📗

3001. Phật pháp làm đẹp thân tâm

image

Phật pháp làm đẹp thân tâm

Văn tập số: 3001 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Thượng sự - Sư Mẫu Lư Lệ Hương Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!

Lời dịch giả

Các bạn độc giả yêu quý! Các bạn đang cầm trên tay một cuốn sách vô cùng trân quý được viết bởi một con người vĩ đại đã hy sinh rất nhiều và dành trọn cuộc đời mình cống hiến cho sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, một người mẹ dung dị luôn ở phía sau âm thầm, miệt mài làm các việc pháp vụ không ngừng nghỉ, giúp đỡ vô hạn cho Tôn Sư Lư Thắng Ngạn và Chân Phật Tông thế giới. Đó cũng chính là người mà các đệ tử vô cùng yêu quý và quen gọi thân mật là Sư Mẫu. Liên Hương Thượng sư tên thật là Lư Lệ Hương, sinh năm 1949 tại Đài Trung, Đài Loan. Khi trưởng thành bà đã kết hôn với Tôn Sư Lư Thắng Ngạn. Sau này khi Tôn Sư thành lập tông phái, bà được mọi người ca ngợi gọi là Sư Mẫu, cũng bởi bà đã thực sự đóng góp với vai trò quý giá như một người mẹ của Chân Phật Tông. Trong rất nhiều bài nói chuyện và khai thị, Tôn Sư Lư Thắng Ngạn luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng to lớn đặc biệt của bà. Nếu không có Sư Mẫu sẽ không có Chân Phật Tông với hơn 5 triệu đệ tử ngày nay. Trong một văn tập của mình, Tôn Sư cũng đã từng ví von rằng, nếu như Lư Sư Tôn là người thủ lĩnh tinh thần của Chân Phật Tông, thì Liên Hương Thượng sư chính là người thủ lĩnh bằng xương bằng thịt hiện hữu trên mặt đất này để điều hành toàn bộ hoạt động của tông phái. Liên Hương Thượng sư từng chia sẻ rằng bản thân mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện trở thành một tác giả viết văn. Cuốn sách "Phật pháp làm đẹp thân tâm" này không hẳn là một sáng tác văn học. Đây là tuyển tập những bài viết tùy bút mà Liên Hương Thượng sư viết cho mục Liên Hương Tùy Bút của tờ Chân Phật Báo - tờ báo chính thức của Chân Phật Tông. Trong mục Liên Hương Tùy Bút, Sư Mẫu thường viết rất chân thực, mộc mạc, gần như có gì viết nấy. Bà chia sẻ với các đệ tử Chân Phật những câu chuyện thường ngày về cuộc sống, về công việc, về hoạt động của tông giáo, về trải nghiệm tu hành của bản thân, về các lời khuyên cho đệ tử hay bạn bè… Các bài viết chia sẻ của Sư Mẫu vô cùng có giá trị và cực kì được yêu thích. Chúng rất chân thành, bình dị, nhiều lúc vô cùng xúc động như chính tâm hồn tuyệt đẹp của Người. Không hề ngạc nhiên khi mục này luôn được chờ đón mỗi kì Chân Phật báo ra số mới. Ngày 1/10/1995, nhà xuất bản Đại Nhật đã xuất bản cuốn sách tiêu đề "Phật pháp làm đẹp thân tâm", chính là tổng hợp lại những bài viết được Sư Mẫu viết trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1995. Nay đã ở vào độ tuổi 75 (tính tới tháng 4/2022) nhưng Sư Mẫu vẫn bền bỉ bước chân trên con đường phụ giúp Tôn Sư Lư Thắng Ngạn đem Phật pháp đi khắp nơi, tiếp tục cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong cõi luân hồi. Chúng ta hãy cùng đọc những bài viết dung dị để hiểu hơn về một người phụ nữ có dáng vóc nhỏ bé nhưng trái tim vô cùng bao la quảng đại nhé. Gửi đến bạn mọi lời chúc an lạc, cát tường. Sarva mangalam! Om mani padme hum!

Ghi chú Tất cả chú giải, được đánh dấu (*) có màu xanh đi kèm hoặc ghi trong ngoặc đơn (), là của người dịch. Mọi lời dịch hay lỗi sai có thể gây nên các hiểu lầm không đáng có, là của người dịch.

Lời tựa. Xuất bản Liên Hương Tùy Bút

Lời tựa - Lư Thắng Ngạn

Có rất nhiều đệ tử nói với tôi rằng, khi mở tờ Chân Phật Báo ra, đầu tiên là họ sẽ đọc mục Liên Hương Tùy Bút. Điều này cho thấy rằng Liên Hương Tùy Bút cũng giống như cột "dự báo thời tiết" của Chân Phật Báo vậy. Liên Hương Thượng sư có thể viết văn ư? Đây là việc khiến người ta khó tưởng tượng được. Trong trí nhớ của tôi, đây là việc trước nay chưa từng có ở Chân Phật Báo, Sư Mẫu chưa từng một lần nào viết văn, đương nhiên càng không cần phải bàn đến chuyện làm thơ. Tôi nghĩ, nếu nói văn chương phải nặn từng chữ mới ra được, thì câu nói này đúng chính xác với Sư Mẫu, cực kì chuẩn. Mỗi khi Sư Mẫu hoàn thành xong một trang viết, trên mặt bà sẽ biểu hiện cái vẻ muốn trốn mất tiêu luôn. Sau đó, hiển nhiên tôi chính là người được hưởng niềm sung sướng khi là độc giả đầu tiên. Kì thực tôi rất ít khi sửa những câu văn của Sư Mẫu, thường chỉ là sửa một chút xíu các chữ viết chưa đúng chính tả, dấu chấm câu hay các câu văn có ý nghĩa mù mờ không rõ ràng. Sư Mẫu cũng rất sẵn lòng nghe tôi chỉ ra cái sai chứ không cố chấp với quan điểm của riêng mình. Đương nhiên, cái gọi là "tùy bút" nghĩa là viết ra những sự việc xảy ra vào lúc nào ở đâu, bày tỏ thêm một chút cảm xúc tâm linh của bản thân. Phong cách viết của Sư Mẫu có liên quan nhiều đến Chân Phật Tông, đọc bài chia sẻ của bà có thể biết được rất nhiều chuyện to nhỏ của tông phái trong nhiều năm, thấy được quá khứ và hiện tại, từ đó mà ngẫm nghĩ về con người thế gian. Nội dung của Liên Hương Tùy Bút bao gồm đủ mọi thứ, có tiểu phẩm văn nghệ, có những chuyện thú vị của đời sống, có tu dưỡng tĩnh tâm, có khái niệm của tông phái, có thể nói là không bỏ sót chuyện gì, nhiều như sao trên trời, nhờ đó mở mang tâm trí, lấy việc khiến người ta phải suy ngẫm làm quy tắc. Tôi chúc mừng việc xuất bản sách thành công của Sư Mẫu. Việc này sẽ đem đến cho độc giả cuộc sống phong phú hơn để ai ai cũng đều được hưởng lợi lạc từ sách.

Lời tựa. Xâu chuỗi hoa sen

Lời tựa - Lư Lệ Hương

Tôi chưa từng nghĩ đến việc sẽ viết văn, cũng chưa từng nghĩ đến việc sẽ xuất bản sách, giống như cách đây rất lâu tôi chưa từng nghĩ đến chuyện di cư sang Mỹ vậy. Hồi đó, trong hoang mang mơ hồ về vận mệnh của tạo hóa, có một sức mạnh cứ liên tục thôi thúc tôi rằng "hãy dũng cảm đi thích ứng với cuộc sống di cư mới". Thấm thoắt thời gian trôi qua, đến giờ tôi đã sống ở Mỹ được 13 năm rồi. Tôi nghĩ, tất cả đều là cái duyên. Xuất bản sách cũng là cái duyên. Đối với việc sáng tác mà nói, bản thân tôi cho rằng cho dù công việc nặng nhọc cỡ nào thì cũng đều không khó bằng việc sáng tác. Mỗi khi cầm bút lên là tôi lại cảm thấy như phải chịu đựng gánh nặng, ý tứ lộn xộn, rất khó hạ bút viết nhưng lại không có đường thối lui. Tôi thường xuyên mở căng mắt nhìn vào tờ giấy nháp hơn nửa ngày trời mà vẫn chẳng có lấy một giọt mực tội nghiệp nào rơi ra. Tôi cũng thường xuyên ngồi đến khô cả người mà vẫn chẳng có tí cảm hứng nào. Có nhiều lúc, tôi đem bày ra một chồng sách để tìm kiếm xem có tư liệu nào không. Tiếc thay dù cả một quyển từ điển dày cộp đã bị giở đến nát cả ra nhưng tôi vẫn không tìm được ý gì để viết. Tôi thực sự đã nếm trải nỗi thống khổ sâu sắc của việc sáng tác. Tôi càng thêm ngưỡng mộ những tác giả hạ bút thành văn, đặc biệt là người liên tục viết 104 cuốn sách - một đại tác giả mà khắp thế giới cũng là hiếm có - Sư Tôn. Công lực của Sư Tôn thật khiến người ta phải thán phục! Tôi thỉnh giáo Sư Tôn, xấu hổ nói: "Đệ tử không có năng khiếu trời phú, không hiểu làm sao có thể viết được. Có đủ thứ từ cách phân chia đoạn văn, cách dùng tu từ, lại còn công lực và kĩ xảo, những kiến thức sâu sắc vô hạn thế này thật khó mà nắm bắt." Sư Tôn hướng dẫn, viết văn là phải sống động, đôi khi không nhất thiết phải theo trình tự và thủ tục nào, chỉ cần tóm lấy một chủ đề, quyết định ý chính của cả bài, bám vào ý chủ đạo mà viết ra. Viết văn cũng giống như dùng "tâm" để viết ra vậy. Nói cách khác chính là phương thức dùng ý thức tâm linh thông qua biểu đạt bằng văn chương, đánh thức sự cộng hưởng! Với sự hướng dẫn của Sư Tôn, tôi được tiếp thêm niềm tin lớn lao. Tôi lấy hết dũng khí cầm bút, dùng hết tinh thần và tâm lực bắt đầu tập viết. Mỗi lần vắt kiệt hết ngọn nguồn ý tưởng để tập hợp lại thành một trang văn chương, tôi nhất định phải đưa Sư Tôn đánh giá. Sau khi được Sư Tôn chỉnh sửa xong, tôi mới phát hiện ra câu văn đã đẹp đến nhường nào, nhất là khi sửa dù chỉ một chữ trong bài thơ là có thể ảnh hưởng đến toàn bộ ý tứ đẹp đẽ ẩn giấu trong đó. Do vậy tôi càng cẩn thận chau chuốt, trong lúc tập viết cũng đã có được tiến bộ. Tôi viết Liên Hương Tùy Bút phải đặc biệt cảm ơn Chân Phật Báo. Tờ báo đã cho tôi cơ hội có được một "cột đặc biệt" để rèn luyện bản thân, hơn thế nữa còn giúp tôi kinh nghiệm được việc "trải qua phấn đấu để có được niềm vui, bằng viết văn mà đi vào thiền định, hưởng niềm an lạc của Phật pháp". Đây là điều mà không bút mực nào có thể mô tả giúp hình dung được. Đồng thời tôi cũng cảm ơn Tăng Văn Long sư huynh ở phía sau đã thu xếp mọi việc giúp cho xuất bản sách. Thực sự, Liên Hương Tùy Bút toàn bộ đều nhờ có sự gia trì của Sư Tôn. Người tôi cần cảm ơn nhiều nhất chính là Sư Tôn. Tôi hy vọng rằng thông qua ngòi bút của mình, với tất cả sức lực của mình tôi mong kết nối từng bông từng bông hoa sen lại thành một tràng hoa, rồi lại từ tràng hoa này tiếp tục kết nối với nhau trở thành một vạt hoa, để rồi trải đầy một thảm hoa sen dưới chân bạn.

Địa chỉ liên lạc của Chân Phật Mật Uyển Sheng-yen Lu 17102 NE 40th CT. Redmond, WA. 98052. U.S.A.

01. Bận rộn kết duyên

Hôm đó, ngày 20 tháng 12, tôi từ Seattle xuất phát hộ trì Sư Tôn đi Hồng Kông để tổ chức đại pháp hội Hộ Ma "cầu phúc tiêu tai trị bệnh" trong ngày 28, sau đó tới 31 tháng 12 sẽ rời Hồng Kông trở về Seattle. Tính ra chúng tôi chỉ lưu lại đúng 12 ngày. Trong 12 ngày vô cùng gấp gáp này, có thể nói, từ lúc chúng tôi bước xuống sân bay đã bắt đầu bận rộn, cho đến tận khi lên máy bay bay về Mỹ mới có thể coi là được nghỉ ngơi. Trên máy bay, tôi sắp xếp hành lý tùy thân xong, chỉ định nghỉ ngơi một lát. Không ngờ "việc nghỉ ngơi một lát" này lại giống như một lần "đại sạc pin" với giấc ngủ kéo dài 10 tiếng đồng hồ. Đến khi tôi mở mắt ra thì máy bay đã sắp hạ cánh xuống Seattle rồi. Tôi cảm thấy lần này máy bay sao mà bay nhanh thế, tôi còn chưa ăn được bữa ăn nào trên máy bay cơ mà, làm sao mà đã sắp hạ cánh được. Lúc ở Hồng Kông, tôi trú tại khách sạn Lục Quốc, quận Loan Tử, phòng 2505. Số phòng cùng số điện thoại đều công khai cho mọi người biết. [Loan Tử: tiếng Quảng Đông là WanChai - một quận ở Hồng Kông.] Mỗi sáng đều có khoảng 105 đệ tử xếp hàng đến thỉnh giáo Sư Tôn để hỏi việc. Sau vài ngày, tổng cộng đã có hơn 1000 người đến hỏi việc. Sư Tôn hỏi việc thì ngay lập tức sẽ có linh nghiệm. Bên cạnh Sư Tôn có bốn vị hộ pháp giúp đỡ, là Liên Hoa Thường Trí, Thường Nhân, Liên Mãn, Liên Bảo. Tôi phụ trách các vấn đề liên quan đến tổ chức Chân Phật Tông, ví dụ như trưởng các Phật đường đến báo cáo, các Thượng sư hoằng pháp báo cáo, hoặc là bàn bạc việc hoằng pháp của Sư Tôn năm nay, năm tới, giải quyết các vấn đề lên lộ trình cùng những việc linh tinh khác. Tôi luôn luôn phải cẩn thận nghe mọi người nói, sau đó dựa vào việc đã theo Sư Tôn nhiều năm, học được kinh nghiệm tổ chức sắp xếp ra sao để chỉ đạo họ, giúp phát triển những hoạt động chính yếu và việc hoằng pháp của các Phật đường. Cuối ngày tôi sẽ tổng kết mọi chuyện và tóm gọn lại thành vấn đề chính để báo cáo với Sư Tôn. Bên cạnh đó, điện thoại trong phòng tôi từ sáng đến tối đều kêu không ngừng nghỉ. Tất cả đều dùng điện thoại này để liên lạc tổ chức sắp xếp các đơn vị pháp hội, và tôi cũng phải khéo léo trả lời mỗi cuộc điện thoại gọi đến. Có một vài đồng môn rất muốn đích thân mời ăn cơm, thành ý của họ chúng tôi cũng hiểu được. Tuy nhiên chúng tôi cũng không được tự do thoải mái, nhiều lúc chỉ muốn được tự do ăn một bát mì với nước lèo nhạt thôi cũng không thể. Mỗi bữa cơm của chúng tôi đều là các bữa ăn lớn với cả trăm người! Có rất nhiều người không biết rằng, từ lâu rồi Sư Tôn trong nhiều bữa ăn chỉ ngồi nhìn, một miếng cũng không ăn nổi! Sau đó Sư Tôn sẽ giải thích là đã ăn tạm một chút rồi. Thêm nữa, hàng ngày chúng tôi đều nhận được một chồng thư và văn kiện gửi đến, do vậy cũng vô cùng bận rộn đọc và trả lời thư. Bốn vị hộ pháp giúp đỡ Sư Tôn ngày nào cũng đều trả lời thư đến nửa đêm 2 giờ sáng, thực sự là rất vất vả. Nói tóm lại, những lần chúng tôi đi hoằng pháp ở nước ngoài đều vô cùng tất bật, mỗi ngày chỉ ngủ được 3-5 tiếng, thời gian khác đều bận rộn không ngơi nghỉ. Tôi nghĩ, nếu như tôi liên tục phát tướng ra giống như các Abasang, thì chỉ cần đi ra nước ngoài trở về là lại biến thành một cô gái thon thả ngay, giảm cân miễn phí, kể cũng không tệ ha! [Abasang: tiếng Đài Loan, chỉ những người phụ nữ già béo phốp pháp.] Lần này ở Hồng Kông thấy mọi người thật thành tâm, từ khắp nơi trên thế giới hội tụ về tham gia pháp hội, thật khiến người ta vui sướng và cảm động. Có một số đệ tử lần đầu tiên ngồi máy bay, một số không quen đi xa nhà, và một số người già đi xa nhà vượt qua các bất tiện của mình. Lại có nhiều đồng môn nhiều năm không gặp cũng đến ủng hộ pháp hội. Tất cả đều nhận được lợi ích to lớn. Tôi nhìn thấy mọi người tươi cười, dáng vẻ cực kì sung sướng, ai cũng thể hiện sự hòa hợp cùng tinh thần đại đoàn kết. Chân Phật Tông đúng là một tông phái chiếu rọi ánh sáng quang minh. Cuộc đời là những chuỗi ngày bận rộn. Mỗi người lại bận rộn không giống nhau. Có người bận rộn với những việc thường ngày. Có người bận rộn với việc tu hành. Nhưng chúng ta cần quán xét sự bận rộn này có ý nghĩa hay không. Nếu có thể lấy chân lý làm mục tiêu theo đuổi thì có thể từ từ xa rời thế tục. Nếu lấy việc thế tục làm trọng thì sẽ ngày càng rời xa chân lý. Rời càng xa chân lý, bản tính tự mê lầm, cuối cùng sẽ khó quay đầu lại. Hoằng pháp độ chúng sinh là một công việc vất vả, nhưng niềm vui trong cái vất vả này lại vô cùng tận. Có người hỏi tôi: "Sư Mẫu cho rằng thu hoạch lớn nhất trong đời người là gì?" Tôi đáp: "Ánh sáng Đại Nhật Như Lai chiếu rọi khắp nơi, Liên Hoa Đồng Tử hiển hiện biến hóa vi diệu cùng sự liên thông năng lực của ngài với chư vị đại thần tiên, chữa trị bệnh tật của chúng sinh hay gánh vác thiên tai của nhân gian. Tôi đã chứng kiến bao việc tai qua nạn khỏi, thấy việc nào cũng đều có sự thị hiện chịu (nghiệp) thay, thực sự ngoài sức tưởng tượng." Thế nên, tôi cảm thấy vui mừng cho mọi người. Niềm vui mang lại chính là thu hoạch lớn nhất. Nhân đây xin cảm ơn tất cả những đệ tử của Phật đã tham gia và hộ trì cho pháp hội. Công đức vô lượng! Tháng 2 năm 81 (*) (Tháng 2/1992)

02. Nâng niu duyên nghiệp

Người tu hành phải biết trân quý duyên nghiệp, bất luận đó là thiện duyên hay ác duyên. Chỉ nhờ như vậy mới được tăng thêm thượng duyên. Trong kinh, bậc trí huệ đệ nhất Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có nói: "Văn Thù gặp duyên nghiệp giống như có được thầy." Có thể nói rằng mỗi duyên nghiệp đều là vị thầy giáo huấn chúng ta. Có thể nói rằng, như học sinh nghe lời thầy giáo, như hiểu được tùy duyên mà thuận theo. Vậy là vui nhất. Mối quan hệ giữa người với người đều dựa trên duyên phận cùng sự tương trợ lẫn nhau, có duyên sẽ hợp, vô duyên sẽ tan. Cho dù "duyên cũng là hư không", nhưng chúng ta ở tại nhân gian thì vẫn phải dựa vào pháp duyên để tu hành và đạt được thành tựu.

03. Thiện và ác

Có người hỏi tôi: "Phật coi chúng sinh là vô thiện vô ác." Như vậy thì định nghĩa thiện ác thế nào? Nếu vậy thì làm việc thiện và tạo điều ác có sự khác biệt gì?" Tôi đáp: "Ý nghĩa thực sự của vô thiện vô ác chính là nhân duyên quả báo bình đẳng không khác biệt". Nếu dùng con mắt thế tục để đánh giá thiện ác thì đương nhiên là có khác biệt. Nếu dùng nhân duyên quả báo để đánh giá thiện ác thì cơ bản là bình đẳng không khác biệt. Nếu chệch ra khỏi Phật đạo và đạo lý thông thường thì là ác, còn nếu phát tâm bồ đề, giúp người như giúp mình thì là thiện. Không hẳn là chẳng có định nghĩa thiện ác. Người tu hành hãy lấy thiện niệm và dùng tâm không phân biệt để đánh giá chúng sinh do vô minh mà tạo nghiệp. Từ đó sẽ nảy sinh tâm đồng cảm, tâm từ bi, và từ đó không còn phân biệt người tốt người xấu nữa.

04. Nhân quả

Có rất nhiều người nói rằng: "Tôi cả đời này không biết đã làm việc xấu gì? Cả đời này đến giờ mới gặp phải những chuyện khó khăn trắc trở thế này." Và kết quả sẽ thở ngắn than dài, oán trời trách người, cả ngày mặt ủ mày chau. Kì thực vận mệnh tốt hay xấu đều có mối liên hệ sâu sắc với nhân quả, do vậy trước tiên cần phải biết nhân quả từ đâu mà đến. Mọi người đều biết "trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu", tuyệt đối không có chuyện trồng dưa được lê, trồng đậu lại được táo. Thế nên kiếp trước tạo nhân gì, kiếp này chắc chắn sẽ nhận được quả báo. Kiếp này tạo nhân gì, cũng chắc chắn kiếp sau sẽ nhận quả báo. Đối với chuyện nhân quả chúng ta nên biết rõ như thế, chính là làm bất kì việc gì ắt sẽ có nhân quả. Trong kinh điển có nói "Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả". Câu này có nghĩa Bồ Tát rất cẩn thận không tạo nhân nghiệp, bởi vì ngài ý thức sâu sắc rằng mỗi nhân gây ra đều sẽ có quả báo. Chúng sinh sợ quả, là chúng sinh sợ hãi kết quả, thường khi nhận được quả khổ thì mới biết thế nào là khổ. Chúng ta nên làm người có trí huệ, cần hiểu nhân quả, đừng nên tùy tiện tạo nên nghiệp chướng từ thân, khẩu, ý.

05. Chúc mừng văn tập thứ 100 đại viên mãn

Trên thế gian, số người có thể viết 100 cuốn sách thực sự ít vô cùng. Hơn nữa, người có thể viết sách mà trong đó hàm chứa các phạm trù chân lí trí huệ vô thượng, Phật trong Phật, pháp trong pháp, rất có thể chỉ có người thành lập Chân Phật Tông Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn - Sư Tôn của chúng ta. Sư Tôn viết sách là để độ chúng sinh. Bởi muốn mọi người dễ dàng hiểu được Phật pháp, thâm nhập khái niệm, do đó ngài dùng bút pháp xảo diệu giải thích những vấn đề phức tạp bằng cách biểu đạt đơn giản. Dùng cách thức này để viết về Phật pháp tinh nghiêm Tam Tạng Thập Nhị bộ khiến cho ai ai cũng đều có thể từ sách mà phát sinh trí huệ. Những văn tập này là những cuốn sách quý, rất hiếm có trên đời, vô cùng trân quý, bao gồm tất cả triết lý nhân sinh và trí huệ tính Không của vũ trụ. Gặp lúc bối rối, sách sẽ cho bạn biết phương hướng. Gặp lúc ý loạn tình mê, sách sẽ cho bạn biết cách để thức tỉnh. Gặp lúc nghèo khó khốn cùng, sách sẽ cho bạn biết làm sao để tăng trưởng phúc phận. Gặp lúc vận mệnh tuyệt vọng sa sút, sách sẽ khiến bạn phát khởi lòng tin. Không chỉ như vậy, sách còn có thể chỉ dẫn bạn từ thế tục tu tới minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử, tức thân thành Phật. Những văn tập này thực sự là sách quý đời người không thể thiếu. Cuộc đời khó được, Minh sư khó tìm. Đời này chúng ta vô cùng may mắn khi có thể gặp được một vị Phật đích thực tại thế, khi có thể quy y Sư Tôn - một vị có pháp lực, có chứng lượng, có thể đích thân nhập Tì Lư Tính Hải, thành tựu vô thượng khắp các cõi Thiên - Địa - Nhân (Trời Đất - Người). Chân Phật Tông chúng ta có chín mươi vạn đệ tử đều nguyện tiếp tục truyền đạo, nguyện đời đời kiếp kiếp làm công việc hộ sự hộ pháp, giúp Chân Phật Mật Pháp có thể lưu truyền, phổ chiếu khắp thập phương pháp giới. Trong cuốn sách Văn tập thứ 100 Sư Tôn có hỏi "Kết thúc của cuốn văn tập này là gì?" Đáp án là cơ bản không có đáp án, kết thúc chính là vĩnh viễn không có kết thúc. Đúng vậy, mãi mãi không có kết thúc. Đệ tử Chân Phật sẽ tiếp mãi không dừng, truyền từ đời này sang đời khác, tiếng thơm vạn năm truyền lại cho con cháu, không bao giờ bị lãng quên. Chín mươi vạn đệ tử Chân Phật Tông chúng ta hãy cùng chung tiếng nói, tất cả hoan hô, ngợi ca đến mây xanh: "Văn tập thứ 100 đại viên mãn!" Tháng 4 năm 81 (Tháng 4/1992)

06. Khảo nghiệm

Có đồng môn phàn nàn với tôi về chuyện chồng ngoại tình nên vô cùng đau lòng, không biết phải làm gì. Lúc đầu cô vốn có một gia đình hòa hợp mỹ mãn, giờ bỗng chốc sắp tiêu tan. Cô hy vọng tôi giúp đỡ, khuyên răn cô. Tôi nói: "Chuyện vô thường xảy đến quá nhanh không cách nào ngăn chặn được, trở tay không kịp, thật khiến người ta phải thở dài. Biểu hiện của chồng chị, theo cách nhìn của thế gian thì không đúng, nhưng xét theo nhân duyên mà nói thì đây chỉ là một định duyên tạm thời mà thôi! Hãy xem như chuyện này đến để khảo nghiệm mình đi. Hãy thử đứng ở góc độ người khác để xem xét chồng chị. Anh ta cũng đang đối mặt với khảo nghiệm, đang cân nhắc xem làm sao có thể dùng Phật pháp viên mãn hợp nhất để đối diện với vấn đề gia đình và bạn gái. Trên phương diện tình cảm, anh ta chắc chắn là cũng khó chấp nhận, rất đau khổ. Chị phải thông cảm với anh ta, tội nghiệp cho cảnh ngộ của anh ta, giúp đỡ anh ta sớm vượt qua cuộc khảo nghiệm này mới đúng. Khảo nghiệm có ý nghĩa gì? Chính là khi đối mặt với sự việc vốn không thể chấp nhận được mà vẫn có thể giữ được thái độ ôn hòa để tiếp nhận. Hơn nữa còn có thể dùng trí huệ để dung hòa nó, xem như chuyện bình thường. Bước từng bước vững chắc với niềm tin kiên định, Phật Bồ Tát sẽ gia trì cho cô, nhất định sẽ giải quyết được việc dễ dàng."

07. Đúng và sai

Một số người cho rằng hễ phạm lỗi lầm thì xin lỗi là xong chuyện. Tuy nhiên hết lần này tới lần khác, phạm lỗi cả trăm lần thì lời xin lỗi cũng chỉ là nói cho xong thôi. Cũng có người quen biết sâu với tôi luôn luôn cho rằng bản thân mình vĩnh viễn không sai lầm, đều là người khác sai. Kiên quyết muốn người khác phải xin lỗi mình, tuy nhiên khi không có được lời xin lỗi của người khác thì lại thù hận cả đời! Khi giải quyết các vấn đề trong cuộc sống thường phát sinh chuyện tôi đúng anh sai, tôi sai anh đúng. Chỉ cần chúng ta không truy cứu đúng sai, lại có chút tấm lòng bao dung để tha thứ, nghĩ nhiều hơn cho người khác, quan tâm nhiều hơn đến ưu điểm thì sẽ không nhìn thấy những mặt sai, lập tức có thể cùng với người ấy tương trợ dung hòa. Trong quá trình tu hành khó tránh khỏi sai lầm. Sợ nhất chính là sai mà không biết hối cải, sai mà không biết sai, tạo ra nghiệp chướng, khi đó sẽ là tồi tệ nhất. Biết sai để sửa mới có thể tinh tấn được. Nếu có thể đem mọi sự việc phát sinh xung quanh (dù đúng hay sai), quan sát nhân quả sinh ra thế nào, dùng tâm bình đẳng để xem xét ra sao, thì khi đó đúng sai cũng sẽ không khởi lên tác dụng gì trong tâm cả. Phải làm thế nào có được tâm bình tĩnh an ổn để tu hành? Tôi nói: việc quá khứ đừng nhắc lại, nói nhiều cũng không ích lợi gì. Nói nghìn câu vạn lời cũng chẳng bằng một câu: A Di Đà Phật!

08. Chứng ngộ

Có vị tên Chu Chung Huân, là một đệ tử có pháp hiệu Liên Tiếp. Ông ấy là một trong bảy vị bác sĩ giỏi của khoa phụ sản tại thành phố Cao Hùng, hành nghề y đã được 20 năm. Bình thường ông tu pháp rất tinh tấn, mỗi ngày đều đọc kinh sách, đặc biệt là nghiên cứu sách của Sư Tôn, yêu thích đến mức không thể rời xa. Ông có niềm tin vô cùng kiên định đối với Căn bản Thượng sư mà mình đã quy y, chưa bao giờ ngừng tu trì Chân Phật Mật Pháp. Có lần trong bữa tiệc lớn, vị đệ tử này kể chuyện với Sư Tôn: Có một hôm, bạn học của vị đệ tử đột nhiên đến thăm, cố ý đưa đến một vị giáo sư giảng dạy Phật học nổi tiếng của Hiển giáo, Pháp sư XY. Đệ tử thấy Pháp sư đến thì cũng cung kính làm lễ. Pháp sư hỏi: "Ông quy y ai?" Đệ tử nói tên một vị Pháp sư. Ông ta nói: "Tốt lắm tốt lắm." Đệ tử lại nói: "Tôi cũng quy y Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn." Ông ta nghe xong, lúc đầu cười nhếch mép, nhưng rồi lập tức căng thẳng kéo đệ tử xuống và nói: "Ông quy y nhầm người rồi. Lư Thắng Ngạn không phải là Pháp sư, ông ta vẫn chưa thọ tam đàn đại giới, ông ta nói chuyện thần thông cũng là bậy, ông ta cái gì cũng đều sai hết." Đương nhiên, vị đệ tử bác sĩ này hỏi lại ông ta rất nhiều pháp Mật giáo, ông ta đều không biết trả lời thế nào, lại còn tức khí bỏ đi. Sư Tôn rất từ bi, quan sát căn cơ mà dạy, ngay tại bữa tiệc đã giảng cho hơn mười vị đệ tử khác cùng ngồi ở bàn ăn đó về vấn đề nói trên. "Lư Thắng Ngạn không phải là Pháp sư." Đáp: có pháp tất có sư (thầy). "Ông ta chưa thọ tam đàn đại giới." Đáp: thời đại của Phật Thích Ca Mâu Ni, căn bản là chẳng có tam đàn đại giới, giới này là từ những cải biến trong Phật giáo Trung Quốc mà có. Ngoài Phật giáo Trung Quốc ra, Phật giáo nơi khác không có ai bị điểm giới thành sẹo, Mật tông Tây Tạng cũng chẳng có ai bị điểm giới thành sẹo cả. "Nói chuyện thần thông là bậy." Đáp: Phật Thích Ca Mâu Ni khi sinh ra chân đã dẫm lên hoa sen, mỗi bước đi là sinh ra hoa sen, hóa hiện thần thông, sau đó cũng dùng thần thông để cứu thế, do vậy có nghìn lời thỉnh cầu thì có nghìn lần ứng cứu. Nghe xong những lời giảng của Sư Tôn, trong lòng tôi cũng có chút cảm ngộ. Tôi nhận thấy rằng cho dù kiến thức Phật học có uyên bác đến mức nào, cho dù xuất gia từ nhỏ đến tận khi già, hay kể cả dù có giỏi giảng dạy Phật học, nếu không thực tu thì chẳng có cách nào đạt được chứng ngộ chân chính. Nếu chỉ đọc kinh sách, đem theo kinh sách, hướng dẫn người khác hiểu rõ kinh sách, thì cũng chỉ là người "biết" mà không "tu", vẫn không có cách nào đạt đến những chân lý thâm sâu nhất của thực hành pháp. Vì thế, lý thuyết pháp và thực hành pháp đều cần khai ngộ, mới là chứng ngộ chân chính.

09. Chúc mừng Thánh đản Liên Sinh Hoạt Phật

Ngày 18 tháng 5 âm lịch, một ngày trong 365 ngày, chính là ngày thù thắng vĩ đại vô cùng quan trọng, cũng là thời khắc mà người, trời, thập phương pháp giới đều cùng tung hô. Đây chính là ngày đản sinh của Liên Hoa Đồng Tử. Chúng ta đều biết, khởi đầu của nhân duyên này là từ Đại Nhật Như Lai, Phật Nhãn Phật Mẫu, Liên Hoa Đồng Tử, Liên Sinh Hoạt Phật. Tây phương cực lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì chính là hóa hiện từ hai mắt của Phật Nhãn Phật Mẫu. Trong đó Liên Hoa Đồng Tử cũng là biến hóa thân của Phật Nhãn Phật Mẫu. Liên Hoa Đồng Tử lại hóa thân thành Liên Sinh Hoạt Phật. Nguồn gốc truyền thừa đặc biệt này đã thu hút vô số chúng sinh mong muốn được quy y, công đức của việc này là vô lượng vô biên đó! Sư Tôn đã gặp rất nhiều nhân duyên, thọ giáo nhiều vị thầy, chính bản thân cũng được Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí, được Phật A Di Đà tin cậy giao nhiều trọng trách, được Bồ Tát Di Lặc ban cho đội hồng quan, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy mật pháp. Nhân duyên với đại pháp này chính là thời đại của Liên Hoa Đồng Tử cứu độ chúng sinh. Ứng hóa của Liên Hoa Đồng Tử dùng pháp thân biến hiện khắp pháp giới, không nơi nào là không có nguyện lực của ngài tồn tại. Trong tất cả chúng sinh và thiên giới quốc độ luôn luôn chuyển động pháp luân, vô cùng diệu kì. Do nhân duyên đại sự này, ngày đản sinh của Liên Sinh Hoạt Phật là vô cùng quan trọng! Trong bài chúc mừng sinh nhật hôm nay, có 100 vạn đệ tử đồng loạt tụng Chân Phật Kinh, tu Chân Phật Mật Pháp. Mọi người cùng có chung ý niệm và lời chúc phúc. Nguyện: Liên Hoa Đồng Tử Phật quang luôn phổ chiếu. Nguyện: Sư Tôn sức khỏe an khang, thường chuyển pháp luân, mãi trụ thế gian. Tháng 6 năm 81 (Tháng 6/1992)

10. Tu không chậm trễ

Đời người chúng ta đều nằm trong các giai đoạn, từ lúc còn nhỏ, đến thanh niên, trung niên, rồi tới lão niên. Có thể nói lúc còn nhỏ cuộc sống trong trời đất rất vô tư, lúc thanh niên thì cầu học vấn, còn lúc về già thì thể lực trí lực lại suy yếu dần, phải nghỉ hưu dưỡng lão. Vì thế giai đoạn trung niên là lúc tinh hoa nhất, là giai đoạn có thể thành tựu toàn bộ sự nghiệp. Có câu nói: "Nếu đến 45 tuổi sự nghiệp vẫn chưa thành, thì bạn hãy buông bỏ đi, không cần phải cố gắng thêm nữa", ngụ ý sau 45 tuổi là đã bước sang ranh giới của tuổi già. Lúc này thể lực trí lực đều không bằng thanh niên, cơ hội thành tựu cũng đã bỏ lỡ, tốt nhất là chấp nhận vận mệnh, giữ lấy hoàn cảnh bình an hiện tại thôi! Tương tự trong quá trình học pháp cũng vậy, tốt nhất là khi ngoài 20 tuổi bắt đầu học ngồi thiền, nhập định, tinh thần dễ tập trung, thể lực tốt, ngồi thẳng được, trung khí đủ, thân thể khỏe mạnh trí lực tốt, rất dễ học pháp. Sư Tôn cũng từng dạy rằng: vào lúc thanh thiếu niên, cần đọc nhiều nghe nhiều, ngoài 20 tuổi liên tục cho đến trung niên là thời kì hoàng kim để tu học nhập định, lúc già tốt nhất là dựa vào sức mạnh của việc đọc kinh trì chú, nhất tâm bất loạn cầu vãng sinh. Nói như vậy thì mỗi giai đoạn của đời người đều rất quan trọng, tùy vào căn cơ đọc nhiều nghe nhiều thế nào để mà đi sâu vào thực tu. Lúc già không thể lấy lý do là già rồi để ngừng và buông bỏ, càng phải nỗ lực bước tiếp, khích lệ bản thân để bắt kịp với đội ngũ ở Ma Ha Song Liên Trì.

11. Tu hành không tinh tấn như cây không gốc

Sự sinh trưởng của cây cần dựa vào gốc rễ để hút nước và chất dinh dưỡng. Từ gốc chất dinh dưỡng sẽ chuyển đi đến thân cành lá, cuối cùng đơm hoa kết quả. Gốc rễ là nguồn sống của cây, nếu không có gốc rễ cây chắc chắn sẽ chết. Đã lâu Seattle không có mưa, có nguy cơ thiếu nước. Mọi hộ gia đình đều bắt đầu ý thức dùng nước tiết kiệm, hạn chế không tưới nước cho cây cỏ và rửa xe. Bắt đầu xuất hiện hiện tượng cây cỏ bị héo, nhưng tôi phát hiện ra trong thời kì cây không được tưới nước tương đối dài này, hoa cũng vẫn nở nhiều như trước. Cho dù cỏ khô úa thì hoa vẫn sống, cây vẫn đứng vững như thường, khiến tôi nghĩ đến ý nghĩa của "gốc rễ". Gốc rễ của loài cây đó đối diện với thử thách khô hạn, trời không mưa, con người không tưới nước, lại phải chịu đựng ánh mặt trời thiêu đốt. Nhưng gốc rễ vẫn có thể giữ vững tinh thần, vẫn giữ lấy trách nhiệm, lại gia tăng nỗ lực, tinh tấn sinh trưởng, từ trong đất rộng hấp thu độ ẩm và chất dinh dưỡng, kiên nhẫn tích lũy, khiến cho bản thân cây tiếp tục lớn lên. Tinh thần phấn đấu của gốc rễ rất đáng cho con người học tập. Có câu "cây cao chẳng ngại gió rung" ngụ ý những người tựa cây cao có gốc rễ sâu, vững chắc kiên cường thì dù sóng to gió lớn cũng không thể ngã được. Cho nên tu hành, tu pháp phải từ cái gốc vững chắc mà tu lên là cực kì quan trọng. "Tu hành không tinh tấn, giống như cây không gốc." Tinh tấn là động lực gốc để thành công. Hãy xem những vĩ nhân tự cổ chí kim, thành công của họ không phải ngẫu nhiên, chính là nhờ có tinh tấn mà đạt được. Chúng ta làm bất kì việc gì hoặc tu hành đều cần chắc chắn giống như gốc rễ, tinh tấn không ngưng nghỉ, tạo cơ sở vững chắc, tự nhiên sẽ khai hoa kết quả và có được thành công.

12. Chúc mừng thành lập biệt thự Cầu Vồng

Vào một ngày đã được trông đợi từ rất lâu. Ngài từ bi xuất hiện ở nơi ngọn núi đó. Vòng tròn ánh sáng bảy sắc tráng lệ làm mê hoặc toàn bộ hư không. Níu giữ những sợi dây tình cảm của con người. Giống như từ mặt đất mà nở rộ. Lại cũng giống như từ không trung mà nhẹ rơi. Một sức mạnh thần bí kéo đi. Khiến chúng ta tiến vào cảnh giới của thần thánh. Thiên mã bên trái. Quý sơn bên phải. Viễn cảnh từng hàng bày ra. Lưng dựa núi cỏ mao. Nghìn trăm tỉ vạn hóa thân. Chư Phật Bồ Tát trang nghiêm. Tây phương cực lạc thế giới. Hóa hiện Ma Ha Song Liên Trì. Thực tại ôi đẹp làm sao! Phật Bồ Tát phóng ánh sáng bảy sắc. Truyền thừa thành tựu hóa hồng quang. Oa! Đó cũng là dấu hiệu của Chân Phật Tông. Tôi nhớ mãi, mau mau hướng về nơi cầu vồng. Tháng 8 năm 81 (Tháng 8/1992)

13. Cam Lộ của Long Vương

Mùa hè năm nay ở Seattle đặc biệt nóng, hơn nữa lại rất lâu rồi không mưa, chúng tôi dùng nước tiết kiệm đã được ba tháng rồi. Hầu như mỗi ngày mặt trời từ trên cao đều chiếu gay gắt, nóng đến mức Sư Tôn thường đùa: "Seattle và Đài Loan xem ra nóng như nhau, rốt cuộc thì nơi nào có thể làm cho ta cảm thấy mát mẻ đây?" Ngày 1 tháng 8 chúng tôi hoàn thành xong việc xây dựng biệt thự Cầu Vồng, có thể mở cửa cho đệ tử và các vị khách quý tại Seattle đến tham quan. Chúng tôi nghĩ: "Thời tiết nóng thế này, phải làm sao đây?" Tại buổi đồng tu Sư Tôn công khai nói: "Thỉnh cầu Long Vương vào ngày hôm đó, trước khi khai mạc ban cho một cơn mưa may mắn, khiến tất cả những vị khách đến được mát mẻ, được tắm một chút không khí vui vẻ, được đem theo một chút nước cát tường." Chính vào ngày hôm đó, chúng tôi đều cảm ứng thấy: Sáng sớm thức dậy. Mặt trời vốn dĩ nóng như lửa đã xấu hổ mà trốn sau những đám mây rồi. Mây từng đám từng đám tụ lại ở không trung phía trên biệt thự Cầu Vồng. Mưa rơi nhẹ như tơ, cũng nhanh chóng thành cam lộ. Gió thổi mơn man khiến người ta tinh thần thư giãn. Khiến mảnh đất này được trang hoàng đẹp như tranh vẽ. Có nhiều người nghe thấy: Thổi đại pháp loa. Giáng đại pháp vũ. Đánh đại pháp trống. Kêu đại pháp chung. Dịch nghĩa: Thổi vỏ ốc pháp. Mưa pháp rơi mau. Đánh trống đại pháp. Chuông pháp vang rền. Đây chính là sự sắp đặt kì diệu của Long Vương. Lời Sư Tôn thỉnh cầu đã ứng nghiệm.

14. Hồi đáp thư tín

Hành trình hoằng pháp ở nước ngoài trong năm nay của Sư Tôn đã được sắp xếp rất tỉ mỉ, mỗi tháng sẽ đi xa hoằng pháp một hoặc hai chuyến. Trước mắt đã đi Canada hai lần, San Francisco, Los Angeles, Chicago, Đài Loan, Hong Kong, tiếp theo sẽ là New York, Dominica, Singapore, Malaysia, v.v … Việc thường xuyên đi hoằng pháp ở nước ngoài khiến công việc của "công ty hồi đáp thư tín" không thể hoạt động đều đặn được. Thư tín ngay lập tức dồn lại thành những chồng cao như núi và có xu hướng mỗi ngày một cao thêm. Cũng chính vì thế nên một lần nữa, chúng tôi lại nhận được thêm rất nhiều thư gửi đến để kiểm tra thông tin (xem vì sao ko có trả lời). Thư tín chắc chắn không thể mất. Sư Tôn vì sao không trả lời thư của chúng ta? Vì sao lâu thế mà vẫn chưa nhận được thư trả lời? Do vậy công ty hồi đáp thư tín mỗi ngày đều phải tăng ca, số người tình nguyện giúp đỡ cũng đã lên tới hơn 20 người. Mọi người đều tận tâm tận lực làm việc. Kì thực cũng không thể trách người gửi thư đến để kiểm tra tình trạng thư trước đó. Bởi vì gửi thư gửi hàng, đến rồi đi cũng phải mất thời gian khoảng 2 tháng, đợi đến lúc nhận được thư thì cũng đã qua thời gian hiệu lực rồi. Nhân đây tôi muốn nói với mọi người, mặc dù thư trả lời đến chậm, nhưng thư gửi đến của mỗi ngày đều được mở ra để đọc vào ngày hôm đó. Hơn nữa mỗi lá thư cũng được chính Sư Tôn đích thân xem qua và còn trì chú gia trì nữa. Nếu có tình huống quan trọng, thì còn đặc biệt được làm pháp gia trì. Sư Tôn nói: "Mỗi một bức thư gửi đến đều là nỗi lòng của mỗi đệ tử. Tôi nguyện dùng sức mạnh hữu hình và vô hình để giúp chúng sinh mãn nguyện." Tôi cảm nhận rất sâu sắc tấm lòng từ bi vô lượng của Sư Tôn. Tháng 9 năm 81 (Tháng 9/1992)

15. Thời gian đáng quý

Ở Chân Phật Tông, những đệ tử già đã theo Sư Tôn nhiều năm đều cực kì hiểu thói quen làm việc của Sư Tôn, đó là luôn đúng giờ đúng hẹn. Một khi Sư Tôn đã hẹn ai rồi thì không bao giờ đến muộn. Trong cuộc sống hàng ngày Sư Tôn cũng rất đúng giờ, công việc cũng trở thành quy luật. Sư Tôn thường nói với tôi: Khoa học công nghệ mới nhất có thể làm ra một con thuyền chỉ trong 1 phút (thuyền nhỏ), nếu chậm 30 phút sẽ làm ít đi 30 con thuyền. Thời gian có thể sản sinh ra nhân tài Thời gian có thể cho chúng ta biết việc nên làm Thời gian có thể khích lệ tinh thần chăm chỉ của chúng ta. ….. Tôi nghe xong. Oa! Chỉ một lời nói thôi, liền đã thấy gấp gáp. Thời gian thực sự quan trọng, đến giờ tôi vẫn ghi nhớ tận đáy lòng. Người Mỹ cũng hiểu được tầm quan trọng của thời gian. Thường thường vốn phải tốn rất nhiều thời gian lái xe vòng quanh mới có thể đến bên kia núi, vậy là bất kể tốn bao nhiêu nghìn vạn tỉ đô la họ cũng phải xây đường hầm vượt núi, tiết kiệm được rất nhiều thời gian để làm việc khác. Người tu hành chúng ta càng phải hiểu sự quý giá của thời gian. Hãy cố gắng hết sức để sắp xếp chút thời gian mà đọc sách tu pháp, đừng nên lãng phí thời gian không cần thiết. Cố gắng hết sức để giảm thiểu các việc thế gian, làm nhiều hơn các việc có lợi ích chân chính cho chúng sinh. Bởi vì đời người ngắn ngủi, thời gian đáng quý trọng, hãy nhanh chóng rời xa thế tục, dùng tài năng thanh tịnh tu hành. Mỗi ngày tu hành thanh tịnh mới không còn chướng ngại. Tu đến không còn chướng ngại, cũng chính là đến gần đạo rồi.

16. Chúc mừng kỉ niệm 1 năm Chân Phật báo

Vào ngày kỉ niệm này, tôi đặc biệt nghĩ đến vị chủ tịch Chân Phật báo, Liên Hoa Mỹ Quyên (Thượng sư Liên Từ) cũng như các nhân viên khác. Tiền thân của Chân Phật báo vốn là Tạp chí Bồ Đề Chân Phật. Lúc Liên Hoa Mỹ Quyên từ Toronto, Canada chuyển đến Vancouver, thường hay đến Bồ Đề Đường tham gia đồng tu hội và tham dự công tác quảng bá pháp vụ. Trong nhiều lần tổ chức họp mặt, bà đã đưa ra nhiều đề nghị cho các vấn đề, xác định việc hoằng pháp quan trọng nhất là phải dựa vào tuyên truyền, đã đưa ra nhiều ý kiến xuất sắc, do đó mọi người bầu chọn bà ấy tiếp quản tạp chí. Bà ấy nói: "Tôi tốt nghiệp khoa ngoại văn trường Đại Học Phụ Nhân, ra nước ngoài sống đã hơn 20 năm. Đối với việc làm báo thì tôi là người ngoại đạo. Đây là tâm ý nhiệt thành và cũng là biểu lộ sự kính lễ với Căn bản Thượng sư, làm một chút việc ý nghĩa với tông phái để có thể đẩy mạnh Chân Phật Mật Pháp, quảng độ chúng sinh. Tôi kì vọng việc phát hành Chân Phật báo có thêm người giúp một tay, để có thể tạo ra một tờ thời báo chân chính đóng vai trò là công cụ đại diện cho Chân Phật Tông." Vạn sự khởi đầu nan, trong giai đoạn mới thành lập, Liên Hoa Mỹ Quyên cũng từng loay hoay khổ sở đối với các vấn đề như kinh phí, nguồn bài viết, rồi phát hành ra sao. Bản thân bà cũng lao tâm khổ tứ, hoàn toàn vì nghĩa vụ phục vụ, không nhận một đồng thù lao nào, lại còn tự rút tiền túi của mình ra để đi khắp nơi thu thập những tin tức liên quan đến Chân Phật Tông. Tới mỗi kì xuất bản bà lại viết bản thảo, sắp chữ, thường xuyên làm việc đến mức quên cả bản thân mình. Bà ấy còn nói: "Làm Chân Phật báo có ý nghĩa hơn làm các việc khác rất nhiều, do vậy bà sẽ từ bỏ công việc làm môi giới trước đây, chuyên tâm làm báo. Bởi vì làm những việc khác là chỉ lợi ích cho cá nhân, còn làm Chân Phật báo không những giúp chính mình tu hành mà cũng là quảng độ chúng sinh. Sự nghiệp to lớn này là liên tục không ngừng, có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, từng thời khắc không thể buông lỏng thư giãn." Ngày nay, con lăn của Chân Phật báo mỗi kì đều hoan hỉ xuất bản ra một con số đáng kể là 10 vạn tờ. Thành tích này chính là thể hiện trí huệ tuyệt vời của bà ấy. Năm vừa qua, tôi đọc Chân Phật báo có cảm nhận: Nội dung phong phú - có Seattle Lôi Tạng Tự, biệt thự Cầu Vồng, Chân Phật Mật Uyển, các tin tức về hoạt động của Chân Phật Tông khắp nơi trên thế giới, đọc mà thấy thật vui. Lấy điều cơ bản của căn bản truyền thừa làm trung tâm - mục tiêu chính xác. Bố trí trang báo - dễ dàng và nhanh chóng truyền đạt tin tức mới nhất đến hành giả Chân Phật. Kỉ niệm 1 năm thành lập Chân Phật báo khiến người ta thực lòng ngưỡng mộ, chủ tịch cùng nhân viên đều phát tâm khiến người khác cảm động, công đức vô lượng! Những độc giả của Chân Phật báo đều sẽ giống như tôi, cảm ơn các bạn (ở tòa soạn báo) đã âm thầm vun trồng, tạo phúc cho chúng sinh. Chúc Chân Phật báo tiền đồ vô lượng! Tháng 10 năm 81 (Tháng 10/1992)

17. Lời của thành tựu giả

Có đệ tử nói với Sư Tôn: "Con người ta thông thường lòng tự tôn rất mạnh mẽ, không thể tiếp nhận lời phê bình của người khác, chỉ cần có một chút mạo phạm cũng không cách nào tha thứ. Họ đều rất trọng thể diện, che giấu khuyết điểm của mình càng nhiều càng tốt, chỉ biểu hiện ra ưu điểm. Nhưng Sư Tôn hoàn toàn khác, trong lúc khai thị thuyết pháp thường tự chế nhạo bản thân mình, thậm chí mắng chính mình, hơn nữa còn ca ngợi người khác. Đây chính là điều tôi thích ở Sư Tôn, một khía cạnh rất đáng yêu." Sư Tôn đáp: "Chế nhạo bản thân, mắng chính mình, chính là dạy đệ tử thấy "mặt xấu". Đừng để ý đến những công kích, phỉ báng, lăng mạ từ bên ngoài, hãy xem chúng như "vô sự", tâm trạng sẽ không buồn chán, đêm đến có thể ngủ ngon." Sư Tôn đã phải chịu rất rất nhiều sự phỉ báng, không những coi chúng là vô sự mà còn cảm ơn chúng, dùng việc này làm hiệu quả tuyên truyền. Không bị chửi thì không nổi danh, càng bị chửi càng nổi tiếng, đệ tử quy y ngày càng nhiều. Tóm lại, Sư Tôn chính là ở trong sự phỉ báng mà trưởng thành. Sư Tôn lại nói: "Người khác công kích, phỉ báng bản thân tôi, chửi mắng cũng vẫn chẳng thể thành sự thật được. Tôi tự hiểu bản thân mình nhất, để sau này tôi sẽ viết một cuốn sách Phê bình Lư Thắng Ngạn, lấy hết toàn bộ những khuyết điểm của chính mình mà viết ra." Lúc đầu tôi nghe vậy cũng thấy hoảng hốt, sau đó dùng trí huệ ngẫm nghĩ khiến tôi lĩnh ngộ được đạo lí bên trong: Phàm phu có tâm phân biệt đặt chuyện, do vậy không thể hiểu được bản thân, tìm được tự tính. Tâm bất tịnh, nghiệp sản sinh, không thể cùng Phật ấn tâm được. Hoàn toàn hiểu bản thân, chính là "minh tâm kiến tính". Hành giả có "tự tính bản không", bị giết hại, phỉ báng, sẽ không âu sầu. Tôi nói với Sư Tôn: "Đại thành tựu giả dùng tài năng viết sách phê bình bản thân. Mặc dù bề ngoài là sách phê bình, thực chất chính là một cuốn sách chứng ngộ cảnh giới nội tâm cao nhất đó!"

18. Từ thiện cứu tế và Phật pháp

Nhiều người cho rằng từ thiện cứu tế chính là Phật giáo, kì thực không phải như vậy! Hành thiện chỉ đơn giản là mức độ "bố thí" thứ nhất trong "lục độ vạn hành", vẫn còn cách giáo nghĩa thâm sâu của Phật giáo rất xa. Do vậy từ thiện cứu tế không thể được coi là Phật giáo, chỉ có thể coi là một bộ phận của Phật pháp mà thôi. Mọi người đều có thể làm việc thiện, không nhất định phải là đệ tử Phật giáo mới có thể làm. Người theo đạo Cơ Đốc, đạo Thiên Chúa, Hồi giáo, Đạo giáo... cũng đều cổ vũ con người làm việc thiện, con người xã hội, cơ quan đoàn thể, giới giáo dục, học sinh hỗ trợ, hướng đạo sinh đều làm việc thiện mỗi ngày. Có những doanh nhân lớn không theo đạo Phật, họ cũng cứu tế bằng việc đóng góp những khoản tiền lớn. Chúng sinh đều có Phật tính, do vậy đều có bản tính lương thiện, thấy người đáng thương liền sinh lòng trắc ẩn. Thấy người gặp nạn đưa tay giúp đỡ, kẻ mạnh giúp đỡ kẻ yếu,… ví dụ những việc thiện như vậy. Đây là lẽ cơ bản của làm người. Mọi người đều biết "làm việc tốt chính là tu phúc". Khi đó tất cả công đức làm được đến đời sau sẽ được phúc báo. Theo mức độ mà nói, nhờ phúc lớn, bạn có thể lên được thiên giới hưởng phúc, nhưng phúc hưởng hết rồi vẫn sẽ phải sinh về lục đạo luân hồi. Từ thiện cứu tế không phải là phương pháp thoát khỏi sinh tử, chỉ là sẽ lên được cõi thiên thôi. Trong lục độ vạn hành pháp là "bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ", bốn thứ độ đầu vẫn là công phu ngoại tu, còn thiền định và trí huệ mới thuộc về nội tu. Ngoại tu là tu hành biểu hiện ra bên ngoài, nội tu là tu hành nội tâm, nội ngoại cùng tu mới là tu hành viên mãn. Hiện nay có nhiều loại báo chí, mở ra xem thử, đều là những bài báo cáo ca ngợi làm việc thiện, đăng lên người nào đã ủng hộ bao nhiêu tiền, người nào đi làm bao nhiêu việc thiện. Như vậy báo chí thiếu đi tính sâu sắc, chỉ là khích lệ rộng rãi tiền từ thiện của người khác, thay người khác đi làm việc thiện vậy thôi, thiếu đi việc hướng dẫn người ta làm sao để tu pháp cảnh giới nội tâm. Người hiểu được Phật pháp đọc những bài báo tương tự kiểu này sẽ có cảm giác về sự thiên kiến. Trong Phật pháp cũng sẽ nhận thấy công đức của việc tặng pháp lớn hơn tặng tiền rất nhiều, bởi vì tặng tiền chỉ là giúp đỡ nhất thời, còn tặng pháp có thể cho người ta dùng được muôn đời. Phật pháp viên mãn, không những cần cổ vũ người ta làm việc thiện mà còn cần chủ động giáo dục thực hành pháp nội tu, dựa vào tu khí, mạch, điểm, chứng đắc công phu của nội tu, đạt được thân, khẩu, ý thanh tịnh để còn dung nhập vào vũ trụ.

19. Giấc mộng đêm qua

Tăng tốc vượt qua đỉnh núi tham sân si. Thân nhẹ như lông vũ, lắc lư lơ lửng theo gió. Du ngoạn khắp ba mươi ba thắng cảnh thiên giới. Hỏi người nơi nào để quy y. Theo tiếng gọi của Liên Hoa Đồng Tử! Nơi sâu thẳm trái tim. Đã lưu giữ ghi nhớ danh hiệu của Ngài - tâm chú. Kết thành cảm xúc đời đời kiếp kiếp. Quán tưởng, trì chú, thiền định. Lúc nhỏ thích nhất chơi trốn tìm. Đã từng ở nơi bí mật trong tim. Nghênh tiếp Ngài, phóng đại quang minh, phổ chiếu thập phương. Namo A Di Đà Phật.

20. Bồ Đề Tâm cứu độ

Có câu hỏi: "Biết rõ một người tâm địa không thiện lương, bản tính ngạo mạn, miệng nói lời vô trách nhiệm, việc không ác không làm, liên tiếp tạo nghiệp, tội không thể tha. Khi người ác này sinh bệnh sắp chết, vào lúc cận kề cái chết, có nên cứu người đó không? Cũng như biết rõ người này, sau khi được cứu sẽ không biết ơn, mà chạy lồng lộn lên, biến thành kẻ làm bại hoại tổ chức, lại còn lấy oán báo ân, có nên cứu người đó không?" Có ý kiến cho rằng người không chút gì tốt đẹp kiểu này sẽ làm ô nhiễm mọi nơi, hung hãn như hổ, là người làm hại chúng sinh. Cứu hắn ta không giống việc cứu một con trùng nhỏ, cứu hắn ta chính là hại hắn ta càng gây thêm ác nghiệp. Phật pháp từ bi bình đẳng không phân biệt, chúng sinh gặp khó nhất định cứu độ, mặc dù chỉ còn một tia hy vọng vẫn thấy nạn là cứu. Giống như bác sĩ trong phòng cấp cứu của bệnh viện, chỉ tồn tại hai chữ "cứu người", không có suy nghĩ gì khác. Bất kể người bị trọng thương được đưa tới cửa cầu cứu là người tốt người xấu hay thậm chí là kẻ giết người, trước tiên cứu đã rồi mới nói. Người xấu được cứu có nhân duyên của việc được cứu, chúng ta cứu hắn ta, có nhân duyên của việc cứu hắn ta. Trên thế gian chính là cần có những con người xấu xa như thế tồn tại mới có thể thấy được Phật pháp từ bi vĩ đại. Cũng bởi vì có những người xấu như thế tồn tại nên mới phải cứu độ. Nếu ai ai cũng đều tốt, ai ai cũng thanh tịnh, vãng sinh tịnh độ, thế giới Ta Bà này không cần phải có Phật pháp nữa. Cuộc sống tựa như sân khấu, mỗi người đều diễn một vai diễn có nhân duyên quả báo bình đẳng, quan trọng tương đương nhau. Chỉ là mọi người trong quá trình diễn xuất có thanh tịnh hay ô nhiễm mà trở nên khác biệt. Xem xét kĩ tâm tình vở kịch đó, hiểu rõ ràng chú hề, kỹ đào, vai phụ, vai chính, trung thần, gian thần... chúng ta sẽ thấy các vai diễn của bọn họ, mỗi vai đều không giống nhau, kết quả cuối cùng: ác sẽ luôn có ác báo, thiện sẽ luôn có thiện báo. Cảnh giác bản thân, mọi điều ác không làm, chỉ theo đuổi mọi điều thiện, tự thanh tịnh ý nghĩ. Thiện mới vĩ đại làm sao!

21. Biệt thự Cầu Vồng nghe hiểu Phật pháp

Từ ngày 24 đến 30 tháng 11 tại biệt thự Cầu Vồng, Sư Tôn giảng kĩ lưỡng "nghi quỹ tu pháp hoàn chỉnh của Mật Giáo". Ngài dùng kinh nghiệm hơn 20 năm tu pháp của bản thân, không một chút giấu diếm, mô tả kĩ càng từng thứ từng thứ một. Dùng phương thức sống động, khế hợp chân lý với căn cơ của chúng sinh để dẫn dắt chúng sinh gia tăng lòng tin. Sư Tôn hiện thân thuyết pháp, lấy ví dụ thực tế để chứng minh, thực tu trên thực tế như thế nào. Sư Tôn liên tục khích lệ chúng ta: Phật cũng là từ người mà tu thành, cần thực tu, biến kiến thức thành trí huệ. Cần lấy tam nghiệp chuyển thành tam mật, tu đến khi ngang bằng với tam mật thanh tịnh của Như Lai, chuyển thành ngũ đại trí huệ của Phật, đó chính là "tức thân thành Phật". Sư Tôn lại dùng ngôn ngữ đơn giản dễ hiểu để giải thích vấn đề phức tạp, giải thích tâm yếu khẩu quyết, lại lưu ý pháp nào nên giảng. Mọi người đều có thể hiểu được. Sư Tôn giảng giải rất thẳng thắng trực tiếp về Tiểu thừa, Đại thừa, Mật thừa, về tính chất không thể tách biệt của tam thừa. Điều đó càng khiến mọi người hiểu được minh bạch rõ ràng về sự vĩ đại của Chân Phật Mật Pháp - là pháp hợp nhất toàn bộ, bao hàm mọi pháp, có thể trực chỉ minh tâm chứng ngộ thành Phật. Tôi nhận thấy Chân Phật Mật Pháp so với triết lý của tông giáo khác không có chút nào kém cỏi hơn. Thông qua lời giảng giải của Sư Tôn, ta sẽ thấy từ "thanh tịnh chú" đến "nhập Tam Ma Địa", mỗi cái đều có những ý nghĩa thâm sâu của nó. Còn về pháp quán tưởng khẩu quyết, làm sao để cùng Phật hợp nhất, thực sự là mật trong mật, kì diệu trong kì diệu. Vì muốn làm cho mọi người đạo tâm vững chắc, vì muốn mọi người sớm thành Phật, Sư Tôn phát lời thề nguyện (rằng các việc sau là thật): Khi 26 tuổi đã đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới "Ma Ha Song Liên Trì", mắt thấy tai nghe. Ngày 6 tháng 5 năm nay, cùng Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê, Phật thọ kí danh hiệu "Hoa Quang Tự Tại Phật". Mỗi lần tu một đàn pháp, đều có khí và ánh sáng tràn ngập bao quanh, hòa nhập vào hư không và hợp nhất với vũ trụ. Sư Tôn đã minh chứng đích thực ba điều này, nếu có một chút nào là giả thì nguyện sa vào địa ngục kim cương, vĩnh viễn không siêu sinh. Các đệ tử chứng kiến cảnh tượng này, nghe thấy lời thề nguyện lặp đi lặp lại này, không thể kiềm chế được mà cảm động đến rơi nước mắt. Các đệ tử Chân Phật Tông cần hiểu rõ sự khổ cực của Sư Tôn khi độ chúng sinh, cố gắng thực tu, thực chứng, thành tựu Chân Phật Mật Pháp, minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử, quang diệu tông môn. Tôi nhớ vị trưởng phái Mật tông mũ trắng, Kyabje Kalu Rinpoche từng nói: Liên Sinh Hoạt Phật là thành tựu giả bậc nhất trong việc dùng văn chương độ chúng sinh. Lại thấm thía sâu sắc rằng: Sư Tôn là người cống hiến vĩ đại nhất và chưa từng có cho Phật giáo đương đại. Tháng 12 năm 81 (Tháng 12/1992)

22. Tội và nghiệp

Từng có một lá thư gửi đến cầu Sư Tôn gia trì hóa giải kiện tụng, thư viết như thế này: "Tôi biết mình đã làm việc sai trái, hãm hại đối phương thiệt mạng, đến mức khiến người nhà điên tiết lên, bây giờ bọn họ đã kiện tôi ra tòa. Tôi cũng đã mời luật sư biện hộ, nhưng luật sư nói tôi nhiều khả năng vẫn sẽ phải đi tù. Bây giờ chỉ có cách cầu cứu Sư Tôn, hy vọng Sư Tôn đại hiển thần thông, pháp lực gia trì, chuyển bại thành thắng. Nếu có thể được vô tội, thân này được tự do, tôi sẽ quỳ gối khấu đầu cảm ơn, suốt đời cảm kích." Sư Tôn dựa vào thần toán, trả lời thư: "Ông chạy trốn khỏi kiếp nạn lại sợ họa vào tù. Giờ nếu gấp rút sám hối, niệm Phật, trì chú, Phật Bồ Tát từ bi sẽ gia trì cho ông, việc to thành nhỏ, việc nhỏ thành không có, nếu có phải đi tù thì cũng là vô sự." Ông ta lại viết thư trả lời: "Sư Tôn, ngài đã cứu rất nhiều người, vì sao không cứu tôi? Chỉ cần ngài dùng đại lực gia trì, thay tôi tu pháp hóa giải là coi như được tuyên phán vô tội. Tôi thực sự chưa sẵn sàng bị giam như vậy, cầu xin ngài…" Ông ta liên tiếp không ngừng viết thư đến cầu xin. Trong việc này, điều chúng ta nên nói cho ông ta hay là: Đã làm việc sai trái, phải dũng cảm nhận sai. Làm bất kì việc gì, cần nghĩ kĩ càng xem liệu có hại đến đối phương không, việc hại đến người thì đừng làm. Phải có quan niệm về nhân quả, ghi nhớ trong lòng, mới không dễ dàng tạo nghiệp. Phát lộ sám hối, tiêu tai giải ách, làm lại từ đầu. "Thần thông không bằng nghiệp lực", không phải Sư Tôn không cứu ông. Mời suy nghĩ cho cẩn thận. Trên thế gian này, mỗi người đều bị quấn chặt trong cuộc sống hiện thực nhiều phiền não, do bị "tâm thức" ràng buộc, bị "tâm dục" níu trói, không cách nào đạt được tâm thanh minh trong sáng. Chỉ tu hành học Phật mới có thể đem tam nghiệp chuyển hóa thành tam mật thanh tịnh: • Thân thanh tịnh -- trang nghiêm như Như Lai thiền định, nhất cử nhất động đều là "thủ ấn", là "thân ấn". • Khẩu thanh tịnh -- trang nghiêm như Như Lai mật ngữ, mỗi câu nói đều là "chú âm". • Ý thanh tịnh -- trang nghiêm như Như Lai ý mật, mọi suy nghĩ đều ở khắp thập phương pháp giới. Có thể lĩnh hội thâm sâu, kết hợp tu trì sẽ hiểu được vào ngục tù cũng chính là đạo lý của "vô sự".

23. Tâm tu hành vui vẻ

Ngày 4 tháng 11 năm 1992, nhóm của chúng tôi gồm Liên Hoa Thường Trí, Liên Hoa Thường Nhận, Liên Hoa Thiếu Đông, Liên Hoa Lệ Huệ và tôi. Chúng tôi đợi năm vị Thượng sư cùng hộ trì Sư Tôn đến đất nước Dominica hoằng pháp. Dù chỉ trong thời gian một tuần ngắn ngủi, nhưng những điều được mắt thấy tai nghe đã khiến tôi cảm nhận sâu sắc và thường nghĩ đến địa phương đa quốc gia độc đáo này. Điều khiến tôi chú ý nhất là cuộc sống con người nơi đây rất nghèo khổ. Do Phật đường Thường Minh nằm ở thủ đô đất nước nên chúng tôi cũng trú ngay tại thủ đô thần thánh của Dominica. Các đệ tử biểu thị lòng tôn kính đối với Sư Tôn, sắp xếp cho chúng tôi ở tại khách sạn 9 tầng loại cao cấp nhất ngay trung tâm thành phố. Tôi vào khách sạn, sắp xếp xong hành lý, mở cửa sổ nhìn ra bên ngoài liền vô cùng kinh ngạc! Ngay tại thủ đô mà có rất nhiều ngôi nhà thấp lụp xụp. Nhà cao tầng chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Ngược lại, cây dừa thì lại vô số. Từ việc này có thể thấy nền kinh tế của đất nước này không phát triển, kiến trúc xây dựng rất lạc hậu, không thể thúc đẩy mức sống của người dân, do vậy người nghèo rất nhiều. Sư Tôn nói: "Đứng ở tầng 9 khách sạn, ngắm nhìn và suy ngẫm về thủ đô của một nước đa quốc gia, thấy cảnh vật rất giống nông thôn Malaysia. Ở nơi đây cũng không có mùa đông, bốn mùa đều là mùa hè, chỉ cần hai bộ quần áo là có thể mặc đủ cả năm rồi. Nơi đây rất giống Đài Loan của 30 năm trước." Ở tại đất nước đa quốc gia này, Sư Tôn từ bi khai thị ba buổi, ngoài ra còn có một buổi truyền pháp, một buổi đại pháp hội. Mỗi lần đều có rất nhiều người vừa nhận quán đảnh và gia trì xong ngay tại đó có được "cảm ứng". Rất nhiều người giơ tay phát biểu, kể việc tu pháp thường ngày có được cảm ứng gia trì của dòng truyền thừa. Lại càng có nhiều người hơn nói: Liên Hoa Đồng Tử thị hiện thần thông, đi vào giấc mơ độ hóa những người đã quy y. Trong pháp hội, có người nhìn thấy ánh sáng bảy sắc bao phủ khắp đàn thành, Sư Tôn ở trên pháp tọa toàn thân tỏa kim quang, có hơn trăm người giơ tay chứng minh nhìn thấy "Phật quang giáng lâm", cảm ứng thực sự rất nhiều… Tôi chú ý thấy mặc dù hoàn cảnh sống nghèo khó, nhưng trên gương mặt họ có thể nhận ra: họ không cảm thấy khổ, ánh mắt họ vẫn lấp lánh rạng rỡ. Bất kể có bữa ăn hay không có bữa ăn, họ vẫn luôn hát ca nhảy múa, vô lo vô nghĩ. Hóa ra, con người ở đây đều hài lòng với những gì mình có. Họ chẳng theo đuổi danh lợi, không bị khuất phục bởi hoàn cảnh chướng ngại, vẫn giữ được tấm lòng thuần khiết thiện lương, sống vui vẻ, tu hành vui vẻ. Chẳng trách, họ cảm ứng được rất nhiều. Người tu hành chính là phải bài trừ những áp lực bên ngoài, thường giữ được tâm hỷ lạc, dùng tâm hỷ lạc mà tu hành sẽ dễ nhập vào cảnh giới thanh tịnh, hóa thành bổn tôn, nhập ngã ngã nhập, sẽ có được vũ trụ, từ đó mới có thể từ bi tế thế khắp nơi. Tháng 1 năm 82 (Tháng 1/1993)

24. Tình nghĩa của đệ tử Chân Phật

Lần này tôi theo Sư Tôn đi nước ngoài hoằng pháp một tháng. Ngoài việc tổ chức đại pháp hội Hộ Ma ở sân vận động Hung Hom ở Hong Kong, đại pháp hội ở IMM Singapore, chúng tôi còn đến Viên Chứng Đường, Viên Học Đường, Viên Hỷ Đường và Hồng Sơn đồng tu hội ban khai thị. Thời gian ba tuần còn lại chúng tôi đều ở Malaysia đi khắp nơi hoằng pháp, đi khắp toàn bộ đất nước từ cực Tây tới cực Đông. Ở Malaysia làm bốn lần đại pháp hội, có hơn bốn vạn người tham dự, ở Kuala Lumpur, Penang, Sibu, Tawau (mỗi nơi này cách nhau khá xa, đều phải đi máy bay). Chưa kể những buổi gặp gỡ khai thị lớn nhỏ cũng phải đến 50 lần, gần như mỗi lần vào bữa ăn đều phải khai thị. Mọi người rất muốn được nghe lời nói của Sư Tôn, thấm đẫm pháp ngữ, từng lời từng lời đều in dấu trong tim. Chân Phật Tông tại Malaysia có khoảng hơn 50 phân đường và đồng tu hội, có hơn 20 vạn đệ tử quy y. Có tới 90% số đệ tử lần đầu tiên được nhìn thấy Sư Tôn. Vào thời khắc nhìn thấy Sư Tôn, họ vui sướng phấn khích muôn phần, người nào người nấy vỗ tay vừa gọi, vừa nhảy, vừa hét: "Chào Sư Tôn! Sư Tôn, con ở đây!" Đám đông vây quanh bốn phương tám hướng, ồn ào náo nhiệt, cảnh tượng làm người ta cảm động, làm cho Sư Tôn không biết phải nhìn theo hướng nào, không biết phải nhìn vào đệ tử nào, cứ theo những tiếng kêu gào mà đi theo thôi. Tình cảm nồng nhiệt của họ từng đợt từng đợt trào dâng, nhiệt tình như sóng biển liên tiếp xô vào đập lớn, hết lượt này đến lượt khác. Lúc đó tôi nhìn thấy Sư Tôn niệm chú âm, chú âm này nhanh chóng nhập vào biển người, len lỏi vào trong tim của mỗi người, tương ấn tâm với tâm, hàng triệu lần cảm tạ, không lời nào tả xiết. Những người đệ tử này chạy đến Sư Tôn đảnh lễ, ngẩng đầu lên nhìn Sư Tôn, thở hổn hển, nói không thành tiếng, cảm xúc đầy ứ trong tim, cảm giác không thể nói ra thành lời, nước mắt tuôn rơi. Mọi người ở gần đó cũng đều cảm động sâu sắc. Lúc chúng tôi ở trong phòng chờ VIP tại sân bay Tawau, có đệ tử đảnh lễ Sư Tôn xong thì nói: "Sư Tôn, xin ngài cho con nhìn kĩ hơn một chút!", sau đó đứng trang nghiêm cứ thế nhìn Sư Tôn rất lâu, đơn vị tổ chức phải nhắc ông ta rằng thời gian có hạn, vẫn còn có rất nhiều đồng môn đang xếp hàng ở ngoài chờ đến lượt mình vào nhìn Sư Tôn cho rõ. Trong hành trình cuộc đời tôi, dù gặp phải những cú sốc và những nỗi buồn to lớn, chúng rất khó làm tôi khóc. Nhưng lần này đi Malaysia, tôi đã khóc nhiều lần. Cảm nhận được sự nhiệt tình của mọi người khiến tôi cảm động phát khóc. Dòng người đổ về pháp hội chật cứng cả địa điểm, tạo thành sức mạnh to lớn làm cảm động Chân Phật Mật Pháp đến mức khiến người ta rơi lệ. Chư Phật Bồ Tát, Kim Cương hộ pháp thường xuyên gia trì bảo hộ, ánh sáng cầu vồng lan tỏa khắp nơi, tiếng sấm vang vọng khắp đất trời, cảm động muốn khóc. Tinh thần và sự kiên trì hoằng pháp của Sư Tôn, công đức viên mãn thù thắng, làm sao không khiến người ta cảm động đến chảy nước mắt được! Nhân đây cảm ơn các đơn vị tổ chức và các đồng tu Chân Phật, thực lòng cảm tạ các bạn đã hộ trì! Tháng 2 năm 82 (Tháng 2/1993)

25. Cơn sốt sầu riêng

Mọi người đều biết, sầu riêng là vua của các loại hoa quả, măng cụt là hoàng hậu của các loại quả. Tính chất của chúng như nước với lửa. Sầu riêng có thể bổ sung dưỡng chất, ăn nhiều sẽ tăng "hỏa", còn ăn măng cụt lại làm giảm "hỏa", đây chính là lấy thứ này khắc chế thứ kia, là đạo lý có chính tất có phản. Còn nhớ 5 năm trước có đồng môn tặng một hộp sầu riêng đông lạnh mời tôi ăn, bà ấy nói: "Đây là giống sầu riêng thượng đẳng của Thái Lan, đảm bảo Sư Mẫu ăn xong sẽ muốn ăn nữa. Nhưng có người không quen hương vị này. Nếu Sư Mẫu sau khi nếm thử, thấy thích, bảo với con, con biết nơi có thể mua được." Sau đó tôi mở hộp ra liền người thấy một mùi khó chịu đến thấu trời, khó ngửi cực kì. Mùi giống hố phân chuồng của người ở nông thôn vậy, lại cũng giống mùi "đánh rắm". Rõ ràng là mùi của nó không thể có gì so sánh được. Thật không thể nghĩ rằng trên đời này không ngờ có một loại thực phẩm thối đến như vậy. Mặc dù được phong là vua của các loại quả, hóa ra là thối số một. Cái gì mà rất bổ với lại rất ngon, bỏ đi! Bỏ đi là xong! Nhưng nhìn giá tiền của nó lại rất đắt, bỏ đi kể cũng không nỡ, bèn bịt mũi cố gắng nếm thử một chút, cũng là để có thể nói với người khác rằng tôi đã từng ăn sầu riêng rồi. Miếng đầu tiên vừa vào miệng khiến toàn thân tôi tê cứng, cảm giác giống như phân đổ trên đầu. Tôi nhanh chóng gói ngay phần còn lại, chạy ra ngoài cửa đem vứt hết, rồi đứng cạnh thùng rác để nôn ra. Tôi cũng xúc miệng rồi đánh răng, đánh răng xong lại xúc miệng mãi mới rửa sạch hết mùi hôi. Tôi lấy làm lạ vì sao có người lại thích nó, lẽ nào họ hợp với mùi thối? Nhắc đến mùi vị khủng khiếp của nó thực khiến tôi sợ hãi, ôi cái mùi còn mãi ám ảnh trong kí ức này. Từ ngày 20/12/1992 đến 10/1/1993, chúng tôi ở Malaysia hoằng pháp, lại có đệ tử cúng dường Sư Tôn loại sầu riêng thượng phẩm của địa phương. Sư Tôn đối với sầu riêng vốn cũng tàm tạm, có thể chịu đựng được, vẫn từ bi tùy duyên mà thuận theo, cho người cúng dường nhận được tâm hoan hỷ. Vào lúc mở hộp ra để ăn Sư Tôn còn khen ngợi nói: "Ngon đấy, ngon đấy, không có mùi lạ đâu!" Lời khen này, ôi thảm rồi! Các đệ tử liền mỗi ngày người nọ bắt chước người kia nhiệt tình cúng dường sầu riêng, Sư Tôn không ăn không được. Lần đầu tiên ăn, cảm thấy chút miễn cưỡng. Lần thứ hai ăn, cảm thấy chẳng ra làm sao cả. Lần thứ ba ăn, cảm thấy cũng tạm được. Lần thứ tư ăn, cảm thấy cũng khá ngon. Bây giờ đã ăn quen hương vị của nó rồi, thực sự cũng ngon. Sư Tôn hỏi tôi, vua của các loại quả ngon thế này, vì sao bà không ăn? Hãy nghĩ đến dòng suối ngọt trong sa mạc, một hạt quả trong cảnh đói kém, người chết đói ở châu Phi… Nghe thấy khai thị thế này, tôi đột nhiên thấy đói. Tôi lại học ăn sầu riêng thêm lần nữa, nghĩ là nó rất thơm, rất ngon, nhiều chất bổ, rất có cảm tình. Chuyển biến với suy nghĩ này, tôi đã ăn đến mức hai tay, hai má đều đầy sầu riêng, hơn nữa mỗi ngày đều ăn, vô cùng vui vẻ. Bây giờ, nghĩ đến Malaysia là nghĩ đến sầu riêng, nghĩ đến sầu riêng là nghĩ đến tình nghĩa của đệ tử Chân Phật ở Malaysia. Từ việc ăn sầu riêng, tôi học được kinh nghiệm thành tựu "nhất niệm tùy hỷ", chỉ cần hành giả dựa vào suy nghĩ tùy hỷ mà làm mọi việc, khi đó mọi sự vật trên thế giới này đều tốt đẹp. Nếu có thể giữ được suy nghĩ này lâu dài, mọi suy nghĩ đều vui, mọi suy nghĩ đều kiên định, chắc chắn đạt được thành tựu "nhất niệm nghiệp thành". Tháng 2 năm 82 (Tháng 2 /1993)

26. Truyền thừa và gia trì

Nói đến truyền thừa, mọi người đều biết truyền thừa trong Mật giáo là quý giá nhất, quan trọng nhất. Cũng vì có pháp mạch liên tiếp truyền từ đời này qua đời khác, hành giả mới có thể nương nhờ vào Căn bản Thượng sư mà có được lực gia trì của truyền thừa. Từ đó lần lượt người nọ kế tiếp người kia dựa vào pháp tu trì, chắc chắn có thể đạt được thành tựu của truyền thừa. Nhưng vẫn có nhiều người không biết tầm quan trọng của truyền thừa, mặc dù quy y Căn bản Thượng sư rồi nhưng không tu pháp của truyền thừa mà chỉ nghe nói rồi làm theo, việc này không như pháp, làm sao có thể tương ứng? Có người thì một mặt tu pháp của truyền thừa, một mặt thì tu pháp của dòng phái khác, nếu không tập trung chuyên nhất như vậy làm sao mà thành tựu? Cũng có một số vị tu được một thời gian vẫn chưa có được cảm ứng thì mất bình tĩnh, lại chạy khắp nơi hỏi xin Rinpoche này gia trì quán đảnh, chạy qua đạo tràng kia tham gia tu tập, cố tìm đường tắt nhanh chóng thành Phật. Như vậy sẽ không ổn định được một pháp nào cả. Dù có đi sâu vào một pháp kiên trì bền bỉ cũng đã khó đạt được thành tựu rồi. Hơn nữa, chạy đến đạo tràng khác, vị Rinpoche đó sẽ gia trì cho bạn cái gì, quán đảnh cái gì, thậm chí có quán đảnh cho bạn pháp lớn nhất, có ích gì không? Xin khẳng định là chẳng có ích gì, bởi vì nếu chỉ có quán đảnh, không có lực gia trì của truyền thừa, cũng không có khẩu quyết chi tiết của tu pháp thì chỉ có thể xem như là kết duyên với đạo tràng mà mình chạy qua đó thôi. Hành giả Chân Phật sau khi quy y xong làm sao để có thể tu lâu dài: • Trì "Thượng sư tâm chú" - 1 triệu biến, sáp nhập Thượng sư trụ trên đỉnh đầu và nhập vào tâm. • Tu "Tứ gia hành" pháp, đếm đủ 1000 đàn trở lên cho đến khi tương ứng, đây là cơ sở của Mật tông, cũng là nền móng vĩ đại của Mật thừa từ xưa đến nay. • Tu "Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp", đây là đại pháp của Chân Phật tông truyền thừa, cũng là pháp tu liên tục không được gián đoạn hoặc ngừng lại. Nếu có thể dựa vào pháp mà tu, sẽ tăng dần lên các cấp bậc, tiệm tiến đến vô thượng Mật pháp. Chân Phật Mật Pháp đảm bảo mọi người đều thành Phật.

27. Làm công quả ở chùa cũng là tu hành

Có người nói: sau khi xuất gia sống tại chùa, mỗi ngày chỉ có niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh, ngồi thiền, chuyên tâm tu pháp, không cần phải làm các việc tạp vụ ở trong chùa kiểu như thúc đẩy pháp vụ, quét dọn chùa miếu, tưới cây nhổ cỏ, nấu cơm xào rau, v.v. Những việc này thuê người làm là được. Bởi vì người xuất gia chúng ta cần phải tu hành, không phải đến chùa miếu để làm công việc tạp vụ. Đây là quan niệm sai lầm, học Phật tu hành không phải là cả ngày tu pháp không làm các việc khác. Niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh, ngồi thiền là tu hành, quét dọn chùa miếu, tưới cây nhổ cỏ, nấu cơm xào rau cũng là tu hành đó! Mọi thứ từ hành động lời nói, nhất cử nhất động, đi đứng ngồi nằm, cũng đều là trong phạm vi của tu hành. Nếu cho rằng tu hành chỉ đơn thuần là ở trong đàn thành, còn ra ngoài đàn thành không phải là tu hành, thì tu hành đã có thành kiến rồi. Phật Bồ Tát từ bi sẽ không một mực chỉ có thiền định bất động không chú ý gì đến chúng sinh. Chúng sinh có nạn, chúng sinh cầu thỉnh, chắc chắn các ngài nghe thấy những tiếng kêu khổ đó! Có điển cố như sau: Một vị nữ tu ở tại chùa phụ trách công việc quét dọn nhiều năm, mỗi ngày trong lúc quét dọn đã hiểu được đạo lý của "phất trần trừ bụi" (mỗi ngày quét dọn giống như mỗi ngày quét sạch những ô nhiễm trong tâm) và đạt được trí huệ thiền định. Kì thực, hành giả chúng ta nên hàng ngày chọn ra một thời gian cố định mà bản thân thấy phù hợp nhất, dễ nhập thiền định nhất để tập trung tu pháp. Nếu tu không tập trung, cả ngày ngồi khô cũng chẳng thể đạt được pháp vị gì. Có thể biến cuộc sống bản thân thành Phật pháp, giúp đỡ mọi người một chút, khích lệ mọi người một chút, mang tới cho mọi người một chút pháp vị, như vậy chẳng phải chính là lợi mình lợi người trong tu hành đó sao? Làm việc của chùa có công đức đạo tràng trang nghiêm. Cũng bởi vì có đạo tràng trang nghiêm, có Pháp sư trang nghiêm mới có thể gia tăng sức mạnh nhiếp chúng và độ chúng. Có nhiều chúng sinh đứng bên ngoài cửa vẫn đang chờ bạn cứu độ đó!

28. Bệnh khổ

Trong tám thứ khổ của chúng sinh: "sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, chết khổ, khổ do yêu mà phải xa cách, khổ khi ghét mà cứ phải gặp, khổ do cầu mong mà không được, khổ do ngũ uẩn" thì bệnh khổ vẫn là khổ nhất. [ND: Ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức.] Hãy nghe bao tiếng than rên rỉ vì đau đớn khi bệnh bám riết lấy thân. Bệnh lúc không thể chịu đựng được thường khiến con người ta hoàn toàn tuyệt vọng, muốn sống không xong, muốn chết cũng chẳng được. Bình thường thì là anh hùng khỏe như vâm, mạnh như rồng như hổ, hảo hán tráng kiện, chỉ cần bệnh đến một cái thì cũng tuyệt vọng ngã lăn ra đất không thể vực dậy được. Anh hùng cũng sẽ biến thành gấu đen. [ND: Anh hùng cũng biến thành gấu đen: ở đây tác giả chơi chữ, anh hùng (yingxiong) và cẩu hùng (gouxiong) - con gấu đen, từ này đồng thời còn có nghĩa là kẻ nhát gan.]

Khi bệnh nặng nhất, thuốc thang chẳng hiệu nghiệm, cả ngày nằm liệt giường, bệnh dày vò không dứt, người ta có thể từ bỏ hết danh lợi. Lúc đó thì tiền bạc nhiều, địa vị cao cũng chẳng còn quan trọng nữa. Có một số người giàu mắc bệnh, đi khắp trời đất để tìm bác sĩ giỏi nhưng cũng không có cách nào tiêu trừ bệnh, lại cũng không thể chịu nổi sự đau đớn do bệnh dày vò. Khi mắc bệnh lâu mới hiểu được cảm giác khổ thế nào. Kết quả là lúc đó họ mới xem nhẹ tiền tài và địa vị, hơn nữa còn nguyện rằng: "Nguyện đem bố thí hết tiền tài, chỉ cần được khỏi bệnh". Họ nhận thấy thân thể khỏe mạnh quan trọng hơn tiền bạc. Bệnh - ai ai cũng sợ, nhưng có ai không sợ? Mọi người nghĩ xem, bệnh từ đâu đến? Mọi bệnh tật đều là kiếp trước điên đảo vọng tưởng, phiền não mà sinh ra, cũng do sự không hài hòa của bốn yếu tố trong cơ thể mà sinh ra bệnh. Do vậy, bệnh là một loại nghiệp chướng, bệnh nghiệp một khi đến không ai trốn thoát được. [ND: Bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió.] Có điển cố: Phật Đà đã từng có một kiếp ở bên bờ biển trông thấy một con cá to, thuận tay cầm gậy gỗ lên đánh vào đầu cá ba cái. Ba kiếp sau đó, Phật Đà đã bị đau đầu nhiều ngày. Từ điển cố này chứng minh tất cả mọi bệnh đều từ nhân quả mà sinh ra, là "bệnh nhân quả". Sư Tôn từng khai thị rằng: bệnh nhân quả là "chân bệnh", chân bệnh thì không có thuốc nào chữa khỏi, chân bệnh một khi đến, chỉ có cách là tiếp nhận nó. Tuy nhiên hãy dùng tâm chuyển hóa, coi thân thể xương thịt này là giả, đừng tham cầu tình ái, nghĩ tất cả đều là huyễn, quán bệnh là hư không. "Không bệnh diệc không, liễu không bệnh cố, thị ngã hữu bệnh, kim ngã bệnh giả, vô thọ nhi thọ." [ND: Đây là một câu khai thị của Sư Tôn, đại ý rằng: Tính chất của Hư không và tính chất của bệnh đều giống nhau, cả hai đều là Không; cần thấu triệt được nghĩa lý là bệnh cũng chính là Không; "ta có bệnh" chỉ là một sự thị hiện từ hư không mà thôi; nay ta và cái bệnh đó, là bị bệnh mà không phải bị bệnh.]

Bệnh đến rồi, tâm không nên để bệnh gây phiền nhiễu, trái lại cần hưởng thụ bệnh. Nhân đây cùng mọi người động viên: Muốn không bệnh, đừng tạo nghiệp. Bệnh đọa thân, cần sám hối. Bệnh như không, tâm tự định. Khổ thành vui, tất cả vui.

29. Lại nói chuyện bệnh

Nhìn chung mà nói thì bị bệnh là do sức đề kháng suy yếu. Khi vi-rút xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch không cách nào kháng cự lại vi-rút xấu từ bên ngoài vào, kết quả là sinh bệnh. Một khi đã mắc bệnh, người ta chỉ muốn đi bác sĩ khám, đề nghị bác sĩ cho đơn thuốc uống. Tuy nhiên, những loại thuốc này chỉ đơn thuần là một kiểu hỗ trợ, làm cho người bệnh đỡ cảm thấy quá đau đớn mà thôi, thuốc không có cách nào tiêu trừ hết bệnh, vẫn phải chờ đến khi vi-rút tự nhiên chết đi, bệnh mới khỏi được. Nói ví dụ như cảm lạnh thông thường, một kì bệnh của nó là khoảng một tuần. Trong vòng một tuần này, chữa kiểu gì cũng không khỏi, vẫn phải chịu đựng cho đến khi nó hết. Y học đã phát triển nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra được loại thuốc nào trị cảm cúm. Các loại vi khuẩn, vi-rút ngày càng đa dạng, các loại bệnh cũng phức tạp hơn, khả năng tồn tại của mỗi loại khuẩn cũng không giống nhau. Thời gian bị bệnh cũng dài ngắn khác nhau, có bệnh thì một tuần, có bệnh thì một tháng, một năm, mười năm, thậm chí cả đời nằm trên giường bệnh, thực tế rất đáng thương. Kì thực, mặt tối của việc bị bệnh, căn bản chính là sự hiển hiện của nghiệp lực. Có người hỏi: vì sao có người bị bệnh liên miên, vì sao có người khỏe mạnh tráng kiện rất ít bị bệnh? Bởi vì: bệnh là nghiệp chướng, bệnh là do nhân duyên quả báo mà đến. Phải làm sao mới có thể giảm nhẹ nghiệp bệnh đây? Cách duy nhất chính là tu hành. Không có cách thứ hai. Không gì ngoài tu hành có thể làm được "lục độ vạn hành", trong đó thiền định và trí huệ là đặc biệt quan trọng. [ND: Lục độ vạn hành: sáu độ gồm bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, bát nhã - trí huệ.] Thành tựu giả trong thiền định có thể cùng với pháp lưu vũ trụ vận chuyển lẫn nhau, có thể làm cho bản thân dung nhập vũ trụ, bản thân hóa thành không, hóa thành hư, hoàn toàn hư không, bệnh cũng là hư không. Lại có người hỏi: Thành tựu giả có phải sẽ không mắc bệnh không? Thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngài vẫn mắc bệnh. Ấn Thuận Đạo Sư được xem như là ngọn đèn sáng của Phật giáo đương đại cũng có một thời gian dài mắc bệnh đường ruột. Đại thành tựu giả Mật giáo, Sư Tôn của chúng ta, Liên Sinh Hoạt Phật cũng giống như vậy, đều có thể mắc bệnh. Nhưng: Bệnh của con người thế tục chính là bệnh nghiệp chướng. Thành tựu giả sinh bệnh là biểu hiện của giác ngộ. Thành tựu giả bị bệnh là bởi chịu bệnh thay. Sắc thân của thành tựu giả và việc thành Phật không có liên quan.

30. Dừng lại mà kết duyên

Có đệ tử thỉnh giáo Sư Tôn: "Có phải đệ tử của Chân Phật Tông không thể lại đi quy y Pháp sư, Thượng sư, Rinpoche của các tông phái khác đúng không?" Sư Tôn đáp: "Có thể chứ. Tôi đã từng nói: có thể đi quy y sư phụ khác, đi nghe Pháp sư khác giảng pháp, nhận quán đảnh gia trì của các Rinpoche khác. Khi còn trẻ nên nghe nhiều, so sánh nhiều, đi đến nhiều đạo tràng, nhưng đến cuối cùng vẫn cần lựa chọn một vị sư phụ, chuyên tâm thấm nhập cùng với sư phụ này học pháp. Cần dựa vào sự gia trì của dòng truyền thừa làm gốc để tu pháp. Trong mọi trường hợp đều lấy dòng truyền thừa làm gốc thành tựu của bản thân. Còn nếu chạy Đông chạy Tây khắp các đạo tràng, không tìm được điểm dừng, thì người hành giả đó biểu hiện mới chỉ ở giai đoạn bên ngoài, tâm vẫn chưa dừng lại. Tâm không dừng, tu pháp khó mà thành tựu được." Tôi nghe xong Sư Tôn giảng một cách hoàn toàn "vô ngã" như vậy, tự ngài bình đẳng từ bi khai thị khiến tôi cảm động sâu sắc. Từ đó tôi cũng lĩnh ngộ và nghĩ rằng: Đệ tử Chân Phật Tông lại đi quy y sư phụ khác (cho dù là quy y để kết duyên), thể hiện ra vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của việc "dựa vào duy nhất Căn bản Thượng sư". Đệ tử Chân Phật Tông vẫn còn đi nhận quán đảnh gia trì từ các Rinpoche khác, biểu hiện vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của "lực gia trì từ dòng truyền thừa". Mật giáo nhấn mạnh tới Căn bản Thượng sư. Tất cả mọi pháp đều từ Thượng sư truyền cho, đây là gốc của gốc. Hành giả Mật giáo cần xem Căn bản Thượng sư giống như Phật, phải hoàn toàn hướng về ngài, dựa vào ngài, cầu ngài độ. Hành giả Chân Phật cần có trí huệ, phải hiểu rằng chạy qua đạo tràng khác đi nghe pháp, quy y, gia trì, quán đảnh, đều được xếp vào "ngoại pháp". Người thực tu chân chính, hiểu sâu Mật pháp cần thấy ý nghĩa nằm ở "nội tu", để khí, mạch, minh điểm tràn đầy toàn thân, quang minh phong mạch xuyên suốt, ngũ luân liên hoa khai nở, đạt được ngũ trí của Ngũ Phật, đạt tới thành tựu vô thượng.

31. Tự thú của người quy y

Có người hỏi: "Vì sao bà phải quy y Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn?" Đáp: "Bởi vì đó là một vị Kim Cương Thượng sư Mật Giáo chứng ngộ chân chính, là một vị Phật sống đã chứng đắc tính Không. Thậm chí chỉ với tâm lượng đức hành của Ngài, bạn đã ngũ thể đầu địa bái phục rồi." (*) Hỏi: "Vì sao có người nói ông ấy là ma?" Đáp: "Ông ấy ma ở chỗ nào? Hoàn toàn là nghe đồn mà nói, không có bằng chứng nào cả, chúng tôi quy y ông ấy đã hơn 10 năm, tuy nhiên đọc mỗi sáng tác của ông ấy đều thấy nội dung hợp với Tam Pháp Ấn lời Phật dạy." (*) Hỏi: "Cái gì là tà giáo ngoại đạo, phụ Phật ngoại đạo (*) ?" Đáp: "Dựa vào hành vi không trung thực, làm hại phong tục tốt đẹp chính là tà giáo, tâm ngoại cầu pháp chính là tà đạo. Lợi dụng làm việc Phật sự để lừa gạt người khác, chính là phụ Phật ngoại đạo." Có những điều phỉ báng Liên Sinh Hoạt Phật đó là bởi vì người ta không nhận ra con người ông ấy, không từng ở gần ông ấy, nhất thời nghe người khác mê hoặc, bóp méo sự thật. Đệ tử Phật cần có trí huệ, đừng vì thấy một cuốn sách nhỏ phỉ báng Phật mà mất đi lòng tin. Một cuốn sách nhỏ làm sao có thể so sánh được với 105 cuốn sách (*) mà bản thân mỗi cuốn đều một cách gián tiếp hàm chứa lời dạy của Phật trong đó? Thế giới Ta Bà là một thế giới đầy ô nhiễm, những việc nghe tận tai thấy tận mắt mà còn bị bóp méo. Kì thực, đây cũng là một biểu tướng của sự ô nhiễm. Chỉ có tâm của hành giả có thể vượt qua được biên giới của ô nhiễm, mới có thể quán chiếu hình tướng của sự việc, chứng giác được thực tướng thanh tịnh. Quy y Liên Sinh Hoạt Phật khiến người ta pháp hỷ tràn đầy, nhiều năm qua tôi nhận được sự dẫn dắt của Chân Phật Mật Pháp, tinh thần ngày càng bình thản. Tiếp nối lời dạy, lấy "vô sự, vô tâm" để giải quyết mọi việc, tôi cảm thấy hoàn cảnh xung quanh và tất cả mọi người có mối liên hệ với ta đều toát lên bầu không khí cát tường hòa hảo. Ước như người người quy y Chân Phật, dung nhập vào thế giới Chân Phật, thanh tịnh thân, khẩu, ý, cùng với ý thức vũ trụ tối thượng dung nhập làm một, phổ chiếu thập phương tam thế!

----------------------- Ngũ thể đầu địa: ngũ thể đầu địa là quỳ lạy 5 vóc gồm hai đầu gối, hai tay, đầu đều chạm đất để lạy Phật, như vậy mới tỏ đủ vẻ cung kính. Tam pháp ấn: Vô Thường, Khổ, Vô Ngã là giáo lý đặc trưng trong đạo Phật, cũng giúp phân biệt chính pháp và tà giáo ngoại đạo. Phụ Phật ngoại đạo: ngoại đạo ẩn trong lòng Phật pháp. Tới tháng 12/2018: Số văn tập của Sư Tôn đã là 268 cuốn, không tính vô số bài giảng kinh luật luận, video và tài liệu khác nữa.

32. Cảm ngôn của Phật học tổng thuyết

Các đệ tử Phật sùng đạo đến từ khắp mọi nơi trên thế giới. Họ muốn tìm kiếm "tiếng lòng" của Phật, noi theo từng bước chân của Phật, mở rộng tâm linh trong thế giới nội tâm, trải nghiệm thiên sơn vạn thủy, nên đã đến biệt thự Cầu Vồng tham gia khóa học Phật học tổng thuyết do Sư Tôn giảng dạy. Từ đầu đến cuối tổng cộng có hai tuần học pháp, mỗi ngày đều được tắm trong ân huệ của Phật, xem như được hưởng đặc ân, pháp hỷ tràn đầy. Khi đó, tất cả mọi người không ngoại trừ một ai đều có cảm nhận rằng khoảng thời gian đó giống như được đột nhiên quay ngược trở về 2500 năm trước, vào thời kì sống cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni khi ngài vẫn còn tại thế. Phật thuyết pháp ngay trước mắt ta. Từ lúc khai giảng nhập môn bằng "khởi lòng tin", tiếp sau đó là tín, giới, hành, chứng, lý - sự hợp nhất, tam vô lậu học (giới, định, huệ), tứ thánh đế (tập, khổ, diệt, đạo), ngũ lực, lục độ vạn hành, thất bồ đề phần, bát chính đạo, thập lực, thập nhị nhân duyên. (*) Những khoảnh khắc chân-thiện-mỹ đó đã dẫn dắt chúng tôi đi vào cảnh giới của Phật, mãi mãi lưu lại trong sâu thẳm tâm linh của mỗi người. Sư Tôn giảng pháp là chu toàn nhất, giải thích cặn kẽ bí mật chân ngôn cùng các dạng nghi quỹ, lấy ví dụ cho các nghị luận, cung cấp rất nhiều đại trí huệ, thông đạt tướng chân ngôn. Sư Tôn lại dùng phương pháp diễn thuyết hài hước thú vị giúp cho mọi người có thể dễ dàng nắm thông hiểu thấu, vui thích vô cùng, vỗ tay như sấm. Chư Phật Bồ Tát cũng đến buổi đại pháp hội giảng pháp của Sư Tôn, phóng quang gia trì cho mọi người. Chính vào lúc quán đảnh, Sư Tôn nhìn thấy chư Phật Bồ Tát mười phương từ bi đã đến, ban mọi loại quán đảnh cho mỗi đệ tử đến tham gia. Tất cả đều có được đại pháp hỷ, đại pháp lợi, tinh thần hoan hỷ vui sướng vô cùng. Trên bầu trời lúc này, vầng hào quang của mặt trời đã xuất hiện rồi! Có người kêu lên kinh ngạc. Mọi người nhìn kìa, bầu trời cao trong vắt, cầu vồng cũng xuất hiện rồi! Các đệ tử đều hết lời cảm ơn, tán dương. Phật pháp rộng sâu rất nhiệm màu. Trăm nghìn vạn kiếp khó tìm cầu. Nay con nghe thấy chuyên trì tụng. Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm sâu. Tháng 6 năm 82 (tháng 6/1993)

------------------------- Tam vô lậu học: là pháp học thù thắng gồm giới, định, huệ, giúp hành giả vượt khỏi sự trói buộc của mọi phiền não, không còn rơi rớt trong ba cõi. Tứ Thánh Đế: bốn sự thật chân lý (tập đế, khổ đế, diệt khổ đế, đạo thánh đế) giúp hành giả giải thoát, giác ngộ chứng đắc. Ngũ lực: 5 năng lực vĩ đại và là 5 thần lực của ngũ căn, gồm tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ căn. Lục độ vạn hành: sáu độ gồm bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, bát nhã - trí huệ. Thất bồ đề phần: bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ Đề, giúp thành tựu đạo quả Đại giác, gồm trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả. Bát chính đạo: con đường chân chính có tám chi, giúp chúng sinh hướng đến đời sống cao thượng, hạnh phúc, gồm chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Thập lực: 10 sức mạnh của Phật, gồm: có trí huệ thấy rõ đúng sai, có trí tuệ biết rõ nghiệp báo 3 đời, có trí tuệ về các phép tu thiền định giải thoát, có trí tuệ biết rõ căn cơ chúng sinh cao thấp, có trí tuệ về mọi kiến giải, có trí tuệ biết rõ hoàn cảnh thực tế mỗi chúng sinh, biết rõ phương hướng và kết quả tác động của mọi quy luật, có thiên nhãn vô ngại, biết rõ kiếp sống quá khứ chúng sinh, đoạn trừ mọi tập khí và vô minh. Thập nhị nhân duyên: 12 nhân duyên của luân hồi là vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhậ, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử.

33. Chúc mừng sinh nhật Sư Tôn

Ngày 18 tháng 5 âm lịch là đản sinh của Liên Hoa Đồng Tử. Tôi muốn viết một bài văn chúc mừng, trong khi đang nghĩ cách viết thì đột nhiên lại ngộ ra rằng, sinh nhật của Sư Tôn cùng ngày kỉ niệm xuất gia xuất gia của ngài đều có ý nghĩa độ sinh. Bằng chứng như sau: Sinh ra: ngày Sư Tôn sinh ra là ngày 18 tháng 5 âm lịch, cho chúng ta thấy rất rõ ràng ý nghĩa được bao hàm là: có thừa ngũ giới, thập thiện, bát chính đạo. Xuất gia: ngày Sư Tôn xuất gia là ngày 10 tháng 2 âm lịch, cũng rất rõ ràng thấy được ý nghĩa bao hàm là: có thừa nhị bát nhã, lý sự viên dung, phúc huệ viên mãn, ngày 10 là thập lực của Phật. Thế giới tâm linh xưa nay, khi một vị Phật giác ngộ chân chính xuất hiện thì cuộc đời của ngài tính từ khi bắt đầu sinh ra sẽ luôn ẩn chứa những huyền cơ không thể nghĩ bàn. Nhưng những huyền cơ rất vi tế nên rất ít khi có người đi kiểm nghiệm hay tìm cách hiểu chúng. Cũng giống như Phật pháp bao la tựa biển lớn vậy. Trong biển lớn ẩn giấu vạn vật. Tinh thần của biển, mọi thứ của biển có bao nhiêu người thực sự hiểu được đây. Tháng 5 - 18, đồng tử sinh. Mang đầy pháp bảo nguyện bay đến. Vô số cam lộ ban khắp nơi. Quán đảnh chúng sinh tịnh Ta Bà. Ngũ giới thập thiện bát chính đạo. Kỳ lạ lạ kỳ trong bí mật. Thâm nhập biển pháp thấu chân nghĩa. Liên Hoa sớm hiện ánh quang minh. Tháng 6 năm 82 (Tháng 6/1993)

34. Cũng là sinh nhật

Vào mỗi dịp 18 tháng 5 âm lịch, thời điểm sinh nhật của Thánh Tôn, 150 vạn đệ tử quy y Chân Phật Tông ở khắp nơi trên thế giới đều hoan hỷ muôn phần, vui mừng khôn xiết, đâu đâu cũng tổ chức tiệc mừng sinh nhật để bày tỏ tấm lòng thành kính nhất. Tất cả đều quỳ xuống đảnh lễ ngũ thể đầu địa với thân, khẩu, ý thanh tịnh nhất, với nghi thức trang nghiêm nhất làm món quà trang trọng nhất để cúng dường. Mọi người cung chúc Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử Thánh Tôn đã đản sinh ở cõi Ta Bà để hoàn thành tâm nguyện độ chúng sinh. Tất cả đệ tử Chân Phật Tông, đều vào lúc chính ngọ của ngày đản sinh tu một đàn "Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp", thỉnh cầu tiêu tai giải nghiệp, tăng trưởng phúc huệ. Điều mong mỏi nhất chính là có thể hòa nhập với tâm linh Thánh Tôn, cả hai hòa nhập làm một, dung nhập vào vũ trụ. Ngài vì dạy dỗ chúng sinh thành Phật mà đưa ra một lời thệ nguyện to lớn: "Địa ngục bất không thề không thành Phật, phân thân xẻ cốt độ chúng sinh", khiến cho thiên thượng nhân gian vô cùng chấn động, thập phương pháp giới chư Phật cùng nhau hiển lộ tướng lưỡi dài rộng thán phục. Chúng ta đều biết ngài nhờ có thực tu mà đạt được chứng ngộ. Ngài cũng vì giáo hóa chúng sinh mà thị phạm Chân Phật Mật Pháp, kì vọng chúng sinh sớm có ngày tiêu trừ nghiệp chướng, sớm có ngày minh tâm kiến tính, sớm có ngày tự chủ sinh tử, sớm có ngày tức thân thành Phật. Chân Phật Mật Pháp là kết hợp "Đạo - Hiển - Mật", là con đường tắt tối ưu để thành Phật, cũng là tiếp nối Phật huệ mệnh, truyền ngọn đèn Phật pháp, dẫn dắt con người đi tới nơi vi diệu, cũng là cùng nhau một lòng tin Phật, niệm Phật, tu pháp thành Phật. Tấm lòng từ bi to lớn của ngài, tấm lòng đại trí huệ của ngài, tấm lòng vô thượng hỷ xả của ngài hiển hiện ánh sáng đại quang minh viên mãn, hóa hiện thiên thiên vạn vạn đại bồ đề tâm, thành tựu hóa hiện thiên thiên vạn vạn đóa hoa sen, vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì. Chúng con ca ngợi ngài, kính ái ngài, cảm tạ ngài, bởi vì chỉ có ngài mới có thể thắp lên ánh sáng quang minh ở nơi sâu nhất trong cuộc sống của chúng con, ban cho chúng con tăng trưởng trí huệ và sức mạnh. Hãy để cho chúng con đi vào ánh sáng của ngài, đi trên con đường đạo đẹp nhất của đời người. Nhân dịp sinh nhật của ngài, gửi đến ngài lời chúc phúc chân thành nhất của chúng con. Kính chúc ngài: Pháp luân thường chuyển. Thường trụ thế gian. Thân thể kiện khang. Bất nhập niết bàn. Thọ tỉ nam sơn bất lão tùng. Phúc như Đông hải trường lưu thủy. Tháng 7 năm 82 (Tháng 7/1993)

35. Pháp vị của thư hồi đáp

Hơn hai mươi đệ tử Chân Phật giúp đỡ công việc trả lời thư ở Chân Phật Mật Uyển, mỗi người đều phát tâm tự nguyện giúp đỡ, thế mà họ đi làm rất đúng giờ, không đến muộn về sớm. Nếu có việc không thể đến được họ cũng đều cung kính xin nghỉ phép, mọi người tận tâm tận lực làm việc, mỗi ngày đều đạt thành tích mấy trăm bức thư. Cứ như vậy ngày qua tháng đến, mọi việc cứ tiếp diễn như thế, tinh thần và nỗ lực đó thực sự khiến người ta ngưỡng mộ, phát tâm của những con người này thật trân quý. Tất cả các tình nguyện viên đều có cùng chung một cảm nghĩ. Có thể vì Sư Tôn mà phục vụ, là việc mà các đệ tử nên làm. Có thể vì quảng đại chúng sinh tận điểm tâm lực, chính là tu hành từ bi. Có thể bằng việc hồi đáp thư tín thấy được mọi mặt quan điểm của chúng sinh, có thể có được sự cảnh tỉnh thực tu, định hướng được mục đích của bản thân. Có thể được ở gần Sư Tôn để học Phật pháp, là phúc phận tu mấy đời mới có được. Vào lúc 4h chiều mỗi ngày, Sư Tôn sẽ hướng dẫn chúng tôi đồng tu, hơn nữa còn ban cho những khai thị quý giá, mỗi lần nghe Sư Tôn giảng xong, mọi mệt mỏi đều tiêu tan, cảm giác tinh thần thư thái. Cũng có khi thì Sư Tôn rất tự nhiên bàn luận Phật pháp cao sâu, lại cũng kiểm tra trình độ và thành tích của chúng tôi. Căn cơ của chúng sinh không giống nhau, tốt xấu lẫn lộn, mỗi người cũng lĩnh hội được khác nhau. Người có trí huệ cao cũng giống như có được gia tài quý giá nhất, có thể hiểu thông hiểu thấu, đối đáp trôi chảy. Nhưng cũng có một số người thực sự thấy rằng tự mình tu không đủ, rất khó để hiểu được sự thâm sâu vi diệu của Phật pháp. Đôi khi trong bữa ăn chung, Sư Tôn cũng tùy duyên chỉ ra những điều cốt tủy của Phật pháp. Ngài thường nhắc chúng tôi: "Phật pháp là sống, có định pháp, cũng có bất định pháp, cần phải hiểu một cách linh hoạt mới có thể đạt được pháp vị tự do tự tại." Sư Tôn mọi lúc mọi nơi đều dạy pháp rất tự nhiên, chúng tôi cũng thường xuyên tập trung chú ý để nắm lấy những quán đảnh tinh túy này, đợi đến khi có thể hợp nhất với ý thức vũ trụ. Trong cuộc sống hàng ngày, trung tâm hồi đáp thư tín đã trở thành ngôi nhà tinh thần của chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi đều được tắm trong âm thanh của Phật pháp, nghiền ngẫm diệu pháp khiến tâm sinh ra niềm an lạc, thể hội được sâu sắc việc "lấy pháp làm thức ăn, nuôi lớn trí huệ mệnh", vượt qua được tất thảy mọi danh lợi hữu hình. Sư Tôn, cảm ơn ngài đã giảng những lời dạy xuất phát từ tâm, cảm ơn ngài đã dạy dỗ mọi người bất luận căn cơ thế nào, cảm ơn ngài đã luôn giáo huấn không biết mệt mỏi.

36. Sau khi đọc bài viết của Ấn Thuận Đạo Sư

Tôi đọc nguyệt san Phật Giáo Hồng Kông số 396, nội dung bên trong có một bài viết của Ấn Thuận Đạo Sư với tiêu đề "Lư Thắng Ngạn và Tôi". Bài viết khiến tôi kinh ngạc đến mức khó tin, nghĩ mãi không hiểu, bởi vì nó có những chỗ không đúng với thực tế cho lắm. Lẽ nào qua nhiều năm gắn bó như vậy, chúng tôi kính lễ đối với sư phụ, mọi chỉ dẫn của sư phụ đối với chúng tôi đều có cảm giác rất hòa hợp với nhau, tất cả đều đã quên hết rồi sao? Có lẽ là do sư phụ chịu áp lực của những hoàn cảnh tác động bên ngoài thời gian gần đây, có những lúc không thể chịu được, không có cách nào khác nên phải làm như thế sao? Nguyên văn thầy viết thế này: "Lư quân đã từng quy y tôi, nhưng không phải là tôi đích thân nhận quy y, mà là một cư sĩ già tên Lý Bỉnh thay mặt tôi nhận quy y, là do Bỉnh lão cầu xin tôi. Lúc cử hành quy y, bởi vì tôi là một vị thầy quy y nổi tiếng nên vào năm Dân Quốc thứ 59, Lư quân ở Liên Xã đã thọ quy y. Vì thế có thể nói tuy là quy y tôi nhưng không phải tôi đích thân chủ trì. Nếu nói là tôi tự tay ban cho chứng nhận quy y thì đương nhiên là nói dối để lừa người rồi. Mọi chứng nhận quy y của tôi đều không phải như thế này." Tôi nhớ lại khi chúng tôi mới dọn nhà đến sống ở cạnh nhà của thầy đã lập tức đến chào và cúng dường thầy. (Nguyên văn bài viết, thầy cũng nói: Thắng Ngạn là đệ tử quy y đến thăm tôi.) Thầy cũng rất khách khí nhanh chóng cúi chào đáp lại. Khi thầy đến nhà tôi chơi, Thắng Ngạn cầm giấy chứng nhận quy y đưa cho thầy xem, sau khi xem xong, đích thân đưa lại cho Thắng Ngạn, còn nói: "Rất tốt, rất tốt." Sư phụ, nhân đây con muốn hỏi: quy y thì là quy y, lẽ nào còn phân biệt đẳng cấp giấy chứng nhận quy y, hơn nữa lại còn đi phân biệt đẳng cấp của các đệ tử sao? Quy y tức là quy y tam bảo, lễ bái sư phụ, học tập sư phụ tu hành và hoằng dương tinh túy của Phật pháp, không phải thế sao? Nguyên văn cũng nói: "Năm Dân Quốc thứ 80 (năm 1991), anh ta (Thắng Ngạn) đưa mấy đệ tử đến thăm tôi, đảnh lễ cúng dường. Tôi khi đó có bệnh, chỉ là gặp mặt thế thôi, chính xác như trong sách anh ta đã nói, tôi không biết anh ta quay về mấy lần. Tôi chỉ là gặp anh ta duy nhất lần này, nhưng anh ta vẫn nói là mỗi lần về Đài Loan đều thăm hỏi người nhà." Thực tế là chúng tôi mỗi lần về nước đều đã thực sự đến thăm hỏi sư phụ. Trong số năm lần về nước thì đã gặp mặt thầy hai lần, có một lần khác chúng tôi còn ngủ trưa ở đó, hai lần khác thì thầy bị ốm nên chuyển nhà đi nơi khác, không ở tịnh xá nữa, chúng tôi chỉ đảnh lễ đàn thành xong là rời đi. Trong bài viết thầy cũng không thừa nhận đã từng nói rằng: "Liên Sinh, nỗ lực tiến lên, đáng trân trọng, đáng trân trọng." Mà lại nói: "Những lời nói này là anh ta tự viết ra, không phải sự thật, tóm lại, Lư Thắng Ngạn và tôi, quy y và gặp mặt, có thể nói việc xảy ra là có lý do, chỉ là anh ta đã xáo trộn những câu văn từ ngữ một chút để lừa người ta." Thực sự, bản thân sư phụ đã quên hết những lời đã từng nói rồi. Khi đó, năm vị đệ tử mà Thắng Ngạn đưa đến gặp thầy, tất cả họ đều đã nghe chuyện rồi. Chúng con cũng không muốn thay thế pháp mạch của thầy, xin thầy không phải sợ hãi. Tấm lòng kính trọng của chúng con, ngược lại, không ngờ bị thầy dội một gáo nước lạnh. Con cảm thấy trong lòng thật buồn. Đã từng bao lần vì sư phụ mà đi khắp nơi để mua đồ ăn, con hiểu rõ sư phụ mỗi bữa cơm chỉ muốn ăn cà chua và đậu phụ, còn phải thái thật nhuyễn mềm, thậm chí còn phải dùng máy xay để xay nhuyễn. Thầy cũng không bao giờ thay đổi chế độ ăn uống, lần nào cũng chỉ dùng đúng một loại thương hiệu bột yến mạch, chỉ định rõ loại bánh mì lát của cửa hàng bánh mì đó. Hôm nay, con nói những lời này chỉ muốn nhắn gửi sư phụ nghĩ lại chuyện đã qua, thực tế chúng ta đã từng trải qua quãng thời gian hòa thuận với nhau như thế nào. Con nhận thấy sư phụ có thể mắng đệ tử, nhưng đệ tử cần mãi mãi tôn trọng sư phụ, như vậy mới có thể có được sự dẫn dắt, mới có thể đạt được thành quả là sự chịu đựng và thử nghiệm. Chúng con vẫn không ngừng nghiền ngẫm những bài viết của sư phụ, thường xuyên nhận được những chỉ dẫn của sư phụ, khắc ghi trong tim. Cảm ơn thầy, kính lễ thầy, chúng con lấy sự nghiệp của Như Lai làm sự nghiệp của bản thân, tu hành hoằng pháp độ chúng sinh. Cảm ơn thầy một lần nữa! Tháng 8 năm 82 (Tháng 8/1993)

37. Cảm tưởng trở về Đài Loan

Mỗi lần chuẩn bị cùng Sư Tôn trở về Đài Loan hoằng pháp là tôi đều đếm từng ngày, hy vọng sớm đến lúc gặp mặt các đệ tử Đài Loan. Tôi có một cảm giác rất thích thú, còn mau chóng cẩn thận làm tóc, có một niềm vui không thể tả xiết, ghét là không thể lập tức cưỡi mây bay luôn về được. Ngày 26 tháng 6 khi đã về đến sân bay Đào Viên ở Trung Chính, tôi lập tức cảm thấy được hít thở lại bầu không khí quen thuộc. Cuối cùng đã về nhà rồi, tôi đột nhiên vui sướng giống như cá gặp nước. Tôi lần lượt nhìn thấy mấy nghìn đệ tử đã đến chật cứng cả sân bay đứng đợi chúng tôi từ lâu. Mọi người cùng hát Thượng sư tâm chú để nghênh đón Sư Tôn. Có rất nhiều rất nhiều đệ tử vượt lên phía trước để dâng hoa, không ai muốn nhường ai lên trước nên túm tụm lại thành một vòng tròn, hướng đến Sư Tôn thể hiện những lời chào mừng đã chuẩn bị từ trước. Bởi vì âm thanh của dòng người chào đón rất náo nhiệt nên không thể phân biệt được, họ chỉ có thể dùng những bó hoa để thay cho lời nói thể hiện tấm lòng, đại diện cho sự kính trọng nhất. Sư Tôn bận rộn nhận hoa, hết bó này đến bó khác cứ liên tục truyền đến, giống như là đủ thể loại hoa từ trên trời rơi xuống vậy, tình cảm vô cùng ấm áp, tất cả đều khiến người ta cảm động. Khi dòng người trở nên kích động hơn, có nhiều đệ tử cũng cúng dường hồng bao và quà tặng, cúi đầu đặt lên đỉnh đầu để cúng dường, nhưng rất nhiều đồ cũng dường không kịp nhận cho hết, trong phút chốc Sư Tôn giống như là một cơn gió thổi qua. Càng có nhiều hơn các đệ tử xếp hàng ở phía xa, không gia nhập vào đám đông, từ xa vẫy tay chào và hoan hô, nói chào Sư Tôn, chào Sư Tôn! Sự nhiệt tình của các đệ tử Đài Loan thực sự hiếm có. Tôi cứ đi bên trái bên phải Sư Tôn, nhìn thấy Sư Tôn miệng không ngừng niệm chú để gia trì cho mọi người, gật đầu mỉm cười không ngớt, thể hiện ý cảm tạ, trong ánh mắt chứa đầy sự từ bi vô hạn phóng chiếu bao quát tất cả. Sư Tôn và đệ tử, tâm nối liền tâm. Có người hỏi: "Ngoài việc theo Sư Tôn về Đài Loan hoằng pháp ra, cá nhân bà có việc khác hoặc có việc gì đặc biệt cần phải làm không?" Tôi đáp: "Tôi muốn đi thăm sư trưởng, bạn bè thân thích, giữ tình cảm liên lạc, quan tâm mọi người, muốn tìm lại những dấu tích quá khứ, hoài niệm về những nơi đã sinh ra và lớn lên, muốn nắm giữ lấy những khoảnh khắc cảm xúc đẹp đẽ, muốn đi ngắm nhìn những cửa sổ với ánh đèn neon lấp lánh rực rỡ của các cửa hàng cửa hiệu, muốn ăn những món ăn vặt của Đài Loan mà khi còn nhỏ rất thích, muốn…" Nhưng thực ra, điều vui nhất là có thể gặp gỡ các đệ tử Đài Loan. Tháng 8 năm 82 (Tháng 8/1993)

38. Đại uy đức của Sư Tôn

Ngày 16 tháng 8 năm 1993, Sư Tôn cùng mấy vị Thượng sư đi cùng từ nước Anh trở về Mỹ, cuối cùng đã kết thúc một đợt đi hoằng pháp ở nước ngoài. Từ Đài Loan, Canada, Pháp, Hà Lan, nơi cuối cùng là nước Anh, tổng cộng đã tổ chức 6 đại pháp hội. Đây cũng là kỉ lục gây chấn động nhất trong trong số các pháp hội Phật giáo ở địa phương. Thành tích độ chúng sinh của Chân Phật Tông cũng vượt xa dẫn đầu, đứng hạng mạnh nhất trong số các tông phái. Đệ tử khắp nơi đồng thanh tán thán, nào là Sư Tôn sức mạnh vĩ đại, thần thông quảng đại, nào là có thiên long bát bộ, không hành hộ pháp hộ trì. Pháp hội mà Sư Tôn đích thân chủ trì chắc chắn hiển lộ kì tích lớn, cảm ứng lớn, khiến cho những người đến tham dự đạt được đại phúc huệ, tràn đầy pháp hỷ. Đơn vị tổ chức càng làm càng có nhiều tự tin, lên kế hoạch sau này sẽ làm pháp hội hoành tráng hơn nữa. Khi đến mỗi địa phương, các đệ tử đều sẽ sắp xếp đi chơi ở trung tâm thành phố, tham quan các di tích văn vật lịch sử ngày xưa và các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Du khách nườm nượp, dòng người ken dày, chúng tôi cũng đi tới đi lui trong dòng người đông đúc, tham quan nhà quốc hội Canada, giáo đường thánh Joseph (Quebec Canada), viện bảo tàng. Ở Pháp thì tham quan bảo tàng Louvre ở Paris, sông Seine, viện thánh mẫu Maria, tháp Eiffel. Ở Hà Lan thì đi tham quan cối xay gió và các di tích văn hóa lịch sử ở vùng nông thôn. Ở nước Anh thì tham quan tu viện Westminster nổi tiếng nhất, và bảo tàng tượng sáp,v.v. Có việc rất vi diệu, đó là mỗi lần đến một địa điểm tham quan, bất cứ khi nào Sư Tôn đi bộ trên đường thì đều thu hút rất nhiều ánh mắt chú ý của người khác. Có một số người không kiềm chế được đã nhanh chóng chạy đến trước mặt hỏi: "Ngài từ đâu đến? Các ngài có phải Mật tông không? Tôi thấy ngài nhất định là một vị cao tăng, tôi muốn kết duyên với ngài, nắm tay có được không?..." Chúng tôi đến thăm Hoàng Gia Anh, tại trung tâm mua sắm, (khi người của Hoàng Gia đến thì trung tâm mua sắm lập tức phải phong tỏa, đóng cửa, người ngoài không được đi vào). Chúng tôi tham quan ba tầng trưng bày tranh, người quản lý vừa nhìn thấy Sư Tôn thì biểu thị cực kì hoan nghênh, tự động lấy chìa khóa mở cửa phòng tranh đặc biệt mời riêng Sư Tôn vào, lại còn giới thiệu lần lượt từng bức họa nổi tiếng, hơn 10 người đệ tử khác thì đứng ở bên ngoài chờ. Việc kì diệu hơn nữa là có người ăn mày ở trên đường nhìn thấy Sư Tôn bèn lập tức đứng lên tiến về phía trước, chỉ cầu xin Sư Tôn. Các đệ tử ở bên cạnh đồng thời lấy tiền ra cho kẻ ăn mày, chẳng ngờ ông ta không cần, nhất định chỉ muốn được Sư Tôn cho tiền, miệng thì vẫn tự lầm bầm gì đó. Đáng tiếc là chúng tôi đều nghe không hiểu bởi ông ta là người Ấn Độ nói tiếng Ấn Độ. Nhưng ánh mắt của ông tha biểu lộ ra đầy cung kính là có ý muốn cầu ban cho may mắn. Những sự việc kì diệu có rất nhiều, thực sự lấy ví dụ không hết. Chuyến đi này luôn có sáu vị Thượng sư đi hộ tống, Sư Tôn không mặc long bào mà mặc quần áo Lama giống như mọi người đi bộ trên đường, nhưng tất cả mọi người đều tập trung ánh mắt lên người Sư Tôn, điều này là vì sao? Bởi vì Sư Tôn là một vị Phật sống đã chứng ngộ, có tướng mạo trang nghiêm, huệ nhãn từ bi, thân tỏa hào quang phổ chiếu chúng sinh, phóng chiếu uy lực, một cách tự nhiên chúng sinh nhìn thấy tự phát sinh lòng sùng kính hướng về ánh quang minh này. Tháng 9 năm 82 (Tháng 9/1993)

39. Giả sử tôi là trưởng một tông phái

Giả sử tôi là trưởng một tông phái, tôi sẽ thay đổi rất nhiều việc, lập tức thi hành những quy định mới, sẽ thông báo đến mọi nơi trên thế giới. Thứ nhất: thiết lập một tổ chức có hệ thống hoàn chỉnh, từ hệ thống phân quyền địa phương đổi thành hệ thống tập quyền trung ương, mọi người có cùng một quy tắc luật lệ hoạt động, thuận tiện giao tiếp và thuận tiện cai trị. Thứ hai: tất cả mọi khoản đóng góp ủng hộ đều phải quy về trung ương, gây quỹ để khởi động giáo dục, văn hóa, từ thiện, bệnh viện,v.v… Gây quỹ để làm, sức mạnh sẽ lớn. Thứ ba: không ngừng mở lớp dạy học, đào tạo nhân tài, nâng cao trình độ giáo dục, giáo viên vừa dạy vừa học, giao cho nhân tài đến các nơi thay mặt sư phụ hoằng pháp. Thứ tư: đặt ra kì hạn đi khắp mọi nơi trên thế giới hoằng pháp, cử hành pháp hội, làm mọi hoạt động truyền thụ Chân Phật Mật Pháp, ban gia trì của truyền thừa, quán đảnh, thuyết pháp khai thị, ban phúc phận cho mỗi một chúng sinh hữu duyên, sinh trưởng huệ mệnh. Thứ năm: làm từ thiện cứu tế rộng khắp, giống như Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, từ bi bình đẳng không phân biệt, bất kì người nào hay đất nước nào, chỉ cần có nạn gấp, nhất định cứu độ. Thứ sáu: thành lập một bệnh viện từ thiện xuất sắc, hoàn toàn miễn phí vì người bệnh mà phục vụ, cứu chữa với tốc độ nhanh nhất và sự tận tụy nhất để trị bệnh cho bệnh nhân, giúp cho mỗi bệnh nhân đều có được sự chăm sóc thân và tâm cẩn thận, nhanh chóng hồi phục sức khỏe. Thứ bảy: đối với những nhân tài xuất chúng, nhiệt tâm phục vụ, tu pháp tinh tấn, phát bồ đề tâm, xét theo quy định điều luật và kỉ luật giữ nghiêm ngặt của phân đường, không những ban tặng phần thưởng mà còn đặc biệt tuyên dương. Thứ tám: đối với những phân đường hoạt động quá lỏng lẻo trong quá khứ, phái người tài giỏi đến giúp đỡ hướng dẫn, đối với người đề cao danh lợi, phá hoại tập thể, nhất định nghiêm khắc trừng phạt. Những điều trên chỉ là mộng tưởng trong mơ! Hoàn cảnh thực tế là ngay hiện tại, thư từ gửi đến từ các đệ tử và phân đường đã chất cao như núi, chúng tôi bị thư "chèn" đến mức nghẹt thở. Điện thoại và fax từ khắp nơi trên thế giới không ngừng đổ chuông, mỗi ngày khách viếng thăm đến bấm chuông liên tục không dứt, sân trước đông đúc nhộn nhịp như họp chợ. Hôm nay cũng đã nhận được rất nhiều điện thoại báo cáo sự việc, các phân đường không hòa hợp với nhau, cãi nhau ồn ào, bất đồng giữa đồng môn và đồng môn, tiến hành việc bỏ phiếu bầu chọn lại thành viên hội đồng, ban điều hành. Mở cuộc họp cũng không đạt được đồng thuận, một lời thô lỗ, thế là lật bàn đạp ghế, thậm chí xắn tay áo lên thách đấu. Thử nghĩ là trưởng của tông phái, mỗi ngày đều vô cùng bận rộn với các công việc chính sự, mãi mãi có những việc không thể làm xong hết, chỉ mới nghĩ đến điều này một chút mà tôi đã cảm thấy sợ hãi phải than trời! Liên Hoa Đồng Tử Thánh Tôn, mau đến cứu con đi! Cả đời này tôi nằm mơ cũng không dám mơ giấc mơ làm trưởng tông phái! Trên thực tế, tông giáo chính là phương diện tâm linh, là tu tâm, cái tâm tu hành chỉ có thể tự mình lo việc của mình mà thôi.

40. Chúc mừng kỉ niệm 2 năm Chân Phật báo

Tháng 10 năm 1993 là kỉ niệm 2 năm Chân Phật báo. Vào ngày kỉ niệm vinh quang này, tôi nghĩ đến mọi loại công đức của Chân Phật báo, tin tưởng rằng tất cả độc giả sau khi đọc xong đều có thể khẳng định đây là một công cụ đại diện cho việc xuất bản, công bố các tính chất và hoạt động của tông phái. Đó chính là món ăn tinh thần của Chân Phật Tông chúng ta, cũng là nơi gửi gắm lòng tin tâm linh của các hành giả Chân Phật. Có nhiều đồng môn nói: Chỉ cần đọc Chân Phật báo là biết được tin tức mới nhất về hoạt động hoằng pháp của Sư Tôn, giống như giữ liên lạc liên tục với Sư Tôn vậy. Những khai thị mới nhất của Sư Tôn cũng rất nhanh chóng được truyền đạt đến đệ tử Chân Phật. Có thể biết được những tin tức mới nhất trong tông phái, cũng như tin tức về sự phát triển mạnh mẽ của các Phật đường ở khắp nơi trên thế giới. Chân Phật báo thực sự phát huy được sức mạnh truyền bá tối ưu, Chân Phật đệ tử rất thích nó, đọc nó, đọc rồi lan truyền nó. Chỉ trong vòng 2 năm ngắn ngủi mà đã lan rộng đến các nơi trên thế giới, số lượng phát hành nhảy vọt với 20 vạn bản. Gần đây Chân Phật báo đã vinh dự được phê chuẩn cho xuất bản và phát hành tại Malaysia. Số lượng phát hành ở đây cũng tương đối khả quan, hơn 40 phân đường tại Malaysia đã phối hợp để lan truyền, tương lai sẽ trở thành "siêu sao" xuất bản của Phật giáo địa phương. Chân Phật báo cũng dựa trên truyền thừa mà hoằng dương Phật pháp, dựa trên tâm từ bi, tinh thần quảng độ chúng sinh để đi vào xã hội nhân gian. Cũng chính nhờ tờ báo giống như kim xâu chỉ, rất nhiều độc giả đã cảm động mà quy y, học Phật tu hành, đi vào các dạng và lớp của thế giới tâm linh, tìm kiếm chân lý và bước tới quang minh. Nhân đây hy vọng hành giả Chân Phật ai ai cũng đều quan tâm đến Chân Phật báo, nhiệt tình ủng hộ và đặt mua báo dài hạn. Các phân đường sẽ đóng góp các bản thảo bài viết về hoạt động, từ đó truyền đến các vườn hoa công viên cho mọi người, lợi mình lợi người. Tất cả cùng đoàn kết như một, cùng hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, giúp người người thành Phật. Sư Tôn đã từng vì Chân Phật báo mà kêu gọi: "Hy vọng mỗi phân đường Chân Phật Tông trên thế giới và hành giả Chân Phật phối hợp hết sức mình, tương lai có thể phát triển các hoạt động Phật pháp của tông phái, nhờ đó việc truyền pháp quán đảnh có thể được thi hành thuận lợi. Như vậy mới có thể hoàn thành được chức năng của tổ chức, cũng thể hiện được sức mạnh của bản thân, phát huy được phẩm vị tối thượng của Chân Phật Tông." Hy vọng tất cả mọi người cùng hộ trì. Om Mani Padme Hum! Tháng 10 năm 82 (Tháng 10/1993)

41. Nói chuyện "làm người khó”

Cuộc sống có ba cái khó: lên trời khó, kiếm tiền khó, làm người khó. Khó lên trời - tu hành từ khi còn mơ hồ đến khi đạt được tất cả giải thoát và đạt đến cảnh giới giác ngộ là nguyện vọng của mỗi một thành giả, nhưng rất khó đạt được. Khó kiếm tiền - trong tâm của con người thế tục lúc nào cũng có vô số dục vọng và lòng tham vô cùng tận, xoay vòng trong việc làm lợi cho bản thân suốt thời gian dài. Có nhiều rồi vẫn còn muốn nhiều nữa do bởi lòng tham vô đáy, thế nên nói kiếm tiền khó. Khó làm người - người trong thiên hạ ai mà không có khuyết điểm, mỗi người đều mắc phải không nhiều thì ít. Nhưng thiên hạ lại tập trung vào bới tìm khuyết điểm và lỗ hổng của con người, bám vào những cái này để đánh giá. Làm sao có người hoàn hảo không tì vết đây? Do vậy làm người rất khó. Có câu nói "nhân thành tất Phật thành", chính là thành tựu làm một con người hoàn hảo tức là thành Phật. Sư Tôn khai thị: làm người cơ bản nhất là cần có tâm lương thiện, tâm ái, tâm công đức. Thành tựu hoàn hảo việc làm người thì vị này chính là thánh nhân, vô cùng phi thường. Mặc dù làm người khó, thành Phật lại càng khó, nhưng từ xa xưa vẫn có nhiều người tu hành đạt chứng quả. Những người này đương nhiên có đạo lý làm người và phương pháp tu hành vô cùng vi diệu thậm thâm. Các vị đều bước những bước đi như nhau, cũng có thể đạt đến bến bờ giác ngộ giống nhau. Tuy nhiên, muốn vãng sinh Phật quốc trước tiên cần có tâm bình đẳng, hòa hợp với tâm của đạo, mới có thể tiến tới tâm từ bi, tâm thủ giới, tâm nhẫn nhục, tâm thiền định, tâm trí huệ. Lúc đó kết hợp phương tiện thiện xảo sẽ giúp ta đến gần hơn với Phật đạo. Con người nói chung vì không thể có tâm bình đẳng nên cảm thấy đau khổ, trên quan hệ giữa con người với nhau ngày càng lắm mâu thuẫn, không thể cùng với bất kì ai sinh sống hòa thuận, nhân duyên không tốt, làm người thì không thể thành công. Nếu mỗi khi phát sinh sự việc bất hòa đều cẩn thận nghĩ tới cách xử lý, thì bản thân phản ứng này đã khiến sự việc mềm dịu đi. Nếu có thể để mỗi sự việc thuận theo tự nhiên, tùy thuận, thì mọi thứ sẽ đều hài hòa an ổn. Nếu có thể giữ tâm bình đẳng, tâm tùy thuận làm cơ sở làm người, bước từng bước tiến sâu vào trong Phật pháp, hiển hiện ánh sáng trí huệ. Với cảnh giới này, sẽ làm người thành công, thành Phật cũng dễ hơn nhiều.

42. Tình cảm tự nhiên cho Phật tuổi thanh xuân

Vào thời điểm mà tôi có nhiều xúc cảm liên miên, số phận dường như có sự sắp đặt rằng ngài cần trôi dạt đi muôn nơi. Tôi muốn thưởng thức cuộc đời kẻo không còn kịp nữa, tôi cầu ngài ở lại, nhưng ngài đã đi xa cùng với tham vọng lớn lao rồi. Cảm giác ấy giống như mất đi thứ gì đó. Dường như cuộc sống không có cách nào hoàn thiện. Đơn giản là giống như mất đi điều gì đó. Ngài có hành trình cuộc sống của ngài. Tôi có vị trí số mệnh đã định của mình. Một khoảnh khắc gặp gỡ ngắn ngủi huy hoàng. Mãi mãi lưu lại ở sâu thẳm trong tim. Hai trái tim biết. Đi qua những lời thề hứa nguyện cùng ngài dưới cây kia. Dường như nghe thấy những tiếng gọi của ngài. Gửi nỗi nhớ theo mưa gió. Gửi lời chúc phúc vào trong mưa gió. Chờ đợi hồi đáp của ngài. Sống trong những ngày tháng chờ đợi. Mặc kệ người ta nói, tình là duyên, tình là nghiệp, tình là không. Tôi vẫn thích. Tình cảm tự nhiên. Tình thân đem lại hy vọng cho cuộc sống.

43. Ý nghĩa thực sự của lui về ẩn cư

Khi tôi nghe thấy Sư Tôn tuyên bố sẽ lui về ẩn cư, sống những ngày tháng an tịnh ở nơi xa xôi, trong lòng tôi bàng hoàng vô hạn, giống như mất đi điều gì đó. Tôi vô cùng buồn bã và khóc trong nỗi buồn đau đớn. Giống như đứa trẻ đang học đi trên đường cần có người dẫn dắt mới có thể đi được, tôi cần có người để dựa vào giúp đỡ mình đi. Bỗng trong phút chốc không ngờ giống như mất đi tất cả mọi thứ, không biết cách nào để đi tiếp, hoang mang không biết phải làm sao. Tôi có cảm tưởng rằng mình chẳng còn chỗ dựa, rất cô đơn tội nghiệp, lẽ nào cứ như vậy mà ngày càng trầm luân? Lẽ nào tôi cứ dựa dẫm như vậy không thể đứng lên đi? Lẽ nào một hành giả Chân Phật lại không có dũng khí như vậy ư? Nghĩ đến việc "lao đầu vào uống rượu để đánh thức trí huệ", hóa ra Sư Tôn đang cổ vũ hành giả Chân Phật phấn chấn lên mà lập chí, dũng cảm đứng dậy, tự mình học cách đi trên đường, đừng lúc nào cũng như đứa trẻ mãi không lớn luôn cần có người chăm sóc. Mọi thứ cần tự dựa vào mình, vững mạnh tín tâm, phát bồ đề tâm, dũng mãnh tinh tấn tiến lên phía trước, ánh sáng Chân Phật chắc chắn sẽ cùng với ta đồng hành. Lui về ẩn cư lẽ nào không phải là một chuyện tốt. Sư Tôn đã vô cùng cần mẫn giáo dục đệ tử, lại thay đổi cách thức hoằng pháp. Dù ngài đã nói rõ ràng rằng sẽ không chủ trì bất kì pháp hội nào nữa, nhưng lại cổ vũ đệ tử cần trọng pháp, có thể thỉnh cầu truyền pháp cho cá nhân riêng lẻ, truyền dạy pháp một kèm một, tập hợp nhân tài hay truyền pháp cho một lớp học nhỏ. Việc này không chỉ là chủ động hơn trong đào tạo nhân tài mà còn nâng cao tài năng của hành giả Chân Phật. Do vậy việc lui về ẩn cư biểu hiện bên ngoài thì dường như là đi ở ẩn, không quản lo bất kì việc gì nữa, nhưng thực tế không phải vậy. Sư Tôn tuyệt đối hy vọng các đệ tử sớm có ngày thành tựu, nôn nóng hy vọng các đệ tử cùng chuyển pháp luân. Chúng ta đều biết thệ nguyện của Sư Tôn là "phân thân xả cốt độ chúng sinh", không từ bỏ một chúng sinh nào. Chúng ta cũng đều biết tấm lòng từ bi hỷ xả tứ vô lượng tâm của Sư Tôn, từ bi với chúng sinh, sẽ thỏa mãn nguyện vọng của chúng sinh. Chúng ta hãy cùng cầu thỉnh "Ánh sáng Chân Phật phóng đại quang minh chiếu thế gian."

44. Liên tưởng đến "dấu lặng”

Khi Sư Tôn tuyên bố lui về ẩn cư, các đệ tử trên khắp thế giới đã lan truyền nhau tin tức này, trở thành chủ đề gây chú ý nhất và tạo ra các phỏng đoán của mọi người. Một bầu không khí nóng hừng hực đâu đâu cũng nói đến, hơn nữa còn có đủ kiểu tình huống phản ứng đối với những tin tức này. Có người nghe tin này lập tức khóc lóc nói không nên lời, ca thán rằng bị bỏ rơi, không còn chỗ dựa. Có một số người phản ứng là: Sư Tôn đã giải thoát rồi! Còn có người nói: Sư Tôn đã quá vất vả rồi, cũng phải nghỉ ngơi thư giãn một chút! Có một số người khác thì biểu hiện là: không biết không thấy, như như bất động. Thậm chí có phân đường đặt câu hỏi: sau này chúng ta dựa vào cái gì để làm trụ cột tinh thần, v.v… rất nhiều vấn đề. Vì lý do này mà điện thoại của trung tâm hồi đáp thư tín bận liên hồi, tôi giống như một cái máy trả lời vậy, có người hỏi thì phải trả lời, nhưng các câu hỏi giống nhau mãi cũng hơi khiến người ta thấy phiền nhiễu. Thực ra đáp án của vấn đề này trong những văn tập Sư Tôn sáng tác từ lâu trước đây, thỉnh thoảng có thể thấy được rồi. Nói đơn giản, Sư Tôn chính là vì "không thích danh, không thích lợi, không thích địa vị cao". Ngài chính là vì tự do không ràng buộc như thế mà bước xuống bảo tọa. Đây chính là một vị Phật sống tự tại đại viên mãn đã chứng đắc tính Không, không còn vương vấn dù chỉ một sợi chỉ, thì mới có thể làm được việc này. Hiện tại Sư Tôn vẫn viết sách, trả lời thư, ban quán đảnh gia trì, vẫn còn khai thị duy nhất tại Chân Phật Mật Uyển cũng như chọn lọc nhân tài để truyền nội pháp. Các đệ tử nên hết sức trân trọng thời kì "bán ẩn cư" này, nỗ lực tinh tấn, đều đặn tu tốt nền tảng của sơ quán "ngoại pháp", rồi cầu thỉnh Căn bản Thượng sư truyền thụ nhị quán "nội pháp", đừng chần chừ trễ nải tiến lên phía trước, lười biếng không chăm chỉ, để tháng năm trôi qua uống phí mất. Nếu Sư Tôn tuyên bố hoàn toàn ẩn cư, không gặp bất kì người nào nữa, nếu đúng thật như Sư Tôn đã nói: "Tương lai lúc lui về ở ẩn sẽ đi vào núi rừng rồi biến mất, thậm chí biến mất khỏi thế giới Ta Bà, biến mất mãi mãi, tôi không thấy mọi người nữa, mọi người không thấy tôi nữa." Lúc đó, tôi nghĩ, các đệ tử hối tiếc thì đã muộn rồi. Nhân đây tôi cũng chủ động cùng mọi người động viên lẫn nhau: "Trong quang minh của mưa pháp do Sư Tôn ban ra khắp nơi, hãy nắm giữ lấy những lợi ích của mưa pháp, đừng để lỡ mất cơ duyên được sống cùng thời thế với Phật, hãy bộc lộ Phật tính căn bản tự nhiên vốn luôn tràn đầy trong ta, truyền ngọn đèn pháp của Chân Phật từ đời này qua đời khác." Sư Tôn nói: "Làm nên một giai điệu âm nhạc tuyệt vời, đoạn đẹp đẽ nhất khiến người ta cảm động, đó chính là "dấu lặng", âm thanh ngọt ngào còn đang vang bên tai, đột ngột dừng lại, sự im lặng đột ngột đó là đẹp nhất." Tôi nghĩ, việc lui về ở ẩn đột ngột này cũng đẹp như một dấu lặng, chẳng phải thế sao?

45. Quan điểm về tiền của hành giả

Theo cách nói thông thường: "Tiền tài là vật chất thế gian, khi đến không có gì, khi đi cũng không có gì, sinh ra cũng chẳng đem tiền đến, chết cũng chẳng đem tiền đi, không thể sở hữu mãi mãi, ngay đến thân mình cũng không giữ được, nói gì đến tài lợi!" Dòng chảy của đồng tiền giống như gió luôn thổi không cố định, có lúc thổi đông, có lúc thổi tây, lo được lo mất. Lợi ích đã nhìn thấy tận mắt, thậm chí đã mang theo người rồi, trong nháy mắt lại chảy mất đi nơi nào, đến với người khác, thật khiến người ta khó nắm bắt được. Mọi người thử nghĩ xem, có người dùng toàn bộ sức lực của bản thân để đi kiếm tiền, nhưng vẫn không đạt được phần thưởng xứng đáng, cả đời vẫn khốn cùng. Có người lại vô cùng dễ dàng, vừa đơn giản lại chẳng tốn sức mà tiền tài cứ thế mà đổ về, trở thành đại gia. Trong thế giới tâm linh mà ta không nhìn thấy được, lẽ nào từ lâu đã có "định số"? Trên thực tế, tiền tài đủ dùng thì là tốt, nhiều quá có khi lại đem đến phiền phức, dễ tạo nghiệp chướng, dùng tiền một cách đúng đắn có thể lợi người, còn dùng không đúng thì hại người hại ta. Đạo lý ai ai cũng hiểu, nhưng nói thì dễ làm thì khó, không ngăn nổi tham niệm, mắt thấy tiền thì sáng lên, coi tiền là tình yêu lớn nhất, thậm chí giành chiếm lấy phần lớn, lừa đảo ăn cướp, đầu cơ đánh bạc, muốn dùng hết tất cả mọi cách có thể, lòng tham vô đáy, cả ngày khổ vì theo đuổi tiền tài lợi lộc. Trên thế gian này, vì tiền tài mà các tình huống công khai tranh giành hoặc dùng thủ đoạn ngầm rất nhiều. Anh em một nhà vì tranh giành tài sản mà sát thương lẫn nhau, vì tiền mà chết. Bạn bè chơi với nhau nhiều năm cũng vì lợi ích mà phá hủy mối quan hệ tốt đẹp, đoạn tuyệt qua lại. Có rất nhiều người vì hợp tác làm ăn nhưng không được chia lợi nhuận bằng nhau bèn tố cáo lên cấp trên, lao tâm tốn kém, thật khiến người khác phải thở dài! Người tu hành chân chính đừng gom góp tài sản, cần hài lòng với những gì mình có, cần bố thí cúng dường, làm lợi cho mình cũng cần làm lợi cho người khác, tất cả đều nên tự nhiên. Cần thường xuyên suy nghĩ rằng thân thể của ta cũng không thể giữ được mãi mãi, nói gì đến tài lộc của thế gian. Niềm vui sướng nhất của đời người quán chiếu yên tịnh, là sự bình hòa tâm linh, là đến được bờ bên kia của cảnh giới khai ngộ. Vì sao hành giả không vui vẻ mà buông bỏ, hài lòng với những gì mình có.

46. Thưởng thức tranh

Trong quá khứ, đối với tranh vẽ có thể nói là trong tâm trí tôi chẳng đọng lại chút ấn tượng gì. Khi Liên Hoa Thục Linh tặng tôi một cuốn sách tranh của các danh họa nổi tiếng, tôi cẩn thận lật từng trang từ đầu đến cuối, xem xong thì cảm giác là: chẳng cảm nhận thấy gì, chẳng bằng đi mua một ổ bánh mì Pháp về cắn một miếng còn cảm thấy thích hơn - rất rõ ràng. Trong cuốn sách tranh tôi thấy phía trên mỗi bức tranh đều có một đường viền run run, đậm nhạt khác nhau, đoạn nối tiếp đoạn không liền mạch, thậm chí các nét vẽ cũng lẫn vào với nhau, rất giống tranh vẽ của trẻ mẫu giáo lần đầu tiên cầm bút, giống như vẽ lung tung loạn xạ. Dù sao chúng cũng vượt xa cả những bức tranh vẩy mực ý cảnh cao thâm trừu tượng, xem giống như là bất cẩn làm đổ mực vẽ ra rồi vẩy lên giấy vậy, rất nhiều màu sắc làm thành một đám, sao có thể gọi là một bức tranh nhỉ? Thật khó để bảo người ta đấy là sách tranh của danh họa nổi tiếng, lại còn có phần làm tôi hoa mắt chóng mặt nữa, tranh và ý nghĩa tên gọi của tranh về cơ bản là chẳng hợp với nhau. Ví dụ: tác phẩm tên gọi "Ngựa phi nước đại", cơ bản là nhìn không ra đồng cỏ và bầu trời. Xem phần giải thích thì mới nhận ra dường như là vẽ đồng cỏ, nhưng ngựa thì ở cao tuốt trên không thì không chạy. Không vẽ bầu trời mới có thể thể hiện sự vô hạn của bầu trời rộng lớn. Từ sau khi Sư Tôn bắt đầu học vẽ tranh, Sư Tôn rất thích đến lớp học vẽ, thường tham khảo các tuyển tập tranh, thưởng thức những tác phẩm của người đi trước, hoặc đi ra ngoài vẽ tranh phong cảnh, tràn đầy cảm hứng. Ngài hễ có thời gian rảnh là cầm bút vẽ, mỗi ngày đều vẽ, chìm đắm trong cảnh giới mỹ thuật. Thời gian này, Sư Tôn ngoài viết sách ra thì vẽ tranh đã trở thành một thú vui của cuộc sống, ngay cả thời gian trống năm phút cũng không nỡ bỏ phí, Sư Tôn dùng cả năm phút này chui vào phòng vẽ, an nhiên tự tại vẽ tranh. Có khi, vẽ một loáng đã hết nửa ngày. Có một lần, lúc Sư Tôn đang hoàn toàn chìm đắm vào việc vẽ tranh, tôi mở cửa đi vào phòng vẽ. Tôi nói: "Sư Tôn, có người gọi điện đến có việc quan trọng, muốn nói chuyện với ngài." Sư Tôn nói: "Bà xem này, La Hán tôi vẽ, như như bất động." Tôi nói: "Đừng vẽ đến mức tẩu hỏa nhập ma nữa!" Sư Tôn nói: "Không tẩu hỏa nhập ma làm sao có công lực, thực sự tẩu hỏa nhập ma, ma cũng thành Phật." Sư Tôn lại nói: "Tôi sẽ đem ý Phật, ý thiền, phối hợp với phương pháp đơn giản nhất để thể hiện trên tranh vẽ, đây là tranh vẽ rất có ý cảnh. Đối với chủ đề vẽ tranh, pháp ngữ là móc vàng, vi diệu tinh tế, từng dòng thơ kệ cũng được xem là sáng tạo." Cuối cùng tôi cũng hiểu được thế nào là thưởng thức tranh, hóa ra vẽ tranh cũng là tu hành, cũng là độ chúng sinh, thông qua tranh vẽ mà đem thân, khẩu, ý dung nhập vào trong định, thể hiện ra ánh sáng rực rỡ đẹp đẽ nhất, phổ chiếu chúng sinh.

47. Phật pháp làm đẹp thân tâm

Nói đến quan niệm "đẹp và xấu" của con người làm tôi nhớ đến việc đã từng gặp rất nhiều người. Họ thích được đẹp nên đã đi phẫu thuật thẩm mỹ khuôn mặt cùng ngũ quan, hoặc đi chỉnh hình lại cơ thể. Họ chỉ nghĩ rằng việc đó làm cho chính mình đẹp hơn, có thể có tướng giàu có hơn, để một lần nữa được đổi vận số tốt hơn. Trên nhân quả mà nói, ngũ quan của con người, hình thức của thân thể và tính cách cá nhân đều đến từ nhân quả kiếp trước cộng thêm thêm bớt bớt mà thành. Do vậy ngũ quan được thừa hưởng từ tiền kiếp là không thể thay đổi được. Vô số chúng sinh, mỗi người đều có nhân quả vô số kiếp không giống nhau, do vậy vẻ bề ngoài của vô số người hoàn toàn không giống nhau, ngay cả các cặp sinh đôi cũng có những điểm không giống nhau. Vẻ bên ngoài của con người là dấu hiệu của nhân quả, người nghiên cứu các dấu hiệu này sẽ hiểu cách xem tướng mặt, từ đó bước thêm một bước là quan sát khí biểu hiện ra trên thân thể và tướng mặt mà có thể lập tức tính toán ra được sự tốt xấu của vận mệnh, việc này dễ trong tầm tay, rất chính xác. Do vậy số phận cả đời của con người hoặc làm bất kì sự nghiệp gì, có thể từ trên cơ thể và tướng mặt mà thấy được. Họ dùng hết các phương tiện dựa vào trí lực và nỗ lực. Sự nỗ lực tuy có thể cải tạo được vận mệnh, nhưng vẫn không thể làm thay đổi được quỹ đạo của số mệnh. Tới lúc này thì họ tìm đến các viện thẩm mỹ chỉnh hình, nâng mũi, kéo cằm, cắt mi thành mắt hai mí, xăm mày, xăm mí mắt, thậm chí sửa lại cả cơ thể, đem chính mình ra chỉnh hình thành người đẹp, người có tướng giàu có. Thực tế việc này xảy ra rất nhiều. Đương nhiên họ đã thành người đẹp rồi, có tướng mạo giàu có, nhưng đây chỉ là sự cải tạo bên ngoài. Cái "khí" cơ bản nội tại vẫn còn tồn tại, không hề thay đổi, vẫn đi trên con đường số phận của "khí" gốc này. Hơn nữa, bát tự của con người từ lâu đã là định số, cũng là một trong những dấu hiệu của nhân quả, ngay cả đến những bác sĩ thẩm mĩ giỏi nhất cũng không thay đổi được bát tự và định luật nhân quả. Duy nhất chỉ có sự chân thành mới có thể làm cho bạn xinh đẹp. Hơn nữa chỉ một điều có thể thay đổi vận mệnh, đó chính là: học Phật tu hành. Học Phật tu hành là chuyển đổi từ trong nội tâm, thông qua Phật pháp mà quán tưởng tu trì. Làm đẹp cho thế giới tâm linh, chính bản thân sẽ phát hiện ra vẻ đẹp của thế giới nội tại, sẽ tỏa ra hào quang, sẽ kết thiện duyên rộng khắp, hào quang tỏa chiếu, trở thành người đẹp chân chính, trở thành người giàu có.

48. Thượng sư là lửa

Căn bản Thượng sư trong Mật giáo là trân quý nhất, là hóa thân của Ngũ Phật, cũng là Kim Cương Tổng Trì. Ngài có thể đại diện cho mọi chư Tôn, thiên biến vạn hóa, giúp các đệ tử quán tưởng biến hóa quán đảnh, có được gia trì của dòng truyền thừa vô thượng. Do vậy tầm quan trọng của Căn bản Thượng sư chính là cái gốc đầu tiên cho sự thành tựu của hành giả tu hành. Bất kì ai cũng đều muốn được học pháp với chính Căn bản Thượng sư. Không chỉ học lý thuyết pháp và các vấn đề của Pháp mà còn muốn học theo những lời nói hành động trong cuộc sống hành ngày của thầy, hòa nhập với cách thức giải quyết công việc của thầy, lại càng muốn học đến nội pháp một cách chính xác, rồi thâm nhập đạt đến được tâm quán đảnh của vô thượng đại pháp. Trong tiểu sử của các vị tổ sư đời trước, những kí giả thời đó ghi chép lại thời kì các vị tổ sư đi cầu pháp, từ bỏ tất cả mọi tài sản, đối diện với nguy hiểm đến tính mệnh mà đi cả nghìn dặm tìm kiếm minh sư, đem tất cả thân, khẩu, ý mà bản thân mình có cúng dường lên Căn bản Thượng sư với mong muốn được ở gần thầy học pháp. Được ở bên thầy học pháp là điều mọi người đều thích, nhưng trong Mật giáo có câu nói: Căn bản Thượng sư là lửa. Ở gần quá sẽ bị bỏng. Ở xa quá thì không có được nhiệt năng gia trì. Theo ý nghĩa của câu nói này, hành giả cần biết làm thế nào để ở gần "lửa", làm thế nào để hiểu được nguồn lửa, tia lửa, tuyến lửa, lửa đốt, ngọn lửa, đợi đến khi bạn hiểu đặc tính của lửa rồi thì mới không bị bỏng. Cách tốt nhất là: luyện cho bản thân biến thành vàng, vàng thật không sợ lửa, càng luyện càng hiển lộ sáng lấp lánh. Người chân tâm tu hành không sợ bất kì bài thử nghiệm nào, phải trải qua rất nhiều thử nghiệm mới có thể tu được tâm kim cương bất động, có được tâm kim cương bất động rồi mới có thể dung nhập với lửa, lửa-ta hợp nhất, thành tựu bổn tôn.

49. Thánh giả và phàm ngu

Năm mới đến, mọi người tặng quà lẫn nhau. Nhân tiện đón năm mới, tôi nhận được rất nhiều loại lịch đẹp đẽ. Tôi lấy lịch tháng có tranh Phật mình thích nhất treo lên từng bức tường trong nhà, khiến tôi cảm thấy nơi đâu cũng có Phật, làm tăng thêm không khí trang nghiêm. Có một quyển lịch tương đối đặc biệt, mỗi trang đều in một câu danh ngôn sâu sắc, trong đó có một câu là: "Không có bạn bè, cũng không có kẻ địch, là phàm ngu. Anh ta không có tài năng, quyền lực." Tôi đọc đi đọc lại, ngẫm nghĩ một lúc thì nhận thấy rằng câu nói này về mặt biểu hiện bên ngoài mà nói có ý nghĩa rất nghiêm túc. Nếu là một người không thích xã giao, thích lặng lẽ hướng nội, bất kể ở vào hoàn cảnh nào đều luôn luôn một mình đơn lẻ, không hợp với đám đông. Như vậy thì người khác cũng sẽ nhận thấy anh ta lập dị và không thích giao lưu với anh ta, thế là không có bạn bè. Tuy nhiên, không có bạn bè, hiếm khi liên lạc với người khác, khó giao tiếp, không khác gì tự mình tạo giới tuyến ngăn cách, không có va chạm, đương nhiên cũng không có kẻ thù. Người không có bạn bè, cũng không có kẻ thù, lại không thể hiện được tài năng thì không có quyền lực là điều đương nhiên.Không có tài năng và quyền lực, chắc chắn sẽ bị người khác xem thường là kẻ phàm ngu. Trong lúc suy ngẫm, tôi nghĩ đến: người sáng lập tông phái, Sư Tôn với hai trăm vạn đệ tử cung kính, mà cũng không có bạn bè, không có kẻ thù, nhưng ngài lại là Thánh nhân, là người khai ngộ, có tài năng của "siêu nhân" và quyền lực đại uy đức. Bởi tất cả mọi người đều ngưỡng mộ Sư Tôn như người có địa vị cao quý, người thân, bạn bè, đồng học, chí thân, thậm chí bạn bè thân thiết nhất. Đến cuối cùng thì bất kì ai kết duyên cũng đều ngưỡng mộ mà quy y thành đệ tử. Lễ nghi giữa Sư Tôn và đệ tử: Sư Tôn chính là Sư Tôn, các đệ tử đối với Sư Tôn thì thái độ lời nói hành động đều phải cung kính lễ phép, vì thế trong tình huống này, Sư Tôn không có bạn bè gì. Một vị Phật sống đã chứng ngộ tính Không chân chính, dung nhập vào vũ trụ, tức thân thành Phật, với trí huệ tu hành đến trang nghiêm viên mãn, nhất thiết vô ngại, tự tại, thần thông, nhậm vận, từ bi bình đẳng không phân biệt. Sư Tôn của chúng ta đương nhiên không có kẻ thù. Sư Tôn người được mọi người kính ái, ủng hộ, ngưỡng mộ, quý trọng và chí tâm đảnh lễ, có tài năng của siêu nhân, hơn nữa lại có quyền lực rộng lớn phủ khắp chúng sinh, người thành tựu như vậy sẽ có quyền lực một cách tự nhiên. Kẻ phàm ngu không có bạn bè, không có kẻ địch hoàn toàn khác với Thánh Tôn không có bạn bè, không có kẻ địch. Một người không có tài năng lẫn quyền lực, một người có tài năng và quyền lực. Sự khác biệt này nằm ở chỗ, một người là phàm ngu, một người là Thánh giả.

50. Đối thoại giữa tâm và tâm

Tôi còn nhớ vào tháng 8 năm Dân Quốc 93 (năm 2004), lúc Sư Tôn đến Hà Lan hoằng pháp, trong buổi gặp gỡ kí giả, kí giả hỏi: "Hoạt Phật có siêu năng lực thần thông quảng đại, có thể biết quá khứ tương lai, đi khắp mười phương, đến Tì Lư Tính Hải, biết tất cả những gì con người không biết. Xin hỏi: ngài có biết tên của từng con đường tại thủ đô của Hà Lan không?" Sư Tôn trả lời: "Tôi không biết. Nhưng nếu tôi thiền định, dùng thiên nhãn để quan sát, biết được rằng muốn nhận ra các tên đường của Hà Lan thì trước tiên cần biết các con sông của Hà Lan." Lại có người hỏi: "Ngôn ngữ của Phật Bồ Tát tuyệt vời như vậy, ngài đều có thể hiểu được thông suốt, rõ ràng rành mạch ý nghĩa của các vị, sao ngài không thể dùng tiếng Anh để thuyết pháp, độ hóa người phương Tây?" Sư Tôn trả lời: "Ngôn ngữ của Phật dùng tâm, dựa vào tâm pháp để thông hiểu, tự khắc có thể hiểu rõ. Giả sử tôi sinh ra ở nước Mỹ, tôi chắc chắn sẽ dùng tiếng Anh để thuyết pháp." Các câu hỏi kiểu dạng thế này vẫn thường có người hỏi. Kì thực sự liên quan của những câu hỏi kiểu này với tâm tu hành không có nhiều. Tu hành là nói chuyện tâm linh, dùng tâm hướng về Phật, không để cho bất kì sự vật bên ngoài quấy nhiễu, luôn luôn duy trì trạng thái thiền định, nhập vào Không, hòa nhập vào tính Không mà có được đại lạc. Đối với việc biết tên đường phố: tài xế taxi là biết rõ nhất. Đối với việc dùng tiếng Anh để thuyết pháp: người được học tiếng Anh thì sẽ biết. Gần đây Sư Tôn giải thích về Kinh Viên Giác, nói đến trong kinh văn có câu nói: "Phật Đà thuyết pháp cho Đại Bồ Tát Ma Ha Tát 10 vạn vị" để mọi người cùng suy nghĩ. Vào 2500 năm trước, không có micro, không có hiệu ứng của dàn âm thanh hiện đại, Phật Đà làm sao để giảng cho mười vạn người có thể nghe được đây? Cũng cần biết rằng thời đó Phật Đà cũng không phải dùng tiếng Ấn Độ để thuyết pháp. Ngài nhập vào trong thiền định để thuyết pháp, dùng pháp âm thậm thâm vi diệu để giải thích cho thập phương pháp giới, giúp chúng sinh nghe được pháp âm của Phật Đà. Có rất nhiều đệ tử trong mơ nhận được gia trì, quán đảnh của Liên Hoa Đồng Tử, thậm chí học pháp trong mơ, (việc này được kể trong các văn tập trước đây của Sư Tôn). Những điều này hoàn toàn minh chứng cho việc Sư Tôn có thể đi vào trong mơ của đệ tử để truyền dạy Phật pháp. Lại có rất nhiều đệ tử từ các dân tộc khác nhau cũng có thể trong mơ dùng ngôn ngữ của bản thân cùng Sư Tôn giao tiếp. Điều này càng chứng minh chắc chắn như thép rằng Sư Tôn trong thiền định có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ của tất cả các quốc gia. Sư Tôn cũng thường đến thiên giới, dùng thiên âm thuyết pháp, đến Quang Âm Thiên dùng ánh sáng thuyết pháp. Sư Tôn xem bói hỏi chuyện cho người ta, giải thích mọi nghi ngờ khó khăn của họ, cũng là nhờ có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, lậu tận thông cùng với chư Phật Bồ Tát Kim Cương hộ pháp thần chúng linh thông. Cảnh giới vi diệu này không lời nào có thể nói hết, thật sự là khó tưởng tượng bất khả tư nghì. Do vậy âm thanh khai thị của cảnh giới cao nhất là "vô thanh", là diệu âm của thiền định. Tháng 3 năm 83 (Tháng 3/1994)

51. Các dạng truyền thừa

Tổ sư Đạt Ma của Thiền tông ngồi quay mặt vào tường thiền định 9 năm, giác ngộ, học được an tâm lập mệnh. Hơn nữa nhờ có pháp tâm khai ngộ này mà ngài đã dạy dỗ chúng sinh tọa thiền minh tưởng, soi xét quan sát tâm mình, bồi dưỡng tâm bình an trong sáng yên tịnh, giúp cho bản thân họ đạt được tâm an. Thiền tông bất lập văn tự, thông qua luyện tập ngồi thiền mà mọi người đều có thể học được cách tu hành. Người bình thường liệu có thể ngồi quay mặt vào tường thiền định 9 năm được không? Việc này thực sự đòi hỏi lòng kiên nhẫn và nghị lực cực kì lớn, và cũng chỉ giới hạn ở những người có căn khí rất lớn mới có thể làm được. Đạt Ma tổ sư dựa vào vô ngã, vô tâm để truyền dạy tọa thiền tinh yếu cho Huệ Khả, thế hệ nối tiếp thế hệ truyền xuống đến Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, rồi lại truyền cho Lục tổ Huệ Năng. Mỗi thế hệ tổ sư tới thế hệ tổ sư kế tiếp đều truyền lại y bát, đại diện cho việc truyền thụ pháp tâm cũng như tín vật mà vị thầy luôn mang theo. Khi Lục tổ Huệ Năng có được y bát, nghe theo hướng dẫn của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lập tức ôm y bát chạy trốn, đi đến nơi khác để hoằng dương đạo lý của Phật giáo. Rất nhiều người nghe được tin tức này đã đuổi theo tìm giết để cướp y bát, muốn giành lấy địa vị của Lục tổ! Đoạn điển cố này vô cùng nổi tiếng, người theo học Phật không ai là không biết. Thiền tông lấy y bát làm tín vật truyền thừa so với truyền thừa của Mật tông thì hoàn toàn khác nhau. Ví dụ: Đời Dalai Lama thứ nhất truyền đến Dalai Lama đời thứ 14. Cả 14 vị Dalai này, mặc dù không phải là cùng một người, nhưng đều là từ vị Dalai đời thứ nhất chuyển thế mà thành. Nói cách khác là vị Dalai đời thứ 14 cũng chính là vị Dalai đời thứ nhất. Do vậy mỗi thế hệ truyền nhân đều được gọi là Dalai. Có người hỏi: Nếu như có được y bát của Sư Tôn, thậm chí là mũ miện, có phải là tương lai sẽ trở thành truyền nhân đời thứ hai không? Thực tế, Chân Phật Tông là tông phái lấy "tu Mật" làm chủ, cách thức truyền thừa của Chân Phật Tông chính là truyền thừa của Mật tông. 200 vạn đệ tử hiện tay đều là truyền nhân đời thứ hai của Chân Phật Tông. Lại hỏi: Tương lai khi Sư Tôn hóa thân thành cầu vồng nhập niết bàn thì ai sẽ làm chủ? Mọi người đừng quên lời thệ nguyện của Sư Tôn: "Phân thân xả cốt độ chúng sinh". Đương nhiên ngài sẽ tiếp tục thực hiện lời nguyện này mà lại đản sinh tại cõi Ta Bà độ chúng sinh, trở thành chủ tông đời thứ hai của Chân Phật Tông. Truyền thừa kiểu Mật tông chuyển thế như thế này vô cùng vi diệu, cho dù truyền qua bao nhiêu đời thì vẫn chính là từ vị đời thứ nhất. Dòng truyền thừa gốc này mới chính là cái gốc trong cái gốc. Ở đây rõ ràng là Căn bản Thượng sư của hành giả Mật tông không chỉ là người thầy của kiếp này, mà là Căn bản Thượng sư đời đời kiếp kiếp, thật quan trọng làm sao!

52. Tiến hành cùng tu phúc huệ

Nửa năm trước, Bạch Thiện Trí sư tỉ đặc biệt từ Vancouver, Canada đến Seattle nhờ Sư Tôn chỉ giáo đặt tên cho hội công đức. Sư Tôn tùy duyên bèn nói: "Vậy thì lấy tên là Hội công đức Hoa Quang. Bởi vì bà làm tổng hội trưởng, kêu gọi đồng môn Chân Phật Tông và thiện tín đại đức cùng làm việc thiện, đi giúp đỡ những người cần sự trợ giúp, làm tròn lời dạy của Phật Đà: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành" (Mọi việc ác không làm, mọi việc thiện cần làm), cho đến khi thành tựu Phật quả, chứng ngộ Phật đạo." Bạch sư tỉ vui vẻ cao hứng nói: "Hoa Quang Tự Tại Phật" ban cho tên "Hội công công đức Hoa Quang " vô cùng có ý nghĩa. Con nguyện theo lời dạy của Sư Tôn, tứ vô lượng tâm, từ, bi, hỷ, xả, làm các việc bố thí, làm việc thiện thiết thực rộng khắp, góp phần vào tinh thần của Bồ Tát "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi", thể hiện ánh sáng hoa quang huy hoàng phổ chiếu khắp con người thế gian! Trong khi làm việc bố thí, có thể dùng phương pháp bố thí để thu nạp người khác, dẫn dắt người khác hướng về đạo Phật. Khi nhìn thấy người khác có được sự giúp đỡ bố thí, hướng về đạo Phật quang minh, tâm mình cảm thấy hoan hỷ, đây chính là bố thí ba la mật. Công đức của việc này rất lớn. Tu hành lại có hai mục lớn là "pháp nhập thế" và "pháp xuất thế". Pháp nhập thế là gì? Chính là phương pháp đi vào thế gian để giải trừ những thống khổ phiền não của chúng sinh. Thế còn pháp xuất thế? Chính là cắt đứt những mê lầm để tu hành chân chính. Nhưng trước tiên hành giả phải có phương pháp giải trừ thống khổ phiền não của chúng sinh (pháp nhập thế) để làm cơ sở cho pháp xuất thế, việc này rất quan trọng. Từ trong pháp nhập thế mà ngộ ra, quay về quán sát tự nhiên mà có được tâm thanh tịnh, thâm nhập sâu vào trong trí huệ thiền định, thì sẽ dễ hơn rất nhiều. Để phổ cập rộng rãi tăng thêm lợi ích của chúng sinh, hội công đức Hoa Quang đã lên kế hoạch bốn hạng mục lớn là: văn hóa, y học trị liệu, giáo dục, từ tế. Bốn hạng mục này đều rất quan trọng, cũng rất có ý nghĩa. Trong cuộc đời là bể khổ này, vô số chúng sinh đang chờ đợi chúng ta đến cứu độ, chúng ta cần phải tích cực thúc đẩy. Sự nghiệp to lớn vất vả này cần thu thập nhiều ý kiến đóng góp để tăng thêm ích lợi, cùng lên kế hoạch, cùng hợp lực mới có thể phát huy được tốt đẹp. Vì vậy hy vọng rằng các hành giả Chân Phật Tông và thiện tín đại đức, mọi người cùng tu hành, lấy Bồ Tát hạnh "tôi giúp người người, người người giúp tôi" để tu phúc và tu huệ, để có được phúc huệ song toàn, viên mãn vô khuyết, có được đại lạc cùng trí huệ. Tháng 4 năm 83 (Tháng 4/1994)

53. Trâu buổi sớm

Số đã định. Làm tuổi trâu. Sinh giờ Dần. Số đã định. Trâu buổi sớm. Làm đêm làm ngày, không ngừng lao lực. Số đã định. Đeo ách lên người. Không có lựa chọn. Chịu đựng gió sương. Không muốn bị người quất roi. Dẫm một chân vào mộ phần. Sẽ có một ngày. Đất nước lửa gió phân tán. Khi chỉ còn lại một khắc thời gian. Tôi vẫn dùng sức lực lớn nhất nỗ lực cày ruộng. Cuối cùng. Cũng nguyện lấy thân xác đẫm máu tưới đẫm ruộng vườn. Là tôi. Theo vận mệnh mà nói. Mang thân trâu. Tôi thích!

54. Bí mật của thân, khẩu, ý tương ứng

Cái gì gọi là thân thanh tịnh? Có thể phân ra làm "nội" và "ngoại" để nói: Làm tất cả mọi điều thiện được phân loại là ngoại. Còn dấu hiệu thân bí mật của sự tương ứng với tam thân: pháp thân, báo thân, ứng thân được phân loại là nội. Nội ngoại thanh tịnh thì là thân hoàn toàn thanh tịnh. Nói một cách đơn giản là: thiền định, bắt thủ ấn, khiến thân trang nghiêm, ấn chứng bí mật của thân. Cái gì là ý thanh tịnh? Quán tưởng nhiều hóa thành một, lại lấy một hóa thành không, hóa thành hư vô, đi vào hư không vô nhị vô biệt, dung nhập hư không, nhập vào định, chính là ý thanh tịnh. Hành giả tu niệm Phật, đọc kinh, trì chú, đại lễ bái, tứ gia hành… các loại nghi quỹ pháp sự với mục đích làm cơ sở nhập Tam Ma Địa. Thông qua việc tu luyện nghi quỹ như vậy, đi vào cảnh giới định, hành giả có thể đạt được mục đích cuối cùng là thân, khẩu, ý thanh tịnh. Có một số người đối với ý nghĩa của thân, khẩu, ý vẫn chỉ hiểu biết nửa vời, đã liền phát nguyện rằng: tôi lấy thân, khẩu, ý cúng dường. Lại có một số người nói: muốn hợp nhất thân, khẩu, ý cùng Căn bản Thượng sư, nói thì dễ hơn làm, cơ bản là không thể được. Thân thể dung mạo của Căn bản Thượng sư chúng ta có tu thế nào cũng không thể biến thành giống như Thượng sư được. Mỗi câu nói mà Căn bản Thượng sư nói ra bảo chúng ta đọc theo, cũng không thể nào đọc ra mà không sai sót một chữ, làm sao có thể hợp nhất đây? Chưa nói đến ý niệm hợp nhất lại càng khó! Căn bản Thượng sư nghĩ gì nghĩ ra sao, so với con người thế tục chúng ta căn bản là nhất thanh nhất trọc, khoảng cách rất xa! Kì thực, hợp nhất thân, khẩu, ý với Căn bản Thượng sư không phải là hợp nhất với thân hữu hình, mà là hợp nhất với sự thành tựu của Căn bản Thượng sư, hợp nhất với pháp thân, báo thân, ứng thân của căn bản truyền thừa thành tựu. Như vậy mới chính là hợp nhất với Căn bản Thượng sư một cách đích thực. Dung nhập với thân thanh tịnh viên mãn của vũ trụ - thân thanh tịnh. Dung nhập với thanh âm thanh tịnh viên mãn của vũ trụ - khẩu thanh tịnh. Dung nhập với ý thức thanh tịnh viên mãn của vũ trụ - ý thanh tịnh.

55. Đi như gió

Đây là một cơ duyên do nhân duyên hòa hợp mà thành. Có 33 đệ tử theo Sư Tôn đến Nhật Bản để khai quang an tọa Trụ Cát Lôi Tạng Tự, đồng thời cũng đến các đồng tu hội ở tỉnh khác như Kobe, Miyazaki, Yokohama để khai quang, sau khi làm xong pháp vụ thì nhân tiện bắt đầu hành trình du lịch tham quan. Chúng tôi đến tỉnh Kagawa đi leo núi Kotohiraguu. Núi này không giống như núi bình thường, núi cao thăm thẳm, có tới 785 bậc đá, muốn lên đến đỉnh núi rất không dễ dàng, cần phải dựa vào cả thể lực và nghị lực. Chúng tôi một nhóm đệ tử hoạt bát cũng hào hứng tụ tập dưới chân núi, nhìn lên đỉnh cao chạm tới mây mà kinh ngạc không thốt nên lời. Bỗng nhiên nghe thấy Sư Tôn nói: "Đi thôi, đi thôi, cùng đi lên núi nào." Tôi đang trầm tư, câu nói này không chỉ khiến tôi cảm thấy ngạc nhiên, mà câu nói này giống như có một sức mạnh gia trì lớn. Được thôi! Tiến thẳng phía trước đi! Dù núi có cao không thể vững chắc như tâm chúng tôi được. Trong âm thanh vui vẻ vừa đi vừa nói chuyện, Sư Tôn nhắc đến việc người tu hành cần phải trang nghiêm: "Đi như gió, đứng như tùng, ngồi như chuông, nằm như cung." Trong lúc còn đang suy nghĩ về ý nghĩa của những điều này, chúng tôi không ý thức là đã đi được nửa quãng đường lên núi. Quay đầu nhìn lại thì thấy toàn bộ các bậc đá đều đầy kín dòng người dồn lên núi như sóng biển, hướng đến mục tiêu ở tít trên cao mà tiến lên. Chúng tôi đứng ở đó có chút thở phào, lại quay đầu nhìn thì thấy Sư Tôn gần như chẳng hề dừng lại mà cứ thế nhanh chóng nhẹ nhàng từng bước đi lên đỉnh núi. Lúc này cả nhóm đã bị tách ra, có rất nhiều người đã không theo kịp nữa. Tôi nghĩ đến trước đây, Sư Tôn ở trường trắc lượng đã là kiện tướng leo núi, bây giờ phong thái vẫn tốt như hồi đó, vẫn là anh hùng leo núi. Thời gian trôi qua rất nhanh, bước chân của chúng tôi cũng đi nhanh hơn, vừa đi vừa trì chú, cuối cùng nhờ có tâm kiên định, ý chí mạnh mẽ, chúng tôi đã leo đến đỉnh núi cao nhất, Sư Tôn đã ở đó chờ mọi người rồi. Chúng tôi tại đó vỗ tay hoan hô, ở đó nhảy lên, nhờ núi cao để nhìn ra khoảng không phía xa, chụp ảnh lưu niệm, không khí như trở về thời thanh niên. Trên mặt mỗi người đều có thể nhìn thấy niềm vui vô ưu vô lo, tiêu dao tự tại. Lần leo núi này nếu không phải là có Sư Tôn tiên phong dẫn đường, khả năng sẽ có nhiều người không đủ nỗ lực mà nửa đường bỏ cuộc rồi. Điều khiến người ta cảm thấy khích lệ nhất là Thượng sư Liên Hoa Truyền Tịnh đã 70 tuổi không ngớt lời nói: "Sư Tôn lên tới đỉnh núi, chúng ta làm đệ tử mà không leo đến đỉnh núi, như vậy sao được! Phải theo sát bước chân ngài mới được." Do vậy mọi người có thể leo đến đỉnh núi hoàn toàn là nhờ vào sự kết hợp của nghị lực và tín tâm đối với Sư Tôn. Sư Tôn leo núi, thể lực giống như tráng niên, bước chân giống như làn gió nhẹ bay lên, phút chốc đã lên đến đỉnh núi, Sư Tôn thật đúng là "đi như gió". Tháng 5 năm 83 (Tháng 5/1994)

56. Gửi Trầm Diệu Quyên

Hợp duyên với nhau. Nơi sâu thẳm trái tim. Đã in dấu hình ảnh của bạn. Từ từ thành hình dáng. Cũng là biệt ly. Những dòng ý thức. Trong biển mộng trào lên hung dữ. Xóa sạch dấu vết của bạn. Một nỗi nhớ lấp đầy tâm trí. Mặc dù không thể gặp lại nữa. Mặc dù không thể chuyện trò nữa. Nhưng, thường nhớ đến. Đến hôm nay, những lá thư mịt mù nơi xa. Lẽ nào kết thúc vô duyên. Lẽ nào không hành mẫu bay đi. Cuối cùng tôi đã hiểu. Nhân gian Ta Bà lắm hợp ly.

57. Sư Tôn thật thù thắng (chúc mừng sinh nhật thứ 50)

Tôi nhớ rất lâu trước đây Sư Tôn đã từng nói: "Tôi sống bao nhiêu tuổi sẽ viết bấy nhiêu cuốn sách. Đời này tôi phải viết 50 cuốn sách. Viết 100 cuốn sách, vừa hay là một con số viên mãn. 108 cuốn sách thì càng có ý nghĩa." Mới đây khi hoàn thành xong cuốn sách thứ 109, Sư Tôn cười nói: "Không ngờ đặt ra cho bản thân viết bao nhiêu cuốn sách, tự nhiên cứ thế viết mà đã xong rồi." Tinh thần sáng tác này thể hiện lời thệ nguyện của Phật Bồ Tát "từ bi không từ bỏ dù một chúng sinh". Có đệ tử viết thư đến nói: "Sư Tôn viết sách nhanh như tàu vũ trụ con thoi, vù một cái đã lên tới mặt trăng rồi, cũng giống như tên lửa đạn đạo, gần như không để lại dấu vết nào đã tới mục tiêu rồi." Sư Tôn viết sách, chúng ta đọc sách, nếu có chút nào lười biếng không đọc thì sẽ theo không kịp, bởi vì Sư Tôn viết còn nhanh hơn ta đọc. Ngược lại tôi nhận thấy Sư Tôn viết sách giống như bánh xe pháp liên tục không dừng lại. Sư Tôn là một tác giả viết rất nhiều, có kinh nghiệm sống phong phú tràn đầy, cũng như thực tu đến cảnh giới chứng ngộ nên viết ra những tác phẩm vô cùng đa dạng. Ngài không chỉ là một tác giả nổi tiếng viết sách với nhiều sắc thái dáng vẻ mà còn là một nhà tôn giáo, một nhà triết học, một họa sĩ… Trong biển chúng sinh lớp lớp như mây, hiện lên sự đặc sắc của ánh sáng quang minh như vậy đó! Đệ tử quy y Chân Phật Tông mỗi ngày đều tăng lên nhanh chóng. Hiện tại con số đã lên tới khoảng 300 vạn, khắp nơi trên thế giới đã lập nên hơn 300 phân đường. Có hơn 10 chùa Lôi Tạng Tự có quy mô lớn và vài chùa nữa đang trong quá trình xây dựng, tòa nào cũng trang nghiêm có thể sánh với đại hùng bảo điện. Đàn thành trang nghiêm khiến người ta vừa nhìn thấy là tràn ngập lòng cung kính. Những thành tựu huy hoàng này đều có nguồn gốc đến từ các tác phẩm vĩ đại, từ trong các sáng tác mà sinh ra, các tác phẩm từ đời này qua đời khác sẽ liên tục sản sinh ra các con cháu Chân Phật. Tác giả nổi tiếng có nhiều, tác giả chuyên viết sách tôn giáo cũng không ít, nhưng để tìm một người giác ngộ thực tu viết sách chân ngôn khai ngộ thì khẳng định là cực kì hiếm có. Việc này không chỉ đòi hỏi kiến thức sâu rộng, thông hiểu mọi thứ mà còn cần có đại trí huệ toàn thiện mới có thể viết ra được những áng văn chương đồng điệu với tâm linh của chúng sinh. Đây hoàn toàn là sách Phật. Hôm nay nhân dịp sinh nhật Sư Tôn, tôi không thể ngăn được tâm trạng tràn ngập sự cảm kích này! Sư Tôn từ bi, trong sự nghiệp vất vả viết sách hoằng pháp độ chúng sinh của ngài, xin đừng quên rằng ngài cần chăm sóc bản thân nhiều hơn, cần thư giãn nghỉ ngơi một chút. Bảo trọng, hãy bảo trọng! Chúng con sẽ tiếp nối truyền thừa của ngài, kính sư, trọng pháp, thực tu, nương nhờ hộ pháp, đạo tâm kiên cố, dũng mãnh tinh tấn tiến lên phía trước, tiến thẳng đến cõi giới của Chân Phật Tông - Ma Ha Song Liên Trì. Chúc phúc ngài, Sư Tôn! Phật quang phổ chiếu, pháp luân thường chuyển, thân thể kiện khang, Phật thân thường trụ! Tháng 6 năm 83 (Tháng 6/1994)

58. Nhật kí Phật pháp cứu mẹ

Sau khi nhận được cuộc điện thoại từ xa, em gái nói với tôi trong điện thoại: "Mẹ đột nhiên đổ bệnh, bệnh đã nghiêm trọng, tinh thần hoảng hốt, cũng đã không thể đi được nữa, để ngồi được cũng khó khăn. Mẹ bị ngã nhào một cách bất thường, ngã chảy máu mũi và mặt sưng húp, đã đưa đến bệnh viện kiểm tra toàn thân." Kết quả báo cáo kiểm tra là: axit trong nước tiểu quá cao, lượng đường trong nước tiểu quá cao, mỡ trung tính quá cao, cholesterol quá cao, huyết áp cao, nghẽn cơ tim. Bác sĩ nói: "Người bệnh đã nghiêm trọng như vậy, bất kì lúc nào cũng có thể xảy ra chuyện, khả năng không thể ăn xong bữa cơm thì đã ra đi rồi, cũng có thể chỉ qua một đêm ngủ là sẽ ngủ mãi không tỉnh dậy nữa." Em gái lại nói: "Mẹ mặc dù tinh thần đã không còn tỉnh táo, lời nói lẫn lộn, nhưng ấn tượng về chị thì cực kì sâu sắc, miệng luôn gọi tên chị và nóng lòng muốn gặp chị lần cuối. Hay là chị về thăm mẹ xem sao?" Nghe xong những lời này, trong lòng tôi vô cùng đau đớn, lập tức cảm thấy quay cuồng, không thể ngăn nổi những giọt nước mắt tuôn rơi, cổ họng nghẹn lại không thể thốt lên lời. Lẽ nào mẹ cứ sẽ như vậy mà rời khỏi nhân gian sao? Nghĩ mà xem, 20 năm nay tôi lúc nào cũng bận rộn với các việc pháp vụ của Chân Phật Tông, dốc toàn lực để làm các việc Sư Tôn giao phó, xử lý các việc của tông phái, độ hóa chúng sinh. Có rất ít thời gian còn thừa ra để dành làm những việc cho chính người thân của mình, lại khó tận dụng cơ hội về Đài Loan hoằng pháp để gặp mẹ, mỗi lần gặp mặt cũng vô cùng ngắn ngủi, lần nào cũng không nỡ rời xa! Thế là tôi buông công việc ở nơi đây, mang theo tâm trạng nặng nề thu xếp hành lý, với những bước chân nhanh chóng nhất đi thẳng tới sân bay, dáng vẻ giống như một bác sĩ mang theo hòm thuốc tức tốc chạy đi cứu người. Tôi lên máy bay trở về Đài Loan để thăm mẹ. Lúc tôi về đến Đài Loan nhìn thấy mẹ, từ dáng vẻ ốm bệnh tôi lập tức có thể nắm bắt được sinh khí của bà. Thực sự là vấn đề lớn, tình hình không hề tốt chút nào. Sau đó, qua những phân tích dựa trên kiến thức y học phổ thông của mình, tôi quyết định chắc chắn cần chủ trương dừng việc uống một số loại thuốc, sẽ tập trung vào việc chăm sóc và trợ giúp. Đêm khuya thanh vắng, một mình tôi ngồi bên cạnh giường bệnh của mẹ, cùng tu trì Phật Dược Sư và Liên Hoa Đồng Tử, tĩnh tâm quán tưởng bàn tay Phật Dược Sư cầm lấy bình thuốc phát quang gia trì cho mẹ. Tôi liên tưởng lặp lại quán tưởng này và trì tâm chú. Có lúc bất ngờ, mắt của tôi bỗng nhiên run lên không ngớt, toàn thân run rẩy, cảm thấy có một luồng ánh sáng trắng rất mạnh chiếu rọi lên người mẹ tôi, cứ như vậy rất lâu. Ngày hôm sau, tôi nhìn thấy mẹ ngồi dậy đi lại, mẹ nói: "Hôm nay mẹ thấy đỡ nhiều rồi, lần này đổ bệnh giống như trải qua cơn ác mộng." Tôi lập tức biết ngay đây là nhờ Phật Dược Sư và Liên Hoa Đồng Tử phát quang gia trì chữa bệnh. Lúc đó tôi nhìn lên trời quán tưởng chư Phật Bồ Tát, trong lòng cảm kích vô hạn! Bệnh tình của mẹ tôi, dưới sự gia trì của việc hợp tu pháp Phật Dược Sư và Liên Hoa Đồng Tử đã giúp mẹ bình phục nhanh chóng không ngờ, thời gian chỉ khoảng 10 ngày. Bây giờ bà đã có thể làm việc bình thường, chăm sóc nhà cửa. Tôi thấu hiểu sâu sắc rằng nếu thành tâm thỉnh cầu chắc chắn có cảm ứng, Phật pháp trân quý, lợi ích vô cùng!

59. Nhất niệm

Phạn âm và tạp âm. Chỉ khác nhau một chữ. Một chữ này được quyết định chỉ trong một suy nghĩ. Là đường phân chia giữa thanh tịnh và hỗn tạp. Ranh giới giữa thánh và phàm. Phạn âm khiến tâm rung động vui thích. Làm đẹp tâm linh. Tạp âm khiến tâm khô cứng nhiễu loạn. Ôi! Khác biệt như ngày và đêm. Thánh giả vượt lên cảnh giới. Lấy tĩnh trong động. Nhất niệm tịch mịch. Hoàn toàn tĩnh lặng. Biến tạp âm thành Phạn âm. Cả hai dung hòa hợp nhất với cái ngã. Khắc nhập vào vũ trụ. A! Tạp âm không còn nữa!

60. Khách đi qua cuộc đời

Sau khi Sư Tôn tuyên bố lui về ẩn cư, phân đường các nơi vẫn nhiệt tình thỉnh Sư Tôn đến gia trì pháp hội. Mọi người hy vọng Sư Tôn sẽ gật đầu nhận lời, thậm chí ngài chỉ cần xem như một dịp đến cùng mọi người trò chuyện hoặc đơn thuần là đi tham quan du lịch, như vậy đệ tử cũng cảm thấy mãn nguyện rồi, cũng đã cảm thấy pháp vị tràn đầy. Thế nên thư mời vẫn đổ về đều đều như mưa sớm mùa xuân. Bởi thịnh tình của mọi người khó có thể từ chối, hành trình năm nay đã được sắp xếp rất dày, Sư Tôn nói: "Lui về ẩn cư cái gì chứ? Trái lại còn bận ngập đầu!" Tháng 6 năm 1994, Sư Tôn dẫn tôi cùng bà ngoại, Phật Thanh, thêm vài Thượng sư, đồng môn đến Edmonton, Canada hoằng pháp và tham quan công viên quốc gia Rocky Mountains. Mỗi đệ tử đi cùng đều học theo Sư Tôn, chỉ đem theo một hành lý nhỏ. Chúng tôi khoác hành lý lên, cùng có tâm trạng vui vẻ, bắt đầu chuyến hành trình 19 ngày, theo gió rẽ sóng mà đi. Lúc chúng tôi chuyển máy bay ở Vancouver, nhân viên hải quan hỏi tôi: "Bà muốn đi đâu?" Tôi trả lời: "Đi Edmonton." Anh ta lại hỏi: "Đi tới đó làm gì?" Tôi đáp: "Đi du lịch thông thường." "Đi du lịch thông thường" là câu trả lời chính xác, không có gì đáng nghi ngờ. Đời người không chỉ đi du lịch lần này. Con người trong thế giới Ta Bà vốn là một lữ khách đến để du lịch trái đất này. Dự định ban đầu của lữ khách là lưu lại một thời gian ngắn. Điểm đầu và điểm cuối của cuộc hành trình tùy theo dòng lưu chuyển của thời gian, giống như chiếc lông vũ nhẹ rơi rồi bị chôn vùi trong đất, đã bị lữ khách quên mất ngay từ khi vừa tới nơi. Tại thế giới này, sự tồn tại và biến mất của bạn có phải là chỉ trong chớp mắt của một sát-na? Có phải là tay không mà đến, rồi lại tay không mà đi, mơ mơ hồ hồ đi hết quãng đời này? Đời người là gì? Giá trị ở đâu? "Tất cả là hư không", "không vô sở hữu". Không biết nhân viên hải quan đã từng nghe qua đạo lý "khách đi qua cuộc đời", "cuộc đời là hư không" hay chưa? Tháng 8 năm 83 (Tháng 8/1994)

61. Âm thanh tĩnh lặng trên mây cao

Ngày 26 tháng 6 năm 1994, ở sân bay Edmonton, Canada, có rất rất nhiều đệ tử Chân Phật Tông. Họ nhiệt tình tới sân bay chờ đón Sư Tôn, liên tục hét gọi lớn "Sư Tôn! Sư Tôn!" làm trào dâng lên một sự hâm mộ lớn lao. Mọi người vỗ tay, vui mừng khôn xiết, mừng rỡ rạng ngời. Có người trưởng nhóm cao giọng bắt nhịp chỉ đạo mọi người cùng hát "Om guru lian-sheng siddhi hum." Họ căng ra một dải băng chào đón, tất cả giống như một đóa hoa sen rực rỡ sắc màu, tập trung đám đông từ từ đi tới gần Sư Tôn với thái độ khiến cảm động lòng người rồi bao quanh lấy ngài. Tôi cũng bị bao vây trong những đóa hoa sen đẹp đẽ này, tận hưởng hương thơm ấm áp. Bỗng nhiên, nhanh chóng trong suy nghĩ của tôi khởi lên lời thề nguyện của Liên Hoa Đồng Tử: "Phân thân xả cốt độ chúng sinh, không từ bỏ một chúng sinh nào…" Lúc đó tôi buồn vui xen lẫn, cảm động đến rơi nước mắt, khi ngẩng cao đầu nhìn, cảnh tượng trước mắt giống như tấm kính bị giăng đầy nước mưa, nhòe nhoẹt không rõ. Có ánh đèn không ngừng nhấp nháy lóe lên, khiến cho mắt tôi bị lóa, liên tục lúc nhắm lúc mở. Tôi không thốt lên được lời nào, chỉ có thể mỉm cười gật đầu, hai tay chắp lại vái nhè nhẹ, biểu thị tấm lòng biết ơn. Chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi ra khỏi sân bay. Có đệ tử nói: "Nhớ lần đầu tiên Sư Tôn đến Edmonton là 6 năm trước, lần thứ hai là 3 năm trước, 3 năm sau là ngày hôm nay lại được gặp mặt Sư Tôn như thế này. Sư Tôn liệu có thể mỗi năm lại đến không? Đệ tử ở Edmonton mỗi ngày đều hát "Bài ca chờ người trở lại". Hát tận ba năm, Sư Tôn mới đến một lần, đúng là chẳng dễ chút nào!" Sư Tôn trả lời: "Tất cả đều là cơ duyên. Trong tông phái có ba trăm phân đường, có rất nhiều phân đường tôi còn chưa từng đến. Tương lai nếu có cơ duyên tôi sẽ đi từng phân đường thăm mọi người." Trong âm thanh cười nói vui vẻ, mọi người tiễn chúng tôi lên xe chuẩn bị từ trước, vẫy vẫy tay nói: "Hẹn gặp lại tại bữa tiệc đón Sư Tôn." Xe ô tô nhấn ga chạy đi, tiếng nói của mọi người từ xa còn vọng lại rồi từ từ tan biến. Trong xe dường như bỗng nhiên thật tĩnh lặng. Lúc đi qua một vùng đồng cỏ trơ trọi, tôi chăm chú nhìn bầu trời rồi kinh ngạc thốt lên: "Mọi người xem kìa! Mây trên trời sắp rơi xuống đồng cỏ rồi!" Mây rất thấp, rất đẹp! Thượng sư Liên Trí nói: "Edmonton cao hơn mực nước biển hơn 3000 mét, lúc áp suất không khí thấp, mây sẽ càng thấp." Tôi nói: "Đứng trên đỉnh tòa nhà có thể chạm đến mây, chẳng phải là giống như tiên tử sống trên thiên giới sao." Hóa ra, các đệ tử ở Edmonton đều có phúc được sống trên mây cao, đi mây về sương, tiêu dao tự tại. Tịnh Âm Lôi Tạng Tự tại Edmonton thực sự chứa đầy những thanh âm thanh tịnh của thế giới thanh tịnh. Chùa và ảnh hưởng của việc hoằng dương Phật pháp đã thiết lập được sức mạnh kêu gọi tương đối lớn tại địa phương, thậm chí giờ còn là dòng chảy chính của Phật giáo nơi này. Họ đã thuyết phục được Sư Tôn cứ 3 năm sẽ gặp lại ở Edmonton, may mắn này thật khiến người ta ghen tị. Tháng 8 năm 83 (Tháng 8/1994)

62. Con thuyền pháp từ bi

Ngày 1 tháng 7 năm 1994, Sư Tôn cùng vài vị Thượng sư tùy tùng theo cuộc hành trình từ Edmonton Canada đến thành phố Calgary rồi chuyển hướng đến New Jersey bên bờ Đông nước Mỹ. Việc chính là an tọa khai quang chùa Quán Chiếu Lôi Tạng Tự và làm một đàn pháp hỏa cúng Hộ Ma, tiếp theo là tham gia chuyến du ngoạn trên biển bốn ngày ba đêm đến Bahamas mà mọi người đã sắp xếp. Vừa làm việc, vừa du lịch, giúp cho người tu hành có thể điều chỉnh cân bằng thân tâm giữa việc tu hành nghiêm ngặt và thư giãn. Trong số các Lôi Tạng Tự của Chân Phật Tông, có thể nói Quán Chiếu Lôi Tạng Tự có tốc độ thành lập nhanh nhất, không cần trải qua giai đoạn phân đường mà trực tiếp đăng kí xây dựng chùa luôn. Cho đến ngày nay đã có sự trang trọng trang nghiêm của các tháp chùa, đàn thành chư tôn lấp lánh phát quang. Chỉ cần vừa đi vào chùa là đã bị không khí trang nghiêm choán lấy toàn bộ thân tâm. Khởi nguồn của việc xây chùa là do chủ tịch Liên Hoa Tố Minh khởi xướng, nhân duyên của bà rất thù thắng. Có nhiều người bạn làm quan chức chính phủ và luật sư đã tự nguyện giúp đỡ bà đăng kí xây dựng chùa, thông qua các giấy phép xây dựng, chứng thực, phê chuẩn, cùng các loại giấy phép khác giúp việc xây chùa được thuận lợi đúng luật. Do vậy trong việc xây dựng ngôi chùa này công lao của bà là lớn nhất. Đáng quý và cảm động lòng người nhất là: chi phí và đất xây dựng chùa đều do bà đóng góp, ngoài ra còn giao quyền sở hữu tài sản dưới tên ban quản lý chùa. Liên Hoa Tố Minh nói tâm nguyện của mình với Sư Tôn: "Không chỉ xây chùa này, tương lai có thể xây chùa to hơn nữa, thậm chí còn về Việt Nam xây chùa, truyền bá rộng rãi Chân Phật Mật Pháp." Sư Tôn nói với Liên Hoa Tố Minh: "Sư Tôn trong thiền định đã tìm được con đến đây, thức tỉnh con tiếp tục huệ mệnh. Kiếp này con vẫn tiếp tục theo lời thề xưa, hộ trì Sư Tôn hoằng dương Phật pháp. Bởi vì con cũng là đệ tử lâu năm từ kiếp trước của Sư Tôn." Liên Hoa Tố Minh phát tâm chí thành rất trân quý, đây là may mắn của những đồng tu ở Quán Chiếu Lôi Tạng Tự. Các đồng tu yêu quý trân trọng bà, giúp đỡ bà, hộ trì cho bà, cùng với bà làm việc cho pháp. Tất cả sẽ trở thành con thuyền pháp từ bi, thuận buồm xuôi gió, cùng nhau hỗ trợ cho sự phát triển hưng thịnh, đến được bến bờ bên kia, tạo nên sức sống mới cho sự huy hoàng của Chân Phật Tông. Tháng 9 năm 83 (Tháng 9/1994)

[ND: Liên Hoa Tố Minh: đáng tiếc là bà đã mất ngày 11/9/2001, thọ 62 tuổi, khi chưa kịp về Việt Nam xây được chùa Chân Phật Tông Lôi Tạng Tự theo như ước nguyện.]

63. Tự nhiên chính là đạo

Tháng 6 năm 1994, chúng tôi đi du lịch công viên quốc gia Canada, rặng Rocky Mountains. Từ trên tầng cao của khách sạn ngắm nhìn phương Đông xa xôi, đúng lúc mặt trời đang mọc, nhìn trông giống như một quả quýt mọng mềm. Tất cả dường như nói với chúng tôi rằng đây là một ngày đẹp nhất để đi chơi. Người già, người trẻ đem theo cả gia đình, tất thảy tổng động viên tổng cộng 80 đệ tử cùng nhau leo lên hai chiếc xe du lịch loại lớn đi chuyến hành trình mùa xuân. Mọi người tận hưởng một khoảng thời gian được tiêu dao vô câu vô thúc cùng Phật, chìm đắm trong sự rạo rực của ngày hè và vẻ đẹp tự nhiên rộng lớn. Những ngọn đồi hai bên đường, những bình nguyên mênh mông vẫn tràn ngập một màu xanh mướt như chưa hề phải chịu ảnh hưởng của mùa hè nóng bức. Hoa dại trên các dãy núi, hoa đỏ, hoa trắng, hoa vàng, hoa tím… trăm hoa đua nở giống như chào đón chúng tôi. Sự đối lập đó khiến màu xanh lại càng xanh, khiến người ta muốn xuống xe đi ngắm nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của muôn hoa, đi để thưởng thức được hương thơm của chúng. Xe đi vào khu vực sâu trong núi, các biển cảnh báo hai bên đường thông báo: "Cẩn thận động vật hoang dã." Người tài xế kể một câu chuyện ngắn mà mình đã từng kinh nghiệm qua. Chuyện còn chưa kể xong, xe đã nhanh chóng dừng lại ở bên đường. Phía trước có một đàn sơn dương và hươu nai hoang dã đang qua đường, trên đầu là những chiếc sừng dài nhọn hoắt. Chúng thèm chẳng quan tâm, cứ thế đi qua đường xe chạy. Một vài người lấy máy ảnh ra chụp hình, chúng vừa đi vừa quay đầu nhìn chúng tôi. Xem ra lũ động vật ở vùng núi này chưa từng gặp con người, do vậy mà không biết sợ hãi tháo chạy. Chúng đã xem tất cả mọi người đều là người tốt, tự do bình đẳng. Tham sân si là gì, với chúng về cơ bản là chẳng tồn tại. Rồi lại có tiếng kêu lớn, mọi người chú ý! Mọi người chú ý! Ở kia có một con gấu. Oa! Mọi người chuyển hướng chú ý qua nhìn con gấu, lại sôi nổi bình luận: gấu khiến người ta sợ nhất, gấu mẹ chắc chắn ở phía sau, gấu có thể ăn thịt người, gấu có thể trèo cây. Rồi liệu gấu có đến lật xe chúng tôi không? Buồn cười nhất là có người nói: Tôi đã từng ăn tay gấu rồi! Tôi từng ăn mật gấu rồi! Thực tế là bất kì động vật nào cũng đều có tình cảm, ta có thiện ý làm bạn với chúng thì tự nhiên sẽ sinh ra mối liên hệ tương hợp, đây cũng là hiện tượng sinh thái tự nhiên mà thôi. Tháng 9 năm 83 (Tháng 9/1994)

64. Tâm thanh tịnh trăng tự hiện

Người tài xế xe khách tiếp tục lộ trình, đi sâu vào núi Rocky Mountains, đi qua tầng tầng lớp lớp núi cao, đưa chúng tôi đi qua các điểm ngắm phong cảnh hết trạm này tới trạm khác. Xe chạy vòng quanh eo núi, lên đến trên cao thì bất ngờ dừng lại. Tài xế đánh thức các đồng môn đang nửa tỉnh nửa ngủ tỉnh dậy ngó ra ngoài xem, hóa ra chúng tôi đã đến được ngọn núi kim tự tháp và hồ kim tự tháp nổi tiếng. Trưởng đoàn dẫn chúng tôi đi xuống một con dốc, đi qua một lối đi đầy hoa không rõ tên. Chúng tôi xếp thành một hàng đi qua cây cầu một chiều. Trưởng đoàn đi hàng đầu, Sư Tôn là người đi thứ hai, cứ như vậy đến người cuối cùng, cả đoàn đông đảo tới 80 người tạo thành một hàng dài như đội quân hùng mạnh. Tấm lòng mọi người kết nối lại như một chuỗi hạt chắc chắn, thanh tịnh, sâu sắc. Rốt cục chúng tôi cũng đến được chân núi kim tự tháp, phóng tầm mắt nhìn phía trước, quả nhiên ngọn núi nhìn như một kim tự tháp, hùng vĩ đứng sừng sững, hơn nữa còn lấp lánh ánh vàng kim mà khi nhìn vào cũng chói lóa cả mắt. Hóa ra kim tự tháp không chỉ có màu vàng kim như vàng mà chính nó còn sản sinh ra linh khí. Thực sự là không thể tưởng tượng được có gì đẹp hơn thế! Ở dưới chân núi kim tự tháp có một cái hồ vừa khéo in bóng toàn bộ hình ảnh phản chiếu của núi kim tự tháp, vì vậy được gọi là hồ kim tự tháp. Vị trí địa lý của hồ chính là một nơi tàng phong tụ khí, mặt hồ giống như tấm gương trong, vừa trong vừa có sắc xanh lam. Đúng là một cảnh đẹp được thiên nhiên ưu đãi. Tôi đứng bên hồ ngắm nhìn nhưng không thể phân biệt được rõ núi phản chiếu ở dưới hồ và núi ở phía trên, rốt cục thì cái nào mới là núi thật. Sư Tôn lấy bút và giấy, ngay tại nơi đó bắt đầu vẽ tranh, đem tất cả núi non hùng vĩ, hồ nước xinh đẹp, hàng cây phía xa xa thể hiện hết lên trên trang giấy, chuẩn bị làm tư liệu cho sáng tác sau này. Có một cậu bé rất chăm chú xem Sư Tôn vẽ phác họa, lại còn đối chiếu bức vẽ với cảnh thực, cậu nói: "Tranh Sư Tôn vẽ rất giống, nhưng sao Sư Tôn không vẽ con chim nhỏ đậu ở trên cây?" Sư Tôn trả lời: "Chim nhỏ đã ở trong tâm ta rồi." Cậu bé nghe không hiểu, ngẩn người ra! Bức họa rất vi diệu, rất có ý cảnh, không hoàn toàn tả thực, không hoàn toàn trừu tượng, tùy góc nhìn nghệ thuật của mỗi người mà tự cảm nhận. Chúng tôi lưu luyến không nỡ rời khỏi núi và hồ kim tự tháp. Ở trên xe, tôi nhớ lại cảnh ngọn núi in bóng xuống mặt hồ, núi ở bên hồ, liên tưởng đến: "Tâm thanh tịnh trăng tự hiện, nghìn con sông nước chảy sẽ có nghìn vầng trăng trên sông." Tháng 10 năm 83 (Tháng 10/1994)

65. Hồ thanh tịnh

Khi lần đầu tiên tôi nhìn thấy hồ Louise, tôi đã vô cùng kinh ngạc mà cảm thán! Đây là hồ đẹp nhất tôi đã từng được trông thấy. Tôi thích mặt nước hồ màu xanh lam xanh lục với dòng chảy tự do mạnh mẽ sống động, lại có núi hai bên chạy dài ôm trọn lấy. Trên mặt hồ một chiếc thuyền nhỏ nằm ung dung, ngọn núi phía xa suốt cả năm dài phủ tuyết trắng ánh lên lấp lánh. Có con chim nhỏ cất lên tiếng hót hát bài ca vui vẻ của thanh xuân. Hồ nước đầy thơ mộng đến thế khiến người ta chìm vào trong những sự suy tư. Hồ Louise toát lên phong thái thanh cao như thế, một cảnh đẹp tự nhiên hoàn toàn không có bàn tay con người kiến tạo nên. Khung cảnh khiến người ta cảm nhận được sự thanh tịnh thuần khiết, và hồ dường như nói với chúng tôi: Tạp niệm của con người nhiều quá, phiền não không ngừng dứt, vì vậy mà không có được tâm linh thanh tịnh. Chấm dứt tạp niệm mới có thể khiến tâm linh thăng hoa, đi vào thế giới tĩnh lặng. Tôi nghĩ rồi lại suy tư, ý nghĩ dừng lại ở cảnh giới lãng quên đi cái tôi. Sư tỉ Liên Tường đi đến nói với tôi: "Sư Mẫu, người nhìn xem, cảnh sắc hai bên hồ này cây xanh hoa thắm, đẹp xiết bao! Nhưng ngắm hoa cũng cần phải có tâm trạng ngắm hoa, khi tâm trạng tốt, hoa rất đẹp, khi tâm trạng u ám, hoa đẹp cũng trở thành không đẹp nữa!" Đúng vậy, tôi cảm thấy có rất nhiều việc đều liên quan đến tâm trạng. Tâm trạng tốt hay xấu cũng chỉ là nằm trong ý niệm thôi. Nếu có thể bỏ được sự bám chấp, bất kể gặp phải chuyện gì, tâm của người tu hành đều là "thường lạc ngã tịnh". Cũng có nghĩa là làm bất kì việc gì đều vui vẻ, nhìn thấy bất kì thứ gì cũng đều là thanh tịnh, tất cả đều là tự có được niềm vui. Một cơn gió mát thổi đến làm lay động chiếc thuyền nhỏ trên mặt hồ, lắc lắc lư lư, giống như đang nhảy theo một vũ điệu. Nước trên mặt hồ lướt va vào những hòn đá lớn ở hai bên làm vang lên những âm thanh róc rách, như một dàn hợp xướng chơi giai điệu đẹp đẽ mỹ miều cảm động lòng người, cứ thế vang vọng cả vùng hồ. Hồ Louise có cái chất kiên định, hàm chứa ẩn giấu bên trong rất nhiều rất nhiều vẻ đẹp. Sự tĩnh lặng của hồ như thiền định. Sự rung động của hồ giống như linh hồn. Lưu lại trong tôi những hồi ức vô cùng sâu sắc. Tháng 10 năm 83 (Tháng 10/1994)

66. Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy

Tục ngữ nói: "Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy", đoàn đệ tử Chân Phật Tông chúng tôi vừa thích núi lại vừa thích nước. (*) Thích sự như như bất động của núi. Thích đức tính của nước.

[ND: Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy: người nhân đức thì vui thích với núi, người trí thức thì vui thích với nước (Khổng Tử) ý rằng: người nhân đức thường có tính an tịnh, vững chãi, trầm tĩnh như núi, người thông minh lại có tính hoạt bát, sống động, linh hoạt như nước.]

Ngày 28 tháng 6 năm 1994, chúng tôi theo bước chân của Sư Tôn đi tham quan du lịch địa danh nổi tiếng thế giới là núi băng và sông băng Columbia, ai ai cũng vô cùng vui thích. Người ta nói rằng, ngoài núi băng lớn nhất ở Bắc cực, Nam cực thì núi băng ở đây lớn thứ hai. Đây cũng là một trong 11 đỉnh cao nhất của rặng Rocky Mountains, vô cùng hùng vĩ trang nghiêm, khí chất phi phàm. Chúng tôi chậm rãi đi bộ trên dòng sông băng này, ngưỡng mộ phong cảnh thiên nhiên rộng lớn, tầng tầng sắc núi, yên tĩnh xinh đẹp. Tiếng nước của sông băng đang tan chảy tấu lên một khúc nhạc giao hưởng duyên dáng. Tôi nhìn thấy trên gương mặt mỗi người đều biểu hiện nét vui vẻ, phong thái thư thái tự do, đi miên man trong vòng tay của tự nhiên rộng lớn. Nước sông băng đang tan chảy hướng về ba nhánh chính, một nhánh chảy hướng về thành phố Edmonton Canada, nhánh thứ hai chảy hướng về bang Washington Mỹ, nhánh thứ ba chảy hướng về bang Oregon Mỹ. Nước không phân biệt biên giới quốc gia, chảy tới chảy lui, bên nào thấp sẽ chảy về bên đó, không có tính toán, không có kén chọn cầu kì, cứ thuận theo tự nhiên mà chảy. Tôi thích sự mềm mại uyển chuyển và khiêm nhường của nước. Tôi tán thán những bước chân của người leo núi, vững vàng chắc chắn, từng bước từng bước kiên cường tiến về phía trước với niềm hy vọng hướng thẳng mục tiêu chinh phục. Cho dù người leo núi có thở hùng hục nặng nề vì mệt cũng không suy chuyển được tinh thần, thật khiến người ta bái phục. Do vậy mà nói "núi cao hay không tùy vào nỗ lực của bạn". Vào ngày đó, núi tuyết có mưa phùn, mây đen dày đặc. Bỗng nhiên mặt trời xuất hiện, phóng chiếu những tia nắng mang vẻ đẹp như ánh đèn sân khấu chiếu rọi, quang minh xán lạn. Cả một vùng đất rộng lớn phủ tuyết trắng, sương mờ ảo giăng mắc trắng xóa. Chúng tôi ở đó ngắm tuyết, uống nước sông vạn năm, cảm giác giống như thú tiêu dao của thần tuyết vậy. Tôi cảm thấy núi đẹp nước thanh. Núi cổ vũ, đem lại hy vọng cho con người. Nước thanh lọc, đem lại cảm giác thanh tịnh vô hạn cho chúng ta. Tháng 11 năm 83 (Tháng 11/1994)

67. Đạo của tự nhiên

Thế giới tự nhiên rất vi diệu, sản vật trên trái đất cứ dựa theo quy tắc tự nhiên mà sinh trưởng, nuôi dưỡng vạn vật, nuôi dưỡng chúng sinh, công đức này thật sự là vĩ đại! Ở những vùng nhiệt đới thì có sản vật của nhiệt đới, đặc biệt có rất nhiều cây dừa. Uống nước dừa có thể trở nên mát mẻ, hạ nhiệt mùa hè. Chúng tôi tới bờ biển Sisters Cays trên đảo Bahamas, nơi suốt năm chỉ có mùa hè. Xa ngút tầm mắt là cả một rừng dừa cao cao thẳng tắp. Khi chúng tôi cố gắng thử rung cây dừa cho quả dừa rụng xuống, thì một người thổ dân đi tới thể hiện ý muốn giúp đỡ. Với động tác vô cùng lanh lẹ, giống như một con khỉ leo lên thoăn thoắt, anh đã lên tới ngọn cây dừa hái xuống hơn chục quả dừa, rồi lại rất nhanh y như lúc leo lên, trong nháy mắt đã trèo xuống dưới, Chúng tôi đều trố mắt ngạc nhiên. Chúng tôi tò mò hỏi thổ dân: "Xin hỏi anh bao nhiêu tuổi?" Anh đáp: "Không biết bao nhiêu tuổi. Tôi sinh ra trên đảo này." Lại hỏi: "Chỗ dừa này bao nhiêu tiền?" "Không biết. Tùy ý mọi người." (Vẻ mặt anh cười vui vẻ, trả lời không quan tâm lắm.) Chúng tôi lại hỏi thêm vài câu nữa, anh ta cười cười, lắc đầu rồi lại gật đầu, dường như biểu thị rằng những câu hỏi này đều không có gì quan trọng. Cuộc sống trên đảo rất yên bình, không có những tòa nhà cao tầng, không có quần áo bắt mắt, không có ô tô, không có sơn hào hải vị, không có những món đồ hưởng thụ của con người hiện đại. Xem ra cuộc sống ở đây giống như cách xa thế kỉ này lắm rồi, không có ý thức của thời đại. Thổ dân trên đảo vui vẻ với cuộc sống mà họ có, không tranh giành, không mong cầu, không ham danh ham lợi, vô ưu vô lo, hài lòng với những gì mình có. Cuộc sống của họ chỉ có những cây dừa, bãi cát và đại dương. Chúng tôi chỉ là những vị khách không mời mà tới. Trên nét mặt của họ có thể thấy là chẳng hề có tham, sân, si. Cuộc sống của con người hiện đại, luôn theo đuổi những thú vui hưởng thụ cao hơn, tranh danh đoạt lợi, tham lam vô hạn. Bao người lao tâm lao lực vì muốn tranh cầu thêm nhiều tiền tài hơn nữa, địa vị cao hơn nữa, mỗi ngày đều nghĩ đến tiền, vì tiền mà từ bỏ cả sinh mệnh. Thực tế, ngẫm nghĩ về ý nghĩa đời người, sẽ hiểu được nguồn gốc của mọi thứ là như nhau, mang lại phiền não nhiều như nhau. Sở hữu vật chất càng nhiều, phiền não cũng sẽ càng nhiều. Có nhiều tiền cũng sẽ bị rơi vào bẫy của tiền, "khổ vì kiếm tiền, cũng khổ vì giữ tiền", đến khi hết cuộc đời cũng đâu thể đem đi được. Trên thực tế, "có tiền" hay "không có tiền" thì số mệnh cũng đã được định đoạt rồi. Tôi thích cuộc sống yên bình trên đảo. Cuộc sống của thổ dân đã minh họa cho nghệ thuật sống của tự nhiên. Tháng 11 năm 83 (Tháng 11/1994)

68. Trí huệ của biển

Sau khi Sư Tôn đến Quán Chiếu Lôi Tạng Tự ở New Jersey để khai quang an tọa và làm pháp hội chủ đàn hỏa cúng Hộ Ma, chúng tôi tiện thể tham dự chuyến du lịch năm ngày bốn đêm đến Bahamas do sư tỉ Tố Mẫn sắp xếp. Hơn 40 đồng môn có được cơ hội này vô cùng vui mừng phấn khích, cùng theo Sư Tôn du lịch trên tàu, cùng chiêm ngưỡng vùng biển Caribbean. Trong thời gian du lịch trên tàu năm ngày bốn đêm, tàu cập bến ba lần cho du khách rời tàu tham quan thủ đô Nassau của Bahamas và bãi biển Sisters Cays nổi tiếng, thêm nữa còn đến cảng Lucaya. Ngoài việc xuống thuyền đi tham quan thì tất cả việc ăn uống, ngủ nghỉ, tắm rửa đều ở trên tàu. Lần đầu tiên tôi đi chuyến hành trình trên con tàu cao cấp như vậy. Chiếc tàu lớn màu đỏ, có thể chở hai nghìn khách. Bên trong tàu có bể bơi, khu mua sắm, phòng tập gym, thẩm mỹ viện, trung tâm bấm huyệt, sòng bạc, sàn nhảy, rạp chiếu phim, quán bar, khu vui chơi giải trí, nhà hàng lớn. Tất cả mọi thứ đều như khách sạn cao cấp, sang trọng đắt tiền. Mỗi người đều thỏa sức tận hưởng cơ hội này giống như hưởng thụ cuộc sống hoàng cung vậy. Đến buổi tối, vào lúc đêm khuya thanh vắng càng nghe rõ tiếng động cơ làm tàu rung rung nhè nhẹ không ngừng. Thêm cả tiếng nước rẽ ra khi con tàu chạy lướt nhanh trên mặt biển đã khiến tôi cao hứng muốn đi ra ngoài tận hưởng khung cảnh về đêm. Một mình tôi đứng bên mạn thuyền trông ra xa bốn phía. Cả một vùng yên tĩnh lạnh lẽo, không có ánh trăng, không có ánh sao. Đêm đen hun hút khiến ta đột ngột cảm thấy hư không cô độc. Nhớ lại thời gian ban ngày, vùng biển xanh ngắt mênh mông đó đã từng được mặt trời chiếu sáng, những con chim hải âu đa tình giờ đều không thấy đâu nữa rồi! Giống như một thế giới tĩnh lặng. Bỗng nhiên tôi cảm thấy hình như biển cũng trốn đi đâu mất. Tôi một mình đứng đó trầm tư, yên lặng nghe âm thanh của biển, nghĩ đến khai thị của Sư Tôn: "Một người có trí huệ, cũng giống như con hạc trong đàn gà, khó tránh khỏi việc bị đàn gà phát hiện ra, cũng giống như con lạc đà trong bầy cừu, tự nhiên nổi bật, rất dễ bị người ta ghét, dễ gặp người không ưa mình. Đừng vô duyên vô cớ đem trí huệ khoe khoang ra ngoài, cần phải vào dịp thích hợp mới có thể biểu lộ ra. Một người có trí huệ phải biết giấu mình khéo léo thế nào, đừng quá thể hiện bản thân, bởi vì thể hiện bản thân quá sẽ rất khó sống sót." Nghĩ đến đây, tôi tự lẩm bẩm với mình: "Biển, người có cô độc không? Không! Sự biến hóa của biển là vô cùng vô tận, biển biết rõ khi nào thích hợp để thể hiện chính mình, biển biết khi nào tự ấn giấu chính mình, biển đúng là có trí huệ nhất rồi." Tháng 12 năm 83 (Tháng 12/1994)

69. Thế giới thu nhỏ trên tàu

Trên con tàu Big Red, tôi đi xem khu mua sắm, không bỏ qua một cửa hàng nào. Tôi lấy việc đi xem các cửa hàng như vận động đi bộ, mặc dù không mua đồ gì cả nhưng đi qua đi lại cũng cảm thấy vui thích. Con tàu Big Red giống như một tòa nhà cao tầng vậy. Chúng tôi đi bộ từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất, chân tay tê mỏi hết cả, toàn thân như kiệt sức. Có một lần tôi muốn đến salon để làm tóc, bèn đi theo bản đồ chỉ dẫn để tìm salon, chẳng ngờ được là phải đi lên đi xuống khắp tàu, lạc mất nửa tiếng mới tìm thấy một nhân viên phục vụ để hỏi đường, khi đó mới tìm được chỗ. Tôi ngồi trên ghế ở salon, một người phục vụ tóc vàng vừa giúp tôi làm tóc vừa thao thao bất tuyệt giới thiệu bản thân. "Tôi đến từ Mỹ, tôi rất nhớ nhà, nhưng tôi phải làm việc đến khi kết thúc hợp đồng mới có thể trở về. Cuộc sống trên tàu chỉ được giới hạn cố định trong con tàu này, cảm thấy thật cô đơn bà ạ…" Tôi đi đến nơi có bóng mát cạnh hồ bơi thì gặp Thượng sư Liên Thường, bà mời tôi ngồi xuống uống ly trà rồi nói chuyện: "Vừa mới gặp một người đồng hương Indonesia đến làm phục vụ trên tàu, do muốn kiếm chút tiền mà đã làm việc trên tàu được 8 năm rồi, thực sự cảm thấy cuộc sống trên tàu nhàm chán trống rỗng, nhưng cũng chẳng còn lựa chọn nào khác!" Phạm vi cuộc sống trên tàu thực sự là rất nhỏ, cuộc sống mỗi ngày trôi qua hầu như chẳng có gì thay đổi, chỉ là ăn uống, làm việc, ngủ nghỉ, trôi nổi trên biển liên miên, nơi nào là nhà? Tâm linh cũng không thể giúp tâm bình an, mênh mang không biết an trụ vào nơi nào? Kì thực, hư không nhàm chán, hiu quạnh bất lực, lại chưa chắc là do hoàn cảnh tạo nên, tất cả là nằm trong tâm niệm. Tâm có thể tạo nên vạn vật, tâm tĩnh thì nơi đâu cũng an tịnh. Có người ẩn cư nơi núi rừng, tránh xa đám đông, tránh xa phiền nhiễu, không có ai nói chuyện cùng, không có ai gây ồn ào, muốn được bình yên tu hành, không vướng vào những tâm niệm vô danh nhưng những nghiệp chướng trong tiềm thức trỗi dậy, phiền não lại bắt đầu lớn lên. Có người vẫn chọn sống ở nơi phồn hoa náo nhiệt, người người qua lại, đông vui nhộn nhịp, ồn ào không dứt. Họ chọn cùng hòa nhịp vai kề vai với xã hội hiện tại để tìm cách tồn tại. Chuyện này thực sự cũng không phải việc đơn giản. Tuy nhiên, nếu có thể ở chính trong hoàn cảnh không an tịnh ấy, lấy tĩnh trong động, nơi đâu cũng là nhà, tâm như nước đứng yên, xem tất cả hoàn cảnh đều là trợ duyên cho việc tu hành, thì sẽ tự mình an vui với chính mình. Tôi cho rằng thế giới Ta Bà cũng chính là một chiếc thuyền nhỏ chở nặng, với nghìn nghìn vạn vạn chúng sinh đi về hướng chân lý, chỉ cần tâm của bạn cũng hướng về chân lý, tâm trụ ở hư không, thì sẽ sống một cách tràn đầy và có ý nghĩa. Tháng 12 năm 83 (Tháng 12/1994)

70. Kể chuyện

Bồ Tát! Xin hỏi rốt cục ngài ở đâu? Tôi làm sao có thể cùng ngài tâm sự? Tôi làm sao có thể gặp ngài? Ngày này tháng khác tôi tìm kiếm dấu vết của ngài. Tôi đặt niềm tin nhờ gió chuyển đi lời nhắn gửi. Những mỗi cơn gió đi qua lại biến mất tăm. Tôi đã từng hỏi biển! Nhưng sóng biển rì rầm, ở khắp nơi khắp nơi. Tôi đã từng hỏi núi! Nhưng núi mịt mùng giăng mắc, chỉ đứng im bất động. Thế rồi trong mơ Liên Hoa Đồng Tử khai thị. Sao con không đi hỏi thử: Hỏi Trí huệ - sẽ thấy hiển hiện Hỏi Thiền định - sẽ thấy phát quang Hỏi Tinh tấn - sẽ thấy thành tựu. Cuối cùng, Liên Sinh Hoạt Phật từ bi hướng dẫn: Tâm không ở ngoài, tâm chẳng ở trong, Tâm giống như hư không, giống như vũ trụ. Tâm thanh tịnh viên mãn. Bồ Tát ư, chính là con đó!

71. Tùy duyên hoan hỷ

Thái độ sống nếu có thể dựa trên quan niệm "tùy duyên", thì có gặp bất kì sự việc nào xảy ra, cuộc sống cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tất cả tùy duyên, cảm xúc sẽ rộng mở, tâm trạng sẽ siêu nhiên, cuộc sống sẽ vô câu vô thúc, đạt cảnh giới an nhiên tự tại. Tùy duyên chính là tùy thuận theo số phận, nhân quả nghiệp báo đến chuyển hóa tất cả sự vật, dù một chút cũng không thiên vị, không miễn cưỡng, cứ thuận theo sự biến hóa của nó mà tiếp nhận. Phật Đà thuyết pháp cũng là tùy duyên để nói. Nguồn gốc của Phật Đà cũng đến từ duyên. Con người tại thế cũng là duyên. Bất kể bạn tùy duyên hay không tùy duyên, thực sự cũng là đang theo nhậm vận của duyên mà tồn tại đó. Sự vận chuyển của vũ trụ này là do nhân duyên mà sinh ra, lại cũng do nhân duyên mà kết thúc. Có nhiều người nghĩ cho bản thân quá nhiều, nhằm đạt được tham vọng lớn mục tiêu cao, không ngừng làm việc khổ cực tranh đấu bất kể mọi trở ngại. Cuối cùng thì sức tàn lực kiệt, tổn thất nặng nề, vô cùng thống khổ, mà vẫn không đạt được mục đích. Đối với việc nỗ lực tinh tấn làm việc, phải thừa nhận là tốt, nhưng nếu khiến bản thân quá căng thì giống như đập đầu vào tường, không thể quay đầu trở ra. Nếu vậy thì là không tùy duyên, thành quá khổ sở. Ngược lại có một số người khi làm việc, không những không đem hết năng lực bản thân để gánh vác, mà lại thể hiện thái độ tiêu cực, lấy hai chữ "tùy duyên" làm lẽ sống. Mỗi khi gặp chuyện gì họ đều lấy hai chữ "tùy duyên" để trốn chạy khỏi trách nhiệm. Thật sự không hiểu là tùy duyên hay là sợ liên lụy. Do vậy định nghĩa của hai chữ "tùy duyên" cũng khó phân giải! Tôi cho rằng tùy duyên là như sau: Tinh tấn không lười, cố gắng hết sức. Khi gặp chướng ngại, phải lựa đường vòng. Đã tận lực rồi, mà vẫn không được, thì tùy duyên mà thuận theo tự nhiên. Tất cả thành bại đều tùy duyên mà hoan hỷ.

72. Mặt trời phổ chiếu chúc mừng Chân Phật Lầu

Tôi thích nhất là đọc Chân Phật báo. Hễ có độc giả nhắc đến nó là lại khiến tôi vui mừng thích thú kể nguồn gốc thành lập tờ báo, giới thiệu thành quả quảng bá. Nói không thể hết, rất hy vọng sẽ ngày càng có nhiều người đến hỗ trợ cho tờ Phật báo đầy giá trị phi phàm và ý nghĩa sâu xa này. Với tất cả ý nghĩa, Chân Phật báo tràn đầy pháp vị chính là một tờ Phật báo rất trang nghiêm. Báo khích lệ chúng ta tích cực tu hành, đừng sợ hãi những trải nghiệm sẽ xảy đến. Báo là trụ cột cần phải có trong cuộc sống thường ngày của mỗi độc giả, là kim chỉ nam của hành giả trên con đường tu hành. Mọi người đều cần biết Chân Phật báo thường xuyên lấy tin tức từ những thông tin trong nội bộ tông phái, tin tức ở các phân đường, nhằm giúp mọi người có thể chia sẻ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đặc biệt là các thông báo với vấn đề cần chú ý, cần quan tâm, mọi tin tức về dự định hoằng pháp của Căn bản Thượng sư. Tờ báo như những bước chân lanh lẹ, nhanh chóng truyền đi các lời khai thị thuyết pháp mới nhất, để cho hơn 300 vạn đệ tử đọc báo có được pháp vị "như người ta vẫn nói", vô cùng trân quý! Chân Phật báo mang trên vai trách nhiệm lớn, hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, quảng độ chúng sinh. Lại giống như một cây cầu nối, giúp đỡ đệ tử Chân Phật Tông và giúp đỡ Căn bản Thượng sư thuận tiện trong việc truyền thụ Phật pháp. Lại kết nối chặt chẽ như sợi chỉ nối liền tâm của đệ tử Chân Phật Tông với Căn bản Thượng sư. Độc giả hoan hỷ đọc, công đức vô lượng! Sư Tôn cũng luôn đọc tỉ mỉ mỗi kì Chân Phật báo, cũng khen ngợi văn chương phong phú đặc sắc, có cả tiểu phẩm hài hước, có các câu chuyện về cảm ứng chân thực, có cái nhìn về tin tức sâu rộng. Các bài viết đều ẩn chứa sức mạnh vi diệu, nhờ độc giả mà chỉ ra được những mê cung muôn hình muôn vẻ của cuộc sống. Tôi nhận thấy: một tổ chức thành công là lấy tập hợp sức mạnh của mọi người làm sức mạnh tổng hợp để ủng hộ văn chương, như vậy chắc chắn sẽ có hiệu quả. Tập hợp sức mạnh của mọi người cũng giống như tập hợp nhiệt năng của mặt trời. Mặt trời phổ chiếu khắp địa cầu, ánh sáng tràn ngập muôn nơi. Để hỗ trợ Chân Phật báo xây dựng tòa nhà Chân Phật, bên trong cũng có hội công đức Hoa Quang và các đơn vị phụ trợ. Mong ước và nguyện vọng của tôi chính là: những gì tòa nhà Chân Phật cung cấp sẽ có thể được sử dụng hết, nhờ đó lan truyền rộng rãi tinh thần Chân Phật, quảng độ chúng sinh, giúp cho những chúng sinh hữu duyên có được giá trị nhân sinh quan vĩnh hằng. Tháng 2 năm 84 (Tháng 2/1995)

73. Hành trình về phương Đông - về Đài Loan hoằng pháp

Ngày 28 tháng 12 năm 1994, chúng tôi theo chân Sư Tôn, ngài được mời đến Đông Hồ đường, Đài Đông để khai quang an vị chư Tôn trong nội đường. Ngài cũng hỗ trợ việc lên kế hoạch xây dựng Đông Hồ Lôi Tạng Tự, giúp dùng la bàn xác định phương hướng. Chúng tôi chỉ lưu lại được thời gian ngắn là hai ngày một đêm, nhưng tất cả mọi thứ ở đó đều khiến người ta cảm thấy vui từ trong tâm, trong kí ức tâm linh đều lưu lại dấu ấn nụ cười. Vùng đất đó có một bên là dãy núi trung tâm, một bên là Thái Bình Dương. Nhìn ra phía xa xa, những sườn đồi gió thổi làm nghiêng ngả những ngọn cây, dường như chúng đang vẫy vẫy, chào đón chúng tôi. Gió biển Thái Bình Dương cũng nổi lên từng đợt như cổ vũ, biểu lộ sự chào mừng. Xe chạy trên đường thưa thớt và từ tốn, con người thì thong dong đi bộ trên đường phố, đây là cảnh tượng của một đô thị ở Sơn Thành. Cảm giác an tịnh hòa bình cát tường đó chính là một nơi tốt cho việc thiền tọa của người tu hành sống trên núi. Chúng tôi đi vào vườn na, hương vị quê hương quen thuộc ở đó khiến tôi nhớ đến cuộc sống lúc còn nhỏ ở quê nhà. Nhớ lúc đi bắt nòng nọc trên ruộng lúa, đào khoai lang ở vườn rau, chơi trốn tìm ở trong những đống rơm… Hương vị của mảnh đất quê này đưa tới những hồi ức vô cùng rõ ràng và thân thiết. Tôi để ý tìm na, lại không ngờ đúng vào mùa thu hoạch na. Tôi trông thấy trên những cây na đầy những quả na chín to bằng bát ăn cơm, khiến người ta mới nhìn đã thấy thèm. Chúng tôi dùng na làm bữa chính, làm điểm tâm, làm ăn vặt buổi đêm, ăn sung sướng đến đầy tay phồng má, chẳng còn màng đến những sơn hào hải vị khác. Chúng tôi không màng đến có hay không quần áo satin, không màng đến những cỗ xe hoa trang trí pháp hội, lúc này có thể được thực sự vui vẻ mãn nguyện mới là việc tuyệt vời nhất. Buổi tối hôm đó, chúng tôi bày tiệc ngoài trời ở quảng trường để mọi người được tận hưởng một bữa cơm bên dưới những vì sao. Tất cả cùng thưởng thức những món ăn ngon, chẳng cần phải tranh giành với ai. Tiếp đó, chúng tôi mặc y phục của những người dân tộc, mọi người nắm tay nhau làm thành một vòng tròn lớn, vừa hát vừa nhảy rất sảng khoái. Có rất nhiều người không cưỡng lại được sự vui vẻ liền nhập hội cùng nhảy với nhau. Tiếng hát ngày càng vang lớn và thuần thục, những bước nhảy cũng quen và đều nhau hơn, những niềm vui gắn bó nhẹ nhàng sâu sắc, những tiếng vỗ tay theo nhịp truyền thêm cảm hứng cho người xem. Tất cả cùng hòa điệu trong trạng thái quên đi bản ngã. Âm nhạc và điệu múa là một dạng nghệ thuật, là thẩm mỹ của con người giữa trời đất. Vào đêm ở Đông Hồ Đường đó, chúng tôi đã trải nghiệm được niềm vui nhất của con người trong trời đất. Nhân gian tựa như thiên đường. Nếu có thể khiến niềm vui này kéo dài mãi mãi, mọi thứ đều tươi sáng, ngày ngày đều vui vẻ, cũng chính là: tâm không còn trở ngại, tâm không nhiễm bụi trần, tâm không còn vị kỉ. Đó chính là hành giả thanh tịnh. Tháng 2 năm 84 (Tháng 2/1995)

74. Ý nghĩa thực sự của giàu và nghèo

Rất lâu trước đây, thời kì còn nghèo khó, tôi tin vào sức mạnh của đồng tiền: có tiền có thể tùy ý làm điều mình thích, có tiền là có tất cả, có tiền chắc chắn được vui vẻ, có tiền con người sẽ cao quý, có tiền có thể trường sinh bất lão, thậm chí có tiền có thể dùng quỷ trừ ma… Tôi thường xuyên mơ tưởng đến việc kiếm tiền. Khoảng thời gian đó, tôi thực sự là "người nghèo tâm cũng nghèo", mỗi khi nhìn thấy người có tiền luôn cảm thấy bản thân mình thấp kém đi một nửa, cúi đầu hổ thẹn, giọng nói trở nên rất yếu ớt, bộ dạng ngại ngùng hoàn toàn thiếu tự tin, cảm thấy rằng nếu không có tiền, sống trên thế giới này cũng chẳng có tương lai. Sau này, tôi đi vào con đường đạo, rồi nhận được những ảnh hưởng từ sự từ bi hỷ xả của Sư Tôn, được Sư Tôn truyền sức mạnh của pháp. Tôi bắt đầu hiểu rõ được việc học Phật quan trọng hơn tiền bạc, hiểu rõ rằng học Đạo trân quý hơn tiền bạc. Tôi đột nhiên mở rộng tầm nhìn, trở nên không còn chú ý vào việc có hay không có tiền. Tôi hiểu được sâu sắc rằng "có thêm một món đồ vật chất là sẽ có thêm một sự phiền não", hiểu được có tiền, hay không có tiền hoàn toàn không có liên quan gì đến việc tu tập thành tựu. Tôi tự nhận thấy mình đều đã trải qua giai đoạn "nghèo nhất" và "giàu nhất", tuy nhiên bây giờ cảm thấy nghèo hay giàu chỉ là dựa vào nhận thức của tâm niệm. Tôi lại nhận thấy bởi vì tâm tham niệm muốn có được sở hữu mà sinh ra tất cả mọi phiền não chướng ngại. Chỉ người có tâm linh trống rỗng, không có được mưa pháp cam lộ mới là người nghèo nhất. Người tâm vô sở cầu, sống theo tự nhiên, tâm linh thanh tịnh, trong tâm có Phật, tâm hiện quang minh, là người giàu có nhất. Vật chất trên thế gian, bao gồm cả bản thân, đều là ngắn ngủi. Chúng ta sinh ra không có gì, ra đi cũng tay không, không có vật chất nào có thể ôm lấy vĩnh viễn, đó chẳng qua chỉ là phù du trong đời người, tại sao phải bám chấp chứ. Danh vị cao, cuối cùng cũng trở về hư không. Thậm chí vinh hoa phú quý cả đời, đến cuối cùng, vẫn là: người đi vật ở lại. Những lời này tôi viết ra từ cảm tưởng của mình khi nhìn ngắm vương miện kim cương của vua Louis ở bảo tàng Louvre, Paris nước Pháp. Tôi cảm thấy ngắm những di sản văn vật cũng là một việc đầy ý nghĩa, tâm trạng cũng vui thích.

75. Chiến dịch tuyển chọn ở Đài Loan

Đệ tử Chân Phật Tông phát tâm không bỏ rơi người khác lại phía sau. Vào ngày 5 tháng 3 tại Đài Loan Lôi Tạng Tự, dựa theo tiêu chuẩn tuyển chọn pháp định, đã có buổi công khai tranh cử thành viên của ban điều hành, rồi từ các thành viên trong ban điều hành chọn ra một người làm trưởng ban. Vị trưởng ban này cũng sẽ chính là người đại diện cho chức danh Tổng Hội Chân Phật Tông Mật Giáo Đài Loan Trung Quốc, mỗi phân đường đều nhiệt liệt hưởng ứng tham dự, hơn nữa còn đề cử người ra tham dự tranh cử. Quá trình bầu chọn gây ảnh hưởng rất lớn, mọi người thảo luận nhiệt tình. Có người tình nguyện xung phong giúp làm nhân viên bầu cử, chạy đông chạy tây để kêu gọi ủng hộ cho ứng cử viên. Có người lại âm thầm thu xếp, có vẻ án binh bất động nhưng cũng nhìn gió bẻ lái thuyền để nhắm trúng một phát, thái độ đều thăm dò nhất quán. Tin tức về tuyển chọn rất sôi động, cứ giống như bầu cử đảng chính trị của văn phòng chính phủ vậy. Từ đây cũng có thể thấy là cuộc bầu chọn này là cuộc tinh tuyển tự do, công bằng, cũng là một sự kiện tốt để mọi người tham gia nhiệt thành. Có người hỏi tôi: "Bầu cho ai là tốt nhất?" Tôi nói: "Bầu cho ai cũng như nhau, bất kể ai được chọn cũng sẽ đều hộ trì như nhau." Sau khi công bố người được bầu chọn, Thượng sư Trác Ưu Cận đã gần như lập tức gọi một cuộc điện thoại đường dài đi quốc tế, với tâm trạng đầy lo lắng vì gánh trách nhiệm nặng nề. Thượng sư Trác Ưu Cận nói: "Sau khi công bố tôi được chọn làm trưởng ban điều hành, dưới những lời chúc mừng của mọi người, một hồi lâu tôi không thể tự chủ được bản thân, im lặng một lúc, không biết phải làm gì. Muốn nhân cơ hội này tôi báo cáo với Sư Tôn một sự việc cảm ứng có thật. Sau khi tôi đến Seattle tham dự pháp hội Đại Uy Đức Kim Cương Bất Cộng Pháp, trên chuyến bay trở về, lúc đang tập trung trì niệm Thượng sư Tâm Chú liền rơi vào nhập định, đột ngột cả người tê liệt không thể nhúc nhích. Không ngờ cảm ứng thấy Sư Tôn xuất hiện chọn giao cho tôi một trọng trách lớn, nói rõ ràng mạch lạc rằng: "Trưởng ban điều hành ngoài bà ra thì không thể là người khác." Cảm ứng này in đậm sâu sắc trong lòng tôi. Sau đó, tôi đem cảm ứng này kể cho con gái nghe, đồng thời cũng nói rõ là tôi không có hứng thú ra mặt ứng cử. Không ngờ hôm nay đến Lôi Tạng Tự thì đã được giao phó cho chức danh trưởng ban điều hành." Từ việc này có thể thấy rằng Thượng sư Trác Ưu Cận được chọn làm trưởng ban điều hành là một việc rất rõ ràng, không chỉ hợp với sự mong đợi của mọi người mà còn là Phật Bồ Tát trong cõi vô hình đã sớm sắp đặt. Cảm ứng vô cùng linh nghiệm. Thật sự là nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Thượng sư Trác Ưu Cận trong suy nghĩ của tôi là một vị nữ hào kiệt không cao ngạo không thấp hèn, làm việc gì cũng mạnh mẽ quyết đoán, dám nói dám làm dám chịu, là nhân tài tài trí xuất chúng. Sau khi bà phát tâm bố thí không từ bỏ một ai đã hết lòng tôn kính Căn bản Truyền thừa Thượng sư, là một vị Thượng sư thực tu có năng lực đáng quý hiếm có, lan truyền thiện duyên thù thắng nhất. Bà cũng lại có hơn 20 năm kinh nghiệm làm hành chính xã hội, tất cả các việc thiện đều có tiếng tăm nổi bật. Tôi nghĩ Thượng sư Trác Ưu Cận đảm nhiệm vai trò trưởng ban điều hành có thể kêu gọi được mọi người cùng hỗ trợ việc hoằng dương Chân Phật Mật Pháp, tin tưởng rằng mọi người nghe được tin tức này cũng sẽ hưởng ứng, đồng lòng hợp tác. Xin chúc cho bà trong nhiệm kì thuận lợi hoàn thành việc xây dựng Đài Loan Lôi Tạng Tự, đem lại lợi ích cho mọi người! Tháng 3 năm 84 (Tháng 3/1995)

76. Tôi nghe như vầy

Tôi biết: Truyền đại pháp, chắc chắn sẽ có dấu hiệu cát tường, đặc biệt là lần này Sư Tôn truyền thụ pháp tối cao của dòng mũ vàng - Đại Uy Đức Kim Cương Bất Cộng Pháp, khuấy động cả vũ trụ ngũ đại, địa, thủy, hỏa, phong, không. Vốn dĩ đang là một ngày thời tiết nắng đẹp gió nhẹ, ánh mặt trời chiếu rọi khắp nơi, bỗng nhiên rồng bay tới, đại địa chấn động (động đất), địa thần bắt đầu khai mở. Hộ pháp và đồng môn tại Seattle Lôi Tạng Tự đã gấp rút bí mật chuẩn bị sắp đặt thanh la trống đánh. Những bước chân bận rộn gấp rút, mỗi người đều mang tâm trạng vui vẻ nghênh đón các học giả chuyên cần đến tham dự. Ngay cả đến hoa xung quanh chùa cũng nở rộ tươi cười, ngả đầu đứng đợi. Trời tối, thời tiết đột ngột biến chuyển, mây đen dày đặc vần vũ cả bầu trời Seattle, sương cũng giăng mịt mù khu vực núi xung quanh gần đó. Các xe đi lại đều phải bật đèn trước, khiến người ta có cảm giác mờ ảo, không rõ là ban ngày hay ban đêm, cứ như cho thấy sắp xảy ra chuyện lớn gì đó! Tiếp đó, gió hối hả thổi tới, gió lộng mây vần, gió thổi tóc chúng tôi rối tung, thổi xuyên qua váy của đội múa cổ vũ, gió táp vào má, thổ lộ vào bên tai pháp vụ của mình. Mưa không đợi được thêm, rốt cục cũng đua nhau rơi xuống, mưa từng hàng từng hàng liên tiếp, giống như hàng nghìn hàng vạn chuỗi vòng ngọc trai từ trên trời rơi xuống, vô vàn trân quý. Tâm tư của mưa rất khéo léo, mưa rơi trên mái nhà, rơi trên lều, rơi trên thân, nhẹ nhàng khai mở tâm linh của chúng tôi. Thế rồi đột nhiên xuất hiện liên tiếp những bông tuyết bay lẫn cùng với gió mưa, duyên dáng hòa điệu múa, nước hay sữa hòa tan vào nhau không phân biệt, tôi chính là bạn, bạn chính là tôi. Nhiệt độ không khí đột ngột hạ thấp xuống âm 10 độ. Mặt đất đông cứng, cái lạnh khiến người ta run rẩy, quần áo mọi người mặc trên người trông giống như là từ Bắc cực tới vậy, cả nghìn đệ tử tập trung dưới mái lều lớn, lắng nghe Sư Tôn khai thị, chìm đắm trong không khí "tôi nghe như vầy". Lần này Sư Tôn truyền đại pháp có ý nghĩa đặc biệt bí mật, bí ẩn. Tôi cảm nhận sâu sắc, mình sẽ vĩnh viễn không quên, cho dù sau này có già, quên tên người, quên tên địa danh, quên hết, nhưng tôi vĩnh viễn không quên ân huệ của buổi truyền thụ Đại Uy Đức Kim Cương Bất Cộng Pháp. Tháng 4 năm 84 (Tháng 4/1995)

77. Người họa sĩ đặc biệt

Tôi thường nghĩ thế này: "Sư Tôn là một họa sĩ vô cùng đặc biệt." Đặc biệt: không gì là không thể làm được. Sư Tôn chỉ mất có vài giờ đồng hồ quan sát kĩ lưỡng giáo viên Chu Mộc Lan thị phạm vẽ tranh, từ đó tự mình phân tích, nghiên cứu, học tập. Ngài thường xuyên tham khảo những tác phẩm của các danh họa, tự luyện tập cách cầm bút và pha màu, sử dụng cây bút tài năng và tuyệt diệu để thể hiện những ý thơ tình cảm, thiền ý, hương vị triết học. Từng bức, từng bức họa, tác phẩm giống như măng mọc sau mưa, nhiều đến ấn tượng. Đặc biệt: trí nhớ rất lâu. Mỗi lần Sư Tôn ra ngoài vẽ phong cảnh tĩnh vật, nhiều khi không đem theo dụng cụ vẽ. Ngài có thể từ đầu đến cuối quan sát rồi đem sông nước cảnh vật thấm nhập vào trong tâm, hòa thêm những hoài cảm tâm linh, sau đó mới từng chút một vẽ ra trên tác phẩm, chính xác giống như dùng máy chụp ảnh. Người ta nói rằng: người mới bắt đầu học vẽ, thông thường để vẽ được một bức tranh như ý thì phải có kinh nghiệm vẽ qua vài trăm hoặc vài nghìn bức tranh trở lên. Từ đó mới chọn ra được một bức thành phẩm, sau đó lại cần mô phỏng những dạng thơ kệ của tiền nhân, vắt óc suy nghĩ, mới có thể viết ra đề tự hoặc đề kệ trên tranh. Nhưng Sư Tôn đặc biệt không giống như vậy, không phải trải qua quá trình học tập từ bước đầu. Mỗi lần ngài hạ bút đều có thành phẩm, rất ít khi có khiếm khuyết mà phải vứt bỏ, sau đó ngài sẽ kí tên tự do, tuôn chảy những dòng suối trí huệ mát lành. Đây chẳng phải là sự đặc biệt trong cây bút của Phật hay sao? Những bức họa của Sư Tôn giống như ghi lại các sự tích của Phật, chỗ nào cũng bộc lộ những diệu kì và huyền cơ, chép lại quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ ra con đường chân lý dẫn đến thế giới vĩnh hằng. Đây có lẽ là những bức họa của Phật không gì có thể so sánh. Sư Tôn sáng tác theo kiểu "không làm thì thôi, hễ làm thì khiến người ta kinh ngạc". Trong thời gian vẽ tranh ngắn ngủi chỉ có hai năm, ngài đã có hơn 1000 bức họa, đã tổ chức thành công 6 lần triển lãm tranh, thu hút rất đông dòng người đổ về thưởng thức. Những bức họa nhanh chóng chiếm được cảm tình và sự ngưỡng mộ của mọi người. Sư Tôn đã "lập kỷ lục họa sĩ sáng tác có khả năng thể hiện nhiều phong cách đặc sắc". Tôi rất ngưỡng mộ Sư Tôn ở phong cách vẽ tranh vô câu vô thúc, tự nhiên phóng khoáng. Ý tưởng của ngài thanh tịnh thiên bẩm, lại từ ý tưởng có thể dùng bút phác họa ra cuộc sống một đời người từ lúc bắt đầu, trưởng thành cho đến khi đi tới tận cùng viên mãn. Từ trong cuốn sách tranh huyễn tưởng về hoa sen này có thể thấy được ý cảnh thanh tịnh của từng đóa hoa sen, khiến chúng ta đều cùng nắm bắt được hương vị màu sắc đặc biệt - hương thơm thanh tịnh của hoa sen.

78. Bằng chứng chân thực

Các đồng môn thường hỏi Sư Tôn những câu giống nhau, nhưng ngài vẫn luôn luôn kiên nhẫn, từ bi trả lời đi trả lời lại. Một thị giả phụ trách công việc như tôi ở bên cạnh cũng được hưởng lợi, hết lần này tới lần khác được ôn đi ôn lại. Nhất là tôi năng lực bẩm sinh vốn không tốt, phản ứng chậm, huệ căn bình thường, chính xác là cần phải được dạy đi dạy lại. Chỉ với cách thức được dạy đi dạy lại thì tôi mới từ từ thấm nhuần mà tiến bộ. Nghĩ vậy cũng thấy thật xấu hổ! Có lần đồng môn hỏi Sư Tôn các vấn đề về tu hành và chuyển thế, tôi ở bên cạnh ghi lại một chút. Vấn đề này đáng lấy làm ví dụ để cùng động viên khích lệ mọi người. Hỏi: Nếu cả đời này dùng hết tâm lực để tu hành nhưng vẫn không thành tựu, là vì sao? Sư Tôn: Một, có liên quan đến căn cơ. Hai, phương pháp tu hành chưa chắc đúng. Ba, phương pháp đã tích lũy từ nhiều kiếp. (Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải trải qua rất nhiều kiếp mới thành tựu.) Hỏi: Trong cách nói là tu từ nhân cho đến quả, nếu là thiên nữ hoặc Đại Bồ Tát chuyển thế, thì có phải là từ lúc sinh ra đã có pháp lực đặc biệt không? Sư Tôn: Bất kể là vĩ đại thế nào, kiếp trước thần thánh bao nhiêu mà kiếp này không thực tu thực đắc, thì khẳng định sẽ không thể có được chứng lượng thực sự, do vậy sẽ không hiển lộ pháp lực. Hỏi: Trong số các đệ tử quy y, có một số người là các vị Liên Hoa các màu sắc chuyển thế, họ có thể vãng sinh Ma Ha Song Liên Trì không? Sư Tôn: Mặc dù là Liên Hoa Đồng Tử chuyển thế rất cao quý, nếu không thực tu thì vẫn là phàm phu tục tử, không thể trở về cảnh giới ban đầu. Người có thể cùng Căn bản Thượng sư tương ứng, mỗi người đều là Liên Hoa Đồng Tử, chắc chắn sẽ đến Ma Ha Song Liên Trì. Đệ tử: Những người chuyển thế từ cảnh giới bình phàm, khi tu hành liệu có khó thành tựu không? Sư Tôn: Thành tựu không nằm ở việc chuyển thế, càng không nằm ở cảnh giới, mà là sự hiển hiện tâm linh tự ngã.

79. Truyền thừa là quan trọng

Có phân đường gửi thư đến với tâm trạng tuyệt vọng, kể lại tình hình sự việc của phân đường, mong muốn được Sư Tôn chỉ dẫn và gia trì để thúc đẩy đồng môn gia tăng trí huệ, không mơ hồ mờ mịt nữa. Thư gửi đến nói: nội đường đồng tu, chọn ra một nghi quỹ tu pháp hoàn chỉnh để làm thành pháp tắc đồng tu của nội đường. Họ đặc biệt tổ chức một buổi họp thảo luận, không ngờ mọi người tranh luận không ngừng, mỗi người khăng khăng một ý, bảo thủ ngoan cố, không nhượng bộ nhau, dẫn đến nội bộ chia rẽ. Cuối cùng tất cả chỉ ngồi khô tại nhà mà không đến phân đường đồng tu nữa, hội đồng tu có lúc lạnh lẽo không một ai, chỉ còn Phật Bồ Tát ngồi cao trên đàn thành, như như bất động. Mặc dù tranh luận không phải vì danh, không phải vì lợi, nhưng cũng phiền não vì tranh giành pháp môn. Bởi vì có một số vị cho rằng phải lấy Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp làm pháp tắc đồng tu của nội đường mới đúng, nhưng có một số vị khác lại cho rằng, trước tiên phải lấy Tứ gia hành làm cơ sở mới đúng. Một số vị khác lại cho rằng trước tiên cần tu Điều khí hoặc Cửu tiết phật phong trước, hoặc trì niệm Thượng sư tâm chú một triệu biến trước… mỗi người một ý. Thực tế, mỗi một pháp đều rất quan trọng, nếu chiếu theo quy củ Mật giáo, trước tiên phải trì tụng xong một triệu biến Thượng sư Tâm chú mới có thể tiếp tục các gia hành khác. Phải từ từ tạo dựng nền tảng, mỗi một gia hành đều phải đạt được tương ứng thì mới có thể tiến thêm một bậc cao hơn để tu Thượng sư tương ứng pháp. Sư Tôn từ bi từng khai thị: Những đệ tử Chân Phật Tông có phúc duyên thù thắng, trí huệ siêu nhiên, sau khi quy y có thể tu thẳng ngay Thượng sư tương ứng pháp. Nhưng những đệ tử bình thường thì phải trì niệm tâm chú và tu thêm pháp Kim Cương Tâm Bồ Tát, tu trì như vậy mới có thể khiến cho hành nguyện của hành giả Mật tông kiên cố vững chắc được như kim cương. Thứ tự của Mật pháp là từ: Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng pháp, Bổn Tôn pháp, Khí mạch, Minh điểm, Kim cương pháp, Vô thượng mật, cuối cùng đến Đại viên mãn. Mật pháp xem trọng thứ tự từng bước mà tu lên. Phân đường có thể lấy Liên Hoa Đồng Tử tương ứng pháp để làm phép tắc đồng tu, nhưng nếu hiểu rõ tính quan trọng của dòng truyền thừa thì sẽ càng có thêm được lực gia trì của dòng truyền. Lấy truyền thừa làm gốc rễ, lấy thứ tự làm chủ yếu, vậy thì việc tranh giành pháp môn sẽ tự nhiên được hóa giải.

80. Hoài niệm Linh Tiên Các

Tại khu vực tây bắc Seattle có một bộ phận khí hậu mang tính chất điển hình của cái lạnh phương bắc. Cứ mùa đông đến là cái lạnh sẽ đe dọa con người, khiến người ta phải co rúm lại run rẩy trong giá rét. Cứ hễ tuyết rơi là cả đất trời đóng băng, giống như sống ở trong một nhà chứa băng lớn, có ai mà không bị đông cứng thành đá được đây? Sư Tôn rất tiết giản, không muốn phải bật lò sưởi, Linh Tiên Các lại là một tòa nhà gỗ cũ 70 năm, không có thiết bị chống lạnh hoàn thiện, do vậy bên trong và bên ngoài nhà lạnh như nhau. Tôi và Phật Thanh, Phật Kỳ không tìm được góc nào ấm áp, chỉ có thể mặc quần áo chống tuyết thật dày để chống lại cái lạnh, nấu cơm, xào rau, làm việc, đi ngủ đều mặc quần áo chống tuyết. Hồi đó chúng tôi mới di cư đến Mỹ, còn lạ đất lạ người, ngôn ngữ chưa thông hiểu, có rất nhiều bất tiện, lại có cảm giác rơi vào tình cảnh cực kì cơ cực, do vậy phạm vi cuộc sống vô cùng bó hẹp. Chúng tôi không có người thân bạn bè, không có các hoạt động xã hội ngoại giao, giống như bị trói gọn trong một gian phòng hình hộp vậy, rất hiếm khi bước chân ra ngoài. Khi đó tâm trạng tôi rất rối ren phức tạp. Cằn nhằn vì bị khí hậu mùa đông khắc nghiệt, lại phải chịu giới hạn trong hoàn cảnh thờ ơ thiếu tình người, lạnh nhạt bàng quan, tôi than phiền với Sư Tôn: "Nơi không có sự ấm áp, không có tình cảm, thật khiến người ta không lạnh mà vẫn run, chỗ này cơ bản không phải là nơi người có thể ở!" Tôi thường đứng bên cửa sổ nhìn ra con đường trống không vô tận, suy tư về thế giới con người huyễn hóa, tự hỏi: "Đời người vì cái gì? Vì danh? Vì lợi? Vì tình? Vì bản thân? Vì người khác?…" Đột nhiên cũng có chút cảm giác cô đơn! Tuy nhiên Sư Tôn không như vậy. Sư Tôn tự đóng cửa ở trong Linh Tiên Các, cuộc sống mỗi ngày đều chẳng có gì thay đổi, ngoài viết sách và thiền định ra vẫn chỉ có viết sách và thiền định. Sự tinh tấn và kiên trì đó chẳng ai có thể so sánh bằng. Dưới sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của việc chỉ dạy, được thấm đẫm cam lộ của mưa pháp, tôi mới nhận thấy, hóa ra khi trong tâm có Phật, người cũng ấm áp. Linh Tiên Các thật ấm áp.

81. Chúc mừng Sư Tôn sinh nhật thứ 51

Tôi muốn hóa thành chim Ca lăng tần già, (*) chim Cộng mạng (*). Cất tiếng hót thanh nhã như thiên âm. Luôn luôn ngợi ca sự trân quý của sinh mệnh. Khi ở bên đông, khi ở bên tây. Từ núi cao đến bình nguyên. Từ đêm tối đến bình minh. Lượn vòng khắp thập phương pháp giới. Làm mặt trời phóng chiếu đại quang minh. Làm âm thanh của vũ trụ! Nhẹ nhàng hòa hợp! Nhịp điệu chung và tần số chung. Có khi biến thành một thanh âm. Không khởi đầu không kết thúc, bay vút lên vui sướng. Ca tụng - Liên Hoa Đồng Tử sinh nhật vui vẻ! Chú ngữ miên man, hát mãi không hết. Om guru lian-sheng siddhi hum. Tháng 6 năm 84 (Tháng 6/1995)

Ca lăng tần già: tiếng Phạn là Kalavinka, là tên của một loài chim quý, lông màu đen, mỏ đỏ, tiếng hót cực hay, êm ái, véo von hơn cả tiếng trời, thường sống thành cặp chẳng hề rời nhau, còn được gọi là mỹ âm điểu, diệu thanh điểu. Tiếng hót của loài chim này thường được ví như pháp âm của Phật. Cộng mạng: là một loài chim lạ, cực kỳ quý hiếm sống ở Tuyết Sơn, với đặc điểm là tuy một thân nhưng có hai đầu nên còn gọi là mạng mạng điểu hay sinh sinh điểu.

82. Dòng chảy pháp giới vĩnh viễn không dừng

Gần đây tôi cùng vài đồng môn nói chuyện trải nghiệm tu pháp, từ việc học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau có thể rút ra được không ít những kinh nghiệm và động lực. Mọi người trao đổi đầy hứng thú nhiệt tình, trong số đó có một đồng môn lo lắng nói: "Sư Tôn là cha mẹ huệ mệnh của chúng ta, truyền cho chúng ta mật pháp trân quý vô thượng trên thế gian, khiến những bộ não vốn trống rỗng của chúng ta bây giờ không ngờ cũng có một chút trí huệ, giúp cho bản thân trong cuộc sống này xác định được một phương hướng đúng đắn. Giờ ta cứ theo phương hướng này mà tiến tới, bất luận là gặp phải chướng ngại hoặc thiên tai biến động lớn thế nào, vẫn bám giữ lấy mục tiêu ban đầu không thay đổi, dũng cảm tiến lên phía trước, thậm chí thề nguyện có lòng tin tưởng kiên định không lay chuyển, đời đời kiếp kiếp theo Sư Tôn cho đến khi đến được bến bờ giải thoát. Thế nhưng, gần đây phát hiện ra Sư Tôn truyền pháp từ cơ sở là Tứ gia hành, tiếp đó là pháp Bổn Tôn, sau đó truyền các loại Kim cương bất cộng yết ma pháp, gần đây nhất lại truyền nội pháp cơ sở là Bảo bình khí, rồi Chuyết hỏa định, Lục nhật thể công pháp, tích cực cổ vũ các đệ tử tu luyện khí mạch minh điểm. Thời gian sau đó, trong "Mật Tông đạo thứ đệ quảng luận" Sư Tôn lại trình bày bí mật pháp tam quán đảnh và tứ quán đảnh, còn gọi là ngoại pháp, nội pháp, mật pháp, mật mật pháp. Cũng vì vậy mà sinh ra những lo ngại, lo ngại rằng liệu có phải Sư Tôn trao truyền hết thứ tự các mật pháp xong thì sẽ tuyên bố hoàn toàn ẩn cư không? Lo sợ nhất là Sư Tôn thực sự hoàn toàn ẩn cư rồi chúng ta sẽ đi đâu về đâu đây?" Nghe những lời này của đồng môn, tôi cảm động sâu sắc khó có thể diễn tả được, liền phân tích với bà ấy rằng: "Việc Sư Tôn có hay không có ẩn cư, và việc hành giả tu tập tinh tấn là hai chuyện khác nhau. Cứ cho là Sư Tôn lui về ẩn cư, thì ta vẫn cứ theo pháp mạch truyền thừa mà tu, vẫn được thành tựu truyền thừa như thường. Một vị Phật sống đã chứng đắc tính Không, dung nhập với vũ trụ, pháp thân sẽ có tại khắp hư không, gia trì cho hành giả, quán đảnh truyền thụ Phật pháp, dòng chảy pháp giới vĩnh viễn không dừng." Đến từ vũ trụ, pháp thân truyền dạy, thù thắng vô cùng! Đừng lo lắng liệu Sư Tôn có lui về ẩn cư hay không!

83. Phụ lục. Người mẹ của Chân Phật Tông

Tác giả: Liên Hoa Hinh Liên Tấm lòng từ ái của Sư Mẫu đã được tất cả đệ tử công nhận và ca tụng. Lòng từ bi và đại trí huệ của Sư Mẫu tại triển lãm tranh của Sư Tôn vào ngày 31 tháng 12 năm 83 (năm 1994) lại một lần nữa khiến tôi sốc vì cảm động. Chuyện là như sau: Đệ tử của Trang Nghiêm đường lấy tấm hình Sư Phật diễn hóa bàn tay lưu ly để in trên mặt chính của tấm danh thiếp, còn mặt sau thì in Trang Nghiêm đường. Ngày 23 tháng 12 mọi người đón Sư Phật về nước, ở sân bay đã đưa một tấm mẫu cho đồng môn sống tại Tân Trang để in ấn. Vị đó từng in ấn rất nhiều sản phẩm văn hóa, hoàn toàn chịu trách nhiệm, đảm bảo không có sai sót. Kế hoạch là thỉnh Sư Tôn mở màn ngày hôm đó với việc ban gia trì, cho phép những người có được tấm hình Phật này đều được việc dữ hóa lành, tai ách tiêu trừ, cắt đứt bệnh khổ, quy y Chân Phật. Ai biết được rằng ở bên ngoài phòng tranh Thanh Khê, chúng tôi vừa cầm trên tay các tấm hình được in thì ôi trời ơi! Trong lòng lập tức buồn thảm, niềm vui trên khuôn mặt lập tức đông cứng, con mắt cũng lập tức trố ra, Liên Sinh Hoạt Phật "diễn hóa" lưu ly thủ đã bị in thành "diễn đại". Các Pháp sư nhìn thấy, có người nói: "Không được! Có lỗi thế này không thể nào phân phát được." "Trả về để tiêu hủy thôi, in sai rồi không thể phát ra…'' Cả nhà người đồng môn kia mặt đều tối sầm lại. Đã từng gọi nhiều cuộc điện thoại để chỉ dẫn cẩn thận, bàn giao, sau khi chế bản xong muốn xem trước bản thiết kế, bên in ấn luôn lặp lại rằng bảo đảm, nói cứ yên tâm, tuyệt đối không sai sót, nhất định sẽ hài lòng… Bây giờ, một sai lầm ngớ ngẩn thế này, chỉ có thể hỏi Sư Mẫu giải quyết. Sư Mẫu đeo kính lên xem liền nói: "Sao lại sai đến mức khó tin thế này?" "…" Đệ tử không biết nói sao. "Sao không kiểm tra trước rồi mới đem in?" "Bởi thời gian gấp rút, hai nơi lại xa nhau." "Vì sao lai giao cho nhà này in vậy?" "Anh ta vốn là đệ tử đồng môn, rất phát tâm, đã in rất nhiều sản phẩm văn hóa tặng Lôi Tạng Tự, lại liên tục nói sẽ đảm bảo, cho nên mới…" "Đã in bao nhiêu tấm rồi?" "Mười bảy nghìn tấm." Sư Mẫu nhìn chăm chú vào hình ảnh Phật một lúc bèn nói: "Vẫn có thể dùng được! Liên Sinh Hoạt Phật diễn hóa hiện đại lưu ly thủ, ai nói là không thể dùng được, vẫn có thể dùng được, rất tốt!" Nghe những lời này của Sư Mẫu, những con tim đã rơi xuống địa ngục của đệ tử lúc đó giống như khói được bay thẳng lên trời cao. Những lời nói và suy nghĩ vội vã tuôn trào như muốn nổ tung, ngũ sắc lộng lẫy, mười phần diễm lệ, quang huy xán lạn, không bút mực nào có thể hình dung được… vô cùng cảm động, tán dương. Trời ạ: Sư Mẫu tâm lượng vô cùng: có thể bỏ qua được lỗi lầm lớn của người khác. Sư Mẫu từ tâm vô cùng: giống như người mẹ bao dung cho lỗi lầm của chúng ta. Sư Mẫu bi tâm vô cùng: lo sợ đệ tử phải chịu tổn thất mười bảy nghìn tấm ảnh.

84. Phụ lục. Bức thư gửi Sư Mẫu

Sư Mẫu kính yêu nhất Mong Sư Mẫu bình an! Mặc dù không được nhiều lần tiếp xúc với Sư Mẫu, nhưng mỗi lần gặp mặt ngắn ngủi, luôn khiến con ấn tượng vô cùng sâu sắc!

Còn nhớ thời gian tháng tư năm ngoái, gặp nhân duyên may mắn, con không ngờ có cơ hội được cùng Thánh Tôn và Sư Mẫu đi du lịch Nhật Bản, rồi có dịp được cùng Sư Mẫu đi dạo phố mua sắm.

Con phát hiện ra rằng năng lực quan sát của Sư Mẫu vô cùng thấu đáo, phẩm vị thật chẳng tầm thường, luôn luôn có thể rất nhanh đưa ra được gợi ý kết hợp trang phục xuất sắc cho đệ tử đi cùng, nhưng đối với bản thân mình thì lại vô cùng tiết giản. Đặc biệt mỗi lần trên bàn ăn có đồ ăn thừa, Sư Mẫu luôn luôn khích lệ những đồng môn trẻ tuổi cố gắng ăn thêm một chút, hãy trân trọng đồ ăn.

Sư Mẫu biết không? Gặp mặt Sư Mẫu luôn luôn khiến cho con người thẳng thắn và trung thực là con đây có chút căng thẳng và không biết phải làm gì. Thế nhưng một người tỉ mỉ như Sư Mẫu dường như có năng lực hiểu rõ rất thù thắng đối với hoàn cảnh xung quanh. Ngài luôn luôn không quên quan tâm đúng lúc, chăm sóc đệ tử cùng đi, thậm chí còn nhiệt tình giúp chúng con trộn rau! Sự chăm sóc tận tình đầy thân thiết của Sư Mẫu khiến con cảm thấy như được tắm trong sự ấm áp của gió xuân, nhờ đó sinh ra cảm giác được công nhận và thuộc về đại gia đình Chân Phật Tông này.

Ngày 23 tháng 12, Thánh Tôn trở về Đài Loan, sân bay Trung Chính có hơn một nghìn đệ tử đến đón. Được gặp lại các ngài luôn khiến cho đệ tử trong lòng tràn ngập niềm hạnh phúc, quả thực vui đến nỗi giống như sắp vỡ òa.

Con luôn đứng từ xa xa nhìn về các ngài, như vậy cũng đã cảm thấy trong lòng mãn nguyện rồi. Khi xe buýt từ từ di chuyển, các ngài dựa vào cửa sổ xe vẫy vẫy tay chào đệ tử, còn con đứng trong đám người cũng nhảy lên nhảy xuống, cố gắng hết sức để cùng vẫy tay. Con giật mình phát hiện ra Sư Mẫu nội tâm bình thản, không ngờ vẫn chú ý thấy sự tồn tại của con, hơn nữa còn cười trước hành vi như trẻ nít của con nữa.

Ngày mồng một tháng Giêng, tại phòng tranh Thanh Khê, con lại một lần nữa được gặp mặt, Sư Mẫu nói mấy bài báo của con đăng trên Chân Phật báo viết rất tốt. Trong tích tắc con hiểu rõ Sư Mẫu vẫn quan tâm đến mỗi đệ tử bằng cả tấm lòng như thế đó, và giữa mọi người đều có mối thân tình như vậy! Con cảm thấy mình như được tắm trong dòng chảy ấm áp.

Lâu nay lái xe cho người, còn nhớ có lần con vô tình nghe được Sư Mẫu cùng đồng môn nói chuyện từng có lúc bận đến mức làm việc quá độ, mắt phải làm việc quá sức nên có một khoảng thời gian bị đau mắt, ra gỉ mắt.

Ôi chao! Chân Phật Tông đã là một tông phái có tính quốc tế, toàn cầu có 400 vạn đệ tử quy y, hơn 300 đạo tràng, hiển nhiên là có vô số việc của tông phái! Hơn nữa gần đây có rất nhiều việc cần phải phiền đến Sư Mẫu giải quyết, khéo léo xử trí mới có thể có được kết quả tốt nhất!

Mong rằng Sư Mẫu sức khỏe dồi dào, vạn sự như ý, bởi vì trong lòng chúng con đối với Sư Mẫu có vô vàn kính ái! Kính chúc Sư Mẫu. Phật an! Đệ tử Liên Hoa Thục Mỹ chắp tay. 3.1.1995

85. Phụ lục. Ca ngợi Thượng sư Liên Hương

Tác giả: Tăng Văn Long Liên Hương Thượng sư. Cát Tường thiên nữ. Diện mạo đoan chính. Khí chất xuất chúng. Liên Hương Thượng sư. Kĩ nghệ thiên nữ. Tinh thông bách nghệ. Sinh tử như nhất. Liên Hương Thượng sư. Nấu cơm cho Phật. Phúc duyên thế nào. Làm việc cho Phật. Vất vả thế nào. Thị giả cho Phật. Vinh hạnh làm sao. Liên Hương Thượng sư. Đại phúc thiên nữ. Tại Tối Thắng quốc. Sớm trồng thiện đức. Liên Hương Thượng sư. Tỏa sáng khắp nơi. Ánh sáng yêu kính. Ánh sáng hoan hỷ. Ánh sáng trân quý. Ánh sáng vui tươi. Ánh sáng hoa sen. … … Đều là vô ngã. Đều vì chúng sinh. Liên Hương Thượng sư. Thù thắng sao! Đẹp đẽ sao! Diệu kỳ sao! Với tấm lòng biết ơn. Ca ngợi. Liên Hương Thượng sư. Với tấm lòng ngưỡng mộ. Đảnh lễ. Liên Hương Thượng sư.

86. Phụ lục. Tác giả tự giới thiệu

Lư Lệ Hương, người Đài Trung, Đài Loan, sinh ra tại Cao Hùng vào năm Dân Quốc 38 (năm 1949), lớn lên tại Đài Trung, sau năm 34 tuổi thì di cư sống tại Seattle, Mỹ. Tôi từ nhỏ hoàn cảnh gia đình nghèo khó, thường không đủ cơm ăn ba bữa, cuộc sống vô cùng gian nan vất vả. Bởi vì hoàn cảnh bần cùng, gia cảnh cực nghèo, tôi không có lựa chọn nào khác là phải giúp đỡ cha mẹ làm việc kiếm tiền. Do vậy từ năm lớp ba tiểu học đã bắt đầu vừa làm vừa học. Khi học năm thứ ba trung học, sau một trận ốm nặng thì tôi cũng nghỉ học. Việc gián đoạn học hành khi đó đã trở thành một sự tiếc nuối vô cùng lớn của tôi! Việc quen với cuộc sống vừa học vừa làm đã nuôi dưỡng nên tinh thần chịu thương chịu khó. Trải qua hành trình cuộc sống nhiều gian nan vất vả, sau này tôi may mắn gặp được Liên Sinh Hoạt Phật, người đã đánh thức khai mở trí huệ khiến tôi được đắm chìm trong cam lộ của Phật pháp, trải nghiệm được những ngọt ngào của cuộc sống. Tôi đã có cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống mà mình vẫn thường cho rằng xám xịt trước đây. Giờ đây tôi lại tràn đầy tự tin vào cuộc đời cũng như có được giá trị quan tươi đẹp về thế giới vĩnh hằng. Nhờ trải qua 25 năm khổ cực, từng làm qua nhiều loại công việc cần sức lực nặng nhọc, tôi có thể làm được đủ mọi việc tạp vụ. Bởi tính cách rất trầm nên tôi cũng làm được các công việc tỉ mỉ, giỏi khâu vá và làm việc thủ công. Tôi từng đảm nhận công việc thợ may, cũng từng được nhận vào làm giáo viên mầm non. Tôi từng sống qua những giai đoạn cuộc sống đầy chông gai, đến cuối cùng đã tìm được sự bình thản an tịnh, vượt lên được khỏi con đường danh lợi. Tôi thích nhất là đọc sách, ngồi thiền, học Phật tu hành, giúp mình giúp người. Nếu có thời gian rảnh, tôi thích được yên tĩnh ở nhà, làm một chút việc nhà hoặc việc thủ công, v.v. Tôi nghĩ: nếu như không phải khi còn trẻ đã trải qua những gian nan khổ nạn như vậy, làm sao có được khả năng như bây giờ. Những bi thương của tuổi thơ tiếc nuối thời kì muốn học mà phải thất học, lúc này đã trở thành một nét đẹp bị khuyết của tôi. Tôi muốn cảm ơn nhiều nhất tới giai đoạn cuộc sống khốn cùng. Giai đoạn đó đã giúp tôi trưởng thành. Lại càng cảm ơn Căn bản Thượng sư đã thắp sáng cuộc đời tôi, khiến tôi cũng học được cách tỏa sáng trong thế gian này.

(Hết)

Mục lục