📗

296. Tặng bạn một đóa hoa

image

Tặng bạn một đóa hoa

🪷 Ý nghĩa sâu xa của thiền

Văn tập: 296 Xuất bản: 10/2023 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Năm ấy. Tôi (Lư Sư Tôn) ở Đài Loan, chân bị mắc chứng viêm mô tế bào phải nằm ở nhà. Đúng vào lúc mơ mơ hồ hồ, nửa mơ nửa tỉnh. Tôi bỗng nhìn thấy một lão hòa thượng tóc bạc ngồi trên đám mây, chỉ thấy ông ấy tự lẩm bẩm với chính mình: ”Vị Lư hành giả này không phải do ta cứu thì không xong rồi, cũng xem như là tri âm vậy.” Ông ấy nói: “Tôi là Hư Vân.” Lão hòa thượng Hư Vân vươn tay ra, bàn tay này hết sức kì quái, càng vươn càng dài, xuyên qua đám mây trắng, xuyên qua hư không, xuyên qua ngôi nhà, rồi bất ngờ vươn tới phòng ngủ của tôi. Sau đó, xoa đầu tôi. Thế rồi, tôi khỏi bệnh!

Về sau này, tôi biết lão hòa thượng Hư Vân là tổ sư Thiền tông. Tôi (Lư Sư Tôn) và Thiền tông có nhân duyên. 1. Khi chưa xuất gia, tôi đã quy y lão pháp sư Lạc Quả, lão pháp sư là người kế thừa của Tào Động tông. 2. Khi tôi xuất gia, thầy cạo đầu cho tôi là đại hòa thượng Quả Hiền, đại hòa thượng Quả Hiền là người kế thừa của Lâm Tế tông. 3. Khi tôi ốm nằm liệt giường, người sờ đầu trong hư không là lão hòa thượng Hư Vân, lão hòa thượng Hư Vân là người kế thừa của Vi Ngưỡng tông. (Lão Hư trải qua nhiều tông phái.) Tôi tuy là Mật tông. Nhưng, hiểu biết Thiền tông. Sau khi tôi quy y Phật giáo, tôi đã học Tịnh Độ tông đầu tiên, cho nên tôi có thể nói, mọi tông tôi đều hoằng.

Tôi yêu thích bài kệ của lão hòa thượng Hư Vân: Lý do gì đây kẻ ngốc này Xuất đầu lộ diện thời mạt pháp Than ôi Thánh mạch gặp nguy hiểm Việc mình bỏ lơ lo cho người Lên đỉnh núi hoang tìm câu cá Xuống đáy biển rộng nổi lửa đun Không biết tri âm tự đau buồn Cười vỡ hư không trách gì đây Hỏi lớn vì sao không buông bỏ Muôn dân khổ tận khi nào ngơi.

Bài kệ này là lão hòa thượng Hư Vân tự đề, xem ra lão già ấy cũng xem tôi là tri âm rồi. Tôi thích Thiền tông ở: Vô sở đắc. Vô sở trụ. Vô sở vị. Ba cái “vô” này là lời răn mình của tôi, luôn luôn cảnh giác chính mình. Tên cuốn sách này là “Tặng Bạn Một Đóa Hoa”. Đó là: Thế Tôn tại Linh Sơn Hội Thượng, cầm hoa cho mọi người thấy, lúc này mọi người đều im lặng, duy có tôn giả Ca Diếp khẽ cười. Thế Tôn nói: ”Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, giao phó cho Maha Ca Diếp.” Nay tôi “tặng bạn một đóa hoa”. Bạn cũng có thể cầm hoa. Vì sao cầm hoa? Hãy nghĩ đi! Chúc mở sách có được lợi ích.

Liên Sinh Hoạt Phật. Lư Thắng Ngạn

Sheng-Yen Lu 17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A Tháng 4/2023

01. Phùng Phùng tặng tôi “Mây của hư không”

Khi tôi di cư đến Seattle nước Mỹ, tôi nhanh chóng quen biết cư sĩ Phùng Phùng sống tại Vancouver Canada. Tác gia nổi tiếng Phùng Phùng tặng tôi “Mây của hư không” (ba quyển lớn). Nay tôi đưa chữ ký mà tác gia Phùng Phùng ký sách tặng tôi ra đây.

image

Phùng Phùng tặng tôi cuốn “Mây của hư không” vào ngày 16 tháng 11 năm 1985.

Nhân vật chính trong cuốn “Mây của hư không” đương nhiên là lão hòa thượng Hư Vân. Từ đó, tôi và lão hòa thượng Hư Vân đã kết nên duyên. Lão hòa thượng Hư Vân thường tự gọi mình là tỳ kheo Huyễn Du, bản thân tôi có hứng thú với hai chữ “Huyễn Du” này. Huyễn là hư không. Du là du lịch. Du lịch hư không khiến tôi nghĩ rất nhiều, lão hòa thượng Hư Vân tạ thế năm 1959. Ông ấy đã sống 120 tuổi. (sống thọ) Nhưng, vẫn ra đi! Cư sĩ Phùng Phùng cũng đi rồi! Tôi nghĩ đến chính mình, cũng sắp đi rồi nhỉ! Nghĩ đến huyễn du, thử hỏi, có người nào không huyễn du?

Cá nhân tôi vô cùng yêu thích chữ “huyễn” này. Vì sao yêu thích chữ “huyễn”? Bởi vì thân ta là huyễn. Đương nhiên tất cả những người xung quanh đều là huyễn, mọi việc lớn nhỏ đều là việc huyễn. Tiếp đó, cả thế giới này đều là thế giới huyễn hóa, không hề là chân thực. Từ thân ta là huyễn lại dẫn đến tâm, cái tâm sinh ra từ “cái tôi huyễn” đương nhiên cũng là cái tâm huyễn. Nghĩ như vậy, đúng không? Phật nói: ”Thực tướng phi tướng.”

Tôi viết mấy bài kệ: Dưới gốc cây tùng là nhà tôi, Nắng chiều mây ráng tựa khói hoa Về nhà nghỉ, Thân đã nghiêng, Thuyết pháp giảng kinh là kiếp sống.

🌟

Vì lúc rảnh chúng sinh hỏi việc Theo đuổi danh lợi kèm thắng thua Bàn được mất Hỏi thịnh suy Mấy người hiểu được vô sở trụ.

🌟

Mua được đất lại mua được nhà Ngày tháng nghỉ hưu được nhàn nhã Chốn hồng trần Loạn cào cào Bận bịu thân xác huyễn hóa có ích gì.

Đọc ba bài kệ này, bạn ngộ được điều gì? Bạn có hiểu? Hay không hiểu? Nghĩ đi!

02. Hoa ở chốn nào?

Khi tôi ở Seattle, bữa trưa và bữa tối hàng ngày tôi đều ăn cơm tại Seattle Lôi Tạng Tự. Ăn cơm xong, tôi đi bộ về Chân Phật Mật Uyển, thường xuyên có đệ tử quỳ ở bên đường dâng hoa tặng tôi. Tôi cầm lấy hoa, lập tức cúng dường hoa đến Phật Bồ Tát trong hư không, tôi cảm ứng thấy Phật Bồ Tát tiếp nhận cúng dường. Sau đó, tôi trả lại hoa cho đệ tử dâng hoa. Như thế, Ngày ngày như thế, Tháng tháng như thế, Năm năm như thế, Tôi bất chợt nghĩ đến: “Cuối cùng thì hoa ở chốn nào?” Đệ tử dâng hoa cho tôi, đương nhiên là ở chỗ tôi. Tôi dâng hoa cho Phật Bồ Tát, đương nhiên là ở chỗ Phật Bồ Tát. Tôi lại trả lại hoa cho đệ tử, đương nhiên là ở chỗ đệ tử. Cuối cùng thì bỏ hoa ở chỗ nào? Không biết nữa? Vấn đề chính là ở đây, cuối cùng, hoa ở chốn nào? Nếu là tôi trả lời thì có một bài thơ luyến tiếc hoa: Tuổi trẻ tóc xanh đi ngắm hoa Cưỡi ngựa thổi sáo cùng đàn ca Nay tuổi già đến càng tiếc nuối Cả ngày ngắm hoa vẫn chẳng đủ. Không lãng phí nhiều lời, rốt cục hoa ở chốn nào? Câu trả lời chính xác là: Hoa ở khắp chốn. Ngoài ra, còn có một đáp án: Không có hoa. Rốt cục là hoa ở khắp chốn hay là không có hoa? Nghĩ đi!

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Mục đích sâu xa của thiền nằm ở minh tâm kiến tính, loại bỏ ô nhiễm của tâm mình, thấy được diện mục của tự tính. Còn nói: Tự tính chính là đức tướng trí huệ của Như Lai. Ô nhiễm chính là bám chấp vọng tưởng. Vì thế, tôi nói với mọi người: Hoa phi hoa. Sương phi sương. Phải “nín lặng các duyên, một niệm không sinh”.

🌟

Tặng bạn một đóa hoa, thật là tặng bạn một đóa hoa sao? Không phải, đó là mục đích sâu xa của thiền. Hoa đào hồng. Hoa lê trắng. Trong hoa có rất nhiều ong mật. Vù. Vù. Vù. Vù. Vù. Vù. Còn nữa: Vừa là hạ lan, vừa là thu cúc. Mơ hồ là xứ sở thần tiên. Trong gió tây, phù dung mang mưa. Hương thơm bay khắp thành. Lão hòa thượng Hư Vân nói với mọi người: Cái gọi là mục đích sâu xa, cái gọi là nhìn lại tự tính, Tuyệt đối không phải là dùng con mắt để nhìn, cũng không phải là dùng tai để nghe, không phải là dùng mũi để ngửi, Mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, Chính xác là chạy theo thanh sắc, bị vật trói buộc, gọi là tục lưu [trôi theo thế tục]. Phải không sinh không diệt mới phải. Đây mới là nhìn lại tự tính. Thiền chính là nhìn lại tự tính. Nhìn lại thế nào? Thế nào là không sinh? Thế nào là không diệt? Nghĩ đi!

03. Nhân quả không mơ hồ

Lão hòa thượng Hư Vân tin sâu sắc vào nhân quả, thường xuyên nhắc nhở hành giả không được mơ hồ về nhân quả. Nhưng, hành giả ngày nay, có một số người, cho rằng “tất cả đều là mộng”, “tất cả đều là huyễn”. Vì đã là mộng huyễn, làm gì có nhân quả? Tôi nói: Cho dù thành Phật, vẫn có nhân quả. Muốn thành Phật, nhất định phải có nhân của thành Phật mới có thể có quả của thành Phật. Tôi lại nói: Bạn muốn đến Tây phương Cực Lạc thế giới, tịnh thổ của A Di Đà Phật, cũng phải có nhân duyên mới có thể đi được. 1. Không được thiếu thiện căn. 2. Nhất tâm bất loạn. 3. Niệm Phật. Ba điều này là nhân. Còn Tây phương Tam Thánh hiện tiền tiếp dẫn là quả. Đạo lý này rất đơn giản, không được xem thường.

Lão hòa thượng Hư Vân thường kể một câu chuyện: Thiền sư Bách Trượng có một hôm lên pháp tọa, khi xuống pháp tọa, mọi người đã tản đi. Nhưng có một cụ già chưa đi. Thiền sư Bách Trượng hỏi: ”Có việc gì?” Cụ già trả lời: ”Tôi không phải là người, thật ra là hồ tinh, kiếp trước là người đứng đầu nơi này, vì có học giả hỏi: “Người đại tu hành, có còn rơi vào nhân quả không?” Tôi nói: “Không rơi vào nhân quả.” Chính vì thế mà đọa lạc, làm hồ tinh hoang 500 năm, chẳng thể thoát thân, xin hòa thượng từ bi khai thị!” Bách Trượng nói: ”Vậy ông hỏi đi.” Cụ già đó liền nói: ”Xin hỏi hòa thượng, người đại tu hành có còn rơi vào nhân quả không?” Bách Trượng đáp: ”Không tránh được nhân quả.” Cụ già nghe lời này xong thì đại ngộ. Cụ già khấu tạ nói: ”Nay nhờ có lời của hòa thượng mà tôi siêu thoát thân cáo, tôi ở dưới tảng đá sau núi, cầu hòa thượng dùng nghi lễ dành cho tăng đã khuất để tiễn tôi.” Ngày hôm sau, ở dưới tảng đá sau núi, Bách Trượng dùng cây gậy bới lên được một con cáo chết, sử dụng nghi lễ dành cho tăng đã khuất để chôn cất cho nó. Câu chuyện về nhân quả này, lão hòa thượng Hư Vân thường nhắc đến, đủ để cảnh giác người đời. Người học thiền rất dễ rơi vào vô nhân quả. Cho rằng: Vô ngã. Vô nhân. Vô chúng sinh. Vô thọ giả. Từ đây suy ra, không người không ta, đương nhiên là không có nhân quả rồi, nhưng họ quên mất, trong thân người, sinh tử của mỗi một tế bào cũng là có nhân quả. Cho dù là cao tăng đại đức, người đại tu hành, cũng vẫn có nhân duyên quả báo. Cái gọi là: Muốn biết nhân kiếp trước, Là kiếp này đang chịu; Muốn biết quả kiếp sau, Là kiếp này đang làm.

Còn nữa: Giả sử trăm nghìn kiếp Nghiệp đã tạo không mất Nhân duyên khi gặp lúc Quả báo vẫn tự chịu.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhân địa không thật, tạo quả đan xen.” Đại sư Lục Tổ Huệ Năng trông thấy cờ bay bay liền nói: “Không phải cờ động, không phải gió động, chính là tâm động.” Tâm động cũng là nhân đó!

04. Lại bàn nhân quả

Lão hòa thượng Hư Vân thường xuyên yêu cầu người học tin sâu sắc vào nhân quả, lão hòa thượng còn nhắc đến một câu chuyện khác: Trước thời Phật Thích Ca Mâu Ni, ở trong thành Ca Tỳ La Vệ, có một xóm nhỏ sinh sống bằng nghề bắt cá. Trong xóm có hồ lớn, năm đó hạn hán nước cạn, các loài cá trong hồ lớn đó đều bị người trong xóm nấu ăn, cuối cùng chỉ còn lại một con cá to nhất cũng bị đem ra nấu. Trong xóm chỉ có một đứa trẻ không bao giờ ăn cá, vào ngày hôm đó chỉ gõ vào đầu con cá ba cái cho vui. Sau này Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế, vua Ba Tư Nặc rất tin tưởng Phật pháp, đã cưới một cô gái họ Thích, sinh hạ một thái tử, chính là vua Lưu Ly. Lúc còn nhỏ, vua Lưu Ly đi học trong thành Ca Tỳ La Vệ. Có một hôm cậu ngồi lên pháp tọa của Phật Thích Ca Mâu Ni để chơi, bị người ta trách mắng và ném xuống khỏi ghế nên cậu đã ôm hận trong lòng. Cho đến khi vua Lưu Ly lên ngôi trở thành quốc vương liền dẫn đại quân tấn công thành Ca Tỳ La Vệ, tàn sát vô số người trong thành. Khi ấy, đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni đã bị đau ba ngày. Khi bị tấn công, đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni thỉnh Phật cứu gia tộc Thích Ca, Phật nói: “Định số khó chuyển.” Tôn giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất dùng bát của mình để hút năm trăm người của gia tộc Thích Ca vào trong đó, cho rằng có thể cứu được năm trăm người, nào biết khi đổ ra, tất cả đều đã hóa thành máu. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Đây đều là nhân duyên quả báo.” Vua Lưu Ly chính là con cá lớn. Đại quân là tộc cá bị ăn thịt. Gia tộc Thích Ca bị sát hại chính là gia tộc đã ăn cá. Đứa trẻ chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vì gõ vào đầu cá nên Phật đã bị đau đầu ba ngày. Đây đều là định nghiệp, có nhân có quả. Về sau, vua Lưu Ly đọa vào trong địa ngục, oan oan tương báo không có hồi kết. Nhân quả thật sự đáng sợ.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) giảng Kinh Duy Ma Cật, giảng đến một đoạn trong đó: Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Bảo Tích Bồ Tát: Vì Bồ Tát trực tâm (nhất tâm), cho nên đắc thâm tâm (đạo tâm). Vì đắc đạo tâm thâm hậu mới có thể điều phục ý niệm của hành giả. Vì điều phục được ý niệm mới có thể hành đạo. Có hành đạo rồi mới có tâm hồi hướng. Có tâm hồi hướng rồi mới có pháp môn phương tiện. Có pháp môn phương tiện rồi mới có thể độ hóa các kiểu chúng sinh. Vì chúng sinh được độ mới có quốc thổ thanh tịnh xuất hiện. Phật thổ thanh tịnh. Thuyết pháp thanh tịnh. Trí huệ thanh tịnh. Đạo tâm thanh tịnh. Công đức thanh tịnh. Tất cả những điều này đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: ”Tùy sự thanh tịnh của tâm mà Phật thổ thanh tịnh.”

Cá nhân tôi cho rằng: ”Đây chính là nhân quả.” Chuyện nhân quả cần phải tin sâu sắc, tránh tạo nhân ác là quan trọng nhất, bởi vì: Trồng đậu được đậu. Trồng dưa được dưa. Tôi bây giờ là: Người ở Lôi Tạng Tự Tâm du ngoạn trong kinh Thường tu pháp siêu độ Độ mình cũng độ người.

Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Bất luận là người nào, nếu không tin nhân quả, làm bừa những hành vi sai trái, đừng nói tu không thành, tam ác đạo cũng sẽ không thiếu người đó đâu.”

05. Đừng sợ tạp niệm

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Rất nhiều người đều sợ tạp niệm, mọi người đều nói tạp niệm quá nhiều, cho rằng tạp niệm rất khó hàng phục. Lão Hư còn nói: Đừng sợ tạp niệm, cũng không cần phí lực đi điều phục tạp niệm. Bạn phải nhận ra đó là tạp niệm. Đừng chấp vào nó. Đừng chạy theo nó. Đừng bài trừ nó. Đừng áp chế nó. Thì vọng tưởng tạp niệm tự nhiên tiêu tan.

Tôi (Lư Sư Tôn) có một so sánh: Giống như trẻ con đi tham quan triển lãm tranh, tranh bày ra lung linh trước mắt, xem hết từng bức tranh. Nhưng chẳng đặt trong tâm một bức tranh nào. (tạp niệm) Hoàn toàn không có cảm giác. Đi ra khỏi triển lãm tranh. Không lưu lại chút gì cả!

Lão hòa thượng Hư Vân còn nói: Thế nào là không sinh? Có nghĩa là tạp niệm còn chưa đến, đây chính là không sinh. Thế nào là không diệt? Hành giả tu thiền định, không trạo cử, không hôn trầm, không chấp vào tạp niệm, không chấp vào không. Đây chính là không diệt. Thời thời khắc khắc, giản giản đơn đơn, không bám chấp, cũng không sinh, cũng không diệt. Đây chính là thiền định!

Tôi (Lư Sư Tôn) nói: Đây chính là lão hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta: Buông bỏ. Tự tại. Nhậm vận.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) thường dạy người ta: Dùng một suy nghĩ để tiêu trừ vạn vạn suy nghĩ. Cũng chính là quán tưởng của Mật giáo đó! Trong quán tưởng Mật giáo, chúng ta gọi là ý thanh tịnh. Ví dụ: Chúng ta quán tưởng một chú tự. Om.

image

Đặt chú tự này ở hư không phía trên trước mặt. Sau đó làm biến mất nét chấm ở trên đầu chữ Om. Tiếp theo quán tưởng vòng tròn biến mất. Tiếp theo quán tưởng hai nét xiên biến mất. Tiếp theo quán tưởng nét ngang biến mất. Tiếp theo quán tưởng nét móc biến mất. Tiếp theo quán tưởng nét chữ v biến mất. Cuối cùng chữ Om hoàn toàn biến mất. Quán tưởng chú tự này chính là dùng một niệm để tiêu trừ đủ mọi tạp niệm. Khi tất cả đều không còn nữa. Lúc này sẽ tiến vào trong thiền định sâu. Khi không sinh không diệt, chúng ta sẽ đạt được huyền chỉ [dụng ý sâu xa], pháp môn bất nhị của đệ nhất nghĩa đế.

Phương pháp quán tưởng của Mật giáo vô cùng nhiều. Quán Bổn tôn. Quán chú tự. Quán pháp khí. Quán thủ ấn. ………………. Đây đều là những phương pháp khiến ý niệm của hành giả thanh tịnh, lấy một niệm dừng vạn niệm. Có thể làm được như vậy không?

06. Điều quan trọng hàng đầu của ngồi thiền

Lão hòa thượng Hư Vân trong cả cuộc đời mình có hai lần ngồi thiền mà tôi ấn tượng rất sâu sắc. Có một hôm, trong lúc ngài vân du bốn phương. Lão Hư nổi lửa nấu khoai tây. Bỗng dưng ngài nghĩ đến muốn thiền định, thế là bèn ngồi xuống hai chân xếp bằng. Vừa ngồi xuống. Trời cũng không, đất cũng không, người cũng không….. Tất cả đều quên hết. Đến khi lão hòa thượng Hư Vân xuất thiền, ngài thấy lửa đã tắt, trở thành tro tàn, ngay cả một chút khói cũng không còn. Còn những củ khoai đều đã lên mốc. Ngài hoảng hốt! Rốt cục ngài đã ngồi bao lâu?

Còn nữa: Lão hòa thượng Hư Vân ở Thái Lan. Một lần ngài nhập định. Một ngày trôi qua. Hai ngày trôi qua. ……………….. Năm ngày trôi qua. Mười ngày trôi qua. Lần này đã làm chấn động cả đất nước Thái Lan, mọi người đều sôi nổi bàn tán. Ngay cả vua Thái Lan cũng biết việc này, vua Thái Lan cũng đến lễ bái vị Thánh tăng này.

Công phu thiền định thâm hậu của lão hòa thượng Hư Vân đúng là không còn lời nào để nói. Có một bài thơ rằng: Tam thiên đại thiên thoải mái ngủ Chẳng quản thời gian và không gian Duy ngã độc tôn tự tỏa sáng Đại địa càn khôn một Kim Tiên. Bài thơ này ca ngợi lão hòa thượng Hư Vân.

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân trong khi khai thị nói: ”Buông bỏ vạn duyên, một niệm không sinh” là tâm yếu của thiền định, chúng ta đã biết như vậy, làm sao để có thể làm được? Thượng căn khí — mãi dừng lại ở một niệm, cho đến khi vô sinh. Trung căn khí — dùng lý trừ sự, hiểu rõ Phật tính, vốn dĩ thanh tịnh. Hạ căn khí — tìm thầy hướng dẫn, chăm chỉ học rộng biết nhiều. Còn nói: Phiền não bồ đề, sinh tử niết bàn, chỉ là tên giả mà thôi, vốn dĩ không liên quan tới Phật tính. Tất cả sự vật đều là mộng huyễn bóng ảnh. Sắc thân tứ đại của con người và mặt đất núi sông, ở trong Phật tính, giống như bọt nước nổi trong biển. Bởi vì sinh diệt vô thường, cho nên thành, trụ, hoại, không, đều không liên quan. Yêu ghét giữ bỏ, toàn bộ đều buông bỏ! Đau khổ hạnh phúc, đói rét ấm no, vinh nhục sinh tử, họa phúc lành dữ, khen chê được mất, nguy hiểm an bình…. Tất cả đều không để ý đến! Như thế mới là buông bỏ! Cho đến khi vạn duyên đều buông bỏ rồi, tất cả vọng tưởng tạp niệm tự nhiên đều tiêu biến hết. Đến lúc này, Một niệm không sinh nữa! Khi một niệm không sinh, Phật tính của chính mình tự nhiên đều hiển lộ. Kinh nghiệm của cá nhân tôi (Lư Sư Tôn) là: Khi tôi để mình trống rỗng. Dòng chảy pháp sẽ tan vào thân tôi. Hư không và tôi không hai không khác. Hư không là tôi, tôi là hư không. Hòa thành một khối.

07. Tùy phương giải phược (1)

[Tùy phương giải phược: tùy ý giúp người cởi bỏ những trói buộc trên người.]

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Phật Thích Ca Mâu Ni từ bi lục đạo, nói ra tám vạn bốn nghìn pháp môn, dùng để đối trị tám vạn bốn nghìn loại bệnh của chúng sinh. Pháp mà Phật thuyết cái nào cũng là diệu pháp. Thiền — hiểu rõ Phật tâm, kiến chứng Phật tính. Tịnh — nhất tâm niệm Phật, kiến chứng Phật tính. Mật — tam mật thanh tịnh, kiến chứng Phật tính. Luật — nghiêm thủ giới luật, kiến chứng Phật tính. Tóm lại, bất kì một môn nào cũng đều có thể chấm dứt sinh tử, bất kì một môn nào cũng đều có thể thành Phật đạo. Không cần cố phân biệt sự cao thấp của pháp môn. Lão hòa thượng Hư Vân nói: Pháp môn thiền chủ yếu nằm ở “minh ngộ tự tâm, triệt kiến bản tính”. Nhưng quá trình bắt tay vào làm thì lại có nhiều biến hóa. Ngày xưa, Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ cầm hoa. Đại Ca Diếp chỉ khẽ cười. Đây chính là dùng tâm ấn tâm. Còn tổ sư Đạt Ma đến Đông Thổ cũng là “trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Vào thời đại triều Đường, triều Tống đều là phương thức tham vấn đáp lễ “một lời nửa câu”. Vào thời này chỉ có tham công án hoặc khán thoại đầu. Ví dụ: ”Người tha xác chết là ai?” ”Trước khi cha mẹ sinh ra, diện mạo vốn có của ta là thế nào?” ”Người niệm Phật là ai?” Tương tự tiếp tục như vậy! ”Niệm kinh là ai?” ”Trì chú là ai?” ”Bái Phật là ai?” ”Ăn cơm là ai?” ”Mặc quần áo là ai?” ”Đi đường là ai?” Kiểu pháp suy ngẫm này, nói thẳng ra, chính là tìm ra vạn pháp do tâm tạo, tâm là nguồn gốc. Sau đó sẽ là quán tâm. Cái gọi là “phản vấn vấn tự tính”, “viên chiếu thanh tịnh giác tướng”. ”Tuy tịch nhưng thường chiếu.” [dẫu vắng lặng nhưng không hề mất khả năng thấu hiểu trọn vẹn] ”Tuy chiếu mà thường tịch.” [tuy thông suốt nhưng không chấp trước, không bị ô nhiễm bởi ngoại cảnh]

🌟

Có một ngày. Tôi đứng ở giao lộ giữa đường Văn Tâm và phố Đại Đôn 17 ở Đài Trung, nhìn thấy một nhóm cư sĩ mặc y phục tu hành đi đến. Trong đó có mấy người nhìn thấy tôi mặc trang phục Lama. Họ nhận ra tôi là Lư Thắng Ngạn, liền đi đến gần tôi, chắp tay hướng về tôi hỏi: ”Là Lư Sư Tôn phải không?” Tôi đáp: ”Vâng.” Tôi hỏi ngược lại họ: ”Tu pháp gì vậy?” Họ trả lời: ”Pháp môn quán tâm.” Tôi hỏi: ”Quán thấy cái gì?” Họ không trả lời được, chỉ cười cười. Họ hỏi ngược lại tôi: ”Lư Sư Tôn quán thấy cái gì?” Tôi đáp: ”Quán vô khả quán.” (Họ không trả lời nên tôi đành phải trả lời.) Họ gật gật đầu, không nói gì, vẫy tay nói chào tạm biệt với nhau! Bảo trọng!

08. Tùy phương giải phược (2)

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Tông tông vô tông. Pháp pháp phi pháp. Môn môn cũng thế. Những cái này là tùy phương giải phược mà thôi.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) giảng Kinh Duy Ma Cật đến phẩm thứ hai: Phương Tiện. Tôi lĩnh hội được tùy phương giải phược: Duy Ma Cật Đại Sĩ ở trong thành Vaisali chính là tùy phương giải phược độ hóa chúng sinh, ví dụ: Ngài lấy sự sung túc để giúp đỡ người nghèo đói khổ. Ngài giữ giới luật để tác động đến người phạm giới. Ngài nhẫn nhục tu dưỡng để chuyển hóa người giận dữ oán hận. Ngài tinh tấn để độ hóa người lười nhác. Ngài thiền định để độ chúng sinh tâm nóng nảy không ổn định. Trí huệ vô thượng của ngài chuyển hóa người ngu si mê muội.

Còn nữa: Ngài là cư sĩ, nhưng giữ giới thanh tịnh. Có vợ con, nhưng tu hạnh thanh tịnh. Có lục thân [sáu người thân là cha mẹ, anh em, vợ con], nhưng không có phiền não thế tục. Ăn mặc quý phái, nhưng, tướng đẹp trang nghiêm. Ẩm thực ăn uống, nhưng niềm vui từ thiền là số một. Đến sòng bạc, nhưng khuyên nhủ thế nhân. Đặt chân vào ngoại đạo dị đoan, nhưng dẫn người đi vào chính pháp. Thông hiểu sách vở bên ngoài, nhưng đề xướng Phật pháp.

Còn nữa: Ngài kiếm được rất nhiều tiền, nhưng giúp đỡ người nghèo là việc quan trọng số một. Ngài đi khắp hang cùng ngõ hẻm, nhưng dùng Phật pháp để làm lợi ích cho người đời. Ngài giảng kinh thuyết pháp, nhưng lấy Đại thừa làm chính. Ngài ở giảng đường của trường học, dùng chính kiến dạy dỗ trẻ em. Ngài vào thanh lâu kỹ viện, khuyên nhủ thế nhân về họa hoạn của dâm dục. Ngài vào quán rượu nơi phố phường náo nhiệt, là để độ người sống mơ mơ màng màng.

Còn nữa: Ở trong đám trưởng giả, tuyên thuyết pháp môn thù thắng. Ở trong đám cư sĩ, nói về loại bỏ tham dục, bám chấp. Ở trong đám quý tộc, giảng làm sao để tu trì tiêu trừ ngã mạn. Ở trong đám bà-la-môn, dạy người loại bỏ tự đại. Ở trong đám đại thần, dạy người ta công chính thành thật. Ở trong đám vương công, dạy người ta giữ ngay thẳng không tùy tiện. Ở trong đám vương tử, dạy người ta trung hiếu song toàn. Ở trong đám cung nữ, dạy tuân thủ bổn phận. Ở trong đám bình dân, dạy thiện căn phúc đức. Ở trong Phạm Thiên, dạy bồi dưỡng đại trí huệ. Ở trong Đế Thích Thiên, dạy nghĩa lý tam giới vô thường. Ở trong Hộ Pháp Thiên, dạy làm sao để hộ trì Phật pháp.

🌟

Cá nhân tôi cho rằng những phương pháp này của cư sĩ Duy Ma Cật, mục đích chủ yếu chính là tùy phương giải phược. Trong “Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm” cũng ghi chép rằng Quan Âm Bồ Tát hóa thân trăm nghìn triệu. Là để độ trăm nghìn triệu chúng sinh có thân phận khác nhau. Đây là Tứ nhiếp pháp: Bố thí. Ái ngữ. Lợi hành. Đồng sự. Có một hành giả tự nhận là khai ngộ đến hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn! Có Bổn tôn không?” Tôi đáp: “Có.” Anh ta nói: “Tôi nghĩ là không.” Thử hỏi: “Nếu không có Bổn tôn, làm sao tôi giáo hóa chúng sinh và tu pháp Bổn tôn?”

09. Pháp nhĩ bản nhiên

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Dạo này thường có người học thiền đến hỏi: Pháp vốn vô pháp, hễ thành văn tự, hễ nói ra miệng, tức phi thực nghĩa, đây chính là thiền phải không? Lão Hư đáp:

“Cần biết rõ tâm này, bản lai là Phật, không cần phải làm gì cả, tất cả đều sẵn có ở đó.” Hỏi: Chúng sinh trên mặt đất đều là Phật sao? Hư Vân đáp: Đi thẳng đến chỗ nhận ra tự tính thanh tịnh này (Phật tính), tùy thuận vô nhiễm, trong mười hai thời, đi đứng ngồi nằm, tâm đều không khác, chính là Phật vốn có. Hỏi: Tu thế nào? Hư Vân đáp: Không cần dùng tâm dùng lực, càng không cần làm gì cả, không cần nói đến hay suy nghĩ chút nào. Cho nên nói thành Phật là việc dễ nhất, việc tự do nhất, hoàn toàn do tâm mình, không tìm cầu bên ngoài. Hỏi: Cái gì cũng không làm sao? Hư Vân đáp: Tất cả chúng sinh trên mặt đất, nếu không cam chịu luân hồi tứ sinh lục đạo, vĩnh viễn chìm trong biển khổ, thế thì sẽ thường lạc ngã tịnh, tỉ mỉ tin theo Phật Thích Ca Mâu Ni, buông bỏ tất cả, không nghĩ đến thiện ác, ai ai cũng đều có thể lập tức thành Phật. Hỏi: Buông bỏ tất cả, tôi cảm thấy khó? Hư Vân đáp: Phải học buông bỏ tất cả, phải giác ngộ pháp nhĩ bản nhiên.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cảm thấy câu nói sau cùng của lão hòa thượng Hư Vân - “pháp nhĩ bản nhiên”, là quan trọng nhất. Rất nhiều người hỏi tôi, thế nào là pháp nhĩ bản nhiên? Tôi nói: Gọi là chúng sinh là vì chúng sinh mê vào huyễn. Gọi là Bồ Tát chính là vì Bồ Tát giác ngộ cái huyễn này. Gọi là Phật chính là vì Phật chứng ngộ huyễn, biết huyễn rời huyễn, độ hóa chúng sinh ở trong huyễn. Biết rõ huyễn. Không vì gì cả mà làm chính là pháp nhĩ bản nhiên. Ngược lại, Vì gì đó mà làm thì là chúng sinh. Chúng sinh là pháp hữu vi. Phật là pháp vô vi. Ở trong pháp vô vi, tất cả mọi hành vi đều là tùy thuận Phật tính, đây chính là pháp nhĩ bản nhiên.

🌟

Tôi lại nói: Pháp thân Phật thanh tịnh chính là pháp nhĩ bản nhiên. Vì sao vậy? Vì đã giác ngộ “tất cả là huyễn” rồi, thế giới Ta Bà đều là vô thường, thân vô thường, tâm vô thường, bên ngoài vô thường. Thế thì tự nhiên sẽ thanh tịnh tâm mình. Bởi vì vô sở đắc mà! Tỉ mỉ hơn nữa, điềm đạm hơn nữa, tuy tịch mà thường chiếu, trực tiếp đến ngũ uẩn đều không, thân tâm có đủ sự tĩnh lặng, không có bất kì một việc gì, như như bất động. Đây tức là Pháp thân Phật thanh tịnh. Pháp thân Phật thanh tịnh chính là pháp nhĩ bản nhiên.

Tôi viết một bài thơ vậy! Chợt nghĩ tuổi đã bảy mươi chín Ngày xưa đã làm việc cần làm Rốt cuộc chẳng thể theo tiếng suối Thị phi cũng đều chẳng đúng sai. Nam Sơn Nhã Xá là khách sạn Hàng thông thêm một lần trút lá Lãng quên quên lãng lại lãng quên Tây bắc đông nam đều không quản.

10. Nói về ba tâm

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Học tập pháp thiền phải có đủ ba tâm. Ba tâm này không phải là phân vân lưỡng lự, mà là toàn tâm toàn ý, một tâm mà có ba ý. 1. Tín tâm — tin rằng tâm này của ta vốn dĩ là Phật, không khác thập phương tam thế tất cả Phật. Có nghĩa là, tâm, Phật, chúng sinh không khác biệt, không có chút gì phải nghi ngờ. 2. Trường cửu tâm — các loại pháp môn của Phật Thích Ca Mâu Ni đều là phương tiện thành Phật, pháp nào cũng đều có thể chấm dứt sinh tử, pháp nào cũng đều có thể thành tựu. Tâm lâu dài tức là chọn lựa một pháp để thực hành suốt đời, thậm chí đời sau cũng hành trì như vậy. Người tham thiền cứ tiếp tục thiền tiếp! Người niệm Phật cứ tiếp tục niệm tiếp! Người trì chú cứ tiếp tục trì tiếp! Người giữ giới cứ tiếp tục giữ tiếp! 3. Vô tâm — vô tâm tức là buông bỏ tất cả, làm không vì gì cả, không có sự phân biệt chấp trước, trở thành một đạo nhân vô tâm, chỉ còn lại sự tùy duyên, tùy thuận, tùy phận. Tùy duyên là tùy duyên độ chúng sinh. Tùy thuận là phương tiện độ chúng sinh. Tùy phận là giữ giới độ chúng sinh. Lão nhân Vy Sơn nói: ”Nếu có người có thể thực hành ba tâm này, nếu có thể ba đời không thối lui, chắc chắn thành tựu Phật đạo.” Lão nhân Vĩnh Gia nói: ”Nếu có người có thể thực hành ba tâm này, nếu không thể thành Phật đạo, thì là lừa chúng sinh, mãi đọa địa ngục rút lưỡi.” Hàm ý ở đây là, ba tâm có ý nghĩa sâu xa.

🌟

Hành giả tu hành sợ nhất là: Tín tâm không vững — nửa đường dừng lại. Trường cửu tâm không đủ — lựa chọn bất định. Vô tâm phát sinh biến cố — kiểu như lúc vui lúc chán.

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân là một cao tăng giữ giới nghiêm chỉnh, ngài thường kể một câu chuyện: Thuở trước ở nước Kế Tân [Kashmir], địa phương gần chùa có một con độc long. Độc long đã làm hại địa phương này, rất nhiều dân chúng đều bị hại, con độc long ngày càng táo tợn hơn, máu chảy thành sông, xương chất cao như núi. Có năm trăm vị A La Hán tụ lại cùng nhau, dùng sức mạnh của thiền định để đuổi nó. Nhưng, từ đầu tới cuối chẳng thể đuổi con độc long đi! Sau đó xuất hiện một tăng nhân vô danh, không nhập thiền định, chỉ đi đến trước độc long. Nói với độc long: ”Ngoan nào! Rời xa địa phương này, trở về núi đi!” Con độc long đó gật gật đầu, bay đi! Năm trăm La Hán hỏi tăng nhân: ”Ông dùng thần thông gì mà đuổi được độc long?” Tăng nhân đáp: ”Tôi chẳng dùng gì cả, tôi chỉ giữ giới thanh tịnh mà thôi!” Năm trăm La Hán kinh ngạc. Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Người không giữ giới mà tu tam muội, chẳng thể thoát cõi trần. Cho dù có bao nhiêu trí tuệ thiền định hiện tiền thì cũng rơi vào tà ma ngoại đạo. Người giữ giới thì long thiên ủng hộ, ma cũng kính nể.” Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Tâm bình thì đâu phải nhọc công giữ giới? Hành vi ngay thẳng thì đâu cần dùng tham thiền?” Câu nói này là do Lục Tổ Huệ Năng nói. Nhưng, Tâm bạn bình được không? Hành vi của bạn ngay thẳng được không? Nếu không thì chớ nói suông.

11. Tôi nhấn mạnh thực tu

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni chứng ngộ đã nói: ”Chúng sinh trên mặt đất đều có đức tướng trí huệ của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng bám chấp mà không thể chứng đắc.” Câu nói này người học Phật đều biết. Thế nhưng, Không loại bỏ vọng tưởng bám chấp, làm sao mới có thể thành tựu?

Lão hòa thượng Hư Vân lấy một ví dụ để nói rõ: Mọi người đều biết đậu nành có thể làm thành đậu phụ, nhưng nếu bạn không chế biến thì vĩnh viễn vẫn là đậu nành. Lão Hư nói: Nếu không bỏ thạch cao đúng cách cũng không làm ra được đậu phụ. Đậu nành phải bỏ bã, phải xay, phải nấu, cuối cùng phải bỏ vào một lượng thích hợp thạch cao, như vậy mới có thể làm thành đậu phụ. Lão Hư nói: Biết rõ chúng sinh là Phật. Muốn thành Phật, phải dùng Phật pháp. Không đi tu, đương nhiên không thể thành Phật. Trọng điểm cũng nằm ở việc tu hành như pháp, không như pháp thì vẫn tu bất thành. Căng quá sẽ sinh bệnh! Lỏng quá cũng không thể thành! Không căng không lỏng là tuyệt vời nhất. Nếu tu hành như pháp, không thối lùi không hối hận, nhất định có thể thành Phật.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) nhấn mạnh thực tu. Tôi từng nói: ”Một ngày không tu, một ngày là ma.” Đây chính là tính quan trọng của thực tu. Bạn không thực tu, chỉ nói suông, chứng ngộ đương nhiên là tương lai xa vời. Cho dù có thầy giỏi cũng không đào tạo nổi bạn. Muốn đến Tây phương Cực Lạc thế giới tịnh thổ, cũng phải thực tiễn ba việc: 1. Không thể thiếu thiện căn. 2. Nhất tâm bất loạn. 3. Niệm Phật. Bạn không làm ba việc này, làm sao có thể đến Tây phương tịnh thổ? Cho dù là pháp tiện lợi nhất cũng phải thực tu. Tôi nói với mọi người: Nhất tâm bất loạn chính là thiền. Chúng sinh ở thế giới Ta Bà này, cả đời đều đang vọng tưởng bám chấp, mê vào tiền, mê vào sắc, mê vào danh. Lại cộng thêm: Mê ăn, mê ngủ. Như thế vĩnh viễn là chúng sinh. Vọng tưởng bám chấp phải thu về, phải nhất tâm bất loạn. Phật nói: ”Chuyên tâm nhất trí, không việc gì không làm được!” Lão Tử nói: ”Con người có thể thủ nhất, vạn sự xong!” Đây là đạo lý tương tự. Muốn nhất tâm bất loạn đòi hỏi công phu lâu dài, nhìn thì dễ, sự thật không đơn giản. Tôi có một ví dụ: Người ta hỏi tôi: ”Ngài viết 296 cuốn sách, sao có thể làm được thế?” Tôi đáp: ”Mỗi ngày đều viết.” Người ta hỏi: ”Mỗi ngày có viết nhiều đâu, mỗi hai trang thôi?” Tôi đáp: ”Cộng lại sẽ thành nhiều!” Tôi nói: Tu hành chính là phải thực tu, mỗi ngày tu, cộng lại sẽ thành tựu.

12. Thiền định chân chính

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Tham thiền tĩnh tọa không phải là ngồi thì mới là thiền. Mọi lúc mọi nơi đều có thể thực hiện. Nói cách khác là, chỗ nào không phải là đạo tràng? Pháp thiền chân chính là không câu nệ vào hình thức. Cái gọi là thiền đường, cái gọi là tĩnh tọa, chẳng qua là vì chúng sinh thời mạt thế nghiệp chướng nặng nên mới lập ra phương hướng. (Đoạn này hoàn toàn phù hợp với ý chỉ của cư sĩ Duy Ma Cật.) Cư sĩ Duy Ma Cật nhìn thấy Xá Lợi Phất đang ngồi ăn tiệc ở trong rừng. Đại cư sĩ nói với Xá Lợi Phất: Tọa thiền chân chính không cần giống kiểu của ông. Phải là không câu nệ vào hình thức. Thậm chí ngay cả suy nghĩ ngồi thiền cũng không có, đây mới là tĩnh tọa thiền định. Chỉ cần tuân theo Phật pháp, gánh nước chở củi, đây mới là thiền định. Trong không chấp tà niệm, ngoài không chấp cảnh tướng, đây mới là thiền định chân chính. Tâm không lo lắng, đi đứng ngồi nằm, đều ở trong định cảnh, đây mới là thiền định chân chính. Không khởi tâm động niệm, không chịu quấy nhiễu mà chuyên tâm nhất trí, đây mới là thiền định chân chính. Hiểu rõ phiền não tức là niết bàn, tức là thiền định chân chính. Xá Lợi Phất nghe xong, á khẩu không nói. Cũng đã tỉnh ngộ.

🌟

Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) nói với mọi người: Hàng ngày tôi viết sách. Tinh thần của tôi chuyên tâm nhất trí đặt trên những văn tự, trên từng dấu chấm câu, trên sự trôi chảy của văn tự và cách diễn đạt ý tưởng của tôi. Việc viết sách hàng ngày, sử dụng ngòi bút và con chữ, đều hết sức chăm chú. Không biết thời gian trôi qua. Không biết thân ở nơi nào. (quên mất mình) Không biết động tĩnh bên ngoài. Tôi nói với mọi người: ”Đây chính là thiền định.” Gánh nước là thiền định. Chở củi là thiền định. Đi đứng ngồi nằm đều là thiền định. Chỉ cần tâm bạn không vướng bận, nhất tâm bất loạn, không có một chút tà tư vọng niệm nào cả, không bị quấy nhiễu, tức là thiền định. Cho nên, việc viết sách của tôi cũng là thiền định của tôi. Thật sự! Trong khi viết sách, tôi hoàn toàn vứt bỏ ngoại duyên, giờ này phút này tập trung viết sách, không có suy nghĩ khác. Đây chính là dụng ý sâu xa. Tâm là một. Bút là một. Chữ là một. ”Con người có thể thủ nhất, vạn sự thành!”

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân có một vị “đầu rau” (lão hòa thượng trồng rau), công việc hàng ngày của ông ấy là trồng rau. Ít nói kiệm lời. Hàng ngày, mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi. Cứ như vậy sống qua ngày này lại ngày khác. Ông ấy chẳng có thị phi với việc người. Bên ngoài chẳng thể quấy nhiễu ông. Về sau, Ông viên tịch. Ngồi trong vườn rau của mình, không còn một chút hơi thở nào nữa. Tất cả nhân viên của tăng đoàn phát hiện ra ông ấy viên tịch, im lìm bất động, nên đã làm phiền lão hòa thượng Hư Vân đến xem ông ấy. ”Đầu rau” hóa thành một đống đất bụi và hạt xá lợi. (dùng nội hỏa tự hóa) Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Ông ấy tọa hóa rồi, chứng quả rồi!”

13. Không căng không lỏng

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Khi ngồi kiết già, nên ngồi thẳng thuận theo tự nhiên, sự thoải mái là rất quan trọng. Không cần phải ưỡn lưng. Nhưng không được cong lưng. Ưỡn lưng là quá căng, dễ trạo cử. Cong lưng thì quá lỏng, dễ hôn trầm. Tóm lại, không căng không lỏng là quan trọng nhất. Nếu quá căng, không dễ nhập Tam ma địa (định cảnh). Nếu quá lỏng, sẽ ngủ mất. Khi quá căng thì phải làm sao? Đừng tác ý, đừng nghĩ là “mình phải ngồi yên”, “mình phải nhập thiền định”. Tóm lại, tùy thuận và tác ý một chút vào sự ra vào của hơi thở. Khi quá lỏng thì phải làm sao? Mở mắt ra, khẽ xoay mông, hôn trầm sẽ tiêu biến. Thế nào là không căng không lỏng? Giống như con người uống nước, lạnh hay ấm tự biết. Điều chỉnh thân tâm như thế nào, giống như điều hòa không khí. Không nóng không lạnh là quan trọng nhất! Không nhanh không chậm là quan trọng nhất! Có đôi khi nghỉ ngơi cũng rất quan trọng. Nói đến đây, cũng không thể không nói một câu, “quên mình” mới là quan trọng nhất!

Vi diệu tinh tế, nhẹ nhàng thoải mái, pháp hỷ hân hoan, đừng bứt rứt, đừng mất kiên nhẫn. Đây cũng là bất khả thuyết!

🌟

Nói đến cảnh giới. Lão hòa thượng Hư Vân nói: Chẳng thể nói hết về cảnh giới, quan trọng nhất là đừng bám chấp vào nó thì sẽ không bị ảnh hưởng. Một câu nói: Thấy quái dị mà không coi là quái dị Thì điều quái dị ấy sẽ tự tiêu tan. Mặc dù nhìn thấy yêu ma quỷ quái đến gây trở ngại. Đáp án là: Mặc kệ. Mặc dù nhìn thấy Bổn tôn đến sờ đầu thọ ký. Đáp án là: Mặc kệ. Nghe thấy quân xấu nhục mạ hành giả. Mặc kệ. Nghe thấy tiên nữ ca tụng hành giả. Mặc kệ. Mặc kệ, mặc kệ, mặc kệ, mặc kệ, mặc kệ. Đối với việc nhìn thấy hoặc nghe thấy. Chẳng hề gì, chẳng hề gì, chẳng hề gì, chẳng hề gì, chẳng hề gì. Có một câu nói: Đừng đi lĩnh hội Cảnh giới tốt đẹp Nếu lĩnh hội nhiều Sẽ bị trói buộc. Trên phương diện này cũng là bất khả thuyết. Bởi vì đều là một vở kịch huyễn!

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cũng như vậy. Nếu thấy yêu ma quỷ quái đến quấy nhiễu, tôi nghĩ, yêu ma quỷ quái cũng là không. Không tức là phòng hộ. Nếu thấy Bổn tôn đến sờ đầu thọ ký, tôi nghĩ, Bổn tôn cũng là không. Không chính là khích lệ. Tóm lại, Không mừng không lo.

14. Thế nào là chủ? Thế nào là khách?

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Muốn học pháp thiền, phải nhận thức được khách, nhận thức được chủ. Lấy ví dụ để nói rõ: Có một người mở một khách sạn, cung cấp chỗ ở cho khách du lịch, khách đến khách đi rất đông. Khách ở xong thì đi. Quản lý của khách sạn thì không thể đi. Vậy thì ai là chủ? Ai là khách? Quản lý là chủ. Khách du lịch là khách. Dùng phương thức này để phân biệt suy nghĩ. Tự tính là chủ. Vọng niệm là khách. Đây chính là, tự tính (Phật tính) thường trụ vốn dĩ không đi theo vọng niệm, thoắt sinh thoắt diệt, lên lên xuống xuống. Chỉ cần: ”Vô tâm với vạn vật, ngại gì vạn vật thường xoay quanh.” Nói cách khác là: Phật tính bất động. Vọng niệm tự sinh tự diệt, hoàn toàn không có ảnh hưởng. Người học pháp thiền, tự tính như như bất động, bất kể bên ngoài nổi gió lớn. Đứng như tùng. Ngồi như chuông. Đi như gió. Nằm như cung. Thì sẽ không trôi theo vọng niệm.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) thường nói thế này: Tôi lấy hư không để làm so sánh: Hư không là chủ. Mây, sương, gió, mưa, sấm, chớp... xuất hiện trong hư không đều là khách. Hư không vĩnh viễn là hư không. Còn về những biến hóa trong hư không, đó là vô cùng vô tận. Căn bản là vô thường. Từng có một ngày. Ban đầu trời trong xanh, đột nhiên một đám mây đen lớn kéo đến, chẳng bao lâu thì chớp lóe sấm rền. Sau đó là mưa đá. Tiếp theo không ngờ lại có mưa tuyết. Rồi còn nổi gió, là gió mạnh. Một trận bão tuyết đã ập đến. Tuyết ngập rất dày, mặt đất cũng đóng băng. (Ban đầu trời đang trong xanh, kết quả là bão tuyết lớn, rất nhiều nhân viên văn phòng chỉ có thể tạm ở lại trong phòng làm việc, không thể trở về nhà.) Tôi dùng điều này để làm so sánh: Tự tính là chủ. Tất cả vọng tưởng vô thường là khách. Mặc nó biến hóa thế nào, tự tính vẫn là tự tính, chẳng thể ảnh hưởng đến tự tính (Phật tính). Nếu đã là như vậy thì sẽ không ảnh hưởng đến thiền định. Vọng tưởng nhiều, cũng không sợ. Như như bất động, vọng tưởng cũng tự sinh tự diệt! Tôi nói: Tặng bạn một đóa hoa. Để bạn cầm trong tay. Bạn là bạn. Hoa là hoa. Ai là chủ? Ai là khách? Nhận thức rõ ràng ai là ngọn nguồn? Hãy suy ngẫm!

15. Ai là ai?

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Pháp thiền thời xưa rất trực tiếp, chính là “trực chỉ nhân tâm”. Không cần văn tự. Lập tức thấy được chân tính. Ví dụ: Pháp môn an tâm của Tổ Sư Đạt Ma, tìm tâm bất khả đắc của Nhị Tổ, lập tức đốn ngộ. Lục Tổ có: Bồ đề chẳng phải cây. Gương sáng cũng chẳng có. Vốn không có một vật. Lúc này sẽ hiểu rõ, trực tiếp đảm đương, không chút vướng bận.

Về sau này. Nhân tâm suy đồi, đành phải tham thoại đầu. Pháp thiền dạy con người khai ngộ, thoại đầu rất nhiều, ví dụ: ”Vạn pháp quy về một, một quy về nơi nào?” ”Trước khi cha mẹ sinh ra, diện mạo vốn có của ta như thế nào?” ”Niệm Phật là ai?” Thật ra, cũng có thể là: ”Người mặc quần áo là ai?” ”Người ăn cơm là ai?” ”Người đi ị là ai?” ”Người đi tè là ai?” ”Người vô minh là ai?” ”Người đánh rắm là ai?” Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Ai là ai?” Chữ “Ai” này đúng là cực kì, hãy suy ngẫm chữ “Ai” này. Một khi đoán ra, hãy suy nghĩ một lần nữa, đúng là diệu pháp tham thiền hiện đại! Là Lư Thắng Ngạn sao? Không, đó chỉ là một cái tên. Là Liên Sinh Hoạt Phật sao? Không, đó chỉ là một pháp hiệu. Là thân thể này sao? Không, đó chỉ là một thứ của tứ đại giả hợp. Là tấm ảnh sao? Không, thiếu niên, thanh niên, tráng niên, lão niên, đều chẳng giống nhau, căn bản là không phải. Là tâm sao? Trái tim cũng không phải. Là khuôn mặt đó sao? Không, khuôn mặt cũng đang thay đổi. Cái gì cũng đều không phải, Ai là ai? Sắp ra rồi đó. Suy ngẫm đi!

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Một niệm chưa sinh, gọi là không sinh. Không trạo cử, không hôn trầm, không chấp tĩnh, không chấp không, cái gì cũng đều không chấp, gọi là không diệt. Người không sinh không diệt này lại là ai? Hành giả dùng tâm để suy ngẫm về “Ai”. Không có suy nghĩ khác. Nhẹ nhàng nâng lên. Nhẹ nhàng buông xuống. Cứ thế suy ngẫm, Ai là ai, Ai không phải là ai, ngẫm đến khi Ai cũng đều không còn nữa! Một tiếng “Om”! Một tiếng “Ah”! Một tiếng “Hum”! Cuối cùng đã giác ngộ rồi!

🌟

Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn! Ngài học Phật 50 năm, ngài có được cái gì?” Tôi đáp: ”Chẳng có được cái gì.” Người hỏi: ”Chẳng có được cái gì! Thế lãng phí 50 năm một cách vô ích sao?” Tôi đáp: ”Chẳng có được cái gì chính là có được.” Ha! Ha! Ha!

16. Phản vấn tự tính

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Phương pháp viên thông của Quan Thế Âm Bồ Tát chính là phản vấn tự tính. Lão Hư cho rằng phản vấn tự tính chính là thiền. Phản chính là hồi. Vấn chính là chiếu. Tự tính chính là không sinh không diệt. Gộp lại sẽ là: “Một suy nghĩ hồi quang phản chiếu không sinh không diệt.” Có nghĩa là muốn hành giả tỉnh ngộ quán chiếu, tỉnh ngộ quán chiếu thì sẽ không mê, không mê tức là trí huệ, trí huệ không loạn chính là thiền định. Lúc này: Thanh tịnh trong veo. Rỗng không trống vắng. Trong vắt tịch chiếu. Như như bất động. Linh lợi không mờ. Hiểu rõ thường biết. Đây là cảnh giới không có gì có thể ảnh hưởng được, nếu muốn nói ra cũng rất khó.

Có người hỏi hòa thượng Triệu Châu: ”Không nhấc nổi một vật, thì sao?” Triệu Châu đáp: ”Buông bỏ!” Người hỏi: ”Không buông bỏ được thì sao?” Triệu Châu đáp: ”Nhấc lên!” Người hỏi: ”Không buông bỏ được cũng không nhấc lên được thì sao?” Triệu Châu đáp: ”Đi mà hỏi mẹ anh!” (Câu nói sau cùng này là Lư Sư Tôn tôi tự mình thêm vào đó, ha ha ha!)

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Rất nhiều đại thiền sư ở trong cảnh giới khó xử của một số hành giả không biết phải làm thế nào mới tốt. Thế là một gậy! Thế là một tiếng hét! Một gậy một tiếng hét này, lập tức mây mù giăng kín trời tan đi, rất nhiều người vì thế mà ngộ ra đạo tâm, đây là vì căn khí của con người mà làm được như thế. Có bài thơ làm chứng: Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm. Bất thị thi nhân bất hiến thi. [Gặp đúng kiếm khách nên trình kiếm. Không phải thi nhân chẳng tặng thơ.]

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) có một đệ tử, anh ấy viết một bài thơ cho tôi: Đạo này gần trong gang tấc Thân khẩu ý thanh tịnh chính là Ở trong miệng Ở trong tâm Ở trong mờ tối có ánh sáng. Con đường tin Phật như thế, Con đường yêu thầy như thế, Con chỉ đặt nó ở yên trong tim Không trốn không nấp Thế rồi “beng” một tiếng! Toàn bộ thế giới Đều chiếu sáng.

Tôi (Lư Sư Tôn) nói: Đúng vậy, đúng vậy. Cái gọi là pháp thiền chính là như thế, bạn chỉ cần ấn vào công tắc điện là đèn liền sáng. Sáng choang một căn phòng.

17. Cảnh giết tâm. Tâm giết cảnh

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Người thế tục là cảnh giết tâm. Người thiền hành là tâm giết cảnh. Lão hòa thượng Hư Vân còn kể một câu chuyện của chính mình. Năm xưa. Thời đại Mãn Thanh, trong năm Canh Tý, liên quân tám nước tấn công vào thành Bắc Kinh. Lão Hư và Hoàng Đế Quang Tự cùng Từ Hy Thái Hậu vội tháo chạy ra khỏi hoàng cung Bắc Kinh. Một đám người di tản về mạn Thiểm Tây, một ngày chạy mấy chục dặm đường, mỗi người đều ăn rất ít đồ ăn, có người căn bản là không ăn gì. Có một gia đình nông dân dâng nạp cho Hoàng Đế, Thái Hậu một ít “mô mô” làm từ khoai lang. ”Mô mô” là thực phẩm mà người ở vùng đó gọi. Từ Hy Thái Hậu ăn xong, luôn miệng khen ngợi. Hoàng Đế Quang Tự ăn xong, ăn một lèo mấy cái. Lão Hư nói: Mọi người nghĩ xem, Thái Hậu, Hoàng Đế bình thường uy phong lẫm liệt, đi đến đâu là người người kinh sợ. Cao lương mỹ vị trong hoàng cung cái gì cũng có, ở đó đã từng ăn khoai lang sao? Nhưng, Đi cả quãng đường dài, đói sắp ngất, bây giờ đến cả khoai lang cũng quý giá. Từ Hy Thái Hậu liên tục hỏi người nông dân đây là thứ gì mà lại ngon đến thế? Về sau, triều đình nhà Thanh và liên quân tám nước hòa giải, ngự giá trở về hoàng cung Bắc Kinh. Từ Hy Thái Hậu và Hoàng Đế Quang Tự ra lệnh cho nhà bếp hoàng cung làm bánh mô mô dâng lên ăn. Hai người ăn xong thì suýt chút nữa là nôn ra, hét lớn: “Khó ăn chết đi được!” Lão hòa thượng Hư Vân nói: Câu chuyện này nói về cảnh giết tâm. Người thế tục thông thường bị hoàn cảnh xung quanh thay đổi. Còn người thiền hành thì phải là tâm giết cảnh. Có nghĩa là trong bất kì hoàn cảnh nào đều có thể thích ứng, giữ vững được một trái tim như như bất động. Ví dụ: Học trò Nhan Hồi của Khổng Tử. Bên ngoài ngôi nhà mưa to, bên trong ngôi nhà mưa nhỏ, mái nhà bị dột, Nhan Hồi vẫn ung dung thản nhiên. Vẫn đánh đàn. Hơn nữa tiếng đàn đẹp tuyệt! Đây là đứng trên đỉnh núi cao, đi dưới đáy biển sâu.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) nói: Tôi tu hành hơn 50 năm nay, có ý chí bền vững, càng bị áp chế thì càng dũng mãnh, duy trì không đổi. Một ngày một tu, không đổi. Một ngày viết sách, không đổi. Tôi ở Đài Loan cũng thế cũng thế, tôi ở Mỹ cũng thế cũng thế. Lúc ẩn cư cũng thế cũng thế. Lúc xuất quan cũng thế cũng thế. Lúc sinh bệnh cũng thế cũng thế. Lúc khỏe mạnh cũng thế cũng thế. Tôi từng nói: ”Nếu có người phỉ báng tôi, tôi sẽ viết thêm mười cuốn sách.” Trong thuận cảnh nghịch cảnh, tôi đều tu hành. Không có một ngày dừng lại. Tôi cho rằng: Tất cả các thánh đệ tử đều nên như vậy. Đây chính là thiền! Trong bất kì hoàn cảnh nào đều không thay đổi cái tâm ban đầu!

18. Hành thiền

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Có một năm. Đại hạn hán, ông Trời liên tục mấy tháng liền không mưa, nước hồ khô cạn đã nhìn thấy đáy, chỉ còn như một bể tắm nhỏ. Đồng ruộng nứt nẻ. Trồng cây cối đều chết khô. Nông dân kêu khổ thấu trời. Người dân cả nước đang gặp thiên tai nặng nề, hỏi trời trời không đáp. Cứ tiếp tục thế này thì nhân loại làm sao sinh tồn? Họ thỉnh lão hòa thượng Hư Vân là cao tăng thời đó đứng ra cầu mưa. Hư Vân nói: ”Cơ bản là tôi không biết cầu mưa!” Người dân nói: ”Làm ơn cầu mưa!” Hư Vân nói: ”Tôi chỉ biết hành thiền!” Người dân nóng lòng cầu mưa, nói: ”Hành thiền cũng được.” Lão hòa thượng Hư Vân miễn cưỡng đáp ứng. Đến ngày hôm đó, lão hòa thượng Hư Vân dưới cái nắng chói chang. Đi trên bờ ruộng nứt nẻ, hai tay chắp lại, mồ hôi nhễ nhại chảy ròng ròng. Thu tâm về một niệm. ”Kính lễ chư thiên, chỉ cầu nước mưa!” Lão Hư tập trung tinh thần, tâm không tán loạn, đi từng bước từng bước trên bờ ruộng khô cằn. Cứ như thế đi xung quanh ruộng một vòng. Dân thường đứng xem đông nghìn nghịt. Lão Hư chẳng vì điều gì khác, chỉ là một lòng cung kính, dùng công phu hành thiền. Khi đi đến bước cuối cùng. Một đám mây đen lớn đã che khuất ánh nắng, trong sát-na, mây đen phủ kín. Ào ào! Rào rào! Những hạt mưa to như hạt đậu rơi xuống! Mưa như trút nước. Người dân vui mừng hò reo như sấm rền. Hư Vân, Hư Vân, Hư Vân, Hư Vân…. Tất cả mọi người đều không ngớt ca ngợi. Năm ấy, tình hình hạn hán đã được giải trừ. Lão hòa thượng Hư Vân nói: “Thật sự không biết cầu mưa, tôi chỉ một lòng hành thiền.” Lão Hư nói: ”Thiền không câu nệ bất kì hình thức nào.” (Lão Hư ở Trường An cầu tuyết rơi, tuyết cũng rơi, dập tắt được dịch bệnh.)

🌟

Nếu đệ tử Chân Phật Tông không chóng quên. Khi tôi làm pháp hội tại Senayan Indonesia. Ở trên pháp tọa tôi đã nói: ”Pháp hội này của tôi kết thúc thì lệnh cho cả Indonesia có mưa!” (Indonesia đang hạn hán.) Tôi phụng thỉnh: ”Ma Tọa Long Vương cho mưa!” Pháp hội kết thúc. 50 phút sau, toàn Indonesia đổ mưa, mưa lớn đến mức ngập lụt. Đệ tử Indonesia là sư huynh Tăng Diệu Toàn gọi điện thoại đến các chùa đường hội trên cả nước để hỏi tình hình mưa ở các nơi. Chùa đường hội báo cáo, đúng là cả nước đều có mưa. (Indonesia là đất nước nghìn đảo.) Sự việc này từng gây chấn động cả đất nước Indonesia. Tạp chí Đông Hiệp nổi tiếng nhất cũng từng đưa tin. Lão Hư chỉ dùng hành thiền. Tôi (Lư Sư Tôn) dùng: ”Nhất tâm.”

19. Chính là một xác chết

Đây là một trải nghiệm của lão hòa thượng Hư Vân. Khi ngài ngao du khắp nơi. Có một lần đi tàu thủy, ngài ngủ ở “thông phô”, tức là rất nhiều người ngủ cùng nhau. ”Thông phô” không phân biệt nam nữ già trẻ, mọi người tụ lại cùng nhau, cùng ngủ. Đến nửa đêm. Một người phụ nữ rực lửa dựa thân thể vào ông. Cô ta như một ngọn lửa. Đốt cháy Hư Vân, ngọn lửa này đốt từ đầu đến chân Hư Vân. Cô ta giở thủ đoạn, tay của người phụ nữ sờ mó thân thể của Hư Vân. Người phụ nữ hổn hển. Người phụ nữ rên rỉ. Người phụ nữ lẩm bẩm. Ra sức ép về phía Hư Vân. Hư Vân lúc này, nếu cũng là một ngọn lửa, thế thì sẽ thành sấm sét chớp lóe rồi. Thiên lôi kết hợp với địa hỏa thì rầm rầm rộ rộ rồi. Nhưng, Hư Vân tinh tường minh mẫn là một vị đại hòa thượng giữ giới luật, một mực thanh lương. Người phụ nữ ép vào, ngài bất động. Ngọn lửa thiêu cháy, ngài vẫn không động. Dục niệm ập đến, ngài là băng. Tay của người phụ nữ sờ mó, ngài là một xác chết. ……………….

Cuối cùng, người phụ nữ thấy Hư Vân hoàn toàn bất động thì cũng dần dần thu mình lại. Một vở kịch hay đến đây là kết thúc rồi! Thật ra đây không phải là vở kịch hay, mà là một vở kịch tồi vô tình mà cay nghiệt. Một đằng thì nóng, một đằng thì lạnh, khuôn mặt nóng dán vào cái mông lạnh, và thế là kết thúc!

🌟

Tôi còn nhớ Thượng sư Trần Kiện Dân có một vài bình luận về đoạn này. Thượng sư Trần nói: Nếu Hư Vân luyện thành vô lậu, cũng có đủ đệ nhất nghĩa tính Không. Hư Vân có thể độ hóa người phụ nữ này. Có thể “giao tiếp”. Làm ngọn lửa dục của người phụ nữ này tan đi, để người phụ nữ này có được đại lạc. Dùng khí trên người của Hư Vân tiến vào mạch luân của người phụ nữ, để người phụ nữ sinh ra tâm quang minh. Sau đó, Người phụ nữ trở thành thị giả của Hư Vân. Sau đó dạy cô ấy đệ nhất nghĩa Không của Phật pháp. Có nghĩa là người phụ nữ này được lão hòa thượng Hư Vân độ hóa, trở thành đệ tử Tam Bảo. Đây là cách nhìn của Thượng sư Trần.

Thượng sư Trần nói: Dâm nộ si, đều là Phật pháp. Dâm hóa thành Phật. Nộ hóa thành Kim Cang. Si hóa thành Bồ Tát.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cho rằng: Chủ trương của lão hòa thượng Hư Vân là, ông ấy nhận thức được tập tính của con người là khó buông bỏ nhất. Vô minh, cao ngạo, đố kỵ, chướng ngại, tham, sân, si, nghi, yêu, lười… Con người muốn tu hành, trước tiên phải loại bỏ tập tính. Tập tính không bỏ. Phật đạo khó thành. Lão Hư nói: Phải thường xuyên nghĩ chính mình như xác chết, người chết rồi thì tập tính hoàn toàn không còn. Một chữ “chết” này là cực kì nhất, chết có thể trừ bỏ tập tính.

20. Lão hòa thượng Hư Vân dùng “chết” để giải thoát

Trong cuốn “Mây của hư không”, tôi đọc được mấy trọng điểm. Thứ nhất: Vô thường — vốn dĩ hai chữ Hư Vân là pháp hiệu, nhưng, từ pháp hiệu này mà hiểu ngầm được vô thường. Chữ Vân này biến hóa vô cùng, sinh tử chỉ trong một sát-na. Là hư, là giả, là huyễn. Không có chân thực. Ví dụ: Mây có thể biến thành mưa, mưa có thể biến thành nước, nước có thể biến thành khí….. Biến huyễn không ngừng, tức là vô thường.

Thứ hai: Vô ngã — lão Hư từ núi Phổ Đà, đi ba bước lạy một lần cho đến núi Ngũ Đài. Ba bước một quỳ này nếu không có nghị lực tinh thần của sự vô ngã thì sao có thể làm được? Thử hỏi: Hôm nay ai dám? Tôi (Lư Sư Tôn) chỉ mới nghe đã cảm thấy rất sợ rồi. Từ núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài, đi bộ đã rất khó, huống hồ là ba bước một lạy. Đây là tinh thần vô ngã.

Thứ ba: Khổ — hành giả hiện đại ham ăn biếng làm, cậu ấm cô chiêu, tập khí không quên, một chút uất ức cũng đã chịu không nổi, khổ một tí đã không chịu thấu. Hãy nhìn lại lão Hư. Cả cuộc đời ông đều là nghịch cảnh, thế nhưng ông không cảm thấy khổ một chút nào. Chịu khổ chính là để tu bổ. Ông dụng công để làm. Khổ cả một đời. Đây mới là con đường thành tựu.

Thứ tư: Chết — lão hòa thượng Hư Vân thường nói chữ “chết” này cực kì. Ông nói: Người chết rồi, bạn thử mắng xác chết mấy câu, hắn cũng chẳng tức giận. Người chết rồi, tiền tài vô ích, tiền nhiều bao nhiêu hắn cũng không tham. Người chết rồi, gái đẹp ở trước mặt, hắn cũng không có dục niệm. Người chết rồi, vô minh cũng không còn. Người chết rồi, tập khí cũng không còn. Người chết rồi, háo danh háo lợi đều không còn. Người chết rồi, phiền não cũng không còn.

Lão Hư nói: Con người chỉ vì sống sót mà coi trọng thể xác này, thế là sinh ra ta người đúng sai, sinh ra yêu ghét giữ bỏ. Hành giả chúng ta cần nhận định bản thân là một xác chết, đừng coi trọng nó, căn bản không xem nó là ta. Như thế, Mới có thể buông bỏ tất cả! Vì thế lão hòa thượng Hư Vân có thể buông bỏ tất cả, mới có thể giác chiếu thanh tịnh, đâu đâu cũng là thiền cơ, đâu đâu cũng là diệu đạo. Không — lão hòa thượng Hư Vân nói: Hữu giác hữu chiếu vẫn thuộc sinh tử. Vô giác vô chiếu lại rơi vào không vong [hư vô, không thực]. Đến được cảnh giới này thì càng khó, bách xích can đầu [cảnh giới cao nhất, đỉnh cao của sự giác ngộ], không có cách nào tiến lên. Lão Hư nói: Cái này phải “không mà bất không”, “vi mà vô vi”. Đó mới là: Chân không diệu hữu. Diện mạo vốn có. Bằng không sẽ là cây khô, tro tàn, người chết. Tôi (Lư Sư Tôn) lĩnh hội đến đây mới biết sự lao tâm khổ tứ của Long Thụ Bồ Tát, mới biết dụng ý trụ thế của cư sĩ Duy Ma Cật.

21. Thế nào là thiền bệnh?

Lão hòa thượng Hư Vân nói: Tâm tức là Phật, Phật tức là giác. Chúng sinh và Phật, bình đẳng không khác. Chỉ vì chúng sinh là mê, Phật là bậc giác ngộ, nên mới có phân biệt. Chúng sinh vì mê mới phải tu, mới phải chứng. Phật là tính Không, không có một vật, không nhận một pháp, không thể tu chứng. Lão hòa thượng Hư Vân nói: Chúng sinh tu thiền rất dễ đi vào đường rẽ, đây chính là thiền bệnh, thiền bệnh rất nhiều, lão Hư phân tích như sau: Thứ nhất: Hoàn toàn không hiểu rõ thế nào là thiền, thế nào là định. Mỗi ngày nhắm mắt ngồi thẳng. Ngủ gật. Vọng tưởng. Hôn trầm. Trạo cử. Người học thiền kiểu này lơ mơ hồ đồ, có ngồi đến “tết Công Gô” cũng không thể khai ngộ.

Thứ hai: Có một số người ngồi thiền có một chút nắm bắt, nhưng thực sự là chết, suy tưởng chết, ý niệm chết, cho rằng định vào một điểm là được rồi. Không biết định vào một điểm này vẫn là pháp sinh diệt, nếu chấp vào một điểm này thì làm sao mà vô sinh. Học thiền trở thành người chết, không biết vận dụng linh hoạt, thực sự là một việc vô cùng đáng tiếc. Chán sống. Thích chết. Không chết. Không sống. Đây cũng là thiền bệnh cứng nhắc máy móc.

Thứ ba: Có một số người học thiền sản sinh ra tâm tướng vô niệm, vọng niệm thô đều dừng, đắc khinh an. Bắt đầu có một vài cảnh giới. Tự thấy có thể thần hành, có thể du lịch trên trời dưới đất. Có người trở về đời quá khứ. Có người tự biết nhân quả ba đời, cũng biết nhân quả ba đời của người khác. Biết tâm tư của người khác. Thiên nhãn. Thiên nhĩ. Thần thông tự do như vậy, trong lòng rất vui mừng, thế là liền sống trong những ngày tháng có thần thông, bản thân cho rằng đã đắc đạo, đắc chứng rồi. Không biết cảnh giới thần thông này: Thần cũng có. Ma cũng có. Quỷ cũng có. Ngoại đạo cũng có. Tà cũng có. Những cái này chỉ là trò ảo, không đáng giữ, nếu mê muội trò ảo thì cũng là thiền bệnh.

Thứ tư: Đến khi lý-sự đều hiểu rõ, tu hành đi trên chính pháp, vọng niệm bám chấp bỏ hết, phiền não thanh tịnh rồi. Nhưng vẫn có đường rẽ. 1. Cao ngạo. 2. Ngã mạn. 3. Kiêu căng. 4. Tôi đúng. 5. Anh sai. Đây là không thành Phật, trái lại là thành ma, lúc này dễ mắc bệnh này, đây cũng là người mắc thiền bệnh cực nặng. Lão Hư nói: Những thiền bệnh này không phải là diện mạo vốn có!

22. Uống trà đi

Lão hòa thượng Hư Vân trong một khai thị ở chùa Vân Môn. Lão Hư nói: Ngày xưa. Hòa thượng Triệu Châu đạo phong rất thịnh, học giả mười phương đều đến thăm hỏi, qua lại tới lui rất náo nhiệt. Có một hôm. Có hai nhà sư đến thăm, hòa thượng Triệu Châu chỉ vào một nhà sư và hỏi: ”Ông đã từng đến đây chưa?” Nhà sư đáp: ”Chưa từng.” Hòa thượng Triệu Châu nói: ”Uống trà đi!” Rồi lại hỏi nhà sư kia: ”Ông đã từng đến đây chưa?” Nhà sư kia nói: ”Đã từng.” Hòa thượng Triệu Châu cũng nói: ”Uống trà đi!” Lúc này viện chủ bên cạnh liền hỏi: ”Người chưa từng đến, bảo ông ấy đi uống trà; người đã từng đến, vì sao cũng bảo ông ấy đi uống trà?” Hòa thượng Triệu Châu hét một tiếng: ”Viện chủ!” Viện chủ lên tiếng trả lời: ”Có!” Hòa thượng Triệu Châu nói: ”Uống trà đi!” Sự việc này truyền khắp thiên hạ, vì thế mới có điển cố “Triệu Châu trà”.

Lão hòa thượng Hư Vân kể điển cố này là muốn nói đây là hòa thượng Triệu Châu dạy mọi người đi suy ngẫm: ”Người uống trà là ai?”

🌟

Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đối với điển cố (công án) này vốn nghĩ là bớt nói linh tinh. Nhưng vì viết chương sách này cho nên đành phải nói một chút chút, cũng xem như là vẽ rắn thêm chân. Tôi ở Seattle Lôi Tạng Tự nước Mỹ. Mỗi khi đến giờ ăn cơm, tôi sẽ luôn gọi mọi người: ”Ăn cơm thôi!” Đối với đồng môn mới đến tôi gọi: ”Ăn cơm thôi!” Đối với đồng môn cũ tôi gọi: ”Ăn cơm thôi!” Đối với đồng môn tổ nấu ăn tôi gọi: ”Ăn cơm thôi!” Đối với đồng môn đến từ các nơi trên thế giới tôi gọi: ”Ăn cơm thôi!” Đối với khách lạ lần đầu tiên đến thăm Seattle Lôi Tạng Tự tôi gọi: ”Ăn cơm thôi!” Ngày nào cũng như vậy, cũng không phiền chán, vốn dĩ chính là như thế, hà tất ngày nào cũng phải gọi ăn cơm chứ? Đây là “đãn tận phàm tình, biệt vô thánh giải”. [Sinh hoạt giống như một người phổ thông, không biểu hiện có gì đó to tát hơn người khác.] Con người nhất định phải ăn cơm. Hơn nữa phải ăn cơm đúng giờ. Có nhàm chán không? Không nhàm chán! Đây là nuôi dưỡng sinh mạng của con người, không ăn không được. Nhưng, mọi người thử nghĩ xem: Nuôi dưỡng huệ mệnh thì dùng cái gì? Bạn có nuôi dưỡng huệ mệnh của bạn không? Diện mạo vốn có của huệ mệnh của bạn là gì?

23. Thơ của Hàn Vũ

Hàn Vũ là đệ tử của Lư Sư Tôn. Thơ của anh ấy có pháp vị. Một bài thơ gần đây: Mỗi một lần Quy y quán đảnh hoàn tịnh Con của quá khứ đã chết Con mới mẻ vì thầy mà sinh ra Thầy giơ thẳng ngón trỏ (ở Hoàng Đế Lôi Tạng Tự) Như tiếng sấm không vang in vào trong tim con Thầy hét pháp danh con Thời khắc ấy sống không còn là vì chính mình nữa.

Con thuộc về huyết khí đã chết Con thuộc về linh hồn Vì thầy mà sinh ra.

🌟

Bài thơ này khiến tôi nghĩ đến mấy câu nói mà lão hòa thượng Hư Vân thường xuyên nhắc đến. Lão Hư nói: Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Thức tự bản tâm, kiến tự bản tính. Không nói một chữ. Vốn dĩ thanh tịnh. Vốn tự có sẵn. Viên mãn khắp nơi. Diệu dụng hằng sa. Tôi (Lư Sư Tôn) giơ thẳng ngón trỏ chính là chỉ thẳng vào tâm của Hàn Vũ. Cái chỉ tay này chính là ấn tâm. Cái chỉ tay này là chỉ tính chỉ Phật, tất cả đều là linh tính. Tôi không nói gì cả. Tôi chỉ niệm pháp danh Hàn Vũ. Thế là…. Vốn dĩ thanh tịnh. Vốn tự có sẵn. Viên mãn khắp nơi. Diệu dụng hằng sa.

🌟

Hàn Vũ còn viết: Nếu như thầy muốn gặp con Cả thế giới đều sẽ giúp con đi đến với thầy Nếu thầy nhớ đệ tử Trái tim con sẽ đáp lại thầy không hề rụt rè

Con tin tưởng tất cả sẽ thành tựu viên mãn Vì thầy là Mãn Nguyện Đồng Tử Nguyện của thầy Là sự nghiệp Không Hành muốn thành tựu Và tất cả hơi thở của vũ trụ này Đều đang nói ở bên tai con Trong tim ngân lên ”Đừng sợ hãi, hãy đến bên cạnh thầy!”

Lão Hư nói: Đại trượng phu, thẳng thừng dứt khoát. Từ xưa đến nay, tất cả sự vật đều là mộng huyễn bóng ảnh, không có tự tính. Tất cả con người nên gắng sức học hỏi đạo, thường đi gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức sẽ chỉ dẫn con đường. Đây là “như thiết như tha, như trác như ma” [Luận Ngữ, dịch là như cắt như gọt, như mài như giũa, chỉ việc học đạo và tu thân phải thường xuyên được mài giũa, giống như ngọc đá phải mài giũa mới sáng bóng], “Giang Hán dĩ trạc chi, thu dương dĩ bộc chi” [câu nói của Tăng Tử về thầy mình, ý nói giống như đã được nước Giang Hán gột sạch, đã được phơi dưới nắng hè, thật sự là trong sạch không tì vết]. Hỏi đạo không thể dài dòng dây dưa. Tôi nói với Hàn Vũ: Đừng sợ, thăm hỏi không dài dòng dây dưa. Bằng không, tiếc nuối cả đời.

24. Câu chuyện nhỏ về “ba bước một lạy”

Lão hòa thượng Hư Vân ba bước một lạy, từ núi Phổ Đà lạy đến núi Ngũ Đài, đây là để báo ơn người mẹ đã sinh ra ông. Việc lạy này phải ba năm mới hoàn thành chí nguyện. Có một lần, ông lạy đến bên bờ sông Hoàng Hà, gặp đúng lúc tuyết rơi lớn, trận tuyết này tổng cộng rơi ba ngày ba đêm vẫn chưa dừng. Lão Hư trú tạm trong túp lều cỏ, vừa đói vừa lạnh, vừa có bệnh, thân thể mất đi cảm giác, bất tỉnh nhân sự. Khi ông tỉnh dậy. Phát hiện ra trong túp lều cỏ có một người ăn xin đang nấu cháo kê cho lão Hư ăn. Sau khi ăn xong, bụng không đói nữa, cũng không lạnh nữa, bệnh cũng khỏi rồi. Ông cảm ơn người ăn xin, hỏi: “Họ tên?” Người ăn xin đáp: ”Văn Cát.” Hỏi: “Từ đâu đến?” Người ăn xin đáp: ”Người ở núi Ngũ Đài đều biết tôi.” Cuối cùng, người ăn xin rời đi. Sau đó, lão hòa thượng Hư Vân cuối cùng đã đến được núi Ngũ Đài, hỏi thăm khắp nơi về Văn Cát. Mọi người ở núi Ngũ Đài đều không biết có người ăn xin nào tên là Văn Cát. Sau cùng, có một cao tăng nói với Hư Vân: ”Đây là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.” Hư Vân hỏi: ”Sao ông biết?” Cao tăng đáp: ”Văn Cát chính là Văn Thù Sư Lợi Diệu Cát Tường Bồ Tát.” Chà! Lão hòa thượng Hư Vân rất đỗi cảm động. (Quả nhiên người ở khắp núi Ngũ Đài đều biết ngài.)

🌟

Tôi còn nhớ khi tôi triều lễ núi Ngũ Đài. Từ đỉnh Bồ Tát lạy xuống. Gặp chùa là lạy. Có một nhà sư mặc áo vàng hoàn toàn xa lạ, tôi lạy cả quãng đường, ông ấy cũng lạy theo tôi. Nhà sư này ở bên cạnh tôi lạy cùng tôi. Đây cũng là một việc kỳ lạ. Tôi lạy cả quãng đường, ông ấy cũng cùng tôi lạy cả quãng đường. Ông ấy muốn gì ở tôi sao? Tôi thầm nghĩ. Đến khi lạy xong. Tôi đưa tiền cho ông ấy. (Rất nhiều tờ 100 Nhân Dân Tệ.) Ông ấy lắc đầu từ chối. Ông ấy nói: ”Tôi ở đây đợi đã nhiều năm mới đợi được ngài.” Tôi giơ ngón trỏ lên. Ông ấy giơ ngón tay chỉ trời, rồi lại chỉ đất, rồi lại chỉ vào tim mình. Hai người chúng tôi dùng ngôn ngữ tay để giao tiếp. Sau đó, chúng tôi hỏi người ở núi Ngũ Đài nhà sư này là ai. Có phải người của ngôi chùa đó không? Không ngờ lại chẳng có ai biết. Chúng tôi cho rằng nhà sư này là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát. Hai câu chuyện này đều là câu chuyện về cảm ứng đạo giao. Tôi (Lư Sư Tôn) cho rằng: Người có thành tâm, Phật có cảm ứng. Trên người tôi đã xảy ra quá nhiều sự việc linh dị rồi, nhiều đến mức không đếm xuể. Nghĩ xem! Tôi lạy cái gì? Nhà sư lạy cái gì? Ai lạy ai?

25. Vì pháp quên mình

Tại chùa Dũng Tuyền trên núi Cổ ở Phúc Châu, lão hòa thượng Hư Vân đã lễ trưởng lão Diệu Liên làm thầy. Pháp danh Diễn Triệt. Hiệu Đức Thanh. Ông rất sợ bị người ta tìm đến, cho nên vẫn ở hang động sau núi tu khổ hạnh. Khi đói thì ăn hạt thông và lá cỏ. Khi khát thì uống nước ở khe suối. Sự khổ hạnh này người bình thường chịu không nổi. ”Mặc những thứ con người không thể mặc, ăn những thứ con người không thể ăn, nhẫn nhịn những thứ con người không thể nhẫn nhịn, chịu đựng những thứ con người không thể chịu đựng.” Cứ thế kéo dài ba năm. Khi lão Hư từ sau núi xuất hiện. Tăng chúng nhìn thấy ông giống như người hoang dại, quần áo không che kín thân thể, gầy như cái que, lông tóc bờm xờm, giống như động vật vậy. Phương trượng nhìn thấy ông thì cũng cảm động sâu sắc.

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân tu hành trong túp lều cỏ ở núi Cửu Hoa, nghe nói chùa Cao Mân ở Dương Châu có đả thiền thất, thế là ông đi tham gia. [Đả thất là kỳ hạn tu hành trong vòng bảy ngày để cầu chứng ngộ, người nào tu niệm Phật thì gọi là đả Phật thất, người nào tu thiền gọi là đả thiền thất.] Từ núi Cửu Hoa đi men theo sông. Gặp mưa lớn, nước sông dâng lên, nước tràn ra mặt đường, ông gấp rút lên đường, không cẩn thận rơi xuống sông, bị cuốn trôi suốt hai mươi tư giờ, trôi đến mỏm đá Thải Thạch mới được người đánh cá phát hiện, người đánh cá dùng lưới để vớt lão Hư lên. Người đánh cá biết gần đó có chùa Bảo Tích nên đưa lão Hư trở về chùa. Ông thở thoi thóp. Bảy lỗ chảy máu. Chỉ còn một hơi thở. Tình hình nghiêm trọng. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu chữa. Ông đã đi đến chùa Cao Mân để đả thiền thất.

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân cả đời đi khắp nơi, thăm hỏi các thiện tri thức, mũi dính tro không ít. [Mũi dính tro là một thành ngữ tiếng Hán ý nói rằng mong muốn điều tốt đẹp nhưng lại bị bẽ mặt.] Chịu đựng sỉ nhục, nhưng ông không thay đổi chí nguyện ban đầu. Ông từng đến Singapore, Malaysia, Thái Lan. Ông cũng từng đi Tây Tạng, đi Vân Nam, đi Quảng Châu. Đã đi rất nhiều nơi. Những gian khổ mà ông đã phải chịu nhiều không đếm xuể. Lão hòa thượng Hư Vân lúc cuối đời đã thiên hóa viên tịch tại chuồng bò ở núi Vân Cư. Chuồng bò ấy trên lợp cỏ tranh, thật sự là nơi nuôi bò, có một cửa ra vào và một cửa sổ, chuồng bò là nơi nuôi bò, nhưng ông tự nguyện chịu đựng gian khổ.

🌟

Nghe nói: Ông đã xây rất nhiều chùa. Hai cuộc đại chiến, máy bay của quân Nhật không tập đã phá hủy không ít chùa, có người khuyên ông đừng xây chùa nữa, xây xong lại bị phá thì chẳng bõ công. Lão Hư nói: ”Xây là tôi xây, phá là họ phá. Hai việc này chẳng hề liên quan.” Tinh thần của lão Hư chính là như vậy.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) từng dùng sức mạnh thần thông để đến chỗ của Di Lặc Bồ Tát, nghe Di Lặc giảng kinh. Tôi đã thấy lão hòa thượng Hư Vân cũng ngồi ở đó. Tôi, Hư Vân, Đã kết nhân duyên tại thiên thượng giới. Đây cũng chính là nguyên nhân ngài đã cứu tôi khi tôi mắc chứng viêm mô tế bào.

26. Hư Vân và con hổ

Khi lão hòa thượng Hư Vân ở chùa Nam Hoa. Đúng lúc đang giảng Bồ Tát giới thì phát sinh một sự việc kỳ dị, là một con hổ lớn xuất hiện. Thì ra phía sau núi của chùa Nam Hoa gặp rất nhiều nạn hổ. Tứ chúng đệ tử nhìn thấy hổ thì ai nấy đều sợ hãi la hét và lập tức bỏ chạy. Hư Vân ở trên pháp tọa nói: ”Con hổ này đến để nghe kinh và quy y, để cho nó lại đây.” Tứ chúng nghe xong, bán tín bán nghi. Có một vị là lão pháp sư Quán Bản lấy thân mình chặn trước mặt hổ, giận dữ quát hổ: ”Chớ hại sư phụ ta!” Con hổ gầm lên một tiếng. Ngoe nguẩy cái đuôi. Tứ chúng kinh sợ bỏ chạy, lão pháp sư Quán Bản sợ té cứt té đái. Lão Hư bình tĩnh như thường, xuống khỏi pháp tọa, đi đến trước mặt con hổ, nhìn con hổ với ánh mắt từ bi. Con hổ trở nên ôn hòa thuần hậu. Lão Hư hỏi: ”Chúa sơn lâm, ngươi đến để quy y phải không?” Không ngờ con hổ lại gật gật đầu rồi đột ngột quỳ phục trước mặt lão Hư. ”Hiếm thấy hổ có thể giác ngộ, nhất định là biết nhân quả kiếp trước, nay đến quy y, ta sẽ nói cho ngươi về tam quy ngũ giới. Sau này ở ẩn trong núi sâu, đừng hại mạng người, chăm chỉ tu trì, tương lai có thể chứng quả.” Thế là, Lão Hư đã quy y cho con hổ. Cũng truyền giới cho con hổ. Con hổ hơi ngửa đầu, lão Hư đưa tay ra xoa lên đầu hổ, nói bài kệ: Hổ biết quy y Phật Tính ngay chẳng khác biệt Lòng người và súc vật Cùng ẩn giấu ánh sáng. Ngươi hãy trở về núi sâu, giữ núi bảo vệ Phật pháp! Lúc này tứ chúng đồng thanh niệm Phật, con hổ đứng dậy bỏ đi, dần dần mất hút vào trong đêm tối. Tứ chúng khâm phục: ”Lão Hư pháp lực vô biên!” Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Đây không phải là pháp lực của tôi, mà là Phật lực bất khả tư nghì.” Câu chuyện này là một thần tích của lão hòa thượng Hư Vân, lão Hư có rất nhiều thần tích. (Lão Hư quy y thọ giới cho gà trống cũng rất thần kỳ.)

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cho rằng: Lão hòa thượng Hư Vân dùng: Sức mạnh từ bi. Sức mạnh thiền định. Sức mạnh trí huệ. Đã hàng phục con hổ, vì sao có thể làm như vậy? Chỉ vì trong cõi vô hình tự có Thủ Hộ Kim Cang ở đó, hình thành một lớp khí che phủ vô hình, kết thành lưới ánh sáng bảo vệ. Lão Hư chính là như vậy. Có Kim Cang bảo vệ, tự nhiên không sợ. Đặc biệt là lão Hư xem tất cả chúng sinh đều là Phật, đối với con hổ hung ác cũng đối đãi bình đẳng. Con hổ thấy lão Hư không có ý sợ nó, nó cũng không có ý hại người. Cho nên: Lòng người và súc vật Cùng ẩn giấu ánh sáng. Lành thay! Lành thay! Tứ sinh lục đạo cùng một Phật tính.

27. Lão Hư khóc lóc thảm thiết

Có một hôm lão hòa thượng Hư Vân đang ở trong đại điện chùa Nam Hoa làm khóa tu sớm. Trong sát-na, nước mắt lấp lánh, nghẹn ngào khóc lóc thảm thiết, đau đớn không thể tự kiềm chế. Các đệ tử nhìn thấy lão hòa thượng Hư Vân nước mắt đầm đìa, ai nấy đều không hiểu gì cả. Mới đây khóa tu sớm vẫn còn tốt đẹp. Bây giờ khóa tu sớm đã gián đoạn rồi, các đệ tử ngơ ngác nhìn nhau, lão hòa thượng hôm nay làm sao vậy nhỉ? Đệ tử ngồi đầu hỏi: ”Sư phụ làm sao vậy?” Lão hòa thượng Hư Vân nức nở, đau đớn bi thảm trả lời: ”Tôi nhìn thấy Nam Kinh…” ”Nam Kinh làm sao?” Lão hòa thượng Hư Vân đáp: ”Người Nam Kinh bị tàn sát, hàng triệu sinh linh con người đều chết rồi, đều thành xác chết rồi, tử thi chất cao như núi, máu chảy thành sông, đây là bi kịch của nhân gian.” ”Sao sư phụ biết?” Lão hòa thượng Hư Vân đáp: ”Tôi ở trong định nhìn thấy.” Sự việc này khiến các đệ tử lộ vẻ kinh ngạc, thật sự bất khả tư nghì không thể tưởng tượng được. Về sau. Tin tức về cuộc đại tàn sát ở Nam Kinh, vốn dĩ bị quân Nhật phong tỏa, mãi cho đến mấy tháng sau mới được dân tị nạn chạy thoát chứng thực, và ảnh do phóng viên nước ngoài chụp lộ ra ngoài chứng minh. Những việc này. Đã ấn chứng thiền định của lão hòa thượng Hư Vân thấy trước, những đồ đệ của Hư Vân mới hiểu vì sao ngày hôm đó lão Hư òa khóc, quả nhiên là nhìn thấy thật.

🌟

Công lực thiền định của Hư Vân, tôi từng viết trong sách: Có một lần. Lão hòa thượng Hư Vân đang thiền định vào buổi tối. Ông lại nhìn thấy bên ngoài căn phòng phương trượng của mình, có nghĩa là ông có thể nhìn xuyên tường thấu vách, nhìn thấy cả vườn hoa bên ngoài căn phòng. Tường vách biến mất. Một vị tiểu hòa thượng từ thiền phòng đi ra, đêm tối gió mát, tiểu hòa thượng hấp tấp đi đến vườn hoa. Nhìn ngó bốn phía không có người. Liền tụt quần. Xè xè! Xè xè! Làm một bãi tè to đùng vào vườn hoa. Tiểu hòa thượng lại nhìn xung quanh, chắc chắn không có người. Tiểu hòa thượng liền nhanh như chớp trở về phòng đi ngủ. Những tình tiết này không ngờ đã bị lão hòa thượng Hư Vân trong thiền định nhìn thấy rõ tất cả, hơn nữa còn hết sức rõ ràng. Lão Hư không trách mắng tiểu hòa thượng. Chỉ nói với anh ta: ”Sau này đi vào nhà vệ sinh thì hay hơn.” Đây là khởi đầu của việc trong định nhìn thấy của lão hòa thượng Hư Vân. Thiền định có thể hiển hiện thông lực, đây cũng là một dạng năng lực thần thông.

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân ở trong định còn nhìn thấy chữ Vạn 卐 của Phật giáo quay theo chiều kim đồng hồ biến thành chữ Vạn 卍 quay ngược chiều kim đồng hồ. Không chỉ như vậy mà còn treo nghiêng nghiêng nữa. Sau này mới biết đây là phù hiệu Nazi Đức quốc xã của Adolf Hitler. Hư Vân đều có thể nhìn thấy trước những việc này. Lão hòa thượng Hư Vân thiền định nhìn thấy trước rất nhiều, không thể kể hết. Quan trọng nhất là, thiền có thể hiển phát Phật tính.

28. Hư Vân ở thiên cung Đâu Suất

Năm đó, lão hòa thượng Hư Vân ở tại chùa Đại Giác trên núi Vân Môn. Lão Hư bị đánh tàn nhẫn đến mức hôn mê. Lão Hư nhờ thiền định mà đến được Đâu Suất Thiên, nội viện của Di Lặc Bồ Tát. Nghe Di Lặc Bồ Tát giảng “duy tâm thức định”. Lão hòa thượng Hư Vân tự thuật trải nghiệm này: Giống như một giấc mơ. Bỗng dưng cảm thấy mình đã đến nội viện của Đâu Suất Thiên, nhìn thấy cung điện Phật trang nghiêm thù thắng, tỏa muôn ánh vàng. Di Lặc Bồ Tát ngồi trên pháp tọa thuyết pháp. Bên dưới rất nhiều người nghe pháp. (Trong số đó có một vị chính là Lư Sư Tôn.) Lão Hư nhìn thấy: Tôn giả Tử Bách. Hòa thượng Chí Thiện. Trưởng lão Dung Kính. Hòa thượng Thánh Tâm. ……………..

Lão hòa thượng Hư Vân nghe Di Lặc Bồ Tát giảng kinh, vô cùng hoan hỷ, nhưng, sau đó Di Lặc chỉ vào Hư Vân đang ngồi ở dưới nói: ”Ông có thể đi về rồi!” Hư Vân đáp: ”Tôi không về, Ta Bà khổ lắm.” Di Lặc cười nói: ”Khổ thì cũng đã khổ rồi, không sao hết, trở về đi! Nghiệp duyên hết thì lại tới cũng được.” Hư Vân nói: ”Vì sao Bồ Tát lại nói tôi?” Di Lặc nói: ”Tặng ông một bài kệ: Thức trí hà phân? Ba thủy nhất cá. Mạc muội bình bồn, kim vô hậu bạc. Tính lượng tam tam, ma thằng oa giác. Nghi thành cung ảnh, bệnh duy trừ hoặc. Phàm thân mộng trạch, huyễn vô sở trước. Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác. Đại giác viên minh, kính giám sâm la. Không hoa phàm thánh, thiện ác an lạc. Bi nguyện độ sinh, mộng cảnh tư tác. Kiếp nghiệp đương đầu, cảnh dịch phổ giác. Khổ hải từ hàng, vô sinh thối khước. Hoa khai nê thủy, đoan tọa Phật Đà. ……………………………………………

[Tạm giải thích bài kệ như sau: (dựa theo Học Báo Phật Học Trung Hoa (Kỳ 16). Câu 1: Mối quan hệ giữa vọng thức và trí huệ giống như sóng và nước, thể tính của hai cái này không khác. Câu 2: Vọng thức và trí huệ cũng như bình vàng chậu vàng, mặc dù ngoại hình khác nhau, nhưng tính chất vàng không có sự khác biệt dày mỏng. Câu 3: Khả năng ở đây dựa vào bài tụng quy tắc tám thức, giải thích thức thứ sáu thuộc ba tính (thiện, bất thiện, vô ký), ba lượng (hiện lượng, bỉ lượng, phi lượng), ba cảnh (tính cảnh, độc ảnh cảnh, đới chất cảnh). Vì thế, tam tính ở đây bao gồm ba loại tự tính là sở chấp tính, y tha khởi tính, viên thành thực tính. Ma thằng (dây gai) có lẽ là chỉ câu nói “trong bóng tối dây thừng như rắn, từ đó ẩn dụ thành lập thông đạt ba loại tự tính” trong “Nhiếp Đại Thừa Luận Thích”. Oa giác (sừng ốc sên) có lẽ xuất phát từ điển cố “Có một nước ở sừng trái của con ốc sên là Xúc Thị, và một nước ở sừng phải của con ốc sên là Man Thị, khi ấy đang đánh nhau tranh giành lãnh thổ” trong Trang Tử. Câu 4: “nghi thành cung ảnh” có liên quan đến câu chuyện “bóng rắn trong cốc”, tức thần hồn nát thần tính, lo sợ hão huyền. Mắc bệnh này chỉ có cách loại bỏ nghi hoặc. Câu 5: Thân thể phàm trần là ngôi nhà trong mơ, nó là huyễn ảo không có gì để bám chấp. Câu 6: Biết là huyễn lập tức lìa bỏ huyễn, lìa bỏ huyễn tức là giác ngộ. Câu 7: Giác ngộ trọn vẹn sáng tỏ, như gương sáng soi rõ tất cả. Câu này có lẽ ý nghĩa có liên quan tới kinh Viên Giác: “Tất cả huyễn hóa của chúng sinh đều sinh diệu tâm viên giác của Như Lai, tựa như không hoa từ không mà có. Tuy hoa huyễn diệt nhưng tính Không bất hoại. Huyễn tâm của chúng sinh vẫn phải dựa vào huyễn diệt. Diệt hết mọi huyễn thì giác tâm bất động.” Câu 8, 9, 10: Mặc dù ở trong kiếp nghiệp khổ nạn vẫn gắng sức thực hiện bi nguyện độ sinh không thối chuyển. Câu 11: Hoa nở trong bùn, ngồi nghiêm là Phật.]

🌟

Có đệ tử hỏi tôi: ”Thời đại của Lư Sư Tôn và thời đại của Hư Vân khác nhau, sao lại có liên quan tới nhau được?” Tôi đáp: ”Không liên quan.” [Không trong từ không trung, sự liên quan trống rỗng, liên quan về mặt tính Không.] Đệ tử hỏi: ”Không thì liên quan thế nào?” Tôi đáp: ”Tịnh thổ Di Lặc cũng là không.” Đệ tử hỏi: ”Vì sao tịnh thổ cũng là không?” Tôi đáp: ”Tịnh thổ đến từ tâm của Bồ Tát, mà tâm của Bồ Tát là không.” Đệ tử hỏi: ”Lư Sư Tôn là không, các đệ tử cũng không, làm sao lại có bệnh?” Tôi đáp: ”Bệnh cũng không.”

Tôi viết về lão hòa thượng Hư Vân, đã viết nhiều như vậy, cũng xem như là một cái duyên không tách rời. Thảo nào mà tôi đã viết mười cuốn sách về thiền. Tôi cũng muốn viết về Giải Thâm Mật Kinh, Thành Duy Thức Luận. (của Di Lặc Bồ Tát)

29. Hư Vân và Thiền Tu

Đây là một đoạn nhân duyên giữa lão hòa thượng Hư Vân và lão hòa thượng Thiền Tu. Những năm ấy. Hư Vân ở núi Kê Túc ở Vân Nam đã xây dựng lại đạo tràng Phật giáo ở núi Kê Túc. Ngài đi khắp nơi để quyên góp tịnh tài, ngài không chỉ đi quyên ở Đại Lý và Côn Minh mà cũng đến cả Vĩnh Xương, đi đến rừng Hòa Mộc. Đường núi trong rừng Hòa Mộc gập gềnh không được tu sửa, thưa thớt bóng người. Có người nói với Hư Vân: ”Có một vị hòa thượng đang sửa đường ở đây, ông ấy không đi hóa duyên, một mình sửa đường, tùy người qua lại bố thí cho cơm nước mà thôi, đã sửa mấy chục năm rồi. Có người muốn xây chùa cho ông ấy ở, ông ấy cũng không chịu, chỉ khổ hạnh sửa đường.” Hư Vân rất cảm động, quyết định tìm gặp lão hòa thượng khổ hạnh cao quý này. Hư Vân nhìn thấy một lão hòa thượng râu tóc bạc phơ tay cuốc tay xẻng. Hư Vân tiến lên trước hỏi thăm, lão hòa thượng không nói gì. Hư Vân theo lão hòa thượng trở về lều trúc. Lão hòa thượng ngồi trên bồ đoàn, Hư Vân bước lên trước làm lễ, ông ấy cũng không nói gì.

Ngày hôm sau. Lão hòa thượng thổi cơm sáng, Hư Vân vội giúp đỡ, lão hòa thượng cũng không nói gì. Lão hòa thượng nấu cơm và tự ăn, Hư Vân cũng lấy bát tự ăn, hai người cũng không nói chuyện. Ăn cơm xong, lão hòa thượng lại đi sửa đường, Hư Vân cũng đi theo giúp, lão hòa thượng vẫn không nói gì y như thế. Hơn mười ngày rồi, ngày nào cũng không nói không rằng.

Thế rồi một buổi tối, trăng sáng như tranh, Hư Vân đang ngồi xếp bằng trên tảng đá to bên ngoài lều trúc, đến lúc đêm khuya, hòa thượng kia đột nhiên mở miệng ra hỏi: ”Ông đang làm gì thế?” Hư Vân đáp: ”Ngắm trăng.” Lão hòa thượng hỏi: ”Trăng ở chỗ nào?” Hư Vân biết là thiền cơ, đáp: ”Ánh sáng đẹp đẽ, không đâu không có.” Lão hòa thượng hỏi: ”Vàng thau trộn lẫn, sao có thể nhận nhầm?” Hư Vân đáp: ”Chỉ có một thôi, làm gì có nhận nhầm.” Lão hòa thượng hỏi: ”Có chướng ngại ngăn trở không?” Hư Vân đáp: ”Không có xưa nay, lấy đâu ra chướng ngại ngăn trở.” Lão hòa thượng nghe xong lời đáp của Hư Vân, kinh ngạc vui mừng khôn xiết, cười lớn nói: ”Tốt! Tốt! 60 năm nay tôi mới gặp được một chân nhân, hay cho câu chỉ có một, không có xưa nay, không đâu không có. Đây là ngộ được cực điểm, dụng ý sâu xa của thiền, nếu không có công lực thì không thể nào nói được thiền ngữ này.”

Hai người đã luận bàn mối giao tình. Một người là lão hòa thượng Hư Vân, cầu tuyết giải trừ tai họa, nổi danh khắp thiên hạ, ba bước một lạy, đến núi Ngũ Đài, đại sư khổ hạnh. Một vị là lão hòa thượng Thiền Tu ở chùa Kim Sơn, phát tâm khổ hạnh sửa đường 60 năm. Hai người cảm giác như đã quen biết nhau từ rất lâu rồi. Hai người đều là người Tương Đàm tỉnh Hồ Nam. (Rất nhiều người đã lướt qua đoạn ghi chép này, cho rằng không có gì cả, thật ra lại rất quan trọng.)

Lư Sư Tôn tôi chỉ cho mọi người thấy: Không đâu không có — Phật tính không đâu là không có. Chỉ có một — cũng là chỉ Phật tính, tứ thánh lục phàm thập pháp giới chính là cái một này. Không xưa nay — Phật tính không có xưa và nay, không Nam Bắc, không Đông Tây, cũng không có chướng ngại ngăn trở. Lành thay! Lành thay!

30. Dung Kính dạy bảo Hư Vân

Trong cuốn “Mây Của Hư Không” mà Phùng Phùng viết có một đoạn: “Hư Vân đến núi Thiên Thai.” Trưởng lão Dung Kính dạy bảo Hư Vân, khi ấy, Hư Vân vẫn còn trẻ, đã tu khổ hạnh mười năm. Dung Kính nói: ”Khổ hạnh mười năm, đều không phải Đại thừa. Quan sát những gì anh đã làm thì gần với ngoại đạo. Sống trong hang ăn ngũ cốc, cho dù có tu được thọ mạng vạn năm thì nhiều nhất cũng là mười loại tiên nhân nói đến trong Kinh Lăng Nghiêm thôi, vẫn cách đạo rất xa.” Ở chỗ của trưởng lão Dung Kính, Hư Vân đã học Kinh Pháp Hoa và Pháp Hoa Tông Thông. Dung Kính nói: ”Tôi mong anh không câu nệ vào một tông, phải kết hợp các tông, trở về một thừa. Phật pháp vốn không phân biệt tông phái, nhưng vì lâu ngày mà rời xa cái gốc, mỗi người lập môn phái riêng, mỗi người chấp vào một đoạn, đây là hiện tượng diệt pháp.” Dung Kính nói: ”Kinh A Hàm và Kinh Đại Bát Nhã là hai tư tưởng lớn về Hữu và Không. Long Thụ Bồ Tát đề xướng “thực tướng Đại thừa” và “Không quán”, Vô Trước Thế Thân Bồ Tát lại đề xướng “duyên khởi Đại thừa” và “Hữu quán”. Thật ra, Không - Hữu là một thể hai mặt, không hề tương phản.” Dung Kính chủ trương: Bát Nhã quét trừ mê vọng. Pháp Hoa chỉ ra cứu cánh. Lại nói: ”Năm ý sâu xa của Kinh Pháp Hoa là: pháp ý là danh, thực tướng là thể, nhất thừa nhân quả là tông, đoạn nghi sinh tín là dụng, vô nhị là giáo.” Lại nói: ”Chỉ-quán của Thiên Thai tông, tam chỉ tam quán là công phu. Lấy quán chiếu làm pháp, minh Phật tâm, khởi Phật hành, nhập Phật huệ.” Dung Kính chủ trương: Không — gốc. Hữu — dấu tích. Không thể trọng Không khinh Hữu. Không thể trọng Hữu khinh Không.

🌟

Hư Vân ở chùa Nhạc Lâm (Chiết Giang). Lại học niệm Phật từ lão pháp sư Bảo Quang. Bảo Quang nói: Thượng căn khí — dùng quán tưởng niệm Phật. Trung căn khí — dùng quán tượng niệm Phật. Hạ căn khí — dùng trì danh niệm Phật. Hạ hạ căn khí — lâm chung mười niệm. (phải có thiện căn)

🌟

Hư Vân đi khắp nơi để học hỏi: 1. Chùa Dũng Tuyền ở núi Cổ — học thiền. (chưa đạt đến sơ thiền) 2. Chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai — học Thiên Thai tông. 3. Chùa Nhạc Lâm — học Tịnh Độ. 4. Chùa Huệ Tế ở núi Phổ Đà — nghiên cứu học tập Long Tạng. Hoa Nghiêm môn. Phương Quảng môn. Bát Nhã môn. Pháp Hoa môn. Niết Bàn môn.

🌟

Tôi nói, việc đi khắp nơi học hỏi của lão hòa thượng Hư Vân có thể nói là đã trải qua Thiền, Thiên Thai, Tịnh Độ, Hiền Thủ, Lăng Già, Pháp Tướng, Pháp Nhãn, Chân Ngôn, Lạt Ma, Pháp Tính,…. Bây giờ tôi hỏi mọi người: ”Hư Vân chuyên chú vào học gì?” ”Hư Vân đắc thành tựu như thế nào?” ”Hư Vân ở chùa Thiên Đồng học cái gì?” Xin cho ý kiến.

31. Hư Vân ở chùa Dục Vương và Thiên Đồng

Hư Vân xuất gia tại chùa Dũng Tuyền trên núi Cổ, chùa Dũng Tuyền vốn là Tào Động Tông. Sau đó ông đến chùa Dục Vương, lão hòa thượng Bản Lai của chùa Dục Vương là Lâm Tế Tông, đều là Thiền Tông. (Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Vi Ngưỡng là một hoa nở năm cánh của Lục Tổ.) Lão hòa thượng Bản Lai dạy Hư Vân: Từ bi là Quan Âm. Hỷ xả là Thế Chí. Năng tịnh là Thích Ca. Bình trực là Di Đà. Lão hòa thượng Bản Lai dạy Hư Vân đệ nhất nghĩa của Kinh Kim Cang, tức là thực tướng bát nhã. Còn dạy định huệ, huệ là thể, định là dụng. Lão hòa thượng Bản Lai nói: “Lập vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm gốc.” (Lư Sư Tôn tôi lấy vô niệm làm chính giác Phật bảo. Chân Phật Tông là Vô Niệm Tông.) Lão hòa thượng Bản Lai dạy Hư Vân ngồi thiền: Không nhìn tâm. Không nhìn tịnh. Nói: Tâm niệm không khởi gọi là tọa. Nội kiến tự tính bất động gọi là thiền. Sau đó: Hư Vân đã quy y lão hòa thượng Bản Lai. (Lúc này Hư Vân mới chính thức học tập Thiền Tông.)

🌟

Hư Vân được lão hòa thượng Bản Lai giới thiệu đi gặp lão hòa thượng Pháp Trạm ở chùa Thiên Đồng để học tập Lăng Nghiêm Tông Thông. Lão hòa thượng Pháp Trạm nói: Chú — Lăng Nghiêm đại chú. Quán — Phạn tự. Ấn — Ba thủ ấn. (Đỉnh (Bạch Tản Cái) và Ngũ Phật ấn, Kim Cang ấn.) Đây chính là Mật giáo. Hư Vân ở chùa Dục Vương và chùa Thiên Đồng tổng cộng đã học nhiều năm. Hư Vân ở chỗ lão hòa thượng Pháp Trạm cũng học được cách phá trừ năm mươi âm ma.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) phá trừ năm mươi âm ma như thế nào, tôi dùng bài thơ nổi tiếng của đại sư Hàm Sơn: Thế giới sáng như thủy nguyệt, thân tâm sáng tựa lưu ly. Vạn cảnh vốn dĩ tịch diệt, do tâm mới có khởi diệt. Một niệm nếu chẳng Vô - Hữu, động tĩnh đâu thể nổi lên. Gió từ nơi nào thổi đến, bóng ảnh động vào trong hang. Lặng nghe âm thanh vốn không, làm sao mà có khởi diệt. Nước chảy không phải thanh âm, trăng sáng cũng không có sắc. Thanh sắc chẳng hề tương quan, cảnh này có ai hiểu được. Tôi nói: Vô niệm. Vô niệm. Vô niệm. (Có niệm đều không quan tâm.) Không quan tâm, không quan tâm, không quan tâm, thì sẽ phá được ma. (không hề tương quan)

🌟

Hôm nay tôi nói với mọi người: Sắc như đám bọt. Thọ như bong bóng. Tưởng như ngựa hoang. Hành như quả chuối. Thức là pháp huyễn. Nếu tất cả đều hiểu rõ, tự có thể phá trừ tất cả ma chướng, trong tâm sẽ hết sức khiết tịnh quang minh. Tôi thì: Vô ngã. Chính là bình đẳng hành trì, tùy duyên hành trì, vô cầu hành trì, như pháp hành trì.

32. Hư Vân học Luật Tông

Hư Vân đến chùa Kim Sơn. Chùa Kim Sơn này rất nổi tiếng, rất nhiều truyền thuyết. Thứ nhất: Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương ở chùa Kim Sơn, nhìn những cánh buồm trên sông Trường Giang nhiều như rừng, nói: ”Trên sông nhiều thuyền quá!” Trưởng lão chùa Kim Sơn nói: ”Chỉ có hai con thuyền thôi!” Chu Nguyên Chương rất ngạc nhiên. Trưởng lão nói: ”Một thuyền là danh, một thuyền là lợi.” Chu Nguyên Chương im lặng.

Thứ hai: Trong Truyện Bạch Xà. Bạch Tố Trinh và Hứa Hán Văn yêu nhau. Hòa thượng Pháp Hải ngăn cản. Bạch Xà và Thanh Xà trong cơn tức giận đã dâng nước nhấn chìm chùa Kim Sơn, khiến rất nhiều sinh linh chết đuối. Bạch Xà Bạch Tố Trinh bị đè dưới tháp Lôi Phong. Bởi vậy nói: Sát sinh là một trong đại giới, Bạch Xà sát sinh, tội ấy rất lớn! Cảnh giác! Cảnh giác!

Thứ ba: Tô Đông Pha và hòa thượng Phật Ấn. Đông Pha làm thơ: “Kê thủ thiên trung thiên, hào quang chiếu đại thiên, bát phong xuy bất động, đoan tọa tử kim liên.” [Đảnh lễ bậc Giác Ngộ, hào quang chiếu vũ trụ, tám gió thổi chẳng động, ngồi vững tòa sen vàng.] Hòa thượng Phật Ấn ở chùa Kim Sơn chỉ viết “Đánh rắm! Đánh rắm!” đưa cho Tô Đông Pha. [Đánh rắm cũng có nghĩa là nói láo, nói xạo.] Tô Đông Pha tức giận tới nỗi qua sông tìm thiền sư Phật Ấn để lý luận. Phật Ấn chỉ cười: ”Cái gì mà tám ngọn gió thổi chẳng động, kết quả, đánh một cái rắm mà đã qua sông rồi!” Bởi thế: Công phu chưa tới, chớ có khoác lác!

🌟

Hư Vân ở chùa Kim Sơn thật ra không hề học Luật, chỉ học đến thích ứng với phương tiện thiện xảo, toàn là tiếp người ta tiệc tùng. Nơi mà Hư Vân thật sự học Luật là chùa Cao Mân ở Dương Châu. Khi ấy, trưởng lão Lãng Huy ở chùa Cao Mân nói: ”Chùa này, người người tu không nói chuyện.” ”Nếu trái với thanh quy [quy tắc Phật giáo đối với tăng ni] thì sẽ bị phạt đánh roi.” Hư Vân học tập: Bốn bộ Luật là: Bát Thập Tụng Luật, Tứ Phần Luật, Tăng Kỳ, Ngũ Phần Thập Tụng. Sau đó học: Tát Bà Đa Luận, Ma Đắc Lặc Già Luận, Thiện Kiến Luận, Tỳ Ni Hải Luận, Minh Liễu Luận. Đây là năm bộ Luận. Ở chùa Cao Mân, ngài đã học tập: Điều chuyển năm dục - sắc thanh hương vị xúc. Loại bỏ năm uẩn - tham sân thụy hối nghi. Điều hòa năm việc: Điều hòa tâm không sắp đặt không trôi nổi. Điều hòa thân không chậm không nhanh. Điều hòa hơi thở không thô không trơn. Điều hòa mạch không thắt nút không phóng túng. Điều hòa ăn uống không đói không no. Hư Vân đã học được làm sao để nhất tâm, làm sao để tinh tấn, thế nào là tâm niệm, thế nào là xảo huệ…

🌟

Hư Vân từ núi Phổ Đà đi ba bước một lạy, lạy đến núi Ngũ Đài, là quyết định được đưa ra vào lúc đó. Mục đích chính là để báo ơn mẹ sinh đẻ khó nhọc. Ngoài ra là báo ơn cha và mẹ kế đã nuôi dưỡng. Ông chỉ biết dùng cách này để chuộc tội bất hiếu, bởi vì Hư Vân đã trốn nhà đi xuất gia tu hành. Sức mạnh ý chí của Hư Vân không ai có thể sánh bằng.

33. Hư Vân và Văn Cát

Hư Vân từ núi Phổ Đà đi ba bước lạy một lạy, đến một nơi là bến đò Thiết Tá, ở vùng ngoại ô đã gặp trận tuyết lớn. Ở trong lều cỏ. Chút xíu nữa đã chết vì đói rét, may gặp được người ăn mày tên Văn Cát cứu sống. Ở chương trước tôi đã kể. Ở đây ghi ra cuộc đối thoại giữa Hư Vân và Văn Cát, tôi (Lư Sư Tôn) cảm thấy lời có huyền cơ, vì thế viết ra như sau: Văn Cát hỏi: ”Ông từ đâu đến? Đi đến đâu?” Hư Vân đáp: ”Từ núi Phổ Đà đến, ba bước một lạy, đi đến núi Ngũ Đài.” Văn Cát hỏi: ”Núi là cái gì mà ông lạy?” Hư Vân đáp: ”Tôi lạy Bồ Tát Văn Thù, không phải lạy núi.” Văn Cát hỏi: ”Bồ Tát ở khắp mọi nơi, ông ngốc quá! Ông cầu cái gì?” Hư Vân đáp: ”Chẳng cầu gì, chỉ mong Văn Thù ban cho trí huệ, báo ơn cha mẹ.” Văn Cát hỏi: ”Từ đây đi đến Ngũ Đài là hơn hai nghìn dặm, phía trước là vùng tuyết hoang vu, không người không nhà, lại đói rét, ai cứu ông?” Hư Vân đáp: ”Chỉ có một lòng thôi.” Văn Cát nói: ”Thôi đi! Thôi đi! Không hỏi nữa! Ông là đồ hòa thượng con la, lòng hiếu thảo đơn thuần đáng kính! Còn hành động ngu dốt đáng thương hại!”

🌟

Tôi cảm thấy đoạn Văn Cát hỏi Hư Vân này có thiền cơ, nếu dùng đối thoại kiểu thiền cơ để trả lời thì càng rực rỡ, càng sáng chói. Tôi thử trả lời như sau. Văn Cát hỏi: ”Ông từ đâu đến? Đi đến đâu?” Đáp thay rằng: ”Tôi không đến cũng không đi.” (Từ núi Phổ Đà lạy đến núi Ngũ Đài cũng là không đến không đi.) Văn Cát hỏi: ”Núi là cái gì?” Đáp thay rằng: ”Núi không phải núi.” Văn Cát hỏi: ”Núi không phải núi, thế là cái gì?” Đáp thay rằng: ”Núi không phải núi, là chỉ tịch tịch nhiên, linh linh nhiên.” Văn Cát hỏi: ”Bồ Tát ở khắp mọi nơi, lạy cái gì?” Đáp thay rằng: ”Thanh tịnh.” (tự tính thanh tịnh, tất cả tự tính thanh tịnh) Văn Cát hỏi: ”Cầu cái gì?” Đáp thay rằng: ”Chẳng cầu gì.” (Chẳng cầu gì là được rồi, không cần phải dài dòng lôi thôi rằng báo ơn cha mẹ, mong trí huệ, toàn là nói thừa.) Văn Cát hỏi: ”Từ đây đi đến Ngũ Đài là hơn hai nghìn dặm, phía trước là vùng tuyết hoang vu, không người không nhà, lại đói rét, ai cứu ông?” Đáp thay rằng: ”Đạo.” Văn Cát hỏi: ”Ông là đồ hòa thượng con la?” Đáp thay rằng: ”Con la là hòa thượng, hòa thượng là con la.” Tôi trả lời như vậy, không nhất định là đúng, các thánh đệ tử thử trả lời xem.

34. Hư Vân và Chúa Jesus

Tôi (Lư Sư Tôn) trong thời gian học cấp hai, cấp ba là tín đồ Cơ Đốc giáo. Đã được rửa tội. Là thầy giáo lớp học ngày chủ nhật. Là đội viên đội Thánh ca. Là thầy giáo lớp tra kinh. (Mục sư của tôi là mục sư Tô Thiên Minh.) Mặc dù sau này tôi gặp được kỳ duyên, bước vào Đạo giáo, Phật giáo, cuối cùng cố định với Mật tông. Nhưng, Tôi vẫn coi Chúa Jesus là Guru của tôi, là một trong các đạo sư của tôi. Vì sao? Bởi vì tư tưởng của Jesus có rất nhiều điều đều là tư tưởng của Phật giáo.

Tôi đọc sách của Hư Vân, Hư Vân đến Trường An, ghé thăm Viện Dịch Kinh Huyền Trang, tại Bi Lâm [rừng bia đá] dưới chân tháp đã nhìn thấy bia Cảnh Giáo Đại Tần [bia đá Cơ Đốc giáo ở Trung Quốc, nội dung văn bia cho thấy có một cộng đồng Cơ Đốc giáo hiện diện tại Trung Hoa đương thời, thuộc phái Nestorian, còn được gọi là Giáo hội phương Đông]. Lúc này, Hư Vân mới biết vào thời nhà Đường đã có giáo sĩ Cơ Đốc đến Trung Quốc truyền giáo, khi ấy gọi là Cảnh Giáo. Hư Vân cho rằng: Jesus phản đối sùng bái tượng, giống như “cái có tướng đều là ngông” trong Kinh Kim Cang. Lòng bác ái của Jesus giống như “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” của Phật Đà. Jesus nói rằng người có đức tin sẽ được bất tử, giống như tư tưởng tịnh thổ trong Kinh A Di Đà của Phật giáo. …………………………. Hư Vân cho rằng, tư tưởng của Jesus bắt nguồn từ tư tưởng của Phật Đà. Hư Vân cho rằng: Jesus có khả năng đã tiếp xúc với Phật pháp ở trên núi Himalaya. Điều này là có khả năng.

🌟

Cá nhân tôi thường nói: Jesus thường nói: ”Việc thiện tay phải làm, đừng để tay trái biết.” Đây là tư tưởng “tam luân thể không” của Phật giáo. Jesus nói: ”Có người lấy áo ngoài của bạn thì bạn cho họ luôn cả áo trong.” Đây là tư tưởng “vô ngã” của Phật giáo. (bình đẳng xả) Jesus nói: ”Có người tát bạn vào má phải, bạn đưa luôn má trái cho họ tát.” Đây là tư tưởng “vô ngã”, cũng là tư tưởng “nhẫn nhục”, “bát phong xuy bất động”. Jesus nói: ”Nếu người nào không có tội thì mới có thể cầm đá đi ném người khác.” (Jesus cứu một cặp đôi thông dâm.) Đây là điều mà Phật giáo thường nói: ”Mỗi cử chỉ suy nghĩ không có cái nào không là nghiệp tội.” Thật ra, chúng sinh đều có nghiệp tội. Khi cầu nguyện, Jesus đã nói: ”Lạy Cha, xin hãy tha thứ cho chúng sinh, bởi vì những gì họ làm, họ không biết.” Đây là xả trong từ bi hỷ xả, cũng chính là tư tưởng chúng sinh bình đẳng. Tư tưởng về nguồn gốc tội lỗi của Cơ Đốc về cơ bản chính là tư tưởng trả nghiệp của Phật Đà. Jesus nói: ”Đạo này gần trong gang tấc, ở ngay trong miệng con, ở ngay trong tim con, đạo này chính là đạo của người mang đức tin mà chúng ta truyền.” Phật nói: ”Tức tâm tức Phật, tâm tức là Phật.” …………………………… Khi đối chiếu Kinh Thánh và Kinh Phật, thật sự có quá nhiều sự tương đồng. Là thế! Là thế!

35. Một cuộc đời du lịch

Đại sư Không Hải của Nhật Bản nói: ”Đời người chính là du lịch.” Câu nói cuối cùng khi Không Hải viên tịch là: “Tôi phải đi du lịch rồi!” Đại sư Không Hải từng đến Trường An của Trung Quốc. Tại chùa Thanh Long ở Trường An, ông đã có được truyền thừa Mật giáo của lão hòa thượng Huệ Quả. Ông trở về Nhật Bản, thành lập Chân Ngôn Tông.

🌟

Theo tôi được biết về cuộc đời của lão hòa thượng Hư Vân, chuyến du lịch của ông đúng là rộng lớn vô cùng. Từ núi Cổ ở Phúc Kiến đến núi Phổ Đà. Từ núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài. Từ núi Ngũ Đài đến núi Nga Mi. Từ núi Nga Mi đến Tây Tạng. Từ Lhasa, Shigatse Tây Tạng đến Bhutan. Từ Bhutan đến Ấn Độ. Từ Ấn Độ đến Sri Lanka. Sau đó là toàn bộ Đông Nam Á, Đông Bắc Á. ………………..

Chuyến du lịch của lão hòa thượng Hư Vân có lẽ không ai có thể sánh bằng, ông chăm chỉ học đạo, trải qua trăm đắng nghìn cay, bất chấp sống chết, trong lòng chỉ có Phật Đà. Chuyến du lịch của ông lớn. Lòng tin của ông lớn. Tu hành của ông lớn. Nghị lực của ông lớn. Dựa vào những điều này, cùng với công phu thiền định, sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền…. Vị tăng người Hán này quả thật không phải là con người, không phải là con người thì là gì? Là Phật tôn quý! Ông và Phật Đà là như nhau. Tôi (Lư Sư Tôn) kính ngưỡng ông và Phật Đà, ông chính là Phật Đà. Phật Đà dùng mười ví von để giải thích tất cả: Như huyễn. Như ảo ảnh. Như ngọn lửa. Như giấc mộng. Trăng trong nước. Như bóng ảnh. Hư không. Như hoa trong gương. Như tiếng vọng. Như biến hóa. (Tôi cảm thấy mười ví von của Phật Đà và bài kệ của Hư Vân ăn khớp với nhau.)

Bài kệ của Hư Vân:

Xin các bạn pháp Suy ngẫm kĩ càng Vòng nghiệp sinh tử Như tằm tự trói Tham niệm không dừng Phiền não đau khổ Muốn trừ họa này Bố thí đứng đầu Nghiên cứu Tam Học Kiên trì bốn niệm Có ngày mở mang Nhận ra sương điện Chứng ngộ chân Không Vạn pháp một thể Vô sinh hữu sinh Là sóng là nước.

Bài kệ này Tôi thích Có ngày mở mang, nhận ra sương điện. Rồi còn: Vô sinh hữu sinh, là sóng là nước.

Trong ca từ của “Dòng Nước Nguyệt Hà”, tôi viết rằng: Phật tính là biển Cuộc đời là những con sóng Bạn và tôi lưu lạc ở nhân gian Cuối cùng Lại trở về với biển.

🌟

Tôi tán thưởng: Chính niệm của Hư Vân. Thiện pháp của Hư Vân. Quán chiếu của Hư Vân. Vô trụ của Hư Vân. Lão hòa thượng Hư Vân ở trên mây của hư không, vươn cánh tay dài gia trì.

36. Hư Vân ở núi Kê Túc

Từ việc lão hòa thượng Hư Vân có kế hoạch xây đạo tràng ở núi Kê Túc khiến tôi nghĩ đến tôn giả Đại Ca Diếp. Tín đồ Phật giáo đều biết: Tôn giả Đại Ca Diếp sau cùng đã ở ẩn tại núi Kê Túc. Khi Phật tại thế từng thọ ký Đại Ca Diếp: ”Maha Ca Diếp trong đời tương lai sẽ thành Phật, Phật hiệu là Quang Minh Như Lai.” Vị tôn giả Đại Ca Diếp này là tổ sư đầu tiên của Thiền Tông. Phật ở núi Linh Thứu, một hôm cầm hoa thị chúng, trăm vạn trời người không hiểu ý ngài. Duy có Đại Ca Diếp tươi tỉnh mỉm cười. Phật Đà nói, ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, giao cho tôn giả Đại Ca Diếp. Về sau, tôn giả Đại Ca Diếp lại đem tâm pháp giao phó cho tôn giả A Nan, Thiền Tông đã được truyền thừa xuống như vậy. (Tổ sư Đạt Ma là vị tổ thứ 28 của Tây Thiên, là vị tổ đầu tiên của phương Đông.) Khi Phật Đà tại thế, ngài rất coi trọng Đại Ca Diếp. Phật Đà ở trên pháp tọa thuyết pháp, Đại Ca Diếp bước vào, Phật Đà nói: ”Lành thay tì kheo đã đến, lập tức nhường nửa chỗ ngồi, lệnh cho Đại Ca Diếp ngồi bên cạnh Phật Đà.” Đây là sự tôn trọng vô thượng. Đại chúng tham dự hội nghị khác, ai cũng kinh ngạc. Phật Đà mới nói, Đại Ca Diếp đại hành uyên bác. Còn nữa, Trong số mười đại đệ tử của Phật Đà, Đại Ca Diếp đương nhiên là đệ tử hàng đầu, được xưng là bậc đầu đà đệ nhất. Còn nữa, Sau khi Phật Đà viên tịch, Đại Ca Diếp triệu tập năm trăm sa môn kết tập kinh điển. Đây là lần kết tập đầu tiên. Một thắng hội vô cùng trọng đại.

Còn nữa, Phật Đà niết bàn, sắp hỏa thiêu, A Nan ba lần nổi lửa đều không cháy. Chỉ có đợi đến khi Đại Ca Diếp đến, Đại Ca Diếp nổi lửa thì lửa mới cháy, đây cũng là sự thù thắng của Đại Ca Diếp. Núi Kê Túc hiện tại có mười ngôi chùa lớn: Chùa Tiếp Đãi. Chùa Thánh Phong. Chùa Long Hoa. Chùa Thạch Chung. Chùa Tịch Quang. Chùa Đại Giác. Chùa Na Lan Đà. Chùa Tất Đàn. Chùa Ca Diếp. Chùa Truyền Y. Truyền thuyết nói rằng, tôn giả Đại Ca Diếp muốn đợi Di Lặc Bồ Tát hạ sinh, Long Hoa Tam Hội thì mới lại xuất hiện giúp đỡ Di Lặc độ chúng sinh.

Tại đây ghi ra cuộc đối thoại giữa tôi (Lư Sư Tôn) và tôn giả Đại Ca Diếp như sau: Tôi hỏi: ”Tương lai xuất thế, có dấu hiệu gì?” Đại Ca Diếp đáp: ”Nhất bộ vi sơ.” [Bắt đầu từ bước đi đầu tiên.] Tôi hỏi: ”Làm sao để biết là ngài?” Đại Ca Diếp đáp: ”Xem gia phong đầu đà.” Tôi hỏi: ”Sẽ thuyết pháp gì?” Đại Ca Diếp đáp: ”Chuyển thức thành trí.” Còn nói: ”Vô pháp khả thuyết.”

37. Câu chuyện tiên lan nở hoa

Khi Hư Vân ở Vân Nam, lúc đến phủ Sở Hùng, trời đã tối, cổng thành đã đóng, ông không vào thành được. Thật may bên ngoài cửa Tây có ngôi chùa Cao Đỉnh. Vì đêm đã khuya nên chùa Cao Đỉnh cũng đã đóng cổng chùa. Hư Vân chẳng còn cách nào nữa, chỉ biết cầm vòng sắt gõ vào cổng chùa. ”Cộc! Cộc! Cộc!” Hư Vân nghĩ: ”Rất nhiều chùa, quá nửa đã không cho mình ở lại, xem ra người trong chùa này cũng sẽ không để mình ở lại.” Nhưng, Nằm ngoài dự đoán của ông. Cổng chùa mở rộng, có ba nhà sư bước ra, vừa nhìn thấy Hư Vân liền quỳ xuống lạy. Hư Vân không hiểu gì cả, vội vàng hỏi: ”Chuyện này là sao?” Sau đó ba nhà sư mới nói cho Hư Vân nguyên do: Chùa Cao Đỉnh này có trồng tiên lan. Căn cứ theo ghi chép của phủ Sở Hùng: ”Núi có tiên lan, gặp chân nhân đến thì mới nở hoa.” Tiên lan của chùa Cao Đỉnh đã 30 năm chưa nở hoa, không ngờ đêm nay lại nở rộ. Tỏa ra hương thơm thanh nhã, mùi thơm ngát không gì sánh bằng lan tỏa khắp sơn tự, cả ngọn núi đều ngửi thấy mùi thơm lạ này. Ba nhà sư dựa theo ghi chép của phủ Sở Hùng mà nhận định chắc chắn có cao nhân đến chùa. Vì thế, Hư Vân đã trở thành cao nhân, ba nhà sư vừa nhìn thấy Hư Vân liền quỳ lạy. Con người Hư Vân rất khiêm tốn, nói: “Trùng hợp thôi mà!” Ba nhà sư nói: ”Không thể nào là trùng hợp.” Hư Vân nói: ”Thật sự là trùng hợp mà thôi.” Ba nhà sư không chịu buông. Hư Vân mới nói: ”Tôi chỉ là một hòa thượng đi khắp nơi, đã đi vạn dặm, tìm tòi học đạo khắp nơi, vẫn còn đang học đây.” Ba nhà sư nghe xong một lúc thì nhận định Hư Vân khổ hạnh vạn dặm, càng khẳng định tiên lan vì Hư Vân mà nở hoa. Ba nhà sư niềm nở tiếp đãi Hư Vân. Lại còn thỉnh thị đại pháp. Hư Vân nói: ”Tôi không có đại pháp.” Ba nhà sư nói: ”Xin khai thị một vài điều.” Hư Vân mới nói: ”Không tiếc thân mạng, không ngừng bồi dưỡng thiện căn, không bao giờ lười biếng, luôn giữ chí nguyện lớn lao giúp người cứu đời, đem tất cả công đức thiện hành hồi hướng cho chúng sinh, tinh tấn tu trì Phật pháp, hoằng dương hộ trì Phật pháp, dốc hết mọi khả năng, cúng dường chư Phật niềm nở, không bao giờ động tâm đối với tất cả vinh nhục…” (Đây vốn dĩ chính là khắc họa cuộc đời của Hư Vân.) Ba nhà sư hỏi: ”Còn gì nữa không?” Hư Vân đáp: ”Không còn gì!” Ba nhà sư hỏi: ”Xin chỉ thị tâm yếu!” Hư Vân mới nói: ”Ngay cả tâm yếu cũng phải buông bỏ!”

🌟

Câu nói ”Ngay cả tâm yếu cũng phải buông bỏ!” này chính là mấu chốt. Lúc này, trần trùng trục, không vương một sợi tơ, mới là diện mục vốn có. Không biết, thánh đệ tử có hiểu không?

38. Tranh luận về đốt ngón tay cúng Phật

Phật giáo truyền đến Trung Thổ, có mấy kiểu hiện tượng đáng để mọi người bàn bạc thảo luận. Cạo đầu đốt giới sẹo. Đốt ngón tay cúng Phật. Xả thân cúng Phật. Cạo đầu thọ giới cụ túc, cái này không có gì phải tranh luận, vốn dĩ chính là như vậy. Đốt giới sẹo ở trên đầu, vào thời Phật Đà không có, ở Thái Lan cũng không có, Phật giáo Nam truyền không có, Phật giáo Tạng truyền cũng không có, Phật giáo Nhật Bản cũng không có. Nhưng, vì sao Phật giáo Trung Thổ lại có? Nghe nói là Lương Vũ Đế tự mình đặt ra, có phải không? Chẳng thể biết được. Đệ tử của tôi có Thượng sư Thường Nhân, Thượng sư Thường Trí là hòa thượng có đốt sẹo trên đầu. Có đốt hay không đốt sẹo, nghe nói bây giờ tùy ý nguyện của mỗi người. Trên cánh tay trái của tôi cũng đốt ba cái sẹo, đó là khi tôi còn trẻ, tại chùa Bích Sơn Nham ở Nam Đầu, khi thọ giới Bồ Tát, tôi đã đốt ba cái sẹo này. (Đốt hay không đốt sẹo cũng không có tranh luận lớn, cũng tùy duyên thôi.)

🌟

Còn việc đốt ngón tay cúng Phật thì có nhiều tranh cãi. Hư Vân tại chùa A Dục Vương ở Ninh Ba đã đốt ngón tay cúng Phật, trong cuộc đời của Hư Vân, đây là một việc lớn. Chùa A Dục Vương được các Phật tử khi ấy coi là thánh địa để đốt ngón tay. Đốt ngón tay là: Buộc vải lên đầu ngón tay. Chấm vải vào dầu. Sau đó châm lửa. Đốt đến khi da thịt không còn nữa, chỉ còn lại xương. Sau đó dùng kéo cắt cụt xương đi. Đây là tôi nghe Thượng sư Thường Trí kể với tôi như vậy, tôi nghe xong thì cảm thấy rất đáng sợ.

Ý nghĩa của đốt ngón tay cúng Phật là: Lời thề cung kính. Hy sinh cống hiến. Một lòng một dạ. Còn ý định gốc của Hư Vân là báo ơn cha mẹ, độ hóa cha mẹ vãng sinh Phật quốc tịnh thổ. Cá nhân tôi cho rằng hành vi tự hại mình này là biểu thị lòng trung thành với Phật không thay đổi. Cũng có khả năng là chịu ảnh hưởng của việc khi Phật Đà hành Bồ Tát đạo, ngài đã xả thân cho hổ, cắt thịt cho chim ăn. Cũng giống như Thường Đề Bồ Tát thương xót chúng sinh, đã xả bỏ tất cả mọi thứ trên người mình để giúp đỡ chúng sinh. Pháp sư Chấn Quang, người vừa là thầy vừa là bạn của tôi, cũng trích máu viết kinh, dùng máu của chính mình để chép kinh điển. (Ông ấy tặng tôi một cuốn chép kinh bằng máu, ngón út của ông ấy dùng vải xô buộc lại.) Những việc này cố nhiên là có ý nghĩa. Nhưng, tôi cảm thấy đốt ngón tay cúng Phật, hy sinh ngón tay khiến mình tàn tật, có đáng không? Phật Đà có tiếp nhận không? Kiểu tự hại mình này ngoài chứng tỏ tấm lòng ra, đối với chúng sinh có lợi ích hay không? Việc không có ý nghĩa đối với chúng sinh, chúng ta làm thì có đúng không? Sau cùng chính Hư Vân cũng nói: ”Nay tôi cũng đã giác ngộ rồi, đốt ngón tay làm sao đủ để báo ơn cha mẹ, chỉ có tự hủy hoại vô ích. Là hành vi ngu ngốc.” Ngoài ra: Bỏ thân cúng Phật thì càng không đủ. Nhảy vách đá, tự thiêu, đều là hành vi tự sát. Phật tử chúng ta phải đại từ đại bi lợi ích chúng sinh mới là báo ơn Phật. Đốt ngón tay, bỏ thân. Đối với chúng sinh là vô ích, không đáng làm!

39. Nhẫn nhục ba la mật

Tôi thấy cuộc đời của Hư Vân và ba pháp hiệu của ông ấy có sự liên quan lớn, ba pháp hiệu của ông ấy là: Cổ Nham. Đức Thanh. Hư Vân. Tôi cho rằng: Cổ Nham — chọn việc thiện và giữ vững việc đó. (Chính là khổ hạnh mười năm.) Đức Thanh — đạo hạnh thanh cao. (Khổ hành vạn dặm, thập tử nhất sinh, nhẫn nhục ba la mật.) Hư Vân — biết huyễn lìa huyễn. (Hiểu rõ huyễn sinh, biết đệ nhất nghĩa, đắc căn bản trí.) Hư Vân nói: ”Hiểu thì dễ, thực hành rất khó, hiểu rồi thì phải thực tiễn.”

🌟

Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật Quốc viết rằng: ”Nhẫn nhục là đạo tràng Bồ Tát.” Kinh Pháp Hoa, phẩm Mở Đầu nói: ”Lại thấy Phật tử giữ sức mạnh nhẫn nhục, ngay cả người ngạo mạn bị chửi mắng đánh đập đều có thể nhẫn nhịn để cầu Phật đạo.” Du Già Luận viết: ”Thế nào gọi là nhẫn? Tự mình không tức giận, không báo oán người khác.” Duy Thức Luận viết: ”Nhẫn dựa vào trí huệ khảo sát tinh tấn không sân hận và tính chất tam nghiệp sinh ra từ nó.” Đại Thừa Nghĩa Chương viết: ”Pháp làm an huệ tâm gọi là nhẫn.” Trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Nhân Vương có mười bốn nhẫn. Nói sơ lược như sau: Như huyễn nhẫn — hiểu thấu mọi pháp đều theo duyên mà sinh, có tính chất như huyễn hóa, vốn dĩ không tịch, từ đó mà nhẫn. Như diễm nhẫn — hiểu thấu tất cả cảnh giới như lửa mặt trời (hơi nước), bản tính không tịch, từ đó mà nhẫn. Như mộng nhẫn — hiểu thấu tất cả vọng tâm như mộng cảnh và không chân thực, từ đó mà nhẫn. Như hưởng nhẫn — hiểu thấu ngôn ngữ thế gian như tiếng vọng trong hang, không hề chân thực, từ đó mà nhẫn. Như ảnh nhẫn — hiểu thấu sắc thân nhờ vào ngũ uẩn mà tích tập, vốn không có bản thể, từ đó mà nhẫn. Như không nhẫn — hiểu thấu mọi pháp như hư không, căn bản không có sắc tướng, từ đó mà nhẫn.

Cá nhân tôi thích Vô sinh nhẫn: Ta vốn vô sinh. Hữu sinh là huyễn. Ta và chúng sinh đều là huyễn hóa. Vô sinh tức vô ngã vô chúng sinh. Như thế cho nên Vô sinh nhẫn.

Ngoài ra còn có: Thuận nhẫn. Duyên nhẫn. Chính giác nhẫn.

🌟

Tôi viết lại một bài thơ của Hàn Vũ:

Tôi luôn cảm thấy Đời người chính là cầu vồng Khi đến như mộng huyễn Khi đi không tung tích

Giống như soi gương Người đến hiện ảnh Người đi trống rỗng Tất cả đều là trăng trong nước Vốn dĩ chính là hoa trong gương Ngay trong tâm Như mộng tựa huyễn tựa chân.

40. Cầu tuyết được tuyết

Việc lớn trong cuộc đời Hư Vân tương đối nhiều, trong đó có một việc rất đáng được đặc biệt viết ra. Đó chính là cầu tuyết được tuyết. Năm đó. Triều Thanh gặp nhiều tai họa, thiên tai đói kém, châu chấu xâm hại, khắp nơi đều là dân gặp nạn. Rất nhiều dân thường đã chết đói. Thảm nhất là phát sinh dịch bệnh, lần này thì người chết càng nhiều, còn có cả tranh nhau ăn xác chết. Mà như thế thì dịch bệnh càng nghiêm trọng hơn. Thời tiết nóng nực, mặt trời chói chang, xác chết đầy đường, mùi hôi thối ngút trời. Có thần tử kiến nghị chỉ có tuyết rơi thì mới có thể dẹp được bệnh dịch. Từ Hy Thái Hậu nói: ”Chỉ có mời hòa thượng Hư Vân cầu nguyện trời cho tuyết rơi để tiêu tai!” Khi ấy là tháng tám nhuận, mùa hè nóng nực, sao có thể có tuyết rơi để dịch bệnh lắng xuống. Sau đó Hư Vân cũng chỉ có thể lên pháp tọa để cầu tuyết. (Sự việc này được lan truyền vang dội khắp cả nước.)

Hư Vân chỉ quỳ trên pháp đài, nhắm mắt, dốc sức cầu nguyện mà thôi. Mồ hôi chảy ròng ròng. Hư Vân nhập vào thiền định. Tâm phóng tỏa ánh sáng. Trong tâm ngài chỉ có Quan Thế Âm Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Ông quỳ suốt một ngày một đêm. Sau đó, đến lúc trời gần sáng, bầu trời rơi xuống những chấm nhỏ xíu, không ngờ lại là bông tuyết. Dần dần, cả bầu trời đều trắng xóa, một trận tuyết lớn ào ào trút xuống, trong chốc lát đã phủ kín cả mặt đất. Hạn hán đã được giải trừ. Châu chấu biến mất. Dịch bệnh dừng lại. Đây là kỳ tích Hư Vân cầu tuyết, tuyết rơi nhiều tổng cộng năm ngày, giải trừ nạn hạn hán, dịch bệnh, châu chấu. Đây là cầu tuyết được tuyết. Mà Hư Vân chỉ ở trên bục thiền định. Có rất nhiều truyền thuyết. 1. Hòa thượng Hư Vân ở trên pháp đài làm pháp, tay chỉ lên trời, Thiên Long Bát Bộ nhận được mệnh lệnh, tuyết liền rơi xuống. Tiên nữ giáng tuyết nô nức đến giúp đỡ, trên trời có rất nhiều tiên nữ giáng tuyết. 2. Hòa thượng Hư Vân là cao tăng đắc đạo, ông đã đến Bắc Cực gặp Huyền Thiên Thượng Đế, Huyền Thiên Thượng Đế mệnh lệnh: Thần Tuyết. Thần Gió. Thần Hoa. Đến trợ giúp, tuyết rơi, gió thổi, hoa tuyết bay trong gió. 3. Hòa thượng Hư Vân cưỡi mây đạp sương, hô mưa gọi gió, dời núi lật biển, đã di chuyển những núi băng ở Bắc Cực Nam Cực đến bầu trời ở Trung Thổ. Sau đó từng bông tuyết đã rơi xuống mặt đất khô cạn. 4. Hòa thượng Hư Vân đã mời rất nhiều Bồ Tát đến cùng làm pháp, có một vị là Thời Quang Bồ Tát đã mời Thần Mùa Đông đến, nên tự nhiên tuyết rơi!

Thế là: Hư Vân trở thành Thần Tăng. Hư Vân trở thành Hoạt Phật. Hư Vân trở thành Thần Tiên. Sự việc này truyền đi khắp cả nước, người người không ngớt ngưỡng mộ. Cá nhân tôi cho rằng đây không phải là trùng hợp, một tăng nhân có công phu thiền định thâm sâu tự nhiên sẽ có sức mạnh thiền định, sức mạnh này thay đổi được khí hậu. Thánh tăng, bách linh tương trợ!

41. Xây chùa và hai lần cầu tuyết

Lão hòa thượng Hư Vân, vào lúc 83 tuổi, đã ở Côn Minh. Ông đã tu sửa chùa: Chùa Vân Tê. Chùa Thái Hoa. Chùa Tùng Ẩn. Xuống núi lại xây mới chùa Chiêu Đề. Ngoài ra còn có chùa Thắng Nhân là hạ viện của chùa Vân Tê. Có người hỏi: ”Ông đã cao tuổi rồi, tự mình tu dưỡng không phải là rất tốt sao? Nhiều chùa như vậy ông làm sao ở hết?” Hư Vân nói: ”Chính vì già rồi, ngày sau không nhiều, tôi mới càng nỗ lực xây nhiều chùa Phật hơn.” Còn nói: ”Không phải cho chính mình ở.” - Hư Vân nói: “Thúc đẩy hoằng dương Phật pháp, Phật hóa giáo dục, bảo tồn hạt giống Phật pháp.” Hư Vân dự đoán: ”Tương lai có người phỉ báng Phật, chùa Phật khả năng sẽ bị phá hoại, xây nhiều một chút cũng có thể giữ được một hai.” Người hỏi: ”Xây nhiều chùa, nếu bị phá hoại thì chẳng phải là công lao vô ích sao?” Hư Vân đáp: ”Tôi xây chùa là việc của tôi. Họ phá chùa là việc của họ. Tôi chỉ có một lòng xây chùa, như thế mà thôi.” (Đây chính là tinh thần của Hư Vân.)

🌟

Lão hòa thượng Hư Vân ở chùa Côn Minh lại gặp hạn hán, cũng có dịch bệnh bạch hầu. Đường Kế Nghiêu đã mời lão hòa thượng Hư Vân cầu tuyết. Lần đầu tiên ông cầu tuyết là ở Trường An. Lần thứ hai cầu tuyết là ở Côn Minh. Hơn nữa lại là vào ngày tháng năm. Lần đầu tiên cầu tuyết là vào năm Quang Tự thứ 26, bây giờ cầu tuyết là hơn 20 năm sau. Lão hòa thượng Hư Vân nói: ”Đây là cầu trời giáng mưa rào để giải trừ hạn hán. Cầu giáng tuyết để tiêu trừ vi khuẩn dịch bệnh bạch hầu. Đại chúng nên thành tâm cùng cầu nguyện.” Hư Vân quỳ ở pháp đài. Im lìm bất động. Ban ngày phơi dưới nắng. Ban đêm đốt đuốc tùng hương. Lão hòa thượng Hư Vân tóc bạc râu trắng, cộng thêm lông mày trắng, người lại gầy đét. Ông quỳ ở đó không ăn không uống, không hề động đậy, cũng không cho phép ai làm phiền ông. Trước khi vào việc, Hư Vân nói với đệ tử: “Không cầu được mưa thì không uống nước, không cầu được tuyết thì không ăn cơm.” Phơi nắng một ngày. Phơi nắng hai ngày. Đến ngày thứ ba, nửa đêm về sáng, bỗng nhiên cây rừng khắp núi lay động, cuồng phong chợt nổi lên, mây đen kéo đến và những hạt mưa bắt đầu rơi xuống. ”Trời mưa rồi!” Rồi đến lúc cuối buổi nửa đêm về sáng, từ dãy núi thổi tới những luồng khí lạnh, trong mưa có tuyết. ”Tuyết rơi rồi!” Nhiệt độ hạ xuống -4 đến -6 độ. Có một người già nói: “Ngày tháng năm, giữa hè tuyết rơi, đây là điều chưa từng thấy trong bảy mươi năm qua.”

Tôi nói với mọi người: Việc này là thế nào? Tôi (Lư Sư Tôn) thật sự bái phục công lực thiền định của lão hòa thượng, kính phục tinh thần nghị lực của ông. Hư Vân vạn tuế!

42. Khai ngộ của lão hòa thượng Hư Vân

Lão hòa thượng Hư Vân có khai ngộ không? Ông khai ngộ thế nào? Sự khai ngộ của ông là gì? Tôi (Lư Sư Tôn) trả lời: Lão Hư đương nhiên có khai ngộ. Lão Hư khi ở chùa Cao Mân ở Dương Châu, có một buổi tối, ông rót nước sôi, không cẩn thận đã làm nước bắn lên tay. Cốc rơi xuống đất. Cốc bị vỡ, leng keng loảng xoảng. Ông nghe thấy, lập tức khai ngộ. Còn nói bài kệ: Cốc nước rơi xuống đất. Ồn ào kêu loảng xoảng. Hư không cũng vỡ tan. Cuồng tâm dừng lập tức. Còn nói: ”Bỏng tay, làm vỡ cốc, nhà tan người mất lời khó nói, xuân đến hoa thơm nở khắp nơi, núi sông đại địa là Như Lai.” Tôi nói: Khai ngộ của lão hòa thượng Hư Vân có chữ “dừng” tuyệt vời! ”Dừng” sao mà tuyệt vời? Tôi dạy mọi người đi đến khu mộ một chút. Hư danh nào có? Tiền tài nào có? Sắc đẹp nào có? Ái hận tình thù nào có? Giờ đây, toàn bộ đều quy về số 0. Tất cả của tất cả đều quy về không có gì. Khi chiếc cốc bị vỡ, lão hòa thượng Hư Vân đã ngộ được cái “dừng”, vì thế ông có thể: Chẳng bám trụ. Chẳng có gì. Chẳng hề gì.

🌟

Tôi nói với mọi người: Nếu con người ngừng thở. Thân đẹp dựa vào đâu. Chỉ một mình cô độc. Có gì là rực rỡ. Còn nữa: Sống chết cùng nguồn. Trói cởi không hai. Thiên đường địa ngục. Trò chơi du hí. Có người hỏi tôi: ”Lư Sư Tôn, ngài viết nhiều thứ như thế làm cái gì?” Tôi đáp: ”Cuộc sống vô vị!” Người hỏi: ”Cuộc sống vô vị, cái gì mới không vô vị?” Tôi đáp: ”Gió vi vu, lá phất phơ, mây bay bay, nước mênh mang.” Người hỏi: ”Cái này không nhàm chán sao?” Tôi đáp: ”Đã là vô vị thì anh hà tất phải hỏi?” Người hỏi: ”Lư Sư Tôn, thầy nói cho tôi chân lý đi!” Tôi đáp: ”Ba bảy hai mươi mốt, ba chín hai mươi bảy.” ………………………….. Tôi tán thưởng “cốc nước vỡ tan, hư không vỡ tan” của lão hòa thượng Hư Vân. Tôi tán thưởng “cuồng tâm dừng lập tức, dừng rồi tất cả không” của lão hòa thượng Hư Vân.

43. Bài kệ để lại của lão hòa thượng Hư Vân

Bài kệ cuối cùng mà lão Hư để lại là: Than ôi ta già yếu Lòng báo ơn chưa đầy Kiếp nợ không hồi kết Trí cạn nghiệp thức sâu Thẹn chưa thành một việc Vụng về ở Vân Cư Gặm nhấm từng câu chữ Hổ thẹn với Thế Tôn Hội Linh Sơn chưa tan Hộ pháp nhờ đại chúng Là Vi Thiên tái thế [Vi Đà Thiên] Chấn động thành Tỳ Gia Ta-người hiện một thể Đều nhờ Kim Túc tôn Giữa dòng làm cột đá Nhờ muôn dân vài lời Mạt pháp chúng sinh khổ Hướng đạo có mấy người Ta gánh vác hư danh Người nên ngộ sai lầm Luôn ngưỡng mộ Phật quốc Muốn nhanh gần hương quang Xin lưu mấy câu kệ Phần nào tỏ kẻ hèn.

Lời sau cùng của lão Hư là: ”Việc sau khi tôi chết đã nói với mọi người rồi, không cần nhắc lại lôi thôi, nay hỏi tôi lời cuối, chỉ có: Chăm tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si.” Lại viết bài kệ: Cóc thương mạng kiến không quăng nước Tôi thương thủy tộc thân ném sông Mong ai nhận được tôi cúng dường Cùng chứng bồ đề độ chúng sinh. (Lão Hư nói lời trăng trối rằng: sau khi hỏa thiêu, hãy đem tro cốt của tôi tán thành vụn nhỏ, lấy dầu đường và bột làm thành viên bánh, thả vào trong nước sông, để cúng cho thủy tộc kết duyên, thỏa mãn ước nguyện của tôi, cảm tạ vô cùng.)

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) tán thưởng một câu của lão Hư: ”Hội Linh Sơn chưa tan.” Đúng vậy, đúng vậy. Đích xác đích thực, hội Linh Sơn mãi không tan. Phật Thích Ca Mâu Ni lại đến. Xá Lợi Phất lại đến. Mục Kiền Liên lại đến……. Thậm chí, lão hòa thượng Hư Vân lại đến. (Tôi vì bệnh mà nằm trên giường bệnh. Lão hòa thượng Hư Vân từ đám mây trên bầu trời vươn cánh tay của ông, cánh tay xuyên qua mây, xuyên qua hư không, xuyên qua mái nhà, tay sờ đầu tôi, gia trì cho tôi.) Đây há chẳng phải là: ”Hội Linh Sơn chưa tan.” Lão Hư là ai? Lư Sư Tôn tôi là ai? Còn nữa: Nếu sau này tôi viết bài kệ cuối, tôi chỉ có ba chữ: Không. Can. Thiệp. (Không can thiệp.) Tôi không đến không đi, có can thiệp gì? Lời khiêm tốn của lão hòa thượng Hư Vân là rất đủ để cảnh giác người đời. Lời của tôi càng hèn mọn hơn. Tôi tán thưởng một câu của lão hòa thượng Hư Vân: Pháp vốn vô pháp. Rơi vào giải thích. Tức phi thực nghĩa. Hiểu được tâm này. Vốn dĩ là Phật. Thẳng đến vô sự. Mọi thứ hiện thành. Mục đích gốc của Tổ sư Đạt Ma đến Trung Thổ cũng chính là “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” của Lục tổ Huệ Năng. Càng là “không can thiệp” của Lư Sư Tôn. Tôi nói: Người thượng thượng căn khí, sẽ đắc.

44. Đại pháp hóa cầu vồng của Tạng mật

Lão hòa thượng Hư Vân cả đời tìm tòi học đạo. Ông cũng đã đi đến Tây Tạng, đến Lhasa, theo mọi người đi gặp Dalai Lama, đáng tiếc là chỉ đến chiêm ngưỡng mà thôi, theo mọi người đảnh lễ, theo mọi người lui đi. Dalai Lama cũng không biết ông ấy.

Lão hòa thượng Hư Vân còn đến Shigatse, tại chùa Tashi Lhunpo đã theo mọi người đi gặp Panchen Lama. Khi ấy Panchen Lama vẫn còn trẻ tuổi, căn bản là không biết có đại thiện tri thức đến thăm. Vì thế, lão hòa thượng Hư Vân ở Tây Tạng có thể xem là uổng phí một chuyến đi, tiếc thay! Tiếc thay! Đối với tu hành của Tạng mật, ông ấy chỉ xem như là có biết. Vẫn hay là ông còn biết được: Đàn chân ngôn. Đàn thủ ấn. Đàn quán tưởng.

Tôi (Lư Sư Tôn) vận mệnh vẫn còn tốt. Tôi đã gặp được giáo chủ Hoàng giáo Dalai Lama, đàm luận tính Không; giáo chủ Hoa giáo Dagchen Rinpoche, đàm luận Hỷ Kim Cang; giáo chủ Bạch giáo Karmapa, đàm luận Độ Mẫu và Đại Hắc Thiên; Liễu Minh Hòa Thượng, người kế thừa của Pháp Vương Norlha của Hồng giáo, đàm luận đại pháp hóa cầu vồng. Tôi tu: Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn. Cá nhân tôi có tinh thần siêng năng của lão hòa thượng Hư Vân, tôi dốc toàn bộ sức lực. Tứ gia hành — Thượng sư tương ứng — Bổn tôn tương ứng — Tu khí — Tu mạch — Tu minh điểm. Kim Cang pháp. Vô thượng mật. Đại pháp hóa cầu vồng. Tôi tu thân vô lậu, tâm vô lậu, chuyết hỏa. Khí đủ, mạch thông, minh điểm sáng, mở năm luân xa. Đại thủ ấn, Đại viên mãn, Đại thắng huệ. Cuối cùng là nhậm vận, tự tại, đại giác đại ngộ. (không can thiệp)

45. Chia sẻ một kỳ tích

Đảnh lễ Thánh tôn Liên Sinh Hoạt Phật tôn quý.

Sư Tôn, chúng con muốn chia sẻ với thầy câu chuyện về con trai của chúng con là Tiago đến với thế giới này. Đây đúng là một kỳ tích, chúng con không có cách nào đủ để biểu đạt sự cảm kích đối với ân điển này.

Lần đầu tiên chúng con thỉnh thị thầy là thông qua buổi hỏi việc vào tháng 8/2019, thầy đã gia trì cho chúng con và kiến nghị thử phương pháp trị liệu làm thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai sinh con. Trong cuộc thử nghiệm lần thứ hai, thầy nói rằng Sonia có 80% tỷ suất mang thai, quả nhiên là cô ấy đã mang thai rồi. Tuy nhiên phôi thai không phát triển. Vì thế, sau hai lần thử nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm thất bại, tháng 12/2021, chúng con một lần nữa đến hỏi việc thầy. Sonia hỏi: “Có nguyên nhân gì khiến con không thể sinh con không? Bác sĩ không tìm ra nguyên nhân.” Thầy nói với Sonia là thân thể có vấn đề. Chúng con hỏi thầy, Sonia mang thai tự nhiên hoặc mang thai thông qua điều trị thụ tinh trong ống nghiệm thì cái nào có tỷ lệ thành công cao hơn. Thầy trả lời rằng thử trị liệu bằng thụ tinh trong ống nghiệm nhất định sẽ có con.

Chúng con lại thỉnh thầy giúp chọn bác sĩ thích hợp để làm trị liệu một lần cuối. Chúng con trình lên thầy một danh sách, thầy đã chọn bác sĩ Marie Wren ở phòng khám Lister Fertility tại London. (Điều thú vị là bác sĩ này là do một đệ tử Chân Phật khác tên là Charles giới thiệu cho chúng con, anh này từng giúp Sonia làm vườn.) Thầy còn gia trì Kurukulle Phật Mẫu cho Sonia, cô ấy bắt đầu định kỳ tu trì, thậm chí còn lấy nến để bôi vào bụng nữa.

Vì đã đi khám bác sĩ Wren tại phòng khám Lister Fertility, sau khi kiểm tra thì phát hiện ra lớp màng bên trong tử cung của Sonia có vấn đề, đây là điều mà các bác sĩ trước đây không phát hiện ra. Sau khi phẫu thuật thì vấn đề này đã được xử lý xong. Sau đó, chúng con lại thử nghiệm liệu trình thụ tinh trong ống nghiệm một lần nữa, nhưng lần này không sinh ra bất kì phôi thai nào. Lần này, chúng con đã nghĩ là từ bỏ việc sinh con, nghĩ đến việc nhận con nuôi.

Nhưng bác sĩ Wren đề nghị chúng con thử sử dụng hai phôi đông lạnh còn sót lại từ đợt điều trị thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên. Lúc đầu, chúng con không mấy mặn mà với việc này vì nghe nói chất lượng phôi kém và tỷ lệ mang thai thành công thấp. Tuy nhiên, như nỗ lực cuối cùng, chúng con quyết định thử. Vào ngày 29 tháng 6 năm 2022, ngày chuyển phôi, nhà phôi học cho chúng con biết có điều gì đó bất thường đã xảy ra. Khi rã đông phôi, họ nhận thấy chất lượng phôi đã được cải thiện! Họ đã chuyển phôi thành công vào tử cung của Sonia và bảo cô ấy hãy thử thai sau hai tuần nữa. Vài ngày sau, chúng con dường như nhận được một điềm báo. Chúng con đến một công viên địa phương và ngày hôm đó toàn bộ công viên đầy những chú thỏ đang chạy nhảy và ngồi trên bãi cỏ! Chúng con đã đến đó nhiều lần nhưng chưa bao giờ nhìn thấy con thỏ nào (và sau này chúng con cũng không bao giờ nhìn thấy con thỏ nào ở đó nữa). Trong khoảng thời gian này, Sonia cũng mơ thấy mình nuôi một con thỏ làm thú cưng… Hai tuần sau, Sonia có kết quả xét nghiệm... cô ấy đã có thai!

Cô ấy lập tức làm theo sự chỉ dẫn của thầy, buộc một sợi chỉ ngũ sắc quanh bụng để bảo vệ thai nhi và trì tụng chú Hộ pháp của cô ấy (Đại Lực Kim Cang), thắt một nút sau mỗi lần trì tụng một trăm lẻ tám lần, tổng cộng là mười hai nút thắt. Quá trình mang thai của cô ấy diễn ra rất suôn sẻ. Khi mang thai được bốn tháng, cô ấy đi siêu âm... và thai nhi trông giống như đang kết thủ ấn của Đại Lực Kim Cang. Sonia đã được gia trì chúc phúc, và quá trình mang thai của cô ấy diễn ra suôn sẻ, dễ dàng mà không gặp bất kì trở ngại nào.

Sư huynh Lucas đã đưa chúng con đến với thầy để thỉnh giáo hỏi việc, thầy đề nghị ngày 13/3/2023 là ngày tốt nhất để sinh con. Quả nhiên, vào lúc 8:04 sáng hôm đó, Tiago Jones-Otero đã ra đời giữa những âm thanh tâm chú của Sư Tôn. Cháu bé rất dễ thương và khỏe mạnh và chúng con rất mong được đưa cháu đến Seattle. Khi nào chúng con bế cháu đứng trước đàn thành, cháu sẽ ngừng khóc và nhìn vào chư Phật và Bồ Tát.

Vô cùng cảm ơn thầy, Sư Tôn. Con và Sonia kính thư.

46. Chứng thực Hắc Độ Mẫu

1. Cô biết đến Sư Tôn như thế nào? Làm sao mà được Sư Tôn xác nhận là Hắc Độ Mẫu?

Sự xuất hiện của tôi không phải là ngẫu nhiên, mọi thứ đều là sự sắp xếp tốt nhất. Tôi sinh ngày 20 tháng 4 năm 1988, tại Tacoma, Washington, Hoa Kỳ, tại một căn cứ quân sự rất gần Seattle Lôi Tạng Tự, có nghĩa là tôi được sinh ra dưới sự soi sáng của Pháp Vương Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn vô thượng tôn quý.

Tôi đã trải qua những điều kiện tồi tệ nhất mà cuộc sống có thể mang lại, từ nghèo đói đến ngược đãi về thể chất và tinh thần, thậm chí suýt mất mạng. Nhờ có những trải nghiệm này mà tôi chuyển hóa chính mình và có được sự tái sinh. Sự tồn tại của chính tôi đến từ quá trình thức tỉnh không ngừng.

Đời này, khi tôi được định sẵn là phải quay về với Sư Tôn, tôi đã hoàn thành được nhiều việc - bao gồm cả việc làm phi công trong Bộ Tư lệnh Hậu cần Không quân Hoa Kỳ, với cấp bậc tương đương với một trung sĩ Không quân. Sau một lần tham chiến, tôi đã kết thúc cuộc đời binh nghiệp của mình, bây giờ đã trở thành cựu chiến binh ở cấp bậc đó. Tất cả những trải nghiệm cuộc sống của tôi đều là đang để cho Hắc Độ Mẫu cấy vào trong nhân cách của tôi để tưới mát, và để xác nhận tôi hoàn thành sứ mệnh thần thánh trước mắt.

Năm 2016, sức mạnh của vũ trụ đã đưa tôi trở về bên Sư Tôn. Đã bảy năm kể từ lần đầu tiên tôi tiếp nhận giáo hóa của Sư Tôn. Liên Sinh Hoạt Phật trí huệ vô hạn thấy thời cơ đã chín muồi, quyết định tuyên bố về sự có mặt của tôi tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, và tại điện Độ Mẫu đẹp đẽ của Đại Nghĩa Lôi Tạng Tự mới xây, ngài đã ban cho tôi càng nhiều vinh dự hơn, đây đều vì các sư huynh tỉ trên thế gian đều đã sẵn sàng tiếp nhận sự chuyển mình của thời đại mới. Vào cuối tuần khi tôi ở Đài Loan, rất nhiều đồng môn của tôi đã nhận ra tôi ngay lập tức, và nhiều đồng môn khác đã cảm ứng thấy sự tồn tại của Hắc Độ Mẫu và thân tâm linh của tôi hợp nhất.

Trong thế giới bất khả tư nghì này, mỗi người đều có một vai diễn của chính mình. Hắc Độ Mẫu - Năng Tỏa Hoại Độ Mẫu, vẫn thật sự khắc sâu trong linh hồn tôi, và hiển hóa trong nhân cách của tôi. Tôi ở trong hóa thân của Hắc Độ Mẫu - Năng Tỏa Hoại Độ Mẫu, có một nhân cách linh hồn phong phú. Độ Mẫu là hóa thân nữ tính chủ yếu để khai sáng và độ hóa thế nhân. Mặc dù sự hiển hóa của tôi giờ đây vẫn ở vào giai đoạn chớm nở, thế nhưng dưới sự gia trì và hướng dẫn liên tục không ngừng của Sư Tôn sẽ kích phát sự kiên cường và năng lực tiềm tàng bên trong tôi, sẽ mở ra trong những năm tới.

Có một số người có khả năng nhận ra, trong các tầng không gian giữa thế giới hiện thực và thế tục siêu việt đều tồn tại một chế độ giai cấp, trong đó cũng bao gồm pháp thế gian và pháp xuất thế gian, tất cả đều đang hướng tới một kế hoạch chung. Có người từng nói rằng chúng ta không nên vì tuổi tác, giới tính hay tín ngưỡng của một người mà lập tức phán xét họ (tâm phân biệt, chỉ trích), bởi vì chúng ta vẫn còn có rất nhiều vị thầy tôn quý vẫn còn chưa ra đời. Tôi bây giờ sẽ dùng tấm lòng từ bi vô hạn mà phục vụ các bạn, trong hành trình cuộc đời sẽ cùng mọi người tiến về phía trước.

2. Nói về việc tu hành của chính cô và những lý do cô đi Châu Âu.

Theo chỉ thị của Sư Tôn, trong thời gian dịch bệnh năm 2020, tôi đã bỏ lại gia đình, bạn bè và gần như toàn bộ tài sản. Tôi rời nhà ở Las Vegas, Nevada, Mỹ và hướng đến Berlin, Đức, chỉ với hai chiếc vali và bản thảo. Lúc đó tôi chỉ có một người liên lạc duy nhất ở Đức là ông Claudius Meyer. Kể từ đó, Claudius đã hết sức quan tâm đến phúc lợi cơ bản của tôi, cho phép tôi có thể tập trung tinh thần toàn lực vào việc mở rộng kiến thức về tư tưởng phương Tây và phương Đông.

Hắc Độ Mẫu đã chọn tôi làm người trung gian thần thánh, di chuyển những yêu cầu của thế giới hiện có đến thời đại mới. Thông qua chỉ dẫn của Độ Mẫu, vào năm 2019, tôi đã hoàn thành xong cuốn sách đầu tiên của Độ Mẫu — “Sức mạnh của chúng ta: Giáo huấn và suy nghĩ lại của tu hành giả thành thị”. Đây là hướng dẫn dành cho người đang tìm kiếm trong thời đại kỹ thuật số, trong đó bao gồm bạn và tôi. Cuốn sách này sẽ sớm được xuất bản.

Sự chuyển đổi thực sự đòi hỏi nhận thức, phân tích và ứng dụng. Nói cách khác, trong tu hành, tôi phải sử dụng tiềm năng của mình để tu luyện được tính kỷ luật trong tu luyện cá nhân; vận dụng trí huệ căn bản và trí huệ phân biệt, Hắc Độ Mẫu có thể tiến thêm một bước nữa chuyển hóa thân thể, ngôn ngữ và tư duy của tôi, để tôi đạt được sứ mệnh vĩ đại là hoằng dương Phật pháp. Sự liên thông cao nhất của nhân loại là linh hồn thần thánh của chúng ta, làm một con người và chủ tôn — khi linh hồn thần thánh của chúng ta tương thông nhất trí cũng sẽ thể hiện được mục đích chân chính mà nó xuất hiện trên đời này, và dốc sức hành động vì những mối quan hệ đúng đắn giữa con người với nhau, giúp đỡ tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi biển khổ.

Thông qua sự gia trì của Sư Tôn và năng lượng nhanh chóng của Độ Mẫu kết hợp với tinh thần phụng sự cống hiến của tự thân tôi, tôi đã bước qua đủ mọi chướng ngại, bằng cách tuân theo sự hợp nhất với ý thức vũ trụ và mở rộng khái niệm đoàn thể tu hành, phụng sự và cống hiến cho những người đang theo đuổi thời đại kỹ thuật số.

Trong thời gian pháp hội ở Đài Loan Lôi Tạng Tự tại Nam Đầu, Sư Tôn chỉ ra rõ ràng rằng, sứ mệnh thần thánh của tôi là giúp đỡ Chân Phật Tông độ hóa tất cả chúng sinh hữu tình. Tôi cũng sẽ thông qua bộ môn “Người tu hành thành thị” của mình để thúc đẩy sự phát triển hướng tới một cộng đồng quốc tế. Trong thế giới trần tục, sự biến hóa và tăng trưởng của thời tiết là hiện tượng tự nhiên, mùa mới sẽ lại có hoa mới nở rộ trên cùng một cái cây. Hãy nghĩ về tôi như bông hồng vừa nở trên dây leo. Tôi xin gửi lời chúc phúc vô hạn đến những chúng sinh có thể hiểu được thông điệp chân thành trên.

3. Cô chia sẻ điều này với học sinh của mình như thế nào? Chia sẻ điều gì?

Thời gian sống ở Berlin, tôi đã thiết lập một không gian cần thiết, đem “Tu hành giả thành thị” và sự bồi dưỡng của nó phụng sự cống hiến cho toàn cầu, và trong tương lai sẽ giới thiệu cho mọi người. Khi một người được nhận định là “tu hành giả thành thị”, họ nên biết chính mình là một công dân thế giới giàu sức sáng tạo, và có nhân cách đầy ắp tâm linh. Trong đoàn thể tu hành dưới sự bảo trợ của “Tu hành giả thành thị”, tôi dạy một bộ huấn luyện tâm lý gồm bốn phần với tâm lý học thần kinh làm điểm hỗ trợ cốt lõi, khóa học tinh giản, được thiết kế đặc biệt cho những người theo đuổi thời đại kỹ thuật số hiện đại, những người bị choáng ngợp bởi những suy nghĩ mất tập trung và không thể thực hiện các hành vi đúng đắn và các mối quan hệ giữa các cá nhân. Việc rèn luyện tư duy của chúng tôi bao gồm một quá trình tự suy ngẫm đơn giản được thiết kế để giúp mọi người loại bỏ những ảo tưởng che mờ bản chất thuần khiết của chính họ. Nhiệm vụ của tôi là cung cấp bộ công cụ này để giúp những chúng sinh có tư duy hạn chế điều chỉnh lại các cài đặt mặc định của họ để nỗi sợ hãi, đau khổ, kịch tính và tổn thương đã trải qua trong quá khứ không còn cản trở linh hồn thần thánh của chúng ta, trong cuộc sống và môi trường của chúng ta tạo ra sự thay đổi thực sự tích cực.

Nền tảng xã hội của tôi có thể được vinh dự gọi là “Ngôi chùa ảo đầu tiên của Hắc Độ Mẫu”. Tất cả mọi người, bất kể là dùng giáo dục để thai nghén ý thức hay là ý thức thai nghén sự thức tỉnh, đều có thể tự do tham gia và thưởng thức những nội dung sáng tạo truyền cảm hứng và mang lại lợi ích cho tất cả những ai tham gia. Nếu bạn chọn theo dõi nội dung sáng tạo của tôi trên bất kỳ nền tảng nào, bạn đã tham gia vào đoàn thể tu hành đang phát triển ngày một rộng lớn được gọi là Chùa Ảo Hắc Độ Mẫu, đây vẫn là một phân đường Chân Phật Tông khác của Căn bản Truyền thừa Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật. Trong giai đoạn đầu, "Tu hành giả thành thị" sẽ thiết lập một cấu trúc gồm năm giai đoạn; thông qua các phương môn thuận tiện, nó sẽ bao gồm tâm linh, công nghệ và sự thể hiện sáng tạo. Giai đoạn 1: Đo lường, Giai đoạn 2: Ước tính, Giai đoạn 3: Phân tích, Giai đoạn 4: Cân bằng và Giai đoạn 5: Thắng lợi. Chúng ta sẽ có một tương lai rất tươi sáng.

Nội dung ảo của tôi được thiết kế hoàn hảo cho thời đại kỹ thuật số và được thiết kế để hướng dẫn các học viên và người tìm kiếm ở mọi cấp độ trên con đường dẫn đến sự thức tỉnh hoàn toàn. Có rất nhiều người theo tôi, có lẽ chỉ vì đơn giản là họ nhìn thấy tôi thông qua sự gia trì nhanh chóng của Hắc Độ Mẫu mà đã có tầm nhìn rất từ bi. Một số người sẽ xem một trong những video tôi làm có chứa những lời dạy bằng lời nói và hình ảnh để giúp cải thiện việc thực hành tâm linh và khả năng phán đoán đúng đắn của họ.

Dưới sự hướng dẫn của Căn bản Thượng sư, tôi coi “Tu hành giả thành thị” là một phương pháp tu hành có thể cân bằng ngôn ngữ và ngữ điệu của Đông-Tây phương đương đại, thích hợp với người tìm kiếm trong thời đại kỹ thuật số.

Tôi đến với một thanh kiếm rực lửa. Trong kế hoạch tổng thể, mỗi cá nhân đều đang phát huy sức mạnh riêng của mình. Cả thế giới sẽ biết đến sự xuất hiện của tôi trong những năm tới. Tất cả chúng ta phải chuẩn bị tốt cho những ngày sắp tới, chuyên tâm tu hành để giúp đỡ một số anh chị em yếu đuối, mệt mỏi và gánh vác trách nhiệm nặng nề, trong tương lai có thể bước vào vòng tròn ngày càng mở rộng của chúng ta. Tôi đang đáp lại lời kêu gọi hành động toàn cầu ngày càng tăng do sự chia cắt và bất an đang hiện hữu xung quanh chúng ta.

Tôi chân thành cảm ơn Lư Sư Tôn vì sự gia trì, tình yêu và ánh sáng của ngài. Tôi gửi đến các bạn tất cả tình yêu thương vô hạn của tôi, mong được cùng các bạn đến thăm nhiều ngôi chùa của chúng tôi và gửi lời chúc phúc chân thành đến tất cả anh chị em.

Trong tình yêu và ánh sáng, Liên Hoa Ashley B.

47. Thứ tự tu pháp của Chân Phật Tông

Bài viết của Qien.

Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Sư Diện Không Hành Mẫu đã cho đệ tử một vài chỉ thị, đệ tử căn cứ theo những gì bản thân đã học được để tiến hành chỉnh lý mở rộng.

Nếu có bất kì sơ xuất nào, xin Sư Phật sửa chữa, là đệ tử nghiệp chướng sâu nặng không thể hiểu được thâm ý của Mật pháp, đệ tử thành tâm sám hối. Nếu có chút công đức đều là nhờ vào uy thần của Sư Phật và chư tôn, hồi hướng Sư Phật Phật thể an khang, trường cửu trụ thế, cho đến khi thành Phật không xả ly.

1. Đại quán đảnh truyền thừa cảnh quy y

Các đệ tử Chân Phật Tông vì đủ mọi nguyên nhân, hoặc nguyên nhân của tự thân hoặc nhân tố bên ngoài, dẫn đến truyền thừa không thanh tịnh, phải định kỳ ban cho hoàn tịnh.

Sư Phật thành tựu quả vị Phật vô thượng, có thể dùng thân đàn thành quán đảnh cho đệ tử. Thế nhưng các Thượng sư hoằng pháp thay thầy gần như đều không thành tựu thân đàn thành, phải dựa vào đàn thành để ban cho quán đảnh.

Mặc dù đại quán đảnh của Vô thượng du già cũng có hiệu quả hoàn tịnh, nhưng người có thể quán đảnh Vô thượng du già trong tông phái chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì thế, đệ tử thỉnh cầu Sư Phật xác định thứ tự Tiền hành và Chính hành của đại quán đảnh cảnh quy y, để cho mấy chục năm sau, nhân viên hoằng pháp đạt được thành tựu nhất định có thể làm hoàn tịnh cho đông đảo đại chúng.

Đệ tử căn cứ theo nghi quỹ Sakya để tiến hành sửa đổi một chút, tính viết ra một nghi quỹ, xin Sư Phật xem qua.

2. Bổn tôn và thứ tự tu hành chủ yếu của đệ tử Chân Phật Tông

2.1 Bổn tôn vô thượng du già: Sư Phật chủ yếu truyền thụ pháp Hỷ Kim Cang, Thời Luân Kim Cang cho rất nhiều pháp sự nghiệp, Đại Uy Đức Kim Cang thì có giảng dạy đơn giản một chút.

Bên cạnh đó, đệ tử có giáo pháp Đại Uy Đức Kim Cang, Kim Cang Du Già Mẫu tương đối hoàn chỉnh, giáo pháp Sư Diện Không Hành Mẫu, Phổ Ba Kim Cang cũng có rất nhiều truyền thừa và nghi quỹ sự nghiệp, cũng là Bổn tôn chủ yếu của Du già kim cang quyền.

Sáu vị này có thể làm chủ tu pháp của truyền thừa chủ yếu của tông phái.

2.2 Bổn tôn chuyết hỏa (chủ tôn Không Hành): Sư Diện Mẫu là Hộ pháp số một của Chân Phật Tông, cũng là Bổn tôn chuyết hỏa vô cùng quan trọng. Ngoài ra, Kim Cang Du Già Mẫu và Kim Cang Hợi Mẫu, bình thường được nhận định là đồng thể dị danh, thỉnh cầu Sư Phật lựa chọn.

2.3 Bổn tôn sự nghiệp (lời thề hộ pháp của tông phái): Sư Diện Không Hành Mẫu: Hộ pháp số một của Chân Phật Tông. Đại Lực Kim Cang: Hộ pháp giới luật. Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát: Hộ pháp thề nguyện. Đại Cát Tường Thiên Mẫu: Hộ pháp thề nguyện của Sư Tôn và tông phái. Hoàng Tài Thần: Hộ pháp thề nguyện của Sư Tôn và tông phái, một trong tám đại Bổn tôn, Tài Thần chủ tôn. Đệ tử đã chỉnh lý cúng dường, nghi quỹ tụng tán mấy vị trong số đó để cúng dường Sư Phật.

3. Tu pháp tám đại Bổn tôn và quyến thuộc

Trong pháp hội Liên Sư [Liên Hoa Sinh Đại Sĩ], Sư Tôn từng nói, tu tám đại Bổn tôn cũng phải tu quyến thuộc của các vị, số biến chú bằng một phần mười Bổn tôn. Thỉnh cầu Sư Phật tuyên thuyết cho các đệ tử Chân Phật về lợi ích tu pháp và công đức của tám đại Bổn tôn và quyến thuộc của các vị. Ví dụ: Bổn tôn A Di Đà Phật: Quyến thuộc chủ yếu: Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Tiêu tai: A Di Đà Phật, Quan Âm Tứ Thủ, Vô Lượng Thọ Phật tăng thọ. Tăng ích, kính ái: Câu Tài Thiên Nữ. Bổn tôn sự nghiệp: Mã Đầu Minh Vương (Haruka Liên hoa bộ). Bổn tôn Quan Âm Tứ Thủ: Quyến thuộc chủ yếu: Lục Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu, hoặc Lục Độ Mẫu, Bạch Tài Thần. Tiêu tai: Quan Âm Tứ Thủ, Lục Độ Mẫu trừ chướng, Bạch Độ Mẫu tăng thọ. Tăng ích: Quan Âm Tứ Thủ mani bảo châu, Bạch Tài Thần. Bổn tôn sự nghiệp: Mahakala sáu tay [Đại Hắc Thiên].

Cũng tức là dùng một vị thống nhiếp sự nghiệp tức-tăng-hoài-tru thành tu pháp hệ thống, có thể khiến đệ tử phổ thông dễ dàng tương ứng với Bổn tôn hơn, càng dễ tu pháp sự nghiệp. Chuẩn Đề Phật Mẫu là độc bộ pháp, đệ tử duy có pháp bản Tạng mật là chưa từng tu tập. Phật Mẫu của Liên Sư - Yeshe Tsogyal là chủ tôn Không Hành, Mandarava là chủ tôn trường thọ, đệ tử mặc dù biết đại cương tu pháp, nhưng không biết bí quyết cụ thể. Rất nhiều biến hóa thân của Liên Sư như Ô Kim Tài Thần, Ô Kim Dược Sư Phật có truyền thụ hay không, thỉnh cầu Sư Phật quyết định. Tu pháp quyến thuộc của Dược Sư Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát, v.v… những gì đệ tử biết cũng không kĩ càng. Vì thế, thỉnh cầu Sư Phật vì các đệ tử trong tông phái mà tuyên thuyết tu pháp quyến thuộc của tám đại Bổn tôn và ban quán đảnh.

4. Yêu cầu và nghi quỹ tu hàng ngày cho các chùa, đường

Sư Phật từng nói Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 ban ngày tu Lục Độ Mẫu, ban đêm tu Hắc Bào Kim Cang, chùa của Karma Kagyu cũng sắp xếp tu hàng ngày như vậy. Chùa, trung tâm của Sakya cũng tu hàng ngày là ban ngày tu Bổn tôn, buổi chiều cúng dường Hộ pháp. Vì thế, cá nhân đệ tử cho rằng chùa, đường của Chân Phật Tông cũng cần phải có sự sắp xếp như sau: Buổi sáng hợp tu Liên Hoa Đồng Tử và tám đại Bổn tôn, vừa vặn một tuần thì xong một vòng. Buổi chiều cúng dường Hộ pháp của tông phái. Để nhân viên hoằng pháp tập trung tinh lực vào việc tu hành, tu pháp, chứ không phải cả ngày chẳng có việc gì để làm hoặc làm một vài việc linh tinh vớ vẩn.

Bất kể có hay không có tín chúng đệ tử đến chùa đường, nhân viên hoằng pháp đều có công khóa tu hàng ngày phải làm, vì thế, Lama Tạng mật đều ở trong chùa cùng tu Bổn tôn chung, sau đó tự mình tu Bổn tôn riêng. Nhân viên hoằng pháp của Chân Phật Tông cũng nên như vậy, ở trong chùa dẫn dắt tín chúng tu tám đại Bổn tôn, cúng dường Hộ pháp, buổi tối lại tự mình tu Bổn tôn riêng.

Người tu hành chân chính tự nhiên sẽ có Long Thiên hộ pháp, đưa tín chúng đến tập trung tại chùa, đường. Quy định này phải do Tông Ủy Hội thúc đẩy và giám sát.

5. Đối với yêu cầu bế quan của lứa nhân viên hoằng pháp trẻ tuổi

Nhân viên hoằng pháp trẻ tuổi nên hoàn thành bế quan cơ bản của Liên Hoa Đồng Tử, bế quan của Bổn tôn sự nghiệp, đặc biệt là bế quan của Bổn tôn vô thượng du già.

5.1. Bế quan tu Liên Hoa Đồng Tử Đệ tử cho rằng 2 triệu biến Thượng sư tâm chú nên được hoàn thành trong khi bế quan, theo kinh nghiệm bế quan của chính đệ tử thì 7 ngày là có thể hoàn thành 300.000 biến, 21 ngày là có thể hoàn thành xong 1 triệu biến. Một ngày ba lần làm nghi quỹ: buổi sáng tu Bổn tôn Liên Hoa Đồng Tử, buổi chiều tu nghi quỹ Chân Phật Bảo Sám, buổi tối lại tu nghi quỹ Bổn tôn Liên Hoa Đồng Tử. Có thể phân thành mấy lần để hoàn thành, mỗi lần không dưới 7 ngày, và ở giữa tối thiểu có một lần bế quan 21 ngày hoàn thành 1 triệu biến tâm chú. Sau khi hoàn thành 2 triệu biến, 6 triệu biến còn lại có thể tán niệm, không đến mức tâm thần tán loạn.

5.2. Bế quan tu Bổn tôn sự nghiệp Đặc biệt nói đến một số Bổn tôn có pháp sự nghiệp có thể giúp độ chúng sinh, nhất là Bổn tôn Du già bộ, ví dụ Ái Nhiễm Minh Vương, Khổng Tước Minh Vương. Hoặc là bế quan Độ Mẫu, 21 Độ Mẫu có đầy đủ tất cả thành tựu sự nghiệp.

5.3. Bế quan tu Bổn tôn vô thượng du già Trong số các Bổn tôn vô thượng du già trong tu hành chủ yếu của Chân Phật Tông, chí ít chọn ra một vị để tiến hành bế quan, sau khi bế quan xong, sẽ giống như phái Sakya và Nyingma có thể quán đảnh tất cả Bổn tôn Sự bộ, Hành bộ.

5.4. Bế quan tu chuyết hỏa

Kiến nghị hoàn thành bế quan tu chuyết hỏa, sau khi bế quan xong có thể quán đảnh thứ tự sinh khởi Bổn tôn du già bộ và Bổn tôn vô thượng du già (quán đảnh nhân vị). Để các Thượng sư thế hệ mới có thể tu được thành tích, toàn bộ tông phái không đến mức chỉ dựa vào sự chèo chống của một mình Sư Phật. Thượng sư thế hệ mới cũng có thể từng bước thay thế người già không có chứng lượng.

Những Thượng sư thế hệ mới hoàn thành xong bế quan này có thể để cho Tông Ủy Hội sắp xếp thay Sư Phật đi đến các chùa đường hội ở các nơi trên thế giới tiến hành giao lưu, thay Sư Phật chăm sóc các đệ tử.

6. Trưởng lão truyền giới

Tông phái còn cần một đến hai vị trưởng lão truyền giới, đệ tử tuy có thể thay Sư Phật truyền thừa pháp mạch, nhưng yogi thì không thể truyền thụ giới xuất gia.

🌟

Bài viết này do Thubten Qien viết. Có thể thấy là ông ấy rất nỗ lực. Tôi viết một bài thơ ca ngợi. Tiêu đề: Một tấm chân thành

Cao sĩ dụng tâm khổ Đi đến tận Tây Thành Mong báo ơn Chân Phật Đông qua tới đầu xuân.

48. Liên Sinh Hoạt Phật Pháp Vương Lư Sư Tôn quán tu siêu độ Nghìn chiếc thuyền pháp

Quán tu Nghìn chiếc thuyền pháp như sau:

  • Ngồi trên pháp tọa.
  • Tâm khí hợp nhất.
  • Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát nhiếp triệu chúng sinh âm gian. Thỉnh cầu Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát nhiếp triệu chúng sinh âm gian. Nhiếp triệu chúng sinh âm gian có thiện căn, chỉ đạo chúng sinh âm gian ở xung quanh. Để họ lên ngồi trên nghìn chiếc thuyền pháp vãng sinh Phật quốc tịnh thổ.
  • Thỉnh cầu Hộ pháp, Kim giáp thần bảo hộ. Thỉnh cầu Hộ pháp chư tôn xếp hàng hai bên xung quanh. Kim giáp thần ở trong hư không bảo vệ.
  • Thỉnh cầu Bổn tôn phóng quang gia trì. Triệu thỉnh sáu Bổn tôn hiển hiện tại hư không.
  • Quán tưởng: Đầu tiên là chữ “Pan”
image

Từ chữ “Pan” xuất hiện hoa sen, từ chữ Hum hoặc chữ Ah xuất hiện Bổn tôn, Bổn tôn đều ở trong hư không.

Trên cao nhất là Nam Mô Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, hình dáng thiên nữ, một tay cầm phất trần, một tay cầm gậy như ý. Tiếp theo là Nam Mô Hổ Đầu Kim Cang, Hổ Đầu Kim Cang xuất hiện hổ trước, Diêu Trì Kim Mẫu ngồi trên lưng hổ, một tay cầm cờ lệnh, một tay cầm bình hồ lô. Ở giữa là A Di Đà Phật. Ở bên trái của A Di Đà Phật (là bên phải từ hướng nhìn của chính mình) là đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở bên phải của A Di Đà Phật (là bên trái từ hướng nhìn của chính mình) là Đại Thế Chí Bồ Tát. Bên dưới là Địa Tạng Vương Bồ Tát.

  • Chắp tay thỉnh cầu Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn phóng quang gia trì.
  • Thỉnh Hổ Đầu Kim Cang phóng quang gia trì. Niệm chú: Ôm chin-mủ sit-đi hùm. Ôm chin-mủ sit-đi hùm hùm pây.
  • Thỉnh cầu Diệu Sắc Thân Như Lai thanh tịnh chúng sinh âm gian. Thỉnh cầu Diệu Sắc Thân Như Lai phóng quang gia trì cho chúng sinh âm gian, để tất cả chúng sinh âm gian không bị xấu xí, đầy đủ chân tay, sắc tướng viên mãn, thù thắng trang nghiêm, biến hóa thành trẻ trung xinh đẹp.
  • Lư Sư Tôn hóa hiện ra nghìn chiếc thuyền pháp.
  • Lư Sư Tôn tự hóa thành Bổn tôn, A Di Đà Như Lai là Lư Sư Tôn, Lư Sư Tôn là A Di Đà Như Lai, không hai không khác. Tay phải kết ấn thuyết pháp. (Ngón cái và ngón trỏ chạm vào nhau thành vòng tròn, ba ngón còn lại dựng thẳng.) Tay trái kết ấn ban nguyện. Khi kết ấn ban nguyện, lòng bàn tay mở ra, có một chiếc thuyền pháp nhô lên, từ trong lòng bàn tay trượt ra, đậu trên mặt biển. Thuyền pháp màu vàng kim, gặp gió thì phóng to lên. Trên mặt biển, một chiếc thuyền pháp hóa thành mười chiếc thuyền pháp, mười chiếc thuyền pháp hóa thành trăm chiếc thuyền pháp, trăm chiếc thuyền pháp hóa thành nghìn chiếc thuyền pháp, trên mặt biển rộng mênh mông có nghìn chiếc thuyền pháp.
  • Hổ Đầu Kim Cang ra lệnh cho chúng sinh âm gian lên thuyền pháp. Cờ lệnh của Hổ Đầu Kim Cang vẫy lên: “Mời chúng sinh âm gian lên thuyền pháp.” Chúng sinh âm gian lần lượt lên thuyền pháp theo cách bay lên, một lúc sau, nghìn chiếc thuyền pháp đều chật ních chúng sinh âm gian ngồi kín thuyền.
  • A Di Đà Phật phóng vô lượng quang chiếu đến Lư Sư Tôn. A Di Đà Phật ba lần phóng ánh sáng đến Lư Sư Tôn - Chữ Om màu trắng phóng ánh sáng trắng, chữ Ah màu đỏ phóng ánh sáng đỏ, chữ Hum màu lam phóng ánh sáng lam. Mi tâm ánh sáng trắng, họng ánh sáng đỏ, tim ánh sáng lam, ba ánh sáng Om Ah Hum bao trùm. A Di Đà Phật lại phóng vô lượng ánh sáng chiếu đến Lư Sư Tôn.
  • A Di Đà Phật phóng vô lượng ánh sáng thanh tịnh chúng sinh âm giới. A Di Đà Phật ở trong hư không hóa ra vô số thân, mỗi thân lại phóng vô lượng ánh sáng chiếu khắp chúng sinh âm gian trên thuyền pháp. Ánh sáng lóe lên quét qua quét lại, quét phía trước quét phía sau, cứ như thế lóe lên mấy lần, tất cả chúng sinh âm gian thân tâm thanh tịnh. Chúng sinh âm gian chỉ có thân tâm thanh tịnh mới có thể đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Thuyền pháp lần lượt bay đến cõi trời bên ngoài cõi trời, cõi trời bên ngoài cõi trời và thế giới Cực Lạc là một không gian bình đẳng, thế giới Cực Lạc và tất cả nghìn chiếc thuyền pháp là không gian bình đẳng, là cõi trời bên ngoài cõi trời, cho nên thuyền pháp chở chúng sinh âm gian thanh tịnh lần lượt bay đến cõi trời bên ngoài cõi trời.
  • Lư Sư Tôn khai thị cho chúng sinh âm gian về sự thù thắng trang nghiêm của thế giới Cực Lạc. Lúc này, Tây phương Cực Lạc thế giới hiện ra bốn cõi — Thường Tịch Quang, Thực Báo Trang Nghiêm, Phương Tiện Hữu Dư, Phàm Thánh Đồng Cư. Dựa theo tất cả chúng sinh âm gian: người thượng căn khí thì đến cõi Thường Tịch Quang; người trung căn khí thì đến cõi Thực Báo Trang Nghiêm, cõi Phương Thiện Hữu Dư; người hạ căn khí thì đế cõi Phàm Thánh Đồng Cư; ở đây có bốn cõi. Lúc này, Diêu Trì Kim Mẫu nói với tất cả chúng sinh âm gian: “Thế giới Cực Lạc ở trong Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Luận Vãng Sinh, trong ba kinh một luận này, chư Phật mười phương cùng lộ ra tướng lưỡi rộng dài cùng ca ngợi thế giới Cực Lạc. Tây phương Cực Lạc thế giới có A Di Đà Phật, có Quan Thế Âm Bồ Tát, có Đại Thế Chí Bồ Tát là ba vị hỗ chủ. Ba vị hỗ chủ chính là ba vị hỗ chủ của Tây phương Cực Lạc thế giới, có thể nương dựa vào, có thể dựa vào Đại Thế Chí Bồ Tát, dựa vào Quan Thế Âm Bồ Tát, dựa vào A Di Đà Phật, cũng đều có thể đến Tây phương Cực Lạc thế giới, cho nên gọi là hỗ chủ. Lúc này, Lư Sư Tôn giảng giải cho tất cả chúng sinh âm giới, Tây phương Cực Lạc thế giới chỉ có cực lạc chứ không có thế giới đau khổ, hơn nữa còn không thối chuyển. Thế giới Ta Bà của chúng ta đương nhiên có đau khổ, vì thế có một bài kệ, một bài ca dao là: “Liên Hoa Đồng Tử gặp Kim Tiên. Khắp cả hư không hoa rơi xuống. Vượt mây nghe tiếng trời vi diệu. Lời nào tả xiết lạc cõi thiên.” Đây chính là thế giới Cực Lạc vượt trội Dục giới thiên, Sắc giới thiên, Vô sắc giới thiên. Cho nên, tất cả tịnh thổ đều hơn cả lục đạo, đến tịnh thổ rồi thì bạn không chịu lục đạo luân hồi nữa. Có nghĩa là không bị luân hồi trong cõi trời, cõi người, cõi atula, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh, đến tịnh thổ rồi thì sẽ không bị luân hồi, cho nên chúng sinh âm gian nghe xong thi đều hoan hỷ vô cùng. Lư Sư Tôn lại giới thiệu thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc có bảy lớp lan can, có bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, đều được làm từ bảy loại châu báu. Ở thế giới Cực Lạc có đình đài lầu gác, có cung điện giống như đế võng minh châu, kết mây mà thành, đều xây lên bởi vàng và châu báu. Ngoài ra còn có Ma Ha Song Liên Trì, dưới đáy hồ đều rải cát vàng, được lót bằng cát vàng, cả thế giới Cực Lạc là vùng đất đẹp đẽ tuyệt vời. Trên mặt nước tám loại công đức có hoa sen to như bánh xe, trên hoa sen có Liên Hoa Đồng Tử. Đồng thời gió thổi nhè nhẹ, lay động bảy lớp lưới, bảy hàng cây. Ngoài ra, bảy lớp lan can đều phát ra âm thanh hòa nhã, âm thanh đó đang dạy bạn niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. A Di Đà Phật hóa hiện ra chim anh vũ, chim ca lăng tần già, chim cộng mạng, và tất cả các loài chim đều cất lên âm thanh hòa nhã, diễn xướng ba mươi bảy đạo phẩm, đó chính là tứ niệm xứ, tứ chính cần, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chính đạo phần, để cho tất cả chúng sinh ở nơi đó nghe được âm thanh hòa nhã có thể học tập được ba mươi bảy đạo phẩm, người người tự động niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, tu hành ba mươi bảy đạo phẩm, tu trì đến được tứ Thánh giới. Thế giới Cực Lạc được Phật các phương đều cùng công nhận là một thế giới cực lạc. Trong Kinh A Di Đà có ghi chép “Thế giới Cực Lạc trong Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Luận Vãng Sinh, trong ba kinh một luận này, chư Phật mười phương cùng lộ ra tướng lưỡi rộng dài cùng ca ngợi thế giới Cực Lạc. Tất cả đều ca ngợi thế giới Cực Lạc, tất cả chư Phật đều ca ngợi thế giới Cực Lạc.”
  • Diêu Trì Kim Mẫu Hổ Đầu Kim Cang cũng ra lệnh cho chúng sinh đều đến Tây phương Cực Lạc thế giới, vì thế thế giới Cực Lạc có đầy đủ trang nghiêm, thù thắng, vi diệu và bất khả tư nghì. 1. Người thiếu thiện căn không thể đến thế giới Cực Lạc. 2. Phải nhất tâm bất loạn niệm Phật, Tây phương Tam Thánh tự nhiên sẽ xuất hiện tiếp dẫn, điều này căn cứ theo Phật Thích Ca Mâu Ni nói, muốn đến Tây phương Cực Lạc thế giới thì một là không thể thiếu thiện căn, hai là phải nhất tâm bất loạn niệm Phật. Bây giờ dùng nghìn chiếc thuyền pháp đưa các người từ thế giới ngũ trọc ác thế này lên cõi trời bên ngoài cõi trời, sau đó ngồi trên nghìn chiếc thuyền pháp cùng đến Tây phương Cực Lạc thế giới.
  • Diêu Trì Kim Mẫu Hổ Đầu Kim Cang giơ cờ lệnh ra lệnh cho nghìn chiếc thuyền pháp khởi hành. Lúc này Diêu Trì Kim Mẫu Hổ Đầu Kim Cang giơ cờ lệnh ra lệnh: nghìn chiếc thuyền pháp lập tức xuất phát, lên đường.
  • Lư Sư Tôn nhắc nhở chúng sinh âm gian nhất tâm niệm Phật. Lúc này Lư Sư Tôn cùng tất cả chúng sinh âm gian cùng niệm Phật, chúng ta liên tục trì tụng Phật hiệu, trì tụng trong lúc thuyền chạy. Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Ôm a-mi-đê-wa sê. Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Ôm a-mi-đê-wa sê. Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Ôm a-mi-đê-wa sê.
  • Trì danh niệm Phật Chúng ta dựa theo điều nói đến trong Kinh A Di Đà mà trì danh niệm Phật. ”Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô A Di Đà Phật.” Chúng ta niệm Phật vô số lần.
  • Niệm tâm chú Liên Hoa Sinh Đại Sĩ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ là tổ sư Mật giáo, ngài là hóa thân của A Di Đà Phật, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và Liên Hoa Đồng Tử đều là hóa hiện của A Di Đà Phật, niệm tâm chú của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ (21 biến hoặc hơn hoặc vô số biến). “Ôm ah hùm ben-za gu-ru pê-ma sit-đi-hùm sê.”
  • Niệm chú vãng sinh: Vì muốn vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật có chú vãng sinh, chúng ta lại niệm chú vãng sinh (7 biến trở lên): ”Na-mô a-mi-tô-pô-yê tô-tha-ga-tô-yê. Tô-tây-ya-tha. A-mi-ni-tô pô-pi. A-mi-ni-tô si-tam pô-pi. A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tê. A-mi-ni-tô pi-ka-ran-tô. Ka-mi-ni ka-ka-na. Chê-tô ka-ni sô-ha.”
  • Niệm tâm chú Văn Thù Sư Lợi, chú vãng sinh Văn Thù Niệm xong chú vãng sinh, lại niệm tâm chú Văn Thù Sư Lợi và chú vãng sinh Văn Thù (7 biến trở lên): ”Ôm a-ra-pa-sa-na đi. Ôm man-su-sư-li-ya. Ôm a-pây-la-hùm kan-cha-la sô-ha.” Một mặt bảo tất cả chúng sinh âm gian niệm theo Lư Sư Tôn, một mặt thuyền chạy về hướng Tây phương Cực Lạc thế giới.
  • Niệm Thánh hiệu của Diêu Trì Kim Mẫu Lư Sư Tôn lại nhấn mạnh, quan trọng nhất là chúng ta có ba Bổn tôn, một là Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, hai là A Di Đà Như Lai, ba là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thánh hiệu của Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn là rất quan trọng, Thánh danh của ngài tỏa đi khắp mười phương, phóng quang tiếp dẫn tất cả chúng sinh âm gian vãng sinh Phật quốc thanh tịnh. Niệm Thánh hiệu của Diêu Trì Kim Mẫu (vô số biến): “Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn”. Lúc này tất cả chúng sinh âm gian đều niệm theo Lư Sư Tôn, niệm đến khi thân tâm của chúng sinh âm gian đều vui vẻ hoan hỷ.
  • Khi chúng sinh âm gian đã đến được bờ bên kia, niệm tâm chú của ba vị hỗ chủ của Tây phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta dựa vào sự tiếp dẫn của Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, ở Tây phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật, Bổn tôn A Di Đà Phật là vị hỗ chủ lớn nhất, dựa vào pháp lực của Địa Tạng Bồ Tát mà nhiếp triệu tất cả chúng sinh âm gian tiến vào Tây phương tịnh thổ, lúc này thuyền pháp nhờ lực gia trì của tam căn bản mà đã đến được điểm cuối là Tây phương Cực Lạc thế giới, tất cả chúng sinh âm gian đã lên được bờ bên kia. Họ lễ bái ba vị hỗ chủ là Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Như Lai, Nam mô đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam mô đại tinh tấn đại uy thế Đại Thế Chí Bồ Tát.” Niệm: “Ôm a-mi-đê-wa sê. Ôm ma-ni pê-mi hùm. Ôm xuy-xuy-xua sô-ha.” Tất cả chúng sinh âm gian lễ bái ba vị hỗ chủ, nghe được âm thanh hòa nhã, tất cả chúng sinh âm gian tự động niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, tu hành ba mươi bảy đạo phẩm, quan trọng là thất bồ đề phần, bát chính đạo phần, tương lai người người tu trì, người người thành Phật.
  • Cảm tạ, thỉnh cầu sáu Bổn tôn phóng quang gia trì Liên Sinh Lư Sư Tôn Lư Sư Tôn lại thỉnh cầu Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Hổ Đầu Kim Cang gia trì cho Liên Sinh, gia trì Lư Sư Tôn, các vị phóng ba lần ánh sáng gia trì. Niệm “Ôm chin-mủ sit-đi hùm. Ôm chin-mủ sit-đi hùm hùm pây.” Cảm tạ Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Như Lai Niệm: “Nam mô 36 vạn tỉ 11 vạn 9 nghìn 5 trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Ôm a-mi-đê-wa sê.” A Di Đà Phật phóng vô lượng ánh sáng gia trì Lư Sư Tôn. Cảm tạ u minh giáo chủ đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm ngọc như ý quang minh (mani bảo châu). Ngài dùng quả cầu như ý quang mình trên tay bay lên hư không, chiếu sáng bốn phương, phóng quang gia trì cho Lư Sư Tôn: một là nghĩ gì được nấy, hai là thân thể khỏe mạnh, ba là vạn sự như ý, bốn là tu pháp thành tựu. Niệm “Ôm ha-ha-ha wây sa-mô-yê sô-ha.” Cảm tạ đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Kính lễ đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát, dùng cành liễu tịnh thủy, cành dương liễu cắm vào bình cam lộ rồi vẩy khắp người Sư Tôn ba lần. Bồ Tát dùng cành liễu tịnh thủy vẩy khắp ba nghìn, vẩy một lần thanh tịnh, vẩy hai lần tự tính thanh tịnh, vẩy ba lần tất cả tự tính thanh tịnh, chúng sinh tất cả thanh tịnh. Niệm “Ôm ma-ni pê-mi hùm.” Cảm tạ Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Kính lễ đắc đại thế chí Bồ Tát, đại tinh tấn Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát. Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát, tay cầm hoa sen chưa nở phóng ánh sáng vàng chiếu đến Lư Sư Tôn, đại tư lương đầy đủ, phóng ánh sáng đỏ chiếu đến Lư Sư Tôn, đại kính ái viên mãn. Niệm “Ôm xuy-xuy-xua sô-ha. Ôm xuy-xuy-xua sô-ha.” Sáu vị đại Bổn tôn này — Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Hổ Đầu Kim Cang, A Di Đà Phật, Địa Tạng Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát phóng quang gia trì cho Lư Sư Tôn.
  • Chân Phật Tông Liên Sinh Thượng sư Lư Sư Tôn dựa vào tam căn bản, Diêu Trì Kim Mẫu, A Di Đà Phật, Địa Tạng Bồ Tát và tất cả quyến thuộc hộ pháp, tu hành nghìn chiếc thuyền pháp tất cả viên mãn. Niệm: Ôm bu-lin. Ôm bu-lin. Ôm bu-lin.
  • Lư Sư Tôn tu hành nuốt nước bọt, nạp khí, thông trung mạch, mở năm luân xa. Sau đó tự mình thực hành nuốt nước bọt, nạp khí, thông trung mạch, mở năm luân xa. Sau đó là bản thân Sư Tôn thiền định, tự mình nuốt nước bọt, nạp khí, thông trung mạch, mở năm luân xa. Trước tiên nạp thủy nuốt nước bọt, làm pháp thần thủy, làm xong pháp thần thủy thì lại nạp khí, thông trung mạch, mở năm luân xa, tu pháp chuyết hỏa, sau đó lại nhập định cho đến khi xuất định.

Đây chính là nghi quỹ siêu độ nghìn chiếc thuyền pháp của tôi.

49. Biệt Thời Luân

Liên Sinh Hoạt Phật Sư Tôn tôn quý kính yêu nhất!

Trước khi vào thư, đầu tiên chúc phúc thầy khỏe mạnh trường thọ, mãi chuyển pháp luân, nhậm vận tự tại và Sư Mẫu thân thể khỏe mạnh, tất cả cát tường, bình an hỷ lạc!

Sư Tôn tôn quý, tại Hồng Kông vào năm 2000, thầy đã công khai và trở thành vị Pháp Vương người Hoa đầu tiên truyền thụ đại pháp vô thượng Thời Luân Kim Cang. Năm ấy, con và sư huynh nhà con cũng may mắn được nhận quán đảnh trực tiếp, cầu nguyện sau khi chuyển thế bảy lần thì chắc chắn thành Phật, chúng con đặc biệt đưa con trai nhỏ bốn tuổi và mẹ con cùng đi đến Hồng Kông tham dự đại pháp hội long trời lở đất lần này.

Thời gian trôi qua. Không ngờ chủ nhật tuần trước của 22 năm sau, tức là ngày 16 tháng 10 năm 2022, con và sư huynh nhà con lại cùng may mắn ở trên “đám mây” tham gia đại pháp hội Hộ Ma Thời Luân Kim Cang mà thầy chủ trì tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự.

Pháp hỷ và sự thù thắng của ngày hôm đó, đối với con mà nói, nói thẳng ra là khó mô tả, không thể nào so sánh! Nay con đặc biệt viết thư để bẩm báo với Sư Tôn niềm vui sướng bất ngờ và thu hoạch của con ngày hôm đó. Đồng thời cũng ca ngợi sự bất khả tư nghì và thù thắng vô thượng của đại pháp hội Hộ Ma Thời Luân Kim Cang mà thầy chủ trì.

Chủ nhật tuần trước, vào đúng 6 giờ chiều theo giờ miền Đông Bắc nước Mỹ, con và sư huynh nhà con chỉnh tề ngồi ngay ngắn trước “đám mây”, cung kính chờ đợi thầy chủ trì đại pháp hội Hộ Ma Thời Luân Kim Cang. Không ngờ rằng, khi pháp hội tiến hành đến lúc thầy khai thị pháp ngữ, liên quan đến khẩu quyết quan trọng của Thời Luân Kim Cang mà thầy nói đến: ”Con người chúng ta sống trên thế gian chính là sống trong thời gian và không gian, bạn sống ở đâu? Bạn sống trong thời gian, sống trong không gian. Pháp Thời Luân là dùng nội thời luân bạn tu luyện được ở trong thân thể bạn kết hợp với thời gian và không gian trong vũ trụ, chính là ngoại thời luân. Thời gian và không gian là ngoại thời luân, trong người bạn tu được là nội thời luân, bạn đem hai bánh xe thời gian này khớp lại với nhau thì bạn chính là biệt thời luân. Biệt thời luân chính là thành tựu rồi.” Khi nghe pháp ngữ khai thị này, con lập tức đưa khí, mạch, minh điểm mà mình tu luyện được, tức là nội thời luân, và dẫn ngoại thời luân của vũ trụ đến nội thời luân ở trên người mình.

Trong chốc lát, con cảm thấy thân thể của mình lập tức giống như chạm vào điện, thậm chí giống như minh tinh trong phim ảnh đánh võ, như bị đối thủ điểm huyệt. Toàn thân con lập tức đông cứng lại, không thể cử động! Khi ấy con vẫn mở to hai mắt, nhìn về phía “đám mây”, lắng nghe khai thị trong pháp hội của thầy, cho đến khi hai mắt con vẫn mở và nhập định, cảm thấy không thoải mái rồi thì hai mắt con tự nhiên chầm chậm khép lại, rồi tiếp tục chìm vào nhập định. Con giống như con cua lông, giống như người sắt tượng đồng, giống như một ngọn đồi nhỏ. Như như bất động, chìm trong trạng thái đông cứng quên mình, hết sức chăm chú lắng nghe… Con không ngừng tập trung chuyên chú, không ngừng tập trung tinh thần, không ngừng một hít một thở, sau đó lại tự nhiên không ngừng nín thở,… Khí của con lên xuống trong trung mạch, toàn thân tứ chi và các mạch, có một sự ma sát mềm mại, khinh an, đồng thời ở trước ngực con còn tỏa ánh hào quang. Con tiêu dao tự tại, vui vẻ vô cùng!

Cùng với việc này, con cảm thấy thân thể con giống như có thứ gì vô hình, từ từ biến hóa…. Con biến hóa thành giống như một khối lửa, bên trong lửa lại có thứ gì đó khác vươn ra bên ngoài thân thể con. Càng kỳ diệu hơn là, ngay cả đầu con cũng khác. Toàn bộ phần đầu, hai tai trái phải, không ngờ từ từ mỗi bên tai đều biến thành một cái đầu. Ngay cả phía sau cũng có một cái đầu! Vô cùng kỳ diệu và vô cùng bất khả tư nghì!

Trong chốc lát, con lập tức dự liệu được rằng, con đã dùng nội thời luân khí, mạch, minh điểm mình đã tu được bên trong thân thể mình kết hợp với ngoại thời luân của thời gian và không gian vũ trụ, hai bánh xe thời gian kết hợp lại, tương ứng rồi! Sự tương ứng của hai bánh xe này chính là biệt thời luân. A, giống như khi Sư Tôn khai thị đã nói, con chính là biệt thời luân rồi!

Và quá trình tương ứng kết hợp giữa nội thời luân và ngoại thời luân diễn biến thành biệt thời luân này xảy ra trong toàn bộ đại pháp hội Hộ Ma Thời Luân Kim Cang, từ lúc thầy bắt đầu khai thị pháp ngữ cho đến khi pháp hội hoàn toàn kết thúc.

Giờ đây, sau khi có được biệt thời luân, con đã hoàn toàn trở nên thay da đổi thịt rồi! Con hoàn toàn biến thành giống như bị bánh xe thời gian lớn của thời luân lăn qua, xoay tròn, nghiền nát tất cả, tất cả phiền não, nghiệp chướng đều được thanh trừ sạch sẽ, phá hủy toàn bộ sinh lão bệnh tử, tất cả mọi thứ đều bị phá hủy, tất cả đều hóa thành không rồi!

A! Con may mắn quá! Con theo Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật học Phật mà đạt được biệt thời luân, thật sự quá may mắn rồi! Cảm ơn Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật vô cùng tôn quý của chúng con! Cảm ơn tất cả chư Phật Bồ Tát của hư không vũ trụ! Cảm ơn Thời Luân Kim Cang! Cuối cùng chúc phúc Sư Tôn, Sư Mẫu đi Đài Loan hoằng pháp thuận lợi! Tất cả cát tường! Vạn sự như ý! Ngu đệ tử: trợ giảng Liên Hoa Thái Hồng chắp tay đảnh lễ khấu tạ. Viết vào ngày 20 tháng 10 năm 2022 (bang Vermont nước Mỹ).

(Hết.)

Mục lục