại, vượt qua được cửa này. Cảm ơn Sư Phật!

Thứ hai, Sư Phật giảng dạy về các vị kính ái cũng khiến những tư duy bế tắc của đệ tử đột nhiên được cởi mở. Hai năm nay, do chịu ảnh hưởng của quy định đóng cửa phòng chống dịch bệnh, đệ tử chuyển hướng sang phương pháp tự nhốt mình tự tu, nên tâm thái trở nên thờ ơ. Nghe được Sư Phật khai thị rằng: kính ái là điều mà ai ai cũng cần, trên thế gian này cần phải chú trọng mối quan hệ giữa người với người, không thể tự cho mình là thanh cao. Sau khi tham gia pháp hội, tâm thái của đệ tử đột ngột ngột được phá bỏ, ái tâm, nhiệt tâm, bồ đề tâm lại bùng cháy, nhanh chóng bước ra khỏi đám khói mù, đệ tử sống lại rồi!

Những chuyển biến về thân tâm của đệ tử trong cuộc đời này tất cả đều do thần thông của Sư Phật tạo nên. Tại đây, đệ tử cung kính chân thành thỉnh Sư Phật nhất thiết phải trụ thế gian thật lâu dài, chuyển pháp luân lâu dài, độ hóa chúng sinh Ta Bà đang lạc đường. Cảm ơn lại cảm ơn đại từ bi của Sư Phật!

Kính chúc Sư Tôn Phật thể an khang, pháp hỷ tự tại. Thỉnh Phật trụ thế, trường chuyển pháp luân. Đệ tử Liên Từ ở Vancouver Canada cảm ơn và cúi lạy từ xa. Ngày 28/4/2022.

44. Nhật ký trong mơ

Tôi (Lư Sư Tôn) trước khi bắt đầu chương sách này phải giải thích rõ: Đây là nhật ký trong mơ của một đệ tử ở Singapore là Liên Hoa Lệ Phi. Tôi có sửa một số từ ngữ giúp cô ấy, nhưng không làm mất đi ý gốc.

Nhật ký trong mơ của cô ấy như sau.

Đầu năm 2020, đệ tử Liên Hoa Lệ Phi nhờ có được cơ duyên sâu đậm nên đã bước vào trạng thái bán ẩn cư. Lánh xa việc đời và những ồn ào, chuyên chú vào thanh tịnh thân khẩu ý, tu sửa cho đúng hành vi và suy nghĩ của bản thân, sản sinh ra những giác ngộ rất khác về con người và sự vật sự việc.

Cùng năm đó, đệ tử chuyên tu Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, thế là Lư Sư Tôn bắt đầu liên tục nhập mộng.

Ghi chép lại nhật ký trong mơ như sau:

Tháng 11/2020. Lư Sư Tôn cầm bút lông chấm một cái trên trán tôi. Nói rằng: ”Đây là để thọ ký cho cô!”

Tháng 1/2021. Lư Sư Tôn nói với tôi: ”Cô là Không Hành Mẫu!” Chú thích: hành giả nữ giúp đỡ người tu hành thành tựu. Tôi nói: ”Lư Sư Tôn, thầy không thể liên lạc được với con đâu!” Lư Sư Tôn đáp: ”Không sao, cho dù cô có lẩn trốn thì tôi cũng có thể tìm được cô.” Lư Sư Tôn tôi có vô số hóa thân.

Tháng 5/2021. Tôi hỏi: ”Con nên tu hành thế nào?” Lư Sư Tôn đáp: ”Là chính cô là được rồi. Thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, tâm có ánh sáng.”

Tháng 5/2021. Lư Sư Tôn không nói gì. Tôi nói: ”Mặc dù Lư Sư Tôn đã rất già rất già rồi, con vẫn cứ đi theo bước chân của thầy.”

Tháng 8/2021. Lư Sư Tôn hỏi tôi: ”Hoàng Liên Hoa Đồng Tử hiện ra ánh sáng gì?” Tôi đáp: ”Ánh sáng phúc túc.” Lư Sư Tôn nói: ”Toàn bộ hư không đều là của cô.”

Tháng 9/2021. Lư Sư Tôn gia trì cho tôi. Tiến vào tòa sen trong tim tôi. Hai người hợp nhất. Điều này tương tự như nhập ngã ngã nhập của Mật giáo, hết sức thù thắng.

Tháng 10/2021. Tất cả mọi thứ trên đời này đều là tu hành. Trọng điểm nằm ở hai chữ “chuyển hóa”. Phàm phu thế tục vĩnh viễn không hiểu, chỉ cần thanh tịnh, những thứ khác chẳng hề gì. Lư Sư Tôn nói với tôi như vậy.

Tháng 11/2021. Lư Sư Tôn gia trì cho tôi. Toàn thân tôi chấn động. Kể từ hôm đó, khí, mạch, minh điểm của tôi đều thông. Khí vận chuyển đến toàn thân.

Tháng 3/2022. Lư Sư Tôn nói: ”Tôi sẽ đưa cô trở về bản địa. Phật tính hằng tại, tự tại nhậm vận.” Tất cả viên mãn. Om brum!

45. Hóa thân của Lư Sư Tôn

Liên Hoa Mỹ Cầm ở Lyon nước Pháp nói, trong cuốn sách số 286 của Lư Sư Tôn, chương “Tôi không chỉ có một con người”, viết rằng: ”Tôi có một con người, nhưng linh hồn của tôi thì rất nhiều. Tôi chỉ cần tĩnh tọa thì Lư Thắng Ngạn này đến Lư Thắng Ngạn khác đều chạy ra ngoài, họ đi ra ngoài làm cái gì? Đáp án là: "Làm việc!" (cứu độ chúng sinh).”

Tôi, Liên Hoa Mỹ Cầm, có thể chứng minh thật sự đích thực là như vậy. Vào ngày 28/12/2021, tôi đã bị ngã khiến bị thương cánh tay phải và vai phải, mặc dù không bị gãy xương nhưng đau rất ghê gớm, ban đêm không ngủ được. Thời gian này. Buổi sáng tôi trông thấy Lư Sư Tôn mỉm cười đến, kéo cánh tay tôi rất thân thiết. Gia trì! Xoa bóp! Kết của là cơn đau ở cánh tay tôi đã tan biến, hồi phục lại như bình thường. Tôi đã có thể ngủ rất ngon. Đây cũng là một câu chuyện linh dị về việc tương ứng với Sư Tôn.

Liên Hoa Nhất Lực ở nước Anh nói: Tôi nhìn thấy hóa thân của Lư Sư Tôn. Lư Sư Tôn tiến vào bên trong thân thể của tôi. Trung mạch rung động từ dưới lên trên, thẳng đến huyệt đỉnh đầu. Sự rung động này không chỉ là cảm giác thôi đâu, mà là cả người dường như nảy lên, cảm giác sung sướng nhờ lực gia trì ấy kéo dài rất lâu. Mỗi lần tôi tĩnh tọa. Trung mạch dường như đều bật nảy. Pháp hỷ tràn đầy. Cảm ơn! (Chú thích: Liên Hoa Nhất Lực chính là cô Sư Đầu.)

Song Liên ở Singapore nói: Lư Sư Tôn có mặt ở khắp nơi. Trong giấc mơ ban đêm, tôi nhìn thấy một con ma đi vào phòng, tôi vội vàng niệm chú nhưng nó cũng không đi. Sau đó tôi niệm tâm chú Liên Hoa Đồng Tử: “Om guru liansheng siddhi hum”. Lư Sư Tôn đã xuất hiện đuổi con ma đó đi ra. Từ đó, ma không dám đến nữa! Hóa thân của Lư Sư Tôn đã cứu tôi rất nhiều lần.

Liên Hoa Lệ Phi ở Singapore nói: Tôi sinh ra đời thì đã quy y Lư Sư Tôn rồi. Khi tôi còn nhỏ thì Lư Sư Tôn đã xuất gia rồi! Sau đó, tôi chỉ mới đến Seattle nước Mỹ có một lần. Nhưng tôi ở Singapore nhìn thấy hóa thân của Lư Sư Tôn thì cực kì nhiều lần. Ngày 3/5/2022, tôi đến Seattle lần thứ hai. Cảm giác của tôi là: “Cố nhân trùng phùng.” Vui mừng rơi nước mắt.

Hoàng Đình ở Australia nói: Nhà tôi ở Melbourne, nhưng tôi lại làm việc ở Tây Úc. Tôi có cảm ứng liên miên. Những sự việc cảm ứng có kể mãi cũng không hết. Tôi tận mắt nhìn thấy hóa thân của Lư Sư Tôn. Có thời gian, tôi sẽ viết ra những sự thật cảm ứng của mình để kể với mọi người.

Liên Hoa Nhất Thành ở Đài Loan nói: Có một buổi tối, tôi đang ngủ thì bị người ta véo mũi ba lần. Tôi tỉnh dậy, nhìn thấy hóa thân của Lư Sư Tôn đứng phía trước giường mình, nói với tôi rằng: “Đi Seattle mau!” Thế là tôi đã đến rồi!

Rất nhiều người nhìn thấy hóa thân của Lư Sư Tôn! Đây chỉ là phần chóp của tảng băng trôi thôi. Hóa thân của Lư Sư Tôn xuất hiện ở các nước trên toàn thế giới.

46. Lực gia trì của Lư Sư Tôn

Chia sẻ cùng mọi người ấn chứng chân thực về việc Sư Phật gia trì cho đệ tử Malaysia và gia đình bị nhiễm virus Corona.

Viết bởi Liên Hoa Lina tại Nhẫn Trí Đường nước Đức. Ngày 12/4/2022.

Sư tỉ Liên Hoa Ngọc Liên và gia đình đến từ Malaysia vào ngày thứ sáu 8/4/2022 đã bị lây nhiễm virus Corona chủng Omicron, hai đứa con gái và bản thân bị sốt cao không thuyên giảm. Đứa con gái lớn 6 tuổi là Chung Hân Ân vào ngày chủ nhật đã bị sốt 41 độ không giảm, bệnh viện lại không thể cho nhập viện để điều trị, cho đến buổi tối thì cháu bé bắt đầu nói năng lung tung lộn xộn. Trong tình huống vào ngày chủ nhật không thể nào viết thư thỉnh cầu Sư Tôn gia trì, thật may có Thượng sư Huệ Quân giúp đỡ, trước khi bắt đầu pháp hội Hộ Ma đã thỉnh được Sư Tôn hà khí gia trì vào tấm ảnh của đứa con gái lớn. Sau khi gia trì thì buổi tối hôm đó cơn sốt cao lập tức suy giảm, nhờ đó mới có thể qua được giai đoạn nguy hiểm.

Sau đó, sư tỉ Ngọc Liên và đứa con gái nhỏ là Chung Kiều Ức cũng trở bệnh nặng hơn, hai người sốt cao đến 39,5 độ không giảm, đau đầu dữ dội và đau họng, người nữ giúp việc trong nhà cũng bị nhiễm bệnh và bị ho cực kì nghiêm trọng, lưng cũng bị đau ghê gớm.

Sau đó đến ngày thứ hai, tại trung tâm hồi đáp thư tín của Tông Ủy Hội, sau khi Sư Phật đã gia trì cho thư và ảnh của sư tỉ Ngọc Liên và gia đình thì sư tỉ Ngọc Liên và con gái nhỏ lập tức hạ sốt.

Sư tỉ Ngọc Liên kể lại rằng, ở Malaysia khoảng 6 đến 7 giờ sáng (thời gian ở Seattle là 5 đến 6 giờ chiều, đó là lúc Sư Tôn gia trì thư từ hỏi chuyện), đột nhiên cảm thấy có một dòng chảy ấm áp từ đỉnh đầu đi vào trong thân thể ba lần, cảm giác vô cùng vô cùng dễ chịu, cơn sốt cao lập tức hạ xuống 38 độ, đứa con gái cũng hạ sốt, hai người nhanh chóng khỏe lại. Còn tình hình của người giúp việc thì sau khi được Sư Tôn gia trì cũng nhanh chóng biến chuyển tốt lên.

Cảm ơn đại gia trì của Sư Phật. Lực gia trì của Căn bản Thượng sư thù thắng bất khả tư nghì! Sư tỉ Ngọc Liên hy vọng có thể đem cảm ứng chân thực được Sư Phật gia trì cứu độ của mình và gia đình kể cho các đệ tử Chân Phật Tông, quy y Liên Sinh Hoạt Phật là sự lựa chọn chính xác, tuyệt đối không sai. Mọi người hãy trân trọng Chân Phật Mật Pháp trân quý vô thượng mà Sư Phật đã truyền thụ để mà tinh tấn tu trì. Cảm ơn vô hạn Sư Tôn vĩ đại!

Cũng vô cùng cảm tạ các vị Thượng sư, pháp sư, nhân viên hoằng pháp và đồng môn đã tu pháp tụng kinh hồi hướng cho sư tỉ Ngọc Liên và gia đình, cảm ơn mọi người!

Cảm ơn sư tỉ Ngọc Liên đã pháp tâm tham gia hoạt động tụng 500 bộ kinh Địa Tạng để thỉnh Phật trụ thế do Nhẫn Trí Đường ở Đức tổ chức. Sư tỉ Ngọc Liên mỗi ngày đều tụng một bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho thỉnh Phật trụ thế, công đức vô lượng. Cảm ơn Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát đã gia trì. Cảm ơn Sư Phật đại gia trì.

Cầu nguyện Sư Phật trường thọ khỏe mạnh, thỉnh Phật trụ thế, hằng chuyển pháp luân! Om guru liansheng siddhi hum.

47. Bài viết của Thượng sư Liên Hiểu

Chỉ có một tình huống vượt qua sự tốt xấu, đó chính là tịnh tâm.

Tình yêu như thế nào thì có thể tự do? Chỉ có người vô tâm như gương, người mà trong tâm gương không dính mắc bất kì sự vật tình cảm nào. Mỗi người đều có Như Lai tạng, có kho báu như ý “nhất hô vạn ứng” [khởi một niệm, vạn sự sẽ ứng theo, có sức mạnh tối thượng].

Ra sức giữ khư khư thì cũng không có tác dụng gì, nếu tâm rất hẹp hòi, lúc nào cũng phân chia đây là của ai, kia là của ai, buổi sáng có được bao nhiêu, buổi chiều tổn thất bao nhiêu, cái tốt cho người ta thì không có lợi cho ta, tham lam, sân hận, ngu si, bất an, oán hận…. Thế thì chẳng thể nào chứng minh, hiển hiện được cái kho báu ẩn giấu ấy.

Bạn đã rõ ràng và kiên quyết chỉ chọn những suy nghĩ hẹp hòi, những suy nghĩ nhỏ nhặt, những suy nghĩ vẩn đục (thế nhân đa phần đều không tự biết). Cho nên những gì có thể thấy trước mắt tự nhiên sẽ rất ít, quá ít, rất tồi tệ, hơn nữa sự mờ mịt và hồ đồ lại tiếp tục không ngừng sinh ra. Bạn vạch ra nhiều hạn định cái gì là của anh của tôi, đó là sự phân biệt bản thân với người khác, hạn định, tranh chấp, mê đắm. Tư tưởng thì giới hạn, hành động thì bám chấp. Điều đó đương nhiên dẫn đến những biểu hiện như hiện nay, tất cả đều hữu hạn.

Sau khi một người phàm trở thành ếch ngồi đáy giếng, tất cả những gì anh ta thấy và ở trong đó là một công ty hữu hạn. Vì thế, một khi đã mê đắm, người ta càng rơi vào trạng thái không thể nào rút ra được. Từ đó hàng tỉ năm đã trở thành thói quen xấu, thành thế lực ác và hạng bẩn thỉu. Chấp vào một việc giống như trong tim mọc ra một sợi lông, một lớp da, hễ khi nào nhổ ra thì đương nhiên sẽ đau thấu tim gan! Do đó, trụ tướng phải trở về với cái vô tướng của tướng, càng là một việc vô cùng khó khăn, buộc phải trải qua nhiều lần gọt giũa mới được. Tu hành cần phải thử thách dài lâu mới có thể thành tựu, nói trắng ra thì đó cũng là tự tìm đến rắc rối. Khi đã rơi vào hố sâu bám chấp, bạn bảo là mắng người khác, tự nhiên đều là mắng sai rồi. Nên mắng chính bản thân mình đó. Giống như khi mới yêu thì mong đợi, những mong đợi tốt đẹp đều là quyết định của chính mình: Có thể là điều kiện của người đó rất tốt, hoặc đẹp trai xinh gái, có thể là do sức hút của người đó quá hấp dẫn, những lời yêu thương và hứa hẹn mà người đó nói ra quá hấp dẫn…

Tuy nhiên, điểm quan trọng là: Bản chất thực sự của vũ trụ không bảo bạn mong đợi vào sự phân biệt hay chia cắt, là chính bản thân bạn vì các lý do, đạo lý khác nhau mà bạn tận lực và quan tâm thôi. Cho nên, đau khổ là vì bạn đã chôn cái nhân của đau khổ từ trước mà bây giờ có được quả này. Tận lực hay quan tâm mong đợi chính là quả bom hẹn giờ do chính bạn chế tạo ra mà bạn không hề hay biết.

Tình yêu, công danh, sự nghiệp,… đều là con người lấy những nguyên tố hình tượng huyễn ảo và xem là thật, sau đó tự mình chôn xuống những mong đợi như vậy, những quả bom hẹn giờ của những kỳ vọng đẹp đẽ.

Nguyên nhân mà sau cùng nó sẽ phát nổ là: Phàm những sự vật được cấu thành bởi “duyên khởi tính không” (tình yêu, công danh, sự nghiệp…) đều có tính tạm thời của nhân duyên hòa hợp, là hiện tượng cấu thành có tính nhất thời. Bắt đầu từ ngày đầu tiên xây dựng “thành-trụ”, nó đã bắt đầu tiến về “hoại-không” cuối cùng. Không một thứ nào là ngoại lệ!

Thứ bằng vàng sẽ bị lửa khắc mà biến thành không (điểm nóng chảy của vàng là 1.064,43 độ C, điểm sôi là 2.808 độ C. Trên 2.808 độ C thì vàng sẽ bốc hơi mà “thăng hoa” hết. Tức là nội trong 2.808 độ C thì vàng vẫn miễn cưỡng tồn tại được), lửa thì bị nước khắc chế hóa thành khói…

Ngũ hành hoàn thiện lẫn nhau, cũng phá hủy lẫn nhau. Trồng hoa nhất định sẽ được hoa. Nhưng hoa nở tất nhiên sẽ có hoa tàn. Bạn chỉ ham thích hoa nở, thích sự rực rỡ khi hoa nở, không ưa sự khô héo khi hoa tàn… Bạn xác định rõ cách nghĩ này rồi và liên tục xác nhận điều này (trình tự này). Vậy thì kết quả tất nhiên sẽ là: Bởi quy luật vận hành “thành, trụ, hoại, không” của các phép tắc do chân tính hiển lộ, việc bạn đặt ra chỉ là mơ tưởng, không phù hợp với phép tắc.

Ví dụ, sự chấp thuận và mong đợi của bất kì bên nào trong tình yêu với nhau là sự lựa chọn và sắp đặt lẫn nhau theo phép tắc vũ trụ, không phải là sự cho phép của phép tắc vũ trụ.

Thề non hẹn biển đại khái chỉ dựa trên cách nghĩ hết sức ngây thơ là: Núi vĩnh viễn không đổ, biển vĩnh viễn không cạn. Trên thực tế, làm gì có chuyện ấy? Biển cả thay đổi mới là chân tướng. Núi sẽ sụp, đất sẽ nứt, đó mới là chân tướng. Phạm pháp (phép tắc vũ trụ) thì nhất định sẽ phải chịu pháp chế. Tình yêu cá nhân, tài sản cá nhân, độc quyền, v.v… dường như đều có đạo lý, nhưng vẫn không thể nào không nằm trong phép tắc của sự vận hành “thành, trụ, hoại, không”.

Kết quả đương nhiên là bạn chắc chắn sẽ đi đến cái giây mà bạn đã đặt hẹn quả bom hẹn giờ đó: Khi người yêu thay lòng đổi dạ hoặc chết đi thì quyền lực, danh vọng, công danh, sự nghiệp bắt đầu sa sút, trở nên điêu tàn thậm chí đảo lộn, âm số, âm tài sản. Tứ đại gia tộc ngày xưa làm gì còn? Tứ đại gia tộc cũ ở đâu rồi? Các đại gia tộc mới thì đang “thăng quan tiến chức đầy ngạo nghễ, một ngày ngắm hết hoa Trường An”, lẽ nào họ sẽ không đi về hướng suy bại cũ rích sao?

(Chú thích: Lư Sư Tôn rất thích thú với bài viết này. Nó có tác dụng cảnh giới người đời, đặc biệt là đối với những người có tâm lượng hẹp hòi. Những con mắt nhỏ, những cái mũi nhỏ, nên ngẫm nghĩ đi, làm sao thanh tịnh tâm của chính mình, chứ không phải một mực đi chỉ trích người khác. Phật tính là bình đẳng, không có phân biệt. Hành giả nên yêu kính lẫn nhau.)

(Hết)

Mục lục